+ Ma Ở Đâu Ra - Tại sao có ma?
Đáp: Đó là vì trong tự tánh có ma, cho nên mới lôi cuốn ma bên ngoài vào. Ma của tự tánh là: tham, sân, si. Chúng là chất độc của tự tánh, nên mới tiếp dẫn bọn ma ở bên ngoài. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 199)
+ Cõi giới nào cũng có Ma: Có người hỏi: Vì sao ma không phải là một Pháp Giới?
Trả lời: Ma thì giống như bọn thổ phỉ hay là du kích, lúc nào cũng lưu lạc trong bốn phương, không có xứ sở nhất định, cũng không có người cai quản. Kẻ cướp là loài người nhưng không phải người nào cũng là kẻ cướp, cho nên không nói Pháp Giới của loài cướp. Ðạo lý này giải thích loài ma cũng tương tự như vậy.
Trên trời cũng có ma, trong A Tu La cũng có ma. Thành phần thiện thì thuộc một pháp giới, thành phần không thiện thì thuộc về ma giới; vì ma biến khắp cả Lục Phàm Pháp Giới, thậm chí nó có thể biến hóa, xâm nhiễm, phá phách Tứ Thánh Pháp Giới. Phật hay ma đều là do một niệm sai biệt mà ra. .... (HT Tuyên Hóa khai thị Q.2 ngày 2/10/1982)
+ Ma: Khi Phàm ngã tách khỏi Chân Ngã: - Nếu có thể xác, nó trở thành người mất linh hồn. - Nếu không có thể xác, nó trở thành một con ma hay một hình thức của Kẻ Giữ Cửa. (LVLCK, 1017)
+ Chú giải các loài ma: Tiếng Phạn gọi là Mara, nghĩa là Giết hại, làm não hại thân tâm, tổn hại công đức, phá hoại trí tuệ. Có 4 loại ma:
1. Ma phiền não: Tham, Sân, Si… não hại thân tâm.
2. Ma 5 ấm (ngũ ấm ma): chấp thủ sắc thân, cảm giác, tri giác, tâm hành và nhận thức là ngã, nên bị năm ấm trói buộc.
3. Ma chết (tử ma): tử thần cắt đứt mạng sống con người làm gián đoạn sự tu tập.
4. Ma trời (thiên ma): Là tha hóa tự tại thiên, cõi trời thứ 6 của Dục giới, còn gọi là ma vương, ma ba tuần, chuyên làm trở ngại cho việc tu hành và làm việc thiện. (Nguồn: Xem tại đây); Xem thêm: Ma Ba Tuần phá Phật vẫn làm Vua
+ Ma – cà – rồng: Ma-cà-rồng có thật, nhưng may thay, chúng hiếm có. Chúng sống dưới hoàn cảnh giống như những người tự tử, cả hai đều là vong linh lụy trần, bạn phải biết cách giúp đỡ họ, mà còn phải biết cách giúp giải thoát họ tách khỏi xiềng xích của họ ( thể sinh lực - ND) (CKDCLH, 169)
+ Ma hình (Shell): Hình tư tưởng cảm dục … giống như một ma hình được làm cho linh hoạt và phấn khích. Vì lẽ trong hình tư tưởng này có nhiều chất cảm dục và cũng có một số lượng nào đó chất trí, nó có thể tạo được sức thu hút lớn và có mức độ hữu hiệu giống như mọi ma hình, thí dụ các ma hình được tiếp xúc trong phòng cầu đồng. (SHLCTĐ, 12)
+ Ma hình: Antakarana (giác tuyến) là hạ trí, con đường giao tiếp hay cảm thông giữa phàm ngã với thượng trí hay nhân hồn. Với vai trò là con đường hay phương tiện giao tiếp, nó bị tiêu hủy vào lúc con người từ trần, còn các tàn tích của nó sống sót dưới hình thức như là kama–rupa – ma hình (LVLCK, 137)
+ Âm ma và ma hình (Elementary and shell): Trong trường hợp của người chết trước thời gian ấn định (dying prematurely), nguyên khí thứ năm (nhân hồn–ND) không thể tách ra khỏi nguyên khí hồng trần (earthly principle) tức nguyên khí thứ tư (sinh hồn–ND). Do đó, vào lúc bị đẩy mạnh ra khỏi xác thân, âm ma rơi vào Kama loka. Âm ma (elementary) này không phải là một ma hình đơn thuần (mere shell) mà đó chính là con người, kẻ mà mới đây hãy còn sống, không thiếu mất gì cả trừ thể xác, người này không chết chút nào theo nghĩa đích thực của từ ngữ đó. Điều chắc chắn là các âm ma thuộc loại này có thể giao tiếp rất hiệu quả ở các buổi cầu đồng (spiritual seances) với cái giá nặng phải trả của họ, bởi vì thật không may, do chỗ còn đầy đủ cấu tạo cảm dục (astral constitution), chúng có thể tiếp tục tạo ra nghiệp quả (go on generating Karma), làm dịu nỗi khát sống (thirst for life) của mình bằng yếu tố thúc đẩy (spring) của tình trạng đồng cốt. (PGNM, 83)
+ Các loại ma:
Việt dịch: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo--thượng phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma-nữ.”
Việt dịch: “Những loại ma ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.”
Giảng nghĩa:
Quý vị xem, hạng người có chút “tiểu trí tiểu huệ” ấy vì không đoạn trừ dâm-tâm nên nói toàn những chuyện ái dục – anh yêu em, em yêu anh - cứ yêu qua yêu lại như thế rồi cuối cùng họ thành ma luôn! Thành ma rồi thì sao nữa?
“Những loại ma ấy cũng có đồ chúng.” Chúng ma ấy cũng có đồ đệ, cũng có kẻ ủng hộ chúng. “Tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.” Bản thân loài ma không biết xấu hổ, kẻ nào cũng tự xưng rằng: “Tôi chính là Phật! Chúng tôi đây đều là những đấng tối cao, vô thượng!” Hễ cái gì là to lớn, thì chúng xưng chúng là cái đó. Chúng vốn là ma nhưng lại không chịu thừa nhận mình là ma, mà cứ xưng là Phật. Phật thì cũng có Phật giả mạo vậy. Trên thế gian này cái gì cũng có giả được cả, cho nên loài ma cũng có thể làm ông Phật giả. Song le, chúng không chịu nhận chúng là thứ giả. Chúng cho rằng chúng là thứ thiệt, và cũng là “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” (trên trời, dưới trời, chỉ mình ta là tôn quý) nữa!
Việt dịch: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm, lại tự xưng là Thiện-tri-thức, khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đường Bồ-đề.”
Việt dịch: “Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật Thế Tôn thuở trước.” (Nguồn: Kinh Thủ LN-HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ma Vương - Lời nguyền: “Này ông Cồ Đàm (Đức Phật). Hôm nay ta thua ông, ông còn trụ ở thế giới này, ta không làm gì được ông. Ông nên biết rằng: sau khi ông diệt độ, sau này các đệ tử của ông, dù là lớn hay nhỏ, tuy là hình thức tu theo ông, chớ việc làm của họ phải làm theo sự điều khiển của ta cả, ông phải chống mắt mà xem ta sai khiến họ! * Cảnh thiện - Ma chướng trong thiền định cần đọc kỹ (Xem từ trang 137 đến 159)
+ Hỏa đại:
Dương Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ Hỏa: Tự tập trung và phi cá nhân; Thiếu kiên nhẫn, khuynh hướng lao vội vã vào mọi thứ; Bướng bỉnh, không nhạy cảm với người khác; Khởi xướng, bắt đầu mọi thứ; Kích động, nhiệt tình, có thể là thiếu tự chủ. - Dấu hiệu hành hỏa: Bạch Dương, Sư Tử, và Nhân Mã ; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Năng lượng. Tích cực. Nhiệt huyết. Đam mê. Cần phải thể hiện bản thân. Bốc đồng. Chủ động. Thoải mái Có khuynh hướng hướng ngoại. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não (LVHLT, 251)
+ Hành Hỏa thuần túy (nguyên khí dương chủ động) được xem như là ánh sáng và nhiệt, cùng với Thổ và Thủy, tức Vật Chất (yếu tố âm hay thụ động của sự sinh hóa vũ trụ). (1) Tất cả những điều này đều là tài liệu bàn về Đấng Lưỡng Tính thiêng liêng bản sơ. (GLBN, Từ tr 66 - 250)
+ Chân Sư DK luận về Hỏa Thủy: Trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu—thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y.
Đùa với Lửa: Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.”. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả - Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [trang 103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã.........
Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ/ Con người.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người.........
Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền ...... Như vậy, các bạn thấy rằng trong các hệ thống lớn, nhỏ đều có lửa.
Ở đây, tôi chỉ tóm tắt cho các bạn về mục đích của lửa trong tiểu vũ trụ và những gì phải nhắm đến. Chúng ta có ba loại lửa:
1. Tia lửa thiêng sinh động.
2. Tia lửa trí tuệ.
3. Luồng hỏa hậu (kundalini), sự hòa lẫn nhị nguyên của sức nóng nội tại và dòng sinh lực prana. Nơi ẩn trú [186] của mãnh lực này là luân xa chót xương sống, và luân xa lá lách hằng bồi dưỡng sức nóng đó.
Khi cả ba loại lửa này – một của tứ hạ thể, một của tam nguyên và một của nguyên khí thứ năm – gặp nhau và hòa lẫn với nhau một cách thích hợp về mặt hình học, thì mỗi luân xa sẽ được sinh động đúng mức, mọi quyền năng sẽ tự biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết và cặn bã sẽ bị đốt sạch, và hành giả đạt đến mục tiêu. Tia lửa đã trở thành ngọn lửa, và ngọn lửa là thành phần của khối lửa Đại ngã đang làm sống động trọn cả vũ trụ khách quan.mời xem chi tiết. (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
+ Hỏa thần - Thần lửa: Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu .... Giảng giải : Ta Hê Dạ Gia là "Thần lửa". Thứ thần lửa này rất nóng vô cùng. Vì nóng quá cho nên nói : ‘’Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu.’’ Rất lợi hại, nóng khiến người không chịu nổi. Nóng quá sẽ khiến người chết. Nạn lửa xuất hiện thì trên không trung có bảy mặt trời đồng thời cũng xuất hiện, thiêu hủy hết thảy sơn hà đại địa, biển cả cũng khô cạn, chẳng có vật gì còn sống sót lại. Lửa có thể thiêu đến cõi trời Sơ Thiền. Nhị Thiền và Tam Thiền cũng có tai nạn.(Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Hỏa Đại - Tánh của Lửa: Trích đoạn Phật dậy đoạn về Tứ Đại trong Như Lai Tạng/ Chân Tâm: ... A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh. Ông hãy xem các nhà trong thành khi chưa đến bữa ăn, muốn nhóm bếp thì tay cầm tấm kính đưa trước ánh sáng mặt trời để lấy lửa.
- Giảng: "A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh." Lửa tự nó vốn không có tánh chất riêng biệt. Phải có các yếu tố nhân duyên nó mới phát sinh được. 'Tự thể' ở đây không đề cập đến người mà chỉ cho thể tánh của lửa. Đoạn kinh nầy không nên hiểu rằng: 'Tôi không có lửa.' Có nghĩa là 'Tôi không có tánh nóng giận.' Nếu tự tánh quý vị không có chút lửa nào cả, thì quý vị sẽ là một vị Bồ-tát rất ngoan.
Thể tánh của lửa ở đâu? Tánh lửa ở khắp mọi nơi. Dù nó không có tự thể riêng, nhưng chẳng có nơi nào mà không có lửa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Năng lượng của thể trí. Mãnh lực của trí tuệ. Phản ảnh của ý chí và mục tiêu thiêng liêng. Động cơ thúc đẩy. Xung lực đưa tới thiên cơ, theo Định luật Tổng Hợp.
+ Thanh luyện thể hạ trí: Đây là kết quả của cách làm việc chuyên cần và sự phân biện. Cần phải có 3 điều trước khi đạt đến cõi của vi tử thường tồn hạ trí (tức cõi phụ thứ tư của cõi trí–ND), và trước khi tâm thức của linh hồn thể (tâm thức đầy đủ của Thượng Ngã)
+ Quyền năng (power, siddhis, huyền công, thần thông)
+ Năng lượng Thần lực: Trong toàn thể Vũ Trụ biểu lộ này, có 3 trạng thái được nhận thức.
1. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Một, vô ngã và vô hiện, có trước Vũ Trụ Biểu Lộ.
2. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Hai, Tinh Thần -Vật Chất, Sự Sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Ba, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Đại Đồng. Từ các nguyên lý sáng tạo căn bản này, trong phát triển kế tiếp, có xuất phát theo trình tự được an bài. Vô số Vũ Trụ gồm hằng hà sa số các Tinh Tú Biểu Lộ và các Thái Dương Hệ. Mỗi Thái Dương hệ là sự biểu lộ của năng lượng và sự sống của một Đấng Vũ Trụ vĩ đại, Đấng mà vì thiếu một danh xưng hoàn hảo hơn, chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế. Thái Dương Thượng đế lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian của một Thái Dương Hệ. Thái Dương hệ này là xác thể hay sắc tướng của Đấng Vũ Trụ và chính Đấng này tam phân (itself triple). Thái Dương hệ tam phân này có thể được mô tả bằng tên gọi có 3 trạng thái (three aspects), hay là (theo như Thần học Cơ Đốc giáo) là 3 Ngôi (three Persons).
Ba trạng thái này của Thượng Đế, tức Thái Dương Thượng Đế, và Năng Lượng Trung Ương hay Thần Lực (vì các tên gọi đều đồng nghĩa về phương diện huyền linh) biểu lộ xuyên qua bảy trung tâm lực – 3 trung tâm lực chính yếu và 4 trung tâm lực thứ yếu. Bảy trung tâm này của Thiên Lực được tạo nên để hợp thành các Thực Thể Thông Linh kết hợp. Các Đấng này được biết dưới danh xưng: a. Bảy Hành Tinh Thượng Đế; b. Bảy Tinh Quân trước Thiên Toà; c. Bảy Cung (Rays); d. Bảy Thiên Đế (Heavenly Men). (Nguồn: Luận về Lửa càn khôn)
+ Quyền năng hay thần lực nguyên thủy: Có 6 thần lực nguyên thủy trong Thiên Nhiên. Các Shaktis này như sau:
1. Parashakti: Nghĩa đen là đại thần lực hay quyền năng tối cao (supreme force or power). Nó bao gồm và có nghĩa là quyền năng của ánh sáng và nhiệt.
2. Jnanashakti: Nghĩa đen là quyền năng của trí tuệ (power of intellect) của chân minh triết hay chân tri thức (real wisdom or knowledge). Quyền năng này có hai trạng thái
+ Jnanashakti (Trí tuệ thần lực): Thần lực của trí năng hay thể trí.
+ Parashakti (Tối thượng thần lực): Theo nghĩa đen là thần lực, năng lượng và bức xạ tối cao ở trong và xuất phát từ vật chất.
+ Mantrikashakti (Linh từ thần lực): Thần lực tiềm phục trong âm thanh, ngôn từ và âm nhạc (LVLCK, 395–396)
+ Xem thêm: Các Thần lực - Các Linh hồn - Các Tâm thức
+ Trí khôn (Manas): Con người được phú cho Trí Khôn (endowed with Manas) chỉ khi ở vào điểm giữa của Căn chủng thứ ba.(GLBN III, 257)
+ Người có trí - Người trí: Đức Phật bảo A-nan: Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông, những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ. HT Tuyên Hóa giảng:
Hàng trí thức thích dùng những thí dụ để được khai ngộ. Vì khi quý vị thực sự có trí tuệ thì quý vị có thể hiểu được mười điều khi chỉ cần nghe một điều - Đó là có trí tuệ chân chính. “Người trí” mà trong kinh văn nói đến không phải là người có trí tuệ chân chánh mà là những người có trí thức thông thường, không cao không thấp. Họ có thể được giác ngộ thông qua việc sử dụng những thí dụ. Nhưng nếu những người chậm lụt, thiếu trí tuệ, nếu đưa cho họ một ví dụ, họ sẽ không hiểu nổi (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần kinh văn)
+ Trí Biện thông: Bạn đi học, học rộng nghe nhiều, người xưa đã nói "ký vấn chi học", bạn thấy được rất nhiều, nghe được rất nhiều, nhớ được rất nhiều, thế nhưng đều không phải là tự tánh lưu lộ ra, mà đều là từ bên ngoài đến. Đây gọi là thế trí biện thông ...... Bạn có 6 căn tiếp xúc 6 trần, là từ bên ngoài đều sanh phiền não, nhưng thảy đều sanh trí tuệ (năng lực tham học). Mắt thấy sắc, xem thấy cái này ưa thích là tham ái, cái kia không ưa thích thì sân hận, phiền não rồi; nghe âm thanh này hay, âm thanh kia nghe không hay cũng sanh phiền não. Cho nên, đoạn phiền não liền sanh trí tuệ, "Trong tâm đệ tử thường sanh trí tuệ", thấy sắc sanh trí tuệ, nghe tiếng sanh trí tuệ, ngửi mùi sanh trí tuệ......(Nguồn: Pháp sự Tịnh Không giảng)
+ Trí Thông minh: Là khả năng suy tư hay chọn lựa, lọc ra và phân biện. Thực ra, đó là một cái gì trừu tượng, không thể giải thích được, nằm đàng sau định luật vĩ đại Hút và Đẩy, định luật căn bản của biểu lộ. Khả năng thông minh căn bản này tiêu biểu cho mọi chất liệu nguyên tử và cũng cai quản việc tạo dựng các hình hài, hay là tập hợp các nguyên tử.(TTCNT, 58)
+ Chín Loại Trí Thông minh: Những năm 1980, giáo sư tâm lý học Howard Gardner thuộc ĐH Harvard đã đề xuất về các loại hình trí thông minh qua 9 hình thái, lĩnh vực khác nhau:
1. Trí thông minh về không gian: Dễ dàng hình dung, mô tả cảnh quan, tưởng tượng thế giới theo chiều không gian 3D.
2. Trí thông minh Tự nhiên: Nhanh chóng hiểu được cơ chế của sự sống, sinh vật và các hiện tượng thiên nhiên.
3. Trí thông minh Âm nhạc: khả năng thẩm âm tốt, nhạy cảm với nhịp điệu và âm thanh
4. Trí thông minh Logic - Toán học: nhanh nhạy với số liệu, khả năng suy luận tốt, tổng hợp thông tin thành các giả thiết và có khả năng chứng minh chúng.
5. Trí thông minh triết học: Thường có những đắn đo, suy ngẫm về các vấn đề mang tính triết học như các câu hỏi: ý nghĩa của cuộc đời là gì?
6. Trí thông minh cảm xúc: Có khả năng thấu cảm, nhận biết cảm xúc của người khác và nhanh chóng hiểu ý nghĩ của họ.
7. Trí thông minh vận động: Khả năng điều khiển vận động của cơ thể, thể hiện sự khéo léo trong các hoạt động thể chất.
8. Trí thông minh Ngôn ngữ: Khả năng dùng từ ngữ để biểu đạt tốt, dễ dàng viết văn hoặc phát biểu ý kiến.
9. Trí thông minh nội tâm: Hiểu rõ bản thân, làm chủ cảm nhận về bản thân cũng như luôn xác định được điều mình muốn. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Phân biệt Trí Tuệ/ Huệ - Trí Thức: Trí huệ và Trí thức/ Kiến thức là khác nhau, chẳng tương đồng! Trí huệ có thể giải quyết hết thảy vấn đề, giải quyết rất viên mãn, chẳng để lại hậu quả. Kiến thức có hạn chế, nó chẳng thể giải quyết hết thảy vấn đề, có những vấn đề có thể giải quyết được, nhưng cũng có những vấn đề chẳng thể giải quyết, lại còn để lại rất nhiều hậu quả, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này! Học rộng nghe nhiều, mà nếu chẳng có trí huệ, sẽ là tri thức (kiến thức). Trí huệ học từ đâu? Trí huệ chẳng lìa Giới, Định, Huệ, nhất định là từ Giới - Định mà khai trí huệ, trí huệ mới thấu lộ. Nói cách khác, người tâm thường ở trong Định, sẽ dễ khai trí huệ. Nếu một kẻ tâm bộp chộp, hời hợt, làm sao có trí huệ cho được? (Nguồn: PS Tịnh Không)
+ Trí Trừu tượng và Manas Thuần khiết: Trên cõi phụ cao nhất tức là cõi phụ thứ nhất của cõi trí, có trụ điểm của trí trừu tượng. Cõi phụ cao nhất này là nơi có tư tưởng trừu tượng, và ở đây các ý tưởng (từ cõi bồ-đề) trở thành các khái niệm trừu tượng. Mức cao nhất này của cõi thượng trí, nơi manas thuần khiết biểu lộ, cũng lại là điểm thấp nhất của tam nguyên tinh thần – atma/bồ-đề/manas. Các ý tưởng phát sinh trong những phương diện cao của tam nguyên tinh thần lưu chuyển qua trí trừu tượng để trở thành tư tưởng trừu tượng. Từ đó chúng đi vào Linh hồn/hoa sen chân ngã để có được năng lượng thống nhất. Rồi chúng đi vào hạ trí để được cụ thể hóa với các chi tiết rõ rệt, và đi vào não bộ để biểu lộ qua hành động ở cõi trần. Các cõi cao hơn cõi Bồ-đề thì ngoài phạm vi của khóa học này và không được mô tả hoặc nêu chi tiết đầy đủ. Chúng chỉ được đề cập đến và mô tả rất vắn tắt. Nguồn: ( GQ1. Con người và tâm thức)
+ Thể Trí Cung Một: Mãnh liệt, nhanh chóng, mạnh mẽ. Một thể trí tổng hợp, nhìn thấy sự việc rộng rãi, và tập trung vào các nguyên tắc, các quá trình tư duy như laser, trong suốt như kim cương tách ra các điều căn bản từ cái không căn bản. Độc lập và thẳng thắn, không thay đổi trong tư tưởng và ý kiến, dứt khoát, vắn tắt và đi thẳng vào trong tư tưởng và lời nói. Một thể trí “thực tế”, nhất tâm, tập trung, có tổ chức, có ưu tiên.
Thể trí Cung 1 : (DNA I, 219) Cung thể trí của bạn cũng là cung một. Điều này có nghĩa rằng thể trí thông minh của bạn có thể thống trị khi cần và có thể mạnh mẽ hơn nhiều khi biểu lộ so với lúc bình thường.
Thể trí Cung 1: Ở NGƯỜI KÉM TIẾN HÓA
1. Ý chí muốn sống hay muốn biểu lộ trên cõi trần.
2. Do đó, xung lực thể hiện như bản năng tự bảo tồn.
3. Khả năng chịu đựng, bất kể những khó khăn nào.
4. Sự cô lập độc đáo. Người luôn luôn là “Một người đứng một mình.”
+ Thể trí Cung 1: Ở NGƯỜI TIẾN HÓA
1. Ý chí giải thoát hay muốn biểu lộ hữu thức trên cõi của linh hồn.
2. Khả năng phản ứng với thiên cơ, hoặc đáp ứng với ý chí Thượng Đế được nhận thức.
3. Nguyên lý bất tử.
4. Tính kiên trì hoặc sức chịu đựng trên Đường Đạo.
* Thể trí Cung 2, 3: cung này không chế ngự thể trí, ngoại trừ các đệ tử.
+ Thể trí Cung Ba: Một trí năng mạnh mẽ và nổi bật. Một loại thể trí rộng rãi bao quát. Một người đang len lỏi, hoạt động không ngừng, linh động, linh hoạt, lời lẽ cao, hay giao tiếp, có khả năng hoạch định và lên kế hoạch, có lý luận và tháo vát, khả năng phân tích cao, phát biểu, khả năng suy luận, không dựa vào kinh nghiệm, hay chỉ trích và thích tư duy trừu tượng. Điểm yếu của nó là nó có thể không quan tâm đến tính chính xác, quá tổng quát hoá, và đãng trí.
Nguồn: Nhận dạng các cung
Xem thêm: Về Các Cung của Thể Trí
+ Thể trí Cung 4: Nhiều người có thể trí ở cung 4, với màu đặc trưng của nó là màu vàng. Cảm xúc <> trực giác, tinh thần chiến binh, “phát triển” thông qua đau khổ, khủng hoảng, đấu tranh liên tục. Khuynh hướng hòa giải, yêu vẻ đẹp / phim / nghệ thuật / giải trí / sáng tạo.
- Người Cung 4 phát triển thông qua việc vượt qua những sự xung đột, khủng hoảng, đấu tranh. Khi đã vượt qua được sự xung đột, y đạt đến sự hài hòa, sau đó lại tiếp tục đối diện sự xung đột khác. Hình nền của slide 24 là hình phong cảnh tuyệt đẹp, tượng trưng cho sự hài hòa, mỹ lệ. Trên nền hình ảnh phong cảnh là các biểu tượng của sự xung khắc hay xung đột: hình Âm Dương, Mặt người cười và khóc, cuộc chiến giữa hai chiến binh … Một biểu tượng khác là cái cầu, nói lên tính chất nối liền của cung 4. Cung 4 có tính chất liên kết vì nó là cung nằm giữa ba Cung Trạng Thái và Ba Cung Thuộc Tính.
- Cung 4 là Cung của Nghệ Thuật nên trong slide trên bạn thấy những nhân vật tiêu biểu của cung 4 đều là các nghệ sĩ nổi tiếng như Da Vinci, Michaelangelo, Sally Field, Webber, Billy Connolly, Frieda Kahlo, Billie Holliday, Judy Garland. Da Vinci là nghệ sĩ đa tài trong hội họa, kiến trúc. Michaelangelo cũng là một nghệ đa tài khác. Ông là là một hoạ sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhà thơ và kỹ sư thời kỳ Phục hưng Ý. Sally Field là nữ diễn viên, nữ ca sĩ, người viết kịch bản, nhà sản xuất phim và đạo diễn người Mỹ đoạt hai giải Oscar. William “Billy” Connolly, (sinh 24/11/1942) là một diễn viên hài, nhạc công Scotland. Giáo sư Michael D. Robbins cũng là nhân vật có phàm ngã cung 4. Các bạn xem video có thể nhận thấy khuôn mặt của GS Michael D. Robbins rất linh hoạt trong khi trình bày. Những ai chịu ảnh hưởng cung 4 thường rất linh hoạt trong khuôn mặt. Các bạn có thể xem video của của Billy Connolly cũng nhận thấy điều đó.
- Người cung 4 thường trải qua đỉnh cao vinh quang, rồi sau đó là vực thẳm..
- Liệt kê các đặc điểm tiêu cực của cung 4, nổi bật là sự đa cảm (emotional). Các điểm yếu khác là sự xung đột nội tâm-ngoại cảnh thường xuyên, không quyết đoán. Một đặc điểm khác mà người có thể trí cung 4 là trực giác của họ rất mạnh. Các bạn đã biết thông thường thể trí chịu ảnh hưởng của 3 cung: cung 1, cung 4, và cung 5. Người thể trí cung 5 hay lý luận, suy nghĩ rõ ràng, bán cầu trái của học hoạt động, còn người thể trí cung 4 có bán cầu phải mạnh hơn. Họ thiên về nghệ thuật, và họ cũng ít có khả năng tạo ra những hình tư tưởng rõ ràng. (Trích từ Năng lượng 7 cung - Khóa học GQ/MF)
+ Thể trí Cung Bốn: Thể trí có tính trực giác này nhiệt tình và rất mãnh liệt. Đó là thể trí nghệ thuật – âm nhạc, văn học, mỹ thuật, tạo hình ảnh, thơ, kịch, tính phóng đại, vẻ đẹp nhạy cảm. Nó nhanh trí và không gò bó, và thích chơi. Nó là một thể trí “bắt cầu” – liên kết, cân nhắc, cân bằng, phân giải, hợp nhất, trung gian, hòa giải, do dự, mâu thuẫn, thiếu quyết đoán. Nó bâng khuâng – tới lui, lên xuống, phấn khởi, rồi thì chán nản. Một đặc điểm tích cực là kỹ năng của nó trong việc làm trung gian hòa giải. Đó là chiến binh có thể trí xông xáo, giằng xé nội tâm, đấu tranh, căng thẳng do khủng hoảng, đối kháng và mâu thuẫn. Khi bạn theo dõi các cá nhân với một thể trí cung bốn đang làm việc, bạn thường có thể nhìn thấy đầu hoặc nét mặt của họ di chuyển từ bên này sang bên kia. Không dựa trên lý trí, nó thấy một đặc điểm nổi bật trong những hình ảnh. Nắm bắt các khái niệm, và dịch những ý tưởng của nó (các hình ảnh / bản chất / màu sắc) thành các từ ngữ có thể là một nỗ lực lớn, và nó thường giao tiếp tốt hơn thông qua văn bản hoặc một phương pháp nghệ thuật nào đó . Nó thường bị đe dọa bởi cung thể trí 1, 3, 5 – bởi vì nó thường không xử lý các sự kiện nhanh như thể trí các cung này.
- Thể trí cung 4 đã phát triển sẽ truyền tải các sự kiện với vẻ đẹp tuyệt vời; còn
- Thể trí chưa phát triển thì mơ hồ và không chính xác.
Thể trí của mỗi con người, ở một thời điểm nào đó, được tìm thấy trên cung thứ tư và thường là khi con người đang tiến gần con đường dự bị. Điều này có nghĩa rằng thể trí bị chi phối bởi một nguyên tố có bản chất hoặc tính chất cung 4 và do đó, hoạt động sáng tạo, nghệ thuật là đường lối ít đối kháng nhất. Bấy giờ chúng ta có một người với một khuynh hướng nghệ thuật, hay chúng ta có một thiên tài theo một đường lối hoạt động sáng tạo. (EPII 292)
+ Thể trí Cung 4 : (DNA I, 133) Cung Hài Hòa thông qua Xung Đột, và đó là tính dễ uốn nắn của bạn, ý thức của bạn về mối quan hệ, và sự nắm bắt nhanh chóng của mình về sự thật trí tuệ. Ảo tưởng sẽ luôn luôn là một cái bẫy sẵn sàng hơn cho bạn so với ảo cảm. Cung Hài Hòa thông qua Xung Đột này là cung cầu nối sẽ, trong trường hợp của bạn và thông qua thể trí, mang lại một sự thiết lập tiếp xúc ngày càng nhanh chóng giữa linh hồn và phàm ngã của bạn.
+ Thể trí Cung 4: (DNA I, 447) Tuy nhiên, với bạn, sự biểu lộ chính của hoạt động này nên liên quan với những người mà bạn phải làm việc với họ trong lĩnh vực phụng sự sự sống mà bạn chọn; sự hài hòa đạt được là việc giải quyết cuộc xung đột trong cuộc sống của những người xung quanh bạn đang trong quá trình điều chỉnh với sự sống. Các mâu thuẫn trong bạn được bạn hiểu và có thể được giải quyết nhanh chóng. Đó là ảnh hưởng của thể trí của bạn lên người khác mà tôi muốn bạn xem xét rõ ràng nhất.
- Trên con đường dự bị, các mãnh lực của bản chất thấp của con người và tác động bên trong của chúng thì rất quan trọng; y phải học cách tự biết mình.
- Trên con đường đệ tử, cũng các mãnh lực này phải được nghiên cứu trong mối quan hệ với những người mà số phận, nghiệp quả và sự lựa chọn nghề nghiệp đã đưa người đệ tử đến với họ.
- Trên con đường điểm đạo, các mãnh lực tương tự được sử dụng trong sự hợp tác hữu thức với Thiên Cơ, và với kỹ năng thích hợp trong hành động, do các bài học kinh nghiệm đã được học trên các giai đoạn đầu của đường đạo.
+ Thể Trí Cung Bốn – Ở NGƯỜI KÉM TIẾN HÓA
1. Tính hay công kích và sự thúc đẩy cần thiết đó hướng tới mục tiêu được cảm nhận vốn phân biệt với người phát triển. Mục tiêu này, trong các giai đoạn đầu, sẽ có tính vật chất.
2. Tinh thần chiến đấu hay tinh thần đấu tranh tư tưởng vốn cuối cùng [Trang 292] mang lại sức mạnh và sự tự tin, và tạo ra sự hội nhập cuối cùng với trạng thái thiêng liêng thuộc cung thứ nhất.
3. Lực cố kết đó vốn làm cho một người thành một trung tâm thu hút, cho dù là mãnh lực chính trong bất kỳ sự thống nhất nhóm nào, chẳng hạn như cha mẹ hoặc một người cai trị, hoặc một Chân Sư trong mối quan hệ với nhóm của Ngài.
4. Quyền năng sáng tạo. Trong các loại người thấp kém, điều này được liên kết với xung lực, hoặc bản năng, để tái tạo, do đó, dẫn tới quan hệ phái tính; hoặc nó có thể dẫn đến việc xây dựng các hình tư tưởng hoặc các hình thức sáng tạo thuộc loại nào đó, mặc dù đó chỉ là túp lều của một người man rợ.
+ Thể trí Cung Bốn – Ở NGƯỜI TIẾN HÓA
1. Tinh thần Arjuna. Đây là sự thôi thúc hướng tới chiến thắng, duy trì một vị trí giữa các cặp đối lập, và ý thức cuối cùng về trung đạo.
2. Sự thôi thúc tổng hợp (lại là một xung lực thuộc cung 1) được phối hợp với một xu hướng cung hai để yêu thương và bao gồm.
3. Tính chất thu hút của linh hồn khi nó tự thể hiện bản thân trong mối quan hệ giữa bản ngã thấp và cao. Điều này dẫn đến “cuộc phối ngẫu ở các cõi Trời.”
4. Quyền năng sáng tạo các hình thể, hay sự thúc đẩy nghệ thuật.
Nguồn: Nhận dạng các cung
Xem thêm: Về Các Cung của Thể Trí
+ Thể Trí Cung 5 - Với Hạ Trí:
- Tính tốt đặc biệt: Phát biểu rất chính xác, công bằng (không thương xót), kiên nhẫn, lương tri, chính trực (uprightness), độc lập, trí tuệ nhạy bén.
- Tật xấu: Chỉ trích khe khắt, hẹp hòi, ngạo mạn, tính không muốn tha thứ, thiếu tình cảm và sùng kính, thành kiến (prejudice).
- Đức tính cần tập: Tôn kính, sùng tín, cảm tình, bác ái, đầu óc phóng khoáng (wide–mindedness).
+ Thể trí Cung 5: Một thể trí có tính phân tích và chính xác – là nhà tư tưởng có tính khoa học. Không thiên vị và không bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc, nó thẳng thắn, dựa trên lý trí, hợp lý và rất chính xác. Nhận thấy toán học là dễ dàng. Nó cũng rất chi tiết, và khi tự diễn đạt bằng văn bản thì nó dài dòng, với nhiều sự kiện. Nó bất kính, hoài nghi đối với nhà thần bí và người tu hành, và xem thường bất cứ điều gì không thể được chứng minh một cách khoa học. Dành thời gian của nó để suy nghĩ trước khi nói và sau đó đưa ra những lời bằng giọng đều đều, chú trọng vào các sự kiện. Tạo ra các nhà khoa học và các nhà kỹ thuật. Thể trí trong trường hợp của bạn được chi phối bởi năng lượng cung năm. Đây là một tình trạng rõ rệt và tạo ra nhiều khó khăn trong cuộc sống của bạn. Trong trường hợp của tất cả những người tìm đạo, như vậy nó bị qui định về mặt trí tuệ, nguyên nhân tối quan trọng của hành vi thiếu tính thu hút của họ, khi sử dụng từ ngữ đó theo các hàm ý về tâm lý của nó. Tôi muốn nhắc nhở bạn rằng việc thiếu tính thu hút ở giai đoạn phát triển của bạn có nghĩa là (mặc dù bạn có thể có một mức độ nào đó trong việc tiếp xúc với linh hồn), bạn không thể tỏa chiếu sự sống linh hồn đó tới người khác như bạn muốn làm, vì thể trí cung năm thống trị của bạn (Cung Khoa học Cụ Thể, như bạn biết) bị cách ly, bị cô lập và có xu hướng tự nhiên hướng tới sự phân biệt vốn dẫn đến sự chia rẻ. Hiệu ứng ngược lại cũng đúng. Sự tỏa chiếu của những người khác cũng có thể bị tắt đi và do đó bạn không thể ghi nhận các ấn tượng thần giao cách cảm. Tuy nhiên giá trị của một thể trí cung năm rất lớn, vì nó có nghĩa là một thể trí sắc sảo và hữu ích (hãy suy ngẫm về điều này) là một cánh cửa mở ra cho sự linh hứng. (DNA I, 120)
+ Thể trí của bạn ở trên cung thứ năm …. Thể trí cung năm này mang đến cho bạn bản chất tò mò, hay dò hỏi vốn là một trong những đặc điểm nổi bật của bạn – một tài sản tuyệt vời khi được sử dụng đúng đắn; là một vấn đề khó khăn lớn và vật cản trở thực sự với dòng nhập lưu của ánh sáng linh hồn khi bị quá chú trọng. (DNAI, 351)
+ Thể trí Cung 5 – Ở NGƯỜI KÉM TIẾN HÓA
1. Năng lực phát triển tư tưởng.
2. Tinh thần táo bạo có tính duy vật, sự thôi thúc thiêng liêng, khi nó tự chứng tỏ bản thân trong những giai đoạn đầu.
3. Các xu hướng nghi vấn, đặt câu hỏi và tìm hiểu. Đây là bản năng để tìm kiếm và để tiến bộ, xét cho cùng, vốn là sự thôi thúc để tiến hóa. 4. Xu hướng kết tinh, chai cứng, hay có một ” định kiến”. Về việc này, người ta thường sẽ phát hiện ra rằng người không chống nỗi một “định kiến” không chỉ có một thể trí cung năm mà còn có hoặc một phàm ngã cung sáu, hoặc một thể cảm dục cung sáu.
+ Thể trí Cung 5 – Ở NGƯỜI TIẾN HÓA
1. Nhà tư tưởng chân chính, hoặc loại người trí tuệ – tỉnh táo và lanh lợi.
2. Người hiểu biết Thiên Cơ, mục đích và ý chí của Thượng Đế.
3. Người mà trí thông minh đang được chuyển hóa thành minh triết.
4. Nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà văn.
Thể trí Cung 6, 7: cung này không chi phối thể trí, ngoại trừ các đệ tử.
Nguồn: Nhận dạng các cung
Xem thêm: Về Các Cung của Thể Trí
+ Thể cảm dục (ASCLH, 186)/ (KCVTT, 253)
+ Thể tri giác_Chân Sư DK: Một thuật ngữ mà Tôi rất thích hơn thuật ngữ cảm dục [astral], và Tôi sẽ tiếp tục sử dụng nó (LVHLT, 293)
+ Tình trạng Nước - Chất liệu tình cảm - Vật chất cõi cảm dục: Nguyên nhân thứ hai của sự thất bại nằm ở việc y không chú ý xem xét tình trạng của nước, hay là trạng thái của chất liệu tình cảm (emotional substance) mà hình trí tuệ này phải đến, và như thế thu hút vào nó vật chất của cõi cảm dục, điều này sẽ cho phép nó trở thành một thực thể hoạt động trên cõi đó. Nếu nó không thể làm được điều này, thì cuối cùng nó chỉ là một hình-tư-tưởng chết trên cõi trí, vì nó sẽ thiếu lực thúc đẩy đó của dục vọng, vốn cần để đưa nó tiến tới chỗ hoàn tất trên cõi trần. (LVHLT, 160)
+ Thể cảm dục là hiện thể của kinh nghiệm đối với đa số, và có vài người không vượt qua phần lớn cuộc sống có ý thức của họ, ghi nhận những phản ứng của thể đó, và dao động giữa hai cực của hạnh phúc và đau khổ, của sự hài lòng hoặc không hài lòng, của sự tin chắc hoặc nghi ngờ, của can đảm hoặc của sợ hãi. Điều này thực sự có nghĩa là mãnh lực cố hữu và sự sống của hiện thể tri giác tình cảm chi phối sự biểu hiện của đời sống, và uốn nắn kinh nghiệm của linh hồn nhập thể. Do đó, thật đáng cho chúng ta để hiểu một điều gì đó về việc các lực này là gì, chúng từ đâu đến và chúng tác động và phản ứng trên con người như thế nào. Bãi chiến trường của y nằm ở đó, và trận địa thắng lợi của y cũng nằm ở đó.(LVHLT, 293)
+ CON NGƯỜI: Nói chung, con người là những gì mà thể cảm dục của y tạo ra cho y. Sau nữa, “con người tưởng nghĩ như thế nào thì y trở nên thế ấy”. Thể cảm dục, với các mong mỏi, các thèm muốn, các tâm trạng, các cảm xúc và các khao khát của nó đúc nặn nên thể xác nhờ các lực thu hút tuôn chảy qua nó, và như thế dắt dẫn con người một cách chính xác để thực hiện các ham muốn của y. Nếu các khao khát của bản chất tri giác có tính thú vật vượt trội trong mục tiêu của chúng, chúng ta sẽ có con người với các thèm muốn mạnh mẽ, sống một cuộc đời dành hết nỗ lực để làm thỏa mãn chúng. Nếu sự khát khao để có tiện nghi và hạnh phúc, chúng ta sẽ có con người có tính khí thiên về giác quan, yêu cái đẹp và thích khoái lạc, về thực tế thì bị chi phối hoàn toàn bởi sự nỗ lực ích kỷ. Vì vậy, nó đi suốt tất cả các cấp độ ham muốn, tốt, xấu, và thông thường, cho đến khi sự tái-định-hướng xảy ra, nó tái-tập-trung (refocusses) các năng lượng cảm dục sao cho chúng được chuyển theo một hướng khác. Ham muốn (desire) trở thành nguyện vọng (aspiration). Như vậy, việc giải thoát khỏi bánh xe sinh tử được mang lại và một người được thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh. Khi đó thì lá số tử vi, như được hiểu hiện nay, tỏ ra vô ích, sai và vô dụng, còn thuật ngữ đôi khi được dùng, nhưng không đúng, là “lá số tử vi của chân ngã (ego) hay linh hồn”, thì không có ý nghĩa gì hết. Linh hồn không có vận mệnh cá nhân nào cả, mà được chìm vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của nó là vận-mệnh của tập thể, và của Tổng Thể (the Whole); mong muốn của nó là thể-hiện Thiên Cơ vĩ đại, và ý chí của nó là sự tôn vinh Thượng Đế nhập thể (the incarnated Logos). (LVHLT, 296)
+ Thể tri giác - Nguồn gốc bệnh sinh lý: Thể cảm dục đôi khi được gọi là thể tình cảm là kết quả của sự tương tác của dục vọng và của sự đáp ứng hữu cảm thức vào cái ngã ở trung tâm, và đưa đến kết quả – trong thể đó – là kinh nghiệm được tạo ra dưới hình thức cảm xúc như là đau khổ và vui sướng và các cặp đối hợp khác. Trong hai thể này, tức thể dĩ thái và cảm dục, người ta thấy có tới 90% các nguyên nhân của bệnh hoạn và bất ổn của xác thân. (CTNM, 3)
+ Cảm dục: ... H.P.B. chịu trách nhiệm một phần lớn vì đã dùng từ ngữ “astral” (cảm dục) để chỉ một số lớn tri thức liên quan đến thể dĩ thái cũng như thể cảm dục. Điều này là do việc nhận thức rằng thể cảm dục, trong một vài thế hệ nữa (nói một cách tương đối) sẽ bị biến mất, còn đặc biệt là đối với H.P.B., nó đã không còn tồn tại do bởi đệ tử này đã đạt được mức tiến hóa cao. Do biết được rằng thể dĩ thái luôn luôn là một biểu lộ của năng lượng vượt trội đang kềm chế nhân loại trong bất cứ chu kỳ đặc biệt nào, H.P.B. dùng thuật ngữ “astral body” như là có thể thay thế cho nhau với (thể dĩ thái).
+ Thể Cảm dục (Thể astral, thể vía): Gồm các ham muốn và xúc cảm của chúng ta – sợ hãi, hạnh phúc, hy vọng, nhạy cảm, cảm xúc mạnh, âu lo, tình cảm dồn nén, bám chấp, và yêu thương. (MQ - Hình dung và 7 Cung)
+ Thể tình cảm: Có hình dạng bầu dục bao quanh xác thân như Thể trí. Mục đích Tham thiền là nên làm cho hình bầu dục của thể tình cảm trở nên tích cực (Loại tà - Nghĩ chánh) đối với những gì thấp kém và đối với những gì chung quanh nó, và chỉ thụ cảm đối với Tinh thần thông qua thể nguyên nhân (Linh hồn). Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách phát triển khả năng kiểm soát hữu thức - sự kiểm soát mà ngay trong những lúc rung động và tiếp xúc cao nhất, khả năng này vẫn linh mẫn trông nom và bảo vệ các hạ thể. “Hãy trông chừng và cầu nguyện” là lời dạy của Chúa khi Ngài còn tại thế. (TTHM_Nguy hiểm khi tham thiền_Chân Sư DK)
+ Cảm Dục/ Dục Vọng:
1. Sợ hãi – Có ảnh hưởng tới hoạt động ngày nay;
2. Căm ghét (hate) – Vốn là một yếu tố trong sự điều tiết các mối liên hệ;
3. Tham vọng – Đang chi phối các mục tiêu (CTHNM, 231)
+ Thể Tri Giác: Trong việc xem xét thể cảm giác (sentient body) của một người,.. việc bàn đến các ảnh hưởng của thể cảm giác và trong việc tìm cách để chế ngự các ảnh hưởng của nó, thì con người mới đạt đến sự tự tri và nhờ thế trở thành một Chân Sư. Những biểu hiện thông thường nhất của hoạt động cảm dục (astral activity) là:
1. Sợ hãi (fear)
2. Phiền muộn hoặc đối cực của nó, sự vui tươi.
3. Mong muốn thỏa mãn các thèm khát thú tính.
4. Mong cầu hạnh phúc.
5. Ước muốn giải thoát. Đạo tâm.
Hầu hết các kinh nghiệm về tri giác của con người được tổng kết thực tế trong năm mục này, và chúng ta sẽ xem xét mỗi mục theo các khía cạnh sau:
1. Nguyên nhân.
2. Hậu quả.
3. Phương pháp điều hướng (method of direction)... (LVHLT, 297)
+ Hạ Trí hay chỉ trích có các tính chất (CTHNM, 231):
1. Kiêu hãnh – Chính là sự thỏa thích của trí óc, làm cho thể trí trở thành chướng ngại cho sự kiềm chế linh hồn.
2. Tính phân biệt, chia rẻ – Chính là thái độ cách ly, nó làm cho thể trí thành chướng ngại đối với các liên hệ tập thể chính đáng.
3. Tàn bạo – Vốn là sự thỏa thích với các phương pháp của phàm ngã, nó làm cho trí óc trở thành dụng cụ của ý thức quyền lực
+ Hạ trí thuộc phàm ngã tương ứng với Cung 5: Kiến thức, tức Cung của trí tuệ phân tích. Nhà khoa học là gương mẫu điển hình của loại hình này.
+ Hạ trí chịu trách nhiệm về khả năng nhận thức của chúng ta. Gồm việc suy nghĩ, suy luận, phân tích, so sánh, học tập, hình dung và phân biện. Tất cả các hoạt động thông thường của não bộ thuộc về trí cụ thể. Não bộ - Thành phần của thể xác và nó không suy nghĩ. Nó đơn giản là một công cụ tinh tế nhất đáp ứng với hoạt động của thể trí và chuyển nó thành hành động trong cõi hồng trần.
+ Thể hạ trí: (Facebook TT Học: Cõi hạ trí, hay cõi Devachan, hay cõi Thiên đường)
+ Thể hạ trí - Chất trí mà một con người cá biệt có thể sử dụng và tạo ấn tượng, tạo thành thể thứ tư của một loạt các bộ máy dành cho linh hồn. Đồng thời, đừng nên quên rằng 4 thể này tạo ra một bộ máy duy nhất. (CTNM, 3)
+ Với thể xác và thể cảm dục, chỉ có vật chất của 5 cõi phụ cao (các cõi theo thứ tự của chúng), vì vật chất của hai cõi phụ thấp nhất thì quá thấp đối với deva hoặc cơ thể con người, chúng đã chi phối trong Thái Dương Hệ thứ 1.
+ Thể hạ trí là thể đầu tiên mà chúng ta thấy có vật chất của tất cả các cõi phụ.
+ Thể hạ trí được cấu tạo bằng 4 loại tinh chất mà thôi, còn thể cảm dục và thể xác được tạo thành bằng 7 loại. (LVLCK, 576, 1098)
+ Thể hạ trí có dạng hình trứng, bao quanh thể xác và trải rộng nhiều hơn ra khỏi thể xác …, qua hình trứng đó luôn luôn có các hình tư tưởng thuộc nhiều loại khác nhau chạy quanh (đó là các tích chứa của thể trí con người và các tư tưởng của những kẻ chung quanh y) khiến cho hạ trí hình trứng này bị nhuốm sắc thái của các thu hút mạnh mẽ và bị đa dạng hóa bằng nhiều dạng hình học, tất cả đều ở tình trạng thay đổi liên tục hay chạy quanh. (TVTTHL, 95)
* HẠ TRÍ_(LVHLT, 80)
Hạ trí, tự bản thân nó, cống hiến cơ hội cho một luận đề rất dài, nhưng ở đây sẽ là đủ để đưa ra một vài cách thức mà nó gây cản trở cho những giống dân vốn tiêu biểu cho nó nhiều nhất.
a/ Bằng hoạt động mãnh liệt và hành động bị kích thích, nó ngăn cản dòng chảy xuống (downflow) của cảm hứng từ trên cao. Nó hoạt động như một bức màn tối ngăn chận sự giác ngộ cao siêu. Chỉ nhờ sự vững vàng và sự yên tĩnh ổn định mà sự tỏ ngộ mới có thể thẩm thấu, xuyên qua các thể cao, đến được bộ não vật chất và nhờ thế sẵn sàng cho việc phụng sự thực tế.
b/ Sự minh triết của Tam Thượng Thể (Triad) tồn tại cho việc sử dụng của phàm nhân, nhưng bị chận lại bởi những sự tìm tòi (disquisitions) của hạ trí. Khi ngọn lửa của thể trí cháy quá mãnh liệt, nó tạo nên một luồng chống lại với dòng giáng lưu cao siêu, và ép buộc lửa dưới thấp vào lại nơi trú ẩn. Chỉ khi nào ba luồng hỏa gặp nhau, nhờ sự điều chỉnh của ngọn lửa trí tuệ ở giữa, ánh sáng đầy đủ mới có thể đạt được, và toàn bộ cơ thể mới tràn đầy ánh sáng, ngọn lửa từ bên trên – tức ánh sáng của Tam Thượng Thể − ngọn lửa của phàm ngã – tức kundalini – và ngọn lửa của trí tuệ, − tức manas vũ trụ − phải gặp nhau trên bàn thờ. Trong sự hiệp nhất của chúng xảy ra việc thiêu rụi tất cả những gì cản trở và sự giải thoát được hoàn thành.
c/ Bằng sự phân biện – một năng lực của thể trí cụ thể (hạ trí) – các thể thấp được huấn luyện thuật phân biệt ảo giác với trung tâm của thực tại; cái chân với cái giả; ngã với phi ngã. Vì vậy, tiếp theo đó là một giai đoạn phải được vượt qua, trong đó sự chú ý của Chân Ngã (Ego) nhất thiết được tập trung vào phàm ngã và các hiện thể của nó, và trong đó, sự rung động của Tam Thượng Thể, các định luật liên quan đến sự tiến hóa đại-thiên-địa, và việc chinh phục lửa cho việc sử dụng của Thánh Linh (Divine), phải tạm thời hoãn lại. Khi con người nhanh chóng nhìn thấy sự thật trong tất cả những gì mà y tiếp xúc, và tự động chọn sự thực hoặc điều chân, lúc đó y học kế tiếp bài học về hành động đầy niềm vui, và con đường của toàn phúc sẽ mở ra trước mắt y. Khi điều này xảy ra như vậy, con đường huyền bí học trở thành thích hợp cho y, vì hạ trí đã được dùng vào mục đích của nó, và đã trở thành khí cụ của y chớ không còn là chủ của y nữa, kẻ thể hiện của y chứ không phải là kẻ ngăn trở (hinderer) y nữa.
d/ Trí cụ thể còn cản trở theo một cách khác và bất thường hơn, và là cách mà môn sinh cũng không hiểu được khi lần đầu cố gắng để đặt chân trên con đường gai góc của sự phát triển huyền bí. Khi hạ trí bất trị và chi phối hoàn toàn phàm ngã, người tìm đạo không thể hợp tác với các sự sống (lives) khác và các đường lối tiến hóa khác nhau, cho đến khi lòng bác ái thay thế cho trí cụ thể (mặc dù y có thể, về mặt lý thuyết, hiểu được các định luật chi phối sự tiến hóa của Thiên Cơ, và sự phát triển của các thực thể thái dương khác ngoài Thánh Đoàn (Hierarchy) của chính y). Thể trí chia rẻ, còn lòng bác ái thì thu hút. Thể trí tạo ra một rào cản giữa một người và mỗi deva van cầu (suppliant). Lòng bác ái phá tan mọi rào cản, và dung hợp các nhóm khác nhau trong sự hợp nhất. Thể trí đẩy ra bằng một rung động mạnh mẽ dữ dội, vứt bỏ tất cả những gì được tiếp xúc, giống như một bánh xe thải ra tất cả những gì cản trở chu vi xoay tít của nó. Lòng bác ái tập hợp tất cả vào chính nó, và tiếp tục mọi thứ với chính nó, gắn kết các đơn vị riêng biệt thành một tổng thể đồng đều hợp nhất. Thể trí gây khó chịu qua nhiệt dồi dào riêng của nó, làm khô héo và đốt cháy cái gì đến gần nó. Lòng bác ái xoa dịu và chữa lành bằng sự giống nhau của nhiệt của nó với nhiệt trong những gì mà nó tiếp xúc, và phối hợp sự ấm áp và ngọn lửa của nó với sự ấm áp và ngọn lửa của các sự sống đang tiến hóa khác. Sau cùng, thể trí đập vỡ và phá hủy trong khi lòng bác ái tạo ra sự kết hợp và hàn gắn.
+ Có 3 nhóm trí tuệ mãnh liệt kích động bản chất dục vọng: Trí tuệ hướng nội - Tự ám ảnh, cô lập, tính tự cao tự đại hoang tưởng - Hướng ngoại trí tuệ (Nguồn)
+ Đức Phật Gautama đã nói rằng Thể Trí có thể làm cho một Người thành một vị Phật hay một con Thú: Nơi người trung bình, thể trí được đồng hóa với ham muốn của thể cảm dục (kama), tạo thành bản chất tâm thông thấp. Người này đang nhìn xuống vào ngoại giới, liên tục tìm kiếm những cách thức để làm thỏa mãn những nhu cầu của y. Thể trí này không được tự do hành động theo ý nó. Nó bị buộc chặt với bản chất cảm dục. Nó là nô lệ của thể cảm dục này!
+ Thể Hạ Trí: Bốn cõi phụ dưới của cõi trí được gọi là hạ trí, hay là trí cụ thể. Với trí tuệ, chúng ta học, viết và liên hệ các tư tưởng với nhau, cũng như khi phân tích, giải toán, thu thập và xử lý dữ liệu, thì phần lớn chúng ta đang sử dụng hạ trí hay cái trí cụ thể này.
- Mảnh thông tuệ của linh hồn được cấy vào trong thể trí của con người. Nó là công cụ mà qua đó sự Tự Thực Chứng được thành tựu.
- Và Hạ Trí thì Không Ổn Định và Chưa Được Huấn Luyện, và phần lớn còn Chưa Ý Thức hoặc Vô Minh.
- Hạ trí được xây dựng trên cơ sở không chính xác và liên tục thay đổi. Nó hiếu động, chuyển động không ngừng. Nó có thể được ví như một ngọn lửa nến bị phơi bày, dễ bị những cơn gió của hoàn cảnh tấn công, lập lòe, dao động, làm mồi cho những hoàn cảnh bên ngoài. Sự di chuyển không ngừng nghỉ của thể trí và sự huyên thuyên không ngừng trong trí là vấn đề lớn đối với Chân Thần, vì ảnh hưởng phát ra của nó bị mất đi như trong những cơn sóng bập bềnh của một hồ nước bẩn (thể trí không thanh khiết), bị thôi thúc bởi những niềm tin tiêu cực trong tiềm thức. Khi thể trí liên tục chất đầy những tư tưởng thấp kém, thì sự rung động của nó thấp và thô.
1. Hạ trí cụ thể tức nguyên khí lý luận. Các tiến trình giáo dục công khai bàn đến trạng thái này của con người.
2. Hạ trí hay trí cụ thể, là trạng thái cao nhất của phàm ngã.(GQ1.3_GT Cung 5):
Xem hình ảnh 4 cõi thấp - Hạ trí
Xem: Xem Rộng Trí Tuệ là Cung 1 – 4 – 5
Xem: TH về Cõi trí, Thể trí (Thượng, hạ trí), Cung Thể Trí
Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị
Xem: TH về Trí tuệ, Cung Thể Trí Và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
Vi tử thường tồn thượng trí: Trạng thái thấp nhất của Tam Thượng Thể Tinh thần hay của linh hồn. (ASCLH, 14)
+ Cung Thể trí: thuộc một trong các cung 1, cung 4, cung 5. Các khó khăn được giải quyết như thế nào? Hãy phân tích các phương pháp được sử dụng để xử lý dữ liệu, các lời lẽ được đưa ra như thế nào.
- Cung 5: Có phải theo phương pháp trí tuệ của não trái: đường thẳng, hợp lý, chi tiết, cung cấp bằng chứng, có lẽ sự tập trung nhạt nhẽo và đơn điệu chỉ vào các sự kiện (Thể trí cung 5)?
- Cung 4: Hoặc có phải nó là trí tuệ thuộc não phải, có tính giải trí, đầy màu sắc, đầy kịch tính, trực quan, nên thơ, hài hước, ngắn gọn dựa trên các chi tiết rõ ràng (Thể trí cung 4)?
- Cung 1: Hay bạn nhảy đến các kết luận, đi thẳng vào vấn đề, sau đó bảo vệ quan điểm của bạn với một trong hai cách : kiêu ngạo và gây hấn, hạ gục đối thủ của bạn; hoặc với năng lực và sự khẳng định đầy tự tin (Thể trí cung 1)?
Cách nhìn khác
- Cung 4: Có phải bạn khổ sở với các quyết định và bị cảm xúc đến nỗi bạn không thể suy nghĩ một cách rõ ràng (Thể trí cung 4)?
- Cung 5: Hoặc có phải bạn được đưa vào kỷ luật trong vấn đề đang giải quyết, và có một cách tiếp cận thực tế và hợp lý (Thể trí cung 5)?
- Cung 1: Hoặc bạn tóm tắt các vấn đề một cách nhanh chóng và ngay lập tức đi đến một kết luận tổng hợp (Thể trí cung 1)?
Nguồn: (Trích từ năng lượng 7 cung - Khóa học GQ/ MF)
Mời xem phóng to Cung Trí Tuệ 1 - 4 - 5 của Thể trí
Nguồn: Tâm lý học nội môn 3 – Biểu đồ cung
Xem thêm: Tổng hợp về Trí tuệ, Cung Thể Trí và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
+ Có 3 nhóm trí tuệ mãnh liệt kích động bản chất dục vọng:
2.3.1. Người hướng nội về mặt trí tuệ: Bận rộn một cách sâu sắc với các hình tư tưởng tự tạo và thế giới tư tưởng được họ tạo ra, tập trung quanh một hình tư tưởng năng động duy nhất mà họ đã xây dựng. Họ luôn luôn làm việc hướng tới một bước ngoặt, và bước ngoặt này có thể được giải thích bởi thế giới như: sự phát hiện một thiên tài; một nỗ lực sáng tạo nào đó; hoặc những biểu lộ dữ dội của sự tuyệt vọng khi người này cố gắng để thoát khỏi kết quả của sự nghiền ngẫm bên trong của y theo đường lối đã chọn. (460-1)
2.3.2. Tự ám ảnh, cô lập, tính tự cao tự đại hoang tưởng: Trong các giai đoạn đầu thì có thể chữa khỏi – chuyển sự tập trung thông qua việc gợi lên một mối quan tâm khác cao hơn, bởi sự phát triển ý thức xã hội, và nếu có thể bằng sự tiếp xúc với linh hồn. Nếu không nó sẽ làm cho người này cuối cùng trở thành không thể xúc động, vì y trở nên cố thủ trong một thành lũy của các hình tư tưởng riêng của y liên quan đến bản thân y và hoạt động của y. Loại người cung 1 và 5 dễ xảy ra. (461)
2.3.3. Người hướng ngoại về mặt trí tuệ: Những người trở nên hướng ngoại mạnh mẽ bởi sự mong muốn áp đặt các kết luận họ đã đạt được lên trên đồng loại của họ. những người cung 3 và 6 dễ bị sự rối loạn này. Họ gồm mọi loại người, từ nhà thần học có thiện ý và người theo giáo điều cố chấp hầu như được tìm thấy trong các trường phái tư tưởng; đến người cuồng tín làm cho cuộc sống thành một gánh nặng cho mọi người xung quanh y khi y tìm cách áp đặt quan điểm của y lên họ; và người điên vì trở nên bị ám ảnh với linh thị của y rằng y phải được cất giữ cẩn thận. (462)
(Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị )
Nguồn: Tổng hợp về cõi trí - thượng và hạ trí
+ Thượng trí: 1. Cảnh giới của các ý tưởng thiêng liêng, các nguyên lý, tư duy trừu tượng, nguyên mẫu, bản thiết kế 2. Khả năng tạo ra mô hình mà theo đó các hình tướng được tạo dựng ra 3. Lý trí thuần khiết, không bị cản trở bởi những những giới hạn của các cấp độ hạ trí 4. Tổng hợp và không chia rẻ như trí cụ thể. + Thượng Trí tức là nhân hồn. (LVLCK, 457)
+ Trí trừu tượng là khả năng tạo mô hình, hay là thể trí để tạo bản thiết kế mà theo đó, hình hài được tạo ra. (LVHLT, 365)
+ Thượng trí: Tương ứng với Cung 3, tức Cung Hoạt động Sáng tạo. Sự thông hiểu là chủ yếu của nó và Triết gia là một trong những đại biểu của nó. + Hạ trí thuộc phàm ngã tương ứng với Cung 5: Kiến thức, tức Cung của trí tuệ phân tích. Nhà khoa học là gương mẫu điển hình của loại hình này. + Thượng trí trừu tượng, tác nhân bảo quản ý niệm và truyền chuyển sự giác ngộ đến cho hạ trí khi mà hạ trí giao tiếp được với linh hồn. + Thượng trí hay trí trừu tượng, là hiện thân của một tam nguyên cao hơn.(GQ1.3_GT Cung 5):
+ Thượng trí trừu tượng (CKMTTL,138): Về mặt bản thể, đó là khả năng hiểu rõ những gì không cụ thể hay hiển nhiên, nhưng thật ra lại là nhận thức có sẵn về các khía cạnh thấp của Thiên Cơ khi Cơ này phải tác động đến sự sống trong ba cõi thấp. (SHLCTĐ, 98)
+ Đại Trí/ Thượng trí: Một cách gọi mức trí tuệ cao hơn hạ trí
+ Thể thượng trí: Đường nét bên ngoài của Chân Ngã, tức Chủ thể Tư Tưởng (Linh hồn) có dạng bầu dục (oval), do đó, bà H.P.Balvatsky nói đến thể thượng trí này (nó vẫn tồn tại qua tất cả các lần luân hồi) như là Hào Quang Noãn. Được làm bằng chất liệu của ba cõi phụ cao nhất của cõi trí, thể này cực kỳ tinh anh, ngay từ lúc tượng hình lần đầu, nó đã là một bức màn vô cùng tinh vi. Khi phát triển, nó trở thành một vật thể chói ngời với vẻ đẹp rực rỡ, một vật ngời sáng, cách gọi này rất đúng. Chủ thể Tư Tưởng này là gì? Đó là Linh Ngã, như đã nói, bị giới hạn hay là được phú cho cá tính, thể tinh anh này được rút ra từ chất liệu của vùng “vô sắc tướng” của cõi trí. (MTNX, 142–143)
+ Vi tử thường tồn thượng trí: Trạng thái thấp nhất của Tam Thượng Thể Tinh thần hay của linh hồn. (ASCLH, 14)
+ Phát Triển Trí Huệ - Trí Thông Tuệ: Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng câu Chú Đại Bi số 37 - Thất na thất na)
+ Trí Thức/ Trí Tuệ khác nhau: Đạo Đời / Đạo Phật có các thuật ngữ tương ứng về người thu đạt được kiến thức như Trí thức/ Trí tuệ hay Trí Tuệ Biện Thông/ Trí tuệ Chân Thật; Học giả/ Hành giả; Bác học/ Trí tuệ vô lậu/ Trí Tuệ bát Nhã. Bởi vì trí thức là trí do ý thức nhanh nhẹn khéo léo, so sánh phân biệt, đối chiếu rành rõ, khiến người nghe dễ nhận dễ hiểu. Còn học giả là lượm lặt, gom kiến thức làm của mình. Bác học nghiền ngẫm, nghiên cứu phát minh .... Như vậy nhà trí thức, học giả và bác học là nhắm thẳng vào ý thức sinh diệt ... lo cho thân này mỗi ngày mỗi sung túc, mỗi tốt đẹp, mỗi giàu có hơn; Người học Phật lấy trí tuệ làm gốc, có 2 phần:
(i) Trí tuệ hữu lậu, là Văn, Tư, Tu. Văn tức là học lời chân thật, lý thật, chân lý của cuộc đời. Tư- Nghiền ngẫm, thấy rõ, hiểu tường tận là Tư. Tu là ứng dụng => Thấy đúng như thật chân lý Phật đã dạy, để tâm không nhiễm, không dính mắc tất cả pháp sinh diệt bên ngoài, đó là Tu. Trí tuệ hữu lậu còn luân hồi sanh tử.
(ii) Trí tuệ vô lậu là gì? Là Giới, Định, Tuệ. Đây là Pháp Tu để giải thoát niết bàn (Nguồn)
+ Trí tuệ chân chính: Trích ... Nếu ánh sáng mặt trời không chiếu qua các khe cửa, thì quý vị không thể nào thấy được bụi trần, cho dù thực sự có rất nhiều bụi trần khắp mọi nơi. Nhưng khi bụi trần nhiễu động lăng xăng thì hư không vẫn tĩnh lặng, hư không chẳng hề dao động. Khả năng thấy được bụi trần trong tia sáng mặt trời chiếu soi qua khe cửa biểu tượng cho năng lực của ánh sáng trí tuệ. Khi quý vị chứng được sơ quả a-la-hán, đoạn diệt được tám mươi tám món kiến hoặc [64] thì sẽ có được trí tuệ chân chính. Lúc ấy quý vị có thể thấy được các niệm vô minh sinh khởi phiền não trong mình cũng nhiều như cát sông Hằng. Mặt trời trí tuệ chiếu soi vào khách trần phiền não – qua ví dụ của A-nhã Kiều-trần-như – cũng như ánh sáng mặt trời chiếu qua khe cửa. Hang động âm u của vô minh sẽ được chiếu sáng, lúc ấy quý vị sẽ nhận ra khách trần phiền não, và quý vị sẽ được giác ngộ.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần chánh văn_Mục 118)
+ Trí huệ chân chính (True idea): Một ý tưởng xuất phát từ các phân cảnh trực giác của tâm thức thiêng liêng là một trí huệ chân chính.(VCVTDT, 189)
+ Trí huệ từ đâu mà có: TRÍ HUỆ CHẲNG LÌA GIỚI, ĐỊNH, HUỆ, NHẤT ĐỊNH TỪ GIỚI - ĐỊNH MÀ KHAI TRÍ HUỆ, TRÍ HUỆ MỚI THẤU LỘ. Nguồn: Tịnh Không Giảng Giải Ký
+ Siêu trí tuệ: Siêu trí tuệ là sự đáp ứng của thể trí giác ngộ với Thiên Trí (CTHNM, 495)
+ Trí Huệ Từ Đâu mà có: "Chẳng vượt biển trí Văn Thù, khó nhập hạnh môn Phổ Hiền"
* Trong xã hội hiện thời, nhìn trên hình thức, giáo dục dường như rất phát triển, trường học rất nhiều. Quan sát cẩn thận, tất cả sự giáo dục hiện thời, chúng ta thường nói là giáo dục gia đình, giáo dục trong học đường, giáo dục trong xã hội, cho đến giáo dục tôn giáo, đều chẳng nhấn mạnh trí huệ, chỉ nhấn mạnh kiến thức. Chư vị phải biết: Trí huệ và kiến thức khác nhau, chẳng tương đồng! Trí huệ có thể giải quyết hết thảy vấn đề, giải quyết rất viên mãn, chẳng để lại hậu quả. Kiến thức có hạn chế, nó chẳng thể giải quyết hết thảy vấn đề, có những vấn đề có thể giải quyết được, nhưng cũng có những vấn đề chẳng thể giải quyết, lại còn để lại rất nhiều hậu quả, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này! Học rộng nghe nhiều, mà nếu chẳng có trí huệ, sẽ là tri thức (kiến thức). Trí huệ học từ đâu? Trí huệ chẳng lìa Giới, Định, Huệ, nhất định là từ Giới - Định mà khai trí huệ, trí huệ mới thấu lộ. Nói cách khác, người tâm thường ở trong Định, sẽ dễ khai trí huệ. Nếu một kẻ tâm bộp chộp, hời hợt, làm sao có trí huệ cho được? Nguồn: PS Tịnh Không
Xem hình ảnh 4 cõi thấp - Hạ trí
Xem: Xem Rộng Trí Tuệ là Cung 1 – 4 – 5
Xem: TH về Cõi trí, Thể trí (Thượng, hạ trí), Cung Thể Trí
Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị
Xem: TH về Trí tuệ, Cung Thể Trí Và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
+ Người trí: ... Có mười sự chứng tỏ đó là người trí:
Một là biết kẻ hiền người ngu; Hai là biết kẻ sang người hèn; Ba là biết kẻ giàu người nghèo; Bốn là biết việc nào khó việc nào dễ; Năm là biết việc nào đáng bỏ việc nào nên làm; Sáu là biết nhiệm vụ của mình; Bảy là vào nước nào biết được phong tục của nước đó; Tám là biết được chỗ trở về; Chín là học rộng hiểu nhiều; Mười là biết được túc mạng. Mười việc đó chứng tỏ người có trí.
Kinh dạy: "Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn, có đánh nhau mới biết kẻ yếu người mạnh, có luận nghị mới biết được người trí, lúc cơm thua gạo kém mới biết người có lòng nhân." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Người có trí - Người trí: Đức Phật bảo A-nan: Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông, những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ. HT Tuyên Hóa giảng:
Hàng trí thức thích dùng những thí dụ để được khai ngộ. Vì khi quý vị thực sự có trí tuệ thì quý vị có thể hiểu được mười điều khi chỉ cần nghe một điều - Đó là có trí tuệ chân chính. “Người trí” mà trong kinh văn nói đến không phải là người có trí tuệ chân chánh mà là những người có trí thức thông thường, không cao không thấp. Họ có thể được giác ngộ thông qua việc sử dụng những thí dụ. Nhưng nếu những người chậm lụt, thiếu trí tuệ, nếu đưa cho họ một ví dụ, họ sẽ không hiểu nổi (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần kinh văn)
+ Người có trí tuệ - Đức Phật dậy:
14- Này các đệ tử, có trí tuệ thì không có tham trước, luôn luôn tự tỉnh thức và tự dò xét, nhờ đó người ấy có khả năng giải thoát trong giáo pháp của Như Lai. Nếu không có trí tuệ thì không xứng danh là bậc xuất gia. Trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sanh tử, là ngọn đèn sáng chói trong hắc ám vô minh, là dược liệu thần y của mọi bịnh tật và là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế, các vị cần trau dồi tuệ giác “văn, tư, tu” để tăng trưởng lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu thì dẫu là mắt thịt vẫn là người chánh kiến, thấy rõ bản chất mọi vật. Nguồn
+ Ðức Phật dạy: "Tỳ-kheo các ông! Nếu có trí huệ thì không tham đắm, vướng mắc. Thường tự xét mình, chẳng để có sai sót. Như vậy thì ở trong pháp ta có thể được giải thoát. Nếu chẳng được vậy, thì chẳng phải người tu đạo, cũng chẳng phải người thế tục, chẳng có tên để gọi. "Trí huệ thật là chiếc thuyền bền chắc đưa người vượt qua biển già, bệnh, chết; lại như ngọn đèn lớn sáng soi trong chỗ vô minh đen tối; như món thuốc hay trị được hết thảy bệnh tật; như cái rìu sắc bén đốn ngã cây phiền não. Vậy nên các ông phải lấy các môn trí huệ là nghe biết, suy xét, tu tập mà tự làm tăng thêm phần ích lợi. Nếu người được sự chiếu sáng của trí huệ, thì dù chỉ có mắt thịt, nhưng chính thật là người thấy rõ tất cả. Như vậy gọi là trí huệ." - Nguồn: Xem tại đây
+ 154. Có Trí Tuệ_Đức Phật dậy
- Là Người ham học hỏi và thực hành các Pháp lành: Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có trí tuệ tốt đẹp? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào thường hay đến nơi kia hỏi việc. Nếu có Sa-môn, Phạm chí danh đức, người ấy thường đến nơi ấy mà hỏi đạo nghĩa, rằng ‘Thế nào là nghiệp thiện, thế nào là bất thiện? Thế nào là tội, thế nào là không tội? Thế nào là vi diệu, thế nào là không vi diệu? Thế nào là trắng, thế nào lào đen? Trắng và đen từ đâu sanh ra? Ý nghĩa của quả báo hiện tại là thế nào? Ý nghĩa của quả báo vị lai là thế nào? Ý nghĩa quả báo hậu thế như thế nào? Hỏi xong lại thường thực hành. Người ấy thọ nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian, có trí tuệ tốt đẹp. Nguồn (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ LỜI PHẬT DẠY VỀ SỰ NHÌN THẤU ĐỂ CÓ MỘT CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC
- KHÔNG TRANH CHẤP LÀ TỪ BI
- KHÔNG TRANH LUẬN LÀ TRÍ TUỆ
- KHÔNG NGHE THẤY LÀ SỰ THANH TỊNH
- KHÔNG QUAN SÁT LÀ SỰ TỰ TẠI
- KHÔNG THAM LAM LÀ BỐ THÍ
- BỎ ÁC LÀ CÁI THIỆN
- SỬA ĐỔI BẢN THÂN LÀ SÁM HỐI
- NHÚN NHƯỜNG CHÍNH LÀ LỄ PHẬT
- THA THỨ LÀ GIẢI THOÁT
- BIẾT ĐỦ CHÍNH LÀ BIẾT BUÔNG BỎ
- LỢI CỦA MỌI NGƯỜI CHÍNH LÀ CÁI LỢI CỦA BẢN THÂN.
* NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
+ Ðức Phật dạy:
Người trí tuệ vì bị vô minh che khuất, ái duyên ràng buộc, nên có được thức thân này. Kia vô minh dứt trừ, ái duyên hết sạch. Do vô minh dứt trừ, ái duyên hết sạch, nên sau khi chết không còn tái sanh nữa. Vì chẳng thọ sanh trở lại nên giải thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Vì sao? Vì người này trước đây đã tu phạm hạnh, chân chánh hướng đến dứt sạch khổ, tận cùng của mé khổ, nên người này sau khi chết không tái sanh trở lại. Bởi không thọ thân nên giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Đó là chỗ sai khác giữa phàm phu và người trí tuệ khi ở nơi Ta tu các phạm hạnh.(Kinh A Hàm).
+ Người Trí Tuệ - Người Quang minh: Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”. (Trích lời giảng của HT Tuyên Hóa trong câu Thần Chú Đại Bi số 37. Thất na thất na)
+ Người Trí: Ðức Phật dạy, Người trí được ví như con ngựa phi nước đại, bỏ sau con ngựa yếu hèn kém để nêu rõ hạnh tinh cần của người trí giữa các người phóng dật, và sự tỉnh thức của người trí giữa quần mê: "Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn (Kinh Pháp Cú 29)
- Kẻ trí thấy rõ cần phải nhiếp phục tự thân: "Người trị thủy dẫn nước, Kẻ làm tên nắn tên, Người thợ mộc uốn gỗ, Bậc trí nhiếp tự thân. (Kinh Pháp Cú 80)
- Và sau đây là hạnh của người trí giữa khen chê ở đời: "Như tảng đá kiên cố, Không gió nào lay động, Cũng vậy giữa khen chê, Người trí không giao động." (Kinh PC 81)
- Nói cho rõ hơn, người trí có một lựa chọn dứt khoát giữa thiện và bất thiện: "Kẻ trí bỏ pháp đen, Tu tập theo pháp trắng, Bỏ nhà sống không nhà Sống viễn ly, khó lạc." (Kinh PC 87)
+ Chất trí (Mind–stuff): X. Chitta.
+ Trí tuệ/ Trí năng tức là THỂ TRÍ. (ASCLH, 254;
+ Trí tuệ = Thông tuệ_CTNM, 588)
+ Nguyên khí trí tuệ: Cái phân biệt con người với con thú đơn thuần. Đó là nguyên khí biệt lập ngã tính; Giúp con người nhận biết sự tồn tại, cảm nhận và tri thức. Thường chia 2 phần, thượng trí hay trí trừu tượng và hạ trí hay trí cụ thể. (TVTTHL, 355)
+ Trí năng: Gồm lý trí, phán đoán, tưởng tượng, so sánh và các quan năng trí tuệ khác (MTNX, 148)
+ Trí tuệ là ngã thức sáng suốt, hướng dẫn và điều khiển hoạt động của Phàm ngã hội nhập, xuyên qua thể trí và bộ óc, và hoạt động qua bí huyệt cổ họng và bí huyệt ấn đường. (TLHNM–II, 233)
+ Trí tuệ - Manas:
1. Manas là nguyên khí thứ năm.
2. Manas là điện: Chúng ta biết không hiện tượng nào trong thiên nhiên – hoàn toàn không liên hệ với từ lực hoặc là điện lực – vì, nơi nào có chuyển động, nhiệt, ma sát, ánh sáng, nơi đó có từ lực và Alter Ego của nó (theo thiển ý chúng tôi) – điện sẽ luôn luôn xuất hiện như là nguyên nhân hoặc là hậu quả - hay đúng hơn là cả hai, trừ phi, nếu chúng ta thăm dò sự biểu lộ đến nguồn cội của nó...... (LVLCK, 309)
+ Manas: Là trí tuệ biểu lộ trong tiểu thiên địa.(ASCLH, 15)
+ Linh hồn có thể được xem như là nguyên khí trí tuệ. (TLHNM I, 38)
+ Siêu trí tuệ: Siêu trí tuệ là sự đáp ứng của thể trí giác ngộ với Thiên Trí (CTHNM, 495)
+ Trí tuệ chân thật siêu vượt thể trí biện thông rất nhiều .. (PS Tịnh Không giảng: Xem chi tiết)
+ Trí tuệ: Trí tuệ tiến hóa qua nhiều kiếp sống phát triển trí tuệ và tư duy đúng, cho đến một lúc nào đó chúng ta trải nghiệm đủ cả 2 cấp độ cao và thấp của trí tuệ. Trong sự phát triển, chúng ta tiến từ nhận thức trong hạ trí cụ thể đến nhận thức trong trí trừu tượng. Trí cụ thể:
1. Thu đạt kiến thức.
2. Nhận và xử lý thông tin từ 5 giác quan.
3. Phân biệt, phân chia, phân tích, liên lệ, suy nghĩ, học hỏi và suy diễn sự việc.
4. Tạo hình tư tưởng, hình ảnh, lời nói.
5. Nằm trong cảnh giới của ảo tưởng cho đến khi nó không còn bị tác động bởi dục vọng, kiêu căng và định kiến.
6. Sáng tạo bởi vì năng lượng theo tư tưởng.
Hạ trí chịu trách nhiệm về khả năng nhận thức của chúng ta. Gồm việc suy nghĩ, suy luận, phân tích, so sánh, học tập, hình dung và phân biện. Tất cả các hoạt động thông thường của não bộ thuộc về trí cụ thể. Não bộ - Thành phần của thể xác và nó không suy nghĩ. Nó đơn giản là một công cụ tinh tế nhất đáp ứng với hoạt động của thể trí và chuyển nó thành hành động trong cõi hồng trần.
+ Chitta hay chất trí (mind-stuff) trở nên rung động mạnh mẽ hơn, và hiện giờ chúng ta có giai đoạn hoạt động mãnh liệt nhất của nó theo ý nghĩa cụ thể.
- Năng lượng trí tuệ trong phạm vi mà nhân loại có liên quan cũng thành ba khía cạnh. Do đó chúng ta có:
1. Trí cụ thể thấp, được gọi là chitta hay là chất trí (mind stuff) theo Yoga Điển Tắc của Patanjali.
2. Trí trừu tượng, hay là trạng thái của trí có liên quan đến thế giới ý niệm.
3. Trực giác hay lý trí thuần túy, mà đối với con người, là khía cạnh cao nhất của trí năng (mentality, trí lực).
Ba khía cạnh này thuộc phạm vi bao phủ của sự biểu lộ trong trạng thái thứ ba của Ngôi Lời (Logos), là Thiên Trí (Universal Mind), tức Thượng Đế thông tuệ hoạt động. Các đường lực (lines of force) từ ba khía cạnh thấp này dẫn trở lại (nếu người ta có thể sử dụng một diễn đạt không thích hợp như thế) lên đến cõi thứ ba, trong khi các đường lực cảm dục dẫn trở lại đến cõi thứ hai hay cõi Chân Thần (monadic plane) mặc dù trong phạm vi mà ý thức con người có liên quan, thì chúng chỉ dẫn trở lại đến cõi bồ đề hay cõi trực giác (buddhic or intuitional plane).
Do đó chính nguyên khí trí-tuệ trong nhân loại mới mang Chân-ngã-thể (egoic body), tức thể nguyên nhân (causal vehicle), tức karana shrira, hoa sen có mười hai cánh, vào biểu lộ. Dĩ nhiên, ở đây chúng ta đang nói hoàn toàn theo các thuật ngữ của khía cạnh hình tướng (LVHLT, 361)
+ Trí hữu dụng: ..... “Thiên tử, sao gọi là “trí”? Trí là nhẫn đạo (20), sở dụng của tâm, chẳng phải vô dụng, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Công năng của Trí quy về nơi “đoạn”, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Trí biết năm Ấm (21), biết mười hai Nhập (22), biết mười tám Giới (23), mười hai Nhân duyên (24), là xứ phi xứ, vì vậy, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng."(Nguồn: Phật bảo BT Văn Thù giảng giải)
+ Ngộ chữ Ý trong Thân Khẩu Ý thuộc Thập thiện - Trí phân biện hay Trí tuệ phân biện hay Trí huệ
Bèn xin mẹ đi học đạo. Bà bằng lòng. Hiền Nhân đi, ròng rã tìm được bực minh sư xin làm Sa môn, vào núi tu hành. Chẳng bao lâu, Hiền Nhân tự ngộ được ý:
1. Thương xót chúng sanh như mẹ thương con.
2. Muốn độ thoát cho thế gian khốn khó.
3. Dứt trừ được tâm niệm ngu si.
4. Gặp vui không mừng mà gặp khổ cũng không lo ngại.
5. Hiểu được ý đạo, tâm thường vui vẻ.
6. Giữ gìn không phạm một tội lỗi nào.
7. Dứt trừ được tham, dâm.
8. Dứt trừ được sự giận dữ.
Người lại còn trừ được năm món dục lạc. Mắt không còn tham đắm hình sắc trần gian. Tai không còn tham đắm âm thanh vi diệu. Mũi không nhiễm mùi hương ngây ngất. Lưỡi không ưa thích vị ngon và thân không còn ưa lụa là và cảm giác êm dịu. (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Bản năng tinh thần là khía cạnh thấp nhất của trực giác, cho thấy việc sẵn sàng được điểm đạo lần I. (ĐĐTKNM II, 267)
+ Bản năng: Đó là lãnh vực của mặt trăng trong Chiêm tinh học. (Chân Sư DK: Phản ứng theo bản năng, nghĩa là không suy nghĩ, không giám sát hoặc kiểm soát, hoàn toàn tự động_Theo Tooltip "Phản ứng theo bản năng")
+ Bản năng nằm dưới trình độ của ý thức, nhưng bảo tồn và chi phối đa số các thói quen và sự sống của cơ thể. Nhiều lối sống theo tình cảm bị chi phối như thế. Bản năng kềm chế xuyên qua bí huyệt nhật tùng (solar plexus) và các bí huyệt thấp. (TLHNM–II, 232)
+ Bản năng tức là các kinh nghiệm được tích lũy lại do di truyền trong các hình hài mới (new forms). (MTNX, 211)
+ Năm bản năng chính vượt chội theo Tâm Lý Học
1. Bản năng tự bảo toàn (instinct of self – preservation) có nguồn gốc của nó trong nỗi sợ hãi bẩm sinh về cái chết; do có sự sợ hãi này mà nhân loại đã chiến đấu theo cách của nó đến mức hiện tại của nó về tuổi thọ và sức chịu đựng. Các ngành khoa học bận tâm đến việc bảo toàn sự sống, kiến thức y học hiện đại, và những thành tựu của sự tiện nghi văn minh, tất cả đã phát triển từ nỗi sợ hãi cơ bản này. Tất cả đã hướng tới sự tiếp tục tồn tại của cá nhân, và hướng đến điều kiện duy trì sự tồn tại (being) của y. Nhân loại tiếp tục tồn tại, với tư cách một giống loài và một giới trong thiên nhiên, là một kết quả của xu hướng sợ hãi này, phản ứng có tính bản năng này của đơn vị nhân loại đưa đến sự tự tồn mãi mãi (selfperpetuation).
2. Bản năng giới tính (instinct of sex), có gốc rễ chính của nó trong sự sợ hãi về sự tách biệt và sự cô lập, và trong một sự nổi dậy chống lại tính đơn nhất chia rẽ trên cõi trần, chống lại sự cô độc (aloneness); và nó đã dẫn đến việc tiến tới trước của nhân loại và sự tiếp tục tồn tại và sự nhân giống của các hình hài mà nhờ đó nhân loại có thể đi vào sự biểu lộ.
3. Bản năng sống bầy đàn (herd instinct) có thể dễ dàng được thấy là có gốc rễ của nó trong một phản ứng tương tự; vì cảm giác an toàn và vì sự an ninh được bảo đảm và được tin chắc – dựa trên những tập hợp về số lượng – con người đã luôn luôn tìm đến loại riêng của họ và sống thành bầy nhóm với nhau để phòng vệ, và để ổn định kinh tế. Nền văn minh hiện đại của chúng ta là kết quả từ phản ứng do bản năng này của nhân loại nói chung; các trung tâm rộng lớn của nó, các thành phố khổng lồ và các khu chung cư tập trung của nó đã xuất hiện, và chúng ta có việc sống theo bầy đàn hiện đại, được đưa đến bậc thứ n (nth degree).
4. Bản năng lớn thứ tư, là bản năng tự khẳng định (selfassertion), cũng dựa trên sự sợ hãi; nó bao hàm sự sợ hãi của cá nhân rằng y sẽ không nhận thức được và như thế mất đi nhiều thứ mà nếu không thì sẽ thuộc về y. Theo thời gian qua, sự ích kỷ của nhân loại đã phát triển như thế đó; ý thức về tính hám lợi của nhân loại đã phát triển và năng lực nắm lấy cơ hội đã xuất hiện (“ý muốn quyền lực” dưới hình thức này hoặc hình thức khác), đến ngày hôm nay chúng ta có chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ, và ý thức tích cực về tầm quan trọng vốn đã tạo ra nhiều sự rắc rối về kinh tế và quốc gia thời hiện đại. Chúng ta đã vun trồng tính tự quyết, tính tự khẳng định và tính tư lợi, cho đến khi chúng ta bị gặp phải một khó khăn hầu như không thể vượt qua. Nhưng ngoài mọi điều đó, nhiều điều tốt lành đã đến và sẽ đến, vì không có cá nhân nào có giá trị cho đến khi y nhận thức giá trị đó cho chính y, và lúc bấy giờ, một cách dứt khoát, y hy sinh các giá trị đã hoạch đắc cho lợi ích của tổng thể.
5. Đến lượt bản năng tìm hiểu (instinct to enquire) được dựa trên sự sợ hãi cái không biết, nhưng ngoài sự lo sợ này, đã xuất hiện – như là kết quả của cuộc tìm hiểu lâu đời – những hệ thống giáo dục và văn hóa và toàn bộ cấu trúc về nghiên cứu khoa học của chúng ta hiện nay.
Những xu hướng, dựa trên sự sợ hãi (vì con người vốn thiêng liêng) đã tác động như một sự kích thích phi thường của toàn bộ bản chất của con người, và đã đưa y tiến tới đến trình độ hiểu biết và hữu dụng rộng rãi hiện tại của y, chúng đã tạo ra nền văn minh hiện đại của chúng ta với mọi khuyết điểm của nó, và tuy thế, với mọi thiên tính được biểu thị của nó. Từ những bản năng này được đưa tới vô cùng tận, và từ tiến trình chuyển hóa của chúng thành các tương ứng cao hơn của chúng, Sự nở hoa trọn vẹn của sự biểu lộ của linh hồn sẽ xuất hiện. Tôi muốn nêu ra những điều sau đây:
- Bản năng tự bảo toàn tìm được tuyệt đỉnh của nó trong tính chất bất tử chắc chắn, và về việc này, công việc mà các nhà duy linh (spiritualists) và các nhà sưu khảo tâm linh đảm trách theo các thời đại là phương pháp tiếp cận và sự đảm bảo chắc chắn.
- Bản năng phái tính đã thể hiện và tìm thấy tuyệt đỉnh hợp lý của nó trong mối quan hệ − được nhận thức một cách hữu thức – của linh hồn và thể xác. Đây là ý chủ đạo (keynote) của chủ nghĩa thần bí và tôn giáo, mà ngày nay, cũng như luôn luôn, là sự biểu lộ của Luật Thu Hút (Law of Attraction), không phải khi nó tự thể hiện qua hôn nhân ở cõi trần, mà khi nó tìm thấy tuyệt đỉnh của nó (đối với con người) trong cuộc hôn nhân siêu phàm được tiến hành với mục đích hữu thức giữa linh hồn dương với sắc tướng âm và có tính tiếp thu.
- Bản năng sống bầy đàn tìm thấy tuyệt đỉnh thiêng liêng của nó trong một ý thức tập thể được khơi hoạt, ngày nay điều đó được chứng tỏ trong xu hướng chung hướng tới những sự pha trộn (amalgamations), và sự dung hợp và trộn lẫn rộng rãi vốn đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Nó thể hiện trong khả năng suy tư dưới dạng chủ nghĩa quốc tế, các quan niệm phổ biến, mà cuối cùng sẽ dẫn đến việc thiết lập tình huynh đệ đại đồng.
- Bản năng tự khẳng định, đến lượt nó, đã cung cấp cho nền văn minh hiện đại của chúng ta chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ của nó, sự sùng bái thần tượng, và tạo ra sự thờ cúng tổ tiên và tôn sùng anh hùng. Tuy thế, nó đang dẫn tới sự khẳng định về Bản Ngã (Self), về Chủ Thể Cai Trị thiêng liêng ở nội tâm, và từ khoa tâm lý học mới mẻ nhất của chúng ta, sẽ xuất hiện một kiến thức về Chân Ngã (spiritual Self) tự tin và chi phối, và cuối cùng dẫn đến sự biểu lộ của giới linh hồn trên trần thế.
Và điều gì về bản năng cần tìm hiểu? Được chuyển hóa thành sự nghiên cứu thiêng liêng và được biến đổi bởi việc áp dụng ánh sáng linh hồn trong lĩnh vực điều nghiên, chúng ta sẽ có nhân loại được tiến vào Phòng Minh Triết, và như thế con người sẽ bỏ lại sau những kinh nghiệm của Phòng Kiến Thức. Các trung tâm giáo dục lớn của chúng ta sẽ trở thành các trường học cho sự phát triển nhận thức trực giác và hiểu biết tâm linh. (LVHLT, 629)
+ Phẩm tính bẩm sinh quyết định đời sống: Trong thái [186] dương hệ này, tất cả đều vận hành theo đại luật hấp dẫn, thế nên, rất có thể sự chọn lựa của chúng ta tùy theo mức độ rung động, màu sắc và âm điệu của chúng ta. Ý chí tự do vĩ đại hơn của hệ vũ trụ cũng có giới hạn, giống như ý chí tự do của hệ thái dương mà chúng ta là một thành phần, và ý chí tự do của chính con người. Chiều hướng bước tiến tương lai của chúng ta sẽ tùy theo phẩm tính bẩm sinh...... (Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)
+ Tri giác tinh thần (spiritual perception) tức bản năng trực giác có nghĩa là việc chuẩn bị sẵn sàng (preparedness) cho việc điểm đạo Biến Dung, tức điểm đạo lần 3. (ĐĐTKNM II, 267)
+ Phản ứng theo bản năng (Thầy Hiệu trường bình giảng sách Chân Sư):
Tôi (Chân Sư DK) không có ý định chỉ bàn riêng đến các ảo cảm đặc thù, mà chỉ muốn trao cho bạn một công thức mà - với một ít thay đổi và bổ sung - có thể giúp cho cá nhân và nhóm trong nhiệm vụ xóa tan ảo cảm.
1. Chân sư DK nói rằng Ngài không có ý định đề cập đặc biệt tới các ảo cảm cụ thể, vì Ngài đã liệt kê chúng ở trang 122, 123 của quyển sách Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới. Ngài chỉ cung cấp cho bạn một công thức mà với những thay đổi và bổ sung nhỏ có thể phục vụ cá nhân và nhóm trong nhiệm vụ xóa bỏ ảo cảm. Chân sư DK luôn luôn thực tế, và dù tầm vóc tư tưởng của Ngài thật vĩ đại, Ngài là một thành viên thực tế của Thánh Đoàn, cho chúng ta những phương pháp thực sự hữu ích.
Tôi muốn bắt đầu bằng cách nói rằng nhu cầu đầu tiên đối với con người là hiểu được rằng các phản ứng,
2. Thầy HT: Các bạn lưu ý từ “phản ứng”, từ đầu tiên trong nhóm từ các phản ứng, các ý tưởng, các ham muốn và kinh nghiệm, và khi bạn tìm thấy ở mình một phản ứng tự phát nào đó vượt lên trước khả năng của chính bạn để theo dõi phản ứng, bạn có thể nghi ngờ rằng có một ảo cảm nào đó đang rình rập.
+ Thầy HT: Các ý tưởng,
3. Chân Sư: Từ ý tưởng ở đây được dùng theo ý nghĩ thông thường, không phải các nguyên hình trên các cõi cao.
Thầy HT: Các ham muốn và kinh nghiệm trong đời sống của con người, về phương diện bản chất cảm xúc, bị chi phối bởi một hay nhiều ảo cảm, rằng y là nạn nhân của nhiều ảo cảm, đã nảy sinh qua nhiều kiếp sống, bám rễ sâu vào lịch sử quá khứ của y mà y phản ứng lại theo bản năng.
4. Chân Sư: Y phản ứng lại theo bản năng vì các ảo cảm đã bám rễ trong chúng ta từ rất lâu, có thể hàng triệu năm.
5. Chân Sư: Phản ứng theo bản năng, nghĩa là không suy nghĩ, không giám sát hoặc kiểm soát, hoàn toàn tự động - đó là lãnh vực của mặt trăng. Trong chiêm tinh học, Mặt trăng liên quan đến cái trong bạn được gọi là tiềm thức hoặc bản chất thứ hai. Do đó, bạn gần như có thể nhìn vào vị trí của mặt trăng, nhà của nó, dấu hiệu của nó, các góc hợp, v.v. để thấy các xu hướng đó, bởi vì ngoài các Cung, các dấu hiệu của hoàng đạo đều mang theo các ảo cảm đặc biệt của chúng, và sẽ là điều tốt để chúng ta có một ý tưởng về cách thức các năng lượng chiêm tinh không được quản lý có thể đóng góp phần vào tình trạng ảo cảm của chúng ta.
6. Chân Sư: Vì vậy, chúng ta phải nhận thực được, dù chúng ta có thể không nghĩ về điều này, rằng thực sự là chúng ta bị kiểm soát bởi một hoặc nhiều ảo cảm.
7. Chân sư DK là bậc thầy trong việc đặt tên, mô tả, xác định chính xác các ảo cảm mà đệ tử của Ngài đang chịu, ngay cả khi các ảo cảm đó không nằm trong số những ảo cảm thông thường hoặc được liệt kê .
8. Chân Sư: Ngài nói, tất cả những ảo cảm này có một lịch sử rất cổ xưa, và tiềm thức—nơi ẩn chứa lịch sử quá khứ đó—có thể trở lại sôi sục, và khi chúng ta chinh phục được ảo cảm, chúng ta đang cứu chuộc quá khứ và tiết lộ sự thật mà các khuynh hướng bản năng đã che giấu.
WEBINAR ẢO CẢM — LÝ THUYẾT VỀ KỸ THUẬT ÁNH SÁNG (P. 1). Đây là phần lược dịch webinar Ảo cảm số 19 của Thầy Hiệu trưởng. Trong webinar, Thầy Hiệu trưởng giảng giải trang 207-209 của quyển Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới.- Anh Kiệt dịch
+ Nguyên nhân của bạo loạn, cách mạng và chiến tranh: TRANH GIÀNH QUYỀN LỢI
Bản năng sinh tồn đưa đến tranh dành quyền lợi. Tranh dành quyền lợi đưa đến hận thù, giận dữ và mất mát. Hận thù, giận dữ và mất mát sẽ đưa đến bạo loạn, cách mạng và chiến tranh. Chuỗi dài lôi kéo đó không biến cải được tâm thức con người mà chỉ đưa đến khổ đau chồng chất mà thôi. Hạt mầm của bản năng sinh tồn vẩn còn nguyên bên trong tâm thức, nó nẩy mầm, bắt rễ, ăn sâu vào tâm thức và cả trên da thịt mình. Tranh dành quyền lợi, nổi loạn, chiến tranh, cách mạng chỉ là hậu quả bùng ra bên ngoài. Đức Phật diệt ngay hạt mầm đó của bản năng sinh tồn một cách thật đơn giản: một chiếc bình bát trên tay_Nguồn: Đại Lai Lạt Ma
+ Trong Kinh đức Phật dậy: Pháp của ngài có thể được tóm tắt gọn trong câu "Đối với tất cả đều không chấp trước". Ngài nói, đại khái ai hiểu thấu được và thực hành được câu này thì hiểu và thực hành được toàn bộ giáo pháp của Ngài
+ Chấp trước - Nguồn gốc của khổ đau: Một trong số những tâm lý tiêu cực cần chuyển hóa càng sớm càng tốt là tâm lý cố chấp, một “thành viên cứng đầu” tạo lực cản không nhỏ làm trì trệ, bế tắc và thậm chí, đưa đến sự nản lòng của chúng ta trên con đường tu tập và chuyển hóa. Người nào thiên nặng về tâm lý cố chấp được Đức Phật gọi là người “cố chấp”, “chấp trước”, “khó nói” và là đối tượng để Ngài giáo hóa và nhắc nhở. Người cố chấp: như tằm kéo kén......
Đức Phật từng tuyên bố rằng, người nào có thể bỏ bớt “cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả” ... (Kinh Đoạn giảm, Trung bộ kinh số 8) và dĩ nhiên, đau khổ cũng theo đó giảm dần. .... Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng “con người tự mình bị rơi vào bùn lầy thì không thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy”, một người cố chấp tư kiến, tự ràng buộc mình, không tự giải thoát thì không thể nào giúp người khác từ bỏ cố chấp tư kiến được. Nói cách khác, người cố chấp thì không thể khuyên người khác đừng có cố chấp! Đây là sự thật hiển nhiên vì một khi không tự giúp mình thì không thể giúp ai! Và thực tế hơn, không ai có thể cho đi những gì mình không có!
Một người tự buộc mình trong ổ kén của cố chấp thì không thể tiếp cận được Tam bảo, như ở trong “vùng mù” của bóng đêm thì không thể tiếp cận ánh sáng mặt trời vậy.
Người cố chấp: xa rời Tam bảo
Chúng ta không khỏi giật mình khi Đức Phật nói rằng, với “người cố chấp khó thuyết phục, vị ấy sống không cung kính, không tôn trọng bậc Đạo sư, không cung kính, không tôn trọng Pháp, không cung kính, không tôn trọng Tăng chúng, không viên mãn sự học tập” (kinh Trường trảo, Trung bộ kinh số 74). Người có tánh cố chấp không lường được tai hại thế này! ....
Ở một bài kinh khác, Đức Phật nói rằng người cố chấp tự mình ngăn chặn những cơ hội tiếp cận và học hỏi từ Đức Phật (bậc Đạo sư), giáo pháp, chư Tăng và các học pháp (giới) và đây là gốc rễ đưa đến sự tranh đấu vì họ sống trong vô minh, mê mờ của dục vọng và cố chấp. Những phẩm chất đặc trưng của người cố chấp được ghi nhận trong kinh là “Người chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ, rất khó rời bỏ. Vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp” (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số 36: Gốc rễ của đấu tranh).
Họ tự bao bọc mình bằng lớp tà kiến vô cùng kiên cố. Đây là một loại “chất liệu không thấm” giáo pháp nên chúng ta không ngạc nhiên khi họ tự hạn chế mình trong khe hẹp nhận thức một chiều để rồi con đường họ đi là “càng xa bến giác, càng gần sông mê!”
Người cố chấp: một chiều trong nhận thức
Ở Tiểu kinh sư tử hống (Trung bộ kinh số 11), Đức Phật nói rằng, người cố chấp vào “pháp có” sẽ bị chướng ngại với các “pháp không”, và người cố chấp vào “pháp không” sẽ bị chướng ngại với các “pháp có”. Nói cách khác, người cố chấp không thể nào hiểu và chấp nhận những gì khác với suy nghĩ, nhận thức và niềm tin của mình! ....
.... Nếu người nào ý thức được điều này (Chấp có/ Không) và sống “bỏ tánh ý của mình và sống theo tánh ý của người khác” sẽ có đời sống cộng đồng hòa hợp như nước với sữa (Tăng chi bộ kinh, tập III, kinh số 122: Tranh chấp; tập V, kinh số 54: Thời gian để tinh cần; kinh số 78: Sự sợ hãi trong tương lai). Ngược lại, với tánh cố chấp, mỗi người là một ốc đảo lạnh lẽo, dù ở gần nhau vẫn không thể nào sưởi ấm cho nhau, ngược lại còn tạo chướng ngại cho nhau, khiến cuộc sống trở nên vô cùng mệt mỏi, căng thẳng và nặng nề.
... Người cố chấp không cho mình cơ hội để phá vỡ tường thành chấp pháp và chấp ngã, đồng thời không cho ai cơ hội “làm mới”! Họ là người tự vẽ vòng “kim cô” để giam hãm sự tự do của chính mình: tự do nhận thức, tự do chấp nhận và tiếp nhận những quan điểm khác với mình. Họ chỉ khư khư bảo thủ trong nhận thức một chiều, tự làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai mà không tự biết. Thậm chí với cái nhìn tà kiến thái quá, bất cập, người cố chấp có thể làm khổ ngay cả những người mà họ quý trọng thương yêu mà họ coi là “thần tượng”.
Người cố chấp: mắc bệnh “thần tượng”!
Người cố chấp muốn áp đặt suy nghĩ, khuôn khổ mà tự người ấy lên ni tấc cho những người mà họ thương yêu, quý mến. Nếu những người thân yêu làm những việc trái ngược với suy nghĩ và ý thích của mình, họ không chịu được! Họ không thể chấp nhận được một sự thật rằng mỗi người là một tiểu thế giới và là duy nhất đặc thù, không ai giống ai, nên mong ai đó sống theo “khuôn” mình đúc sẵn là một việc làm không thể! .... Khi “thần tượng” một ai đó, cái tâm lý “thương ai thương cả đường đi” nó cứ đeo bám và chúng ta cứ dõi theo từng bước chân của họ!
Người cố chấp: tham, sân sâu nặng
Một người cố chấp có thể nhận ra mình cố chấp, có thể đồng ý khi “bị quy vào” nhóm người bảo thủ, nhưng tuyệt nhiên họ khó chấp nhận mình là người nặng về tâm tham! Chính bản thân người cố chấp không bao giờ nghĩ rằng cố chấp là tham! Họ biết xả tài vật để cúng dường, bố thí không toan tính mà! Ấy vậy mà trong kinh Ví dụ con rắn (Trung bộ kinh số 22) thì Đức Phật nói người cố chấp là người còn nặng về tâm tham. ... Đức Phật từng tuyên bố “Do duyên chấp trước nên có xan tham” (Tăng chi bộ kinh, chương IX, phẩm III, kinh số 23: Ái).
Đức Phật từng nói rằng “Phàm phu thường chấp trước, chấp thủ và tham đắm” ( Tương ưng bộ kinh, tập I, chương VIII, phần II: Không khoái), còn những ai từ bỏ chấp thủ, sẽ xứng danh với tên gọi Tỳ-kheo hoặc Bà-la-môn (Pháp cú câu 367, 396, 414). Do đó, khi nào còn giữ tâm chấp trước, chấp thủ thì muôn kiếp mãi mãi là phàm phu mà thôi! Vậy mới thấy tâm lý cố chấp nguy hiểm và chướng ngại của đến dường nào!
Ở bài kinh Trường trảo (Trung bộ kinh số 74), Đức Phật dạy rất chí lý rằng, người cố chấp hễ thích cái gì thì cho cái đó là sự thật, ngoài ra là hư vọng, hễ thích ai thì cho chỉ có người đó là đúng, những người khác đều sai! ..... Mà một khi “có đối nghịch thời có tranh luận; khi nào có tranh luận thời có chống đối; khi nào có chống đối thời có bực mình” (Trung bộ kinh, số 74: kinh Trường trảo). Như vậy, người cố chấp tự tạo nên sự đối nghịch, tranh luận, chống đối và bực mình; do đó Đức Phật dạy, người đệ tử Phật nên từ bỏ cố chấp để tiến bộ trên con đường tu tập.
Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy rằng “chấp vào sân hận là sự cố chấp bền chặt nhất” (câu 151). Lại ở một bài kinh khác, Đức Phật dạy rằng nhiều người phẫn nộ, lại cố chấp sự phẫn nộ của mình, trở thành người khó nói. Khi những người thiện tri thức nhắc nhở, khuyên người ấy không nên trở thành “người khó nói” thì người ấy “tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình” (Trung bộ kinh số 15: kinh Tư lượng).
Thật bất hạnh và khổ đau cho những ai ôm trong lòng nhiều tham lam và phẫn nộ!
Người cố chấp: bất hạnh và khổ đau
Như một hệ quả tất yếu, người cố chấp cứ khư khư tham giữ lấy quan điểm của mình, xây thành trì phong kín ý niệm về “tôi” và “của tôi” một cách kiên cố, bất mãn và phẫn nộ với những quan điểm trái chiều. Đức Phật gọi những người như vậy là khó có thể mở lòng để tiếp thu, học hỏi thêm điều gì từ người khác. Như một ly nước đầy thì không thể chứa thêm được nước nữa, dù chỉ một giọt! Người như vậy không bao giờ kham nhẫn để có đủ thời gian và sự nhu nhuyến cần thiết để phân định đúng-sai, hay-dở, chỉ lo bảo thủ những gì thuộc về mình, và đẩy ra những gì mình không ưa thích. Đây là lý do Đức Phật nói người cố chấp góp phần làm cho Chánh pháp băng hoại. Ngài dạy, “Này các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo nào là những người khó nói, đầy đủ những tánh khiến họ trở thành khó nói, khó kham nhẫn, không cung kính đón nhận khi được giảng dạy. Đây là pháp khiến diệu pháp hỗn loạn và biết mất” ( Tăng chi bộ kinh, chương V, phẩm XVI, kinh số 156: Diệu pháp hỗn loạn). Người như vậy chỉ biết sống theo bản năng để xuôi theo dòng chảy về sông mê biển khổ, không tiếp cận được với giáo pháp để ngược dòng về bến giác an vui.
... Ngài xác quyết, người không chấp thủ được nhiều người ưa thích, gần gũi và thăm viếng khi có dịp (Tăng chi bộ kinh, chương VII, phẩm VI, kinh số 54: Siha). Điều này có thể được hiểu thêm rằng, người chấp thủ bị nhiều người không ưa thích, không gần gũi và thân cận, và đây là một bất hạnh lớn. Ở kinh Sáu thanh tịnh (Trung bộ kinh số 112), Đức Phật một lần nữa khẳng định người cố chấp bị ràng buộc, người không cố chấp mới có thể giải thoát. Đức Phật thẳng thắn chỉ ra rằng người còn cố chấp thì không thể nào chứng quả A-la-hán (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VIII, kinh số 76: A-la-hán quả). Ngài còn quả quyết rằng, “Ai chấp trước, này Tỳ-kheo, người ấy bị ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi ác ma” (Tương ưng bộ kinh, tập III, chương I, phẩm II, kinh số 1: Chấp trước). “Người chấp trước, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào địa ngục” (Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương VIII, phần VIII: Vỏ ốc)......
Chỉ có trí tuệ phát khởi từ công phu tu tập các pháp, điển hình là Thất bồ-đề phần mới có thể giúp hành giả phá vỡ thành trì cố chấp, giải thoát sự ràng buộc vào các nhận thức, quan điểm sai lầm vậy.
Thay lời kết: Dùng trí tuệ phá “tảng băng” cố chấp
Cố chấp thuộc về kiến thủ, tà kiến và biên kiến, là những món căn bản phiền não, gốc rễ sâu dày, đừng mong bứng một lần là lên ngay! ....
Sau khi quán chiếu cẩn thận, cần phải luôn nhắc mình trong chánh niệm, với những giới hạn nhất định của con người nói chung và giới hạn cụ thể của bản thân mình, nhận thức của một cá nhân như người mù sờ voi mà thôi! ......
Chúng ta xứng đáng để được sống trong nguồn hạnh phúc mà mình có khả năng tự chế tác để xứng đáng là người học và hành trì giáo pháp chân chánh! Sao lại không bắt đầu bằng việc dùng trí tuệ, kiên trì phá tảng băng cố chấp của chính mình?! (Nguồn: Chấp trước - Nguồn gốc khổ đau)
+ Hình thành bản năng: Theo như chúng ta được dạy, mục đích của tiến hóa là đạt được tâm thức trên tất cả các cõi; do việc đạt được tiến hóa ít oi của nhân loại mà cho đến nay chỉ có cõi hồng trần, mới ở dưới sự kiểm soát hữu thức.
Tri thức (knowledge) liên quan đến cõi giới, trong khi thông tin (information) có liên quan đến biểu hiện ngoại cảnh trọng trược nhất, toàn thể các sự kiện có liên hệ đến năm cõi phụ thấp của cõi trần (theo quan điểm huyền linh) đều được xem là công truyền. Trong hai giống dân kế tiếp, hai cõi phụ khác sẽ được chế ngự và toàn thể khối tri thức liên quan đến chất hồng trần và chất dĩ thái, đến năng lượng, hình hài và kinh nghiệm trên cõi trần, sẽ dễ dàng trở nên hữu ích đối với con người, và chỉ liên quan đến năm giác quan vật chất của con người.
Thông tin và tri thức về sự sống đang tiến hóa qua các hình hài, trong một thời gian khá lâu, sẽ được xem như là thuộc về nội môn (esoteric), cũng giống như sự lĩnh hội (apprehension) và sự thông hiểu (comprehen -sion) về trạng thái vật chất và các định luật đang chi phối năng lượng trên cõi cảm dục và trên cõi trí cũng thuộc loại đó. Phát biểu này có liên hệ đến thường nhân, tức là những người thông thường trong nhân loại. Thông tin bên ngoài hay công truyền, mà phần lớn con người thu lượm hay xác minh trong Phòng Học Tập, bằng ngũ quan và bằng kinh nghiệm. Thực nghiệm đúng lúc và sau nhiều chu kỳ luân hồi được chuyển hóa thành kinh nghiệm và điều này sau rốt tạo nên cái mà chúng ta gọi là bản năng, hay là phản ứng quen thuộc của một loại tâm thức nào đó, đối với một tập hợp các trường hợp hay hoàn cảnh. Hai yếu tố về giác quan và về sự tiếp xúc do thực nghiệm này, có thể được thấy đang xảy ra trong giới động vật và giới nhân loại; sự dị biệt giữa hai giới ở chỗ là con người có khả năng ghi nhớ một cách hữu thức, lĩnh hội, tiên đoán, sử dụng các kết quả của những kinh nghiệm đã qua, và như thế ảnh hưởng đến hiện tại cùng là chuẩn bị cho tương lai. Con người dùng bộ óc vật chất cho mục đích này. Con vật cũng có trí nhớ do bản năng (instinctual memory), có sự hiểu biết và khả năng tiên đoán còn phôi thai, nhưng, (vì thiếu thể trí) nó không thể điều chỉnh các kinh nghiệm đúng các trường hợp theo ý nghĩa sắp xếp trước, và thiếu khả năng để vận dụng một cách hữu thức, và như vậy gặt hái được lợi ích của các biến cố đã qua, và do kinh nghiệm học được cách thức mà con người hành động. Con vật dùng bí huyệt đan điền theo cùng một cách thức mà con người dùng bộ óc, đó là cơ quan của bản năng.
Tất cả những gì có được do bản năng và do việc sử dụng trí cụ thể, đang tác động qua bộ óc vật chất và có thể được xem như có liên hệ đến điều mà chúng ta gọi là công truyền. Như thế, hiển nhiên là tầm mức của sự kiện sẽ khác nhau tùy theo:
a. Tuổi của linh hồn.
b. Kinh nghiệm đã được phát triển và đã được vận dụng.
c. Tình trạng của não bộ và của thể xác.
d. Hoàn cảnh và môi trường.
Theo thời gian qua và con người đạt đến trạng thái tiến hóa khả quan, trí phát triển nhanh hơn và một yếu tố mới dần dần nảy sinh. Từ từ, trực giác hay trí siêu việt (trancendental mind) bắt đầu tác động và sau rốt thay thế hạ trí hay trí cụ thể. Lúc bấy giờ trực giác sử dụng bộ óc vật chất như là một âm bản tiếp nhận, nhưng cùng lúc phát triển được một số trung tâm lực trên đầu, và như thế chuyển di hoạt động của nó từ bộ óc vật chất, đến các trung tâm cao hơn ở đầu, tồn tại trong chất dĩ thái. Đối với đa số nhân loại, điều này sẽ xảy ra trong khi khai mở các cõi phụ dĩ thái trong hai giống dân sắp tới. Việc này diễn ra song hành trong giới động vật do sự di chuyển dần dần vùng hoạt động từ bí huyệt đan điền lên bộ óc còn thô sơ, và sự phát triển từ từ của nó do sự trợ lực của manas. (LVLCK, 286)
+ Tu học phải tìm minh sư:
1. Tôn giả A-Nan khải thỉnh Đức Phật về việc tín phụng Phật có quả báo bất đồng.
A-Nan bạch Phật rằng: “Có người tín phụng thờ Phật được giàu sang phú quý tốt lành như ý. Có người tín phụng thờ Phật lại phải quả báo không như ý, bị tiêu hao suy thoái. Tại sao có việc khác biệt lạ lùng như vậy? Cúi xin đức Thiên-Trung-Thiên (Phật) từ bi khắp vì chúng sanh mà giải nói cho. Phật đáp:
Phật bảo A-Nan: “Có người phụng sự Phật, theo bậc minh sư thọ giới, tin tưởng, tinh chuyên hành trì không phạm, tinh tiến phụng hành giáo pháp, không thối thất điều đã lãnh thọ.
Hình tượng Phật phải trang nghiêm tốt đẹp, sáng chiều thành tâm lễ bái, cung kính thắp đèn nến, thanh tịnh bố thí được phước báo an lạc, hành vi không trái với lời Phật dạy, trì trai giữ giới không gián đoạn, không mỏi mệt, như thế lòng mới được an vui.
Thường được chư Thiên, thiện thần ủng hộ, tâm cầu như ý, hành sự như nguyện, trăm việc tăng tiến gấp đôi, được trời rồng quỷ thần mọi người kính trọng, về sau đắc đạo.
Kẻ thiện nam, người thiện nữ (y như giáo pháp đức Phật mà chánh tâm tu hành) là chân thật đệ tử Phật.
Có người tin phụng Phật mà không chịu tìm minh sư, không nghiên cứu kinh Phật, chỉ thọ giới thôi.
Chỉ có được cái danh thọ giới, mà hồ đồ mê muội không tin năng lực của giới, trái phạm giới luật, khi tin khi không, tâm ý do dự. Không có tâm hoan hỷ cung kính kinh điển tượng Phật, nên chẳng thành kính thắp hương đèn lễ bái, lại riêng ôm lòng nghi ngờ, giận hờn mắng nhiếc, ác khẩu đố kỵ người hiền.
Lại chẳng thực hành lục trai, ham thích sát sanh. Không tôn kính Phật, để kinh Phật chung lộn với áo quần vật bẩn thỉu; hoặc để kinh Phật chỗ bất tịnh giường ghế của vợ con; hoặc treo vắt trên ghế trên phên vách, không có tâm cung kính làm kệ tủ để kinh sách, xem thờ kinh Phật như kinh sách thế gian không khác.
Nếu khi bệnh tật, tự mình không tin tiền nhân nghiệp quả lại cầu hỏi thầy bói thầy phù thủy làm sớ văn cúng tấu để mong giải trừ. Thờ tà thần thì thiện thần xa lánh không còn hộ trì, do đây mà yêu tinh quỷ mị ngày một đến thêm nhiều, ác quỷ tụ tập nơi cửa khiến cho suy kiệt tổn hao, sở cầu không được tốt, hoặc mới vừa từ trong ác đạo ra được làm người, tuy là đời nay làm người, nhưng vẫn là người còn mang nặng tập khí tội lỗi. Hạng người như thế không phải đích thực là Phật tử. (Nguồn: Kinh A Nan vấn Phật sự cát hung)
+ Tập khí nghiệp báo: Không biết nghiệp đã tạo trong quá khứ, nhưng biết nghiệp đã tạo ở đời này, nghiệp đã tạo ở đời này đều là tập khí nghiệp chướng trong đời quá khứ. Cho nên, xem những nghiệp chướng tập khí nào của chúng ta rất nặng ở ngay trong đời này, thì biết đây là sự tiếp nối đời đời kiếp kiếp trong đời quá khứ. Bạn nói ý niệm tham tài rất nặng, đây không phải là đời này học được, chắc chắn là sự tiếp nối trong đời quá khứ. Sân hận rất nặng, đặc biệt nặng, tâm dâm dục rất nặng, đây đều là tập khí trong đời quá khứ. Bạn có thể từ chỗ này mà phản tỉnh kiểm điểm thì bạn sẽ biết được thôi. Bạn ở trong đời này đặc biệt yêu thích thứ gì, đó chính là tập khí trong đời quá khứ. Tập khí thiện thì tốt, là thiện căn, tập khí ác thì sẽ tạo thành nghiệp chướng. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Nghiệp báo - Quả báo:
3- Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt: * Tóm lược Kinh: Phật bảo Thủ Ca: Tất cả chúng sinh có liên quan với nghiệp, nương tựa nơi nghiệp, theo nghiệp tự chuyển. Do nhân duyên ấy có phân ra: thượng, trung, hạ, sai khác chẳng đồng:
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh bị quả báo mạng sống ngắn ngủi;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh được quả báo mạng sống trường thọ;
Bị quả báo nhiều bệnh tật - ít bệnh tất;
Bị quả báo thân xấu xí - thân đẹp đẽ;
Bị quả báo uy thế yếu - uy thế mạnh;
Bị quả báo dòng họ hạ tiện - Dòng họ cao thượng;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh của cải ít - Của cải nhiều;
Bị quả báo trí tà kiến (thấy biết sai lệnh không đúng nhân quả) - Trí chân chính;
Bị quả báo địa ngục - Súc sinh - ngạ quỷ - A-tu-la;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh được quả báo loài người - Trời Sắc giới - Trời vô sắc giới;
Bị quả báo không cố định;
Bị quả báo sinh chỗ biên địa (vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới…) - Sinh nơi thành phố, thủ đô;
Bị quả báo phải chịu đủ tuổi thọ ở địa ngục;
Bị quả báo phân nửa tuổi thọ ở địa ngục;
Bị quả báo tạm vào liền ra;
Khiến chúng sinh làm mà chẳng tập - Tập mà chẳng làm - Cũng tập cũng làm - Chẳng làm chẳng tập;
Khiến chúng sinh trước vui sau khổ - Trước khổ sau khổ - Trước vui sau vui - Trước khổ sau vui;
Khiến chúng sinh nghèo mà thích bố thí - Giàu mà xan tham (tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ…);
Khiến chúng sinh được thân vui mà tâm chẳng vui - Tâm vui mà thân chẳng vui - Thâm tâm đều vui - Thân tâm đều chẳng vui;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh tuổi thọ tuy hết mà nghiệp chẳng hết - Nghiệp tuy hết mà tuổi thọ chẳng hết;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ đều hết;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ cả hai đều chẳng hết mà đoạn trừ tất cả phiền não;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh đoạ vào đường ác mà thân hình đẹp lạ, mày mắt đoan trang, màu da tươi sáng được mọi người thích nhìn;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nơi đường ác mà thân hình xấu xí, da dẻ thô nhám, người chẳng thích nhìn;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh sinh vào đường ác mà thân miệng hôi thối, các căn khiếm khuyết (mắt, tai mũi, lưỡi… không được trọn vẹn);
Hoặc có chúng sinh tập hạnh thế gian mười bất thiện nghiệp bị ác báo bên ngoài;
Hoặc có chúng sinh tập hạnh thế gian mười điều thiện nghiệp được quả báo thù thắng bên ngoài.
Ví như có chúng sinh lễ Phật, tháp miến được mười thứ công đức:
Cúng thí lọng báu được mười thứ công đức,
Cúng thí chuông linh được mười thứ công đức,
Cúng thí y phục được mười thứ công đức,
Cúng thí bát đũa được mười thứ công đức,
Cúng thí thức ăn nước uống được mười thứ công đức,
Cúng thí giầy dép được mười thứ công đức,
Cúng thí hương hoa được mười thứ công đức,
Cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức,
Cúng thí cung kính chắp tay được mười thứ công đức. Đó là lược nói tên pháp môn các nghiệp sai khác.
Chi tiết giảng giải các loại Nghiệp báo, xin xem tai... (Nguồn: Xem Tại đây)
+ Báo Thân - Quả báo hiện tiền: Cái thân đời này gọi là Báo Thân. Đời này làm nam hay nữ hoặc đẹp hoặc xấu, cũng như thọ – yểu, giàu – nghèo, trí – ngu, khỏe mạnh hay bệnh tật v.v… chính là quả báo chiêu cảm bởi những hành vi trong đời trước. Vì thế gọi cái thân này là Báo Thân, hàm ý cái thân ấy là quả báo của những hành vi trong đời trước; do cái nhân trong đời trước dẫn đến cái quả trong đời này.
Đời này tuy lành, nhưng do đời trước nghiệp nặng, sẽ chẳng thể hưởng được quả báo tốt lành ngay, mà trước hết phải gánh chịu ác báo từ đời trước. Như người năm ngoái không trồng lúa, năm nay tuy siêng năng cày cấy, nhưng trước khi thâu hoạch, cũng chẳng tránh khỏi không có lương thực. Không có lương thực chẳng phải vì năm nay siêng năng vất vả cho nên không có, mà năm nay không có lương thực là vì năm ngoái chẳng gieo trồng mà ra! Năm nay đã siêng năng cày cấy, gieo trồng thì sau khi thâu hoạch và năm sau sẽ có thóc lúa. Kẻ làm ác chưa bị mắc họa là vì phước thừa còn chưa hết. Như người năm ngoái siêng năng cày cấy gieo trồng, năm nay không cày cấy, gieo trồng, vẫn chẳng đến nỗi chết đói là vì năm ngoái hãy còn thừa lại. Ăn hết rồi, do năm nay không gieo trồng, sẽ không có cái để ăn nữa đâu! Cần biết rằng: Người lành gặp ác báo, nếu chẳng làm lành, ác báo ấy càng nặng nề hơn! Do làm lành nên ác báo sẽ theo đó giảm nhẹ đi. Người ác hưởng thiện báo, nếu chẳng làm ác, thiện quả ấy càng lớn hơn. Do làm ác, thiện báo cũng theo đó mà giảm nhẹ đi.(Nguồn: Tin sâu nhân quả_Ấn Quang Pháp Sư)
+ Nghiệp báo với kiếp sống luân hồi: Hành động nghiệp đưa đến có 2 loại:
- Chánh báo: Đưa đến hình hài của mình có 5 giác quan
- Y báo: Môi trường xung quanh mà hình hài mình ở trong đó.
Tùy nhân duyên mà có quả báo khác nhau. Ví dụ từ Nước (H2O) mà ta có các trạng thái/ Dụng của nước: Mưa/ Tuyết/ Nước đá/ Mây/ Sông/ Trà ... Tùy duyên mà có quả (Nguồn: Thầy Thích Nhất Hạnh)
+ Quả báo nghiệp: Ba Loại Báo: Theo Phật giáo, có ba quả báo liên hệ tới bốn nhân khiến cho đứa trẻ sanh vào một gia đình nào đó. Trong nghĩa này, quả đối nghĩa lại với nhân: Thứ nhất là Hiện báo: Quả báo thứ nhất là báo ứng ngay trong kiếp hiện tại, hay quả báo của những hành động, lành hay dữ, ngay trong đời nầy. Thứ nhì là Sinh báo: Quả báo thứ nhì là hành động bây giờ mà đến đời sau mới chịu quả báo. Quả báo thứ ba là hậu báo: Hậu báo là quả báo về lâu xa sau nầy mới gặt. Cũng có Bốn Loại Báo Ứng: Thứ nhất là Thuận Hiện Nghiệp Định Báo Ứng: Hành động gây ra báo ứng tức khắc. Thứ nhì là Thuận Hiện Nghiệp Bất Định Báo Ứng: Hành động gây báo ứng trong đời hiện tại (không nhứt định thời gian). Thứ ba là Thuận Sinh Nghiệp Báo Ứng: Hành động gây báo ứng trong đời sống kế tiếp. Thứ tư là Thuận Hậu Nghiệp Báo Ứng: Hành động gây báo ứng trong các đời sau, không nhứt định thời gian.
Theo Phật giáo, có Năm Loại Báo hay Ngũ Quả: Thứ nhất là Dị Thục Quả: Khi chạm phải một hành động xấu, người phạm phải chịu khổ đau; khi làm được một hành động tốt, người ấy hưởng sung sướng. Sung sướng và khổ đau trong tự chúng là không thuộc tính cách đạo đức, xét về nghiệp của chúng thì chúng trung tính. Do đó mà quả nầy có tên “Dị Thục” hay “chín muồi theo những cách khác nhau.” Quả khổ đau hay an lạc của đời nầy là do nghiệp ác thiện của đời trước. Thứ nhì là Đẳng Lưu Quả: Khi làm một hành động xấu hay tốt, khiến cho người làm hành động ấy dễ có xu hướng tiến đến những hành động xấu hay tốt. Vì nhân quả thuộc cùng một bản chất, nên quả nầy được gọi là “chảy trong cùng một dòng” hay “đẳng lưu.” Do thiện tâm đời trước mà chuyển thành thiện tâm sau khi tái sanh; do ác tâm đời trước mà ác tâm đời nầy tăng trưởng. Từ thiện nhân sinh ra thiện quả, từ ác nhân sinh ra ác quả, từ vô ký nhân sinh ra vô ký quả (từ cái thiện tâm của ý nghĩ trước, mà chuyển thành thiện tâm sau; hoặc từ cái bất thiện tâm của ý nghĩ trước, mà sinh ra cái bất thiện tâm sau, hay bất thiện nghiệp của ý nghĩ sau), tính quả giống tính nhân mà trôi chảy ra nên gọi là Đẳng Lưu Quả. Đẳng Lưu Quả là loại nào sanh ra loại đó. Thứ ba là Độ Dụng Quả: Nghĩa đen có nghĩa là sự vận dụng của người. Nó là kết quả của nhân tố trong công việc. Rau quả hay ngũ cốc sinh sôi từ đất lên do bởi ý chí, trí tuệ, và sự cần mẫn của người nông dân; vì mùa gặt là kết quả do bởi nhân tố con người mang lại, nên “Độ Dụng Quả” được đặt tên cho kết quả nầy. Vị thế hiện tại và quả hành về sau, sự thưởng phạt đời nầy do công đức đời trước mà ra. Thứ tư là Tăng Thượng Quả: Hễ có sự vật nào hiện hữu được là do bởi sự hợp tác tích cực hay tiêu cực của tất cả các sự vật khác, vì nếu sự hợp tác nầy thay đổi theo một cách nào đó thì sự vật kia sẽ không còn hiện hữu nữa. Khi sự đồng hiện hữu của các sự vật như thế được xem là kết quả của tính hỗ tương phổ quát, thì nó được gọi là “tăng thượng duyên.” Quả siêu việt đời nầy là do khả năng siêu việt đời trước hay cái quả do tăng thượng duyên mà sinh ra, như nhãn thức đối với nhãn căn là tăng thượng quả. Thứ năm là Ly Hệ Quả: Quả không bị ràng buộc bởi bất cứ hệ lụy nào, quả Niết bàn. Niết Bàn là kết quả của sự tu tập tâm linh, và vì nó khiến cho người ta thoát khỏi sự trói buộc của sinh và tử nên nó được gọi là “giải thoát khỏi sự trói buộc” hay “ly hệ quả.” Quả dựa vào đạo lực giải thoát của Niết Bàn mà chứng được, quả nầy tạo nên bởi lục nhân.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan về Sáu Loại Báo như sau: “Ông A Nan! Chúng sanh vì lục thức tạo nghiệp, bị chiêu lấy ác báo theo sáu căn ra.” Lục báo bao gồm: kiến báo (chiêu dẫn ác nghiệp), văn báo (chiêu dẫn ác quả), khứu báo (chiêu dẫn ác quả, khứu nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy độc khí đầy dẫy xa gần. Thần thức nương theo khí vào vô gián địa ngục), vị báo (chiêu dẫn ác quả. Vị nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy lưới sắt phát ra lửa dữ, cháy rực khắp thế giới. Thần thức mắc lưới vào ngục vô gián), xúc báo (chiêu dẫn ác quả; xúc nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy núi lớn bốn phía họp lại, không có đường đi ra, thần thức thấy thành lớn bằng sắt, các rắn lửa, chó lửa, cọp, gấu, sư tử, những lính đầu trâu, quỷ la sát đầu ngựa cầm thương đao, lùa người vào thành đến ngục vô gián), tư báo (chiêu dẫn ác quả; tư nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy gió dữ thổi hư nát quốc độ. Thần thức bị thổi bay lên hư không, theo gió rơi vào ngục vô gián). (Nguồn: Công đức và phước đức)
+ HỎI: Khí là gì?
ĐÁP: Khí là một luồng linh khí cũng tức là ‘tánh’. Đây cũng giống như khi nấu nước sôi thì có một luồng khí vậy. Con người chúng ta cũng có một luồng hơi nóng bên trong. Cho nên nếu đem máu của con người ra đo, nó đều có độ nóng là 36 độ C và đa số mỗi người đều là như vậy. Còn máu lạnh thì sao? Thì biến thành động vật máu lạnh, tức là không có tình cảm gì.
Cho nên quỷ thì không có tình cảm chi hết. Đối với ai, nó cũng không có bày tỏ sự thân tình gì hết. Lúc ở nhân gian, quý vị là anh em thân thuộc của nó, nhưng khi nó chết, nó chuyên môn muốn chấn chỉnh quý vị, muốn hại quý vị. Tại sao? Đó chính là vì giữa người và quỷ có sự tương phản trái ngược nhau. Thành thử con người thì muốn tương thân giúp đỡ lẫn nhau, còn quỷ thì tật đố ganh ghét lẫn nhau.
HỎI: Mèo và chuột là gì?
ĐÁP: Mèo và chuột thuộc về yêu quái. Buổi tối chúng mới ra nhìn ngó lung tung, đặc biệt là chúng thích ở những chỗ người ta ngồi thiền. Nếu nhà ai có chuyện hung dữ chẳng lành thì có rất nhiều chuột xuất hiện. Quý vị càng sợ, nó càng mặc sức trổ tài. Do đó mọi người phải tu định, chỉ cần mình có định, bất luận là hung thần ác sát gì cũng đều co đầu rút cổ. Mèo, có lúc thấy là mèo, nhưng thật tế nó là quỷ. Chuột là yêu quái, chúng chạy lung tung khắp nơi, nhưng đừng để chúng nó hù dọa mình. Nếu ta không để ý đến chúng thì chúng cũng hết cách, cũng không thể trổ tài gì. Còn mình mà càng sợ chúng thì chúng càng gây thêm phiền phức.
HỎI: Tại sao có bào thai độc?
ĐÁP: Điều này có liên quan đến thai giáo (giáo dục khi mang thai). Thai độc thì tệ hại lắm, không dễ gì chữa trị đâu.
Khi nam nữ không theo quy củ nề nếp, thì sanh ra con cái bị nổi nhọt độc khắp thân mình. Cha mẹ mà có tâm dâm dục nặng nề, thì sanh ra em bé dễ bị mắc phải các thứ ung nhọt. Vì vậy người nữ sau khi mang thai thì vợ chồng nên chớ gần nhau. (Nguồn: links: https://www.dharmasite.net/.../Gay-Kim-Cang-Het_Quyen-3...)
+ Kết ác tập nghiệp - Thập ác tập: Nghiệp kết tập sâu nặng
“Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng.” “Kết” tức là dồn lại, kết dính lại với nhau. Nghiệp từ đời trước liên kết với nghiệp của đời này, nghiệp của đời này lại dây dưa liên lụy tới đời sau—đời đời kiếp kiếp, các nghiệp báo này nối kết nhau liên miên không dứt, giống như sợi dây kết liền thành một mối vậy; nên gọi là “kết ác tập nặng.” Những “ác tập” (thói quen xấu ác) này là những gì? Có mười tập khí xấu ác gọi là Thập Ác Tập:
1) Dâm dục. Thói xấu thứ nhất là dâm dục. Tất cả chúng sanh đều như nhau—ai nấy đều có lòng dâm dục. Ðây là mối phiền toái thứ nhất, cũng là điều rất khó đoạn trừ. Việc đoạn dứt dâm dục còn khó hơn lên trời nữa! Do đó, nếu chúng ta điều phục được lòng dâm dục—tức là người nữ thấy người nam thì không khởi tâm ham muốn, và người nam thấy người nữ thì chẳng sanh lòng tà vạy—thì gọi là “hàng hổ” hoặc “phục hổ,” tức là đã đánh thắng loài cọp dữ, khiến chúng phải đầu hàng quy phục. Lại thêm, nếu chúng ta cũng không còn phiền não, thì có thể nói rằng chúng ta đã hàng phục được cả loài rồng rồi vậy. Phiền não vô minh thì giống như con rồng vậy—rồng có khả năng biến hóa vô cùng, không thể đoán trước được lúc nào nó sẽ thình lình xuất hiện.
Vậy, việc phải làm trước nhất là đoạn trừ lòng dâm dục. Qua sự việc này có thể thấy được quý vị có công phu tu hành, có đạo đức, có thật sự dụng công hay không. Quý vị có thể tự thử nghiệm chính mình, tự tìm hiểu chính mình. Nếu quý vị đã đoạn trừ được dâm tâm rồi tức là quý vị có công phu tu tập; lòng dâm chưa dứt thì quý vị vẫn còn lậu thoát. Cho nên, tu “vô lậu” tức là dứt bỏ lòng dâm dục—còn dâm tâm là còn “hữu lậu,” hết dâm tâm mới là “vô lậu.”
2) Tham. Ác tập thứ hai là tham lam. Vì sao có lòng dâm dục? Chính là vì có lòng tham—ham muốn cảm giác, khao khát thỏa mãn dục niệm của chính mình.
3) Mạn. “Mạn” tức là kiêu mạn, và đây là thói xấu thứ ba. Thế nào gọi là “kiêu mạn”? Bản thân mình vốn chưa hẳn là thông minh hơn người, nhưng lúc nào cũng cho rằng mình thông minh xuất chúng, khinh thường tất cả những người khác, đến đâu cũng muốn mình là “số một”; đó chính là lòng kiêu mạn đang tác quái!
4) Sân. Ðây là thói xấu thứ tư. Kẻ mang lòng sân hận thì đối với bất cứ ai cũng sanh tâm oán ghét, lúc nào cũng hằn học: “Mày không tốt với tao, tao phải tìm cách giết mày để báo thù!”
5) Trá. Ác tập thứ năm là “trá,” tức là xảo trá, lường gạt, làm những việc giả dối hư ngụy.
6) Cuống. “Cuống” tức là nói dối, vọng ngữ. “Trá” tức là bản thân vốn là người xấu, song bề ngoài lại làm ra vẻ người tốt, khéo che đậy khiến kẻ khác không nhận ra được. Còn “cuống” tức là nói dối, bịp bợm, nói sai sự thật, bất cứ chuyện gì cũng nói dối một cách trơn tru, trót lọt được cả.
7) Oán. “Oán” tức là việc gì cũng oán trách người khác; rõ ràng là mình sai, là lỗi của mình, nhưng lại đổ lỗi cho người khác: “Nếu hắn không bảo tôi làm như thế thì tôi đâu có làm. Chuyện này không thể trách tôi được. Ðó là lỗi của hắn. Hắn mới là người có lỗi.” Cho nên, kẻ ôm lòng hờn oán thì bất cứ tội lỗi gì cũng trút lên đầu lên cổ người khác cả!
8) Tà kiến. Ðây là thói xấu thứ tám. “Tà kiến” tức là tà tri tà kiến, cái nhìn sai lầm hoặc sự hiểu biết lệch lạc, dẫn dắt con người đi vào con đường bất chánh, tà vạy.
9) Uổng. “Uổng” có nghĩa là cong vạy, không ngay thẳng.
10) Tụng. Ác tập thứ mười là tố tụng, tức là thích kiện cáo, tranh cãi hơn thua. Có những kẻ vốn sai quấy, có lỗi, thế mà lại muốn kiện cáo, thưa với quan tòa là lỗi của người khác, rồi buộc đối phương phải bồi thường tiền bạc cho mình. Nói tóm lại, bản thân mình vốn là vô lý mà lại vu khống, tìm cách làm cho người khác bị hàm oan, đó gọi là “tụng.”
Mười thói quen xấu hay Mười Ác Tập này trong Kinh Lăng Nghiêm (quyển tám) gọi là Mười Tập Nhân, tức là mười nguyên nhân tập khí xấu dẫn đến các quả báo khổ sở trong sáu đường (Lục Giao Báo). Chính vì chúng sanh tiêm nhiễm mười tập khí này nên nói là “kết ác tập nặng.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chứng đắc đạo quả nhưng thoái chuyển - Thoái lui
Ngài Ưu Ba Ly hỏi: Nhị Thừa cũng đã phá trừ được tham, sân, si, tại sao lại không thể xưng là Thế Tôn?
Phật trả lời: Không thể được, vì Nhị Thừa đối với tâm đại thừa còn có khi thoái chuyển, Phật thì không bao giờ thoái chuyển. Thoái chuyển có ba:
Một là, đã chứng quả mà còn thoái chuyển;
Hai là, chưa chứng quả mà đã thoái chuyển;
Ba là, đã đến chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển.
Đã chứng quả mà thoái chuyển là nói ngôi Thanh Văn đã chứng được quả thứ ba mà còn có khi thoái chuyển. Chỉ có quả thứ tư là quả A La Hán thì mới không còn thoái chuyển.
Còn như Trung Thừa, nếu đã tu tập đủ trăm kiếp, đã thấu suốt được mười hai nhân duyên, thành Bích Chi Phật, cũng không còn thoái chuyển nữa.
Nhưng nếu là Hạ Thừa, chứng quả thứ ba, mà thành Bích Chi Phật, thì vẫn còn thoái chuyển.
Còn như Phật đã chứng quả rồi, thì không bao giờ thoái chuyển nữa.
Chưa chứng quả mà thoái chuyển là nói những người Tam Thừa, chưa chứng được quả mà đã thoái chuyển; nếu tu ba nghiệp của Tỷ Khưu mà lười biếng, hoặc tu tập các pháp, không chăm chỉ, thì gọi là chưa chứng quả đã thoái chuyển vậy.
Đã tới chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển là nói những người đã chứng được các pháp, mà không ứng dụng hiện tiền, như thập lực của Phật và mười trí của Tiểu Thừa, mà chỉ ứng dụng một; hay phải tụng mười vạn lời kinh, mà không tụng, đều gọi là đã đến chỗ ứng dụng mà thoái chuyển vậy.
Thanh Văn chưa chứng quả mà thoái chuyển; Duyên Giác và Độc Giác cũng có khi chưa chứng quả mà thoái chuyển, nhưng Phật thì không bao giờ thế.
Đối với tất cả hạnh tu tập, không bao giờ Phật biếng nhác.
Nhị Thừa đã đến chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển, chứ Phật thì lại không nhất định.
Như trong mười lực mà chỉ dùng một, bỏ chín, nên gọi là thoái chuyển.
Hoặc như tụng hai mươi vạn lời kinh, mà người phàm sức yếu, phải tụng một, hai ngày mới xong, nhưng Phật có thể tụng xong ngay.
Thập lực cũng vậy, dùng là dùng liền, không bị ngăn ngại.
Cho nên Phật không không có sự không dùng mà bỏ. Như người mặc áo Nê hoàn tăng không phải thời không mặc, không như người thế gian. Bất cứ làm việc gì đều vì lợi ích của chúng sinh mà làm. Việc gì có lợi thì làm, không có lợi thì bỏ, chứ không phải có lợi thì bỏ, chứ không phải không làm được, bởi thế Phật không có sự không dùng mà thoái chuyển.
Tuy Phật hiểu suốt các pháp mà nói không nhất định là vì ý Phật sâu xa, không thể nghĩ lường được.
Ngài Ưu ba Ly hỏi:
- Tại sao Thanh Văn đã chứng đến quả A Na Hàm còn thoái chuyển? Nhưng chứng quả A La Hán thì không thoái chuyển?
Phật đáp: Quả A Na Hàm đã từng được nên thoái chuyển, còn quả A La Hán thì chưa từng được, cho nên không thoái chuyển.
Cũng như người đang đói mà được ăn cỗ ngon, không bao giờ quên, ý nghĩa quả A La Hán cũng vậy.
Lại nữa, A La Hán lấy nhẫn nhục làm đạo vô ngại, lấy trí tuệ làm đạo giải thoát, còn A Na Hàm lấy trí tuệ làm đạo vô ngại và cũng lấy trí tuệ làm đạo giải thoát, cho nên còn thoái chuyển.
Lại nữa, A La Hán lấy sự hiểu biết như thực làm đạo, cho nên không thoái chuyển, còn a Na Hàm thì lấy tư duy làm đạo, cho nên còn thoái chuyển.
A Na Hàm vì còn phải diệt hết vọng tưởng và trừ sạch tham, sân, si, ái, tà kiến, vô minh, nên còn bị tư duy bức bách.
Nhưng A La Hán thì tìm hiểu đạo như thực, nên không bị bức bách, vì đạo như thật khômg có bức bách, thấy rõ được phần “vọng” tức thấy lý “chân”. Nhưng không cần tư duy, nên không bị bức bách và vì thế không thoái chuyển vậy.
Lại nữa, cái trí tìm hiểu của A La Hán lớn mạnh, như rường cột, chống đỡ mọi vật, nên không thoái; còn cái trí tư duy của A Na Hàm nhỏ, yếu, cho nên còn thoái chuyển.
Lại nữa, A La Hán dùng tâm nhẫn nhục và trí tuệ để diệt trừ chín phẩm tư hoặc ở dục giới, bảy mươi hai phẩm kết phược ở sắc giới, cho nên không còn thoái chuyển.
Căn cứ vào các nghĩa nói trên, nên biết Nhị Thừa không thể xưng là Thế Tôn, mà chỉ có Phật mới được xưng Thế Tôn mà thôi.
Lại nữa, Phật đã dứt hết tập khí, nhưng Nhị Thừa chưa đoạn kết.
Chẳng hạn như Ngưu Ty Tỷ Khưu thường nhai như trâu, là vì năm trăm kiếp trước phải đọa làm kiếp trâu, bây giờ mới được làm người, nhưng cái tập khí nhai như trâu vẫn chưa hết.
Hoặc như vị Tỷ Khưu kia, tuy đã chứng quả A La Hán, nhưng thường thích soi giương, là vì những kiếp trước phải làm thân kỳ nữ.
Lại như một vị Tỷ Khưu kia, thường hay bám lấy bao lơn mà đánh đu, nhẩy, nhót, là vì những kiếp trước, đọa làm loài khỉ vậy.
Bởi thế Nhị Thừa không được xưng là Thế Tôn (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Định luật Nhân và Quả (Law of Cause and Effect): Định luật Nhân và Quả là định luật chi phối vật chất. (LVHLT, 470)
* Định luật Tác động và Phản Tác động (Law of Action and Reaction): X. Định luật Nhân và Quả
+ Đẳng cấp Dụng thần và Mệnh chủ: Đây là nói trên cơ sở của phương pháp dự đoán Mệnh theo Tứ trụ - Bát tự mà Nhân Trắc học chúng tôi nghiên cứu và ứng dụng trong Tư vấn Cải mệnh Phát phúc - Phòng họa với các Mệnh chủ. Pháp Tứ trụ nhìn nhận đánh giá về Giầu sang - Phú quý và Danh tiếng - Uy quyền có phần rõ dàng, rễ định tính và định lượng để có thể suy ra biểu đồ Số mạng theo Thời gian phát sinh sự việc cát hung họa phúc khá chính xác. Đây là điểm mạnh của pháp Tứ trụ so với pháp xem Tử vi. Môn Tử vi cũng có điểm mạnh hơn là xem rõ về nghề nghiệp và tướng mạo hay mộ phần ... của Mệnh chủ.
- Đẳng cấp Dụng thần bao gồm các chủ đề chính là "Mục tiêu chọn Dụng - Lấy Nhật can là trung tâm - Nguyên tắc đề cương - Cách chọn Dụng thần - Năng lực của Dụng thần - Đẳng cấp Dụng thần - Đẳng cấp Mệnh chủ - Diệu dụng của Dụng thần".
- Đẳng cấp Mệnh tứ trụ:
1. Pháp đánh giá đẳng cấp Mệnh chủ: Thông thường phân cấp Mệnh chủ theo cấp độ Đức hạnh; Giầu có; Danh tiếng; Uy quyền; Trí tuệ; Thọ Yểu ..v.v..
Dự đoán Hành vận: Cần nhiều suy ngâm, vì nguyên tắc “Lưu thông - Bình hòa” mới là Mệnh quý cách, thế nhưng ngũ hành thì luân chuyển theo chu kỳ Sinh – Vượng – Suy mộ, mà Dụng thần thì cần “Vừa mức” theo nguyên lý quân bình tứ “Trung đạo”.
Đẳng cấp vị Thầy đoán Mệnh: Xác định Đẳng cấp Mệnh chủ là bước cuối cùng của đánh giá Dụng thần Nguyên mệnh, cần nhiều công sức và kiến thức kinh nghiệm sâu rộng của Dịch – Minh – Phật của vị Thầy mới mong có sự chính xác tương đối cao. Thường chia theo hai loại là theo Thế tục và theo Tâm linh.
1. Các loại Đẳng cấp Mệnh chủ: Muốn xác định chính xác và ít sai sót nhất, ngoài xem các yếu tố Mệnh và Hành vận phát phúc hay tán phúc theo Lá số Tứ trụ. Cần gặp gỡ trực tiếp Mệnh chủ để trao đổi nhắm đánh giá sự tiến hóa của Tâm trí người đó thuộc hàng Hạ căn, Trung Căn hay Thượng Căn, từ đó mới mong có được kết luận khá chính xác Đẳng cấp Mệnh chủ. Cũng chia theo hai loại là theo Thế tục và theo Tâm linh.
2. Ba loại Đẳng cấp Mệnh theo Ngũ phúc: Đây là nhóm đa số nhân loại, họ sống thiên hẳn về vị kỷ cá nhân và nhóm cùng lợi ích của họ. Họ sống khá thuần về Dục vọng và coi sự chết là hết, chẳng có nhân quả luân hồi. Căn cứ ngũ Phúc có thể phân làm 3 loại Đắng cấp Mệnh Chủ: Sống Thọ - Phú Quý - Thiện trí
3. Ba nhóm Đẳng cấp Mệnh theo Hạng người: Tiêu trí này phù hợp với đối tượng mà Lá số biểu hiện Nghiệp báo tiền kiếp họ đã có thành tựu nhất định về "Phước Huệ song tu”. Lá số biểu lộ họ có Trí tuệ phân biện được nhận biết qua Ngũ hành Thanh Thuần, Mệnh lưu thông có tình. Tiền tài nhiều ít là thứ yếu, chia làm ba nhóm Hạng người phổ biến: Hạ căn - Trung căn - Thượng căn hoặc Hạ đẳng - Trung đẳng - Thượng đẳng hoặc kết hợp. Ví vụ Mệnh chủ thuộc hàng Hạ đẳng Trung căn.
+ Hạng người thiện trí - Người tham vô độ
2. Có hai hạng người ... khó tìm được ở đời.... Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm.
3. Có hai hạng người .... khó tìm được ở đời.... Người thỏa mãn và người làm người khác thỏa mãn.
4. Có hai hạng người ... khó làm cho thỏa mãn.... Người cất chứa các lợi dưỡng và người phung phí các lợi dưỡng.
5. Có hai hạng người ... dễ làm thỏa mãn. ... Người không cất chứa các lợi dưỡng và người không phung phí các lợi dưỡng. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Đức Phật phóng quang: HỎI: Tại sao khi thuyết pháp Phật thường hay phóng hào quang?
ĐÁP: Vì Ngài muốn cho chúng sanh mau khai ngộ. Trong lúc cuối cùng, khi Phật giảng thuyết Kinh Niết Bàn, Ngài phóng quang ở mặt rồi thâu quang về miệng.
Đó là biểu hiện đi là như như, đến cũng là như như. Đi cũng là đi đến trí huệ quang minh tạng, trở về cũng là quay về trong quang minh tạng. Nhưng chúng sanh chỉ biết đi mà không biết quay về. Cho nên nói “năng phóng bất năng thâu”. Nói vậy cũng tức là chỉ cho vọng tưởng của chúng ta. Chúng ta có phóng ra thì sau đó phải thâu trở về cho được. Nếu chỉ biết phóng quang ra mà không biết thâu quang về thì không thể: đến đi như ý mình. Vậy tức là không có linh động trong sự học hỏi và thực hành.
Chúng ta phải biết phóng, biết thâu: có thể lớn, có thể nhỏ, có thể có, có thể không, không gì mà không thể làm được, tâm như ý, tự tại vô ngại.
Phải chăng Phật phóng quang là để cho người ta nhìn thấy? Không phải. Vậy ngài cho người ta thấy hào quang để làm gì? Có phải cũng giống như phàm phu chúng ta là muốn làm quảng cáo chăng? Hoặc là giống như có người muốn biểu lộ sở trường đặc biệt của mình ra cho người ta biết? Không phải như vậy đâu. Phật phóng quang là để chiếu phá vô minh của chúng sanh.
Mỗi một chúng sanh trong pháp hội đều được hào quang của Phật chiếu sáng.
Cho nên nói: Phật quang phổ chiếu, vũ lộ quân triêm. Nghĩa là Phật chiếu ánh hào quang đến mọi nơi như mưa cam lồ rưới đều lên khắp chốn. Lúc này, tất cả chúng sanh đều được hào quang của Phật gia hộ; tức là chúng ta gieo xuống hạt nhân thành Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị - Q3)
+ Đức Phật phóng Hào quang: Lúc đó, từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
Lược giảng: Lúc đó - Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói chuyện với Kiên Lao Địa Thần và căn dặn Địa Thần hãy ủng hộ các chúng sanh trong đời vị lai xong - từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
“Đảnh môn” (cửa đỉnh đầu) nằm ở đâu? Ở ngay trên đỉnh đầu. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có tướng “vô kiến đảnh” (tướng đỉnh đầu không thấy được) chính là ở “đảnh môn” này vậy.
Chúng ta mỗi người đều có “đảnh môn.” Nếu quý vị tinh tấn dụng công, chân chánh có công phu tu hành, thì khi chết, Phật tánh của quý vị sẽ từ “đảnh môn” ở trên đỉnh đầu mà đi ra, và sau đó quý vị có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn. Tuy nhiên, quý vị cần phải chăm chỉ tu hành, nỗ lực dụng công cho thật tốt mới được; chứ dụng công hời hợt thì không thể nào có được cảnh giới đó.
Như là: Tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn; tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn; tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn; tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn; tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn; tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn; tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn; tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn; tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn; tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn; tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn; tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn; tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn; tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn; tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn; tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn.
Từ trên đảnh môn phóng ra những tướng tia sáng như thế xong, lại nói ra tiếng vi diệu mà bảo đại chúng, Thiên Long Bát Bộ, nhân cùng phi nhân v.v... rằng: “Hãy lắng nghe hôm nay Ta, tại cung trời Đao Lợi, tuyên bày ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng về những sự lợi ích trong hàng trời, người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự siêu vượt nhân Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không thối chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”
Lược giảng:
Vậy, lúc bấy giờ từ trên đỉnh đầu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra những tia sáng như là:
1) tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng hào quang màu trắng soi sáng tất cả những nơi tối tăm; ngụ ý rằng Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng có thể chiếu dọi, xua tan mọi hắc ám tăm tối của thế gian.
2) Tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn.
3) Tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn. Có loại hào quang trông giống như ngọc thạch vậy.
4) Tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn.
5) Tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn. Lại có những đạo hào quang màu xanh, và nhiều hào quang lớn cũng có màu xanh như thế nữa.
6) Tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn.
7) Tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn.
8) Tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn.
9) Tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn. Lại có tia sáng có màu vàng như vàng ròng vậy.
10) Tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn.
11) Tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn. Bàn chân của Đức Phật có tướng “thiên bức luân” (chỉ dưới bàn chân có ngàn cái xoay tròn); và đạo hào quang này trông giống như cả ngàn cái vòng xoáy tròn ở trong vậy.
12) Tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn. Lại có hào quang hình tròn và sáng lấp lánh như châu báu tạo thành.
13) Tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn. Lại có những đạo hào quang rực rỡ như ánh sáng của cả trăm ngàn vầng mặt trời.
14) Tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn. Lại có đạo hào quang tỏa ra ánh sáng như của mặt trăng.
15) Tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn. Trong đạo hào quang này hiện ra nhiều cung điện làm bằng bảy thứ báu rất trang nghiêm.
16) Tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn. Lại có những đạo hào quang trông giống như đám mây vọt lên từ mặt biển. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Có 12 Hành tinh (7 H.Tinh thánh thiện và 5 không thánh thiện) có liên quan với sự sống bên ngoài, môi trường và các hoàn cảnh của cá nhân. Các mãnh lực biểu hiện trạng thái thiêng liêng thứ 3 - Ý muốn hiểu biết; (CTHNM, 38)
+ 12 HT chi phối 12 Cung HĐ, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã con người, cộng với các tình trạng nghiệp quả kế thừa, tạo ra các trạng thái chung quanh và các hoàn cảnh sống và sau rốt việc kiểm soát khía cạnh hình tướng của sự sống (CTHNM, 63)
+ 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
+ Mỗi hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Đây sẽ là một điểm quan trọng cần phải tính đến, vì nhóm các thần bí gia này đang mỗi năm mỗi trở nên mạnh mẽ hơn.
− Các Năng Lượng Hành Tinh phát ra từ:
a/ 7 hành tinh.
b/ Trái Đất.
c/ Mặt trăng.
Tổng là 9 Hành tinh: Chỉ có một vài điều có thể được lưu ý về tiết đoạn nói về các năng lượng này và về tiết đoạn kế tiếp, vì đây là một loạt các hướng dẫn cho người tìm đạo chứ không phải là một luận thuyết về năng lượng.
− Năng Lượng Mặt Trời phát ra từ:
a/ Mặt trời vật chất.
b/ Các nguồn vũ trụ.
Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. Vì vậy, một số bạn vốn đã nghiên cứu bộ Luận Về Lửa Càn Khôn có thể nhận thấy các chi tiết sau là đáng chú ý:
1. Các loại devas thấp nhất hay các nhà kiến tạo trên Con Đường Tiến Hóa thăng thượng là các thiên thần màu tím; kế tiếp là các thiên thần màu xanh lá cây, và cuối cùng là các thiên thần trắng (white devas). Tất cả các thiên thần này đều bị chi phối bởi một nhóm đặc biệt thứ tư. Các thiên thần này kiểm soát các tiến trình bên ngoài của sự sống ở cõi trần.
2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. Loại bỏ những sản phẩm được kiểm soát bởi nhiệt (heat) và bạn sẽ đưa nền văn minh của chúng ta đến một trạng thái dừng lại, bạn sẽ đưa mọi phương tiện vận chuyển đến một kết thúc cùng với mọi phương cách chiếu sáng; bạn sẽ vứt bỏ tất cả các nhà máy chế tạo. Ngoài ra, về cơ bản, những sinh linh lửa (fiery lives) này, được tìm thấy trong tất cả những gì bốc cháy, và trong sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Sự sống các Hành: Theo Tooltip "sự sống", thì tất cả vật chất đều có sự sống dù ẩn tàng [Tinh thần ở trung tâm nguyên tử].
Xem thêm: Các phẩm tính của hành tinh Chủ về - Chi phối - Dẫn truyền Cung NL - Quản 4 phương
Xem thêm: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Sống Bất tử - Sống mãi - Không chết - Không bao giờ chết là Linh hồn và Tinh thần
+ Sống bất tử: Việc gia tăng số người có năng lực sử dụng mắt thứ ba đã được hoạt động trở lại sẽ chứng minh được sự bất tử vì họ sẽ thấy được một cách dễ dàng người nào đã vứt bỏ thể dĩ thái cũng như thể xác của mình. (CTNM, 412–413)
+ Trong Kinh Vishnu Purana, q. II, chương VIII có nói: “Bất tử có nghĩa là tồn tại đến cuối Thiên kiếp” (“By immortality is meant existence to the end of the Kalpa”), và dịch giả Wilson có cước chú như sau: “Theo kinh Vedas, đây là tất cả những gì phải được hiểu về sự bất tử (hay trường tồn – eternity) của các thần (gods); các ngài tan biến (perish) vào lúc cuối khi vũ trụ tan rã (tức Pralaya – quy nguyên) còn triết lý nội môn (Esoteric Philosophy) nói: “Các Ngài không tan biến” mà là được tái hấp thu (re–absorbed). (GLBN I, 109)
+ Sự sống bất tử: Một cậu bé: Thưa Thầy, con sẽ sống được bao lâu?
Thầy: Nếu con biết thực tập thiền, nếu con biết nhìn sâu vào vạn vật thì con sẽ sống mãi, con sẽ không bao giờ chết. Nhưng nếu con không biết nhìn sâu thì con sẽ luôn lo sợ cái chết. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng không có gì có thể chết đi. Không có gì sinh mà cũng không có gì diệt, đó là tuyên bố của một nhà khoa học người Pháp tên là Lavoisier. Vì vậy đối với một người thực tập thiền, khi nhìn sâu vào vạn vật, người đó sẽ phát hiện ra bản chất không sinh, không diệt của vạn vật. Các nhà khoa học cũng vậy, nếu nhà khoa học biết nhìn sâu thì cũng sẽ thấy được bản chất không sinh, không diệt của vạn vật. Và khi thấy được điều đó, chúng ta sẽ không còn lo sợ cái chết nữa. (Nguồn: TS Thích Nhất Hạnh giảng)
+ Muốn không chết - Hoạt nhân tử: Nếu muốn người không chết - Hãy làm người sống như đã chết/ Hoạt nhân tử. Hoạt nhân tử thì còn đâu tham sân si kiêu mạn nghi ... Không nên nghĩ nhiều, chỉ cần chịu ngồi thiền. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 22 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Giới hành khí (Elemental kingdom):
1. Giới tinh hoa chất thứ nhất: ở trên ba phân cảnh cao của cõi trí.
2. Giới tinh hoa chất thứ hai: ở trên bốn phân cảnh thấp của cõi trí.
3. Giới tinh hoa chất thứ ba: ở cõi cảm dục. (LVLCK, 94)
+ Sự sống hành khí: Mọi hình hài được kiến tạo theo một cách thức tương tự như nhau và chỉ có sự dị biệt – như sách giáo khoa giảng dạy – trong sự sắp xếp và số của các âm điện tử ( ).
Chính âm điện tử sau rốt sẽ được xem như là một sự sống hành khí vô cùng bé nhỏ (an elemental, tiny life). (LVLCK, 479)
+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Năng lượng của Sự sống: Khả năng hội nhập, phối kết. Mãnh lực của thể sinh lực hay thể dĩ thái. Phản ảnh của hoạt động thông tuệ hay chuyển động thiêng liêng. Xung lực hành động, tích năng lượng, theo Định luật Tiết Kiệm.
+ Sự Sống thiêng liêng có thể được xem như diễn đạt qua 3 cách biểu lộ:
- Thứ nhất, vũ trụ biểu lộ hay hữu hình;
- Thứ hai, thế giới nội tâm hay sắc tướng;
- Thứ ba, trạng thái Tinh thần phải được tìm thấy ở tâm mọi vật (LVLCK, 56).
Sự sống phú linh: (The ensouling life) Sự Sống phú linh tức là Sự Sống của Thượng Đế trong nguyên tử. (KCVTT, 15).
+ Sự sống và các sự sống (the life and the lives): Trong bộ GLBN, H.P.B. có nói: “Huyền linh học không chấp nhận bất cứ cái gì vô cơ (inorganic) trong Đại Vũ trụ (Kosmos). Cách diễn tả được khoa học dùng như “chất vô cơ” (“inorganic substance”) chỉ hàm ý là sự sống tiềm tàng, đang ngưng trệ (slumbering) trong các phân tử của cái được gọi là “vật chất trơ” (“inert matter”) thì không thể nhận biết được. Tất cả đều là sự sống, mọi nguyên tử của ngay cả bụi khoáng chất (mineral dust) cũng có sự sống, mặc dù vượt ngoài sự hiểu biết và nhận thức của chúng ta ... Do đó, sự sống có khắp nơi trong vũ trụ ... bất cứ nơi đâu có một nguyên tử vật chất, một hạt (particle) hay một phân tử (molecule), ngay cả ở trong tình trạng loãng nhất, cũng đều có sự sống bên trong, tuy tiềm tàng và vô thức.” – GLBN–I, 269, 281, 282
+ Ý- chí- muốn- sống / Ý muốn linh hoạt (Will-to-live): Thượng Đế Ngôi Một (first Logos) là hiện thân (embodies) cho ý muốn linh hoạt. (LVLCK, 146)
+ Ý muốn linh hoạt: Một trong các yếu tố chi phối việc đầu thai (incarnation) là sự hiện hữu của cái được gọi là Ý-muốn–linh hoạt; khi ý muốn đó hiện hữu và khi ý–chí–muốn–sống mạnh mẽ nơi con người thì y bám trụ (anchored) một cách chặt chẽ vào cõi trần; khi ý chí muốn sống không còn hiện ra một cách mạnh mẽ hay triệt thoái thì con người từ trần. (CTNM, 638)
+ Ý- Muốn- Linh- hoạt (Will-to-Live): Ở đây, chúng ta đừng quên rằng bởi vì chúng ta đã quyết chí khai mở các quyền năng của chúng ta qua các kinh nghiệm của sự sống trên các cõi thấp; đừng quên rằng số mệnh của chúng ta (our lot) là do ta tự chọn chứ không phải bị áp đặt; đừng quên rằng chúng ta đang ở tại cõi này là thể theo kết quả của “Ý Muốn Linh Hoạt” của chính chúng ta (của chính Chân Thần chúng ta-ND); đừng quên rằng nếu Ý Muốn (Will) đó thay đổi - mặc dù trong thực tế nó không có khả năng thay đổi như thế - thì chúng ta sẽ chấm dứt việc sống ở cõi này và trở lại chốn An Bình, không thu hoạch được chút kết quả nào mà vì muốn có kết quả đó, chúng ta mới đến cõi này. “Không một ai khác bản thân ta ép buộc chúng ta cả”.(KCVTT, 333)
+ Hy vọng sống: Có hai hy vọng này, này các Tỷ-kheo, khó được từ bỏ. Thế nào là hai? Hy vọng được lợi dưỡng và hy vọng được sống. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai hy vọng khó được từ bỏ. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau
HỎI: Tôi muốn biết mục tiêu của đời sống là gì và ngài có tin tưởng vào định mệnh hay không? Nếu có, thế thì vai trò của định mệnh trong đời sống là gì?
ĐÁP: Theo quan điểm của Phật giáo (mặc dù quan điểm của riêng tôi thì khác), đôi mắt, tâm thức, và khát vọng vượt thắng điều gì đó tất cả là một bộ phận của bản chất. Tôi nghĩ một cách thế tục, đó là câu trả lời. Chính mục tiêu của sự sống, tôi tin, là hạnh phúc. Không có gì bảo đảm trong cuộc sống, nhưng chúng ta tồn tại do bởi hy vọng. Nếu chúng ta đánh mất hy vọng thế thì điều đó sẽ làm ngắn lại sự sống của chúng ta. Sự tồn tại của chúng ta căn cứ trên hy vọng cho một tương lai tốt đẹp, không phải là một tương lai tệ hại. Từ quan điểm này, hạnh phúc là mục tiêu duy nhất cho sự sống.
- Định mệnh là cố định và chúng ta không có năng lực để thay đổi, theo những niềm tin khác nhau. Nhưng theo con đường thế tục, không có định mệnh. Những sự kiện xảy ra qua các nguyên nhân và điều kiện; thí dụ, một thân thể bệnh hoạn sẽ đưa đến một định mệnh yếu đuối. Nếu thân thể được chăm sóc, thế thì định mệnh có thể thay đổi. Vì vậy, định mệnh có thể thay đổi nếu có nổ lực thực hiện.(Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
+ Hy vọng: 1-12 Hy Vọng
1. Có hai hy vọng này, này các Tỷ-kheo, khó được từ bỏ. Thế nào là hai? Hy vọng được lợi dưỡng và hy vọng được sống. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai hy vọng khó được từ bỏ.
2. Có hai hạng người ... khó tìm được ở đời.... Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm.
3. Có hai hạng người .... khó tìm được ở đời.... Người thỏa mãn và người làm người khác thỏa mãn.
4. Có hai hạng người ... khó làm cho thỏa mãn.... Người cất chứa các lợi dưỡng và người phung phí các lợi dưỡng.
5. Có hai hạng người ... dễ làm thỏa mãn. ... Người không cất chứa các lợi dưỡng và người không phung phí các lợi dưỡng.
6. Có hai duyên này, ... khiến tham sanh khởi. ... Tịnh tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tham sanh khởi.
7. Có hai duyên này, ... khiến sân sanh khởi. ... Chướng ngại tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến sân sanh khởi.
8. Có hai duyên này, .., khiến tà kiến sanh khởi. ... Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tà kiến sanh khởi.
9. Có hai duyên này, .. khiến chánh kiến sanh khởi. ... Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến chánh kiến sanh khởi.
10. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm . ... Tội phạm nhẹ và tội phạm nặng. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai tội phạm.
11. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm. ... Tội phạm thô trọng và tội phạm không thô trọng. ..
12. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm. ... Tội phạm có dư tàn và tội phạm không có dư tàn. ... (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Sơ đồ sự sống tiến hóa hình thành vũ trụ
Dòng chú thích góc phải dưới viết như sau: “Bảy phân cảnh giới của Cõi Vũ trụ thấp nhất này là bảy cõi giới chính của Thái Dương hệ chúng ta, và mỗi cõi giới này lại có bảy cõi phụ” (The 7 sub-planes of this lowest Kosmic Plane are the 7 great Planes of our Solar System, each of these having again 7 sub-planes.)
Các bạn cũng lưu ý, khi thể hiện trên hình vẽ hai chiều các cảnh giới được vẽ thứ tự từ cao xuống thấp, cõi trên cùng gọi là cõi cao nhất và cõi hồng trần là cõi thấp nhất. Sự thực thì các cảnh giới xuyên thấu vào nhau, các cõi gọi là “cao” xuyên thấu vào bên trong cõi trọng trược hơn. Chúng ta có thể hình dung điều này phần nào qua một ví dụ ở cõi hồng trần: chất lỏng xuyên thấu qua chất đặc, chất khí lại xuyên thấu qua chất lỏng và đặc. Trên nữa thì chất dĩ thái thứ tư xuyên thấu qua cả ba vật chất đặc, lỏng và khí. Như vậy, do thói quen, chúng ta gọi là cõi giới cao, chứ đúng thực ra phải gọi là cõi giới bên trong (inner plane) hay nội giới. Ông C.W. Leadbeater nói rằng cõi tình cảm hay cõi trung giới xuyên thấu qua cõi trần, và chu vi của nó lớn hơn trái đất rất nhiều. Đường biên của cõi Trung giới của Trái đất chúng ta vươn gần đến mặt trăng. (Nguồn: minhtrietmoi.org)
Sơ đồ sự sống thiêng liên biểu lộ
+ Mầu sắc và hiệu quả chữa trị bệnh Thân Tâm:
Một số màu sắc có một hiệu quả nhất định, dù vậy, tôi chỉ có thể kể ra ba màu và nói vắn tắt về chúng thôi:
1. Màu vàng cam (orange) kích thích sự hoạt động của thể dĩ thái, nó xua tan sự tắc nghẽn (congestion) và làm mạnh thêm luồng sinh khí (flow of prana).
2. Màu hồng (rose) tác động lên thần kinh hệ và có khuynh hướng làm linh hoạt (vitalisation) và xua đi sự trầm cảm (depression) và các triệu chứng suy nhược (symptoms of debilitation); nó làm tăng mạnh thêm ý chí muốn sống (Will–to–live)
3. Màu xanh lục (Green) có hiệu quả chữa trị tổng quát, có thể được sử dụng một cách an toàn trong các trường hợp viêm nhiễm (inflamation) và sốt, nhưng cho đến nay hầu như không thể đưa ra các tình huống đúng để dùng được màu này hay đạt đến độ đậm nhạt thích hợp. Màu lục là một trong các màu cơ bản cần được dùng sau rốt khi chữa trị thể xác, đó là màu của âm điệu (note) của Tạo Hóa (Nature).(TVTTHL, 247–248)
Xem: Tổng hợp về mầu sắc
+ Làm người Thiện Tín xứng danh: Đệ tử Phật
IX. Khuyên nhủ các thiện tín tại gia
- 1. Dạy về luân thường đại giáo
* Phải tận tánh học Phật mới có thể tận hết luân thường học Khổng. Phải tận hết luân thường học Khổng mới có thể tận tánh học Phật. Thử coi những bậc đại trung, đại hiếu và những vị phát huy tâm pháp của thánh hiền trong Nho Giáo xưa nay không vị nào là chẳng nghiên cứu kinh Phật sâu xa, ngầm tu thầm chứng. Hợp hai đạo Phật và Nho lại thì cả hai cùng tốt đẹp, tách ra thì cả hai cùng bị tổn thương; bởi lẽ, người trong cõi đời không ai chẳng thuộc trong vòng luân thường, mà cũng không ai ra khỏi tâm tánh được. Để trọn vẹn luân thường tâm tánh ấy thì dùng “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” của nhà Phật để khắc kỷ, giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, dùng “cha hiền, con hiếu, anh nhường, em kính” để hỗ trợ. Do vậy, cha con, anh em v.v... dắt dìu nhau cùng trọn vẹn luân thường, tâm tánh, trừ khử phiền hoặc huyễn vọng để khôi phục Phật tánh sẵn có. Chẳng những về thể là một, mà về dụng cũng chẳng có hai!
* Phải biết rằng Phật pháp là pháp chung của cả chín pháp giới, không một ai là chẳng nên tu mà cũng không ai là chẳng thể tu nổi. Những kẻ nói Phật giáo vứt bỏ nhân luân, làm hại thánh đạo đều là những kẻ mù chẳng thấy hình sắc cứ luận càn. Vì sao nói như thế? Đức Phật đối với cha dạy lòng từ, với con dạy lòng hiếu, với vua dạy lòng nhân, với bầy tôi dạy lòng trung, chồng xướng vợ theo, anh nhường, em kính.
Với những lời lẽ hay đẹp, những hành vi tốt đẹp, không điều nào kinh Phật lại chẳng thuật rõ túc nhân hậu quả, tiền nhân hậu quả. Những điều Phật dạy về lòng từ, lòng hiếu... giống với Nho Giáo, nhưng những điều đạo Phật dạy về nhân quả ba đời thì Nho giáo còn chưa bao giờ được nghe đến, huống hồ là “đoạn Hoặc chứng chân” và “viên mãn Bồ Đề, quy về pháp vô sở đắc”! Tiếc là những kẻ ấy chưa được biết đến, chứ nếu đọc kỹ, nghĩ chín, ắt sẽ khóc lóc, đau đớn, tiếng rền cả đại thiên thế giới, buồn thương vì tội lỗi báng Phật vậy!
* Muốn học Phật, Tổ, trước hết phải giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như thiếu sót bổn phận, trái nghịch luân thường thì đã là kẻ tội nhân danh giáo, còn làm đệ tử Phật sao được? Phật giáo tuy vượt ngoài thế pháp, nhưng gặp vua nói Nhân, gặp bầy tôi nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, từ cạn mà lần đến sâu, hạ học thượng đạt (học từ những điều căn bản, thấp kém, nhưng đạt được những điều cao quý). Hãy đọc kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt sẽ biết được đại khái vậy!
* Muốn làm Phật tử chân thật, phải bắt đầu làm chân Nho trước đã. Nếu đối với những sự như chí tâm thành ý, khắc kỷ, giữ lễ, giữ lòng kính, trọng lòng thành, hiếu đễ, vui vẻ, cung kính... mà chẳng thể tu tập, đôn đốc thì nền tảng chẳng kiên cố, học Phật sao được? Chọn lấy tôi trung trong đám con hiếu; kẻ tánh hạnh trái nghịch Nho phong lẽ nào gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, trên nối tiếp huệ mạng, dưới hóa độ chúng sanh cơ chứ?
Phật pháp không sự gì to lớn chẳng bao hàm, không điều gì nhỏ nhặt chẳng nêu lên. Dù là pháp thế gian hay xuất thế gian, không một pháp nào lại chẳng thuộc phạm vi của Phật pháp. Những kẻ câu nệ, hủ bại trong thế gian thường cứ bảo “xuất gia là trái nghịch luân lý”, họ đều là hạng chưa suy xét thấu đáo đã vội hủy báng, sợ mắc nghẹn nên bỏ ăn, tự chôn vùi tánh mạng, thật là đáng thương!
Nếu có mở rộng được tầm mắt thì mới biết Phật pháp lưu truyền rộng rãi khắp trong ngoài Trung Hoa, đạo pháp thạnh hành cả hai ngàn năm qua, được rất nhiều vua thánh, tôi hiền, hào kiệt, vĩ nhân hộ trì, truyền bá. Lẽ đương nhiên đạo ấy phải là chân đạo mà phàm tình chẳng thể suy lường được nổi! Dù có bị một hai gã nho sĩ câu nệ, hủ bại bài xích, hay những tên vua bạo ác hủy phá, rốt cuộc hai tay vẫn không che nổi mặt trời, ngửa mặt nhổ lên trời, chỉ càng tự phô bày cái thấy biết kém cỏi, ít ỏi của mình mà thôi, tự lầm lạc gây tạo tội lỗi, chứ rốt cuộc Phật pháp có bị tổn hại gì đâu?
Lại có kẻ bề ngoài làm ra vẻ chê bai Phật pháp, chứ bề trong lại thực sự tu chứng. Từ đời Tống đến nay, những bậc danh nho không có ai là chẳng như vậy cả! Cho nên Quang tôi nói “thành ý chánh tâm do vậy hãy còn khiếm khuyết” thật đúng là lời bàn quyết định vậy!
* Đối với việc học Phật, vốn phải trọn vẹn nhân đạo mới hòng hướng đến được. Nếu chẳng thật sự thực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, dù có suốt ngày thờ Phật, Phật cũng chẳng gia hộ! Ấy là vì Phật giáo bao gồm hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian. Vì thế với cha nói Từ, với con nói Hiếu, khiến ai nấy đều tận hết bổn phận làm người, sau đấy mới tu pháp xuất thế. Ví như muốn dựng lầu cao vạn trượng, ắt trước hết phải đắp nền móng kiên cố, khai thông đường nước thì lầu cao vạn trượng mới có thể xây lên được, mới vĩnh cửu chẳng hư hoại. Nếu như nền móng chẳng vững, ắt chưa xây xong đã sụp.
Sách Luận Ngữ nói: “Tuyển trung thần ư hiếu tử chi môn” (chọn tôi trung từ nơi con hiếu); học Phật cũng giống như vậy. Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào Thiền Sư: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Muốn học Phật pháp, phải khắc kỷ, dè dặt, việc gì cũng đều phải phát xuất từ cái tâm chân thật mà làm. Người như vậy mới đáng gọi là chân Phật tử. Nếu tấm lòng gian ác, lại toan mượn Phật pháp để tránh tội nghiệp, có khác gì trước đã uống thuốc độc, sau lại uống thuốc bổ, muốn cho thân thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ, phỏng có được chăng?
* Đại trượng phu muốn văn chương thiên hạ, công nghiệp vang dội vũ trụ, nhưng chẳng thể đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thì chỉ là chấp vào cái bên ngoài, bỏ sót cái bên trong, chấp cái Có tuy nó chỉ là đằng ngọn, bỏ đi cái Không dù nó chính là đằng gốc. Người đời ai có thể vẹn toàn được mọi việc, chúng ta chỉ nên gắng sức giữ vẹn luân thường, tận lực tu Tịnh nghiệp là được, cần gì phải bận tâm đến điều gì khác nữa!
* Trộm nghĩ Nho lễ coi trọng cúng tế Xuân Thu, Thích giáo đặt nặng việc quanh năm truy tiến. Nghĩ đến cái ân nguồn nước, cội cây mà thực hành cẩn thận, chu đáo việc truy tiến thì thế gian, xuất thế gian nào có gián đoạn chi?
Ấn Quang Đại sư - Ngài đã tu hành thành tựu, có nhiều lời dạy cho Phật tử tại gia rất tuyệt diệu, mời đọc giáo lý của ngài: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục
+ Thiện Nam Tử - Thiện Nữ Nhân trong Kinh Phật thường nói
- Làm người quân tử: Là Người thường tu đạo của Người quân tử, hướng đến thành tựu Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín và thực hành các lời dạy của Thánh hiền, ví như Bác Hồ hay Khổng Tử, Lão Tử, đức Phật đã dạy.
- Làm người Phật tử: Người tu Thập thiện nghiệp đạo, thường tu mười nghiệp lành gồm Không sát sinh - Không trộm cắp - Không Tà dâm - Không nói dối - Không nói hai lưỡi, đôi chiều - Không nói lời ác độc - Không nói truyện thị phi vô nghĩa - Không tham lam - Không sân hận - Không si mê (Thường xuyên học Phật pháp để khai mở trí tuệ)
+ Kinh Hiền Nhân - Người quân tử hành đạo
Hôm nay, để tâm hồn lắng xuống một chiều mưa gió, tôi đọc cuốn HIỀN-NHÂN với một tâm niệm trong sáng, đầy tin tưởng. Có gì đâu, những lời giản dị nhưng đầy vẽ hiểu đời và chứng tỏ hạnh phúc chỉ có khi nào tâm niệm được an lành và thanh-thoát. Nhân loại đã bỏ lui sau bước chân những hạt vàng quí giá và mắt mờ còn trông ngóng những bào ảnh đâu xa...
Cũng như bao nhiêu lời giảng dạy cho tín đồ cư-sĩ, cuốn "HIỀN-NHÂN" nầy là một cuốn kinh luân-lý và đạo-đức Phật dạy cho kẻ bạch-y. Như tôi đã nói luân-lý nhà Phật bao trùm cả luân-lý Đông, Tây, các bạn có để tâm mới thấy rõ.
Thâm thúy mà giản dị biết bao, những lời dạy quí hóa như đoạn nầy trong kinh HIỀN-NHÂN:
Kết bạn có bốn thứ:
"Một là kết bạn như hoa, hai là kết bạn như cân, ba là kết bạn như núi, bốn là kết bạn như đất.....
Rồi trong những lời dạy quí hóa về luân lý, ẩn tất cả những triết-lý sâu kín của cuộc đời. Tìm ở đâu những gì mới lạ, chúng ta chỉ mất công.
Nhưng giáo lý cốt hợp cơ và Phật pháp là bất định pháp. Giáo pháp phải hợp thời, hợp xứ và hợp căn trí. Vì thế đừng nên vội nghi ngờ một lời nào của đức Phật. Đành rằng Ngài dạy : "Đệ-tử chớ tin lời Ta khi nào đệ-tử chưa hiểu". Nhưng bạn hãy đọc lại những gì mà bạn chưa hiểu ấy, chớ vội không tin. Nhiều khi đó là phương tiện để hạp thời hạp xứ.
Thấy con ếch nói được - trong kinh - bạn sẽ mỉn cười. Cũng như bạn nghe quả địa-cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng khi Phật xuất thế.
Bạn sẽ bảo đó là đặt điều. Có thực đấy bạn ạ. Những hình ảnh thần bí chỉ là để tượng trưng cho những ý tưởng triết-lý.
"Quả địa-cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng" là gì nếu không phải sự miêu tả cực kỳ khéo léo sự vui mừng của vũ-trụ nhân thiên?
"Con ếch than khóc..." là gì nếu không phải tượng trưng cho sự đau khổ tuyệt lực lan từ nhân loại đến cầm thú.
Cuốn Triết-Nhân do ông Ngô-nguyệt-Chi dịch Phạm-Văn ra Hán-Văn với một lối văn có màu sắc cổ điển và thuần túy. Nguyên nhan đề là "kinh ông Bụt", nay thầy Lê-phước-Bình dịch ra tiếng Việt-ngữ đổi lại là "KINH HIỀN NHÂN". Hiền-Nhân hay ông Bụt cũng thế là tiền thân của Phật Thích-Ca, chính Ngài thuật lại.
Nếu các bạn chưa được nếm kho tàng Phật-lý, ban đầu hãy xem những quyển kinh giảng lược như cuốn nầy vậy. Kho tàng Phật giáo còn nguyên cả khố: bằng Hán-văn chưa ai dịch được bao nhiêu, vẫn còn đợi một sự cố gắng lâu dài. (Nguồn: NHẤT-HẠNH - Kinh Hiền Nhân)
+ Người quân tử hành đạo - Đạo của người quân tử: Sách Kinh dịch bao là vạn trượng, là Đạo của Người quân tử phải theo thì đời sống được vạn sự cát tường như ý. Người quân tử học và hành đạo thuận theo đạo Trời Đất sẽ phòng tránh tai ương họa hoạn sảy đến. Đức Phật dạy biết được mình mới là chiến thắng vĩ đại nhất. Minh triết cũng dậy, con người, "Người hãy tự biết mình", vì trong ngươi có tất cả các thứ để biết. Người quân tử hành đạo nếu nhận biết rõ thời thế để hành đạo thì khi dụng trí tuệ phân biện để hành động cho phù hợp với Đạo, đó là "Phải đạo thì tiến - Trái đạo thì lùi - Cần dừng thì dừng". Dừng cũng là tiến, là để tránh nguy nan, thậm trí thiệt thân. Ví dụ như Quẻ Thuần Cấn - Núi chồng núi, vạn vận đang nghỉ dưỡng, khí dưỡng mới khởi, còn mờ ảo chưa sáng tỏ, không biết đâu mà lần. Nếu chưa "Thấy đạo" mà hành động thì sẽ nguy vậy. (Nhân trắc học - Theo Minh triết)
+ Bảy tài sản - Thanh niên nên tu:
- Tài sản hữu hình luôn là của năm nhà: ... Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch.
- Tài sản không bao giờ mất: Có bảy tài sản không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài và tuệ tài. ....... A Nan, hãy dạy cho thanh niên tu bảy loại tài sản này (Nguồn: Đức Phật giảng về Tiền và tài sản)
+ 46. BÁT CHÁNH ĐẠO
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về Thánh đạo tám chi, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đó là tám. A-nan, Thánh đạo tám chi này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy tám chi Thánh đạo này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 51. BẢY GIÁC CHI
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy giác chi, niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả giác chi. A-nan, bảy giác chi này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy giác chi này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 61. BẢY LỰC - Người niên thiếu tu
Trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy lực, tín, tinh tấn, tàm, quý, niệm, định, tuệ lực. A-nan, bảy lực này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy lực này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ Giảng về bảy lực:
- Tàm, quý đều là tâm hổ thẹn với các điều tội lỗi, xấu xa mà mình đã tạo ra. Tự hổ thẹn với chính mình gọi là tàm, đối với người sinh tâm hổ thẹn gọi là quý. Có những tội lỗi chỉ một mình mình biết, ngược lại có những tội lỗi mọi người đều biết.
- Tín: Tín ở đây là lòng tin, trước tiên là phải tin sâu nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu đau khổ. Chính ta là chủ nhân của bao điều họa phúc, chứ không có một đấng thần linh, thượng đế nào có quyền ban phước giáng họa. Tin có Phật, có Tam Bảo, có Bồ Tát, Thánh hiền ở đời....
- Niệm: Chánh niệm, tức tu tập giữ chú tâm vào chánh đạo, không để tâm suy nghĩ điên đảo vào các Pháp bất thiện như Tham Sân Si Kiêu Mạn Nghi ngờ và nghiện ngập ...
- Định: Là định lực, người có định lực thì Tâm luôn an tịnh - Không nghĩ tán loạn, không có lo lắng sợ hãi, không u sầu buồn bực, không rễ nóng nảy giận giữ, thương thương yêu tha thứ, thường hành bố thí cúng giường người nghèo khó và người tu hành chánh đạo.
- Tuệ lực: Là học tập đa văn, có trí tuệ phân biện pháp lành dữ, học hiểu Nhân quả Nghiệp báo, hiểu biết chân thật sự việc thông thường của đời sống nhân sinh, không mê tín dị đoan theo tà đạo.
+ Ví dụ dùng Trí phân biện để chọn Đạo nào tu hành:
Một hôm Phật đến làng nọ để giáo hóa thì mọi người ở đây mới thưa hỏi rằng: “Chúng con là người dân chưa đủ niềm tin vững chắc đối với các tôn giáo, ai đến đây cũng tuyên truyền đạo của mình đều tốt và khuyên mọi người nên tin theo. Chúng con làm thế nào để biết rõ đạo nào tốt, đạo nào xấu, đạo nào đúng, đạo nào sai?”
Phật không trả lời mà hỏi lại:
- Này các thiện nam tín nữ, giết hại có lòng từ bi không? Dạ không ạ!
- Gian tham trộm cướp có từ bi không? Dạ không ạ!
- Uống rượu say sưa có lòng từ bi không? Dạ không ạ!
Tôn giáo nào khuyên nhủ không làm các điều trên thì nên tin theo. Thật ra đức Phật của chúng ta quá khôn khéo, vì ngài lúc nào cũng khuyên giữ các giới điều đó để thể hiện lòng từ bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.
Thế cho nên đạo Phật là đạo của từ bi, là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, là đạo của con người, vì con người mà thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Khi được nghe Phật giải thích rành rẽ từng chi tiết cụ thể, tất cả người dân ở đây đều xin quy y với Phật và phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức và tu mười điều lành....
Gia tài tâm linh đó là bảy gia tài bậc Thánh: Tín, giới, tàm, quý, văn, thí, huệ - bảy thứ này nếu chúng ta biết cách tiếp nhận thì sẽ làm chủ bản thân mà sống đời an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ. (Nguồn: Thích Đạt ma Phổ Giác giảng)
+ 63. BẢY TÀI SẢN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy tài sản, tín, giới, tàm, quý, văn, thí và tuệ tài. A-nan, bảy tài sản này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy tài sản này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 80. BỐN CHÁNH ĐOẠN:
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn chánh đoạn:
1) Với pháp ác bất thiện đã sanh, vì để đoạn trừ chúng nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
2) Pháp ác bất thiện chưa sanh, vì để chúng không phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
3) Pháp thiện chưa sanh, vì để cho phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
4) Pháp thiện đã sanh, vì để chúng kiên trụ, không bị quên lãng, không bị thoái hóa, được bồi bổ tăng tiến, được phát triển rộng rãi, được viên mãn cụ túc, nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
A-nan, .... Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn chánh đoạn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 92. BỐN NIỆM XỨ: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn niệm xứ, quán thân như thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp như pháp. A-nan, ... Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn niệm xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
97. BỐN THÁNH ĐẾ: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn Thánh đế, Khổ thánh đế, Tập, Diệt và Đạo thánh đế. ....Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn thánh đế này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
165. CỬU TƯỞNG: Tỳ-kheo niên thiếu vừa mới thành tựu giới hãy thường xuyên đi đến một nghĩa địa mà quán sát các tướng trạng tử thi: tướng xương, tướng xám xanh, tướng rữa nát, tướng bị thú ăn, tướng bộ xương khô. Vị ấy sau khi ghi nhận kỹ những tướng trạng tử thi này rồi trở về trụ xứ của mình, rửa sạch tay chân, trải ni-sư-đàn trên giường, ngồi kiết già và suy niệm về các tướng trạng này: .... tướng những đốt xương dính liền. Vì sao vậy? Nếu Tỳ-kheo tu tập bằng các tướng trạng này sẽ đoạn trừ nhanh chóng những bệnh tham dục, sân nhuế trong tâm. (Trung A Hàm, Kinh Tức Chỉ Đạo, Phẩm 11, số 139)
+ 388. LỢI ÍCH CỦA TỨ THIỀN
Trước kia Ta đã nói cho ông nghe về Tứ thiền, Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện cho đến được đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Tứ thiền này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về Tứ thiền này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 419. NĂM CĂN
A-nan, Ta đã nói cho ông nghe về năm căn, tín, tinh tấn, niệm, định và tuệ căn. A-nan, năm căn này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm căn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 420. NĂM CĂN VÀ NĂM TRIỀN CÁI - Pháp Đoạn Trừ Vô Minh:
Nếu khi Như Lai xuất thế, Đẳng Chánh Giác, Thiên Nhân Sư, Phật....., vị ấy đoạn trừ cho đến năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tu tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn. Đó là nếu muốn đoạn trừ vô minh nên tu Năm căn.
Như vậy, số đoạn, giải thoát, quá độ, bạt tuyệt, diệt, chỉ, tổng tri và biệt tri.
432. NĂM THỦ UẨN ĐOẠN TRỪ: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về năm thủ uẩn: sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành và thức thủ uẩn. Này A-nan, năm thủ uẩn này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm thủ uẩn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
452. NHÂN DUYÊN KHỞI SỞ SANH PHÁP: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về nhân duyên khởi và nhân duyên khởi sở sanh pháp: ‘Nếu có cái này thì có cái kia, nếu không có cái này thì không có cái kia. Nếu sanh cái này thì sanh cái kia, nếu diệt cái này thì diệt cái kia. Duyên vô minh, hành. Duyên hành, thức. Duyên thức, danh sắc. Duyên danh sắc, sáu xứ. Duyên sáu xứ, xúc. Duyên xúc, thọ. Duyên thọ, ái. Duyên ái, thủ. Duyên thủ, hữu. Duyên hữu, sanh. Duyên sanh, già chết. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già chết diệt. A-nan, .... ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về ... (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
566. SÁU ÁI THÂN: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu ái thân: nhãn ái, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ái. Này A-nan, sáu ái thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu ái thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
568. SÁU GIỚI: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu giới: địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. A-nan, sáu giới này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu giới này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
572. SÁU NGOẠI XỨ
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu ngoại xứ: sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. A-nan, sáu ngoại xứ này ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu ngoại xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
573. SÁU NỘI XỨ
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu nội xứ: nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. A-nan, sáu nội xứ này ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu nội xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
574. SÁU THÂN THỨC
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu thức thân: nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. A-nan, sáu thức thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu thức thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
575. SÁU THỌ THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu thọ thân: nhãn thọ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thọ. A-nan, sáu thọ thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu thọ thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
576. SÁU TRỤ XỨ THIỆN
Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, được sáu trú xứ thiện.
Đa văn Thánh đệ tử khi mắt thấy sắc, không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm, chánh trí. Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, được nói là đạt được trụ xứ thiện thứ nhất.
Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý biết pháp mà không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm, chánh trí.
Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy được nói là đạt được trụ xứ thiện thứ sáu. (Trung A Hàm, Kinh Hòa Pháp, Phẩm 2, số 12)
577. SÁU TƯ THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu tư thân: nhãn tư, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tư. A-nan, sáu tư thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu tư thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
578. SÁU TƯỞNG THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu tưởng thân: nhãn tưởng, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tưởng. A-nan, sáu tưởng thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu tưởng thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
579. SÁU XỨ
Tỳ-kheo biết như thật về sáu xứ, biết như thật về tập của sáu xứ, diệt của sáu xứ và diệt đạo của sáu xứ.
Thế nào là biết như thật về sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ.
Thế nào là biết như thật về tập của sáu xứ? Do danh sắc mà có sáu xứ.
Thế nào là biết như thật về diệt của sáu xứ? Danh sắc diệt tức sáu xứ diệt.
Thế nào là biết như thật về diệt đạo của sáu xứ? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp. (Trung A Hàm, Kinh Đại Câu-hi-la, Phẩm 3, số 29)
580. SÁU XÚC THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu xúc thân: nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. A-nan, sáu xúc thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu xúc thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
Nguồn: (Lời Phật dậy - Trung A Hàm)
+ Thanh Thiếu Niên tu học Đạo làm người:
- Rèn Luyện Nhân Cách Cao Thượng
Các em bạn nhỏ của tôi! Các em nên noi gương các vị thánh nhân, các vị hiền nhân, học theo gương các vị đại trượng phu, đầu đội trời chân đạp đất học theo gương những vị anh hùng trong nước và ngoài nước, thuở xưa và ngày nay, để có được nhân cách, đạo đức học vấn và Phật nghiệp của họ.
Bây giờ là thời gian để các em học tập: ở trong lớp thì các em trau giồi kiến thức và kỷ năng, ở ngoài lớp thì các em rèn luyện đạo đức và nhân cách. Khi có kiến thức phong phú và nhân cách được kiện toàn thì sau này các em mới làm nên sự nghiệp lớn lao vĩ đại, và mới đem lại hạnh phúc cho toàn thế giới và nhân loại. Ở đâu các em cũng cần có kinh nghiệm mới có thể tiến bộ. Ðừng sợ thất bại vì thất bại là mẹ thành công. Khi còn trẻ, các em cần có khí phách của bậc anh hùng, oai phong hào khí ngất trời thì tương lai các em mới trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng, bậc nhân tài hoằng pháp xuất chúng.
Bây giờ chính là lúc các em phải xây dựng nền tảng kiên cố về cả hai phương diện học vấn và nhân cách. Nền tảng về nhân cách lại còn trọng yếu hơn nền tảng về học vấn nữa. Người có học vấn mà không có nhân cách thì sau này chỉ làm hại cho quốc gia, gây loạn lạc cho nhân loại. Vì lẽ đó các em cần phải rèn luyện nhân cách cho cao thượng để tương lai phục vụ nhân loại, đem lại lợi ích cho chúng sanh.
Muốn xây dựng nền tảng cho nhân cách được kiên cố, trước tiên các em phải học nói năng cho chính trực, thẳng thắn, và đừng bao giờ nói lời giả dối, hư ngụy. Hãy nhớ nhé! Các em chớ nịnh hót, nói những lời để người khác vui, cũng đừng nói lời trái ngược với lương tâm mình, lời nào cần nói thì nói, không cần phải nói thì đừng nói. Các em phải biết rằng: “Ngôn đa tất thất,” nói nhiều lời thì sẽ sai lầm, và rằng “bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu sanh,” bệnh là do miệng mà vào, họa là từ lời nói mà ra. Các em phải ghi nhớ, nên thận trọng!
Ðức Mạnh Tử dạy chúng ta ba tiêu chuẩn để rèn luyện nhân cách. Ngài nói rằng:
1) Lúc mình giàu có phú quí, thì phải giữ qui củ, không được dâm loạn,
2) Lúc mình nghèo hèn thì đừng thay đổi chí khí tức là không bị hoàn cảnh làm cho thay đổi chí hướng,
3) Lúc mình bị thế lực chèn ép thì không khuất phục, không đầu hàng, tức là không bị lợi lộc, vật chất làm cho mất hết danh tiết. Nếu các em có được chí khí cương trực hào hùng như vậy thì mới có thể trở thành những người hữu dụng sau này.
(Ngày 4 tháng 9 năm 1982)
Lầu Cao Vạn Trượng Ðều Từ Dưới Ðất Xây Lên
... Trẻ thơ giống như miếng vải tinh khiết, nhuộm màu xanh thì ra xanh, nhuộm màu vàng thì ra vàng. Các em tùy theo hoàn cảnh giáo dục mà biến chuyển, cho nên người đời nói rằng: gần mực thì đen gần đèn thì sáng. Các em chịu sự huân tập nhuộm màu của hoàn cảnh. Sách Tam Tự Kinh có nói rằng:
Nhân chi sơ, tánh bổn thiện
Tánh tương cận, tập tương viễn,
Cẩu bất giáo, tánh nãi thiên.
Có nghĩa rằng con người lúc ban sơ thì tánh tình vốn thuần thiện. .....
Các em thọ hưởng nền giáo dục ở Vạn Phật Thánh Thành, nếu thực hành được không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không ích kỷ, không vọng ngữ, thì trong tương lai đối với quốc gia xã hội các em nhất định sẽ có cống hiến lớn lao....
Các thầy cô thân mến,
Các vị hãy áp dụng tinh thần “coi con em người khác như chính con em mình” để giáo dục các em. Trẻ em là tài nguyên của đất nước, và cũng là nền tảng của quốc gia. Ðất nước mà tài nguyên không đủ, nền tảng không kiên cố thì làm sao trở nên giàu mạnh được? Các vị hãy gắng công!
Hãy Học Cho Giỏi Mới Trọn Vẹn Ðạo Hiếu
Quán Âm Thất kỳ này có nhiều học sinh tới tham _gia. Các em phải hiểu rõ đạo lý hiếu thảo với cha mẹ. Lúc còn ở nhà thì mình nghe lời, giúp đỡ cha mẹ dọn dẹp phòng ốc nhà cửa, quét tước sạch sẽ, giúp cha mình cắt cỏ, làm những việc cần làm, lúc đi học ở trường thì phải nghe lời thầy giáo, chuyên tâm nghe giảng bài, dụng công học tập, không nên để thời gian trôi qua lãng phí. Một ngày mình phải biết được một chữ, một ngày mình phải học một câu hay, đó là biểu hiện hiếu thảo với cha mẹ rồi đấy.
Ðến năm mười tám tuổi, không có sách gì để đọc. Lúc ấy tôi ở nhà nghiên cứu sách y học, ... tôi cũng có đọc sách về tướng mạo, sách bốc quái, hay sách về bát-tự, sách về toán mạng v.v.. Ðối với sách thuốc, sách bốc quái, sách tinh tướng, tuy tôi không tinh thông lắm, nhưng cũng hiểu được nghĩa lý của nó...... (phú quý như đóa hoa bên đường, công danh như giọt sương trên ngói).
Trẻ Em Là Rường Cột của Nước Nhà
Các bạn nhỏ thân mến! Các em hãy ngồi ngay _thẳng, yên lặng lắng nghe những điều tôi muốn nói hôm nay. Các em là những cây non mỗi ngày mỗi lớn cao, tương lai các em sẽ là rường cột cho đất nước mình. Các em cần làm nên sự nghiệp vĩ đại hiển hách, đem lại hòa bình cho thế giới, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. ...
.... Thế nào là đôn phẩm? Ðôn tức là đôn hậu. Phẩm là phẩm cách, có nghĩa rằng các em phải học làm sao cho kiến thức được phong phú, phẩm cách được cao thượng, đừng hút thuốc, đừng uống rượu, đừng hút xì-ke, cũng đừng bài bạc rượu chè, cũng đừng làm những hành vi bất lương không tốt.
Ðồng Tính Luyến Ái – Chính Là Tự Ðào Mồ Chôn Mình......
Ở trên đời chuyện gì cũng tương đối, có âm thì có dương, có trời thì có đất, có ngày thì có đêm, có lạnh thì có nóng, có nam thì phải có nữ, đó là lẽ tự nhiên. Nếu con người làm chuyện đồng tính luyến ái, thì nhân loại sẽ bị diệt vong, bởi vì hành động ấy không hợp với đạo lý của trời đất, đó là vấn đề rất nghiêm trọng.
Các em bạn nhỏ! Các em đối với vấn đề thiện ác hãy phân biệt cho rõ ràng. Ðừng nên sát sanh, đừng nên trộm cắp, đừng nên làm chuyện tà dâm. Ðừng nên nói dối trá, đừng nên rượu chè bài bạc, đừng nên hút thuốc, cũng đừng nên làm biếng giãi đãi, cũng đừng nên buông lung phóng dật. Ðối với bài vở hàng ngày các em phải nổ lực học tập, các em phải rèn luyện bồi dưỡng nhân cách đạo đức của mình, để thành một người có ích cho thế giới, một người hữu dụng.
Tiền Bạc Có Thể Hại Ðến Thân Mạng
.... Khi tiền bạc chất chứa nhiều rồi, thì sẽ có hại đến thân mạng.
Khổng Tử – Nhà Ðại Giáo Dục
Khổng Tử là nhà đại giáo dục. ... Ngài san định năm cuốn: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu, tức là Ngũ-kinh.
Cái Ðạo của Bậc “Ðại Học”
Ðạo của bậc “Ðại-Học” thì lấy ba cương lĩnh và _tám điều mục làm tông chỉ. Thế nào là ba cương lĩnh? Tức là minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện. Minh đức có nghĩa rằng sau khi mình tự thanh tịnh, chiếu soi quang minh tự tánh của mình, nhiên hậu dạy người khác chiếu soi, thanh tịnh quang minh tự tánh của họ. Thân dân có nghĩa là khiến cho tất cả mọi người đều biết con đường chính đáng, làm sao trở thành những người thông hiểu đạo lý. Chỉ ư chí thiện là mọi người cùng đạt tới chỗ cùng cực thiện hảo.
Thế nào là tám điều mục, tám điều khoản, hay là tám điều kiện? Tức là cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Cách vật là gì? Tức là nghiên cứu lý tánh của vạn vật vạn sự trong trời đất .
Trí tri là gì? Là vận dụng trí huệ, tỉ mỉ nghiên cứu phong cách mọi sự vật để biết đến chỗ cùng cực.
Chánh tâm là gì? Tức là tâm đoan chính làm chủ tể thân mình.
Thành ý tức là khởi ý thành thật.
Tu thân tức là sửa đổi, tu tập để trở nên người tốt, có đức hạnh.
Ðó là năm điều thuộc về việc học của thân tâm.
Tề Gia tức là cai quản nhà mình.
Trị quốc tức là quản lý, lãnh đạo đất nước mình .
Bình thiên hạ tức là làm cho thiên hạ được thái bình.
Ba điều này thuộc về môn học chính trị.
Trên đây là học thuyết của Ðức Khổng Tử và cũng là lý tưởng rất cơ bản, của đạo lý Nho-Giáo. Ngày hôm nay tôi chỉ giải thích sơ lược về ba cương lĩnh và tám điều mục trong sách “Ðại-Học,” tương lai tôi sẽ nói rõ hơn cho các bạn nghe. (Nguồn: Khai thị Q3-HT Tuyên Hóa)
+ Đọc sách - Đọc kinh: Cho nên, PS Tịnh Không đến 86 tuổi mỗi ngày tôi vẫn là đọc sách 4 giờ đồng hồ, người xưa nói "sống đến già, học đến già, học ko hết”. Tôi có thể nói với mọi người, ngày nay tôi tất cả buông bỏ chỉ học "Kinh Vô Lượng Thọ", chỉ học Khoa Chú của lão Niệm Tổ, mục đích chính là cầu sanh Tịnh Độ, đây là thật. PS Tịnh Không giảng, cổ nhân nói: “đọc sách ngàn biến, nghĩa nó tự hiểu” (Nguồn)
+ Cách đọc sách - Chân Sư dậy: Trước tiên ta phải đọc qua một lượt để nắm những nét chính của quyển sách, tìm ra ba hay bốn tiên đề mà quyển sách dựa vào đó. Sau đó, chúng ta quay trở lại đọc nhiều lần để bổ sung những điểm chi tiết giải lý những điểm chính trên. Tốt nhất là chúng ta làm một bản tóm tắt những điểm chính của từng chương trong quyển sách. Cách làm như vậy giúp chúng ta hệ thống hoá kiến thức và khi quay trở để đọc sau nầy, chúng ta dễ dàng ôn lại những gì chúng ta đã đọc. (Nguồn: Hãy suy ngẫm kỹ_Chân Sư DK)
+ Phương pháp Tu cải mệnh toàn diện - Triệt để và nhiệm mầu
- Năng lượng chi phối sống chết:
Đức Phật dậy, có 84.000 ác tinh chi phối vận mệnh con người, trong đó có 28 đại ác tinh và 8 chủ ác tinh. Ở Trung Quốc phân ra gồm 4 chòm sao bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc gồm Thanh long - Bạch hổ - Chu tước - Huyền vũ, mỗi chòm 7 ác tinh.
Tám ác chủ tinh gồm Mộc tinh - Hỏa tinh - Thổ tinh - Kim tinh - Thủy tinh và La hầu - Kế đô với Sao chổi.
Bảy ngôi sao phương Bắc giữ quyền sinh sát các chúng sanh gọi là Bắc đẩu Thất tinh.
- Cách Hóa giải - Tiêu trừ hoàn toàn mọi năng lượng xấu ác của 8.4000 ác tinh là thọ trì đọc tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm hoặc Thần Chú Đại Bi, hoặc các Đại Thần Chú trong Phật giáo mà đức Phật tuyên thuyết. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q7 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Cách tu: Trong Kinh, đức Phật dậy trình tự sau đây không thể đảo nghịch với ai muốn Tu hành bất kể trình độ nào:
a/ Học hiểu và tin sâu Nhân quả - Luân hồi: Kiếp sống hiện tại sướng khổ đều do Nghiệp báo của chính Ta tạo tác, chính Ta là người phải chịu trách nhiệm, không ai khác. Theo đó, khi quả báo đến đều an nhiên đón nhận mà không than trời, trách người ..., cũng cần thực hành buôn xả vạn duyên xấu ác khi nó đã sảy đến, xem như Quả báo đã trả xong, Nợ đã hết không dữ trong Tâm nữa để tránh tạo nghiệp đời vị lai lại phải trả.
b/ Thường nghe giảng Kinh Pháp cả các bậc Thiện tri thức xuất gia tu đạo hạnh như đức Đại Lai Lạt Ma; Thiền sư Thích Nhất hạnh; Hòa thượng Tịnh Không; Hòa thượng Tuyên Hóa; thầy Thích Trúc Thái Minh ....
c/ Tu làm người thiện lành - Thiện tri thức: Ai cũng phải tu giữ nghiêm ngũ giới - Hành thập thiện hàng ngày. Thường ngày cần thực hành bố tài - Bố thí Pháp - Bố thí Vô úy thí theo khả năng. Nói tu đạo làm người theo giáo lý Đông phương/ Đạo Nho là tu giữ Ngũ Luân và Ngũ thường để trở thành bậc Người quân tử trong nhân gian. Không tu thành tựu Đạo Làm Người Thiện lành này thì chẳng thể tu trì bất cứ Pháp môn nào, vì như trong Kinh đức Phật thường nói THIỆN NAM TỬ - THIỆN NỮ NHÂN hay TÍN NỮ là vậy. Không thiện lành, không thành kính Lễ Lạy Đọc Tụng, không tin tưởng tuyệt đối vào Nhân quả Phật Pháp và thường ngày tu tinh tấn thì chẳng có cách gì để Cải tạo số phận. Như thế chẳng khác nào tự mình đầu hàng số phận, chấp nhận SỐ PHẬN AN BÀI, đây chính là tư tưởng SAI LẦM KHỦNG KHIẾP, là vì Nghiệp đã tạo KHÔNG BAO GIỜ MẤT - CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT, kiếp này chửa trả xong, kiếp sau phải trả tiếp lối từ điểm chết trong tiền kiếp là vậy. Ví dụ, kiếp này phải chết trong sự đói nghèo cùng cực thì kiếp sau tái sinh trong gia đình cũng đói nghèo cùng cực, cái ăn chẳng đủ, tã lót chẳng có mà mặc. Hoặc giả sử khi chết gia đình lục đục tranh chấp chia ly thì khi tái sanh cũng lại phải rơi vào hoàn cảnh gia đình cha mẹ, người thân tranh chấp, lục đục, chia ly, thậm chí mồ côi cha mẹ ngay từ lúc sinh ra. Vạn sự tương tự cứ thế mà suy ra => Quả báo không thể sai chạy dù chỉ một chút, ai ai cũng vậy cả. Đức Phật dậy GIEO NHÂN GÌ THÌ GẶP QUẢ ĐÓ: TRỒNG DƯA ĐƯỢC DƯA - TRỒNG ĐẬU ĐƯỢC ĐẬU. Chỉ có tu hành đúng NHƯ PHÁP THỌ TRÌ để sửa đổi Cải số phận tốt lành lên ngay kiếp sống này và cho nhiều kiếp sau được sống sung sướng trong giầu có, thông minh trí tuệ, gia đình hành phúc, ít bệnh nạn, tuổi thọ cao ...
d/ Chọn tu niệm Hồng danh: Tùy theo duyên mà quý vị trọn tu niệm Nam Mô A Di Đà Phật - Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát - Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát - Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lại - Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ....
e/ Chọn Kinh Chú tu hành: Thọ trì đọc tụng Kinh Sám hối nghiệp chướng như Lương Hoàng Sám; Thủy Sám, Mục Liên Sám ..... Trong các Pháp sám hối, có Kinh Sám Hối Chiêm Sát Thiện Ác của Địa Tạng Bồ Tát có thể gieo Mộc Luân để biết thành tựu trong tu hành tiêu trừ nghiệp chướng.
Trên đây là Nhân Trắc Học tổng hợp kiến thức từ trong Kinh Phật dạy. Căn bản từ các Kinh:
- Các Kinh: Kinh Nhân Quả Ba Đời - Kinh Thiện Ác Nghiệp Báo Sai Biệt - Kinh Hiền Nhân - Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo - Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng ...Ngoài ra theo đạo Nho, đạo Khổng Tử để tu đạo làm người thiện lành đều là bước tu khởi đầu tốt đẹp.
- Thần Chú Lăng Nghiêm: Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật dậy Thần Chú Lăng Nghiêm phá trừ 84.000 ác tinh chi phối đời sống muôn loài. Người tu thọ trì Thần chú này thì hoàn toàn vượt thoát ngoài các năng lượng xấu ác tri phối bởi các ác tinh này. (Quyển 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Thần Chú Đại Bi: Trong Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngài Đại Bi Tâm Đà La Ni, đức Phật tuyết thuyết Thần Chú Đại Bi thông thiên địa.
=> Tùy theo Căn tánh - Tùy duyên - Tùy trình độ năng lực mà có thể tu hành các mức khác nhau, nhưng chắc chắn có tu là có thành tựu tương ứng.
+ Khổng tiên sinh bói số mạng - Sách Liễu Phàm Tứ: Sau ta gặp một cụ già tại chùa Từ Vân, cụ râu dài oai nghi, phơi phới như tiên. Ta do đó cung kính chào hỏi. Cụ thấy ta bèn nói: « Tướng ngươi có mạng làm quan, năm tới sẽ đậu Tú Tài, sao giờ này còn lang thang ở đây không lo học ? » Ta trình bày nguyên do và đồng thời xin cụ cho biết tên họ và quê quán. Cụ nói: « Ta họ Khổng, người Vân Nam. Ta được chân truyền quyển Hoàng-Cực-Số (3) của ông Thiệu. Ta biết môn này sau này sẽ truyền lại cho ngươi. » Ta mời cụ về nhà và kể lại cho mẹ. Mẹ dặn phải tiếp đãi tử tế và xem cụ đoán số ra sao. Cụ bói cho ta từ việc lớn đến việc nhỏ đều chính xác vô cùng. Làm ta ước mơ trở lại học văn và bàn giấy với ông anh họ Thẩm Xứng. Ông anh nói: « Thầy Úc Hải Cốc đang mở lớp học tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, anh sẽ gởi em đến đó học không thành vấn đề. » Ta bèn bái lạy thầy Úc làm thầy......
..... Thiền sư trả lời rằng: « Lòng người còn lăng xăng không yên, thì còn bị bị âm dương khí số (1) trói buộc, làm sao có thể bảo là không số mạng được ? Nhưng số mạng chỉ chi phối cho người thường, là những người suốt đời sống xuôi chiều theo tánh mình, không biết thay đổi mà thôi. Còn đối với những người có sự chuyển biến mạnh mẽ thì số mạng không thể chi phối. Như người trở nên quá tốt, sẽ thấy đời đi lên. Ngược lại, người trở nên quá xấu sẽ thấy đời đi xuống. Hai mươi năm nay Khổng tiên sinh cho ngươi thấy được số mạng mà ngươi không thể thay đổi chút nào, vậy không phải phàm phu là gì » .... Mạnh Tử dạy: .... Tìm bên ngoài ta thì vô ích, chẳng tìm được ...
Sư trả lời: « Mạnh Tử nói rất đúng, chỉ vì ngươi hiểu sai mà thôi. Ngươi không nghe Lục Tổ nói sao ? "Tâm ta như miếng ruộng, phước hoạ do mình trồng". Phải tìm trong lòng mà gieo, không gì mà không được cả. Tìm do ta, không riêng nhân nghĩa đạo đức, mà công danh phú quý cũng sẽ được hết. Trong và ngoài đều được, tìm như vậy mới có ích lợi vì tìm được. Ngược lại, nếu không biết xem xét trong lòng mà tìm cầu bên ngoài, thì có vẽ đúng cách tìm nhưng được hay không lại tuỳ thuộc số mạng. Cuối cùng trong và ngoài đều mất. Vì vậy Mạnh Tử nói "vô ích" là vậy ». (Nguồn: Liễu phàm tứ huấn)
+ Giảng về Liễu Phàm Tứ Huấn Cải Mệnh
... Khi lão già K’ung thấy Yuan Hsiao Hai, lão nói: “Anh nên đi học. Anh sẽ làm quan.” Yuan Hsiao Hai nói: “Nhưng cha mẹ tôi và toàn gia đình đều mong muốn tôi thành thầy thuốc.”
Lão K’ung đáp: “Đừng học thuốc. Anh nên đi học chữ. Vào chừng ấy năm, anh sẽ đỗ được học vị như vậy như vậy trong kỳ thi Đình, và trong chừng ấy năm anh sẽ trở thành một vị quan lớn. Rồi vào năm đó năm đó, ngày đó tháng đó, anh sẽ trở thành quan án sát, anh sẽ trở nên rất có danh vọng. Khi anh 45 tuổi, vào ngày 14 tháng 8, lúc nửa khuya, vợ anh sẽ qua đời. Anh không có con nối dõi.” Lão già K’ung không những định được ngày tháng cho những sự kiện lúc sinh thời mà còn biết được cả ngày chết của anh ta.
...... Anh ta ngồi và đợi người ta đưa thức ăn tới. Có câu ngạn ngữ nổi tiếng ở Trung Hoa: “Ngồi chờ sung rụng”, như vậy nghĩa là không làm gì cả, chỉ trông mong vào sự sắp đặt của tự nhiên, chỉ mong số mệnh hiển bày. Đó thật là sai lầm. .....
“Ồ!” –Thiền sư Yuan Ku nói – “Ông thật là bậc pháp khí, có khả năng nhập đạo. Ông đã ngồi thiền suốt ba ngày mà không nhúc nhích hoặc thay đổi tư thế.”
Yuan Hsiao Hai đáp lại: “Tôi biết mọi việc đều do nhân duyên tiền định. Thế nên tôi không mong cầu gì cả. Đó là nguyên nhân khiến tôi không có chút vọng tưởng nào khi ngồi ở đây, thế nên tôi chẳng thấy đau chân chút nào cả.”
Chân nhức mỏi do đâu? Do vọng tưởng, có nghĩa là vọng kiến mà kinh nầy đang nói đến. Vì vọng kiến, nên chân đau. ...
Thiền sư Yuan Ku nói: “Tôi nghĩ rằng anh là người kỳ đặc. Nhưng như điều anh vừa cho biết, thì anh chỉ là kẻ phàm phu.”.....
Thiền sư Yuan Ku nói: “Nếu ông chẳng phải là phàm phu, thì ông đã không bị trói buộc vào số mệnh sẽ xảy ra trong vài chục năm tới. Ông đã bị dính chặt vào định mệnh và chẳng có cách nào thóat ra được cả.”
..... Yuan Hsiao Hai hỏi: “Người ta có thể thóat khỏi số mệnh không? Đừng để cho định mệnh trói buộc được chăng?”
Thiền sư Yuan Ku đáp: “Anh là người có học. Anh không nghe Kinh Dịch nói: “Phát khởi điều tốt lành và tránh việc ác” đó sao?
Sau đó Yuan Hsiao Hai đổi tên mình là Dương Liễu Phàm, “không còn làm kẻ phàm phu nữa”. Ta không phải là kẻ phàm phu nữa. Ta không còn là phàm phu nữa. Sau đó lời tiên đoán của Lão K’ung không còn đúng nữa. Lão ta nói rằng Yuan Hsiao Hai sẽ chết vào ngày 14 tháng 8, lúc 54 tuổi, nhưng đến đó anh ta không chết. Tử vi nói rằng anh ta không có con, nhưng anh ta lại có hai người con. Anh ta sống đến 80 tuổi. Nên số mệnh của con người không phải là nhất định. Làm việc thiện là tất cả những gì quý vị cần phải thực hành, vì ngay khi thay đổi tâm niệm thì mọi thứ đều thay đổi. Tại sao có việc không lành? Vì có tâm niệm không lành của quý vị trong đó. Đó là lý do tại sao quý vị gặp việc chẳng lành. Điều này chứng tỏ rằng vọng kiến làm sinh khởi các nhân duyên hư dối. Nếu quý vị có chánh kiến, thì nhân duyên hư dối kia sẽ biến mất. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Sách Đệ Tử Quy - Đạo làm người con hiếu thảo
TỔNG TỰA
1. Phép người con, Thánh nhân dạy.
Hiếu đệ trước, kế cẩn tín.
Yêu bình đẳng, gần người nhân.
Có dư sức, thì học văn.
Ở NHÀ PHẢI HIẾU
2. Cha mẹ gọi, trả lời ngay.
Cha mẹ bảo, chớ làm biếng.
Cha mẹ dạy, phải kính nghe.
Cha mẹ trách, phải thừa nhận.
3. Đông phải ấm, hạ phải mát.
Sáng phải thăm, tối phải viếng.
Đi phải thưa, về phải trình.
Ở ổn định, nghề không đổi.
4. Việc tuy nhỏ, chớ tự làm.
Nếu đã làm, thiếu đạo con.
Vật tuy nhỏ, chớ cất riêng.
Nếu cất riêng, cha mẹ buồn.
5. Cha mẹ thích, dốc lòng làm.
Cha mẹ ghét, cẩn thận bỏ.
Thân bị thương, cha mẹ lo.
Đức tổn thương, cha mẹ tủi.
Cha mẹ thương, hiếu đâu khó.
Cha mẹ ghét, hiếu mới tốt.
6. Cha mẹ lỗi, khuyên thay đổi.
Mặt ta vui, lời ta dịu.
Khuyên không nghe, vui can tiếp.
Dùng khóc khuyên, đánh không giận.
7. Cha mẹ bệnh, nếm thuốc trước.
Ngày đêm hầu, không rời giường.
Tang ba năm, thường thương nhớ.
Chỗ ở đỗi, không rượu thịt.
Tang đủ lễ, cúng hết lòng.
Việc người chết, như người sống.
Còn dài, mời xem bản toàn văn: Đệ Tử Quy rất tuyệt diệu
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói dối thì liền đạt 8 loại pháp được Chư Thiên khen ngợi:
1. Một là, miệng thường sạch sẽ với mùi thơm của hoa sen xanh.
2. Hai là, được người đời tin phục.
3. Ba là, lời nói ra luôn có chứng cứ, được hàng Trời, người kính mến.
4. Bốn là, thường đem lời ái ngữ an ủi mọi người.
5. Năm là, được tâm an vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh.
6. Sáu là, lời nói không lầm lỗi, tâm thường vui vẻ.
7. Bảy là, nói năng trang trọng, hàng Trời, người phụng hành.
8. Tám là, trí tuệ thù thắng không ai chế ngự được. Nguồn: Kinh thập thiện
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói thêu dệt thì liền thành tựu được 3 pháp:
1. Một là, chắc chắn được bậc trí thương mến.
2. Hai là, chắc chắn có thể dùng trí tuệ giải đáp mọi câu hỏi đúng sự thật.
3. Ba là, chắc chắn có được oai đức hơn hết, không hư dối đối với hàng Trời, người. Nguồn: Kinh thập thiện
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Giới Dâm: Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ, cùng phi đạo mà hành dâm dưới mọi hình thức: nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục. Là Phật tử, đối với tất cả mọi đối tượng trên, không được cố ý dâm dục và phải có lòng hiếu thuận, cứu độ tất cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh răn dạy người; trái lại, không có tâm từ bi, làm cho mọi người sanh việc dâm dục, không phân biệt súc sanh cho đến mẹ con, chị em trong lục thân cũng hành dâm. Phật tử này phạm Ba La Di tội.(Nguồn)
+ Tình dục là gốc của khổ. Bởi vì có tình, có dục là có chấp trước.
Trong kinh “A Hàm” có câu chuyện kể, Phật hỏi học trò: “Các người nói xem nước 4 đại dương nhiều hay là nước mắt chúng ta đổ ra vì trong quá khứ phải biệt ly với người thân, bên nào nhiều hơn?” Học trò trả lời: “Nước mắt đổ ra nhiều hơn”. Đức Phật tỏ ra vui vẻ, vì học trò của mình đã trả lời đúng;
- Có tình dục là có đau khổ, bi ai, nước mắt chảy. Cái khổ đó là do chấp trước. Chấp trước vào tình dục cho nên đau khổ. Nếu anh có người bạn, bị người yêu là nam hay nữ từ bỏ, anh không cảm thấy đau khổ, nhưng nếu bản thân anh bị người yêu là nam hay nữ từ bỏ, anh sẽ cảm thấy rất đau khổ, bởi vì anh cảm thấy đối phương, tức người mình yêu là “của anh”. Nhưng sự thực không phải như vậy, đối phương không phải là do anh đẻ ra, dựa vào đâu mà nói rằng là “của anh”, thân thể, tư tưởng, ý nghĩ đều là của cô ta, đâu phải là của anh. Chỉ cần anh nhận thức rõ, cô ta không phải là của anh, thì anh sẽ bớt đau khổ. Anh khổ là vì anh chấp trước cô ấy là của anh.
Vì bản chất tình dục là thống khổ, cho nên tình dục vĩnh viễn không thể nào thỏa mãn đầy đủ được. Đau khổ là có chấp trước. Không phải chỉ có chúng ta là phàm phu mới chấp trước. Có những người tu hành rất tốt cũng chấp trước. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
Xem thêm: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Chân thật: Điều này chủ yếu có liên quan tới việc sử dụng lời nói và các cơ quan phát âm, và có liên quan tới sự “chân thật tận thâm tâm” (“truth in the inmost part”) sao cho sự chân thật biểu lộ ra bên ngoài. (ASCLH, 185)
+ 481. NÓI LÁO
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Ai nói láo tất phải chịu ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta nói láo ấy là tự hại mà cũng xuyên tạc phỉ báng người khác. Chư Thiên và các vị phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta, khi thân hoại mạng chung tất sẽ phải đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Ai nói láo tất phải chịu ác báo này đời này và đời sau như vậy. Nay ta nên y cứ trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo chăng?’ Rồi vị ấy y cứ trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo. Như vậy Đa văn Thánh đệ tử y trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
+ Giới Khẩu nghiệp: Không có lời Vọng ngữ/ Nói Dối - Nói Sai Sự Thật - Nói Láo - Nói A Dua - Nói Nịnh Hót. Cổ nhân thường nói: “Nhân vô tín tắc bất lập”. Trong xã hội cổ đại Trung Quốc đối với chữ tín vô cùng coi trọng. “Ngũ thường”, “thường” là thường hằng, là nhất định không thể mất đi, cho nên “ngũ thường” còn gọi là thường đạo, cũng chính là đạo lý cơ bản làm người: “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. Phật nói rõ: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”. Ý nghĩa của lời nói này là “Tín là căn nguyên vào đạo, có thể sinh công đức”, cho nên “tín” gọi là công đức mẫu. Ý nghĩa của mẫu là năng sinh. Ngũ thường “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” thì bạn ở đâu cũng có thể nhìn thấy xã hội này, thời đại này là có phước, nhà Phật gọi là phước địa, phước thành. “Nhân” là nhân từ, “nghĩa” là đạo nghĩa, “lễ” là lễ tiết, trí tuệ, lòng tin thì xã hội này có phước. Cổ nhân thường nói: “Tu hành bắt đầu từ không vọng ngữ”. Phật pháp nói là: “Thường sinh tâm hoan hỷ” => Nếu như từ trên tướng mà nói, liền được tướng lưỡi rộng dài của Như Lai, đó là nói từ trên tướng.... Các nghiệp đều từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sinh ra. Lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bạn mới nhìn thấy chân tướng của vũ trụ nhân sinh (Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Phật dậy không được nói sai sự thật - Dối trá
a) Nói dối - Nói láo: là không nói thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạc; hay là khi ưa thì nói dịu ngọt thơm tho, khi ghét lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ lời nói việc làm trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài bất nhất, đều thuộc về nói dối cả.
b) Nói thêu dệt: Là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận; là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe, làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù phiếm, bóng bẩy làm cho kẻ nghe phải loạn tâm, sanh phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ Phật dậy Không Nói dối (Nguồn: Chánh ngữ):
1. Không nói dối hay Nói láo hay Vọng ngữ : Chân chính trung thực, nói sự thật, không dối trá lừa gạt, chuyện có nói không, không nói có, vu oan giá họa vì bất cứ lợi ích gì để tránh bị đọa đường ác.
- Ví như: “Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy; Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; Biết nói không biết, không biết nói biết; Biết trái nói phải, biết phải nói trái.”
+ Điều 2/14 điều răn Đức Phật dậy: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.”
+ Nói A dua - Nịnh hót: 7. Các đệ tử, tâm lý dua nịnh trái ngược hoàn toàn với đạo giải thoát. Nên biết: Dua nịnh là điều dối trá mà người xuất gia không nên có. Phải làm cho tâm ý đoan chánh, phát huy đức tánh trung trực. Đó là con đường vào đạo. Đức Phật dậy (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
+ Vọng ngữ: “Ly hư cuồng ngữ” chính là không vọng ngữ. Dùng tâm chân thành đối nhân, xử thế, tiếp vật. Thành thật, hai chữ này xưa nay, trong ngoài nước thật sự là không phân quốc gia, không phân chủng tộc, không phân tôn giáo đều tán thán, đều hoan hỷ. Vọng ngữ, lưỡng thiệt là đại giới ở trong Phật pháp. Xưa nay biết bao người tu hành, tu tích công đức nhưng không thể thành tựu, vì sao vậy? Vì từ trong vọng ngữ, lưỡng thiệt đã sơ xuất rồi. Phiền não (trong kinh Phật gọi là “hữu lậu”) khiến pháp tài công đức của bạn chảy hết, công đức mà bạn tu không còn nữa, chảy hết rồi. Lỗ chảy rất nhiều, lỗ chảy của vọng ngữ, lưỡng thiệt là lớn nhất. Lưỡng thiệt là xúi giục thị phi.(PS Tịnh Không - Tập 41 - Kinh TTNĐ)
+ I- Kinh Thập thiện, khẩu nghiệp gồm:
1. Nói Dối trá: Không Chân thật/ Thật Thà - Nói Ỷ ngữ - Nói A dua nịnh hót - Nói Thêu dệt - Nói Thêm Bớt
2. Nói Ác khẩu: Độc Ác - Nói Quát tháo - Nói Hung Ác - Nói Nhục mạ, Phỉ báng mang đến khổ đau cho người.
3. Nói lưỡng thiệt: Nói Hai Lưỡi - Đôi Chiều - Đòn Sóc 2 đầu gây hiểu lầm, chia rẽ, hận thù.
4. Nói Ỷ ngữ: Lời Vô Nghĩa - Nhảm Nhí - Phù Phiếm
+ Lời Phật dậy khác cho Tu Sỹ, Thánh Hiền:
+ Các thầy phải: “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như chánh pháp”
+ Tránh lời nhuc mạ, phỉ báng: “Chớ nên phỉ báng một ai; Đừng gây tổn hại cho người xung quanh.
Lời nói phải chân thật, đúng lúc (phù hợp với hoàn cảnh (khế cơ)", hợp Chánh pháp, ích lợi cho mình và cho người.
=> Phải biết đối tượng và hoàn cảnh, trình độ nhận thức ở mức độ nào? Nếu không, dù lời nói đúng sự thật cũng trở thành phi pháp;
+ Sinh vào cảnh trời: Có hạnh “chân thật, nhẫn nại và bố thí”. Đức Phật giải thích là các hạnh đó tuy nhỏ vẫn có thể dẫn đến các cõi Trời. (Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo)
+ Lời Nói Thận Trọng: ... "Thận trọng lời nói" có nghĩa là đừng mặc tình nói những gì mà mình thích nói. "Giữ gìn tâm ý" có nghĩa là giữ cho tâm ý mình đừng lang thang, giữ cho tâm không sinh vọng tưởng. Đừng truy cầu sự thuận lợi. "Hành vi chớ thô tháo." Giữ cho thân không phạm những nghiệp xấu.
"Đừng gây xúc não cho hết thảy mọi loài chúng sinh." Có nghĩa là đối với hết thảy mọi người cũng như mọi loài chúng sinh nào tiếp xúc với mình, đừng khiến cho họ sinh khởi phiền não. Đừng gây não loạn cho mọi loài chúng sinh. Ngay cả những người đồng tu với mình, cũng đừng gây phiền nhiễu cho họ. Đôi khi mình vô tình gây ra những lỗi lầm khiến cho sinh hoạt của họ phải bị xáo trộn; trong trường hợp như vậy, quý vị nên tìm cơ hội thuận tiện để giải thích và đừng để tình trạng đó tiếp diễn nữa.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Vọng Ngữ: Người học Phật hiện tại lắm kẻ tự thị ta đã khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đã đắc thần thông đến nỗi làm lắm kẻ khác bị lầm theo. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc lâm chung, cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, khó tránh khỏi địa ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm cái thói ham cao, ưa thắng, dối mình, lừa người ấy; nếu trót dính vào thì phải sửa ngay. Còn ai không vướng phải thói ấy thì càng phải cố tránh. Thật rất mong mỏi vậy.
Sát, trộm, dâm… đều là trọng tội; nhưng vẫn còn có người biết những hành vi ấy chẳng tốt, không phải ai cũng mắc phải nên những tội ấy còn ít. Nếu chẳng tự lượng, phạm tội đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng đã nói chứng để lãnh đạo những hạng vô tri thì tội ấy càng nặng nề lắm. Hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, mê lầm, tội ấy chẳng thể hình dung được nổi!
Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng hư trương thanh thế, bôi mặt, bày trò thì dù có tu hành cũng bị cái tâm kiêu hư ấy phá hoại quá nửa. Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữ là Căn Bản Giới, nhằm để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu chơn tu, thực chứng.
Thế nên, người tu hành chẳng được hướng về người khác khoe khoang công phu của chính mình. Nếu như vì chẳng hiểu rành rẽ, muốn cầu thiện tri [thức] khai thị, ấn chứng thì có thể tự trần thuật đúng ngay sự thực, chứ chẳng thể tự kiêu nói quá lên, cũng bất tất phải tự khiêm nói giảm đi, cứ nói đúng theo tình huống chân thật thì mới là đệ tử Phật chơn chánh, mới có thể ngày một tiến bộ hơn.(ẤN QUANG ĐẠI SƯ_Facebook Sơn Nguyên))
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Chánh Ngữ (bát chánh đạo) trong Phật Giáo: Là Nói lợi mình và Người.
- Kinh tương ưng bộ: Chánh ngữ là từ bỏ các lời nói láo - hai lưỡi - độc ác - phù phiếm.
1. Không nói dối hay Nói láo hay Vọng ngữ (Giới 2 trong 5 Giới - Người tại gia tạo Khẩu nghiệp): Chân chính trung thực, nói sự thật, không dối trá lừa gạt, chuyện có nói không, không nói có, vu oan giá họa vì bất cứ lợi ích gì để tránh bị đọa đường ác.
2. Không như mắng nhiếc, mạ lỵ, phỉ báng, nhục mạ - Gây đau lòng, tổn thương: Không xúc phạm = lời nói hung ác, xiên xỏ, nguyền rủa, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời, lời nói cộc cằn, thô lỗ. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa. Nên nói lời hoà nhã, dịu dàng, hiền hậu, đạo đức, từ bi, lợi lạc ai nghe cũng hân hoan, kính trọng.
3. Không nói Hai lưỡi như thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá: Tránh "tà ngữ” với ác tâm. Không nói lời hai lưỡi, đòn xóc hai đầu, làm người ghét nhau, thù nhau. Không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, nói châm chọc gây buồn phiền và khởi tà niệm. Không gây tạo ác cảm cho 2 bên thù oán, sân hận đấu tranh. Có dịp thì khuyên can người nói tà ngữ.
4. Không nói lời phù phiếm: Chuyện phù phiếm, nhảm nhí, vô nghĩa hay u mê... mất yên tĩnh và định tâm. Nói sau lưng là tà ngữ, không xét đúng/ Sai. Xem: Chánh ngữ trong Phật Giáo
+ 125. CHÁNH NGỮ
Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó ngoài bốn diệu hành thuộc miệng, còn các ác hành khác nơi miệng đều viễn ly, đoạn trừ, không hành, không tạo tác, không tập hợp và không tụ hội. (Nguồn mục 125 - (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31))
+ 3. Chánh ngữ: Là trong lời nói của chính mình không có một chút ý nào dâm loạn. Những lời nói ra đều thật đứng đắn. Nếu ai có nói với mình những lời không đứng đắn, mình cũng phải nói với họ những lời đứng đắn mà không được dùng lời không đứng đắn đáp lại. Ðó tức là chánh, là khẩu nghiệp thanh tịnh. Trên đời này bất cứ người nào cũng gặp phải điều ấy. Nếu có ai nói những lời không đứng đắn, chẳng cần phê bình họ nói không đúng, mà không nên tiếp cận với họ là được. Nhưng mặt khác, bạn không cần cho họ là nói lời không chánh đáng, thế thì không chánh đáng cũng biến thành chánh đáng. Chánh tư duy tức là ý thanh tịnh, mà chánh ngữ là khẩu nghiệp thanh tịnh. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ 3. Chánh ngữ: Chánh ngữ là lời nói chân thật không hư dối, có lợi ích chính đáng, công bình, ngay thẳng và hợp lý. Lời nói không làm tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người khác.(Sách: Sự Hiển Lộ Của Thánh Đoàn)
+ Lời thù ghét (word of hate), lời nói độc ác, vốn hủy hoại những người cảm nhận ảnh hưởng mạnh của nó, là câu chuyện phiếm độc hại, được truyền đi vì nó gây ra một sự chấn động – những lời này giết chết những sự thôi thúc mong manh của linh hồn, cắt tận gốc rễ của sự sống, và vì thế đưa đến cái chết.
Nếu được nói dưới ánh sáng ban ngày, chúng sẽ mang lại sự trừng phạt xứng đáng; khi được thốt ra và được ghi nhận là những lời dối trá, chúng củng cố cho thế giới ảo tưởng mà người nói đang sống trong đó, và ngăn giữ y thoát ra.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó.(LVHLT, 474)
+ Ngũ Giới:
+ Nói lời hung ác: Là nói những tiếng thô tục cộc cằn chửi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ 2. Không mắng nhiếc, mạ lỵ, phỉ báng, nhục mạ - Gây đau lòng, tổn thương: Không xúc phạm = lời nói hung ác, xiên xỏ, nguyền rủa, phỉ báng, nhục mạ, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời, lời nói cộc cằn, thô lỗ. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa. Nên nói lời hoà nhã, dịu dàng, hiền hậu, đạo đức, từ bi, lợi lạc ai nghe cũng hân hoan, kính trọng. Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo
+ Phỉ báng hay Hủy báng Tam Bảo, bất luận bạn cố ý, vô ý đều là tội nặng, trong các ác nghiệp chẳng có thứ nào nặng hơn chuyện này. Bạn giết hại một người, giết hại sanh mạng, trong Kinh nói 49 ngày thì người đó đi đầu thai trở lại (Nếu họ còn phước báo ở nhân gian), do đó tội sát sanh nhỏ, tội đoạn dứt huệ mạng của chúng sanh mới lớn (Gặp Phật Pháp rất khó). (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Tất Cả Đức Phật đều khuyên tránh lời nhuc mạ, phỉ báng:
“Chớ nên phỉ báng một ai
Đừng gây tổn hại cho người xung quanh
Giữ gìn giới luật nghiêm minh
Uống ăn chừng mực cho thành thói quen
Lánh riêng sống chỗ tịnh yên
Chuyên tu thiền định, hướng miền thanh cao
Lời chư Phật dạy lành sao!”
Xem: Chánh ngữ trong Phật Giáo
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói thêu dệt thì liền thành tựu được 3 pháp chắc chắn:
1. Một là, chắc chắn được bậc trí thương mến.
2. Hai là, chắc chắn có thể dùng trí tuệ giải đáp mọi câu hỏi đúng sự thật.
3. Ba là, chắc chắn có được oai đức hơn hết, không hư dối đối với hàng Trời, người.
Đây là 3 pháp, nếu có thể đem hồi hướng lên quả vị Bồ Đề Vô Thượng thì sau khi thành Phật, sẽ đạt các chỗ được thọ ký của Như Lai luôn đích thật.
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói hai chiều thì liền được 5 loại pháp chẳng thể hư hoại:
1. Một là, được thân bất hoại vì không ai hại được.
2. Hai là, được quyến thuộc bất hoại vì không ai phá được.
3. Ba là, được tín tâm bất hoại vì thuận theo nghiệp đã có.
4. Bốn là, được pháp hạnh bất hoại vì sự tu tập kiên cố.
5. Năm là, được thiện tri thức bất hoại vì không hề lừa dối.
Đây là 5 pháp, nếu có thể đem hồi hướng lên quả vị Bồ Đề Vô Thượng thì sau khi thành Phật, được quyến thuộc chân chánh, các ma, ngoại đạo chẳng thể phá hoại.
Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Đức Phật dậy không nói Vô nghĩa/ Vô ích - Nhảm Nhí - Phù Phiếm - Giễu cợt. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ “Ngôn từ mỹ diệu” không phải là nói âm thanh nghe hay, âm thanh nghe hay dĩ nhiên là có trong đó. Ý của “mỹ diệu” càng sâu xa hơn nữa, là khiến người khác nghe thấy hoan hỷ tiếp nhận, lời nói này của bạn là lời vàng ngọc, đây gọi là mỹ diệu. Chúng ta hiện nay nói là hợp tình, hợp lý, hợp pháp, thật sự là từ trong nhân từ, bác ái lưu xuất ra, đây là thuộc về tịnh nghiệp. Nhất định là từ trong tâm thanh tịnh lưu xuất ra, cũng có thể tịnh hóa nhân tâm, tịnh hóa tam nghiệp. Đây đích thực là khế lý, đích thực là mỹ diệu.(Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
4. Không nói lời phù phiếm: Chuyện phù phiếm, nhảm nhí, vô nghĩa hay u mê... mất yên tĩnh và định tâm. Nói sau lưng là tà ngữ, không xét đúng/ Sai.
− Những lời tầm phào (idle words) sẽ tạo ra hậu quả cho từng lời. Nếu lời lẽ tốt và nhân từ, không có gì cần được thực hiện. Nếu ngược lại, việc trả giá không thể bị trì hoãn lâu. (LVHLT, 474)
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Nói đôi chiều - Hai lưỡi - Lưỡng Thiệt: Lưỡng Thiệt là “Xúi giục, ly gián”, trong 4 loại lỗi của miệng thì lấy đây làm trọng. Trong khẩu nghiệp, điều quan trọng nhất là “Lưỡng thiệt”. Tuy vọng ngữ rất phổ biến, nhưng cái hại của lưỡng thiệt hơn hẳn vọng ngữ quá nhiều. Người lưỡng thiệt nhỏ, kích động thị phi khiến cho nhà bạn bất hòa, phá hoại gia đình của người ta, phá hoại vợ chồng người ta, đây là nhỏ. Lưỡng thiệt lớn là xúi giục cho hai nước bất hòa, thậm chí là xảy ra chiến tranh, tổn hại biết bao nhiên nhân mạng, tài sản, tội này là nặng. Lưỡng thiệt lớn hơn nữa là trêu chọc Phật pháp, nhà Phật gọi là “phá hòa hợp tăng”. Trong tội ngũ nghịch, tội này thì rất nặng, còn nặng hơn việc xúi giục hai quốc gia phát động chiến tranh. Hai nước chiến tranh thì thương vong chỉ là thân mạng, phá hòa hợp tăng là đoạn pháp thân huệ mạng của tất cả chúng sanh....Phật dạy chúng ta: “Khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”. (Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không).
+ Những lời ích kỷ (selfish words), được đưa ra với ý định mạnh mẽ, sẽ dựng nên một bức tường chia rẽ. Cần thời gian dài mới phá vỡ bức tường đó, và do đó mới phóng thích cái ý định ích kỷ được tích chứa. Hãy xem xét động lực của bạn, và tìm cách dùng các lời lẽ nào để hòa trộn sự sống nhỏ bé với mục đích rộng lớn của ý chí Thượng Đế.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó.(LVHLT, 474)
+ Đức Phật dậy:
3. Không nói Hai lưỡi như thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá: Tránh "tà ngữ” với ác tâm.
- Không nói lời hai lưỡi, đòn xóc hai đầu, làm người ghét nhau, thù nhau.
- Không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, nói châm chọc gây buồn phiền và khởi tà niệm.
- Không gây tạo ác cảm cho 2 bên thù oán, sân hận đấu tranh.
- Có dịp thì khuyên can người nói tà ngữ. (Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo)
Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
Xem: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Phật dậy người xuất gia: Dầu nói ngàn ngàn lời, nhưng không gì lợi ích, tốt hơn một câu nghĩa, nghe xong, được tịnh lạc.
"Này các Tỷ- kheo, có 10 đề tài nói chuyện này: Câu chuyện về ít dục - biết đủ - viễn ly - về không tụ hội - về tinh tấn - về giới - về định - về tuệ - về giải thoát - về giải thoát tri kiến. ... Nếu các Thầy tiếp tục nói những câu chuyện liên hệ đến 10 đề tài để nói chuyện này, thời các Thầy có thể với ánh sáng của mình đánh bạt ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, những vật có đại thần lực, có uy lực, còn nói gì của các du sĩ ngoại đạo?" (Nguồn: Kinh Pháp Cú, kệ số 100)
+ Lời Nói - Ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật (Tăng Chi Bộ_đoạn 28)
+ Chất Lượng Lời Nói_Đức Phật dậy
- Nói đúng lúc; - Nói chân thật; - Nói đúng pháp; - Nói đúng nghĩa; - Nói về tịch tĩnh; - Ưa nói về tịch tĩnh; - Hợp thời; - Hợp lý; - Khéo dạy, khéo la mắng. (Nguồn: mục 483- Tại đây)
+ Lời nói hay ngôn ngữ giao tiếp thiện lành: Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ngươi có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm.... ... cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng địa vô biên, không hận, không sân". ...
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. .... (Nguồn: 21.Kinh ví dụ cái cưa)
+ Phát Biểu theo Đời sống nhân sinh:
- Ý kiến phát biểu: Khi nhận xét, đánh giá về một sự vật, một con người, hay một hành động thì đó được gọi là “ý kiến”. Thí dụ: Nhận xét về mọi người hay vật, các ý kiến khác nhau không dễ chứng minh được là đúng hoặc sai.
- Nói theo Sự kiện: Là khái niệm về một sự thật và có thể chứng mình được là đúng hay sai. Thí dụ: Trong lý lịch tự khai, có thể kiểm chứng bằng các bằng chứng bằng thẩm tra hay hồ sơ đính kèm.
* Phỉ báng, nhục mạ hay vu khống: Dựng truyện, nói, phổ biến thông tin không đúng sự thật về một người có thể bị pháp luật trừng trị, ở VN đều là tội hình sự.
+ 13. Lời nói có ba loại:
− Những lời tầm phào (idle words) sẽ tạo ra hậu quả cho từng lời. Nếu lời lẽ tốt và nhân từ, không có gì cần được thực hiện. Nếu ngược lại, việc trả giá không thể bị trì hoãn lâu.
− Những lời ích kỷ (selfish words), được đưa ra với ý định mạnh mẽ, sẽ dựng nên một bức tường chia rẽ. Cần thời gian dài mới phá vỡ bức tường đó, và do đó mới phóng thích cái ý định ích kỷ được tích chứa. Hãy xem xét động lực của bạn, và tìm cách dùng các lời lẽ nào để hòa trộn sự sống nhỏ bé với mục đích rộng lớn của ý chí Thượng Đế.
− Lời thù ghét (word of hate), lời nói độc ác, vốn hủy hoại những người cảm nhận ảnh hưởng mạnh của nó, là câu chuyện phiếm độc hại, được truyền đi vì nó gây ra một sự chấn động – những lời này giết chết những sự thôi thúc mong manh của linh hồn, cắt tận gốc rễ của sự sống, và vì thế đưa đến cái chết.
Nếu được nói dưới ánh sáng ban ngày, chúng sẽ mang lại sự trừng phạt xứng đáng; khi được thốt ra và được ghi nhận là những lời dối trá, chúng củng cố cho thế giới ảo tưởng mà người nói đang sống trong đó, và ngăn giữ y thoát ra.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó. (LVHLT, 474)
+ Lời nói thiện - Nghệ thuật nói (Nguồn: TH Lời Phật dậy - Kinh A Hàm):
Bốn biện tài: pháp biện tài, nghĩa biện tài, từ biện tài, ứng thuyết (Vô ngại) biện tài.
Bốn thiện hành của miệng: 1. Nói sự thật, 2. Nói dịu dàng, 3. Không ỷ ngữ, 4. Không hai lưỡi.
Bốn thánh ngôn: 1. Thấy nói thấy 2. Nghe nói nghe 3. Hay nói hay 4. Biết nói biết.
+ Tu khẩu nghiệp - Những lời dạy của Thánh hiền: Mời xem Tổng hợp 45 lời Phật dậy
+ Không nên nói truyện - Không nên góp ý
- Có mười trường hợp mình không nên nói với người:
Một là kẻ ngạo mạn;
Hai là kẻ ngu độn;
Ba là kẻ hay lo sợ;
Bốn là kẻ ham vui chơi;
Năm là kẻ hay e lệ;
Sáu là kẻ câm ngọng;
Bảy là kẻ cừu hận;
Tám là kẻ đói lạnh;
Chín là kẻ mắc nhiều việc;
Mười là người đang tham thuyền tịnh lự. Đó là mười trường hợp.
Trong kinh có câu: "Làm được hãy nên nói, làm không được thì đừng nên nói suông; lời hư nguy không thành tín thì các bực minh triết không thèm đoái đến." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Họa từ miệng mà ra:
Bấy giờ tôn giả A Nam bạch Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Đức Ma Gia phu nhân đời quá khứ, làm hạnh nghiệp gì, mà phải sinh trong loài súc sinh, làm thân Lộc Nữ?
Phật bảo Ngài A Nam rằng:
-Nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông, phân biệt giải nói về nhân duyên hành nghiệp đời trước của Đức Ma Gia phu nhân.
-Đời quá khứ lâu xa, vô lượng a tăng kỳ kiếp, bấy giờ đó có một Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, ở đời giáo hóa.
Sau khi diệt độ, trong thời kỳ tượng pháp, lúc ấy có một nước nọ, gọi là Ba La Nại, trong nước đó có một Bà La Môn, chỉ sinh hạ được một người con gái. Sau khi cha của nàng chết, để lại nàng cho mẹ nàng nuôi nấng cho đến khi khôn lớn. Nhà có một cái vườn trái, nên mẹ nàng thường để nàng ở nhà để trông coi, còn bà thì đi kiếm ăn để nuôi mình, và nuôi con. Ngày ngày theo thường lệ; bà vẫn đem thức ăn về cho con ăn. Nhân một bữa nọ, vì sự chậm trễ của mẹ nàng, chưa kịp đem về cho nàng, hơn nữa vì sự đói khát bức bách, nên nàng sinh ra tức giận nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không biết vì lẽ gì, mà không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta như thế này?
Và vì quá phiền muộn, nên nàng nhắc đi nhắc lại đến ba lần như vậy, rồi lại còn nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không bằng loài súc sinh; ta thấy loài súc sinh như con hươu, một khi con nó bị đói khát, lòng nó còn chẳng nỡ rời bỏ nữa là mẹ ta!
Nhưng thời gian không bao lâu, mẹ nàng đã đem thức ăn về cho nàng ăn.
Đang lúc toan ăn uống, thì có một vị Sa môn Bích Chi Phật, từ phía Nam bay qua phía Bắc.
Lúc ấy, người con gái Bà La Môn thấy vị Tỷ Khưu ấy, lòng sinh ra vui mừng, liền đứng dậy, chấp tay, cúi đầu làm lễ, trải tòa thỉnh mời Ngài ngồi, rồi lại lấy những bông hoa tươi tốt, giảm phần ăn của mình, để cúng dàng vị Tỷ Khưu.
Vị Tỷ Khưu ăn xong rồi, lại vì người con gái ấy, thuyết pháp chỉ dạy, kiến cho được những sự lợi ích, vui mừng.
Bấy giờ, người con gái đó liền phát nguyện rằng:
-Nguyện tôi đời sau, được gặp gỡ những bật hiền thánh, lễ bái, cúng dàng, khiến cho tôi được nhan sắc tốt đẹp, tôn vinh hòa quý, nếu khi dạo đi đến đâu, hoa sen sẽ mọc theo dấu chân đi.
Phật bảo tôn giả A Nan:
-Người con gái lúc bấy giờ, về sau là Lộc Mẫu phu nhân, bởi cúng dàng vị Phật Bích Chi một bữa ăn, và hoa mà trong năm trăm đời, được hưởng phúc báo tôn vinh hào quý, y phục thức ăn uống, không thiếu một thứ gì, nếu đi tới đâu, lại có hoa sen mọc theo dấu chân đi, vì có nhân duyên như thế, mà nay được gặp năm trăm vị Phật Bích Chi, lễ bái cúng dàng, nhưng chỉ vì một lời nói ác, chẳng biết ân đức, hủy báng mẹ: Chẳng bằng loài súc sinh, mà trong năm trăm kiếp, phải sinh làm loài hươu.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
-Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy, cũng chỉ đốt cháy một đời này, còn như lời nói ác khẩu đốt cháy, sẽ đốt cháy trong vô số kiếp, lửa mạnh đốt cháy chỉ đốt cháy được của cải của thế gian, còn như lời nói ác khẩu đốt cháy, sẽ đốt cháy cả bảy thứ của cải của Thánh nhân.
Vì thế A Nan! Tất cả chúng sinh, họa từ trong miệng mà sinh ra. Vả miệng lưỡi thực là cái búa sắc tự bổ mình, là cái họa để tự diệt mình vậy. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Tu Hành: Là Pháp tu TRUNG ĐẠO - Là con đường Chánh đạo mà chính Đức Phật đã dậy, áp dụng cho mọi Pháp tu (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN, Q.1)
2. Pháp Tu Người Quân Tử
+ Tu thân: Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân[1]. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam cương hay còn gọi là Tam tòng.
* Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
* Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
+ Hành đạo của Người quân tử
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, thiên hạ bình ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
* Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
* Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường). Nguồn: Đạo Nho Giáo
+ Xem thêm: Phật giáo là giáo dục
+ Xem thêm: Cư sỹ tại gia tu đạo
+ Xem thêm: Giác Tâm rồi mới tu đạo
+ Tu tự tâm - Tu nơi tâm:
Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Có người lo lòng dâm dục chẳng dứt được, muốn tự đoạn âm. Phật bèn bảo rằng: 'Đoạn âm không bằng đoạn tâm. Tâm như vị Công-tào; nếu Công-tào nghỉ, thì kẻ tòng sự đều nghỉ. Tà tâm chẳng dứt, đoạn âm ích gì?'"
Đức Phật vì đó mới nói bài kệ:
"Dục sanh từ ý ông,
ý do tư tưởng sanh.
Cả hai tâm vắng lặng,
Phi sắc cũng phi hành."
Đức Phật dạy: "Bài kệ này là do Đức Phật Ca-Diếp nói."
Lược giảng:
Chương thứ ba mươi mốt nói rõ rằng việc đoạn trừ dục vọng phải được tiến hành từ tự tâm. Muốn biết về phương pháp "đoạn tâm," quý vị cần phải nhận thức được rằng dục vọng vốn nảy sanh từ tâm ý, mà tâm ý thì do tư tưởng mà có.
Theo quý vị thì tư tưởng của chúng ta là tự chúng nảy sinh ra, do thứ khác sanh ra, cùng nhau nảy sanh ra, hoặc không do một nhân tố nào cả mà nảy sanh ra? Quý vị cần phải tìm hiểu xem tư tưởng là ở trong, ở ngoài, hay là ở giữa trong và ngoài; và chúng thuộc về quá khứ, hiện tại, hay vị lai.
Quý vị tìm tư tưởng theo cách này, thì tư tưởng sẽ dần dần trở nên tịch tĩnh, vắng lặng, không có tự thể. Một khi tư tưởng đã vắng lặng thì tâm ý của quý vị cũng trở nên vắng lặng. Tâm ý đã vắng lặng thì dục vọng cũng lắng đọng theo. Khi dục vọng đã vắng lặng rồi, thì quý vị sẽ thấy hết thảy sắc và pháp đều giống như bóng dáng trong gương. Nếu giống như hình ảnh phản chiếu trong gương tức là không phải thật - mọi hành vi tựa hồ như bọt nổi trên mặt nước, mà bọt nước thì cũng là hư huyễn. Cho nên, chư Phật đều triển chuyển quán sát, triển chuyển truyền thọ pháp môn phương tiện điều tâm này để mọi người đều có thể theo đó mà điều phục tâm mình trước.
Đức Phật dạy: "Có người lo lòng dâm dục chẳng dứt được, muốn tự đoạn âm." Có người mắc bệnh dâm dục, không thể nào ngừng được cái tâm dâm dục dù chỉ trong một khoảnh khắc. Vì thấy dục niệm của mình nặng nề, lợi hại như thế, người ấy bèn nghĩ cách giải quyết. Người ấy nghĩ ra cách gì? Người ấy muốn cắt bỏ nam căn của mình!
Phật bèn bảo rằng: "Đoạn âm không bằng đoạn tâm. " Đức Phật nói với người ấy: "Ông nói ông muốn cắt bỏ nam căn của mình, nhưng như thế vẫn không bằng cắt đứt cái tâm vọng tưởng của chính ông."
"Tâm như vị công-tào, nếu công-tào nghỉ thì kẻ tòng sự đều nghỉ." Tâm ví như một kẻ cầm đầu các công nhân, một vị công-tào vậy. Công tào là người mà bất luận làm việc gì thì y cũng làm kẻ cầm đầu - như một ông "supervisor" vậy. Nếu người cầm đầu mà thôi làm, thì những kẻ theo ông ta làm việc cũng đều ngưng công việc cả.
"Tà tâm chẳng dứt, đoạn âm ích gì?" Vì trong lòng dấy khởi vọng tưởng về vấn đề này, nên mới có hành vi như vậy. Nếu trong lòng không khởi vọng tưởng, tức là không có trợ duyên, thì thứ hành vi này sẽ chấm dứt. Do đó, "kẻ tòng-sự đều nghỉ" ngụ ý rằng tất cả vọng tưởng đều chấm dứt. Đức Phật chất vấn: "Nếu ông không ngăn đứt cái tâm dâm dục này, thì cắt bỏ nam căn có tác dụng gì chứ? Biện pháp ấy hoàn toàn vô dụng!"
"Phật vì đó nói kệ." Đức Phật cũng nhân đó mà nói cho người ấy nghe một bài kệ như sau: "Dục sanh từ ý ông. Các ý nghĩ dâm dục vốn bắt nguồn từ tâm ý của ông, do tâm ý của ông sanh ra. ý do tư tưởng sanh. Còn ý thì từ đâu mà ra? ý là do tư tưởng sanh ra. Cả hai tâm vắng lặng. Phi sắc cũng phi hành. Khi cả hai tâm của ông đều vắng lặng - tâm dục vọng đã lắng đọng và tâm chứa đựng đủ thứ tà tri tà kiến cũng đã ngừng dứt - thì sẽ không có thứ hành vi sắc dục và cũng không có thứ hành vi sắc tâm - các hành vi dục niệm đều không còn." (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Nhà Nho/ Nho giáo/ Tứ thư:
- "Lục Kinh" là nhà Nho. Toàn bộ điển tích của nhà Nho mọi người đều biết "Thập Tam Kinh", nó tổng cộng có mười ba bộ. "Lục kinh" trên thực tế cũng chính là chỉ "Thập Tam Kinh", tông chỉ của nó, tông chỉ của giáo học là "tế tục", hay nói cách khác, đoan chánh phong khí xã hội, mục đích của nó chính ngay chỗ này. (Kinh TTNĐ-Tập 2)
- Thật sự là thánh nhân, họ nhìn thấy, họ hiểu rõ, rất sáng tỏ, cho nên ở trong “Học ký” nêu ra “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”, (“quân” nghĩa là lãnh đạo). Bồi dưỡng nhân tài, xây dựng một quốc gia, xây dựng một chính quyền, thống trị nhân dân, lãnh đạo nhân dân, cái gì là quan trọng nhất, là ưu tiên nhất? Giáo dục, “Giáo học vi tiên” (Kinh TTNĐ-Tập 51)
- Đạo Nho với Phật Pháp: Phật là gì? “Phật” là tự tánh của bản thân chúng ta, là tự tánh của mỗi người. Không những Phật Thích Ca Mâu Ni như vậy, mà Khổng Tử, Mạnh Tử cũng như vậy. Học thuyết của nhà Nho hiện nay lưu truyền phổ biến nhất là “Tứ Thư”, “Đại Học”, “Trung Dung”, “Luận Ngữ”, “Mạnh Tử”. Đây có phải là tư tưởng của Khổng Tử, của Mạnh Tử không? Không phải! Tất cả cũng là tự tánh, là trí tuệ, đức năng vốn có trong tự tánh của mỗi người. Chúng ta phải có sự nhận thức này, thì sau đó chúng ta mới thật sự có thể có sở đắc. Sở đắc là gì vậy? Là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, chúng ta được là cái này; (Nguồn: Kinh Thập thiện - Tập 59 - PS Tịnh Không giảng)
+ Lục kinh/ Lục thư: Đến khi Khổng Tử san định lại Lục thư: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.IV)
+ Đạo Nho gia xem trọng luân thường - Ngũ luân: Các quan hệ vợ chồng, cha con, anh em, bạn bè, vua tôi. Cho nên, bạn bè là một trong ngũ luân, có mối quan hệ hết sức mật thiết với bản thân ta. Để chu toàn đạo nghĩa với bạn bè, đức Phật dạy chúng ta năm việc.
Thứ nhất, nếu bạn làm chuyện xấu ác, tạo nghiệp ác, phải khuyên bảo để bạn chấm dứt. Cho nên, bạn bè có nghĩa vụ giúp nhau sửa lỗi. Nếu thấy bạn mình làm chuyện sai trái mà không nói ra thì chưa đủ gọi là bạn bè, đó không phải bạn bè. Tuy nhiên, khuyên bảo uốn nắn cũng phải theo lễ nghi, nhất định phải giữ lễ, phải hiểu biết lễ nghi thích hợp. Lúc nói lỗi để khuyên bảo tuyệt đối không được có mặt người khác. Phải khuyên bảo trong chỗ riêng tư. Như vậy mới là bạn bè. Cha mẹ dạy con thì có thể dạy dỗ [sửa lỗi] lúc có mặt anh chị em. Đó là cha mẹ hay anh chị dạy dỗ [sửa lỗi] con em. Nhưng nếu có người ngoài, cha mẹ, anh chị cũng không nên nói ra. Đó là vì giữ thể diện cho con em mình. Thầy dạy dỗ [sửa lỗi] học trò, có thể nói ra trước mặt các bạn đồng học. Vì sao vậy? Vì chúng ta là bạn đồng học, thầy không chỉ dạy riêng một người, đó là dạy dỗ tất cả học sinh của thầy. Nhưng bạn bè với nhau thì không được. Bạn bè chỉ có thể khuyên bảo nói lỗi ở chỗ riêng tư kín đáo. Cho nên, ý nghĩa này chúng ta phải hiểu thật rõ ràng.
Khuyên bảo lẫn nhau để dứt trừ lỗi, đó là nói có sự giúp đỡ qua lại với nhau. Trong Phật pháp, thực sự rõ biết rằng nhân quả [báo ứng] tương quan trong cả ba đời: [quá khứ, hiện tại và tương lai], cho nên việc khuyên bảo sửa lỗi là quan trọng thiết yếu hơn hết. ... Bạn bè cũng chỉ nên khuyên bảo không quá ba lần. (Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 20 tháng 9 năm 1999 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 101, số hồ sơ: 19-012-0101)
+ Bậc Đại học - Theo Thế tục/ Đạo đời:
Ðạo của bậc “Ðại-Học” thì lấy ba cương lĩnh và tám điều mục làm tông chỉ. Thế nào là ba cương lĩnh? Tức là minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện. Minh đức có nghĩa rằng sau khi mình tự thanh tịnh, chiếu soi quang minh tự tánh của mình, nhiên hậu dạy người khác chiếu soi, thanh tịnh quang minh tự tánh của họ. Thân dân có nghĩa là khiến cho tất cả mọi người đều biết con đường chính đáng, làm sao trở thành những người thông hiểu đạo lý. Chỉ ư chí thiện là mọi người cùng đạt tới chỗ cùng cực thiện hảo.
Thế nào là tám điều mục, tám điều khoản, hay là tám điều kiện? Tức là cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
1- Cách vật là gì? Tức là nghiên cứu lý tánh của vạn vật vạn sự trong trời đất .
2- Trí tri là gì? Là vận dụng trí huệ, tỉ mỉ nghiên cứu phong cách mọi sự vật để biết đến chỗ cùng cực.
3- Chánh tâm là gì? Tức là tâm đoan chính làm chủ tể thân mình.
4- Thành ý tức là khởi ý thành thật.
5- Tu thân tức là sửa đổi, tu tập để trở nên người tốt, có đức hạnh.
Ðó là năm điều thuộc về việc học của thân tâm.
6- Tề Gia tức là cai quản nhà mình.
7- Trị quốc tức là quản lý, lãnh đạo đất nước mình .
8- Bình thiên hạ tức là làm cho thiên hạ được thái bình.
Ba điều này thuộc về môn học chính trị.
Trên đây là học thuyết của Ðức Khổng Tử và cũng là lý tưởng rất cơ bản, của đạo lý Nho-Giáo. Ngày hôm nay tôi chỉ giải thích sơ lược về ba cương lĩnh và tám điều mục trong sách “Ðại-Học,” tương lai tôi sẽ nói rõ hơn cho các bạn nghe. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Đạo Nho)
+ Tổng hợp - Giảng nghĩa về Tứ Thư: Tuy nhiên, nếu căn cứ vào hai tác phẩm quan trọng nhất là Kinh Dịch và Trung Dung, thì đạo Nho gồm có tới 3 phần: nhân đạo, thiên đạo và thánh đạo.
Nhân đạo là đạo lý làm người, bao gồm những qui luật cần thiết cho con người trong cõi đời, cốt để tạo nên trật tự ổn định, thái hồ trong quốc gia, xã hội. Nhân đạo gồm có Tam Cương, Ngũ Thường... dẫn dắt con người từ tiểu nhân lên bậc quân tử.
Thiên đạo là những qui luật chi phối vũ trụ thiên nhiên (dịch lý) với qui mô lớn lao, sâu rộng bao quát từ thế giới cực tiểu (các sinh thể nhỏ mọn) cho tới thế giới cực đại (thiên hà, tinh tú).
Thánh đạo là đường lối dẫn con người từ bậc quân tử lên hiền thánh. Con người thành tựu thánh đạo đạt tới cứu cánh là phối Thiên (kết hợp với Trời), tham dự vào việc hố dục trời đất (tán thiên địa chi hoá dục) ... Giảng giải rất ký về Nhân và Thiên đạo, Thánh đạo cũng có vài điều (Nguồn: Tứ thư và giảng giải - Lý Minh Tuấn)
+ Số mệnh khác nhau - Cảnh dị đồng do Quả báo khác nhau:
* Tóm lược Kinh Thiện Ác Nhân Quả: Ngài A Nan bạch Phật: “Kính lạy đức Thế Tôn! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người, có kẻ đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo, người giàu, kẻ khổ, người vui, kẻ sang, người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đã tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu, cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có người xấu xí mà giàu sang, kẻ rất mạnh khỏe mà thấp kém, có người nhu nhược mà lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ý chí cao thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai con gái, có kẻ cô đơn một mình, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ được vào cung vua ăn mặc tha hồ, có ngườì lúc trẻ thì nghèo hèn đến lúc già lại giàu sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hãm trong tù ngục, có nhà cha từ con hiếu, luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất hòa đấu tranh ngang trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không cửa không nhà nay đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực, có người ở như ổ quạ hang hưu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem lại, có kẻ giàu mà tham xẻn, có người nghèo lại rộng lòng bố thí. Có người lời nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính, có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát sanh không nương tay, có người khoan dung đại lộ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân chúng bỏ rơi. Có nhà nàng dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ hòa hợp. Có người ham nghe pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn chương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh.
Cúi xin đức Thế Tôn nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện!
Khi bấy giờ đức Thế Tôn bảo A Nan tôi rằng: Như ngươi hỏi ta chúng sanh thọ báo bất đồng là do đời trước dụng tâm khác nhau, vì thế cho nên muôn sai vạn biệt.
Người đời nay được thân tâm đoan chánh, là do đời trước ở trong đạo người tu hành nhẫn nhục mà được.
Kẻ bị thân hình xấu xí, là do đời trước ở trong đạo người có tánh giận tức.
Người đời nay bị nghèo cùng, là do đời trước ở trong đạo người có tánh tham xẻn.
Người đời nay được cao quý, là đời trước hay lễ bái chư Phật mà được.
Người đời nay bị hạ tiện là do đời trước hay có tánh kiêu mạn.
Người to lớn là do đời trước có tâm cung kính.
Kẻ bị lùn thấp là do đời trước mạn pháp.
Kẻ ngang tàn ương ngạnh, là do đờì trước làm kiếp dê.
Kẻ đen xấu là do đời trước che ánh sáng của Phật.
Kẻ bị cứng lưỡi là do đời trước nếm trai thực cúng dường.
Kẻ bị đỏ mắt là do đời trước sẻn tiếc ánh sáng.
Người đui mắt là do đời trước hay khâu mắt chim ưng.
Người đời nay câm ngọng, là do đời trước hủy báng chánh pháp.
Người đời nay điếc lác là do đời trước chẳng vui nghe pháp.
Người khuyết răng đời nay là do đời trước hay ăn xương thịt.
Người tắc mũi đời nay là do đời trước đốt hương bất hảo cúng dường Phật.
Người sứt môi đời nay là do đời trước hay đâm thọc sâu thủng mang hoặc môi cá.
...... Kinh còn rất dài, xem: Kinh Thiện Ác Nhân Quả - PS Tịnh Không giảng
+ Con người cùng thân xác Tứ đại - Sao số phận khác nhau?
Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Bửu-Thủ Bồ-Tát: 'Phật-tử! Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu?
Bửu-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng:
Cứ theo nghiệp đã tạo
Sanh quả báu như vậy
Đều không có tác-giả
Đây là lời chư Phật.
Như mặt gương sáng sạch
Tùy theo cảnh đối tượng
Hiện bóng sai khác nhau
Nghiệp tánh cũng như vậy.
Cũng như ruộng gieo giống
Chúng đều chẳng biết nhau
Tự nhiên mọc lên cây
Nghiệp tánh cũng như vậy.
Như nhà ảo thuật giỏi
Ở tại ngã tư đường
Hiện ra những sắc-tướng
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Như người gỗ máy móc
Hay vang ra các tiếng
Nó không ngã ngã-sở
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Cũng như giống chim bay
Từ trứng nở sanh ra
Tiếng kêu không đồng nhau
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Ví như trong thai-tạng
Căn thân đều thành-tựu
Thể-tướng không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Lại như ở địa-ngục
Bao nhiêu là sự khổ
Kia đều không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Như vua Chuyển-luân-vương
Có đủ bảy thứ bảo
Chỗ đến không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Lại như các thế-giới
Lúc đại-hỏa cháy tan
Lửa này không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm BT Vấn Minh)
+ Các cấp Trí tuệ: Bảy trạng thái cung này có gốc gác/ xuất phát từ ý chí, ……Chúng tự biểu hiện ở lĩnh vực liên quan đến nhân loại như (CTHNM 368):
Cung I – Vốn thúc đẩy và tạo ra sự khai mở (initiation).
Cung II – Vốn là nguyên nhân của linh thị (vision) tức là năng lực để thấy (power to see).
Cung III – Vốn đang phát triển nhận thức do giác quan (sensory perception) thành tri thức (knowledge), tri thức thành minh triết (wisdom), và minh triết thành toàn tri (omniscience).
Cung IV – Đó là ý chí giác ngộ (illumined will), nền tảng của buddhi hay là trực giác (intuition).
Cung V – Đó chính là mầm mống giải thoát của vũ trụ. Đây là một trạng thái huỷ diệt.
Cung VI – Đó là nguyên nhân của khả năng kiến tạo hình tư tưởng, liên quan tới thúc đẩy sáng tạo.
Cung VII – Vốn có thể được gọi là nguyên tắc của trật tự/ Thiên luật/ Luật pháp.
+ Ba cấp Phòng Học vũ trụ [Cung III - Trí Thông tuệ LH]
+ Con người tiến hóa: ... Trong trường hợp cuộc tiến hoá của nhân loại, một số loại mãnh lực được sản xuất, xử lý, đồng hoá và sử dụng, lúc đầu thì vô thức và cuối cùng với trí thông minh đầy đủ.
a. Trong Phòng Vô Minh, mãnh lực hay năng lượng của Cung 3 - Brahma
b. Trong Phòng Học Tập, y trở nên ý thức được, và sử dụng năng lượng của trạng thái/ Cung 2
c. Trong Phòng Minh Triết, y đến mức biết được trạng thái thứ nhất/ Cung 1
Ba bí nhiệm của thái dương hệ là:
1. Bí nhiệm về Điện. Bí nhiệm của Brahma. Bí mật của trạng thái thứ ba, ẩn tàng trong mặt trời hồng trần (Cung III)
2. Bí nhiệm của sự Phân Cực, hay là xung lực tính dục vũ trụ. Bí mật của trạng thái thứ hai, ẩn tàng trong Tâm Mặt trời, hay Mặt trời nội tại. (Cung II)
3. Bí nhiệm của Lửa, hay là động lực trung ương của thái dương hệ, bí mật của trạng thái thứ nhất, ẩn tàng trong Mặt trời Tinh thần Trung ương.(Cung I) (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)
+ Thể trí tuệ tiến hóa - Tu xa lìa trí phân biệt chấp trước: Như chúng ta biết, tiểu thừa sơ quả Tu Đà Hoàn, đại thừa sơ tín vị Bồ Tát, trong sáu loại thần thông họ phục hồi được hai loại, phục hồi được thiên nhãn và thiên nhĩ, không có chướng ngại nữa. Nghĩa là tầng không gian bị phá một chút, cái chúng ta không nhìn thấy họ nhìn thấy, có thể nhìn thấy thiên đàng, có thể nhìn thấy địa ngục, họ có thiên nhãn. Nhị quả lại phục hồi được hai loại, nhị quả Tư Đà Hàm, có tha tâm thông, trong tâm người khác khởi tâm động niệm họ đều biết; có túc mạng thông, túc mạng thông là bản thân, đời đời kiếp kiếp trước nữa của bản thân đều nhìn thấy. Mặc dù không thể nhìn thấy xa xôi, đại khái khoảng mười mấy đời trước, mười mấy đời trước không có vấn đề gì, có thể nhìn thấy. Hiện nay dùng thuật thôi miên cũng được, có thể khiến cho một người phục hồi trí nhớ, họ có thể nhìn thấy đời trước của họ, một đời trước, hai đời, ba đời, có lẽ khoảng mười mấy đời là dễ dàng nhìn thấy. Thôi miên sâu hơn cũng có thể nhìn thấy chuyện của mấy chục đời trước, đại khái tương đương cảnh giới của Tư Đà Hàm. Tam quả Tư Đà Hàm, thần thông thứ năm xuất hiện, gọi là thần túc thông. Thần thông này xuất hiện rất hiếm có, họ có thể biến hoá, ngài có thể phân thân, họ có thể phi hành; trong thực tế không phải là phi hành, họ nghĩ đến một nơi, vừa nghĩ là thân thể của họ đã đến nơi đó rồi. Vì vậy không cần dùng đến phương tiện giao thông, quý vị nói muốn đến Mỹ, ý niệm vừa mới khởi lên, thân thể đã ở Mỹ rồi. Đây là cái gì? Không gian không có nữa, khoảng cách cũng không có, tuỳ theo ý niệm, đúng như trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “đương xứ xuất sanh, tuỳ xứ diệt tận”. Vì vậy người có khả năng này, quý vị vừa nghĩ đến họ, họ đã xuất hiện trước mắt quý vị rồi, nghĩ đến họ thì họ đến, vì sao vậy? Vì cảm ứng, thông tin của quý vị họ lập tức nhận được, họ lập tức hiện thân trước quý vị. Những điều này đều là thật, đều không phải là giả.
Tứ quả A La Hán, lục thần thông xuất hiện viên mãn rồi, A La Hán được lậu tận thông, phiền não dứt, kiến tư phiền não không có nữa, nhưng mà tập khí kiến tư vẫn còn. Phiền não đúng là không còn nữa, tập khí còn, phải dứt bỏ tập khí, sẽ thăng một cấp- Bích Chi Phật, cũng gọi là Duyên Giác, Bích Chi Phật, nâng lên Bích Chi Phật. Cho nên Bích Chi Phật, kiến tư phiền não và tập khí của kiến tư phiền não đều không có, nhưng mà có phân biệt, không có chấp trước, có phân biệt. Có phân biệt, tâm không bình đẳng, tâm thanh tịnh, không bình đẳng. Khi nào đoạn tận phân biệt, ngài thăng cấp, thăng lên đến vị trí của Bồ Tát. Bồ Tát không có phân biệt, có tập khí phân biệt, đoạn tận tập khí phân biệt, Bồ Tát đã thành Phật rồi. Vì thế Phật trong thập pháp giới, chúng ta biết, ngài đối với hai loại dưới đây, phân biệt, chấp trước, bao gồm tập khí, tất cả đều không có, đều đoạn hết rồi. Vì vậy tâm của Phật thanh tịnh bình đẳng, phía sau không có giác, chỉ có thanh tịnh bình đẳng, không có giác, vì sao vậy? Vì chưa đoạn vọng tưởng. Vọng tưởng là khởi tâm động niệm, cái này gọi là vô minh, vô thỉ vô minh chưa đoạn. Vô thỉ vô minh đoạn rồi, ngài đúng là thành Phật, không phải tương tợ tức Phật trong thập pháp giới, ngài từ tương tợ đã biến thành thật, chân Phật. Lúc này chuyển bát thức thành tứ trí, thập pháp giới không còn nữa, ngài sanh đến nhất chân pháp giới, tức là cõi thật báo. Trong cõi thật báo có tập khí, tập khí vô thỉ vô minh không dễ đoạn trừ. Tập khí vô thỉ vô minh thật sự đoạn rồi, công đức sẽ viên mãn. Ngài chứng quả vị diệu giác cứu cánh.
Vô thỉ vô minh khó đoạn, vì vậy đức Thế Tôn nói nó có 41 đẳng cấp, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác. Bốn mươi mốt vị này vì sao mà có? Tập khí dày mỏng có khác nhau, tập khí dày ở phía dưới, thập khí mỏng sẽ ở phía trên. Vì vậy đẳng giác chính là mỏng nhất. Đây gọi là 41 phẩm tập khí, phẩm cuối cùng đoạn được rồi họ sẽ nhập Diệu giác vị. Nhập Diệu giác chúng ta sẽ biết, cõi thật báo không thấy nữa, ngài đi đến đâu? Ngài đến Thường tịch quang. Đến Thường tịch quang quý vị sẽ không tìm thấy, khoa học và triết học ngày nay của chúng ta, đều không có cách gì tìm đựơc; trong cõi thật báo có lẽ còn có cách tìm thấy, đến Thường tịch quang không có cách gì. Nhưng chúng ta nghĩ đến lượng tử lực học đối với Thập pháp giới, Phật Bồ Tát trong Thập pháp giới chắc chắn họ có thể tìm thấy, bởi vì các ngài chưa chuyển thức thành trí, chưa lìa a lại da, lượng tử lực học đã quan sát được a lại da rồi. Nhưng những vị Bồ Tát này mặc dù không phải chân Phật, thần thông cũng quảng đại. Thế gian này của chúng ta, cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới không có ai có thể so sánh được với họ, so với A La Hán cũng không thể sánh được, nói gì đến Phật Bồ Tát trong tứ thánh pháp giới. (Nguồn: Thiện ác biến hóa - HT Tịnh Không giảng)
+ Người ngu tối - Căn tánh chậm chạp - Trí tuệ chưa phát triển nên Tu tín nguyện và giữ giới:
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặc chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.
Kinh này Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vì chúng sinh có căn tánh chậm lụt, ngu tối, trí nhớ kém hay người mới phát tâm tu hành mà hỏi Phật, được Phật dậy rất nhiều điều để răn dậy chúng ta tu hành sao cho có thành tựu phù hợp với căn cơ, tránh bị sa vào ác đạo mà bị đọa lạc Tam ác đạo không biết ngày ra (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
+ Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa ngu si.
Trước đã nói về tham và sân, bây giờ nói về si. Tham sân si được gọi là ba độc. Ba độc này làm hại Phật tánh của chúng ta hôn mê như say ngủ. Tại sao chúng ta chưa giác ngộ? Cả đời sống say chết mộng? Ðó là bởi ba độc này. Tham là tham dục. Xưa nay tham dục này tác hại rất lớn đối với tự tánh, nhưng có một số người lại cho nó là một thứ hưởng thụ tối cao, cho nên đã gây ra biết bao hành vi điên đảo, đem tự tánh của mình vùi chôn dưới lớp trần cấu. Thứ trần cấu này càng ngày càng nhiều, vì thế mà ánh sáng Phật tánh của quý vị không hiển lộ được. Ðó là sự tệ hại của tham độc. Tác hại của sân độc cũng rất lớn không kém gì tham độc.
Còn thế nào là si độc? Si là ngu si. Ngu si mà chẳng biết mình ngu si, đó là ngu si đấy. Có kẻ cho mình là người rất thông minh, có trí huệ; nhưng trên thực tế, nếu quý vị hỏi anh ta: "Anh từ đâu đến đây? Tương lai anh sẽ về đâu?" thì anh ta không biết. Ðến không biết mình từ đâu đến, đi không biết mình đi về đâu, quý vị thử nghĩ xem người như thế có phải là thông minh không? Nhưng chính anh ta lại không thừa nhận mình là người ngu si. Ấy là:
Việc nhỏ lợi danh người người thích,
Việc lớn sanh tử chẳng ai lo.
Trên thế gian này, việc tìm cầu danh lợi tuy là nhỏ, nhưng người ta suốt ngày quần quật bôn ba, thậm chí hại bạn, giết người, phóng hỏa đều là vì lợi cả. Nếu không vì "lợi" cũng vì "danh"! Trên thế gian này, số quốc gia cùng con người không đếm kể hết, song tựu trung lại có hai hạng người: Một là cầu danh, hai là cầu lợi. Danh lợi nó chi phối, làm điên điên đảo đảo biết bao nhiêu người vẫn chưa giác ngộ được. Từ khi sanh ra đến lúc chết, đều ở trong tình trạng bon chen, giành giật, có người ham làm quan, có người ham phát tài, có người ham được con cái, cho đến những ham muốn nghiêng về khoái lạc. Khát vọng một đời, chờ đợi mọi thứ khoái lạc, nhưng mà chưa hưởng thụ được bao nhiêu rồi phải chết. Chết rồi đi về đâu cũng không biết! Lúc sống đều tự cho mình là phi thường, cảm thấy chính mình thật là không ai bằng.
-"Ta là người có trí huệ thông minh nhất. Lúc còn đi học, ta mỗi năm đều được hạng nhất, bất cứ làm việc gì ta cũng đều dẫn đầu, trên người một bậc."
Tự cho mình là thông minh khác thường, mà kỳ thật cả bản lai diện mục của mình cũng không nhận biết! Sự thông minh như thế đều là giả cả, đó là thứ "thông minh giả." Người thật sự có thông minh thì không cảm thấy chính mình có trí huệ. Vậy thì thấy mình là ngu si sao? Cũng không tự thấy mình là ngu si, lại càng không tự thấy mình có trí huệ. Tuy rằng, ngoài mặt xem ra cũng cùng một thân thể hình trạng như mọi người, nhưng mà những tư tưởng quan niệm của họ thật thấu suốt rõ ràng. Rõ ràng là thế nào? Thấu suốt rõ ràng rằng tất cả đều như huyễn như hóa. Biết rằng tất cả mọi thứ đều là giả, họ không tham đắm vinh hoa phú quý trong mộng, ham giành sắc đẹp, tranh nhân ngã, tranh thị phi, tranh đứng đầu, tranh danh đoạt lợi, mà hiểu rõ tất cả đều là vô thường. Vì thế Kinh Kim Cang nói:
"Tất cả pháp hữu vi
Như chiêm bao, bóng nước,
Như điện chớp, mù sương,
Hãy quán cho thật tường."
Tất cả pháp hữu vi như chiêm bao, bóng nước. Pháp hữu vi là gì? Tất cả những gì có hình tướng, có thể nhìn thấy, đều là pháp hữu vi. Nó giống như chiêm bao, bọt nước. Bọt nước trong biển cả, quý vị cho là thật hay giả? Nói là thật, thì sao nó lại hóa ra không có? Nói là giả, thì sao lại có cái bọt nước? Tuy có bọt nước, nhưng không phải thật tại, không có thể tánh chơn thật. Bóng, cũng là hư ảo. Lại giống như mù sương; sáng sớm có mù sương, nhưng khi mặt trời mọc lên nó lại tan biến hết. Ðiện, cũng là có; nhưng lửa điện, lửa đá chớp mắt tan đi, cũng không phải là chơn thật. Nếu có thể quán tưởng tất cả sự vật như thế thì còn có gì phải chấp trước? Không có chấp trước mới là thật hiểu rõ. Bấy giờ, quý vị sẽ không tưởng Ðông tưởng Tây, càng không tưởng Nam tưởng Bắc, tất cả vọng tưởng trần lao đều bị vất bỏ. Bỏ hết những vọng tưởng trần lao rồi, lúc ấy quý vị không muốn thành Phật cũng không được, muốn không có trí huệ cũng không được, sẽ tự nhiên có thôi.
Cho nên đương lúc tự mình không có trí huệ, không nên cho là mình có trí huệ. Trí huệ không phải tìm cầu ở bên ngoài mà có. Không nên sanh tâm kiêu ngạo, cho là:
-"Giữa mọi người, ta là kẻ thông minh nhất, đẹp đẽ nhất, kiệt xuất đối với mọi người, siêu quần bạt tụy, trên tất cả."
Nếu quý vị có tư tưởng này là quý vị còn chấp tướng. "Tướng" vốn là cái đãy da hôi, nó như là chiêm bao, bóng nước. Quý vị suốt ngày cho nó ăn ngon mặc đẹp, hết lòng cho nó hưởng thụ. Nhưng đến lúc nó bỏ đi, nó cũng không thèm để ý tới quý vị. Có người lại chăm chút cho đãy da hôi này, vừa hút thuốc, vừa uống rượu, vừa ăn thịt, suốt ngày lo lấp cái hố sâu không đáy này, lấp rồi lại chảy, chảy rồi lại lấp, lấp mãi vẫn không đầy. Nhưng người ta cứ bỏ cũ thay mới, mới cũ thay nhau, vì bản thân mà bận rộn, vất vả.
Tại sao mỗi ngày ăn một bữa cơm? Tại vì sợ phiền phức cho nên ăn ít một chút để bớt đi phiền rộn. Có một số người cho rằng ăn ngon là cách hưởng thụ tốt nhất, tôi lại cho rằng đó là việc phiền rộn nhất. Giải thích như thế nào đây? Nếu ăn nhiều vào thì bụng sẽ khó chịu. Ăn ít vào, lại sanh ra tâm tham:
-"Ðồ ăn ngon như thế này, nên ăn nhiều một ít!"
Nếu đồ ăn không ngon thì không thể sanh tâm tham. Bao tử cũng không bị khổ sở. Cho nên đó đều là những việc phiền phức. Tại sao người ta lại có những phiền phức này? Tại vì mình quá ngu si mới tham hưởng thụ, cầu giàu sang, cầu danh lợi, cầu vui sướng, các thứ ấy thảy đều là điên đảo cả. Quý vị tham cái này cái nọ, thì kết quả sẽ ra sao? Kết cuộc rồi cũng phải chết thôi. Ðến lúc chết, không đem theo được tí gì. Ðó không phải là ngu si sao? Ngu si như thế thì phải làm sao? Theo phương pháp của Kinh Pháp Hoa dạy: "Thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm." Sự ngu si của quý vị sẽ mất đi và trí huệ sẽ hiện lên. Ai có thể biết mình ngu si? Ðó mới là nhận thức đúng đắn về mình. Ðã có trí huệ, mới biết mình là ngu si. Nếu quý vị tự mình không có trí huệ thì rốt cuộc không thể biết tự mình là ngu si đâu, càng nghĩ càng xa thôi. Chính mình vốn là ngu si, mà tự cho là rất thông minh thì há không phải là trên ngu si lại thêm ngu si hay sao? Trước là một kẻ ngu si còn chưa đủ, lại muốn biến thành kẻ ngu si gấp đôi. Hiện tại chúng ta nếu muốn mình không ngu si thì phải thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðó là một phương pháp hay nhất, linh diệu nhất. Tuyệt đối bảo đảm mầu nhiệm không thể nói được.
Nói về ngu si và trí huệ, thì thế nào là ngu si? Thế nào là trí huệ? Tôi sẽ nói một đạo lý mà quý vị sẽ không tin đâu, đó là
-"Ngu si chính là trí huệ, trí huệ chính là ngu si."
Tại sao nói thế? Ở Tâm Kinh có câu: "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc." Cảnh giới này nói lên chơn sắc từ chơn không mà sanh, chơn không từ chơn sắc mà có, cho nên hai mà không hai. Ngu si và trí huệ cũng cùng một đạo lý ấy. Khi quý vị biết dùng thì đó là trí huệ, nếu không biết dùng thì đó là ngu si. Ngu si và trí huệ không phải là hai mà phải xem quý vị có biết dùng hay không! Nếu quý vị biết dùng thì ngu si cũng biến thành trí huệ; nếu không biết dùng thì trí huệ biến thành ngu si. Nếu thấu triệt được đạo lý này thì quý vị sẽ không còn điên đảo nữa. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người ngu tối - Độn căn tu hành được không?
Người độn căn vì họ mà thuyết pháp, nói một lần họ không hiểu, nói hai lần họ cũng không hiểu, càng nói càng hồ đồ, càng hồ đồ càng phải hỏi. Giống như đệ tử của đức Phật, Tôn giả Châu Lợi Bàn Đà, vị này là người tối tăm ngu nhất của đức Phật, về sau vị này thành tựu biện tài vô ngại, là nghĩa trì đệ nhất. Có thể thấy tu hành thì không sợ ngu độn, chỉ sợ không chịu phát tâm. Nếu chịu phát tâm thì dù hạ ngu cũng đắc được thượng trí.
Người lợi căn, nghe được một thứ đạo lý thì hiểu rõ tất cả đạo lý khác. Vị Nhan Hồi nghe một biết mười. Đề Bà Đạt Đa là đệ tử của Phật, là người thông minh nhất, tuy nhiên có trí huệ, nhưng thông minh ngược lại bị thông minh lầm lẫn, kết quả đọa vào địa ngục.
Lợi và độn là người bình thường, khốn khó mà học là người thông minh, khốn khó mà không học là người ngu si. Thánh nhân là sinh ra mà biết, hiền nhân thì học mà biết; chúng ta là người bình thường thì phải học Phật pháp.
Có người sinh ra tâm từ bi rất lớn, có người sinh ra tâm từ bi rất nhỏ. Có người sinh ra tâm tham lam rất lớn, có người sinh ra tâm tham lam rất ít. Chúng sinh có đủ thứ căn tính khác nhau. Vị Thiên Vương này biết được dục vọng của chúng sinh. Loại chúng sinh nào hoan hỷ pháp gì, thì vị này thuyết pháp đó.
Ví như gặp chúng sinh tham lam thì nói pháp bố thí cho họ nghe, nói bố thí có công đức gì ?
Gặp chúng sinh phạm giới, thì nói pháp trì giới cho họ nghe, nói sự lợi ích về sự trì giới.
Gặp người nhiều sân hận, thì nói pháp nhẫn nhục, dạy họ học theo Bồ Tát Di Lặc, mở miệng thường cười, nhẫn việc thiên hạ không thể nhẫn.
Gặp chúng sinh lười biếng giải đãi thì nói pháp tinh tấn cho họ nghe, phải siêng tu khổ hạnh, mới mong thành tựu.
Do đó trồng trọt một phần thì thu hoạch một phần. Nhất là tu hành, công phu tu một ngày thì có công đức một ngày, cho nên tu hành thì không lãng phí thời gian, hy vọng mọi người đầu sào trăm trượng càng tiến tới một bước. Gặp chúng sinh tán loạn không có định lực, thì nói pháp thiền định tham thoại đầu như thế nào ? (tinh thần tập trung, nghĩ "Niệm Phật là ai" ?)
Gặp chúng sinh ngu si thì nói pháp trí huệ, khiến cho họ khai mở trí huệ, đắc được cảnh giới thật tướng Bát Nhã. Đó là Lục độ căn bản của pháp đại thừa.
Nói tỉ mỉ về căn tính của chúng sinh, thì có tám vạn bốn ngàn, Phật pháp có bốn vạn tám ngàn pháp môn, chuyên đối trị bệnh của chúng sinh. Pháp môn có cao thấp, môn nào cũng đệ nhất ; pháp môn nào đối cơ là đệ nhất, ngoài ra các pháp môn kia là đệ nhị.
Người hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh đạo tâm, người không hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh tâm thối lui, cho nên khi thuyết pháp, thì phải quán sát căn tính của đối phương, là lợi căn hay độn căn ?
Đối với người lợi căn, thì giảng về đạo lý chân không diệu hữu trung đạo đệ nhất nghĩa, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa đại thừa.
Đối với người độn căn, thì nói pháp nhân duyên sinh diệt, hoặc pháp nhân quả báo ứng, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa tiểu thừa.
Tôn giả Xá Lợi Phất có hai vị đệ tử tu hành nhiều năm mà chẳng thành tựu. Xá Lợi Phất hỏi đức Phật là lý do gì ? Đức Phật hỏi : ‘’ Vị đó trước khi xuất gia làm nghề
gì ? ‘’
Xá Lợi Phất đáp: ‘’ Một là thợ bạc, một là xem mộ.’’ Đức Phật nói : ‘’ Nên dạy vị Tỳ kheo thợ bạc tu pháp sổ tức (đếm hơi thở), dạy vị Tỳ kheo xem mộ tu pháp quán xương trắng, như vậy thì có thể thành tựu.’’
Tôn giả Xá Lợi Phất trở về dạy tu theo như thế, không lâu hai vị đều chứng quả. Đó là theo căn tính thích ứng với họ mà thí giáo.
Theo bệnh cho thuốc: Chúng sinh đều có bệnh phiền não, bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh ngu si, vô minh .v.v. Thậm chí có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh. Phật pháp là thuốc thần, người thuyết pháp là bác sĩ. Bác sĩ trước hết phải xem bệnh gì ? Sau đó dùng thuốc thích đáng để điều trị. Bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy mới hy vọng thuốc công hiệu chữa lành bệnh. Do đó :
"Thuốc không hay dở, lành bệnh là thuốc hay; Pháp không cao thấp, hợp cơ là pháp diệu".
Gặp chúng sinh căn lành thành thục, thì dạy họ xuất gia tu đạo. Gặp chúng sinh không có căn lành, thì dạy họ trồng căn lành tu phước đức. Gặp chúng sinh đã trồng căn lành, thì dạy họ phương pháp làm tăng trưởng căn lành.
Tóm lại, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục. Đã thành thục khiến cho giải thoát. Cho nên vì chúng sinh thuyết pháp đoạn trừ tâm nghi của họ, mà sinh ra tâm tin, đắc được môn giải thoát không chướng ngại. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
Xem thêm: Tổng hợp về người thượng - Trung - Hạ căn
+ Năm giai cấp/ Đẳng cấp: Chủ tịch Hồ Chí Minh, có lúc Người nói rằng nhân dân ta gồm “gái trai già trẻ” của “năm lớp Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh”. Vậy Tứ dân gồm đứng đầu là Sỹ / Trí thức có học và hiểu biết (thầy đồ, thầy thuốc, quan lại, học trò) - Kẻ sỹ - Xã hội trọng học hành đỗ đạt; Nông là nông dân làm ruộng; Công là lao động chân tay cho chủ/ Doanh nghiệp, trong cơ sở công nghiệp nhà nước; Thương nhân là người kinh doanh buôn bán; Và với 4 tầng lớp như thế, thì những người làm nghề ca hát không thuộc tầng lớp nào, nên mới có câu Xướng ca vô loài/ Giới Hạ lưu. Như thế có nhiều nghề thời xưa không được quy nạp vào bốn giai cấp chính trong xã hội. Một lớp khác thấp hèn nhất thường gọi là "Tiện nhân bần cùng"... (Nguồn: vi.wikipedia.org)
+ Bốn đẳng cấp nhân loại: ... Từ việc hành mười điều bất thiện sẽ dẫn đến những việc như vậy. Khi đó, con người sẽ không thể khen hay ca ngợi người khác; mà chỉ toàn tự đề cao mình và chê bai người khác. Sẽ có bốn tầng lớp giai cấp xã hội: quý tộc (hoàng gia), thương gia, lao động và các tu sĩ, học giả (Hoặc: Quý tộc, Bà la môn, thường dân và kẻ hầu hạ). Nếu tất cả những người này đều đặt niềm tin, hết lòng tôn kính giáo Pháp này thì thời kỳ đó sẽ trở nên an lạc, tốt đẹp”.... (Nguồn: Kinh Ngọn Đèn Sáng Tỏ - Đức Phật Tiên Tri)
+ Đẳng cấp con người chưa tu đạo: Đời sống Thế tục phân đẳng cấp con người thiên nặng về "Phú quý - Danh tiếng - Uy quyền", với quan điểm này thì Đẳng cấp Mệnh số của một người do Nhân nào - Quả đấy an bài, bởi đa số họ chưa tin sâu nhân quả luân hồi tái sanh, nên họ mới đề cao Phúc phần. Họ chấp nhận rủi do nếu bị chết uổng "Những cái chết không đáng chết - Họ chưa sống hết Định số" thì họ cũng cam lòng.
+ Đẳng cấp con người tu Đạo làm người:
Người xưa kỳ vọng đối với người đi học, quang minh chánh đại, đường đường quân tử. Do đây có thể biết, nhà Nho nói tiêu chuẩn của quân tử là hai câu này phải làm được. Nhà Nho dạy học ở nơi thành tích cũng là ba đẳng cấp, đó là quân tử, hiền nhân và thánh nhân. Đây là mục tiêu giáo học. Cho nên nói, đi học chí ở thánh hiền, làm thánh, làm hiền. Quân tử là nền tảng của thánh hiền. Nếu muốn làm thánh nhân, hiền nhân phải làm được tám chữ này.
Phật pháp nói được càng thấu triệt, giáo học Phật pháp thành tựu cũng phân ba cấp, A La Hán, Bồ Tát và Phật. Nhà Nho gọi A La Hán là quân tử, Bồ Tát là hiền nhân, Phật là thánh nhân.
Tuy thành tích ba giai đoạn này gần giống nhau, nhưng trên thực tế cao thấp khác biệt rất lớn. Giáo học nhà Nho là giáo dục của một đời, bắt đầu từ thai giáo, đến sau cùng là già chết, “thận chung truy viễn”. Thế nhưng giáo học của Phật pháp thì là ba đời, có đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Ở nơi không gian mà nói là tận hư không, khắp pháp giới. Đây là chỗ nội dung không bằng của giáo học nhà Nho. Cho nên, giáo học Phật pháp nói được rất tường tận, rất chu đáo. Sau khi hiểu rõ chúng ta liền biết được, làm một người thiện, làm một người tốt là việc phải nên làm; không nên làm người ác, không nên làm một người bất thiện. Cùng với người thiện thì đây là việc thật vui mừng. Chúng ta mong cầu cả nhà thiện, một nước thiện, một thế giới đều thiện. Bạn có tâm nguyện này, có loại hành trì này thì liền tương ưng với Phật đạo. Đương nhiên ở chỗ này nói “tà kính”, “ám thất”, bạn đích thực đều có thể làm đến bất “lý”, bất “khi”. (Nguồn: HT Tịnh Không giảng Thái Thượng Cảm Ứng Thiên - Tập 12)
+ Hạng bậc người Người Quân tử - Thiện tri thức:
7. Biết sự hơn kém của người?
Có hai hạng người: có tín và có bất tín[10], người có tín là hơn, người bất tín là kém.
Người có tín lại có hai hạng: Người đến gặp thấy Tỳ-kheo là hơn, người không thường đến gặp Tỳ-kheo là kém.
Người thường đến gặp Tỳ-kheo lại có hai hạng: Người có lễ kính là hơn; người không lễ kính là kém.
Người có lễ kính lại có hai hạng: Người có hỏi kinh là hơn, người không hỏi kinh là kém.
Người có hỏi kinh lại có hai hạng: Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm nghe kinh là kém.
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
Người nghe rồi thọ trì pháp lại có hai hạng: Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp không quán sát nghĩa là kém.
Hạng nghe pháp quán sát nghĩa lại có hai: Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp là hơn; người không ... là thấp kém.
Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người. Loại Tự làm lợi ích là bậc nhất là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.
Phật thuyết như vậy. Các vị Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.(Nguồn: Kinh Thiện pháp - Số 26 A Hàm)
+ Tạo nghiệp: Theo Luật nhân quả, thì một người hay nhóm người cùng gieo nhân nào thì cũng đều phải gặt quả báo - Có hành động thì phải phát sinh quả báo ...
Chữ "Duyên Hành" trong 12 Nhân Duyên của vòng Luân hồi: Hành là hành động hoặc khởi Tâm suy nghĩ đều sẽ tạo nghiệp và phải nhận quả báo. Ví dụ về việc mang thai:
Câu hỏi: Bạch Hòa Thượng, có một số những người mẹ không hôn thú đang gây ra nhiều vấn nạn xã hội, rồi sau đó là có việc phá thai ... Con tự hỏi Hòa Thượng có ý kiến hay đề nghị gì về vấn đề này.
Hòa Thượng: Quý vị đang đề cập về những bà mẹ độc thân. Khổ thay, những người này đã đánh mất nhân phẩm, vì thế họ không tôn trọng những luật lệ trước khi lập gia đình. Ngày nay, những người trẻ thích khiêu vũ, xem phim ảnh, và ca hát. Họ hưởng thụ ăn uống, vui chơi và tìm khoái lạc. Những đam mê và hành vi dẫn đến sự mất nhân phẩm, đến độ họ không còn ý thức việc họ là con người. Là người, phải có hành vi của người, nhưng họ lại giống như ma quỉ -- lén lút không tôn trọng luật lệ, muốn thử hết trước khi lập gia đình ... và vì thế, họ có thai. Những chuyện như thế này có thể không có gì quan trọng ở phương Tây, nhưng ở Trung Hoa thì thật xấu hổ.
Vấn đề này xảy ra do chỉ do một niệm vô minh: Nam theo đuổi nữ, nữ tìm kiếm nam ... Bởi vì vô minh, nên hành nghiệp theo sau, sau khi hành nghiệp tạo tác thì có danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ hiện hữu …, tất cả những thứ này đều tạo tác bởi vô minh ... Do mê mờ, tình ái khởi sanh, tiếp theo là dục vọng muốn nắm bắt (thủ và hữu), và sau đó là nhiều vấn đề khác xuất hiện … cho đến khi già chết (lão, tử) đến. Toàn bộ chuỗi biến cố này được gọi là Pháp Mười Hai Nhân Duyên.
Vì người đời không hiểu Mười Hai Nhân Duyên nên, họ làm những việc trái với đạo lý. Vì vậy vấn nạn của họ càng ngày càng lớn. Cho đến lúc họ mang thai, sự việc càng trở nên rắc rối hơn khi thay vì dưỡng thai bào để sinh nở, họ lại phá hủy bào thai lúc thai từ một đến bốn tháng tuổi.
Tội phá thai rất nặng. Quý vị có thể nghĩ chúng chỉ là con ma bé nhỏ, nhưng những con ma này có những năng lực tâm linh to lớn có thể làm quý vị chết hay mang những tật bệnh kỳ lạ, làm cho quý vị nói năng lảm nhảm và lẫn lộn đầu óc đến khi điên dại ... Tội phá thai còn nặng hơn tội giết người lớn. Nếu quý vị không muốn có con, tại sao lại gây ra việc thụ thai? Tại sao rắc rối như thế? Khổ thay, đàn ông và đàn bà không hiểu đạo lý làm người nên những vấn đề này mới xảy ra.
Để giải quyết những vấn đề này, chúng ta cần cung cấp giáo dục về tình dục cho những người trẻ, và dạy họ đừng dính mắc vào tình ái cho đến khi khôn lớn trưởng thành; nếu không, họ sẽ gặp những vấn nạn khó khăn. Chúng ta phải thúc đẩy mạnh mẽ để họ tuân theo những quy tắc này.......
...... Mỗi người hình dáng không giống nhau, thì nhân quả cũng khác nhau. Mỗi người thiếu nợ kẻ khác từ bao đời nay cũng khác nhau. Có nhiều người thiếu quá nhiều nợ, đến đời này trả, trả mãi không hết. Nên nói: "nợ cao như núi". Ðó cũng là núi nghiệp chướng: núi ấy ngày càng cao lớn, ngày càng sâu dày. Nợ nợ chồng chất, rối rắm vô ngần, chẳng sao gỡ sạch. Ðó là vì duyên cớ gì? Vì là ngày trước họ tính lời quá cao; đem tiền cho vay, họ lấy lời cắt cổ. Thật là lòng tham không đáy. Họ nghĩ rằng mình chiếm thượng phong, nào ngờ kết quả là mình chiụ thua lỗ. Nghiệp chướng của họ ngày thêm sâu dày, đến độ cuối cùng họ chẳng sao rút chân ra đặng.
Có người thiếu nợ là phải làm cha, có người thiếu nợ là phải làm mẹ, có người thiếu nợ là phải làm chồng, làm vợ, hoặc phải làm con gái, phải làm con trai. Nên nói: "Cha mẹ đói khát, là nợ luân thường." Không biết là bao nhơn duyên hội họp để khiến vận mạng ngày nay của chúng ta an bài như vậy........
Vì vậy trong gia đình thân quyến có lúc bất hòa: ví như cha con bất hòa, mẹ con tranh chấp, vợ chồng cải lẫy, anh em đấu tranh, chị em gây lộn... đủ thứ chuyện rắc rối sản sinh. Chuyện đã như vậy, song họ chẳng ai thừa nhận, chẳng chịu thấy đây là nợ nần, mà ngược lại cảm thấy mình bị thiệt thòi. Kỳ thật, những việc trên xảy ra đều là do trước kia gieo nhân xấu nay gặt phải quả khổ. Trước kia gieo nhân gì, nay gặt quả là vậy, có gì đâu mà phải oán hận? Nên có câu rằng: "Kẻ biết mệnh trời thì không đứng dưới bước tường nghiêng đổ. Y không trách trời, không đổ lỗi cho người khác. Y biết hạ mình để học hỏi và nâng cao đạo đức để tiến lên." Người tu trước tiên phải hiểu lý nhân quả, không nên gieo nhân một cách bừa bãi, phải trồng nhân cho thanh tịnh. Nếu chuyện gì hợp với đạo lý thì mình tiến tới, không hợp đạo thì lùi lại. Không nên mờ mịt việc thiện ác khiến chúng rối rắm chẳng rõ; cũng không thể để chuyện thị phi đúng sai hổn tạp chẳng rành. Môt khi mình đã phân biệt được trắng đen, chân giả, thì phải nhân đó mà phản bổn hoàn nguyên, trở về với bản thể thanh tịnh, bản tánh chơn như mầu nhiệm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Những vong linh thai nhi vô tội)
+ Hai loại người: Người Nam - Nữ trên thế gian, mỗi loại đều có phẩm tính, thế mạnh ... để biểu lộ, để hấp dẫn, để dàng buộc người khác phái. Đặc biệt phái nữ nhân có "Sắc đẹp nghiêng nước nghiên thành", hoặc tánh tham muốn "Nữ tham tài - Trai ham sắc", xưa nay đều thế, bản chất đời sống vô minh luân hồi sinh tử là như thế. Ái dục trói buộc nhau đời đời kiếp kiếp, vô bờ bến luân hồi khổ đâu.
+ Bốn hạng người: Phật bảo: "Trên đời có 4 hạng người (Thập Thiện Nghiệp - HT. Thích Giác Thiện):
- NGƯỜI TỪ TỐI ĐI VÀO TỐI?: Nghĩa là người này sanh ra đời chịu nhiều sự khổ, thế mà lại chẳng lo tu thiện để chuyển nghiệp xấu, lại làm việc ác, chẳng khác nào từ chỗ tối đi vào chỗ tối tăm, khổ sở hơn.
- NGƯỜI TỪ CHỖ TỐI ĐI ĐẾN CHỖ SÁNG: Là người sanh ra đời từ thân mạng cho đến vật chất không bằng ai, nhưng họ ý thức đó là nghiệp xấu đời trước nên ăn năn sám hối phát tâm cúng dường, bố thí làm lành, lánh dữ... Người như thế là biết tiến tới ánh sáng tốt đẹp cho hiện tại và tương lai.
- NGƯỜI TỪ CHỖ SÁNG ĐI ĐẾN CHỖ TỐI: Tức là người này sanh ra đời hưởng cảnh giàu sang, nhưng không biết tại thêm phước lành, lại còn tham lam, keo kiệt, kiêu căng, hống hách, tạo nhiều ác nghiệp. Người như thế chẳng khác nào từ chỗ sáng đi vào bóng tối nghèo đói, thấp hèn, khổ đau...
- NGƯỜI TỪ CHỖ SÁNG ĐI ĐẾN CHỖ SÁNG: Là người có căn lành đời trước nên sanh vào nhà tôn quý, hưởng cảnh giàu sang lại tiếp tục bổ thí, cúng dường làm nhiều việc thiện, trên kính dưới nhường... người như thế là từ chỗ sáng tiến đến ánh sáng tốt đẹp thanh cao hơn."
+ Năm hạng người hiện hữu ở đời
1. Cho là khinh: Người sau khi cho người khác các đồ nhu yếu như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Vị ấy nghĩ: “Ta là người cho, người này là người nhận” - Vị ấy khinh rẻ người nhận.
2. Sống cùng khinh rẻ: Có hạng người cùng sống với người, hai hay ba năm. Do sống với người ấy, vị ấy khinh rẻ người ấy.
3. Người nuốt tất cả: Có người khi nghe người ta tán thán hay chỉ trích người khác, liền mau mắn thích thú.
4. Người không vững chắc: Người có lòng tin nhỏ bé, có lòng tín ngưỡng nhỏ bé, có lòng ái mộ nhỏ bé, có tịnh tín nhỏ bé.
5. Người ám độn ngu si: Có người không biết các pháp thiện, bất thiện, không biết các pháp tội, không tội, không biết các pháp hạ liệt, thù thắng, không biết các pháp dự phần đen trắng. (Xem nguồn)
+ 410. MƯỜI HẠNG NGƯỜI HÀNH DỤC
1) Có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời sống lâu.
2) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
3) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
4) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
5) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợï con, dầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
6) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Nhưng khi có của cải rồi lại bị đắm nhiễm, hệ lụy. Khi đã bị hệ lụy, đắm nhiễm, không thấy được tai hoạn, không biết đến sự xuất yếu mà tiêu dùng
7) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết được sự xuất yếu mà tiêu dùng.
8) Hành dục một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là thấp hèn nhất.
9) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối thượng.
10) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết sự xuất yếu khi tiêu dùng, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu.
* Cũng như con bò có sữa, do sữa có lạc, do lạc có sanh tô, do sanh tô có thục tô, do thục tô có tô tinh. Tô tinh là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu. Này Cư sĩ, cũng như vậy, so với các người hành dục khác, kẻ hành dục này là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu. (Nguồn: Kinh Hành Dục-Trung A Hàm)
+ Bốn người nầy được tìm thấy trong đời:
1. Người đi thuận dòng: Người nào đắm say dục lạc và phạm ác nghiệp là người là người đi thuận dòn.
2. Người thì đi ngược dòng: Người không đắm say dục lạc hay không phạm ác nghiệp, mà sống đời trong sạch trinh tiết, phấn đấu rất vất vả và khó khăn để làm được vậy, là người đi ngược dòng.
3. Người đứng vững vàng: Là người đã tận diệt năm hạ phần kiết sử sẽ được hoá sanh vào cõi Phạm thiên, từ đó vị ấy chứng ngộ Niết Bàn mà không từng trở lại dục giới.
4. Người đã vượt qua bờ kia và đứng trên đất khô ráo: Người đã đến bờ kia đứng trên đất khô là người đã tận diệt mọi lậu hoặc trong tâm, và, ai đã tự thân chứng ngộ, ngay trong kiếp sống nầy, tâm giải thoát và tuệ giải thoát. (TĂNG CHI BỘ KINH _ đoạn 5)
+ 772. TỲ KHEO BIẾT SỰ HƠN KÉM CỦA NGƯỜI
Thế nào là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người?
1) Đó là Tỳ-kheo biết có hai hạng người: có tín và có bất tín, người có tín là hơn, người bất tín là kém.
2) Người có tín lại có hai hạng: Thường đến gặp Tỳ-kheo và không thường đến gặp Tỳ-kheo. Người đến gặp thấy Tỳ-kheo là hơn, người không thường đến gặp Tỳ-kheo là kém.
3) Người thường đến gặp Tỳ-kheo lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính.
4) Người có lễ kính là hơn; người không lễ kính là kém.
5) Người có lễ kính lại có hai hạng: có hỏi kinh và không hỏi kinh. Người có hỏi kinh là hơn, người không hỏi kinh là kém.
6) Người có hỏi kinh lại có hai hạng: nhất tâm nghe kinh và không nhất tâm nghe kinh.
7) Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm nghe kinh là kém. Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp.
8) Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
9) Người nghe rồi thọ trì pháp lại có hai hạng: nghe pháp có quán sát nghĩa và nghe pháp không quán sát nghĩa.
10) Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp không quán sát nghĩa là kém. Hạng nghe pháp quán sát nghĩa lại có hai: biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp và thực hành đúng như pháp.
11) Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp là hơn; người không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp là thấp kém.
12) Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người.
Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người. Người ấy là bậc nhất là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.
Ví như từ bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sinh tô, từ sinh tô có thục tô, từ thục tô có tô tinh. Tô tinh là thứ bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu đối với những loại kia.
Nếu người nào tự làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời người, thì trong hai hạng người như trên đã nói, đã phân biệt, đã thi thiết, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu. Ấy là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người. (Trung A Hàm, Kinh Thiện Pháp, Phẩm 1, số 1)
+ Bốn Hạng người tự hành hạ mình: ... Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. (Nguồn: (VIII) (198) Tự Hành Hạ Mình - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Ba Hạng người chưa được điều phục: .... Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về ba loại ngựa chưa được điều phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa được điều phục. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói...... (Nguồn: 137.- Ngựa Chưa Ðược Ðiều Phục - Kinh Tăng Chi Bộ - Trang 178)
+ Ba hạng người: (1) Hạng người với tâm ví dụ như vết thương, với tâm ví dụ như chớp sáng, với tâm ví dụ như kim cang; (2) Ba hạng: Đáng ghê tởm - Người phẫn lộ, sân hận, hiềm hận, sừng sộ .. - Người giữ giới; (3) Ba hạng: Nói như phân - Nói như hoa - Nói như mật; .... Trong Kinh đức Phật dậy nhiều hạng người khác nữa. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba Pháp)
Xem: Tổng hợp các Hạng - Nhóm - Loại người
+ Bí quyết - Xem Nhân phát tài: Đây là nói trong Số mạng có phước về tiền tài dày mỏng. Đây là điều kiện tiên quyết CẦN PHẢI XÉT để quyết định người đó giầu có hay nghèo khó. Người có Phước sâu dày thì có thể kinh doanh làm giầu. Phước này là Quả báo của việc tiền kiếp họ đã hành bố thí tiền tài cứu giúp chúng sinh, nên trong kiếp tái sanh này họ sinh ra để thụ hưởng Quả báo phát tài. Tuy nhiên, tùy theo loại phước điền mà họ sẽ nhận loại Quả báo phát tài tương ứng. Ví dụ, họ phát tài trong nghề nghiệp, họ luôn có việc làm ổn định và có tiền lương cao thấp. Hoặc có loại Quả báo mà họ có thể khởi nghiệp kinh doanh hoặc đầu tư buôn bán kiếm lời. Phước điền đa dạng thì như nguồn tiền tài phát từ nhiều nguồn. Tất nhiên, dù là ai thì vẫn phải tuân theo Định luật chu kỳ và tuần hoàn, tức là đều có Thời kỳ thịnh vượng xen lẫn suy vi, điều này không thể không hiểu biết. Vậy nên có câu HÃY TỰ BIẾT MÌNH.
* Xem Mệnh Vận biết Phước điền: Muốn biết trong Mạng có nghiệp phước nông sâu, thì xem qua Lá số sinh mệnh [Tứ trụ/ Bát tự] lập theo ngày giờ sinh của một người, qua đó có thể đoán biết Phước điền nông sâu, rộng hẹp, thiện ác ra sao, khi biết Thời thế khi nào phát tài mạnh yếu ra sao thì nên sắp sếp đời sống cho thật phù hợp Thế thời, giúp phòng chánh rủi do bị tán tài, phá sản, tù tội ... đó là nguồn cơ mang đến chia ly, phiền lão khổ đau, nợ lần, khuynh gia bại sản không đáng có do thiếu hiểu biết - Hành trái quy luật tự nhiên - Không lượng sức mình như Thánh hiền dạy.
* Vun bồi phước tài: Ai cũng nên sống Đoạn ác tu thiện, làm lành lánh dữ, thường hành thí cúng là để vun bồi tích phước đức, giúp Kho Tâm địa tích chứa thật nhiều Hạt giống, thì khi Thời cơ đến - Hội đủ Duyên lành khác phát lớn tiền tài dài lâu, bền vững hết kiếp này sang kiếp khác.
+ Bí nhiệm Cung - Cầu: Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử [205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ. (TTHM, 204)
+ Kiến thức liên quan Bí nhiệm:
1. Đạo Tâm và Dụng Tâm của người Thiện Trí giầu phước điền
2. Định Luật Cung cầu
3. Định luật về Vật chất cơ bản
4. Định luật vạn vật hấp dẫn
+ Tam giác kết tinh Tiền tài theo Chiêm tinh học
+ Kiến thức khoa học về Quản trị kinh doanh.
+ Bí nhiệm về sự kết tinh Tiền tài của người Đệ tử: Bí nhiệm Vàng
+ Bí nhiệm Vàng: Thuật ngữ Bí nhiệm - Bí quyết này được hiểu là những bí mật vũ trụ mà con người cần có Thiện Trí nhất định mới được Thiện Trí thức trao truyền (ví như sử dụng các Linh từ ...), cũng phù hợp với các Định luật vũ trụ, tức Đạo vũ trụ mà nhân loại muốn hiểu biết, lắm bắt thì không chỉ qua học hỏi sách vở, mà còn cần thực hành Tham thiền huyền môn, tự mình khám phá thực chứng qua quá trình Tham thiền, rồi dụng kiến thức ấy vào thực tế ở đời sống cõi trần thì sẽ thu được thành tựu nhiệm mầu, đó là bởi trong "Kho vũ trụ" thì tiềm năng giúp kết tinh tiền, vàng là vô hạn. Nên Bí nhiệm nghĩa là "Bí quyết - Nhiệm mầu".
+ Bí nhiệm Cung - Cầu: Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử [205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ. (TTHM, 204)
+ Kiến thức liên quan Bí nhiệm:
1. Đạo Tâm và Dụng Tâm của người Thiện Trí giầu phước điền
2. Định Luật Cung cầu
3. Định luật về Vật chất cơ bản
4. Định luật vạn vật hấp dẫn
+ Tam giác kết tinh Tiền tài theo Chiêm tinh học
+ Kiến thức khoa học về Quản trị kinh doanh.
+ Bí quyết xem phước điền trong Số mạng: Nhân phát tiền tài
+ Nhiệt tâm buôn bán - Nhiệt tâm Tài: Lời Phật dạy về nhiệt tâm buôn bán. Ví như thời nay hiểu là người có Ham muốn kiếm tiền, làm giầu theo đúng chánh pháp. Tức cần phải Giác ngộ, hiểu thấu và tin sâu Luật nhân quả thông ba đời như đức Phật dạy là "Trồng Dưa được dưa, trồng Đậu được Đậu". Theo đó mà khi kinh doanh có lời lãi thì tùy duyên, lượng sức chăm chỉ hành Thí Cúng để tăng trưởng vun bồi nguồn Phước sâu dày, tin rằng cứ gieo hạt sẽ có thu hoạch], nên cần ghi nhớ và thật hành hàng ngày. Cụ thể xin trích Kinh văn như sau:
19.- Người Buôn Bán
- Thành tựu ba chi phần .... Người buôn bán, vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc => một người buôn bán không thâu nhận được tài sản chưa được thâu nhận và không tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận.
Thành tựu ba chi phần,... Người buôn bán, vào buổi sáng có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm chú vào công việc => một người buôn bán thâu nhận được tài sản chưa được thâu nhận và tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận.
20.- Người Buôn Bán
- Thành tựu với ba chi phần,.... Người buôn bán có mắt, khéo phấn đấu, xây dựng được cơ bản....
Người buôn bán có mắt: Biết các thương phẩm. Vật này mua như vậy, bán như vậy, sẽ đưa lại tiền như vậy, tiền lời như vậy.
Người buôn bán khéo phấn đấu: Người thương gia khéo léo mua và bán các thương phẩm.
Người thương gia xây dựng được căn bản: Người buôn bán được các gia chủ hay con các gia chủ, được các nhà giàu, có tiền bạc lớn, có tài sản lớn biết đến như sau: "Người buôn bán này là người có mắt, khéo phấn đấu, có đủ sức cấp dưỡng vợ con, và thường trả tiền lời cho chúng ta. Chúng ta trao hàng hóa cho người này: "Này bạn thương gia, hãy lấy tiền này, xây dựng tài sản để nuôi dưỡng vợ con và thường thường trả tiền lời cho chúng tôi". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán xây dựng do có cơ bản.
Thành tưụ với ba chi phần này, này các Tỷ kheo, người buôn bán, không bao lâu đạt dến tài sản lớn mạnh và rộng lớn. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba pháp)
+ Đệ tử Phật kinh doanh buôn bán: A-Nan thưa với Phật: Thế nào là thế gian sự? Thế nào là thế gian ý? Thật khó phân biệt.
Giảng: Tại sao có thẻ làm thế gian sự mà không có thế gian ý xen tạp chỉ huy? Để mọi người thấu rõ ý nghĩa, phân biệt việc làm, nên tôn giả A Nan lại bạch hỏi Phật lần nữa, để Phật minh xác giải thích tường tận.
Phật nói: Là đệ tử Phật có thể mua bán kinh doanh thương nghiệp, đúng cân đủ thước, không nên lừa dối, làm đúng tình lý, không trái lương tâm lý tánh tự nhiên, tống táng, hôn thú, di cư đều là thế gian sự.
Giảng: Thế gian sự thì vô số kể không thể nào nói hết. Ở đây đức Phật chỉ nêu vài việc làm thí dụ để giảng giải cho chúng ta hiểu rõ Phật pháp bất ly thế gian pháp. Phật pháp không trở ngại thế gian pháp. Thế gian pháp là điều mà chúng ta thường nhựt sinh hoạt, như ăn, uống, ngủ nghỉ, thân quyến bằng hữu, ân nghĩa giúp đỡ, hôn quan tang tế, mà hành giả công phu tu tập Phật pháp cũng sinh hoạt ở trong những sự vụ lớn nhỏ hằng ngày đó. Nhưng hành giả tu Phật có khác với kẻ thường tình là thấu rõ thế gian mộng huyễn, các pháp vô thường, nên thanh thản buông thả, khởi lòng vị tha phương tiện dùng giả hiển thật, lấy huyễn độ chân, nên ở trong đời làm việc đời mà không nhiễm đời. Như hoa sen trong bùn mà không dính mùi bùn hôi tanh. (Nguồn: KINH ANAN VẤN PHẬT SỰ CÁT HUNG - HT Tịnh Không giảng)
+ Lượng sức mình: Người Đầu tư - Kinh doanh - Buôn bán nên biết lượng sức mình. Có thể xem Mệnh Tứ trụ để biết Nhân Duyên Phúc phận về buôn bán để biết lượng sức, biết Thời thế để phòng rủi do, thất bại do thiếu hiểu biết. Nếu có nhiệt huyết mà thiếu phước phần thì nên gắng tu tạo phước chờ thời, không nên làm liều. Khổng Tử nói " Thời vận không thông mưu cầu vô ích là vậy. Mời đọc: Duyên Nghiệp vô phước thì buôn bán thất bại
+ Nhận Tư vấn kinh doanh qua xem Mệnh vận theo Tứ trụ: Nhân trắc học nhận Tư vấn xem Mệnh Vận theo Tứ trụ để biết về nhân duyên phúc phần trong đầu tư, kinh doanh, giúp lượng sức mình để không bị khổ đau vì làm liều do thiếu hiểu biết về nhân quả tạo phước nên kết quả kinh doanh không thể thành tựu thì đại bất hạnh là hiển nhiên.
* Xin liên hệ Mr Hương: 0964 759 686;
+ Kiến thức liên quan Bí quyết phát tài bền vững:
- Biết tiếc phước - Chánh gây tạo các nghiệp làm hao tài bại gia sản: Các nghiệp phá tài - Tổn phúc
- Chăm chỉ hành thí cúng theo khả năng để vun bồi phước đức ngày càng sâu dày: Các nghiệp tạo phước đức
- Người kinh doanh không lượng sức mình thì tự chuốc lấy những đại bất hạnh đau khổ: Xem các đại bất hạnh của người kinh doanh
- Đọc sách Kiến thức khoa học về nghệ thuật Kinh doanh - Làm giầu theo chánh đạo.
+ Mười Điều Sinh Phước: Trong kinh Digha nikaya và Anguttara nikaya sutta. Đức Phật dạy có 10 pháp để tạo nên phước đức đó là: Đức tin là sức mạnh lớn nhất trong thế gian này. Và “Đức tin vào lời dạy của Như Lai là nguồn vốn quý giá nhất và cao quý nhất của chính mình”.
1- Dāna: Bố thí, cho tặng, giúp đỡ, hỗ trợ, dâng hiến, ban thưởng,… nói chung là lấy tài sản của mình bỏ ra để tạo phước. Các quả lành trổ sanh mạnh yếu, ít nhiều, còn tuỳ thuộc vào 3 nhân tố (tác ý của người Dana, vật chất dana, và đối tượng nhận vật dana đó).
2- Sila: Tạo phước bằng cách phát nguyện giữ gìn trau dồi nhân cách đạo đức – còn gọi là giữ giới. Ví dụ: Hàng cư sĩ tại gia: giữ gìn 5 giới, hoặc 8 giới như trong các khoá thiền vậy, v.v… Quả lành Giữ giới ngay lập tức trong hiện tại là:
a. Phát sanh sự bình an, không lo âu sầu muộn, ít phát sanh bệnh tật, hoan hỷ trong nội tâm,… nhờ đó mà phát sanh sự thông minh sáng suốt, xử lý được nhiều điều quan trọng cần thiết trong cuộc sống. Từ đó dẫn đến:
b. Tăng trưởng uy tín, làm phát sinh sự cung kính ngưỡng mộ và đức tin cho kẻ khác,…
c. Phát sanh sự siêng năng cần mẫn quyết tâm cao trong công việc.
d. Phát sanh nhiều tài sản vật chất là hệ quả tự nhiên của a, b, c,…
3- Bhāvanā: Tạo phước bằng cách phát triển thiền tập (thiền định, thiền tuệ)
Quả lành của thiền trổ sanh ngay lập tức trong lúc đang thiền (đắc pháp hỷ, pháp lạc):
a. Phát huy đồng thời 3 sức mạnh: sức khoẻ về thân thể; Sung mãn về tâm; và phát huy trí tuệ sáng suốt thông minh hơn bội phần.
b. Hạnh phúc an lạc cả tinh thần lẫn thân thể – Điều mà không có phương dược nào có thể thay thế được.
4- Apacāya: Tạo phước bằng cách Cung kính, kính lễ, thể hiện sự lễ phép tôn trọng các bậc trưởng thượng, người lớn tuổi hơn, những người có vai vế hơn, hoặc những những người thâm niên hơn trong các hội đoàn tổ chức nào đó, v.v…
Đây là loại phước báu mang lại cho mình lợi ích vô cùng đặc biệt, khiến người khác dễ dàng yêu thương cảm mến đến bạn, vv..
Ngược lại sẽ là một tai hại vô cùng lớn đến với bạn khi mà bạn vụng về trong lối xử thế nầy vậy! Bởi vì sao? Bởi vì sự lễ độ phản ánh tư cách và chiều sâu đạo đức của một con người.
5- Veyyāvacca: Tạo phước bằng cách làm lợi ích cho người khác với công sức của mình, do chính tác ý thiện tâm của ta.
6- Pattidāna (hồi hướng phước):
– Tạo phước bằng cách hồi hướng chia sẻ công đức của mình đã làm được như tụng kinh, hành thiền, Dana hiến tặng, cúng dường, giúp đỡ, làm các việc tốt lành,… đến cho bạn bè, thân quyến, hoặc chúng sanh khác như Chư thiên, Ngạ quỹ, Atula ngự ở trong nhà, trên hư không, địa cầu,… Nhằm tăng trưởng sự hoan hỷ của các đối tượng đó, khơi dậy thiện tâm và đồng cảm của họ đối với mình (giống như ta tặng quà quý báu đến người khác vậy).
– Phật dạy trong hoàn cảnh nào phải tưởng nhớ đến cha mẹ đã quá vãng, lại tưởng nhớ đến 4 vị Vua trời Tứ đại thiên vương và các chư thiên ngự trong nhà mà chẳng nên bỏn sẻn, nên làm việc phước thí, rồi hồi hướng đến các vị ấy thì chắc thật được quả báu do phép hồi hướng ấy.
– Do nhờ phép hồi hướng mà thân quyến của ta trong loài Ngạ quỹ nhận lãnh được phước hồi hướng nầy, sanh tâm hoan hỷ mà siêu thoát khỏi kiếp Ngạ quỹ đói khát khổ sở.
7- Pattānumodanā (hoan hỷ đồng cảm với phước lành của người khác):
– Tạo phước bằng cách thể hiện niềm vui mừng, hân hoan đồng cảm trước kết quả thành tựu của người khác, hoặc trước các việc tốt, công đức của người khác đã và đang làm.
– Bằng lời nói chúc mừng, hay bằng hành động như dùng vật phẩm biếu tặng để thể hiện sự vui mừng đồng cảm (người tây phương thường dùng hoa, hoặc tổ chức tiệc tùng để chúc mừng,…).
– Trong Phật giáo: Sadhu anumodana = lành thay, chúc mừng phước lành của bạn nhé!
(đối nghịch với tâm sanh phước này là tâm nóng nảy, đố kỵ, tỵ hiềm,… tự làm khổ mình khó ăn, mất ngủ,…. thể hiện sự khó chịu trước quả lành hay sự thành công của người khác).
8- Dhammassavana (cung kính nghe pháp):
– Tạo phước bằng cách cung kính lắng nghe Đức Phật dạy, hoặc chư đệ tử thuyết giảng lại những lời cao quý từ Ngài đã chỉ dạy.
– Bởi vì cung kính lắng nghe sẽ hiểu được những ý nghĩa sâu sắc lời Phật dạy, rồi áp dụng thực hành là vô cùng quý báu mang lại lợi ích lớn lao thiết thực cho đời nầy lẫn đời sau.
9- Dhammadesanā (giảng pháp):
– Tạo phước bằng cách nói hoặc giảng lại những lời Phật dạy một cách chơn chánh cho người khác nghe, hoặc bàn luận những lời hay lẽ phải trong Phật pháp khai thông sáng tỏ cho mình và cho người,…
10- Diṭṭhujukamma (Cải chánh kiến thức):
– Tạo phước bằng cách trau dồi kiến thức, khiến cho tri kiến của mình được thông suốt sáng tỏ, đúng đắn theo lý nhân quả và chánh kiến – tránh xa tà kiến chấp chặt mê tín, sai lầm,…
Mười điều trên chia 3 nhóm:
1/ Tạo phước vật chất: Dana/ Thí cúng; Hồi hướng; và đồng hoan hỷ;
2/ Tạo phước đức: Giữ giới; cung kính; và phục vụ;
3/ Tạo Phước trí: Nghe pháp; giảng pháp; phát triển thiền.
Cải đổi kiến thức vừa hỗ trợ và vừa tạo được đồng thời 3 loại phước trên nhờ CÓ TRÍ TUỆ. (Nguồn: TS - ĐĐ Thích Thiện Minh)
Xem thêm: Tu phước
Xem thêm: Tu phước đức
Xem thêm: Vun bồi phước đức
+ Sáu nghiệp hao tổn tài sản: Này Thiện Sinh, sáu nghiệp tổn tài là: 1. Đam mê rượu chè. 2. Cờ bạc. 3. Phóng đãng. 4. Đam mê kỹ nhạc. 5. Kết bạn với người ác. 6. Biếng lười. Phật cũng dậy chi tiết sự tai hại của sáu nghiệp này:
- Lại nữa, này Thiện Sinh, nên biết, uống rượu có sáu điều lỗi: 1. Hao tài. 2. Sinh bệnh. 3. Đấu tranh. 4. Tiếng xấu đồn khắp. 5. Bộc phát nóng giận. 6. Tuệ giảm dần. Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả ấy uống rượu không thôi thì nghiệp gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, cờ bạc có sáu điều tai hại: 1. Tài sản ngày một hao hụt. 2. Thắng thì gây thù oán. 3. Bị kẻ trí chê. 4. Mọi người không kính nễ tin cậy. 5. Bị xa lánh. 6. Sinh tâm trộm cắp. Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả mê đánh bạc mãi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, phóng đãng có sáu lỗi: 1. Không tự phòng hộ mình. 2. Không phòng hộ được tài sản và hàng hóa. 3. Không phòng hộ được con cháu. 4. Thường hay bị sợ hãi. 5. Bị những điều khốn khổ ràng buộc xác thân. 6. Ưa sinh điều dối trá. Đó là sáu điều lỗi. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả phóng đãng mãi không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, say mê kỹ nhạc có sáu lỗi: 1. Tìm đến chỗ ca hát. 2. Tìm đến chỗ múa nhảy. 3. Tìm đến chỗ đàn địch. 4. Tìm đến chỗ tấu linh tay. 5. Tìm đến chỗ có âm thanh vi diệu. 6. Tìm đến chỗ đánh trống. Đó là sáu tai hại của kỹ nhạc. Nếu trưởng giả hoặc con trai trưởng giả say mê kỹ nhạc mãi không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1. Tìm cách lừa dối. 2. Ưa chỗ thầm kín. 3. Dụ dỗ nhà người khác. 4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người khác. 5. Xoay tài lợi về mình. 6. Ưa phanh phui lỗi người. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, lười biếng có sáu lỗi: 1. Khi giàu sang không chịu làm việc. 2. Khi nghèo không chịu siêng năng. 3. Lúc lạnh không chịu siêng năng. 4. Lúc nóng không chịu siêng năng. 5. Lúc sáng trời không chịu siêng năng. 6. Lúc tối trời không chịu siêng năng. Đó là sáu điều tai hại của sự lười biếng. Nếu trưởng giả hay con trưởng giả lười biếng mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
Lời Phật dạy thật rõ ràng: Đam mê rượu chè, cờ bạc, phóng đãng, đam mê kỹ nhạc, kết bạn với người ác, biếng lười là sáu nguyên nhân gây ra tổn hao tài sản. Phải thấy rõ nguyên nhân chính yếu và chi tiết của sự tổn tài cũng như sự nguy hiểm của nó mới có thể khắc phục. Như hồ nước, chỉ có một lối nước vào mà có đến sáu lối nước ra thì chắc chắn hồ sẽ khô cạn. Cũng vậy, muốn gìn giữ cơ nghiệp và chi tiêu đúng pháp để lợi mình và lợi người trong hiện tại và cả mai sau, hãy chuyển hóa sáu nghiệp bất thiện này. (Nguồn: Trích Kinh Thiện Sanh)
+ Chọn nghề mà làm giàu: Có 5 điều mà Phật dạy không nên kinh doanh, còn gọi là kinh doanh phi pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ:
1. Không buôn bán vũ khí.
2. Không buôn bán người.
3. Không buôn bán thịt.
4. Không buôn bán rượu
5. Không buôn bán thuốc độc. (Nguồn: Phật dậy về làm giầu)
+ Nguyên nhân Số phận sinh ra đã nghèo: Xem Phật dậy Mười điều bị tổn phước báu (Kinh Tăng Nhất A Hàm – Tập III)
+ Nhiệt tâm tu tăng trưởng thiện pháp
19.- Người Buôn Bán
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu ba pháp, Tỷ kheo thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận, tăng trưởng thiện pháp đã được thâu nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo vào buổi sáng có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận, và tăng trưởng thiện pháp đã được thâu nhận.
20.- Người Buôn Bán
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, thành tựu với ba pháp, vị Tỷ-kheo không bao lâu, đạt đến lớn mạnh và rộng lớn về các Thiện pháp. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có mắt, khéo phấn đấu và xây dựng được cơ bản.
Tỷ-kheo có mắt: Tỷ-kheo như thật biết rõ: "Đây là khổ" ... như thật rõ biết: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo có mắt.
Tỷ-kheo khéo phấn đấu: Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn, đoạn tận các pháp bất thiện, làm cho sanh khởi các pháp thiện, dõng mãnh, kiên trì, tinh tấn, không có từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo phấn đấu.
Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản: Tỷ-kheo đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, thông hiểu các tập A-gà-ma (A-hàm) bậc trì Pháp, trì Luật, trì Toát yếu, thường thường đến yết kiến, phỏng vấn, đặt các câu hỏi: "Thưa Tôn giả, cái này là thế nào? Pháp này ý nghĩa gì? "Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa được mở rộng, phơi bày những gì chưa được phơi bày, và đối với những đoạn sai khác còn có những chỗ nghi ngờ, các vị ấy giải thích các sự nghi ngờ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu, đạt đến sự lớn mạnh và rộng lớn về các thiện pháp. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba pháp)
+ Tịnh nghiệp tam phước:
Đây là nói về ba mức tu hành thành tựu, cũng là thứ tự tu hành phải theo, không thể đảo lộn. Ví như chưa tu thành tựu được phước thứ nhất ‘Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng sát hại sanh vật, tu thập thiện nghiệp’, thì tu phước thứ hai "Thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi" chẳng thể thành tựu, vì điều thứ nhất là tu thành người hiền thiện, nếu chưa tu thành tựu thì chưa xứng danh Thiện nam, Tín nữ như trong kinh Phật vẫn nói. Vậy người bất thiện thì tu pháp gì cũng thành người bất thiện, lầm đường lạc lối sao có thể giải thoát luân hồi, sao có thể vãng sanh được - Không thể có đạo lý này.
+ Tịnh nghiệp: Trước hết chúng tôi phải nói rõ cái gì gọi là nghiệp chướng. “Nghiệp” là tạo tác, thiện ác có chướng ngại => bạn không ra khỏi tam giới. Vậy thì chúng ta phải tu như thế nào? Phật dạy cho chúng ta tu tịnh nghiệp. Cái gì gọi là Tịnh nghiệp? nghĩa là đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện mà không chấp tướng gọi là tịnh nghiệp. Chấp tướng thì không phải là tịnh nghiệp sẽ sanh ra chướng ngại cho nên nghiệp là tạo tác.
Trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện nói được rất hay - chúng sanh trong diêm phù đề khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp” là thật đấy không phải giả. Tại vì sao? Bạn hãy nghĩ xem có chúng sanh nào khởi tâm vọng niệm mà không nghĩ đến cái TA, cái TA này rất phiền phức. Ta tức là tội, ta tức là nghiệp, niệm niệm đều vì ta.... Người thế tục có câu ngạn ngữ nói như vầy :”Con người không vì mình thì trời tru đất diệt”.... Nếu không vì ta thì đâu phải là con người. Không sai, không vì ta không phải là con người. Họ là Phật, họ là Bồ Tát, họ không phải con người. Cho nên hãy mà vì ta thì đích thật họ là con người. Đúng thật là không sai chút nào. Họ trong cõi người không ra khỏi lục đạo, vì sao Phật phải nói như vậy? Chúng ta phải hiểu cái ý của Ngài.
.... Hạnh Phổ Hiền là hành Pháp cứu cánh viên mãn. Hành Pháp là phương pháp tu hành nếu dùng lời hiện nay mà nói hành pháp tức là phương pháp sinh hoạt. Ngài nêu ra một điều cương lĩnh. Đó là tu Lễ kính - Tán thán - Cúng dường... (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Tam Phước: Tu phước ba cấp độ
- Hiếu dưỡng cha mẹ ...: Phước báu Nhân Thiên, hàng Tiểu thừa - Chưa vào cửa Phật đạo, là nền tảng để bước vào của Phật.
- Thọ Tam quy y ..........: Tu phước giải thoát hàng Trung thừa - Bước vào cửa Phật, làm đệ tử Phật.
- Phát Bồ đề tâm ..........: Tu phước giải thoát hàng Đại thừa, Bồ Tát đạo. Cần có Trí tuệ chân thật có thể phân biện ... (Nguồn: HT Tịnh Không giảng - Thái Thượng Cảm Ứng Thiên: Xem tập 11)
+ Tam Phước
ĐÂY LÀ PHÁP CĂN BẢN, ĐÂU CÓ NÓI PHÁT NGUYỆN SUÔNG, CHẲNG CẦN TU HÀNH MÀ CÓ THỂ VÃNG SANH, PHẬT CHẲNG NÓI NHƯ VẬY. MUÔN VÀN XIN ĐỪNG HIỂU LẦM, CHẲNG THỂ BỎ UỔNG NHÂN DUYÊN HIẾM CÓ TRONG ĐỜI NÀY.
Trong Tam Phước tối thiểu phải làm được một điều thì bạn mới có thể vãng sanh. Nếu bạn có thể làm được điều thứ nhất ‘Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng sát hại sanh vật, tu thập thiện nghiệp’, phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, thì bạn có thể vãng sanh Hạ Phẩm.
Bạn có thể làm được điều thứ hai, điều thứ hai đương nhiên bao gồm điều thứ nhất, tức là cộng thêm: ‘Thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi’ thì bạn vãng sanh Trung Phẩm. Ðây là ba bậc vãng sanh nói trong kinh Vô Lượng Thọ.
Nâng cao thêm, nếu bạn có thể ‘Phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại Thừa, khuyến tấn hành giả’ thì sẽ vãng sanh Thượng phẩm. Ðây là pháp căn bản, đâu có nói phát nguyện suông, chẳng cần tu hành mà có thể vãng sanh, Phật chẳng nói như vậy. Muôn vàn xin đừng hiểu lầm, chẳng thể bỏ uổng nhân duyên hiếm có trong đời này.
‘Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh’ là pháp căn bản, cả bộ kinh này nói về cái gì? Chính là nói về Phước thứ nhất. Bạn sẽ hỏi bốn câu trong phước thứ nhất này phải nói như thế nào? Cả bộ Ðịa Tạng Bổn Nguyện kinh này là chú giải [cho bốn câu này].
Tu học đúng như lý, như pháp, đại sư Thiện Ðạo nói: ‘Vạn tu vạn người về’, ai cũng không bỏ sót. Nếu bạn tu không đúng như pháp thì sẽ chẳng vãng sanh nổi, Phật chẳng nói sai, là bạn đã hiểu sai ý tứ trong ấy. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy chúng ta ‘Ðương hiếu ư Phật’, dạy chúng ta tôn sư trọng đạo, đây là giáo nghĩa của kinh Ðịa Tạng, nhất định phải hiểu những đạo lý này. (Nguồn: Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký tập 5, HT. Tịnh Không)
+ Tùy hỷ được phước lớn:
Đức Phật dạy: "Thấy người tu đạo bố thí mà hoan hỷ trợ giúp thì sẽ được phước rất lớn."
Có thầy Sa-môn hỏi rằng: "Phước ấy hết chăng?"
Đức Phật đáp: "Ví như lửa của một cây đuốc, dù có vài trăm ngàn người ai nấy đều mang đuốc đến chia nhau mồi lấy lửa để về nấu ăn và xua tan bóng tối, thì ngọn đuốc kia vẫn y như cũ. Phước báo cũng như thế!"
Lược giảng:
Chương thứ mười là giảng về công đức của sự tùy hỷ. Biết tùy hỷ thì mình và người đều được lợi lạc, và phước báo sẽ vô cùng vô tận.
Đức Phật dạy: "Thấy người tu đạo bố thí, nếu trông thấy người khác thực hành hạnh bố thí, mà hoan hỷ trợ giúp thì sẽ được phước rất lớn." Có ba loại bố thí là tài thí, pháp thí và vô-úy thí:
1) Tài thí là bố thí tài sản. "Tài thí" còn được gọi là "tư-sanh-thí." Thế nào gọi là "tư-sanh-thí"? Đó là sự bố thí vật chất nhằm giúp người khác được đủ sống. Về tài sản thì có nội tài và ngoại tài. Nội tài là tài sản bên trong bao gồm những cơ phận trong thân thể như đầu, mắt, não, tủy, da, máu, thịt, gân, xương...; và sự bố thí nội tài được gọi là "nội thí." Ngoại thí là tài sản bên ngoài tức là vàng, bạc, châu báu, quốc gia, thành trì, vợ chồng, con cái...; và sự bố thí ngoại tài được gọi là "ngoại thí."
Nếu quý vị có vàng thì có thể bố thí vàng; có bạc thì có thể bố thí bạc; có châu báu thì có thể bố thí châu báu; có quốc gia thì có thể nhường quốc gia cho người khác; có thành trì thì có thể bố thí thành trì cho người khác; có vợ hay chồng thì có thể bố thí vợ hay chồng mình cho người khác; và có con cái thì cũng có thể bố thí con cái của mình cho người khác. Đó đều là ngoại thí. Nếu quý vị có thể cho kẻ khác đầu, mắt, não, xương tủy, da, máu, thịt, gân, xương... của bản thân mình, thì đó là nội thí vậy. Trên đây là nói về tài thí.
2) Pháp thí là bố thí Pháp. "Pháp thí" tức là giảng giải ba môn học Giới-Định-Huệ, mang những giáo pháp này ra bố thí, khiến cho người khác được vô số lợi ích.
3) Vô-úy thí là bố thí sự không sợ hãi. Khi có người gặp cơn hoạn nạn hoặc có điều gì lo sợ, mà quý vị có thể làm vơi bớt nỗi thống khổ vì sợ hãi cho họ, thì đó là vô-úy thí.
Khi thấy người khác thực hành hạnh bố thí mà quý vị có thể vui mừng theo và khen ngợi, khuyến khích họ, thì quý vị sẽ được phước báo vô cùng lớn lao. Những kẻ ngu si có thể sẽ nói rằng: "ồ! Tôi đứng ra bố thí, còn người khác chỉ tùy hỷ, ủng hộ thôi mà cũng được phước báo to lớn, vậy thì phước báo của tôi hết mất sao?" Vì e rằng có kẻ ngu si nghĩ ngợi lẩn thẩn như thế nên mới có cuộc vấn đáp sau đây:
Có thầy Sa-môn hỏi rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Phước ấy hết chăng? Phước ấy có thể bị mất không?" Ý nói là người đứng ra bố thí thì được phước, kẻ có lòng tùy hỷ cũng được phước rất lớn; như thế thì phước của người bố thí vẫn còn đó hay là bị kẻ kia đoạt mất rồi?
Đức Phật đáp: "Ví như lửa của một cây đuốc, dù có vài trăm ngàn người ai nấy đều mang đuốc đến chia nhau mồi lấy lửa. Thí dụ chỉ có độc nhất một mồi lửa, mà lại có tới cả trăm ngàn người dùng chung, cùng chia nhau mồi lấy lửa để về nấu ăn và xua tan bóng tối." "Nấu ăn" tức là dùng lửa này để nhóm bếp mà nấu thức ăn. "Xua tan bống tối" tức là lấy lửa này làm đèn để soi sáng chỗ tối tăm u ám.
"Thì ngọn đuốc kia vẫn y như cũ. Ngọn lửa của cây đuốc chính vẫn nguyên vẹn như lúc ban đầu, tuyệt nhiên không bị lu mờ hoặc dập tắt. Phước báo cũng như thế, không khác!"
Thí dụ này ngụ ý rằng những người tu Đạo bằng cách thực hành hạnh bố thí, thì trong tương lai vẫn có thể chứng đắc quả vị. "Nấu ăn" là một tỷ dụ, ám chỉ sự chứng đắc quả vị. "Xua tan bóng tối" tức là quét sạch mọi mê hoặc do tam chướng - nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng - gây ra.
Vậy, nhờ công đức tu hạnh bố thí mà quý vị có thể chứng được quả vị, dứt trừ tam-chướng, và đồng thời những người có lòng tùy hỷ, ủng hộ quý vị cũng chứng được quả vị, dứt trừ được tam-chướng - không ai là không có phần trong công đức này cả. (Nguồn: Kinh 42 Chương - HT T.Hóa)
+ Tu phước và tu huệ: Phước, Huệ là hai mục tiêu lớn mà tu học Phật pháp yêu cầu. Trong lúc chúng ta truyền thụ tam quy, đã đọc câu thệ nguyện: “Quy y Phật, nhị túc tôn”, “Nhị” chính là phước và huệ, túc chính là đầy đủ, viên mãn. Do đó có thể thấy, thành Phật chính là tu học viên mãn phước và huệ, cho nên được sự tôn kính của thế, xuất thế gian. Kinh điển Phật giáo là dung thông: Viên dung, thông đạt không có chướng ngại, cho nên một kinh thông, thì tất cả các kinh đều thông. Không chỉ kinh giáo là dung thông, pháp thế gian và xuất thế gian cũng là dung thông, vì đều là từ trong chân tâm bổn tánh biến hiện ra, cho nên là cùng một cội nguồn, không có đạo lý nào là không thông. ... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Xem thêm Tooltip: Tu phước đức
+ Phẩm tính Cung Bảy: Nghi lễ, Trật tự, Huyền thuật
- Ưu điểm: Mạnh mẽ, bền chí, can đảm, lịch sự, hết sức chú ý về chi tiết, tự lập, trật tự, cơ cấu, hoàn thiện hình thức, tuân thủ.
- Khuyết điểm: Chuộng hình thức, cố chấp, tự cao, hẹp hòi, phán đoán nông nổi, quá tự phụ, quá thủ cựu.
+ Các Đức Tính và các Tật Xấu EPI 210-211( Xem Bảy đấng ....)
- Đức Tính đặc biệt: Sức mạnh, nhẫn lại/ sự kiên trì, can đảm/ lòng dũng cảm, tao nhã/ lịch sự, cực kỳ cẩn thận trong chi tiết, tính tự lực.
- Tật Xấu của Cung: Tính(chủ nghĩa) hình thức, cố chấp, tự cao/ kiêu hãnh, cư sử hẹp hòi, các phán đoán hời hợt/ phiến diện, cố chấp/ bảo thủ ý kiến quá mức. quá đam mê
- Các Đức Tính cần có: Nhận thức về tính thống nhất, tâm trí rộng mở, lòng khoan dung, khiêm tốn, dịu dàng và bác ái. + Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung
+ Trong mọi điều Tôi đã nói liên quan tới thể dĩ thái của con người, liên quan đến hành tinh, liên quan đến chơn linh của địa cầu, mấu chốt của toàn bộ tình hình nằm trong sự kiện là năm cung vào lúc này, có cung 7 là cung chiếm ưu thế của chúng. Cung 7 là cung kiểm soát thể dĩ thái (the etheric) và các devas dĩ thái. Nó kiểm soát cõi phụ thứ bảy của tất cả các cõi nhưng vào lúc này nó chi phối cõi phụ thứ bảy của cõi trần. Cũng vì đang ở trong vòng tuần hoàn thứ tư, khi một cung tiến vào sự nhập thế (incarnation) rõ ràng, nó không những chỉ kiểm soát trên các cõi có cùng một số, mà còn có một ảnh hưởng đặc biệt trên cõi phụ thứ tư. Hãy lưu ý cách mà cung này tác động vào lúc này trong ba cõi thấp:
1. Cõi dĩ thái thứ tư, cõi thấp nhất trong số các cõi dĩ thái, sẽ là cõi vật chất kế tiếp của tâm thức. Chất dĩ thái ngay lúc này đang trở nên có thể thấy được đối với một số người, và sẽ có thể nhìn thấy hoàn toàn vào cuối thế kỷ này đối với nhiều người.
2. Cõi phụ thứ tư của cõi cảm dục giữ lại phần lớn con người khi họ qua đời, và tất nhiên nhiều công việc với số lượng lớn nhất nhờ đó có thể được hoàn tất.
3. Cõi phụ thứ tư của cõi trí là cõi devachan (thiên đường tạm). (LVHLT, 374)
+ Cung 7: Hiện nay, sự nhập cuộc của cung màu tím, tức là Cung Nghi thức hay Cung bảy ...(TTHM, Thư 08.10.1919)
+ Thí dụ gọi là Huyền giai: Thí dụ như địa vị của màu tím (violet) trong quang phổ (103) có tầm quan trọng bậc nhất, liên quan với các chu kỳ lớn, và đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ và sự bắt đầu một chu kỳ mới. Cõi bồ đề đặc biệt là cõi của màu tím, mặc dù tất cả các màu sắc đều có nơi đó; Đấng Chủ Quản của Cung Nghi Lễ Huyền Thuật vốn tiêu biểu cho tia tím hay huyền giai tím, có một mối quan hệ đặc biệt với cõi bồ đề. Phải nhớ rằng mỗi Hành Tinh Thượng Đế hoạt động trước tiên trên một trong bảy cõi, từ điều này, chúng ta có thể suy ra rằng ảnh hưởng của Ngài tìm thấy đường lối ít đối kháng nhất của nó trên một cõi nào đó, mặc dù nó được áp dụng trên mọi cõi. (Nguồn: LVLCK, 424)
+ Cung nghi lễ - Cung hôn phối: ... Cung nghi lễ thường được gọi là “nghi thức hôn phối của Con”, bởi vì Tinh thần và vật chất có thể đáp ứng và hợp nhất trên cung này. Sự kiện này cũng sẽ được ghi nhớ trong một trăm năm tới đây, vì chúng sẽ chứng kiến các thay đổi lớn trong các luật hôn nhân. (LVLCK, Tr 909)
+ Cung đang biểu lộ - Ngày Cơ hội: Câu hỏi có thể dặt ra ở đây là kiến thức này có phần nào giá trị đối với môn sinh chăng. Để minh giải điều này, các môn sinh nên khôn ngoan suy gẫm kỹ ý nghĩa sự giáng nhập của Cung hiện nay, là cung Định luật Nghi lễ hay Pháp thuật. Đó là cung vận dụng các mãnh lực kiến tạo của thiên nhiên, liên quan đến việc trạng thái sự sống sử dụng hình thể một cách thông minh. Đây chính yếu là cung của công tác chấp hành, có mục đích kiến tạo, phối hợp và tạo sự nối kết trong bốn giới thấp của thiên nhiên. Nó được phân biệt chính yếu bởi năng lượng tự biểu hiện trong nghi lễ, nhưng từ nghi lễ này không được thu hẹp đến mức sử dụng hiện nay của nó trong nghi lễ của hội Tam Điểm hay tôn giáo. Áp dụng của nó thì rộng lớn hơn rất nhiều, và gồm các phương pháp tổ chức được phô diễn trong tất cả các cộng đồng văn minh, như trong giới thương mại hay tài chính, và các tổ chức kinh doanh lớn ở khắp nơi. Trên hết mọi sự, điều thú vị ở chỗ đây là cung mang cơ hội đến cho các giống dân Tây phương, và qua trung gian của mãnh lực sự sống của tổ chức thừa hành, của sự quản trị bằng luật lệ và trật tự, bằng tiết điệu và nghi thức, sẽ đến lúc các chủng tộc Tây phương (với trí tuệ cụ thể, tích cực và năng lực làm việc rộng lớn của họ) có thể được điểm đạo - một cuộc điểm đạo mà chúng ta phải nhớ là trên một cung tạm thời được thừa nhận là một cung chính. Phần đông các điểm đạo [183] đồ và những vị đã đạt được trình độ Chân sư trong chu kỳ trước, là người Đông phương và trong xác thân người Ấn. Chu kỳ đó đã do cung sáu cùng hai cung trước thống ngự, và đang trôi qua. Để giữ thế quân bình, nay sẽ đến một thời kỳ thành đạt của người Tây phương, trên một cung thích hợp với loại trí tuệ của họ. Nên ghi nhận điều thú vị là mẫu người Đông phương đạt mục tiêu của họ qua tham thiền, với một phần nhỏ tổ chức chấp hành và nghi thức, còn người Tây phương sẽ thành đạt phần lớn qua tổ chức mà hạ trí tạo ra, và một lối tham thiền mà sự tập trung cao độ trong công việc có thể xem là một ví dụ. Sự áp dụng trí tuệ chuyên nhất của một thương gia người U hay người Mỹ có thể được xem là một loại tham thiền. Nếu sự áp dụng này dựa trên động lực nội tâm trong sạch, thời cơ tốt đẹp sẽ đến với người Tây phương. (Sách điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Bí nhiệm Thất phân.
Sau khi tuyên thệ giữ kín điều bí nhiệm và không vi phạm, tân điểm đạo đồ một mình tiến đến gần vị Chủ lễ, rồi đặt tay lên phần dưới của Điểm đạo Thần trượng mà vị Chủ lễ cầm ở phần giữa. Bấy giờ, ba Vị đứng chung quanh ngôi chủ lễ mới đặt tay các Ngài lên viên kim cương chói rạng gắn trên đầu Thần trượng, và khi cả năm vị được liên kết theo cách này bởi năng lượng luân chuyển, phát ra từ Thần trượng, thì Đấng Điểm Đạo giao phó bí nhiệm cho điểm đạo đồ. Lý do của điều này là: Mỗi một trong năm cuộc điểm đạo trực tiếp liên quan đến chúng ta (hai cuộc điểm đạo cao hơn không có tính bắt buộc, nên chúng ta không xét đến) đều ảnh hưởng đến một trong năm luân xa nơi con người, [164]
1. Luân xa ở đầu,
2. Luân xa tim,
3. Luân xa cổ họng.
4. Luân xa nhật tùng,
5. Luân xa chót xương sống,
và tiết lộ cho y kiến thức về các loại mãnh lực và năng lượng khác nhau làm sinh động thái dương hệ, và đến với y qua một luân xa dĩ thái đặc biệt. Khi áp dụng Thần trượng, các luân xa của y được ảnh hưởng một cách đặc biệt. Qua việc truyền thụ Bí nhiệm, y được cho biết lý do của nó và cho thấy nó đồng nhất với lý do nhất thiết tạo nên một sự biểu lộ hành tinh đặc biệt, và gây nên một chu kỳ đặc biệt lớn hơn.
Có thể nói rằng:
1. Mỗi bí nhiệm liên quan đến một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ.
2. Mỗi bí nhiệm liên quan đến và phát biểu một trong bảy định luật của thiên nhiên. Vì thế chúng liên hệ đến một trong các trường tiến hoá cơ bản của mỗi hành tinh hệ. Mỗi hệ thể hiện một trong các định luật là luật chính yếu của nó, và tất cả các trường tiến hoá của nó đều có khuynh hướng biểu dương sự hoàn thiện của định luật đó với sáu biến thái phụ thuộc của nó, sáu biến thái này khác nhau một chi tiết trong mỗi trường hợp, tùy theo định luật chính được phát biểu.
3. Mỗi bí nhiệm truyền đạt chìa khoá để hiểu bản tính của một vị Hành Tinh Thượng Đế, và do đó đưa ra manh mối để biết những đặc tính của các Chân thần thuộc cung hành tinh đó. Hiển nhiên là sự hiểu biết như thế rất cần cho vị Chân sư đang cố gắng làm việc cho nhân loại, vận dụng các dòng mãnh lực đang ảnh hưởng đến họ và do họ phát ra. [165] 4. Mỗi bí nhiệm liên quan đến một cung hay một màu sắc nào đó và cho biết con số, nốt nhạc và sự rung động tương ứng.
Bảy bí nhiệm này chỉ là những công thức ngắn gọn, không có giá trị của thần chú, như trong trường hợp của Linh từ, mà có tính chất toán học, ngôn từ được dùng chính xác để truyền đạt đúng đắn ý định của người nói. Đối với người chưa được điểm đạo thì các bí nhiệm này trông có vẻ và nghe giống như các công thức đại số, ngoại trừ (khi thấy bằng thần nhãn) thì mỗi bí nhiệm gồm một hình bầu dục với một màu nhất định, tùy theo bí nhiệm được truyền đạt, có chứa năm chữ tượng hình hay biểu tượng đặc biệt. Một biểu tượng chứa công thức của định luật liên hệ, một biểu tượng khác cho biết khoá và âm độ hành tinh, biểu tượng thứ ba đề cập đến rung động, trong khi biểu tượng thứ tư cho biết con số và ngành của cung liên hệ. Chữ tượng hình cuối cùng đưa ra một trong bảy chìa khoá của ĐĐCG để các thành viên của ĐĐCG hành tinh chúng ta có thể liên lạc với các cấp thái dương. Đây hiển nhiên là những chi tiết rất mơ hồ và tối nghĩa, nhưng để nêu rõ rằng, như trong trường hợp các Linh từ, phải dùng hai giác quan để hiểu, muốn nhận thức được các bí nhiệm cũng phải sử dụng hai giác quan, để nghe, và thấy các biểu tượng bằng nội nhãn. (Nguồn: Sách điểm đạo trong nhân loại và Thái dương hệ)
+ Xem thêm sách: Giáo Lý Bí Nhiệm I, II, III, IV,V
Tâm trí đệ tử: Chúng ta nên nhớ rằng các đệ tử thuộc cung một hiểu con đường đạo phần lớn trong phạm vi năng lượng, mãnh lực hay hoạt động, trong khi các đệ tử thuộc cung hai hiểu con đường đạo nhiều hơn trong phạm vi tâm thức hay điểm đạo. Vì thế mà có sự khác biệt trong những lối phát biểu thường dùng và thiếu sự thông cảm giữa các nhà tư tưởng. Hẳn là hữu ích khi chúng ta phát biểu ý niệm về con đường đệ tử trong phạm vi các cung khác nhau—theo đó cho thấy ý nghĩa của con đường đệ tử như nó biểu hiện trong cuộc phụng sự trên cảnh giới hồng trần:
Cung 1...Mãnh lực............Năng lượng ...Hành động.........Nhà Huyền bí học.
Cung 2...Tâm thức............Triển khai......Điểm đạo............Nhà thần thông chân chính.
Cung 3...Tính thích nghi...Phát triển ......Tiến hoá.............Thuật sĩ.
Cung 4...Rung động .........Ứng đáp ........Phát biểu...........Nghệ sĩ.
Cung 5...Trí năng ............ Kiến thứ c .....Khoa học............Nhà khoa học.
Cung 6...Sùng tín............. Họat động......Theo đuổi..........Người sùng tín. trừu tượng Lý tưởng
Cung 7...Thần chú............Pháp thuật .....Nghi thức..........Nhà nghi thức. [81]
Xin nhớ kỹ rằng ở đây chúng ta đang bàn đến các đệ tử. Về sau, khi họ tiến bộ, thì nhiều đường lối khác nhau sẽ trở nên tương tự và hoà hợp. Có một thời tất cả đã là thuật sĩ vì mọi người đều đã trải qua cung ba. Vấn đề này hiện nay liên quan đến nhà thần bí học và nhà huyền bí học, và sự tổng hợp chung cuộc của họ. Khi nghiên cứu kỹ các điều nói trên, chúng ta sẽ nhận biết rằng sở dĩ có những nỗi khó khăn giữa các nhà tư tưởng và giữa những người đệ tử trong tất cả các nhóm, vì họ tự đồng hoá với một hình thức nào đó, và vì họ không thể thông cảm được các quan điểm khác của tha nhân. Theo thời gian, khi họ liên lạc mật thiết hơn với hai vị Chân sư mà họ có quan hệ (vị Thượng Đế ở nội tâm là Chân sư của cá nhân họ), thì họ sẽ không còn thiếu khả năng cộng tác và hoà hợp quyền lợi của mình trong lợi ích tập thể, và nỗ lực chung, mục đích giống nhau, cùng nhau hợp tác, sẽ thay thế cho các dị biệt, là những gì quá thường thấy hiện nay. Chúng ta đáng nên suy gẫm kỹ điều này vì nó soi tỏ được nhiều điều đang gây nan giải và đau khổ cho biết bao người. (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Hoạt động các giác quan và Sự hiển lộ “Bản tính Thiêng liêng.”
... Qua các giai đoạn sau của chu kỳ luân hồi, khi hành giả dao động với các cặp đối cực, và nhờ phân biện, trở nên ý thức được điều chân, lẽ giả, trong trí y có sự nhận thức ngày càng tăng, rằng y chính là Sự Sống bất tử, một vị Thượng Đế vĩnh cửu, và là một phần của Nguồn Sống Vô Cùng. Mối liên kết con người ở cõi trần và vị Chúa tể nội tâm ngày càng sáng tỏ hơn cho đến khi sự hiển lộ quan trọng xảy ra. Rồi đến một lúc nào đó trong cuộc sống, hành giả hữu thức đối diện với Đại Ngã thực sự của y và biết y chính thực là Đại Ngã đó chứ không chỉ trong lý thuyết; y trở nên ý thức được Thượng Đế nội tâm, không qua thính giác, hoặc nhờ chú ý vào sự điều khiển và hướng dẫn của tiếng nói nội tâm, gọi là “tiếng nói của lương tâm.” Lần này, y nhận biết bằng thị giác và trực kiến. Nay, y không chỉ đáp ứng với những gì nghe được, mà còn đáp ứng với những gì y thấy được.
Chúng ta biết rằng các giác quan đầu tiên được phát triển nơi đứa trẻ là thính giác, xúc giác, và thị giác; đứa bé sơ sinh nhận biết âm thanh và quay đầu về hướng đó, nó cảm giác và sờ soạng; cuối cùng nó nhìn thấy một cách ý thức, và phàm ngã được phối kết trong ba giác quan này. Đây là ba giác quan thiết yếu. Vị giác và khứu giác phát triển sau, nhưng chúng ta có thể sống mà không có hai giác quan này, và nếu thiếu chúng, con người vẫn thực sự không bị trở ngại trong các giao tiếp ở cõi trần. Trên đường phát triển nội tâm, trình tự cũng giống như vậy.
Thính giác−đáp ứng với tiếng nói của lương tâm, khi nó hướng dẫn, điều khiển và chế ngự. Điều này bao gồm thời kỳ tiến hoá hoàn toàn bình thường.
Xúc giác−đáp ứng với các hướng dẫn hay rung động, và nhận [114] biết được những gì ở bên ngoài cá nhân trên cảnh giới hồng trần. Điều này bao gồm thời kỳ tuần tự khai mở tinh thần, Con Đường Dự Bị và Con Đường Đệ Tử, thẳng lên đến cửa điểm đạo. Hành giả tiếp xúc từng lúc với những gì cao siêu hơn chính y; y dần dần ý thức được “sự tiếp xúc” với Chân sư, với rung động của chân nhân và với tập thể, và qua xúc giác huyền bí này y làm quen với những điều nội tại và tinh tế. Y vươn lên tìm kiếm những gì liên quan đến chân ngã, và nhờ tiếp xúc với những điều chưa thấy được, y trở nên quen thuộc với chúng.
Cuối cùng là Thị giác−là nội nhãn thông tạo được qua tiến trình điểm đạo, tuy nhiên đó vẫn chỉ là việc nhận ra một quan năng luôn luôn hiện hữu nhưng chưa được biết. Như đứa trẻ từ lúc mới sinh đã có đôi mắt hoàn toàn tốt và trong sáng, nhưng phải đến một ngày nào đó lần đầu tiên nó mới hữu ý nhận thức, ghi nhận được những điều nó thấy, thì con người trải qua cuộc phát triển tinh thần cũng vậy. Cơ quan của nội nhãn vẫn luôn luôn hiện hữu, và những điều có thể thấy vẫn luôn luôn có sẵn, nhưng phần đông người ta vẫn chưa nhận ra được. (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại và Thái dương hệ)
+ Trí - Nghĩa Bồ Tát: “Thế nào là Bồ tát nghĩa? Thế nào là Bồ tát trí?"
Văn Thù Sư Lợi đáp rằng: “Thiện nam tử, “nghĩa” là vô dụng. “Trí” là hữu dụng. Tại sao lại gọi “nghĩa” là vô dụng? “Nghĩa” là vô vi. Là vô vi pháp, nên đối với pháp, vô dụng phi dụng".
“Lại nữa, “nghĩa”, chẳng phải là nhiễm tướng, chẳng phải ly tướng, “nghĩa” đối với pháp, vô dụng phi dụng".
“Lại nữa, “nghĩa” là không tăng, không giảm, nên đối với pháp nó là vô dụng phi dụng".
“Thiên tử, sao gọi là “trí”? Trí là nhẫn đạo (20), sở dụng của tâm, chẳng phải vô dụng, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Công năng của Trí quy về nơi “đoạn”, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Trí biết năm Ấm (21), biết mười hai Nhập (22), biết mười tám Giới (23), mười hai Nhân duyên (24), là xứ phi xứ, vì vậy, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng."
“Lại nữa, Thiên tử, các vị Bồ tát chứng được mười trí. Một là, nhân trí. Hai là, quả trí. Ba là, nghĩa trí. Bốn là, phương tiện trí. Năm là, tuệ trí. Sáu là, nhiếp trí. Bảy là, ba la mật trí. Tám là, đại bi trí. Chín là, thành tựu chúng sinh trí. Mười là, bất trước nhất thiết pháp trí. (25)
“Lại nữa Thiên tử, các vị bồ tát chứng được mười phát. Những gì là mười? Một là, thân phát, vì muốn chúng sinh thân nghiệp thanh tịnh. Hai là khẩu phát, vì muốn chúng sinh khẩu nghiệp thanh tịnh. Ba là, ý phát, vì muốn chúng sinh ý nghiệp thanh tịnh. Bốn là, nội phát: hết thảy nội vật không còn tham trước. Năm là, ngoại phát, vì muốn chúng sinh trụ trong chính hạnh. Sáu là, trí phát: đầy đủ Phật trí. Bảy là, từ phát: nghĩ đến hết thảy công đức trang nghiêm. Tám là, chúng sinh thành thục trí phát, nghĩa là, giữ gìn phương thuốc trí tuệ. Chín là, hữu vi trí phát: đầy đủ các định. Mười là, vô vi trí phát: tâm không dính chặt vào trong ba cõi."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát chứng được mười hạnh. Những gì là mười?
Một là, ba la mật hạnh. Hai là, nhiếp-phục hạnh. Ba là, trí-tuệ hạnh. Bốn là, phương-tiện hạnh. Năm là, đại bi hạnh. Sáu là, cầu trợ tuệ pháp hạnh. Bảy là, cầu trợ trí pháp hạnh. Tám là, tâm thanh-tịnh hạnh. Chín là, quán chư đế hạnh (26). Mười là, nhất thiết sở thụ vô tham trước hạnh (tất cả cảm-thụ không có tham-trước)".
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười tư duy về lẽ cùng tận. Những gì là mười? Một là, tư duy về lẽ cùng tận của sự. Hai là, tư duy về lẽ cùng tận của ái. Ba là, tư duy về lẽ cùng tận của pháp. Bốn là, tư duy về lẽ cùng tận của các phiền não. Năm là, tư duy về lẽ cùng tận của sự thấy biết. Sáu là, tư duy về lẽ cùng tận của các cảm-thụ. Tám là, tư duy về lẽ cùng tận của sự không chấp. Chín là, tư duy về lẽ cùng tận của các kết sử (27). Mười là, tư duy về lẽ cùng tận của trợ đạo hạnh (28)".
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười pháp trị. Những gì là mười? Một là, mưa bố thí, trị tâm xan tham. Hai là, thanh tịnh ba pháp (29) trị tâm phá giới. Ba là, tu hạnh từ nhẫn, trị tâm giận tức. Bốn là, cần cầu Phật pháp không biết chán mỏi, trị tâm biếng nhác. Năm là, muốn được thiền định, giải thoát tự tại, trị tâm không khéo giác quán. Sáu là, muốn sinh trợ pháp quyết định bát nhã ba la mật đa, trị tâm ngu si. Bảy là, muốn sinh các pháp trợ đạo, điều trị các tâm phiền não. Tám là, muốn tu trợ pháp tứ đế (30), cần trị đạo tâm điên đảo. Chín là, muốn thời, phi thời, kinh hành tự tại, trị tâm chấp trước. Mười là, quán pháp vô ngã, để trị cái Ta."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười thiện địa. Những gì là mười? Một là, thân thiện: xa lìa ba ác nơi thân (31). Hai là, khẩu thiện: xa lìa bốn ác nơi miệng (32). Ba là, ý thiện: xa lìa ba ác nơi tâm (33). Bốn là, nội thiện: không chấp thân kiến (34). Năm là, ngoại thiện: không chấp các pháp. Sáu là, bất trước trợ trí thiện: không tham đắm vào các pháp trợ đạo. Bảy là, bất tự cao thiện: luôn luôn nghĩ về thể tính Thánh đạo. Tám là, trừ thân thiện: tu tập bát nhã ba la mật đa. Chín là, ly điên đảo thiện: không lừa chúng sinh. Mười là, không tiếc thân mệnh thiện: đem tâm đại bi hóa độ chúng sinh."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát quý sự thực hành theo đúng chính pháp, chứng được bồ đề, không phải không quý về sự thực hành theo đúng chính pháp. Làm theo chính pháp, là nói mà làm. Làm sai chính pháp, chỉ nói, không làm theo như lời nói".
"Lại nữa Thiên tử, vị Bồ tát có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, hành đạo. Hai là, hành đoạn. Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, thân tự tu thiện. Hai là, giáo hóa chúng sinh. Lại có hai tùy pháp hành.
Những gì là hai? Một là, hành trí hành (làm theo trí tuệ). Hai là, bất hành trí hành (không làm theo trí). Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, phân biệt các địa. Hai là, không có phân biệt các địa, phi địa (35). Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, biết các quả địa cùng sự chuyển tiến. Hai là, khéo biết đầy đủ địa này, địa kia. Lại có hai tùy pháp hành.
Những gì là hai? Một là, biết đạo Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật. Hai là, biết rõ Phật đạo, hành không thoái chuyển."
Bấy giờ đức Phật khen ngợi Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử rằng: "Hay thay, hay thay, ông luôn luôn vì các Đại bồ tát nói về căn-bản nghiệp-đạo.
Và, nghiệp-đạo ấy, đúng như ông nói". (Nguồn: Kinh Văn Thù Sư Lợi Thỉnh Vấn Bồ Đề)
+ Các loại biểu tượng:
1- Bốn loại biểu tượng
a) Biểu tượng của các vật bên ngoài ... các vật ở cõi trần.
b) Biểu tượng về bản chất tình cảm ... các sự vật ở cõi cảm dục, các tranh ảnh.
c) Biểu tượng học về số ............. Hạ trí. Con người dùng chính mình để tính.
d) Biểu tượng học hình học ... biểu tượng học trừu tượng, thượng trí. (LVLCK, 1140)
2- Bốn biểu tượng hình tròn: Hình tròn - Hình có tâm điểm - Hình chia hai - Hình chia bốn (Xem Tooltip)
3- Ý nghĩa các biểu tượng (Xem hình trang 296, LVLCK)
Trước tiên dấu • (dấu chấm), Chân Thần, Bythus (the Deep, Thái Uyên), là Đấng Cha bất tri và bất khả tri.
Rồi đến Δ (Tam Giác), Bythus và cặp (pair) được phóng phát đầu tiên hay Duad (Bộ Hai, Nhị nguyên), Nous (Mind, Trí Tuệ) và ngày sóc vọng Aletheia (Chân Lý) của nó.
Kế đó (Hình Vuông), Nhị nguyên kép (dual Duad), Tetractys hay Tứ Nguyên (Quarternary), hai người nam | |, Thượng Đế (Ngôi Lời) và Anthropos (Con Người), hai người nữ, các ngày sóc vọng (syzygies) của họ, Zoe (Sự Sống) và Ekklesia (Giáo Hội hay Tập Hợp), Bảy trong vạn vật. Tam giác là Tiềm Năng của Tinh Thần, Hình Vuông là Tiềm Năng của Vật Chất; Đường Thẳng Đứng là Uy Lực của Tinh Thần, còn Đường Thẳng Nằm Ngang là Uy Lực của Vật Chất.
Kế đến là Pentagram (Ngôi Sao Năm Cánh) , Bộ Năm, biểu tượng huyền bí của các Trí Tinh Quân (Manasaputras) hay là các Con của Minh Triết, hợp cùng các ngày sóc vọng của chúng tạo thành 10, hay là Bộ Mười (Decad);
và cuối cùng, Hexalpha hay hai Tam Giác đan vào nhau , Bộ Sáu, với các ngày sóc vọng của chúng tạo thành 12, hay Bộ Mười Hai.
Đó là các Nội Dung của Pleroma hay Sự Hoàn Thành, các Ý Niệm trong Thiên Trí, 28 trong vạn vật, vì Bythus hay Cha không được kể đến, vì đó là Cội Nguồn của vạn vật.
Hai vòng tròn nhỏ bên trong Pleroma là ngày sóc vọng Christos-Pneuma (Christ và Chúa Thánh Thần); đây là các sự phóng phát sau đó (after-emanations), và, vì thế, từ một trạng thái, tiêu biểu cho sự giáng xuống của Tinh Thần để thấm nhuần và làm Vật Chất tiến hoá, về mặt bản thể thì bắt đầu từ cùng một cội nguồn; và từ một trạng thái khác, sự giáng xuống hay sự nhập thể của các Kumaras hay là các Chân Ngã cao siêu (Higher Egos) của Nhân Loại. (Trích từ ‚ Lucifer‛ tháng 5 - 1890)
+ Xem thêm: Các biểu tượng cần suy ngẫm
+ Các biểu tượng cần suy ngẫm kỹ: Giờ đây mới rõ ràng là tại sao có nhiều chú trọng đến việc nghiên cứu các biểu tượng, và tại sao người ta khuyến khích các môn sinh hãy suy gẫm và tham thiền về các thiên tượng thái dương hệ và vũ trụ. Điều đó chuẩn bị cho họ thấu hiểu và ghi nhớ trong tâm các biểu tượng và công thức thể hiện kiến thức mà rốt cuộc nhờ đó họ có thể làm việc. Các công thức này dựa trên chín biểu tượng được biết hiện nay:
1. Các dạng thập tự giá.
2. Hoa sen.
3. Tam giác.
4. Khối vuông.
5. Hình cầu và điểm.
6. Tám hình thể động vật: dê, bò mộng, voi, người, rồng, gấu, sư tử, và chó.
7. Đường thẳng.
8. Một số thiên tượng của Hoàng đạo, do đó cần phải nghiên cứu khoa chiêm tinh.
9. Cái ly có chân hay chén thánh.
Tất cả các biểu tượng này liên kết, xen lẫn nhau, hoặc dùng một phần, được phối hợp, để phát biểu một trong bảy Bí nhiệm. Điểm đạo đồ phải nhận ra chúng bằng thị giác cũng như thính giác, và dùng nỗ lực của ý chí để gắn ghi chúng trong trí nhớ không thể xoá nhoà. Có ba cách giúp y thực hiện điều này: Thứ nhất, bằng việc rèn luyện trước đó trong một thời gian dài; tất cả những người chí nguyện đều có thể bắt đầu làm việc ngay từ bước hiện tại, và khi học cách ghi khắc chính xác các chi tiết vào trí nhớ, họ đặt nền tảng cho sự lãnh hội chính xác được ngay những điều Đấng Điểm Đạo bày tỏ cho họ; thứ hai, nhờ đã tự phát triển năng lực hình dung lại những điều đã có lần họ thấy. Ở đây, chúng ta thấy rõ tại sao các vị thiền sư minh triết đã chú trọng vào khả năng kiến tạo thận trọng các hình tư tưởng.... (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại ...)
+ Biểu tượng: Là dấu hiệu (sign) thấy được và lộ ra bên ngoài của một thực tại tâm linh bên trong, được thể hiện trên cõi trần bằng mãnh lực của sự sống chứa đựng bên trong. (VMCQG, 119)
+ Biểu tượng: “Trong một biểu tượng có ẩn tàng sự che giấu hoặc sự mặc khải” – Carlyle.
1./ Các biểu tượng đều nhắm vào:
a) Người ít tiến hóa. Chúng dạy ra các đại chân lý dưới hình thức đơn giản.
b) Đa số nhân loại. Chúng giữ cho chân lý được nguyên vẹn và biểu hiện các sự kiện trong vũ trụ.
c) Các môn đồ của các Chân Sư. Chúng giúp mở mang trực giác.
2./ Các sách nói về biểu tượng trong các văn khố của Chân Sư được dùng cho việc giáo huấn. Các sách này được giải thích:
a) Bằng màu sắc của chúng.
b) Bằng vị trí của chúng, nghĩa là phía bên trên, nằm trên và bên dưới một đường thẳng.
c) Bằng sự tiếp cận của chúng với nhau.
d) Bằng chìa khóa của chúng
Một trang giấy có thể đọc được theo 4 cách:
1. Từ trên xuống dưới ... tiến hóa giáng hạ (involution)
2. Từ dưới lên trên ... tiến hóa thăng thượng (evolution)
3. Từ phải sang trái ... các chu kỳ lớn vv...
4. Từ trái sang phải ... các chu kỳ nhỏ.
♏ Ký Hiệu Hổ Cáp hay Bọ Cạp
+ Cự Giải - Bắc Giải/ Cancer: Hành Thủy (Xem); Dẫn truyền(Cung 3 - Cung 7) (Xem)
- Cự Giải, (Đáy bánh xe, gốc rễ sự tồn tại của chúng ta) tương ứng người Mẹ - Đối cực là Ma Kết (Đỉnh bánh xe, tầm cao, đỉnh núi thành đạt, nhìn thấy tất cả) tương ứng người Cha
- Buồn rầu, bảo vệ, cảm xúc, có ý thức về an ninh, nặng tình cảm; ;Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 4, có đặc tính tương ứng: Điều làm bạn cảm thấy thoải mái và tự nhiên
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Mặt Trăng; Cung 4 (CTHNM, 80);
(Thủy tinh và Mặt trăng dẫn Cung 4) - Khẩu hiệu: Hãy để sự cô lập thống trị và tuy vậy đám đông vẫn tồn tại. + Nội Môn: - Chủ tinh: Hải Vương Tinh (Cung 6) (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi xây một ngôi nhà được thắp sáng và ngụ trong đó.
+ Cancer: Trong cung này có ẩn giấu toàn bộ về Luật Luân Hồi. Sự luân hồi được bao hàm trong vũ trụ biểu lộ và là chủ đề cơ bản nằm dưới sự đập nhịp (pulsation) của thái dương hệ. (Chân Sư DK -CTHNM, 353)
+ Ba cung mà (theo quan điểm của tâm thức) có liên quan chặt chẽ nhưng lại tách biệt và khác nhau nhiều về hiệu quả(CTHNM, 352).
1. Cancer ‒ Ý thức quần chúng‒ hiểu biết theo bản năng.
2. Leo ‒ Ý thức tự tri ‒ hiểu biết do sáng suốt.
3. Aquarius‒ Ý thức tập thể ‒ hiểu biết do trực giác.
III- XEM CHIÊM TINH QUA LÁ SỐ SINH:
+ Xem Nội môn hay Ngoại môn đều dùng chung 01 Lá số chiêm tinh, nhưng cách giải thích khác nhau (Nguồn)
+ Trong lá số chiêm tinh, cần nhớ rằng hiện giờ tháng và cung hoàng đạo không trùng hợp nhau chút nào. VD: Mặt trời thực ra không ở trong Hải Sư (Leo) trong tháng 8. (Thuật ngữ bác Khá)
+ Các Cung đặc biệt quan trọng trong lá số chiêm tinh: Cung Mặt Trời/ Thái dương - Cung mặt trăng - Cung Mọc (Cung mệnh theo CTHNM). (17 độ Bạch Dương. Cũng là đường giáp cung thứ nhất; Các cung: 12 phần lá số; Số của cung ở trong vòng bên trong. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Lá số Chiêm Tinh lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì tùy theo mức tiến hóa của mỗi người mà có phương pháp tương ứng: (i) - Theo Công truyền/ Ngoại môn; (ii) Theo Bí truyền hay Nội môn. Cụ thể:
I- Xem thông thường/ Ngoại môn/ Công truyền:
1. Xem Vận mệnh của phàm nhân kém tiến hóa hoặc chỉ phát triển ở mức trung bình thì thường lá số ấy đoán đúng đến mức gây kinh ngạc. Tuy nhiên, với người tiến hóa cao, người chí nguyện, đệ tử và điểm đạo đồ là người bắt đầu chế ngự các ngôi sao chiếu mệnh và do thế mà kiểm soát được các hành động của mình, dự đoán họ sẽ kém/ Không chính xác (Thư Chân Sư DK);
2. Hai cách xem: Phương pháp là Lá số hành tinh quá cảnh và Lá số tiến trình và một số kỹ thuật mới. Nguồn: Chiêm THNM 6
3. Xem hành tinh tương ứng với lực tác động lên chủ thể, các Cung Hoàng đạo tương ứng với cách thức các lực đó tác động, và Nhà, nơi các lực đó tác động vào. 3 nhóm Cung Hoàng Đạo gồm: Cung Chính, Cung Cố định, và Cung Khả biến; Các Nhà: Các Nhà Góc, Nhà Kế và Cadent. Xem mục 12 nhà
4. Điều khôn ngoan là luôn xem Cung đối nghịch hoặc cung hoàn tất (CTHNM, 384)
5. Liên hệ hỗ tương giữa 12 cung hoàng đạo với 12 hành tinh (CTHNM, 64): 12 Hành tinh đang chi phối 12 cung, ảnh hưởng mạnh mẽ phàm ngã, cộng với nghiệp quả.
- 12 chòm sao kích thích linh hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong và biểu hiện bên ngoài:
a. Cung thái dương chi phối con người dần đáp ứng với linh hồn, còn gọi là “thế mạnh của Mặt Trời Khả Hữu”
b. Giai đoạn phát triển theo cung mệnh, thúc đẩy tiến hóa và khai mở sự sống nội tâm, gọi là “Mặt Trời của Triển Vọng”
+ Khi tôi đọc một lá số, với mỗi Cung Mặt Trăng, Mặt Trời, cung Mọc, tôi sẽ dùng kỳ công của Hercules cho từng cung để có chút thông tin về người đó. Ví dụ như cung Mọc Hổ Cáp, liên hệ với kỳ công của Hercules ở Hổ Cáp để hiểu được điều gì tôi cần vượt qua và thực hiện. Tôi sử dụng châm ngôn của phàm ngã cho cung Mặt Trăng và Mặt Trời; dùng linh từ cho cung Mặt Trời và cung Mọc. Những linh từ này là những hướng dẫn được đưa đến bởi Đấng Thái Dương Thiên Thần của chúng ta khi chúng ta tái sinh lại vào kiếp sống trong mỗi cung. Chúng thiết lập khuynh hướng cho đời sống phàm ngã, và những chiều cao mà con người bên trong, hay linh hồn, có thể khao khát đạt đến. Xem nguồn: Các chỉ dẫn trên trong Chiêm tinh học nội môn 10
II- Xem Chiêm tinh học bí truyền/ Nội môn:
Là xem để định hướng con người cho mỗi kiếp sống theo sự định hướng của Linh hồn. Phương pháp này chỉ áp dụng với những người có Tâm thức tiến hóa ở trình độ nhất định, tức thể hạ trí đã phát triển, cuộc sống đã có định hướng đến các mục tiêu Linh hồn (Phụng sự nhân loại), tức họ chọn cuộc sống phụng sự vô kỷ - Luôn sẵn sàng vì người khác, vì tập thể và cả nhân loại, rộng hơn là với hết thảy chúng sinh, thay vì chọn cuộc sống vị kỷ - Nặng về chính mình và gia đình, dòng tộc hay đơn vị nhỏ của mình của đa số nhân loại hiện nay;
+ Tháng sinh cho biết ngày cơ hội. Cánh cửa rộng mở. Tháng đặc biệt mà một Linh hồn đi vào luân hồi được biểu thị cho linh hồn đó tháng mà linh hồn đã thoát ra vòng luân hồi trong một chu kỳ sống trước đây. Thí dụ, nếu linh hồn đã qua đời trong tháng được chi phối bởi cung Leo, nó sẽ tái sinh trong cùng cung đó, tiếp tục lại sợi dây kinh nghiệm mà nó để lại, và bắt đầu với cùng một loại năng lượng và với sự trang bị đặc biệt, mà cùng với những thứ đó linh hồn đã ra khỏi kiếp sống trần gian, cộng với sự thành tựu về tư tưởng và thái độ bàng quan hữu thức. Tính chất của năng lượng và bản chất của các mãnh lực cần được vận dụng trong kiếp sống được chỉ ra cho linh hồn theo cách này. (Xem Chiêm TH nội môn 7).
+ Tái sanh cõi nào: Trong nhà Phật, người mạng chung tái sanh cõi nào hoàn toàn do nghiệp báo chi phối. Một niệm cuối cùng, của hơi thở cuối cùng Tâm khởi vọng tưởng Thiện hay Ác rất quan trọng, vì nó có thể giúp người đó tái sanh cõi lành hoặc sanh về cõi dữ - Không thể không chú ý ghi nhớ kỹ. Sau đây là ví dụ:
* Cấp Cô Độc Tái Sanh: .... Đệ tử đức Phật thăm hỏi và hướng dẫn phương pháp tu tập cho Cấp Cô Độc xong, Xá-lợi-phất và A-nan trở về tinh xá. Không lâu sau, Cấp Cô Độc thân hoại mạng chung, ra đi một cách an nhiên. Sau khi nhắm mắt, ông sinh về cõi trời Đâu-suất. Vừa hóa sinh, ông liền xuống lại vườn Kỳ-đà, nơi đức Phật đang trú ngụ. Bây giờ, ông là một thiên tử với dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực. Khi ông xuất hiện, dù trời còn tối, cả khu vườn Kỳ-đà sáng lên rạng rỡ. Ông đến đảnh lễ đức Phật, đọc một bài kệ tán thán Ngài, rồi biến mất.
Sáng hôm sau, đức Phật nói với đại chúng Tỳ-kheo rằng, hồi đêm có một vị thiên tử dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực cả khu vườn đến thăm Ta. Lúc đó, A-nan hỏi đức Phật: Bạch đức Thế Tôn, vị thiên tử đó có phải là Cấp Cô Độc không?
Đức Phật nói: Đúng, vị thiên tử đó chính là Cấp Cô Độc.[3] (Nguồn: Chi tiết cư sỹ Cấp Cô Độc)
* Khi giảng kinh Phật, Thánh hiền thường nói ví dụ về nhiều người tu "Niệm Phật vãng sanh: Đứng vãng sanh, Ngồi vãng sanh, Nằm vãng sanh ... chết rất tự tại an nhiên, thân thể mềm mại. Đây đều là tu thiện được quả báo thiện. Tất nhiên sống ác, hội tập nhiều nghiệp bất thiện thì sẽ bị đọa lạc ba cõi ác Địa ngục - Ngạ quỷ - Súc sanh khổ đau triền miên, không biết bao giờ mới có lại được thân người lần nữa. Rất nên tự cảnh tỉnh mình, vì thường thì với người không tu giữ ngũ giới rễ sau nhiều ngàn năm, mỗi người mới có thể được tái sanh làm người lần nữa, chưa kể sinh ra bệnh, nạn, chân tay, ngũ quan thiếu hụt, chết yểu mạng ... do ác nghiệp mình đã gây tạo quá nhiều.
+ Xem thêm: Chết và Tái sinh (Nói về việc Tu thập thiện nghiệp với nhân quả của việc chết và tái sanh. Việc tái sanh phụ thuộc rất lớn vào Nghiệp chướng và Tâm thức con người tại thời điểm lúc chết rất quan trọng)
Kinh tiểu nghiệp phân biệt:
289. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sãvatthi (Xá-vệ)? Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anãthapindika (Cấp Cô Độc). Rồi thanh niên Subha Todeyyaputta đi đến Thế Tôn? sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên? thanh niên Subha Todeyyaputta bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gi, do duyên gì, giữa loài người với nhau khi họ là loài người, lại thấy có người liệt, có người ưu?........
297. Ở dây, này thanh niên, con đường đưa đến đoản thọ, dẫn đến đoản thọ; con đường đưa đến trường thọ, dẫn đến trường thọ; con đường đưa đến nhiều bệnh, dẫn đến nhiều bệnh; con đường đưa đến ít bệnh, dẫn đến ít bệnh; con đường đưa đến xấu sắc, dẫn đến xấu sắc; con đường đưa đến đẹp sắc, dẫn đến đẹp sắc; con đường đưa đên Quyền thế nhỏ, dân đên quyên thê nhỏ; con đường đưa đên quyền thê lớn, dẫn đên quyên thê lớn; con đường đưa đên tài sản nhỏ? dẫn đến tài sản nhỏ; con đường đưa đến tài sản lớn, dẫn đến tài sản lớn; con đường đưa đến gia đình hạ liệt, dẫn đến gia đình hạ liệt; con đường đưa đến gia đình cao quý, dẫn đến gia đình cao quý; con đường đưa đến trí tuệ yếu kém dẫn đến trí tuệ yếu kém; con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ, dẫn đến trí tuệ đầy đủ.
Này thanh niên các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng? nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Subha Todeyyaputta nói với Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thaỵ! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuông, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy? [Chánh] pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, guy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đên mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. (Mời xem bản đầy đủ: Kinh tiểu nghiệp phân biệt)
+ NHƯ LAI TẠNG - Các đại không ngăn ngại nhau
+ b/ 2- Ngài Phú Lâu Na Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các thứ: 5 ấm, 12 xứ, 18 giới và 7 đại trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện xuất phát từ tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Tạng, vậy thì tại sao Như Lai Tạng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế?
Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng đã từng nói : Địa, thủy, hỏa, phong 4 đại bản tánh viên dung, khắp cùng khắp giới, vắng lặng thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung được thủy đại? Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đại có điều kiện phát sinh? Làm sao có thể hiểu biết được rằng: Thủy đại và hỏa đại đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau? Bạch Thế Tôn! Tánh địa đại thì ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp giới? Con không biết nghĩa ấy là thế nào. Xin Phật rủ lòng từ, vén mây mê lầm cho con và đại chúng. Có 2 câu hỏi ở đây:
1) Tại sao trong Như Lai Tạng tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng dưng lại chuyển biến sinh ra những hiện tượng hữu vi như như núi, sông, đất, liền…?
2) Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức thì trong 7 đại này tánh chất có đối kháng nhau. Thí dụ nước kỵ lửa kỵ, gió kỵ đất… Nếu thế, tại sao chúng có thể dung hợp được với nhau trong Như Lai Tạng mà không tương tàn, tương diệt? Phật dạy rằng:
- ”Tánh sắc chơn không” nghĩa là Tánh của sắc là không mà hư không thì bao trùm bao la vô cùng vô tận.
- ”Tánh không chơn sắc” nghĩa là trong hư không đã có đủ tất cả tánh chất của sắc hay nói chung của địa, thủy, hỏa, phong…,
=> Nhưng từ cái thể tánh thanh tịnh của hư không khi hội tụ đủ nhân duyên sẽ biến hiện thành ra sắc.
- Tuy thủy đại đầy khắp hư không pháp giới tức là nơi nào trong không gian vô tận cũng đều chứa nước mà nước đâu có dập tắt lửa (hỏa đại) và nước cũng không làm ngập chìm cả thế gian nên Phật nói rằng : ”Tánh thủy chơn không”. Trong hư không tức là pháp giới không đại, vốn không phải nước (thủy đại) vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại. Do đó Phật mới dạy rằng : ”Tánh không chơn thủy”.
- Hỏa đại cũng thế, lửa thì đầy khắp hư không mà không làm cháy nhà cửa, xe cộ, núi rừng hay vạn hữu thế gian. Vì vậy Phật mới nói : ”Tánh hỏa chơn không”. Trong hư không vốn không có lửa, nhưng khi chúng sinh cần thì lửa sẽ có trong hư không, cho nên Phật dạy rằng : ”Tánh không chơn hỏa”.
=> Nói tóm lại, tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến).
=> Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sinh, nhưng vì do vọng niệm từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần dần biến thành căn nguyên sinh ra chúng sinh. Do vậy vọng minh chính là vô minh và cũng từ cái vô minh này mà dần theo thời gian hình thành sở tướng của tứ đại và hấp thụ tứ đại để làm thân. Vọng tưởng sai lầm đã biến con người thành “vọng năng” và dĩ nhiên chấp nhận có “sở năng” bên ngoài. Một khi chấp có “năng sở” nghĩa là chấp có chủ thể và đối tượng tức là chấp có sự đối đãi phân biệt. Năng minh là lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở bên trong của con người và sở minh chính là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là ngoại trần. Vì thế tuy thế giới vạn pháp có bao la vô cùng vô tận, nhưng cũng không ra ngoài căn, trần cả.
+ NHƯ LAI TẠNG: Trích HT Tuyên Hóa giảng:
Trước đây mỗi khi quý vị học kinh, hằng ngày quý vị đều sống cùng với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình, nhưng trong mọi thời quý vị đều không biết được những cái ấy từ đâu đến. Ai thử đoán tại sao lại có quá nhiều thứ như thế trong Như Lai tạng?
Như Lai tạng lớn đến chừng nào để có thể chứa được chừng ấy thứ?
Như Lai tạng lớn hơn tất cả mọi thứ, thế nên mới chứa được mọi vật. Nếu nó không lớn hơn tất cả mọi thứ thì nó không thể nào chứa được nhiều đến vậy.
Nó để nhiều thứ như vậy ở đâu?
Hãy phân chia Như Lai tạng ra nhiều ngăn. Quý vị có nhãn nhập, người khác cũng có nhãn nhập; quý vị có nhĩ nhập, người khác cũng có nhĩ nhập; quý vị có tị nhập, người khác cũng có tị nhập; quý vị có thiệt nhập, người khác cũng có thiệt nhập. Nếu tất cả đều trộn lẫn với nhau, thì đến khi cần dùng nó, làm sao quý vị sử dụng nó được? Nếu đơn giản nó gom lại thành một khối, nhưng được phân chia đều nhau để chỗ thu nạp (nhập) của riêng mỗi người đều ở trong một vị trí riêng, thế cần phải có rất nhiều chỗ. Nên nó phải là một khoảng không gian rất lớn. Đó là lí do tại sao tôi nói Như Lai tạng lớn hơn tất cả mọi thứ nên mới chứa trọn được cả mọi vật. Chẳng có thứ gì mà không chứa được trong đó. Bây giờ chúng ta đang ở đâu? Chúng ta đều đang ở trong Như Lai tạng.
Quý vị liền nói: “Tôi chẳng hiểu Như Lai tạng giống như cái gì cả.”
Hằng ngày quý vị đều thấy Như Lai tạng. Nhưng quý vị không nhận ra. Trong mọi động dụng hằng ngày quý vị đều ở trong Như Lai tạng. Những gì mắt quý vị thấy, những gì tai nghe mọi cái hoàn toàn đều ở trong Như Lai tạng. Quý vị vẫn chưa hình dung Như Lai tạng giống như thế nào.... Giảng:
Rốt ráo đạo lý nầy muốn chỉ bày điều gì? Chỉ ra rằng tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng vốn không sinh không diệt. Nó bao trùm mọi nơi, có trong mọi vật. Nó không như một con người, khi ở một nơi nào đó thì gọi là có mặt, và khi ông ta rời khỏi chỗ đó rồi thì gọi là không hiện hữu ở đó nữa. Đúng hơn, tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng là không sinh không diệt. Điều ấy chỉ ra rằng căn tánh vốn là chân thật và vọng tưởng là hư vọng, không thật.
... Đạo lý đang được giảng giải (Tứ Đại) sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới.
+ Chân Như Tự Tánh: Trong phần giảng về Tứ Đại trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 3: Phật dậy A-nan, như nước thành băng, băng tan thành nước.
Giảng:
A-nan, ông nên biết rằng chân như tự tánh tuỳ duyên nhưng bất biến, bất biến nhưng tuỳ duyên. Điều ấy được giải thích như thế nào? Chân như tự tánh cũng chính là tánh Như Lai tạng, cũng là Thật tướng, và cũng là chân tâm, như nước thành băng, băng tan thành nước....
Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
Giảng:
"Ông vốn không biết, A-nan, trong Như Lai tạng – Như Lai tạng là Chân tâm, là Thật tướng. Ông không biết rằng nếu ông cứu xét kỹ cho đến tận nguồn cội hư không và lân hư trần, ông sẽ thấy rằng mình không thể nào biết được nó cả. Mà đạo lý ấy lại được tìm thấy trong Như Lai tạng: tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Ở điểm rốt ráo, sắc tướng chính là chơn không; và tánh không cũng chính là chơn sắc. Nó vốn không nhiễm ô, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm. Cơ bản là bất biến. Tự tánh của nó vốn là thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, chẳng có gì làm cho nó tăng thêm, cũng chẳng bớt đi chút nào.
"Tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Đây là một hoạt dụng vi diệu "tuỳ theo mức độ hiểu biết từ TÂM chúng sinh." Nó đáp ứng tuỳ theo mọi năng lực NHẬN THỨC từ TÂM chúng sinh: mức độ của sự nhiệm mầu sẽ hiển bày tương ứng với năng lực nhận thức của mỗi chúng sinh.
Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Lúc bấy giờ A-nan và cả đại chúng, được sự khai thị nhiệm mầu của Đức Phật, khiến thân tâm vắng lặng, chẳng còn ngăn ngại. Trong đại chúng, mọi người đều tự nhận ra tâm mình trùm khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem một lá cây hay đồ vật trong bàn tay.
Giảng:
Cái gì chứa đựng cả chân thật và hư vọng? Chính là chân tâm chúng ta, Chân tâm chúng ta bao hàm cả cái chân thật và hư vọng và không có xứ sở. Nó ở cùng khắp hư không và bao trùm cả pháp giới. Thế thì nó ở đâu? Nó chẳng ở đó mà cũng chẳng phải không có ở đó. Vậy nên tâm bao hàm trong vạn pháp, vạn pháp chỉ là tâm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” - LÀ KHÔNG TẤT CẢ - Đức Phật dậy
- Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.
NHƯ LAI TẠNG LÀ “TỨC” - LÀ BẤT KHÔNG TẤT CẢ
Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh cho đến là lão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.
Phật bảo: Do vậy (Như Lai Tạng) nó là cả hai pháp thế gian và xuất thế gian, Tức là Như Lai tạng diệu minh tâm nguyên. (là chân tâm vắng lặng mà vẫn thường chiếu soi - HTTH).
Rời các nghĩa “tức,” “phi,” mà cũng là nghĩa “tức,” và chẳng phải nghĩa “tức.”
Phật bảo: Làm sao chúng sinh trong ba cõi thế gian, cùng với hàng Thanh văn Duyên giác xuất thế gian, đem tâm sở tri mà suy lường Vô thượng bồ-đề của Như Lai, dùng ngôn ngữ thế gian để nhập vào tri kiến Phật?
Ông và chúng sinh cũng đều như vậy. Chân tâm giác ngộ quý báu đều đầy đủ trong mỗi người. Nhưng khi Như Lai ấn ngón tay thì hải ấn phát ra hào quang, còn các ông chỉ tạm móng khởi tâm, thì trần lao liền nổi dậy.
Do vì không siêng năng cầu đạo giác ngộ vô thượng. Chỉ thích nghĩ đến Tiểu thừa, được một ít liền cho là đủ.
Phú-lâu-na bạch, “Chân tâm quý báu, thanh tịnh vi diệu, giác ngộ sáng suốt của con cùng với Như Lai vốn là viên mãn không hai. Nhưng xưa con mắc phải vọng tưởng từ vô thủy, nên phải ở lâu trong luân hồi. Nay được thánh thừa, còn chưa được chỗ cứu cánh. Như Thế tôn, hết thảy các vọng đều dứt trừ, chỉ có diệu dụng của tính chân. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q4 - Chương II)
+ Thanh tịnh Pháp Thân Phật: Nếu quý vị có trí thì giống như có thái dương/ Ngoài, có huệ giống như trăng sáng/ Trong tâm. Trí Huệ bát nhã thường chiếu sáng trong ngoài thân tâm, trong ngoài đều sáng suốt giống như lưu ly, vạn pháp trong tự tánh vốn trong sáng. Quý vị nhận biết bổn tâm của mình, thấy được bổn tánh, thì cũng giống như trời xanh không mây ... chính là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Lục Tổ Đàn Kinh)
+ Xin mời quí vị đọc bài tổng hợp chuyên đề với thuật ngữ Thể Dụng vi diệu của Như Lai tạng và tánh Như lai tạng, bản giác ... : Mời xem tại đây
Đằng Xà thuộc Thổ, được gọi là kinh thần, chủ về kinh sợ, không chung thuỷ, không có chữ tín, chủ về việc hương hoả trong gia đình. Gặp Mộc là không vong, không cát lợi; Bị nhật thần xung, khó thoát được hung hại.
Câu Trần thuộc Thổ, được gọi là âm thần, chủ về điền sản, công trình, ngục tù, tính tình chất phác, chủ về gặp chuyện lạ vậy, rắc rối. Câu Trần khắc Huyền Vũ, nên hợp với việc truy bắt trộm cướp.
+ Thanh Long: Thuộc Mộc, được coi là cát thần, tính tình thuần hậu, nhân từ, bổ trợ cho Dụng thần vượng tướng, tiến tài tiến lộc. Thanh Long động chủ về có chuyện vui, nhưng nếu gặp hào xấu cũng khó tránh được hung hại.
Quả thật con người trải qua hằng bao nhiêu kiếp, đầu thai luân hồi cũng là trả nợ hay hưởng duyên kiếp trước. Nếu kiếp trước từng nợ nần ai, kiếp sau chắc chắn sẽ phải hoàn trả. Bất kỳ sự can thiệp nào đều là trái tự nhiên, và khoản nợ đó sẽ muôn phần nặng hơn. Từ đó mà suy ra rằng, nếu gặp bất cứ ai xử tệ với ta, đừng vội giận dữ và tính chuyện trả đũa họ, bởi biết đâu chúng ta đang hoàn trả nợ kiếp trước, và nếu không chịu hoàn trả, có thể khoản nợ đó sẽ còn nặng nề gấp bội về sau này.
Phụ mẫu: Quả thật con người trải qua hằng bao nhiêu kiếp, đầu thai luân hồi cũng là trả nợ hay hưởng duyên kiếp trước. Nếu kiếp trước từng nợ nần ai, kiếp sau chắc chắn sẽ phải hoàn trả. Bất kỳ sự can thiệp nào đều là trái tự nhiên, và khoản nợ đó sẽ muôn phần nặng hơn. Từ đó mà suy ra rằng, nếu gặp bất cứ ai xử tệ với ta, đừng vội giận dữ và tính chuyện trả đũa họ, bởi biết đâu chúng ta đang hoàn trả nợ kiếp trước, và nếu không chịu hoàn trả, có thể khoản nợ đó sẽ còn nặng nề gấp bội về sau này.
Quả thật con người trải qua hằng bao nhiêu kiếp, đầu thai luân hồi cũng là trả nợ hay hưởng duyên kiếp trước. Nếu kiếp trước từng nợ nần ai, kiếp sau chắc chắn sẽ phải hoàn trả. Bất kỳ sự can thiệp nào đều là trái tự nhiên, và khoản nợ đó sẽ muôn phần nặng hơn. Từ đó mà suy ra rằng, nếu gặp bất cứ ai xử tệ với ta, đừng vội giận dữ và tính chuyện trả đũa họ, bởi biết đâu chúng ta đang hoàn trả nợ kiếp trước, và nếu không chịu hoàn trả, có thể khoản nợ đó sẽ còn nặng nề gấp bội về sau này.
+ Thê Tài: Tên gọi thuộc môn Dự đoán số mệnh theo Tứ trụ. Chủ về tiền tài. Nam giới còn chủ về Vợ
I. Tìm Dụng thần tứ trụ/ Bát Tự: Là ngũ hành làm cân bằng mệnh Tứ trụ. Nó rất quan trọng trong số mệnh của con người.
Dụng thần là yếu tố quan trọng nhất trong lá số, ví như bệnh nặng có thuốc đặc trị vậy. Biết được Dụng thần và ứng dụng trong đời sống tu hành sửa mệnh rất tốt, là vì biết được điểm mạnh, năng khiếu của mình cũng như điểm yếu cần khắc phục, đặc biệt là Tâm tính, nhân cách, cách suy nghĩ và hành động cực kỳ quan trọng trong việc cải mệnh. Như người xưa nói "Dụng nhân như dụng mộc".
Dụng thần có nhiều đẳng cấp:
1- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy.
2- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại khống chế khí xấu vượng trong mệnh.
3- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại giúp cân bằng âm dương trong Mệnh
4- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại giúp cân bằng âm dương trong Mệnh và thêm cân bằng nóng lạnh trong Mệnh
Tóm lại: Dụng thần đơn năng và dụng thần đa năng, giúp Mệnh lưu thông, hòa hợp âm dương, điều hòa nóng lạnh quá mức, có tình nghĩa là đẳng cấp cao nhất, cũng là Mệnh phú quý phát phúc nhất.
II. Ứng dụng Dụng thần vào đời sống
a/ Dụng thần là Mộc: Cũng cần xác định rõ (Âm dương hay Giáp/ Ất/ Dần/ Mão) để ứng dụng trong đời sống
b/ Dụng thần là Hỏa: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Bính/ Đinh/ Tị/ Ngọ) để ứng dụng trong đời sống
c/ Dụng thần là Thổ: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Mậu/ Kỷ/ Thìn/ Tuất/ Sửu/ Mùi) để ứng dụng trong đời sống
d/ Dụng thần là Kim: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Canh/ Tân/ Thân/ Dậu) để ứng dụng trong đời sống
e/ Dụng thần là Thủy: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Nhâm/ Quí/ Hợi/ Tý) để ứng dụng trong đời sống
III- Dụng thần với Phong thủy nhà ở và văn phòng:
Ứng dụng Dụng thần giúp phát huy năng lượng dụng thần thuộc Nhân Mệnh mỗi người, đạt được âm dương/ Trong ngoài có khí chất hòa hợp, tương sinh thì còn gì bằng.
+ Linh Hồn con người có Ba Chân Lý trường tồn
1- Linh Hồn con người vốn bất tử và tương lai của nó phát triển huy hoàng không biên giới.
2- Nguyên lý sinh ra sự sống ở trong chúng ta và ở ngoài chúng ta, nguyên lý đó không bao giờ mất, đời đời ban phước, nó không sao thấy được, nghe được, cảm giác được, nhưng kẻ nào muốn nhận thức nó sẽ nhận thức được.
3- Mỗi người đều là người đặt luật lệ cho chính mình một cách tuyệt đối, vừa là người ban phước sự vinh quang hay sự tối tăm cho mình, vừa là người cầm vận mạng của mình, thưởng phạt cho mình. Ba chân lý này lớn lao như sự sống, cũng giản dị như một tâm hồn giản dị nhất, hãy dùng nó làm thức ăn cho kẻ đói. (Trích: Ánh Sáng Trên Đường Đạo)
+ Khoáng vật: The mineral, khoáng chất, kim thạch). Loài khoáng vật chết đi vào cuối mỗi chu kỳ sinh hóa (manvantaric cycle) hay là vào cuối một Cuộc Tuần Hoàn (Round) như thường gọi. (Thư của Chân Sư, 172)
+ Xem thêm: Các loại ngọc thạch tương ứng 7 Cung
+ Pháp sám hối: .... Sau khi nghe đức Phật giảng nói. Bấy giờ ma vương Ba Tuần tự thấy mình có lỗi nên lo rầu sợ sệt Đến lạy chưn Phật rồi Đứng qua một phía.
Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi : ‘’ Nầy Ba Tuần; Có chi mà ngươi lo rầu tiều tụy run sợ như người thất chí mà Đứng qua một phía vậy ? ‘’.
Ma vương Ba Tuần nói : ‘’Thưa Đại Sĩ; Tôi từ nơi Phật nghe nói những sự Đáng sợ như vậy nên tôi lo rầu sợ sẽ bị Đọa ác Đạo, ai sẽ cứu tôi. Ở trong pháp luật của Phật dạy tôi luôn luôn làm vô lượng sự trở ngại.Vì vậy mà tôi lo sợ lắm’’
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Nầy Ba Tuần; Trong Phật pháp có pháp xuất tội. Ông nên Đến chỗ Thế Tôn thành tâm sám hối các tội ác Đã làm chớ có làm lại nữa. Nếu ông có thể như vậy thì sẽ Được lợi ích tốt chẳng luống uổng ‘’.
Nghe lời khuyên ấy, Thiên ma Ba Tuần liền Đến chỗ Đức Phật năm vóc gieo xuống lạy chưn Đức Phật ngước nhìn Phật rơi nước mắt mà bạch rằng :’’Bạch Đức Thế Tôn; Nay tôi thành tâm sám hối từ xưa Đến nay ở trong pháp luật của Đức Phật dạy thường làm vô lượng sự trở ngại. Ngưỡng mong Đức Như Lai vì lòng từ bi thương xót thọ tôi sám hối ‘’.
Đức Phật nói : ‘’Lành thay, lành thay, nầy Ba Tuần; Ông có thể tự thấy các việc ác Đã làm, là thượng thiện thay người có thể ăn năn tội lỗi như vậy ở trong Phật pháp thì làm rộng lớn pháp tạng Như Lai. Chư Phật cũng thọ người ấy sám hối. Vì vậy nên từ nay ông chớ nên phạm nữa ‘’. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ "Sám hối hay Truy hối" là đem nghiệp chướng tiêu trừ hết, "Truy hối" là đem cái nghiệp chướng làm tăng thêm > phải giác ngộ!
- Sám hối: Pháp Sư Tịnh Không Khai Thị “Sám hối là không tái phạm nữa”, vậy mới hiệu quả": Trong Phật pháp, Vô lượng vô biên pháp môn, tóm lại đến cuối cùng là pháp môn sám hối. Niệm Phật là tốt nhất cho pháp môn sám hối > bạn vãng sanh đến Tây phương Cực Lạc thế giới Sám hối: Không che giấu tội lỗi của mình đó gọi là sám, hối là sau này không còn tạo nữa! Sám hối không là truy hối (nhớ lại mà hối hận);
- Nếu Truy hối - Nghĩ, nhắc lại việc cũ: Là tội cộng thêm tội, tại vì sao? Mỗi lần bạn nghĩ đến cái ác cũ, thì lại tạo một lần nghiệp tội, vậy thì làm sao được, đó không phải là sám hối. >>> Trước tượng Phật kể khổ: "Tôi tạo những nghiệp tội .. ..v..v.., xin Phật Bồ Tát tha thứ cho tôi". Bạn làm như vậy, là lại tạo thêm một lần nghiệp > đây là tội cộng thêm tội, nghiệp tội của bạn vĩnh viễn không tiêu trừ > phải thường nghĩ đến Phật Bồ Tát, khiến cho cái ấn tượng của nghiệp tội này từ từ nhạt mất, từ từ không còn, thì sẽ tiêu trừ hết. (Nguồn: Sám hối _ PS Tịnh Không)
+ Phát Lồ sám hối: Sám hối tuyệt đối không phải ở trước Phật Bồ-tát quỳ lạy cầu xin, cái đó không có lợi ích gì, không tiêu nổi tội nghiệp. Phật Đà ở trong kinh điển luôn luôn khuyên dạy chúng ta chân thật tu hành cải tà quy chánh. Phật ở trong kinh nói phải “phát lồ sám hối”. Phát lồ sám hối chính là nói rõ với đại chúng là “Tôi trước đây tất cả ngôn hạnh đều sai lầm, đã gây nên những sự bất hòa giữa anh em, giữa thân thuộc, giữa bạn bè, giữa đồng nghiệp của người khác, đây là lưỡng thiệt, xúi giục. Tôi bây giờ biết sai rồi, tôi nhất định nói rõ ràng cho hai bên biết, sự bất hòa của các bạn là tội lỗi do tôi tạo nên”. Cầu xin họ tha thứ, hy vọng họ hòa hảo như lúc ban đầu thì tội lỗi lưỡng thiệt của mình mới có thể sám trừ được.(Kinh TTNĐ_Tập 42_PS Tịnh Không)
+ 554. SÁM HỐI
- Đức Thế Tôn thuyết pháp này xong, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi viễn ly trần cấu, phát sanh pháp nhãn và các pháp. Bấy giờ, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi viễn thấy pháp, đắc pháp, chứng pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi hoặc, không còn ai hơn, không tùy thuộc ai nữa, không còn do dự, đã an trú vào quả chứng đắc; đối với pháp của Thế Tôn, chứng đắc vô úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật mà bạch rằng:
Bạch Thế Tôn, con ăn năn! Bạch Thiện Thệ, con ngay từ đầu như ngu, như si, như khờ dại, như không hiểu biết, không nhận ra Bậc Lương Điền mà không tự biết. Vì sao? Vì con đã gọi Như Lai –Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác– là Hiền giả. Mong Đức Thế Tôn cho con sám hối. Sau khi sám hối, con sẽ không còn tái phạm nữa.
Đức Thế Tôn đáp: Này Tỳ-kheo, ngươi quả thực ngu si, quả thực là khờ dại, không hiểu biết nên đã gọi Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, là Hiền giả. Này Tỳ-kheo, nếu ngươi tự sám hối, đã thấy và phát lồ, gìn giữ không tái phạm nữa, như thế, này Tỳ-kheo, đối với pháp luật của bậc Thánh như vậy là tăng ích chứ không tổn hại, vì đã tự sám hối, đã tự thấy và phát lồ, gìn giữ không tái phạm nữa. Nguồn: mục 554- (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Lục Giới, Phẩm 13, số 162)
+ Sám Hối Trừ Nghiệp: Ngài A Nan hỏi Đức Phật: Tì-kheo phạm tội Tăng tàn đã tỏ bày sám hối, nhưng mới được năm, ba ngày, thì nơi ấy có nạn, chúng tăng phân tán, vậy tội ấy có được tiêu trừ không? Đáp: Phải cầu chúng tăng sám hối lại, đợi mãn bảy ngày thì tội mới trừ. (Trích: Kinh Ngũ Bách Vấn)
+ Sám hối nghiệp chướng:
Con từ vô thỉ, cho tới ngày nay,
Nguyền rủa Tam-bảo, làm Nhất-xiển-đề,
Chưởi Kinh Ðại-thừa, dứt học Bát-nhã,
Giết hại mẹ cha, làm Phật đổ máu,
Bẩn chốn chùa chiền, phá phạm hạnh người
Ðốt hủy chùa tháp, ăn cắp đồ Tăng,
Dấy đủ ý sai, nói không nhân quả
Gần bạn bè xấu, nghịch lại thầy lành...
Những tội lỗi kể trên là những điều mà mình không nên phạm, tuy rất dễ bị phạm. Nếu chẳng may mình đã phạm những lỗi đó thì phải làm sao? Quý-vị đừng lo sợ. Có câu rằng: "Di thiên đại tội, nhất sám tiện tiêu." Nghĩa là tội phạm tầy trời, sám hối sạch tiêu. Tội vốn không hình tướng. Nếu mình chân chính có tâm sám hối thì sợ gì không có hy vọng. Quý-vị đừng nên coi thường mình, đừng cam tâm để bị đọa lạc.(Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Sám Hồi Tiêu Trừ Nghiệp:
Câu Hỏi 113: Phật giáo bảo là: “Định nghiệp thì không thể chuyển đổi được,” vậy nếu đã tạo ác nghiệp rồi thì nhất định là phải thọ quả báo phải không?
Đáp: Tuy nói, không thể thay đổi được định nghiệp, nhưng nhờ vào lực tam muội gia trì của Phật và Bồ Tát thì tội nghiệp cũng có thể được tiêu trừ. Nhưng chúng ta cần phải đặt hết lòng tin, sanh tâm hết sức chân thành sám hối và phải thật dũng cảm để sửa đổi các tội lỗi. Cho nên nói:
“Lúc nóng giận mà có thể vui vẻ được, thì người chết sẽ sống trở lại.
Nếu cho lời nói đây là giả, thì nên biết chư Phật không nói dối bao giờ?”
Tội lỗi dù ngập trời, nhưng một khi chúng ta sám hối thì tội lỗi liền tan. Bất luận là tội nghiệp có nặng nề bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu chúng ta thật có thể phát đại Bồ-đề tâm cùng hết lòng tín ngưỡng Tam Bảo và thiện tri thức để tu công chuộc tội. Lúc tu hành tích tụ công đức một cách đầy đủ rồi thì tự nhiên chúng ta sẽ miễn trừ được hết các tai nạn, và bịnh đau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
CUNG |
NGỌC THẠCH |
KHOÁNG CHẤT |
1 2 3 4 5 6 7 |
Kim Cương (Diamond) Ngọc Lam (Sapphire) Ngọc Bích (Emerald) Vân Thạch (Jasper) Ngọc Vàng (Topaz) Ngọc Hồng Bảo (Ruby) Ngọc Tím (Amethyst) |
Thạch Anh Đá Turquoise Cẩm Thạch Đá Mã Não; Đá Xà Vằn Đá Citrine Đá Tourmaline Đá Vân Ban |
Trên đây là bản lược đồ chỉ loại Ngọc Thạch đứng đầu mỗi Cung, và những loại khoáng chất này cũng có hàm xúc một thứ mãnh lực giống như loại Ngọc Thạch đồng Cung, mặc dầu yếu hơn. Xem thêm ; Xem thêm tóm lược về bảy cung
+ Các Loại Kinh Chú hay Thần Chú:
+ Phật Giáo có trên 18 Thần chú:
Buổi sáng: (1) Lăng Nghiêm; (2) Ðại Bi Tâm; (3) Như Ý Bảo Luân Vương; (4) Tiêu Tai Cát Tường; (5) Công Ðức Bảo Sơn; (6) Chuẩn Ðề; (7) Dược Sư Quán Ðỉnh; (8) Quan Âm Linh Cảm; (9) Thất Phật Diệt Tội; (10) Chú Vãng sinh Tịnh độ; (11) Ðại Cát Tường Thiên Nữ; (12) Tâm kinh Bát Nhã;(13) Tán Phật; (14) Niệm Phật và Thánh chúng; (15) Tán lễ Bổn sư; (16) Hồi hướng; (17) Tam tự quy;
Buổi chiều:(18) Đại Bi Tâm và Tâm kinh Bát Nhã; (19) Kinh A Di Đà; (20) Vãng sanh Tịnh độ; (21)- Sám Hồng danh, bao gồm:
+ Tán dương chư Phật;
+ Quy y cả tánh và tướng Tam bảo;
+ Phát bồ đề tâm;
+ Đảnh lễ Tam bảo;
+ Lạy Phật;
+ Sám hối;
+ Phát lộ;
+ Hướng nguyện theo hạnh nguyện Phổ Hiền;
+ Hồi hướng;
- Văn thí thực,
- Niệm Phật,
- Tán Phật,
- Nguyện sinh Cực lạc,
- Tán lễ Bổn Tôn,
- Cảnh sách,
- Tự Quy y Tam bảo (Theo Phật Giáo Tây Tạng). Xem thêm: Các thần chú
+ Yoga thần chú (Mantra Yoga): Môn Yoga về âm thanh hay về linh từ sáng tạo.(ASCLH, 347)
+ Các Thần Chú khác cũng rất nhiệm mầu:
- Kính Bạch Thế Tôn ... hãy dùng Trì Cú Thần chú mà Phật kia sai chúng con đem đến đây,...
Xà lê ma ha, xà lê la ni, ưu khư mục khư, sa bà đề, ma ha sa bà đề.
Kẻ trai lành và người gái tín nào thọ hành Trì Cú Thần chú, thọ trì đọc tụng thì sẽ biết được túc mạng trong 07 đời. Trì Cú Thần chú 77 ức Đức Phật đã nói.
- Lại có Bồ Tát Di Lặc hết thảy tám mươi vị, bảo Hiền giả A Nan rằng: “Tôi cũng sẽ nói Trì Cú Thần chú:
A tri hòa tri, tra khư la la, lý my hỷ ly, my ly đề lô, lưu mi lặc.
Trì Cú Thần chú đọc tụng thọ trì sẽ biết được túc mạng trong 14 đời. Trì Cú Thần chú này là 84 ức chư Phật đã nói.
- Phật dạy A Nan: “Ta cũng sẽ nói Thần chú Trì Cú nghĩ thương chúng sanh ...:
A tri hòa tri, na tri cưu na tri, đề lê, sa la ba đề, a na ba đề, ba na đề, ba na ca hòa ni, ma ha ca hòa ni.
Nếu kẻ trai lành và người gái tín nào thọ trì đọc tụng Thần chú Trì Cú thì biết được túc mạng trong vô số kiếp. Trì Cú Thần chú này là vô số ức chư Phật đã nói.
Phật dạy A Nan: “Trì Cú Thần chú này khi đi đường hành đạo phải nên niệm tụng, hoặc đến chốn quan quyền, hoặc giữa đường bị giặc, hoặc bị trùng độc, hoặc trong nạn đao binh, hoặc người cùng phi nhơn, hoặc trong những hoạn nạn ấy phải nên niệm tụng là vì Thần chú Trì Cú, chú nơi cây khô khiến sanh cành lá hoa trái, huống nữa là người ấy chỉ trì gút Thần chú mà đeo, sẽ được lành trăm bệnh tiêu trừ, tự nhiên an ổn, diệt họa trừ hung. Nam Mô Phật khiến chú này đều được tùy nguyện.
+ Các loại thần chú theo Minh triết Chân sư: Những câu thần chú nắm giữ bí quyết của quyền năng (như các bạn biết và đã nêu trên) vốn có nhiều loại, và chính yếu thì có bốn loại:
a. Quan trọng nhất là các câu chú hộ thân.
b. Loại thần chú kêu gọi các tinh linh và các tiểu thần, và đưa họ vào tầm hấp dẫn của người kêu gọi.
c. Loại thần chú dùng để áp đặt ý chí của người kêu gọi vào các tinh linh và các thần bậc thấp.
d. Loại thần chú chấm dứt sự hấp dẫn (xin tạm gọi như vậy) và lại đưa các tinh linh và các thần này ra ngoài phạm vi từ lực của người kêu gọi họ......
Điều này khiến tôi phải đề cập đến một nhóm thần chú khác dùng để kết hợp với chính các thiên thần.... (Nguồn: Tham Thiền Huyền Môn)
+ Cấu tạo con người qua 7 nguyên khí: Trích Lời nói đầu: ..... Nhưng tôi rất vui mà nói rằng giáo huấn sau này chỉ cho thấy sự không đầy đủ trong quan niệm nguyên thủy của tôi về giáo lý bí truyền, chứ cho tới nay không có một sự sai lầm quan trọng nào. Thật vậy, tôi đã nhận được từ vị Chơn sư (mà tôi có được giáo huấn của mình lần đầu tiên) lời đoan chắc quyển sách như nó trình bày hiện nay là một phát biểu lành mạnh và đáng tin cậy về hệ thống Thiên nhiên theo như các điểm đạo đồ thuộc khoa huyền bí học hiểu được...... Chẳng hạn như tất cả những điều trong quyển sách này liên quan tới cuộc sống trên cõi Trung giới (tức Kama Loka) đã hoàn toàn lạc hậu. Tác phẩm sau này của tôi “Sự tăng trưởng của Linh hồn” đã minh họa đề tài này đến một mức độ nào đó, cuốn “Bên kia Cửa Tử” đã khoác lên một lớp vỏ mới cho những tình huống rất biến thiên vốn thịnh hành nơi các cảnh giới mà cái lớp vỏ siêu hồng trần của Trái đất được phân chia ra thành ..... Bảy thể của con người được mô tả sớm nhất, sơ đẳng nhất, gồm:
1. Thể Xác: Rupa
2. Sinh Lực: Prana hoặc Jiva
3. Thể Phách: Linga Sharira
4. Hồn Thú: Kama Rupa
5. Hồn Người: Manas
6. Hồn Thiêng: Buddhi
7. Tinh Thần: Atma
Xem thêm: Bảy nguyên khí con người (GQ-MF)
Theo: Theo Sách: Phật Giao Bí Truyền (Mục: 2- Cấu tạo con người)
+ Kiến thức tổng hợp về dẫn truyền năng lượng bảy cung:
a/ Cung Hoàng đạo dẫn truyền Cung năng lượng: Năng lượng do Cung Hoàng đạo dẫn truyền năng lượng từ các chòm sao xa xăm chỉ chi phối những người có Linh hồn tiến hóa cao mà họ đã dần thoát khỏi 5 Hành tinh không thánh thiện. Đại khái đa số nhân loại hiện nay vẫn chưa có thể Phàm ngã hợp nhất, là điều kiện tiên quyết để năng lượng cao chi phối Phãm ngã qua Thể Linh hồn.
b/ Hành tinh dẫn truyền cung năng lượng - mầu sắc hành tinh:
+ 12 Hành tinh đang chi phối 12 Cung Hoàng đạo, có liên quan trước tiên đến biểu lộ ở cõi trần của con người, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã (CTHNM, 63)
+ Có 12 Hành tinh (7 H.Tinh thánh thiện và 5 không thánh thiện) có liên quan với sự sống bên ngoài, môi trường và các hoàn cảnh của cá nhân. Các mãnh lực biểu hiện trạng thái thiêng liêng thứ 3 - Ý muốn hiểu biết; (CTHNM, 38)
- 12 HT chi phối 12 Cung HĐ, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã con người, cộng với các tình trạng nghiệp quả kế thừa, tạo ra các trạng thái chung quanh và các hoàn cảnh sống và sau rốt việc kiểm soát khía cạnh hình tướng của sự sống (CTHNM, 63)
+ (i)- Bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh là cội nguồn xuất phát của 7 cung của thái dương hệ chúng ta. Mỗi một trong 7 năng lượng này được truyền vào Thái Dương hệ chúng ta qua 3 chòm sao (Hoàng Đạo) và các Hành tinh chi phối chúng. (Xem Bảng tổng hợp Minh triết mới)
- 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh Hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
+ Mỗi hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Hành tinh dẫn truyền:
- Cung 1, Vulcan và Diêm Vương tinh
- Cung 2, Mặt trời và Mộc tinh
- Cung 3, Trái đất và Thổ tinh
- Cung 4, Thủy tinh và Mặt trăng
- Cung 5, Kim Tinh
- Cung 6, Hỏa tinh và Hải Vương Tinh
- Cung 7, Thiên Vương Tinh
+ Thống kê và ý nghĩa Chiêm tinh học: Các quy luật và tạo lập Lá số Chiêm tinh; Định vị các Nhà; Vòng Hoàng Đạo và Mặt phẳng Hoàng đạo, đường Xích đạo Trời; Các Hành tinh có tính các Hành của nó mạnh hơn các hành cùng loại của các Cung Hoàng Đạo; Ý nghĩa các Cung Hoàng Đạo; Các Nhà; Các Góc hợp và Chủ tinh các Cung Hoàng Đạo; cũng như khái niệm về vượng, tướng, tù, tử; Cung chủ quản một Nhà; Mẫu sắc các hành; Tính điểm các hành; Các góc hợp Tam hợp, Lục hợp ....
+ Các Hành tinh chi phối Khả năng (CTHNM, 715):
- Thổ tinh“ Saturn – chi phối các khả năng mộ đạo.
- Thủy tinh Mercury – chi phối các khả năng trí tuệ.
- Mộc tinh Jupiter – điều hành các khả năng tình cảm.
- Mặt Trời – điều hành các khả năng cai trị.
- Hỏa tinh Mars – chi phối các khả năng ích kỷ.
- Kim tinh Venus – chi phối các khả năng kiên trì.
- Mặt Trăng – chi phối các bản năng”.(GLBN III, 463).
+ Mầu sắc - Mầu màn che ngoại môn (GLBN III, trang 455, Sơ đồ II)
Hành tinh Nguyên khí con người Màu sắc Ngày trong tuần
1. Mars ............ Kama-rupa ............... Đỏ ......... Thứ ba
2. Mặt Trời ..... Prana-Sự sống .......... Cam ....... Chúa nhật
3. Mercury ...... Buddhi ...................... Vàng ..... Thứ tư
4. Saturn ......... Kama-manas ............. Lục ........ Thứ bảy
5. Jupiter ......... Vỏ hào quang ........... Lam........ Thứ năm
6. Venus ......... Manas-Thượng trí ..... Chàm ..... Thứ sáu
7. Mặt Trăng .. Linga Sharira ............. Tím ........ Thứ hai
+ Các trường phái hành tinh: [Xem chi tiết: Tại đây]
1. Uranus (Thiên Vương Tinh) – 2. Địa Cầu - 3. Vulcan (Hỏa vương cầu) - 4. Jupiter (Mộc tinh) - 5. Mercury (Thủy Tinh) - 6. Venus (Kim Tinh) - 7. Mars (Hỏa Tinh) - 8. Neptune (Hải Vương Tinh);
+ Hành tinh đại diện bốn phương chính (Đông - Tây - Nam - Bắc): Chính xác nhất cho bán cầu nam là Thổ Tinh; Hỏa Tinh ở Bán cầu đông; Mặt trăng ở Bán cầu bắc; và Kim Tinh ở Bán cầu tây. Điều này là do thực tế rằng chúng cũng là những chủ tinh tự nhiên của bốn nhà góc (nhà 10, nhà 1, nhà 4 và nhà 7) tạo thành khung cơ bản cho các ngôi nhà khác của lá số chiêm tinh. Nguyên tắc tứ phân này là nguyên mẫu mà theo đó chúng ta đưa ra thực tiễn. Có bốn mùa, bốn hướng chính, bốn yếu tố, bốn mặt của một kim tự tháp, và bốn loại tâm lý.... (Nguồn: CTHNM 2)
+ Xem thêm các chi tiết: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Xem: Tổng hợp về mầu sắc
Ngũ hành trùng điệp, lại thông căn
Tiêu đề: "Dụng Thần Giáp mộc;
+ Ánh sáng Nhật Nguyệt - Mặt trăng và Mặt trời - Cái đèn chiếu sáng ngày đêm
Ma-ha Ca-diếp giải thích: Con từ kiếp trước, trong cõi nầy, có Đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng. Con được thân cận, nghe pháp tu học với ngài. Vào thời quá khứ lâu xa, có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng thị hiện trên đời. Mặt trời chiếu sáng vạn vật ban ngày. Mặt trăng chiếu sáng vạn vật ban đêm. Đèn có thể chiêú sáng cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày biểu tượng cho hiện hữu (cái có), và ban đêm biểu tượng cho cái không. Đó là cả hai mặt hiện tượng và bản thể, bản thể và hiện tượng. Đó cũng chẳng phải là hiện tượng và bản thể, và chẳng phải là hiện tượng, chẳng phải là bản thể. Nghĩa là chẳng vướng mắc vào có hoặc không.
Khi Phật diệt độ, chúng con thắp đèn sáng mãi để cúng dường xá-lợi. Công đức cúng dường xá-lợi Phật tương đương với việc cúng dường chính Đức Phật. Chúng con thắp đèn sáng mãi–để Phật pháp được trường tồn và lan rộng–để cúng dường xá-lợi, lại lấy vàng thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay, đời nầy qua đời khác, thân chúng con đều viên mãn sáng ngời như sắc vàng thắm.
Thân tướng của ngài Ma-ha Ca-diếp rất là hoàn hảo. và tôi chắc rằng người vợ của ông cũng rất đoan nghiêm.
Tỷ-khưu ni Tử kim quang đây là quyến thuộc, cùng phát tâm một lần như chúng con. Điều quan trọng là họ cùng tu tập với nhau. Mối quan hệ của họ không dựa trên tình cảm luyến ái. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thuật ngữ Trí huệ: Theo Phật giáo, Trí tuệ xem như Mặt Trời, Trí huệ xem như Mặt trăng chiếu sáng Tâm tối tăm (Tooltip Trí Huệ)
+ Rạng đông - Vừng đông đã hửng sảng dấu hiệu Mặt trời sắp mọc - Làm bạn với thiện - Như lý tác ý đúng như Pháp
12.II. Ví Dụ Mặt Trời (1) (S.v,78)
1) ...
2) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, cái này là điềm đi trước, là tướng báo trước mặt trời sắp mọc, tức rạng đông. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái này là điềm đi trước, là tướng báo trước bảy giác chi sanh khởi, tức là làm bạn với thiện. Tỷ-kheo làm bạn với thiện, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi rằng: bảy giác chi sẽ được tu tập, bảy giác chi sẽ được làm cho sung mãn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo làm bạn với thiện, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo làm bạn với thiện, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi.
13.III. Ví Dụ Mặt Trời (2) (S.v,79)
1) ...
2) Ví như, này các Tỷ-kheo, cái này là điềm đi trước, là tướng báo trước mặt trời sắp mọc, tức là rạng đông. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái này là điềm đi trước, là tướng báo trước bảy giác chi sanh khởi, tức là như lý tác ý. Tỷ-kheo thành tựu như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi rằng: bảy giác chi sẽ được tu tập, bảy giác chi sẽ được làm cho sung mãn.
3) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo như lý tác ý, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành tựu như lý tác ý, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi. (Nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi)
+ Lá Lách:
Các NĂNG LƯỢNG phát ra từ mặt trời cũng có một tác dụng kép.
- Thứ nhất, có những năng lượng mà chúng ta có thể gọi là hiệu ứng prana, vốn là kết quả của ảnh hưởng của lực thái dương (solar force), đang phát ra từ mặt trời vật chất. Hiệu ứng này tạo ra các kết quả rõ ràng trên các hình tướng khách quan, và các năng lượng này được gọi là các năng lượng thuộc vật chất hay cần cho sự sống (physical or vital). Các năng lượng này đi vào trong cơ thể con người xuyên qua lá lách và cũng xuyên qua một bí huyệt nằm giữa hai xương vai; bí huyệt này nằm giữa bí huyệt cổ họng và bí huyệt tim trong cột sống, nhưng gần bí huyệt tim hơn bí huyệt cổ họng.
- Thứ hai, có các năng lượng phát ra từ cái mà về mặt nội môn được gọi là “tâm của mặt trời” (“heart of the sun”); các năng lượng này quét qua hết hành tinh này đến hành tinh khác theo bảy luồng lớn và cung cấp lực (power) vào linh hồn của con người, tạo ra loại nhạy cảm mà chúng ta gọi là ý thức (awareness). Bảy loại năng lượng này tạo ra bảy loại linh hồn hoặc bảy cung (rays), và theo ý tưởng này, bạn tìm thấy cái bí mật của sự hiệp nhất linh hồn. Trong khi biểu lộ, do các ảnh hưởng của bảy loại năng lượng tác động trên vật chất của không gian, người ta nhận thấy bảy loại linh hồn, bảy lĩnh vực biểu lộ, và bảy mức độ tâm thức cùng các đặc trưng của cung. Như bạn biết rõ, các biến phân này giống như màu sắc mà lăng kính thu được khi được đưa ra trước các tia của mặt trời, hoặc được đưa ra trước mảng họa tiết của kiểu mẫu được tìm thấy trong ánh phản chiếu trên một hồ bơi trong trẻo. (LVHLT, 433)
+ Lá lách: Ý tại lá lách. Lá lách màu vàng, nên gọi là đứa bé mặt vàng.
"Bạch ngưu đại xa lân lân chuyển, (trâu trắng, xe lớn, chuyển từ từ)".
Trong kinh Pháp Hoa có nói đến xe lớn, trâu trắng, tức là Phật thừa, chỉ có Phật thừa mà không có thừa nào khác. Lại nữa, muốn thành Phật thì phải đi trên con đường này, thì mới ngồi trên cổ xe lớn trâu trắng. Chưa thành Phật được thì không thể ngồi trên xe này. Tức bảo rằng chúng ta dụng công đắc lực để chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sanh.
Sao gọi là cổ xe lớn trâu trắng, mà không nói xe lớn trâu đen, hay xe lớn trâu vàng, hoặc xe lớn trâu nhiều màu ? Con trâu này màu trắng, giống như tự tánh của chúng ta không ô nhiễm. Chư vị từ từ hành pháp đại thừa. Xe trâu trắng đi trên đường đại thừa, phát ra âm thanh lân lân. Khi đó, người tu hành đạt được cảm giác. Cảm giác gì ?
"Hoàng kiểm tiểu nhi khiếu khiếu toản, (bé mặt vàng đáp tới đáp lui)".
Cảm giác như say sưa, ngủ mơ, mộng mị, tức là không biết gì là chân, gì là giả, là hư là thật, bốn chi (hay tay hai chân) rất mềm diu. Tay không có sức lực; chân cũng không có sức lực, giống như bùn non, không muốn làm gì hết. Khi ngồi thiền, hay không ngồi thiền, thân thể đột nhiên rung động nhanh chóng. Khi ấy tâm chúng ta đập. Kỳ thật không phải là tâm đập mà là lá lách đập. Sao lá lách đập ? Lá lách đập giúp chúng ta tiêu hóa dễ dàng. Chư vị chạy mau chút ít thì lá lách làm việc nhiều chút ít. Hoàng kiểm tiểu nhi là ai ? Tức là ý niệm của chư vị, nghĩa là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Ý tại lá lách. Lá lách màu vàng, nên gọi là đứa bé mặt vàng.
"Khiếu khiếu toản", tức là đập tới đập lui. Thế nên, người thường ngồi thiền, lắm khi ngồi đến lúc không biết gì hết. "Tim tôi đập như thế nào, có bị bịnh gì không ?"
Tâm khởi lo sợ như thế. Chớ lo sợ. Đó chỉ là quá trình tu hành mà chúng ta phải vượt qua. Khi xe lớn trâu trắng chuyển pháp luân thì ý niệm cũng khởi dậy, tim đập mạnh rất nguy hiểm. Lúc đó tâm phát sanh sợ hãi. Tim đập mạnh như thỏ nhảy tới nhảy lui. (Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Điềm báo dữ và ác tướng hiện ra: Lại nếu có người nào trong giấc ngủ thấy những điềm chiêm bao dữ, còn khi thức thấy những ác tướng như chim đến đậu nơi vườn nhà, hoặc chỗ ở hiện ra trăm điều quái dị mà người ấy dùng những của báu cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì những ác mộng, ác tướng và những điềm xấu ấy thảy đều ẩn hết, không còn phải lo sợ gì nữa. (Nguồn: Kinh Dược Sư)
+ Điềm lành giữ: .Hoặc có kẻ thấy hai mặt trời hay hai mặt trăng thì đều là những điềm bất tường; người xưa nói: "Thiên vô nhị nhật, Dân vô nhị quân." (Trên, không có hai mặt trời; Nước, không có hai vua.)
Ở Trung Hoa, về đời nhà Hạ, vua Kiệt là người bạo ngược, trên không trung bỗng nhiên hiện ra hai mặt trời, nhà Hạ nhân đó mà diệt vong. Ðó là điềm hung dữ được báo trước.Ngoài ra còn có những điềm gọi là Vựng, Thích, Bội, Quyết. Những ác khí bao quanh mặt trăng làm mờ mặt trăng thì gọi là Vựng; khí đen che lấp mặt trăng gọi là Thích; khí trắng ở bên cạnh mặt trăng gọi là Bội, mà che đi một nửa thì gọi là Quyết. Ðó là những điềm xấu thuộc về mặt trăng.
Lịch sử Trung Hoa có chép rằng khi mặt trăng bị che lấp bảy lần thì Hán Cao Tổ ở Bành Thành bị giặc Hung Nô vây khốn. Ngôi sao có ánh sáng dài sau đuôi gọi là Tuệ, tức là sao chổi; hào quang ngắn hơn quét đi bốn phía thì gọi là Bột Tinh; ở trên không trung xẹt xuống gọi là Phi Tinh; ở dưới mà vọt lên gọi là Lưu Tinh; đó đều là những điềm xấu thuộc về các ngôi sao.
Sách Xuân Thu có chép rằng vua Tống Nhượng Công không có nhân nghĩa nên sao xẹt xuống như mưa, vua Tần Thủy Hoàng hết sức bạo ngược thì sao chổi xuất hiện; đó cũng là những điềm không lành. Ác khí ở phía trên mặt trời gọi là Phụ, ở bên cạnh mặt trời gọi là Nhĩ. Sau khi trời mưa mà xuất hiện cầu vồng thì gọi là Hồng Nghê, buổi sáng gọi là Hồng, buổi chiều gọi là Nghê; đó đều là những