QUÂN TỬ TẠO MỆNH: ĐOÁN GIẢI THIÊN CƠ - CHIẾN THẮNG THIÊN MỆNH - NIỀM HY VỌNG VINH QUANG

CÁC DỊCH VỤ TƯ VẤN CÁ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP
KHẨU HIỂU:
TÌM CÁT TRÁNH HUNG - CẢI MỆNH NHƯ Ý - NGŨ PHÚC LÂM MÔN

+ XEM SỐ MỆNH VÀ TV PHÁP CẢI MỆNH CÁT TƯỜNG - VUN BỒI HY VỌNG: Xem tại đây

+ MỞ LỚP HỌC DỰ ĐOÁN TỨ TRỤ VÀ QUẺ DỊCH THƯỜNG XUYÊN: Xem tại đây

+ PHÁP TU PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ TOÀN DIỆN - THÀNH BẬC THIÊN TÀI. Xem tại đây

+ NHẬN TƯ VẤN THIẾT KẾ THEO PHONG THỦY VĂN PHÒNG VÀ NHÀ Ở HỢP MỆNH VẬN.

+ MỞ LỚP TU "THIỀN TRÀ" VÀ TU THIỀN LẬP HẠNH GIÚP XA LÌA TÀ DỤC THƯỜNG XUYÊN

+ HỘI QUÁN CAFE PHONG THỦY: HỎI - ĐÁP VỀ BỒI CÁT TRÁNH HUNG - GIẦU CÓ AN KHANG - XA LÌA TÀ DỤC - PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ .... 

* Dịch vụ và Hỏi - Đáp tại số 301 Minh Khai, tầng 4 tòa nhà TTTM Thanh Ngọc, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh: Xem tại đây

* TƯ VẤN MIỄN PHÍ vào Sáng thứ bảy hàng tuần, kính xin liên hệ trước để chúng tôi tiếp đón quý khách được chu đáo!

 Kính chúc quí vị luôn bình an, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý - Niềm hy vọng vinh quang!

+ Kính xin mời đọc kỹ: Hướng dẫn Dịch vụ

Pháp Tu Đạo làm Người Quân Tử

PHÁP TU ĐẠO LÀM NGƯỜI
TU HÀNH THÀNH THIỆN NAM TỬ - THIỆN NỮ NHÂN

PHẦN I
PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH ĐỂ TRỞ THÀNH THIỆN NAM - TÍN NỮ

I- Tu hành là gì:

Tu hành là sửa đổi lại Tâm tính và hành vi của mình. Muốn vậy phải thường học và nghe giảng Minh triết - Phật Pháp làm căn cứ để thực hành.
Hành tức là dừng lại những việc xấu ác không làm nữa, thay vào đó tăng cường làm các việc lành, nói những lời lành, chỉ nghĩ tưởng tới điều lành. Tức là thường hành tứ vô lượng tâm: Từ - Bi - Hỷ - Xả trong đối người tiếp vật.

II- Tu hành thuận theo Thiên cơ:

1- Cuộc đời có bốn giai đoạn:

Hãy coi ngày quy y là ngày sinh nhật.
Cuộc đời tu hành tính từ đó.
Một năm có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Ðó là chuyện hiển nhiên, ai cũng biết. Nhưng quý-vị có biết chăng là đời người cũng phân thành bốn giai đoạn: Sanh, lão, bệnh, tử. Làm người, ai ai cũng chết, nên mình phải tính chuyện về sau mà lo tu Ðạo. Tu hành cũng có bốn giai đoạn, tức là: học, hành, thành, và liễu.
Để thành tựu các giai đoạn này nó phụ thuộc vào nhân duyên tiền kiếp của mỗi người. Có thể đơn vị tính cho mỗi giai đoạn là năm hay đời kiếp. Ví dụ: 5 năm đầu học - 5 năm tiếp theo là hành - 5 năm tiếp theo là thành - 5 năm cuối là liễu. Dài thì có thể mỗi hai mươi năm một giai đoạn. Có câu "Không học mà tu thì chả khác gì tu mù hành tối vậy, chẳng đi đến đâu. (HT Tuyên Hóa giảng). 

2- Đời sống thuận theo Thiên cơ: 

a- Thuận theo Thiên cơ: Người thuận theo Đất, đất thuận theo Trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên. 

b- Thuận theo Thiên chức và luân thường đạo lý

+ Thiên chức người Nam: Đại diện dương khí trong trời đất.

- Dương thì động, thuận theo dương khí thì là người ra ngoài làm việc kiếm tiền.

- Dương là quí khí: Hợp với biểu lộ sức mạnh, hợp làm chủ gia đình, lãnh đạo.

+ Thiên chức người Nữ: Đại diện Âm khí trong trời đất.

- Âm thì tĩnh, thuận theo Âm khí thì là người tại gia, làm việc quản gia và kiếm tiền tại gia, không thuận với ra ngoài làm ăn.

- Âm thì không quí: Hợp với biểu lộ sức mềm dẻo yếu đuối, hợp làm chủ quản tại gia đình, nên tùy thuận sự lãnh đạo của Chồng.

c- Thuận theo luân thường đạo lý: Đạo làm người thiện lành, dù Nam hay Nữ cũng cần tu hành thành tựu.

III- Tu hành để làm gì:

+ Tu để cải mệnh toàn diện. Số mệnh do nhân quả tạo thành, vì thế mà có thể Dự đoán số phận giầu nghèo, sang hèn, thọ yểu, hạnh phúc hay khổ đau ngập tràn ..., nên biết, nó chỉ đúng với người không tu hành cải mệnh, họ xem như chấp nhận số phận an bài, tức là họ thuận theo nghiệp quả họ đã gây tạo và kiếp này họ buộc phải nhận lãnh dù quả tốt hay xấu. Khi bình thường ít bệnh nạn khổ đau thì họ thấy chẳng cần tu để làm gì. Phật pháp có câu "Bồ Tát sợ nhân - Chúng sinh sợ quả". Vậy nên, khi nhưng ngày tháng êm đẹp đã qua thì bệnh nạn và khổ đau sẽ đến, mức nặng nhẹ tùy thuộc vào nghiệp mỗi người đã gieo trong quá khứ. Khi đó họ mới phần nào thấu hiểu lỗi sợ nghiệp quả mang đến khổ đau tột cùng mình phải gánh chịu, nhiều khi vượt quá sức chịu đựng, họ chỉ biết than trời trách người nếu họ không hiểu và tin nhân quả báo ứng. Nhưng than trách chỉ làm cho tình trạng nặng nề hơn và kéo dài hơn mà thôi. Đây là lúc họ nên tu hành để hóa giải và tiêu trừ nghiệp quả, chậm còn hơn không. Đức Phật nói "Quay đầu là bờ", không bao giờ là muộn cả.

=> Tu hành cải mệnh để hóa giải - Tiêu trừ nghiệp chướng để có cuộc sống an nhiên tự tại hơn, giầu có hạnh phúc hơn, mạnh khỏe thọ mạng hơn, phúc đức sâu dầy, con cái ngoan hiền ... Người tu hành đúng NHƯ PHÁP THỌ TRÌ thì số mệnh không còn là định mệnh nữa, vì người đó đã cải mệnh hoàn toàn, do được Tam Bảo, chư Phật, Bồ tát gia hộ độ trì giúp hóa giải và tiêu trừ nghiệp chướng. Phật Pháp nhiệm mầu.

IV- Đối Tượng Tu hành:

1- Người không thể tu: ... Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dẻ thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.

* Họ là người Vô minh: Nguyên nhân chủ yếu là họ cứ khăng khăng nhận cái Phàm ngã - Thân xác này chính là họ, mà thân xác do Tứ đại làm thành, bản chất của nó là âm, là hút vào, tức là bản chất tham lam ham muốn với lòng ích kỷ hẹp hòi chỉ lo cho mình và gia đình. Khẩu hiệu của họ là sống và thụ hưởng nhiều nhất có thể, bởi họ nghĩ chết là hết. Họ chỉ biết tranh giành sao cho mình có lợi, thường ít để ý đến thiệt hại của người khác, nhiều khi bất chấp luân thường đạo lý. Cũng bởi họ cứ tin vào tà kiến là không có Nhân quả - Luân hồi. Họ tin chết là hết cho nên mới sống trong si mê điên đảo như vậy như trong kinh thường nói: Họ cứ lấy Địa ngục là nơi ở lâu dài, thế gian này là nhà trọ => Không thể xứng danh người thiện lành được, nói chi đến là người quân tử.

2- Người ngu dốt vẫn có thể tu: ... Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối (Ngu si, dốt nát, hay quên ...), trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặt chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.

* Họ cũng thuộc dạng người vô minh vì không có khả năng học hiểu giáo lý, họ có thể là người ít chữ hoặc không biết chữ, họ chỉ học hỏi một cách thụ động vì họ có duyên lành từ tiền kiếp, họ sẽ gặp được vị thầy Đại Thiện tri thức giáo hóa và họ có lòng tin sâu Nhân quả - Luân hồi. Thì họ thường sống và phấn đấu trở thành người thiện lành, họ thường hành bố thí - Giữ ngũ giới ...như lời Phật dậy không dám phạm vì biết sợ quả báo ác đến. Họ cũng ăn chay, sám hối, phát nguyện, Quy y Tam bảo và kiên trì tinh tấn tu hành thì chắc chắn có thành tựu như đức Phật đã dạy. Họ tuy là người trí tuệ chưa phát triển, thường sống không thuận theo Dục vọng. Nếu họ tu tinh tấn chắc chắn sẽ có thành tựu như đức Phật dậy. Có thể gọi đây là thuộc nhóm người cảm dục - Người độn căn hay người trí cảm - Căn tánh thấp - Người hạ căn.

3- Người bình thường tu: Họ là đa số trong nhân loại hiện nay, họ người Trí cảm - Là người vẫn bị Dục vọng tức Tham Sân Si chi phối là chính. Những người này trong Kinh Phật thường gọi là người trung căn. Họ có thể trí tuệ chưa đủ phát triển để có thể làm chủ tâm trí. Họ thường có mục đích sống là học hỏi - Làm việc quên mình để chăm lo đáp ứng các nhu cầu căn bản của đời sống cá nhân và gia đình, sinh con đẻ cái để duy trì giống nòi. Họ có thể thụ động trong học hỏi giáo lý, hoặc nếu có học cũng khó có khả năng phân biệt các Pháp chánh tà - Chân giả, là vì tâm trí của họ chỉ tập trung mãnh liệt vào Dục vọng - Nhu cầu vật chất của đời sống thường nhật. Đối với Nhân quả - Luân hồi họ chẳng tin hoặc nửa tin nửa ngờ. Đây chính là sự tai hại của giai đoạn trí tuệ đang phát triển để thoát ly khỏi các ham muốn của dục vọng thấp hèn. Nhóm này có hai dạng người có thể tu:

a- Người không tin nhân quả - Luân hồi: Không thể tu. Họ cũng chẳng nghe lời hay lẽ phải. Những người này cũng rất khó, thường không có cách gì để mà góp ý cho họ hiểu. Họ sẽ phải trải qua đau khổ và diệt trừ đau khổ trong nhiều kiếp sống để có thể giác ngộ.

b- Người nửa tin nửa ngờ về Nhân quả - Luân hồi:

- Người có lòng sùng tín: Nếu họ có nhân duyên gặp được thần tượng là nghe giảng Pháp của các vị Thánh hiền đắc đạo, thì họ sẽ trở thành người thiện lành nhờ vào giáo lý chánh đạo, họ sẽ nhanh tin vào Nhân quả - Luân hồi, tin vào Phật pháp qua các bậc Thánh hiền giảng dạy, cho dù họ không có khả năng học và hiểu thấu giáo lý. Nhờ đó họ sớm trở thành người thiện lành. Nhưng ngược lại, họ cũng rất rễ tin vào tà pháp ngoại đạo, là vì họ chưa có trí tuệ để phân biện, điều này rất nguy hiểm, cần được cảnh báo qua những người thiện lành hành Bồ Tát đạo góp ý, chỉ bảo giúp đỡ. 

- Người có thiện căn tiền kiếp: Nhờ nhân duyên lành từ tiền kiếp, khi thời gian đến họ bỗng gặp được giáo lý chánh đạo hoặc có duyên nghe được Thánh hiền giảng đạo mà trong tiền kiếp họ đã từng tu học, họ sẽ bị cuốn hút vào đó, giần đam mê nếu nhân duyên đó đủ lớn. Người như thế cũng có thể tu và gặt hái thành tựu. Nhóm người này tuy không có lòng sùng tín, nhưng họ cũng rễ bị lạc lối vào tà đạo bởi vì trí tuệ phân biện chưa đủ, họ luôn sống trong nghi ngờ với cả Pháp chánh đạo - Phật pháp. Một điểm rất đáng quan ngại nữa, nó phát sinh bở bản chất của Thể trí con người, đo là tánh Kiêu căng ngạo mạn. Tuy học hiểu giáo lý chưa được là bao, cũng chưa thể thấu hiểu giáo lý sâu rộng mầu nhiệm thế nào, thế nhưng họ thường xem kiến thức họ là nhất, đặc biệt khinh thường ra mặt kể thường nhân ngu si. Đức Phật dậy, người trí cần giác ngộ điều này, xa lìa ngu si tà kiến - Kiêu mạn.

4- Người ác hay đại ác tu: Đức phật dậy "QUAY ĐẦU LÀ BỜ". Trong Kinh Phật có câu truyện, Angulimàla là một tên cướp khét tiếng, đã giết hại rất nhiều người, nhưng nghe lời giáo hóa của đức Phật, đã từ bỏ đường ác, quay về đường chánh, tinh tấn tu hành vẫn thành tựu đạo quả viên mãn. Cho nên tu là hồi đầu, phát nguyện sửa đổi lỗi lầm đã phạm và từ bỏ hoàn toàn nghiệp ác, không bao giờ tái phạm. Trước Tam bảo phát lồ sám hối, tích cực giữ nghiêm giới luật, hành thập thiện và bát chánh đạo ... => Thành tự các pháp này chính là người chân thật là tu hành, chắc chắn xứng với danh Thiện nam - Tín nữ. Chắc chắn sẽ thành tựu đạo quả. (Xem: Angulimàla - Người đại ác thành tựu bậc Thánh )

+ HỎI : Nếu như có người làm nghề giết gà, giết vịt để sinh sống, chúng ta nên có pháp môn phương tiện nào để khuyên giải họ không ?.
   ĐÁP : Nếu lúc trước làm chuyện lầm lỗi, khi biết ra là sai quấy thì con nên sửa đổi. Cho nên bảo là : "Quá năng cái, quy ư vô", nghĩa là biết sai mà chịu sửa thì xem như vô tội. (HT Tuyên Hóa khai thị)

5- Người thượng căn - Trí tuệ phát triển tu: Giáo lý nói rằng, hạng người này có một thuận lợi lớn, bởi họ thông minh, nhớ lâu, có trí phân biện ... học nhanh giác ngộ. Điểm yếu là rễ phát triển tánh "Kiêu căng ngạo mạn", dẫn đến "Học mà không hành", nếu không khắc phục được các điểm yếu này thì xem như bị "Vòng kim cô" như đám mây mờ năn cách tâm trí, họ ít có cơ hội gặp Thiện tri thức - Những vị Thầy đắc đạo đáng kính để có thể học hỏi được nhiều kiến thức cao thâm, vì cơ hội gần Thiện tri thức tự mình đánh mất đi. Hơn nữa, họ học mà không hành chẳng khác chi chỉ nhìn mâm cỗ mà chẳng thật ăn => Chẳng biết hương vị ngon ngọt, bụng thì vẫn đói. Đức Phật dạy, tu hành như người uống nước - Nóng lạnh tự biết. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)

V- NGƯỜI THIỆN NAM - TÍN NỮ TU HÀNH.

1- Tu chữ hiếu: Người thường hiếu kính cha mẹ và thầy cô giáo, những vị thiện tri thức. Có lòng thành tin kính và thường lễ lạy Tam bảo , thường niệm hồng danh các đức Phật, Bồ Tát, Thánh hiền, những vị đại thiện tri thức. Luôn là người xem cha mẹ như những vị Phật trong nhà, hết lòng báo hiếu.
Lòng tin tưởng tuyệt đối vào Tam Bảo nghĩa là: Thường ngày tu sửa làm người thiện lành, tu tích phúc đức. Nguyện đem thân mạng giao hết cho Tam bảo - Phật và Bồ Tát, các ngài cho con sống thì con sống, bảo con chết thì con sẵn sàng chết (Đây gọi là lòng tin tuyệt đối_HT Tuyên Hóa khai thị). Được như vậy thì lo gì cầu không được, ước không thấy. Điểm này cực kỳ quan trọng trong pháp tu hành, đặc biệt là các pháp tu niệm Phật, Bồ tát hay Trì chú, đây là các Pháp tu dùng công đức của mình là chính, nhưng không thể thiếu sự bổ trợ mạnh mẽ, nhiệm mầu của tha lực: Tam Bảo - Phật - Bồ tát gia hộ độ trì. Nếu không tin tưởng tuyệt đối vào đức thầy như thế thì không thể nào có được cảm ứng nhiệm mầu chân thật, theo đó Thần lực không thể tuôn xuống tới người tu để được hóa giải - Tiêu trừ nghiệp trướng, bệnh hoạn không khỏi nhanh được ...

+ Thường hành bố thí: Bố thí tài - Bố thí pháp - Bố thí vô úy tùy theo sức của mình như lời Phật dậy.

+ Tu hành - Thường giữ ngũ giới: Không sát sanh - Không trộm cắp - Không tà dâm - Không nói dối - Không uống riệu.

Họ tin sâu nhân quả. Họ thường: Hành bố thí - Giữ ngũ giới - Làm lành lánh giữ - Tu lễ lạy, niệm Phật, Bồ Tát chăm chỉ - Thường sám hối - Phát nguyện thiện lành - Hồi hướng công đức. Họ tinh tấn, y giáo phụng hành - Làm gương tu chánh đạo cho mọi người.
Người thiện lành mà kiếp này gặp được Thiện tri thức dạy bảo hướng dẫn tu, đây đều là duyên lành từ tiền kiếp tu đạo hiếu đễ mà có được, rất đáng chân trọng, nên tin kính phụng hành.

+ Tu Thân Khẩu Ý:

- Đức độ thuộc thân xác:
1) Bảo vệ sự sống của muôn loài,
2) Thực thi sự rộng lượng và hào phóng,
3) Ý thức trong cuộc sống tình dục, không gây ra khổ đau.
- Đức độ thuộc ngôn từ:
4) Nói lên sự thực,
5) Nói những lời hoà giải, tạo sự thân thiện và giảng hoà,
6) Ăn nói nhỏ nhẹ,
7) Tụng niệm kinh điển.
- Đức độ thuộc tâm thức:
8) Biết hân hoan với hạnh phúc của kẻ khác,
9) Từ tâm và thương người,
10) Duy trì những quan điểm đúng đắn.

+ Người thiện lành thường ngày tu hành:

- Tu “Tâm từ” để chẳng khởi phiền não, làm hại.
- Tu “Tâm bi” để thương yêu các chúng sinh.
- Tu “Tâm hỷ” để diệt trừ tâm ganh ghét đố kị.
- Tu “Tâm xả” để được tĩnh tại, không yêu ghét...
- Tu “Nhẫn nhục” để có đầy đủ các tướng tốt.
- Tu “Tinh tấn” để phá trừ ma oán, sớm thành Phật.

       * Người quân tử còn thêm các hạnh

- Tu “Thiền định” nên có thể sinh khởi pháp lành.
- Tu “Trí tuệ” để dứt bỏ vọng kiến phân biệt. Xóa bỏ vô minh, xa lìa tà kiến.

8- LỜI PHẬT DẠY VỀ SỰ NHÌN THẤU ĐỂ CÓ MỘT CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC
- KHÔNG TRANH CHẤP LÀ TỪ BI
- KHÔNG TRANH LUẬN LÀ TRÍ TUỆ
- KHÔNG NGHE THẤY LÀ SỰ THANH TỊNH
- KHÔNG QUAN SÁT LÀ SỰ TỰ TẠI
- KHÔNG THAM LAM LÀ BỐ THÍ
- BỎ ÁC LÀ CÁI THIỆN
- SỬA ĐỔI BẢN THÂN LÀ SÁM HỐI
- NHÚN NHƯỜNG CHÍNH LÀ LỄ PHẬT
- THA THỨ LÀ GIẢI THOÁT
- BIẾT ĐỦ CHÍNH LÀ BIẾT BUÔNG BỎ
- LỢI CỦA MỌI NGƯỜI CHÍNH LÀ CÁI LỢI CỦA BẢN THÂN.
* NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

VI- CÁC GIÁO LÝ TU HÀNH ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI THIỆN NAM - TÍN NỮ

1- Lục Đại Tông Chỉ: Hòa Thượng Tuyên Hóa có sáu đại tông chỉ gồm Không Tranh - Không Tham - Không cầu - Không ích kỷ - Không Tự Lợi - Không Vọng Ngữ. Sáu điểm này ngài dạy cũng tương tự giữ Ngũ giới không khác.

2- Các giáo lý để thực hành các 12 Đức hạnh: 
  - Đức Hạnh: Đức Phật dậy về 10 Thiện nghiệp (Ngũ thường) rất rễ học hiểu.
    Mời đọc: Kinh Thập thiện ; Mời đọc: Đệ Tử Quy rất tuyệt diệu
  - Đạo Nhân: Đức Phật dậy về quan hệ giao tiếp (Ngũ luân) rất đầy đủ minh triết.
     Mời đọc: Kinh Thiện Sinh; Mời đọc: Kinh tương ưn bộ
  - Phát triển trí tuệ phân biện: Các phẩm tính của Người trí được đức Phật giảng rất sâu sắc.
     Mời đọc: Kinh Hiền Nhân;
  - Sách giành cho người chí nguyện chuẩn bị bước vào đường đạo, giành cho người có trí tuệ phát triển:
     Mời xem: Sách Dưới Chân Thầy
  - Giành cho những người tu đạo xuất thế gian còn có kiến thức Bát Chánh Đạo và rất nhiều phẩm trợ đạo khác.

PHẦN II - TU HÀNH ĐÚNG NHƯ PHÁP THỌ TRÌ
ĐỂ CÓ THÀNH TỰU NHIỆM MẦU LÀ CỰC KỲ QUAN TRỌNG

1- Tu hành bắt đầu: Khởi đầu đường tu, điều đầu tiên của “Tam Phước” là “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”, đây là gốc, không tu chân thật thì không thể tiến bước trên đường đạo. (Nguồn: Xem tại đây)

2- Thứ lớp trong tu hành: Phật đối với Bồ-tát nói 6 điều nguyên tắc tu hành này là có thứ lớp, dứt khoát không được đảo lộn. Điều thứ nhất là bố thí, là dạy bạn buông xả. Nếu bạn không thể buông xả thì bạn sẽ không giữ luật nghi (giữ luật nghi là trì giới). Bạn không thể giữ luật nghi thì bạn chắc chắn không thể nhẫn nhục. Bạn không thể nhẫn nhục thì bạn chắc chắn sẽ không có tiến bộ (tiến bộ là tinh tấn). Không có tiến bộ thì làm sao có thể đắc thiền định? (Kinh TTNĐ_PS Tịnh Không giảng)

3- NGÀN VẠN PHẦN CHỚ NGHĨ RẰNG MỖI NGÀY NIỆM MẤY BỘ KINH CHÍNH LÀ TU HÀNH, còn cảm thấy là mình tu hành khá lắm! Khi chẳng niệm kinh thì tâm không kiêu ngạo, niệm kinh rồi bèn tưởng mình là ghê gớm lắm. Tôi có thể thuộc lòng kinh Vô Lượng Thọ, mấy người còn thua tôi xa lắc! Như vậy là quý vị không niệm kinh thì không có phiền não đó, chẳng tạo tội nghiệp; sau khi quý vị thuộc kinh nhuần nhuyễn rồi, hằng ngày sanh phiền não, tạo tội nghiệp khắp mọi chỗ, đều là do hiểu lầm nghĩa chân thật của Như Lai. (Xem: PS Tịnh Không giảng về Tu hành)

4- Những công việc thường ngày cần tu hành thành tựu
Như pháp tu hành: Như pháp có nghĩa là làm đúng theo sự chỉ dẫn, đúng với chân lý, đúng với giới luật, hợp với đạo đức nhân nghĩa ... không bao giờ có cái mình, cái tôi, cái bản ngã ích kỷ, phân biệt, chia rẽ xen vào => Đây tức là chúng ta phải tinh tấn tu để xứng danh "THIỆN NAM - TÍN NỮ". Dưới đây là các yếu tố để tu chắc chắn thành tựu đạo của Người Quân Tử. Chắc chắn được hưởng quả ngọt gọi là "Phật Pháp nhiệm mầu - Cầu được ước thấy". 

- Xóa bỏ Vô minh: Học hiểu giáo lý, thường nghe giảng Pháp để giác ngộ, từ đó tin sâu nhân quả - Luân hồi với tâm bất thối chuyển - Không chút nghi ngờ. 
- Tín tâm thành kính: Có tín tâm thành kính tin tưởng tuyệt đối vào Tam Bảo, với đức Phật Thích Ca mâu Ni, các Bồ Tát, các Thánh tăng hay Thiện tri thức. Thường ca ngợi đức Phật và Thánh hiền.
- Phát nguyện hồi đầu tu hành: các việc xấu ác đã làm dừng lại, xa lìa và không bao giờ tái phạm các giới luật đã phát nguyện trì giữ. Có thể phát nguyện là giữ nghiêm ba giới, năm giới, mười giới hay nhiều hơn. 
- Phát lồ sám hối: Thường trước Tam Bảo - Phật hay Bồ Tát - Bậc Thiện tri thức - Nhà sư chân chánh sám hối tội lỗi và hứa từ đó không bao giờ tái phạm nữa.
- Phát tâm bồ đề: Phát tâm Từ Bi Hỷ Xả. Tình thương bình đẳng - Lăng giúp đỡ chúng sinh - Vui với thành tựu của người khác - Xả bỏ vạn duyên xấu ác đến với mình, không để trong tâm.
- Tu không gián đoạn: Đức Phật dậy, điểm then chốt là cần đều đặn hàng ngày không gián đoạn, như giọt nước có thể bào mòn đá vậy.
- Thanh luyện Thân Tâm: Hàng ngày nghiêm trì giới luật - ăn chay ít nhiều - Thường làm lành lánh giữ - Năng thực hành bố thí. Tham thiền tuệ tri sửa đổi Tâm tánh mạnh mẽ như đức Phật dậy.
- Hồi hướng công đức: Hàng ngày tu tinh tấn để có công đức hồi hướng khắp tất cả nhằm hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng và oan gia trái chủ.
- Chọn pháp tu phù hợp căn cơ: Mối người mỗi tính cách, theo đó mỗi người nhường như có một cách tu hành thích hợp nhất để tu trì, giúp tiến nhanh trên con đường đạo. Điều này thường cần có vị đại Thiện Tri thức chỉ cho mới biết được, quả thực rất khó trong thời mạt pháp này. Ví dụ vài pháp tu phổ biến, phù hợp đã số căn cơ chúng sinh như niệm Phật, Bồ tát. Thực hành bố thí. Lễ lạy đọc tụng Kinh Chú. Tham thiền và tu Thiền định. Không nên tu theo pháp của tà đạo, ngoại đạo.

+ Pháp thanh luyện thân tâm

1- Sửa tâm Tham: Thì hãy chuyển đổi sự ham muốn vào những thức ăn tinh thần, hay ham muốn làm việc phước thiện thay vì đi tìm cung ứng thức ăn cho ngũ quan.
2- Sửa tâm Sân: Thì cố gắng làm sao lúc về già con cháu đừng xa lánh, hay lúc gần chết, tâm sân đừng phát khởi, để đưa mình vào 4 cõi sống bất hạnh.
3- Sửa tâm Si: Thì phải cố gắng học hỏi hơn người, người ta học 1 thì mình phải học 10 để có một hiểu biết sâu rộng và cái nhìn chân xác về thực tại; Ráng ngủ ít lại và tập luyện cho tâm nhiều tỉnh giác.
4- Sửa tâm Tín: Thì phải nên rèn luyện chánh kiến và sự hiểu biết sâu rộng để khỏi rơi vào tình trạng hoài nghi hay dễ tin.
5- Sửa tâm Minh: Thì nên đem tài năng và đức độ để phục vụ con người. Thay vì dùng sự thông minh của mình để đi đè bẹp người.
6- Sửa tâm Tầm: Thì nên giới hạn sự tìm hiểu, tò mò của mình vào những địa hạt có lợi ích thực tiễn, thay vì tò mò soi mói chuyện người khác hoặc những chuyện vô bổ. (Nguồn: Nghiên cứu Tâm Tánh)

5- Người học Phật có hai hạng nhất định có thành tựu:
a) Một là người thông minh phi thường, nhà Phật thường gọi là “thượng căn lợi trí”. Hạng người này vừa nghe Phật pháp, giác ngộ ngay lập tức. Sau đó bèn chân chánh y giáo phụng hành, hạng người như vậy nhất định có thể thành tựu.
b) Hai là “thiện căn sâu dày”. Hạng người đối với những lời giáo huấn của Phật, Bồ Tát bèn nỗ lực vâng làm, họ chẳng cần biết đến lý luận, cứ dựa theo lời chỉ dạy của Phật mà làm theo. Hạng người chân thật như thế có thể thành tựu.(Nguồn: Tu Thanh Tịnh Tâm)

IV- Tìm chọn giáo lý - Kinh Phật: 

1- Thường xuyên học và hành theo giáo lý của Thành hiền dạy:

+ Bác Hồ dạy chúng ta: Như lời Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng, ai ai cũng biết, nhưng hết đời chưa có mấy ai làm được nhiều, bởi cuộc sống trong xã hội, trong gia đình và nhà trường đều là những tấm gương tranh đua giành dật, dối trá ...:. Như hiện nay so với lời dạy của Bác thì xã hội toàn đạo đức xuống cấp. Người tu cần kiên trì thật hành thành tựu các đức tính làm người thiện lành. Lời Bác dạy ai ai cũng nhớ:
   Yêu tổ quốc - Yêu đồng bào

   Học tập tốt - Lao động tốt
   Đoàn kết tốt - Kỷ luật tốt
   Giữ gìn vệ sinh thật tốt
   Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.

"Nhiều điều mà đứa trẻ lên bảy tuổi biết, nhưng người bảy mươi tuổi vẫn chưa làm chọn!"

+ Ngoài ra, còn nhiều lời dạy đạo làm người rất sâu sắc mà bác Hồ đã dạy, nhưng nếu quan sát thì thật không mấy ai chịu học và làm theo lời dạy của người. Ví như:

  • Những lời dạy với "Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
  • Những lời dạy với "Chiến sỹ công an nhân dân"
  • Những lời dạy với "Chiến sỹ quân đội nhân dân"

+ Tìm hiểu đạo làm người: Theo quan điểm của Đạo nho.

+ Thực hành hạnh giao tiếp: Đức Phật dậy trong Kinh Hiền Nhân.

+ Rèn đức tính: Đức Phật dậy trong Kinh Thập Thiện Nghiệm Đạo. Xem tóm lược: Mời xem tại đây

+ Đức Phật dạy: Vô minh là nguồn gốc của luân hồi khổ đau. Muốn xóa bỏ vô minh thì phải học hiểu giáo lý minh triết và Phật pháp mà Thánh hiền đã dạy. Mời xem tại đây

2- Giác ngộ tức là người tin sâu nhân quả và Luân hồi:

Thường xuyên học, nghe giảng Phật pháp để vun bồi tâm tin sâu Nhân quả - Luân hồi với lòng tin bất thối chuyển, từ đó sống cuộc đời an nhiên tự tại, dù cho vạn sự sảy đến vì thấu hiểu đều là lỗi nơi mình, xả ly tâm oán trời trách người ngay từ khi nó mới khởi lên theo bản năng (Nếu có), luôn chấp nhận với tâm nhẫn lại, đồng thời lỗ lực tu đạo, làm việc thiện, hành bố thí, lễ lạy đọc tụng Kinh Chú để hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng cho mình và người thân.

+ Nhân quả - Số mệnh: Mời đọc Sách tổng hợp về Nhân quả - Số mệnh Thánh hiền dạy: Xem tại đây

+ Linh hồn luân hồi: Bài viết trích lời Thánh hiền dạy về Linh hồn đầu thai - Tái sanh trả nghiệp, mời xem chi tiết tại đây

III- Tài liệu bổ trợ tu:

+ Mời đọc sách tổng hợp những lời dạy của Thánh hiền về: Nghệ thuật sống của người quân tử

+ Mời đọc sách Thánh hiền dạy cách lễ lạy đọc tụng và trì niệm hồng danh Phật, Bồ Tát đúng NHƯ PHÁP THỌ TRÌ. Xin mời đọc tại đây

+ Mời đọc sách Thánh hiền dạy cách thanh luyện thân tâm, nhận biết và buông xả phiền lão khổ đau như buồn nản, chán chường, khổ đau, bệnh tật, chia ly ... gây ra. Nếu biết cách ứng sử thì sẽ có cuộc sống an nhiên tự tại, nhẫn lại trong hiểu biết xâu xa về nghiệp quả và kiên trì thực hành cách hóa giải khổ đau, bệnh nạn ... để giảm nhẹ, tiêu trừ nhanh nghiệp quả báo ứng. Mời Xem tại đây

Mời xem hướng dẫn cách tu hành NHƯ PHÁP THỌ TRÌ để có thành tựu, cảm ứng nhiệm mầu chắc thật: Xem tại đây

PHẦN III
PHÁP TU NIỆM HỒNG DANH PHẬT - BỒ TÁT VÔ CÙNG NHIỆM MẦU

I- Niệm Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm: Tín tâm thành kính. Lễ lạy đọc tụng Kinh Chú và niệm hồng danh Phật, Bồ Tát. Thực hành đúng "NHƯ PHÁP THỌ TRÌ" để hóa giải và tiêu trừ vô lượng nghiệp xấu ác, được vô lượng công đức, phước đức. Ví như chữa lành bệnh hiểm nghèo, bệnh do côn trùng độc hại, bệnh do quỷ thần gây ra ... đảm bảo chắc chắn giúp CẢI MỆNH mạnh mẽ và nhiệm mầu vô cùng, ví như mạnh khỏe hơn, sống thọ hơn, giầu sang hạnh phúc hơn, con cái ngoan hiền hơn, sự nghiệp cát tường như ý hơn .... Mời xem hướng dẫn phương pháp niệm: Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát.

II- Niệm nam Mô A Di Đà Phật rất nhiệm mầu.

+ Một phương pháp tu nhất tâm niệm phật Ba la mật để được vãng sanh đến cõi nước của đức Phật A Di Đà. Pháp tu phù hợp với thời mạt pháp, phù hợp với tất cả các căn cơ chúng sinh, chỉ cần là người thiện lành, có tín tâm thành kính, hàng ngày niệm Nam Mô A Di Đà Phật không ngừng, đến mức tâm tự niệm thì có cơ được vãng sanh, hóa sanh qua hoa sen, được giải thoát luân hồi khổ đau, tu một kiếp thành Phật. Mời đọc Thành hiền hướng dẫn tu niệm Phật vãng sanh. Mời xem tại đây

+ Mời đọc hàng trăm câu hỏi - Thánh hiền trả lời về pháp tu Tịnh Độ - Niệm Phật: Xem tại đây

Nhân Trắc Học tổng hợp tóm lược kiến thức của Thánh hiền dạy, chắc chắn không tránh khỏi nhiều sai sót, đề nghị quí đọc giả đọc các bản Kinh văn, giáo lý gốc (Có đường Link đính kèm) để hiểu thấu suốt, cùng thực hành để có thành tựu đạo quả viên mãn.

Xin chân thành cảm ơn!