ĐẠO LÀM NGƯỜI
THIỆN NAM TỬ - TÍN NỮ CÓ TRÍ TUỆ PHÂN BIỆT CHÁNH TÀ
Phật pháp ở thế gian không phá hoại pháp thế gian!
PHẦN I
LUÂN THƯỜNG ĐẠO LÝ TRONG ĐẠO LÀM NGƯỜI
"Chỉ những ai có đủ đạo đức lương thiện là cao cấp, còn lại là ti tiện_Đức Phật"
"Người thuận theo Đất - Đất thuận theo Trời - Trời thuận theo Đạo - Đạo thuận theo tự nhiên_Lão Tử"
“Trong các đức tính thì hạnh bác ái (Lòng nhân - Tình thương yêu) là quan trọng hơn hết, nếu không có hạnh bác ái thì các đức tính khác không bao giờ đầy đủ_Chân sư”
I- CHỮ ĐẠO - NGŨ LUÂN VÀ ĐẠO ĐỨC:
1- Đạo là gì:
* Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ_Lão Tử.
+ Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.... Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu.
Đạo là Đạo vũ trụ bao gồm: Đạo trời, đạo đất và đạo người. (Nguồn: Đạo Đức Kinh)
2- Chữ Đạo ở người - Chữ Luân: Con người có Vợ chồng là đạo, cha con là đạo, anh em là đạo, bè bạn là đạo, vua tôi là đạo, (vua là người lãnh đạo, tôi là người bị lãnh đạo), đây là “ngũ luân”. Hỏi bạn năm thứ này do ai đặc ra? Là ai phát minh? Là ai quy định? Không có! Đây là nguyên tắc tự nhiên. Cho dù bạn có văn hóa hay không, người mọi rợ họ cũng có, người văn minh cũng Đạọ làm người, bạn không thể nào thoát khỏi năm cái này, cho nên năm cái này là nguyên tắc tự nhiên, đây là "đạo", đạo của tự nhiên.
=> Đạo là làm lợi ích cho người khác. Có hai mức (i) - Không gây tổn hai; (ii)- Phụng sự hết mình vì người khác. Con người sống không đúng Đạo, tức ích kỷ hẹp hòi thì gia đình bất hòa, khủng hoảng tinh thần, thiên hạ đại loạn, tự nhiên phát sinh động đất, sóng thần, dịch bệnh đại họa.
3- Chữ Đức gồm 12 chữ: “Hiếu (Hiếu thảo) - Để (Kính trọng) - Trung (Trung thành) - Tín (Tín nhiệm - Tín tâm) - Lễ (Lễ phép - Lế nghi) - Nghĩa (Nghĩa khí - Bổn phận) - Liêm (Liêm khiết) - Sỉ (Hổ thẹn) là tám đức tánh căn bản làm người
=> Đức là tự mình được lợi ích qua việc làm đúng trách nhiệm và bổn phận làm người. Dù với người có tín ngưỡng tôn giao hay không, họ đều phải có ít nhiều đức hạnh này để làm người. Nếu không có được điểm nào thì họ không bằng một con thú, ví dụ như con Chó, con Mèo còn biết biểu lộ yêu thương, bảo vệ thân chủ.
Còn bốn đức hạnh: Nhân (Tình yêu thương - Không gây tổn hại) - Ái (Giúp đỡ) - Hòa (Hòa thuận) - Bình (Bình đẳng)” => Giao tiếp lợi mình và lợi người hay Tự lợi và lợi tha nhân.
12 chữ này là hoàn toàn tương ưng với đạo, tương ưng với nguyên tắc của tự nhiên. Không có nó - Thế giới liền loạn thôi, bạn sẽ khổ. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu trì 12 chữ Đức này có thành tựu thì trở thành 12 Đức Hạnh của Người Người Quân Tử/ Thiện Tri Thức. Nó cũng tương ứng việc tu trì thành tựu Giới - Định - Tuệ trong Phật giáo. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
4- Đạo đức được hiểu là “nguyên lý tự nhiên là đạo, được vào lòng người là đức; cái lý pháp người ta nên noi theo”. Có rất nhiều lý tưởng và nguyên tắc khác nhau về “đạo”, nhưng tất cả đều có chung một nền tảng cơ bản là dựa trên cái thiện, trong sáng, lành mạnh, chân chính để mưu cầu hạnh phúc và an bình cho con người. (Nguồn: Đạo làm người)
+ Đạo Đức: Nguyên lí thiện ác, chính tà có liên quan đến hành vi của nhân loại. Đạo đức (tập tục), bởi vì tập tục là nền tảng của đạo đức và pháp luật, trong đó, pháp luật là phép tắc trong hoạt động xã hội, còn đạo đức thì là mẫu mực tất yếu của cá nhân trong phép tắc sinh hoạt xã hội loài người. Ngài Khổng tử đề cao Nhân, Đức là trung tâm của quan hệ nhân luân. ... Trong tinh thần căn bản của Phật giáo, thì Đức là tự mình được lợi ích; Đạo là làm lợi ích cho người khác. Bài kệ trong Thất Phật thông giới nói (Đừng làm các điều ác, Nên làm các việc thiện, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy). Xem bài kệ trên có thể lí giải được quan niệm đạo đức nhân luân của Phật giáo. (Nguồn: Thư Viện Hoa Sen)
+ Khi gia đình và xã hội sống đúng Đạo, thì vạn sự theo Đạo chẳng cần nhắc đến. Nhưng khi bất hòa phát sinh mới nói đến chữ hiếu - Đạo nghĩa - Trung thần ... Đạo lý trong đoạn kinh nầy cũng giống như điều của Lão Tử muốn nói. Nếu chỉ có một yếu tố, thì sẽ không có gì trở nên hỗn trược. Nhưng vì chúng kết hợp với nhau và hình thành một khối, nên hư vọng sanh khởi. Điều nầy chứng minh rằng trong mọi pháp, đều có cái chân cái nguỵ, cái giả cái thật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
II- CHỮ THƯỜNG:
Đạo lý làm người có ngũ Thường, gồm:
NHÂN (Nhân hậu) - NGHĨA (Chính nghĩa) - LỄ (Lễ phép) - TRÍ (Trí tuệ) - TÍN (Uy tín)
Người nào phạm 5 điều này thì đời sau không làm được thân người. Chúng ta làm được năm điều này thì lương tâm không có hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người. Chúng ta xem những người này trong xã hội ngày nay, lại so với mình, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm mình, tự mình có làm được hay không? Tự mình đời sau có được thân người không? Nếu như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì đời sau nhất định đọa trong ba đường ác. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
PHẦN II
ĐẠO LÀM NGƯỜI THIỆN NAM - TIN NỮ
Đạo làm Người: Chữ Nhân đứng đầu - Chữ hiếu là gốc rễ - Biết ơn là cốt lõi - Biết hổ thẹn là người trí
I- NĂM ĐẠO LÝ LÀM NGƯỜI THIỆN LÀNH (NGŨ THƯỜNG):
1- Chữ NHÂN: Đức Nhân - Lòng nhân, chữ Nhân trong "nhân hậu - Nhân ái", cũng tức là không gây tổn hại, có lòng yêu thương đối với tất cả chúng sinh. Ứng với hành Mộc trong ngũ hành. Là nhân từ độ lượng đối người tiếp vật.
Đức "Nhân" chẳng phải chỉ hàm súc đủ mọi hạnh lành, đức tốt, mà là cái phản ảnh đức háo sanh của Thượng Đế nữa. Về phương diện nầy "Nhân" khởi đầu tại lòng thương xót (Trắc ẩn chi tâm), nên người ta thường dùng chữ "Ái" kèm theo, thành danh từ kép “Nhân ái” để diễn tả sự thương yêu được đầy đủ.
Đạo hiếu là cốt lõi của chữ Nhân, chữ Nhân là gốc của đạo đức - Đạo đức là gốc của đạo làm người. Làm người trước nhất phải ưu tiên học và thành tựu đức nhân, mà cốt lõi của đức nhân là đạo hiếu, cần thành tựu "Hiếu thân tôn sư - Phụng sự sư trưởng". Có câu:"Bách thiện hiếu vi tiên: Trong một trăm điều thiện thì đạo hiếu là hàng đầu". Không có hiếu với cha mẹ thì những tánh đức khác không thể kiện toàn.
2- Nghĩa (Không tham lam): Nghĩa (trong "chính nghĩa") là phải cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải. Ứng với Kim trong ngũ hành. Đối với người, đối với sự vật, chúng ta có tận tâm làm tròn nghĩa vụ chưa? Tuy có thù lao, nhưng không xem trọng thù lao mà cho là việc bổn phận của ta. Chúng ta phải tận tâm tận lực làm cho tốt; đây là đạo nghĩa, nhưng không nên xem là trả thù lao. Thù lao nhiều thì tôi làm nhiều, thù lao ít thì tôi làm ít, hạng người này không có nghĩa. Thấy lợi phải luôn nghĩ đến nghĩa, không vì lợi mà quên nghĩa, có quyền lợi chính đáng phải biết nghĩ đến người khác (lộc bất tận hưởng). Người trọng nghĩa khinh tài rất đáng kính.
3- Lễ (Không kiêu mạn): Trong "Cung kính lễ phép", mang tính tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. Ứng với Hỏa trong ngũ hành. Giữa người với người phải có lễ phép qua lại, gồm rất nhiều thủ tục lớn chào hỏi, lễ khi vào đình chùa, vào nhà mới, cưới xin ....Người hiểu biết và giữ lễ nghi là người có văn hóa.
+ Lòng Sùng tín chánh đạo - Phật Pháp: Đầu tiên là đức tín tâm thành kính kiên cố. Người thường hiếu kính cha mẹ và thầy cô giáo, những vị thiện tri thức. Có lòng thành tin kính và thường lễ lạy Tam bảo , thường niệm hồng danh các đức Phật, Bồ Tát, Thánh hiền, những vị đại thiện tri thức. Luôn là người xem cha mẹ như những vị Phật trong nhà, hết lòng báo hiếu.
Lòng tin tưởng tuyệt đối vào Tam Bảo nghĩa là: Thường ngày tu sửa làm người thiện lành, tu tích phúc đức. Nguyện đem thân mạng giao hết cho Tam bảo - Phật và Bồ Tát, các ngài cho con sống thì con sống, bảo con chết thì con sẵn sàng chết (Đây gọi là lòng tin tuyệt đối_HT Tuyên Hóa khai thị). Được như vậy thì lo gì cầu không được, ước không thấy. Điểm này cực kỳ quan trọng trong pháp tu hành, đặc biệt là các pháp tu niệm Phật, Bồ tát hay Trì chú, đây là các Pháp tu dùng công đức của mình là chính, nhưng không thể thiếu sự bổ trợ mạnh mẽ, nhiệm mầu của tha lực: Tam Bảo - Phật - Bồ tát gia hộ độ trì. Nếu không tin tưởng tuyệt đối vào đức thầy như thế thì không thể nào có được cảm ứng nhiệm mầu chân thật, theo đó Thần lực không thể tuôn xuống tới người tu để được hóa giải - Tiêu trừ nghiệp trướng, bệnh hoạn không khỏi nhanh được ...
4- Không nghiện ngập: Với người thiện nam - Tín nữ thường là người trí tuệ chưa phát triển hoặc do nghiệp quả nặng lề mà trí tuệ bị che ám trở thành ngu tối, hay quên. Nên chữ TRÍ trong ngũ thường không thuộc thế mạnh của người thiện lành. Họ chỉ cần giữ nghiêm giới không uống riệu - Dùng Sì ke ma túy ..., sẽ làm mê mờ tâm trí, rễ làm việc hồ đồ, điên đảo làm mất lòng nhân, mất uy tín, mất đạo nghĩa.
5- Tín (Chân thật): Tín (trong "uy tín") là phải giữ đúng lời hứa. Ứng với Thổ trong ngũ hành. Là tín dụng, chữ tín rất quan trọng là “không dối mình, không lừa người”. Tự lừa dối mình là lương tâm bị mê muội. Chúng ta thường nghe tục ngữ nói: “Người không có lương tâm”. Người không có lương tâm thì bàn đến chữ tín làm gì? Bên trong lương tâm mê muội; bên ngoài dùng nhiều thủ đoạn tinh vi lừa gạt người khác.
===>>> Như vậy, Luân Thường Đạo Lý theo Pháp Thế Gian cũng không trái với Pháp Xuất Thế Gian mà đức Phật đã dạy, hay nói cách khác, pháp Xuất Thế Gian đã bao gồm Pháp Thế Gian mà không có sự khác biệt hay trống trái nào cả. Đạo Phật luôn bao là rộng lớn phù hợp với mọi hạng người, dù là người ngu tối dốt nát cho đến người trí tuệ siêu vượt ở thế gian đều có thể áp dụng tu hành, và đều có thành tựu dốt giáo như nhau. Đây là sự vĩ đại của Phật giáo - Là Tình thương rộng lớn vô lượng vô biên với sự Bình đẳng tuyệt đối với mọi người không chút phân biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, già trẻ, nam nữ, giầu nghèo, sang hèn ....
II- HỌC RỘNG - HIỂU SÂU ĐỂ VUN BỒI ĐỨC HẠNH
1- Lòng nhân cũng được gọi là lòng Từ Bi trong Phật giáo. Lòng từ bi thì rộng lớn bao trùm hơn Lòng nhân, vì người có tình thương với tất cả chúng sinh không phân biệt, cũng không dính mắc và ái nhiễm. Lòng Bi là nguyện giúp đỡ chúng sinh mà không đòi hỏi được báo đáp.
Sách Dưới Chân Thầy nói, trong tất cả các đức hạnh thì "Lòng Bác Ái" là quan trong nhất, thiếu nó thì mọi đức tính khác đều bất toàn, không thể đầy đủ.
2- Các thuật ngữ nói về đạo đức người thiện lành:
+ Đễ, Trung, Tín là cái thân, cội của đạo làm người. Một người không mấy tốt với anh chị em thì việc làm người của người đó rất có vấn đề. Tận trung đối với gia đình, thành tín đối với cha mẹ thì đây là cái thân, cội của đạo làm người.
+ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là cành, nhánh của đạo làm người. (Tứ duy)
+ Nhân, Ái, Hòa, Bình là thể hiện sự cống hiến (Phụng sự) của một người đối với xã hội, là hoa thơm quả ngọt. (Nguồn: Xem tại đây)
3- Nguyên Lý Sống Thuận Theo Thiên Cơ Và Thiên Chức Và Luân Thường Đạo Lý
a- Thuận theo Thiên cơ: Người thuận theo Đất, đất thuận theo Trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên.
+ Có sanh có diệt: Vạn sự, vạn vật, vạn loài đều tuân theo quy luật Thành Trụ Hoại Không - Sinh Lão Bệnh Tử. Có sinh thì có tử.
+ Vòng trường sinh: Gồm 12 giai đoạn từ sanh đến tử, bao hàm vạn sự
+ Quy luật 12 nhân duyên: Quy luật về Vô minh tạo nghiệp luân hồi tái sanh của chúng sinh hữu tình.
+ Nhân duyên Hợp - Ly: Vạn sự trên đời đều tuân theo quy luật hợp tan. Hợp mãi rồi tan, tan rồi lại hợp. Ví như Thân Xác do tứ đại hòa hợp mà thành khi "Linh hồn nhập thai". Khi Linh hồn phân ly - Thoát xác thì Thân Xác tan dã, tứ đại mỗi thứ trả về nguyên gốc của chúng.
Còn rất nhiều quy luật mà nhân loại phải tuân theo để tồn tại dài lâu ....
b- Thuận theo Thiên chức:
+ Người Nam: Đại diện dương khí trong trời đất.
- Dương thì động, thuận theo dương khí thì là người ra ngoài làm việc kiếm tiền.
- Dương là quí khí: Hợp với biểu lộ sức mạnh, hợp làm chủ gia đình, lãnh đạo.
+ Người Nữ: Đại diện Âm khí trong trời đất.
- Âm thì tĩnh, thuận theo Âm khí thì là người tại gia, làm việc quản gia và kiếm tiền tại gia, không thuận với ra ngoài làm ăn.
- Âm thì không quí: Hợp với biểu lộ sức mềm dẻo yếu đuối, hợp làm chủ quản tại gia đình, nên tùy thuận sự lãnh đạo của Chồng.
c- Thuận theo luân thường đạo lý: Đạo làm người thiện lành, dù Nam hay Nữ cũng cần tu hành thành tựu
III- ĐỨC HẠNH THEO PHẬT GIÁO TƯƠNG ỨNG ĐẠO LÀM NGƯỜI THẾ GIAN
1- Đức hạnh - Giữ Ngũ giới (Ứng Ngũ thường) gồm: SÁT - ĐẠO - DÂM - VỌNG - KHÔNG UỐNG RIỆU
1.1- Sát (Chữ Nhân): Người có lòng Nhân thì không gây tổn hại - Không sát sanh hại vật. Nên ăn chay ít nhiều. Tương ứng giới Không sát sanh.
1.2- Đạo (Chữ Nghĩa): Người trung thực, Trung thành, nghĩa khí, không tham nhũng, trọng tình nghĩa, biết hổ thẹn. Xa lìa tham lam ích kỷ. Tương ứng giới Không trộm cắp.
1.3- Dâm (Chữ Lễ): Trong quan hệ, thấy người thì cung kính sẽ không quan hệ tình ái bất chính. Nên trì giữ cả trong tư tưởng không để Tâm dâm thường khởi, càng không bám chấp, dính mắc vào cảm xúc Dâm dục, vì toàn là hại. Tương ứng giới Không Tà dâm.
1.4- Vọng (Chữ Tín): Giữ khẩu nghiệp, tức thường nói lời chân thật, không nói đâm thọc - Hai lưỡi đôi chiều. Cũng không nên nói ác khẩu khó nghe hoặc nói lời vô nghĩa. Tương ứng giới Không nói dối.
1.5- Không nghiện (Chữ Trí): Uống riệu làm mê mờ trí tuệ, mà con người không có trí tuệ thì chỉ còn thuần là con thú. Con thú thì không biết phân biệt phải trái đúng sai ..., nó chỉ sống thuần cảm xúc - Nóng giận mất khôn, cho nên, người uống riệu nhẹ thì đánh cãi chửi nhau, nặng thì dao búa gậy gộc giết người không ghê tay, khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn, bị pháp luật sử tù tội đã đành, theo nghiệp quả thì còn nhiều kiếp tìm giết nhau biết bao giờ dừng như trong Kinh đức Phật dậy. Với Sì ke ma túy ... cũng không khác, thậm trí còn nặng lề hơn do ảo giác phát sinh mạnh mẽ. Tương ứng giới Không nghiện ngập để bảo toàn trí sáng.
3- Đạo hạnh thể hiện:
3.1- Thường Bố thí
3.2- Thường làm lành lánh giữ:
3.3- Phát tâm bồ đề: Tu tứ vô lượng tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả
3.4- Phát nguyện
4- Tu trí tuệ: Muốn tu trí tuệ chánh đạo thì cần nhất là nghiêm trì giới luật - Giữ Ngũ giới, vì Giới sanh Định - Định sanh Tuệ. Người giữ ngũ giới thì thường thích nghe giảng kinh pháp. Lễ lạy đọc tụng kinh chú.
5- Đức hạnh tương ứng ngũ Thường:
- Đạo hiếu: Là đức quan trọng nhất của lòng Nhân từ, được biểu hiện qua bốn chữ "Hiếu thân tôn sư".
- Kính - Lễ: Cung kính - Lễ phép là biểu hiện của lòng biết ơn công sinh thành dưỡng dục như trời biển của Cha Mẹ. Cũng biểu hiện của xa lìa lòng Kiêu Mạn.
IV- LÒNG BIẾT ƠN VÀ ĐỀN ƠN BÁO ÂN LÀ ĐẠO NHÂN NGHĨA:
+ Biết ơn theo Phật dậy: Hiếu thảo là hành động biết ơn và đền ơn đối với các bậc đã dày công sinh dưỡng, dạy dỗ mình nên người. Nếu không có ông bà cha mẹ thì không ai có mặt trên cuộc đời này, cho nên tri ân báo ân ông bà cha mẹ là hành động có ý nghĩa hết sức thiêng liêng.
Trong kinh Tâm địa quán, Đức Phật dạy các Trưởng giả trong thành Vương Xá rằng: “Này các Trưởng giả, Ta sắp nói pháp mầu nhiệm, vì muốn lợi ích cho những ai trong đời vị lai chưa biết ơn đức. Các ngươi hãy nghe cho kỹ, ơn trong thế gian và xuất thế gian có 4 thứ: Thứ nhất là ơn cha mẹ, thứ hai là ơn chúng sinh, thứ ba là ơn quốc vương (lãnh đạo đất nước), thứ tư là ơn Tam bảo”. Trong kinh Đại phương quảng bất tư nghì cảnh giới, Đức Phật dạy: “Người nào biết ơn, tuy còn ở trong sinh tử mà căn lành chẳng mất. Kẻ chẳng biết ơn, căn lành diệt mất. Vậy nên các Đức Phật khen ngợi những người biết ơn và đền ơn”. Đức Phật cũng từng dạy: “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. “Gặp thời không có Phật, nên biết khéo phụng sự cha mẹ tức là phụng sự Phật vậy”(Kinh Đại tập).
Hiếu thảo là đạo đức to lớn thì bất hiếu là một tội nặng. Trong kinh Nhẫn nhục, Đức Phật dạy: “Điều lành cao tột chẳng gì bằng hiếu. Điều ác cùng cực chẳng gì bằng bất hiếu”. Trong kinh Báo hiếu phụ mẫu trọng ân, Đức Phật cho biết quả báo của tội bất hiếu như sau: “Người con bất hiếu với cha mẹ là người thấp kém về nhân phẩm, bị người đời khinh rẻ và bị pháp luật trừng trị, về sau không đủ tư cách làm cha mẹ và sẽ bị con cái bất hiếu trở lại. Chẳng những thế, sau khi chết đi người con bất hiếu còn bị đọa địa ngục hoặc sinh làm loài súc sinh chịu muôn vàn khổ sở”.
Khổng Tử, bậc Thánh khai sáng đạo Nho nêu rõ năm mối quan hệ lớn trong các mối tương giao xã hội gọi là Ngũ luân gồm: quan hệ vua tôi (quân thần), quan hệ cha mẹ và con cái (phụ tử), quan hệ chồng vợ (phu phụ), quan hệ anh em (huynh đệ), quan hệ bạn bè (bằng hữu), trong đó mối quan hệ vua và bầy tôi, cha mẹ và con cái, chồng và vợ là ba mối quan hệ cơ bản và quan trọng nhất được gọi là Tam cương (ba giềng mối). Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, Khổng Tử xem hiếu thảo là ứng xử đạo đức quan trọng mà con cái cần phải có đối với cha mẹ.
Đức Khổng Tử dạy rõ về hiếu thảo như sau: “Con cái hiếu thảo không chỉ là phụng dưỡng người đã sinh ra mình mà trước hết phải có lòng thành kính. Chỉ nuôi cha mẹ không thôi chưa thể gọi là hiếu” (Luận ngữ).
Mạnh Tử, người được tôn xưng là Á thánh của đạo Nho cũng dạy nhiều về hiếu thảo, nêu ra năm điều mà người làm con phạm phải bị xem là bất hiếu: 1. Lười biếng chẳng chịu làm việc để nuôi cha mẹ. 2. Ham mê cờ bạc, rượu chè, chẳng đoái hoài đến việc phụng dưỡng cha mẹ. 3. Ham mê của cải, chỉ lo làm giàu, hoặc chỉ biết có vợ/chồng mình, chẳng đoái hoài đến việc phụng dưỡng cha mẹ. 4. Chiều theo lòng ham muốn của mình để được sướng tai, vui mắt, ăn chơi sa đọa, trụy lạc, làm những điều xấu xa, tồi tệ khiến cha mẹ xấu hổ tủi nhục. 5. Ham dùng sức mạnh, quyền uy, thế lực gây hấn, đánh nhau làm cha mẹ lo lắng, làm cha mẹ bị liên lụy, nguy hại đến cha mẹ.
Pháp luật và tội bất hiếu .... (Nguồn: Quả báo của hành vi bất hiếu)
+ TRẺ KHÔNG ĐƯỢC DẠY VỀ LÒNG BIẾT ƠN, SAU NÀY SẼ THÀNH NGƯỜI CON BẤT HIẾU.
Văn hóa truyền thống rất coi trọng việc giáo dục trong gia đình và nề nếp gia phong.
Là cha mẹ, ai cũng mong muốn những gì tốt nhất cho con mình. ... Trong đó, giáo dục trẻ lòng biết ơn là nền tảng rất quan trọng.
Nếu cha mẹ chỉ biết nuông chiều mà không dạy trẻ biết hồi báo, thì cho dù có bước ra ngoài xã hội, trẻ cũng sẽ gặp nhiều trắc trở, thậm chí coi Trời bằng vung. Đối tượng mà trẻ cần biết ơn không chỉ có cha mẹ, mà còn là những ai từng giúp đỡ chúng.....
Những đứa trẻ không biết cảm ơn sau này sẽ còn đáng sợ hơn cả sói dữ. Vì vậy, giáo dục trẻ sống có trách nhiệm và biết cảm ơn thực sự rất quan trọng.
Khi trẻ còn nhỏ cha mẹ đã luôn thuận theo ý của chúng, dẫn đến chúng xem cha mẹ như nô lệ của mình.
Những đứa trẻ này đưa ra những đòi hỏi vô tận trước những nỗ lực của cha mẹ chúng. Có những sinh viên chỉ trong mấy năm đại học đã tiêu tốn của gia đình không biết bao nhiêu tiền, trong khi cha mẹ tiết kiệm ăn không dám ăn, dùng không dám dùng, thậm chí chẳng ngần ngại đi vay nợ để nuôi con....
Chúng thoải mái mua sắm những món đồ trang sức, quần áo, giày dép hàng hiệu, điện thoại, máy tính đắt tiền để khoe mẽ, ăn nhà hàng, tiêu tiền một cách không thương xót và xem đó là điều đương nhiên. Thậm chí có những đứa đã đi làm rồi nhưng vẫn có tâm lý dựa dẫm vào cha mẹ để sống.
- Lòng biết ơn chính là chất dinh dưỡng của sự trưởng thành về tâm hồn. Khi trẻ cảm nhận được những hành động tử tế từ người khác, chúng sẽ biết rằng ngày sau mình cũng nên yêu thương và giúp đỡ người khác.
Thiện Ý - Namo Buddhaya (Facebook Huệ Bình theo nguồn: Tue Tanh Thich)
Nhân Trắc Học tổng hợp tóm lược kiến thức của Thánh hiền dạy, chắc chắn không tránh khỏi nhiều sai sót, đề nghị quí đọc giả đọc các bản Kinh văn, giáo lý gốc (Có đường Link đính kèm) để hiểu thấu suốt, cùng thực hành để có thành tựu đạo quả viên mãn.
Xin chân thành cảm ơn!