+ Hồi quan (Panorama, hồi cố, quay lại nhìn): Một cách từ từ, vị chúa của xác thân (lord of the body) tự rút ra, được bao bằng thể dĩ thái màu tím-xám (violet-grey) và đắm chìm trong cơn đại định của cuộc hồi quan (hồi cố) về kiếp sống đã qua của mình, mà trong phút lâm chung (deathhour) đang tháo mở ra trước mắt y với đầy đủ mọi chi tiết. Trong bức tranh sự sống đó có tất cả các biến cố của kiếp sống, cả nhỏ lẫn lớn. Y thấy được các tham vọng việc mình với sự thành công hay thất bại của chúng, các nỗ lực, các chiến thắng, các sai hỏng, các thương yêu, các oán thù; khuynh hướng vượt trội của tổng thể hiện ra một cách rõ rệt, tư tưởng chỉ đạo trong kiếp sống nổi bật lên và tự in sâu vào linh hồn, đánh dấu vùng mà phần lớn kiếp sống sau khi chết (post-mortem existence) của y sẽ được trải qua trong đó. Trang nghiêm biết bao cái thời điểm mà con người đứng đối mặt với sự sống của mình, và từ cửa miệng của quá khứ, con người nghe được điều tiên báo (presage) đối với tương lai của mình. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, con người thấy được thực tướng của mình, nhận biết được mục đích kiếp sống của mình, biết được sức mạnh, độ chính xác và cái tốt đẹp của Thiên Luật (the Law). (MTNX, 94)
+ Ba tiến trình chính của sự chết:
1. Hoàn trả: Nghĩa là việc hoàn lại hình hài vào kho chứa cơ bản của vật chất; hay là đối với linh hồn, năng lượng tinh thần thiêng liêng trở lại cội nguồn của nó - hoặc là trên các phân cảnh linh hồn, hoặc trên các phân cảnh Chân Thần, tùy theo mức độ tiến hóa. Hầu hết việc hoàn trả này là công việc của nhân hồn bên trong thể xác và liên quan đến cả bí huyệt tim lẫn bí huyệt đầu.
2. Thuật loại bỏ: 2 hoạt động của con người tinh thần bên trong; đó là việc loại bỏ (thải hồi mọi kềm chế của phàm ngã tam phân, và tiến trình tái tập trung chính nó trên các phân cảnh cụ thể của cõi trí như là một điểm sáng rực rỡ). Điều này chính yếu là có liên quan đến nhân hồn.
3. Hội nhập: Các tiến trình này có liên quan đến công việc của con người tinh thần đã giải thoát khi y hoà mình với linh hồn (đại hồn) trên các phân cảnh cao của cõi trí. Cái bộ phận trở về với tổng thể, và con người hiểu được ý nghĩa đích thực của các lời của Đức Krishna: “Sau khi thấm nhuần toàn thể vũ trụ này bằng một mảnh nhỏ của chính ta, ta vẫn còn nguyên vẹn. Con người tinh thần cũng thế, cái mảnh nhỏ trải qua kinh nghiệm hữu thức đã tỏa khắp tiểu vũ trụ của hình hài trong 3 cõi thấp, vẫn còn đó. Con người biết được chính mình là một phần của tổng thể. (CTNM, 394-395)
+ Sự chết có 2 giai đoạn chính:
1- Cái chết của thể xác– thể dĩ thái, có 2 mục:
a/ Các nguyên tử cấu thành thể xác được hoàn trả cho cội nguồn của chúng, là toàn thể vật chất của hành tinh, tạo thành thể xác trọng trược.
b/ Thể dĩ thái, là tập hợp các thần lực, hoàn trả lại các lực này cho kho chứa năng lượng chung. Chúng chia 2 phần trong tiến trình.
2- Loại bỏ các hiện thể trí cảm. Thực ra, các thể này chỉ hợp thành một thể duy nhất; thuở ban đầu, các nhà Theosophy đã đặt tên cho nó là “thể trí cảm" hay là hiện thể của dục vọng–trí tuệ.
- Sau cái chết của thể xác, thể này vẫn còn hoàn toàn thực. Nhưng sức mạnh của nó từ từ tàn lụi; con người thiên về trí bắt đầu nhận thức được trạng thái tâm thức thực sự của riêng mình (dù đã/ chưa phát triển), và lần chết thứ 2 có thể bắt đầu xảy ra. Là tiến trình loại bỏ. Khi cả 2 giai đoạn kết thúc, linh hồn thoát xác mới thoát khỏi sự kềm chế của vật chất; nó trở nên tinh khiết (tạm thời), thoát khỏi mọi nhiễm trược của vật chất. Điều này đạt được, không phải nhờ bất cứ hoạt động nào của hồn trong hình hài, tức nhân hồn, mà là do kết quả hoạt động của linh hồn trên cõi riêng của nó (trên cõi thượng trí–ND), hồn này tách ra một mẩu của chính nó mà ta gọi là nhân hồn. Chính công việc quan yếu của hồn phù trì (tức hồn tinh thần–ND) là thực hiện điều này, còn hồn trong phàm ngã (tức nhân hồn–ND) không đảm trách việc đó. Trong giai đoạn này, nhân hồn chỉ đáp ứng với lực kéo hay là lực hút của hồn tinh thần, khi hồn này – với ý định có cân nhắc – kéo nhân hồn ra khỏi các lớp vỏ đang cầm giữ nhân hồn. Sau này, khi các diễn trình tiến hóa nối tiếp và linh hồn ngày càng kềm chế phàm ngã thì chính hồn nằm trong các lớp vỏ cầm giữ này sẽ tạo ra – một cách hữu thức và có chủ tâm – các giai đoạn từ trần. Trong các giai đoạn trước, việc siêu thoát này xảy ra với sự trợ giúp của hồn tinh thần đang phù trì. Về sau, khi con người sống trên cõi trần với tư cách là linh hồn, y sẽ – với sự liên tục toàn vẹn của ý thức – chính mình xúc tiến các tiến trình trừu xuất (tách ra) và lúc bấy giờ sẽ (với mục đích đã định) “thăng lên đến chỗ mà từ đó y xuất phát”. Đứa Con hoàn thiện về với Thượng Đế. (CTNM, 408–410)
+ Lúc Lâm Chung: Thường một người vừa nằm xuống ra đi, có 3 dấu hiệu như sau:
1/ Cặp mắt, khi mà họ nhắm lại một cách nhẹ nhàng vô cùng thì tức là: Mắt liên quan tới cái gan, là phần hồn (soul), phần tâm linh của mình - Yên ổn thì mắt nhắm lại...
2/ Miệng: Miệng dính với Thổ, Thổ tức là thận, tỳ và ý chí (intention). Miệng để nói chuyện và chứa đựng. Tư tưởng nói ra đó thì gọi là bằng lời. Thường hễ mà lời lành cần nói mình đã nói đủ, lời hứa đã làm, lời tha thứ cần nói thì đã nói xong, lời thương yêu nói xong rồi thì thường thường miệng mình đóng lại, không mở.
3/ Hiện tượng ở tay: Nhiều khi tay nắm lại, co quắp. Nếu tay mở ra, hạ xuống thì thường là một điều rất tốt là vì tay thuộc về thủy (chứ không phải thuộc về kim). Những việc cần làm mình làm xong rồi, những việc tốt mình đã làm xong rồi. (Mời xem đầy đủ tại nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Đời sống sau khi chết:
Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Hãy trở lại vấn đề các thiên thần, họ còn ảnh hưởng gì đến đời sống con người nữa không ?
- Các thiên thần ít khi nào can thiệp vào đời sống con người. Thật ra, họ vô cùng bận rộn với các sinh hoạt riêng biệt. Thế giới của họ cấu tạo bằng các
nguyên tử thanh, nhẹ, có sức rung động rất nhanh, nên họ không thích dính dáng vào thế giới hữu hình, vốn có những rung động thô kệch. Điều này có
thể ví như các ông đang sống ở một nơi mát mẻ, sạch sẽ, không lý nào lại chui vào chỗ hôi hám, nóng bức làm gì.
Giáo sư Allen tò mò :
- Ông có thể sử dụng khả năng thần nhãn vào các việc khác như thế giới bên kia cửa tử được không ?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười :
- Bạn mến, trước hết tôi xin xác định rằng chết không phải là hết, mà chỉ là một giai đoạn di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này thôi. Sự chết không có gì đáng sợ như người ta vẫn nghĩ.
- Như thế người chết có thấy chúng ta không ?
- Họ nhìn thấy chúng ta qua thể vía mà thôi. Do đó, họ biết được tình cảm hoặc ý nghĩ, cảm xúc của ta mặc dù họ không còn nghe được lời nói, âm
thanh cõi trần nữa.
- Như vậy họ vẫn ở gần người sống ?
- Lúc mới từ trần, còn quyến luyến, họ vẫn ở nguyên chốn cũ, gần nhà cửa, gia đình, những người thân. Theo thời gian, họ ý thức được cõi giới mới rồi siêu thoát, nghĩa là hoà nhập với cõi giới mới, không quanh quẩn ở cõi trần nữa. Sự quyến luyến rất có hại cho người chết, nhất là những người chết bất đắc kỳ tử. Họ còn nhiều dục vọng, ham muốn, nên cứ quanh quẩn ở cõi trần, không chịu đi đâu hết.
- Số phận trẻ em khi chết ra sao ?
- Chúng ít ham muốn, dục vọng, nên thảnh thơi, tự tại hơn. Lúc đầu chúng vẫn quanh quẩn, nô đùa quanh cha mẹ, và không ý thức sự chết của mình.
Chúng tái sinh rất mau lẹ và thường hay trở lại gia đình cũ vì các nhân duyên từ trước. Thí dụ như một bà mẹ xẩy thai do sự bất cẩn của bác sĩ chẳng hạn.
Đứa bé vẫn tiếp tục quanh quẩn bên mẹ chúng và sẽ đầu thai trở lại khi có dịp. Trong trường hợp phá thai lại khác, đứa bé không hiểu tại sao mẹ nó lại
ghét chúng và làm hại nó như thế ? Nó quanh quẩn gần đó một cách đáng thương và tìm cách hỏi mẹ chúng nhưng dĩ nhiên không tìm được câu trả lời. .......
Chương IX - Cõi vô hình
Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình.
Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau.
Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tuỳ theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tuỳ theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tuỳ theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tuỳ theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những
loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thoả mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tuỳ theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. .....
Mời xem trong sách Hành trình về phương đông - Chương 8: Cõi giới vô hình
+ Sự chết: Công việc của Thượng Đế Ngôi Hai chấm dứt và công cuộc hoá thân thiêng liêng của Ngôi 3 - Ngôi Con kết thúc. (LVLCK, 168)
+ Chết: Là sự triệt thoái ra khỏi tim và đầu, 2 luồng năng lượng – giác tuyến và sinh mệnh tuyến – do đó tạo ra sự mất ý thức hoàn toàn và sự tan rã của thể xác. (CTNM, 454)
+ Chết là sự triệt thoái một cách hữu thức hay vô thức của thực thể sinh động bên trong ra khỏi lớp vỏ ngoài của nó, sự tương ứng sinh động bên trong của nó, và sau cùng, chính là sự từ bỏ của thể tinh anh hay các thể tùy theo trình độ tiến hóa của con người. (CTNM, 478)
+ Sự chết chỉ là giải thoát cho linh hồn ra khỏi các xiềng xích nặng nề nhất, là việc hóa sinh vào một sự sống bao la hơn, một sự trở về trú sở đích thực của linh hồn sau cuộc sống tha hương ngắn trên cõi trần, một sự chuyển đổi từ bầu khí ngục tù sang bầu khí tự do khoáng đạt hơn. Sự chết là ảo tưởng lớn nhất trong số các ảo tưởng ở cõi trần. Không có sự chết mà chỉ có các thay đổi trong các điều kiện sống. Sự sống vẫn liên tục, không gián đoạn, không đứt đoạn; “bất sinh, vĩnh hằng, có tự nghìn xưa, thường tồn”. Sự sống không bị hủy diệt cùng với sự hủy diệt của các thể bao phủ nó. Cho rằng linh hồn bị hủy diệt khi thể xác tan rã thì cũng như nghĩ rằng bầu trời sập xuống khi cái lọ bị vỡ. (MTNX, 174)
+ Xem: Luân hồi - Chết và Tái sinh (Nói về việc Tu thập thiện nghiệp với nhân quả của việc chết và tái sanh. Việc tái sanh phụ thuộc rất lớn vào Nghiệp chướng và Tâm thức con người tại thời điểm lúc chết rất quan trọng)
+ Chết uổng: Đức Phật dậy 9 cái chết uổng. (Nguồn: Kinh Công Đức Dược Sư Phật_Trang 351/ 389)
+ Xem thêm: Phật giảng về cái chết đúng thời và phi thời .... (Nguồn: Văn Thù Tạp Vấn Phật)
+ Chuẩn bị cho cái chết để tái sinh:.... Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng rằng bất cứ một hiện tượng cấu hợp nào cũng đều là vô thường. .... Ngày nay thì khoa học và kỹ thuật có thể sử dụng các phương pháp thực nghiệm để chứng minh điều đó một cách dễ dàng.
Đối với một người chấp nhận sự tái sinh thì khi cái chết gần kề sẽ hiểu rằng tâm thức của mình sẽ rời bỏ cơ sở vật chất của nó. .... Có phải là thân xác mình, của cải, gia đình, danh vọng hay uy quyền...? Tất cả những thứ ấy không có một giá trị nào cả, vì người sắp ra đi sẽ bỏ lại tất cả những thứ ấy.
Chỉ có dòng tiếp nối liên tục tâm thần là tồn tại và những gì mà nó có thể mang theo là những vết hằn (của nghiệp) đã in sâu vào nó. Những gì tiếp tục tồn tại và kéo dài từ kiếp sống này sang kiếp sống khác trên dòng liên tục tâm thần chính là nghiệp của chúng ta.
Chúng sẽ phải chết bởi vì chúng ta là những hiện tượng cấu hợp, tạo ra từ sự kết hợp của nhiều thành phần, sự kết hợp ấy liên hệ đến một số nguyên nhân và điều kiện nào đó. Trong từng giây phút một, các cấu hợp biến đổi không ngừng, và các biến đổi ấy một lúc nào đó sẽ kết thúc bằng một hiện tượng mà người ta gọi là cái chết. (Nguồn: Chuẩn bị cho cái chết... )
+ Hiểu về cái chết - Hiểu về sự chết - Chuẩn bị cho cái chết để tái sinh hay tái sanh tốt đẹp hơn
Tất cả chúng ta đều biết rằng cái chết là một cái gì đó chúng ta sẽ gặp vào cuối chu kỳ sống ở cõi trần của mình. Nhưng nhiều người tránh nói về cái chết hoặc nghĩ về nó, cho đến khi họ hoặc một thành viên gia đình hoặc người bạn gần gũi đang cận kề cái chết. Chủ đề về cái chết có thể đáng sợ đối với nhiều người. Video này hy vọng sẽ cung cấp một vài sáng tỏ về cái chết, và hiểu hơn quá trình làm thế nào chúng ta có thể chết một cách tốt đẹp. Cũng hy vọng rằng thông qua sự hiểu biết này, chúng ta có thể đạt được nhiều hơn sự bình an trong trí, sự thoải mái và yên tâm. Chúng ta cũng chiếu ánh sáng vào sự chết để giúp đời sống hiện tại của chúng ta trên Trái Đất trọn vẹn và vui vẻ hơn. (Nguồn: Xem Clip giảng về hiểu về cái chết và chuẩn bị tái sinh (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tôi (Chân Sư DK) nói về Cái Chết như là một người hiểu biết vấn đề từ cả kinh nghiệm về thế giới bên ngoài lẫn sự biểu hiện của đời sống nội tâm:
− Không hề có cái chết nào cả. Như bạn biết, chỉ có sự tiến nhập vào sự sống sung mãn hơn. Có sự giải thoát khỏi các cản trở của hiện thể nhục thân. Diễn trình giằng xé quá khủng khiếp như thế không có, ngoại trừ trong các trường hợp của cái chết dữ dội và cái chết đột ngột, lúc đó có các khó chịu thật sự duy nhất là một cảm giác ngắn ngủi và lấn át về tình trạng nguy hiểm và sự hủy diệt sắp xảy ra, và một cái gì đó rất giống như một cú sốc điện. Không còn gì nữa.
Đối với người kém tiến hóa, cái chết thật ra là một giấc ngủ và một lãng quên, vì thể trí không đủ thức tỉnh để phản ứng, và kho ký ức cho đến nay thực tế là trống rỗng.
Đối với công dân tốt lành bậc trung, cái chết là một sự tiếp tục của diễn trình sinh hoạt trong tâm thức của y và là một sự sang trang của các mối quan tâm và các xu hướng của cuộc sống. Tâm thức và cảm thức của y cũng vậy và không thay đổi. Y không cảm thấy nhiều sự dị biệt, được chăm sóc chu đáo, và thường không biết là mình đã trải qua giai đoạn chết.
Đối với những kẻ độc ác và ích kỷ một cách tàn nhẫn, đối với kẻ tội phạm, và đối với một số người sống chỉ vì khía cạnh vật chất, điều đó dẫn tới tình trạng mà chúng ta gọi là “lụy trần” (“earth-bound”). Các mắt xích mà họ đã rèn nên với trái đất và khuynh hướng về phía trần gian của tất cả các ham muốn của họ bắt buộc họ vẫn ở gần cõi trần và thúc đẩy sự xếp đặt cuối cùng của họ quanh quẩn nơi cõi trần. Họ tìm kiếm một cách tuyệt vọng và bằng mọi phương tiện có thể có để tiếp xúc trở lại với cõi trần và để tái nhập. Trong vài trường hợp, tình yêu cá nhân quá mạnh đối với những người bị bỏ lại sau, hoặc việc không hoàn thành một bổn phận cấp thiết được thừa nhận đã lưu giữ những người tốt đẹp trong một tình trạng gần như tương tự.
Đối với người có đạo tâm, cái chết là một sự tiến nhập ngay lập tức vào một lĩnh vực phụng sự và biểu lộ mà y rất quen thuộc; và y tức khắc nhận ra là không có gì mới mẻ. Trong những giờ ngủ của mình, y đã phát triển một lĩnh vực phụng sự tích cực và học tập. Bây giờ chỉ là y hoạt động trong đó toàn bộ hai mươi bốn giờ (nói bằng thuật ngữ thời gian cõi trần) thay vì vài giờ thông thường của giấc ngủ của y ở cõi trần.
Theo thời gian qua và trước khi kết thúc thế kỷ sắp tới, cuối cùng cái chết sẽ được xem là không tồn tại theo ý nghĩa mà bây giờ nó được hiểu (LVHLT, 300)
+ Sợ chết: Là do bởi:
1. Nỗi kinh khủng của các diễn tiến tách ra cuối cùng bằng tác động của chính cái chết.
2. Khiếp sợ cái không biết và cái mơ hồ (the indefinable)
3. Hoài nghi về sự bất tử cuối cùng.
4. Lo lắng khi lìa xa những kẻ thân thuộc hay vì bị bỏ lại sau.
5. Các phản ứng xưa cũ đối với những lần chết dữ dội trong quá khứ còn đang nằm sâu trong tiềm thức.
6. Bám víu vào đời sống sắc tướng, vì thoạt đầu đã đồng nhất hóa với nó trong tâm thức.
7. Giáo lý sai lầm cổ xưa về Thiên đàng và Địa ngục, cả hai đều không có viễn ảnh tốt đẹp nào cả. (LVHLT, 300)
+ Chuẩn bị cho lúc sắp chết - Sắp mạng chung: ... Đức Phật bảo: “Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại và vị lai, nếu những chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa.
Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phục v. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài.
Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Lúc sắp mạng chung - Việc cực quan trọng cần làm: ông trưởng giả chắp tay cung kính hỏi Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có chúng sanh nào sau khi mạng chung mà hàng quyến thuộc kẻ lớn người nhỏ, đều vì người chết đó mà tu công đức, cho đến thiết trai, tạo những thiện nhân, thì người chết đó có được lợi ích lớn và được giải thoát chăng?"
Ðịa Tạng Bồ Tát đáp rằng: "Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại cùng vị lai, nương oai lực của Ðức Phật mà lược nói về việc đó.
Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, danh hiệu của một vị Bích Chi Phật, thì bất luận là có tội hay không tội, thảy đều được giải thoát cả."
Lược giảng:
Ông Trưởng Giả Ðại Biện bấy giờ chắp tay cung kính hỏi Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có chúng sanh nào sau khi mạng chung mà hàng quyến thuộc kẻ lớn người nhỏ, đều vì người chết đó mà tu công đức, cho đến thiết trai, làm cơm chay để cúng dường Tam Bảo, tạo những thiện nhân, gieo trồng những chủng tử thiện lành, thì người chết đó có được lợi ích lớn và được giải thoát chăng? Chẳng hay người chết đó có thể đạt được sự lợi ích to lớn, hoặc có thể thoát khỏi mọi nghiệp tội hay không?"
Ðịa Tạng Bồ Tát đáp rằng: "Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại cùng vị lai, nương oai lực của Ðức Phật mà lược nói về việc đó. Tôi sẽ mượn đại oai thần lực của Phật mà nói sơ lược đôi điều về việc đó!"
Quý vị xem! Bồ Tát Ðịa Tạng không nói là dùng sức oai thần của chính mình, mà lại nói là nương vào đại oai thần lực của Phật; đó là vì sao? Ðó là biểu thị lòng tôn kính của Ngài đối với Ðức Phật, và cũng chính vì thế mà lúc nào Ngài cũng nhắc đến Phật trước tiên.
Bồ Tát Ðịa Tạng nói tiếp: "Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, danh hiệu của một vị Bích Chi Phật hoặc Duyên Giác, thì bất luận là có tội hay không tội, thảy đều được giải thoát cả."
Tại sao lúc sắp mạng chung mà nghe được một danh hiệu của Phật, Bồ Tát, hoặc Bích Chi Phật, thì bao nhiêu tội chướng đều có thể tiêu trừ?
Lúc sắp mạng chung tức là lúc mà mạng căn của con người sắp sửa đoạn dứt. Mạng căn vốn do ba yếu tố là "noãn" (hơi ấm), "tức" (hơi thở), và "thức" (sự hiểu biết) hợp lại mà thành; con người chết, tức là mạng căn đứt đoạn. Mạng căn khi đoạn thì đầu tiên là cơ thể mất dần hơi ấm (noãn khí), kế đến là không còn hô hấp (tức), và sau đó là đến lượt thần thức ra đi. Ba thứ "noãn, tức, thức" đều đoạn hết, tức là mạng chung—mạng căn đã đứt, không còn nữa. Có câu:
“Chim sắp chết thì tiếng kêu bi thảm,
Người sắp chết thì lời nói thiện lành.”
(Ðiểu chi tương tử, kỳ điểu dã ai,
Nhân chi tương vong, kỳ ngôn dã thiện.)
Con người, khi sắp chết thì thiên lương trỗi dậy, lương tâm có thể nhận ra được những gì mình đã làm trong suốt một đời này, là đúng hoặc là không đúng. Ðó là một sự "phản tỉnh." Lúc bấy giờ, kẻ lâm chung chân chánh nhìn nhận những việc làm không đúng của mình; do đó mà sanh lòng ăn năn sám hối. Một khi đã khởi tâm sám hối rồi, thì cho dù chỉ nghe thấy danh hiệu của một đức Phật, một tôn Bồ Tát, hoặc một tôn Bích Chi Phật, cũng đều có thể diệt được vô lượng tội chướng, gieo trồng vô lượng thiện căn! Vì thế, lúc sắp mạng chung là một thời điểm tối quan trọng; đồng thời, đó cũng là thời điểm khó phát khởi thiện tâm cầu sám hối nhất!
Vì sao thường ngày chúng ta cần phải niệm Phật? Thường ngày niệm "Nam Mô A Di Ðà Phật," là chuẩn bị cho lúc lâm chung không bị quên mất. Nếu ngày ngày đều niệm Phật, thì đến lúc sắp mạng chung chúng ta sẽ không thể nào quên câu niệm Phật được. Nếu quý vị suy nghĩ một cách đơn giản, cho rằng đợi đến lúc sắp mạng chung rồi hãy niệm Phật, hãy sanh thiện tâm, thì e rằng tới lúc đó mới biết là không dễ dàng chút nào, và cũng đã quá muộn màng! Tuy nhiên, nếu lúc lâm chung mà sanh được thiện tâm thì vô cùng vi diệu— chỉ cần một niệm sám hối là có thể tiêu trừ hết thảy nghiệp tội! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chết trốn đau đớn
Một số đạo sinh bận tâm về việc cố gắng sắp xếp để hợp pháp hóa việc chết trốn đau và thắc mắc về việc đặt mãnh lực của sự sống và cái chết trong tay của người thầy thuốc. Đồng thời họ biết rằng trong đó cũng bao hàm yếu tố nhân đạo trong trường hợp không thể ngưng được sự đau đớn kéo dài. Tôi xin nói: việc nghiên cứu thực hành để chết trốn đau được đưa ra sẽ không thành vấn đề nữa khi có sự liên tục của ý thức (nó phủ nhận cái chết). Điều đó có nghĩa là, do sự tiến hóa của nhân loại, sẽ đến lúc linh hồn biết được rằng kỳ hạn của kiếp sống trần gian chấm dứt và sẽ tự chuẩn bị để triệt thoái ra khỏi hình hài với đầy đủ ý thức. Linh hồn sẽ biết rằng việc phụng sự của hình hài không còn cần thiết nữa và hình hài phải bị vứt bỏ. Linh hồn sẽ biết rằng ý thức về sự hiểu biết của nó đang tập trung trong bản chất trí tuệ hãy còn đủ mạnh và đủ sinh lực để đưa nó vượt qua tiến trình và giai đoạn xuất ra. Khi ý thức đó đã phát triển trong con người và tiến trình xảy ra phải được nhà chuyên môn y khoa và các đạo sinh có kiến thức khoa học về cơ cấu con người nhận biết, thì bấy giờ toàn bộ thái độ đối với cái chết và các diễn tiến của sự chết, đi kèm với nỗi đau đớn, sẽ được thay đổi về mặt vật chất. Lúc bấy giờ, người nào khi đến lúc lìa trần đều có thể có được trong chính mình một vài phương pháp để thoát ra mà theo quan điểm thường nhân, có thể được xem như liên hệ đến việc chết trốn đau. Các cách thức xuất ra (của linh hồn–ND) sẽ được nghiên cứu và áp dụng khi gần đến lúc từ giã cõi trần, và tiến trình sẽ được xem như là sự triệt thoái của linh hồn, như là một tiến trình giải thoát và giải phóng. Thời kỳ đó không còn xa lắm như bạn nghĩ. … Tuy nhiên, khi nào xảy ra cơn đau khủng khiếp và tuyệt đối không có hy vọng trợ giúp thực sự hay là phục hồi, và khi nào bệnh nhân mong muốn (hay nếu bệnh nhân quá yếu và gia đình mong muốn), bấy giờ, dưới các biện pháp an toàn thích hợp, một điều gì đó (something) nên làm. Nhưng việc sắp xếp thời gian ra đi này sẽ không được căn cứ vào tình cảm và vào lòng từ ái, mà là dựa vào sự hiểu biết đúng đắn về các khả năng tâm linh của sự chết (CTNM, 318–320)
+ Các loại chết - Giai đoạn chết:
Chết lần thứ nhất (First death): Cái chết của thể xác (còn gọi “cái chết của thể xác–thể dĩ thái)
Chết lần thứ hai (Second death): Cái chết lần hai có liên quan đến cái chết hay sự tan biến của linh hồn thể vào lúc điểm đạo lần 4. Cái chết này đánh dấu việc hoàn tất của công cuộc kiến tạo giác tuyến và lập được mối liên hệ trực tiếp, thông suốt và liên tục giữa Chân Thần với Phàm Ngã. … “Chết lần hai” được dùng để chỉ cái chết hay sự tiêu tan của linh hồn thể mà từ trước đến giờ, hồn tinh thần đã hoạt động trong đó. Tuy nhiên, nó cũng có thể được dùng một cách sát nghĩa hơn và có thể được dùng để nói tới giai đoạn hai của tiến trình chết trong ba cõi thấp. Do đó, nó chỉ liên quan tới hình hài và được gắn liền với các thể biểu lộ nằm dưới các phân cảnh vô sắc tướng của cõi hồng trần vũ trụ.
Chết lần thứ ba (Third death): Cái chết lần ba xảy ra khi vị đạo đồ, sau rốt và không có triển vọng trở lại, bỏ lại đàng sau mình mọi liên hệ với cõi hồng trần vũ trụ. Tất nhiên cái chết này còn ở xa phía trước đối với tất cả các vị trong Thánh Đoàn, và hiện nay chỉ có thể xảy ra và chấp nhận được đối với một vài vị trong Huyền linh Nội điện ở Shamballa. Tuy nhiên, đó không phải là một tiến trình mà Đức Sanat Kumara sẽ vượt qua. Ngài đã vượt qua sự “chuyển hóa” này nhiều thiên kỷ trước đây, trong kỳ đại biến đã khai mở kỷ nguyên Lemuria và đã được tạo ra bằng kinh nghiệm vũ trụ của Ngài và cần có một dòng năng lượng lưu nhập từ các Đấng ngoài hành tinh. (CTNM, 406–408)
+ A Lại da Thức hay Tàng Thức: Hãy nghe lời giải thích của Bồ tát Thế Thân về A-lại-da thức như sau: “Dòng chảy của các biến cố tâm thần mà bạn trải nghiệm, để lại hạt mầm (chủng tử) của nghiệp trong thức lưu trử nên gọi là Tàng thức (A-lại-da thức). Các hạt mầm được tồn trử trong nhà kho đó cho tới sau cùng, khi hội đủ các điều kiện thích đáng, chúng chín muồi và rồi ảnh hưởng lên các biến cố về sau”. - A-lại-da thức chứa đựng mọi kinh nghiệm trong kiếp sống của mỗi con người và nguồn gốc của tất cả các quan niệm tinh thần. Theo quan niệm của Pháp tướng tông thì A-lại-da thức là nơi tập hợp mọi nghiệp quá khứ rồi tới một thời đểm nhất định, tác động lên kiếp tái sinh. Và cá thể thật ra chỉ là dòng sinh diệt tiếp nối của vô số chủng tử của nghiệp. Do đó, trong ta không có một bản ngã cố định....... (Nguồn: Sự tái sinh của Linh hồn). (Xem thêm Bồ Tát Thế Thân giảng: A Lại Da Thức-Duy Thức Học)
+ Nghiệp thức (Mục 76.- Hiện Hữu - Kinh Tăng Chi Bộ)
1. Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Hữu, hữu, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được xem là có hữu?
- Này Ananda, nếu không có hành động (nghiệp) và sự chín muồi của dục giới thời dục hữu có thể trình bày được không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới thấp kém. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt.
2.- Và này Ananda, nếu không có hành động và sự chín muồi của sắc giới, thời sắc hữu có thể trình bày được không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới bậc trung. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt.
3.- Và này Ananda, nếu không có hành động và sự chín muồi của vô sắc giới, thời vô sắc hữu có thể trình bày được không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới bậc thù thắng. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt.
77.- Tư và Khởi Điểm
1. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
(như kinh trên cho đến) ...
- Như vậy, này Ananda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên tư được an lập, khởi điểm được an lập trong giới thấp kém. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này Ananda, hữu có mặt.
(Đoạn còn lại như kinh trên, chỉ khác "thức" được "tư" và "khởi điểm" thay thế) ...
A- LUÂN HỒI (Incarnation, đầu thai, lâm phàm): X. Định luật luân hồi:
+ Chân Ngã - Linh Hồn - Thức Thứ tám Luân hồi hay incarnating - Reincarnating ego - Luân hồi hay Tái sanh.
+ Chân Ngã luân hồi tức là hồn thiêng (divine soul).
+ Sutratma theo nghĩa đen là Thread Soul (Hồn Dây), đồng nghĩa với Chân Ngã luân hồi (tức là Manas liên kết với Buddhi). (CKMTTL,120,125)
+ Trong 1 kiếp sống: (i) - Con người lại có được một thể xác tiến hoá hơn,(ii)- có tính chất ứng đáp nhiều hơn, (iii)- được điều hợp với một khoá cao hơn, với sự tinh vi và thích hợp hơn, rung động với một mức độ khác hơn. Ba ý tưởng này cần nghiên cứu cẩn thận và quảng diễn một cách hợp lý (LVLCK, 169)
+ Giai đoạn chuẩn bị Luân hồi: Nhân hồn được tái hấp thu vào đại hồn trước khi lại tái luân hồi.… Có ba chủng tử liên quan một cách đặc biệt với các vi tử thường tồn thể xác và thể cảm dục, như thế tạo ra mãnh lực ngũ phân vốn dĩ sẽ tạo ra các sắc tướng
+ Luân hồi, thời gian tạm ngưng: Không hề có sự cố định về thời gian tạm ngưng, đó chỉ là vấn đề nhu cầu của linh hồn mà thôi; (VLH, 199)
+ Người ta cho rằng bí nhiệm ẩn tàng trong 777 lần luân hồi. Con số này đem lại cơ hội cho nhiều suy gẫm. Cần nói rõ rằng đó không phải là con số chu kỳ luân hồi mà con người phải vượt qua nhưng nó nắm giữ chìa khóa cho 3 chu kỳ chính đã nói trước (chu kỳ của Chân Thần, chu kỳ của Chân Ngã, và chu kỳ của Phàm ngã –ND). Trước tiên, con số này áp dụng cho Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống hành tinh chúng ta chứ không phải cho các hành tinh hệ khác. Mỗi Đức Hành Tinh Thượng Đế có con số của Ngài, còn con số của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta ẩn giấu trong 3 con số nói trên, cũng như 666 và 888 nắm giữ cái huyền bí được che giấu của hai Đức Hành Tinh Thượng Đế khác. Số 777 này cũng là số chuyển hóa, vốn là công việc căn bản của tất cả các Hành.
+ Con Người đầu thai luân hồi: Làm sao mà con người trở thành con người? Khi con người được hình thành, thức thứ tám có mặt trước tiên; và khi chết, thì thức thứ tám ra đi sau cùng (HT Tuyên Hóa giảng kinh Phật). THỨC THỨ TÁM Luân hồi: Xem chi tiết tại trang: Tổng hợp về Luân hồi - Chết và Tái sinh
+ Quy luật con người đầu thai: Đại sư Liên Hoa Sanh có khuyên rằng: Trong giờ phút lâm chung hãy buông bỏ mối quan tâm đối với thế giới nầy; hãy buông bỏ sự dính mắc với bất cứ ai mà bạn có mối quan liên mạnh mẽ nhất trong đời nầy........ Hãy nhớ rằng, theo Du Già Sư Địa Luận (Yogacarabhumi) được thánh giả Vô Trước (Asanga) ghi chép lại từ Bồ Tát Di Lặc (Maitreya), thì con người chết đi và đầu thai lại chỉ luẩn quẩn trong vòng những người thân của mình trong vô lượng lần. (Xem nguồn)
+ A Lại Da Thức - Thức thứ 8 DO ĐÂU MÀ CÓ: "Do nương nơi chân mà khởi vọng, nên tánh Như Lai tạng biến thành A-lại-da thức, tức là thức thứ 8, còn gọi là tàng thức. Thức thứ 8 là cơ sở hiện hữu của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức (Thức này phân thành 3 thức 6- 7- 8)..."
Trích giảng giải trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm của HT Tuyên Hóa:
... Mở nút phải theo thứ lớp. Nhất thiết phải theo thứ tự khi mở các nút.
Quý vị sẽ hỏi: “Làm thế nào để mở theo thứ tự từng nút? Nút đầu tiên bị thắt lại như thế nào?”
Để bắt đầu, tánh Như Lai tạng vốn chẳng phải là đối tượng của sinh diệt. Nhưng tối tăm mê muội làm thành hư không (hối muội vi không). Ngay tại đó mà vô minh sinh khởi. Thế nên, mặc dù tánh Như Lai tạng là bất sinh bất diệt, nhưng nương nơi chân mà khởi vọng, theo đó là tâm đối tượng của sinh diệt phát sinh – đó là thức. Thức nầy phân thành thức thứ sáu, thức thứ 7 , và thức thứ 8. Nhưng cội nguồn của thức thứ 8 vốn phát khởi từ vô minh, tạo ra các thứ sinh diệt, lại là tánh của Như Lai tạng, tánh Như Lai tạng nầy lại chẳng phải là đối tượng của sinh diệt. Căn nguyên của nó chính là chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể.
Do nương nơi chân mà khởi vọng, nên tánh Như Lai tạng biến thành A-lại-da thức, tức là thức thứ 8, còn gọi là tàng thức.
Thức thứ 8 là cơ sở hiện hữu của ngũ uẩn - 5 Uẩn gồm: (1. SẮC) - (2. THỌ/ Thứ 5) - (3. TƯỞNG/ Ý thức/ Thứ 6) - (4. HÀNH/ Mạt na Thức/ Thứ 7 - Lập lên Hành Uẩn) - (5. THỨC/ Thứ 8). Do Thức uẩn sinh khởi đầu tiên mà có HÀNH UẨN. Đây là thức thứ 7, tức Mạt-na thức, còn gọi là truyền tống thức. Thức nầy truyền đạt những thông tin từ thức thứ sáu vào thức thứ 8. Chính nó lập nên HÀNH UẨN.
Uẩn tiếp theo là tưởng uẩn; đây là thức thứ sáu, còn gọi là ý thức. Thọ uẩn là một trong năm thức đầu tiên: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức. Thọ uẩn - Tưởng uẩn - Hành uẩn - Thức uẩn (Thức thứ 8), mỗi thứ tương ứng với một nút thắt (Trong 6 nút thắt). Sắc uẩn được kể là 2 nút, vì nó thô trọng hơn (Vậy tổng là 6 nút tương ứng 5 Uẩn: Sắc (2 nút) - Thọ - Tưởng - Hành - Thức). Như vậy, sáu nút bắt đầu với thức thứ 8 và hoạt dụng thông qua thức thứ 7 và thức thứ sáu rồi thông qua năm thức giác quan. Với sự hiện hữu của ngũ uẩn mà ngũ trược được hình thành, tạo ra không biết bao nhiêu chướng ngại.
Nếu chúng ta muốn mở những nút nầy, trước hết, chúng ta phải dừng lại không đuổi theo sắc uẩn nữa. Một khi hai nút nầy đã được mở ra, thì các uẩn khác như thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng được dừng lại, sáu nút đều được mở. “Các nút phải được mở theo thứ tự,” bởi vì sắc uẩn là gồm những nút thô trọng, trong khi những uẩn khác, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là cực kỳ vi tế.
“Thế tại sao chúng bắt đầu sự tạo thành từ bên trong rồi tiến hành sang bên ngoài?” Quý vị sẽ thắc mắc.
Vì thức thứ 8 là thức đầu tiên khởi niệm tưởng phân biệt. Tất cả đều bắt nguồn từ thức thứ 8. Ngũ uẩn và thức thứ 8 kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành nút buộc luân hồi sinh tử. Vì nó bắt đầu từ thức thứ 8, nên khi mở, phải bắt đầu từ sắc uẩn. Thứ tự nầy cũng giống như khi cởi áo quần, phải cởi từ lớp ngoài trước rồi lớp trong. Theo cách nầy, quý vị cởi từng lớp cho đến hết, như các nút được mở ra vậy. Đó là cách giải thích, nhưng thực tế là nếu quý vị cởi được một nút, thì năm nút kia cũng được mở ra luôn.
* Xin lưu ý: Thức A-đà-na rất vi tế, thậm chí còn hơn cả thức thứ 8. Thức A-đà-na còn gọi là ‘Bạch tịnh thức.’ Đó chính là chủng tử thanh tịnh. Thức tinh nhạy và vi tế nầy đặc biệt tạo nên những tập khí cuồn cuộn chảy như dòng nước xiết. Đây chính là cội nguồn luân hồi sinh tử. Ngay khi một niệm hư vọng sinh khởi trong phương diện nhất chân của thức vi tế nầy, thì đó là một niệm vô minh; trở lại, nó khiến cho tập khí cuồn cuộn dấy lên và chảy như dòng nước xiết. Không có gì có thể ngăn cản được dòng tập khí nầy. Dòng nước chảy xiết ở đây dụ cho luân hồi sinh tử của chúng ta. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Thân trung ấm: ... Nhưng nguyên nhân của sự đầu thai như thế nào?
Thật ra chúng sinh trong loài tứ sinh cũng đều do một niệm vô minh mà hình thành. Chúng sinh vì tạo vọng nghiệp nên sau khi chết đi vào thân trung ấm, sắc thân không còn mà chỉ còn ngũ thông nên mắt nhìn thấy rất xa. Do tập khí ái nhiễm nên thần thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu, cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi chiêu cảm cảnh ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình thành.
Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. Bây giờ “tưởng” bám vào tinh cha huyết mẹ mà lập thành chấp ngã. Do “nghiệp ái làm nhân, cảnh ái làm duyên” mà ở trong thai bảy ngày nên gọi là yết-ma-lam. Được hai tuần thì bào thai gọi là Át-bồ-đàm. Ba tuần thì gọi là Tế-thi. Kiện nam là bốn tuần và Bát-la-xa là hình thể khoảng 35 ngày. Sau 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ. (Nguồn: Kinh Thủ LN_HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thân trung ấm: Trước khi thức thứ tám ra đi, thân thể con người vẫn còn hơi ấm. Khi thức thứ tám đi rồi, thân xác trở nên lạnh. Khi thức thứ tám ra đi đầu thai, nó trở thành thân trung ấm.[13] Nếu đầu thai làm người, thì thân trung ấm có hình tướng người; nếu đầu thai làm súc sinh, thì thân trung ấm có hình tướng súc sinh. Giống như được mô phỏng từ một cái khuôn. Bất luận có ở nơi xa với cha mẹ trong tiềm thức bao nhiêu, thức thứ tám nầy cũng tìm đến được nếu nó có nhân duyên với họ. Đối với thân trung ấm, mọi thứ đều là một màu đen tuyền. Chúng ta có được ánh sáng đèn điện, ánh sáng mặt trời, mặt trăng; nhưng thân trung ấm thì không thấy được các thứ ánh sáng ấy. Nó chỉ thấy được một màu đen như mực. Thế nên khi cha mẹ trong tiềm thức của nó giao cấu nhau, nó sẽ thấy được một chút ánh sáng nhỏ như đầu kim loé lên, bởi vì nó có mối tương quan với họ. Soi rõ sự thấy thì có cái tưởng. Ngay lúc thấy ánh sáng loé lên, thì cái tưởng liền hiện hữu. Tưởng điều gì? Suy nghĩ, phân biệt. Ý kiến khác nhau thành có cái ghét. Khi người ta không đồng quan điểm với mình, thì mình ghét họ. Cái tưởng đồng nhau thành có luyến ái. Khi có người dù có những sai lầm giống như mình, mình cũng yêu thích họ.
Nếu thân trung ấm là nam, nó sẽ yêu mẹ mà ghét cha. Nó sẽ có ý muốn đánh đuổi cha nó đi để lấy mẹ nó. Nó muốn giao hợp với mẹ nó. Thế nên cội nguồn xuất phát của con người rất là tồi tệ. Yêu mẹ nó và ghét cha nó, bằng một niệm vô minh như vậy, nó liền nhập vào thai mẹ. Lưu giữ tính ái thành có chủng tử, thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai.
Nếu thân trung ấm là nữ, nó sẽ yêu cha và ghét mẹ. Đó là cách hình thành niệm tưởng....
“Tưởng” ở đây là chỉ cho thức thứ tám– tức là thân trung ấm....
“Vô minh duyên hành.” Hành ở đây chính là sự giao cấu.
“Hành duyên thức.” Tức là thức thứ tám được đề cập ở đoạn kinh trên, “thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai.” Thức chính là thân trung ấm nhập vào bào thai. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương I)
+ HỎI: Khí là gì?
ĐÁP: Khí là một luồng linh khí cũng tức là ‘tánh’. Đây cũng giống như khi nấu nước sôi thì có một luồng khí vậy. Con người chúng ta cũng có một luồng hơi nóng bên trong. Cho nên nếu đem máu của con người ra đo, nó đều có độ nóng là 36 độ C và đa số mỗi người đều là như vậy. Còn máu lạnh thì sao? Thì biến thành động vật máu lạnh, tức là không có tình cảm gì.
Cho nên quỷ thì không có tình cảm chi hết. Đối với ai, nó cũng không có bày tỏ sự thân tình gì hết. Lúc ở nhân gian, quý vị là anh em thân thuộc của nó, nhưng khi nó chết, nó chuyên môn muốn chấn chỉnh quý vị, muốn hại quý vị. Tại sao? Đó chính là vì giữa người và quỷ có sự tương phản trái ngược nhau. Thành thử con người thì muốn tương thân giúp đỡ lẫn nhau, còn quỷ thì tật đố ganh ghét lẫn nhau.
HỎI: Mèo và chuột là gì?
ĐÁP: Mèo và chuột thuộc về yêu quái. Buổi tối chúng mới ra nhìn ngó lung tung, đặc biệt là chúng thích ở những chỗ người ta ngồi thiền. Nếu nhà ai có chuyện hung dữ chẳng lành thì có rất nhiều chuột xuất hiện. Quý vị càng sợ, nó càng mặc sức trổ tài. Do đó mọi người phải tu định, chỉ cần mình có định, bất luận là hung thần ác sát gì cũng đều co đầu rút cổ. Mèo, có lúc thấy là mèo, nhưng thật tế nó là quỷ. Chuột là yêu quái, chúng chạy lung tung khắp nơi, nhưng đừng để chúng nó hù dọa mình. Nếu ta không để ý đến chúng thì chúng cũng hết cách, cũng không thể trổ tài gì. Còn mình mà càng sợ chúng thì chúng càng gây thêm phiền phức.
HỎI: Tại sao có bào thai độc?
ĐÁP: Điều này có liên quan đến thai giáo (giáo dục khi mang thai). Thai độc thì tệ hại lắm, không dễ gì chữa trị đâu.
Khi nam nữ không theo quy củ nề nếp, thì sanh ra con cái bị nổi nhọt độc khắp thân mình. Cha mẹ mà có tâm dâm dục nặng nề, thì sanh ra em bé dễ bị mắc phải các thứ ung nhọt. Vì vậy người nữ sau khi mang thai thì vợ chồng nên chớ gần nhau. (Nguồn: links: https://www.dharmasite.net/.../Gay-Kim-Cang-Het_Quyen-3...)
+ Tập khí nghiệp - Nghiệp kết tập sâu nặng:
“Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng.” “Kết” tức là dồn lại, kết dính lại với nhau. Nghiệp từ đời trước liên kết với nghiệp của đời này, nghiệp của đời này lại dây dưa liên lụy tới đời sau—đời đời kiếp kiếp, các nghiệp báo này nối kết nhau liên miên không dứt, giống như sợi dây kết liền thành một mối vậy; nên gọi là “kết ác tập nặng.” Những “ác tập” (thói quen xấu ác) này là những gì? Có mười tập khí xấu ác gọi là Thập Ác Tập:
1) Dâm dục. Thói xấu thứ nhất là dâm dục. Tất cả chúng sanh đều như nhau—ai nấy đều có lòng dâm dục. Ðây là mối phiền toái thứ nhất, cũng là điều rất khó đoạn trừ. Việc đoạn dứt dâm dục còn khó hơn lên trời nữa! Do đó, nếu chúng ta điều phục được lòng dâm dục—tức là người nữ thấy người nam thì không khởi tâm ham muốn, và người nam thấy người nữ thì chẳng sanh lòng tà vạy—thì gọi là “hàng hổ” hoặc “phục hổ,” tức là đã đánh thắng loài cọp dữ, khiến chúng phải đầu hàng quy phục. Lại thêm, nếu chúng ta cũng không còn phiền não, thì có thể nói rằng chúng ta đã hàng phục được cả loài rồng rồi vậy. Phiền não vô minh thì giống như con rồng vậy—rồng có khả năng biến hóa vô cùng, không thể đoán trước được lúc nào nó sẽ thình lình xuất hiện.
Vậy, việc phải làm trước nhất là đoạn trừ lòng dâm dục. Qua sự việc này có thể thấy được quý vị có công phu tu hành, có đạo đức, có thật sự dụng công hay không. Quý vị có thể tự thử nghiệm chính mình, tự tìm hiểu chính mình. Nếu quý vị đã đoạn trừ được dâm tâm rồi tức là quý vị có công phu tu tập; lòng dâm chưa dứt thì quý vị vẫn còn lậu thoát. Cho nên, tu “vô lậu” tức là dứt bỏ lòng dâm dục—còn dâm tâm là còn “hữu lậu,” hết dâm tâm mới là “vô lậu.”
2) Tham. Ác tập thứ hai là tham lam. Vì sao có lòng dâm dục? Chính là vì có lòng tham—ham muốn cảm giác, khao khát thỏa mãn dục niệm của chính mình.
3) Mạn. “Mạn” tức là kiêu mạn, và đây là thói xấu thứ ba. Thế nào gọi là “kiêu mạn”? Bản thân mình vốn chưa hẳn là thông minh hơn người, nhưng lúc nào cũng cho rằng mình thông minh xuất chúng, khinh thường tất cả những người khác, đến đâu cũng muốn mình là “số một”; đó chính là lòng kiêu mạn đang tác quái!
4) Sân. Ðây là thói xấu thứ tư. Kẻ mang lòng sân hận thì đối với bất cứ ai cũng sanh tâm oán ghét, lúc nào cũng hằn học: “Mày không tốt với tao, tao phải tìm cách giết mày để báo thù!”
5) Trá. Ác tập thứ năm là “trá,” tức là xảo trá, lường gạt, làm những việc giả dối hư ngụy.
6) Cuống. “Cuống” tức là nói dối, vọng ngữ. “Trá” tức là bản thân vốn là người xấu, song bề ngoài lại làm ra vẻ người tốt, khéo che đậy khiến kẻ khác không nhận ra được. Còn “cuống” tức là nói dối, bịp bợm, nói sai sự thật, bất cứ chuyện gì cũng nói dối một cách trơn tru, trót lọt được cả.
7) Oán. “Oán” tức là việc gì cũng oán trách người khác; rõ ràng là mình sai, là lỗi của mình, nhưng lại đổ lỗi cho người khác: “Nếu hắn không bảo tôi làm như thế thì tôi đâu có làm. Chuyện này không thể trách tôi được. Ðó là lỗi của hắn. Hắn mới là người có lỗi.” Cho nên, kẻ ôm lòng hờn oán thì bất cứ tội lỗi gì cũng trút lên đầu lên cổ người khác cả!
8) Tà kiến. Ðây là thói xấu thứ tám. “Tà kiến” tức là tà tri tà kiến, cái nhìn sai lầm hoặc sự hiểu biết lệch lạc, dẫn dắt con người đi vào con đường bất chánh, tà vạy.
9) Uổng. “Uổng” có nghĩa là cong vạy, không ngay thẳng.
10) Tụng. Ác tập thứ mười là tố tụng, tức là thích kiện cáo, tranh cãi hơn thua. Có những kẻ vốn sai quấy, có lỗi, thế mà lại muốn kiện cáo, thưa với quan tòa là lỗi của người khác, rồi buộc đối phương phải bồi thường tiền bạc cho mình. Nói tóm lại, bản thân mình vốn là vô lý mà lại vu khống, tìm cách làm cho người khác bị hàm oan, đó gọi là “tụng.”
Mười thói quen xấu hay Mười Ác Tập này trong Kinh Lăng Nghiêm (quyển tám) gọi là Mười Tập Nhân, tức là mười nguyên nhân tập khí xấu dẫn đến các quả báo khổ sở trong sáu đường (Lục Giao Báo). Chính vì chúng sanh tiêm nhiễm mười tập khí này nên nói là “kết ác tập nặng.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
A- KIẾN THỨC CHUNG
+ Nghiệp và Thời gian là hai từ có nhiều đồng nghĩa (Chân Sư DK).
+ Lá số sinh lập theo thời gian là cơ sở để dự đoán số mệnh bằng các phương pháp khác nhau. Nếu người thầy có đủ Tâm và tầm thì dù dự đoán bằng phương pháp nào, thường đều cho kết quả như nhau, không mấy khác biệt. Người dự đoán chẳng qua là tìm thời điểm mà "Nghiệp" hay Năng lượng vũ trụ tương tác tại các thời điểm khác nhau, gây ra các kết quả khác nhau, mà người nào mà trong mệnh vận có cùng năng lượng, thì chịu tác động và gây ra các kết quả khác nhau.
+ Phân nhóm/ Loại người: Theo trình độ tiến hóa gồm Người kém phát triển/ Trung bình/ Trên trung bình - Trí nguyện/ Người tiến hóa/ Thánh nhân..(Nguồn)
+ Xem số qua sự phát triển của Tâm thức: 3 trình độ: Phàm ngã/ Linh Hồn/ Tinh Thần. Ảnh hưởng của cung hoàng đạo và hành tinh ở 3 cấp độ này - Ba Cung tối quan trọng: Mặt Trăng - Mặt Trời - Cung Mọc để ước định công việc sẽ được thực hiện trong tâm thức mỗi kiếp sống.
- Với Tâm thức: Năng lượng dẫn truyền qua các Cung Hoàng và Hành tinh và chức năng tiến hóa Tâm Thức của các Cung Hoàng Đạo với Người thường/ Chí nguyện (Đệ Tử) / Điểm Đạo Đồ, với sự chỉ dẫn của các Kỳ Công, ta có thể dự đoán.... + Các Cung Hoàng Đạo biểu hiện 3 Cấp Độ Tâm Thức (Chiêm THNM, 332)
+ Chín loại năng lượng vũ trụ, các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người; (Chiêm THNM, tr 24-26).
+ Biết vận mệnh: Nhờ môn chiêm tinh học, y có thể tìm ra vận mệnh của mình và biết những gì y nên làm. (CTHNM, 11)
+ Số phận và Định mệnh: Các ảnh hưởng của Hành tinh cho thấy, với người bình thường và kém tiến hóa, khi lý giải đúng, các ảnh hưởng đó có thể và chắc chắn báo hiệu số phận và định mệnh của phàm ngã (CTHNM, 24)
+ Các nội dung chính về xem số mệnh: - Đoán về bản thân: Xuất thân - Tướng mạo - Sức khỏe - Bệnh nạn - Đạo đức - Trí tuệ và sự tiến hóa của Tâm thức - Tiền tài, danh vọng, chức vụ .... - Đoán về gia đình: Dự đoán tham khảo về vinh nhục của dòng tốc, Sức khỏe hay nghề nghiệp, bệnh nạn hay thọ yểu của bố mẹ...... - Đoán về quan hệ gia đình và xã hội: Khả năng khôn khéo trong giao tiếp, ứng sử trong gia đình và ngoài xã hội, bàn bè thân hữu, làm việc tập thể ....
- Xem số mệnh để Cải mệnh làm cuộc sống tốt đẹp hơn: Có nhiều phương pháp để cải mệnh. Nhưng mạnh mẽ và hữu hiệu và nhiệm mầu nhất là bạn nên Tu hành theo Phật dậy. Thường thực hành Thập thiện nghiệp đạo, thực hành bố thí phóng sinh để có sức khỏe, không bệnh và sống thọ. Bố thí Pháp (Kinh Phật) và chi tiền tài để tạc tượng, đúc chuông để có trí tuệ và được làm vương giả; Bố thí tiền tài và thực phẩm, đồ ăn, thức uống, đồ dùng ... cho tăng ni phật tử và các chúng sinh để được giầu sang phú quý muôn đời.....
+ Biết trước thời điểm chết: Thông tin tham khảo - Google đã phát triển được thuật toán trí tuệ nhân tạo (AI) có thể dự đoán chính xác tới 95% khi nào bạn sẽ chết. Họ sử dụng dữ liệu của bệnh viện để dự đoán cho bệnh nhân (Xem trên ở Google)
B- CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰ ĐOÁN SỐ MỆNH QUA LÁ SỐ SINH
+ Dự đoán về Tâm Tính/ Đức Tính thiện lành theo Phật giáo:
- Căn cứ vào Tooltip "Lợi ích của người tu tập theo Thập thiện", và
- Căn cứ vào Bát tránh đạo để đánh giá người có các đức tính thiện lành, và
- Căn cứ Tooltip "người đại thiện" theo Đức Phật dậy
=> Làm căn cứ dự đoán số mệnh (Nguồn: Kinh thập thiện)
- Căn cứ vào Tooltip "Sửa tâm tính hay Tính cách hay Nhân cách" để dự đoán hay giúp người sửa tính cách
+ Cắn Cứ Ngũ hành Âm Dương và Mười Thần trong Dự đoán Tứ trụ để suy đoán
+ căn cứ vào các Cung Mặt Trăng, Mặt Trời, Cung Mọc và các hành tinh trong Lá số Chiêm tinh để dự đoán tính cách
+ Ba loại lĩnh vực biểu lộ trong Lá số sinh cho 3 nhóm người:
(1)- Thuần về vật chất bàn đến thể xác và Dĩ thái;
(2)- Chủ yếu về tình cảm, bàn đến tính chất của phàm-ngã và tính nhạy cảm của nó, hoặc trạng thái của ý thức;
(3)- Sẽ là biểu đồ về các xung lực và các tình trạng trí tuệ. - Nghiên cứu 3 biểu đồ này rất hữu ích, khi xếp chồng lên nhau sẽ cung cấp sơ đồ phàm-ngã, mô hình sự sống cá nhân (Chân Sư DK_CTHNM 7)
+ Là lá số vào thời điểm một người sinh ra: Nó bao gồm vị trí của các hành tinh của hệ mặt trời, mặt trời, Mặt trăng, các dấu hiệu của vòng hoàng đạo trên bầu trời. Người ta còn đưa vào lá số sinh các ngôi sao cố định, các tiểu hành tinh của hệ mặt trời như Chiron… Trên là số sinh, vòng tròn ngoài cùng chứa các cung hay dấu hiệu Hoàng Đạo, vòng tròn giữa là các nhà và các hành tinh được vẽ trong đó. Vị trí của các hành tinh (gồm cả mặt trời và Mặt trăng) được xác định so với dấu hiệu hoàng đạo.Xem mục Lá số sinh
+ Lá số Chiêm tinh/ Tử vi: Là hình ảnh của bầu trời (Các Hành Tinh, Ngôi sao) nhìn từ Trái đất, mặt hướng về Phương Nam (CTHNM1).
I- XEM QUA LÁ SỐ TỨ TRỤ (Phương pháp xem theo Công truyền/ Ngoại môn)
Lá số Tứ trụ lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì theo tiết khí - Theo Mặt trời
II- XEM QUA LÁ SỐ TỬ VI (Phương pháp xem theo Công truyền/ Ngoại môn)
Lá số Tứ trụ lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì theo theo Mặt trăng là chủ yếu.
III- XEM CHIÊM TINH QUA LÁ SỐ SINH:
+ Xem Nội môn hay Ngoại môn đề dùng chung 01 Lá số chiêm tinh, nhưng cách giải thích khác nhau (Nguồn)
+ Xem chiêm tinh có hai cách: (i) - Theo Công truyền/ Ngoại môn; (ii) Theo Bí truyền hay Nội môn. Cụ thể:
IV- CÁC PHƯƠNG THỨC XEM KHÁC: Còn nhiều cách xem số mệnh khác
+ Nhân nào quả đấy: ... Này bốn ông Thiên Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng:
Nếu gặp kẻ sát sanh, thì dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải chết yểu.
Nếu gặp kẻ trộm cắp, thì dạy rõ quả báo bần cùng khổ sở.
Nếu gặp kẻ tà dâm, thì dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.
Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.
Nếu gặp kẻ hay hủy báng, thì dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.
Nếu gặp kẻ nóng giận, thì dạy rõ quả báo xấu xí, bệnh hoạn, tàn tật.
Nếu gặp kẻ bỏn xẻn, thì dạy rõ quả báo sở cầu không toại nguyện.
Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ, thì dạy rõ quả báo đói, khát, cổ họng đau đớn.
Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung, thì dạy rõ quả báo kinh cuồng, mất mạng.
Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ, thì dạy rõ quả báo trời đất đánh chết.
Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cối, thì dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.
Nếu gặp kẻ làm cha mẹ trước hoặc cha mẹ sau mà độc ác, thì dạy rõ quả báo sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.
Nếu gặp kẻ đặt lưới, giăng bẫy để bắt các sinh vật còn non yếu, thì dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.
Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thì dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.
Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.
Nếu gặp kẻ phá hoại của Thường Trụ, thì dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.
Nếu gặp kẻ ô nhục phạm hạnh và vu báng Tăng Già, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.
Nếu gặp kẻ làm bỏng, đốt, chém, chặt, hoặc đả thương sinh vật, thì dạy rõ quả báo phải luân hồi đền trả lẫn nhau.
Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thì dạy rõ quả báo làm thân cầm thú đói khát.
Nếu gặp kẻ phá hủy vật dụng một cách phi lý, thì dạy rõ quả báo mọi sở cầu đều thiếu hụt.
Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao, thì dạy rõ quả báo làm nô dịch hèn hạ.
Nếu gặp kẻ nói hai lưỡi gây xích mích, thì dạy rõ quả báo không lưỡi hoặc trăm lưỡi.
Nếu gặp kẻ tà kiến, thì dạy rõ quả báo thọ sanh ở vùng biên địa. (Nguồn: Kinh Địa Tạng)
+ 439. NGHIỆP HIỆN TẠI LÀ DO CHÍNH MÌNH TẠO
Ma Mạp nên biết,
Tạo tác nghiệp tương xứng với đoản thọ, tất chịu đoản thọ.
1) Tạo nghiệp tương xứng với trường thọ, tất được trường thọ.
2) Tạo tác nghiệp tương xứng với nhiều tật bệnh, tất phải chịu nhiều tật bệnh.
3) Tạo tác nghiệp tương xứng với ít tật bệnh, tất được ít tật bệnh.
4) Tạo tác nghiệp tương xứng với sự không đoan chánh, tất phải thọ sự không đoan chánh.
5) Tạo tác nghiệp tương xứng với đoan chánh, tất được đoan chánh.
6) Tạo tác nghiệp tương xứng với không oai đức, tất phải chịu không oai đức.
7) Tạo tác nghiệp tương xứng với oai đức, tất được oai đức.
8) Tạo tác nghiệp tương xứng với dòng dõi ti tiện, tất phải sanh nhằm dòng dõi ti tiện.
9) Tạo tác nghiệp tương xứng với dòng dõi tôn quý, tất được sanh vào dòng dõi tôn quý.
10) Tạo tác nghiệp tương xứng với không của cải, tất bị không của cải.
11) Tạo tác nghiệp tương xứng với nhiều của cải, tất được nhiều của cải.
12) Tạo tác nghiệp tương xứng với trí tuệ kém cỏi, tất bị trí tuệ kém cỏi.
13) Tạo tác nghiệp tương xứng với trí tuệ tốt đẹp, tất được trí tuệ tốt đẹp.
Chúng sanh do hành nghiệp của chính mình, do nghiệp mà thọ báo, duyên nơi nghiệp, tùy theo nghiệp xứ cao thấp mà chúng sanh có tốt đẹp hay không tốt đẹp. (Nguồn: mục 439- Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Bát Chánh Đạo chỉ là một trong rất nhiều Pháp Tu Đạo Bồ Tát/ Thánh Đạo
Người tu Thánh Đạo theo các pháp sau:
- Tu “Nhẫn nhục” để có đầy đủ các tướng tốt.
- Tu “Tinh tấn” để phá trừ ma oán, sớm thành Phật.
- Tu “Thiền định” nên có thể sinh khởi pháp lành.
- Tu “Trí tuệ” để dứt bỏ vọng kiến phân biệt.
- Tu “Tâm từ” để chẳng khởi phiền não, làm hại.
- Tu “Tâm bi” để thương yêu các chúng sinh.
- Tu “Tâm hỷ” để diệt trừ tâm ganh ghét đố kị.
- Tu “Tâm xả” để được tĩnh tại, không yêu ghét...
- Tu “Tứ nhiếp pháp” để có thể giáo hóa chúng sinh.
- Tu “Tứ niệm xứ” để thành tựu pháp quán tứ niệm xứ.
- Tu “Tứ chánh cần” để đoạn trừ tất cả pháp bất thiện.
- Tu “Tứ thần túc”, đẻ thân tâm nhẹ nhàng, thư thái.
- Tu “Năm căn”, để có lòng tin vững chắc, siêng năng, không mê mờ, vọng động, luôn tĩnh lặng, thuần hòa dứt các phiền não.
- Tu “Năm lực”, để mọi thù địch đều diệt hết, không bị phá hoại.
- Tu “Bảy giác chi”, để khéo giác ngộ tất cả các pháp.
- Tu “Tám Thánh Đạo”, để có trí tuệ chân chánh, luôn hiện ra.
- Tu “Pháp chỉ”, để có năng lực trừ bỏ tất cả kết sử.
- Tu “Pháp quán”, để nhận biết tự tánh của các pháp đúng thật.
- Tu “Phương tiện”, để có cái vui của hữu vi và cái vui của vô vi.
Này Long Vương, ông nên biết 10 nghiệp thiện ấy hay khiến mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng và tất cả Pháp Phật đều được viên mãn. Vì thế, nên các ông phải nên siêng năng tu học. (Nguồn: Kinh Thập Thiện)
+ Nhân Quả của ăn thịt chúng sanh: Trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nói rất hay ! "ĂN NÓ NỬA CÂN ĐỜI SAU PHẢI TRẢ CHO NÓ TÁM LẠNG". Bây giờ ăn là "khẩu phước" tương lai trả nợ là gì ? Trong Định Luật Nhân Quả gọi là không sai chút nào ! Nợ mạng thì trả mạng, nợ tiền thì phải trả tiền mặc dù đến Vô Lượng Kiếp khi nhân duyên tụ hội thì "Quả Báo Liền Hiện Tiền".
Chúng ta hiểu được đạo lý này ! trong Xã Hội hiện thực khi chúng ta gặp vấn đề chúng ta sẽ biết được " Nhân Quả Nghiệp Báo " Người khác tổn thương chúng ta [chúng ta cũng không để trong lòng]. Nghĩ rằng trong đời quá khứ chúng ta đã tổn thương họ, ngày nay tôi đã trả sạch quả báo này! coi như không còn gì nữa _ HT Tịnh Không giảng (Nguồn: Theo Facebook Diệu An)
* Mời xem kỹ giảng giải khi tại: Kinh Địa Tạng - P4- HT Tuyên Hóa giảng
+ Xem thêm: Tổng hợp Nhân nào quả đấy theo Phật dậy
+ Ma Ở Đâu Ra - Tại sao có ma?
Đáp: Đó là vì trong tự tánh có ma, cho nên mới lôi cuốn ma bên ngoài vào. Ma của tự tánh là: tham, sân, si. Chúng là chất độc của tự tánh, nên mới tiếp dẫn bọn ma ở bên ngoài. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 199)
+ Cõi giới nào cũng có Ma: Có người hỏi: Vì sao ma không phải là một Pháp Giới?
Trả lời: Ma thì giống như bọn thổ phỉ hay là du kích, lúc nào cũng lưu lạc trong bốn phương, không có xứ sở nhất định, cũng không có người cai quản. Kẻ cướp là loài người nhưng không phải người nào cũng là kẻ cướp, cho nên không nói Pháp Giới của loài cướp. Ðạo lý này giải thích loài ma cũng tương tự như vậy.
Trên trời cũng có ma, trong A Tu La cũng có ma. Thành phần thiện thì thuộc một pháp giới, thành phần không thiện thì thuộc về ma giới; vì ma biến khắp cả Lục Phàm Pháp Giới, thậm chí nó có thể biến hóa, xâm nhiễm, phá phách Tứ Thánh Pháp Giới. Phật hay ma đều là do một niệm sai biệt mà ra. .... (HT Tuyên Hóa khai thị Q.2 ngày 2/10/1982)
+ Ma: Khi Phàm ngã tách khỏi Chân Ngã: - Nếu có thể xác, nó trở thành người mất linh hồn. - Nếu không có thể xác, nó trở thành một con ma hay một hình thức của Kẻ Giữ Cửa. (LVLCK, 1017)
+ Chú giải các loài ma: Tiếng Phạn gọi là Mara, nghĩa là Giết hại, làm não hại thân tâm, tổn hại công đức, phá hoại trí tuệ. Có 4 loại ma:
1. Ma phiền não: Tham, Sân, Si… não hại thân tâm.
2. Ma 5 ấm (ngũ ấm ma): chấp thủ sắc thân, cảm giác, tri giác, tâm hành và nhận thức là ngã, nên bị năm ấm trói buộc.
3. Ma chết (tử ma): tử thần cắt đứt mạng sống con người làm gián đoạn sự tu tập.
4. Ma trời (thiên ma): Là tha hóa tự tại thiên, cõi trời thứ 6 của Dục giới, còn gọi là ma vương, ma ba tuần, chuyên làm trở ngại cho việc tu hành và làm việc thiện. (Nguồn: Xem tại đây); Xem thêm: Ma Ba Tuần phá Phật vẫn làm Vua
+ Ma – cà – rồng: Ma-cà-rồng có thật, nhưng may thay, chúng hiếm có. Chúng sống dưới hoàn cảnh giống như những người tự tử, cả hai đều là vong linh lụy trần, bạn phải biết cách giúp đỡ họ, mà còn phải biết cách giúp giải thoát họ tách khỏi xiềng xích của họ ( thể sinh lực - ND) (CKDCLH, 169)
+ Ma hình (Shell): Hình tư tưởng cảm dục … giống như một ma hình được làm cho linh hoạt và phấn khích. Vì lẽ trong hình tư tưởng này có nhiều chất cảm dục và cũng có một số lượng nào đó chất trí, nó có thể tạo được sức thu hút lớn và có mức độ hữu hiệu giống như mọi ma hình, thí dụ các ma hình được tiếp xúc trong phòng cầu đồng. (SHLCTĐ, 12)
+ Ma hình: Antakarana (giác tuyến) là hạ trí, con đường giao tiếp hay cảm thông giữa phàm ngã với thượng trí hay nhân hồn. Với vai trò là con đường hay phương tiện giao tiếp, nó bị tiêu hủy vào lúc con người từ trần, còn các tàn tích của nó sống sót dưới hình thức như là kama–rupa – ma hình (LVLCK, 137)
+ Âm ma và ma hình (Elementary and shell): Trong trường hợp của người chết trước thời gian ấn định (dying prematurely), nguyên khí thứ năm (nhân hồn–ND) không thể tách ra khỏi nguyên khí hồng trần (earthly principle) tức nguyên khí thứ tư (sinh hồn–ND). Do đó, vào lúc bị đẩy mạnh ra khỏi xác thân, âm ma rơi vào Kama loka. Âm ma (elementary) này không phải là một ma hình đơn thuần (mere shell) mà đó chính là con người, kẻ mà mới đây hãy còn sống, không thiếu mất gì cả trừ thể xác, người này không chết chút nào theo nghĩa đích thực của từ ngữ đó. Điều chắc chắn là các âm ma thuộc loại này có thể giao tiếp rất hiệu quả ở các buổi cầu đồng (spiritual seances) với cái giá nặng phải trả của họ, bởi vì thật không may, do chỗ còn đầy đủ cấu tạo cảm dục (astral constitution), chúng có thể tiếp tục tạo ra nghiệp quả (go on generating Karma), làm dịu nỗi khát sống (thirst for life) của mình bằng yếu tố thúc đẩy (spring) của tình trạng đồng cốt. (PGNM, 83)
+ Các loại ma:
Việt dịch: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo--thượng phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma-nữ.”
Việt dịch: “Những loại ma ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.”
Giảng nghĩa:
Quý vị xem, hạng người có chút “tiểu trí tiểu huệ” ấy vì không đoạn trừ dâm-tâm nên nói toàn những chuyện ái dục – anh yêu em, em yêu anh - cứ yêu qua yêu lại như thế rồi cuối cùng họ thành ma luôn! Thành ma rồi thì sao nữa?
“Những loại ma ấy cũng có đồ chúng.” Chúng ma ấy cũng có đồ đệ, cũng có kẻ ủng hộ chúng. “Tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.” Bản thân loài ma không biết xấu hổ, kẻ nào cũng tự xưng rằng: “Tôi chính là Phật! Chúng tôi đây đều là những đấng tối cao, vô thượng!” Hễ cái gì là to lớn, thì chúng xưng chúng là cái đó. Chúng vốn là ma nhưng lại không chịu thừa nhận mình là ma, mà cứ xưng là Phật. Phật thì cũng có Phật giả mạo vậy. Trên thế gian này cái gì cũng có giả được cả, cho nên loài ma cũng có thể làm ông Phật giả. Song le, chúng không chịu nhận chúng là thứ giả. Chúng cho rằng chúng là thứ thiệt, và cũng là “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” (trên trời, dưới trời, chỉ mình ta là tôn quý) nữa!
Việt dịch: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm, lại tự xưng là Thiện-tri-thức, khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đường Bồ-đề.”
Việt dịch: “Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật Thế Tôn thuở trước.” (Nguồn: Kinh Thủ LN-HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ma Vương - Lời nguyền: “Này ông Cồ Đàm (Đức Phật). Hôm nay ta thua ông, ông còn trụ ở thế giới này, ta không làm gì được ông. Ông nên biết rằng: sau khi ông diệt độ, sau này các đệ tử của ông, dù là lớn hay nhỏ, tuy là hình thức tu theo ông, chớ việc làm của họ phải làm theo sự điều khiển của ta cả, ông phải chống mắt mà xem ta sai khiến họ! * Cảnh thiện - Ma chướng trong thiền định cần đọc kỹ (Xem từ trang 137 đến 159)
+ Hỏa đại:
Dương Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ Hỏa: Tự tập trung và phi cá nhân; Thiếu kiên nhẫn, khuynh hướng lao vội vã vào mọi thứ; Bướng bỉnh, không nhạy cảm với người khác; Khởi xướng, bắt đầu mọi thứ; Kích động, nhiệt tình, có thể là thiếu tự chủ. - Dấu hiệu hành hỏa: Bạch Dương, Sư Tử, và Nhân Mã ; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Năng lượng. Tích cực. Nhiệt huyết. Đam mê. Cần phải thể hiện bản thân. Bốc đồng. Chủ động. Thoải mái Có khuynh hướng hướng ngoại. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não (LVHLT, 251)
+ Hành Hỏa thuần túy (nguyên khí dương chủ động) được xem như là ánh sáng và nhiệt, cùng với Thổ và Thủy, tức Vật Chất (yếu tố âm hay thụ động của sự sinh hóa vũ trụ). (1) Tất cả những điều này đều là tài liệu bàn về Đấng Lưỡng Tính thiêng liêng bản sơ. (GLBN, Từ tr 66 - 250)
+ Chân Sư DK luận về Hỏa Thủy: Trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu—thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y.
Đùa với Lửa: Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.”. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả - Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [trang 103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã.........
Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ/ Con người.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người.........
Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền ...... Như vậy, các bạn thấy rằng trong các hệ thống lớn, nhỏ đều có lửa.
Ở đây, tôi chỉ tóm tắt cho các bạn về mục đích của lửa trong tiểu vũ trụ và những gì phải nhắm đến. Chúng ta có ba loại lửa:
1. Tia lửa thiêng sinh động.
2. Tia lửa trí tuệ.
3. Luồng hỏa hậu (kundalini), sự hòa lẫn nhị nguyên của sức nóng nội tại và dòng sinh lực prana. Nơi ẩn trú [186] của mãnh lực này là luân xa chót xương sống, và luân xa lá lách hằng bồi dưỡng sức nóng đó.
Khi cả ba loại lửa này – một của tứ hạ thể, một của tam nguyên và một của nguyên khí thứ năm – gặp nhau và hòa lẫn với nhau một cách thích hợp về mặt hình học, thì mỗi luân xa sẽ được sinh động đúng mức, mọi quyền năng sẽ tự biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết và cặn bã sẽ bị đốt sạch, và hành giả đạt đến mục tiêu. Tia lửa đã trở thành ngọn lửa, và ngọn lửa là thành phần của khối lửa Đại ngã đang làm sống động trọn cả vũ trụ khách quan.mời xem chi tiết. (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
+ Hỏa thần - Thần lửa: Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu .... Giảng giải : Ta Hê Dạ Gia là "Thần lửa". Thứ thần lửa này rất nóng vô cùng. Vì nóng quá cho nên nói : ‘’Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu.’’ Rất lợi hại, nóng khiến người không chịu nổi. Nóng quá sẽ khiến người chết. Nạn lửa xuất hiện thì trên không trung có bảy mặt trời đồng thời cũng xuất hiện, thiêu hủy hết thảy sơn hà đại địa, biển cả cũng khô cạn, chẳng có vật gì còn sống sót lại. Lửa có thể thiêu đến cõi trời Sơ Thiền. Nhị Thiền và Tam Thiền cũng có tai nạn.(Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Hỏa Đại - Tánh của Lửa: Trích đoạn Phật dậy đoạn về Tứ Đại trong Như Lai Tạng/ Chân Tâm: ... A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh. Ông hãy xem các nhà trong thành khi chưa đến bữa ăn, muốn nhóm bếp thì tay cầm tấm kính đưa trước ánh sáng mặt trời để lấy lửa.
- Giảng: "A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh." Lửa tự nó vốn không có tánh chất riêng biệt. Phải có các yếu tố nhân duyên nó mới phát sinh được. 'Tự thể' ở đây không đề cập đến người mà chỉ cho thể tánh của lửa. Đoạn kinh nầy không nên hiểu rằng: 'Tôi không có lửa.' Có nghĩa là 'Tôi không có tánh nóng giận.' Nếu tự tánh quý vị không có chút lửa nào cả, thì quý vị sẽ là một vị Bồ-tát rất ngoan.
Thể tánh của lửa ở đâu? Tánh lửa ở khắp mọi nơi. Dù nó không có tự thể riêng, nhưng chẳng có nơi nào mà không có lửa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Năng lượng của thể trí. Mãnh lực của trí tuệ. Phản ảnh của ý chí và mục tiêu thiêng liêng. Động cơ thúc đẩy. Xung lực đưa tới thiên cơ, theo Định luật Tổng Hợp.
+ Thanh luyện thể hạ trí: Đây là kết quả của cách làm việc chuyên cần và sự phân biện. Cần phải có 3 điều trước khi đạt đến cõi của vi tử thường tồn hạ trí (tức cõi phụ thứ tư của cõi trí–ND), và trước khi tâm thức của linh hồn thể (tâm thức đầy đủ của Thượng Ngã)
+ Quyền năng (power, siddhis, huyền công, thần thông)
+ Năng lượng Thần lực: Trong toàn thể Vũ Trụ biểu lộ này, có 3 trạng thái được nhận thức.
1. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Một, vô ngã và vô hiện, có trước Vũ Trụ Biểu Lộ.
2. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Hai, Tinh Thần -Vật Chất, Sự Sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Ba, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Đại Đồng. Từ các nguyên lý sáng tạo căn bản này, trong phát triển kế tiếp, có xuất phát theo trình tự được an bài. Vô số Vũ Trụ gồm hằng hà sa số các Tinh Tú Biểu Lộ và các Thái Dương Hệ. Mỗi Thái Dương hệ là sự biểu lộ của năng lượng và sự sống của một Đấng Vũ Trụ vĩ đại, Đấng mà vì thiếu một danh xưng hoàn hảo hơn, chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế. Thái Dương Thượng đế lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian của một Thái Dương Hệ. Thái Dương hệ này là xác thể hay sắc tướng của Đấng Vũ Trụ và chính Đấng này tam phân (itself triple). Thái Dương hệ tam phân này có thể được mô tả bằng tên gọi có 3 trạng thái (three aspects), hay là (theo như Thần học Cơ Đốc giáo) là 3 Ngôi (three Persons).
Ba trạng thái này của Thượng Đế, tức Thái Dương Thượng Đế, và Năng Lượng Trung Ương hay Thần Lực (vì các tên gọi đều đồng nghĩa về phương diện huyền linh) biểu lộ xuyên qua bảy trung tâm lực – 3 trung tâm lực chính yếu và 4 trung tâm lực thứ yếu. Bảy trung tâm này của Thiên Lực được tạo nên để hợp thành các Thực Thể Thông Linh kết hợp. Các Đấng này được biết dưới danh xưng: a. Bảy Hành Tinh Thượng Đế; b. Bảy Tinh Quân trước Thiên Toà; c. Bảy Cung (Rays); d. Bảy Thiên Đế (Heavenly Men). (Nguồn: Luận về Lửa càn khôn)
+ Quyền năng hay thần lực nguyên thủy: Có 6 thần lực nguyên thủy trong Thiên Nhiên. Các Shaktis này như sau:
1. Parashakti: Nghĩa đen là đại thần lực hay quyền năng tối cao (supreme force or power). Nó bao gồm và có nghĩa là quyền năng của ánh sáng và nhiệt.
2. Jnanashakti: Nghĩa đen là quyền năng của trí tuệ (power of intellect) của chân minh triết hay chân tri thức (real wisdom or knowledge). Quyền năng này có hai trạng thái
+ Jnanashakti (Trí tuệ thần lực): Thần lực của trí năng hay thể trí.
+ Parashakti (Tối thượng thần lực): Theo nghĩa đen là thần lực, năng lượng và bức xạ tối cao ở trong và xuất phát từ vật chất.
+ Mantrikashakti (Linh từ thần lực): Thần lực tiềm phục trong âm thanh, ngôn từ và âm nhạc (LVLCK, 395–396)
+ Xem thêm: Các Thần lực - Các Linh hồn - Các Tâm thức
+ Trí khôn (Manas): Con người được phú cho Trí Khôn (endowed with Manas) chỉ khi ở vào điểm giữa của Căn chủng thứ ba.(GLBN III, 257)
+ Người có trí - Người trí: Đức Phật bảo A-nan: Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông, những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ. HT Tuyên Hóa giảng:
Hàng trí thức thích dùng những thí dụ để được khai ngộ. Vì khi quý vị thực sự có trí tuệ thì quý vị có thể hiểu được mười điều khi chỉ cần nghe một điều - Đó là có trí tuệ chân chính. “Người trí” mà trong kinh văn nói đến không phải là người có trí tuệ chân chánh mà là những người có trí thức thông thường, không cao không thấp. Họ có thể được giác ngộ thông qua việc sử dụng những thí dụ. Nhưng nếu những người chậm lụt, thiếu trí tuệ, nếu đưa cho họ một ví dụ, họ sẽ không hiểu nổi (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần kinh văn)
+ Trí Biện thông: Bạn đi học, học rộng nghe nhiều, người xưa đã nói "ký vấn chi học", bạn thấy được rất nhiều, nghe được rất nhiều, nhớ được rất nhiều, thế nhưng đều không phải là tự tánh lưu lộ ra, mà đều là từ bên ngoài đến. Đây gọi là thế trí biện thông ...... Bạn có 6 căn tiếp xúc 6 trần, là từ bên ngoài đều sanh phiền não, nhưng thảy đều sanh trí tuệ (năng lực tham học). Mắt thấy sắc, xem thấy cái này ưa thích là tham ái, cái kia không ưa thích thì sân hận, phiền não rồi; nghe âm thanh này hay, âm thanh kia nghe không hay cũng sanh phiền não. Cho nên, đoạn phiền não liền sanh trí tuệ, "Trong tâm đệ tử thường sanh trí tuệ", thấy sắc sanh trí tuệ, nghe tiếng sanh trí tuệ, ngửi mùi sanh trí tuệ......(Nguồn: Pháp sự Tịnh Không giảng)
+ Trí Thông minh: Là khả năng suy tư hay chọn lựa, lọc ra và phân biện. Thực ra, đó là một cái gì trừu tượng, không thể giải thích được, nằm đàng sau định luật vĩ đại Hút và Đẩy, định luật căn bản của biểu lộ. Khả năng thông minh căn bản này tiêu biểu cho mọi chất liệu nguyên tử và cũng cai quản việc tạo dựng các hình hài, hay là tập hợp các nguyên tử.(TTCNT, 58)
+ Chín Loại Trí Thông minh: Những năm 1980, giáo sư tâm lý học Howard Gardner thuộc ĐH Harvard đã đề xuất về các loại hình trí thông minh qua 9 hình thái, lĩnh vực khác nhau:
1. Trí thông minh về không gian: Dễ dàng hình dung, mô tả cảnh quan, tưởng tượng thế giới theo chiều không gian 3D.
2. Trí thông minh Tự nhiên: Nhanh chóng hiểu được cơ chế của sự sống, sinh vật và các hiện tượng thiên nhiên.
3. Trí thông minh Âm nhạc: khả năng thẩm âm tốt, nhạy cảm với nhịp điệu và âm thanh
4. Trí thông minh Logic - Toán học: nhanh nhạy với số liệu, khả năng suy luận tốt, tổng hợp thông tin thành các giả thiết và có khả năng chứng minh chúng.
5. Trí thông minh triết học: Thường có những đắn đo, suy ngẫm về các vấn đề mang tính triết học như các câu hỏi: ý nghĩa của cuộc đời là gì?
6. Trí thông minh cảm xúc: Có khả năng thấu cảm, nhận biết cảm xúc của người khác và nhanh chóng hiểu ý nghĩ của họ.
7. Trí thông minh vận động: Khả năng điều khiển vận động của cơ thể, thể hiện sự khéo léo trong các hoạt động thể chất.
8. Trí thông minh Ngôn ngữ: Khả năng dùng từ ngữ để biểu đạt tốt, dễ dàng viết văn hoặc phát biểu ý kiến.
9. Trí thông minh nội tâm: Hiểu rõ bản thân, làm chủ cảm nhận về bản thân cũng như luôn xác định được điều mình muốn. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Phân biệt Trí Tuệ/ Huệ - Trí Thức: Trí huệ và Trí thức/ Kiến thức là khác nhau, chẳng tương đồng! Trí huệ có thể giải quyết hết thảy vấn đề, giải quyết rất viên mãn, chẳng để lại hậu quả. Kiến thức có hạn chế, nó chẳng thể giải quyết hết thảy vấn đề, có những vấn đề có thể giải quyết được, nhưng cũng có những vấn đề chẳng thể giải quyết, lại còn để lại rất nhiều hậu quả, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này! Học rộng nghe nhiều, mà nếu chẳng có trí huệ, sẽ là tri thức (kiến thức). Trí huệ học từ đâu? Trí huệ chẳng lìa Giới, Định, Huệ, nhất định là từ Giới - Định mà khai trí huệ, trí huệ mới thấu lộ. Nói cách khác, người tâm thường ở trong Định, sẽ dễ khai trí huệ. Nếu một kẻ tâm bộp chộp, hời hợt, làm sao có trí huệ cho được? (Nguồn: PS Tịnh Không)
+ Trí Trừu tượng và Manas Thuần khiết: Trên cõi phụ cao nhất tức là cõi phụ thứ nhất của cõi trí, có trụ điểm của trí trừu tượng. Cõi phụ cao nhất này là nơi có tư tưởng trừu tượng, và ở đây các ý tưởng (từ cõi bồ-đề) trở thành các khái niệm trừu tượng. Mức cao nhất này của cõi thượng trí, nơi manas thuần khiết biểu lộ, cũng lại là điểm thấp nhất của tam nguyên tinh thần – atma/bồ-đề/manas. Các ý tưởng phát sinh trong những phương diện cao của tam nguyên tinh thần lưu chuyển qua trí trừu tượng để trở thành tư tưởng trừu tượng. Từ đó chúng đi vào Linh hồn/hoa sen chân ngã để có được năng lượng thống nhất. Rồi chúng đi vào hạ trí để được cụ thể hóa với các chi tiết rõ rệt, và đi vào não bộ để biểu lộ qua hành động ở cõi trần. Các cõi cao hơn cõi Bồ-đề thì ngoài phạm vi của khóa học này và không được mô tả hoặc nêu chi tiết đầy đủ. Chúng chỉ được đề cập đến và mô tả rất vắn tắt. Nguồn: ( GQ1. Con người và tâm thức)
+ Thể Trí Cung Một: Mãnh liệt, nhanh chóng, mạnh mẽ. Một thể trí tổng hợp, nhìn thấy sự việc rộng rãi, và tập trung vào các nguyên tắc, các quá trình tư duy như laser, trong suốt như kim cương tách ra các điều căn bản từ cái không căn bản. Độc lập và thẳng thắn, không thay đổi trong tư tưởng và ý kiến, dứt khoát, vắn tắt và đi thẳng vào trong tư tưởng và lời nói. Một thể trí “thực tế”, nhất tâm, tập trung, có tổ chức, có ưu tiên.
Thể trí Cung 1 : (DNA I, 219) Cung thể trí của bạn cũng là cung một. Điều này có nghĩa rằng thể trí thông minh của bạn có thể thống trị khi cần và có thể mạnh mẽ hơn nhiều khi biểu lộ so với lúc bình thường.
Thể trí Cung 1: Ở NGƯỜI KÉM TIẾN HÓA
1. Ý chí muốn sống hay muốn biểu lộ trên cõi trần.
2. Do đó, xung lực thể hiện như bản năng tự bảo tồn.
3. Khả năng chịu đựng, bất kể những khó khăn nào.
4. Sự cô lập độc đáo. Người luôn luôn là “Một người đứng một mình.”
+ Thể trí Cung 1: Ở NGƯỜI TIẾN HÓA
1. Ý chí giải thoát hay muốn biểu lộ hữu thức trên cõi của linh hồn.
2. Khả năng phản ứng với thiên cơ, hoặc đáp ứng với ý chí Thượng Đế được nhận thức.
3. Nguyên lý bất tử.
4. Tính kiên trì hoặc sức chịu đựng trên Đường Đạo.
* Thể trí Cung 2, 3: cung này không chế ngự thể trí, ngoại trừ các đệ tử.
+ Thể trí Cung Ba: Một trí năng mạnh mẽ và nổi bật. Một loại thể trí rộng rãi bao quát. Một người đang len lỏi, hoạt động không ngừng, linh động, linh hoạt, lời lẽ cao, hay giao tiếp, có khả năng hoạch định và lên kế hoạch, có lý luận và tháo vát, khả năng phân tích cao, phát biểu, khả năng suy luận, không dựa vào kinh nghiệm, hay chỉ trích và thích tư duy trừu tượng. Điểm yếu của nó là nó có thể không quan tâm đến tính chính xác, quá tổng quát hoá, và đãng trí.
Nguồn: Nhận dạng các cung
Xem thêm: Về Các Cung của Thể Trí
+ Thể trí Cung 4: Nhiều người có thể trí ở cung 4, với màu đặc trưng của nó là màu vàng. Cảm xúc <> trực giác, tinh thần chiến binh, “phát triển” thông qua đau khổ, khủng hoảng, đấu tranh liên tục. Khuynh hướng hòa giải, yêu vẻ đẹp / phim / nghệ thuật / giải trí / sáng tạo.
- Người Cung 4 phát triển thông qua việc vượt qua những sự xung đột, khủng hoảng, đấu tranh. Khi đã vượt qua được sự xung đột, y đạt đến sự hài hòa, sau đó lại tiếp tục đối diện sự xung đột khác. Hình nền của slide 24 là hình phong cảnh tuyệt đẹp, tượng trưng cho sự hài hòa, mỹ lệ. Trên nền hình ảnh phong cảnh là các biểu tượng của sự xung khắc hay xung đột: hình Âm Dương, Mặt người cười và khóc, cuộc chiến giữa hai chiến binh … Một biểu tượng khác là cái cầu, nói lên tính chất nối liền của cung 4. Cung 4 có tính chất liên kết vì nó là cung nằm giữa ba Cung Trạng Thái và Ba Cung Thuộc Tính.
- Cung 4 là Cung của Nghệ Thuật nên trong slide trên bạn thấy những nhân vật tiêu biểu của cung 4 đều là các nghệ sĩ nổi tiếng như Da Vinci, Michaelangelo, Sally Field, Webber, Billy Connolly, Frieda Kahlo, Billie Holliday, Judy Garland. Da Vinci là nghệ sĩ đa tài trong hội họa, kiến trúc. Michaelangelo cũng là một nghệ đa tài khác. Ông là là một hoạ sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhà thơ và kỹ sư thời kỳ Phục hưng Ý. Sally Field là nữ diễn viên, nữ ca sĩ, người viết kịch bản, nhà sản xuất phim và đạo diễn người Mỹ đoạt hai giải Oscar. William “Billy” Connolly, (sinh 24/11/1942) là một diễn viên hài, nhạc công Scotland. Giáo sư Michael D. Robbins cũng là nhân vật có phàm ngã cung 4. Các bạn xem video có thể nhận thấy khuôn mặt của GS Michael D. Robbins rất linh hoạt trong khi trình bày. Những ai chịu ảnh hưởng cung 4 thường rất linh hoạt trong khuôn mặt. Các bạn có thể xem video của của Billy Connolly cũng nhận thấy điều đó.
- Người cung 4 thường trải qua đỉnh cao vinh quang, rồi sau đó là vực thẳm..
- Liệt kê các đặc điểm tiêu cực của cung 4, nổi bật là sự đa cảm (emotional). Các điểm yếu khác là sự xung đột nội tâm-ngoại cảnh thường xuyên, không quyết đoán. Một đặc điểm khác mà người có thể trí cung 4 là trực giác của họ rất mạnh. Các bạn đã biết thông thường thể trí chịu ảnh hưởng của 3 cung: cung 1, cung 4, và cung 5. Người thể trí cung 5 hay lý luận, suy nghĩ rõ ràng, bán cầu trái của học hoạt động, còn người thể trí cung 4 có bán cầu phải mạnh hơn. Họ thiên về nghệ thuật, và họ cũng ít có khả năng tạo ra những hình tư tưởng rõ ràng. (Trích từ Năng lượng 7 cung - Khóa học GQ/MF)
+ Thể trí Cung Bốn: Thể trí có tính trực giác này nhiệt tình và rất mãnh liệt. Đó là thể trí nghệ thuật – âm nhạc, văn học, mỹ thuật, tạo hình ảnh, thơ, kịch, tính phóng đại, vẻ đẹp nhạy cảm. Nó nhanh trí và không gò bó, và thích chơi. Nó là một thể trí “bắt cầu” – liên kết, cân nhắc, cân bằng, phân giải, hợp nhất, trung gian, hòa giải, do dự, mâu thuẫn, thiếu quyết đoán. Nó bâng khuâng – tới lui, lên xuống, phấn khởi, rồi thì chán nản. Một đặc điểm tích cực là kỹ năng của nó trong việc làm trung gian hòa giải. Đó là chiến binh có thể trí xông xáo, giằng xé nội tâm, đấu tranh, căng thẳng do khủng hoảng, đối kháng và mâu thuẫn. Khi bạn theo dõi các cá nhân với một thể trí cung bốn đang làm việc, bạn thường có thể nhìn thấy đầu hoặc nét mặt của họ di chuyển từ bên này sang bên kia. Không dựa trên lý trí, nó thấy một đặc điểm nổi bật trong những hình ảnh. Nắm bắt các khái niệm, và dịch những ý tưởng của nó (các hình ảnh / bản chất / màu sắc) thành các từ ngữ có thể là một nỗ lực lớn, và nó thường giao tiếp tốt hơn thông qua văn bản hoặc một phương pháp nghệ thuật nào đó . Nó thường bị đe dọa bởi cung thể trí 1, 3, 5 – bởi vì nó thường không xử lý các sự kiện nhanh như thể trí các cung này.
- Thể trí cung 4 đã phát triển sẽ truyền tải các sự kiện với vẻ đẹp tuyệt vời; còn
- Thể trí chưa phát triển thì mơ hồ và không chính xác.
Thể trí của mỗi con người, ở một thời điểm nào đó, được tìm thấy trên cung thứ tư và thường là khi con người đang tiến gần con đường dự bị. Điều này có nghĩa rằng thể trí bị chi phối bởi một nguyên tố có bản chất hoặc tính chất cung 4 và do đó, hoạt động sáng tạo, nghệ thuật là đường lối ít đối kháng nhất. Bấy giờ chúng ta có một người với một khuynh hướng nghệ thuật, hay chúng ta có một thiên tài theo một đường lối hoạt động sáng tạo. (EPII 292)
+ Thể trí Cung 4 : (DNA I, 133) Cung Hài Hòa thông qua Xung Đột, và đó là tính dễ uốn nắn của bạn, ý thức của bạn về mối quan hệ, và sự nắm bắt nhanh chóng của mình về sự thật trí tuệ. Ảo tưởng sẽ luôn luôn là một cái bẫy sẵn sàng hơn cho bạn so với ảo cảm. Cung Hài Hòa thông qua Xung Đột này là cung cầu nối sẽ, trong trường hợp của bạn và thông qua thể trí, mang lại một sự thiết lập tiếp xúc ngày càng nhanh chóng giữa linh hồn và phàm ngã của bạn.
+ Thể trí Cung 4: (DNA I, 447) Tuy nhiên, với bạn, sự biểu lộ chính của hoạt động này nên liên quan với những người mà bạn phải làm việc với họ trong lĩnh vực phụng sự sự sống mà bạn chọn; sự hài hòa đạt được là việc giải quyết cuộc xung đột trong cuộc sống của những người xung quanh bạn đang trong quá trình điều chỉnh với sự sống. Các mâu thuẫn trong bạn được bạn hiểu và có thể được giải quyết nhanh chóng. Đó là ảnh hưởng của thể trí của bạn lên người khác mà tôi muốn bạn xem xét rõ ràng nhất.
- Trên con đường dự bị, các mãnh lực của bản chất thấp của con người và tác động bên trong của chúng thì rất quan trọng; y phải học cách tự biết mình.
- Trên con đường đệ tử, cũng các mãnh lực này phải được nghiên cứu trong mối quan hệ với những người mà số phận, nghiệp quả và sự lựa chọn nghề nghiệp đã đưa người đệ tử đến với họ.
- Trên con đường điểm đạo, các mãnh lực tương tự được sử dụng trong sự hợp tác hữu thức với Thiên Cơ, và với kỹ năng thích hợp trong hành động, do các bài học kinh nghiệm đã được học trên các giai đoạn đầu của đường đạo.
+ Thể Trí Cung Bốn – Ở NGƯỜI KÉM TIẾN HÓA
1. Tính hay công kích và sự thúc đẩy cần thiết đó hướng tới mục tiêu được cảm nhận vốn phân biệt với người phát triển. Mục tiêu này, trong các giai đoạn đầu, sẽ có tính vật chất.
2. Tinh thần chiến đấu hay tinh thần đấu tranh tư tưởng vốn cuối cùng [Trang 292] mang lại sức mạnh và sự tự tin, và tạo ra sự hội nhập cuối cùng với trạng thái thiêng liêng thuộc cung thứ nhất.
3. Lực cố kết đó vốn làm cho một người thành một trung tâm thu hút, cho dù là mãnh lực chính trong bất kỳ sự thống nhất nhóm nào, chẳng hạn như cha mẹ hoặc một người cai trị, hoặc một Chân Sư trong mối quan hệ với nhóm của Ngài.
4. Quyền năng sáng tạo. Trong các loại người thấp kém, điều này được liên kết với xung lực, hoặc bản năng, để tái tạo, do đó, dẫn tới quan hệ phái tính; hoặc nó có thể dẫn đến việc xây dựng các hình tư tưởng hoặc các hình thức sáng tạo thuộc loại nào đó, mặc dù đó chỉ là túp lều của một người man rợ.
+ Thể trí Cung Bốn – Ở NGƯỜI TIẾN HÓA
1. Tinh thần Arjuna. Đây là sự thôi thúc hướng tới chiến thắng, duy trì một vị trí giữa các cặp đối lập, và ý thức cuối cùng về trung đạo.
2. Sự thôi thúc tổng hợp (lại là một xung lực thuộc cung 1) được phối hợp với một xu hướng cung hai để yêu thương và bao gồm.
3. Tính chất thu hút của linh hồn khi nó tự thể hiện bản thân trong mối quan hệ giữa bản ngã thấp và cao. Điều này dẫn đến “cuộc phối ngẫu ở các cõi Trời.”
4. Quyền năng sáng tạo các hình thể, hay sự thúc đẩy nghệ thuật.
Nguồn: Nhận dạng các cung
Xem thêm: Về Các Cung của Thể Trí
+ Thể Trí Cung 5 - Với Hạ Trí:
- Tính tốt đặc biệt: Phát biểu rất chính xác, công bằng (không thương xót), kiên nhẫn, lương tri, chính trực (uprightness), độc lập, trí tuệ nhạy bén.
- Tật xấu: Chỉ trích khe khắt, hẹp hòi, ngạo mạn, tính không muốn tha thứ, thiếu tình cảm và sùng kính, thành kiến (prejudice).
- Đức tính cần tập: Tôn kính, sùng tín, cảm tình, bác ái, đầu óc phóng khoáng (wide–mindedness).
+ Thể trí Cung 5: Một thể trí có tính phân tích và chính xác – là nhà tư tưởng có tính khoa học. Không thiên vị và không bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc, nó thẳng thắn, dựa trên lý trí, hợp lý và rất chính xác. Nhận thấy toán học là dễ dàng. Nó cũng rất chi tiết, và khi tự diễn đạt bằng văn bản thì nó dài dòng, với nhiều sự kiện. Nó bất kính, hoài nghi đối với nhà thần bí và người tu hành, và xem thường bất cứ điều gì không thể được chứng minh một cách khoa học. Dành thời gian của nó để suy nghĩ trước khi nói và sau đó đưa ra những lời bằng giọng đều đều, chú trọng vào các sự kiện. Tạo ra các nhà khoa học và các nhà kỹ thuật. Thể trí trong trường hợp của bạn được chi phối bởi năng lượng cung năm. Đây là một tình trạng rõ rệt và tạo ra nhiều khó khăn trong cuộc sống của bạn. Trong trường hợp của tất cả những người tìm đạo, như vậy nó bị qui định về mặt trí tuệ, nguyên nhân tối quan trọng của hành vi thiếu tính thu hút của họ, khi sử dụng từ ngữ đó theo các hàm ý về tâm lý của nó. Tôi muốn nhắc nhở bạn rằng việc thiếu tính thu hút ở giai đoạn phát triển của bạn có nghĩa là (mặc dù bạn có thể có một mức độ nào đó trong việc tiếp xúc với linh hồn), bạn không thể tỏa chiếu sự sống linh hồn đó tới người khác như bạn muốn làm, vì thể trí cung năm thống trị của bạn (Cung Khoa học Cụ Thể, như bạn biết) bị cách ly, bị cô lập và có xu hướng tự nhiên hướng tới sự phân biệt vốn dẫn đến sự chia rẻ. Hiệu ứng ngược lại cũng đúng. Sự tỏa chiếu của những người khác cũng có thể bị tắt đi và do đó bạn không thể ghi nhận các ấn tượng thần giao cách cảm. Tuy nhiên giá trị của một thể trí cung năm rất lớn, vì nó có nghĩa là một thể trí sắc sảo và hữu ích (hãy suy ngẫm về điều này) là một cánh cửa mở ra cho sự linh hứng. (DNA I, 120)
+ Thể trí của bạn ở trên cung thứ năm …. Thể trí cung năm này mang đến cho bạn bản chất tò mò, hay dò hỏi vốn là một trong những đặc điểm nổi bật của bạn – một tài sản tuyệt vời khi được sử dụng đúng đắn; là một vấn đề khó khăn lớn và vật cản trở thực sự với dòng nhập lưu của ánh sáng linh hồn khi bị quá chú trọng. (DNAI, 351)
+ Thể trí Cung 5 – Ở NGƯỜI KÉM TIẾN HÓA
1. Năng lực phát triển tư tưởng.
2. Tinh thần táo bạo có tính duy vật, sự thôi thúc thiêng liêng, khi nó tự chứng tỏ bản thân trong những giai đoạn đầu.
3. Các xu hướng nghi vấn, đặt câu hỏi và tìm hiểu. Đây là bản năng để tìm kiếm và để tiến bộ, xét cho cùng, vốn là sự thôi thúc để tiến hóa. 4. Xu hướng kết tinh, chai cứng, hay có một ” định kiến”. Về việc này, người ta thường sẽ phát hiện ra rằng người không chống nỗi một “định kiến” không chỉ có một thể trí cung năm mà còn có hoặc một phàm ngã cung sáu, hoặc một thể cảm dục cung sáu.
+ Thể trí Cung 5 – Ở NGƯỜI TIẾN HÓA
1. Nhà tư tưởng chân chính, hoặc loại người trí tuệ – tỉnh táo và lanh lợi.
2. Người hiểu biết Thiên Cơ, mục đích và ý chí của Thượng Đế.
3. Người mà trí thông minh đang được chuyển hóa thành minh triết.
4. Nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà văn.
Thể trí Cung 6, 7: cung này không chi phối thể trí, ngoại trừ các đệ tử.
Nguồn: Nhận dạng các cung
Xem thêm: Về Các Cung của Thể Trí
+ Thể cảm dục (ASCLH, 186)/ (KCVTT, 253)
+ Thể tri giác_Chân Sư DK: Một thuật ngữ mà Tôi rất thích hơn thuật ngữ cảm dục [astral], và Tôi sẽ tiếp tục sử dụng nó (LVHLT, 293)
+ Tình trạng Nước - Chất liệu tình cảm - Vật chất cõi cảm dục: Nguyên nhân thứ hai của sự thất bại nằm ở việc y không chú ý xem xét tình trạng của nước, hay là trạng thái của chất liệu tình cảm (emotional substance) mà hình trí tuệ này phải đến, và như thế thu hút vào nó vật chất của cõi cảm dục, điều này sẽ cho phép nó trở thành một thực thể hoạt động trên cõi đó. Nếu nó không thể làm được điều này, thì cuối cùng nó chỉ là một hình-tư-tưởng chết trên cõi trí, vì nó sẽ thiếu lực thúc đẩy đó của dục vọng, vốn cần để đưa nó tiến tới chỗ hoàn tất trên cõi trần. (LVHLT, 160)
+ Thể cảm dục là hiện thể của kinh nghiệm đối với đa số, và có vài người không vượt qua phần lớn cuộc sống có ý thức của họ, ghi nhận những phản ứng của thể đó, và dao động giữa hai cực của hạnh phúc và đau khổ, của sự hài lòng hoặc không hài lòng, của sự tin chắc hoặc nghi ngờ, của can đảm hoặc của sợ hãi. Điều này thực sự có nghĩa là mãnh lực cố hữu và sự sống của hiện thể tri giác tình cảm chi phối sự biểu hiện của đời sống, và uốn nắn kinh nghiệm của linh hồn nhập thể. Do đó, thật đáng cho chúng ta để hiểu một điều gì đó về việc các lực này là gì, chúng từ đâu đến và chúng tác động và phản ứng trên con người như thế nào. Bãi chiến trường của y nằm ở đó, và trận địa thắng lợi của y cũng nằm ở đó.(LVHLT, 293)
+ CON NGƯỜI: Nói chung, con người là những gì mà thể cảm dục của y tạo ra cho y. Sau nữa, “con người tưởng nghĩ như thế nào thì y trở nên thế ấy”. Thể cảm dục, với các mong mỏi, các thèm muốn, các tâm trạng, các cảm xúc và các khao khát của nó đúc nặn nên thể xác nhờ các lực thu hút tuôn chảy qua nó, và như thế dắt dẫn con người một cách chính xác để thực hiện các ham muốn của y. Nếu các khao khát của bản chất tri giác có tính thú vật vượt trội trong mục tiêu của chúng, chúng ta sẽ có con người với các thèm muốn mạnh mẽ, sống một cuộc đời dành hết nỗ lực để làm thỏa mãn chúng. Nếu sự khát khao để có tiện nghi và hạnh phúc, chúng ta sẽ có con người có tính khí thiên về giác quan, yêu cái đẹp và thích khoái lạc, về thực tế thì bị chi phối hoàn toàn bởi sự nỗ lực ích kỷ. Vì vậy, nó đi suốt tất cả các cấp độ ham muốn, tốt, xấu, và thông thường, cho đến khi sự tái-định-hướng xảy ra, nó tái-tập-trung (refocusses) các năng lượng cảm dục sao cho chúng được chuyển theo một hướng khác. Ham muốn (desire) trở thành nguyện vọng (aspiration). Như vậy, việc giải thoát khỏi bánh xe sinh tử được mang lại và một người được thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh. Khi đó thì lá số tử vi, như được hiểu hiện nay, tỏ ra vô ích, sai và vô dụng, còn thuật ngữ đôi khi được dùng, nhưng không đúng, là “lá số tử vi của chân ngã (ego) hay linh hồn”, thì không có ý nghĩa gì hết. Linh hồn không có vận mệnh cá nhân nào cả, mà được chìm vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của nó là vận-mệnh của tập thể, và của Tổng Thể (the Whole); mong muốn của nó là thể-hiện Thiên Cơ vĩ đại, và ý chí của nó là sự tôn vinh Thượng Đế nhập thể (the incarnated Logos). (LVHLT, 296)
+ Thể tri giác - Nguồn gốc bệnh sinh lý: Thể cảm dục đôi khi được gọi là thể tình cảm là kết quả của sự tương tác của dục vọng và của sự đáp ứng hữu cảm thức vào cái ngã ở trung tâm, và đưa đến kết quả – trong thể đó – là kinh nghiệm được tạo ra dưới hình thức cảm xúc như là đau khổ và vui sướng và các cặp đối hợp khác. Trong hai thể này, tức thể dĩ thái và cảm dục, người ta thấy có tới 90% các nguyên nhân của bệnh hoạn và bất ổn của xác thân. (CTNM, 3)
+ Cảm dục: ... H.P.B. chịu trách nhiệm một phần lớn vì đã dùng từ ngữ “astral” (cảm dục) để chỉ một số lớn tri thức liên quan đến thể dĩ thái cũng như thể cảm dục. Điều này là do việc nhận thức rằng thể cảm dục, trong một vài thế hệ nữa (nói một cách tương đối) sẽ bị biến mất, còn đặc biệt là đối với H.P.B., nó đã không còn tồn tại do bởi đệ tử này đã đạt được mức tiến hóa cao. Do biết được rằng thể dĩ thái luôn luôn là một biểu lộ của năng lượng vượt trội đang kềm chế nhân loại trong bất cứ chu kỳ đặc biệt nào, H.P.B. dùng thuật ngữ “astral body” như là có thể thay thế cho nhau với (thể dĩ thái).
+ Thể Cảm dục (Thể astral, thể vía): Gồm các ham muốn và xúc cảm của chúng ta – sợ hãi, hạnh phúc, hy vọng, nhạy cảm, cảm xúc mạnh, âu lo, tình cảm dồn nén, bám chấp, và yêu thương. (MQ - Hình dung và 7 Cung)
+ Thể tình cảm: Có hình dạng bầu dục bao quanh xác thân như Thể trí. Mục đích Tham thiền là nên làm cho hình bầu dục của thể tình cảm trở nên tích cực (Loại tà - Nghĩ chánh) đối với những gì thấp kém và đối với những gì chung quanh nó, và chỉ thụ cảm đối với Tinh thần thông qua thể nguyên nhân (Linh hồn). Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách phát triển khả năng kiểm soát hữu thức - sự kiểm soát mà ngay trong những lúc rung động và tiếp xúc cao nhất, khả năng này vẫn linh mẫn trông nom và bảo vệ các hạ thể. “Hãy trông chừng và cầu nguyện” là lời dạy của Chúa khi Ngài còn tại thế. (TTHM_Nguy hiểm khi tham thiền_Chân Sư DK)
+ Cảm Dục/ Dục Vọng:
1. Sợ hãi – Có ảnh hưởng tới hoạt động ngày nay;
2. Căm ghét (hate) – Vốn là một yếu tố trong sự điều tiết các mối liên hệ;
3. Tham vọng – Đang chi phối các mục tiêu (CTHNM, 231)
+ Thể Tri Giác: Trong việc xem xét thể cảm giác (sentient body) của một người,.. việc bàn đến các ảnh hưởng của thể cảm giác và trong việc tìm cách để chế ngự các ảnh hưởng của nó, thì con người mới đạt đến sự tự tri và nhờ thế trở thành một Chân Sư. Những biểu hiện thông thường nhất của hoạt động cảm dục (astral activity) là:
1. Sợ hãi (fear)
2. Phiền muộn hoặc đối cực của nó, sự vui tươi.
3. Mong muốn thỏa mãn các thèm khát thú tính.
4. Mong cầu hạnh phúc.
5. Ước muốn giải thoát. Đạo tâm.
Hầu hết các kinh nghiệm về tri giác của con người được tổng kết thực tế trong năm mục này, và chúng ta sẽ xem xét mỗi mục theo các khía cạnh sau:
1. Nguyên nhân.
2. Hậu quả.
3. Phương pháp điều hướng (method of direction)... (LVHLT, 297)
+ Hạ Trí hay chỉ trích có các tính chất (CTHNM, 231):
1. Kiêu hãnh – Chính là sự thỏa thích của trí óc, làm cho thể trí trở thành chướng ngại cho sự kiềm chế linh hồn.
2. Tính phân biệt, chia rẻ – Chính là thái độ cách ly, nó làm cho thể trí thành chướng ngại đối với các liên hệ tập thể chính đáng.
3. Tàn bạo – Vốn là sự thỏa thích với các phương pháp của phàm ngã, nó làm cho trí óc trở thành dụng cụ của ý thức quyền lực
+ Hạ trí thuộc phàm ngã tương ứng với Cung 5: Kiến thức, tức Cung của trí tuệ phân tích. Nhà khoa học là gương mẫu điển hình của loại hình này.
+ Hạ trí chịu trách nhiệm về khả năng nhận thức của chúng ta. Gồm việc suy nghĩ, suy luận, phân tích, so sánh, học tập, hình dung và phân biện. Tất cả các hoạt động thông thường của não bộ thuộc về trí cụ thể. Não bộ - Thành phần của thể xác và nó không suy nghĩ. Nó đơn giản là một công cụ tinh tế nhất đáp ứng với hoạt động của thể trí và chuyển nó thành hành động trong cõi hồng trần.
+ Thể hạ trí: (Facebook TT Học: Cõi hạ trí, hay cõi Devachan, hay cõi Thiên đường)
+ Thể hạ trí - Chất trí mà một con người cá biệt có thể sử dụng và tạo ấn tượng, tạo thành thể thứ tư của một loạt các bộ máy dành cho linh hồn. Đồng thời, đừng nên quên rằng 4 thể này tạo ra một bộ máy duy nhất. (CTNM, 3)
+ Với thể xác và thể cảm dục, chỉ có vật chất của 5 cõi phụ cao (các cõi theo thứ tự của chúng), vì vật chất của hai cõi phụ thấp nhất thì quá thấp đối với deva hoặc cơ thể con người, chúng đã chi phối trong Thái Dương Hệ thứ 1.
+ Thể hạ trí là thể đầu tiên mà chúng ta thấy có vật chất của tất cả các cõi phụ.
+ Thể hạ trí được cấu tạo bằng 4 loại tinh chất mà thôi, còn thể cảm dục và thể xác được tạo thành bằng 7 loại. (LVLCK, 576, 1098)
+ Thể hạ trí có dạng hình trứng, bao quanh thể xác và trải rộng nhiều hơn ra khỏi thể xác …, qua hình trứng đó luôn luôn có các hình tư tưởng thuộc nhiều loại khác nhau chạy quanh (đó là các tích chứa của thể trí con người và các tư tưởng của những kẻ chung quanh y) khiến cho hạ trí hình trứng này bị nhuốm sắc thái của các thu hút mạnh mẽ và bị đa dạng hóa bằng nhiều dạng hình học, tất cả đều ở tình trạng thay đổi liên tục hay chạy quanh. (TVTTHL, 95)
* HẠ TRÍ_(LVHLT, 80)
Hạ trí, tự bản thân nó, cống hiến cơ hội cho một luận đề rất dài, nhưng ở đây sẽ là đủ để đưa ra một vài cách thức mà nó gây cản trở cho những giống dân vốn tiêu biểu cho nó nhiều nhất.
a/ Bằng hoạt động mãnh liệt và hành động bị kích thích, nó ngăn cản dòng chảy xuống (downflow) của cảm hứng từ trên cao. Nó hoạt động như một bức màn tối ngăn chận sự giác ngộ cao siêu. Chỉ nhờ sự vững vàng và sự yên tĩnh ổn định mà sự tỏ ngộ mới có thể thẩm thấu, xuyên qua các thể cao, đến được bộ não vật chất và nhờ thế sẵn sàng cho việc phụng sự thực tế.
b/ Sự minh triết của Tam Thượng Thể (Triad) tồn tại cho việc sử dụng của phàm nhân, nhưng bị chận lại bởi những sự tìm tòi (disquisitions) của hạ trí. Khi ngọn lửa của thể trí cháy quá mãnh liệt, nó tạo nên một luồng chống lại với dòng giáng lưu cao siêu, và ép buộc lửa dưới thấp vào lại nơi trú ẩn. Chỉ khi nào ba luồng hỏa gặp nhau, nhờ sự điều chỉnh của ngọn lửa trí tuệ ở giữa, ánh sáng đầy đủ mới có thể đạt được, và toàn bộ cơ thể mới tràn đầy ánh sáng, ngọn lửa từ bên trên – tức ánh sáng của Tam Thượng Thể − ngọn lửa của phàm ngã – tức kundalini – và ngọn lửa của trí tuệ, − tức manas vũ trụ − phải gặp nhau trên bàn thờ. Trong sự hiệp nhất của chúng xảy ra việc thiêu rụi tất cả những gì cản trở và sự giải thoát được hoàn thành.
c/ Bằng sự phân biện – một năng lực của thể trí cụ thể (hạ trí) – các thể thấp được huấn luyện thuật phân biệt ảo giác với trung tâm của thực tại; cái chân với cái giả; ngã với phi ngã. Vì vậy, tiếp theo đó là một giai đoạn phải được vượt qua, trong đó sự chú ý của Chân Ngã (Ego) nhất thiết được tập trung vào phàm ngã và các hiện thể của nó, và trong đó, sự rung động của Tam Thượng Thể, các định luật liên quan đến sự tiến hóa đại-thiên-địa, và việc chinh phục lửa cho việc sử dụng của Thánh Linh (Divine), phải tạm thời hoãn lại. Khi con người nhanh chóng nhìn thấy sự thật trong tất cả những gì mà y tiếp xúc, và tự động chọn sự thực hoặc điều chân, lúc đó y học kế tiếp bài học về hành động đầy niềm vui, và con đường của toàn phúc sẽ mở ra trước mắt y. Khi điều này xảy ra như vậy, con đường huyền bí học trở thành thích hợp cho y, vì hạ trí đã được dùng vào mục đích của nó, và đã trở thành khí cụ của y chớ không còn là chủ của y nữa, kẻ thể hiện của y chứ không phải là kẻ ngăn trở (hinderer) y nữa.
d/ Trí cụ thể còn cản trở theo một cách khác và bất thường hơn, và là cách mà môn sinh cũng không hiểu được khi lần đầu cố gắng để đặt chân trên con đường gai góc của sự phát triển huyền bí. Khi hạ trí bất trị và chi phối hoàn toàn phàm ngã, người tìm đạo không thể hợp tác với các sự sống (lives) khác và các đường lối tiến hóa khác nhau, cho đến khi lòng bác ái thay thế cho trí cụ thể (mặc dù y có thể, về mặt lý thuyết, hiểu được các định luật chi phối sự tiến hóa của Thiên Cơ, và sự phát triển của các thực thể thái dương khác ngoài Thánh Đoàn (Hierarchy) của chính y). Thể trí chia rẻ, còn lòng bác ái thì thu hút. Thể trí tạo ra một rào cản giữa một người và mỗi deva van cầu (suppliant). Lòng bác ái phá tan mọi rào cản, và dung hợp các nhóm khác nhau trong sự hợp nhất. Thể trí đẩy ra bằng một rung động mạnh mẽ dữ dội, vứt bỏ tất cả những gì được tiếp xúc, giống như một bánh xe thải ra tất cả những gì cản trở chu vi xoay tít của nó. Lòng bác ái tập hợp tất cả vào chính nó, và tiếp tục mọi thứ với chính nó, gắn kết các đơn vị riêng biệt thành một tổng thể đồng đều hợp nhất. Thể trí gây khó chịu qua nhiệt dồi dào riêng của nó, làm khô héo và đốt cháy cái gì đến gần nó. Lòng bác ái xoa dịu và chữa lành bằng sự giống nhau của nhiệt của nó với nhiệt trong những gì mà nó tiếp xúc, và phối hợp sự ấm áp và ngọn lửa của nó với sự ấm áp và ngọn lửa của các sự sống đang tiến hóa khác. Sau cùng, thể trí đập vỡ và phá hủy trong khi lòng bác ái tạo ra sự kết hợp và hàn gắn.
+ Có 3 nhóm trí tuệ mãnh liệt kích động bản chất dục vọng: Trí tuệ hướng nội - Tự ám ảnh, cô lập, tính tự cao tự đại hoang tưởng - Hướng ngoại trí tuệ (Nguồn)
+ Đức Phật Gautama đã nói rằng Thể Trí có thể làm cho một Người thành một vị Phật hay một con Thú: Nơi người trung bình, thể trí được đồng hóa với ham muốn của thể cảm dục (kama), tạo thành bản chất tâm thông thấp. Người này đang nhìn xuống vào ngoại giới, liên tục tìm kiếm những cách thức để làm thỏa mãn những nhu cầu của y. Thể trí này không được tự do hành động theo ý nó. Nó bị buộc chặt với bản chất cảm dục. Nó là nô lệ của thể cảm dục này!
+ Thể Hạ Trí: Bốn cõi phụ dưới của cõi trí được gọi là hạ trí, hay là trí cụ thể. Với trí tuệ, chúng ta học, viết và liên hệ các tư tưởng với nhau, cũng như khi phân tích, giải toán, thu thập và xử lý dữ liệu, thì phần lớn chúng ta đang sử dụng hạ trí hay cái trí cụ thể này.
- Mảnh thông tuệ của linh hồn được cấy vào trong thể trí của con người. Nó là công cụ mà qua đó sự Tự Thực Chứng được thành tựu.
- Và Hạ Trí thì Không Ổn Định và Chưa Được Huấn Luyện, và phần lớn còn Chưa Ý Thức hoặc Vô Minh.
- Hạ trí được xây dựng trên cơ sở không chính xác và liên tục thay đổi. Nó hiếu động, chuyển động không ngừng. Nó có thể được ví như một ngọn lửa nến bị phơi bày, dễ bị những cơn gió của hoàn cảnh tấn công, lập lòe, dao động, làm mồi cho những hoàn cảnh bên ngoài. Sự di chuyển không ngừng nghỉ của thể trí và sự huyên thuyên không ngừng trong trí là vấn đề lớn đối với Chân Thần, vì ảnh hưởng phát ra của nó bị mất đi như trong những cơn sóng bập bềnh của một hồ nước bẩn (thể trí không thanh khiết), bị thôi thúc bởi những niềm tin tiêu cực trong tiềm thức. Khi thể trí liên tục chất đầy những tư tưởng thấp kém, thì sự rung động của nó thấp và thô.
1. Hạ trí cụ thể tức nguyên khí lý luận. Các tiến trình giáo dục công khai bàn đến trạng thái này của con người.
2. Hạ trí hay trí cụ thể, là trạng thái cao nhất của phàm ngã.(GQ1.3_GT Cung 5):
Xem hình ảnh 4 cõi thấp - Hạ trí
Xem: Xem Rộng Trí Tuệ là Cung 1 – 4 – 5
Xem: TH về Cõi trí, Thể trí (Thượng, hạ trí), Cung Thể Trí
Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị
Xem: TH về Trí tuệ, Cung Thể Trí Và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
Vi tử thường tồn thượng trí: Trạng thái thấp nhất của Tam Thượng Thể Tinh thần hay của linh hồn. (ASCLH, 14)
+ Cung Thể trí: thuộc một trong các cung 1, cung 4, cung 5. Các khó khăn được giải quyết như thế nào? Hãy phân tích các phương pháp được sử dụng để xử lý dữ liệu, các lời lẽ được đưa ra như thế nào.
- Cung 5: Có phải theo phương pháp trí tuệ của não trái: đường thẳng, hợp lý, chi tiết, cung cấp bằng chứng, có lẽ sự tập trung nhạt nhẽo và đơn điệu chỉ vào các sự kiện (Thể trí cung 5)?
- Cung 4: Hoặc có phải nó là trí tuệ thuộc não phải, có tính giải trí, đầy màu sắc, đầy kịch tính, trực quan, nên thơ, hài hước, ngắn gọn dựa trên các chi tiết rõ ràng (Thể trí cung 4)?
- Cung 1: Hay bạn nhảy đến các kết luận, đi thẳng vào vấn đề, sau đó bảo vệ quan điểm của bạn với một trong hai cách : kiêu ngạo và gây hấn, hạ gục đối thủ của bạn; hoặc với năng lực và sự khẳng định đầy tự tin (Thể trí cung 1)?
Cách nhìn khác
- Cung 4: Có phải bạn khổ sở với các quyết định và bị cảm xúc đến nỗi bạn không thể suy nghĩ một cách rõ ràng (Thể trí cung 4)?
- Cung 5: Hoặc có phải bạn được đưa vào kỷ luật trong vấn đề đang giải quyết, và có một cách tiếp cận thực tế và hợp lý (Thể trí cung 5)?
- Cung 1: Hoặc bạn tóm tắt các vấn đề một cách nhanh chóng và ngay lập tức đi đến một kết luận tổng hợp (Thể trí cung 1)?
Nguồn: (Trích từ năng lượng 7 cung - Khóa học GQ/ MF)
Mời xem phóng to Cung Trí Tuệ 1 - 4 - 5 của Thể trí
Nguồn: Tâm lý học nội môn 3 – Biểu đồ cung
Xem thêm: Tổng hợp về Trí tuệ, Cung Thể Trí và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
+ Có 3 nhóm trí tuệ mãnh liệt kích động bản chất dục vọng:
2.3.1. Người hướng nội về mặt trí tuệ: Bận rộn một cách sâu sắc với các hình tư tưởng tự tạo và thế giới tư tưởng được họ tạo ra, tập trung quanh một hình tư tưởng năng động duy nhất mà họ đã xây dựng. Họ luôn luôn làm việc hướng tới một bước ngoặt, và bước ngoặt này có thể được giải thích bởi thế giới như: sự phát hiện một thiên tài; một nỗ lực sáng tạo nào đó; hoặc những biểu lộ dữ dội của sự tuyệt vọng khi người này cố gắng để thoát khỏi kết quả của sự nghiền ngẫm bên trong của y theo đường lối đã chọn. (460-1)
2.3.2. Tự ám ảnh, cô lập, tính tự cao tự đại hoang tưởng: Trong các giai đoạn đầu thì có thể chữa khỏi – chuyển sự tập trung thông qua việc gợi lên một mối quan tâm khác cao hơn, bởi sự phát triển ý thức xã hội, và nếu có thể bằng sự tiếp xúc với linh hồn. Nếu không nó sẽ làm cho người này cuối cùng trở thành không thể xúc động, vì y trở nên cố thủ trong một thành lũy của các hình tư tưởng riêng của y liên quan đến bản thân y và hoạt động của y. Loại người cung 1 và 5 dễ xảy ra. (461)
2.3.3. Người hướng ngoại về mặt trí tuệ: Những người trở nên hướng ngoại mạnh mẽ bởi sự mong muốn áp đặt các kết luận họ đã đạt được lên trên đồng loại của họ. những người cung 3 và 6 dễ bị sự rối loạn này. Họ gồm mọi loại người, từ nhà thần học có thiện ý và người theo giáo điều cố chấp hầu như được tìm thấy trong các trường phái tư tưởng; đến người cuồng tín làm cho cuộc sống thành một gánh nặng cho mọi người xung quanh y khi y tìm cách áp đặt quan điểm của y lên họ; và người điên vì trở nên bị ám ảnh với linh thị của y rằng y phải được cất giữ cẩn thận. (462)
(Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị )
Nguồn: Tổng hợp về cõi trí - thượng và hạ trí
+ Thượng trí: 1. Cảnh giới của các ý tưởng thiêng liêng, các nguyên lý, tư duy trừu tượng, nguyên mẫu, bản thiết kế 2. Khả năng tạo ra mô hình mà theo đó các hình tướng được tạo dựng ra 3. Lý trí thuần khiết, không bị cản trở bởi những những giới hạn của các cấp độ hạ trí 4. Tổng hợp và không chia rẻ như trí cụ thể. + Thượng Trí tức là nhân hồn. (LVLCK, 457)
+ Trí trừu tượng là khả năng tạo mô hình, hay là thể trí để tạo bản thiết kế mà theo đó, hình hài được tạo ra. (LVHLT, 365)
+ Thượng trí: Tương ứng với Cung 3, tức Cung Hoạt động Sáng tạo. Sự thông hiểu là chủ yếu của nó và Triết gia là một trong những đại biểu của nó. + Hạ trí thuộc phàm ngã tương ứng với Cung 5: Kiến thức, tức Cung của trí tuệ phân tích. Nhà khoa học là gương mẫu điển hình của loại hình này. + Thượng trí trừu tượng, tác nhân bảo quản ý niệm và truyền chuyển sự giác ngộ đến cho hạ trí khi mà hạ trí giao tiếp được với linh hồn. + Thượng trí hay trí trừu tượng, là hiện thân của một tam nguyên cao hơn.(GQ1.3_GT Cung 5):
+ Thượng trí trừu tượng (CKMTTL,138): Về mặt bản thể, đó là khả năng hiểu rõ những gì không cụ thể hay hiển nhiên, nhưng thật ra lại là nhận thức có sẵn về các khía cạnh thấp của Thiên Cơ khi Cơ này phải tác động đến sự sống trong ba cõi thấp. (SHLCTĐ, 98)
+ Đại Trí/ Thượng trí: Một cách gọi mức trí tuệ cao hơn hạ trí
+ Thể thượng trí: Đường nét bên ngoài của Chân Ngã, tức Chủ thể Tư Tưởng (Linh hồn) có dạng bầu dục (oval), do đó, bà H.P.Balvatsky nói đến thể thượng trí này (nó vẫn tồn tại qua tất cả các lần luân hồi) như là Hào Quang Noãn. Được làm bằng chất liệu của ba cõi phụ cao nhất của cõi trí, thể này cực kỳ tinh anh, ngay từ lúc tượng hình lần đầu, nó đã là một bức màn vô cùng tinh vi. Khi phát triển, nó trở thành một vật thể chói ngời với vẻ đẹp rực rỡ, một vật ngời sáng, cách gọi này rất đúng. Chủ thể Tư Tưởng này là gì? Đó là Linh Ngã, như đã nói, bị giới hạn hay là được phú cho cá tính, thể tinh anh này được rút ra từ chất liệu của vùng “vô sắc tướng” của cõi trí. (MTNX, 142–143)
+ Vi tử thường tồn thượng trí: Trạng thái thấp nhất của Tam Thượng Thể Tinh thần hay của linh hồn. (ASCLH, 14)
+ Phát Triển Trí Huệ - Trí Thông Tuệ: Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng câu Chú Đại Bi số 37 - Thất na thất na)
+ Trí Thức/ Trí Tuệ khác nhau: Đạo Đời / Đạo Phật có các thuật ngữ tương ứng về người thu đạt được kiến thức như Trí thức/ Trí tuệ hay Trí Tuệ Biện Thông/ Trí tuệ Chân Thật; Học giả/ Hành giả; Bác học/ Trí tuệ vô lậu/ Trí Tuệ bát Nhã. Bởi vì trí thức là trí do ý thức nhanh nhẹn khéo léo, so sánh phân biệt, đối chiếu rành rõ, khiến người nghe dễ nhận dễ hiểu. Còn học giả là lượm lặt, gom kiến thức làm của mình. Bác học nghiền ngẫm, nghiên cứu phát minh .... Như vậy nhà trí thức, học giả và bác học là nhắm thẳng vào ý thức sinh diệt ... lo cho thân này mỗi ngày mỗi sung túc, mỗi tốt đẹp, mỗi giàu có hơn; Người học Phật lấy trí tuệ làm gốc, có 2 phần:
(i) Trí tuệ hữu lậu, là Văn, Tư, Tu. Văn tức là học lời chân thật, lý thật, chân lý của cuộc đời. Tư- Nghiền ngẫm, thấy rõ, hiểu tường tận là Tư. Tu là ứng dụng => Thấy đúng như thật chân lý Phật đã dạy, để tâm không nhiễm, không dính mắc tất cả pháp sinh diệt bên ngoài, đó là Tu. Trí tuệ hữu lậu còn luân hồi sanh tử.
(ii) Trí tuệ vô lậu là gì? Là Giới, Định, Tuệ. Đây là Pháp Tu để giải thoát niết bàn (Nguồn)
+ Trí tuệ chân chính: Trích ... Nếu ánh sáng mặt trời không chiếu qua các khe cửa, thì quý vị không thể nào thấy được bụi trần, cho dù thực sự có rất nhiều bụi trần khắp mọi nơi. Nhưng khi bụi trần nhiễu động lăng xăng thì hư không vẫn tĩnh lặng, hư không chẳng hề dao động. Khả năng thấy được bụi trần trong tia sáng mặt trời chiếu soi qua khe cửa biểu tượng cho năng lực của ánh sáng trí tuệ. Khi quý vị chứng được sơ quả a-la-hán, đoạn diệt được tám mươi tám món kiến hoặc [64] thì sẽ có được trí tuệ chân chính. Lúc ấy quý vị có thể thấy được các niệm vô minh sinh khởi phiền não trong mình cũng nhiều như cát sông Hằng. Mặt trời trí tuệ chiếu soi vào khách trần phiền não – qua ví dụ của A-nhã Kiều-trần-như – cũng như ánh sáng mặt trời chiếu qua khe cửa. Hang động âm u của vô minh sẽ được chiếu sáng, lúc ấy quý vị sẽ nhận ra khách trần phiền não, và quý vị sẽ được giác ngộ.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần chánh văn_Mục 118)
+ Trí huệ chân chính (True idea): Một ý tưởng xuất phát từ các phân cảnh trực giác của tâm thức thiêng liêng là một trí huệ chân chính.(VCVTDT, 189)
+ Trí huệ từ đâu mà có: TRÍ HUỆ CHẲNG LÌA GIỚI, ĐỊNH, HUỆ, NHẤT ĐỊNH TỪ GIỚI - ĐỊNH MÀ KHAI TRÍ HUỆ, TRÍ HUỆ MỚI THẤU LỘ. Nguồn: Tịnh Không Giảng Giải Ký
+ Siêu trí tuệ: Siêu trí tuệ là sự đáp ứng của thể trí giác ngộ với Thiên Trí (CTHNM, 495)
+ Trí Huệ Từ Đâu mà có: "Chẳng vượt biển trí Văn Thù, khó nhập hạnh môn Phổ Hiền"
* Trong xã hội hiện thời, nhìn trên hình thức, giáo dục dường như rất phát triển, trường học rất nhiều. Quan sát cẩn thận, tất cả sự giáo dục hiện thời, chúng ta thường nói là giáo dục gia đình, giáo dục trong học đường, giáo dục trong xã hội, cho đến giáo dục tôn giáo, đều chẳng nhấn mạnh trí huệ, chỉ nhấn mạnh kiến thức. Chư vị phải biết: Trí huệ và kiến thức khác nhau, chẳng tương đồng! Trí huệ có thể giải quyết hết thảy vấn đề, giải quyết rất viên mãn, chẳng để lại hậu quả. Kiến thức có hạn chế, nó chẳng thể giải quyết hết thảy vấn đề, có những vấn đề có thể giải quyết được, nhưng cũng có những vấn đề chẳng thể giải quyết, lại còn để lại rất nhiều hậu quả, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này! Học rộng nghe nhiều, mà nếu chẳng có trí huệ, sẽ là tri thức (kiến thức). Trí huệ học từ đâu? Trí huệ chẳng lìa Giới, Định, Huệ, nhất định là từ Giới - Định mà khai trí huệ, trí huệ mới thấu lộ. Nói cách khác, người tâm thường ở trong Định, sẽ dễ khai trí huệ. Nếu một kẻ tâm bộp chộp, hời hợt, làm sao có trí huệ cho được? Nguồn: PS Tịnh Không
Xem hình ảnh 4 cõi thấp - Hạ trí
Xem: Xem Rộng Trí Tuệ là Cung 1 – 4 – 5
Xem: TH về Cõi trí, Thể trí (Thượng, hạ trí), Cung Thể Trí
Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị
Xem: TH về Trí tuệ, Cung Thể Trí Và Cõi Trí (Hạ Trí và Thượng Trí)
+ Người trí: ... Có mười sự chứng tỏ đó là người trí:
Một là biết kẻ hiền người ngu; Hai là biết kẻ sang người hèn; Ba là biết kẻ giàu người nghèo; Bốn là biết việc nào khó việc nào dễ; Năm là biết việc nào đáng bỏ việc nào nên làm; Sáu là biết nhiệm vụ của mình; Bảy là vào nước nào biết được phong tục của nước đó; Tám là biết được chỗ trở về; Chín là học rộng hiểu nhiều; Mười là biết được túc mạng. Mười việc đó chứng tỏ người có trí.
Kinh dạy: "Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn, có đánh nhau mới biết kẻ yếu người mạnh, có luận nghị mới biết được người trí, lúc cơm thua gạo kém mới biết người có lòng nhân." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Người có trí - Người trí: Đức Phật bảo A-nan: Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông, những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ. HT Tuyên Hóa giảng:
Hàng trí thức thích dùng những thí dụ để được khai ngộ. Vì khi quý vị thực sự có trí tuệ thì quý vị có thể hiểu được mười điều khi chỉ cần nghe một điều - Đó là có trí tuệ chân chính. “Người trí” mà trong kinh văn nói đến không phải là người có trí tuệ chân chánh mà là những người có trí thức thông thường, không cao không thấp. Họ có thể được giác ngộ thông qua việc sử dụng những thí dụ. Nhưng nếu những người chậm lụt, thiếu trí tuệ, nếu đưa cho họ một ví dụ, họ sẽ không hiểu nổi (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần kinh văn)
+ Người có trí tuệ - Đức Phật dậy:
14- Này các đệ tử, có trí tuệ thì không có tham trước, luôn luôn tự tỉnh thức và tự dò xét, nhờ đó người ấy có khả năng giải thoát trong giáo pháp của Như Lai. Nếu không có trí tuệ thì không xứng danh là bậc xuất gia. Trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sanh tử, là ngọn đèn sáng chói trong hắc ám vô minh, là dược liệu thần y của mọi bịnh tật và là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế, các vị cần trau dồi tuệ giác “văn, tư, tu” để tăng trưởng lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu thì dẫu là mắt thịt vẫn là người chánh kiến, thấy rõ bản chất mọi vật. Nguồn
+ Ðức Phật dạy: "Tỳ-kheo các ông! Nếu có trí huệ thì không tham đắm, vướng mắc. Thường tự xét mình, chẳng để có sai sót. Như vậy thì ở trong pháp ta có thể được giải thoát. Nếu chẳng được vậy, thì chẳng phải người tu đạo, cũng chẳng phải người thế tục, chẳng có tên để gọi. "Trí huệ thật là chiếc thuyền bền chắc đưa người vượt qua biển già, bệnh, chết; lại như ngọn đèn lớn sáng soi trong chỗ vô minh đen tối; như món thuốc hay trị được hết thảy bệnh tật; như cái rìu sắc bén đốn ngã cây phiền não. Vậy nên các ông phải lấy các môn trí huệ là nghe biết, suy xét, tu tập mà tự làm tăng thêm phần ích lợi. Nếu người được sự chiếu sáng của trí huệ, thì dù chỉ có mắt thịt, nhưng chính thật là người thấy rõ tất cả. Như vậy gọi là trí huệ." - Nguồn: Xem tại đây
+ 154. Có Trí Tuệ_Đức Phật dậy
- Là Người ham học hỏi và thực hành các Pháp lành: Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có trí tuệ tốt đẹp? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào thường hay đến nơi kia hỏi việc. Nếu có Sa-môn, Phạm chí danh đức, người ấy thường đến nơi ấy mà hỏi đạo nghĩa, rằng ‘Thế nào là nghiệp thiện, thế nào là bất thiện? Thế nào là tội, thế nào là không tội? Thế nào là vi diệu, thế nào là không vi diệu? Thế nào là trắng, thế nào lào đen? Trắng và đen từ đâu sanh ra? Ý nghĩa của quả báo hiện tại là thế nào? Ý nghĩa của quả báo vị lai là thế nào? Ý nghĩa quả báo hậu thế như thế nào? Hỏi xong lại thường thực hành. Người ấy thọ nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian, có trí tuệ tốt đẹp. Nguồn (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ LỜI PHẬT DẠY VỀ SỰ NHÌN THẤU ĐỂ CÓ MỘT CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC
- KHÔNG TRANH CHẤP LÀ TỪ BI
- KHÔNG TRANH LUẬN LÀ TRÍ TUỆ
- KHÔNG NGHE THẤY LÀ SỰ THANH TỊNH
- KHÔNG QUAN SÁT LÀ SỰ TỰ TẠI
- KHÔNG THAM LAM LÀ BỐ THÍ
- BỎ ÁC LÀ CÁI THIỆN
- SỬA ĐỔI BẢN THÂN LÀ SÁM HỐI
- NHÚN NHƯỜNG CHÍNH LÀ LỄ PHẬT
- THA THỨ LÀ GIẢI THOÁT
- BIẾT ĐỦ CHÍNH LÀ BIẾT BUÔNG BỎ
- LỢI CỦA MỌI NGƯỜI CHÍNH LÀ CÁI LỢI CỦA BẢN THÂN.
* NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
+ Ðức Phật dạy:
Người trí tuệ vì bị vô minh che khuất, ái duyên ràng buộc, nên có được thức thân này. Kia vô minh dứt trừ, ái duyên hết sạch. Do vô minh dứt trừ, ái duyên hết sạch, nên sau khi chết không còn tái sanh nữa. Vì chẳng thọ sanh trở lại nên giải thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Vì sao? Vì người này trước đây đã tu phạm hạnh, chân chánh hướng đến dứt sạch khổ, tận cùng của mé khổ, nên người này sau khi chết không tái sanh trở lại. Bởi không thọ thân nên giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Đó là chỗ sai khác giữa phàm phu và người trí tuệ khi ở nơi Ta tu các phạm hạnh.(Kinh A Hàm).
+ Người Trí Tuệ - Người Quang minh: Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”. (Trích lời giảng của HT Tuyên Hóa trong câu Thần Chú Đại Bi số 37. Thất na thất na)
+ Người Trí: Ðức Phật dạy, Người trí được ví như con ngựa phi nước đại, bỏ sau con ngựa yếu hèn kém để nêu rõ hạnh tinh cần của người trí giữa các người phóng dật, và sự tỉnh thức của người trí giữa quần mê: "Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn (Kinh Pháp Cú 29)
- Kẻ trí thấy rõ cần phải nhiếp phục tự thân: "Người trị thủy dẫn nước, Kẻ làm tên nắn tên, Người thợ mộc uốn gỗ, Bậc trí nhiếp tự thân. (Kinh Pháp Cú 80)
- Và sau đây là hạnh của người trí giữa khen chê ở đời: "Như tảng đá kiên cố, Không gió nào lay động, Cũng vậy giữa khen chê, Người trí không giao động." (Kinh PC 81)
- Nói cho rõ hơn, người trí có một lựa chọn dứt khoát giữa thiện và bất thiện: "Kẻ trí bỏ pháp đen, Tu tập theo pháp trắng, Bỏ nhà sống không nhà Sống viễn ly, khó lạc." (Kinh PC 87)
+ Chất trí (Mind–stuff): X. Chitta.
+ Trí tuệ/ Trí năng tức là THỂ TRÍ. (ASCLH, 254;
+ Trí tuệ = Thông tuệ_CTNM, 588)
+ Nguyên khí trí tuệ: Cái phân biệt con người với con thú đơn thuần. Đó là nguyên khí biệt lập ngã tính; Giúp con người nhận biết sự tồn tại, cảm nhận và tri thức. Thường chia 2 phần, thượng trí hay trí trừu tượng và hạ trí hay trí cụ thể. (TVTTHL, 355)
+ Trí năng: Gồm lý trí, phán đoán, tưởng tượng, so sánh và các quan năng trí tuệ khác (MTNX, 148)
+ Trí tuệ là ngã thức sáng suốt, hướng dẫn và điều khiển hoạt động của Phàm ngã hội nhập, xuyên qua thể trí và bộ óc, và hoạt động qua bí huyệt cổ họng và bí huyệt ấn đường. (TLHNM–II, 233)
+ Trí tuệ - Manas:
1. Manas là nguyên khí thứ năm.
2. Manas là điện: Chúng ta biết không hiện tượng nào trong thiên nhiên – hoàn toàn không liên hệ với từ lực hoặc là điện lực – vì, nơi nào có chuyển động, nhiệt, ma sát, ánh sáng, nơi đó có từ lực và Alter Ego của nó (theo thiển ý chúng tôi) – điện sẽ luôn luôn xuất hiện như là nguyên nhân hoặc là hậu quả - hay đúng hơn là cả hai, trừ phi, nếu chúng ta thăm dò sự biểu lộ đến nguồn cội của nó...... (LVLCK, 309)
+ Manas: Là trí tuệ biểu lộ trong tiểu thiên địa.(ASCLH, 15)
+ Linh hồn có thể được xem như là nguyên khí trí tuệ. (TLHNM I, 38)
+ Siêu trí tuệ: Siêu trí tuệ là sự đáp ứng của thể trí giác ngộ với Thiên Trí (CTHNM, 495)
+ Trí tuệ chân thật siêu vượt thể trí biện thông rất nhiều .. (PS Tịnh Không giảng: Xem chi tiết)
+ Trí tuệ: Trí tuệ tiến hóa qua nhiều kiếp sống phát triển trí tuệ và tư duy đúng, cho đến một lúc nào đó chúng ta trải nghiệm đủ cả 2 cấp độ cao và thấp của trí tuệ. Trong sự phát triển, chúng ta tiến từ nhận thức trong hạ trí cụ thể đến nhận thức trong trí trừu tượng. Trí cụ thể:
1. Thu đạt kiến thức.
2. Nhận và xử lý thông tin từ 5 giác quan.
3. Phân biệt, phân chia, phân tích, liên lệ, suy nghĩ, học hỏi và suy diễn sự việc.
4. Tạo hình tư tưởng, hình ảnh, lời nói.
5. Nằm trong cảnh giới của ảo tưởng cho đến khi nó không còn bị tác động bởi dục vọng, kiêu căng và định kiến.
6. Sáng tạo bởi vì năng lượng theo tư tưởng.
Hạ trí chịu trách nhiệm về khả năng nhận thức của chúng ta. Gồm việc suy nghĩ, suy luận, phân tích, so sánh, học tập, hình dung và phân biện. Tất cả các hoạt động thông thường của não bộ thuộc về trí cụ thể. Não bộ - Thành phần của thể xác và nó không suy nghĩ. Nó đơn giản là một công cụ tinh tế nhất đáp ứng với hoạt động của thể trí và chuyển nó thành hành động trong cõi hồng trần.
+ Chitta hay chất trí (mind-stuff) trở nên rung động mạnh mẽ hơn, và hiện giờ chúng ta có giai đoạn hoạt động mãnh liệt nhất của nó theo ý nghĩa cụ thể.
- Năng lượng trí tuệ trong phạm vi mà nhân loại có liên quan cũng thành ba khía cạnh. Do đó chúng ta có:
1. Trí cụ thể thấp, được gọi là chitta hay là chất trí (mind stuff) theo Yoga Điển Tắc của Patanjali.
2. Trí trừu tượng, hay là trạng thái của trí có liên quan đến thế giới ý niệm.
3. Trực giác hay lý trí thuần túy, mà đối với con người, là khía cạnh cao nhất của trí năng (mentality, trí lực).
Ba khía cạnh này thuộc phạm vi bao phủ của sự biểu lộ trong trạng thái thứ ba của Ngôi Lời (Logos), là Thiên Trí (Universal Mind), tức Thượng Đế thông tuệ hoạt động. Các đường lực (lines of force) từ ba khía cạnh thấp này dẫn trở lại (nếu người ta có thể sử dụng một diễn đạt không thích hợp như thế) lên đến cõi thứ ba, trong khi các đường lực cảm dục dẫn trở lại đến cõi thứ hai hay cõi Chân Thần (monadic plane) mặc dù trong phạm vi mà ý thức con người có liên quan, thì chúng chỉ dẫn trở lại đến cõi bồ đề hay cõi trực giác (buddhic or intuitional plane).
Do đó chính nguyên khí trí-tuệ trong nhân loại mới mang Chân-ngã-thể (egoic body), tức thể nguyên nhân (causal vehicle), tức karana shrira, hoa sen có mười hai cánh, vào biểu lộ. Dĩ nhiên, ở đây chúng ta đang nói hoàn toàn theo các thuật ngữ của khía cạnh hình tướng (LVHLT, 361)
+ Trí hữu dụng: ..... “Thiên tử, sao gọi là “trí”? Trí là nhẫn đạo (20), sở dụng của tâm, chẳng phải vô dụng, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Công năng của Trí quy về nơi “đoạn”, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Trí biết năm Ấm (21), biết mười hai Nhập (22), biết mười tám Giới (23), mười hai Nhân duyên (24), là xứ phi xứ, vì vậy, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng."(Nguồn: Phật bảo BT Văn Thù giảng giải)
+ Ngộ chữ Ý trong Thân Khẩu Ý thuộc Thập thiện - Trí phân biện hay Trí tuệ phân biện hay Trí huệ
Bèn xin mẹ đi học đạo. Bà bằng lòng. Hiền Nhân đi, ròng rã tìm được bực minh sư xin làm Sa môn, vào núi tu hành. Chẳng bao lâu, Hiền Nhân tự ngộ được ý:
1. Thương xót chúng sanh như mẹ thương con.
2. Muốn độ thoát cho thế gian khốn khó.
3. Dứt trừ được tâm niệm ngu si.
4. Gặp vui không mừng mà gặp khổ cũng không lo ngại.
5. Hiểu được ý đạo, tâm thường vui vẻ.
6. Giữ gìn không phạm một tội lỗi nào.
7. Dứt trừ được tham, dâm.
8. Dứt trừ được sự giận dữ.
Người lại còn trừ được năm món dục lạc. Mắt không còn tham đắm hình sắc trần gian. Tai không còn tham đắm âm thanh vi diệu. Mũi không nhiễm mùi hương ngây ngất. Lưỡi không ưa thích vị ngon và thân không còn ưa lụa là và cảm giác êm dịu. (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Bản năng tinh thần là khía cạnh thấp nhất của trực giác, cho thấy việc sẵn sàng được điểm đạo lần I. (ĐĐTKNM II, 267)
+ Bản năng: Đó là lãnh vực của mặt trăng trong Chiêm tinh học. (Chân Sư DK: Phản ứng theo bản năng, nghĩa là không suy nghĩ, không giám sát hoặc kiểm soát, hoàn toàn tự động_Theo Tooltip "Phản ứng theo bản năng")
+ Bản năng nằm dưới trình độ của ý thức, nhưng bảo tồn và chi phối đa số các thói quen và sự sống của cơ thể. Nhiều lối sống theo tình cảm bị chi phối như thế. Bản năng kềm chế xuyên qua bí huyệt nhật tùng (solar plexus) và các bí huyệt thấp. (TLHNM–II, 232)
+ Bản năng tức là các kinh nghiệm được tích lũy lại do di truyền trong các hình hài mới (new forms). (MTNX, 211)
+ Năm bản năng chính vượt chội theo Tâm Lý Học
1. Bản năng tự bảo toàn (instinct of self – preservation) có nguồn gốc của nó trong nỗi sợ hãi bẩm sinh về cái chết; do có sự sợ hãi này mà nhân loại đã chiến đấu theo cách của nó đến mức hiện tại của nó về tuổi thọ và sức chịu đựng. Các ngành khoa học bận tâm đến việc bảo toàn sự sống, kiến thức y học hiện đại, và những thành tựu của sự tiện nghi văn minh, tất cả đã phát triển từ nỗi sợ hãi cơ bản này. Tất cả đã hướng tới sự tiếp tục tồn tại của cá nhân, và hướng đến điều kiện duy trì sự tồn tại (being) của y. Nhân loại tiếp tục tồn tại, với tư cách một giống loài và một giới trong thiên nhiên, là một kết quả của xu hướng sợ hãi này, phản ứng có tính bản năng này của đơn vị nhân loại đưa đến sự tự tồn mãi mãi (selfperpetuation).
2. Bản năng giới tính (instinct of sex), có gốc rễ chính của nó trong sự sợ hãi về sự tách biệt và sự cô lập, và trong một sự nổi dậy chống lại tính đơn nhất chia rẽ trên cõi trần, chống lại sự cô độc (aloneness); và nó đã dẫn đến việc tiến tới trước của nhân loại và sự tiếp tục tồn tại và sự nhân giống của các hình hài mà nhờ đó nhân loại có thể đi vào sự biểu lộ.
3. Bản năng sống bầy đàn (herd instinct) có thể dễ dàng được thấy là có gốc rễ của nó trong một phản ứng tương tự; vì cảm giác an toàn và vì sự an ninh được bảo đảm và được tin chắc – dựa trên những tập hợp về số lượng – con người đã luôn luôn tìm đến loại riêng của họ và sống thành bầy nhóm với nhau để phòng vệ, và để ổn định kinh tế. Nền văn minh hiện đại của chúng ta là kết quả từ phản ứng do bản năng này của nhân loại nói chung; các trung tâm rộng lớn của nó, các thành phố khổng lồ và các khu chung cư tập trung của nó đã xuất hiện, và chúng ta có việc sống theo bầy đàn hiện đại, được đưa đến bậc thứ n (nth degree).
4. Bản năng lớn thứ tư, là bản năng tự khẳng định (selfassertion), cũng dựa trên sự sợ hãi; nó bao hàm sự sợ hãi của cá nhân rằng y sẽ không nhận thức được và như thế mất đi nhiều thứ mà nếu không thì sẽ thuộc về y. Theo thời gian qua, sự ích kỷ của nhân loại đã phát triển như thế đó; ý thức về tính hám lợi của nhân loại đã phát triển và năng lực nắm lấy cơ hội đã xuất hiện (“ý muốn quyền lực” dưới hình thức này hoặc hình thức khác), đến ngày hôm nay chúng ta có chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ, và ý thức tích cực về tầm quan trọng vốn đã tạo ra nhiều sự rắc rối về kinh tế và quốc gia thời hiện đại. Chúng ta đã vun trồng tính tự quyết, tính tự khẳng định và tính tư lợi, cho đến khi chúng ta bị gặp phải một khó khăn hầu như không thể vượt qua. Nhưng ngoài mọi điều đó, nhiều điều tốt lành đã đến và sẽ đến, vì không có cá nhân nào có giá trị cho đến khi y nhận thức giá trị đó cho chính y, và lúc bấy giờ, một cách dứt khoát, y hy sinh các giá trị đã hoạch đắc cho lợi ích của tổng thể.
5. Đến lượt bản năng tìm hiểu (instinct to enquire) được dựa trên sự sợ hãi cái không biết, nhưng ngoài sự lo sợ này, đã xuất hiện – như là kết quả của cuộc tìm hiểu lâu đời – những hệ thống giáo dục và văn hóa và toàn bộ cấu trúc về nghiên cứu khoa học của chúng ta hiện nay.
Những xu hướng, dựa trên sự sợ hãi (vì con người vốn thiêng liêng) đã tác động như một sự kích thích phi thường của toàn bộ bản chất của con người, và đã đưa y tiến tới đến trình độ hiểu biết và hữu dụng rộng rãi hiện tại của y, chúng đã tạo ra nền văn minh hiện đại của chúng ta với mọi khuyết điểm của nó, và tuy thế, với mọi thiên tính được biểu thị của nó. Từ những bản năng này được đưa tới vô cùng tận, và từ tiến trình chuyển hóa của chúng thành các tương ứng cao hơn của chúng, Sự nở hoa trọn vẹn của sự biểu lộ của linh hồn sẽ xuất hiện. Tôi muốn nêu ra những điều sau đây:
- Bản năng tự bảo toàn tìm được tuyệt đỉnh của nó trong tính chất bất tử chắc chắn, và về việc này, công việc mà các nhà duy linh (spiritualists) và các nhà sưu khảo tâm linh đảm trách theo các thời đại là phương pháp tiếp cận và sự đảm bảo chắc chắn.
- Bản năng phái tính đã thể hiện và tìm thấy tuyệt đỉnh hợp lý của nó trong mối quan hệ − được nhận thức một cách hữu thức – của linh hồn và thể xác. Đây là ý chủ đạo (keynote) của chủ nghĩa thần bí và tôn giáo, mà ngày nay, cũng như luôn luôn, là sự biểu lộ của Luật Thu Hút (Law of Attraction), không phải khi nó tự thể hiện qua hôn nhân ở cõi trần, mà khi nó tìm thấy tuyệt đỉnh của nó (đối với con người) trong cuộc hôn nhân siêu phàm được tiến hành với mục đích hữu thức giữa linh hồn dương với sắc tướng âm và có tính tiếp thu.
- Bản năng sống bầy đàn tìm thấy tuyệt đỉnh thiêng liêng của nó trong một ý thức tập thể được khơi hoạt, ngày nay điều đó được chứng tỏ trong xu hướng chung hướng tới những sự pha trộn (amalgamations), và sự dung hợp và trộn lẫn rộng rãi vốn đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Nó thể hiện trong khả năng suy tư dưới dạng chủ nghĩa quốc tế, các quan niệm phổ biến, mà cuối cùng sẽ dẫn đến việc thiết lập tình huynh đệ đại đồng.
- Bản năng tự khẳng định, đến lượt nó, đã cung cấp cho nền văn minh hiện đại của chúng ta chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ của nó, sự sùng bái thần tượng, và tạo ra sự thờ cúng tổ tiên và tôn sùng anh hùng. Tuy thế, nó đang dẫn tới sự khẳng định về Bản Ngã (Self), về Chủ Thể Cai Trị thiêng liêng ở nội tâm, và từ khoa tâm lý học mới mẻ nhất của chúng ta, sẽ xuất hiện một kiến thức về Chân Ngã (spiritual Self) tự tin và chi phối, và cuối cùng dẫn đến sự biểu lộ của giới linh hồn trên trần thế.
Và điều gì về bản năng cần tìm hiểu? Được chuyển hóa thành sự nghiên cứu thiêng liêng và được biến đổi bởi việc áp dụng ánh sáng linh hồn trong lĩnh vực điều nghiên, chúng ta sẽ có nhân loại được tiến vào Phòng Minh Triết, và như thế con người sẽ bỏ lại sau những kinh nghiệm của Phòng Kiến Thức. Các trung tâm giáo dục lớn của chúng ta sẽ trở thành các trường học cho sự phát triển nhận thức trực giác và hiểu biết tâm linh. (LVHLT, 629)
+ Phẩm tính bẩm sinh quyết định đời sống: Trong thái [186] dương hệ này, tất cả đều vận hành theo đại luật hấp dẫn, thế nên, rất có thể sự chọn lựa của chúng ta tùy theo mức độ rung động, màu sắc và âm điệu của chúng ta. Ý chí tự do vĩ đại hơn của hệ vũ trụ cũng có giới hạn, giống như ý chí tự do của hệ thái dương mà chúng ta là một thành phần, và ý chí tự do của chính con người. Chiều hướng bước tiến tương lai của chúng ta sẽ tùy theo phẩm tính bẩm sinh...... (Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)
+ Tri giác tinh thần (spiritual perception) tức bản năng trực giác có nghĩa là việc chuẩn bị sẵn sàng (preparedness) cho việc điểm đạo Biến Dung, tức điểm đạo lần 3. (ĐĐTKNM II, 267)
+ Phản ứng theo bản năng (Thầy Hiệu trường bình giảng sách Chân Sư):
Tôi (Chân Sư DK) không có ý định chỉ bàn riêng đến các ảo cảm đặc thù, mà chỉ muốn trao cho bạn một công thức mà - với một ít thay đổi và bổ sung - có thể giúp cho cá nhân và nhóm trong nhiệm vụ xóa tan ảo cảm.
1. Chân sư DK nói rằng Ngài không có ý định đề cập đặc biệt tới các ảo cảm cụ thể, vì Ngài đã liệt kê chúng ở trang 122, 123 của quyển sách Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới. Ngài chỉ cung cấp cho bạn một công thức mà với những thay đổi và bổ sung nhỏ có thể phục vụ cá nhân và nhóm trong nhiệm vụ xóa bỏ ảo cảm. Chân sư DK luôn luôn thực tế, và dù tầm vóc tư tưởng của Ngài thật vĩ đại, Ngài là một thành viên thực tế của Thánh Đoàn, cho chúng ta những phương pháp thực sự hữu ích.
Tôi muốn bắt đầu bằng cách nói rằng nhu cầu đầu tiên đối với con người là hiểu được rằng các phản ứng,
2. Thầy HT: Các bạn lưu ý từ “phản ứng”, từ đầu tiên trong nhóm từ các phản ứng, các ý tưởng, các ham muốn và kinh nghiệm, và khi bạn tìm thấy ở mình một phản ứng tự phát nào đó vượt lên trước khả năng của chính bạn để theo dõi phản ứng, bạn có thể nghi ngờ rằng có một ảo cảm nào đó đang rình rập.
+ Thầy HT: Các ý tưởng,
3. Chân Sư: Từ ý tưởng ở đây được dùng theo ý nghĩ thông thường, không phải các nguyên hình trên các cõi cao.
Thầy HT: Các ham muốn và kinh nghiệm trong đời sống của con người, về phương diện bản chất cảm xúc, bị chi phối bởi một hay nhiều ảo cảm, rằng y là nạn nhân của nhiều ảo cảm, đã nảy sinh qua nhiều kiếp sống, bám rễ sâu vào lịch sử quá khứ của y mà y phản ứng lại theo bản năng.
4. Chân Sư: Y phản ứng lại theo bản năng vì các ảo cảm đã bám rễ trong chúng ta từ rất lâu, có thể hàng triệu năm.
5. Chân Sư: Phản ứng theo bản năng, nghĩa là không suy nghĩ, không giám sát hoặc kiểm soát, hoàn toàn tự động - đó là lãnh vực của mặt trăng. Trong chiêm tinh học, Mặt trăng liên quan đến cái trong bạn được gọi là tiềm thức hoặc bản chất thứ hai. Do đó, bạn gần như có thể nhìn vào vị trí của mặt trăng, nhà của nó, dấu hiệu của nó, các góc hợp, v.v. để thấy các xu hướng đó, bởi vì ngoài các Cung, các dấu hiệu của hoàng đạo đều mang theo các ảo cảm đặc biệt của chúng, và sẽ là điều tốt để chúng ta có một ý tưởng về cách thức các năng lượng chiêm tinh không được quản lý có thể đóng góp phần vào tình trạng ảo cảm của chúng ta.
6. Chân Sư: Vì vậy, chúng ta phải nhận thực được, dù chúng ta có thể không nghĩ về điều này, rằng thực sự là chúng ta bị kiểm soát bởi một hoặc nhiều ảo cảm.
7. Chân sư DK là bậc thầy trong việc đặt tên, mô tả, xác định chính xác các ảo cảm mà đệ tử của Ngài đang chịu, ngay cả khi các ảo cảm đó không nằm trong số những ảo cảm thông thường hoặc được liệt kê .
8. Chân Sư: Ngài nói, tất cả những ảo cảm này có một lịch sử rất cổ xưa, và tiềm thức—nơi ẩn chứa lịch sử quá khứ đó—có thể trở lại sôi sục, và khi chúng ta chinh phục được ảo cảm, chúng ta đang cứu chuộc quá khứ và tiết lộ sự thật mà các khuynh hướng bản năng đã che giấu.
WEBINAR ẢO CẢM — LÝ THUYẾT VỀ KỸ THUẬT ÁNH SÁNG (P. 1). Đây là phần lược dịch webinar Ảo cảm số 19 của Thầy Hiệu trưởng. Trong webinar, Thầy Hiệu trưởng giảng giải trang 207-209 của quyển Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới.- Anh Kiệt dịch
+ Nguyên nhân của bạo loạn, cách mạng và chiến tranh: TRANH GIÀNH QUYỀN LỢI
Bản năng sinh tồn đưa đến tranh dành quyền lợi. Tranh dành quyền lợi đưa đến hận thù, giận dữ và mất mát. Hận thù, giận dữ và mất mát sẽ đưa đến bạo loạn, cách mạng và chiến tranh. Chuỗi dài lôi kéo đó không biến cải được tâm thức con người mà chỉ đưa đến khổ đau chồng chất mà thôi. Hạt mầm của bản năng sinh tồn vẩn còn nguyên bên trong tâm thức, nó nẩy mầm, bắt rễ, ăn sâu vào tâm thức và cả trên da thịt mình. Tranh dành quyền lợi, nổi loạn, chiến tranh, cách mạng chỉ là hậu quả bùng ra bên ngoài. Đức Phật diệt ngay hạt mầm đó của bản năng sinh tồn một cách thật đơn giản: một chiếc bình bát trên tay_Nguồn: Đại Lai Lạt Ma
+ Trong Kinh đức Phật dậy: Pháp của ngài có thể được tóm tắt gọn trong câu "Đối với tất cả đều không chấp trước". Ngài nói, đại khái ai hiểu thấu được và thực hành được câu này thì hiểu và thực hành được toàn bộ giáo pháp của Ngài
+ Chấp trước - Nguồn gốc của khổ đau: Một trong số những tâm lý tiêu cực cần chuyển hóa càng sớm càng tốt là tâm lý cố chấp, một “thành viên cứng đầu” tạo lực cản không nhỏ làm trì trệ, bế tắc và thậm chí, đưa đến sự nản lòng của chúng ta trên con đường tu tập và chuyển hóa. Người nào thiên nặng về tâm lý cố chấp được Đức Phật gọi là người “cố chấp”, “chấp trước”, “khó nói” và là đối tượng để Ngài giáo hóa và nhắc nhở. Người cố chấp: như tằm kéo kén......
Đức Phật từng tuyên bố rằng, người nào có thể bỏ bớt “cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả” ... (Kinh Đoạn giảm, Trung bộ kinh số 8) và dĩ nhiên, đau khổ cũng theo đó giảm dần. .... Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng “con người tự mình bị rơi vào bùn lầy thì không thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy”, một người cố chấp tư kiến, tự ràng buộc mình, không tự giải thoát thì không thể nào giúp người khác từ bỏ cố chấp tư kiến được. Nói cách khác, người cố chấp thì không thể khuyên người khác đừng có cố chấp! Đây là sự thật hiển nhiên vì một khi không tự giúp mình thì không thể giúp ai! Và thực tế hơn, không ai có thể cho đi những gì mình không có!
Một người tự buộc mình trong ổ kén của cố chấp thì không thể tiếp cận được Tam bảo, như ở trong “vùng mù” của bóng đêm thì không thể tiếp cận ánh sáng mặt trời vậy.
Người cố chấp: xa rời Tam bảo
Chúng ta không khỏi giật mình khi Đức Phật nói rằng, với “người cố chấp khó thuyết phục, vị ấy sống không cung kính, không tôn trọng bậc Đạo sư, không cung kính, không tôn trọng Pháp, không cung kính, không tôn trọng Tăng chúng, không viên mãn sự học tập” (kinh Trường trảo, Trung bộ kinh số 74). Người có tánh cố chấp không lường được tai hại thế này! ....
Ở một bài kinh khác, Đức Phật nói rằng người cố chấp tự mình ngăn chặn những cơ hội tiếp cận và học hỏi từ Đức Phật (bậc Đạo sư), giáo pháp, chư Tăng và các học pháp (giới) và đây là gốc rễ đưa đến sự tranh đấu vì họ sống trong vô minh, mê mờ của dục vọng và cố chấp. Những phẩm chất đặc trưng của người cố chấp được ghi nhận trong kinh là “Người chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ, rất khó rời bỏ. Vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp” (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số 36: Gốc rễ của đấu tranh).
Họ tự bao bọc mình bằng lớp tà kiến vô cùng kiên cố. Đây là một loại “chất liệu không thấm” giáo pháp nên chúng ta không ngạc nhiên khi họ tự hạn chế mình trong khe hẹp nhận thức một chiều để rồi con đường họ đi là “càng xa bến giác, càng gần sông mê!”
Người cố chấp: một chiều trong nhận thức
Ở Tiểu kinh sư tử hống (Trung bộ kinh số 11), Đức Phật nói rằng, người cố chấp vào “pháp có” sẽ bị chướng ngại với các “pháp không”, và người cố chấp vào “pháp không” sẽ bị chướng ngại với các “pháp có”. Nói cách khác, người cố chấp không thể nào hiểu và chấp nhận những gì khác với suy nghĩ, nhận thức và niềm tin của mình! ....
.... Nếu người nào ý thức được điều này (Chấp có/ Không) và sống “bỏ tánh ý của mình và sống theo tánh ý của người khác” sẽ có đời sống cộng đồng hòa hợp như nước với sữa (Tăng chi bộ kinh, tập III, kinh số 122: Tranh chấp; tập V, kinh số 54: Thời gian để tinh cần; kinh số 78: Sự sợ hãi trong tương lai). Ngược lại, với tánh cố chấp, mỗi người là một ốc đảo lạnh lẽo, dù ở gần nhau vẫn không thể nào sưởi ấm cho nhau, ngược lại còn tạo chướng ngại cho nhau, khiến cuộc sống trở nên vô cùng mệt mỏi, căng thẳng và nặng nề.
... Người cố chấp không cho mình cơ hội để phá vỡ tường thành chấp pháp và chấp ngã, đồng thời không cho ai cơ hội “làm mới”! Họ là người tự vẽ vòng “kim cô” để giam hãm sự tự do của chính mình: tự do nhận thức, tự do chấp nhận và tiếp nhận những quan điểm khác với mình. Họ chỉ khư khư bảo thủ trong nhận thức một chiều, tự làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai mà không tự biết. Thậm chí với cái nhìn tà kiến thái quá, bất cập, người cố chấp có thể làm khổ ngay cả những người mà họ quý trọng thương yêu mà họ coi là “thần tượng”.
Người cố chấp: mắc bệnh “thần tượng”!
Người cố chấp muốn áp đặt suy nghĩ, khuôn khổ mà tự người ấy lên ni tấc cho những người mà họ thương yêu, quý mến. Nếu những người thân yêu làm những việc trái ngược với suy nghĩ và ý thích của mình, họ không chịu được! Họ không thể chấp nhận được một sự thật rằng mỗi người là một tiểu thế giới và là duy nhất đặc thù, không ai giống ai, nên mong ai đó sống theo “khuôn” mình đúc sẵn là một việc làm không thể! .... Khi “thần tượng” một ai đó, cái tâm lý “thương ai thương cả đường đi” nó cứ đeo bám và chúng ta cứ dõi theo từng bước chân của họ!
Người cố chấp: tham, sân sâu nặng
Một người cố chấp có thể nhận ra mình cố chấp, có thể đồng ý khi “bị quy vào” nhóm người bảo thủ, nhưng tuyệt nhiên họ khó chấp nhận mình là người nặng về tâm tham! Chính bản thân người cố chấp không bao giờ nghĩ rằng cố chấp là tham! Họ biết xả tài vật để cúng dường, bố thí không toan tính mà! Ấy vậy mà trong kinh Ví dụ con rắn (Trung bộ kinh số 22) thì Đức Phật nói người cố chấp là người còn nặng về tâm tham. ... Đức Phật từng tuyên bố “Do duyên chấp trước nên có xan tham” (Tăng chi bộ kinh, chương IX, phẩm III, kinh số 23: Ái).
Đức Phật từng nói rằng “Phàm phu thường chấp trước, chấp thủ và tham đắm” ( Tương ưng bộ kinh, tập I, chương VIII, phần II: Không khoái), còn những ai từ bỏ chấp thủ, sẽ xứng danh với tên gọi Tỳ-kheo hoặc Bà-la-môn (Pháp cú câu 367, 396, 414). Do đó, khi nào còn giữ tâm chấp trước, chấp thủ thì muôn kiếp mãi mãi là phàm phu mà thôi! Vậy mới thấy tâm lý cố chấp nguy hiểm và chướng ngại của đến dường nào!
Ở bài kinh Trường trảo (Trung bộ kinh số 74), Đức Phật dạy rất chí lý rằng, người cố chấp hễ thích cái gì thì cho cái đó là sự thật, ngoài ra là hư vọng, hễ thích ai thì cho chỉ có người đó là đúng, những người khác đều sai! ..... Mà một khi “có đối nghịch thời có tranh luận; khi nào có tranh luận thời có chống đối; khi nào có chống đối thời có bực mình” (Trung bộ kinh, số 74: kinh Trường trảo). Như vậy, người cố chấp tự tạo nên sự đối nghịch, tranh luận, chống đối và bực mình; do đó Đức Phật dạy, người đệ tử Phật nên từ bỏ cố chấp để tiến bộ trên con đường tu tập.
Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy rằng “chấp vào sân hận là sự cố chấp bền chặt nhất” (câu 151). Lại ở một bài kinh khác, Đức Phật dạy rằng nhiều người phẫn nộ, lại cố chấp sự phẫn nộ của mình, trở thành người khó nói. Khi những người thiện tri thức nhắc nhở, khuyên người ấy không nên trở thành “người khó nói” thì người ấy “tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình” (Trung bộ kinh số 15: kinh Tư lượng).
Thật bất hạnh và khổ đau cho những ai ôm trong lòng nhiều tham lam và phẫn nộ!
Người cố chấp: bất hạnh và khổ đau
Như một hệ quả tất yếu, người cố chấp cứ khư khư tham giữ lấy quan điểm của mình, xây thành trì phong kín ý niệm về “tôi” và “của tôi” một cách kiên cố, bất mãn và phẫn nộ với những quan điểm trái chiều. Đức Phật gọi những người như vậy là khó có thể mở lòng để tiếp thu, học hỏi thêm điều gì từ người khác. Như một ly nước đầy thì không thể chứa thêm được nước nữa, dù chỉ một giọt! Người như vậy không bao giờ kham nhẫn để có đủ thời gian và sự nhu nhuyến cần thiết để phân định đúng-sai, hay-dở, chỉ lo bảo thủ những gì thuộc về mình, và đẩy ra những gì mình không ưa thích. Đây là lý do Đức Phật nói người cố chấp góp phần làm cho Chánh pháp băng hoại. Ngài dạy, “Này các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo nào là những người khó nói, đầy đủ những tánh khiến họ trở thành khó nói, khó kham nhẫn, không cung kính đón nhận khi được giảng dạy. Đây là pháp khiến diệu pháp hỗn loạn và biết mất” ( Tăng chi bộ kinh, chương V, phẩm XVI, kinh số 156: Diệu pháp hỗn loạn). Người như vậy chỉ biết sống theo bản năng để xuôi theo dòng chảy về sông mê biển khổ, không tiếp cận được với giáo pháp để ngược dòng về bến giác an vui.
... Ngài xác quyết, người không chấp thủ được nhiều người ưa thích, gần gũi và thăm viếng khi có dịp (Tăng chi bộ kinh, chương VII, phẩm VI, kinh số 54: Siha). Điều này có thể được hiểu thêm rằng, người chấp thủ bị nhiều người không ưa thích, không gần gũi và thân cận, và đây là một bất hạnh lớn. Ở kinh Sáu thanh tịnh (Trung bộ kinh số 112), Đức Phật một lần nữa khẳng định người cố chấp bị ràng buộc, người không cố chấp mới có thể giải thoát. Đức Phật thẳng thắn chỉ ra rằng người còn cố chấp thì không thể nào chứng quả A-la-hán (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VIII, kinh số 76: A-la-hán quả). Ngài còn quả quyết rằng, “Ai chấp trước, này Tỳ-kheo, người ấy bị ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi ác ma” (Tương ưng bộ kinh, tập III, chương I, phẩm II, kinh số 1: Chấp trước). “Người chấp trước, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào địa ngục” (Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương VIII, phần VIII: Vỏ ốc)......
Chỉ có trí tuệ phát khởi từ công phu tu tập các pháp, điển hình là Thất bồ-đề phần mới có thể giúp hành giả phá vỡ thành trì cố chấp, giải thoát sự ràng buộc vào các nhận thức, quan điểm sai lầm vậy.
Thay lời kết: Dùng trí tuệ phá “tảng băng” cố chấp
Cố chấp thuộc về kiến thủ, tà kiến và biên kiến, là những món căn bản phiền não, gốc rễ sâu dày, đừng mong bứng một lần là lên ngay! ....
Sau khi quán chiếu cẩn thận, cần phải luôn nhắc mình trong chánh niệm, với những giới hạn nhất định của con người nói chung và giới hạn cụ thể của bản thân mình, nhận thức của một cá nhân như người mù sờ voi mà thôi! ......
Chúng ta xứng đáng để được sống trong nguồn hạnh phúc mà mình có khả năng tự chế tác để xứng đáng là người học và hành trì giáo pháp chân chánh! Sao lại không bắt đầu bằng việc dùng trí tuệ, kiên trì phá tảng băng cố chấp của chính mình?! (Nguồn: Chấp trước - Nguồn gốc khổ đau)
+ Hình thành bản năng: Theo như chúng ta được dạy, mục đích của tiến hóa là đạt được tâm thức trên tất cả các cõi; do việc đạt được tiến hóa ít oi của nhân loại mà cho đến nay chỉ có cõi hồng trần, mới ở dưới sự kiểm soát hữu thức.
Tri thức (knowledge) liên quan đến cõi giới, trong khi thông tin (information) có liên quan đến biểu hiện ngoại cảnh trọng trược nhất, toàn thể các sự kiện có liên hệ đến năm cõi phụ thấp của cõi trần (theo quan điểm huyền linh) đều được xem là công truyền. Trong hai giống dân kế tiếp, hai cõi phụ khác sẽ được chế ngự và toàn thể khối tri thức liên quan đến chất hồng trần và chất dĩ thái, đến năng lượng, hình hài và kinh nghiệm trên cõi trần, sẽ dễ dàng trở nên hữu ích đối với con người, và chỉ liên quan đến năm giác quan vật chất của con người.
Thông tin và tri thức về sự sống đang tiến hóa qua các hình hài, trong một thời gian khá lâu, sẽ được xem như là thuộc về nội môn (esoteric), cũng giống như sự lĩnh hội (apprehension) và sự thông hiểu (comprehen -sion) về trạng thái vật chất và các định luật đang chi phối năng lượng trên cõi cảm dục và trên cõi trí cũng thuộc loại đó. Phát biểu này có liên hệ đến thường nhân, tức là những người thông thường trong nhân loại. Thông tin bên ngoài hay công truyền, mà phần lớn con người thu lượm hay xác minh trong Phòng Học Tập, bằng ngũ quan và bằng kinh nghiệm. Thực nghiệm đúng lúc và sau nhiều chu kỳ luân hồi được chuyển hóa thành kinh nghiệm và điều này sau rốt tạo nên cái mà chúng ta gọi là bản năng, hay là phản ứng quen thuộc của một loại tâm thức nào đó, đối với một tập hợp các trường hợp hay hoàn cảnh. Hai yếu tố về giác quan và về sự tiếp xúc do thực nghiệm này, có thể được thấy đang xảy ra trong giới động vật và giới nhân loại; sự dị biệt giữa hai giới ở chỗ là con người có khả năng ghi nhớ một cách hữu thức, lĩnh hội, tiên đoán, sử dụng các kết quả của những kinh nghiệm đã qua, và như thế ảnh hưởng đến hiện tại cùng là chuẩn bị cho tương lai. Con người dùng bộ óc vật chất cho mục đích này. Con vật cũng có trí nhớ do bản năng (instinctual memory), có sự hiểu biết và khả năng tiên đoán còn phôi thai, nhưng, (vì thiếu thể trí) nó không thể điều chỉnh các kinh nghiệm đúng các trường hợp theo ý nghĩa sắp xếp trước, và thiếu khả năng để vận dụng một cách hữu thức, và như vậy gặt hái được lợi ích của các biến cố đã qua, và do kinh nghiệm học được cách thức mà con người hành động. Con vật dùng bí huyệt đan điền theo cùng một cách thức mà con người dùng bộ óc, đó là cơ quan của bản năng.
Tất cả những gì có được do bản năng và do việc sử dụng trí cụ thể, đang tác động qua bộ óc vật chất và có thể được xem như có liên hệ đến điều mà chúng ta gọi là công truyền. Như thế, hiển nhiên là tầm mức của sự kiện sẽ khác nhau tùy theo:
a. Tuổi của linh hồn.
b. Kinh nghiệm đã được phát triển và đã được vận dụng.
c. Tình trạng của não bộ và của thể xác.
d. Hoàn cảnh và môi trường.
Theo thời gian qua và con người đạt đến trạng thái tiến hóa khả quan, trí phát triển nhanh hơn và một yếu tố mới dần dần nảy sinh. Từ từ, trực giác hay trí siêu việt (trancendental mind) bắt đầu tác động và sau rốt thay thế hạ trí hay trí cụ thể. Lúc bấy giờ trực giác sử dụng bộ óc vật chất như là một âm bản tiếp nhận, nhưng cùng lúc phát triển được một số trung tâm lực trên đầu, và như thế chuyển di hoạt động của nó từ bộ óc vật chất, đến các trung tâm cao hơn ở đầu, tồn tại trong chất dĩ thái. Đối với đa số nhân loại, điều này sẽ xảy ra trong khi khai mở các cõi phụ dĩ thái trong hai giống dân sắp tới. Việc này diễn ra song hành trong giới động vật do sự di chuyển dần dần vùng hoạt động từ bí huyệt đan điền lên bộ óc còn thô sơ, và sự phát triển từ từ của nó do sự trợ lực của manas. (LVLCK, 286)
+ Tu học phải tìm minh sư:
1. Tôn giả A-Nan khải thỉnh Đức Phật về việc tín phụng Phật có quả báo bất đồng.
A-Nan bạch Phật rằng: “Có người tín phụng thờ Phật được giàu sang phú quý tốt lành như ý. Có người tín phụng thờ Phật lại phải quả báo không như ý, bị tiêu hao suy thoái. Tại sao có việc khác biệt lạ lùng như vậy? Cúi xin đức Thiên-Trung-Thiên (Phật) từ bi khắp vì chúng sanh mà giải nói cho. Phật đáp:
Phật bảo A-Nan: “Có người phụng sự Phật, theo bậc minh sư thọ giới, tin tưởng, tinh chuyên hành trì không phạm, tinh tiến phụng hành giáo pháp, không thối thất điều đã lãnh thọ.
Hình tượng Phật phải trang nghiêm tốt đẹp, sáng chiều thành tâm lễ bái, cung kính thắp đèn nến, thanh tịnh bố thí được phước báo an lạc, hành vi không trái với lời Phật dạy, trì trai giữ giới không gián đoạn, không mỏi mệt, như thế lòng mới được an vui.
Thường được chư Thiên, thiện thần ủng hộ, tâm cầu như ý, hành sự như nguyện, trăm việc tăng tiến gấp đôi, được trời rồng quỷ thần mọi người kính trọng, về sau đắc đạo.
Kẻ thiện nam, người thiện nữ (y như giáo pháp đức Phật mà chánh tâm tu hành) là chân thật đệ tử Phật.
Có người tin phụng Phật mà không chịu tìm minh sư, không nghiên cứu kinh Phật, chỉ thọ giới thôi.
Chỉ có được cái danh thọ giới, mà hồ đồ mê muội không tin năng lực của giới, trái phạm giới luật, khi tin khi không, tâm ý do dự. Không có tâm hoan hỷ cung kính kinh điển tượng Phật, nên chẳng thành kính thắp hương đèn lễ bái, lại riêng ôm lòng nghi ngờ, giận hờn mắng nhiếc, ác khẩu đố kỵ người hiền.
Lại chẳng thực hành lục trai, ham thích sát sanh. Không tôn kính Phật, để kinh Phật chung lộn với áo quần vật bẩn thỉu; hoặc để kinh Phật chỗ bất tịnh giường ghế của vợ con; hoặc treo vắt trên ghế trên phên vách, không có tâm cung kính làm kệ tủ để kinh sách, xem thờ kinh Phật như kinh sách thế gian không khác.
Nếu khi bệnh tật, tự mình không tin tiền nhân nghiệp quả lại cầu hỏi thầy bói thầy phù thủy làm sớ văn cúng tấu để mong giải trừ. Thờ tà thần thì thiện thần xa lánh không còn hộ trì, do đây mà yêu tinh quỷ mị ngày một đến thêm nhiều, ác quỷ tụ tập nơi cửa khiến cho suy kiệt tổn hao, sở cầu không được tốt, hoặc mới vừa từ trong ác đạo ra được làm người, tuy là đời nay làm người, nhưng vẫn là người còn mang nặng tập khí tội lỗi. Hạng người như thế không phải đích thực là Phật tử. (Nguồn: Kinh A Nan vấn Phật sự cát hung)
+ Tập khí nghiệp báo: Không biết nghiệp đã tạo trong quá khứ, nhưng biết nghiệp đã tạo ở đời này, nghiệp đã tạo ở đời này đều là tập khí nghiệp chướng trong đời quá khứ. Cho nên, xem những nghiệp chướng tập khí nào của chúng ta rất nặng ở ngay trong đời này, thì biết đây là sự tiếp nối đời đời kiếp kiếp trong đời quá khứ. Bạn nói ý niệm tham tài rất nặng, đây không phải là đời này học được, chắc chắn là sự tiếp nối trong đời quá khứ. Sân hận rất nặng, đặc biệt nặng, tâm dâm dục rất nặng, đây đều là tập khí trong đời quá khứ. Bạn có thể từ chỗ này mà phản tỉnh kiểm điểm thì bạn sẽ biết được thôi. Bạn ở trong đời này đặc biệt yêu thích thứ gì, đó chính là tập khí trong đời quá khứ. Tập khí thiện thì tốt, là thiện căn, tập khí ác thì sẽ tạo thành nghiệp chướng. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Nghiệp báo - Quả báo:
3- Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt: * Tóm lược Kinh: Phật bảo Thủ Ca: Tất cả chúng sinh có liên quan với nghiệp, nương tựa nơi nghiệp, theo nghiệp tự chuyển. Do nhân duyên ấy có phân ra: thượng, trung, hạ, sai khác chẳng đồng:
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh bị quả báo mạng sống ngắn ngủi;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh được quả báo mạng sống trường thọ;
Bị quả báo nhiều bệnh tật - ít bệnh tất;
Bị quả báo thân xấu xí - thân đẹp đẽ;
Bị quả báo uy thế yếu - uy thế mạnh;
Bị quả báo dòng họ hạ tiện - Dòng họ cao thượng;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh của cải ít - Của cải nhiều;
Bị quả báo trí tà kiến (thấy biết sai lệnh không đúng nhân quả) - Trí chân chính;
Bị quả báo địa ngục - Súc sinh - ngạ quỷ - A-tu-la;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh được quả báo loài người - Trời Sắc giới - Trời vô sắc giới;
Bị quả báo không cố định;
Bị quả báo sinh chỗ biên địa (vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới…) - Sinh nơi thành phố, thủ đô;
Bị quả báo phải chịu đủ tuổi thọ ở địa ngục;
Bị quả báo phân nửa tuổi thọ ở địa ngục;
Bị quả báo tạm vào liền ra;
Khiến chúng sinh làm mà chẳng tập - Tập mà chẳng làm - Cũng tập cũng làm - Chẳng làm chẳng tập;
Khiến chúng sinh trước vui sau khổ - Trước khổ sau khổ - Trước vui sau vui - Trước khổ sau vui;
Khiến chúng sinh nghèo mà thích bố thí - Giàu mà xan tham (tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ…);
Khiến chúng sinh được thân vui mà tâm chẳng vui - Tâm vui mà thân chẳng vui - Thâm tâm đều vui - Thân tâm đều chẳng vui;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh tuổi thọ tuy hết mà nghiệp chẳng hết - Nghiệp tuy hết mà tuổi thọ chẳng hết;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ đều hết;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ cả hai đều chẳng hết mà đoạn trừ tất cả phiền não;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh đoạ vào đường ác mà thân hình đẹp lạ, mày mắt đoan trang, màu da tươi sáng được mọi người thích nhìn;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nơi đường ác mà thân hình xấu xí, da dẻ thô nhám, người chẳng thích nhìn;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh sinh vào đường ác mà thân miệng hôi thối, các căn khiếm khuyết (mắt, tai mũi, lưỡi… không được trọn vẹn);
Hoặc có chúng sinh tập hạnh thế gian mười bất thiện nghiệp bị ác báo bên ngoài;
Hoặc có chúng sinh tập hạnh thế gian mười điều thiện nghiệp được quả báo thù thắng bên ngoài.
Ví như có chúng sinh lễ Phật, tháp miến được mười thứ công đức:
Cúng thí lọng báu được mười thứ công đức,
Cúng thí chuông linh được mười thứ công đức,
Cúng thí y phục được mười thứ công đức,
Cúng thí bát đũa được mười thứ công đức,
Cúng thí thức ăn nước uống được mười thứ công đức,
Cúng thí giầy dép được mười thứ công đức,
Cúng thí hương hoa được mười thứ công đức,
Cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức,
Cúng thí cung kính chắp tay được mười thứ công đức. Đó là lược nói tên pháp môn các nghiệp sai khác.
Chi tiết giảng giải các loại Nghiệp báo, xin xem tai... (Nguồn: Xem Tại đây)
+ Báo Thân - Quả báo hiện tiền: Cái thân đời này gọi là Báo Thân. Đời này làm nam hay nữ hoặc đẹp hoặc xấu, cũng như thọ – yểu, giàu – nghèo, trí – ngu, khỏe mạnh hay bệnh tật v.v… chính là quả báo chiêu cảm bởi những hành vi trong đời trước. Vì thế gọi cái thân này là Báo Thân, hàm ý cái thân ấy là quả báo của những hành vi trong đời trước; do cái nhân trong đời trước dẫn đến cái quả trong đời này.
Đời này tuy lành, nhưng do đời trước nghiệp nặng, sẽ chẳng thể hưởng được quả báo tốt lành ngay, mà trước hết phải gánh chịu ác báo từ đời trước. Như người năm ngoái không trồng lúa, năm nay tuy siêng năng cày cấy, nhưng trước khi thâu hoạch, cũng chẳng tránh khỏi không có lương thực. Không có lương thực chẳng phải vì năm nay siêng năng vất vả cho nên không có, mà năm nay không có lương thực là vì năm ngoái chẳng gieo trồng mà ra! Năm nay đã siêng năng cày cấy, gieo trồng thì sau khi thâu hoạch và năm sau sẽ có thóc lúa. Kẻ làm ác chưa bị mắc họa là vì phước thừa còn chưa hết. Như người năm ngoái siêng năng cày cấy gieo trồng, năm nay không cày cấy, gieo trồng, vẫn chẳng đến nỗi chết đói là vì năm ngoái hãy còn thừa lại. Ăn hết rồi, do năm nay không gieo trồng, sẽ không có cái để ăn nữa đâu! Cần biết rằng: Người lành gặp ác báo, nếu chẳng làm lành, ác báo ấy càng nặng nề hơn! Do làm lành nên ác báo sẽ theo đó giảm nhẹ đi. Người ác hưởng thiện báo, nếu chẳng làm ác, thiện quả ấy càng lớn hơn. Do làm ác, thiện báo cũng theo đó mà giảm nhẹ đi.(Nguồn: Tin sâu nhân quả_Ấn Quang Pháp Sư)
+ Nghiệp báo với kiếp sống luân hồi: Hành động nghiệp đưa đến có 2 loại:
- Chánh báo: Đưa đến hình hài của mình có 5 giác quan
- Y báo: Môi trường xung quanh mà hình hài mình ở trong đó.
Tùy nhân duyên mà có quả báo khác nhau. Ví dụ từ Nước (H2O) mà ta có các trạng thái/ Dụng của nước: Mưa/ Tuyết/ Nước đá/ Mây/ Sông/ Trà ... Tùy duyên mà có quả (Nguồn: Thầy Thích Nhất Hạnh)
+ Quả báo nghiệp: Ba Loại Báo: Theo Phật giáo, có ba quả báo liên hệ tới bốn nhân khiến cho đứa trẻ sanh vào một gia đình nào đó. Trong nghĩa này, quả đối nghĩa lại với nhân: Thứ nhất là Hiện báo: Quả báo thứ nhất là báo ứng ngay trong kiếp hiện tại, hay quả báo của những hành động, lành hay dữ, ngay trong đời nầy. Thứ nhì là Sinh báo: Quả báo thứ nhì là hành động bây giờ mà đến đời sau mới chịu quả báo. Quả báo thứ ba là hậu báo: Hậu báo là quả báo về lâu xa sau nầy mới gặt. Cũng có Bốn Loại Báo Ứng: Thứ nhất là Thuận Hiện Nghiệp Định Báo Ứng: Hành động gây ra báo ứng tức khắc. Thứ nhì là Thuận Hiện Nghiệp Bất Định Báo Ứng: Hành động gây báo ứng trong đời hiện tại (không nhứt định thời gian). Thứ ba là Thuận Sinh Nghiệp Báo Ứng: Hành động gây báo ứng trong đời sống kế tiếp. Thứ tư là Thuận Hậu Nghiệp Báo Ứng: Hành động gây báo ứng trong các đời sau, không nhứt định thời gian.
Theo Phật giáo, có Năm Loại Báo hay Ngũ Quả: Thứ nhất là Dị Thục Quả: Khi chạm phải một hành động xấu, người phạm phải chịu khổ đau; khi làm được một hành động tốt, người ấy hưởng sung sướng. Sung sướng và khổ đau trong tự chúng là không thuộc tính cách đạo đức, xét về nghiệp của chúng thì chúng trung tính. Do đó mà quả nầy có tên “Dị Thục” hay “chín muồi theo những cách khác nhau.” Quả khổ đau hay an lạc của đời nầy là do nghiệp ác thiện của đời trước. Thứ nhì là Đẳng Lưu Quả: Khi làm một hành động xấu hay tốt, khiến cho người làm hành động ấy dễ có xu hướng tiến đến những hành động xấu hay tốt. Vì nhân quả thuộc cùng một bản chất, nên quả nầy được gọi là “chảy trong cùng một dòng” hay “đẳng lưu.” Do thiện tâm đời trước mà chuyển thành thiện tâm sau khi tái sanh; do ác tâm đời trước mà ác tâm đời nầy tăng trưởng. Từ thiện nhân sinh ra thiện quả, từ ác nhân sinh ra ác quả, từ vô ký nhân sinh ra vô ký quả (từ cái thiện tâm của ý nghĩ trước, mà chuyển thành thiện tâm sau; hoặc từ cái bất thiện tâm của ý nghĩ trước, mà sinh ra cái bất thiện tâm sau, hay bất thiện nghiệp của ý nghĩ sau), tính quả giống tính nhân mà trôi chảy ra nên gọi là Đẳng Lưu Quả. Đẳng Lưu Quả là loại nào sanh ra loại đó. Thứ ba là Độ Dụng Quả: Nghĩa đen có nghĩa là sự vận dụng của người. Nó là kết quả của nhân tố trong công việc. Rau quả hay ngũ cốc sinh sôi từ đất lên do bởi ý chí, trí tuệ, và sự cần mẫn của người nông dân; vì mùa gặt là kết quả do bởi nhân tố con người mang lại, nên “Độ Dụng Quả” được đặt tên cho kết quả nầy. Vị thế hiện tại và quả hành về sau, sự thưởng phạt đời nầy do công đức đời trước mà ra. Thứ tư là Tăng Thượng Quả: Hễ có sự vật nào hiện hữu được là do bởi sự hợp tác tích cực hay tiêu cực của tất cả các sự vật khác, vì nếu sự hợp tác nầy thay đổi theo một cách nào đó thì sự vật kia sẽ không còn hiện hữu nữa. Khi sự đồng hiện hữu của các sự vật như thế được xem là kết quả của tính hỗ tương phổ quát, thì nó được gọi là “tăng thượng duyên.” Quả siêu việt đời nầy là do khả năng siêu việt đời trước hay cái quả do tăng thượng duyên mà sinh ra, như nhãn thức đối với nhãn căn là tăng thượng quả. Thứ năm là Ly Hệ Quả: Quả không bị ràng buộc bởi bất cứ hệ lụy nào, quả Niết bàn. Niết Bàn là kết quả của sự tu tập tâm linh, và vì nó khiến cho người ta thoát khỏi sự trói buộc của sinh và tử nên nó được gọi là “giải thoát khỏi sự trói buộc” hay “ly hệ quả.” Quả dựa vào đạo lực giải thoát của Niết Bàn mà chứng được, quả nầy tạo nên bởi lục nhân.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Tám, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan về Sáu Loại Báo như sau: “Ông A Nan! Chúng sanh vì lục thức tạo nghiệp, bị chiêu lấy ác báo theo sáu căn ra.” Lục báo bao gồm: kiến báo (chiêu dẫn ác nghiệp), văn báo (chiêu dẫn ác quả), khứu báo (chiêu dẫn ác quả, khứu nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy độc khí đầy dẫy xa gần. Thần thức nương theo khí vào vô gián địa ngục), vị báo (chiêu dẫn ác quả. Vị nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy lưới sắt phát ra lửa dữ, cháy rực khắp thế giới. Thần thức mắc lưới vào ngục vô gián), xúc báo (chiêu dẫn ác quả; xúc nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy núi lớn bốn phía họp lại, không có đường đi ra, thần thức thấy thành lớn bằng sắt, các rắn lửa, chó lửa, cọp, gấu, sư tử, những lính đầu trâu, quỷ la sát đầu ngựa cầm thương đao, lùa người vào thành đến ngục vô gián), tư báo (chiêu dẫn ác quả; tư nghiệp nầy giao kết, lúc chết thấy gió dữ thổi hư nát quốc độ. Thần thức bị thổi bay lên hư không, theo gió rơi vào ngục vô gián). (Nguồn: Công đức và phước đức)
+ Chứng đắc đạo quả nhưng thoái chuyển - Thoái lui
Ngài Ưu Ba Ly hỏi: Nhị Thừa cũng đã phá trừ được tham, sân, si, tại sao lại không thể xưng là Thế Tôn?
Phật trả lời: Không thể được, vì Nhị Thừa đối với tâm đại thừa còn có khi thoái chuyển, Phật thì không bao giờ thoái chuyển. Thoái chuyển có ba:
Một là, đã chứng quả mà còn thoái chuyển;
Hai là, chưa chứng quả mà đã thoái chuyển;
Ba là, đã đến chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển.
Đã chứng quả mà thoái chuyển là nói ngôi Thanh Văn đã chứng được quả thứ ba mà còn có khi thoái chuyển. Chỉ có quả thứ tư là quả A La Hán thì mới không còn thoái chuyển.
Còn như Trung Thừa, nếu đã tu tập đủ trăm kiếp, đã thấu suốt được mười hai nhân duyên, thành Bích Chi Phật, cũng không còn thoái chuyển nữa.
Nhưng nếu là Hạ Thừa, chứng quả thứ ba, mà thành Bích Chi Phật, thì vẫn còn thoái chuyển.
Còn như Phật đã chứng quả rồi, thì không bao giờ thoái chuyển nữa.
Chưa chứng quả mà thoái chuyển là nói những người Tam Thừa, chưa chứng được quả mà đã thoái chuyển; nếu tu ba nghiệp của Tỷ Khưu mà lười biếng, hoặc tu tập các pháp, không chăm chỉ, thì gọi là chưa chứng quả đã thoái chuyển vậy.
Đã tới chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển là nói những người đã chứng được các pháp, mà không ứng dụng hiện tiền, như thập lực của Phật và mười trí của Tiểu Thừa, mà chỉ ứng dụng một; hay phải tụng mười vạn lời kinh, mà không tụng, đều gọi là đã đến chỗ ứng dụng mà thoái chuyển vậy.
Thanh Văn chưa chứng quả mà thoái chuyển; Duyên Giác và Độc Giác cũng có khi chưa chứng quả mà thoái chuyển, nhưng Phật thì không bao giờ thế.
Đối với tất cả hạnh tu tập, không bao giờ Phật biếng nhác.
Nhị Thừa đã đến chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển, chứ Phật thì lại không nhất định.
Như trong mười lực mà chỉ dùng một, bỏ chín, nên gọi là thoái chuyển.
Hoặc như tụng hai mươi vạn lời kinh, mà người phàm sức yếu, phải tụng một, hai ngày mới xong, nhưng Phật có thể tụng xong ngay.
Thập lực cũng vậy, dùng là dùng liền, không bị ngăn ngại.
Cho nên Phật không không có sự không dùng mà bỏ. Như người mặc áo Nê hoàn tăng không phải thời không mặc, không như người thế gian. Bất cứ làm việc gì đều vì lợi ích của chúng sinh mà làm. Việc gì có lợi thì làm, không có lợi thì bỏ, chứ không phải có lợi thì bỏ, chứ không phải không làm được, bởi thế Phật không có sự không dùng mà thoái chuyển.
Tuy Phật hiểu suốt các pháp mà nói không nhất định là vì ý Phật sâu xa, không thể nghĩ lường được.
Ngài Ưu ba Ly hỏi:
- Tại sao Thanh Văn đã chứng đến quả A Na Hàm còn thoái chuyển? Nhưng chứng quả A La Hán thì không thoái chuyển?
Phật đáp: Quả A Na Hàm đã từng được nên thoái chuyển, còn quả A La Hán thì chưa từng được, cho nên không thoái chuyển.
Cũng như người đang đói mà được ăn cỗ ngon, không bao giờ quên, ý nghĩa quả A La Hán cũng vậy.
Lại nữa, A La Hán lấy nhẫn nhục làm đạo vô ngại, lấy trí tuệ làm đạo giải thoát, còn A Na Hàm lấy trí tuệ làm đạo vô ngại và cũng lấy trí tuệ làm đạo giải thoát, cho nên còn thoái chuyển.
Lại nữa, A La Hán lấy sự hiểu biết như thực làm đạo, cho nên không thoái chuyển, còn a Na Hàm thì lấy tư duy làm đạo, cho nên còn thoái chuyển.
A Na Hàm vì còn phải diệt hết vọng tưởng và trừ sạch tham, sân, si, ái, tà kiến, vô minh, nên còn bị tư duy bức bách.
Nhưng A La Hán thì tìm hiểu đạo như thực, nên không bị bức bách, vì đạo như thật khômg có bức bách, thấy rõ được phần “vọng” tức thấy lý “chân”. Nhưng không cần tư duy, nên không bị bức bách và vì thế không thoái chuyển vậy.
Lại nữa, cái trí tìm hiểu của A La Hán lớn mạnh, như rường cột, chống đỡ mọi vật, nên không thoái; còn cái trí tư duy của A Na Hàm nhỏ, yếu, cho nên còn thoái chuyển.
Lại nữa, A La Hán dùng tâm nhẫn nhục và trí tuệ để diệt trừ chín phẩm tư hoặc ở dục giới, bảy mươi hai phẩm kết phược ở sắc giới, cho nên không còn thoái chuyển.
Căn cứ vào các nghĩa nói trên, nên biết Nhị Thừa không thể xưng là Thế Tôn, mà chỉ có Phật mới được xưng Thế Tôn mà thôi.
Lại nữa, Phật đã dứt hết tập khí, nhưng Nhị Thừa chưa đoạn kết.
Chẳng hạn như Ngưu Ty Tỷ Khưu thường nhai như trâu, là vì năm trăm kiếp trước phải đọa làm kiếp trâu, bây giờ mới được làm người, nhưng cái tập khí nhai như trâu vẫn chưa hết.
Hoặc như vị Tỷ Khưu kia, tuy đã chứng quả A La Hán, nhưng thường thích soi giương, là vì những kiếp trước phải làm thân kỳ nữ.
Lại như một vị Tỷ Khưu kia, thường hay bám lấy bao lơn mà đánh đu, nhẩy, nhót, là vì những kiếp trước, đọa làm loài khỉ vậy.
Bởi thế Nhị Thừa không được xưng là Thế Tôn (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Định luật Nhân và Quả (Law of Cause and Effect): Định luật Nhân và Quả là định luật chi phối vật chất. (LVHLT, 470)
* Định luật Tác động và Phản Tác động (Law of Action and Reaction): X. Định luật Nhân và Quả
+ Đẳng cấp Dụng thần và Mệnh chủ: Đây là nói trên cơ sở của phương pháp dự đoán Mệnh theo Tứ trụ - Bát tự mà Nhân Trắc học chúng tôi nghiên cứu và ứng dụng trong Tư vấn Cải mệnh Phát phúc - Phòng họa với các Mệnh chủ. Pháp Tứ trụ nhìn nhận đánh giá về Giầu sang - Phú quý và Danh tiếng - Uy quyền có phần rõ dàng, rễ định tính và định lượng để có thể suy ra biểu đồ Số mạng theo Thời gian phát sinh sự việc cát hung họa phúc khá chính xác. Đây là điểm mạnh của pháp Tứ trụ so với pháp xem Tử vi. Môn Tử vi cũng có điểm mạnh hơn là xem rõ về nghề nghiệp và tướng mạo hay mộ phần ... của Mệnh chủ.
- Đẳng cấp Dụng thần bao gồm các chủ đề chính là "Mục tiêu chọn Dụng - Lấy Nhật can là trung tâm - Nguyên tắc đề cương - Cách chọn Dụng thần - Năng lực của Dụng thần - Đẳng cấp Dụng thần - Đẳng cấp Mệnh chủ - Diệu dụng của Dụng thần".
- Đẳng cấp Mệnh tứ trụ:
1. Pháp đánh giá đẳng cấp Mệnh chủ: Thông thường phân cấp Mệnh chủ theo cấp độ Đức hạnh; Giầu có; Danh tiếng; Uy quyền; Trí tuệ; Thọ Yểu ..v.v..
Dự đoán Hành vận: Cần nhiều suy ngâm, vì nguyên tắc “Lưu thông - Bình hòa” mới là Mệnh quý cách, thế nhưng ngũ hành thì luân chuyển theo chu kỳ Sinh – Vượng – Suy mộ, mà Dụng thần thì cần “Vừa mức” theo nguyên lý quân bình tứ “Trung đạo”.
Đẳng cấp vị Thầy đoán Mệnh: Xác định Đẳng cấp Mệnh chủ là bước cuối cùng của đánh giá Dụng thần Nguyên mệnh, cần nhiều công sức và kiến thức kinh nghiệm sâu rộng của Dịch – Minh – Phật của vị Thầy mới mong có sự chính xác tương đối cao. Thường chia theo hai loại là theo Thế tục và theo Tâm linh.
1. Các loại Đẳng cấp Mệnh chủ: Muốn xác định chính xác và ít sai sót nhất, ngoài xem các yếu tố Mệnh và Hành vận phát phúc hay tán phúc theo Lá số Tứ trụ. Cần gặp gỡ trực tiếp Mệnh chủ để trao đổi nhắm đánh giá sự tiến hóa của Tâm trí người đó thuộc hàng Hạ căn, Trung Căn hay Thượng Căn, từ đó mới mong có được kết luận khá chính xác Đẳng cấp Mệnh chủ. Cũng chia theo hai loại là theo Thế tục và theo Tâm linh.
2. Ba loại Đẳng cấp Mệnh theo Ngũ phúc: Đây là nhóm đa số nhân loại, họ sống thiên hẳn về vị kỷ cá nhân và nhóm cùng lợi ích của họ. Họ sống khá thuần về Dục vọng và coi sự chết là hết, chẳng có nhân quả luân hồi. Căn cứ ngũ Phúc có thể phân làm 3 loại Đắng cấp Mệnh Chủ: Sống Thọ - Phú Quý - Thiện trí
3. Ba nhóm Đẳng cấp Mệnh theo Hạng người: Tiêu trí này phù hợp với đối tượng mà Lá số biểu hiện Nghiệp báo tiền kiếp họ đã có thành tựu nhất định về "Phước Huệ song tu”. Lá số biểu lộ họ có Trí tuệ phân biện được nhận biết qua Ngũ hành Thanh Thuần, Mệnh lưu thông có tình. Tiền tài nhiều ít là thứ yếu, chia làm ba nhóm Hạng người phổ biến: Hạ căn - Trung căn - Thượng căn hoặc Hạ đẳng - Trung đẳng - Thượng đẳng hoặc kết hợp. Ví vụ Mệnh chủ thuộc hàng Hạ đẳng Trung căn.
+ Hạng người thiện trí - Người tham vô độ
2. Có hai hạng người ... khó tìm được ở đời.... Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm.
3. Có hai hạng người .... khó tìm được ở đời.... Người thỏa mãn và người làm người khác thỏa mãn.
4. Có hai hạng người ... khó làm cho thỏa mãn.... Người cất chứa các lợi dưỡng và người phung phí các lợi dưỡng.
5. Có hai hạng người ... dễ làm thỏa mãn. ... Người không cất chứa các lợi dưỡng và người không phung phí các lợi dưỡng. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Đức Phật phóng quang: HỎI: Tại sao khi thuyết pháp Phật thường hay phóng hào quang?
ĐÁP: Vì Ngài muốn cho chúng sanh mau khai ngộ. Trong lúc cuối cùng, khi Phật giảng thuyết Kinh Niết Bàn, Ngài phóng quang ở mặt rồi thâu quang về miệng.
Đó là biểu hiện đi là như như, đến cũng là như như. Đi cũng là đi đến trí huệ quang minh tạng, trở về cũng là quay về trong quang minh tạng. Nhưng chúng sanh chỉ biết đi mà không biết quay về. Cho nên nói “năng phóng bất năng thâu”. Nói vậy cũng tức là chỉ cho vọng tưởng của chúng ta. Chúng ta có phóng ra thì sau đó phải thâu trở về cho được. Nếu chỉ biết phóng quang ra mà không biết thâu quang về thì không thể: đến đi như ý mình. Vậy tức là không có linh động trong sự học hỏi và thực hành.
Chúng ta phải biết phóng, biết thâu: có thể lớn, có thể nhỏ, có thể có, có thể không, không gì mà không thể làm được, tâm như ý, tự tại vô ngại.
Phải chăng Phật phóng quang là để cho người ta nhìn thấy? Không phải. Vậy ngài cho người ta thấy hào quang để làm gì? Có phải cũng giống như phàm phu chúng ta là muốn làm quảng cáo chăng? Hoặc là giống như có người muốn biểu lộ sở trường đặc biệt của mình ra cho người ta biết? Không phải như vậy đâu. Phật phóng quang là để chiếu phá vô minh của chúng sanh.
Mỗi một chúng sanh trong pháp hội đều được hào quang của Phật chiếu sáng.
Cho nên nói: Phật quang phổ chiếu, vũ lộ quân triêm. Nghĩa là Phật chiếu ánh hào quang đến mọi nơi như mưa cam lồ rưới đều lên khắp chốn. Lúc này, tất cả chúng sanh đều được hào quang của Phật gia hộ; tức là chúng ta gieo xuống hạt nhân thành Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị - Q3)
+ Đức Phật phóng Hào quang: Lúc đó, từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
Lược giảng: Lúc đó - Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói chuyện với Kiên Lao Địa Thần và căn dặn Địa Thần hãy ủng hộ các chúng sanh trong đời vị lai xong - từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
“Đảnh môn” (cửa đỉnh đầu) nằm ở đâu? Ở ngay trên đỉnh đầu. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có tướng “vô kiến đảnh” (tướng đỉnh đầu không thấy được) chính là ở “đảnh môn” này vậy.
Chúng ta mỗi người đều có “đảnh môn.” Nếu quý vị tinh tấn dụng công, chân chánh có công phu tu hành, thì khi chết, Phật tánh của quý vị sẽ từ “đảnh môn” ở trên đỉnh đầu mà đi ra, và sau đó quý vị có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn. Tuy nhiên, quý vị cần phải chăm chỉ tu hành, nỗ lực dụng công cho thật tốt mới được; chứ dụng công hời hợt thì không thể nào có được cảnh giới đó.
Như là: Tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn; tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn; tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn; tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn; tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn; tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn; tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn; tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn; tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn; tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn; tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn; tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn; tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn; tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn; tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn; tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn.
Từ trên đảnh môn phóng ra những tướng tia sáng như thế xong, lại nói ra tiếng vi diệu mà bảo đại chúng, Thiên Long Bát Bộ, nhân cùng phi nhân v.v... rằng: “Hãy lắng nghe hôm nay Ta, tại cung trời Đao Lợi, tuyên bày ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng về những sự lợi ích trong hàng trời, người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự siêu vượt nhân Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không thối chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”
Lược giảng:
Vậy, lúc bấy giờ từ trên đỉnh đầu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra những tia sáng như là:
1) tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng hào quang màu trắng soi sáng tất cả những nơi tối tăm; ngụ ý rằng Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng có thể chiếu dọi, xua tan mọi hắc ám tăm tối của thế gian.
2) Tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn.
3) Tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn. Có loại hào quang trông giống như ngọc thạch vậy.
4) Tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn.
5) Tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn. Lại có những đạo hào quang màu xanh, và nhiều hào quang lớn cũng có màu xanh như thế nữa.
6) Tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn.
7) Tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn.
8) Tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn.
9) Tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn. Lại có tia sáng có màu vàng như vàng ròng vậy.
10) Tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn.
11) Tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn. Bàn chân của Đức Phật có tướng “thiên bức luân” (chỉ dưới bàn chân có ngàn cái xoay tròn); và đạo hào quang này trông giống như cả ngàn cái vòng xoáy tròn ở trong vậy.
12) Tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn. Lại có hào quang hình tròn và sáng lấp lánh như châu báu tạo thành.
13) Tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn. Lại có những đạo hào quang rực rỡ như ánh sáng của cả trăm ngàn vầng mặt trời.
14) Tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn. Lại có đạo hào quang tỏa ra ánh sáng như của mặt trăng.
15) Tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn. Trong đạo hào quang này hiện ra nhiều cung điện làm bằng bảy thứ báu rất trang nghiêm.
16) Tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn. Lại có những đạo hào quang trông giống như đám mây vọt lên từ mặt biển. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Có 12 Hành tinh (7 H.Tinh thánh thiện và 5 không thánh thiện) có liên quan với sự sống bên ngoài, môi trường và các hoàn cảnh của cá nhân. Các mãnh lực biểu hiện trạng thái thiêng liêng thứ 3 - Ý muốn hiểu biết; (CTHNM, 38)
+ 12 HT chi phối 12 Cung HĐ, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã con người, cộng với các tình trạng nghiệp quả kế thừa, tạo ra các trạng thái chung quanh và các hoàn cảnh sống và sau rốt việc kiểm soát khía cạnh hình tướng của sự sống (CTHNM, 63)
+ 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
+ Mỗi hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Đây sẽ là một điểm quan trọng cần phải tính đến, vì nhóm các thần bí gia này đang mỗi năm mỗi trở nên mạnh mẽ hơn.
− Các Năng Lượng Hành Tinh phát ra từ:
a/ 7 hành tinh.
b/ Trái Đất.
c/ Mặt trăng.
Tổng là 9 Hành tinh: Chỉ có một vài điều có thể được lưu ý về tiết đoạn nói về các năng lượng này và về tiết đoạn kế tiếp, vì đây là một loạt các hướng dẫn cho người tìm đạo chứ không phải là một luận thuyết về năng lượng.
− Năng Lượng Mặt Trời phát ra từ:
a/ Mặt trời vật chất.
b/ Các nguồn vũ trụ.
Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. Vì vậy, một số bạn vốn đã nghiên cứu bộ Luận Về Lửa Càn Khôn có thể nhận thấy các chi tiết sau là đáng chú ý:
1. Các loại devas thấp nhất hay các nhà kiến tạo trên Con Đường Tiến Hóa thăng thượng là các thiên thần màu tím; kế tiếp là các thiên thần màu xanh lá cây, và cuối cùng là các thiên thần trắng (white devas). Tất cả các thiên thần này đều bị chi phối bởi một nhóm đặc biệt thứ tư. Các thiên thần này kiểm soát các tiến trình bên ngoài của sự sống ở cõi trần.
2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. Loại bỏ những sản phẩm được kiểm soát bởi nhiệt (heat) và bạn sẽ đưa nền văn minh của chúng ta đến một trạng thái dừng lại, bạn sẽ đưa mọi phương tiện vận chuyển đến một kết thúc cùng với mọi phương cách chiếu sáng; bạn sẽ vứt bỏ tất cả các nhà máy chế tạo. Ngoài ra, về cơ bản, những sinh linh lửa (fiery lives) này, được tìm thấy trong tất cả những gì bốc cháy, và trong sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Sự sống các Hành: Theo Tooltip "sự sống", thì tất cả vật chất đều có sự sống dù ẩn tàng [Tinh thần ở trung tâm nguyên tử].
Xem thêm: Các phẩm tính của hành tinh Chủ về - Chi phối - Dẫn truyền Cung NL - Quản 4 phương
Xem thêm: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Sống Bất tử - Sống mãi - Không chết - Không bao giờ chết là Linh hồn và Tinh thần
+ Sống bất tử: Việc gia tăng số người có năng lực sử dụng mắt thứ ba đã được hoạt động trở lại sẽ chứng minh được sự bất tử vì họ sẽ thấy được một cách dễ dàng người nào đã vứt bỏ thể dĩ thái cũng như thể xác của mình. (CTNM, 412–413)
+ Trong Kinh Vishnu Purana, q. II, chương VIII có nói: “Bất tử có nghĩa là tồn tại đến cuối Thiên kiếp” (“By immortality is meant existence to the end of the Kalpa”), và dịch giả Wilson có cước chú như sau: “Theo kinh Vedas, đây là tất cả những gì phải được hiểu về sự bất tử (hay trường tồn – eternity) của các thần (gods); các ngài tan biến (perish) vào lúc cuối khi vũ trụ tan rã (tức Pralaya – quy nguyên) còn triết lý nội môn (Esoteric Philosophy) nói: “Các Ngài không tan biến” mà là được tái hấp thu (re–absorbed). (GLBN I, 109)
+ Sự sống bất tử: Một cậu bé: Thưa Thầy, con sẽ sống được bao lâu?
Thầy: Nếu con biết thực tập thiền, nếu con biết nhìn sâu vào vạn vật thì con sẽ sống mãi, con sẽ không bao giờ chết. Nhưng nếu con không biết nhìn sâu thì con sẽ luôn lo sợ cái chết. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng không có gì có thể chết đi. Không có gì sinh mà cũng không có gì diệt, đó là tuyên bố của một nhà khoa học người Pháp tên là Lavoisier. Vì vậy đối với một người thực tập thiền, khi nhìn sâu vào vạn vật, người đó sẽ phát hiện ra bản chất không sinh, không diệt của vạn vật. Các nhà khoa học cũng vậy, nếu nhà khoa học biết nhìn sâu thì cũng sẽ thấy được bản chất không sinh, không diệt của vạn vật. Và khi thấy được điều đó, chúng ta sẽ không còn lo sợ cái chết nữa. (Nguồn: TS Thích Nhất Hạnh giảng)
+ Muốn không chết - Hoạt nhân tử: Nếu muốn người không chết - Hãy làm người sống như đã chết/ Hoạt nhân tử. Hoạt nhân tử thì còn đâu tham sân si kiêu mạn nghi ... Không nên nghĩ nhiều, chỉ cần chịu ngồi thiền. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 22 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Giới hành khí (Elemental kingdom):
1. Giới tinh hoa chất thứ nhất: ở trên ba phân cảnh cao của cõi trí.
2. Giới tinh hoa chất thứ hai: ở trên bốn phân cảnh thấp của cõi trí.
3. Giới tinh hoa chất thứ ba: ở cõi cảm dục. (LVLCK, 94)
+ Sự sống hành khí: Mọi hình hài được kiến tạo theo một cách thức tương tự như nhau và chỉ có sự dị biệt – như sách giáo khoa giảng dạy – trong sự sắp xếp và số của các âm điện tử ( ).
Chính âm điện tử sau rốt sẽ được xem như là một sự sống hành khí vô cùng bé nhỏ (an elemental, tiny life). (LVLCK, 479)
+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Năng lượng của Sự sống: Khả năng hội nhập, phối kết. Mãnh lực của thể sinh lực hay thể dĩ thái. Phản ảnh của hoạt động thông tuệ hay chuyển động thiêng liêng. Xung lực hành động, tích năng lượng, theo Định luật Tiết Kiệm.
+ Sự Sống thiêng liêng có thể được xem như diễn đạt qua 3 cách biểu lộ:
- Thứ nhất, vũ trụ biểu lộ hay hữu hình;
- Thứ hai, thế giới nội tâm hay sắc tướng;
- Thứ ba, trạng thái Tinh thần phải được tìm thấy ở tâm mọi vật (LVLCK, 56).
Sự sống phú linh: (The ensouling life) Sự Sống phú linh tức là Sự Sống của Thượng Đế trong nguyên tử. (KCVTT, 15).
+ Sự sống và các sự sống (the life and the lives): Trong bộ GLBN, H.P.B. có nói: “Huyền linh học không chấp nhận bất cứ cái gì vô cơ (inorganic) trong Đại Vũ trụ (Kosmos). Cách diễn tả được khoa học dùng như “chất vô cơ” (“inorganic substance”) chỉ hàm ý là sự sống tiềm tàng, đang ngưng trệ (slumbering) trong các phân tử của cái được gọi là “vật chất trơ” (“inert matter”) thì không thể nhận biết được. Tất cả đều là sự sống, mọi nguyên tử của ngay cả bụi khoáng chất (mineral dust) cũng có sự sống, mặc dù vượt ngoài sự hiểu biết và nhận thức của chúng ta ... Do đó, sự sống có khắp nơi trong vũ trụ ... bất cứ nơi đâu có một nguyên tử vật chất, một hạt (particle) hay một phân tử (molecule), ngay cả ở trong tình trạng loãng nhất, cũng đều có sự sống bên trong, tuy tiềm tàng và vô thức.” – GLBN–I, 269, 281, 282
+ Ý- chí- muốn- sống / Ý muốn linh hoạt (Will-to-live): Thượng Đế Ngôi Một (first Logos) là hiện thân (embodies) cho ý muốn linh hoạt. (LVLCK, 146)
+ Ý muốn linh hoạt: Một trong các yếu tố chi phối việc đầu thai (incarnation) là sự hiện hữu của cái được gọi là Ý-muốn–linh hoạt; khi ý muốn đó hiện hữu và khi ý–chí–muốn–sống mạnh mẽ nơi con người thì y bám trụ (anchored) một cách chặt chẽ vào cõi trần; khi ý chí muốn sống không còn hiện ra một cách mạnh mẽ hay triệt thoái thì con người từ trần. (CTNM, 638)
+ Ý- Muốn- Linh- hoạt (Will-to-Live): Ở đây, chúng ta đừng quên rằng bởi vì chúng ta đã quyết chí khai mở các quyền năng của chúng ta qua các kinh nghiệm của sự sống trên các cõi thấp; đừng quên rằng số mệnh của chúng ta (our lot) là do ta tự chọn chứ không phải bị áp đặt; đừng quên rằng chúng ta đang ở tại cõi này là thể theo kết quả của “Ý Muốn Linh Hoạt” của chính chúng ta (của chính Chân Thần chúng ta-ND); đừng quên rằng nếu Ý Muốn (Will) đó thay đổi - mặc dù trong thực tế nó không có khả năng thay đổi như thế - thì chúng ta sẽ chấm dứt việc sống ở cõi này và trở lại chốn An Bình, không thu hoạch được chút kết quả nào mà vì muốn có kết quả đó, chúng ta mới đến cõi này. “Không một ai khác bản thân ta ép buộc chúng ta cả”.(KCVTT, 333)
+ Hy vọng sống: Có hai hy vọng này, này các Tỷ-kheo, khó được từ bỏ. Thế nào là hai? Hy vọng được lợi dưỡng và hy vọng được sống. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai hy vọng khó được từ bỏ. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau
HỎI: Tôi muốn biết mục tiêu của đời sống là gì và ngài có tin tưởng vào định mệnh hay không? Nếu có, thế thì vai trò của định mệnh trong đời sống là gì?
ĐÁP: Theo quan điểm của Phật giáo (mặc dù quan điểm của riêng tôi thì khác), đôi mắt, tâm thức, và khát vọng vượt thắng điều gì đó tất cả là một bộ phận của bản chất. Tôi nghĩ một cách thế tục, đó là câu trả lời. Chính mục tiêu của sự sống, tôi tin, là hạnh phúc. Không có gì bảo đảm trong cuộc sống, nhưng chúng ta tồn tại do bởi hy vọng. Nếu chúng ta đánh mất hy vọng thế thì điều đó sẽ làm ngắn lại sự sống của chúng ta. Sự tồn tại của chúng ta căn cứ trên hy vọng cho một tương lai tốt đẹp, không phải là một tương lai tệ hại. Từ quan điểm này, hạnh phúc là mục tiêu duy nhất cho sự sống.
- Định mệnh là cố định và chúng ta không có năng lực để thay đổi, theo những niềm tin khác nhau. Nhưng theo con đường thế tục, không có định mệnh. Những sự kiện xảy ra qua các nguyên nhân và điều kiện; thí dụ, một thân thể bệnh hoạn sẽ đưa đến một định mệnh yếu đuối. Nếu thân thể được chăm sóc, thế thì định mệnh có thể thay đổi. Vì vậy, định mệnh có thể thay đổi nếu có nổ lực thực hiện.(Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
+ Hy vọng: 1-12 Hy Vọng
1. Có hai hy vọng này, này các Tỷ-kheo, khó được từ bỏ. Thế nào là hai? Hy vọng được lợi dưỡng và hy vọng được sống. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai hy vọng khó được từ bỏ.
2. Có hai hạng người ... khó tìm được ở đời.... Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm.
3. Có hai hạng người .... khó tìm được ở đời.... Người thỏa mãn và người làm người khác thỏa mãn.
4. Có hai hạng người ... khó làm cho thỏa mãn.... Người cất chứa các lợi dưỡng và người phung phí các lợi dưỡng.
5. Có hai hạng người ... dễ làm thỏa mãn. ... Người không cất chứa các lợi dưỡng và người không phung phí các lợi dưỡng.
6. Có hai duyên này, ... khiến tham sanh khởi. ... Tịnh tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tham sanh khởi.
7. Có hai duyên này, ... khiến sân sanh khởi. ... Chướng ngại tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến sân sanh khởi.
8. Có hai duyên này, .., khiến tà kiến sanh khởi. ... Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tà kiến sanh khởi.
9. Có hai duyên này, .. khiến chánh kiến sanh khởi. ... Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến chánh kiến sanh khởi.
10. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm . ... Tội phạm nhẹ và tội phạm nặng. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai tội phạm.
11. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm. ... Tội phạm thô trọng và tội phạm không thô trọng. ..
12. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm. ... Tội phạm có dư tàn và tội phạm không có dư tàn. ... (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Sơ đồ sự sống tiến hóa hình thành vũ trụ

Dòng chú thích góc phải dưới viết như sau: “Bảy phân cảnh giới của Cõi Vũ trụ thấp nhất này là bảy cõi giới chính của Thái Dương hệ chúng ta, và mỗi cõi giới này lại có bảy cõi phụ” (The 7 sub-planes of this lowest Kosmic Plane are the 7 great Planes of our Solar System, each of these having again 7 sub-planes.)
Các bạn cũng lưu ý, khi thể hiện trên hình vẽ hai chiều các cảnh giới được vẽ thứ tự từ cao xuống thấp, cõi trên cùng gọi là cõi cao nhất và cõi hồng trần là cõi thấp nhất. Sự thực thì các cảnh giới xuyên thấu vào nhau, các cõi gọi là “cao” xuyên thấu vào bên trong cõi trọng trược hơn. Chúng ta có thể hình dung điều này phần nào qua một ví dụ ở cõi hồng trần: chất lỏng xuyên thấu qua chất đặc, chất khí lại xuyên thấu qua chất lỏng và đặc. Trên nữa thì chất dĩ thái thứ tư xuyên thấu qua cả ba vật chất đặc, lỏng và khí. Như vậy, do thói quen, chúng ta gọi là cõi giới cao, chứ đúng thực ra phải gọi là cõi giới bên trong (inner plane) hay nội giới. Ông C.W. Leadbeater nói rằng cõi tình cảm hay cõi trung giới xuyên thấu qua cõi trần, và chu vi của nó lớn hơn trái đất rất nhiều. Đường biên của cõi Trung giới của Trái đất chúng ta vươn gần đến mặt trăng. (Nguồn: minhtrietmoi.org)
Sơ đồ sự sống thiêng liên biểu lộ

+ Mầu sắc và hiệu quả chữa trị bệnh Thân Tâm:
Một số màu sắc có một hiệu quả nhất định, dù vậy, tôi chỉ có thể kể ra ba màu và nói vắn tắt về chúng thôi:
1. Màu vàng cam (orange) kích thích sự hoạt động của thể dĩ thái, nó xua tan sự tắc nghẽn (congestion) và làm mạnh thêm luồng sinh khí (flow of prana).
2. Màu hồng (rose) tác động lên thần kinh hệ và có khuynh hướng làm linh hoạt (vitalisation) và xua đi sự trầm cảm (depression) và các triệu chứng suy nhược (symptoms of debilitation); nó làm tăng mạnh thêm ý chí muốn sống (Will–to–live)
3. Màu xanh lục (Green) có hiệu quả chữa trị tổng quát, có thể được sử dụng một cách an toàn trong các trường hợp viêm nhiễm (inflamation) và sốt, nhưng cho đến nay hầu như không thể đưa ra các tình huống đúng để dùng được màu này hay đạt đến độ đậm nhạt thích hợp. Màu lục là một trong các màu cơ bản cần được dùng sau rốt khi chữa trị thể xác, đó là màu của âm điệu (note) của Tạo Hóa (Nature).(TVTTHL, 247–248)
Xem: Tổng hợp về mầu sắc
+ Làm người Thiện Tín xứng danh: Đệ tử Phật
IX. Khuyên nhủ các thiện tín tại gia
- 1. Dạy về luân thường đại giáo
* Phải tận tánh học Phật mới có thể tận hết luân thường học Khổng. Phải tận hết luân thường học Khổng mới có thể tận tánh học Phật. Thử coi những bậc đại trung, đại hiếu và những vị phát huy tâm pháp của thánh hiền trong Nho Giáo xưa nay không vị nào là chẳng nghiên cứu kinh Phật sâu xa, ngầm tu thầm chứng. Hợp hai đạo Phật và Nho lại thì cả hai cùng tốt đẹp, tách ra thì cả hai cùng bị tổn thương; bởi lẽ, người trong cõi đời không ai chẳng thuộc trong vòng luân thường, mà cũng không ai ra khỏi tâm tánh được. Để trọn vẹn luân thường tâm tánh ấy thì dùng “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” của nhà Phật để khắc kỷ, giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, dùng “cha hiền, con hiếu, anh nhường, em kính” để hỗ trợ. Do vậy, cha con, anh em v.v... dắt dìu nhau cùng trọn vẹn luân thường, tâm tánh, trừ khử phiền hoặc huyễn vọng để khôi phục Phật tánh sẵn có. Chẳng những về thể là một, mà về dụng cũng chẳng có hai!
* Phải biết rằng Phật pháp là pháp chung của cả chín pháp giới, không một ai là chẳng nên tu mà cũng không ai là chẳng thể tu nổi. Những kẻ nói Phật giáo vứt bỏ nhân luân, làm hại thánh đạo đều là những kẻ mù chẳng thấy hình sắc cứ luận càn. Vì sao nói như thế? Đức Phật đối với cha dạy lòng từ, với con dạy lòng hiếu, với vua dạy lòng nhân, với bầy tôi dạy lòng trung, chồng xướng vợ theo, anh nhường, em kính.
Với những lời lẽ hay đẹp, những hành vi tốt đẹp, không điều nào kinh Phật lại chẳng thuật rõ túc nhân hậu quả, tiền nhân hậu quả. Những điều Phật dạy về lòng từ, lòng hiếu... giống với Nho Giáo, nhưng những điều đạo Phật dạy về nhân quả ba đời thì Nho giáo còn chưa bao giờ được nghe đến, huống hồ là “đoạn Hoặc chứng chân” và “viên mãn Bồ Đề, quy về pháp vô sở đắc”! Tiếc là những kẻ ấy chưa được biết đến, chứ nếu đọc kỹ, nghĩ chín, ắt sẽ khóc lóc, đau đớn, tiếng rền cả đại thiên thế giới, buồn thương vì tội lỗi báng Phật vậy!
* Muốn học Phật, Tổ, trước hết phải giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như thiếu sót bổn phận, trái nghịch luân thường thì đã là kẻ tội nhân danh giáo, còn làm đệ tử Phật sao được? Phật giáo tuy vượt ngoài thế pháp, nhưng gặp vua nói Nhân, gặp bầy tôi nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, từ cạn mà lần đến sâu, hạ học thượng đạt (học từ những điều căn bản, thấp kém, nhưng đạt được những điều cao quý). Hãy đọc kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt sẽ biết được đại khái vậy!
* Muốn làm Phật tử chân thật, phải bắt đầu làm chân Nho trước đã. Nếu đối với những sự như chí tâm thành ý, khắc kỷ, giữ lễ, giữ lòng kính, trọng lòng thành, hiếu đễ, vui vẻ, cung kính... mà chẳng thể tu tập, đôn đốc thì nền tảng chẳng kiên cố, học Phật sao được? Chọn lấy tôi trung trong đám con hiếu; kẻ tánh hạnh trái nghịch Nho phong lẽ nào gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, trên nối tiếp huệ mạng, dưới hóa độ chúng sanh cơ chứ?
Phật pháp không sự gì to lớn chẳng bao hàm, không điều gì nhỏ nhặt chẳng nêu lên. Dù là pháp thế gian hay xuất thế gian, không một pháp nào lại chẳng thuộc phạm vi của Phật pháp. Những kẻ câu nệ, hủ bại trong thế gian thường cứ bảo “xuất gia là trái nghịch luân lý”, họ đều là hạng chưa suy xét thấu đáo đã vội hủy báng, sợ mắc nghẹn nên bỏ ăn, tự chôn vùi tánh mạng, thật là đáng thương!
Nếu có mở rộng được tầm mắt thì mới biết Phật pháp lưu truyền rộng rãi khắp trong ngoài Trung Hoa, đạo pháp thạnh hành cả hai ngàn năm qua, được rất nhiều vua thánh, tôi hiền, hào kiệt, vĩ nhân hộ trì, truyền bá. Lẽ đương nhiên đạo ấy phải là chân đạo mà phàm tình chẳng thể suy lường được nổi! Dù có bị một hai gã nho sĩ câu nệ, hủ bại bài xích, hay những tên vua bạo ác hủy phá, rốt cuộc hai tay vẫn không che nổi mặt trời, ngửa mặt nhổ lên trời, chỉ càng tự phô bày cái thấy biết kém cỏi, ít ỏi của mình mà thôi, tự lầm lạc gây tạo tội lỗi, chứ rốt cuộc Phật pháp có bị tổn hại gì đâu?
Lại có kẻ bề ngoài làm ra vẻ chê bai Phật pháp, chứ bề trong lại thực sự tu chứng. Từ đời Tống đến nay, những bậc danh nho không có ai là chẳng như vậy cả! Cho nên Quang tôi nói “thành ý chánh tâm do vậy hãy còn khiếm khuyết” thật đúng là lời bàn quyết định vậy!
* Đối với việc học Phật, vốn phải trọn vẹn nhân đạo mới hòng hướng đến được. Nếu chẳng thật sự thực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, dù có suốt ngày thờ Phật, Phật cũng chẳng gia hộ! Ấy là vì Phật giáo bao gồm hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian. Vì thế với cha nói Từ, với con nói Hiếu, khiến ai nấy đều tận hết bổn phận làm người, sau đấy mới tu pháp xuất thế. Ví như muốn dựng lầu cao vạn trượng, ắt trước hết phải đắp nền móng kiên cố, khai thông đường nước thì lầu cao vạn trượng mới có thể xây lên được, mới vĩnh cửu chẳng hư hoại. Nếu như nền móng chẳng vững, ắt chưa xây xong đã sụp.
Sách Luận Ngữ nói: “Tuyển trung thần ư hiếu tử chi môn” (chọn tôi trung từ nơi con hiếu); học Phật cũng giống như vậy. Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào Thiền Sư: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Muốn học Phật pháp, phải khắc kỷ, dè dặt, việc gì cũng đều phải phát xuất từ cái tâm chân thật mà làm. Người như vậy mới đáng gọi là chân Phật tử. Nếu tấm lòng gian ác, lại toan mượn Phật pháp để tránh tội nghiệp, có khác gì trước đã uống thuốc độc, sau lại uống thuốc bổ, muốn cho thân thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ, phỏng có được chăng?
* Đại trượng phu muốn văn chương thiên hạ, công nghiệp vang dội vũ trụ, nhưng chẳng thể đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thì chỉ là chấp vào cái bên ngoài, bỏ sót cái bên trong, chấp cái Có tuy nó chỉ là đằng ngọn, bỏ đi cái Không dù nó chính là đằng gốc. Người đời ai có thể vẹn toàn được mọi việc, chúng ta chỉ nên gắng sức giữ vẹn luân thường, tận lực tu Tịnh nghiệp là được, cần gì phải bận tâm đến điều gì khác nữa!
* Trộm nghĩ Nho lễ coi trọng cúng tế Xuân Thu, Thích giáo đặt nặng việc quanh năm truy tiến. Nghĩ đến cái ân nguồn nước, cội cây mà thực hành cẩn thận, chu đáo việc truy tiến thì thế gian, xuất thế gian nào có gián đoạn chi?
Ấn Quang Đại sư - Ngài đã tu hành thành tựu, có nhiều lời dạy cho Phật tử tại gia rất tuyệt diệu, mời đọc giáo lý của ngài: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục
+ Thiện Nam Tử - Thiện Nữ Nhân trong Kinh Phật thường nói
- Làm người quân tử: Là Người thường tu đạo của Người quân tử, hướng đến thành tựu Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín và thực hành các lời dạy của Thánh hiền, ví như Bác Hồ hay Khổng Tử, Lão Tử, đức Phật đã dạy.
- Làm người Phật tử: Người tu Thập thiện nghiệp đạo, thường tu mười nghiệp lành gồm Không sát sinh - Không trộm cắp - Không Tà dâm - Không nói dối - Không nói hai lưỡi, đôi chiều - Không nói lời ác độc - Không nói truyện thị phi vô nghĩa - Không tham lam - Không sân hận - Không si mê (Thường xuyên học Phật pháp để khai mở trí tuệ)
+ Kinh Hiền Nhân - Người quân tử hành đạo
Hôm nay, để tâm hồn lắng xuống một chiều mưa gió, tôi đọc cuốn HIỀN-NHÂN với một tâm niệm trong sáng, đầy tin tưởng. Có gì đâu, những lời giản dị nhưng đầy vẽ hiểu đời và chứng tỏ hạnh phúc chỉ có khi nào tâm niệm được an lành và thanh-thoát. Nhân loại đã bỏ lui sau bước chân những hạt vàng quí giá và mắt mờ còn trông ngóng những bào ảnh đâu xa...
Cũng như bao nhiêu lời giảng dạy cho tín đồ cư-sĩ, cuốn "HIỀN-NHÂN" nầy là một cuốn kinh luân-lý và đạo-đức Phật dạy cho kẻ bạch-y. Như tôi đã nói luân-lý nhà Phật bao trùm cả luân-lý Đông, Tây, các bạn có để tâm mới thấy rõ.
Thâm thúy mà giản dị biết bao, những lời dạy quí hóa như đoạn nầy trong kinh HIỀN-NHÂN:
Kết bạn có bốn thứ:
"Một là kết bạn như hoa, hai là kết bạn như cân, ba là kết bạn như núi, bốn là kết bạn như đất.....
Rồi trong những lời dạy quí hóa về luân lý, ẩn tất cả những triết-lý sâu kín của cuộc đời. Tìm ở đâu những gì mới lạ, chúng ta chỉ mất công.
Nhưng giáo lý cốt hợp cơ và Phật pháp là bất định pháp. Giáo pháp phải hợp thời, hợp xứ và hợp căn trí. Vì thế đừng nên vội nghi ngờ một lời nào của đức Phật. Đành rằng Ngài dạy : "Đệ-tử chớ tin lời Ta khi nào đệ-tử chưa hiểu". Nhưng bạn hãy đọc lại những gì mà bạn chưa hiểu ấy, chớ vội không tin. Nhiều khi đó là phương tiện để hạp thời hạp xứ.
Thấy con ếch nói được - trong kinh - bạn sẽ mỉn cười. Cũng như bạn nghe quả địa-cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng khi Phật xuất thế.
Bạn sẽ bảo đó là đặt điều. Có thực đấy bạn ạ. Những hình ảnh thần bí chỉ là để tượng trưng cho những ý tưởng triết-lý.
"Quả địa-cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng" là gì nếu không phải sự miêu tả cực kỳ khéo léo sự vui mừng của vũ-trụ nhân thiên?
"Con ếch than khóc..." là gì nếu không phải tượng trưng cho sự đau khổ tuyệt lực lan từ nhân loại đến cầm thú.
Cuốn Triết-Nhân do ông Ngô-nguyệt-Chi dịch Phạm-Văn ra Hán-Văn với một lối văn có màu sắc cổ điển và thuần túy. Nguyên nhan đề là "kinh ông Bụt", nay thầy Lê-phước-Bình dịch ra tiếng Việt-ngữ đổi lại là "KINH HIỀN NHÂN". Hiền-Nhân hay ông Bụt cũng thế là tiền thân của Phật Thích-Ca, chính Ngài thuật lại.
Nếu các bạn chưa được nếm kho tàng Phật-lý, ban đầu hãy xem những quyển kinh giảng lược như cuốn nầy vậy. Kho tàng Phật giáo còn nguyên cả khố: bằng Hán-văn chưa ai dịch được bao nhiêu, vẫn còn đợi một sự cố gắng lâu dài. (Nguồn: NHẤT-HẠNH - Kinh Hiền Nhân)
+ Người quân tử hành đạo - Đạo của người quân tử: Sách Kinh dịch bao là vạn trượng, là Đạo của Người quân tử phải theo thì đời sống được vạn sự cát tường như ý. Người quân tử học và hành đạo thuận theo đạo Trời Đất sẽ phòng tránh tai ương họa hoạn sảy đến. Đức Phật dạy biết được mình mới là chiến thắng vĩ đại nhất. Minh triết cũng dậy, con người, "Người hãy tự biết mình", vì trong ngươi có tất cả các thứ để biết. Người quân tử hành đạo nếu nhận biết rõ thời thế để hành đạo thì khi dụng trí tuệ phân biện để hành động cho phù hợp với Đạo, đó là "Phải đạo thì tiến - Trái đạo thì lùi - Cần dừng thì dừng". Dừng cũng là tiến, là để tránh nguy nan, thậm trí thiệt thân. Ví dụ như Quẻ Thuần Cấn - Núi chồng núi, vạn vận đang nghỉ dưỡng, khí dưỡng mới khởi, còn mờ ảo chưa sáng tỏ, không biết đâu mà lần. Nếu chưa "Thấy đạo" mà hành động thì sẽ nguy vậy. (Nhân trắc học - Theo Minh triết)
+ Bảy tài sản - Thanh niên nên tu:
- Tài sản hữu hình luôn là của năm nhà: ... Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch.
- Tài sản không bao giờ mất: Có bảy tài sản không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài và tuệ tài. ....... A Nan, hãy dạy cho thanh niên tu bảy loại tài sản này (Nguồn: Đức Phật giảng về Tiền và tài sản)
+ 46. BÁT CHÁNH ĐẠO
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về Thánh đạo tám chi, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đó là tám. A-nan, Thánh đạo tám chi này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy tám chi Thánh đạo này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 51. BẢY GIÁC CHI
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy giác chi, niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả giác chi. A-nan, bảy giác chi này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy giác chi này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 61. BẢY LỰC - Người niên thiếu tu
Trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy lực, tín, tinh tấn, tàm, quý, niệm, định, tuệ lực. A-nan, bảy lực này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy lực này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ Giảng về bảy lực:
- Tàm, quý đều là tâm hổ thẹn với các điều tội lỗi, xấu xa mà mình đã tạo ra. Tự hổ thẹn với chính mình gọi là tàm, đối với người sinh tâm hổ thẹn gọi là quý. Có những tội lỗi chỉ một mình mình biết, ngược lại có những tội lỗi mọi người đều biết.
- Tín: Tín ở đây là lòng tin, trước tiên là phải tin sâu nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu đau khổ. Chính ta là chủ nhân của bao điều họa phúc, chứ không có một đấng thần linh, thượng đế nào có quyền ban phước giáng họa. Tin có Phật, có Tam Bảo, có Bồ Tát, Thánh hiền ở đời....
- Niệm: Chánh niệm, tức tu tập giữ chú tâm vào chánh đạo, không để tâm suy nghĩ điên đảo vào các Pháp bất thiện như Tham Sân Si Kiêu Mạn Nghi ngờ và nghiện ngập ...
- Định: Là định lực, người có định lực thì Tâm luôn an tịnh - Không nghĩ tán loạn, không có lo lắng sợ hãi, không u sầu buồn bực, không rễ nóng nảy giận giữ, thương thương yêu tha thứ, thường hành bố thí cúng giường người nghèo khó và người tu hành chánh đạo.
- Tuệ lực: Là học tập đa văn, có trí tuệ phân biện pháp lành dữ, học hiểu Nhân quả Nghiệp báo, hiểu biết chân thật sự việc thông thường của đời sống nhân sinh, không mê tín dị đoan theo tà đạo.
+ Ví dụ dùng Trí phân biện để chọn Đạo nào tu hành:
Một hôm Phật đến làng nọ để giáo hóa thì mọi người ở đây mới thưa hỏi rằng: “Chúng con là người dân chưa đủ niềm tin vững chắc đối với các tôn giáo, ai đến đây cũng tuyên truyền đạo của mình đều tốt và khuyên mọi người nên tin theo. Chúng con làm thế nào để biết rõ đạo nào tốt, đạo nào xấu, đạo nào đúng, đạo nào sai?”
Phật không trả lời mà hỏi lại:
- Này các thiện nam tín nữ, giết hại có lòng từ bi không? Dạ không ạ!
- Gian tham trộm cướp có từ bi không? Dạ không ạ!
- Uống rượu say sưa có lòng từ bi không? Dạ không ạ!
Tôn giáo nào khuyên nhủ không làm các điều trên thì nên tin theo. Thật ra đức Phật của chúng ta quá khôn khéo, vì ngài lúc nào cũng khuyên giữ các giới điều đó để thể hiện lòng từ bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.
Thế cho nên đạo Phật là đạo của từ bi, là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, là đạo của con người, vì con người mà thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Khi được nghe Phật giải thích rành rẽ từng chi tiết cụ thể, tất cả người dân ở đây đều xin quy y với Phật và phát nguyện gìn giữ năm điều đạo đức và tu mười điều lành....
Gia tài tâm linh đó là bảy gia tài bậc Thánh: Tín, giới, tàm, quý, văn, thí, huệ - bảy thứ này nếu chúng ta biết cách tiếp nhận thì sẽ làm chủ bản thân mà sống đời an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ. (Nguồn: Thích Đạt ma Phổ Giác giảng)
+ 63. BẢY TÀI SẢN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bảy tài sản, tín, giới, tàm, quý, văn, thí và tuệ tài. A-nan, bảy tài sản này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy bảy tài sản này cho các Tỳ-kheo niên thiếu, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 80. BỐN CHÁNH ĐOẠN:
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn chánh đoạn:
1) Với pháp ác bất thiện đã sanh, vì để đoạn trừ chúng nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
2) Pháp ác bất thiện chưa sanh, vì để chúng không phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
3) Pháp thiện chưa sanh, vì để cho phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
4) Pháp thiện đã sanh, vì để chúng kiên trụ, không bị quên lãng, không bị thoái hóa, được bồi bổ tăng tiến, được phát triển rộng rãi, được viên mãn cụ túc, nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ.
A-nan, .... Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn chánh đoạn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 92. BỐN NIỆM XỨ: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn niệm xứ, quán thân như thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp như pháp. A-nan, ... Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn niệm xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
97. BỐN THÁNH ĐẾ: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn Thánh đế, Khổ thánh đế, Tập, Diệt và Đạo thánh đế. ....Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn thánh đế này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
165. CỬU TƯỞNG: Tỳ-kheo niên thiếu vừa mới thành tựu giới hãy thường xuyên đi đến một nghĩa địa mà quán sát các tướng trạng tử thi: tướng xương, tướng xám xanh, tướng rữa nát, tướng bị thú ăn, tướng bộ xương khô. Vị ấy sau khi ghi nhận kỹ những tướng trạng tử thi này rồi trở về trụ xứ của mình, rửa sạch tay chân, trải ni-sư-đàn trên giường, ngồi kiết già và suy niệm về các tướng trạng này: .... tướng những đốt xương dính liền. Vì sao vậy? Nếu Tỳ-kheo tu tập bằng các tướng trạng này sẽ đoạn trừ nhanh chóng những bệnh tham dục, sân nhuế trong tâm. (Trung A Hàm, Kinh Tức Chỉ Đạo, Phẩm 11, số 139)
+ 388. LỢI ÍCH CỦA TỨ THIỀN
Trước kia Ta đã nói cho ông nghe về Tứ thiền, Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện cho đến được đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Tứ thiền này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về Tứ thiền này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 419. NĂM CĂN
A-nan, Ta đã nói cho ông nghe về năm căn, tín, tinh tấn, niệm, định và tuệ căn. A-nan, năm căn này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm căn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ 420. NĂM CĂN VÀ NĂM TRIỀN CÁI - Pháp Đoạn Trừ Vô Minh:
Nếu khi Như Lai xuất thế, Đẳng Chánh Giác, Thiên Nhân Sư, Phật....., vị ấy đoạn trừ cho đến năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tu tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn. Đó là nếu muốn đoạn trừ vô minh nên tu Năm căn.
Như vậy, số đoạn, giải thoát, quá độ, bạt tuyệt, diệt, chỉ, tổng tri và biệt tri.
432. NĂM THỦ UẨN ĐOẠN TRỪ: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về năm thủ uẩn: sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành và thức thủ uẩn. Này A-nan, năm thủ uẩn này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về năm thủ uẩn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
452. NHÂN DUYÊN KHỞI SỞ SANH PHÁP: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về nhân duyên khởi và nhân duyên khởi sở sanh pháp: ‘Nếu có cái này thì có cái kia, nếu không có cái này thì không có cái kia. Nếu sanh cái này thì sanh cái kia, nếu diệt cái này thì diệt cái kia. Duyên vô minh, hành. Duyên hành, thức. Duyên thức, danh sắc. Duyên danh sắc, sáu xứ. Duyên sáu xứ, xúc. Duyên xúc, thọ. Duyên thọ, ái. Duyên ái, thủ. Duyên thủ, hữu. Duyên hữu, sanh. Duyên sanh, già chết. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già chết diệt. A-nan, .... ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về ... (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
566. SÁU ÁI THÂN: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu ái thân: nhãn ái, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ái. Này A-nan, sáu ái thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu ái thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
568. SÁU GIỚI: A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu giới: địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. A-nan, sáu giới này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu giới này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
572. SÁU NGOẠI XỨ
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu ngoại xứ: sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. A-nan, sáu ngoại xứ này ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu ngoại xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
573. SÁU NỘI XỨ
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu nội xứ: nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. A-nan, sáu nội xứ này ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu nội xứ này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
574. SÁU THÂN THỨC
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu thức thân: nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. A-nan, sáu thức thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu thức thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
575. SÁU THỌ THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu thọ thân: nhãn thọ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thọ. A-nan, sáu thọ thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu thọ thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
576. SÁU TRỤ XỨ THIỆN
Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, được sáu trú xứ thiện.
Đa văn Thánh đệ tử khi mắt thấy sắc, không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm, chánh trí. Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy, được nói là đạt được trụ xứ thiện thứ nhất.
Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý biết pháp mà không hỷ, không ưu, xả cầu, vô vi, chánh niệm, chánh trí.
Đa văn Thánh đệ tử với tâm giải thoát chơn chánh như vậy được nói là đạt được trụ xứ thiện thứ sáu. (Trung A Hàm, Kinh Hòa Pháp, Phẩm 2, số 12)
577. SÁU TƯ THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu tư thân: nhãn tư, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tư. A-nan, sáu tư thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu tư thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
578. SÁU TƯỞNG THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu tưởng thân: nhãn tưởng, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tưởng. A-nan, sáu tưởng thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu tưởng thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.
579. SÁU XỨ
Tỳ-kheo biết như thật về sáu xứ, biết như thật về tập của sáu xứ, diệt của sáu xứ và diệt đạo của sáu xứ.
Thế nào là biết như thật về sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ.
Thế nào là biết như thật về tập của sáu xứ? Do danh sắc mà có sáu xứ.
Thế nào là biết như thật về diệt của sáu xứ? Danh sắc diệt tức sáu xứ diệt.
Thế nào là biết như thật về diệt đạo của sáu xứ? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp. (Trung A Hàm, Kinh Đại Câu-hi-la, Phẩm 3, số 29)
580. SÁU XÚC THÂN
A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về sáu xúc thân: nhãn xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. A-nan, sáu xúc thân này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về sáu xúc thân này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
Nguồn: (Lời Phật dậy - Trung A Hàm)
+ Thanh Thiếu Niên tu học Đạo làm người:
- Rèn Luyện Nhân Cách Cao Thượng
Các em bạn nhỏ của tôi! Các em nên noi gương các vị thánh nhân, các vị hiền nhân, học theo gương các vị đại trượng phu, đầu đội trời chân đạp đất học theo gương những vị anh hùng trong nước và ngoài nước, thuở xưa và ngày nay, để có được nhân cách, đạo đức học vấn và Phật nghiệp của họ.
Bây giờ là thời gian để các em học tập: ở trong lớp thì các em trau giồi kiến thức và kỷ năng, ở ngoài lớp thì các em rèn luyện đạo đức và nhân cách. Khi có kiến thức phong phú và nhân cách được kiện toàn thì sau này các em mới làm nên sự nghiệp lớn lao vĩ đại, và mới đem lại hạnh phúc cho toàn thế giới và nhân loại. Ở đâu các em cũng cần có kinh nghiệm mới có thể tiến bộ. Ðừng sợ thất bại vì thất bại là mẹ thành công. Khi còn trẻ, các em cần có khí phách của bậc anh hùng, oai phong hào khí ngất trời thì tương lai các em mới trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng, bậc nhân tài hoằng pháp xuất chúng.
Bây giờ chính là lúc các em phải xây dựng nền tảng kiên cố về cả hai phương diện học vấn và nhân cách. Nền tảng về nhân cách lại còn trọng yếu hơn nền tảng về học vấn nữa. Người có học vấn mà không có nhân cách thì sau này chỉ làm hại cho quốc gia, gây loạn lạc cho nhân loại. Vì lẽ đó các em cần phải rèn luyện nhân cách cho cao thượng để tương lai phục vụ nhân loại, đem lại lợi ích cho chúng sanh.
Muốn xây dựng nền tảng cho nhân cách được kiên cố, trước tiên các em phải học nói năng cho chính trực, thẳng thắn, và đừng bao giờ nói lời giả dối, hư ngụy. Hãy nhớ nhé! Các em chớ nịnh hót, nói những lời để người khác vui, cũng đừng nói lời trái ngược với lương tâm mình, lời nào cần nói thì nói, không cần phải nói thì đừng nói. Các em phải biết rằng: “Ngôn đa tất thất,” nói nhiều lời thì sẽ sai lầm, và rằng “bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu sanh,” bệnh là do miệng mà vào, họa là từ lời nói mà ra. Các em phải ghi nhớ, nên thận trọng!
Ðức Mạnh Tử dạy chúng ta ba tiêu chuẩn để rèn luyện nhân cách. Ngài nói rằng:
1) Lúc mình giàu có phú quí, thì phải giữ qui củ, không được dâm loạn,
2) Lúc mình nghèo hèn thì đừng thay đổi chí khí tức là không bị hoàn cảnh làm cho thay đổi chí hướng,
3) Lúc mình bị thế lực chèn ép thì không khuất phục, không đầu hàng, tức là không bị lợi lộc, vật chất làm cho mất hết danh tiết. Nếu các em có được chí khí cương trực hào hùng như vậy thì mới có thể trở thành những người hữu dụng sau này.
(Ngày 4 tháng 9 năm 1982)
Lầu Cao Vạn Trượng Ðều Từ Dưới Ðất Xây Lên
... Trẻ thơ giống như miếng vải tinh khiết, nhuộm màu xanh thì ra xanh, nhuộm màu vàng thì ra vàng. Các em tùy theo hoàn cảnh giáo dục mà biến chuyển, cho nên người đời nói rằng: gần mực thì đen gần đèn thì sáng. Các em chịu sự huân tập nhuộm màu của hoàn cảnh. Sách Tam Tự Kinh có nói rằng:
Nhân chi sơ, tánh bổn thiện
Tánh tương cận, tập tương viễn,
Cẩu bất giáo, tánh nãi thiên.
Có nghĩa rằng con người lúc ban sơ thì tánh tình vốn thuần thiện. .....
Các em thọ hưởng nền giáo dục ở Vạn Phật Thánh Thành, nếu thực hành được không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không ích kỷ, không vọng ngữ, thì trong tương lai đối với quốc gia xã hội các em nhất định sẽ có cống hiến lớn lao....
Các thầy cô thân mến,
Các vị hãy áp dụng tinh thần “coi con em người khác như chính con em mình” để giáo dục các em. Trẻ em là tài nguyên của đất nước, và cũng là nền tảng của quốc gia. Ðất nước mà tài nguyên không đủ, nền tảng không kiên cố thì làm sao trở nên giàu mạnh được? Các vị hãy gắng công!
Hãy Học Cho Giỏi Mới Trọn Vẹn Ðạo Hiếu
Quán Âm Thất kỳ này có nhiều học sinh tới tham _gia. Các em phải hiểu rõ đạo lý hiếu thảo với cha mẹ. Lúc còn ở nhà thì mình nghe lời, giúp đỡ cha mẹ dọn dẹp phòng ốc nhà cửa, quét tước sạch sẽ, giúp cha mình cắt cỏ, làm những việc cần làm, lúc đi học ở trường thì phải nghe lời thầy giáo, chuyên tâm nghe giảng bài, dụng công học tập, không nên để thời gian trôi qua lãng phí. Một ngày mình phải biết được một chữ, một ngày mình phải học một câu hay, đó là biểu hiện hiếu thảo với cha mẹ rồi đấy.
Ðến năm mười tám tuổi, không có sách gì để đọc. Lúc ấy tôi ở nhà nghiên cứu sách y học, ... tôi cũng có đọc sách về tướng mạo, sách bốc quái, hay sách về bát-tự, sách về toán mạng v.v.. Ðối với sách thuốc, sách bốc quái, sách tinh tướng, tuy tôi không tinh thông lắm, nhưng cũng hiểu được nghĩa lý của nó...... (phú quý như đóa hoa bên đường, công danh như giọt sương trên ngói).
Trẻ Em Là Rường Cột của Nước Nhà
Các bạn nhỏ thân mến! Các em hãy ngồi ngay _thẳng, yên lặng lắng nghe những điều tôi muốn nói hôm nay. Các em là những cây non mỗi ngày mỗi lớn cao, tương lai các em sẽ là rường cột cho đất nước mình. Các em cần làm nên sự nghiệp vĩ đại hiển hách, đem lại hòa bình cho thế giới, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. ...
.... Thế nào là đôn phẩm? Ðôn tức là đôn hậu. Phẩm là phẩm cách, có nghĩa rằng các em phải học làm sao cho kiến thức được phong phú, phẩm cách được cao thượng, đừng hút thuốc, đừng uống rượu, đừng hút xì-ke, cũng đừng bài bạc rượu chè, cũng đừng làm những hành vi bất lương không tốt.
Ðồng Tính Luyến Ái – Chính Là Tự Ðào Mồ Chôn Mình......
Ở trên đời chuyện gì cũng tương đối, có âm thì có dương, có trời thì có đất, có ngày thì có đêm, có lạnh thì có nóng, có nam thì phải có nữ, đó là lẽ tự nhiên. Nếu con người làm chuyện đồng tính luyến ái, thì nhân loại sẽ bị diệt vong, bởi vì hành động ấy không hợp với đạo lý của trời đất, đó là vấn đề rất nghiêm trọng.
Các em bạn nhỏ! Các em đối với vấn đề thiện ác hãy phân biệt cho rõ ràng. Ðừng nên sát sanh, đừng nên trộm cắp, đừng nên làm chuyện tà dâm. Ðừng nên nói dối trá, đừng nên rượu chè bài bạc, đừng nên hút thuốc, cũng đừng nên làm biếng giãi đãi, cũng đừng nên buông lung phóng dật. Ðối với bài vở hàng ngày các em phải nổ lực học tập, các em phải rèn luyện bồi dưỡng nhân cách đạo đức của mình, để thành một người có ích cho thế giới, một người hữu dụng.
Tiền Bạc Có Thể Hại Ðến Thân Mạng
.... Khi tiền bạc chất chứa nhiều rồi, thì sẽ có hại đến thân mạng.
Khổng Tử – Nhà Ðại Giáo Dục
Khổng Tử là nhà đại giáo dục. ... Ngài san định năm cuốn: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu, tức là Ngũ-kinh.
Cái Ðạo của Bậc “Ðại Học”
Ðạo của bậc “Ðại-Học” thì lấy ba cương lĩnh và _tám điều mục làm tông chỉ. Thế nào là ba cương lĩnh? Tức là minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện. Minh đức có nghĩa rằng sau khi mình tự thanh tịnh, chiếu soi quang minh tự tánh của mình, nhiên hậu dạy người khác chiếu soi, thanh tịnh quang minh tự tánh của họ. Thân dân có nghĩa là khiến cho tất cả mọi người đều biết con đường chính đáng, làm sao trở thành những người thông hiểu đạo lý. Chỉ ư chí thiện là mọi người cùng đạt tới chỗ cùng cực thiện hảo.
Thế nào là tám điều mục, tám điều khoản, hay là tám điều kiện? Tức là cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Cách vật là gì? Tức là nghiên cứu lý tánh của vạn vật vạn sự trong trời đất .
Trí tri là gì? Là vận dụng trí huệ, tỉ mỉ nghiên cứu phong cách mọi sự vật để biết đến chỗ cùng cực.
Chánh tâm là gì? Tức là tâm đoan chính làm chủ tể thân mình.
Thành ý tức là khởi ý thành thật.
Tu thân tức là sửa đổi, tu tập để trở nên người tốt, có đức hạnh.
Ðó là năm điều thuộc về việc học của thân tâm.
Tề Gia tức là cai quản nhà mình.
Trị quốc tức là quản lý, lãnh đạo đất nước mình .
Bình thiên hạ tức là làm cho thiên hạ được thái bình.
Ba điều này thuộc về môn học chính trị.
Trên đây là học thuyết của Ðức Khổng Tử và cũng là lý tưởng rất cơ bản, của đạo lý Nho-Giáo. Ngày hôm nay tôi chỉ giải thích sơ lược về ba cương lĩnh và tám điều mục trong sách “Ðại-Học,” tương lai tôi sẽ nói rõ hơn cho các bạn nghe. (Nguồn: Khai thị Q3-HT Tuyên Hóa)
+ Đọc sách - Đọc kinh: Cho nên, PS Tịnh Không đến 86 tuổi mỗi ngày tôi vẫn là đọc sách 4 giờ đồng hồ, người xưa nói "sống đến già, học đến già, học ko hết”. Tôi có thể nói với mọi người, ngày nay tôi tất cả buông bỏ chỉ học "Kinh Vô Lượng Thọ", chỉ học Khoa Chú của lão Niệm Tổ, mục đích chính là cầu sanh Tịnh Độ, đây là thật. PS Tịnh Không giảng, cổ nhân nói: “đọc sách ngàn biến, nghĩa nó tự hiểu” (Nguồn)
+ Cách đọc sách - Chân Sư dậy: Trước tiên ta phải đọc qua một lượt để nắm những nét chính của quyển sách, tìm ra ba hay bốn tiên đề mà quyển sách dựa vào đó. Sau đó, chúng ta quay trở lại đọc nhiều lần để bổ sung những điểm chi tiết giải lý những điểm chính trên. Tốt nhất là chúng ta làm một bản tóm tắt những điểm chính của từng chương trong quyển sách. Cách làm như vậy giúp chúng ta hệ thống hoá kiến thức và khi quay trở để đọc sau nầy, chúng ta dễ dàng ôn lại những gì chúng ta đã đọc. (Nguồn: Hãy suy ngẫm kỹ_Chân Sư DK)
+ Phương pháp Tu cải mệnh toàn diện - Triệt để và nhiệm mầu
- Năng lượng chi phối sống chết:
Đức Phật dậy, có 84.000 ác tinh chi phối vận mệnh con người, trong đó có 28 đại ác tinh và 8 chủ ác tinh. Ở Trung Quốc phân ra gồm 4 chòm sao bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc gồm Thanh long - Bạch hổ - Chu tước - Huyền vũ, mỗi chòm 7 ác tinh.
Tám ác chủ tinh gồm Mộc tinh - Hỏa tinh - Thổ tinh - Kim tinh - Thủy tinh và La hầu - Kế đô với Sao chổi.
Bảy ngôi sao phương Bắc giữ quyền sinh sát các chúng sanh gọi là Bắc đẩu Thất tinh.
- Cách Hóa giải - Tiêu trừ hoàn toàn mọi năng lượng xấu ác của 8.4000 ác tinh là thọ trì đọc tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm hoặc Thần Chú Đại Bi, hoặc các Đại Thần Chú trong Phật giáo mà đức Phật tuyên thuyết. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q7 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Cách tu: Trong Kinh, đức Phật dậy trình tự sau đây không thể đảo nghịch với ai muốn Tu hành bất kể trình độ nào:
a/ Học hiểu và tin sâu Nhân quả - Luân hồi: Kiếp sống hiện tại sướng khổ đều do Nghiệp báo của chính Ta tạo tác, chính Ta là người phải chịu trách nhiệm, không ai khác. Theo đó, khi quả báo đến đều an nhiên đón nhận mà không than trời, trách người ..., cũng cần thực hành buôn xả vạn duyên xấu ác khi nó đã sảy đến, xem như Quả báo đã trả xong, Nợ đã hết không dữ trong Tâm nữa để tránh tạo nghiệp đời vị lai lại phải trả.
b/ Thường nghe giảng Kinh Pháp cả các bậc Thiện tri thức xuất gia tu đạo hạnh như đức Đại Lai Lạt Ma; Thiền sư Thích Nhất hạnh; Hòa thượng Tịnh Không; Hòa thượng Tuyên Hóa; thầy Thích Trúc Thái Minh ....
c/ Tu làm người thiện lành - Thiện tri thức: Ai cũng phải tu giữ nghiêm ngũ giới - Hành thập thiện hàng ngày. Thường ngày cần thực hành bố tài - Bố thí Pháp - Bố thí Vô úy thí theo khả năng. Nói tu đạo làm người theo giáo lý Đông phương/ Đạo Nho là tu giữ Ngũ Luân và Ngũ thường để trở thành bậc Người quân tử trong nhân gian. Không tu thành tựu Đạo Làm Người Thiện lành này thì chẳng thể tu trì bất cứ Pháp môn nào, vì như trong Kinh đức Phật thường nói THIỆN NAM TỬ - THIỆN NỮ NHÂN hay TÍN NỮ là vậy. Không thiện lành, không thành kính Lễ Lạy Đọc Tụng, không tin tưởng tuyệt đối vào Nhân quả Phật Pháp và thường ngày tu tinh tấn thì chẳng có cách gì để Cải tạo số phận. Như thế chẳng khác nào tự mình đầu hàng số phận, chấp nhận SỐ PHẬN AN BÀI, đây chính là tư tưởng SAI LẦM KHỦNG KHIẾP, là vì Nghiệp đã tạo KHÔNG BAO GIỜ MẤT - CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT, kiếp này chửa trả xong, kiếp sau phải trả tiếp lối từ điểm chết trong tiền kiếp là vậy. Ví dụ, kiếp này phải chết trong sự đói nghèo cùng cực thì kiếp sau tái sinh trong gia đình cũng đói nghèo cùng cực, cái ăn chẳng đủ, tã lót chẳng có mà mặc. Hoặc giả sử khi chết gia đình lục đục tranh chấp chia ly thì khi tái sanh cũng lại phải rơi vào hoàn cảnh gia đình cha mẹ, người thân tranh chấp, lục đục, chia ly, thậm chí mồ côi cha mẹ ngay từ lúc sinh ra. Vạn sự tương tự cứ thế mà suy ra => Quả báo không thể sai chạy dù chỉ một chút, ai ai cũng vậy cả. Đức Phật dậy GIEO NHÂN GÌ THÌ GẶP QUẢ ĐÓ: TRỒNG DƯA ĐƯỢC DƯA - TRỒNG ĐẬU ĐƯỢC ĐẬU. Chỉ có tu hành đúng NHƯ PHÁP THỌ TRÌ để sửa đổi Cải số phận tốt lành lên ngay kiếp sống này và cho nhiều kiếp sau được sống sung sướng trong giầu có, thông minh trí tuệ, gia đình hành phúc, ít bệnh nạn, tuổi thọ cao ...
d/ Chọn tu niệm Hồng danh: Tùy theo duyên mà quý vị trọn tu niệm Nam Mô A Di Đà Phật - Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát - Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát - Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lại - Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ....
e/ Chọn Kinh Chú tu hành: Thọ trì đọc tụng Kinh Sám hối nghiệp chướng như Lương Hoàng Sám; Thủy Sám, Mục Liên Sám ..... Trong các Pháp sám hối, có Kinh Sám Hối Chiêm Sát Thiện Ác của Địa Tạng Bồ Tát có thể gieo Mộc Luân để biết thành tựu trong tu hành tiêu trừ nghiệp chướng.
Trên đây là Nhân Trắc Học tổng hợp kiến thức từ trong Kinh Phật dạy. Căn bản từ các Kinh:
- Các Kinh: Kinh Nhân Quả Ba Đời - Kinh Thiện Ác Nghiệp Báo Sai Biệt - Kinh Hiền Nhân - Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo - Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng ...Ngoài ra theo đạo Nho, đạo Khổng Tử để tu đạo làm người thiện lành đều là bước tu khởi đầu tốt đẹp.
- Thần Chú Lăng Nghiêm: Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật dậy Thần Chú Lăng Nghiêm phá trừ 84.000 ác tinh chi phối đời sống muôn loài. Người tu thọ trì Thần chú này thì hoàn toàn vượt thoát ngoài các năng lượng xấu ác tri phối bởi các ác tinh này. (Quyển 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Thần Chú Đại Bi: Trong Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngài Đại Bi Tâm Đà La Ni, đức Phật tuyết thuyết Thần Chú Đại Bi thông thiên địa.
=> Tùy theo Căn tánh - Tùy duyên - Tùy trình độ năng lực mà có thể tu hành các mức khác nhau, nhưng chắc chắn có tu là có thành tựu tương ứng.
+ Khổng tiên sinh bói số mạng - Sách Liễu Phàm Tứ: Sau ta gặp một cụ già tại chùa Từ Vân, cụ râu dài oai nghi, phơi phới như tiên. Ta do đó cung kính chào hỏi. Cụ thấy ta bèn nói: « Tướng ngươi có mạng làm quan, năm tới sẽ đậu Tú Tài, sao giờ này còn lang thang ở đây không lo học ? » Ta trình bày nguyên do và đồng thời xin cụ cho biết tên họ và quê quán. Cụ nói: « Ta họ Khổng, người Vân Nam. Ta được chân truyền quyển Hoàng-Cực-Số (3) của ông Thiệu. Ta biết môn này sau này sẽ truyền lại cho ngươi. » Ta mời cụ về nhà và kể lại cho mẹ. Mẹ dặn phải tiếp đãi tử tế và xem cụ đoán số ra sao. Cụ bói cho ta từ việc lớn đến việc nhỏ đều chính xác vô cùng. Làm ta ước mơ trở lại học văn và bàn giấy với ông anh họ Thẩm Xứng. Ông anh nói: « Thầy Úc Hải Cốc đang mở lớp học tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, anh sẽ gởi em đến đó học không thành vấn đề. » Ta bèn bái lạy thầy Úc làm thầy......
..... Thiền sư trả lời rằng: « Lòng người còn lăng xăng không yên, thì còn bị bị âm dương khí số (1) trói buộc, làm sao có thể bảo là không số mạng được ? Nhưng số mạng chỉ chi phối cho người thường, là những người suốt đời sống xuôi chiều theo tánh mình, không biết thay đổi mà thôi. Còn đối với những người có sự chuyển biến mạnh mẽ thì số mạng không thể chi phối. Như người trở nên quá tốt, sẽ thấy đời đi lên. Ngược lại, người trở nên quá xấu sẽ thấy đời đi xuống. Hai mươi năm nay Khổng tiên sinh cho ngươi thấy được số mạng mà ngươi không thể thay đổi chút nào, vậy không phải phàm phu là gì » .... Mạnh Tử dạy: .... Tìm bên ngoài ta thì vô ích, chẳng tìm được ...
Sư trả lời: « Mạnh Tử nói rất đúng, chỉ vì ngươi hiểu sai mà thôi. Ngươi không nghe Lục Tổ nói sao ? "Tâm ta như miếng ruộng, phước hoạ do mình trồng". Phải tìm trong lòng mà gieo, không gì mà không được cả. Tìm do ta, không riêng nhân nghĩa đạo đức, mà công danh phú quý cũng sẽ được hết. Trong và ngoài đều được, tìm như vậy mới có ích lợi vì tìm được. Ngược lại, nếu không biết xem xét trong lòng mà tìm cầu bên ngoài, thì có vẽ đúng cách tìm nhưng được hay không lại tuỳ thuộc số mạng. Cuối cùng trong và ngoài đều mất. Vì vậy Mạnh Tử nói "vô ích" là vậy ». (Nguồn: Liễu phàm tứ huấn)
+ Giảng về Liễu Phàm Tứ Huấn Cải Mệnh
... Khi lão già K’ung thấy Yuan Hsiao Hai, lão nói: “Anh nên đi học. Anh sẽ làm quan.” Yuan Hsiao Hai nói: “Nhưng cha mẹ tôi và toàn gia đình đều mong muốn tôi thành thầy thuốc.”
Lão K’ung đáp: “Đừng học thuốc. Anh nên đi học chữ. Vào chừng ấy năm, anh sẽ đỗ được học vị như vậy như vậy trong kỳ thi Đình, và trong chừng ấy năm anh sẽ trở thành một vị quan lớn. Rồi vào năm đó năm đó, ngày đó tháng đó, anh sẽ trở thành quan án sát, anh sẽ trở nên rất có danh vọng. Khi anh 45 tuổi, vào ngày 14 tháng 8, lúc nửa khuya, vợ anh sẽ qua đời. Anh không có con nối dõi.” Lão già K’ung không những định được ngày tháng cho những sự kiện lúc sinh thời mà còn biết được cả ngày chết của anh ta.
...... Anh ta ngồi và đợi người ta đưa thức ăn tới. Có câu ngạn ngữ nổi tiếng ở Trung Hoa: “Ngồi chờ sung rụng”, như vậy nghĩa là không làm gì cả, chỉ trông mong vào sự sắp đặt của tự nhiên, chỉ mong số mệnh hiển bày. Đó thật là sai lầm. .....
“Ồ!” –Thiền sư Yuan Ku nói – “Ông thật là bậc pháp khí, có khả năng nhập đạo. Ông đã ngồi thiền suốt ba ngày mà không nhúc nhích hoặc thay đổi tư thế.”
Yuan Hsiao Hai đáp lại: “Tôi biết mọi việc đều do nhân duyên tiền định. Thế nên tôi không mong cầu gì cả. Đó là nguyên nhân khiến tôi không có chút vọng tưởng nào khi ngồi ở đây, thế nên tôi chẳng thấy đau chân chút nào cả.”
Chân nhức mỏi do đâu? Do vọng tưởng, có nghĩa là vọng kiến mà kinh nầy đang nói đến. Vì vọng kiến, nên chân đau. ...
Thiền sư Yuan Ku nói: “Tôi nghĩ rằng anh là người kỳ đặc. Nhưng như điều anh vừa cho biết, thì anh chỉ là kẻ phàm phu.”.....
Thiền sư Yuan Ku nói: “Nếu ông chẳng phải là phàm phu, thì ông đã không bị trói buộc vào số mệnh sẽ xảy ra trong vài chục năm tới. Ông đã bị dính chặt vào định mệnh và chẳng có cách nào thóat ra được cả.”
..... Yuan Hsiao Hai hỏi: “Người ta có thể thóat khỏi số mệnh không? Đừng để cho định mệnh trói buộc được chăng?”
Thiền sư Yuan Ku đáp: “Anh là người có học. Anh không nghe Kinh Dịch nói: “Phát khởi điều tốt lành và tránh việc ác” đó sao?
Sau đó Yuan Hsiao Hai đổi tên mình là Dương Liễu Phàm, “không còn làm kẻ phàm phu nữa”. Ta không phải là kẻ phàm phu nữa. Ta không còn là phàm phu nữa. Sau đó lời tiên đoán của Lão K’ung không còn đúng nữa. Lão ta nói rằng Yuan Hsiao Hai sẽ chết vào ngày 14 tháng 8, lúc 54 tuổi, nhưng đến đó anh ta không chết. Tử vi nói rằng anh ta không có con, nhưng anh ta lại có hai người con. Anh ta sống đến 80 tuổi. Nên số mệnh của con người không phải là nhất định. Làm việc thiện là tất cả những gì quý vị cần phải thực hành, vì ngay khi thay đổi tâm niệm thì mọi thứ đều thay đổi. Tại sao có việc không lành? Vì có tâm niệm không lành của quý vị trong đó. Đó là lý do tại sao quý vị gặp việc chẳng lành. Điều này chứng tỏ rằng vọng kiến làm sinh khởi các nhân duyên hư dối. Nếu quý vị có chánh kiến, thì nhân duyên hư dối kia sẽ biến mất. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Sách Đệ Tử Quy - Đạo làm người con hiếu thảo
TỔNG TỰA
1. Phép người con, Thánh nhân dạy.
Hiếu đệ trước, kế cẩn tín.
Yêu bình đẳng, gần người nhân.
Có dư sức, thì học văn.
Ở NHÀ PHẢI HIẾU
2. Cha mẹ gọi, trả lời ngay.
Cha mẹ bảo, chớ làm biếng.
Cha mẹ dạy, phải kính nghe.
Cha mẹ trách, phải thừa nhận.
3. Đông phải ấm, hạ phải mát.
Sáng phải thăm, tối phải viếng.
Đi phải thưa, về phải trình.
Ở ổn định, nghề không đổi.
4. Việc tuy nhỏ, chớ tự làm.
Nếu đã làm, thiếu đạo con.
Vật tuy nhỏ, chớ cất riêng.
Nếu cất riêng, cha mẹ buồn.
5. Cha mẹ thích, dốc lòng làm.
Cha mẹ ghét, cẩn thận bỏ.
Thân bị thương, cha mẹ lo.
Đức tổn thương, cha mẹ tủi.
Cha mẹ thương, hiếu đâu khó.
Cha mẹ ghét, hiếu mới tốt.
6. Cha mẹ lỗi, khuyên thay đổi.
Mặt ta vui, lời ta dịu.
Khuyên không nghe, vui can tiếp.
Dùng khóc khuyên, đánh không giận.
7. Cha mẹ bệnh, nếm thuốc trước.
Ngày đêm hầu, không rời giường.
Tang ba năm, thường thương nhớ.
Chỗ ở đỗi, không rượu thịt.
Tang đủ lễ, cúng hết lòng.
Việc người chết, như người sống.
Còn dài, mời xem bản toàn văn: Đệ Tử Quy rất tuyệt diệu
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói dối thì liền đạt 8 loại pháp được Chư Thiên khen ngợi:
1. Một là, miệng thường sạch sẽ với mùi thơm của hoa sen xanh.
2. Hai là, được người đời tin phục.
3. Ba là, lời nói ra luôn có chứng cứ, được hàng Trời, người kính mến.
4. Bốn là, thường đem lời ái ngữ an ủi mọi người.
5. Năm là, được tâm an vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh.
6. Sáu là, lời nói không lầm lỗi, tâm thường vui vẻ.
7. Bảy là, nói năng trang trọng, hàng Trời, người phụng hành.
8. Tám là, trí tuệ thù thắng không ai chế ngự được. Nguồn: Kinh thập thiện
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói thêu dệt thì liền thành tựu được 3 pháp:
1. Một là, chắc chắn được bậc trí thương mến.
2. Hai là, chắc chắn có thể dùng trí tuệ giải đáp mọi câu hỏi đúng sự thật.
3. Ba là, chắc chắn có được oai đức hơn hết, không hư dối đối với hàng Trời, người. Nguồn: Kinh thập thiện
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Giới Dâm: Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ, cùng phi đạo mà hành dâm dưới mọi hình thức: nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục. Là Phật tử, đối với tất cả mọi đối tượng trên, không được cố ý dâm dục và phải có lòng hiếu thuận, cứu độ tất cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh răn dạy người; trái lại, không có tâm từ bi, làm cho mọi người sanh việc dâm dục, không phân biệt súc sanh cho đến mẹ con, chị em trong lục thân cũng hành dâm. Phật tử này phạm Ba La Di tội.(Nguồn)
+ Tình dục là gốc của khổ. Bởi vì có tình, có dục là có chấp trước.
Trong kinh “A Hàm” có câu chuyện kể, Phật hỏi học trò: “Các người nói xem nước 4 đại dương nhiều hay là nước mắt chúng ta đổ ra vì trong quá khứ phải biệt ly với người thân, bên nào nhiều hơn?” Học trò trả lời: “Nước mắt đổ ra nhiều hơn”. Đức Phật tỏ ra vui vẻ, vì học trò của mình đã trả lời đúng;
- Có tình dục là có đau khổ, bi ai, nước mắt chảy. Cái khổ đó là do chấp trước. Chấp trước vào tình dục cho nên đau khổ. Nếu anh có người bạn, bị người yêu là nam hay nữ từ bỏ, anh không cảm thấy đau khổ, nhưng nếu bản thân anh bị người yêu là nam hay nữ từ bỏ, anh sẽ cảm thấy rất đau khổ, bởi vì anh cảm thấy đối phương, tức người mình yêu là “của anh”. Nhưng sự thực không phải như vậy, đối phương không phải là do anh đẻ ra, dựa vào đâu mà nói rằng là “của anh”, thân thể, tư tưởng, ý nghĩ đều là của cô ta, đâu phải là của anh. Chỉ cần anh nhận thức rõ, cô ta không phải là của anh, thì anh sẽ bớt đau khổ. Anh khổ là vì anh chấp trước cô ấy là của anh.
Vì bản chất tình dục là thống khổ, cho nên tình dục vĩnh viễn không thể nào thỏa mãn đầy đủ được. Đau khổ là có chấp trước. Không phải chỉ có chúng ta là phàm phu mới chấp trước. Có những người tu hành rất tốt cũng chấp trước. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
Xem thêm: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Chân thật: Điều này chủ yếu có liên quan tới việc sử dụng lời nói và các cơ quan phát âm, và có liên quan tới sự “chân thật tận thâm tâm” (“truth in the inmost part”) sao cho sự chân thật biểu lộ ra bên ngoài. (ASCLH, 185)
+ 481. NÓI LÁO
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Ai nói láo tất phải chịu ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta nói láo ấy là tự hại mà cũng xuyên tạc phỉ báng người khác. Chư Thiên và các vị phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta, khi thân hoại mạng chung tất sẽ phải đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Ai nói láo tất phải chịu ác báo này đời này và đời sau như vậy. Nay ta nên y cứ trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo chăng?’ Rồi vị ấy y cứ trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo. Như vậy Đa văn Thánh đệ tử y trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
+ Giới Khẩu nghiệp: Không có lời Vọng ngữ/ Nói Dối - Nói Sai Sự Thật - Nói Láo - Nói A Dua - Nói Nịnh Hót. Cổ nhân thường nói: “Nhân vô tín tắc bất lập”. Trong xã hội cổ đại Trung Quốc đối với chữ tín vô cùng coi trọng. “Ngũ thường”, “thường” là thường hằng, là nhất định không thể mất đi, cho nên “ngũ thường” còn gọi là thường đạo, cũng chính là đạo lý cơ bản làm người: “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. Phật nói rõ: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”. Ý nghĩa của lời nói này là “Tín là căn nguyên vào đạo, có thể sinh công đức”, cho nên “tín” gọi là công đức mẫu. Ý nghĩa của mẫu là năng sinh. Ngũ thường “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” thì bạn ở đâu cũng có thể nhìn thấy xã hội này, thời đại này là có phước, nhà Phật gọi là phước địa, phước thành. “Nhân” là nhân từ, “nghĩa” là đạo nghĩa, “lễ” là lễ tiết, trí tuệ, lòng tin thì xã hội này có phước. Cổ nhân thường nói: “Tu hành bắt đầu từ không vọng ngữ”. Phật pháp nói là: “Thường sinh tâm hoan hỷ” => Nếu như từ trên tướng mà nói, liền được tướng lưỡi rộng dài của Như Lai, đó là nói từ trên tướng.... Các nghiệp đều từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sinh ra. Lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bạn mới nhìn thấy chân tướng của vũ trụ nhân sinh (Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Phật dậy không được nói sai sự thật - Dối trá
a) Nói dối - Nói láo: là không nói thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạc; hay là khi ưa thì nói dịu ngọt thơm tho, khi ghét lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ lời nói việc làm trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài bất nhất, đều thuộc về nói dối cả.
b) Nói thêu dệt: Là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận; là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe, làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù phiếm, bóng bẩy làm cho kẻ nghe phải loạn tâm, sanh phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ Phật dậy Không Nói dối (Nguồn: Chánh ngữ):
1. Không nói dối hay Nói láo hay Vọng ngữ : Chân chính trung thực, nói sự thật, không dối trá lừa gạt, chuyện có nói không, không nói có, vu oan giá họa vì bất cứ lợi ích gì để tránh bị đọa đường ác.
- Ví như: “Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy; Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; Biết nói không biết, không biết nói biết; Biết trái nói phải, biết phải nói trái.”
+ Điều 2/14 điều răn Đức Phật dậy: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.”
+ Nói A dua - Nịnh hót: 7. Các đệ tử, tâm lý dua nịnh trái ngược hoàn toàn với đạo giải thoát. Nên biết: Dua nịnh là điều dối trá mà người xuất gia không nên có. Phải làm cho tâm ý đoan chánh, phát huy đức tánh trung trực. Đó là con đường vào đạo. Đức Phật dậy (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
+ Vọng ngữ: “Ly hư cuồng ngữ” chính là không vọng ngữ. Dùng tâm chân thành đối nhân, xử thế, tiếp vật. Thành thật, hai chữ này xưa nay, trong ngoài nước thật sự là không phân quốc gia, không phân chủng tộc, không phân tôn giáo đều tán thán, đều hoan hỷ. Vọng ngữ, lưỡng thiệt là đại giới ở trong Phật pháp. Xưa nay biết bao người tu hành, tu tích công đức nhưng không thể thành tựu, vì sao vậy? Vì từ trong vọng ngữ, lưỡng thiệt đã sơ xuất rồi. Phiền não (trong kinh Phật gọi là “hữu lậu”) khiến pháp tài công đức của bạn chảy hết, công đức mà bạn tu không còn nữa, chảy hết rồi. Lỗ chảy rất nhiều, lỗ chảy của vọng ngữ, lưỡng thiệt là lớn nhất. Lưỡng thiệt là xúi giục thị phi.(PS Tịnh Không - Tập 41 - Kinh TTNĐ)
+ I- Kinh Thập thiện, khẩu nghiệp gồm:
1. Nói Dối trá: Không Chân thật/ Thật Thà - Nói Ỷ ngữ - Nói A dua nịnh hót - Nói Thêu dệt - Nói Thêm Bớt
2. Nói Ác khẩu: Độc Ác - Nói Quát tháo - Nói Hung Ác - Nói Nhục mạ, Phỉ báng mang đến khổ đau cho người.
3. Nói lưỡng thiệt: Nói Hai Lưỡi - Đôi Chiều - Đòn Sóc 2 đầu gây hiểu lầm, chia rẽ, hận thù.
4. Nói Ỷ ngữ: Lời Vô Nghĩa - Nhảm Nhí - Phù Phiếm
+ Lời Phật dậy khác cho Tu Sỹ, Thánh Hiền:
+ Các thầy phải: “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như chánh pháp”
+ Tránh lời nhuc mạ, phỉ báng: “Chớ nên phỉ báng một ai; Đừng gây tổn hại cho người xung quanh.
Lời nói phải chân thật, đúng lúc (phù hợp với hoàn cảnh (khế cơ)", hợp Chánh pháp, ích lợi cho mình và cho người.
=> Phải biết đối tượng và hoàn cảnh, trình độ nhận thức ở mức độ nào? Nếu không, dù lời nói đúng sự thật cũng trở thành phi pháp;
+ Sinh vào cảnh trời: Có hạnh “chân thật, nhẫn nại và bố thí”. Đức Phật giải thích là các hạnh đó tuy nhỏ vẫn có thể dẫn đến các cõi Trời. (Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo)
+ Lời Nói Thận Trọng: ... "Thận trọng lời nói" có nghĩa là đừng mặc tình nói những gì mà mình thích nói. "Giữ gìn tâm ý" có nghĩa là giữ cho tâm ý mình đừng lang thang, giữ cho tâm không sinh vọng tưởng. Đừng truy cầu sự thuận lợi. "Hành vi chớ thô tháo." Giữ cho thân không phạm những nghiệp xấu.
"Đừng gây xúc não cho hết thảy mọi loài chúng sinh." Có nghĩa là đối với hết thảy mọi người cũng như mọi loài chúng sinh nào tiếp xúc với mình, đừng khiến cho họ sinh khởi phiền não. Đừng gây não loạn cho mọi loài chúng sinh. Ngay cả những người đồng tu với mình, cũng đừng gây phiền nhiễu cho họ. Đôi khi mình vô tình gây ra những lỗi lầm khiến cho sinh hoạt của họ phải bị xáo trộn; trong trường hợp như vậy, quý vị nên tìm cơ hội thuận tiện để giải thích và đừng để tình trạng đó tiếp diễn nữa.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Vọng Ngữ: Người học Phật hiện tại lắm kẻ tự thị ta đã khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đã đắc thần thông đến nỗi làm lắm kẻ khác bị lầm theo. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc lâm chung, cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, khó tránh khỏi địa ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm cái thói ham cao, ưa thắng, dối mình, lừa người ấy; nếu trót dính vào thì phải sửa ngay. Còn ai không vướng phải thói ấy thì càng phải cố tránh. Thật rất mong mỏi vậy.
Sát, trộm, dâm… đều là trọng tội; nhưng vẫn còn có người biết những hành vi ấy chẳng tốt, không phải ai cũng mắc phải nên những tội ấy còn ít. Nếu chẳng tự lượng, phạm tội đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng đã nói chứng để lãnh đạo những hạng vô tri thì tội ấy càng nặng nề lắm. Hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, mê lầm, tội ấy chẳng thể hình dung được nổi!
Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng hư trương thanh thế, bôi mặt, bày trò thì dù có tu hành cũng bị cái tâm kiêu hư ấy phá hoại quá nửa. Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữ là Căn Bản Giới, nhằm để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu chơn tu, thực chứng.
Thế nên, người tu hành chẳng được hướng về người khác khoe khoang công phu của chính mình. Nếu như vì chẳng hiểu rành rẽ, muốn cầu thiện tri [thức] khai thị, ấn chứng thì có thể tự trần thuật đúng ngay sự thực, chứ chẳng thể tự kiêu nói quá lên, cũng bất tất phải tự khiêm nói giảm đi, cứ nói đúng theo tình huống chân thật thì mới là đệ tử Phật chơn chánh, mới có thể ngày một tiến bộ hơn.(ẤN QUANG ĐẠI SƯ_Facebook Sơn Nguyên))
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Chánh Ngữ (bát chánh đạo) trong Phật Giáo: Là Nói lợi mình và Người.
- Kinh tương ưng bộ: Chánh ngữ là từ bỏ các lời nói láo - hai lưỡi - độc ác - phù phiếm.
1. Không nói dối hay Nói láo hay Vọng ngữ (Giới 2 trong 5 Giới - Người tại gia tạo Khẩu nghiệp): Chân chính trung thực, nói sự thật, không dối trá lừa gạt, chuyện có nói không, không nói có, vu oan giá họa vì bất cứ lợi ích gì để tránh bị đọa đường ác.
2. Không như mắng nhiếc, mạ lỵ, phỉ báng, nhục mạ - Gây đau lòng, tổn thương: Không xúc phạm = lời nói hung ác, xiên xỏ, nguyền rủa, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời, lời nói cộc cằn, thô lỗ. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa. Nên nói lời hoà nhã, dịu dàng, hiền hậu, đạo đức, từ bi, lợi lạc ai nghe cũng hân hoan, kính trọng.
3. Không nói Hai lưỡi như thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá: Tránh "tà ngữ” với ác tâm. Không nói lời hai lưỡi, đòn xóc hai đầu, làm người ghét nhau, thù nhau. Không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, nói châm chọc gây buồn phiền và khởi tà niệm. Không gây tạo ác cảm cho 2 bên thù oán, sân hận đấu tranh. Có dịp thì khuyên can người nói tà ngữ.
4. Không nói lời phù phiếm: Chuyện phù phiếm, nhảm nhí, vô nghĩa hay u mê... mất yên tĩnh và định tâm. Nói sau lưng là tà ngữ, không xét đúng/ Sai. Xem: Chánh ngữ trong Phật Giáo
+ 125. CHÁNH NGỮ
Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó ngoài bốn diệu hành thuộc miệng, còn các ác hành khác nơi miệng đều viễn ly, đoạn trừ, không hành, không tạo tác, không tập hợp và không tụ hội. (Nguồn mục 125 - (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31))
+ 3. Chánh ngữ: Là trong lời nói của chính mình không có một chút ý nào dâm loạn. Những lời nói ra đều thật đứng đắn. Nếu ai có nói với mình những lời không đứng đắn, mình cũng phải nói với họ những lời đứng đắn mà không được dùng lời không đứng đắn đáp lại. Ðó tức là chánh, là khẩu nghiệp thanh tịnh. Trên đời này bất cứ người nào cũng gặp phải điều ấy. Nếu có ai nói những lời không đứng đắn, chẳng cần phê bình họ nói không đúng, mà không nên tiếp cận với họ là được. Nhưng mặt khác, bạn không cần cho họ là nói lời không chánh đáng, thế thì không chánh đáng cũng biến thành chánh đáng. Chánh tư duy tức là ý thanh tịnh, mà chánh ngữ là khẩu nghiệp thanh tịnh. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ 3. Chánh ngữ: Chánh ngữ là lời nói chân thật không hư dối, có lợi ích chính đáng, công bình, ngay thẳng và hợp lý. Lời nói không làm tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người khác.(Sách: Sự Hiển Lộ Của Thánh Đoàn)
+ Lời thù ghét (word of hate), lời nói độc ác, vốn hủy hoại những người cảm nhận ảnh hưởng mạnh của nó, là câu chuyện phiếm độc hại, được truyền đi vì nó gây ra một sự chấn động – những lời này giết chết những sự thôi thúc mong manh của linh hồn, cắt tận gốc rễ của sự sống, và vì thế đưa đến cái chết.
Nếu được nói dưới ánh sáng ban ngày, chúng sẽ mang lại sự trừng phạt xứng đáng; khi được thốt ra và được ghi nhận là những lời dối trá, chúng củng cố cho thế giới ảo tưởng mà người nói đang sống trong đó, và ngăn giữ y thoát ra.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó.(LVHLT, 474)
+ Ngũ Giới:
+ Nói lời hung ác: Là nói những tiếng thô tục cộc cằn chửi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ 2. Không mắng nhiếc, mạ lỵ, phỉ báng, nhục mạ - Gây đau lòng, tổn thương: Không xúc phạm = lời nói hung ác, xiên xỏ, nguyền rủa, phỉ báng, nhục mạ, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời, lời nói cộc cằn, thô lỗ. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa. Nên nói lời hoà nhã, dịu dàng, hiền hậu, đạo đức, từ bi, lợi lạc ai nghe cũng hân hoan, kính trọng. Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo
+ Phỉ báng hay Hủy báng Tam Bảo, bất luận bạn cố ý, vô ý đều là tội nặng, trong các ác nghiệp chẳng có thứ nào nặng hơn chuyện này. Bạn giết hại một người, giết hại sanh mạng, trong Kinh nói 49 ngày thì người đó đi đầu thai trở lại (Nếu họ còn phước báo ở nhân gian), do đó tội sát sanh nhỏ, tội đoạn dứt huệ mạng của chúng sanh mới lớn (Gặp Phật Pháp rất khó). (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Tất Cả Đức Phật đều khuyên tránh lời nhuc mạ, phỉ báng:
“Chớ nên phỉ báng một ai
Đừng gây tổn hại cho người xung quanh
Giữ gìn giới luật nghiêm minh
Uống ăn chừng mực cho thành thói quen
Lánh riêng sống chỗ tịnh yên
Chuyên tu thiền định, hướng miền thanh cao
Lời chư Phật dạy lành sao!”
Xem: Chánh ngữ trong Phật Giáo
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói thêu dệt thì liền thành tựu được 3 pháp chắc chắn:
1. Một là, chắc chắn được bậc trí thương mến.
2. Hai là, chắc chắn có thể dùng trí tuệ giải đáp mọi câu hỏi đúng sự thật.
3. Ba là, chắc chắn có được oai đức hơn hết, không hư dối đối với hàng Trời, người.
Đây là 3 pháp, nếu có thể đem hồi hướng lên quả vị Bồ Đề Vô Thượng thì sau khi thành Phật, sẽ đạt các chỗ được thọ ký của Như Lai luôn đích thật.
+ Đức Phật dậy: Nếu xa lìa lời nói hai chiều thì liền được 5 loại pháp chẳng thể hư hoại:
1. Một là, được thân bất hoại vì không ai hại được.
2. Hai là, được quyến thuộc bất hoại vì không ai phá được.
3. Ba là, được tín tâm bất hoại vì thuận theo nghiệp đã có.
4. Bốn là, được pháp hạnh bất hoại vì sự tu tập kiên cố.
5. Năm là, được thiện tri thức bất hoại vì không hề lừa dối.
Đây là 5 pháp, nếu có thể đem hồi hướng lên quả vị Bồ Đề Vô Thượng thì sau khi thành Phật, được quyến thuộc chân chánh, các ma, ngoại đạo chẳng thể phá hoại.
Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Đức Phật dậy không nói Vô nghĩa/ Vô ích - Nhảm Nhí - Phù Phiếm - Giễu cợt. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ “Ngôn từ mỹ diệu” không phải là nói âm thanh nghe hay, âm thanh nghe hay dĩ nhiên là có trong đó. Ý của “mỹ diệu” càng sâu xa hơn nữa, là khiến người khác nghe thấy hoan hỷ tiếp nhận, lời nói này của bạn là lời vàng ngọc, đây gọi là mỹ diệu. Chúng ta hiện nay nói là hợp tình, hợp lý, hợp pháp, thật sự là từ trong nhân từ, bác ái lưu xuất ra, đây là thuộc về tịnh nghiệp. Nhất định là từ trong tâm thanh tịnh lưu xuất ra, cũng có thể tịnh hóa nhân tâm, tịnh hóa tam nghiệp. Đây đích thực là khế lý, đích thực là mỹ diệu.(Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
4. Không nói lời phù phiếm: Chuyện phù phiếm, nhảm nhí, vô nghĩa hay u mê... mất yên tĩnh và định tâm. Nói sau lưng là tà ngữ, không xét đúng/ Sai.
− Những lời tầm phào (idle words) sẽ tạo ra hậu quả cho từng lời. Nếu lời lẽ tốt và nhân từ, không có gì cần được thực hiện. Nếu ngược lại, việc trả giá không thể bị trì hoãn lâu. (LVHLT, 474)
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Nói đôi chiều - Hai lưỡi - Lưỡng Thiệt: Lưỡng Thiệt là “Xúi giục, ly gián”, trong 4 loại lỗi của miệng thì lấy đây làm trọng. Trong khẩu nghiệp, điều quan trọng nhất là “Lưỡng thiệt”. Tuy vọng ngữ rất phổ biến, nhưng cái hại của lưỡng thiệt hơn hẳn vọng ngữ quá nhiều. Người lưỡng thiệt nhỏ, kích động thị phi khiến cho nhà bạn bất hòa, phá hoại gia đình của người ta, phá hoại vợ chồng người ta, đây là nhỏ. Lưỡng thiệt lớn là xúi giục cho hai nước bất hòa, thậm chí là xảy ra chiến tranh, tổn hại biết bao nhiên nhân mạng, tài sản, tội này là nặng. Lưỡng thiệt lớn hơn nữa là trêu chọc Phật pháp, nhà Phật gọi là “phá hòa hợp tăng”. Trong tội ngũ nghịch, tội này thì rất nặng, còn nặng hơn việc xúi giục hai quốc gia phát động chiến tranh. Hai nước chiến tranh thì thương vong chỉ là thân mạng, phá hòa hợp tăng là đoạn pháp thân huệ mạng của tất cả chúng sanh....Phật dạy chúng ta: “Khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”. (Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không).
+ Những lời ích kỷ (selfish words), được đưa ra với ý định mạnh mẽ, sẽ dựng nên một bức tường chia rẽ. Cần thời gian dài mới phá vỡ bức tường đó, và do đó mới phóng thích cái ý định ích kỷ được tích chứa. Hãy xem xét động lực của bạn, và tìm cách dùng các lời lẽ nào để hòa trộn sự sống nhỏ bé với mục đích rộng lớn của ý chí Thượng Đế.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó.(LVHLT, 474)
+ Đức Phật dậy:
3. Không nói Hai lưỡi như thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá: Tránh "tà ngữ” với ác tâm.
- Không nói lời hai lưỡi, đòn xóc hai đầu, làm người ghét nhau, thù nhau.
- Không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, nói châm chọc gây buồn phiền và khởi tà niệm.
- Không gây tạo ác cảm cho 2 bên thù oán, sân hận đấu tranh.
- Có dịp thì khuyên can người nói tà ngữ. (Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo)
Nguồn: Kinh thập thiện nghiệp đạo
Xem: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Phật dậy người xuất gia: Dầu nói ngàn ngàn lời, nhưng không gì lợi ích, tốt hơn một câu nghĩa, nghe xong, được tịnh lạc.
"Này các Tỷ- kheo, có 10 đề tài nói chuyện này: Câu chuyện về ít dục - biết đủ - viễn ly - về không tụ hội - về tinh tấn - về giới - về định - về tuệ - về giải thoát - về giải thoát tri kiến. ... Nếu các Thầy tiếp tục nói những câu chuyện liên hệ đến 10 đề tài để nói chuyện này, thời các Thầy có thể với ánh sáng của mình đánh bạt ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, những vật có đại thần lực, có uy lực, còn nói gì của các du sĩ ngoại đạo?" (Nguồn: Kinh Pháp Cú, kệ số 100)
+ Lời Nói - Ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật (Tăng Chi Bộ_đoạn 28)
+ Chất Lượng Lời Nói_Đức Phật dậy
- Nói đúng lúc; - Nói chân thật; - Nói đúng pháp; - Nói đúng nghĩa; - Nói về tịch tĩnh; - Ưa nói về tịch tĩnh; - Hợp thời; - Hợp lý; - Khéo dạy, khéo la mắng. (Nguồn: mục 483- Tại đây)
+ Lời nói hay ngôn ngữ giao tiếp thiện lành: Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ngươi có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm.... ... cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng địa vô biên, không hận, không sân". ...
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. .... (Nguồn: 21.Kinh ví dụ cái cưa)
+ Phát Biểu theo Đời sống nhân sinh:
- Ý kiến phát biểu: Khi nhận xét, đánh giá về một sự vật, một con người, hay một hành động thì đó được gọi là “ý kiến”. Thí dụ: Nhận xét về mọi người hay vật, các ý kiến khác nhau không dễ chứng minh được là đúng hoặc sai.
- Nói theo Sự kiện: Là khái niệm về một sự thật và có thể chứng mình được là đúng hay sai. Thí dụ: Trong lý lịch tự khai, có thể kiểm chứng bằng các bằng chứng bằng thẩm tra hay hồ sơ đính kèm.
* Phỉ báng, nhục mạ hay vu khống: Dựng truyện, nói, phổ biến thông tin không đúng sự thật về một người có thể bị pháp luật trừng trị, ở VN đều là tội hình sự.
+ 13. Lời nói có ba loại:
− Những lời tầm phào (idle words) sẽ tạo ra hậu quả cho từng lời. Nếu lời lẽ tốt và nhân từ, không có gì cần được thực hiện. Nếu ngược lại, việc trả giá không thể bị trì hoãn lâu.
− Những lời ích kỷ (selfish words), được đưa ra với ý định mạnh mẽ, sẽ dựng nên một bức tường chia rẽ. Cần thời gian dài mới phá vỡ bức tường đó, và do đó mới phóng thích cái ý định ích kỷ được tích chứa. Hãy xem xét động lực của bạn, và tìm cách dùng các lời lẽ nào để hòa trộn sự sống nhỏ bé với mục đích rộng lớn của ý chí Thượng Đế.
− Lời thù ghét (word of hate), lời nói độc ác, vốn hủy hoại những người cảm nhận ảnh hưởng mạnh của nó, là câu chuyện phiếm độc hại, được truyền đi vì nó gây ra một sự chấn động – những lời này giết chết những sự thôi thúc mong manh của linh hồn, cắt tận gốc rễ của sự sống, và vì thế đưa đến cái chết.
Nếu được nói dưới ánh sáng ban ngày, chúng sẽ mang lại sự trừng phạt xứng đáng; khi được thốt ra và được ghi nhận là những lời dối trá, chúng củng cố cho thế giới ảo tưởng mà người nói đang sống trong đó, và ngăn giữ y thoát ra.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó. (LVHLT, 474)
+ Lời nói thiện - Nghệ thuật nói (Nguồn: TH Lời Phật dậy - Kinh A Hàm):
Bốn biện tài: pháp biện tài, nghĩa biện tài, từ biện tài, ứng thuyết (Vô ngại) biện tài.
Bốn thiện hành của miệng: 1. Nói sự thật, 2. Nói dịu dàng, 3. Không ỷ ngữ, 4. Không hai lưỡi.
Bốn thánh ngôn: 1. Thấy nói thấy 2. Nghe nói nghe 3. Hay nói hay 4. Biết nói biết.
+ Tu khẩu nghiệp - Những lời dạy của Thánh hiền: Mời xem Tổng hợp 45 lời Phật dậy
+ Không nên nói truyện - Không nên góp ý
- Có mười trường hợp mình không nên nói với người:
Một là kẻ ngạo mạn;
Hai là kẻ ngu độn;
Ba là kẻ hay lo sợ;
Bốn là kẻ ham vui chơi;
Năm là kẻ hay e lệ;
Sáu là kẻ câm ngọng;
Bảy là kẻ cừu hận;
Tám là kẻ đói lạnh;
Chín là kẻ mắc nhiều việc;
Mười là người đang tham thuyền tịnh lự. Đó là mười trường hợp.
Trong kinh có câu: "Làm được hãy nên nói, làm không được thì đừng nên nói suông; lời hư nguy không thành tín thì các bực minh triết không thèm đoái đến." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Họa từ miệng mà ra:
Bấy giờ tôn giả A Nam bạch Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Đức Ma Gia phu nhân đời quá khứ, làm hạnh nghiệp gì, mà phải sinh trong loài súc sinh, làm thân Lộc Nữ?
Phật bảo Ngài A Nam rằng:
-Nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông, phân biệt giải nói về nhân duyên hành nghiệp đời trước của Đức Ma Gia phu nhân.
-Đời quá khứ lâu xa, vô lượng a tăng kỳ kiếp, bấy giờ đó có một Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, ở đời giáo hóa.
Sau khi diệt độ, trong thời kỳ tượng pháp, lúc ấy có một nước nọ, gọi là Ba La Nại, trong nước đó có một Bà La Môn, chỉ sinh hạ được một người con gái. Sau khi cha của nàng chết, để lại nàng cho mẹ nàng nuôi nấng cho đến khi khôn lớn. Nhà có một cái vườn trái, nên mẹ nàng thường để nàng ở nhà để trông coi, còn bà thì đi kiếm ăn để nuôi mình, và nuôi con. Ngày ngày theo thường lệ; bà vẫn đem thức ăn về cho con ăn. Nhân một bữa nọ, vì sự chậm trễ của mẹ nàng, chưa kịp đem về cho nàng, hơn nữa vì sự đói khát bức bách, nên nàng sinh ra tức giận nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không biết vì lẽ gì, mà không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta như thế này?
Và vì quá phiền muộn, nên nàng nhắc đi nhắc lại đến ba lần như vậy, rồi lại còn nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không bằng loài súc sinh; ta thấy loài súc sinh như con hươu, một khi con nó bị đói khát, lòng nó còn chẳng nỡ rời bỏ nữa là mẹ ta!
Nhưng thời gian không bao lâu, mẹ nàng đã đem thức ăn về cho nàng ăn.
Đang lúc toan ăn uống, thì có một vị Sa môn Bích Chi Phật, từ phía Nam bay qua phía Bắc.
Lúc ấy, người con gái Bà La Môn thấy vị Tỷ Khưu ấy, lòng sinh ra vui mừng, liền đứng dậy, chấp tay, cúi đầu làm lễ, trải tòa thỉnh mời Ngài ngồi, rồi lại lấy những bông hoa tươi tốt, giảm phần ăn của mình, để cúng dàng vị Tỷ Khưu.
Vị Tỷ Khưu ăn xong rồi, lại vì người con gái ấy, thuyết pháp chỉ dạy, kiến cho được những sự lợi ích, vui mừng.
Bấy giờ, người con gái đó liền phát nguyện rằng:
-Nguyện tôi đời sau, được gặp gỡ những bật hiền thánh, lễ bái, cúng dàng, khiến cho tôi được nhan sắc tốt đẹp, tôn vinh hòa quý, nếu khi dạo đi đến đâu, hoa sen sẽ mọc theo dấu chân đi.
Phật bảo tôn giả A Nan:
-Người con gái lúc bấy giờ, về sau là Lộc Mẫu phu nhân, bởi cúng dàng vị Phật Bích Chi một bữa ăn, và hoa mà trong năm trăm đời, được hưởng phúc báo tôn vinh hào quý, y phục thức ăn uống, không thiếu một thứ gì, nếu đi tới đâu, lại có hoa sen mọc theo dấu chân đi, vì có nhân duyên như thế, mà nay được gặp năm trăm vị Phật Bích Chi, lễ bái cúng dàng, nhưng chỉ vì một lời nói ác, chẳng biết ân đức, hủy báng mẹ: Chẳng bằng loài súc sinh, mà trong năm trăm kiếp, phải sinh làm loài hươu.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
-Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy, cũng chỉ đốt cháy một đời này, còn như lời nói ác khẩu đốt cháy, sẽ đốt cháy trong vô số kiếp, lửa mạnh đốt cháy chỉ đốt cháy được của cải của thế gian, còn như lời nói ác khẩu đốt cháy, sẽ đốt cháy cả bảy thứ của cải của Thánh nhân.
Vì thế A Nan! Tất cả chúng sinh, họa từ trong miệng mà sinh ra. Vả miệng lưỡi thực là cái búa sắc tự bổ mình, là cái họa để tự diệt mình vậy. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Tu Hành: Là Pháp tu TRUNG ĐẠO - Là con đường Chánh đạo mà chính Đức Phật đã dậy, áp dụng cho mọi Pháp tu (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN, Q.1)
2. Pháp Tu Người Quân Tử
+ Tu thân: Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân[1]. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam cương hay còn gọi là Tam tòng.
* Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
* Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
+ Hành đạo của Người quân tử
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, thiên hạ bình ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
* Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
* Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường). Nguồn: Đạo Nho Giáo
+ Xem thêm: Phật giáo là giáo dục
+ Xem thêm: Cư sỹ tại gia tu đạo
+ Xem thêm: Giác Tâm rồi mới tu đạo
+ Tu tự tâm - Tu nơi tâm:
Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Có người lo lòng dâm dục chẳng dứt được, muốn tự đoạn âm. Phật bèn bảo rằng: 'Đoạn âm không bằng đoạn tâm. Tâm như vị Công-tào; nếu Công-tào nghỉ, thì kẻ tòng sự đều nghỉ. Tà tâm chẳng dứt, đoạn âm ích gì?'"
Đức Phật vì đó mới nói bài kệ:
"Dục sanh từ ý ông,
ý do tư tưởng sanh.
Cả hai tâm vắng lặng,
Phi sắc cũng phi hành."
Đức Phật dạy: "Bài kệ này là do Đức Phật Ca-Diếp nói."
Lược giảng:
Chương thứ ba mươi mốt nói rõ rằng việc đoạn trừ dục vọng phải được tiến hành từ tự tâm. Muốn biết về phương pháp "đoạn tâm," quý vị cần phải nhận thức được rằng dục vọng vốn nảy sanh từ tâm ý, mà tâm ý thì do tư tưởng mà có.
Theo quý vị thì tư tưởng của chúng ta là tự chúng nảy sinh ra, do thứ khác sanh ra, cùng nhau nảy sanh ra, hoặc không do một nhân tố nào cả mà nảy sanh ra? Quý vị cần phải tìm hiểu xem tư tưởng là ở trong, ở ngoài, hay là ở giữa trong và ngoài; và chúng thuộc về quá khứ, hiện tại, hay vị lai.
Quý vị tìm tư tưởng theo cách này, thì tư tưởng sẽ dần dần trở nên tịch tĩnh, vắng lặng, không có tự thể. Một khi tư tưởng đã vắng lặng thì tâm ý của quý vị cũng trở nên vắng lặng. Tâm ý đã vắng lặng thì dục vọng cũng lắng đọng theo. Khi dục vọng đã vắng lặng rồi, thì quý vị sẽ thấy hết thảy sắc và pháp đều giống như bóng dáng trong gương. Nếu giống như hình ảnh phản chiếu trong gương tức là không phải thật - mọi hành vi tựa hồ như bọt nổi trên mặt nước, mà bọt nước thì cũng là hư huyễn. Cho nên, chư Phật đều triển chuyển quán sát, triển chuyển truyền thọ pháp môn phương tiện điều tâm này để mọi người đều có thể theo đó mà điều phục tâm mình trước.
Đức Phật dạy: "Có người lo lòng dâm dục chẳng dứt được, muốn tự đoạn âm." Có người mắc bệnh dâm dục, không thể nào ngừng được cái tâm dâm dục dù chỉ trong một khoảnh khắc. Vì thấy dục niệm của mình nặng nề, lợi hại như thế, người ấy bèn nghĩ cách giải quyết. Người ấy nghĩ ra cách gì? Người ấy muốn cắt bỏ nam căn của mình!
Phật bèn bảo rằng: "Đoạn âm không bằng đoạn tâm. " Đức Phật nói với người ấy: "Ông nói ông muốn cắt bỏ nam căn của mình, nhưng như thế vẫn không bằng cắt đứt cái tâm vọng tưởng của chính ông."
"Tâm như vị công-tào, nếu công-tào nghỉ thì kẻ tòng sự đều nghỉ." Tâm ví như một kẻ cầm đầu các công nhân, một vị công-tào vậy. Công tào là người mà bất luận làm việc gì thì y cũng làm kẻ cầm đầu - như một ông "supervisor" vậy. Nếu người cầm đầu mà thôi làm, thì những kẻ theo ông ta làm việc cũng đều ngưng công việc cả.
"Tà tâm chẳng dứt, đoạn âm ích gì?" Vì trong lòng dấy khởi vọng tưởng về vấn đề này, nên mới có hành vi như vậy. Nếu trong lòng không khởi vọng tưởng, tức là không có trợ duyên, thì thứ hành vi này sẽ chấm dứt. Do đó, "kẻ tòng-sự đều nghỉ" ngụ ý rằng tất cả vọng tưởng đều chấm dứt. Đức Phật chất vấn: "Nếu ông không ngăn đứt cái tâm dâm dục này, thì cắt bỏ nam căn có tác dụng gì chứ? Biện pháp ấy hoàn toàn vô dụng!"
"Phật vì đó nói kệ." Đức Phật cũng nhân đó mà nói cho người ấy nghe một bài kệ như sau: "Dục sanh từ ý ông. Các ý nghĩ dâm dục vốn bắt nguồn từ tâm ý của ông, do tâm ý của ông sanh ra. ý do tư tưởng sanh. Còn ý thì từ đâu mà ra? ý là do tư tưởng sanh ra. Cả hai tâm vắng lặng. Phi sắc cũng phi hành. Khi cả hai tâm của ông đều vắng lặng - tâm dục vọng đã lắng đọng và tâm chứa đựng đủ thứ tà tri tà kiến cũng đã ngừng dứt - thì sẽ không có thứ hành vi sắc dục và cũng không có thứ hành vi sắc tâm - các hành vi dục niệm đều không còn." (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Nhà Nho/ Nho giáo/ Tứ thư:
- "Lục Kinh" là nhà Nho. Toàn bộ điển tích của nhà Nho mọi người đều biết "Thập Tam Kinh", nó tổng cộng có mười ba bộ. "Lục kinh" trên thực tế cũng chính là chỉ "Thập Tam Kinh", tông chỉ của nó, tông chỉ của giáo học là "tế tục", hay nói cách khác, đoan chánh phong khí xã hội, mục đích của nó chính ngay chỗ này. (Kinh TTNĐ-Tập 2)
- Thật sự là thánh nhân, họ nhìn thấy, họ hiểu rõ, rất sáng tỏ, cho nên ở trong “Học ký” nêu ra “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”, (“quân” nghĩa là lãnh đạo). Bồi dưỡng nhân tài, xây dựng một quốc gia, xây dựng một chính quyền, thống trị nhân dân, lãnh đạo nhân dân, cái gì là quan trọng nhất, là ưu tiên nhất? Giáo dục, “Giáo học vi tiên” (Kinh TTNĐ-Tập 51)
- Đạo Nho với Phật Pháp: Phật là gì? “Phật” là tự tánh của bản thân chúng ta, là tự tánh của mỗi người. Không những Phật Thích Ca Mâu Ni như vậy, mà Khổng Tử, Mạnh Tử cũng như vậy. Học thuyết của nhà Nho hiện nay lưu truyền phổ biến nhất là “Tứ Thư”, “Đại Học”, “Trung Dung”, “Luận Ngữ”, “Mạnh Tử”. Đây có phải là tư tưởng của Khổng Tử, của Mạnh Tử không? Không phải! Tất cả cũng là tự tánh, là trí tuệ, đức năng vốn có trong tự tánh của mỗi người. Chúng ta phải có sự nhận thức này, thì sau đó chúng ta mới thật sự có thể có sở đắc. Sở đắc là gì vậy? Là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, chúng ta được là cái này; (Nguồn: Kinh Thập thiện - Tập 59 - PS Tịnh Không giảng)
+ Lục kinh/ Lục thư: Đến khi Khổng Tử san định lại Lục thư: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.IV)
+ Đạo Nho gia xem trọng luân thường - Ngũ luân: Các quan hệ vợ chồng, cha con, anh em, bạn bè, vua tôi. Cho nên, bạn bè là một trong ngũ luân, có mối quan hệ hết sức mật thiết với bản thân ta. Để chu toàn đạo nghĩa với bạn bè, đức Phật dạy chúng ta năm việc.
Thứ nhất, nếu bạn làm chuyện xấu ác, tạo nghiệp ác, phải khuyên bảo để bạn chấm dứt. Cho nên, bạn bè có nghĩa vụ giúp nhau sửa lỗi. Nếu thấy bạn mình làm chuyện sai trái mà không nói ra thì chưa đủ gọi là bạn bè, đó không phải bạn bè. Tuy nhiên, khuyên bảo uốn nắn cũng phải theo lễ nghi, nhất định phải giữ lễ, phải hiểu biết lễ nghi thích hợp. Lúc nói lỗi để khuyên bảo tuyệt đối không được có mặt người khác. Phải khuyên bảo trong chỗ riêng tư. Như vậy mới là bạn bè. Cha mẹ dạy con thì có thể dạy dỗ [sửa lỗi] lúc có mặt anh chị em. Đó là cha mẹ hay anh chị dạy dỗ [sửa lỗi] con em. Nhưng nếu có người ngoài, cha mẹ, anh chị cũng không nên nói ra. Đó là vì giữ thể diện cho con em mình. Thầy dạy dỗ [sửa lỗi] học trò, có thể nói ra trước mặt các bạn đồng học. Vì sao vậy? Vì chúng ta là bạn đồng học, thầy không chỉ dạy riêng một người, đó là dạy dỗ tất cả học sinh của thầy. Nhưng bạn bè với nhau thì không được. Bạn bè chỉ có thể khuyên bảo nói lỗi ở chỗ riêng tư kín đáo. Cho nên, ý nghĩa này chúng ta phải hiểu thật rõ ràng.
Khuyên bảo lẫn nhau để dứt trừ lỗi, đó là nói có sự giúp đỡ qua lại với nhau. Trong Phật pháp, thực sự rõ biết rằng nhân quả [báo ứng] tương quan trong cả ba đời: [quá khứ, hiện tại và tương lai], cho nên việc khuyên bảo sửa lỗi là quan trọng thiết yếu hơn hết. ... Bạn bè cũng chỉ nên khuyên bảo không quá ba lần. (Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 20 tháng 9 năm 1999 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 101, số hồ sơ: 19-012-0101)
+ Bậc Đại học - Theo Thế tục/ Đạo đời:
Ðạo của bậc “Ðại-Học” thì lấy ba cương lĩnh và tám điều mục làm tông chỉ. Thế nào là ba cương lĩnh? Tức là minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện. Minh đức có nghĩa rằng sau khi mình tự thanh tịnh, chiếu soi quang minh tự tánh của mình, nhiên hậu dạy người khác chiếu soi, thanh tịnh quang minh tự tánh của họ. Thân dân có nghĩa là khiến cho tất cả mọi người đều biết con đường chính đáng, làm sao trở thành những người thông hiểu đạo lý. Chỉ ư chí thiện là mọi người cùng đạt tới chỗ cùng cực thiện hảo.
Thế nào là tám điều mục, tám điều khoản, hay là tám điều kiện? Tức là cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
1- Cách vật là gì? Tức là nghiên cứu lý tánh của vạn vật vạn sự trong trời đất .
2- Trí tri là gì? Là vận dụng trí huệ, tỉ mỉ nghiên cứu phong cách mọi sự vật để biết đến chỗ cùng cực.
3- Chánh tâm là gì? Tức là tâm đoan chính làm chủ tể thân mình.
4- Thành ý tức là khởi ý thành thật.
5- Tu thân tức là sửa đổi, tu tập để trở nên người tốt, có đức hạnh.
Ðó là năm điều thuộc về việc học của thân tâm.
6- Tề Gia tức là cai quản nhà mình.
7- Trị quốc tức là quản lý, lãnh đạo đất nước mình .
8- Bình thiên hạ tức là làm cho thiên hạ được thái bình.
Ba điều này thuộc về môn học chính trị.
Trên đây là học thuyết của Ðức Khổng Tử và cũng là lý tưởng rất cơ bản, của đạo lý Nho-Giáo. Ngày hôm nay tôi chỉ giải thích sơ lược về ba cương lĩnh và tám điều mục trong sách “Ðại-Học,” tương lai tôi sẽ nói rõ hơn cho các bạn nghe. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Đạo Nho)
+ Tổng hợp - Giảng nghĩa về Tứ Thư: Tuy nhiên, nếu căn cứ vào hai tác phẩm quan trọng nhất là Kinh Dịch và Trung Dung, thì đạo Nho gồm có tới 3 phần: nhân đạo, thiên đạo và thánh đạo.
Nhân đạo là đạo lý làm người, bao gồm những qui luật cần thiết cho con người trong cõi đời, cốt để tạo nên trật tự ổn định, thái hồ trong quốc gia, xã hội. Nhân đạo gồm có Tam Cương, Ngũ Thường... dẫn dắt con người từ tiểu nhân lên bậc quân tử.
Thiên đạo là những qui luật chi phối vũ trụ thiên nhiên (dịch lý) với qui mô lớn lao, sâu rộng bao quát từ thế giới cực tiểu (các sinh thể nhỏ mọn) cho tới thế giới cực đại (thiên hà, tinh tú).
Thánh đạo là đường lối dẫn con người từ bậc quân tử lên hiền thánh. Con người thành tựu thánh đạo đạt tới cứu cánh là phối Thiên (kết hợp với Trời), tham dự vào việc hố dục trời đất (tán thiên địa chi hoá dục) ... Giảng giải rất ký về Nhân và Thiên đạo, Thánh đạo cũng có vài điều (Nguồn: Tứ thư và giảng giải - Lý Minh Tuấn)
+ Số mệnh khác nhau - Cảnh dị đồng do Quả báo khác nhau:
* Tóm lược Kinh Thiện Ác Nhân Quả: Ngài A Nan bạch Phật: “Kính lạy đức Thế Tôn! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người, có kẻ đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo, người giàu, kẻ khổ, người vui, kẻ sang, người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đã tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu, cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có người xấu xí mà giàu sang, kẻ rất mạnh khỏe mà thấp kém, có người nhu nhược mà lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ý chí cao thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai con gái, có kẻ cô đơn một mình, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ được vào cung vua ăn mặc tha hồ, có ngườì lúc trẻ thì nghèo hèn đến lúc già lại giàu sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hãm trong tù ngục, có nhà cha từ con hiếu, luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất hòa đấu tranh ngang trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không cửa không nhà nay đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực, có người ở như ổ quạ hang hưu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem lại, có kẻ giàu mà tham xẻn, có người nghèo lại rộng lòng bố thí. Có người lời nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính, có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát sanh không nương tay, có người khoan dung đại lộ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân chúng bỏ rơi. Có nhà nàng dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ hòa hợp. Có người ham nghe pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn chương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh.
Cúi xin đức Thế Tôn nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện!
Khi bấy giờ đức Thế Tôn bảo A Nan tôi rằng: Như ngươi hỏi ta chúng sanh thọ báo bất đồng là do đời trước dụng tâm khác nhau, vì thế cho nên muôn sai vạn biệt.
Người đời nay được thân tâm đoan chánh, là do đời trước ở trong đạo người tu hành nhẫn nhục mà được.
Kẻ bị thân hình xấu xí, là do đời trước ở trong đạo người có tánh giận tức.
Người đời nay bị nghèo cùng, là do đời trước ở trong đạo người có tánh tham xẻn.
Người đời nay được cao quý, là đời trước hay lễ bái chư Phật mà được.
Người đời nay bị hạ tiện là do đời trước hay có tánh kiêu mạn.
Người to lớn là do đời trước có tâm cung kính.
Kẻ bị lùn thấp là do đời trước mạn pháp.
Kẻ ngang tàn ương ngạnh, là do đờì trước làm kiếp dê.
Kẻ đen xấu là do đời trước che ánh sáng của Phật.
Kẻ bị cứng lưỡi là do đời trước nếm trai thực cúng dường.
Kẻ bị đỏ mắt là do đời trước sẻn tiếc ánh sáng.
Người đui mắt là do đời trước hay khâu mắt chim ưng.
Người đời nay câm ngọng, là do đời trước hủy báng chánh pháp.
Người đời nay điếc lác là do đời trước chẳng vui nghe pháp.
Người khuyết răng đời nay là do đời trước hay ăn xương thịt.
Người tắc mũi đời nay là do đời trước đốt hương bất hảo cúng dường Phật.
Người sứt môi đời nay là do đời trước hay đâm thọc sâu thủng mang hoặc môi cá.
...... Kinh còn rất dài, xem: Kinh Thiện Ác Nhân Quả - PS Tịnh Không giảng
+ Con người cùng thân xác Tứ đại - Sao số phận khác nhau?
Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Bửu-Thủ Bồ-Tát: 'Phật-tử! Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu?
Bửu-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng:
Cứ theo nghiệp đã tạo
Sanh quả báu như vậy
Đều không có tác-giả
Đây là lời chư Phật.
Như mặt gương sáng sạch
Tùy theo cảnh đối tượng
Hiện bóng sai khác nhau
Nghiệp tánh cũng như vậy.
Cũng như ruộng gieo giống
Chúng đều chẳng biết nhau
Tự nhiên mọc lên cây
Nghiệp tánh cũng như vậy.
Như nhà ảo thuật giỏi
Ở tại ngã tư đường
Hiện ra những sắc-tướng
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Như người gỗ máy móc
Hay vang ra các tiếng
Nó không ngã ngã-sở
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Cũng như giống chim bay
Từ trứng nở sanh ra
Tiếng kêu không đồng nhau
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Ví như trong thai-tạng
Căn thân đều thành-tựu
Thể-tướng không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Lại như ở địa-ngục
Bao nhiêu là sự khổ
Kia đều không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Như vua Chuyển-luân-vương
Có đủ bảy thứ bảo
Chỗ đến không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Lại như các thế-giới
Lúc đại-hỏa cháy tan
Lửa này không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm BT Vấn Minh)
+ Các cấp Trí tuệ: Bảy trạng thái cung này có gốc gác/ xuất phát từ ý chí, ……Chúng tự biểu hiện ở lĩnh vực liên quan đến nhân loại như (CTHNM 368):
Cung I – Vốn thúc đẩy và tạo ra sự khai mở (initiation).
Cung II – Vốn là nguyên nhân của linh thị (vision) tức là năng lực để thấy (power to see).
Cung III – Vốn đang phát triển nhận thức do giác quan (sensory perception) thành tri thức (knowledge), tri thức thành minh triết (wisdom), và minh triết thành toàn tri (omniscience).
Cung IV – Đó là ý chí giác ngộ (illumined will), nền tảng của buddhi hay là trực giác (intuition).
Cung V – Đó chính là mầm mống giải thoát của vũ trụ. Đây là một trạng thái huỷ diệt.
Cung VI – Đó là nguyên nhân của khả năng kiến tạo hình tư tưởng, liên quan tới thúc đẩy sáng tạo.
Cung VII – Vốn có thể được gọi là nguyên tắc của trật tự/ Thiên luật/ Luật pháp.
+ Ba cấp Phòng Học vũ trụ [Cung III - Trí Thông tuệ LH]
+ Con người tiến hóa: ... Trong trường hợp cuộc tiến hoá của nhân loại, một số loại mãnh lực được sản xuất, xử lý, đồng hoá và sử dụng, lúc đầu thì vô thức và cuối cùng với trí thông minh đầy đủ.
a. Trong Phòng Vô Minh, mãnh lực hay năng lượng của Cung 3 - Brahma
b. Trong Phòng Học Tập, y trở nên ý thức được, và sử dụng năng lượng của trạng thái/ Cung 2
c. Trong Phòng Minh Triết, y đến mức biết được trạng thái thứ nhất/ Cung 1
Ba bí nhiệm của thái dương hệ là:
1. Bí nhiệm về Điện. Bí nhiệm của Brahma. Bí mật của trạng thái thứ ba, ẩn tàng trong mặt trời hồng trần (Cung III)
2. Bí nhiệm của sự Phân Cực, hay là xung lực tính dục vũ trụ. Bí mật của trạng thái thứ hai, ẩn tàng trong Tâm Mặt trời, hay Mặt trời nội tại. (Cung II)
3. Bí nhiệm của Lửa, hay là động lực trung ương của thái dương hệ, bí mật của trạng thái thứ nhất, ẩn tàng trong Mặt trời Tinh thần Trung ương.(Cung I) (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)
+ Thể trí tuệ tiến hóa - Tu xa lìa trí phân biệt chấp trước: Như chúng ta biết, tiểu thừa sơ quả Tu Đà Hoàn, đại thừa sơ tín vị Bồ Tát, trong sáu loại thần thông họ phục hồi được hai loại, phục hồi được thiên nhãn và thiên nhĩ, không có chướng ngại nữa. Nghĩa là tầng không gian bị phá một chút, cái chúng ta không nhìn thấy họ nhìn thấy, có thể nhìn thấy thiên đàng, có thể nhìn thấy địa ngục, họ có thiên nhãn. Nhị quả lại phục hồi được hai loại, nhị quả Tư Đà Hàm, có tha tâm thông, trong tâm người khác khởi tâm động niệm họ đều biết; có túc mạng thông, túc mạng thông là bản thân, đời đời kiếp kiếp trước nữa của bản thân đều nhìn thấy. Mặc dù không thể nhìn thấy xa xôi, đại khái khoảng mười mấy đời trước, mười mấy đời trước không có vấn đề gì, có thể nhìn thấy. Hiện nay dùng thuật thôi miên cũng được, có thể khiến cho một người phục hồi trí nhớ, họ có thể nhìn thấy đời trước của họ, một đời trước, hai đời, ba đời, có lẽ khoảng mười mấy đời là dễ dàng nhìn thấy. Thôi miên sâu hơn cũng có thể nhìn thấy chuyện của mấy chục đời trước, đại khái tương đương cảnh giới của Tư Đà Hàm. Tam quả Tư Đà Hàm, thần thông thứ năm xuất hiện, gọi là thần túc thông. Thần thông này xuất hiện rất hiếm có, họ có thể biến hoá, ngài có thể phân thân, họ có thể phi hành; trong thực tế không phải là phi hành, họ nghĩ đến một nơi, vừa nghĩ là thân thể của họ đã đến nơi đó rồi. Vì vậy không cần dùng đến phương tiện giao thông, quý vị nói muốn đến Mỹ, ý niệm vừa mới khởi lên, thân thể đã ở Mỹ rồi. Đây là cái gì? Không gian không có nữa, khoảng cách cũng không có, tuỳ theo ý niệm, đúng như trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “đương xứ xuất sanh, tuỳ xứ diệt tận”. Vì vậy người có khả năng này, quý vị vừa nghĩ đến họ, họ đã xuất hiện trước mắt quý vị rồi, nghĩ đến họ thì họ đến, vì sao vậy? Vì cảm ứng, thông tin của quý vị họ lập tức nhận được, họ lập tức hiện thân trước quý vị. Những điều này đều là thật, đều không phải là giả.
Tứ quả A La Hán, lục thần thông xuất hiện viên mãn rồi, A La Hán được lậu tận thông, phiền não dứt, kiến tư phiền não không có nữa, nhưng mà tập khí kiến tư vẫn còn. Phiền não đúng là không còn nữa, tập khí còn, phải dứt bỏ tập khí, sẽ thăng một cấp- Bích Chi Phật, cũng gọi là Duyên Giác, Bích Chi Phật, nâng lên Bích Chi Phật. Cho nên Bích Chi Phật, kiến tư phiền não và tập khí của kiến tư phiền não đều không có, nhưng mà có phân biệt, không có chấp trước, có phân biệt. Có phân biệt, tâm không bình đẳng, tâm thanh tịnh, không bình đẳng. Khi nào đoạn tận phân biệt, ngài thăng cấp, thăng lên đến vị trí của Bồ Tát. Bồ Tát không có phân biệt, có tập khí phân biệt, đoạn tận tập khí phân biệt, Bồ Tát đã thành Phật rồi. Vì thế Phật trong thập pháp giới, chúng ta biết, ngài đối với hai loại dưới đây, phân biệt, chấp trước, bao gồm tập khí, tất cả đều không có, đều đoạn hết rồi. Vì vậy tâm của Phật thanh tịnh bình đẳng, phía sau không có giác, chỉ có thanh tịnh bình đẳng, không có giác, vì sao vậy? Vì chưa đoạn vọng tưởng. Vọng tưởng là khởi tâm động niệm, cái này gọi là vô minh, vô thỉ vô minh chưa đoạn. Vô thỉ vô minh đoạn rồi, ngài đúng là thành Phật, không phải tương tợ tức Phật trong thập pháp giới, ngài từ tương tợ đã biến thành thật, chân Phật. Lúc này chuyển bát thức thành tứ trí, thập pháp giới không còn nữa, ngài sanh đến nhất chân pháp giới, tức là cõi thật báo. Trong cõi thật báo có tập khí, tập khí vô thỉ vô minh không dễ đoạn trừ. Tập khí vô thỉ vô minh thật sự đoạn rồi, công đức sẽ viên mãn. Ngài chứng quả vị diệu giác cứu cánh.
Vô thỉ vô minh khó đoạn, vì vậy đức Thế Tôn nói nó có 41 đẳng cấp, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác. Bốn mươi mốt vị này vì sao mà có? Tập khí dày mỏng có khác nhau, tập khí dày ở phía dưới, thập khí mỏng sẽ ở phía trên. Vì vậy đẳng giác chính là mỏng nhất. Đây gọi là 41 phẩm tập khí, phẩm cuối cùng đoạn được rồi họ sẽ nhập Diệu giác vị. Nhập Diệu giác chúng ta sẽ biết, cõi thật báo không thấy nữa, ngài đi đến đâu? Ngài đến Thường tịch quang. Đến Thường tịch quang quý vị sẽ không tìm thấy, khoa học và triết học ngày nay của chúng ta, đều không có cách gì tìm đựơc; trong cõi thật báo có lẽ còn có cách tìm thấy, đến Thường tịch quang không có cách gì. Nhưng chúng ta nghĩ đến lượng tử lực học đối với Thập pháp giới, Phật Bồ Tát trong Thập pháp giới chắc chắn họ có thể tìm thấy, bởi vì các ngài chưa chuyển thức thành trí, chưa lìa a lại da, lượng tử lực học đã quan sát được a lại da rồi. Nhưng những vị Bồ Tát này mặc dù không phải chân Phật, thần thông cũng quảng đại. Thế gian này của chúng ta, cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới không có ai có thể so sánh được với họ, so với A La Hán cũng không thể sánh được, nói gì đến Phật Bồ Tát trong tứ thánh pháp giới. (Nguồn: Thiện ác biến hóa - HT Tịnh Không giảng)
+ Người ngu tối - Căn tánh chậm chạp - Trí tuệ chưa phát triển nên Tu tín nguyện và giữ giới:
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặc chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.
Kinh này Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vì chúng sinh có căn tánh chậm lụt, ngu tối, trí nhớ kém hay người mới phát tâm tu hành mà hỏi Phật, được Phật dậy rất nhiều điều để răn dậy chúng ta tu hành sao cho có thành tựu phù hợp với căn cơ, tránh bị sa vào ác đạo mà bị đọa lạc Tam ác đạo không biết ngày ra (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
+ Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa ngu si.
Trước đã nói về tham và sân, bây giờ nói về si. Tham sân si được gọi là ba độc. Ba độc này làm hại Phật tánh của chúng ta hôn mê như say ngủ. Tại sao chúng ta chưa giác ngộ? Cả đời sống say chết mộng? Ðó là bởi ba độc này. Tham là tham dục. Xưa nay tham dục này tác hại rất lớn đối với tự tánh, nhưng có một số người lại cho nó là một thứ hưởng thụ tối cao, cho nên đã gây ra biết bao hành vi điên đảo, đem tự tánh của mình vùi chôn dưới lớp trần cấu. Thứ trần cấu này càng ngày càng nhiều, vì thế mà ánh sáng Phật tánh của quý vị không hiển lộ được. Ðó là sự tệ hại của tham độc. Tác hại của sân độc cũng rất lớn không kém gì tham độc.
Còn thế nào là si độc? Si là ngu si. Ngu si mà chẳng biết mình ngu si, đó là ngu si đấy. Có kẻ cho mình là người rất thông minh, có trí huệ; nhưng trên thực tế, nếu quý vị hỏi anh ta: "Anh từ đâu đến đây? Tương lai anh sẽ về đâu?" thì anh ta không biết. Ðến không biết mình từ đâu đến, đi không biết mình đi về đâu, quý vị thử nghĩ xem người như thế có phải là thông minh không? Nhưng chính anh ta lại không thừa nhận mình là người ngu si. Ấy là:
Việc nhỏ lợi danh người người thích,
Việc lớn sanh tử chẳng ai lo.
Trên thế gian này, việc tìm cầu danh lợi tuy là nhỏ, nhưng người ta suốt ngày quần quật bôn ba, thậm chí hại bạn, giết người, phóng hỏa đều là vì lợi cả. Nếu không vì "lợi" cũng vì "danh"! Trên thế gian này, số quốc gia cùng con người không đếm kể hết, song tựu trung lại có hai hạng người: Một là cầu danh, hai là cầu lợi. Danh lợi nó chi phối, làm điên điên đảo đảo biết bao nhiêu người vẫn chưa giác ngộ được. Từ khi sanh ra đến lúc chết, đều ở trong tình trạng bon chen, giành giật, có người ham làm quan, có người ham phát tài, có người ham được con cái, cho đến những ham muốn nghiêng về khoái lạc. Khát vọng một đời, chờ đợi mọi thứ khoái lạc, nhưng mà chưa hưởng thụ được bao nhiêu rồi phải chết. Chết rồi đi về đâu cũng không biết! Lúc sống đều tự cho mình là phi thường, cảm thấy chính mình thật là không ai bằng.
-"Ta là người có trí huệ thông minh nhất. Lúc còn đi học, ta mỗi năm đều được hạng nhất, bất cứ làm việc gì ta cũng đều dẫn đầu, trên người một bậc."
Tự cho mình là thông minh khác thường, mà kỳ thật cả bản lai diện mục của mình cũng không nhận biết! Sự thông minh như thế đều là giả cả, đó là thứ "thông minh giả." Người thật sự có thông minh thì không cảm thấy chính mình có trí huệ. Vậy thì thấy mình là ngu si sao? Cũng không tự thấy mình là ngu si, lại càng không tự thấy mình có trí huệ. Tuy rằng, ngoài mặt xem ra cũng cùng một thân thể hình trạng như mọi người, nhưng mà những tư tưởng quan niệm của họ thật thấu suốt rõ ràng. Rõ ràng là thế nào? Thấu suốt rõ ràng rằng tất cả đều như huyễn như hóa. Biết rằng tất cả mọi thứ đều là giả, họ không tham đắm vinh hoa phú quý trong mộng, ham giành sắc đẹp, tranh nhân ngã, tranh thị phi, tranh đứng đầu, tranh danh đoạt lợi, mà hiểu rõ tất cả đều là vô thường. Vì thế Kinh Kim Cang nói:
"Tất cả pháp hữu vi
Như chiêm bao, bóng nước,
Như điện chớp, mù sương,
Hãy quán cho thật tường."
Tất cả pháp hữu vi như chiêm bao, bóng nước. Pháp hữu vi là gì? Tất cả những gì có hình tướng, có thể nhìn thấy, đều là pháp hữu vi. Nó giống như chiêm bao, bọt nước. Bọt nước trong biển cả, quý vị cho là thật hay giả? Nói là thật, thì sao nó lại hóa ra không có? Nói là giả, thì sao lại có cái bọt nước? Tuy có bọt nước, nhưng không phải thật tại, không có thể tánh chơn thật. Bóng, cũng là hư ảo. Lại giống như mù sương; sáng sớm có mù sương, nhưng khi mặt trời mọc lên nó lại tan biến hết. Ðiện, cũng là có; nhưng lửa điện, lửa đá chớp mắt tan đi, cũng không phải là chơn thật. Nếu có thể quán tưởng tất cả sự vật như thế thì còn có gì phải chấp trước? Không có chấp trước mới là thật hiểu rõ. Bấy giờ, quý vị sẽ không tưởng Ðông tưởng Tây, càng không tưởng Nam tưởng Bắc, tất cả vọng tưởng trần lao đều bị vất bỏ. Bỏ hết những vọng tưởng trần lao rồi, lúc ấy quý vị không muốn thành Phật cũng không được, muốn không có trí huệ cũng không được, sẽ tự nhiên có thôi.
Cho nên đương lúc tự mình không có trí huệ, không nên cho là mình có trí huệ. Trí huệ không phải tìm cầu ở bên ngoài mà có. Không nên sanh tâm kiêu ngạo, cho là:
-"Giữa mọi người, ta là kẻ thông minh nhất, đẹp đẽ nhất, kiệt xuất đối với mọi người, siêu quần bạt tụy, trên tất cả."
Nếu quý vị có tư tưởng này là quý vị còn chấp tướng. "Tướng" vốn là cái đãy da hôi, nó như là chiêm bao, bóng nước. Quý vị suốt ngày cho nó ăn ngon mặc đẹp, hết lòng cho nó hưởng thụ. Nhưng đến lúc nó bỏ đi, nó cũng không thèm để ý tới quý vị. Có người lại chăm chút cho đãy da hôi này, vừa hút thuốc, vừa uống rượu, vừa ăn thịt, suốt ngày lo lấp cái hố sâu không đáy này, lấp rồi lại chảy, chảy rồi lại lấp, lấp mãi vẫn không đầy. Nhưng người ta cứ bỏ cũ thay mới, mới cũ thay nhau, vì bản thân mà bận rộn, vất vả.
Tại sao mỗi ngày ăn một bữa cơm? Tại vì sợ phiền phức cho nên ăn ít một chút để bớt đi phiền rộn. Có một số người cho rằng ăn ngon là cách hưởng thụ tốt nhất, tôi lại cho rằng đó là việc phiền rộn nhất. Giải thích như thế nào đây? Nếu ăn nhiều vào thì bụng sẽ khó chịu. Ăn ít vào, lại sanh ra tâm tham:
-"Ðồ ăn ngon như thế này, nên ăn nhiều một ít!"
Nếu đồ ăn không ngon thì không thể sanh tâm tham. Bao tử cũng không bị khổ sở. Cho nên đó đều là những việc phiền phức. Tại sao người ta lại có những phiền phức này? Tại vì mình quá ngu si mới tham hưởng thụ, cầu giàu sang, cầu danh lợi, cầu vui sướng, các thứ ấy thảy đều là điên đảo cả. Quý vị tham cái này cái nọ, thì kết quả sẽ ra sao? Kết cuộc rồi cũng phải chết thôi. Ðến lúc chết, không đem theo được tí gì. Ðó không phải là ngu si sao? Ngu si như thế thì phải làm sao? Theo phương pháp của Kinh Pháp Hoa dạy: "Thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm." Sự ngu si của quý vị sẽ mất đi và trí huệ sẽ hiện lên. Ai có thể biết mình ngu si? Ðó mới là nhận thức đúng đắn về mình. Ðã có trí huệ, mới biết mình là ngu si. Nếu quý vị tự mình không có trí huệ thì rốt cuộc không thể biết tự mình là ngu si đâu, càng nghĩ càng xa thôi. Chính mình vốn là ngu si, mà tự cho là rất thông minh thì há không phải là trên ngu si lại thêm ngu si hay sao? Trước là một kẻ ngu si còn chưa đủ, lại muốn biến thành kẻ ngu si gấp đôi. Hiện tại chúng ta nếu muốn mình không ngu si thì phải thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðó là một phương pháp hay nhất, linh diệu nhất. Tuyệt đối bảo đảm mầu nhiệm không thể nói được.
Nói về ngu si và trí huệ, thì thế nào là ngu si? Thế nào là trí huệ? Tôi sẽ nói một đạo lý mà quý vị sẽ không tin đâu, đó là
-"Ngu si chính là trí huệ, trí huệ chính là ngu si."
Tại sao nói thế? Ở Tâm Kinh có câu: "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc." Cảnh giới này nói lên chơn sắc từ chơn không mà sanh, chơn không từ chơn sắc mà có, cho nên hai mà không hai. Ngu si và trí huệ cũng cùng một đạo lý ấy. Khi quý vị biết dùng thì đó là trí huệ, nếu không biết dùng thì đó là ngu si. Ngu si và trí huệ không phải là hai mà phải xem quý vị có biết dùng hay không! Nếu quý vị biết dùng thì ngu si cũng biến thành trí huệ; nếu không biết dùng thì trí huệ biến thành ngu si. Nếu thấu triệt được đạo lý này thì quý vị sẽ không còn điên đảo nữa. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người ngu tối - Độn căn tu hành được không?
Người độn căn vì họ mà thuyết pháp, nói một lần họ không hiểu, nói hai lần họ cũng không hiểu, càng nói càng hồ đồ, càng hồ đồ càng phải hỏi. Giống như đệ tử của đức Phật, Tôn giả Châu Lợi Bàn Đà, vị này là người tối tăm ngu nhất của đức Phật, về sau vị này thành tựu biện tài vô ngại, là nghĩa trì đệ nhất. Có thể thấy tu hành thì không sợ ngu độn, chỉ sợ không chịu phát tâm. Nếu chịu phát tâm thì dù hạ ngu cũng đắc được thượng trí.
Người lợi căn, nghe được một thứ đạo lý thì hiểu rõ tất cả đạo lý khác. Vị Nhan Hồi nghe một biết mười. Đề Bà Đạt Đa là đệ tử của Phật, là người thông minh nhất, tuy nhiên có trí huệ, nhưng thông minh ngược lại bị thông minh lầm lẫn, kết quả đọa vào địa ngục.
Lợi và độn là người bình thường, khốn khó mà học là người thông minh, khốn khó mà không học là người ngu si. Thánh nhân là sinh ra mà biết, hiền nhân thì học mà biết; chúng ta là người bình thường thì phải học Phật pháp.
Có người sinh ra tâm từ bi rất lớn, có người sinh ra tâm từ bi rất nhỏ. Có người sinh ra tâm tham lam rất lớn, có người sinh ra tâm tham lam rất ít. Chúng sinh có đủ thứ căn tính khác nhau. Vị Thiên Vương này biết được dục vọng của chúng sinh. Loại chúng sinh nào hoan hỷ pháp gì, thì vị này thuyết pháp đó.
Ví như gặp chúng sinh tham lam thì nói pháp bố thí cho họ nghe, nói bố thí có công đức gì ?
Gặp chúng sinh phạm giới, thì nói pháp trì giới cho họ nghe, nói sự lợi ích về sự trì giới.
Gặp người nhiều sân hận, thì nói pháp nhẫn nhục, dạy họ học theo Bồ Tát Di Lặc, mở miệng thường cười, nhẫn việc thiên hạ không thể nhẫn.
Gặp chúng sinh lười biếng giải đãi thì nói pháp tinh tấn cho họ nghe, phải siêng tu khổ hạnh, mới mong thành tựu.
Do đó trồng trọt một phần thì thu hoạch một phần. Nhất là tu hành, công phu tu một ngày thì có công đức một ngày, cho nên tu hành thì không lãng phí thời gian, hy vọng mọi người đầu sào trăm trượng càng tiến tới một bước. Gặp chúng sinh tán loạn không có định lực, thì nói pháp thiền định tham thoại đầu như thế nào ? (tinh thần tập trung, nghĩ "Niệm Phật là ai" ?)
Gặp chúng sinh ngu si thì nói pháp trí huệ, khiến cho họ khai mở trí huệ, đắc được cảnh giới thật tướng Bát Nhã. Đó là Lục độ căn bản của pháp đại thừa.
Nói tỉ mỉ về căn tính của chúng sinh, thì có tám vạn bốn ngàn, Phật pháp có bốn vạn tám ngàn pháp môn, chuyên đối trị bệnh của chúng sinh. Pháp môn có cao thấp, môn nào cũng đệ nhất ; pháp môn nào đối cơ là đệ nhất, ngoài ra các pháp môn kia là đệ nhị.
Người hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh đạo tâm, người không hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh tâm thối lui, cho nên khi thuyết pháp, thì phải quán sát căn tính của đối phương, là lợi căn hay độn căn ?
Đối với người lợi căn, thì giảng về đạo lý chân không diệu hữu trung đạo đệ nhất nghĩa, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa đại thừa.
Đối với người độn căn, thì nói pháp nhân duyên sinh diệt, hoặc pháp nhân quả báo ứng, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa tiểu thừa.
Tôn giả Xá Lợi Phất có hai vị đệ tử tu hành nhiều năm mà chẳng thành tựu. Xá Lợi Phất hỏi đức Phật là lý do gì ? Đức Phật hỏi : ‘’ Vị đó trước khi xuất gia làm nghề
gì ? ‘’
Xá Lợi Phất đáp: ‘’ Một là thợ bạc, một là xem mộ.’’ Đức Phật nói : ‘’ Nên dạy vị Tỳ kheo thợ bạc tu pháp sổ tức (đếm hơi thở), dạy vị Tỳ kheo xem mộ tu pháp quán xương trắng, như vậy thì có thể thành tựu.’’
Tôn giả Xá Lợi Phất trở về dạy tu theo như thế, không lâu hai vị đều chứng quả. Đó là theo căn tính thích ứng với họ mà thí giáo.
Theo bệnh cho thuốc: Chúng sinh đều có bệnh phiền não, bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh ngu si, vô minh .v.v. Thậm chí có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh. Phật pháp là thuốc thần, người thuyết pháp là bác sĩ. Bác sĩ trước hết phải xem bệnh gì ? Sau đó dùng thuốc thích đáng để điều trị. Bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy mới hy vọng thuốc công hiệu chữa lành bệnh. Do đó :
"Thuốc không hay dở, lành bệnh là thuốc hay; Pháp không cao thấp, hợp cơ là pháp diệu".
Gặp chúng sinh căn lành thành thục, thì dạy họ xuất gia tu đạo. Gặp chúng sinh không có căn lành, thì dạy họ trồng căn lành tu phước đức. Gặp chúng sinh đã trồng căn lành, thì dạy họ phương pháp làm tăng trưởng căn lành.
Tóm lại, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục. Đã thành thục khiến cho giải thoát. Cho nên vì chúng sinh thuyết pháp đoạn trừ tâm nghi của họ, mà sinh ra tâm tin, đắc được môn giải thoát không chướng ngại. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
Xem thêm: Tổng hợp về người thượng - Trung - Hạ căn
+ Năm giai cấp/ Đẳng cấp: Chủ tịch Hồ Chí Minh, có lúc Người nói rằng nhân dân ta gồm “gái trai già trẻ” của “năm lớp Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh”. Vậy Tứ dân gồm đứng đầu là Sỹ / Trí thức có học và hiểu biết (thầy đồ, thầy thuốc, quan lại, học trò) - Kẻ sỹ - Xã hội trọng học hành đỗ đạt; Nông là nông dân làm ruộng; Công là lao động chân tay cho chủ/ Doanh nghiệp, trong cơ sở công nghiệp nhà nước; Thương nhân là người kinh doanh buôn bán; Và với 4 tầng lớp như thế, thì những người làm nghề ca hát không thuộc tầng lớp nào, nên mới có câu Xướng ca vô loài/ Giới Hạ lưu. Như thế có nhiều nghề thời xưa không được quy nạp vào bốn giai cấp chính trong xã hội. Một lớp khác thấp hèn nhất thường gọi là "Tiện nhân bần cùng"... (Nguồn: vi.wikipedia.org)
+ Bốn đẳng cấp nhân loại: ... Từ việc hành mười điều bất thiện sẽ dẫn đến những việc như vậy. Khi đó, con người sẽ không thể khen hay ca ngợi người khác; mà chỉ toàn tự đề cao mình và chê bai người khác. Sẽ có bốn tầng lớp giai cấp xã hội: quý tộc (hoàng gia), thương gia, lao động và các tu sĩ, học giả (Hoặc: Quý tộc, Bà la môn, thường dân và kẻ hầu hạ). Nếu tất cả những người này đều đặt niềm tin, hết lòng tôn kính giáo Pháp này thì thời kỳ đó sẽ trở nên an lạc, tốt đẹp”.... (Nguồn: Kinh Ngọn Đèn Sáng Tỏ - Đức Phật Tiên Tri)
+ Đẳng cấp con người chưa tu đạo: Đời sống Thế tục phân đẳng cấp con người thiên nặng về "Phú quý - Danh tiếng - Uy quyền", với quan điểm này thì Đẳng cấp Mệnh số của một người do Nhân nào - Quả đấy an bài, bởi đa số họ chưa tin sâu nhân quả luân hồi tái sanh, nên họ mới đề cao Phúc phần. Họ chấp nhận rủi do nếu bị chết uổng "Những cái chết không đáng chết - Họ chưa sống hết Định số" thì họ cũng cam lòng.
+ Đẳng cấp con người tu Đạo làm người:
Người xưa kỳ vọng đối với người đi học, quang minh chánh đại, đường đường quân tử. Do đây có thể biết, nhà Nho nói tiêu chuẩn của quân tử là hai câu này phải làm được. Nhà Nho dạy học ở nơi thành tích cũng là ba đẳng cấp, đó là quân tử, hiền nhân và thánh nhân. Đây là mục tiêu giáo học. Cho nên nói, đi học chí ở thánh hiền, làm thánh, làm hiền. Quân tử là nền tảng của thánh hiền. Nếu muốn làm thánh nhân, hiền nhân phải làm được tám chữ này.
Phật pháp nói được càng thấu triệt, giáo học Phật pháp thành tựu cũng phân ba cấp, A La Hán, Bồ Tát và Phật. Nhà Nho gọi A La Hán là quân tử, Bồ Tát là hiền nhân, Phật là thánh nhân.
Tuy thành tích ba giai đoạn này gần giống nhau, nhưng trên thực tế cao thấp khác biệt rất lớn. Giáo học nhà Nho là giáo dục của một đời, bắt đầu từ thai giáo, đến sau cùng là già chết, “thận chung truy viễn”. Thế nhưng giáo học của Phật pháp thì là ba đời, có đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Ở nơi không gian mà nói là tận hư không, khắp pháp giới. Đây là chỗ nội dung không bằng của giáo học nhà Nho. Cho nên, giáo học Phật pháp nói được rất tường tận, rất chu đáo. Sau khi hiểu rõ chúng ta liền biết được, làm một người thiện, làm một người tốt là việc phải nên làm; không nên làm người ác, không nên làm một người bất thiện. Cùng với người thiện thì đây là việc thật vui mừng. Chúng ta mong cầu cả nhà thiện, một nước thiện, một thế giới đều thiện. Bạn có tâm nguyện này, có loại hành trì này thì liền tương ưng với Phật đạo. Đương nhiên ở chỗ này nói “tà kính”, “ám thất”, bạn đích thực đều có thể làm đến bất “lý”, bất “khi”. (Nguồn: HT Tịnh Không giảng Thái Thượng Cảm Ứng Thiên - Tập 12)
+ Hạng bậc người Người Quân tử - Thiện tri thức:
7. Biết sự hơn kém của người?
Có hai hạng người: có tín và có bất tín[10], người có tín là hơn, người bất tín là kém.
Người có tín lại có hai hạng: Người đến gặp thấy Tỳ-kheo là hơn, người không thường đến gặp Tỳ-kheo là kém.
Người thường đến gặp Tỳ-kheo lại có hai hạng: Người có lễ kính là hơn; người không lễ kính là kém.
Người có lễ kính lại có hai hạng: Người có hỏi kinh là hơn, người không hỏi kinh là kém.
Người có hỏi kinh lại có hai hạng: Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm nghe kinh là kém.
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
Người nghe rồi thọ trì pháp lại có hai hạng: Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp không quán sát nghĩa là kém.
Hạng nghe pháp quán sát nghĩa lại có hai: Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp là hơn; người không ... là thấp kém.
Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người. Loại Tự làm lợi ích là bậc nhất là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.
Phật thuyết như vậy. Các vị Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.(Nguồn: Kinh Thiện pháp - Số 26 A Hàm)
+ Tạo nghiệp: Theo Luật nhân quả, thì một người hay nhóm người cùng gieo nhân nào thì cũng đều phải gặt quả báo - Có hành động thì phải phát sinh quả báo ...
Chữ "Duyên Hành" trong 12 Nhân Duyên của vòng Luân hồi: Hành là hành động hoặc khởi Tâm suy nghĩ đều sẽ tạo nghiệp và phải nhận quả báo. Ví dụ về việc mang thai:
Câu hỏi: Bạch Hòa Thượng, có một số những người mẹ không hôn thú đang gây ra nhiều vấn nạn xã hội, rồi sau đó là có việc phá thai ... Con tự hỏi Hòa Thượng có ý kiến hay đề nghị gì về vấn đề này.
Hòa Thượng: Quý vị đang đề cập về những bà mẹ độc thân. Khổ thay, những người này đã đánh mất nhân phẩm, vì thế họ không tôn trọng những luật lệ trước khi lập gia đình. Ngày nay, những người trẻ thích khiêu vũ, xem phim ảnh, và ca hát. Họ hưởng thụ ăn uống, vui chơi và tìm khoái lạc. Những đam mê và hành vi dẫn đến sự mất nhân phẩm, đến độ họ không còn ý thức việc họ là con người. Là người, phải có hành vi của người, nhưng họ lại giống như ma quỉ -- lén lút không tôn trọng luật lệ, muốn thử hết trước khi lập gia đình ... và vì thế, họ có thai. Những chuyện như thế này có thể không có gì quan trọng ở phương Tây, nhưng ở Trung Hoa thì thật xấu hổ.
Vấn đề này xảy ra do chỉ do một niệm vô minh: Nam theo đuổi nữ, nữ tìm kiếm nam ... Bởi vì vô minh, nên hành nghiệp theo sau, sau khi hành nghiệp tạo tác thì có danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ hiện hữu …, tất cả những thứ này đều tạo tác bởi vô minh ... Do mê mờ, tình ái khởi sanh, tiếp theo là dục vọng muốn nắm bắt (thủ và hữu), và sau đó là nhiều vấn đề khác xuất hiện … cho đến khi già chết (lão, tử) đến. Toàn bộ chuỗi biến cố này được gọi là Pháp Mười Hai Nhân Duyên.
Vì người đời không hiểu Mười Hai Nhân Duyên nên, họ làm những việc trái với đạo lý. Vì vậy vấn nạn của họ càng ngày càng lớn. Cho đến lúc họ mang thai, sự việc càng trở nên rắc rối hơn khi thay vì dưỡng thai bào để sinh nở, họ lại phá hủy bào thai lúc thai từ một đến bốn tháng tuổi.
Tội phá thai rất nặng. Quý vị có thể nghĩ chúng chỉ là con ma bé nhỏ, nhưng những con ma này có những năng lực tâm linh to lớn có thể làm quý vị chết hay mang những tật bệnh kỳ lạ, làm cho quý vị nói năng lảm nhảm và lẫn lộn đầu óc đến khi điên dại ... Tội phá thai còn nặng hơn tội giết người lớn. Nếu quý vị không muốn có con, tại sao lại gây ra việc thụ thai? Tại sao rắc rối như thế? Khổ thay, đàn ông và đàn bà không hiểu đạo lý làm người nên những vấn đề này mới xảy ra.
Để giải quyết những vấn đề này, chúng ta cần cung cấp giáo dục về tình dục cho những người trẻ, và dạy họ đừng dính mắc vào tình ái cho đến khi khôn lớn trưởng thành; nếu không, họ sẽ gặp những vấn nạn khó khăn. Chúng ta phải thúc đẩy mạnh mẽ để họ tuân theo những quy tắc này.......
...... Mỗi người hình dáng không giống nhau, thì nhân quả cũng khác nhau. Mỗi người thiếu nợ kẻ khác từ bao đời nay cũng khác nhau. Có nhiều người thiếu quá nhiều nợ, đến đời này trả, trả mãi không hết. Nên nói: "nợ cao như núi". Ðó cũng là núi nghiệp chướng: núi ấy ngày càng cao lớn, ngày càng sâu dày. Nợ nợ chồng chất, rối rắm vô ngần, chẳng sao gỡ sạch. Ðó là vì duyên cớ gì? Vì là ngày trước họ tính lời quá cao; đem tiền cho vay, họ lấy lời cắt cổ. Thật là lòng tham không đáy. Họ nghĩ rằng mình chiếm thượng phong, nào ngờ kết quả là mình chiụ thua lỗ. Nghiệp chướng của họ ngày thêm sâu dày, đến độ cuối cùng họ chẳng sao rút chân ra đặng.
Có người thiếu nợ là phải làm cha, có người thiếu nợ là phải làm mẹ, có người thiếu nợ là phải làm chồng, làm vợ, hoặc phải làm con gái, phải làm con trai. Nên nói: "Cha mẹ đói khát, là nợ luân thường." Không biết là bao nhơn duyên hội họp để khiến vận mạng ngày nay của chúng ta an bài như vậy........
Vì vậy trong gia đình thân quyến có lúc bất hòa: ví như cha con bất hòa, mẹ con tranh chấp, vợ chồng cải lẫy, anh em đấu tranh, chị em gây lộn... đủ thứ chuyện rắc rối sản sinh. Chuyện đã như vậy, song họ chẳng ai thừa nhận, chẳng chịu thấy đây là nợ nần, mà ngược lại cảm thấy mình bị thiệt thòi. Kỳ thật, những việc trên xảy ra đều là do trước kia gieo nhân xấu nay gặt phải quả khổ. Trước kia gieo nhân gì, nay gặt quả là vậy, có gì đâu mà phải oán hận? Nên có câu rằng: "Kẻ biết mệnh trời thì không đứng dưới bước tường nghiêng đổ. Y không trách trời, không đổ lỗi cho người khác. Y biết hạ mình để học hỏi và nâng cao đạo đức để tiến lên." Người tu trước tiên phải hiểu lý nhân quả, không nên gieo nhân một cách bừa bãi, phải trồng nhân cho thanh tịnh. Nếu chuyện gì hợp với đạo lý thì mình tiến tới, không hợp đạo thì lùi lại. Không nên mờ mịt việc thiện ác khiến chúng rối rắm chẳng rõ; cũng không thể để chuyện thị phi đúng sai hổn tạp chẳng rành. Môt khi mình đã phân biệt được trắng đen, chân giả, thì phải nhân đó mà phản bổn hoàn nguyên, trở về với bản thể thanh tịnh, bản tánh chơn như mầu nhiệm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Những vong linh thai nhi vô tội)
+ Hai loại người: Người Nam - Nữ trên thế gian, mỗi loại đều có phẩm tính, thế mạnh ... để biểu lộ, để hấp dẫn, để dàng buộc người khác phái. Đặc biệt phái nữ nhân có "Sắc đẹp nghiêng nước nghiên thành", hoặc tánh tham muốn "Nữ tham tài - Trai ham sắc", xưa nay đều thế, bản chất đời sống vô minh luân hồi sinh tử là như thế. Ái dục trói buộc nhau đời đời kiếp kiếp, vô bờ bến luân hồi khổ đâu.
+ Bốn hạng người: Phật bảo: "Trên đời có 4 hạng người (Thập Thiện Nghiệp - HT. Thích Giác Thiện):
- NGƯỜI TỪ TỐI ĐI VÀO TỐI?: Nghĩa là người này sanh ra đời chịu nhiều sự khổ, thế mà lại chẳng lo tu thiện để chuyển nghiệp xấu, lại làm việc ác, chẳng khác nào từ chỗ tối đi vào chỗ tối tăm, khổ sở hơn.
- NGƯỜI TỪ CHỖ TỐI ĐI ĐẾN CHỖ SÁNG: Là người sanh ra đời từ thân mạng cho đến vật chất không bằng ai, nhưng họ ý thức đó là nghiệp xấu đời trước nên ăn năn sám hối phát tâm cúng dường, bố thí làm lành, lánh dữ... Người như thế là biết tiến tới ánh sáng tốt đẹp cho hiện tại và tương lai.
- NGƯỜI TỪ CHỖ SÁNG ĐI ĐẾN CHỖ TỐI: Tức là người này sanh ra đời hưởng cảnh giàu sang, nhưng không biết tại thêm phước lành, lại còn tham lam, keo kiệt, kiêu căng, hống hách, tạo nhiều ác nghiệp. Người như thế chẳng khác nào từ chỗ sáng đi vào bóng tối nghèo đói, thấp hèn, khổ đau...
- NGƯỜI TỪ CHỖ SÁNG ĐI ĐẾN CHỖ SÁNG: Là người có căn lành đời trước nên sanh vào nhà tôn quý, hưởng cảnh giàu sang lại tiếp tục bổ thí, cúng dường làm nhiều việc thiện, trên kính dưới nhường... người như thế là từ chỗ sáng tiến đến ánh sáng tốt đẹp thanh cao hơn."
+ Năm hạng người hiện hữu ở đời
1. Cho là khinh: Người sau khi cho người khác các đồ nhu yếu như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Vị ấy nghĩ: “Ta là người cho, người này là người nhận” - Vị ấy khinh rẻ người nhận.
2. Sống cùng khinh rẻ: Có hạng người cùng sống với người, hai hay ba năm. Do sống với người ấy, vị ấy khinh rẻ người ấy.
3. Người nuốt tất cả: Có người khi nghe người ta tán thán hay chỉ trích người khác, liền mau mắn thích thú.
4. Người không vững chắc: Người có lòng tin nhỏ bé, có lòng tín ngưỡng nhỏ bé, có lòng ái mộ nhỏ bé, có tịnh tín nhỏ bé.
5. Người ám độn ngu si: Có người không biết các pháp thiện, bất thiện, không biết các pháp tội, không tội, không biết các pháp hạ liệt, thù thắng, không biết các pháp dự phần đen trắng. (Xem nguồn)
+ 410. MƯỜI HẠNG NGƯỜI HÀNH DỤC
1) Có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời sống lâu.
2) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
3) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
4) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
5) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợï con, dầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
6) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Nhưng khi có của cải rồi lại bị đắm nhiễm, hệ lụy. Khi đã bị hệ lụy, đắm nhiễm, không thấy được tai hoạn, không biết đến sự xuất yếu mà tiêu dùng
7) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết được sự xuất yếu mà tiêu dùng.
8) Hành dục một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là thấp hèn nhất.
9) Hành dục một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường sa-môn, phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối thượng.
10) Hành dục một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết sự xuất yếu khi tiêu dùng, thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu.
* Cũng như con bò có sữa, do sữa có lạc, do lạc có sanh tô, do sanh tô có thục tô, do thục tô có tô tinh. Tô tinh là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu. Này Cư sĩ, cũng như vậy, so với các người hành dục khác, kẻ hành dục này là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu. (Nguồn: Kinh Hành Dục-Trung A Hàm)
+ Bốn người nầy được tìm thấy trong đời:
1. Người đi thuận dòng: Người nào đắm say dục lạc và phạm ác nghiệp là người là người đi thuận dòn.
2. Người thì đi ngược dòng: Người không đắm say dục lạc hay không phạm ác nghiệp, mà sống đời trong sạch trinh tiết, phấn đấu rất vất vả và khó khăn để làm được vậy, là người đi ngược dòng.
3. Người đứng vững vàng: Là người đã tận diệt năm hạ phần kiết sử sẽ được hoá sanh vào cõi Phạm thiên, từ đó vị ấy chứng ngộ Niết Bàn mà không từng trở lại dục giới.
4. Người đã vượt qua bờ kia và đứng trên đất khô ráo: Người đã đến bờ kia đứng trên đất khô là người đã tận diệt mọi lậu hoặc trong tâm, và, ai đã tự thân chứng ngộ, ngay trong kiếp sống nầy, tâm giải thoát và tuệ giải thoát. (TĂNG CHI BỘ KINH _ đoạn 5)
+ 772. TỲ KHEO BIẾT SỰ HƠN KÉM CỦA NGƯỜI
Thế nào là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người?
1) Đó là Tỳ-kheo biết có hai hạng người: có tín và có bất tín, người có tín là hơn, người bất tín là kém.
2) Người có tín lại có hai hạng: Thường đến gặp Tỳ-kheo và không thường đến gặp Tỳ-kheo. Người đến gặp thấy Tỳ-kheo là hơn, người không thường đến gặp Tỳ-kheo là kém.
3) Người thường đến gặp Tỳ-kheo lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính.
4) Người có lễ kính là hơn; người không lễ kính là kém.
5) Người có lễ kính lại có hai hạng: có hỏi kinh và không hỏi kinh. Người có hỏi kinh là hơn, người không hỏi kinh là kém.
6) Người có hỏi kinh lại có hai hạng: nhất tâm nghe kinh và không nhất tâm nghe kinh.
7) Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm nghe kinh là kém. Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp.
8) Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
9) Người nghe rồi thọ trì pháp lại có hai hạng: nghe pháp có quán sát nghĩa và nghe pháp không quán sát nghĩa.
10) Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp không quán sát nghĩa là kém. Hạng nghe pháp quán sát nghĩa lại có hai: biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp và thực hành đúng như pháp.
11) Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp là hơn; người không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp là thấp kém.
12) Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người.
Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người. Người ấy là bậc nhất là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.
Ví như từ bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sinh tô, từ sinh tô có thục tô, từ thục tô có tô tinh. Tô tinh là thứ bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu đối với những loại kia.
Nếu người nào tự làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời người, thì trong hai hạng người như trên đã nói, đã phân biệt, đã thi thiết, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu. Ấy là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người. (Trung A Hàm, Kinh Thiện Pháp, Phẩm 1, số 1)
+ Bốn Hạng người tự hành hạ mình: ... Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. (Nguồn: (VIII) (198) Tự Hành Hạ Mình - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Ba Hạng người chưa được điều phục: .... Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về ba loại ngựa chưa được điều phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa được điều phục. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói...... (Nguồn: 137.- Ngựa Chưa Ðược Ðiều Phục - Kinh Tăng Chi Bộ - Trang 178)
+ Ba hạng người: (1) Hạng người với tâm ví dụ như vết thương, với tâm ví dụ như chớp sáng, với tâm ví dụ như kim cang; (2) Ba hạng: Đáng ghê tởm - Người phẫn lộ, sân hận, hiềm hận, sừng sộ .. - Người giữ giới; (3) Ba hạng: Nói như phân - Nói như hoa - Nói như mật; .... Trong Kinh đức Phật dậy nhiều hạng người khác nữa. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba Pháp)
Xem: Tổng hợp các Hạng - Nhóm - Loại người
+ Bí quyết - Xem Nhân phát tài: Đây là nói trong Số mạng có phước về tiền tài dày mỏng. Đây là điều kiện tiên quyết CẦN PHẢI XÉT để quyết định người đó giầu có hay nghèo khó. Người có Phước sâu dày thì có thể kinh doanh làm giầu. Phước này là Quả báo của việc tiền kiếp họ đã hành bố thí tiền tài cứu giúp chúng sinh, nên trong kiếp tái sanh này họ sinh ra để thụ hưởng Quả báo phát tài. Tuy nhiên, tùy theo loại phước điền mà họ sẽ nhận loại Quả báo phát tài tương ứng. Ví dụ, họ phát tài trong nghề nghiệp, họ luôn có việc làm ổn định và có tiền lương cao thấp. Hoặc có loại Quả báo mà họ có thể khởi nghiệp kinh doanh hoặc đầu tư buôn bán kiếm lời. Phước điền đa dạng thì như nguồn tiền tài phát từ nhiều nguồn. Tất nhiên, dù là ai thì vẫn phải tuân theo Định luật chu kỳ và tuần hoàn, tức là đều có Thời kỳ thịnh vượng xen lẫn suy vi, điều này không thể không hiểu biết. Vậy nên có câu HÃY TỰ BIẾT MÌNH.
* Xem Mệnh Vận biết Phước điền: Muốn biết trong Mạng có nghiệp phước nông sâu, thì xem qua Lá số sinh mệnh [Tứ trụ/ Bát tự] lập theo ngày giờ sinh của một người, qua đó có thể đoán biết Phước điền nông sâu, rộng hẹp, thiện ác ra sao, khi biết Thời thế khi nào phát tài mạnh yếu ra sao thì nên sắp sếp đời sống cho thật phù hợp Thế thời, giúp phòng chánh rủi do bị tán tài, phá sản, tù tội ... đó là nguồn cơ mang đến chia ly, phiền lão khổ đau, nợ lần, khuynh gia bại sản không đáng có do thiếu hiểu biết - Hành trái quy luật tự nhiên - Không lượng sức mình như Thánh hiền dạy.
* Vun bồi phước tài: Ai cũng nên sống Đoạn ác tu thiện, làm lành lánh dữ, thường hành thí cúng là để vun bồi tích phước đức, giúp Kho Tâm địa tích chứa thật nhiều Hạt giống, thì khi Thời cơ đến - Hội đủ Duyên lành khác phát lớn tiền tài dài lâu, bền vững hết kiếp này sang kiếp khác.
+ Bí nhiệm Cung - Cầu: Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử [205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ. (TTHM, 204)
+ Kiến thức liên quan Bí nhiệm:
1. Đạo Tâm và Dụng Tâm của người Thiện Trí giầu phước điền
2. Định Luật Cung cầu
3. Định luật về Vật chất cơ bản
4. Định luật vạn vật hấp dẫn
+ Tam giác kết tinh Tiền tài theo Chiêm tinh học
+ Kiến thức khoa học về Quản trị kinh doanh.
+ Bí nhiệm về sự kết tinh Tiền tài của người Đệ tử: Bí nhiệm Vàng
+ Bí nhiệm Vàng: Thuật ngữ Bí nhiệm - Bí quyết này được hiểu là những bí mật vũ trụ mà con người cần có Thiện Trí nhất định mới được Thiện Trí thức trao truyền (ví như sử dụng các Linh từ ...), cũng phù hợp với các Định luật vũ trụ, tức Đạo vũ trụ mà nhân loại muốn hiểu biết, lắm bắt thì không chỉ qua học hỏi sách vở, mà còn cần thực hành Tham thiền huyền môn, tự mình khám phá thực chứng qua quá trình Tham thiền, rồi dụng kiến thức ấy vào thực tế ở đời sống cõi trần thì sẽ thu được thành tựu nhiệm mầu, đó là bởi trong "Kho vũ trụ" thì tiềm năng giúp kết tinh tiền, vàng là vô hạn. Nên Bí nhiệm nghĩa là "Bí quyết - Nhiệm mầu".
+ Bí nhiệm Cung - Cầu: Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử [205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ. (TTHM, 204)
+ Kiến thức liên quan Bí nhiệm:
1. Đạo Tâm và Dụng Tâm của người Thiện Trí giầu phước điền
2. Định Luật Cung cầu
3. Định luật về Vật chất cơ bản
4. Định luật vạn vật hấp dẫn
+ Tam giác kết tinh Tiền tài theo Chiêm tinh học
+ Kiến thức khoa học về Quản trị kinh doanh.
+ Bí quyết xem phước điền trong Số mạng: Nhân phát tiền tài
+ Nhiệt tâm buôn bán - Nhiệt tâm Tài: Lời Phật dạy về nhiệt tâm buôn bán. Ví như thời nay hiểu là người có Ham muốn kiếm tiền, làm giầu theo đúng chánh pháp. Tức cần phải Giác ngộ, hiểu thấu và tin sâu Luật nhân quả thông ba đời như đức Phật dạy là "Trồng Dưa được dưa, trồng Đậu được Đậu". Theo đó mà khi kinh doanh có lời lãi thì tùy duyên, lượng sức chăm chỉ hành Thí Cúng để tăng trưởng vun bồi nguồn Phước sâu dày, tin rằng cứ gieo hạt sẽ có thu hoạch], nên cần ghi nhớ và thật hành hàng ngày. Cụ thể xin trích Kinh văn như sau:
19.- Người Buôn Bán
- Thành tựu ba chi phần .... Người buôn bán, vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc => một người buôn bán không thâu nhận được tài sản chưa được thâu nhận và không tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận.
Thành tựu ba chi phần,... Người buôn bán, vào buổi sáng có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm chú vào công việc => một người buôn bán thâu nhận được tài sản chưa được thâu nhận và tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận.
20.- Người Buôn Bán
- Thành tựu với ba chi phần,.... Người buôn bán có mắt, khéo phấn đấu, xây dựng được cơ bản....
Người buôn bán có mắt: Biết các thương phẩm. Vật này mua như vậy, bán như vậy, sẽ đưa lại tiền như vậy, tiền lời như vậy.
Người buôn bán khéo phấn đấu: Người thương gia khéo léo mua và bán các thương phẩm.
Người thương gia xây dựng được căn bản: Người buôn bán được các gia chủ hay con các gia chủ, được các nhà giàu, có tiền bạc lớn, có tài sản lớn biết đến như sau: "Người buôn bán này là người có mắt, khéo phấn đấu, có đủ sức cấp dưỡng vợ con, và thường trả tiền lời cho chúng ta. Chúng ta trao hàng hóa cho người này: "Này bạn thương gia, hãy lấy tiền này, xây dựng tài sản để nuôi dưỡng vợ con và thường thường trả tiền lời cho chúng tôi". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán xây dựng do có cơ bản.
Thành tưụ với ba chi phần này, này các Tỷ kheo, người buôn bán, không bao lâu đạt dến tài sản lớn mạnh và rộng lớn. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba pháp)
+ Đệ tử Phật kinh doanh buôn bán: A-Nan thưa với Phật: Thế nào là thế gian sự? Thế nào là thế gian ý? Thật khó phân biệt.
Giảng: Tại sao có thẻ làm thế gian sự mà không có thế gian ý xen tạp chỉ huy? Để mọi người thấu rõ ý nghĩa, phân biệt việc làm, nên tôn giả A Nan lại bạch hỏi Phật lần nữa, để Phật minh xác giải thích tường tận.
Phật nói: Là đệ tử Phật có thể mua bán kinh doanh thương nghiệp, đúng cân đủ thước, không nên lừa dối, làm đúng tình lý, không trái lương tâm lý tánh tự nhiên, tống táng, hôn thú, di cư đều là thế gian sự.
Giảng: Thế gian sự thì vô số kể không thể nào nói hết. Ở đây đức Phật chỉ nêu vài việc làm thí dụ để giảng giải cho chúng ta hiểu rõ Phật pháp bất ly thế gian pháp. Phật pháp không trở ngại thế gian pháp. Thế gian pháp là điều mà chúng ta thường nhựt sinh hoạt, như ăn, uống, ngủ nghỉ, thân quyến bằng hữu, ân nghĩa giúp đỡ, hôn quan tang tế, mà hành giả công phu tu tập Phật pháp cũng sinh hoạt ở trong những sự vụ lớn nhỏ hằng ngày đó. Nhưng hành giả tu Phật có khác với kẻ thường tình là thấu rõ thế gian mộng huyễn, các pháp vô thường, nên thanh thản buông thả, khởi lòng vị tha phương tiện dùng giả hiển thật, lấy huyễn độ chân, nên ở trong đời làm việc đời mà không nhiễm đời. Như hoa sen trong bùn mà không dính mùi bùn hôi tanh. (Nguồn: KINH ANAN VẤN PHẬT SỰ CÁT HUNG - HT Tịnh Không giảng)
+ Lượng sức mình: Người Đầu tư - Kinh doanh - Buôn bán nên biết lượng sức mình. Có thể xem Mệnh Tứ trụ để biết Nhân Duyên Phúc phận về buôn bán để biết lượng sức, biết Thời thế để phòng rủi do, thất bại do thiếu hiểu biết. Nếu có nhiệt huyết mà thiếu phước phần thì nên gắng tu tạo phước chờ thời, không nên làm liều. Khổng Tử nói " Thời vận không thông mưu cầu vô ích là vậy. Mời đọc: Duyên Nghiệp vô phước thì buôn bán thất bại
+ Nhận Tư vấn kinh doanh qua xem Mệnh vận theo Tứ trụ: Nhân trắc học nhận Tư vấn xem Mệnh Vận theo Tứ trụ để biết về nhân duyên phúc phần trong đầu tư, kinh doanh, giúp lượng sức mình để không bị khổ đau vì làm liều do thiếu hiểu biết về nhân quả tạo phước nên kết quả kinh doanh không thể thành tựu thì đại bất hạnh là hiển nhiên.
* Xin liên hệ Mr Hương: 0964 759 686;
+ Kiến thức liên quan Bí quyết phát tài bền vững:
- Biết tiếc phước - Chánh gây tạo các nghiệp làm hao tài bại gia sản: Các nghiệp phá tài - Tổn phúc
- Chăm chỉ hành thí cúng theo khả năng để vun bồi phước đức ngày càng sâu dày: Các nghiệp tạo phước đức
- Người kinh doanh không lượng sức mình thì tự chuốc lấy những đại bất hạnh đau khổ: Xem các đại bất hạnh của người kinh doanh
- Đọc sách Kiến thức khoa học về nghệ thuật Kinh doanh - Làm giầu theo chánh đạo.
+ Mười Điều Sinh Phước: Trong kinh Digha nikaya và Anguttara nikaya sutta. Đức Phật dạy có 10 pháp để tạo nên phước đức đó là: Đức tin là sức mạnh lớn nhất trong thế gian này. Và “Đức tin vào lời dạy của Như Lai là nguồn vốn quý giá nhất và cao quý nhất của chính mình”.
1- Dāna: Bố thí, cho tặng, giúp đỡ, hỗ trợ, dâng hiến, ban thưởng,… nói chung là lấy tài sản của mình bỏ ra để tạo phước. Các quả lành trổ sanh mạnh yếu, ít nhiều, còn tuỳ thuộc vào 3 nhân tố (tác ý của người Dana, vật chất dana, và đối tượng nhận vật dana đó).
2- Sila: Tạo phước bằng cách phát nguyện giữ gìn trau dồi nhân cách đạo đức – còn gọi là giữ giới. Ví dụ: Hàng cư sĩ tại gia: giữ gìn 5 giới, hoặc 8 giới như trong các khoá thiền vậy, v.v… Quả lành Giữ giới ngay lập tức trong hiện tại là:
a. Phát sanh sự bình an, không lo âu sầu muộn, ít phát sanh bệnh tật, hoan hỷ trong nội tâm,… nhờ đó mà phát sanh sự thông minh sáng suốt, xử lý được nhiều điều quan trọng cần thiết trong cuộc sống. Từ đó dẫn đến:
b. Tăng trưởng uy tín, làm phát sinh sự cung kính ngưỡng mộ và đức tin cho kẻ khác,…
c. Phát sanh sự siêng năng cần mẫn quyết tâm cao trong công việc.
d. Phát sanh nhiều tài sản vật chất là hệ quả tự nhiên của a, b, c,…
3- Bhāvanā: Tạo phước bằng cách phát triển thiền tập (thiền định, thiền tuệ)
Quả lành của thiền trổ sanh ngay lập tức trong lúc đang thiền (đắc pháp hỷ, pháp lạc):
a. Phát huy đồng thời 3 sức mạnh: sức khoẻ về thân thể; Sung mãn về tâm; và phát huy trí tuệ sáng suốt thông minh hơn bội phần.
b. Hạnh phúc an lạc cả tinh thần lẫn thân thể – Điều mà không có phương dược nào có thể thay thế được.
4- Apacāya: Tạo phước bằng cách Cung kính, kính lễ, thể hiện sự lễ phép tôn trọng các bậc trưởng thượng, người lớn tuổi hơn, những người có vai vế hơn, hoặc những những người thâm niên hơn trong các hội đoàn tổ chức nào đó, v.v…
Đây là loại phước báu mang lại cho mình lợi ích vô cùng đặc biệt, khiến người khác dễ dàng yêu thương cảm mến đến bạn, vv..
Ngược lại sẽ là một tai hại vô cùng lớn đến với bạn khi mà bạn vụng về trong lối xử thế nầy vậy! Bởi vì sao? Bởi vì sự lễ độ phản ánh tư cách và chiều sâu đạo đức của một con người.
5- Veyyāvacca: Tạo phước bằng cách làm lợi ích cho người khác với công sức của mình, do chính tác ý thiện tâm của ta.
6- Pattidāna (hồi hướng phước):
– Tạo phước bằng cách hồi hướng chia sẻ công đức của mình đã làm được như tụng kinh, hành thiền, Dana hiến tặng, cúng dường, giúp đỡ, làm các việc tốt lành,… đến cho bạn bè, thân quyến, hoặc chúng sanh khác như Chư thiên, Ngạ quỹ, Atula ngự ở trong nhà, trên hư không, địa cầu,… Nhằm tăng trưởng sự hoan hỷ của các đối tượng đó, khơi dậy thiện tâm và đồng cảm của họ đối với mình (giống như ta tặng quà quý báu đến người khác vậy).
– Phật dạy trong hoàn cảnh nào phải tưởng nhớ đến cha mẹ đã quá vãng, lại tưởng nhớ đến 4 vị Vua trời Tứ đại thiên vương và các chư thiên ngự trong nhà mà chẳng nên bỏn sẻn, nên làm việc phước thí, rồi hồi hướng đến các vị ấy thì chắc thật được quả báu do phép hồi hướng ấy.
– Do nhờ phép hồi hướng mà thân quyến của ta trong loài Ngạ quỹ nhận lãnh được phước hồi hướng nầy, sanh tâm hoan hỷ mà siêu thoát khỏi kiếp Ngạ quỹ đói khát khổ sở.
7- Pattānumodanā (hoan hỷ đồng cảm với phước lành của người khác):
– Tạo phước bằng cách thể hiện niềm vui mừng, hân hoan đồng cảm trước kết quả thành tựu của người khác, hoặc trước các việc tốt, công đức của người khác đã và đang làm.
– Bằng lời nói chúc mừng, hay bằng hành động như dùng vật phẩm biếu tặng để thể hiện sự vui mừng đồng cảm (người tây phương thường dùng hoa, hoặc tổ chức tiệc tùng để chúc mừng,…).
– Trong Phật giáo: Sadhu anumodana = lành thay, chúc mừng phước lành của bạn nhé!
(đối nghịch với tâm sanh phước này là tâm nóng nảy, đố kỵ, tỵ hiềm,… tự làm khổ mình khó ăn, mất ngủ,…. thể hiện sự khó chịu trước quả lành hay sự thành công của người khác).
8- Dhammassavana (cung kính nghe pháp):
– Tạo phước bằng cách cung kính lắng nghe Đức Phật dạy, hoặc chư đệ tử thuyết giảng lại những lời cao quý từ Ngài đã chỉ dạy.
– Bởi vì cung kính lắng nghe sẽ hiểu được những ý nghĩa sâu sắc lời Phật dạy, rồi áp dụng thực hành là vô cùng quý báu mang lại lợi ích lớn lao thiết thực cho đời nầy lẫn đời sau.
9- Dhammadesanā (giảng pháp):
– Tạo phước bằng cách nói hoặc giảng lại những lời Phật dạy một cách chơn chánh cho người khác nghe, hoặc bàn luận những lời hay lẽ phải trong Phật pháp khai thông sáng tỏ cho mình và cho người,…
10- Diṭṭhujukamma (Cải chánh kiến thức):
– Tạo phước bằng cách trau dồi kiến thức, khiến cho tri kiến của mình được thông suốt sáng tỏ, đúng đắn theo lý nhân quả và chánh kiến – tránh xa tà kiến chấp chặt mê tín, sai lầm,…
Mười điều trên chia 3 nhóm:
1/ Tạo phước vật chất: Dana/ Thí cúng; Hồi hướng; và đồng hoan hỷ;
2/ Tạo phước đức: Giữ giới; cung kính; và phục vụ;
3/ Tạo Phước trí: Nghe pháp; giảng pháp; phát triển thiền.
Cải đổi kiến thức vừa hỗ trợ và vừa tạo được đồng thời 3 loại phước trên nhờ CÓ TRÍ TUỆ. (Nguồn: TS - ĐĐ Thích Thiện Minh)
Xem thêm: Tu phước
Xem thêm: Tu phước đức
Xem thêm: Vun bồi phước đức
+ Sáu nghiệp hao tổn tài sản: Này Thiện Sinh, sáu nghiệp tổn tài là: 1. Đam mê rượu chè. 2. Cờ bạc. 3. Phóng đãng. 4. Đam mê kỹ nhạc. 5. Kết bạn với người ác. 6. Biếng lười. Phật cũng dậy chi tiết sự tai hại của sáu nghiệp này:
- Lại nữa, này Thiện Sinh, nên biết, uống rượu có sáu điều lỗi: 1. Hao tài. 2. Sinh bệnh. 3. Đấu tranh. 4. Tiếng xấu đồn khắp. 5. Bộc phát nóng giận. 6. Tuệ giảm dần. Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả ấy uống rượu không thôi thì nghiệp gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, cờ bạc có sáu điều tai hại: 1. Tài sản ngày một hao hụt. 2. Thắng thì gây thù oán. 3. Bị kẻ trí chê. 4. Mọi người không kính nễ tin cậy. 5. Bị xa lánh. 6. Sinh tâm trộm cắp. Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả mê đánh bạc mãi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, phóng đãng có sáu lỗi: 1. Không tự phòng hộ mình. 2. Không phòng hộ được tài sản và hàng hóa. 3. Không phòng hộ được con cháu. 4. Thường hay bị sợ hãi. 5. Bị những điều khốn khổ ràng buộc xác thân. 6. Ưa sinh điều dối trá. Đó là sáu điều lỗi. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả phóng đãng mãi không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, say mê kỹ nhạc có sáu lỗi: 1. Tìm đến chỗ ca hát. 2. Tìm đến chỗ múa nhảy. 3. Tìm đến chỗ đàn địch. 4. Tìm đến chỗ tấu linh tay. 5. Tìm đến chỗ có âm thanh vi diệu. 6. Tìm đến chỗ đánh trống. Đó là sáu tai hại của kỹ nhạc. Nếu trưởng giả hoặc con trai trưởng giả say mê kỹ nhạc mãi không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1. Tìm cách lừa dối. 2. Ưa chỗ thầm kín. 3. Dụ dỗ nhà người khác. 4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người khác. 5. Xoay tài lợi về mình. 6. Ưa phanh phui lỗi người. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, lười biếng có sáu lỗi: 1. Khi giàu sang không chịu làm việc. 2. Khi nghèo không chịu siêng năng. 3. Lúc lạnh không chịu siêng năng. 4. Lúc nóng không chịu siêng năng. 5. Lúc sáng trời không chịu siêng năng. 6. Lúc tối trời không chịu siêng năng. Đó là sáu điều tai hại của sự lười biếng. Nếu trưởng giả hay con trưởng giả lười biếng mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
Lời Phật dạy thật rõ ràng: Đam mê rượu chè, cờ bạc, phóng đãng, đam mê kỹ nhạc, kết bạn với người ác, biếng lười là sáu nguyên nhân gây ra tổn hao tài sản. Phải thấy rõ nguyên nhân chính yếu và chi tiết của sự tổn tài cũng như sự nguy hiểm của nó mới có thể khắc phục. Như hồ nước, chỉ có một lối nước vào mà có đến sáu lối nước ra thì chắc chắn hồ sẽ khô cạn. Cũng vậy, muốn gìn giữ cơ nghiệp và chi tiêu đúng pháp để lợi mình và lợi người trong hiện tại và cả mai sau, hãy chuyển hóa sáu nghiệp bất thiện này. (Nguồn: Trích Kinh Thiện Sanh)
+ Chọn nghề mà làm giàu: Có 5 điều mà Phật dạy không nên kinh doanh, còn gọi là kinh doanh phi pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ:
1. Không buôn bán vũ khí.
2. Không buôn bán người.
3. Không buôn bán thịt.
4. Không buôn bán rượu
5. Không buôn bán thuốc độc. (Nguồn: Phật dậy về làm giầu)
+ Nguyên nhân Số phận sinh ra đã nghèo: Xem Phật dậy Mười điều bị tổn phước báu (Kinh Tăng Nhất A Hàm – Tập III)
+ Nhiệt tâm tu tăng trưởng thiện pháp
19.- Người Buôn Bán
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu ba pháp, Tỷ kheo thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận, tăng trưởng thiện pháp đã được thâu nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo vào buổi sáng có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận, và tăng trưởng thiện pháp đã được thâu nhận.
20.- Người Buôn Bán
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, thành tựu với ba pháp, vị Tỷ-kheo không bao lâu, đạt đến lớn mạnh và rộng lớn về các Thiện pháp. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có mắt, khéo phấn đấu và xây dựng được cơ bản.
Tỷ-kheo có mắt: Tỷ-kheo như thật biết rõ: "Đây là khổ" ... như thật rõ biết: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo có mắt.
Tỷ-kheo khéo phấn đấu: Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn, đoạn tận các pháp bất thiện, làm cho sanh khởi các pháp thiện, dõng mãnh, kiên trì, tinh tấn, không có từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo phấn đấu.
Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản: Tỷ-kheo đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, thông hiểu các tập A-gà-ma (A-hàm) bậc trì Pháp, trì Luật, trì Toát yếu, thường thường đến yết kiến, phỏng vấn, đặt các câu hỏi: "Thưa Tôn giả, cái này là thế nào? Pháp này ý nghĩa gì? "Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa được mở rộng, phơi bày những gì chưa được phơi bày, và đối với những đoạn sai khác còn có những chỗ nghi ngờ, các vị ấy giải thích các sự nghi ngờ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu, đạt đến sự lớn mạnh và rộng lớn về các thiện pháp. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba pháp)
+ Tịnh nghiệp tam phước:
Đây là nói về ba mức tu hành thành tựu, cũng là thứ tự tu hành phải theo, không thể đảo lộn. Ví như chưa tu thành tựu được phước thứ nhất ‘Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng sát hại sanh vật, tu thập thiện nghiệp’, thì tu phước thứ hai "Thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi" chẳng thể thành tựu, vì điều thứ nhất là tu thành người hiền thiện, nếu chưa tu thành tựu thì chưa xứng danh Thiện nam, Tín nữ như trong kinh Phật vẫn nói. Vậy người bất thiện thì tu pháp gì cũng thành người bất thiện, lầm đường lạc lối sao có thể giải thoát luân hồi, sao có thể vãng sanh được - Không thể có đạo lý này.
+ Tịnh nghiệp: Trước hết chúng tôi phải nói rõ cái gì gọi là nghiệp chướng. “Nghiệp” là tạo tác, thiện ác có chướng ngại => bạn không ra khỏi tam giới. Vậy thì chúng ta phải tu như thế nào? Phật dạy cho chúng ta tu tịnh nghiệp. Cái gì gọi là Tịnh nghiệp? nghĩa là đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện mà không chấp tướng gọi là tịnh nghiệp. Chấp tướng thì không phải là tịnh nghiệp sẽ sanh ra chướng ngại cho nên nghiệp là tạo tác.
Trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện nói được rất hay - chúng sanh trong diêm phù đề khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp” là thật đấy không phải giả. Tại vì sao? Bạn hãy nghĩ xem có chúng sanh nào khởi tâm vọng niệm mà không nghĩ đến cái TA, cái TA này rất phiền phức. Ta tức là tội, ta tức là nghiệp, niệm niệm đều vì ta.... Người thế tục có câu ngạn ngữ nói như vầy :”Con người không vì mình thì trời tru đất diệt”.... Nếu không vì ta thì đâu phải là con người. Không sai, không vì ta không phải là con người. Họ là Phật, họ là Bồ Tát, họ không phải con người. Cho nên hãy mà vì ta thì đích thật họ là con người. Đúng thật là không sai chút nào. Họ trong cõi người không ra khỏi lục đạo, vì sao Phật phải nói như vậy? Chúng ta phải hiểu cái ý của Ngài.
.... Hạnh Phổ Hiền là hành Pháp cứu cánh viên mãn. Hành Pháp là phương pháp tu hành nếu dùng lời hiện nay mà nói hành pháp tức là phương pháp sinh hoạt. Ngài nêu ra một điều cương lĩnh. Đó là tu Lễ kính - Tán thán - Cúng dường... (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Tam Phước: Tu phước ba cấp độ
- Hiếu dưỡng cha mẹ ...: Phước báu Nhân Thiên, hàng Tiểu thừa - Chưa vào cửa Phật đạo, là nền tảng để bước vào của Phật.
- Thọ Tam quy y ..........: Tu phước giải thoát hàng Trung thừa - Bước vào cửa Phật, làm đệ tử Phật.
- Phát Bồ đề tâm ..........: Tu phước giải thoát hàng Đại thừa, Bồ Tát đạo. Cần có Trí tuệ chân thật có thể phân biện ... (Nguồn: HT Tịnh Không giảng - Thái Thượng Cảm Ứng Thiên: Xem tập 11)
+ Tam Phước
ĐÂY LÀ PHÁP CĂN BẢN, ĐÂU CÓ NÓI PHÁT NGUYỆN SUÔNG, CHẲNG CẦN TU HÀNH MÀ CÓ THỂ VÃNG SANH, PHẬT CHẲNG NÓI NHƯ VẬY. MUÔN VÀN XIN ĐỪNG HIỂU LẦM, CHẲNG THỂ BỎ UỔNG NHÂN DUYÊN HIẾM CÓ TRONG ĐỜI NÀY.
Trong Tam Phước tối thiểu phải làm được một điều thì bạn mới có thể vãng sanh. Nếu bạn có thể làm được điều thứ nhất ‘Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng sát hại sanh vật, tu thập thiện nghiệp’, phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, thì bạn có thể vãng sanh Hạ Phẩm.
Bạn có thể làm được điều thứ hai, điều thứ hai đương nhiên bao gồm điều thứ nhất, tức là cộng thêm: ‘Thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi’ thì bạn vãng sanh Trung Phẩm. Ðây là ba bậc vãng sanh nói trong kinh Vô Lượng Thọ.
Nâng cao thêm, nếu bạn có thể ‘Phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại Thừa, khuyến tấn hành giả’ thì sẽ vãng sanh Thượng phẩm. Ðây là pháp căn bản, đâu có nói phát nguyện suông, chẳng cần tu hành mà có thể vãng sanh, Phật chẳng nói như vậy. Muôn vàn xin đừng hiểu lầm, chẳng thể bỏ uổng nhân duyên hiếm có trong đời này.
‘Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh’ là pháp căn bản, cả bộ kinh này nói về cái gì? Chính là nói về Phước thứ nhất. Bạn sẽ hỏi bốn câu trong phước thứ nhất này phải nói như thế nào? Cả bộ Ðịa Tạng Bổn Nguyện kinh này là chú giải [cho bốn câu này].
Tu học đúng như lý, như pháp, đại sư Thiện Ðạo nói: ‘Vạn tu vạn người về’, ai cũng không bỏ sót. Nếu bạn tu không đúng như pháp thì sẽ chẳng vãng sanh nổi, Phật chẳng nói sai, là bạn đã hiểu sai ý tứ trong ấy. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy chúng ta ‘Ðương hiếu ư Phật’, dạy chúng ta tôn sư trọng đạo, đây là giáo nghĩa của kinh Ðịa Tạng, nhất định phải hiểu những đạo lý này. (Nguồn: Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký tập 5, HT. Tịnh Không)
+ Tùy hỷ được phước lớn:
Đức Phật dạy: "Thấy người tu đạo bố thí mà hoan hỷ trợ giúp thì sẽ được phước rất lớn."
Có thầy Sa-môn hỏi rằng: "Phước ấy hết chăng?"
Đức Phật đáp: "Ví như lửa của một cây đuốc, dù có vài trăm ngàn người ai nấy đều mang đuốc đến chia nhau mồi lấy lửa để về nấu ăn và xua tan bóng tối, thì ngọn đuốc kia vẫn y như cũ. Phước báo cũng như thế!"
Lược giảng:
Chương thứ mười là giảng về công đức của sự tùy hỷ. Biết tùy hỷ thì mình và người đều được lợi lạc, và phước báo sẽ vô cùng vô tận.
Đức Phật dạy: "Thấy người tu đạo bố thí, nếu trông thấy người khác thực hành hạnh bố thí, mà hoan hỷ trợ giúp thì sẽ được phước rất lớn." Có ba loại bố thí là tài thí, pháp thí và vô-úy thí:
1) Tài thí là bố thí tài sản. "Tài thí" còn được gọi là "tư-sanh-thí." Thế nào gọi là "tư-sanh-thí"? Đó là sự bố thí vật chất nhằm giúp người khác được đủ sống. Về tài sản thì có nội tài và ngoại tài. Nội tài là tài sản bên trong bao gồm những cơ phận trong thân thể như đầu, mắt, não, tủy, da, máu, thịt, gân, xương...; và sự bố thí nội tài được gọi là "nội thí." Ngoại thí là tài sản bên ngoài tức là vàng, bạc, châu báu, quốc gia, thành trì, vợ chồng, con cái...; và sự bố thí ngoại tài được gọi là "ngoại thí."
Nếu quý vị có vàng thì có thể bố thí vàng; có bạc thì có thể bố thí bạc; có châu báu thì có thể bố thí châu báu; có quốc gia thì có thể nhường quốc gia cho người khác; có thành trì thì có thể bố thí thành trì cho người khác; có vợ hay chồng thì có thể bố thí vợ hay chồng mình cho người khác; và có con cái thì cũng có thể bố thí con cái của mình cho người khác. Đó đều là ngoại thí. Nếu quý vị có thể cho kẻ khác đầu, mắt, não, xương tủy, da, máu, thịt, gân, xương... của bản thân mình, thì đó là nội thí vậy. Trên đây là nói về tài thí.
2) Pháp thí là bố thí Pháp. "Pháp thí" tức là giảng giải ba môn học Giới-Định-Huệ, mang những giáo pháp này ra bố thí, khiến cho người khác được vô số lợi ích.
3) Vô-úy thí là bố thí sự không sợ hãi. Khi có người gặp cơn hoạn nạn hoặc có điều gì lo sợ, mà quý vị có thể làm vơi bớt nỗi thống khổ vì sợ hãi cho họ, thì đó là vô-úy thí.
Khi thấy người khác thực hành hạnh bố thí mà quý vị có thể vui mừng theo và khen ngợi, khuyến khích họ, thì quý vị sẽ được phước báo vô cùng lớn lao. Những kẻ ngu si có thể sẽ nói rằng: "ồ! Tôi đứng ra bố thí, còn người khác chỉ tùy hỷ, ủng hộ thôi mà cũng được phước báo to lớn, vậy thì phước báo của tôi hết mất sao?" Vì e rằng có kẻ ngu si nghĩ ngợi lẩn thẩn như thế nên mới có cuộc vấn đáp sau đây:
Có thầy Sa-môn hỏi rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Phước ấy hết chăng? Phước ấy có thể bị mất không?" Ý nói là người đứng ra bố thí thì được phước, kẻ có lòng tùy hỷ cũng được phước rất lớn; như thế thì phước của người bố thí vẫn còn đó hay là bị kẻ kia đoạt mất rồi?
Đức Phật đáp: "Ví như lửa của một cây đuốc, dù có vài trăm ngàn người ai nấy đều mang đuốc đến chia nhau mồi lấy lửa. Thí dụ chỉ có độc nhất một mồi lửa, mà lại có tới cả trăm ngàn người dùng chung, cùng chia nhau mồi lấy lửa để về nấu ăn và xua tan bóng tối." "Nấu ăn" tức là dùng lửa này để nhóm bếp mà nấu thức ăn. "Xua tan bống tối" tức là lấy lửa này làm đèn để soi sáng chỗ tối tăm u ám.
"Thì ngọn đuốc kia vẫn y như cũ. Ngọn lửa của cây đuốc chính vẫn nguyên vẹn như lúc ban đầu, tuyệt nhiên không bị lu mờ hoặc dập tắt. Phước báo cũng như thế, không khác!"
Thí dụ này ngụ ý rằng những người tu Đạo bằng cách thực hành hạnh bố thí, thì trong tương lai vẫn có thể chứng đắc quả vị. "Nấu ăn" là một tỷ dụ, ám chỉ sự chứng đắc quả vị. "Xua tan bóng tối" tức là quét sạch mọi mê hoặc do tam chướng - nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng - gây ra.
Vậy, nhờ công đức tu hạnh bố thí mà quý vị có thể chứng được quả vị, dứt trừ tam-chướng, và đồng thời những người có lòng tùy hỷ, ủng hộ quý vị cũng chứng được quả vị, dứt trừ được tam-chướng - không ai là không có phần trong công đức này cả. (Nguồn: Kinh 42 Chương - HT T.Hóa)
+ Tu phước và tu huệ: Phước, Huệ là hai mục tiêu lớn mà tu học Phật pháp yêu cầu. Trong lúc chúng ta truyền thụ tam quy, đã đọc câu thệ nguyện: “Quy y Phật, nhị túc tôn”, “Nhị” chính là phước và huệ, túc chính là đầy đủ, viên mãn. Do đó có thể thấy, thành Phật chính là tu học viên mãn phước và huệ, cho nên được sự tôn kính của thế, xuất thế gian. Kinh điển Phật giáo là dung thông: Viên dung, thông đạt không có chướng ngại, cho nên một kinh thông, thì tất cả các kinh đều thông. Không chỉ kinh giáo là dung thông, pháp thế gian và xuất thế gian cũng là dung thông, vì đều là từ trong chân tâm bổn tánh biến hiện ra, cho nên là cùng một cội nguồn, không có đạo lý nào là không thông. ... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Xem thêm Tooltip: Tu phước đức
+ Phẩm tính Cung Bảy: Nghi lễ, Trật tự, Huyền thuật
- Ưu điểm: Mạnh mẽ, bền chí, can đảm, lịch sự, hết sức chú ý về chi tiết, tự lập, trật tự, cơ cấu, hoàn thiện hình thức, tuân thủ.
- Khuyết điểm: Chuộng hình thức, cố chấp, tự cao, hẹp hòi, phán đoán nông nổi, quá tự phụ, quá thủ cựu.
+ Các Đức Tính và các Tật Xấu EPI 210-211( Xem Bảy đấng ....)
- Đức Tính đặc biệt: Sức mạnh, nhẫn lại/ sự kiên trì, can đảm/ lòng dũng cảm, tao nhã/ lịch sự, cực kỳ cẩn thận trong chi tiết, tính tự lực.
- Tật Xấu của Cung: Tính(chủ nghĩa) hình thức, cố chấp, tự cao/ kiêu hãnh, cư sử hẹp hòi, các phán đoán hời hợt/ phiến diện, cố chấp/ bảo thủ ý kiến quá mức. quá đam mê
- Các Đức Tính cần có: Nhận thức về tính thống nhất, tâm trí rộng mở, lòng khoan dung, khiêm tốn, dịu dàng và bác ái. + Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung
+ Trong mọi điều Tôi đã nói liên quan tới thể dĩ thái của con người, liên quan đến hành tinh, liên quan đến chơn linh của địa cầu, mấu chốt của toàn bộ tình hình nằm trong sự kiện là năm cung vào lúc này, có cung 7 là cung chiếm ưu thế của chúng. Cung 7 là cung kiểm soát thể dĩ thái (the etheric) và các devas dĩ thái. Nó kiểm soát cõi phụ thứ bảy của tất cả các cõi nhưng vào lúc này nó chi phối cõi phụ thứ bảy của cõi trần. Cũng vì đang ở trong vòng tuần hoàn thứ tư, khi một cung tiến vào sự nhập thế (incarnation) rõ ràng, nó không những chỉ kiểm soát trên các cõi có cùng một số, mà còn có một ảnh hưởng đặc biệt trên cõi phụ thứ tư. Hãy lưu ý cách mà cung này tác động vào lúc này trong ba cõi thấp:
1. Cõi dĩ thái thứ tư, cõi thấp nhất trong số các cõi dĩ thái, sẽ là cõi vật chất kế tiếp của tâm thức. Chất dĩ thái ngay lúc này đang trở nên có thể thấy được đối với một số người, và sẽ có thể nhìn thấy hoàn toàn vào cuối thế kỷ này đối với nhiều người.
2. Cõi phụ thứ tư của cõi cảm dục giữ lại phần lớn con người khi họ qua đời, và tất nhiên nhiều công việc với số lượng lớn nhất nhờ đó có thể được hoàn tất.
3. Cõi phụ thứ tư của cõi trí là cõi devachan (thiên đường tạm). (LVHLT, 374)
+ Cung 7: Hiện nay, sự nhập cuộc của cung màu tím, tức là Cung Nghi thức hay Cung bảy ...(TTHM, Thư 08.10.1919)
+ Thí dụ gọi là Huyền giai: Thí dụ như địa vị của màu tím (violet) trong quang phổ (103) có tầm quan trọng bậc nhất, liên quan với các chu kỳ lớn, và đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ và sự bắt đầu một chu kỳ mới. Cõi bồ đề đặc biệt là cõi của màu tím, mặc dù tất cả các màu sắc đều có nơi đó; Đấng Chủ Quản của Cung Nghi Lễ Huyền Thuật vốn tiêu biểu cho tia tím hay huyền giai tím, có một mối quan hệ đặc biệt với cõi bồ đề. Phải nhớ rằng mỗi Hành Tinh Thượng Đế hoạt động trước tiên trên một trong bảy cõi, từ điều này, chúng ta có thể suy ra rằng ảnh hưởng của Ngài tìm thấy đường lối ít đối kháng nhất của nó trên một cõi nào đó, mặc dù nó được áp dụng trên mọi cõi. (Nguồn: LVLCK, 424)
+ Cung nghi lễ - Cung hôn phối: ... Cung nghi lễ thường được gọi là “nghi thức hôn phối của Con”, bởi vì Tinh thần và vật chất có thể đáp ứng và hợp nhất trên cung này. Sự kiện này cũng sẽ được ghi nhớ trong một trăm năm tới đây, vì chúng sẽ chứng kiến các thay đổi lớn trong các luật hôn nhân. (LVLCK, Tr 909)
+ Cung đang biểu lộ - Ngày Cơ hội: Câu hỏi có thể dặt ra ở đây là kiến thức này có phần nào giá trị đối với môn sinh chăng. Để minh giải điều này, các môn sinh nên khôn ngoan suy gẫm kỹ ý nghĩa sự giáng nhập của Cung hiện nay, là cung Định luật Nghi lễ hay Pháp thuật. Đó là cung vận dụng các mãnh lực kiến tạo của thiên nhiên, liên quan đến việc trạng thái sự sống sử dụng hình thể một cách thông minh. Đây chính yếu là cung của công tác chấp hành, có mục đích kiến tạo, phối hợp và tạo sự nối kết trong bốn giới thấp của thiên nhiên. Nó được phân biệt chính yếu bởi năng lượng tự biểu hiện trong nghi lễ, nhưng từ nghi lễ này không được thu hẹp đến mức sử dụng hiện nay của nó trong nghi lễ của hội Tam Điểm hay tôn giáo. Áp dụng của nó thì rộng lớn hơn rất nhiều, và gồm các phương pháp tổ chức được phô diễn trong tất cả các cộng đồng văn minh, như trong giới thương mại hay tài chính, và các tổ chức kinh doanh lớn ở khắp nơi. Trên hết mọi sự, điều thú vị ở chỗ đây là cung mang cơ hội đến cho các giống dân Tây phương, và qua trung gian của mãnh lực sự sống của tổ chức thừa hành, của sự quản trị bằng luật lệ và trật tự, bằng tiết điệu và nghi thức, sẽ đến lúc các chủng tộc Tây phương (với trí tuệ cụ thể, tích cực và năng lực làm việc rộng lớn của họ) có thể được điểm đạo - một cuộc điểm đạo mà chúng ta phải nhớ là trên một cung tạm thời được thừa nhận là một cung chính. Phần đông các điểm đạo [183] đồ và những vị đã đạt được trình độ Chân sư trong chu kỳ trước, là người Đông phương và trong xác thân người Ấn. Chu kỳ đó đã do cung sáu cùng hai cung trước thống ngự, và đang trôi qua. Để giữ thế quân bình, nay sẽ đến một thời kỳ thành đạt của người Tây phương, trên một cung thích hợp với loại trí tuệ của họ. Nên ghi nhận điều thú vị là mẫu người Đông phương đạt mục tiêu của họ qua tham thiền, với một phần nhỏ tổ chức chấp hành và nghi thức, còn người Tây phương sẽ thành đạt phần lớn qua tổ chức mà hạ trí tạo ra, và một lối tham thiền mà sự tập trung cao độ trong công việc có thể xem là một ví dụ. Sự áp dụng trí tuệ chuyên nhất của một thương gia người U hay người Mỹ có thể được xem là một loại tham thiền. Nếu sự áp dụng này dựa trên động lực nội tâm trong sạch, thời cơ tốt đẹp sẽ đến với người Tây phương. (Sách điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Bí nhiệm Thất phân.
Sau khi tuyên thệ giữ kín điều bí nhiệm và không vi phạm, tân điểm đạo đồ một mình tiến đến gần vị Chủ lễ, rồi đặt tay lên phần dưới của Điểm đạo Thần trượng mà vị Chủ lễ cầm ở phần giữa. Bấy giờ, ba Vị đứng chung quanh ngôi chủ lễ mới đặt tay các Ngài lên viên kim cương chói rạng gắn trên đầu Thần trượng, và khi cả năm vị được liên kết theo cách này bởi năng lượng luân chuyển, phát ra từ Thần trượng, thì Đấng Điểm Đạo giao phó bí nhiệm cho điểm đạo đồ. Lý do của điều này là: Mỗi một trong năm cuộc điểm đạo trực tiếp liên quan đến chúng ta (hai cuộc điểm đạo cao hơn không có tính bắt buộc, nên chúng ta không xét đến) đều ảnh hưởng đến một trong năm luân xa nơi con người, [164]
1. Luân xa ở đầu,
2. Luân xa tim,
3. Luân xa cổ họng.
4. Luân xa nhật tùng,
5. Luân xa chót xương sống,
và tiết lộ cho y kiến thức về các loại mãnh lực và năng lượng khác nhau làm sinh động thái dương hệ, và đến với y qua một luân xa dĩ thái đặc biệt. Khi áp dụng Thần trượng, các luân xa của y được ảnh hưởng một cách đặc biệt. Qua việc truyền thụ Bí nhiệm, y được cho biết lý do của nó và cho thấy nó đồng nhất với lý do nhất thiết tạo nên một sự biểu lộ hành tinh đặc biệt, và gây nên một chu kỳ đặc biệt lớn hơn.
Có thể nói rằng:
1. Mỗi bí nhiệm liên quan đến một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ.
2. Mỗi bí nhiệm liên quan đến và phát biểu một trong bảy định luật của thiên nhiên. Vì thế chúng liên hệ đến một trong các trường tiến hoá cơ bản của mỗi hành tinh hệ. Mỗi hệ thể hiện một trong các định luật là luật chính yếu của nó, và tất cả các trường tiến hoá của nó đều có khuynh hướng biểu dương sự hoàn thiện của định luật đó với sáu biến thái phụ thuộc của nó, sáu biến thái này khác nhau một chi tiết trong mỗi trường hợp, tùy theo định luật chính được phát biểu.
3. Mỗi bí nhiệm truyền đạt chìa khoá để hiểu bản tính của một vị Hành Tinh Thượng Đế, và do đó đưa ra manh mối để biết những đặc tính của các Chân thần thuộc cung hành tinh đó. Hiển nhiên là sự hiểu biết như thế rất cần cho vị Chân sư đang cố gắng làm việc cho nhân loại, vận dụng các dòng mãnh lực đang ảnh hưởng đến họ và do họ phát ra. [165] 4. Mỗi bí nhiệm liên quan đến một cung hay một màu sắc nào đó và cho biết con số, nốt nhạc và sự rung động tương ứng.
Bảy bí nhiệm này chỉ là những công thức ngắn gọn, không có giá trị của thần chú, như trong trường hợp của Linh từ, mà có tính chất toán học, ngôn từ được dùng chính xác để truyền đạt đúng đắn ý định của người nói. Đối với người chưa được điểm đạo thì các bí nhiệm này trông có vẻ và nghe giống như các công thức đại số, ngoại trừ (khi thấy bằng thần nhãn) thì mỗi bí nhiệm gồm một hình bầu dục với một màu nhất định, tùy theo bí nhiệm được truyền đạt, có chứa năm chữ tượng hình hay biểu tượng đặc biệt. Một biểu tượng chứa công thức của định luật liên hệ, một biểu tượng khác cho biết khoá và âm độ hành tinh, biểu tượng thứ ba đề cập đến rung động, trong khi biểu tượng thứ tư cho biết con số và ngành của cung liên hệ. Chữ tượng hình cuối cùng đưa ra một trong bảy chìa khoá của ĐĐCG để các thành viên của ĐĐCG hành tinh chúng ta có thể liên lạc với các cấp thái dương. Đây hiển nhiên là những chi tiết rất mơ hồ và tối nghĩa, nhưng để nêu rõ rằng, như trong trường hợp các Linh từ, phải dùng hai giác quan để hiểu, muốn nhận thức được các bí nhiệm cũng phải sử dụng hai giác quan, để nghe, và thấy các biểu tượng bằng nội nhãn. (Nguồn: Sách điểm đạo trong nhân loại và Thái dương hệ)
+ Xem thêm sách: Giáo Lý Bí Nhiệm I, II, III, IV,V
Tâm trí đệ tử: Chúng ta nên nhớ rằng các đệ tử thuộc cung một hiểu con đường đạo phần lớn trong phạm vi năng lượng, mãnh lực hay hoạt động, trong khi các đệ tử thuộc cung hai hiểu con đường đạo nhiều hơn trong phạm vi tâm thức hay điểm đạo. Vì thế mà có sự khác biệt trong những lối phát biểu thường dùng và thiếu sự thông cảm giữa các nhà tư tưởng. Hẳn là hữu ích khi chúng ta phát biểu ý niệm về con đường đệ tử trong phạm vi các cung khác nhau—theo đó cho thấy ý nghĩa của con đường đệ tử như nó biểu hiện trong cuộc phụng sự trên cảnh giới hồng trần:
Cung 1...Mãnh lực............Năng lượng ...Hành động.........Nhà Huyền bí học.
Cung 2...Tâm thức............Triển khai......Điểm đạo............Nhà thần thông chân chính.
Cung 3...Tính thích nghi...Phát triển ......Tiến hoá.............Thuật sĩ.
Cung 4...Rung động .........Ứng đáp ........Phát biểu...........Nghệ sĩ.
Cung 5...Trí năng ............ Kiến thứ c .....Khoa học............Nhà khoa học.
Cung 6...Sùng tín............. Họat động......Theo đuổi..........Người sùng tín. trừu tượng Lý tưởng
Cung 7...Thần chú............Pháp thuật .....Nghi thức..........Nhà nghi thức. [81]
Xin nhớ kỹ rằng ở đây chúng ta đang bàn đến các đệ tử. Về sau, khi họ tiến bộ, thì nhiều đường lối khác nhau sẽ trở nên tương tự và hoà hợp. Có một thời tất cả đã là thuật sĩ vì mọi người đều đã trải qua cung ba. Vấn đề này hiện nay liên quan đến nhà thần bí học và nhà huyền bí học, và sự tổng hợp chung cuộc của họ. Khi nghiên cứu kỹ các điều nói trên, chúng ta sẽ nhận biết rằng sở dĩ có những nỗi khó khăn giữa các nhà tư tưởng và giữa những người đệ tử trong tất cả các nhóm, vì họ tự đồng hoá với một hình thức nào đó, và vì họ không thể thông cảm được các quan điểm khác của tha nhân. Theo thời gian, khi họ liên lạc mật thiết hơn với hai vị Chân sư mà họ có quan hệ (vị Thượng Đế ở nội tâm là Chân sư của cá nhân họ), thì họ sẽ không còn thiếu khả năng cộng tác và hoà hợp quyền lợi của mình trong lợi ích tập thể, và nỗ lực chung, mục đích giống nhau, cùng nhau hợp tác, sẽ thay thế cho các dị biệt, là những gì quá thường thấy hiện nay. Chúng ta đáng nên suy gẫm kỹ điều này vì nó soi tỏ được nhiều điều đang gây nan giải và đau khổ cho biết bao người. (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Hoạt động các giác quan và Sự hiển lộ “Bản tính Thiêng liêng.”
... Qua các giai đoạn sau của chu kỳ luân hồi, khi hành giả dao động với các cặp đối cực, và nhờ phân biện, trở nên ý thức được điều chân, lẽ giả, trong trí y có sự nhận thức ngày càng tăng, rằng y chính là Sự Sống bất tử, một vị Thượng Đế vĩnh cửu, và là một phần của Nguồn Sống Vô Cùng. Mối liên kết con người ở cõi trần và vị Chúa tể nội tâm ngày càng sáng tỏ hơn cho đến khi sự hiển lộ quan trọng xảy ra. Rồi đến một lúc nào đó trong cuộc sống, hành giả hữu thức đối diện với Đại Ngã thực sự của y và biết y chính thực là Đại Ngã đó chứ không chỉ trong lý thuyết; y trở nên ý thức được Thượng Đế nội tâm, không qua thính giác, hoặc nhờ chú ý vào sự điều khiển và hướng dẫn của tiếng nói nội tâm, gọi là “tiếng nói của lương tâm.” Lần này, y nhận biết bằng thị giác và trực kiến. Nay, y không chỉ đáp ứng với những gì nghe được, mà còn đáp ứng với những gì y thấy được.
Chúng ta biết rằng các giác quan đầu tiên được phát triển nơi đứa trẻ là thính giác, xúc giác, và thị giác; đứa bé sơ sinh nhận biết âm thanh và quay đầu về hướng đó, nó cảm giác và sờ soạng; cuối cùng nó nhìn thấy một cách ý thức, và phàm ngã được phối kết trong ba giác quan này. Đây là ba giác quan thiết yếu. Vị giác và khứu giác phát triển sau, nhưng chúng ta có thể sống mà không có hai giác quan này, và nếu thiếu chúng, con người vẫn thực sự không bị trở ngại trong các giao tiếp ở cõi trần. Trên đường phát triển nội tâm, trình tự cũng giống như vậy.
Thính giác−đáp ứng với tiếng nói của lương tâm, khi nó hướng dẫn, điều khiển và chế ngự. Điều này bao gồm thời kỳ tiến hoá hoàn toàn bình thường.
Xúc giác−đáp ứng với các hướng dẫn hay rung động, và nhận [114] biết được những gì ở bên ngoài cá nhân trên cảnh giới hồng trần. Điều này bao gồm thời kỳ tuần tự khai mở tinh thần, Con Đường Dự Bị và Con Đường Đệ Tử, thẳng lên đến cửa điểm đạo. Hành giả tiếp xúc từng lúc với những gì cao siêu hơn chính y; y dần dần ý thức được “sự tiếp xúc” với Chân sư, với rung động của chân nhân và với tập thể, và qua xúc giác huyền bí này y làm quen với những điều nội tại và tinh tế. Y vươn lên tìm kiếm những gì liên quan đến chân ngã, và nhờ tiếp xúc với những điều chưa thấy được, y trở nên quen thuộc với chúng.
Cuối cùng là Thị giác−là nội nhãn thông tạo được qua tiến trình điểm đạo, tuy nhiên đó vẫn chỉ là việc nhận ra một quan năng luôn luôn hiện hữu nhưng chưa được biết. Như đứa trẻ từ lúc mới sinh đã có đôi mắt hoàn toàn tốt và trong sáng, nhưng phải đến một ngày nào đó lần đầu tiên nó mới hữu ý nhận thức, ghi nhận được những điều nó thấy, thì con người trải qua cuộc phát triển tinh thần cũng vậy. Cơ quan của nội nhãn vẫn luôn luôn hiện hữu, và những điều có thể thấy vẫn luôn luôn có sẵn, nhưng phần đông người ta vẫn chưa nhận ra được. (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại và Thái dương hệ)
+ Trí - Nghĩa Bồ Tát: “Thế nào là Bồ tát nghĩa? Thế nào là Bồ tát trí?"
Văn Thù Sư Lợi đáp rằng: “Thiện nam tử, “nghĩa” là vô dụng. “Trí” là hữu dụng. Tại sao lại gọi “nghĩa” là vô dụng? “Nghĩa” là vô vi. Là vô vi pháp, nên đối với pháp, vô dụng phi dụng".
“Lại nữa, “nghĩa”, chẳng phải là nhiễm tướng, chẳng phải ly tướng, “nghĩa” đối với pháp, vô dụng phi dụng".
“Lại nữa, “nghĩa” là không tăng, không giảm, nên đối với pháp nó là vô dụng phi dụng".
“Thiên tử, sao gọi là “trí”? Trí là nhẫn đạo (20), sở dụng của tâm, chẳng phải vô dụng, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Công năng của Trí quy về nơi “đoạn”, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Trí biết năm Ấm (21), biết mười hai Nhập (22), biết mười tám Giới (23), mười hai Nhân duyên (24), là xứ phi xứ, vì vậy, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng."
“Lại nữa, Thiên tử, các vị Bồ tát chứng được mười trí. Một là, nhân trí. Hai là, quả trí. Ba là, nghĩa trí. Bốn là, phương tiện trí. Năm là, tuệ trí. Sáu là, nhiếp trí. Bảy là, ba la mật trí. Tám là, đại bi trí. Chín là, thành tựu chúng sinh trí. Mười là, bất trước nhất thiết pháp trí. (25)
“Lại nữa Thiên tử, các vị bồ tát chứng được mười phát. Những gì là mười? Một là, thân phát, vì muốn chúng sinh thân nghiệp thanh tịnh. Hai là khẩu phát, vì muốn chúng sinh khẩu nghiệp thanh tịnh. Ba là, ý phát, vì muốn chúng sinh ý nghiệp thanh tịnh. Bốn là, nội phát: hết thảy nội vật không còn tham trước. Năm là, ngoại phát, vì muốn chúng sinh trụ trong chính hạnh. Sáu là, trí phát: đầy đủ Phật trí. Bảy là, từ phát: nghĩ đến hết thảy công đức trang nghiêm. Tám là, chúng sinh thành thục trí phát, nghĩa là, giữ gìn phương thuốc trí tuệ. Chín là, hữu vi trí phát: đầy đủ các định. Mười là, vô vi trí phát: tâm không dính chặt vào trong ba cõi."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát chứng được mười hạnh. Những gì là mười?
Một là, ba la mật hạnh. Hai là, nhiếp-phục hạnh. Ba là, trí-tuệ hạnh. Bốn là, phương-tiện hạnh. Năm là, đại bi hạnh. Sáu là, cầu trợ tuệ pháp hạnh. Bảy là, cầu trợ trí pháp hạnh. Tám là, tâm thanh-tịnh hạnh. Chín là, quán chư đế hạnh (26). Mười là, nhất thiết sở thụ vô tham trước hạnh (tất cả cảm-thụ không có tham-trước)".
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười tư duy về lẽ cùng tận. Những gì là mười? Một là, tư duy về lẽ cùng tận của sự. Hai là, tư duy về lẽ cùng tận của ái. Ba là, tư duy về lẽ cùng tận của pháp. Bốn là, tư duy về lẽ cùng tận của các phiền não. Năm là, tư duy về lẽ cùng tận của sự thấy biết. Sáu là, tư duy về lẽ cùng tận của các cảm-thụ. Tám là, tư duy về lẽ cùng tận của sự không chấp. Chín là, tư duy về lẽ cùng tận của các kết sử (27). Mười là, tư duy về lẽ cùng tận của trợ đạo hạnh (28)".
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười pháp trị. Những gì là mười? Một là, mưa bố thí, trị tâm xan tham. Hai là, thanh tịnh ba pháp (29) trị tâm phá giới. Ba là, tu hạnh từ nhẫn, trị tâm giận tức. Bốn là, cần cầu Phật pháp không biết chán mỏi, trị tâm biếng nhác. Năm là, muốn được thiền định, giải thoát tự tại, trị tâm không khéo giác quán. Sáu là, muốn sinh trợ pháp quyết định bát nhã ba la mật đa, trị tâm ngu si. Bảy là, muốn sinh các pháp trợ đạo, điều trị các tâm phiền não. Tám là, muốn tu trợ pháp tứ đế (30), cần trị đạo tâm điên đảo. Chín là, muốn thời, phi thời, kinh hành tự tại, trị tâm chấp trước. Mười là, quán pháp vô ngã, để trị cái Ta."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười thiện địa. Những gì là mười? Một là, thân thiện: xa lìa ba ác nơi thân (31). Hai là, khẩu thiện: xa lìa bốn ác nơi miệng (32). Ba là, ý thiện: xa lìa ba ác nơi tâm (33). Bốn là, nội thiện: không chấp thân kiến (34). Năm là, ngoại thiện: không chấp các pháp. Sáu là, bất trước trợ trí thiện: không tham đắm vào các pháp trợ đạo. Bảy là, bất tự cao thiện: luôn luôn nghĩ về thể tính Thánh đạo. Tám là, trừ thân thiện: tu tập bát nhã ba la mật đa. Chín là, ly điên đảo thiện: không lừa chúng sinh. Mười là, không tiếc thân mệnh thiện: đem tâm đại bi hóa độ chúng sinh."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát quý sự thực hành theo đúng chính pháp, chứng được bồ đề, không phải không quý về sự thực hành theo đúng chính pháp. Làm theo chính pháp, là nói mà làm. Làm sai chính pháp, chỉ nói, không làm theo như lời nói".
"Lại nữa Thiên tử, vị Bồ tát có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, hành đạo. Hai là, hành đoạn. Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, thân tự tu thiện. Hai là, giáo hóa chúng sinh. Lại có hai tùy pháp hành.
Những gì là hai? Một là, hành trí hành (làm theo trí tuệ). Hai là, bất hành trí hành (không làm theo trí). Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, phân biệt các địa. Hai là, không có phân biệt các địa, phi địa (35). Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, biết các quả địa cùng sự chuyển tiến. Hai là, khéo biết đầy đủ địa này, địa kia. Lại có hai tùy pháp hành.
Những gì là hai? Một là, biết đạo Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật. Hai là, biết rõ Phật đạo, hành không thoái chuyển."
Bấy giờ đức Phật khen ngợi Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử rằng: "Hay thay, hay thay, ông luôn luôn vì các Đại bồ tát nói về căn-bản nghiệp-đạo.
Và, nghiệp-đạo ấy, đúng như ông nói". (Nguồn: Kinh Văn Thù Sư Lợi Thỉnh Vấn Bồ Đề)
+ Các loại biểu tượng:
1- Bốn loại biểu tượng
a) Biểu tượng của các vật bên ngoài ... các vật ở cõi trần.
b) Biểu tượng về bản chất tình cảm ... các sự vật ở cõi cảm dục, các tranh ảnh.
c) Biểu tượng học về số ............. Hạ trí. Con người dùng chính mình để tính.
d) Biểu tượng học hình học ... biểu tượng học trừu tượng, thượng trí. (LVLCK, 1140)
2- Bốn biểu tượng hình tròn: Hình tròn - Hình có tâm điểm - Hình chia hai - Hình chia bốn (Xem Tooltip)
3- Ý nghĩa các biểu tượng (Xem hình trang 296, LVLCK)
Trước tiên dấu • (dấu chấm), Chân Thần, Bythus (the Deep, Thái Uyên), là Đấng Cha bất tri và bất khả tri.
Rồi đến Δ (Tam Giác), Bythus và cặp (pair) được phóng phát đầu tiên hay Duad (Bộ Hai, Nhị nguyên), Nous (Mind, Trí Tuệ) và ngày sóc vọng Aletheia (Chân Lý) của nó.
Kế đó (Hình Vuông), Nhị nguyên kép (dual Duad), Tetractys hay Tứ Nguyên (Quarternary), hai người nam | |, Thượng Đế (Ngôi Lời) và Anthropos (Con Người), hai người nữ, các ngày sóc vọng (syzygies) của họ, Zoe (Sự Sống) và Ekklesia (Giáo Hội hay Tập Hợp), Bảy trong vạn vật. Tam giác là Tiềm Năng của Tinh Thần, Hình Vuông là Tiềm Năng của Vật Chất; Đường Thẳng Đứng là Uy Lực của Tinh Thần, còn Đường Thẳng Nằm Ngang là Uy Lực của Vật Chất.
Kế đến là Pentagram (Ngôi Sao Năm Cánh) , Bộ Năm, biểu tượng huyền bí của các Trí Tinh Quân (Manasaputras) hay là các Con của Minh Triết, hợp cùng các ngày sóc vọng của chúng tạo thành 10, hay là Bộ Mười (Decad);
và cuối cùng, Hexalpha hay hai Tam Giác đan vào nhau , Bộ Sáu, với các ngày sóc vọng của chúng tạo thành 12, hay Bộ Mười Hai.
Đó là các Nội Dung của Pleroma hay Sự Hoàn Thành, các Ý Niệm trong Thiên Trí, 28 trong vạn vật, vì Bythus hay Cha không được kể đến, vì đó là Cội Nguồn của vạn vật.
Hai vòng tròn nhỏ bên trong Pleroma là ngày sóc vọng Christos-Pneuma (Christ và Chúa Thánh Thần); đây là các sự phóng phát sau đó (after-emanations), và, vì thế, từ một trạng thái, tiêu biểu cho sự giáng xuống của Tinh Thần để thấm nhuần và làm Vật Chất tiến hoá, về mặt bản thể thì bắt đầu từ cùng một cội nguồn; và từ một trạng thái khác, sự giáng xuống hay sự nhập thể của các Kumaras hay là các Chân Ngã cao siêu (Higher Egos) của Nhân Loại. (Trích từ ‚ Lucifer‛ tháng 5 - 1890)
+ Xem thêm: Các biểu tượng cần suy ngẫm
+ Các biểu tượng cần suy ngẫm kỹ: Giờ đây mới rõ ràng là tại sao có nhiều chú trọng đến việc nghiên cứu các biểu tượng, và tại sao người ta khuyến khích các môn sinh hãy suy gẫm và tham thiền về các thiên tượng thái dương hệ và vũ trụ. Điều đó chuẩn bị cho họ thấu hiểu và ghi nhớ trong tâm các biểu tượng và công thức thể hiện kiến thức mà rốt cuộc nhờ đó họ có thể làm việc. Các công thức này dựa trên chín biểu tượng được biết hiện nay:
1. Các dạng thập tự giá.
2. Hoa sen.
3. Tam giác.
4. Khối vuông.
5. Hình cầu và điểm.
6. Tám hình thể động vật: dê, bò mộng, voi, người, rồng, gấu, sư tử, và chó.
7. Đường thẳng.
8. Một số thiên tượng của Hoàng đạo, do đó cần phải nghiên cứu khoa chiêm tinh.
9. Cái ly có chân hay chén thánh.
Tất cả các biểu tượng này liên kết, xen lẫn nhau, hoặc dùng một phần, được phối hợp, để phát biểu một trong bảy Bí nhiệm. Điểm đạo đồ phải nhận ra chúng bằng thị giác cũng như thính giác, và dùng nỗ lực của ý chí để gắn ghi chúng trong trí nhớ không thể xoá nhoà. Có ba cách giúp y thực hiện điều này: Thứ nhất, bằng việc rèn luyện trước đó trong một thời gian dài; tất cả những người chí nguyện đều có thể bắt đầu làm việc ngay từ bước hiện tại, và khi học cách ghi khắc chính xác các chi tiết vào trí nhớ, họ đặt nền tảng cho sự lãnh hội chính xác được ngay những điều Đấng Điểm Đạo bày tỏ cho họ; thứ hai, nhờ đã tự phát triển năng lực hình dung lại những điều đã có lần họ thấy. Ở đây, chúng ta thấy rõ tại sao các vị thiền sư minh triết đã chú trọng vào khả năng kiến tạo thận trọng các hình tư tưởng.... (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại ...)
+ Biểu tượng: Là dấu hiệu (sign) thấy được và lộ ra bên ngoài của một thực tại tâm linh bên trong, được thể hiện trên cõi trần bằng mãnh lực của sự sống chứa đựng bên trong. (VMCQG, 119)
+ Biểu tượng: “Trong một biểu tượng có ẩn tàng sự che giấu hoặc sự mặc khải” – Carlyle.
1./ Các biểu tượng đều nhắm vào:
a) Người ít tiến hóa. Chúng dạy ra các đại chân lý dưới hình thức đơn giản.
b) Đa số nhân loại. Chúng giữ cho chân lý được nguyên vẹn và biểu hiện các sự kiện trong vũ trụ.
c) Các môn đồ của các Chân Sư. Chúng giúp mở mang trực giác.
2./ Các sách nói về biểu tượng trong các văn khố của Chân Sư được dùng cho việc giáo huấn. Các sách này được giải thích:
a) Bằng màu sắc của chúng.
b) Bằng vị trí của chúng, nghĩa là phía bên trên, nằm trên và bên dưới một đường thẳng.
c) Bằng sự tiếp cận của chúng với nhau.
d) Bằng chìa khóa của chúng
Một trang giấy có thể đọc được theo 4 cách:
1. Từ trên xuống dưới ... tiến hóa giáng hạ (involution)
2. Từ dưới lên trên ... tiến hóa thăng thượng (evolution)
3. Từ phải sang trái ... các chu kỳ lớn vv...
4. Từ trái sang phải ... các chu kỳ nhỏ.
♏ Ký Hiệu Hổ Cáp hay Bọ Cạp
+ Cự Giải - Bắc Giải/ Cancer: Hành Thủy (Xem); Dẫn truyền(Cung 3 - Cung 7) (Xem)
- Cự Giải, (Đáy bánh xe, gốc rễ sự tồn tại của chúng ta) tương ứng người Mẹ - Đối cực là Ma Kết (Đỉnh bánh xe, tầm cao, đỉnh núi thành đạt, nhìn thấy tất cả) tương ứng người Cha
- Buồn rầu, bảo vệ, cảm xúc, có ý thức về an ninh, nặng tình cảm; ;Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 4, có đặc tính tương ứng: Điều làm bạn cảm thấy thoải mái và tự nhiên
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Mặt Trăng; Cung 4 (CTHNM, 80);
(Thủy tinh và Mặt trăng dẫn Cung 4) - Khẩu hiệu: Hãy để sự cô lập thống trị và tuy vậy đám đông vẫn tồn tại. + Nội Môn: - Chủ tinh: Hải Vương Tinh (Cung 6) (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi xây một ngôi nhà được thắp sáng và ngụ trong đó.
+ Cancer: Trong cung này có ẩn giấu toàn bộ về Luật Luân Hồi. Sự luân hồi được bao hàm trong vũ trụ biểu lộ và là chủ đề cơ bản nằm dưới sự đập nhịp (pulsation) của thái dương hệ. (Chân Sư DK -CTHNM, 353)
+ Ba cung mà (theo quan điểm của tâm thức) có liên quan chặt chẽ nhưng lại tách biệt và khác nhau nhiều về hiệu quả(CTHNM, 352).
1. Cancer ‒ Ý thức quần chúng‒ hiểu biết theo bản năng.
2. Leo ‒ Ý thức tự tri ‒ hiểu biết do sáng suốt.
3. Aquarius‒ Ý thức tập thể ‒ hiểu biết do trực giác.
III- XEM CHIÊM TINH QUA LÁ SỐ SINH:
+ Xem Nội môn hay Ngoại môn đều dùng chung 01 Lá số chiêm tinh, nhưng cách giải thích khác nhau (Nguồn)
+ Trong lá số chiêm tinh, cần nhớ rằng hiện giờ tháng và cung hoàng đạo không trùng hợp nhau chút nào. VD: Mặt trời thực ra không ở trong Hải Sư (Leo) trong tháng 8. (Thuật ngữ bác Khá)
+ Các Cung đặc biệt quan trọng trong lá số chiêm tinh: Cung Mặt Trời/ Thái dương - Cung mặt trăng - Cung Mọc (Cung mệnh theo CTHNM). (17 độ Bạch Dương. Cũng là đường giáp cung thứ nhất; Các cung: 12 phần lá số; Số của cung ở trong vòng bên trong. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Lá số Chiêm Tinh lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì tùy theo mức tiến hóa của mỗi người mà có phương pháp tương ứng: (i) - Theo Công truyền/ Ngoại môn; (ii) Theo Bí truyền hay Nội môn. Cụ thể:
I- Xem thông thường/ Ngoại môn/ Công truyền:
1. Xem Vận mệnh của phàm nhân kém tiến hóa hoặc chỉ phát triển ở mức trung bình thì thường lá số ấy đoán đúng đến mức gây kinh ngạc. Tuy nhiên, với người tiến hóa cao, người chí nguyện, đệ tử và điểm đạo đồ là người bắt đầu chế ngự các ngôi sao chiếu mệnh và do thế mà kiểm soát được các hành động của mình, dự đoán họ sẽ kém/ Không chính xác (Thư Chân Sư DK);
2. Hai cách xem: Phương pháp là Lá số hành tinh quá cảnh và Lá số tiến trình và một số kỹ thuật mới. Nguồn: Chiêm THNM 6
3. Xem hành tinh tương ứng với lực tác động lên chủ thể, các Cung Hoàng đạo tương ứng với cách thức các lực đó tác động, và Nhà, nơi các lực đó tác động vào. 3 nhóm Cung Hoàng Đạo gồm: Cung Chính, Cung Cố định, và Cung Khả biến; Các Nhà: Các Nhà Góc, Nhà Kế và Cadent. Xem mục 12 nhà
4. Điều khôn ngoan là luôn xem Cung đối nghịch hoặc cung hoàn tất (CTHNM, 384)
5. Liên hệ hỗ tương giữa 12 cung hoàng đạo với 12 hành tinh (CTHNM, 64): 12 Hành tinh đang chi phối 12 cung, ảnh hưởng mạnh mẽ phàm ngã, cộng với nghiệp quả.
- 12 chòm sao kích thích linh hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong và biểu hiện bên ngoài:
a. Cung thái dương chi phối con người dần đáp ứng với linh hồn, còn gọi là “thế mạnh của Mặt Trời Khả Hữu”
b. Giai đoạn phát triển theo cung mệnh, thúc đẩy tiến hóa và khai mở sự sống nội tâm, gọi là “Mặt Trời của Triển Vọng”
+ Khi tôi đọc một lá số, với mỗi Cung Mặt Trăng, Mặt Trời, cung Mọc, tôi sẽ dùng kỳ công của Hercules cho từng cung để có chút thông tin về người đó. Ví dụ như cung Mọc Hổ Cáp, liên hệ với kỳ công của Hercules ở Hổ Cáp để hiểu được điều gì tôi cần vượt qua và thực hiện. Tôi sử dụng châm ngôn của phàm ngã cho cung Mặt Trăng và Mặt Trời; dùng linh từ cho cung Mặt Trời và cung Mọc. Những linh từ này là những hướng dẫn được đưa đến bởi Đấng Thái Dương Thiên Thần của chúng ta khi chúng ta tái sinh lại vào kiếp sống trong mỗi cung. Chúng thiết lập khuynh hướng cho đời sống phàm ngã, và những chiều cao mà con người bên trong, hay linh hồn, có thể khao khát đạt đến. Xem nguồn: Các chỉ dẫn trên trong Chiêm tinh học nội môn 10
II- Xem Chiêm tinh học bí truyền/ Nội môn:
Là xem để định hướng con người cho mỗi kiếp sống theo sự định hướng của Linh hồn. Phương pháp này chỉ áp dụng với những người có Tâm thức tiến hóa ở trình độ nhất định, tức thể hạ trí đã phát triển, cuộc sống đã có định hướng đến các mục tiêu Linh hồn (Phụng sự nhân loại), tức họ chọn cuộc sống phụng sự vô kỷ - Luôn sẵn sàng vì người khác, vì tập thể và cả nhân loại, rộng hơn là với hết thảy chúng sinh, thay vì chọn cuộc sống vị kỷ - Nặng về chính mình và gia đình, dòng tộc hay đơn vị nhỏ của mình của đa số nhân loại hiện nay;
+ Tháng sinh cho biết ngày cơ hội. Cánh cửa rộng mở. Tháng đặc biệt mà một Linh hồn đi vào luân hồi được biểu thị cho linh hồn đó tháng mà linh hồn đã thoát ra vòng luân hồi trong một chu kỳ sống trước đây. Thí dụ, nếu linh hồn đã qua đời trong tháng được chi phối bởi cung Leo, nó sẽ tái sinh trong cùng cung đó, tiếp tục lại sợi dây kinh nghiệm mà nó để lại, và bắt đầu với cùng một loại năng lượng và với sự trang bị đặc biệt, mà cùng với những thứ đó linh hồn đã ra khỏi kiếp sống trần gian, cộng với sự thành tựu về tư tưởng và thái độ bàng quan hữu thức. Tính chất của năng lượng và bản chất của các mãnh lực cần được vận dụng trong kiếp sống được chỉ ra cho linh hồn theo cách này. (Xem Chiêm TH nội môn 7).
+ Tái sanh cõi nào: Trong nhà Phật, người mạng chung tái sanh cõi nào hoàn toàn do nghiệp báo chi phối. Một niệm cuối cùng, của hơi thở cuối cùng Tâm khởi vọng tưởng Thiện hay Ác rất quan trọng, vì nó có thể giúp người đó tái sanh cõi lành hoặc sanh về cõi dữ - Không thể không chú ý ghi nhớ kỹ. Sau đây là ví dụ:
* Cấp Cô Độc Tái Sanh: .... Đệ tử đức Phật thăm hỏi và hướng dẫn phương pháp tu tập cho Cấp Cô Độc xong, Xá-lợi-phất và A-nan trở về tinh xá. Không lâu sau, Cấp Cô Độc thân hoại mạng chung, ra đi một cách an nhiên. Sau khi nhắm mắt, ông sinh về cõi trời Đâu-suất. Vừa hóa sinh, ông liền xuống lại vườn Kỳ-đà, nơi đức Phật đang trú ngụ. Bây giờ, ông là một thiên tử với dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực. Khi ông xuất hiện, dù trời còn tối, cả khu vườn Kỳ-đà sáng lên rạng rỡ. Ông đến đảnh lễ đức Phật, đọc một bài kệ tán thán Ngài, rồi biến mất.
Sáng hôm sau, đức Phật nói với đại chúng Tỳ-kheo rằng, hồi đêm có một vị thiên tử dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực cả khu vườn đến thăm Ta. Lúc đó, A-nan hỏi đức Phật: Bạch đức Thế Tôn, vị thiên tử đó có phải là Cấp Cô Độc không?
Đức Phật nói: Đúng, vị thiên tử đó chính là Cấp Cô Độc.[3] (Nguồn: Chi tiết cư sỹ Cấp Cô Độc)
* Khi giảng kinh Phật, Thánh hiền thường nói ví dụ về nhiều người tu "Niệm Phật vãng sanh: Đứng vãng sanh, Ngồi vãng sanh, Nằm vãng sanh ... chết rất tự tại an nhiên, thân thể mềm mại. Đây đều là tu thiện được quả báo thiện. Tất nhiên sống ác, hội tập nhiều nghiệp bất thiện thì sẽ bị đọa lạc ba cõi ác Địa ngục - Ngạ quỷ - Súc sanh khổ đau triền miên, không biết bao giờ mới có lại được thân người lần nữa. Rất nên tự cảnh tỉnh mình, vì thường thì với người không tu giữ ngũ giới rễ sau nhiều ngàn năm, mỗi người mới có thể được tái sanh làm người lần nữa, chưa kể sinh ra bệnh, nạn, chân tay, ngũ quan thiếu hụt, chết yểu mạng ... do ác nghiệp mình đã gây tạo quá nhiều.
+ Xem thêm: Chết và Tái sinh (Nói về việc Tu thập thiện nghiệp với nhân quả của việc chết và tái sanh. Việc tái sanh phụ thuộc rất lớn vào Nghiệp chướng và Tâm thức con người tại thời điểm lúc chết rất quan trọng)
Kinh tiểu nghiệp phân biệt:
289. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sãvatthi (Xá-vệ)? Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anãthapindika (Cấp Cô Độc). Rồi thanh niên Subha Todeyyaputta đi đến Thế Tôn? sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên? thanh niên Subha Todeyyaputta bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gi, do duyên gì, giữa loài người với nhau khi họ là loài người, lại thấy có người liệt, có người ưu?........
297. Ở dây, này thanh niên, con đường đưa đến đoản thọ, dẫn đến đoản thọ; con đường đưa đến trường thọ, dẫn đến trường thọ; con đường đưa đến nhiều bệnh, dẫn đến nhiều bệnh; con đường đưa đến ít bệnh, dẫn đến ít bệnh; con đường đưa đến xấu sắc, dẫn đến xấu sắc; con đường đưa đến đẹp sắc, dẫn đến đẹp sắc; con đường đưa đên Quyền thế nhỏ, dân đên quyên thê nhỏ; con đường đưa đên quyền thê lớn, dẫn đên quyên thê lớn; con đường đưa đên tài sản nhỏ? dẫn đến tài sản nhỏ; con đường đưa đến tài sản lớn, dẫn đến tài sản lớn; con đường đưa đến gia đình hạ liệt, dẫn đến gia đình hạ liệt; con đường đưa đến gia đình cao quý, dẫn đến gia đình cao quý; con đường đưa đến trí tuệ yếu kém dẫn đến trí tuệ yếu kém; con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ, dẫn đến trí tuệ đầy đủ.
Này thanh niên các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng? nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Subha Todeyyaputta nói với Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thaỵ! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuông, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy? [Chánh] pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, guy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đên mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. (Mời xem bản đầy đủ: Kinh tiểu nghiệp phân biệt)
+ NHƯ LAI TẠNG - Các đại không ngăn ngại nhau
+ b/ 2- Ngài Phú Lâu Na Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các thứ: 5 ấm, 12 xứ, 18 giới và 7 đại trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện xuất phát từ tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Tạng, vậy thì tại sao Như Lai Tạng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế?
Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng đã từng nói : Địa, thủy, hỏa, phong 4 đại bản tánh viên dung, khắp cùng khắp giới, vắng lặng thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung được thủy đại? Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đại có điều kiện phát sinh? Làm sao có thể hiểu biết được rằng: Thủy đại và hỏa đại đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau? Bạch Thế Tôn! Tánh địa đại thì ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp giới? Con không biết nghĩa ấy là thế nào. Xin Phật rủ lòng từ, vén mây mê lầm cho con và đại chúng. Có 2 câu hỏi ở đây:
1) Tại sao trong Như Lai Tạng tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng dưng lại chuyển biến sinh ra những hiện tượng hữu vi như như núi, sông, đất, liền…?
2) Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức thì trong 7 đại này tánh chất có đối kháng nhau. Thí dụ nước kỵ lửa kỵ, gió kỵ đất… Nếu thế, tại sao chúng có thể dung hợp được với nhau trong Như Lai Tạng mà không tương tàn, tương diệt? Phật dạy rằng:
- ”Tánh sắc chơn không” nghĩa là Tánh của sắc là không mà hư không thì bao trùm bao la vô cùng vô tận.
- ”Tánh không chơn sắc” nghĩa là trong hư không đã có đủ tất cả tánh chất của sắc hay nói chung của địa, thủy, hỏa, phong…,
=> Nhưng từ cái thể tánh thanh tịnh của hư không khi hội tụ đủ nhân duyên sẽ biến hiện thành ra sắc.
- Tuy thủy đại đầy khắp hư không pháp giới tức là nơi nào trong không gian vô tận cũng đều chứa nước mà nước đâu có dập tắt lửa (hỏa đại) và nước cũng không làm ngập chìm cả thế gian nên Phật nói rằng : ”Tánh thủy chơn không”. Trong hư không tức là pháp giới không đại, vốn không phải nước (thủy đại) vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại. Do đó Phật mới dạy rằng : ”Tánh không chơn thủy”.
- Hỏa đại cũng thế, lửa thì đầy khắp hư không mà không làm cháy nhà cửa, xe cộ, núi rừng hay vạn hữu thế gian. Vì vậy Phật mới nói : ”Tánh hỏa chơn không”. Trong hư không vốn không có lửa, nhưng khi chúng sinh cần thì lửa sẽ có trong hư không, cho nên Phật dạy rằng : ”Tánh không chơn hỏa”.
=> Nói tóm lại, tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến).
=> Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sinh, nhưng vì do vọng niệm từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần dần biến thành căn nguyên sinh ra chúng sinh. Do vậy vọng minh chính là vô minh và cũng từ cái vô minh này mà dần theo thời gian hình thành sở tướng của tứ đại và hấp thụ tứ đại để làm thân. Vọng tưởng sai lầm đã biến con người thành “vọng năng” và dĩ nhiên chấp nhận có “sở năng” bên ngoài. Một khi chấp có “năng sở” nghĩa là chấp có chủ thể và đối tượng tức là chấp có sự đối đãi phân biệt. Năng minh là lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở bên trong của con người và sở minh chính là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là ngoại trần. Vì thế tuy thế giới vạn pháp có bao la vô cùng vô tận, nhưng cũng không ra ngoài căn, trần cả.
+ NHƯ LAI TẠNG: Trích HT Tuyên Hóa giảng:
Trước đây mỗi khi quý vị học kinh, hằng ngày quý vị đều sống cùng với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình, nhưng trong mọi thời quý vị đều không biết được những cái ấy từ đâu đến. Ai thử đoán tại sao lại có quá nhiều thứ như thế trong Như Lai tạng?
Như Lai tạng lớn đến chừng nào để có thể chứa được chừng ấy thứ?
Như Lai tạng lớn hơn tất cả mọi thứ, thế nên mới chứa được mọi vật. Nếu nó không lớn hơn tất cả mọi thứ thì nó không thể nào chứa được nhiều đến vậy.
Nó để nhiều thứ như vậy ở đâu?
Hãy phân chia Như Lai tạng ra nhiều ngăn. Quý vị có nhãn nhập, người khác cũng có nhãn nhập; quý vị có nhĩ nhập, người khác cũng có nhĩ nhập; quý vị có tị nhập, người khác cũng có tị nhập; quý vị có thiệt nhập, người khác cũng có thiệt nhập. Nếu tất cả đều trộn lẫn với nhau, thì đến khi cần dùng nó, làm sao quý vị sử dụng nó được? Nếu đơn giản nó gom lại thành một khối, nhưng được phân chia đều nhau để chỗ thu nạp (nhập) của riêng mỗi người đều ở trong một vị trí riêng, thế cần phải có rất nhiều chỗ. Nên nó phải là một khoảng không gian rất lớn. Đó là lí do tại sao tôi nói Như Lai tạng lớn hơn tất cả mọi thứ nên mới chứa trọn được cả mọi vật. Chẳng có thứ gì mà không chứa được trong đó. Bây giờ chúng ta đang ở đâu? Chúng ta đều đang ở trong Như Lai tạng.
Quý vị liền nói: “Tôi chẳng hiểu Như Lai tạng giống như cái gì cả.”
Hằng ngày quý vị đều thấy Như Lai tạng. Nhưng quý vị không nhận ra. Trong mọi động dụng hằng ngày quý vị đều ở trong Như Lai tạng. Những gì mắt quý vị thấy, những gì tai nghe mọi cái hoàn toàn đều ở trong Như Lai tạng. Quý vị vẫn chưa hình dung Như Lai tạng giống như thế nào.... Giảng:
Rốt ráo đạo lý nầy muốn chỉ bày điều gì? Chỉ ra rằng tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng vốn không sinh không diệt. Nó bao trùm mọi nơi, có trong mọi vật. Nó không như một con người, khi ở một nơi nào đó thì gọi là có mặt, và khi ông ta rời khỏi chỗ đó rồi thì gọi là không hiện hữu ở đó nữa. Đúng hơn, tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng là không sinh không diệt. Điều ấy chỉ ra rằng căn tánh vốn là chân thật và vọng tưởng là hư vọng, không thật.
... Đạo lý đang được giảng giải (Tứ Đại) sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới.
+ Chân Như Tự Tánh: Trong phần giảng về Tứ Đại trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 3: Phật dậy A-nan, như nước thành băng, băng tan thành nước.
Giảng:
A-nan, ông nên biết rằng chân như tự tánh tuỳ duyên nhưng bất biến, bất biến nhưng tuỳ duyên. Điều ấy được giải thích như thế nào? Chân như tự tánh cũng chính là tánh Như Lai tạng, cũng là Thật tướng, và cũng là chân tâm, như nước thành băng, băng tan thành nước....
Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
Giảng:
"Ông vốn không biết, A-nan, trong Như Lai tạng – Như Lai tạng là Chân tâm, là Thật tướng. Ông không biết rằng nếu ông cứu xét kỹ cho đến tận nguồn cội hư không và lân hư trần, ông sẽ thấy rằng mình không thể nào biết được nó cả. Mà đạo lý ấy lại được tìm thấy trong Như Lai tạng: tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Ở điểm rốt ráo, sắc tướng chính là chơn không; và tánh không cũng chính là chơn sắc. Nó vốn không nhiễm ô, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm. Cơ bản là bất biến. Tự tánh của nó vốn là thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, chẳng có gì làm cho nó tăng thêm, cũng chẳng bớt đi chút nào.
"Tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Đây là một hoạt dụng vi diệu "tuỳ theo mức độ hiểu biết từ TÂM chúng sinh." Nó đáp ứng tuỳ theo mọi năng lực NHẬN THỨC từ TÂM chúng sinh: mức độ của sự nhiệm mầu sẽ hiển bày tương ứng với năng lực nhận thức của mỗi chúng sinh.
Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Lúc bấy giờ A-nan và cả đại chúng, được sự khai thị nhiệm mầu của Đức Phật, khiến thân tâm vắng lặng, chẳng còn ngăn ngại. Trong đại chúng, mọi người đều tự nhận ra tâm mình trùm khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem một lá cây hay đồ vật trong bàn tay.
Giảng:
Cái gì chứa đựng cả chân thật và hư vọng? Chính là chân tâm chúng ta, Chân tâm chúng ta bao hàm cả cái chân thật và hư vọng và không có xứ sở. Nó ở cùng khắp hư không và bao trùm cả pháp giới. Thế thì nó ở đâu? Nó chẳng ở đó mà cũng chẳng phải không có ở đó. Vậy nên tâm bao hàm trong vạn pháp, vạn pháp chỉ là tâm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” - LÀ KHÔNG TẤT CẢ - Đức Phật dậy
- Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.
NHƯ LAI TẠNG LÀ “TỨC” - LÀ BẤT KHÔNG TẤT CẢ
Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh cho đến là lão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.
Phật bảo: Do vậy (Như Lai Tạng) nó là cả hai pháp thế gian và xuất thế gian, Tức là Như Lai tạng diệu minh tâm nguyên. (là chân tâm vắng lặng mà vẫn thường chiếu soi - HTTH).
Rời các nghĩa “tức,” “phi,” mà cũng là nghĩa “tức,” và chẳng phải nghĩa “tức.”
Phật bảo: Làm sao chúng sinh trong ba cõi thế gian, cùng với hàng Thanh văn Duyên giác xuất thế gian, đem tâm sở tri mà suy lường Vô thượng bồ-đề của Như Lai, dùng ngôn ngữ thế gian để nhập vào tri kiến Phật?
Ông và chúng sinh cũng đều như vậy. Chân tâm giác ngộ quý báu đều đầy đủ trong mỗi người. Nhưng khi Như Lai ấn ngón tay thì hải ấn phát ra hào quang, còn các ông chỉ tạm móng khởi tâm, thì trần lao liền nổi dậy.
Do vì không siêng năng cầu đạo giác ngộ vô thượng. Chỉ thích nghĩ đến Tiểu thừa, được một ít liền cho là đủ.
Phú-lâu-na bạch, “Chân tâm quý báu, thanh tịnh vi diệu, giác ngộ sáng suốt của con cùng với Như Lai vốn là viên mãn không hai. Nhưng xưa con mắc phải vọng tưởng từ vô thủy, nên phải ở lâu trong luân hồi. Nay được thánh thừa, còn chưa được chỗ cứu cánh. Như Thế tôn, hết thảy các vọng đều dứt trừ, chỉ có diệu dụng của tính chân. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q4 - Chương II)
+ Thanh tịnh Pháp Thân Phật: Nếu quý vị có trí thì giống như có thái dương/ Ngoài, có huệ giống như trăng sáng/ Trong tâm. Trí Huệ bát nhã thường chiếu sáng trong ngoài thân tâm, trong ngoài đều sáng suốt giống như lưu ly, vạn pháp trong tự tánh vốn trong sáng. Quý vị nhận biết bổn tâm của mình, thấy được bổn tánh, thì cũng giống như trời xanh không mây ... chính là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Lục Tổ Đàn Kinh)
+ Xin mời quí vị đọc bài tổng hợp chuyên đề với thuật ngữ Thể Dụng vi diệu của Như Lai tạng và tánh Như lai tạng, bản giác ... : Mời xem tại đây
Đằng Xà thuộc Thổ, được gọi là kinh thần, chủ về kinh sợ, không chung thuỷ, không có chữ tín, chủ về việc hương hoả trong gia đình. Gặp Mộc là không vong, không cát lợi; Bị nhật thần xung, khó thoát được hung hại.
Câu Trần thuộc Thổ, được gọi là âm thần, chủ về điền sản, công trình, ngục tù, tính tình chất phác, chủ về gặp chuyện lạ vậy, rắc rối. Câu Trần khắc Huyền Vũ, nên hợp với việc truy bắt trộm cướp.
+ Thanh Long: Thuộc Mộc, được coi là cát thần, tính tình thuần hậu, nhân từ, bổ trợ cho Dụng thần vượng tướng, tiến tài tiến lộc. Thanh Long động chủ về có chuyện vui, nhưng nếu gặp hào xấu cũng khó tránh được hung hại.
Quả thật con người trải qua hằng bao nhiêu kiếp, đầu thai luân hồi cũng là trả nợ hay hưởng duyên kiếp trước. Nếu kiếp trước từng nợ nần ai, kiếp sau chắc chắn sẽ phải hoàn trả. Bất kỳ sự can thiệp nào đều là trái tự nhiên, và khoản nợ đó sẽ muôn phần nặng hơn. Từ đó mà suy ra rằng, nếu gặp bất cứ ai xử tệ với ta, đừng vội giận dữ và tính chuyện trả đũa họ, bởi biết đâu chúng ta đang hoàn trả nợ kiếp trước, và nếu không chịu hoàn trả, có thể khoản nợ đó sẽ còn nặng nề gấp bội về sau này.
Phụ mẫu: Quả thật con người trải qua hằng bao nhiêu kiếp, đầu thai luân hồi cũng là trả nợ hay hưởng duyên kiếp trước. Nếu kiếp trước từng nợ nần ai, kiếp sau chắc chắn sẽ phải hoàn trả. Bất kỳ sự can thiệp nào đều là trái tự nhiên, và khoản nợ đó sẽ muôn phần nặng hơn. Từ đó mà suy ra rằng, nếu gặp bất cứ ai xử tệ với ta, đừng vội giận dữ và tính chuyện trả đũa họ, bởi biết đâu chúng ta đang hoàn trả nợ kiếp trước, và nếu không chịu hoàn trả, có thể khoản nợ đó sẽ còn nặng nề gấp bội về sau này.
Quả thật con người trải qua hằng bao nhiêu kiếp, đầu thai luân hồi cũng là trả nợ hay hưởng duyên kiếp trước. Nếu kiếp trước từng nợ nần ai, kiếp sau chắc chắn sẽ phải hoàn trả. Bất kỳ sự can thiệp nào đều là trái tự nhiên, và khoản nợ đó sẽ muôn phần nặng hơn. Từ đó mà suy ra rằng, nếu gặp bất cứ ai xử tệ với ta, đừng vội giận dữ và tính chuyện trả đũa họ, bởi biết đâu chúng ta đang hoàn trả nợ kiếp trước, và nếu không chịu hoàn trả, có thể khoản nợ đó sẽ còn nặng nề gấp bội về sau này.
+ Thê Tài: Tên gọi thuộc môn Dự đoán số mệnh theo Tứ trụ. Chủ về tiền tài. Nam giới còn chủ về Vợ
I. Tìm Dụng thần tứ trụ/ Bát Tự: Là ngũ hành làm cân bằng mệnh Tứ trụ. Nó rất quan trọng trong số mệnh của con người.
Dụng thần là yếu tố quan trọng nhất trong lá số, ví như bệnh nặng có thuốc đặc trị vậy. Biết được Dụng thần và ứng dụng trong đời sống tu hành sửa mệnh rất tốt, là vì biết được điểm mạnh, năng khiếu của mình cũng như điểm yếu cần khắc phục, đặc biệt là Tâm tính, nhân cách, cách suy nghĩ và hành động cực kỳ quan trọng trong việc cải mệnh. Như người xưa nói "Dụng nhân như dụng mộc".
Dụng thần có nhiều đẳng cấp:
1- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy.
2- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại khống chế khí xấu vượng trong mệnh.
3- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại giúp cân bằng âm dương trong Mệnh
4- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại giúp cân bằng âm dương trong Mệnh và thêm cân bằng nóng lạnh trong Mệnh
Tóm lại: Dụng thần đơn năng và dụng thần đa năng, giúp Mệnh lưu thông, hòa hợp âm dương, điều hòa nóng lạnh quá mức, có tình nghĩa là đẳng cấp cao nhất, cũng là Mệnh phú quý phát phúc nhất.
II. Ứng dụng Dụng thần vào đời sống
a/ Dụng thần là Mộc: Cũng cần xác định rõ (Âm dương hay Giáp/ Ất/ Dần/ Mão) để ứng dụng trong đời sống
b/ Dụng thần là Hỏa: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Bính/ Đinh/ Tị/ Ngọ) để ứng dụng trong đời sống
c/ Dụng thần là Thổ: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Mậu/ Kỷ/ Thìn/ Tuất/ Sửu/ Mùi) để ứng dụng trong đời sống
d/ Dụng thần là Kim: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Canh/ Tân/ Thân/ Dậu) để ứng dụng trong đời sống
e/ Dụng thần là Thủy: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Nhâm/ Quí/ Hợi/ Tý) để ứng dụng trong đời sống
III- Dụng thần với Phong thủy nhà ở và văn phòng:
Ứng dụng Dụng thần giúp phát huy năng lượng dụng thần thuộc Nhân Mệnh mỗi người, đạt được âm dương/ Trong ngoài có khí chất hòa hợp, tương sinh thì còn gì bằng.
+ Linh Hồn con người có Ba Chân Lý trường tồn
1- Linh Hồn con người vốn bất tử và tương lai của nó phát triển huy hoàng không biên giới.
2- Nguyên lý sinh ra sự sống ở trong chúng ta và ở ngoài chúng ta, nguyên lý đó không bao giờ mất, đời đời ban phước, nó không sao thấy được, nghe được, cảm giác được, nhưng kẻ nào muốn nhận thức nó sẽ nhận thức được.
3- Mỗi người đều là người đặt luật lệ cho chính mình một cách tuyệt đối, vừa là người ban phước sự vinh quang hay sự tối tăm cho mình, vừa là người cầm vận mạng của mình, thưởng phạt cho mình. Ba chân lý này lớn lao như sự sống, cũng giản dị như một tâm hồn giản dị nhất, hãy dùng nó làm thức ăn cho kẻ đói. (Trích: Ánh Sáng Trên Đường Đạo)
+ Khoáng vật: The mineral, khoáng chất, kim thạch). Loài khoáng vật chết đi vào cuối mỗi chu kỳ sinh hóa (manvantaric cycle) hay là vào cuối một Cuộc Tuần Hoàn (Round) như thường gọi. (Thư của Chân Sư, 172)
+ Xem thêm: Các loại ngọc thạch tương ứng 7 Cung
+ Pháp sám hối: .... Sau khi nghe đức Phật giảng nói. Bấy giờ ma vương Ba Tuần tự thấy mình có lỗi nên lo rầu sợ sệt Đến lạy chưn Phật rồi Đứng qua một phía.
Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi : ‘’ Nầy Ba Tuần; Có chi mà ngươi lo rầu tiều tụy run sợ như người thất chí mà Đứng qua một phía vậy ? ‘’.
Ma vương Ba Tuần nói : ‘’Thưa Đại Sĩ; Tôi từ nơi Phật nghe nói những sự Đáng sợ như vậy nên tôi lo rầu sợ sẽ bị Đọa ác Đạo, ai sẽ cứu tôi. Ở trong pháp luật của Phật dạy tôi luôn luôn làm vô lượng sự trở ngại.Vì vậy mà tôi lo sợ lắm’’
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Nầy Ba Tuần; Trong Phật pháp có pháp xuất tội. Ông nên Đến chỗ Thế Tôn thành tâm sám hối các tội ác Đã làm chớ có làm lại nữa. Nếu ông có thể như vậy thì sẽ Được lợi ích tốt chẳng luống uổng ‘’.
Nghe lời khuyên ấy, Thiên ma Ba Tuần liền Đến chỗ Đức Phật năm vóc gieo xuống lạy chưn Đức Phật ngước nhìn Phật rơi nước mắt mà bạch rằng :’’Bạch Đức Thế Tôn; Nay tôi thành tâm sám hối từ xưa Đến nay ở trong pháp luật của Đức Phật dạy thường làm vô lượng sự trở ngại. Ngưỡng mong Đức Như Lai vì lòng từ bi thương xót thọ tôi sám hối ‘’.
Đức Phật nói : ‘’Lành thay, lành thay, nầy Ba Tuần; Ông có thể tự thấy các việc ác Đã làm, là thượng thiện thay người có thể ăn năn tội lỗi như vậy ở trong Phật pháp thì làm rộng lớn pháp tạng Như Lai. Chư Phật cũng thọ người ấy sám hối. Vì vậy nên từ nay ông chớ nên phạm nữa ‘’. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ "Sám hối hay Truy hối" là đem nghiệp chướng tiêu trừ hết, "Truy hối" là đem cái nghiệp chướng làm tăng thêm > phải giác ngộ!
- Sám hối: Pháp Sư Tịnh Không Khai Thị “Sám hối là không tái phạm nữa”, vậy mới hiệu quả": Trong Phật pháp, Vô lượng vô biên pháp môn, tóm lại đến cuối cùng là pháp môn sám hối. Niệm Phật là tốt nhất cho pháp môn sám hối > bạn vãng sanh đến Tây phương Cực Lạc thế giới Sám hối: Không che giấu tội lỗi của mình đó gọi là sám, hối là sau này không còn tạo nữa! Sám hối không là truy hối (nhớ lại mà hối hận);
- Nếu Truy hối - Nghĩ, nhắc lại việc cũ: Là tội cộng thêm tội, tại vì sao? Mỗi lần bạn nghĩ đến cái ác cũ, thì lại tạo một lần nghiệp tội, vậy thì làm sao được, đó không phải là sám hối. >>> Trước tượng Phật kể khổ: "Tôi tạo những nghiệp tội .. ..v..v.., xin Phật Bồ Tát tha thứ cho tôi". Bạn làm như vậy, là lại tạo thêm một lần nghiệp > đây là tội cộng thêm tội, nghiệp tội của bạn vĩnh viễn không tiêu trừ > phải thường nghĩ đến Phật Bồ Tát, khiến cho cái ấn tượng của nghiệp tội này từ từ nhạt mất, từ từ không còn, thì sẽ tiêu trừ hết. (Nguồn: Sám hối _ PS Tịnh Không)
+ Phát Lồ sám hối: Sám hối tuyệt đối không phải ở trước Phật Bồ-tát quỳ lạy cầu xin, cái đó không có lợi ích gì, không tiêu nổi tội nghiệp. Phật Đà ở trong kinh điển luôn luôn khuyên dạy chúng ta chân thật tu hành cải tà quy chánh. Phật ở trong kinh nói phải “phát lồ sám hối”. Phát lồ sám hối chính là nói rõ với đại chúng là “Tôi trước đây tất cả ngôn hạnh đều sai lầm, đã gây nên những sự bất hòa giữa anh em, giữa thân thuộc, giữa bạn bè, giữa đồng nghiệp của người khác, đây là lưỡng thiệt, xúi giục. Tôi bây giờ biết sai rồi, tôi nhất định nói rõ ràng cho hai bên biết, sự bất hòa của các bạn là tội lỗi do tôi tạo nên”. Cầu xin họ tha thứ, hy vọng họ hòa hảo như lúc ban đầu thì tội lỗi lưỡng thiệt của mình mới có thể sám trừ được.(Kinh TTNĐ_Tập 42_PS Tịnh Không)
+ 554. SÁM HỐI
- Đức Thế Tôn thuyết pháp này xong, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi viễn ly trần cấu, phát sanh pháp nhãn và các pháp. Bấy giờ, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi viễn thấy pháp, đắc pháp, chứng pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi hoặc, không còn ai hơn, không tùy thuộc ai nữa, không còn do dự, đã an trú vào quả chứng đắc; đối với pháp của Thế Tôn, chứng đắc vô úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật mà bạch rằng:
Bạch Thế Tôn, con ăn năn! Bạch Thiện Thệ, con ngay từ đầu như ngu, như si, như khờ dại, như không hiểu biết, không nhận ra Bậc Lương Điền mà không tự biết. Vì sao? Vì con đã gọi Như Lai –Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác– là Hiền giả. Mong Đức Thế Tôn cho con sám hối. Sau khi sám hối, con sẽ không còn tái phạm nữa.
Đức Thế Tôn đáp: Này Tỳ-kheo, ngươi quả thực ngu si, quả thực là khờ dại, không hiểu biết nên đã gọi Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, là Hiền giả. Này Tỳ-kheo, nếu ngươi tự sám hối, đã thấy và phát lồ, gìn giữ không tái phạm nữa, như thế, này Tỳ-kheo, đối với pháp luật của bậc Thánh như vậy là tăng ích chứ không tổn hại, vì đã tự sám hối, đã tự thấy và phát lồ, gìn giữ không tái phạm nữa. Nguồn: mục 554- (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Lục Giới, Phẩm 13, số 162)
+ Sám Hối Trừ Nghiệp: Ngài A Nan hỏi Đức Phật: Tì-kheo phạm tội Tăng tàn đã tỏ bày sám hối, nhưng mới được năm, ba ngày, thì nơi ấy có nạn, chúng tăng phân tán, vậy tội ấy có được tiêu trừ không? Đáp: Phải cầu chúng tăng sám hối lại, đợi mãn bảy ngày thì tội mới trừ. (Trích: Kinh Ngũ Bách Vấn)
+ Sám hối nghiệp chướng:
Con từ vô thỉ, cho tới ngày nay,
Nguyền rủa Tam-bảo, làm Nhất-xiển-đề,
Chưởi Kinh Ðại-thừa, dứt học Bát-nhã,
Giết hại mẹ cha, làm Phật đổ máu,
Bẩn chốn chùa chiền, phá phạm hạnh người
Ðốt hủy chùa tháp, ăn cắp đồ Tăng,
Dấy đủ ý sai, nói không nhân quả
Gần bạn bè xấu, nghịch lại thầy lành...
Những tội lỗi kể trên là những điều mà mình không nên phạm, tuy rất dễ bị phạm. Nếu chẳng may mình đã phạm những lỗi đó thì phải làm sao? Quý-vị đừng lo sợ. Có câu rằng: "Di thiên đại tội, nhất sám tiện tiêu." Nghĩa là tội phạm tầy trời, sám hối sạch tiêu. Tội vốn không hình tướng. Nếu mình chân chính có tâm sám hối thì sợ gì không có hy vọng. Quý-vị đừng nên coi thường mình, đừng cam tâm để bị đọa lạc.(Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Sám Hồi Tiêu Trừ Nghiệp:
Câu Hỏi 113: Phật giáo bảo là: “Định nghiệp thì không thể chuyển đổi được,” vậy nếu đã tạo ác nghiệp rồi thì nhất định là phải thọ quả báo phải không?
Đáp: Tuy nói, không thể thay đổi được định nghiệp, nhưng nhờ vào lực tam muội gia trì của Phật và Bồ Tát thì tội nghiệp cũng có thể được tiêu trừ. Nhưng chúng ta cần phải đặt hết lòng tin, sanh tâm hết sức chân thành sám hối và phải thật dũng cảm để sửa đổi các tội lỗi. Cho nên nói:
“Lúc nóng giận mà có thể vui vẻ được, thì người chết sẽ sống trở lại.
Nếu cho lời nói đây là giả, thì nên biết chư Phật không nói dối bao giờ?”
Tội lỗi dù ngập trời, nhưng một khi chúng ta sám hối thì tội lỗi liền tan. Bất luận là tội nghiệp có nặng nề bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu chúng ta thật có thể phát đại Bồ-đề tâm cùng hết lòng tín ngưỡng Tam Bảo và thiện tri thức để tu công chuộc tội. Lúc tu hành tích tụ công đức một cách đầy đủ rồi thì tự nhiên chúng ta sẽ miễn trừ được hết các tai nạn, và bịnh đau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
CUNG |
NGỌC THẠCH |
KHOÁNG CHẤT |
1 2 3 4 5 6 7 |
Kim Cương (Diamond) Ngọc Lam (Sapphire) Ngọc Bích (Emerald) Vân Thạch (Jasper) Ngọc Vàng (Topaz) Ngọc Hồng Bảo (Ruby) Ngọc Tím (Amethyst) |
Thạch Anh Đá Turquoise Cẩm Thạch Đá Mã Não; Đá Xà Vằn Đá Citrine Đá Tourmaline Đá Vân Ban |
Trên đây là bản lược đồ chỉ loại Ngọc Thạch đứng đầu mỗi Cung, và những loại khoáng chất này cũng có hàm xúc một thứ mãnh lực giống như loại Ngọc Thạch đồng Cung, mặc dầu yếu hơn. Xem thêm ; Xem thêm tóm lược về bảy cung
+ Các Loại Kinh Chú hay Thần Chú:
+ Phật Giáo có trên 18 Thần chú:
Buổi sáng: (1) Lăng Nghiêm; (2) Ðại Bi Tâm; (3) Như Ý Bảo Luân Vương; (4) Tiêu Tai Cát Tường; (5) Công Ðức Bảo Sơn; (6) Chuẩn Ðề; (7) Dược Sư Quán Ðỉnh; (8) Quan Âm Linh Cảm; (9) Thất Phật Diệt Tội; (10) Chú Vãng sinh Tịnh độ; (11) Ðại Cát Tường Thiên Nữ; (12) Tâm kinh Bát Nhã;(13) Tán Phật; (14) Niệm Phật và Thánh chúng; (15) Tán lễ Bổn sư; (16) Hồi hướng; (17) Tam tự quy;
Buổi chiều:(18) Đại Bi Tâm và Tâm kinh Bát Nhã; (19) Kinh A Di Đà; (20) Vãng sanh Tịnh độ; (21)- Sám Hồng danh, bao gồm:
+ Tán dương chư Phật;
+ Quy y cả tánh và tướng Tam bảo;
+ Phát bồ đề tâm;
+ Đảnh lễ Tam bảo;
+ Lạy Phật;
+ Sám hối;
+ Phát lộ;
+ Hướng nguyện theo hạnh nguyện Phổ Hiền;
+ Hồi hướng;
- Văn thí thực,
- Niệm Phật,
- Tán Phật,
- Nguyện sinh Cực lạc,
- Tán lễ Bổn Tôn,
- Cảnh sách,
- Tự Quy y Tam bảo (Theo Phật Giáo Tây Tạng). Xem thêm: Các thần chú
+ Yoga thần chú (Mantra Yoga): Môn Yoga về âm thanh hay về linh từ sáng tạo.(ASCLH, 347)
+ Các Thần Chú khác cũng rất nhiệm mầu:
- Kính Bạch Thế Tôn ... hãy dùng Trì Cú Thần chú mà Phật kia sai chúng con đem đến đây,...
Xà lê ma ha, xà lê la ni, ưu khư mục khư, sa bà đề, ma ha sa bà đề.
Kẻ trai lành và người gái tín nào thọ hành Trì Cú Thần chú, thọ trì đọc tụng thì sẽ biết được túc mạng trong 07 đời. Trì Cú Thần chú 77 ức Đức Phật đã nói.
- Lại có Bồ Tát Di Lặc hết thảy tám mươi vị, bảo Hiền giả A Nan rằng: “Tôi cũng sẽ nói Trì Cú Thần chú:
A tri hòa tri, tra khư la la, lý my hỷ ly, my ly đề lô, lưu mi lặc.
Trì Cú Thần chú đọc tụng thọ trì sẽ biết được túc mạng trong 14 đời. Trì Cú Thần chú này là 84 ức chư Phật đã nói.
- Phật dạy A Nan: “Ta cũng sẽ nói Thần chú Trì Cú nghĩ thương chúng sanh ...:
A tri hòa tri, na tri cưu na tri, đề lê, sa la ba đề, a na ba đề, ba na đề, ba na ca hòa ni, ma ha ca hòa ni.
Nếu kẻ trai lành và người gái tín nào thọ trì đọc tụng Thần chú Trì Cú thì biết được túc mạng trong vô số kiếp. Trì Cú Thần chú này là vô số ức chư Phật đã nói.
Phật dạy A Nan: “Trì Cú Thần chú này khi đi đường hành đạo phải nên niệm tụng, hoặc đến chốn quan quyền, hoặc giữa đường bị giặc, hoặc bị trùng độc, hoặc trong nạn đao binh, hoặc người cùng phi nhơn, hoặc trong những hoạn nạn ấy phải nên niệm tụng là vì Thần chú Trì Cú, chú nơi cây khô khiến sanh cành lá hoa trái, huống nữa là người ấy chỉ trì gút Thần chú mà đeo, sẽ được lành trăm bệnh tiêu trừ, tự nhiên an ổn, diệt họa trừ hung. Nam Mô Phật khiến chú này đều được tùy nguyện.
+ Các loại thần chú theo Minh triết Chân sư: Những câu thần chú nắm giữ bí quyết của quyền năng (như các bạn biết và đã nêu trên) vốn có nhiều loại, và chính yếu thì có bốn loại:
a. Quan trọng nhất là các câu chú hộ thân.
b. Loại thần chú kêu gọi các tinh linh và các tiểu thần, và đưa họ vào tầm hấp dẫn của người kêu gọi.
c. Loại thần chú dùng để áp đặt ý chí của người kêu gọi vào các tinh linh và các thần bậc thấp.
d. Loại thần chú chấm dứt sự hấp dẫn (xin tạm gọi như vậy) và lại đưa các tinh linh và các thần này ra ngoài phạm vi từ lực của người kêu gọi họ......
Điều này khiến tôi phải đề cập đến một nhóm thần chú khác dùng để kết hợp với chính các thiên thần.... (Nguồn: Tham Thiền Huyền Môn)
+ Cấu tạo con người qua 7 nguyên khí: Trích Lời nói đầu: ..... Nhưng tôi rất vui mà nói rằng giáo huấn sau này chỉ cho thấy sự không đầy đủ trong quan niệm nguyên thủy của tôi về giáo lý bí truyền, chứ cho tới nay không có một sự sai lầm quan trọng nào. Thật vậy, tôi đã nhận được từ vị Chơn sư (mà tôi có được giáo huấn của mình lần đầu tiên) lời đoan chắc quyển sách như nó trình bày hiện nay là một phát biểu lành mạnh và đáng tin cậy về hệ thống Thiên nhiên theo như các điểm đạo đồ thuộc khoa huyền bí học hiểu được...... Chẳng hạn như tất cả những điều trong quyển sách này liên quan tới cuộc sống trên cõi Trung giới (tức Kama Loka) đã hoàn toàn lạc hậu. Tác phẩm sau này của tôi “Sự tăng trưởng của Linh hồn” đã minh họa đề tài này đến một mức độ nào đó, cuốn “Bên kia Cửa Tử” đã khoác lên một lớp vỏ mới cho những tình huống rất biến thiên vốn thịnh hành nơi các cảnh giới mà cái lớp vỏ siêu hồng trần của Trái đất được phân chia ra thành ..... Bảy thể của con người được mô tả sớm nhất, sơ đẳng nhất, gồm:
1. Thể Xác: Rupa
2. Sinh Lực: Prana hoặc Jiva
3. Thể Phách: Linga Sharira
4. Hồn Thú: Kama Rupa
5. Hồn Người: Manas
6. Hồn Thiêng: Buddhi
7. Tinh Thần: Atma
Xem thêm: Bảy nguyên khí con người (GQ-MF)
Theo: Theo Sách: Phật Giao Bí Truyền (Mục: 2- Cấu tạo con người)
+ Kiến thức tổng hợp về dẫn truyền năng lượng bảy cung:
a/ Cung Hoàng đạo dẫn truyền Cung năng lượng: Năng lượng do Cung Hoàng đạo dẫn truyền năng lượng từ các chòm sao xa xăm chỉ chi phối những người có Linh hồn tiến hóa cao mà họ đã dần thoát khỏi 5 Hành tinh không thánh thiện. Đại khái đa số nhân loại hiện nay vẫn chưa có thể Phàm ngã hợp nhất, là điều kiện tiên quyết để năng lượng cao chi phối Phãm ngã qua Thể Linh hồn.
b/ Hành tinh dẫn truyền cung năng lượng - mầu sắc hành tinh:
+ 12 Hành tinh đang chi phối 12 Cung Hoàng đạo, có liên quan trước tiên đến biểu lộ ở cõi trần của con người, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã (CTHNM, 63)
+ Có 12 Hành tinh (7 H.Tinh thánh thiện và 5 không thánh thiện) có liên quan với sự sống bên ngoài, môi trường và các hoàn cảnh của cá nhân. Các mãnh lực biểu hiện trạng thái thiêng liêng thứ 3 - Ý muốn hiểu biết; (CTHNM, 38)
- 12 HT chi phối 12 Cung HĐ, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã con người, cộng với các tình trạng nghiệp quả kế thừa, tạo ra các trạng thái chung quanh và các hoàn cảnh sống và sau rốt việc kiểm soát khía cạnh hình tướng của sự sống (CTHNM, 63)
+ (i)- Bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh là cội nguồn xuất phát của 7 cung của thái dương hệ chúng ta. Mỗi một trong 7 năng lượng này được truyền vào Thái Dương hệ chúng ta qua 3 chòm sao (Hoàng Đạo) và các Hành tinh chi phối chúng. (Xem Bảng tổng hợp Minh triết mới)
- 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh Hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
+ Mỗi hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Hành tinh dẫn truyền:
- Cung 1, Vulcan và Diêm Vương tinh
- Cung 2, Mặt trời và Mộc tinh
- Cung 3, Trái đất và Thổ tinh
- Cung 4, Thủy tinh và Mặt trăng
- Cung 5, Kim Tinh
- Cung 6, Hỏa tinh và Hải Vương Tinh
- Cung 7, Thiên Vương Tinh
+ Thống kê và ý nghĩa Chiêm tinh học: Các quy luật và tạo lập Lá số Chiêm tinh; Định vị các Nhà; Vòng Hoàng Đạo và Mặt phẳng Hoàng đạo, đường Xích đạo Trời; Các Hành tinh có tính các Hành của nó mạnh hơn các hành cùng loại của các Cung Hoàng Đạo; Ý nghĩa các Cung Hoàng Đạo; Các Nhà; Các Góc hợp và Chủ tinh các Cung Hoàng Đạo; cũng như khái niệm về vượng, tướng, tù, tử; Cung chủ quản một Nhà; Mẫu sắc các hành; Tính điểm các hành; Các góc hợp Tam hợp, Lục hợp ....
+ Các Hành tinh chi phối Khả năng (CTHNM, 715):
- Thổ tinh“ Saturn – chi phối các khả năng mộ đạo.
- Thủy tinh Mercury – chi phối các khả năng trí tuệ.
- Mộc tinh Jupiter – điều hành các khả năng tình cảm.
- Mặt Trời – điều hành các khả năng cai trị.
- Hỏa tinh Mars – chi phối các khả năng ích kỷ.
- Kim tinh Venus – chi phối các khả năng kiên trì.
- Mặt Trăng – chi phối các bản năng”.(GLBN III, 463).
+ Mầu sắc - Mầu màn che ngoại môn (GLBN III, trang 455, Sơ đồ II)
Hành tinh Nguyên khí con người Màu sắc Ngày trong tuần
1. Mars ............ Kama-rupa ............... Đỏ ......... Thứ ba
2. Mặt Trời ..... Prana-Sự sống .......... Cam ....... Chúa nhật
3. Mercury ...... Buddhi ...................... Vàng ..... Thứ tư
4. Saturn ......... Kama-manas ............. Lục ........ Thứ bảy
5. Jupiter ......... Vỏ hào quang ........... Lam........ Thứ năm
6. Venus ......... Manas-Thượng trí ..... Chàm ..... Thứ sáu
7. Mặt Trăng .. Linga Sharira ............. Tím ........ Thứ hai
+ Các trường phái hành tinh: [Xem chi tiết: Tại đây]
1. Uranus (Thiên Vương Tinh) – 2. Địa Cầu - 3. Vulcan (Hỏa vương cầu) - 4. Jupiter (Mộc tinh) - 5. Mercury (Thủy Tinh) - 6. Venus (Kim Tinh) - 7. Mars (Hỏa Tinh) - 8. Neptune (Hải Vương Tinh);
+ Hành tinh đại diện bốn phương chính (Đông - Tây - Nam - Bắc): Chính xác nhất cho bán cầu nam là Thổ Tinh; Hỏa Tinh ở Bán cầu đông; Mặt trăng ở Bán cầu bắc; và Kim Tinh ở Bán cầu tây. Điều này là do thực tế rằng chúng cũng là những chủ tinh tự nhiên của bốn nhà góc (nhà 10, nhà 1, nhà 4 và nhà 7) tạo thành khung cơ bản cho các ngôi nhà khác của lá số chiêm tinh. Nguyên tắc tứ phân này là nguyên mẫu mà theo đó chúng ta đưa ra thực tiễn. Có bốn mùa, bốn hướng chính, bốn yếu tố, bốn mặt của một kim tự tháp, và bốn loại tâm lý.... (Nguồn: CTHNM 2)
+ Xem thêm các chi tiết: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Xem: Tổng hợp về mầu sắc
Ngũ hành trùng điệp, lại thông căn
Tiêu đề: "Dụng Thần Giáp mộc;
+ Ánh sáng Nhật Nguyệt - Mặt trăng và Mặt trời - Cái đèn chiếu sáng ngày đêm
Ma-ha Ca-diếp giải thích: Con từ kiếp trước, trong cõi nầy, có Đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng. Con được thân cận, nghe pháp tu học với ngài. Vào thời quá khứ lâu xa, có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng thị hiện trên đời. Mặt trời chiếu sáng vạn vật ban ngày. Mặt trăng chiếu sáng vạn vật ban đêm. Đèn có thể chiêú sáng cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày biểu tượng cho hiện hữu (cái có), và ban đêm biểu tượng cho cái không. Đó là cả hai mặt hiện tượng và bản thể, bản thể và hiện tượng. Đó cũng chẳng phải là hiện tượng và bản thể, và chẳng phải là hiện tượng, chẳng phải là bản thể. Nghĩa là chẳng vướng mắc vào có hoặc không.
Khi Phật diệt độ, chúng con thắp đèn sáng mãi để cúng dường xá-lợi. Công đức cúng dường xá-lợi Phật tương đương với việc cúng dường chính Đức Phật. Chúng con thắp đèn sáng mãi–để Phật pháp được trường tồn và lan rộng–để cúng dường xá-lợi, lại lấy vàng thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay, đời nầy qua đời khác, thân chúng con đều viên mãn sáng ngời như sắc vàng thắm.
Thân tướng của ngài Ma-ha Ca-diếp rất là hoàn hảo. và tôi chắc rằng người vợ của ông cũng rất đoan nghiêm.
Tỷ-khưu ni Tử kim quang đây là quyến thuộc, cùng phát tâm một lần như chúng con. Điều quan trọng là họ cùng tu tập với nhau. Mối quan hệ của họ không dựa trên tình cảm luyến ái. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thuật ngữ Trí huệ: Theo Phật giáo, Trí tuệ xem như Mặt Trời, Trí huệ xem như Mặt trăng chiếu sáng Tâm tối tăm (Tooltip Trí Huệ)
+ Rạng đông - Vừng đông đã hửng sảng dấu hiệu Mặt trời sắp mọc - Làm bạn với thiện - Như lý tác ý đúng như Pháp
12.II. Ví Dụ Mặt Trời (1) (S.v,78)
1) ...
2) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, cái này là điềm đi trước, là tướng báo trước mặt trời sắp mọc, tức rạng đông. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái này là điềm đi trước, là tướng báo trước bảy giác chi sanh khởi, tức là làm bạn với thiện. Tỷ-kheo làm bạn với thiện, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi rằng: bảy giác chi sẽ được tu tập, bảy giác chi sẽ được làm cho sung mãn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo làm bạn với thiện, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo làm bạn với thiện, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi.
13.III. Ví Dụ Mặt Trời (2) (S.v,79)
1) ...
2) Ví như, này các Tỷ-kheo, cái này là điềm đi trước, là tướng báo trước mặt trời sắp mọc, tức là rạng đông. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái này là điềm đi trước, là tướng báo trước bảy giác chi sanh khởi, tức là như lý tác ý. Tỷ-kheo thành tựu như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi rằng: bảy giác chi sẽ được tu tập, bảy giác chi sẽ được làm cho sung mãn.
3) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo như lý tác ý, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành tựu như lý tác ý, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi. (Nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi)
+ Lá Lách:
Các NĂNG LƯỢNG phát ra từ mặt trời cũng có một tác dụng kép.
- Thứ nhất, có những năng lượng mà chúng ta có thể gọi là hiệu ứng prana, vốn là kết quả của ảnh hưởng của lực thái dương (solar force), đang phát ra từ mặt trời vật chất. Hiệu ứng này tạo ra các kết quả rõ ràng trên các hình tướng khách quan, và các năng lượng này được gọi là các năng lượng thuộc vật chất hay cần cho sự sống (physical or vital). Các năng lượng này đi vào trong cơ thể con người xuyên qua lá lách và cũng xuyên qua một bí huyệt nằm giữa hai xương vai; bí huyệt này nằm giữa bí huyệt cổ họng và bí huyệt tim trong cột sống, nhưng gần bí huyệt tim hơn bí huyệt cổ họng.
- Thứ hai, có các năng lượng phát ra từ cái mà về mặt nội môn được gọi là “tâm của mặt trời” (“heart of the sun”); các năng lượng này quét qua hết hành tinh này đến hành tinh khác theo bảy luồng lớn và cung cấp lực (power) vào linh hồn của con người, tạo ra loại nhạy cảm mà chúng ta gọi là ý thức (awareness). Bảy loại năng lượng này tạo ra bảy loại linh hồn hoặc bảy cung (rays), và theo ý tưởng này, bạn tìm thấy cái bí mật của sự hiệp nhất linh hồn. Trong khi biểu lộ, do các ảnh hưởng của bảy loại năng lượng tác động trên vật chất của không gian, người ta nhận thấy bảy loại linh hồn, bảy lĩnh vực biểu lộ, và bảy mức độ tâm thức cùng các đặc trưng của cung. Như bạn biết rõ, các biến phân này giống như màu sắc mà lăng kính thu được khi được đưa ra trước các tia của mặt trời, hoặc được đưa ra trước mảng họa tiết của kiểu mẫu được tìm thấy trong ánh phản chiếu trên một hồ bơi trong trẻo. (LVHLT, 433)
+ Lá lách: Ý tại lá lách. Lá lách màu vàng, nên gọi là đứa bé mặt vàng.
"Bạch ngưu đại xa lân lân chuyển, (trâu trắng, xe lớn, chuyển từ từ)".
Trong kinh Pháp Hoa có nói đến xe lớn, trâu trắng, tức là Phật thừa, chỉ có Phật thừa mà không có thừa nào khác. Lại nữa, muốn thành Phật thì phải đi trên con đường này, thì mới ngồi trên cổ xe lớn trâu trắng. Chưa thành Phật được thì không thể ngồi trên xe này. Tức bảo rằng chúng ta dụng công đắc lực để chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sanh.
Sao gọi là cổ xe lớn trâu trắng, mà không nói xe lớn trâu đen, hay xe lớn trâu vàng, hoặc xe lớn trâu nhiều màu ? Con trâu này màu trắng, giống như tự tánh của chúng ta không ô nhiễm. Chư vị từ từ hành pháp đại thừa. Xe trâu trắng đi trên đường đại thừa, phát ra âm thanh lân lân. Khi đó, người tu hành đạt được cảm giác. Cảm giác gì ?
"Hoàng kiểm tiểu nhi khiếu khiếu toản, (bé mặt vàng đáp tới đáp lui)".
Cảm giác như say sưa, ngủ mơ, mộng mị, tức là không biết gì là chân, gì là giả, là hư là thật, bốn chi (hay tay hai chân) rất mềm diu. Tay không có sức lực; chân cũng không có sức lực, giống như bùn non, không muốn làm gì hết. Khi ngồi thiền, hay không ngồi thiền, thân thể đột nhiên rung động nhanh chóng. Khi ấy tâm chúng ta đập. Kỳ thật không phải là tâm đập mà là lá lách đập. Sao lá lách đập ? Lá lách đập giúp chúng ta tiêu hóa dễ dàng. Chư vị chạy mau chút ít thì lá lách làm việc nhiều chút ít. Hoàng kiểm tiểu nhi là ai ? Tức là ý niệm của chư vị, nghĩa là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Ý tại lá lách. Lá lách màu vàng, nên gọi là đứa bé mặt vàng.
"Khiếu khiếu toản", tức là đập tới đập lui. Thế nên, người thường ngồi thiền, lắm khi ngồi đến lúc không biết gì hết. "Tim tôi đập như thế nào, có bị bịnh gì không ?"
Tâm khởi lo sợ như thế. Chớ lo sợ. Đó chỉ là quá trình tu hành mà chúng ta phải vượt qua. Khi xe lớn trâu trắng chuyển pháp luân thì ý niệm cũng khởi dậy, tim đập mạnh rất nguy hiểm. Lúc đó tâm phát sanh sợ hãi. Tim đập mạnh như thỏ nhảy tới nhảy lui. (Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Điềm báo dữ và ác tướng hiện ra: Lại nếu có người nào trong giấc ngủ thấy những điềm chiêm bao dữ, còn khi thức thấy những ác tướng như chim đến đậu nơi vườn nhà, hoặc chỗ ở hiện ra trăm điều quái dị mà người ấy dùng những của báu cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì những ác mộng, ác tướng và những điềm xấu ấy thảy đều ẩn hết, không còn phải lo sợ gì nữa. (Nguồn: Kinh Dược Sư)
+ Điềm lành giữ: .Hoặc có kẻ thấy hai mặt trời hay hai mặt trăng thì đều là những điềm bất tường; người xưa nói: "Thiên vô nhị nhật, Dân vô nhị quân." (Trên, không có hai mặt trời; Nước, không có hai vua.)
Ở Trung Hoa, về đời nhà Hạ, vua Kiệt là người bạo ngược, trên không trung bỗng nhiên hiện ra hai mặt trời, nhà Hạ nhân đó mà diệt vong. Ðó là điềm hung dữ được báo trước.Ngoài ra còn có những điềm gọi là Vựng, Thích, Bội, Quyết. Những ác khí bao quanh mặt trăng làm mờ mặt trăng thì gọi là Vựng; khí đen che lấp mặt trăng gọi là Thích; khí trắng ở bên cạnh mặt trăng gọi là Bội, mà che đi một nửa thì gọi là Quyết. Ðó là những điềm xấu thuộc về mặt trăng.
Lịch sử Trung Hoa có chép rằng khi mặt trăng bị che lấp bảy lần thì Hán Cao Tổ ở Bành Thành bị giặc Hung Nô vây khốn. Ngôi sao có ánh sáng dài sau đuôi gọi là Tuệ, tức là sao chổi; hào quang ngắn hơn quét đi bốn phía thì gọi là Bột Tinh; ở trên không trung xẹt xuống gọi là Phi Tinh; ở dưới mà vọt lên gọi là Lưu Tinh; đó đều là những điềm xấu thuộc về các ngôi sao.
Sách Xuân Thu có chép rằng vua Tống Nhượng Công không có nhân nghĩa nên sao xẹt xuống như mưa, vua Tần Thủy Hoàng hết sức bạo ngược thì sao chổi xuất hiện; đó cũng là những điềm không lành. Ác khí ở phía trên mặt trời gọi là Phụ, ở bên cạnh mặt trời gọi là Nhĩ. Sau khi trời mưa mà xuất hiện cầu vồng thì gọi là Hồng Nghê, buổi sáng gọi là Hồng, buổi chiều gọi là Nghê; đó đều là những điềm xấu của mặt trời. Tóm lại, bên cạnh mặt trời, mặt trăng có hiện ra những khí đó đều là những điềm báo trước sự bất tường.
Ở nước Trung Hoa, mỗi khi một triều đại thay đổi thì đều có những điềm bất tường xảy ra. Có lần, một vị Hoàng Ðế thấy điềm bất tường nơi một ngôi sao, liền triệu quan Thiên Văn đến để hỏi sẽ xảy ra điềm tốt hay xấu.
- Vị Khâm Thiên Giám tâu rằng: "Ðây là điềm hết sức bất tường, Bệ Hạ có thể sẽ tử vong, nhưng thần có cách làm cho vị Tể Tướng chịu điều hung dữ ấy thay cho Bệ Hạ, Bệ Hạ có bằng lòng không?".... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kinh Thất Nhật: Nhiều mặt trời đều là điềm báo ứng trong nhân gian.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Tất cả các hành đều vô thường, là pháp không vĩnh cửu, pháp chóng đổi thay, pháp không thể nương tựa[4]. ... Các hành như vậy không nên tham đắm mà phải nhờm tởm, ghê sợ, nên tìm sự xả ly, nên tìm giải thoát.
Khi hai mặt trời xuất hiện, các rãnh ngòi, sông lạch, thảy đều khô cạn, không thể thường trụ....
Khi ba mặt trời xuất hiện, tất cả dòng sông lớn[6] đều khô cạn, không thể thường trụ. ...
Khi bốn mặt trời xuất hiện, các dòng suối lớn, từ đó phát nguyên năm con sông lớn của châu Diêm-phù: Một là Hằng-già; hai là Dao-vưu-na; ba là Xá-lao-phu; bốn là A-di-la-bà-đề và năm là Ma-xí[7], các dòng cuối nguồn nước lớn ấy đều khô cạn cả, không thể thường trụ. .....
Khi năm mặt trời cùng xuất hiện, nước trong biển lớn sụt xuống một trăm do-diên[8]; sụt dần đến bảy trăm do-diên. Khi năm mặt trời xuất hiện ..... Khi năm mặt trời .... Khi năm mặt trời ..... Khi năm mặt trời .... Khi năm mặt trời cùng xuất hiện, những biển có mực nước bảy người giảm dần đến vai, đến lưng, đến háng, đến đầu gối, đến mắt cá; cho đến lúc nước biển ráo hết không đủ chìm một ngón chân. ...
Khi sáu mặt trời cùng xuất hiện, tất cả đại địa, núi chúa Tu di[11], thảy đều bốc khói, tạo thành một đám khói. ....
Khi bảy mặt trời xuất hiện, tất cả đại địa, núi chúa Tu di thảy đều phụt cháy bừng bừng, tạo thành một ngọn lửa rực rỡ. .....
... “Này các Tỳ-kheo, các ngươi nghĩ sao? Xưa kia đại sư Thiện Nhãn được hàng tiên nhân ngoại đạo tôn kính là bậc thầy, xả ly dục ái, chứng như ý túc, các ngươi cho là người nào khác chăng? Chớ nghĩ như vậy. Nên biết, đó là Ta vậy. .... Thời ấy Ta và các đệ tử học đạo không hư uổng, được quả báo lớn.
..... Vì không rốt ráo phạm hạnh, nên bấy giờ Ta không xa lìa được, sanh, lão, bệnh, tử, than khóc, buồn rầu; cũng chưa thể thoát được tất cả khổ não.
“Này các Tỳ-kheo, Ta nay xuất hiện ở đời, là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, .... Do rốt ráo phạm hạnh, ta nay đã lìa khỏi sanh, lão, bệnh, tử, khóc than, buồn rầu. Nay Ta đã được giải thoát mọi khổ não”. (Nguồn: Kinh Thất Nhật - A Hàm)
+ Hai Mặt Trời - Hai Mặt Trăng
A-nan, lại nếu trong đó, một châu nhỏ chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước cùng chiêu cảm ác duyên, thì tất cả chúng sinh trong nước đó đều xem thấy hết thảy cảnh giới không lành; hoặc họ thấy 2 mặt trời, hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng như vựng, thích, bội, quyết, tuệ, bột, phi lưu, phụ nhĩ, hồng nghê.
Giảng:
Đức Phật gọi A-nan một lần nữa,
“A-nan, lại nếu trong đó, một châu nhỏ chỉ có hai nước.”
Giả sử như châu Diêm-phù-đề là một châu nhỏ, là một đại lục nhỏ, trong đó chỉ có hai nước. Mặc dù hai nước nầy đều nằm chung trong một châu, nhưng có chung một đường ranh giới giữa hai nước, nên nghiệp báo mà cư dân hiện sống trên đó nhận chịu lại khác nhau.
“Mà riêng người trong một nước cùng chiêu cảm ác duyên.”
Người trong một nước phải chịu chung một nghiệp báo, và họ cùng chiêu cảm ác duyên. “Ác duyên” chỉ cho những hiện tượng có điềm xấu cùng nhiều loại thiên tai hoạn nạn– như cuồng phong hoặc mưa đá chẳng hạn. Gần đây ở Mỹ có một cơn lốc xoáy cuốn người lên không trung, sát hại chừng vài trăm người. Đó là một ví dụ của những hiện tượng có điềm xấu. Đó là nghĩa của “ác duyên.” Quý vị thấy đó, trong một nước, có một số người phải chịu quả báo xấu, một số người khác lại không. Cũng vậy, người dân ở Cựu-kim-sơn (San Francisco) lại không chịu quả báo ác duyên của cơn lốc xoáy, và họ không bị khổ nạn ấy. Nhưng ở miền Trung tây, nhà cửa bị cuốn bay lên không, cây cối bị bật rễ và bị thổi văng ra xa, còn có lụt lội và hoả hoạn. Những thiên tai như thế là rất thường thấy.
“Thì tất cả chúng sinh trong nước đó đều xem thấy hết thảy cảnh giới không lành.”
Họ thấy cái gì?
Đôi khi cây cối biết nói. Cây cối nghe người nói chuyện, và nó hóa thành cây, chẳng có người nào quanh đó cả. Đó là một điềm không lành. Trong những sự kiện siêu nhiên, có rất nhiều hiện tượng không lành.
“Hoặc họ thấy 2 mặt trời.”
Có khi người trong cùng một nước thấy có hai mặt trời, điềm báo có một sự biến động lớn trong nước ấy. Đó là điềm không lành. Có khi nguyên thủ quốc gia bị chết hoặc bị ám sát để chiếm đoạt quyền bính. Đó là vì:
Thiên vô nhị nhật
Quốc vô nhị quân.
Một thái dương hệ không thể có hai mặt trời. Đất nước không thể có hai vua.
Không thể có hai mặt trời trên không trung. Nếu quý vị thấy có hai mặt trời, đó là điềm xấu. Hoặc có thể vua nầy giết hại vua kia.
“Hai mặt trăng.” Bất luận đất nước đó như thế nào, thì cũng chỉ có một mặt trời và một mặt trăng. Nhưng người trong nước nầy thấy có hai mặt trăng xuất hiện. Đó cũng là biểu hiện của điềm không lành trong nước sẽ xảy đến trong tương lai.
Nhiều Ác Tướng khác: ... hắc khí bao quanh mặt trăng, mặt trời. Hay như Sao chổi, Sao băng, Cầu vồng... Nếu quốc gia thịnh vượng, thì mọi hiện tượng nhỏ nhặt đều là tốt lành. Nếu đất nước suy thóai, thì mọi hiện tượng dù nhỏ nhặt đều là không lành. Nếu chỉ một người có được phước báo, thì những người còn lại đều được hưởng ánh sáng lành ấy. Nếu người dân sống dưới sự dẫn dắt của người thiếu phước báo, thì họ phải chịu nhiều đau khổ. Hãy nhìn vào người lãnh đạo quốc gia, tổng thống của một nước, nếu ông ta có phước báo, thì người dân sẽ tuân hành theo ông ta và đều hưởng được phước báo. Nếu ông ta không có phước báo, thì người dân theo ông ta đều phải chịu đau khổ. Nên có thể nói rằng vị nguyên thủ quốc gia là phải chịu trách nhiệm về mọi hòan cảnh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Mặt trời nội tâm (Subjective sun): Tâm của Mặt trời (Heart of the Sun) tức là mặt trời nội tâm. Tâm của Mặt trời tức là khối cầu huyền bí bên trong, nằm sau mặt trời hồng trần (physial sun) của chúng ta và mặt trời hồng trần của chúng ta chỉ là lớp vỏ bao quanh đó. (ĐĐNLVTD, 168, 130)
Mặt trời Tinh thần trung ương (Central spiritual Sun): Trung tâm điểm trên trời (central spot in the heavens) mà Thái Dương Hệ của chúng ta đang quay chung quanh. (ĐĐNLVTD, 130)
+ Lửa trong Đại thiên địa: Lửa có bản chất chính yếu là tam phân, nhưng khi biểu lộ, nó có thể được xem như biểu hiện ngũ phân, và có thể được định nghĩa như sau:
- Lửa do ma sát, hay lửa sinh động nội tại. Các lửa này làm sinh động và đem sinh khí cho Thái Dương Hệ biểu lộ bên ngoài. Chúng là toàn thể hỏa xà của Thượng Đế khi hoạt động đầy đủ trong Thái Dương Hệ.
- Lửa Thái Dương hay lửa trí tuệ vũ trụ. Đây là phần của cõi trí vũ trụ được dùng làm sinh động thể trí của Thượng Đế. Lửa này có thể được xem như là toàn thể tia lửa của trí tuệ (mind), các lửa của các hạ trí (mental bodies) và nguyên khí linh hoạt của các đơn vị tiến hóa của nhân loại trong ba cõi thấp.
- Lửa điện, hay Ngọn Lửa Thiêng của Thượng Đế. Ngọn lửa này là dấu hiệu phân biệt của Thượng Đế (Logos) của chúng ta và chính nó giúp phân biệt Ngài với các vị Thượng Đế khác, đó là đặc điểm nổi bật của Ngài và là dấu hiệu vị trí của Ngài trong cơ tiến hóa của vũ trụ. (LVLCK, 37–38)
+ Lửa vũ trụ là nền tảng của cuộc tiến hóa của chúng ta. Lửa của cõi trí kiểm soát và ngự trị nội tại và có khả năng tinh luyện cùng những hiệu quả thanh lọc để tiến hóa. Khi hợp nhất Nội hỏa cõi trí và lửa các hạ thể với lửa thiêng Tam nguyên Tinh thần => Một vị Chân sư, do nhờ sự hợp tác của Hỏa đức Tinh quân (Các hiện tượng tâm lý địa cầu đều ở dưới quyền Ngài kiểm soát) và các vị thần cao cấp ở cõi trí, họ làm việc với vị Chúa tể của cõi này, và vị Đại Thiên vương, Chúa tể của cảnh giới thứ hai. Tương tự: Nội hỏa ở tâm địa cầu sẽ hòa hợp với lửa thiêng của mặt trời ở cuối đại chu kỳ này => Thái dương hệ sẽ đạt mức thánh hóa (TTHM, Thư: 27/8/20))
+ Các loại ánh sáng: Phật dậy trong Kinh Ánh sáng, có bốn loại "Ánh sáng mặt trời - Ánh sáng mặt trăng - Ánh sáng ngọn lửa - Ánh sáng trí tuệ (Đệ nhất, tối thượng). Xem thêm: Tooltip Ánh sáng
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Sát–na (moment): Cũng như một nguyên tử là một chất liệu trong đó sự tế vi đạt tới mức giới hạn của nó, cũng vậy, một sát–na là một tế phân của thời gian trong đó sự tế vi đạt tới giới hạn của nó. Cũng thế, một sát–na chẳng qua chỉ là thời gian mà một nguyên tử cần có để rời bỏ vị trí trong không gian mà nó đang chiếm và đạt tới điểm kế tiếp. Như thế, sự nối tiếp của các sát–na trở thành (tạo ra) sự liên tục của ánh sáng. (ASCLH, 363)
+ Sát na là gì? Trong Kinh Bát-nhã Hộ quốc Nhân Vương giải thích rằng trong mỗi niệm, vắn tắt là trong mỗi suy nghĩ, có 90 sát-na. Trong 1 sát-na có 900 lần sinh diệt. Không dễ dàng hiểu, không dễ dàng gì nhận ra được. Giải thích đến mức nầy cần phải đi vào nhiều chi tiết vi tế. Ngay cả trong cực vi của mỗi sát-na, tiến trình già nua vẫn không dừng nghỉ. Thế nên bây giờ tôi trở nên già cỗi. Tôi trở thành vô dụng. Ăn uống chẳng thấy mùi vị gì; khi ngủ tôi thấy da mình rời khỏi thịt và rất đau nhức, biểu hiện của tuổi già thật là đau khổ! (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q2)
+ Theo Huyền Linh Học cũng như theo kinh Kabalah, có ba loại ánh sáng:
1.- Ánh Sáng Trừu Tượng và Tuyệt Đối, đó là Bóng Tối (Darkness)
2.- Ánh Sáng của Đấng Biểu Lộ – Vô Hiện (the Manifested- Unmanifested) mà một số người gọi là Logos;
3.- Ánh Sáng loại sau phản chiếu nơi các Dhyn Chohans, tức các minor Logoi – các Elohim nói chung – đến lượt các Đấng này lại ban rải nó cho vũ trụ bên ngoài. (GLBN 3, 49)
+ Ánh sáng là chất liệu (substance) (LVHLT, 437)
+ Ánh sáng và vật chất (matter) là các tên gọi đồng nghĩa. (VCVTDT, 140)
+ Lửa điện hay tinh thần hợp nhất với lửa do ma sát (nhiệt) tạo ra lửa Thái dương hay ánh sáng. (LVLCK, 241)
+ Theo quan điểm của nhà huyền bí học, tất cả các hình thức sự sống trên hành tinh của chúng ta đều chịu ảnh hưởng bởi ba loại chất liệu ánh sáng (light substance) và hiện nay, loại thứ tư đang từ từ hiện ra. Các loại ánh sáng này là:
1. Ánh sáng của mặt trời.
2. Ánh sáng trong chính hành tinh, không phải là ánh sáng phản chiếu của mặt trời mà là ánh quang huy (radiance) có sẵn riêng biệt của hành tinh.
3. Một ánh sáng đang lan qua (seeping in) (nếu tôi có thể dùng cách diễn tả như thế) từ cõi cảm dục, một sự thấu nhập từ từ và vững chắc của “cảm dục quang” và sự pha trộn của nó với hai loại ánh sáng chói lọi kia.
4. Một ánh sáng đang bắt đầu tự pha trộn với ba loại ánh sáng kia và xuất phát từ trạng thái vật chất mà chúng ta gọi là cõi trí – một ánh sáng mà đến lượt nó phản chiếu từ lĩnh vực của linh hồn (Trí tuệ giác ngộ). (TLHNM I, 102)
+ Bốn loại ánh sáng: Trong Kinh Sala Đức Phật có dạy rằng: “Này các Tỳ kheo, ví như trong các loài bàng sanh, con sư tử – vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ”....Thật vậy, để đạt đến sự giác ngộ giải thoát thì trí tuệ được xem là tối thượng, cũng như trong Bát chánh đạo, chánh kiến được xếp đầu tiên. Bởi lẽ phải có cái nhìn và sự nhận biết một cách đúng đắn, không bị phong tục tập quán, thành kiến xã hội, dục vọng ngăn che làm sai lạc thì chúng ta mới thực hành đúng con đường chánh pháp của Đức Thế Tôn. Và trong bài Kinh Ánh sáng, Đức Phật cũng đề cập đến ánh sáng trí tuệ như sau: “Này các Tỳ kheo, có bốn loại ánh sáng "Ánh sáng mặt trăng, ánh sáng mặt trời, ánh sáng ngọn lửa và ánh sáng trí tuệ". Và này các Tỳ kheo, loại tối thượng trong bốn loại ánh sáng là ánh sáng trí tuệ” (Nguồn: Trí tuệ người xuất gia)
+ Đưa ánh sáng; Có một ý nghĩa thực sự huyền bí đối với những từ “đưa ánh sáng” vào một vấn đề, một tình thế, hoặc một hoàn cảnh. Theo ý nghĩa căn bản của nó, nó bao hàm sự mặc khải về ý tưởng được trình bày, về nguyên tắc vốn là nền tảng cho biểu lộ bên ngoài. Đó là sự nhận thức về thực tại thiêng liêng bên trong vốn tạo ra sắc tướng hữu hình bên ngoài. Đây là chủ âm (keynote) của toàn bộ công việc theo chủ nghĩa tượng trưng. Công việc xác định các công thức, soạn thảo các biểu đồ chủ quan hoặc các kế hoạch về ấn tượng trực giác và về sự hoạt động mãnh liệt trên cõi trí, là công việc duy nhất của Thánh Đoàn hành tinh có tổ chức. Giai đoạn thứ hai của công việc được những người phụng sự tiến hành, những người này đang hợp tác có ý thức với Thánh Đoàn, thể hiện tính thực tế của công việc đó trong ba cõi tiến hóa của nhân loại.(LVHLT, 460)
+ Cung Mặt Trời - Cung Thái dương: Là Cung Hoàng Đạo mà Mặt trời ở trong đó vào thời điểm một người sinh ra đời. - Tượng trưng cho mức độ có ý thức, tự nhận thức. Trong lá số, Mặt Trời tượng trưng cho “phàm ngã” và những nỗ lực của chúng ta để phát triển một cái bản ngã (ego) sinh động và mạnh mẽ. Hầu hết mọi người chưa phải là phàm ngã. Một định nghĩa bí truyền của phàm ngã là: Một phàm ngã là một người hoạt động với sự phối hợp, nhờ vào khả năng của y và sự ổn định tương đối của bản chất tình cảm của y, và hệ thống tuyến (glandular equipment) hoàn chỉnh và phát triển đầy đủ của y. Điều này được hỗ trợ bởi sự ham muốn mạnh mẽ của y đối với năng lực và các điều kiện môi trường thích hợp. (EP II, 264). Hầu hết mọi người đã chưa trở nên ổn định hoặc chưa phối kết các khía cạnh khác nhau trong bản chất của họ và do đó là “đang phát triển phàm ngã”. Sự phát triển này phải diễn ra trước khi bất kỳ hoạt động tâm linh cao cả nào có thể xảy ra.
Nguồn: Lá số chiêm tinh và cung mặt trời, mặt trăng, cung mọc ... (Học MFVN)
+ Thuật ngữ Trí huệ: Theo Phật giáo, Trí tuệ xem như Mặt Trời, Trí huệ xem như Mặt trăng chiếu sáng Tâm tối tăm (Tooltip Trí Huệ)
+ Khi Nói Mặt Trời là Chủ tinh Cai quản Một Cung: Tôi nói đến một trong các hành tinh ẩn giấu Uranus hoặc Vulcan. các Hành tinh này có thể thay thế lẫn nhau ở công dụng của chúng, là cái khó khi nếu chỉ ra Hành tinh Nội môn, trừ khi bạn được chỉ ra. Do đó Tôi nhắc đến Uranus _(CTHNM, 113)
+ Mặt Trời đang cai quản về cả 3 mặt ngoại môn, nội môn và huyền giai (Chân Sư DK_CTHNM, 350)
+ Mặt Trời: Là Trung tâm Thái dương hệ (Như Trái Tim trung tâm con người) (TTHM184).
+ Chu kỳ: Theo quan điểm nhân loại, mặt trời di chuyển chung quanh Hoàng Đạo mất chừng 25.000 năm (CTHNM, 93)
+ Mặt trời: Bản ngã, cái tôi, ngoại hình, lập trường trong cuộc sống hoặc bạn là ai. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Mặt trời (The sun, Thái dương): Mặt trời là cái kho vĩ đại chứa sinh lực, từ lực và điện lực cho Thái Dương Hệ của chúng ta và tuôn ra (pour out) rất nhiều các dòng năng lượng ban phát sự sống. Các luồng năng lượng này được các thể dĩ thái của các loại khoáng chất, thực vật, động vật và con người đón nhận và được biến đổi thành các năng lượng sự sống khác nhau cần thiết cho mỗi loại. (MTNX, 55)
+ Mặt trời là thể hồng trần của Thượng Đế.(KCVTT, 121)
+ Mặt trời và Mộc tinh truyền dẫn Cung 2 (Nguồn: GQ1- Cấu tạo con người)
+ Mặt Trời chi phối cả 3 tình trạng của Leo - Sư Tử (Ngoại, Nội môn và Huyền Giai): Vì mục tiêu của Thái dương hệ là Khai mở Tâm thức, thi Mặt Trời hiển nhiên chi phối Tâm thức Hồng trần - Linh hồn - Sự sống tâm linh thuộc Thánh đoàn_Chân Sư DK (CTHNM, 332).
+ Mối quan hệ tay 3 của Mặt Trời với Sư tử/ Leo là độc nhất trong Thái dương hệ chúng ta (CTHNM,235)
+ Các NĂNG LƯỢNG phát ra từ mặt trời cũng có một tác dụng kép.
- Thứ nhất, có những năng lượng mà chúng ta có thể gọi là hiệu ứng prana, vốn là kết quả của ảnh hưởng của lực thái dương (solar force), đang phát ra từ mặt trời vật chất. Hiệu ứng này tạo ra các kết quả rõ ràng trên các hình tướng khách quan, và các năng lượng này được gọi là các năng lượng thuộc vật chất hay cần cho sự sống (physical or vital). Các năng lượng này đi vào trong cơ thể con người xuyên qua lá lách và cũng xuyên qua một bí huyệt nằm giữa hai xương vai; bí huyệt này nằm giữa bí huyệt cổ họng và bí huyệt tim trong cột sống, nhưng gần bí huyệt tim hơn bí huyệt cổ họng.
- Thứ hai, có các năng lượng phát ra từ cái mà về mặt nội môn được gọi là “tâm của mặt trời” (“heart of the sun”); các năng lượng này quét qua hết hành tinh này đến hành tinh khác theo bảy luồng lớn và cung cấp lực (power) vào linh hồn của con người, tạo ra loại nhạy cảm mà chúng ta gọi là ý thức (awareness). Bảy loại năng lượng này tạo ra bảy loại linh hồn hoặc bảy cung (rays), và theo ý tưởng này, bạn tìm thấy cái bí mật của sự hiệp nhất linh hồn. Trong khi biểu lộ, do các ảnh hưởng của 7 loại năng lượng tác động trên vật chất của không gian, người ta nhận thấy 7 loại linh hồn, 7 lĩnh vực biểu lộ, và 7 mức độ tâm thức cùng các đặc trưng của cung. Như bạn biết rõ, các biến phân này giống như màu sắc mà lăng kính thu được khi được đưa ra trước các tia của mặt trời, hoặc được đưa ra trước mảng họa tiết của kiểu mẫu được tìm thấy trong ánh phản chiếu trên một hồ bơi trong trẻo. (LVHLT, 433)
+ Mặt Trời lên - Ánh Sáng Chiếu soi: Trích Đức Phật dậy.... HT Tuyên Hóa giảng:
Từ sữa làm thành sữa đông (lạc), từ sữa đông làm thành bơ (sinh tô), từ bơ (sinh tô) làm thành phó-mát (thục tô), từ thục tô làm thành đề-hồ[17], là chất tinh túy nhất được tinh chế từ sữa.
Thời kỳ thuyết giáo đầu tiên của Đức Phật được gọi là Thời Hoa Nghiêm- ví như lúc mặt trời mới mọc, ví khi mặt trời mới mọc thì chiếu ánh sáng đầu tiên cho các đỉnh núi cao. Đỉnh núi cao biểu tượng cho các vị Đại Bồ-tát. Kinh Hoa Nghiêm là để giáo hóa hàng Bồ-tát, những vị thuộc hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, đều "có mắt mà như mù.", họ không nghe được giáo lý viên đốn vi diệu trong Kinh Hoa Nghiêm.
Năm thời kỳ thuyết giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ví như sự tinh chế sữa. Giáo pháp trong Kinh Hoa Nghiêm cũng giống như sữa nguyên chất.
Thời kỳ thuyết giáo thứ hai của Đức Phật là Thời A-hàm - có nghĩa là không một pháp ngoại đạo nào có thể sánh được - Pháp Tiểu thừa. ..Thời A-hàm được ví như sữa đông (lạc). Ví như mặt trời mới mọc, thời kỳ thuyết giáo thứ hai được biểu tượng cho ánh sáng mặt trời chiếu đến vùng thung lũng, có nghĩa là vùng đất thấp hơn, ánh sáng mặt trời cũng chiếu đến được.
Thời kỳ thuyết giáo thứ ba của Đức Phật là Thời Phương đẳng- ví như bơ (sinh tô). Ví như ánh sáng mặt trời chiếu rộng khắp mọi nơi trên mặt đất.
Thời kỳ thuyết giáo thứ tư của Đức Phật là Thời Bát-nhã.- ví như phó-mát (thục tô). Ví như ánh sáng mặt trời vào lúc gần trưa.
Thời kỳ thuyết giáo thứ năm của Đức Phật là Thời Pháp Hoa –Niết-bàn. - ví như đề-hồ. Kinh Pháp Hoa được ví như mặt trời chiếu ngay trên đỉnh đầu. Lúc chính ngọ, mặt trời chiếu khắp mọi vật, cả đỉnh núi cao, cả thung lũng, và khắp cả mặt đất nơi đồng bằng.(Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Mặt trời chiếu sáng mười phương: Đức Phật bảo Phú Lâu Na. Nên biết cái sáng đó, chẳng phải là mặt trời, chẳng phải là hư không, cũng chẳng khác hư không và mặt trời. (HT Tuyên Hóa: Nó chẳng ngoài hai thứ đó. Rốt ráo, nó đến từ đâu? Nó lưu xuất từ tánh Như Lai tạng. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Ý nghĩa nội môn của Mặt Trời - Xem:
1. “Mặt Trời là một ngôi sao trung ương chứ không phải là một hành tinh.” (GLBN I, 126) (Do đó khi Mặt Trời được bao gồm trong số các hành tinh như hiện nay, nó chỉ thay cho hoặc che khuất một hành tinh ẩn giấu - Ngoại môn là Vulcan).
2. Mặt Trời chỉ là một trong các Mặt Trời vốn… “là các hoa hướng dương có ánh sáng cao siêu.” Nó đang “trú trong hiện thể của một Thần hoặc của một nhóm các Thần, giống như hàng tỉ các mặt trời khác.” (GLBN I, 319
3. “Mặt Trời là kho chứa sinh lực vốn là thực tượng (noumenon, bản thể) của điện.” (GLBN I, 579)
4. “Mặt Trời không phải là một hành tinh thánh thiện.” (GLBN II, 26)
5. “Mặt Trời… có sự tăng trưởng, các thay đổi, sự phát triển, và tiến hoá từ từ của nó.” (GLBN I, 667)
6. “Mặt Trời là vật chất và Mặt Trời là tinh thần.” (GLBN I, 820)
Còn nhiều mô tả minh triết về mặt trời, xem tại: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Đức Christ: Còn gọi là Di Lặc Bồ Tát; Đức Chưởng Giáo (World Teacher), Đức Bồ Tát, Đức Iman Madhi (Hồi giáo) ....(ĐĐNLVTD, 43)
+ Luận Du Già Sư Địa: Luận Du Già Sư Địa, tác giả là Bồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664), gồm 100 quyển. Đây là một trong ba Bộ Luận thuộc loại đồ sộ bậc nhất hiện có trong Hán Tạng (*), là một trong những tác phẩm căn bản nhất của Tông Duy Thức – Pháp Tướng, là một trong các Bộ Luận nổi tiếng nhất của Phật giáo Bắc truyền thuyết minh quảng diễn rất đầy đủ về Địa/ Cảnh giới Bồ tát, với những quá trình nhận thức, hành trì, tu tập chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng của Bồ tát Đại thừa......
Ở Việt Nam, .... chúng ta đã Việt dịch được một số Kinh, Luận liên hệ, như Kinh Giải Thâm Mật, Luận Nhiếp Đại Thừa, Luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, Luận Thành Duy Thức… một bản Việt dịch Luận Du Già Sư Địa hoàn chỉnh ra đời..... do Cư sĩ Nguyên Huệ dịch ... Nguyên Hiển. (Nguồn: Luận Du Già Sư Địa)
+ Đấng Christ: Các tư tưởng của con người từ giữa thời kỳ Atlantis đã luôn bị thu hút về phía con đường hủy diệt hay tả đạo, vì sự ích kỷ đã là động lực và lợi ích cá nhân đã là yếu tố chi phối. Một phần công việc của Đấng Christ khi Ngài đến cách nay 2000 năm là để xóa bỏ xu hướng này bằng việc khắc sâu, thông qua gương mẫu và giáo huấn, về sự hy sinh và lòng vị tha, và tinh thần tử vì đạo (mà nó thường bị nhuốm màu bởi sự cuồng loạn và một lợi ích cá nhân ở cõi trời) đã là một trong những kết quả của nỗ lực này. Nhìn theo quan điểm của Thánh Đoàn thì nỗ lực đã thành công, vì tinh thần Cơ Đốc giáo thay thế cho sự tái định hướng vào những sự việc ở cõi trời. Đó là sự thanh khiết của động lực và bản năng phụng sự, mà nguyên tắc chủ đạo gần đây là mới so với quan điểm về những sự vĩnh hằng trước kia.
- Tuy vậy, bất chấp điều này, xu hướng đưa tới lợi lộc ích kỷ vẫn là yếu tố mạnh nhất trên thế giới vào lúc này, và đó là tình trạng khủng hoảng đang tồn tại giữa Thánh Đoàn Quang Minh và nhóm chức sắc đang điều khiển phe tả đạo, tức là đường lối kiểm soát bằng hình tướng và dục vọng (LVHLT, 259)
+ Đức Chưởng giáo là là Đấng cao cả mà toàn thế giới đang mong đợi. Ngài trở lại để khai sáng thêm con đường Chân lý, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề khó khăn, và tiến xa hơn trong cố gắng thể hiện Chân Thiện - Mỹ. Ngài là Đức Christ của Thiên Chúa giáo; là Đức Maitreya (Tiếng Sanskrit), Metteyya (Tiếng Pali), Jampa (Tiếng Tây Tạng) hay Di Lạc Bồ-tát của Phật giáo; là Đấng Hoá thân Kalki của Vishnu trong Ấn giáo; là Đức Imam Madhi của Hồi giáo; là Đức Sosiosh, Đấng Cứu thế của Hoả giáo; và Ngài cũng được tôn xưng trong các tôn giáo khác . . .(Trích Thư vể TTHM)
+ Đức Chưởng Giáo (The World Teacher, The Christ): Đức Chưởng Giáo là vị chủ quản nhóm 2. Ngài là Đấng Cao Cả mà tín đồ Cơ Đốc Giáo gọi là Christ. Ở phương Đông, Ngài cũng được biết dưới danh xưng Đức Bồ Tát (the Bodhisattva), Đức Di Lặc (the Lord Maitreya), và là Đấng mà người sùng tín Hồi giáo mong đợi, dưới danh xưng Iman Madhi. Chính Ngài đã chủ trì các vận mệnh cuộc sống từ khoảng năm 600 trước Thiên Chúa và chính Ngài đã đến với nhân loại trước kia và nay Ngài lại được mong chờ. Ngài là Đấng Bác Ái và Từ Bi, cũng như vị tiền nhiệm của Ngài, Đức Phật, là Đấng Minh triết. Năng lượng của Ngôi 2 tuôn tràn qua Ngài, trực tiếp đi đến Ngài từ bí huyệt tim của Hành Tinh Thượng Đế qua tim của Đức Sanat Kumara. Ngài hoạt động nhờ việc tham thiền được tập trung trong tim. Ngài là Đức Chưởng Giáo, Sư Phụ của các Chân Sư, Đấng giáo huấn của Thiên Thần và Ngài được giao cho việc dìu dắt vận mệnh tâm linh của con người và việc mở ra sự hiểu biết bên trong mỗi người rằng y là con của Thượng Đế và con của Đấng Tối Cao. Nếu Đức Bàn Cổ bận tâm tới việc tạo ra kiểu mẫu và hình hài nhờ đó tâm thức phát triển và thu nhận kinh nghiệm, thì Đức Chưởng Giáo điều khiển tâm thức nội tại trong cuộc sống hay trạng thái tinh thần của nó, tìm cách làm sinh động nó bên trong hình hài, để cho, vào đúng lúc, hình hài này có thể bị loại bỏ và tinh thần được giải thoát quay về cội nguồn. Từ lúc bỏ cõi trần, như đã được thuật lại gần đúng trong câu chuyện Thánh Kinh (mặc dù có nhiều chi tiết sai lầm), Ngài đã ở lại với các con của nhân loại, không bao giờ thực sự ra đi, mà chỉ có vẻ ra đi, và những ai biết cách đều có thể tìm thấy Ngài ở trong một thể xác, ngự tại Hy Mã Lạp Sơn và hoạt động hợp tác chặt chẽ với hai Huynh Trưởng của Ngài là Đức Bàn Cổ và Đức Văn Minh Bồ Tát. Hằng ngày, Ngài ban ân huệ cho thế gian và hằng ngày, Ngài đứng dưới cội thông lớn trong vườn của Ngài vào lúc hoàng hôn, đưa tay ban phúc cho tất cả những ai chân thành và thiết tha tìm đạo. Ngài biết rõ những kẻ đi tìm chân lý, mặc dù có thể họ vẫn không biết Ngài , nhưng ánh sáng mà Ngài ban rải vẫn kích thích đạo tâm họ, bảo dưỡng điểm linh quang của sự sống đang phấn đấu và cổ vũ người tìm đạo cho đến ngày trọng đại, lúc mà họ đứng đối diện với Đấng mà, nhờ được “thăng lên” (hiểu theo nghĩa huyền linh), đang kéo mọi người về phía Ngài với tư cách là Đấng Điểm đạo (Initiator) với các bí nhiệm thiêng liêng. (ĐĐNLVTD, 41–47)
+ Đức Di Lặc Bồ Tát:
A-dật-đa Bồ-tát, chính là Bồ-tát Di Lặc. A-dật-đa là tiếng Phạn, dịch là Vô Năng Thắng, cũng tức là Từ Thị. Vị Bồ-tát này chuyên tu Từ Tâm Tam-muội, đối với bất cứ ai ngài đều dùng tâm Từ bi. Ai mắng ngài, ngài cũng dùng lòng từ bi đáp lại; ai đánh ngài, ngài cũng đáp lại bằng lòng từ bi. Bất luận là người nào đối xử không tốt với ngài, hoặc là ức hiếp ngài, làm nhục ngài, giận dữ la hét ngài, sanh ra vô minh, ngài đều dùng lòng từ bi đối xử với họ. Tất cả mọi việc, ngài đều dùng lòng từ bi đối đãi hết. Chẳng những ngài dùng từ bi đối xử với người, mà ngài còn thương xót cứu giúp tất cả chúng sanh nữa. Ngài xem tất cả chúng sanh giống như là con cái của chính mình, thậm chí còn thân thiết hơn con cái nữa. Ngài thương mến giúp đỡ tất cả chúng sanh đủ cả mọi mặt với tâm từ bi vô lượng vô biên. Tu Từ Tâm Tam-muội cần phải tu cả hạnh Nhẫn nhục, cho nên ngài có một bài kệ như thế này:
Lão hèn mặc áo vá
Cơm hẩm đủ no lòng
áo vá qua cơn lạnh
Vạn sự chỉ tùy duyên
Có người mắng lão hèn
Lão hèn cho là hay
Có người đánh lão hèn
Lão hèn ngủ quên mất
Phun nước miếng lên mặt
Cứ để nó khô thôi
Ta cũng bớt sức lực
Anh cũng khỏi giận hờn
Kiểu Ba-la-mật ấy
Chính là báu thêm mầu
Nếu biết được như thế
Lo gì đạo chẳng thành.
Lão hèn mặc áo vá: Lão hèn chính là một người tuổi già rất ngu si, áo vá chính là áo rách phải dùng kim chỉ để vá lại.
Cơm hẩm đủ no lòng: Cơm hẩm chính là thức ăn không thêm các gia vị dầu, muối, tương, xì dầu, dấm..., rất nhạt nhẽo, không có mùi vị gì, chỉ có thể lót đầy bụng trống thôi.
áo vá qua cơn lạnh: áo rách được vá lành thì có thể dùng để ngăn cái lạnh lẽo từ bên ngoài.
Vạn sự chỉ tùy duyên: Bất cứ sự tình gì cũng tùy tiện mà giải quyết ổn thỏa. Việc đến thời ảnh hiện, việc đi kể như không, cũng chính là "Ðáo xứ tùy duyên qua ngày tháng, Thủ thường an phận mặc thời gian." Bất cứ sự tình gì hễ đến, đi thì kể như không, đó gọi là tùy duyên. Tùy duyên cũng chính là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến tùy duyên"; cũng chính là trong động có tĩnh, trong tĩnh có động; vừa tĩnh vừa động, vừa động vừa tĩnh.
Có người mắng lão hèn: Có người mắng ta là lão già ngu si.
Lão hèn cho là hay: Ta tự nói là hay quá, hay quá!
Có người đánh lão hèn: Có người đánh ta, cho ta là kẻ ngu si vô dụng, đoán xem điều gì sẽ xảy ra?
Lão hèn ngủ quên mất: Có người đánh ta một cái, ta nằm xuống ngủ quên ngay. Mình nói ngài là ngu si, tại sao lại làm thế? Thông thường người ta bị đánh thì trừng mắt nhướng mày nói: "Tại sao anh đánh tôi?" Nhưng ngài chẳng những không trợn mắt, mà lại nằm lăn trên đất ngủ khì nữa. Như vậy có quá hay hay không? Nếu ai có thể dùng được phương pháp này thì thật là không đến nỗi tệ, thật là có hạnh tu đấy.
Phun nước miếng lên mặt, có người phun nước miếng lên mặt mình thì lửa vô minh bốc lên hằng ba ngàn trượng: "Tại sao anh làm nhục tôi?!" Nhưng Bồ-tát Di Lặc thì: Cứ để nó khô thôi, để cho nó tự khô đi, tôi cũng không cần lấy tay lau sạch.
Ta cũng bớt sức lực, lau sạch nước miếng dù không hao phí sức lực bao nhiêu, nhưng cũng là phải dùng sức, bây giờ không lau thì sức lực đó cũng bớt phải xử dụng.
Anh cũng khỏi giận hờn, một khi mình thấy một người bị mình phun nước miếng lên mặt mà người ấy hình như coi như không, thì nghĩ rằng: "Cái người này! Mình không quen biết họ", thế thì giận hờn của mình không còn nữa.
Kiểu Ba-la-mật ấy, sao gọi là Ba-la-mật? Ðó là có người đánh, mình có thể ngủ thì được; có người phun nước miếng lên mặt, mình cứ để nó tự khô đi; đó chính là Ba-la-mật, cũng gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Giả như ngay đến Nhẫn nhục Ba-la-mật mà cũng không biết, thì mình học Phật pháp để làm chi? Chẳng cần phải suốt ngày từ sáng tới tối học đi học lại mãi mới gọi là học được nhiều Phật pháp, mà có khi cảnh giới đến lại không biết áp dụng một tí nào.
Chính là báu thêm mầu, đó là mầu nhiệm trong mầu nhiệm, quý báu trong quý báu. Nếu biết được như thế, lo gì đạo chẳng thành?
Nếu biết được những điều như trên thì lo gì không thành đạo được? Nếu tu học Nhẫn nhục Ba-la-mật như thế, thì đạo nghiệp của mình nhất định sẽ thành tựu; chư Phật, Bồ-tát không bao giờ dối gạt người đâu. Nếu mình học được như Bồ-tát Di Lặc thì nhứt định sẽ thành tựu đạo quả. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Bồ Tát Di Lặc là đại biểu truyền thừa tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật là một thời đại lớn. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật có Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp. Thời đại lớn này là một vạn hai ngàn năm. ....Bồ Tát Di Lặc chính là kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp, Di Lặc là vị thứ năm, cho nên là tiếp nối tương lai, cũng tiếp nối pháp môn này. Pháp môn này là pháp môn đệ nhất, mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo. Pháp môn đệ nhất chính là kinh Vô Lượng Thọ. Đối tượng kinh Vô Lượng Thọ, đối tượng có thể tiếp dẫn chính là chúng sanh căn tánh chín muồi ở thế gian - Ngay trong một đời này quyết định làm Phật. Đó chính là đối tượng của kinh Vô Lượng Thọ. Đây là thật, không phải giả ! .....H.T. TINH KHÔNG ! Xem thêm
+ 670. THỌ KÝ ĐỨC PHẬT DI LẶC
Này Di-lặc, vào một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, ngươi sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Giống như Ta hiện nay là Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. (Nguồn: mục 670- (Trung A Hàm, Kinh Thiên Sứ, Phẩm 6, số 64)
+ Di-lặc Bồ-tát, còn gọi là A-dật-đa (Ajita/ Hán dịch: Vô năng thắng). Di-lặc/ Từ thị (Maitreya) là họ của gia đình. Vị tăng to béo mập mạp. Có lẽ là vị Bồ-tát nầy thích ăn ngon. Ngài cũng rất thích cười, Ngài rất thích chơi với trẻ con, và đáp lại, trẻ con cũng rất thích chơi với ngài. Sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt, không còn là bậc đạo sư giáo hoá chúng sinh ở cõi nầy nữa, thì Đức Phật Di-lặc sẽ ra đời để tiếp tục việc giáo hoá chúng sinh. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni được gọi là Hồng Dương Phật. Khi Bồ-tát Di-lặc thành Phật, ngài sẽ được gọi là Bạch Dương Phật. Điều nầy có nghĩa là khi Đức Phật Di-lặc thị hiện ra đời, thì máu của chúng sinh sẽ là màu trắng, không còn màu đỏ như thời trước nữa. Loài người hiện nay có máu màu đỏ vì đang ở trong thời giáo hoá của Hồng Dương Phật.
Khi nào Đức Phật mới Di-lặc thị hiện ra đời? Nghe thật là lâu xa khi quý vị được kể ra ...(Mời xem trong Kinh văn). Thời Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dậy con tu tập pháp định duy tâm thức (Tam giới duy tâm - Vạn pháp duy thức là nguyên lý của pháp Duy thức quán), con được nhập vào chánh định, tâm cầu danh thế gian đã diệt. Bạch Đức Thế tôn, do con rõ được tánh duy thức như vậy, nên từ thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được Phật thụ kí, kế tiếp thành Phật ở cõi nầy. Đức Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp quán tường tận mười phương đều do thức biến. Thức tâm được tròn sáng, thể nhập tánh viên thành thật, rời xa các tánh y tha khởi và tánh biến kế sở chấp, được pháp vô sanh nhẫn. Đó là phương pháp tốt nhất. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Từ Thị Nhẫn: Từ Thị là Bồ Tát Di Lặc, bụng của ngài rất mập mạp, ai có lỗi lầm gì thì ngài cũng đều tha thứ, ngài luôn cười hì hì. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr69 - HT Tuyên Hóa giảng)
Xem: Tóm lược các Kỳ công của Hercules huyền thoại và Đức Phật và Đức Christ
Xem: Hercules và Đức Phật, Đức Christ
+ Năng lượng Hành tinh chi phối phàm ngã
- Có một trạng thái năng lượng mà nhà chiêm tinh học hiện đại rất ít để tâm đến, tuy thế nó lại vô cùng quan trọng. Đây là năng lượng phát ra hay là xạ ra từ chính Địa Cầu. Linh hoạt như tất cả mọi con người đang sống trên bề mặt của Địa Cầu và do đó được phóng vào thể dĩ thái của hành tinh (vì lý do là “con người đứng thẳng”) thân thể con người lúc nào cũng ngập trong các phóng xuất và các phát xạ của Địa Cầu chúng ta và trong tính chất toàn vẹn của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta khi Ngài phát ra và truyền năng lượng bên trong vùng chung quanh hành tinh của Ngài. Các nhà chiêm tinh học luôn luôn nhấn mạnh vào các ảnh hưởng và các năng lượng đang đi đến khi chúng đập mạnh vào (beat upon) và tác động qua hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia đã bỏ quên không xem xét thích đáng các tính chất và các lực phát ra vốn là sự đóng góp của thể dĩ thái của Địa Cầu chúng ta vào tổng thể lớn hơn. Chúng ta sẽ xem xét điều này sau, nhưng Tôi cảm thấy cần kêu gọi sự chú ý của các bạn vào lúc này.
Trong chiêm tinh học huyền bí, ảnh hưởng của mặt trăng được ghi nhận dưới hình thức một ảnh hưởng của tư tưởng và như kết quả của một hình tư tưởng mạnh mẽ và cổ xưa nhất; tuy nhiên mặt trăng không có tính chất nào của chính nó và không thể truyền qua cho Địa Cầu thứ gì cả. Tôi xin lặp lại: mặt trăng là một hình hài chết; nó không có một phóng phát nào cả. Đó là lý do giải thích tại sao mặt trăng được nói đến trong giáo lý cổ xưa như là “đang che phủ hoặc là hành tinh Vulcan, hoặc là hành tinh Uranus”. Ẩn dụ hoặc suy đoán này luôn luôn nằm ở chỗ này và các chiêm tinh gia sẽ thành công khi làm thí nghiệm với gợi ý đó mà Tôi đã đưa ra về mặt trăng và (thay vì hành động với mặt trăng) hãy để họ hoạt động với Vulcan khi liên quan đến người kém tiến hóa hay người bình thường và hoạt động với Uranus khi xét đến người phát triển cao. Họ sẽ rút ra được một vài kết quả lý thú và có tính thuyết phục.
“Chiêm tinh học có liên quan với hiệu quả được tạo ra trong vật chất của các thể thấp (sheaths, lớp vỏ) bởi các ảnh hưởng, các rung động v.v… của các hành tinh khác nhau. Về mặt huyền bí đây là các ảnh hưởng của các trung tâm thái dương. Các lực này phát ra từ các trung tâm thái dương, tác động trên các trung tâm hành tinh… Điều này được ẩn giấu trong karma của Hành Tinh Thượng Đế (Heavenly Man).
Bên cạnh các ảnh hưởng này, cần nên nhớ rằng về mặt chuyên môn, chúng ta cũng cần thêm vào ảnh hưởng bức xạ trực tiếp đến với chúng ta từ hành tinh mà chúng ta sống, tức Địa Cầu. Lúc bấy giờ, và chỉ lúc bấy giờ, bạn có thể có một phân tích và hình ảnh tạm đầy đủ về các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người, nhưng chỉ có thể xảy ra ở một trình độ phát triển tương đối tiến bộ và khi con người tiến gần Thánh Đạo (hiểu về mặt chuyên môn). Trước tiên, con người học cách kiềm chế các phản ứng của mình đối với các hành tinh khi chúng chi phối và điều khiển các sự việc thuộc phàm ngã của y từ các “trạm” (“stations”) khác nhau của chúng trong mười hai cung (houses) của lá số tử vi của con người. Điều này được thi hành theo hai cách:
Thứ nhất: Bằng cách có được lá số tử vi giải đoán đúng và kế đó chọn các giai đoạn để xác định những gì cần làm để vô hiệu hóa (negate) các ảnh hưởng của hành tinh ở nơi nào xét thấy thích hợp để kiềm chế các phản ứng của phàm ngã.
Điều này phải được làm bằng cách áp dụng sức mạnh của tư tưởng. Việc này đòi hỏi sự tin tưởng hoàn toàn vào việc tìm hiểu và lý giải của các nhà chiêm tinh học và việc biết thật đúng lúc sinh ra. Người ta thắc mắc không biết là các tình trạng về thời điểm chính xác này và nhà chiêm tinh hoàn toàn minh triết, cho đến nay có hay không.
Thứ hai: Bằng cách đảm nhiệm sáng suốt lập trường của Nhà Quan Sát tâm linh, và bằng cách vun trồng năng lực đáp ứng với Linh Hồn. Kế đó, từ quan điểm của Linh Hồn đó, con người phải học cách kiểm soát hoàn cảnh và các phản ứng kèm theo của phàm ngã.
Các thái độ và các lập trường sau đây mà nhà chiêm tinh huyền bí chọn lựa nên được lưu ý:
1. Đó là các ảnh hưởng hành tinh cho thấy khuynh hướng của các hoàn cảnh sống bên ngoài. Đối với người thường và người kém tiến hóa, khi được lý giải đúng, các ảnh hưởng đó có thể và chắc chắn báo hiệu số phận và định mệnh của phàm ngã; các ảnh hưởng đó nhất định chi phối và hoàn toàn kiểm soát người nào vốn không có kinh nghiệm rõ rệt về linh hồn. Thời điểm mà một người bắt đầu biết được về linh hồn của chính mình và đang nỗ lực để kiểm soát “con đường trong sự sống” của chính mình, thì ảnh hưởng của các hành tinh, tự nó, yếu đi một cách rõ rệt và ngày càng kém hẳn; biểu đồ phàm ngã của y dường như không đi đến kết quả cụ thể nào (inconclusive) và thường không còn chính xác chút nào (most inaccurate). Chính thần lực đang tuôn chảy qua các hành tinh chứ không phải lực của chính các hành tinh lúc đó mới chi phối và kiểm soát. Lúc bấy giờ con người mới bắt đầu dễ tiếp nhận các năng lượng cao siêu và tinh anh hơn của thái dương hệ và của mười hai tinh tòa đang chi phối.
2. Chính là cung Thái Dương (Sun sign), như người ta thường gọi, chỉ ra / báo hiệu (indicate) bản chất của con người, về vật chất, trí tuệ và tâm linh. Nó nắm giữ cái bí ẩn của cung phàm ngã và của sự đáp ứng của con người, hoặc là thiếu sự đáp ứng đối với Linh Hồn, tức con người thực sự (real man, chân nhân). Nó cũng chỉ ra sự hội nhập đã đạt được và mức độ khai mở hiện tại của các tính chất linh hồn, của thiết bị đang có hiện nay, của tính chất sự sống hiện tại và của các mối liên hệ tập thể có thể có tức khắc. Theo quan điểm của Minh Triết Nghìn Đời, nó không chỉ ra gì cả. Đây là một đảo lộn của lập trường chiêm tinh học thông thường. Lý do mà Tôi đưa ra ấy là nhân loại đã đủ tiến hóa để cho chiêm tinh học của linh hồn sẽ sớm trở nên thích hợp; theo nhiều quan điểm, nó tạo nên một đảo ngược so với biện pháp thông thường. Điều này vừa khôn ngoan vừa cần thiết và cũng không thể tránh được. Sau rốt, các nhà chiêm tinh sẽ được chia thành hai hạng:
Chiêm tinh gia ngoại môn sẽ bận tâm đến lá số tử vi của phàm ngã, và chiêm tinh gia nội môn, là những người sẽ quan tâm đến các mục tiêu của linh hồn.
3. Cung mệnh (rising sign) chỉ ra các năng lực cao xa hơn, cùng với mục tiêu tinh thần và mục đích của việc lâm phàm liền đó và của các lần lâm phàm kế tiếp sát nách. Chính cung này có liên quan với sự phấn đấu của con người tâm linh “để xúc tiến” (“to carry on”) từ mức độ đã đạt được để cho khi mà năng lượng sự sống bị nhất thời cạn kiệt và “cái chết của phàm ngã” xảy ra, con người tìm thấy chính mình “gần hơn với trung tâm của sự sống của mình, gần hơn với trung tâm của nhóm mình và tiến gần tới trung tâm của sự sống thiêng liêng”, như Minh Triết Muôn Thuở diễn tả. Câu nói đặc biệt này “cái chết của phàm ngã” có hai hàm ý rõ rệt:
a/ Nó có thể có nghĩa là cái chết của thể xác, tất nhiên nó được theo sau bằng hai giai đoạn của cái chết của thể tình cảm và sự tan biến tiếp theo sau của hình tướng nhất thời và luôn luôn thay đổi mà phần phải đóng góp (quota, chỉ tiêu) của năng lượng trí tuệ đã đảm đương trong lúc lâm phàm.
b/ “Cái chết bên trong và thần bí của phàm ngã”. Đây là một câu nói cho thấy sự chuyển đổi của sự tập trung đối với sự phân phối năng lượng từ phàm ngã (một trung tâm lực xác định) đối với linh hồn (một trung tâm lực xác định khác). Tôi hiểu rằng các quan niệm này đều không phù hợp với các nguyên lý cơ bản của chiêm tinh học thông thường.
Tuy nhiên chiêm tinh học sẽ không phí thời gian nếu nó thực nghiệm với các ý tưởng này trong một thời gian. Các chiêm tinh gia có thể tìm ra một số vấn đề lý thú nhất và lôi cuốn nhất và có lẽ đạt đến một độ chính xác mà ngày nay chưa ai biết được. Có thể là hữu ích nếu Tôi quảng diễn thêm đôi chút về điểm này:
Về cung thái dương, cung mệnh và ảnh hưởng của hình tư tưởng liên quan với mặt trăng, lập trường của chiêm tinh học huyền bí như sau:
1. Cung thái dương. Cung này báo hiệu vấn đề/ khó khăn (problem) hiện tại của con người; nó thiết lập nhịp độ phát triển hay là nhịp sinh hoạt của sự sống phàm ngã của con người; nó được liên kết với đặc tính, tính tình và các khuynh hướng sự sống vốn đang tìm cách biểu lộ trong lần luân hồi đặc biệt này, và nó làm liên tưởng đến khía cạnh hoạt động của con người bẩm sinh. Về mặt căn bản, các mãnh lực được tìm thấy nơi đây đều biểu lộ cho đường lối ít đối kháng nhất.
2. Cung mệnh (ascendant or rising sign) chỉ ra sự sống có dự kiến hay là mục tiêu trước mắt của linh hồn cho lần luân hồi này. Nó nắm giữ cái bí ẩn của tương lai và đưa ra thần lực mà, khi được vận hành đúng, sẽ đưa con người tới thành công. Nó trình bày khía cạnh hài hòa (sattvic or harmony aspect) của sự sống và có thể tạo ra mối liên hệ đúng giữa linh hồn với phàm ngã trong bất luận một cuộc luân hồi nào. Như thế, nó vạch ra phương hướng đưa đến việc thừa nhận mãnh lực của linh hồn.
3. Mặt trăng. Loại thần lực này (đến từ một số hành tinh chứ không đến từ mặt trăng) báo hiệu rằng lực đó thuộc về quá khứ (past). Do đó, nó tổng kết giới hạn và các bất lợi hiện tại. Nó chi phối xác thân và cho thấy nơi mà nhà tù của linh hồn phải được tìm ra. (CTHNM, 25 - 30)
+ Một loạt bảy bầu hành tinh (globes) hay thế giới hợp thành trường tiến hóa trong chu kỳ hành tinh hay chu kỳ khai nguyên (manvantara). Ba bầu đầu tiên trong các bầu – thường được biết như là bầu A, B và C hợp thành một vòng cung đi xuống, vật chất hồng trần trọng trược nhất của sự giáng hạ (descent) được đạt đến trong bầu thứ tư, bầu D, thí dụ như Địa cầu chúng ta. Bầu thứ 5, bầu E ở trên vòng cung thăng thượng (tương ứng với bầu C trên vòng cung giáng hạ) thường thuộc về cõi cảm dục, và các bầu thứ 6 và 7, tức bầu F và G (tương ứng với bầu B và A trên cung giáng hạ) thuộc về cõi phụ sắc tướng (Rupa) và vô sắc tướng (Arupa) của cõi trí, do đó, các bầu này đều vô hình đối với mắt thường. (LVLCK, 382) Xem thêm: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ
7.9. Định luật Ái lực Hành tinh (law of Planetary Affinity):
Thuật ngữ này được dùng trong giáo huấn huyền linh đặc biệt có liên quan đến sự tương tác của các hành tinh với nhau và sự kết hợp (marriage) sau cùng của chúng.
* Định luật này là Định Luật phụ của Định luật Hấp dẫn (Law of Attraction): Định luật hấp dẫn là định luật về lửa, lửa này được tạo ra do sự phối hợp trong lúc tiến hóa của hai cực… (LVLCK, 1168–1173).
+ 7.11. Định luật về các Trường phái (Law of the Schools, Định luật Bác ái và Ánh sáng):
Đây là một thuật ngữ huyền bí được dùng để che đậy định luật khi nó tác động vào các mở rộng của tâm thức mà một vị đạo đồ đang trải qua và năng lực của vị này để thu hút về chính mình nhờ sự hiểu biết:
1. Thượng ngã của riêng mình, để tạo ra chỉnh hợp và giác ngộ.
2. Vị Đạo sư Tinh thần của mình (Guru).
3. Cái mà y tìm cách để biết.
4. Cái mà y có thể sử dụng trong công việc phụng sự của mình.
5. Các linh hồn khác mà y có thể hoạt động với họ. (LVLCK, 1168–1173)
* Định luật này là Định Luật phụ của Định luật Hấp dẫn (Law of Attraction): Định luật hấp dẫn là định luật về lửa, lửa này được tạo ra do sự phối hợp trong lúc tiến hóa của hai cực… (LVLCK, 1168–1173).
+ Các Hành Tinh , Các Cung và Giáo Lý Nội Môn
Uranus (thứ 7) – Trường Phái Pháp Thuật (school of Magic) thuộc đẳng cấp thứ 10. Đôi khi còn được gọi là “hành tinh của lực màu tím”, và những người tốt nghiệp của trường đó sử dụng năng lực của prana dĩ thái vũ trụ.
Địa Cầu (thứ 3) – Trường Phái Đáp Ứng Từ Điện (School of Magnetic Response). Một tên gọi khác được dành cho các môn sinh của nó là “Những người tốt nghiệp của nỗ lực đau khổ” hay là “trọng tài giữa các đối cực”. Những người tốt nghiệp (693 766 Chiêm tinh học nội môn) của Trường Phái này được cho là trải qua sự khảo sát trên cõi phụ thứ ba của cõi cảm dục.
Vulcan (thứ 1) – Trường Phái Hỏa Thạch (The School of Fiery Stones). Có một tiếp nối kỳ lạ giữa các đơn vị nhân loại, là kẻ đang vượt qua các phòng của Trường Phái đó với giới khoáng chất. Các đơn vị con người trên hành tinh hệ Địa Cầu được gọi là “các sinh thạch” (“the living stones”); trên Vulcan chúng được gọi là “các hỏa thạch”.
Jupiter (thứ 2) – Trường Phái các Huyền Thuật Gia Phúc Lợi (The School of Beneficent Magicians). Hành tinh này đôi khi được gọi theo cách nói thông thường là các Trường Phái, “College of Quadruple Force Units” vì các thành viên của nó sử dụng bốn loại thần lực trong công tác huyền thuật kiến tạo. Một tên gọi khác được dành cho các phòng của nó là “Dinh Thự Sang Trọng” (“The Palace of Opulence”) vì những người tốt nghiệp của nó hoạt động với Luật Cung Cầu (Law of Supply) và thường được gọi là “những kẻ gieo” (“sowers”).
Mercury (thứ 4) – Các đệ tử của trường phái hành tinh này được gọi là “Các Con của Hoài Bão” (“The Son of Aspiration”) hay là “Các điểm Ánh Sáng Vàng”. Họ có một liên hệ chặt chẽ với hành tinh hệ Địa Cầu chúng ta. Tên gọi của trường phái này không được đưa ra.
Venus (thứ 5) – Trường Phái có 5 Cấp chặt chẽ (The School with five strict Grades). Đây là một hành tinh hệ có liên quan chặt chẽ với hành tinh hệ chúng ta. Hành Tinh Thượng Đế của nó thuộc vào một nhóm các môn sinh vũ trụ tiến hóa nhiều hơn là chúng ta. Hầu hết các bậc thầy của Huyền Giai của nó đều phát xuất từ cõi vũ trụ thứ năm.
Mars (thứ 6) – Trường Phái cho các Chiến Sĩ (The School for Warriors), hay là các cấp mở rộng cho các chiến sĩ. Bốn trong số các trường phái hành tinh này chịu trách nhiệm cho năng lượng đang tuôn chảy qua “bốn tập cấp” (“four castes”) trong mọi phần của thế giới. Các huấn sư của nó được nói đến như là “Các Học Viên của Ngọn Lửa Đỏ Hồng” (“Graduates of the Ruddy Flame”) và thường được mô tả như là được khoác trong các áo choàng đỏ…. Chúng hoạt động dưới Ngôi Một của Thượng Đế và huấn luyện cho những người mà công việc của họ đi theo các đường lối của tác nhân hủy diệt.
Neptune (thứ 6) – Trường phái này chính nó có liên quan với sự phát triển của yếu tố dục vọng và các học viên của nó được gọi là “Các Con của Vishnu”, (LVLCK, 1177 – 1179)
Các Trường Phái trên Saturn, Mặt Trời, Mặt Trăng và trên Pluto nữa không được để riêng, mà toàn bộ cả 12 hành tinh nữa. (Nguồn: Chiêm Tinh Học Nội Môn)
+ Đức Bàn cổ: Ngài là toàn bộ Phương diện Ý chí của Thiên tính. Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan đến chính quyền, đến nền chính trị hành tinh, và đến việc thành lập, hướng dẫn, và giải tán các loại và hình thể chủng tộc. Ngài được giao cho Ý chí và Chủ đích của Đức Hành tinh Thượng Đế là Đấng Thiêng liêng Cao cả nhất đang trông nom Địa cầu, và là “Thượng Đế” của chúng ta.(Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Đức Bàn Cổ (Manu): Đức Bàn Cổ chủ trì nhóm thứ nhất. Ngài được gọi là Đức Bàn Cổ Vaivasvata và là Bàn Cổ của căn chủng 5. Ngài là mẫu người hay tư tưởng gia lý tưởng và tạo mẫu cho giống dân Aryan của chúng ta, đã chủ trì vận mệnh của giống dân này từ khi nó bắt đầu có gần 100.000 năm nay. Các vị Bàn Cổ khác đã đến và đi, trong một tương lai gần, nhiệm sở của Ngài sẽ được một vị khác đảm trách. Lúc đó, Ngài sẽ chuyển sang công việc khác cao hơn. Đức Bàn Cổ hay nguyên mẫu của căn chủng 4, hoạt động hợp tác chặt chẽ với Ngài và có trung tâm ảnh hưởng ở Trung Quốc. Ngài là Đức Bàn Cổ thứ hai của căn chủng 4 đã giữ địa vị của Đức Bàn Cổ trước vào các giai đoạn cuối lúc châu Atlantis bị hủy diệt. Ngài đã ở lại để bảo dưỡng sự phát triển của kiểu mẫu giống dân và để cuối cùng nó sẽ biến mất. Các giai đoạn hoạt động của tất cả các Đức Bàn Cổ trùng lắp lên nhau, nhưng vào lúc này, trên bầu hành tinh không còn đại diện nào của căn chủng 3 nữa. Đức Bàn Cổ Vaivasvata ngự tại vùng Hy Mã Lạp Sơn đã tụ tập được quanh Ngài ở Shigatse một số người có liên hệ tức thời với các công việc của giống dân Aryan ở Ấn Độ, Âu Châu và Mỹ Châu và những người mà sau này sẽ có liên hệ đến căn chủng thứ sáu sắp đến. Các kế hoạch được chuẩn bị trước nhiều thời đại, các trung tâm năng lượng được tạo ra hàng ngàn năm trước khi chúng sẽ được cần tới và với sự tiên tri sáng suốt của các Đấng Thiêng liêng này, không gì bị để cho kết thúc đột ngột, mà tất cả đều hoạt động theo các chu kỳ đã sắp xếp, theo quy luật và định luật, mặc dù trong giới hạn nghiệp quả. Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan tới việc cai trị, đến việc chính trị trên hành tinh, đến việc tạo ra, điều khiển và giải thể các kiểu mẫu và hình hài chủng tộc. Ý chí và chủ đích của Hành Tinh Thượng Đế được giao cho Ngài. Ngài biết đâu là mục tiêu trước mắt đối với chu kỳ tiến hóa mà Ngài phải chủ trì và công việc của Ngài liên quan tới việc thành toàn thiện chí, Ngài hoạt động hợp tác chặt chẽ với các thiên thần kiến tạo hơn là Huynh Trưởng của Ngài, Đức Christ, vì Ngài được giao cho công việc tạo nên mẫu giống dân, tách ra các nhóm sẽ phát triển thành các giống dân, vận dụng các lực làm chuyển dịch (move) vỏ địa cầu, nâng cao và hạ thấp các lục địa, chi phối trí óc của các chính khách ở khắp nơi, để cho việc cai trị nhân loại sẽ diễn tiến như ý muốn, mang lại những điều kiện sẽ tạo ra những gì cần thiết cho việc bảo dưỡng bất cứ kiểu mẫu đặc thù nào. Hiện nay, các việc như thế có thể được thấy đang lộ ra ở Bắc Mỹ và Úc Châu. Năng lượng đang tuôn tràn qua Đức Bàn Cổ phát xuất từ bí huyệt đầu của Hành Tinh Thượng Đế, truyền sang Đức Bàn Cổ qua não bộ của Đức Sanat Kumara, là Đấng đang tập trung mọi năng lượng hành tinh vào trong chính Ngài. Đức Bàn Cổ hoạt động nhờ vào việc thiền định thâm sâu, được điều khiển trong bí huyệt đầu và tạo ra các kết quả nhờ việc Ngài hoàn toàn nhận thức được điều gì phải được hoàn thành, nhờ năng lực hình dung ra những gì cần phải làm để đưa tới thành quả và nhờ vào khả năng truyền chuyển năng lượng sáng tạo và hủy diệt đến những vị phụ tá cho Ngài. Tất cả những điều này được thành tựu nhờ quyền năng của diệu âm được minh xướng (phát ra rõ ràng). (ĐĐLVTD, 41–47)
+ Đức Văn minh Đại đế (Mahachohan): Vị Trưởng của nhóm ba là Đức Văn minh Đại đế. Ngài bao gồm Phương diện Thông tuệ của thiên tính. Ngài còn có danh hiệu là vị Chúa của Văn minh. Ngài vận dụng nguồn bác ái thông tuệ và có trách nhiệm điều hành việc thực hiện Thiên cơ.
Tất cả mọi người đều rốt cuộc sẽ đi vào một trong Ba Ngành này của Huyền giai.
Vì thế, ba Đấng cao cả này đại diện cho Ý chí, Bác ái, và Thông tuệ. Ba Đấng này hợp tác hết sức chặt chẽ và hợp nhất với nhau, và mọi bước tiến hoặc kế hoạch ảnh hưởng đến nhân loại, các giới khác trong thiên nhiên và cả hành tinh này, đều được các Ngài quản trị. Các Ngài là đại diện thực hiện Chủ đích Hành tinh, để mang lại tình thương và những mối liên giao chính đáng của con người, và để đẩy nhanh cuộc tiến hóa của nhân loại qua việc thực hiện Thiên cơ. (Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Đức Văn Minh Bồ Tát/ Đại Đế (Lord of Civilisation, Mahachohan, Cho-Khan Thư của Ch. S. 57): Vị Lãnh Đạo của nhóm ba là Đức Mahachohan. Việc cai quản của Ngài đối với nhóm này kéo dài lâu hơn hai vị Huynh trưởng của Ngài. Ngài có thể giữ chức vụ này trong thời hạn nhiều căn chủng. Ngài là toàn bộ trạng thái thông tuệ. Đức Mahachohan hiện nay không phải là Đức đầu tiên giữ chức vụ này lúc thành lập Thánh Đoàn vào thời Lemuria – lúc bấy giờ, chức này được nắm giữ bởi một trong các vị Kumara hay Hỏa Tinh Quân (Lords of the Flame) đã lâm phàm cùng với Đức Sanat Kumara – mà Ngài đã giữ ngôi vị này trong chi chủng thứ hai của căn chủng Ắt lăng. Ngài đạt đến quả vị Chân Sư (Adeptship) trên dãy nguyệt cầu, và chính qua trung gian của Ngài mà một số lớn nhân loại tiến bộ hiện nay đã lâm phàm vào giữa căn chủng Ắt lăng. Liên hệ nghiệp quả giữa họ với Ngài là một trong những nguyên nhân xảy ra trước khiến cho việc này xảy tới sau. Công việc của Ngài liên hệ tới việc bảo dưỡng và củng cố mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất, giữa sự sống với sắc tướng, giữa ngã với phi ngã, đưa tới kết quả tạo ra cái mà chúng ta gọi là văn minh. Ngài vận dụng các lực của thiên nhiên, và phần lớn là các nguồn phát ra điện năng như chúng ta biết. Ngài là phản ánh của Ngôi Ba hay Ngôi Sáng Tạo, nên năng lượng từ Hành Tinh Thượng Đế lưu chuyển đến Ngài từ trung tâm lực cổ họng, và chính Ngài, bằng nhiều cách, làm cho công việc của các Huynh trưởng Ngài được thành toàn. Các kế hoạch và ý muốn của các Vị này được chuyển qua Ngài và thông qua Ngài, các giáo huấn đến được một số lớn các vị thừa hành thuộc giới thiên thần. (ĐĐNLVTD, 45)
+ Đức Văn Minh Bồ Tát: Công việc của Đức Văn Minh Bồ Tát cũng có thể được nhìn thấy với hiệu quả là các devas của hỏa xà đang được tạo ra trên con người ..... luồng hỏa này chịu trách nhiệm cho phản ứng chống lại sự phối hợp thể chất (physical marriage) và cho ước muốn hiện rõ của những người tiến hóa cao ở mọi nơi để né tránh liên hệ hôn nhân, và giới hạn chính họ vào việc sáng tạo trên cõi trí hoặc cõi cảm dục. Điều này là do khuynh hướng hiện tại của các thiên thần điều khiển của các cơ quan sinh sản hạ đẳng muốn tìm bí huyệt cổ họng và hoạt động ở đó, vận dụng sức mạnh của luồng hỏa xà để tạo ra việc đó. Mọi điều này đều ở dưới luật tiến hóa, nhưng trong thời gian chuyển tiếp giữa nhân với quả được biện minh, nhiều tổn hại, né tránh thiên luật, tất nhiên là gây đau khổ có thể được nhìn thấy. ...
Sự lơ là (laxness) trong liên hệ hôn nhân, do mối nguyên nhân đặc biệt này, chỉ được nhìn thấy trong số những người tiến hóa cao và trong số các tư tưởng gia độc lập của nhân loại. Sự lơ là tương tự ở trong quần chúng và các hạng người thấp kém của nhân loại, được dựa vào một lý do khác, và quan hệ bừa bãi (promiscuity) của họ là do một vài phát triển của bản chất con vật trong biểu lộ thấp nhất của nó. Hai nguyên nhân này sẽ chịu sự duyệt xét của những người có nhu cầu hiện tại của nền văn minh đích thực. Lúc bấy giờ họ có thể hợp tác với Đức Mahachohan trong công việc để thực hiện sự chuyển tiếp thần lực rất cần thiết từ một trung tâm thấp đến một trung tâm cao, và ngăn chận (nhờ sự hiểu biết) sự phóng túng có thể xảy ra. Điều này sẽ mang lại việc khước từ làm hoen ố tình thương cao cả hay là sự thôi thúc về phái tính đối với thiên nhiên.
Cung nghi lễ thường được gọi là “nghi thức hôn phối của Con”, bởi vì Tinh thần và vật chất có thể đáp ứng và hợp nhất trên cung này. Sự kiện này cũng sẽ được ghi nhớ trong một trăm năm tới đây, vì chúng sẽ chứng kiến các thay đổi lớn trong các luật hôn nhân. (LVLCK, Tr 909)
+ Hành tinh hệ (Scheme, Planetary scheme, Hệ thống hành tinh): - Bảy chu kỳ dãy hành tinh (chain periods) hợp thành một hành tinh hệ. Mười hành tinh hệ hợp thành một thái dương hệ (solar system). (LVLCK, 63)
+ Thể biểu lộ (body of manifestation) của một Hành Tinh Thượng Đế (Heavenly Man) tức là một hành tinh hệ (a scheme). Mỗi hành tinh hệ có bảy dãy hành tinh. Mỗi dãy có bảy bầu hành tinh (globes) tạo thành tổng số 49 bầu; đến lượt mỗi bầu lại bị chiếm hữu bởi sự sống của Thượng Đế (Logos) trong điều mà chúng ta gọi là 7 cuộc tuần hoàn (rounds), theo sát nghĩa, tạo ra 49 x 7 = 343 cuộc lâm phàm hay là các xung lực mới để biểu lộ.(LCLCK, 366)
+ Các hành tinh hệ khác nhau đều không giống nhau và khác về (LVLCK, 1163):
a. Loại năng lượng,
b. Mức tiến hóa,
c. Vị trí trong cơ tiến hóa chung,
d. Cơ hội nghiệp quả,
e. Tốc độ rung động.
Xem: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ
+ Hành tinh thánh thiện: Là các hành tinh mà các mãnh lực cung đang biểu hiện cho linh hồn và tinh thần, với cung Phàm ngã của Đấng vĩ đại đang làm linh hoạt, tức Hành Tinh Thượng Đế đã tuân phục vào 2 cung cao, như trường hợp con người sau khi được điểm đạo lần 1 (CTHNM, 363)
– Về mặt cơ bản, có thể nói rằng một hành tinh được xem là “thánh thiện” khi Đấng tinh thần đang làm linh hoạt hành tinh đó đã nhận được 5 trong số các cuộc điểm đạo vũ trụ chủ yếu. Còn một hành tinh ‘không thánh thiện” là hành tinh mà vị Hành Tinh Thượng Đế của nó chưa nhận được các cuộc điểm đạo này.(CTHNM, 503)
– Phải nhớ 3 điều: Mỗi một trong số 7 hành tinh thánh thiện là một biểu hiện của 1 trong 7 ảnh hưởng của Cung năng lượng. người nghiên cứu phải nhớ 3 điều:
1. Mỗi hành tinh là hiện thân của một Sự Sống hay một Thực Thể Thông Linh hay Đấng Cao Cả;
2. Giống như 1 con người, mỗi hành tinh là biểu hiện của 2 thần lực của Cung – lực phàm ngã và lực chân ngã.
3. Do đó, trong mỗi hành tinh, 2 Cung ở vào trạng thái xung đột huyền bí (CTHNM, 721)
– Về mặt cơ bản, có thể nói rằng một hành tinh được xem là “thánh thiện” khi Đấng tinh thần đang làm linh hoạt hành tinh đó đã nhận được 5 trong số các cuộc điểm đạo vũ trụ chủ yếu. Còn một hành tinh ‘không thánh thiện” là hành tinh mà vị Hành Tinh Thượng Đế của nó chưa nhận được các cuộc điểm đạo này. (CTHNM, 503)
+ Bảy hành tinh thanh thiện (Cần đối chiếu giữa 2 sách dưới đây)
a/ Hành tinh thánh thiện tương ứng với 7 Trung tâm lực trong con người, tức 7 Luân Xa (TLHNM III, 19):
1. Hỏa vương tinh (Vulcan) ........ Cung 1
2. Thủy tinh (Mercury) ..... Cung 4
3. Kim tinh (Venus) ................... Cung 5
4. Mộc tinh (Jupiter) .................. Cung 2
5. Thổ tinh (Saturn) .................. Cung 3
6. Hải vương tinh (Neptune) ...... Cung 6
7. Thiên vương tinh (Uranus) ..... Cung 7
b/ Bảy hành tinh thánh thiện - Luận về lửa càn khôn
1. Thổ tinh (Saturn) ..
2. Mộc tinh (Jupiter)
3. Hoả tinh (Mars) …
4. Thái dương (Sun)(thay cho hành tinh khác)
5. Kim Tinh (Venus)
6. Thuỷ tinh (Mercury)
7. Nguyệt cầu (Moon)(thay cho một hành tinh khác).
Hải Vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh (Uranus) không được kể ra ở đây, hành tinh Vulcan cũng thế.
Quỹ đạo của Hải Vương tinh hiển nhiên bao gồm toàn thể vòng giới hạn.
Hành tinh Vulcan ở trong vòng quỹ đạo của Thuỷ tinh. (LVLCK, 205)
+ Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh
Hoạt động qui nguyên của hành tinh (Obscure activity of the planet): Trong trường hợp các giới dưới nhân loại trong thiên nhiên, sự chết là kết quả trực tiếp của hoạt động qui nguyên của hành tinh. Ý tưởng duy nhất về tác động của nó mà tôi có thể đưa ra cho bạn là linh hồn của mọi hình thức sự sống phi nhân loại là một trạng thái nội tại của vật chất mà chính hành tinh được tạo thành. Linh hồn này có thể được triệt thoái tùy theo chu kỳ, tuy khoa học chưa biết được cụ thể nhưng trong cách hành động của họ đã có xác định và chắc chắn – ngoài các tai họa lớn của hành tinh hay là tác động trực tiếp của giới thứ tư trong thiên nhiên (tức là giới nhân loại–ND). Quyền lực có sẵn này của hành tinh đưa đến cái chết của một động vật và trong tìm mức rộng lớn hơn của cơ tiến hóa – đưa đến sự tuyệt chủng. Vào đúng lúc, nó cũng đưa đến cái chết của các hình hài của giới thực vật, và cũng là một trong các nguyên nhân đưa đến chu kỳ mùa thu trong năm, gây ra “sự tàn úa (the sere), sự vàng lá”, sự mất màu xanh tươi nơi loài cỏ, và các biểu hiện theo chu kỳ này cho thấy không chỉ một mình sự chết, ở một mức độ tạm thời và thoáng qua, mà còn có việc ngưng hoàn toàn sức sống trong hình hài. “Các thời kỳ hủy diệt” là các biểu hiện theo chu kỳ của “trạng thái hủy diệt” trong chính hành tinh. Tất nhiên đây là các vấn đề khó hiểu đối với bạn. (CTNM, 244)
+ Kim tinh/ Venus: Truyền dẫn Cung 5 (GQ1- CT con người)
- Venus: Hành tinh thánh thiện Venus - Kim tinh so với Hành tinh Địa cầu giống như Chân ngã so với Phàm ngã (CTHNM, 436)
- Venus: Về mặt huyền bí, Venus là Hành tinh bổ xung của Địa cầu, vốn là đối cực của Đại cầu (CTHNM, 33)
- Cảm nhận thẩm mỹ, nghệ thuật, vẻ đẹp, tình cảm, tình yêu. Xem nguồn);
- Nếu một người có sao Kim có góc hợp cứng đối với sao Hỏa, liệu điều này có ngụ ý rằng người đó nên làm nghệ thuật hay làm tình yêu? Nếu câu trả lời là cả 2: nghệ thuật và tình yêu vì sao Kim là hành tinh của tình yêu và vẻ đẹp, thì điều này có ngụ ý rằng các nghệ sỹ yêu đương hơn người khác, hay ý tưởng của Freud rằng các biểu hiện văn hoá giống như nghệ thuật thường là sự dịch chuyển các nhu cầu khác là đúng, và người ta có thể vẽ một bức tranh hoặc có một mối quan hệ lãng mạn tuỳ theo sở thích của một người? Xác định phía bên phương diện nào của sao Kim là rõ ràng nhất trong bối cảnh của sao Kim đặt trong lá số sinh.
* Nếu sao Kim ở trong nhà thứ 7, thì khía cạnh xã hội của sao Kim rất nổi bật,
* Còn nếu sao Kim ở trong nhà thứ 5, thì sự sáng tạo nghệ thuật của sao Kim sẽ nổi trội.
* Venus trong một cung hành thuỷ mang lại cảm xúc,
* Trong khi sao Kim trong một cung hành khí thì kém cảm xúc hơn.
Chúng ta có thể nhìn Venus như một hành tinh với nhiều thuộc tính khác nhau nhưng có liên quan. Cung và nhà và các góc hợp với các hành tinh khác cho chúng ta thấy những đặc tính nào của Sao Kim là nổi trội.
+ Kim tinh (♀): Venus là hành tinh của tình yêu, vẻ đẹp và nghệ thuật. ... Nếu một người có sao Kim có góc hợp cứng đối với sao Hỏa, liệu điều này có ngụ ý: nghệ thuật và tình yêu vì sao Kim là hành tinh của tình yêu và vẻ đẹp, thì điều này có ngụ ý rằng các nghệ sỹ yêu đương hơn người khác, hay ý tưởng của Freud rằng các biểu hiện văn hoá giống như nghệ thuật thường là sự dịch chuyển các nhu cầu khác là đúng, và người ta có thể vẽ một bức tranh hoặc có một mối quan hệ lãng mạn tuỳ theo sở thích của một người?
... Nếu sao Kim ở trong nhà thứ 7, thì khía cạnh xã hội của sao Kim rất nổi bật, còn nếu sao Kim ở trong nhà thứ 5, thì sự sáng tạo nghệ thuật của sao Kim sẽ nổi trội. Venus trong một cung hành thuỷ mang lại cảm xúc, trong khi sao Kim trong một cung hành khí thì kém cảm xúc hơn.
... Venus: sức hút của vẻ đẹp. Mọi người bị thu hút bởi vẻ đẹp. Chúng ta dành rất nhiều nỗ lực để làm cho môi trường xung quanh phù hợp với sở thích của chúng ta, và chúng ta cảm thấy khó chịu, thậm chí bệnh tật, nếu quang cảnh, âm thanh và mùi hôi tấn công các giác quan của chúng ta. ...
Không có hai người có cùng một sở thích, nhưng mọi người cảm thấy bị xua đẩy bởi những âm thanh, âm nhạc và môi trường xung quanh nhất định, và chúng ta bị thu hút bởi những cái khác. Trong tình yêu lãng mạn, vẻ đẹp của nhân cách và / hoặc các đặc tính thể chất của một người khác đóng một vai trò trong việc thu hút mọi người với nhau. Sức thu hút của vẻ đẹp mang cảm giác yêu thương. .... không phải tất cả các nghệ thuật chủ yếu là tính chất Kim tinh, nhưng hầu hết các nghệ thuật ít nhất phần nào thu hút chúng ta vì sức hấp dẫn của vẻ đẹp của nó.
Vẻ đẹp không chỉ đơn giản là vấn đề tỷ lệ hoàn hảo và sự hài hòa hoàn hảo. Thiếu sự ngạc nhiên, đa dạng, tương phản, và sự căng thẳng được tạo ra bởi những thay đổi từ bất hòa đến hài hòa dễ chịu có thể là sáo mòn và không hấp dẫn. Bất kể điều gì mà một người đặc biệt nhận thấy đẹp sẽ thu hút người đó bằng một sức mạnh hấp dẫn và cảm giác yêu thương.... Sao Kim là sức hấp dẫn của vẻ đẹp.
Tuy nhiên, có rất nhiều cái chúng ta yêu mà không đẹp, hoặc ít nhất chúng ta yêu chúng không phải vì chúng đẹp. Chúng ta yêu con cái và các thành viên khác trong gia đình, và tình yêu này là một hình thức liên kết tình cảm, cam kết, quan tâm và hiểu biết. ...
Cảm giác yêu thương mạnh mẽ và liên kết mạnh mẽ xảy ra như là kết quả của bất kỳ..., liên kết trở nên mạnh mẽ hơn:
Chia sẻ thời gian trong cùng nhà (Mặt Trăng)
Giao tiếp tốt (Mercury)
Làm việc với nhau và giúp đỡ nhau đạt được mục tiêu (Mars)
Mở rộng chân trời cùng nhau, khám phá những điều mới mẻ và mở rộng biên giới của những trải nghiệm và kiến thức của bạn (Jupiter)
Có trách nhiệm với nhau (Thổ tinh)
Trải nghiệm những bất ngờ, khám phá, hoặc phấn khích với nhau (sao Thiên Vương)
Giúp đỡ lẫn nhau để theo đuổi những ước mơ và lý tưởng của bạn (Hải Vương tinh)
Giữ bí mật khỏi hầu hết những người khác (Pluto)
Một mối quan hệ kết hợp hầu hết các tính chất trên là rất mạnh. ...
Một số nhà chiêm tinh giải thích lá số sinh bằng cách chỉ đơn giản là nhìn vào yếu tố chiêm tinh cai quản khu vực mà khách hàng đang hỏi. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ SAO KIM: Hành Tinh – Venus (Tham khảo trong Giáo lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Venus … không có vệ tinh nào … và già hơn Địa Cầu nhiều.” (GLBN I, 180 – II, 35)
3. “Ánh sáng đến qua Venus, Venus nhận nguồn cung cấp gồm ba phần và cống hiến 1/3 cho Địa Cầu.
a/ Do đó cả hai được gọi là “chị em song sinh.”
b/ Tinh thần của Địa Cầu phụ thuộc vào Venus.” (GLBN II, 33)
4. “Venus là hành tinh bí mật, mạnh mẽ và huyền linh nhất trong tất cả các hành tinh.
a/ Liên hệ của nó với Địa Cầu nổi bật nhất.
b/ Nó chi phối sự sinh hoá tự nhiên của con người.
c/ Nó được gọi là ‘mặt trời khác’.
d/ Nó là nguyên kiểu tinh thần hay nguyên sơ của Địa Cầu.” (GLBN II, 33 – 35)
5. “Hành Tinh Thượng Đế của Venus yêu thương Địa Cầu sâu đậm đến nỗi Ngài hoá thân và ban cho nó các định luật hoàn hảo vốn không để ý và bác bỏ.” (GLBN II, 38)
6. “Mọi tội lỗi phạm phải trên Địa Cầu được cảm nhận trên Venus. Mọi thay đổi trong Venus được phản chiếu trên Địa Cầu.” (GLBN II, 35)
7. “Venus… là người-mang-ánh-sáng (light-bearer) của Địa Cầu chúng ta, trong cả ý nghĩa vật chất lẫn ý nghĩa huyền bí.” (GLBN II, 36)
10. “Mặt Trời Sirius, là cội nguồn của trí tuệ Thượng Đế (manas) ... và Venus chịu trách nhiệm cho việc tiến nhập của trí tuệ trong dãy Địa Cầu.” (LVLCK, 347)
11. “Có một khoen nối tâm linh giữa Hành Tinh Thượng Đế của Venus với Hành Tinh Thượng Đế của Địa Cầu chúng ta.
a/ Hành tinh hệ Venus linh hoạt hơn hành tinh hệ chúng ta.
b/ Nhân loại của hành tinh hệ Venus tiến hoá hơn nhân loại trên Địa Cầu.
c/ Bức xạ của nó bao gồm cõi Bồ Đề về phần nhân loại.
d/ Do đó nó có thể mở ra, qua sự kích hoạt, cùng mức độ với nhân loại của Địa Cầu chúng ta.” (LVLCK, 367)
13. “Kim Tinh có phân cực âm và do đó hành tinh này có thể trở thành một thu hút huyền bí của Địa Cầu đối với lực của Kim Tinh … mối liên hệ nhân quả giữa hai Đức Hành Tinh Thượng Đế (một trong hiện thân dương – positive incarnation – còn vị kia trong hiện thân âm – negative incarnation -) đã tạo ra một liên minh hành tinh (planetary alliance). Diệu quang loé sáng.” (LVLCK, 323)
16. “Venus, Jupiter và Saturn có thể được xét theo quan điểm của hiện tại như là các vận thể (vehicles) của ba siêu nguyên khí hay nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars có liên kết chặt chẽ với ba nguyên khí này, nhưng nơi đây có một bí mật còn ẩn tàng.” (LVLCK, 299)
17. “Trong hệ thống con người, mắt phải tương ứng với Buddhi và Mercury, còn mắt trái tương ứng với manas và Venus.” (GLBN III, 447 và 458)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Sao Kim, hành tinh cung 5 sẽ giúp xua tan ảo cảm_Chân Sư DK: Vì vậy chúng ta phải rèn luyện, rèn luyện một cách tỉ mỉ. Sự rèn luyện thực sự sử dụng cung 5 của thể trí, và không có cách nào để tránh né được. Và dĩ nhiên loại tâm thức cung 2 sẽ tham gia và chúng ta sẽ không còn bị cuốn theo xu hướng cung 6 nói chung của thể cảm dục vốn tạo ra sự biến dạng, sự cường điệu hoặc sự giảm thiểu, gây ra ảo cảm. Chúng ta sẽ thấy sự sống theo đúng tỷ lệ, và bạn hãy nhớ rằng sao Kim - Hành tinh của sự cân đối, tỷ lệ, chủ tinh của Thiên Bình, dấu hiệu của tỷ lệ (Nguồn: Ảo Cảm 1- Anh Kiệt dịch 9. 2019)
Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh; Tổng hợp về Kim Tinh
Kundalini hành tinh (Planetary Kundalini): Các vũ trụ tuyến (cosmic rays) mà nhà khoa học hiện đại biết được, tạo ra các trạng thái của Kundalini hành tinh. (TLHNM I, 370)
+ Hành Tinh Thượng Đế: Nói chung, thuật ngữ này được dùng cho 7 Đấng cao cả nhất tương ứng với 7 Nhất Đẳng Thiên thần (Archangels) của Cơ Đốc giáo. Tất cả các Ngài đều đã trải qua giai đoạn nhân loại và hiện nay đang biểu lộ qua một hành tinh và các mức tiến hóa của hành tinh đó, giống như cách con người biểu lộ qua thể xác của mình vậy. Vị Hành Tinh Thượng Đế cao nhất hoạt động qua bất cứ bầu hành tinh (globe) đặc biệt nào, thực ra là vị Thượng Đế riêng (personal God) của hành tinh ấy.
* Trong hành tinh, hay Hành Tinh Thượng Đế: Nói chung, những gì được đưa ra liên quan tới Thái Dương Hệ đều có thể được xác định đối với mọi hành tinh mà bản chất của chúng là hình ảnh phản chiếu của thái dương, người anh cả của chúng. (ĐĐNLVTD, 222)
+ Hành Tinh Thượng Đế: Đức DK gọi các Hành Tinh Thượng Đế là các Thiên Nhân (Heavenly Men), trong khi Ngài gọi đức Thái dương Thượng đế là Đại Thiên Nhân (Grand Man of the Heaven). Đấng cao hơn nữa Ngài gọi là Cosmic Logos (Vũ Trụ Thượng đế). Ngài cũng hay dùng từ Đấng Mà Chúng Ta Không thể Nói Gì Cả (The One About Naught May Be Said) để chỉ Cosmic Logos, hoặc đôi khi là đấng còn cao hơn đó nữa là Cosmic ParaBrahman. Trong giới Huyền Linh học hay viết tắt tên gọi One About Naught May Be Said thành OABNMBS để chỉ Đấng Không Thể Nghĩ Bàn, Đấng Bất Khả Tư Nghị. Chúng tôi sẽ trích từ A Treatise On Cosmic Fire các đoạn sau đây nói về Hành Tinh Thượng Đế, kèm theo đó là các diễn giải:
Mỗi Hành Tinh Thượng Đế được xem như có dạng hình cầu [12]. Cũng giống như hạt nguyên tử và con người, Ngài có vòng giới hạn (ring-pass-not) của Ngài. Vòng giới hạn này bao gồm toàn thể hệ thống hành tinh. [13] Trong trường hợp của Ngài, bầu vật chất trọng trược của bất cứ một dãy hành tinh nào cũng tương tự như thể hồng trần của một người và hạt nguyên tử trên cõi trần. Mỗi hệ thống tiến hoá gồm 7 dãy hành tinh là biểu hiện của sự sống của một Thực Thể sử dụng nó cho mục đích hiển lộ nhằm hoạch đắc kinh nghiệm, giống như con người đối với thể xác của y. [14]
Một Hành Tinh Thượng Đế chứa đựng bên trong chính Ngài những gì tương ứng với tế bào bên trong các hiện thể biểu lộ của con người.......
Bảy Hành Tinh Thượng Đế, được xem như có liên quan đến Đấng Cao Cả mà Thái Dương Thượng Đế là một phản ảnh của Ngài, có vai trò như là bảy trung tâm lực trong thể xác con người. Điều này sẽ được hiểu rõ khi sự tương đồng giữa cõi hồng trần vũ trụ và cõi hồng trần Thái dương hệ được nghiên cứu. [18] Do đó, ba trong các trung tâm lực này
– Liên hệ đến các trung tâm lực thấp của Đấng Thực Thể Vũ Trụ. [19]
– Có sự tương đồng của chúng trên các cõi chất đặc, chất lỏng và chất hơi.
– Hiện nay đang là mục tiêu chú tâm của hỏa xà vũ trụ. [20]
* [18] Đối với đức Thái dương Thượng đế thì các Hành Tinh Thượng Đế lại tạo thành chính là các luân xa hay các Trung tâm lực bên trong cơ thể của đức Thái dương Thượng đế. Đây là điểm đặc biệt quan trọng mà các bạn cần nhớ.
* [19] Ba Trung tâm lực thấp là các luân xa tùng thái dương, luân xa xương cùng và luân xa đáy cột sống.
* [20] Trong Thái dương hệ cũng có luồng xà hỏa Kundalini tương tự như trong con người. Đức DK nói rằng luồng xà hỏa Kundalini Thái dương đang kích hoạt các luân xa thấp là luân xa xương cùng, luân xa tùng thái dương, luân xa đáy cột sống.
Như vậy, các bạn thấy định luật tương đồng “trên sao, dưới vậy” thể hiện ra sao trong trường hợp thái dương hệ và con người..... (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 10 - Thông Thiên Học)
+ Tứ nguyên: c. Một trong các trung tâm lực này tương ứng với luân xa tùng thái dương, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp, như thế tạo thành một Tứ nguyên (bộ bốn – quaternary). [21] Đức DK nói rằng “Một trong các trung tâm lực này (Các Hành tinh Thượng đế) tương ứng với luân xa tùng thái dương, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp, như thế tạo thành một Tứ nguyên”. Nhưng Ngài không chỉ rõ hành tinh nào tương ứng với luân xa này, mà để người học đạo tự suy gẫm và khám phá lấy.... Chi tiết xem thêm: Thái dương hệ phần 11
+ Nghiệp quả hành tinh (Planetary karma): Nghiệp quả riêng của một Hành Tinh Thượng Đế, nó cũng khác với nghiệp quả của vị Hành Tinh Thượng Đế khác, cũng như nghiệp quả của các thành viên khác nhau của gia đình nhân loại.
Nghiệp quả của một dãy hành tinh (karma of a chain):
Nó gắn liền với kinh nghiệm sống của Đấng tạo sinh khí cho một dãy hành tinh và là một trung tâm lực trong cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế, cùng một ý nghĩa như là Hành Tinh Thượng Đế bên trong hệ thống hành tinh của Ngài là một trung tâm lực trong cơ thể của Thái Dương Thượng Đế
Nghiệp quả của bầu hành tinh (Globe karma):
Vận mệnh cá biệt của một Thực Thể Thông Linh (Entity) vốn là một trung tâm lực trong cơ thể của Đấng (Life) đang làm linh hoạt một dãy hành tinh. Năm Đấng kể trên, vốn chịu tác động bởi nghiệp quả, tất cả các Ngài đều là các Tinh Quân Anh sáng thuộc vũ trụ và Thái Dương Hệ, các Ngài đã đạt được mức thông tuệ và đã trải qua giới nhân loại cách đây nhiều thiên kiếp.
+ Thuật ngữ Trí huệ: Theo Phật giáo, Trí tuệ xem như Mặt Trời, Trí huệ xem như Mặt trăng chiếu sáng Tâm tối tăm (Tooltip Trí Huệ)
+ Nguyệt cầu (The Moon): Vệ tinh của chúng ta đang tuôn đổ vào bầu thấp nhất của dãy hành tinh chúng ta (bầu D, tức Địa cầu) tất cả các năng lượng và sức mạnh của nó; và đã dời chuyển chúng qua một trung tâm mới, hầu như trở thành một hành tinh chết, trong đó, từ lúc bầu hành tinh của chúng ta ra đời, việc quay đã ngưng lại.” (LVLCK, 154–155)
+ Mặt Trăng: Mặt Trăng là hình hài chết, không có tính chất nào của chính nó, nó không có một phóng phát năng lượng nào cả, nó không thể truyền cho Địa cầu bất cứ thứ gì cả. Hành tinh ẩn dấu của Vulcan hoặc Uranus, sử dụng như sau:
(i)- Với người kém tiến hóa hay trung bình thì dùng Vulcan,
(ii)- Với Người tiến hóa cao thì làm việc với Uranus (CTHNM III, 21);
- Chân Sư DK: Khi Nói Mặt Trăng chủ thể cai quản 1 cung là Mặt trời hay Mặt trăng, tôi sẽ nói đến 2 Hành tinh ẩn giấu là Vulcan và Uranus. Các Hành tinh này có thể thay thế lẫn nhau ở công dụng của chúng. Do đó, về nội môn, Tôi nhắc đến Uranus (CTHNM, 113),
- Mặt Trăng che dấu cả Vulcan lẫn Neptune - Đặc biệt quan trọng ở trạng thái liên kết hình hài với Tâm thức (CTHNM, 308)
+ Thủy tinh và Mặt trăng truyền dẫn Cung 4, Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người)
+ Cung Mặt trăng: Tính khí, nhà, bản chất trong nhà, phẩm chất nuôi dưỡng. (Xem nguồn)
+ Mặt Trăng Là Bậc Nhất Trong các Tinh tú: Cũng như trong các ngọn núi, Tu di sơn vương là bậc nhất. Cũng như trong các dòng suối, biển lớn thu nhập nước, biển lớn là bậc nhất. .... Cũng như giữa các vì tinh tú trong hư không, mặt trăng là bậc nhất. .. trong các hội chúng, Như Lai là bậc nhất, là tối đại, là tối thượng, là tối cao, là tối tôn, là tối diệu. (Nguồn: mục 489- Trung A Hàm, Phẩm 11, số 141)
+ Kinh nghiệm thất bại từ Nguyệt cầu: Mục tiêu mỗi kiếp sống là sự phát triển của một hình hài thích hợp hơn để cho tinh thần sử dụng; và khi mục tiêu này được đạt đến, lúc bấy giờ Chủ Thể Nội Tâm xoay sự chú ý của mình đi nơi khác, sự chết đến và hình hài sẽ tan rã sau khi đã được dùng cho nhu cầu của Chủ Thể đó. Điều này không phải lúc nào cũng xảy ra trong mọi kiếp sống con người, mà cũng không nằm trong mỗi chu kỳ hành tinh. Bí mật của nguyệt cầu là bí mật về sự thất bại, điều này khi được hiểu rõ sẽ đưa đến một đời sống xứng đáng và đem lại một mục tiêu xứng đáng cho nỗ lực có hiệu quả nhất của chúng ta. Khi nào khía cạnh chân lý này được nhận thức một cách rộng rải, cũng như khi sự sáng suốt của nhân loại đã đầy đủ, lúc bấy giờ sự tiến hoá sẽ tiếp diễn một cách chắc chắn và sự thất bại sẽ ít đi. (LVLCK, 171)
+ Hành Tinh Mặt Trăng (che khuất một hành tinh - Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Ngày nay Mặt Trăng là khối lạnh lẽo còn sót lại, ... Hiện nay nó bị bắt buộc phải theo sau trái đất trong các thời kỳ dài, nó hút Trái Đất và bị Trái Đất hút lại. Luôn luôn bị con mình (tức Trái Đất - ND) rút rỉa (vampirized), nó chống trả lại bằng cách đem hết ảnh hưởng độc hại, vô hình, xấu xa vốn xuất phát từ khía cạnh huyền bí của bản chất của nó, chỉ vì Mặt Trăng là một xác chết, tuy là một thể sống (for she is a dead, yet a living body). Những mảnh vụn của xác chết đang tan rã của nó có đầy sự sống sinh động và phá hoại, dù xác thân mà chúng đã được tạo thành thì không hồn và không có sự sống (souless and lifeless).” (180)
2. “Địa Cầu là một vệ tinh của Mặt Trăng”. (I, 212) (nghĩa là giống như linh hồn ngày nay là vệ tinh của hình hài).
3. “Mặt Trăng là biểu tượng của xấu xa”. (I, 246)
4. “Mặt Trăng không phải là hành tinh thánh thiện”. (II, 36)
5. “Mặt Trăng là vua của các hành tinh”. (II, 401, chú thích)
6. “Mặt Trăng là Chúa (sovereign) của thế giới thực vật (vegetable world)”. (II, 528)
7. “Mặt Trăng là thể thấp kém (inferior body)”. (II, 48)
8. “Mặt Trăng là Trí, còn Mặt Trời là sự hiểu biết”. (II, 675 - Chú thích) (Trích dẫn Shankacharya).
9. “Mặt Trăng là một hành tinh chết mà tất cả các nguyên khí đều đi khỏi nó. Đó là một thay thế cho một hành tinh mà dường như đã biến mất khỏi tầm mắt”. (III, 459). Các tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn (Về nội môn, Mặt trăng che dấu Vulcan dẫn truyền cung 1)
10. “Mặt Trăng đã chết và không thể bảo bọc sự sống vì nhân loại và các thiên thần kiến tạo đã tách ra khỏi vùng ảnh hưởng của Mặt Trăng”. (93)
11. “Mặt Trăng đang ở vào tiến trình tan biến và chỉ có một thể đang tan rã là còn lại. Sự sống của Thượng Đế Ngôi Một và Thượng Đế Ngôi Hai đã triệt thoái, và chỉ có sự sống tiềm tàng của chính vật chất là còn lại”. (415)
12. “Mặt Trăng là:
a/ Vị trí của thất bại thái dương hệ.
b/ Liên kết với các nguyên khí thấp.
c/ Cội nguồn của bất hạnh tính dục được trải qua trên hành tinh chúng ta.
d/ Bị ngăn chặn trong sự tiến hoá của nó bởi sự can thiệp đúng lúc của Thái Dương Thượng Đế.
e/ Cội nguồn của hận thù giữa các lực của ánh sáng và bóng tối… có thể được truy nguyên đến Mặt Trăng”. (985. Chú thích)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Phát xạ từ địa cầu: Có một trạng thái năng lượng mà nhà chiêm tinh học hiện đại rất ít để tâm đến, tuy thế nó lại vô cùng quan trọng. Đây là năng lượng phát ra hay là xạ ra từ chính Địa Cầu. Linh hoạt như tất cả mọi con người đang sống trên bề mặt của Địa Cầu và do đó được phóng vào thể dĩ thái của hành tinh (vì lý do là “con người đứng thẳng”) thân thể con người lúc nào cũng ngập trong các phóng xuất và các phát xạ của Địa Cầu chúng ta và trong tính chất toàn vẹn của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta khi Ngài phát ra và truyền năng lượng bên trong vùng chung quanh hành tinh của Ngài. Các nhà chiêm tinh học luôn luôn nhấn mạnh vào các ảnh hưởng và các năng lượng đang đi đến khi chúng đập mạnh vào (beat upon) và tác động qua hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia đã bỏ quên không xem xét thích đáng các tính chất và các lực phát ra vốn là sự đóng góp của thể dĩ thái của Địa Cầu chúng ta vào tổng thể lớn hơn. Chúng ta sẽ xem xét điều này sau, nhưng Tôi cảm thấy cần kêu gọi sự chú ý của các bạn vào lúc này. (CTHNM, 17)
+ Tu xa lìa tà dâm - Niệm Quán Thế Âm - Quỷ ăn tinh khí chánh xa:
- Quỉ La Sát - Rakshasas: Còn gọi là Yêu ma, yêu quỷ, yêu tinh, quỷ ăn tinh khí.
- Quỷ La sát: .... Khi gặp hóa bão tố, thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Quỷ La-sát là loài quỷ ăn tinh khí của người, và đều là phái nữ, chuyên môn ăn tinh khí người ta. Nếu thuyền bị gió bão trôi giạt vào nước quỷ La-sát, chỉ cần trên thuyền có một người phát tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì tất cả người trên thuyền, cho đến trăm ngàn vạn ức chúng sanh, đều được thoát nạn La-sát. Do nhân duyên đó mà tên vị Bồ-tát này là Quán Thế Âm....
- .... Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ mà nhìn người huống lại làm hại đặng. Giả sử lại có người, hoặc có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thảy đều đứt rả, liền được giải thoát.
HT Tuyên Hóa giảng: Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích.... Nếu trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy cả quỷ Dạ-xoa cùng La-sát. .... La-sát là quỷ ăn tinh khí, nó chuyên môn ăn tinh khí của người. Muốn đến hại người. Loại quỷ Dạ-xoa, La-sát này chuyên môn hại người, đến đâu cũng tìm cách quấy rầy người. Như quý vị muốn phát tâm Bồ-đề, chúng nhất định không bao giờ thích, cố ý gây rắc rối cho quý vị, nghĩ ra mọi cách ngăn cản khiến quý vị không thể tu hành được rồi thối thất đạo tâm. Từ trước quý vị đã phát tâm Bồ-đề một cách mạnh mẽ, nhưng nó lại lẻn vào thân tâm quý vị làm cho quý vị tự nhiên khởi lên vọng tưởng: “Tu hành làm chi! Học Phật-pháp để làm gì! Thôi đừng nên học Phật-pháp nữa! Ði chỗ khác chơi, mọi việc đều tự do theo ý mình, thích nhảy đầm thì nhảy, thích nghe âm nhạc thì nghe. Còn học Phật ư! Cái này không được làm, cái kia không được làm, có biết bao cái không được làm! Lại không được xem hát, không được uống rượu, không được hút thuốc nữa, cả khối việc phải kiêng cử! Phật-pháp quả là càng học càng rắc rối!”. Ai có ý nghĩ đó tức là bị quỷ Dạ-xoa, La-sát đến xúi bẫy đó. Có người muốn xuất gia. Nó xui vị ấy nghĩ: “A, xuất gia cực lắm! Cả ngày làm việc quần quật, lại ăn không ngon, mặc không đẹp, cực khổ quá mức! Ði tu để làm gì?” Nghĩ thế rồi thối tâm đi. Lại có vị muốn làm Tỳ-kheo-ni, quỷ Dạ-xoa, La-sát sẽ đến giục vị ấy nghĩ: “Ối chào! Nên đi lấy chồng đi! Lấy chồng mỗi ngày có chồng bầu bạn, vừa lòng thích ý hơn.” Làm cho quý vị đừng phát tâm Bồ-đề nữa, chính là công việc của quỷ Dạ-xoa La-sát đấy. Chúng chuyên môn làm tổn hại đạo tâm Bồ-đề, phá hoại việc tu hành của người. Vì thế nói: “Muốn đến hại người.”
Nghe người xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho dù có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, La-sát muốn đến làm hại, gây phiền phức cho người. Nhưng một khi chúng nghe quý vị niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát” thì những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ để nhìn. Một khi quý vị niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên hào quang tỏa sáng, bọn quỷ ấy muốn nhìn quý vị cũng không nhìn thấy được. Vì chúng thấy quý vị có ánh sáng chói lòa như đèn điện, mở mắt không ra. Cho nên nói là: Còn không thể lấy mắt dữ tợn để nhìn. Huống lại làm hại đặng. Cả đến mắt cũng không thể mở thì làm sao gia hại được? Tự nhiên nó phải chạy xa thôi. Vì thế quý vị phải luôn luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ được Ngài bảo hộ cho.....
Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu 7 thứ nạn, giải trừ 3 thứ độc và đáp ứng 2 thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Pháp Ly dục - Diệt Ái Dục - Xa lìa Ái Dục - Xa lìa tà dâm = Niệm Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm.
... Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng ly dục.
Giả như có những chúng sanh nào, lòng đặc biệt dâm dục quá nhiều. Có người vừa học Phật vừa sanh tâm dâm dục, học Phật-pháp càng nhiều, tâm dâm dục càng phát triển mạnh. Cả ngày từ sáng đến tối khởi lên vọng tưởng dâm dục cuồn cuộn như giòng nước chảy tràn. Ðó là một thứ tư tưởng, hành vi cùng biểu hiện rất xấu xa! Vậy thì phải làm sao? Quý vị đừng buồn, cũng đừng lo! Chỉ cần thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là được. Nhưng chỉ đơn thuần tụng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm vẫn chưa đủ, mà phải đem lòng cung kính chân thành đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm thật nhiều nữa.
Ðảnh lễ Phật và Bồ-tát là một biểu hiện rất cung kính. Nhưng có một số người không biết lý lẽ này, nhất là những người ngoại đạo, nhìn thấy người ta lạy Phật rồi phê bình một cách mù quáng rằng: "Ðó đều là ngẫu tượng, là thứ gỗ khắc hay tô đắp mà thành, lạy làm chi?" Tại vì chính mình không có huệ nhãn, không thấy được cảnh giới Phật quang chiếu khắp mới sanh ra đại ngã mạn như thế, thậm chí coi mình còn hơn Phật cho nên mới nói cần gì phải lạy Phật! Ðó chính là kẻ ngu si mắc phải sai lầm quá lớn! Nếu thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì tâm dâm dục của quý vị tự nhiên lìa khỏi. Có người nói: "Thật là bậy quá! Tôi thích dâm dục mà bây giờ không có nữa, phải làm sao đây?" Nếu quý vị thích có, cũng không cần phải lo, rồi sẽ có. Nếu quý vị không thích có rồi sẽ được không có. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tham thiền - Quán tưởng diệt trừ tâm dục - Tình dục (nguồn)
- 7 quán Bất tịnh quán (Không trong sạch) khi: Cấu hợp - Sinh - Vị trí Bào Thai - Lớn bằng Máu mẹ - Sinh bẩn - Da bọc dơ bẩn, 9 lỗ tiết bẩn - Chết thân giữa nát;
- 9 quán: Thân lúc chết - Thâm bầm lạnh lẽo - Thân thối giữa - Thối tha máu mủ - Giòi bọ - Gân và Xương - Trơ Xương trắng - Tản mạn - Đốt thành tro - PS Tịnh Không - Quán Trừ Dâm dục
+ Quán Tứ Đế: Khổ Đế (Về sự khổ) - Tập Đế (Nguồn gốc khổ) - Diệt Đế (Chấm dứt khổ) - Đạo Đế (Con đường chấm dứt khổ)
+ Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, Chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, Chánh niệm, chánh định.
+ Quán Chiếu: Đức Phật dạy có 5 đề mục chúng ta cần quán chiếu mỗi ngày: - Tuổi già // Bệnh // Chết // Không thường còn // Luật nhân quả. "Vui thay, chúng ta sống, Không bệnh, giữa ốm đau! Giữa những người bệnh hoạn, Ta sống, không ốm đau." (kinh PHÁP CÚ)
+ Tham thiền làm thế nào để thực hiện Đại từ bi Tâm Quán?
a. Quán chúng sinh duyên từ: Quán sát cảnh khổ của chúng sinh ở trong cõi dục giới mà phát khởi lòng từ.
- Những kẻ bị đọa ở địa ngục hiện đang bị hành phạt, loài ngạ quỷ đói khát.
- Loài súc sanh (trâu, bò heo, gà…) bị hành hình, phân thây xẻ thịt làm thức ăn cho loài khác…
- Loài a tu la phải đấu tranh chém giết
- Chúng sanh ở cõi trời khi hết phước đức cũng phải bị đọa lạc
- Những cảnh khổ của kiếp người…
Thấy được những cảnh khổ của chúng sinh, để cho lòng từ bi phát khởi, Phật dạy ta phải xem tất cả chúng sinh như là bà con thân thuộc trong một đại gia đình. Nhân loại như đang sống trong một ngôi nhà lớn và rộng ra các loài khác cũng là thành phần của một đại gia đình, do nghiệp duyên ràng buộc, có thể họ đã là bà con quyến thuộc của ta trong kiếp trước hoặc sẽ là anh em cha mẹ ta trong những kiếp tương lai…
b. Quán Pháp duyên từ: Cao hơn một bậc, hành giả có thể quán sát thấy tất cả chúng sanh đều có chung pháp tánh cho nên nói như ngài Duy Ma Cật, “vì chúng sanh bệnh nên ta bệnh”, chúng sanh khổ nên ta khổ và vì thế ta tìm cách cứu độ chúng sanh. Ta cứu khổ nhưng không cần biết đối tượng được cứu khổ và cũng không chấp rằng ta đang cứu khổ vì ta và chúng sanh đã đồng một bản thể, đồng một pháp giới tánh.
Trong thiền định, đọc Thần Chú giúp Tâm an định, 10 Tâm của Thần Chú là chủ đề Minh sát/ Suy ngẫm. (Nguồn: Giảng Thần Chú Đại Bi với Thiền Định)
Xem: Tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
Xem: Quán Tứ Thánh Đế/ Diệu Đế/ Tứ đế và Bát chánh đạo
Xem: Kinh Quán Tưởng Thanh Tịnh Sắc Thân của Dược Vương Bồ-tát và Dược Thượng Bồ-tát
Xem: Phật dạy về quán tưởng Lìa Ái Dục
Rất nhiều pháp quán tương: Xem Kinh Trung A Hàm
Hành tinh thức (Planetary consciousness) hay là tâm thức của một Hành Tinh Thượng Đế khi Ngài luân chuyển liên tục qua hệ thống hành tinh.
Các Thuật ngữ thanh luyện thể xác - Thể Dĩ Thái:
+ Kẻ tìm đạo: Ngọn lửa thanh luyện cháy lu mờ và yếu ớt khi giới thứ ba bị hy sinh cho giới thứ tư. Do đó, vị đệ tử hãy ngưng việc giết chóc và hãy nuôi dưỡng phần thấp nhất bằng sản vật của giới thứ hai”. Phàm ngã trở nên bị trì trệ và nặng nề, còn ngọn lửa nội tâm không thể tỏa chiếu khi thịt được dùng làm thức ăn. Mỗi đệ tử cần phải ăn chay nghiêm túc, không thể bị vi phạm. Kẻ tìm đạo có thể chọn ăn thịt hay không tùy thích, nhưng đến một giai đoạn nào đó trên thánh đạo, điều thiết yếu là phải ngưng ăn mọi loại thịt và chú tâm nhiều vào việc ăn uống. Vị đệ tử phải tự giới hạn vào việc ăn rau quả, ngũ cốc loại và quả hạt (nuts). Chỉ bằng cách này, đệ tử mới tạo được loại thể xác có thể chịu đựng việc giáng nhập của Chân nhân là vị ngự trong các thể tinh anh của mình trước Đấng Điểm đạo. Nếu không làm được như thế và nếu đệ tử có thể được điểm đạo mà không tự chuẩn bị như thế thì thể xác sẽ bị xé tan bởi năng lượng đang tuôn đổ qua các bí huyệt mới được kích hoạt và mối nguy hiểm lớn lao sẽ xảy tới cho não bộ, xương sống hoặc tim. (ĐĐNLVTD, 196–197)
+ Khi hướng tới cõi giới giá trị cao siêu xảy ra thì bấy giờ dĩ thái lực hay sinh lực lại xung đột với trạng thái thấp nhất của con người, tức thể xác trọng trược, và trận chiến của các cặp đối hợp xảy ra. Trong giai đoạn này cần phải chú trọng vào việc giữ giới luật cho xác thân, vào các yếu tố kềm chế như là hoàn toàn có tiết độ, sống độc thân và theo chế độ ăn chay, chú trọng vào việc vệ sinh xác thân và tập thể dục. Nhờ các yếu tố này mà việc kềm chế sự sống bởi hình hài có thể được xóa bỏ, con người thoát khỏi cuộc chiến thực sự của các cặp đối hợp. (TLHNM II, 309)
+ Những ai tìm cách đọc tiên thiên ký ảnh, hay những ai cố hoạt động trên cõi cảm dục mà muốn cho không có sự thất thoát nào, để tìm kiếm nơi đó hình ảnh của các biến cố trong cảm dục quang một cách chính xác, đều bắt buộc phải là người ăn chay nghiêm túc và không có ngoại lệ nào cả. Chính kho tàng tri thức cổ xưa này của thời Atlantis nằm đàng sau sự kiên trì của kẻ ăn chay về sự cần thiết của cách ăn chay vốn đem lại sức mạnh và chân lý đối với nghiêm lệnh này. Chính vì không tuân theo quy luật sáng suốt này đã tạo ra các giải thích sai lầm đối với các ký ảnh cảm dục và tiên thiên ký ảnh của nhiều nhà tâm thông hiện tại và đã tạo ra việc soi kiếp bừa bãi và thiếu chính xác. Chỉ có người nào ăn chay nghiêm nhặt trong 10 năm mới có thể hoạt động như vậy trong trạng thái có thể được gọi là “trạng thái ghi nhận ánh sáng cảm dục”. (TLHNM I, 241)
+ Rèn luyện thể xác (gồm ăn chay): Việc này gồm một số điều kiện cần thiết:
- Thu nạp vào thể xác vật chất của những cõi phụ cao và loại trừ những chất thô của các cõi phụ thấp. Điều này cần thiết bởi vì người có các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao. Chân nhân không thể nào chuyển tri thức và sự hướng dẫn từ cõi cao xuyên qua một thể xác thô kệch. Những dòng tư tưởng cao cả không thể nào ảnh hưởng đến bộ não hồng trần kém tiến hóa. Vì thế mà việc tinh luyện thể xác là điều thiết yếu...
- Ăn chay - Thực phẩm tinh khiết: Chọn lựa thực phẩm với sự phân biện khôn ngoan. Thể xác chỉ cần ăn những thứ rau quả tăng cường sinh lực...cần xem xét cẩn thận khi chọn lựa thực phẩm, sáng suốt tránh những thức ăn nặng nề khó tiêu, một ít thức ăn lành và tinh khiết được tiêu hóa hoàn toàn, thế là đủ, nó gồm Sữa, mật ong, bánh mì lức (làm bằng bột mì lức), tất cả những loại rau trồng ngoài nắng, các loại cam chanh (nhất là cam), chuối, nho khô, những hạt có chất béo, khoai tây, gạo lức, và tôi xin lặp lại là chỉ cần [335] bao nhiêu thứ đó cũng đủ bảo đảm cho sự hoạt động của người đạo sinh.
- Sự sạch sẽ. Dùng nhiều nước để gội rửa bên ngoài và bên trong cơ thể, là điều rất cần thiết.
- Giấc ngủ. Nên luôn luôn ngủ từ 10 giờ đêm đến năm giờ sáng, càng ngủ ngoài trời nhiều càng tốt.
- Ánh nắng. Rất cần nên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vì các tia nắng mang lại sinh lực cho cơ thể. Ánh nắng diệt các loại vi trùng và giúp ngăn ngừa bệnh tật.
Khi bốn yêu cầu này được chú tâm thực hiện đầy đủ thì một tiến trình thải trừ rõ rệt sẽ tiếp diễn, và trong vòng vài năm toàn bộ xác thân sẽ từ từ chuyển sự phân cực lên cao hơn để rốt cuộc chúng ta có được một thể xác cấu tạo bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử... Việc này có thể cần nhiều kiếp sống, nhưng các bạn nên nhớ rằng cứ mỗi lần đầu thai lại thì mỗi thể vẫn giữ đúng y phẩm chất (xin tạm gọi như thế) của cơ thể trước kia đã bị thải bỏ khi chết. Vì vậy, thời gian dùng để kiến tạo không hề bị mất.
Cuối cùng còn có 2 phương pháp khác có thể dùng để tinh luyện mau có hiệu quả hơn:
- Dùng ánh sáng màu. Những loại ánh sáng này được chiếu vào cơ thể của người đệ tử, tạo tiến trình thải bỏ tạp chất và đồng thời kích thích các nguyên tử. Việc này chỉ có thể được thực hiện khi có thêm kiến thức về các Cung. Khi đã biết được cung của hành giả thì có thể kích thích y bằng cách dùng màu sắc của chính y, dùng màu bổ túc của y để thu nạp những chất mới, và dùng màu tương khắc để thải bỏ những chất bất hảo. Về sau sự hiểu biết này sẽ được truyền đạt cho những đoàn thể lớn có phận sự giữ gìn các Bí nhiệm, là Giáo hội và các Hội Tam điểm. Các bạn hãy chờ đợi, vì chưa đến lúc (Hiện tại không áp dụng). Khi các Bí nhiệm được phục hồi thì một số kiến thức loại này sẽ được giao cho hai đoàn thể vừa kể.
- Sự kích thích bằng âm nhạc. Một số âm thanh có thể làm tan rã và đổ vỡ. Một số âm thanh khác lại kích thích và hấp dẫn. Khi biết được âm khóa của cuộc sống hành giả, biết được âm thanh mà y ứng đáp, thì có thể dùng âm thanh để tinh luyện. Hiện nay, tất cả những gì người phụng sự có thể làm là chú tâm vào những điều chính yếu nói trên và tìm cách tiếp xúc với những rung động thanh cao.
Tôi muốn nói thêm một điểm nữa là sự vận dụng điện lực có ẩn bí quyết làm sinh động các thể, đặc biệt là đối với thể dĩ thái hiện nay. Công dụng chính của mặt trời là làm sinh động thể dĩ thái. Sức nóng của mặt trời là điện lực đã được chuyển hóa thích ứng cho nhu cầu của đại đa số các sinh vật trung bình trong mọi giới của thiên nhiên. Khi người đạo sinh càng tiến bộ thì mãnh lực này càng được tăng cường theo từng trường hợp cá nhân. Đây cũng là một bí mật điểm đạo... (TTHM, 336)
+ Thanh luyện thể dĩ thái: Việc thanh luyện này trùng với việc thanh luyện thể xác. Phương pháp chính yếu cũng gồm cách sống dưới ánh sáng mặt trời, che chở cho khỏi lạnh và tiêu hóa một vài hỗn hợp gồm các sinh tố mà không bao lâu nữa sẽ được đưa ra cho nhân loại. .... Việc nghiên cứu các bệnh của thể dĩ thái – bệnh sung huyết (congestion) và gầy yếu (atrophy) – không bao lâu nữa sẽ là một nghiên cứu được nhận biết và sẽ đưa đến các cách chữa trị và các công thức nhất định. .. hãy làm cho thể xác nhị phân được nhạy bén là chú ý đến các quy luật nói trên và để cho thời gian đảm trách phần việc còn lại.
+ Đối với con người, bí nhiệm của sự giải thoát nằm trong việc làm cân bằng các mãnh lực và làm quân bình các cặp đối hợp. (LVHLT, 225)
+ Tuyến tùng quả là cơ quan bên ngoài, ở cõi trần của nội nhãn thông. (LVLCK, 965)
+ Hình Hài của Phàm-Ngã, hiện thể đó bằng chất hồng trần, chất cảm dục và chất trí, vốn cung cấp phương tiện tiếp xúc trong ba cõi thấp. Nó được tạo ra trong mỗi kiếp sống, chủ âm (key) rung động được thiết lập trong kiếp sống trước kiếp sống hiện tại. Hình hài đó tỏ ra thích hợp đối với người trung bình và phục vụ y cho đến khi chết. Người đang bước vào trên con đường huyền bí bắt đầu với hiện thể được cung cấp, nhưng trong khi lâm phàm, luôn kiến tạo cho y một hiện thể mới hơn và tốt đẹp hơn, và càng tiến hóa thì y càng hành động một cách có ý thức hơn. Điều đó dẫn đến sự rối loạn liên tục và sức khỏe thường không tốt ở người sơ cơ (beginner) trong đời sống huyền linh. Y cảm nhận được thiên-luật, y nhận thức sự cần thiết của việc nâng cao chủ âm (key) của y, và thường thì y bắt đầu với những sai lầm. Y bắt đầu kiến tạo thể xác của mình một lần nữa bằng chế độ ăn kiêng và giới luật, thay vì hoạt động từ trong ra ngoài. Bằng giới luật cẩn thận của tâm trí, bằng việc vận dụng chất liệu tư tưởng, và bằng sự chuyển hóa cảm xúc, đi đến việc thể hiện ra trên cõi trần. Thêm vào hai điều trên, sự thanh khiết ở cõi trần đối với thực phẩm và cách sống, và trong thời gian bảy năm, người ấy đã xây đắp cho chính mình ba thể mới xung quanh các nguyên-tử thường tồn. (LVHLT, 263)
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạo - Điểm đạo
Xem: Đức Phật dậy Ăn chay - Ăn Thịt
Xem: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Học cách Phát triển Thể trí: Mục tiêu của mọi công việc của một người tìm đạo là để hiểu các khía cạnh đó của thể trí mà y phải học cách làm việc với chúng. Do đó công việc của y có thể được tóm tắt như sau:
1. Y phải học cách suy tư; để phát hiện rằng y có một bộ máy được gọi là thể trí, và khám phá các năng lực và quyền năng của nó. Các điều này cũng đã được phân tích kỹ cho chúng ta trong hai quyển đầu của bộ Yoga Sutras của Patanjali.
2. Kế tiếp y phải học cách trở về với các diễn trình tư tưởng của y và các khuynh hướng tạo ra hình hài, và khám phá các ý tưởng đang nằm dưới hình-tư-tưởng thiêng liêng, tiến trình thế giới, và vì thế học cách làm việc trong sự phối hợp với thiên cơ, và làm cho việc kiến tạo hình-tư-tưởng của y phụ thuộc vào những ý tưởng này. Y phải học cách thâm nhập vào thế giới của các ý tưởng thiêng liêng này và nghiên cứu “mô hình của các sự vật trong Cõi Trời” như nó được gọi
366 trong Kinh Thánh. Y phải bắt đầu làm việc với các bản thiết kế mà theo đó vạn-vật hiện tồn được lên khuôn và được nắn tạo. Bấy giờ y trở thành một nhà nghiên cứu thuộc trường phái biểu tượng (student-symbolist), và từ một kẻ sùng bái hình tượng, y trở thành một người theo chủ nghĩa lý tưởng thiêng liêng. Tôi sử dụng những từ này theo ý nghĩa và ngụ ý thực sự của chúng.
3. Từ chủ nghĩa lý tưởng đã được phát triển đó, y phải tiến sâu hơn nữa, cho đến khi y đi vào lĩnh vực trực giác thuần túy. Bấy giờ, y có thể rút ra chân lý tại cội nguồn của nó. Y tiến nhập vào thể trí của chính Thượng Đế. Y trực cảm (intuits) cũng như lý-tưởng-hóa (idealises), và nhạy cảm với các tư tưởng thiêng liêng. Chúng làm phong phú tâm trí của y. Về sau y gọi những cái này là các khả năng trực giác, khi y thể hiện chúng ra thành các ý tưởng hoặc các lý tưởng, dựa mọi hoạt động và quản lý công việc của y vào chúng.
4. Kế đó, y đi theo công việc kiến tạo hình-tư-tưởng một cách hữu thức, được dựa trên những ý tưởng thiêng liêng này, phát ra dưới hình thức các trực giác từ Toàn-Linh-Trí (Universal Mind). Điều này tiến triển nhờ thiền định.
=> Mỗi đạo sinh chân chính đều biết rằng điều này bao hàm sự định trí để tập trung hoặc định hướng hạ trí vào thượng trí. Tạm thời thì những khuynh hướng tạo ra hình-tư tưởng bình thường bị kiềm chế. Nhờ thiền định, vốn là quyền năng trí tuệ tự giữ chính nó trong ánh sáng, và trong ánh sáng đó nó sẽ trở nên ý thức về thiên cơ (LVHLT, 366)
+ Năng lực làm tĩnh lặng thể hạ trí sao cho tư tưởng từ các phân cảnh trừu tượng và từ các cảnh giới trực giác có thể tìm được một trang giấy tiếp nhận có thể ghi chính các tư tưởng lên đó. Ý tưởng này đã được nhiều sách nói về định trí và tham thiền giải rõ nên tôi không cần nói rõ thêm. Đó là kết quả của việc thực hành vất vả trong nhiều năm.
+ Nguy hiểm khi Thể trí bị ức chế: Một số người nhờ có ý chí mạnh mẽ nên trong tham thiền có thể đạt đến mức kiềm hãm được ngay những diễn tiến trong hạ trí. Nếu các bạn hình dung thể trí là một hình bầu dục, bao quanh thể xác và phần nhiều ló ra ngoài thể xác, nếu bạn biết rằng những hình tư tưởng đủ loại (là những gì chứa trong thể trí hành giả và tư tưởng của những người chung quanh) đang liên tục luân chuyển trong hình bầu dục đó, vì thế, thể trí hình trứng này được tô điểm bằng những điều hấp dẫn nổi bật va nhiều dạng hình học khác nhau, tất cả đều ở trong tình trạng biến động hay luân chuyển, thì có lẽ các bạn sẽ hiểu được phần nào điều tôi muốn nói. Khi hành giả tìm cách buộc thể trí yên lặng bằng cách ức chế hay đè nén tất cả sự vận hành của tư tưởng, y sẽ làm các hình tư tưởng ngưng lại bên trong hình bầu dục của thể trí, y sẽ làm đình chỉ sự luân chuyển và có thể gây ra những hiệu quả nghiêm trọng. Sự ức chế này có tác dụng trực tiếp đến bộ não của xác thân và đây là nguyên nhân của phần lớn sự mệt mỏi sau khi tham thiền. [96] Nếu cứ tiếp tục dồn ép như thế, nó sẽ gây tai họa cho hành giả. Tất cả những người mới tập thiền ít nhiều gì cũng có làm điều này, nếu họ không học cách đề phòng thì họ sẽ làm vô hiệu bước tiến của mình và làm trì hoãn sự phát triển. Những hậu quả thực ra có thể còn nghiêm trọng hơn nữa. - Thể trí thanh tịnh - Tĩnh lặng: Phương pháp đúng để loại trừ tư tưởng, làm sao có thể trí thanh tịnh mà không phải dùng ý chí để đè nén. Bạn nên, sau khi đã thu tâm thức lên cõi trí, tại một điểm nào đó trong não bộ, hành giả nhẹ nhàng xướng Thánh ngữ 3 lần. Y hãy hình dung luồng hơi thở phát ra là một sức mạnh thanh lọc, và nếu tiếp tục nó sẽ quét sạch những hình tư tưởng đang luân chuyển ra khỏi hình trứng của thể trí. Sau khi xướng xong, y hãy nhận thức rằng thể trí của mình đã hết sạch các hình tư tưởng. - Sau đó hành giả nên nâng sự rung động của mình càng cao càng tốt. Kế đến là nâng sự rung động đó vượt khỏi hạ trí lên đến thể nguyên nhân, để đem lại sự tác động trực tiếp của Chân nhân vào 3 hạ thể. Nếu giữ được tâm thức ở cấp cao và giữ được mức rung động của Chân nhân (trên cảnh giới của Chân nhân) thì hành giả sẽ giữ được thể trí trong trạng thái quân bình. Nó không còn mang sự rung động thấp kém nào tương tự như rung động của các hình tư tưởng đang luân chuyển trong môi trường chung quanh nó. Mãnh lực của Chân nhân sẽ luân chuyển trong hình trứng của thể trí, khiến cho không đơn vị tư tưởng dạng hình học nào ở ngoài có thể xâm nhập và hành giả sẽ tránh được những nguy hiểm của sự ức chế. Có thể làm nhiều hơn nữa khi, với thời gian cố gắng, chất liệu trong thể trí theo nhịp rung động này trở nên bền vững và sẽ tự động loại bỏ tất cả những gì thấp kém và bất hảo.(Thư 24.07.1920_TTHM)
Thực Thể hành tinh (Planetary Entity):
Thực Thể hành tinh ở trên cung tiến hóa giáng hạ và là một Thực Thể ở cấp rất thấp. Thực Thể này là tổng cộng tất cả các sự sống hành khí (elemental lives) của hành tinh. (LVLCK, 105)
Thực thể hành tinh là toàn bộ các hình hài (forms) tạo ra hình thể (form), nhờ đó, Hành Tinh Thượng Đế chúng ta (planetary Spirit) đang biểu lộ, và do đó, là tổng hợp của các tinh linh hồng trần, cảm dục và hạ trí. (LVHLT, 432)
+ Tinh tấn trong Lục độ: Tinh là “tinh thuần”, thuần nhưng chẳng tạp, Tấn là “tấn bộ”, tiến chứ không lùi. Hết thảy người học Phật chúng ta, ngày ngày cầu tiến lên, nhưng mọi người chẳng thật sự tinh tấn mà là “tạp tấn” bởi lẽ học rất nhiều, rất tạp, cho nên gọi là “tạp tấn”. Vì thế, công phu chẳng đắc lực, quang âm bị lãng phí sạch sành sanh, thật đáng tiếc! Nào biết đạo lý đức Phật đã giảng cho chúng ta - hai chữ “tinh tấn” - chính là bí quyết để thành công. Chư vị đồng tu phải nhớ kỹ, dù là pháp xuất thế gian hay thế gian, muốn thành tựu đều phải chuyên tinh. Chúng tôi thấy những đại khoa học gia Tây Phương cũng suốt một đời chuyên chú đổ sức nơi một khoa, bởi thế họ có thể đột phá, có phát minh, có phát hiện. Nếu như họ học rất tạp, rất nhiều, nhất định sẽ chẳng có thành tựu rất cao. Những ai có thể thành tựu quyền uy một đời không ai là chẳng chuyên chú đổ sức vào một khoa mục cả.
- Nếu muốn đắc Định thì phải “thủ pháp”, tức là tuân thủ quy củ của người thế gian. Người thủ pháp tâm bèn an định, quyết định chẳng phạm pháp, chẳng làm chuyện khiến tâm áy náy; còn kẻ chẳng giữ pháp, tâm chẳng an định, ngày ngày nghĩ đến chuyện xấu, làm cách nào để né tránh pháp luật, luật lệ, bởi thế thân tâm bất an. Bởi thế mới nói học Phật nhất định phải tu Giới Học. (Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm_PS Tịnh Không giảng)
+ Tinh Tấn: Theo nghĩa đen là luôn luôn thực hành, lặp lại không ngừng và nỗ lực không ngưng nghỉ để đặt nhịp điệu mới lên trên nhịp điệu cũ, xóa bỏ những thói quen và các hoạt động đã ăn sâu bằng cách tạo nên ấn tượng của linh hồn. Tinh tấn là luôn luôn cố gắng để hạn chế các hoạt động của thể trí. Nó bao hàm ý tưởng là Chân Ngã luôn luôn cố gắng để hạn chế các hoạt động hay các dao động của thể trí và kềm chế bản chất thông linh thấp hay thay đổi, ngõ hầu biểu lộ đầy đủ bản chất tâm linh riêng của mình. Như thế và chỉ có như thế, Chân Ngã mới sống cuộc đời của linh hồn hằng ngày trên cõi trần. (ASCLH, 26–27)
+ Tinh Tấn - Ðức Phật dạy: "Tỳ-kheo các ông! Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Bởi vậy, các ông nên chuyên cần tinh tấn. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn thủng được hòn đá. Nếu trong tâm người tu giải đãi, biếng nhác, cũng giống như người xát cây lấy lửa, chưa nóng đã vội ngưng nghỉ. Dù người ấy muốn được lửa cũng khó mà được. "Như vậy gọi là sự tinh tấn." (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
131. CHÁNH TINH TẤN
Thế nào là chánh tinh tấn? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm không nhiễm trước mà quán sát tâm hoàn toàn giải thoát, trong đó, nếu có phương tiện tinh tấn thì quả quyết, tinh cần để mong cầu, có khả năng để thú hướng, chuyên chú không xả bỏ, cũng không suy thối, quyết định hàng phục tâm mình. Nguồn mục 131 - (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31)
+ Tinh Tấn - Tinh cần: Có thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Khi tâm quý vị tinh tấn, thì quý vị sẽ tìm cầu Phật pháp mọi lúc. Khi thân tinh tấn, thì minh tu tập Phật pháp mọi lúc mọi nơi.(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Tinh Tấn - Ý chí Nghị lực siêu nhiên: Nghi lực cần có không bờ bến là căn bản của mọi thành công trên đường tu tập, thiếu nghị lực sẽ không thực hiện được gì cả. Nghị lực siêu nhiên gồm có ba thể dạng như sau :
a) Nghị lực như một thứ áo giáp (samnahaviraya): nghị lực che chở ta trước sự lười biếng và trì trệ, giúp ta duy trì quyết tâm tu học, một sự quyết tâm sâu xa và chân thật. Khoác lên người chiếc áo giáp của nghị lực không phải là cách biểu dương anh hùng tính hay phô trương sự khổ nhục vì Đạo Pháp. Kinh sách ví chiếc áo giáp nghị lực ấy là một sự che chở trước sự lười biếng và ù lì.
b) Nghị lực trong hành động (prayogavirya): Không bao giờ hẹn sang ngày mai những gì ta có thể thực hiện trong ngày hôm nay, luôn luôn ý thức về vô thường và tính cách mong manh của sự hiện hữu, đó là những phương cách đem đến nghị lực trong sự sinh hoạt của ta. Gân máu dài hàng cây số trong não bộ, chỉ cần một gân máu nhỏ bằng sợi tóc bị đứt cũng làm cho ta ngã xuống, trong số hàng tỷ tế bào trong thân xác, chỉ cần một tế bào chia cắt và nhân lên một cách bấn loạn cũng làm cho ta bị ung thư. Nhưng tùy theo tuổi tác, ta cứ nghĩ rằng ta đang khoẻ mạnh và sẽ còn sống 10, 20, 30, 40…năm nữa, và ta tiếp tục hẹn lại và gác lại sự tu tập. Thiếu nghị lực trong hành động là như thế. Trong tập Chính Pháp nhãn tạng (Shobogenso), Đạo Nguyên có đưa ra hình ảnh của bốn con ngựa : một con phóng chạy khi thấy bóng của cây roi, một con chờ roi chạm vào da mới chạy, một con chờ roi cắt vào thịt mới chạy, một con chờ roi nghiến vào xương mới chạy. Chiếc roi tượng trưng cho vô thường.
Nghị lực trong hành động cũng là cách chống lại sự cám dỗ của những sinh hoạt vô bổ, những giải trí làm tê liệt trí óc, ngăn cản mọi suy luận và sinh hoạt của lý trí : chẳng hạn như nghe nhạc kích động liên miên, chơi những trò chơi điện tử hay xem truyền hình suốt ngày. Có thể xem đó là những loại ma túy tệ hại của xã hội tân tiến ngày nay.
c) Nghị lực vô biên (analamtavirya) : nghị lực Ba-la-mật không có giới hạn, không thể đo lường được, không bao giờ gọi là đủ hay đã đạt đến tối đa. Luôn luôn nên nghĩ rằng những gì đạo hạnh và xứng đáng ta đã thực hiên được đều vô nghĩa, nhỏ nhoi và thiếu sót, cần phải cố gắng nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Phải thực thi và duy trì nghị lực cho đến khi nào đạt được Giác ngộ.(Nguồn: Lục độ Ba La Mật)
+ 6. Tinh tấn: Có Chánh tinh tấn và Tà tinh tấn. Sao gọi là Chánh tinh tấn? Giống như chúng ta đang lễ Phật, niệm Phật suốt ngày không nghỉ ngơi, đó là Chánh tinh tấn. Nếu bạn đi đến chỗ khác nói chuyện khào, càng nói càng hăng, khoa chân múa tay, đó gọi là Tà tinh tấn, không có lợi ích chi, lại chẳng có tác dụng gì. Sao gọi là Chánh tinh tấn? Chánh tinh tấn chính là làm việc có ích. Sao gọi là Tà tinh tấn? Tức là làm việc vô ích, ví như đối với Phật pháp phải dụng công, nhưng lại lười biếng chỉ nói chuyện tào lao lười biếng cũng như, khi nghe kinh, không luận bận rộn cách mấy cũng phải đến nghe kinh, đến để hộ trì pháp hội, đó gọi là Chánh tinh tấn. Nếu vốn không bận việc gì, nhưng cũng không đến nghe kinh, đó gọi là không tinh tấn. Giống như chúng ta ở đây có mấy vị cư sĩ, hễ xem phim thì rất tinh tấn, chịu đi long nhong đường lớn hẻm nhỏ mà chẳng đến nghe kinh, có pháp hội mà chẳng đến hộ trì, đó đều là không tinh tấn. Chánh tinh tấn là không luận ở chỗ nào có pháp hội thì đến ủng hộ, hộ trì đạo tràng. Nếu khoái đánh bài, cờ bạc... đó là Tà tinh tấn. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ 6. Chánh tinh tấn: Tinh tấn là siêng năng, chuyên cần thẳng tiến đến mục đích và lý tưởng mà Phật đã dạy. Hăng say làm những việc chính đáng mang lợi ích cho mình và cho người. (Sách: Sự Hiển Lộ Của Thánh Đoàn)
+ Tinh Tấn - Ðộ thứ tư trong Lục Ðộ. Có người hiểu lầm đức tinh tấn này là tinh tấn hướng theo ngoại đạo; nhưng kỳ thực, người chân chánh hiểu rõ tinh tấn thì phải tinh tấn hướng về Phật Pháp. Nếu hướng theo ngoại đạo mà tinh tấn, thì đó chỉ là tu khổ hạnh một cách vô ích mà thôi.
Chúng ta hãy tinh tấn về mặt thiện pháp, chứ đừng nên tinh tấn về mặt ác pháp. Nếu quý vị áp dụng sự tinh tấn vào ác pháp, thì đó là đi ngược với Ðạo, là quay lưng lại với Ðạo vậy.
Ðối với thiện pháp, tinh tấn tức là chăm chỉ lạy Phật, tụng kinh, lễ sám, niệm Phật - đó là nói về "thân tinh tấn" (sự tinh tấn của thân). Rồi kế đến là "tâm tinh tấn" (sự tinh tấn của tâm); thế nào gọi là "tâm tinh tấn"? Tức là trong lòng thời thời khắc khắc đều nhớ đến việc tu hành, niệm niệm không quên siêng năng tu tập thiện pháp, lúc nào cũng hăng hái tu hạnh Tinh Tấn Ba La Mật, chẳng quản mệt nhọc.
Nếu quý vị chân chánh tu học Phật Pháp, tất quý vị sẽ không cảm thấy mệt mỏi, cũng chẳng thấy đói bụng hay khô cổ, và cũng không phải chịu đựng những phiền nhiễu ngoài ý muốn. Vì sao vậy? Vì hễ quý vị tinh tấn thì sẽ không thấy có thứ cảm giác uể oải, chán nản đó nữa. Nếu quý vị biếng nhác, thiếu tinh tấn, thì rất dễ sanh nhiều tật xấu, lại thường cảm thấy mệt mỏi, xuống tinh thần, chỉ muốn đi ngủ cho khỏe thân mà thôi! Tinh tấn là thước đo chủ yếu xem mình như thế nào. Vậy, ở mọi nơi mọi lúc chúng ta đều phải siêng năng tu hành thiện pháp, như thế mới gọi là "Tinh Tấn Ba La Mật." (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Chân tinh tấn: Kinh Pháp Hoa nói, chân tinh tấn mới gọi là chân pháp cúng dường. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr23 - HT Tuyên Hóa giảng)
Tù nhân của hành tinh (Prisoners of the planet):
Các tù nhân của hành tinh là vô số các sự sống thiên thần tạo thành thể sinh lực của hành tinh (planetary pranic body) và bị lôi cuốn vào các dòng sinh lực xuất phát từ mặt trời vật chất (physical sun). (LVLCK, 1024)
– Tù nhân của hành tinh nghĩa là con người tâm linh, thiêng liêng (the divine, spiritual man). (ĐĐTKNM II, 398)
+ Mặt trời và Mộc tinh truyền dẫn Cung 2, Nguồn: (GQ1- CT con người);
+ Mộc tinh: Mở rộng bất cứ cái gì nó chạm vào. Lớn, quá mức, hạnh phúc. (Nguồn: Ý nghĩa các hành tinh và cung hoàng đạo)
+ Sao Mộc (♃): Mộc tinh có liên quan đến nhiều hiện tượng khác nhau: giáo dục, du lịch, luật, minh triết, đạo đức. Là một tín đồ trong cách tiếp cận quá trình năng lượng của chiêm tinh học, tôi thích xem sao Mộc như mở rộng và phát triển bất cứ cái gì nó tiếp xúc. Sao Mộc tìm cách phát triển mọi thứ, làm cho chúng lớn hơn, mở rộng biên giới của chúng. Sao Mộc mở rộng quan điểm của chúng ta và nhìn thấy bức tranh lớn hơn. Nếu Thủy tinh có một góc hợp cứng với sao Mộc, người đó quan tâm đến những vấn đề lớn như triết học, tôn giáo, chính trị, kinh tế, hoặc du lịch. Nếu sao Hỏa có góc hợp cứng với Mộc tinh, người đó muốn đạt được những điều to lớn và làm việc chăm chỉ để đạt được tầm nhìn rộng lớn, có lẽ vĩ đại. (Nguồn: Các hành tinh - Minhtrietmoi)
+ Hành Tinh – Jupiter (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Jupiter…là một Thiên Đế (deity), Ngài là biểu tượng và nguyên hình kiểu của … tôn thờ nghi thức. Ngài là tu sĩ, vị tế lễ, người khấn nguyện và đồng tử mà nhờ đó, các khấn nguyện của thế nhân đến được với các Thánh Thần”. (II, 49. Ghi chú)
2. Jupiter được xem như “thánh toà của Brahma”. (II, 829)
3. “Jupiter là hiện thân của luật chu kỳ”. (II, 830)
4. “Mặt Trời thường được gọi là “mắt của Jupiter”. (III, 278)
5. “Pluto làm cho Jupiter thành Logos, Linh Ngữ (Word) của Mặt Trời”. (III, 279)
6. “Các Bí Pháp (Mysteries)… được lãnh đạo bởi Jupiter và Saturn”.
7. “Huyền linh học làm cho Jupiter thành màu lam (blue) vì Ngài là con của Saturn”.
8. “Dấu hiệu của việc tái lâm của Đấng Cứu Thế (Messiah) là sự kiên kết của Saturn và Jupiter trong Cung Song Ngư”. (III, 152) Các trích dẫn trong Luận về Lửa Càn Khôn
9. “ Venus, Jupiter và Saturn có thể được xét theo quan điểm của hiện tại, như là các hiện thể của ba siêu nguyên khí (super principles) hay là nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars được kết hợp chặt chẽ với ba hành tinh này, nhưng ở đây còn ẩn giấu một bí ẩn”. (299)
10. “Venus và Jupiter được liên kết chặt chẽ với Địa Cầu và sau rốt hợp thành một tam giác nội môn” (370)
11. “Trong hành tinh hệ Jupiter, các Con của Trí Tuệ chỉ mới bắt đầu công việc của các Ngài”. (742)
Xem thêm Tổng hợp về Mộc tinh
+ Hải Vương tinh: Hỏa tinh và Hải Vương Tinh truyền dẫn Cung 6 (GQ1- CT con người)
+ Sao Hải Vương (♆) - Neptune: Sao Hải Vương thường được coi là hành tinh ảo tưởng, ảo cảm, trí tưởng tượng, hoang tưởng, năng lực tâm linh, và mối quan tâm tinh thần. Sao Hải Vương cũng được coi là làm cho một người dễ mơ mộng, tập trung kém và dễ bị lừa bởi những người khác. Hải Vương tinh dường như có một thái độ cả tin trẻ con.
... Trong những ngày đầu tôi nghiên cứu về chiêm tinh, ... Theo thời gian tôi trở nên chắc chắn hơn rằng Hải vương tinh đã không nâng cao năng lực tâm linh.(Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Neptune: Tưởng tượng, lý tưởng, mơ mộng, trẻ con, nghệ thuật, tưởng tượng, dễ tiếp thu. Sao Hải Vương thường được coi là hành tinh ảo tưởng, ảo cảm, trí tưởng tượng, hoang tưởng, năng lực tâm linh, và mối quan tâm tinh thần. Sao Hải Vương cũng được coi là làm cho một người dễ mơ mộng, tập trung kém và dễ bị lừa bởi những người khác. Hải Vương tinh dường như có một thái độ cả tin trẻ con. (Xem nguồn)
+ Hải Vương Tinh vốn là cung của Vị Chúa (Deity) của các loại nước, có liên quan với Cung 6 đang cai quản cõi cảm dục và cõi tình cảm ham muốn, Chân Sư DK (CTHNM, 336)
+ Hành tinh nào quản trị giấc mơ? Viola hỏi, nàng chú ý về mặt chiêm tinh của câu hỏi.
– Neptune, Hải vương tinh, David trả lời, nó cũng ảnh hưởng ma túy và huyền học (mysticism)
– Cái phối hợp lạ lùng, tôi bình luận, tôi không thấy làm sao những điều này có liên kết với nhau.
– Neptune, anh giải thích, có liên quan với thế giới ảo ảnh và nghệ thuật. Cả phim ảnh và nghệ thuật có liên hệ chặt chẽ với ảo ảnh, như ai cũng có thể thấy nếu suy nghĩ về điều này một chút. Khi Greta Garbo xuất hiện trên màn ảnh cho ta thấy, trong khoảng thời gian ấy cô làm ta lú lẫn mà tin rằng ta thực sự thấy cô bằng xương bằng thịt. Khi hoạ sĩ vẽ tranh phong cảnh, họ tạo nên một ảo ảnh là ta đang thực sự thấy phong cảnh ấy.
– Còn ma túy? tôi hỏi.
– Ma túy cũng tạo nên ảo giác. Ai nghiện thuốc lại không chịu trả bất cứ giá nào để có được giấc mơ do ma túy mang lại?
– Đúng rồi. Tôi đồng ý. Nhưng còn huyền học thì sao?
– Nhà thần bí phải đi qua những cảnh giới ảo ảnh mới đi tới cõi Thực Tại. Mà ngay cả Thực Tại theo nghĩa triết lý lại là ảo ảnh theo quan điểm ở cõi trần – nên nhìn từ góc cạnh nào thì huyền học cũng liên hệ với ảo ảnh bằng hình thức này hay kia, tuy đương nhiên là chân lý huyền bí tối hậu không phải là ảo ảnh.
–Giải thích tuyệt hết sức, Viola khen, nhưng sao đi nữa, thấy lạ là cùng một ảnh hưởng có thể làm mình hoặc thành nhà thần bí hoặc người nghiện ngập. .....
– Cả Neptune và Uranus khi xưa được xem là hành tinh ẩn.
– Khác biệt giữa hành tinh ẩn và lộ là gì? tôi hỏi, đại khái thôi.
– Hành tinh hiển lộ là những hành tinh có liên lạc trực tiếp về tâm linh và ở cõi trung giới với địa cầu; chúng là cái hướng dẫn và theo dõi địa cầu về luân lý và thể chất – Saturn, Jupiter, Mercury và Venus thuộc về loại này; ... trong khi đó Uranus và Neptune, tức các hành tinh ẩn hay là mật, chỉ có thể ảnh hưởng những thể cao hơn của người tiến hóa hơn cả, và điều này chỉ mới thay đổi lúc gần đây. ... sự việc thay đổi từ ngày trăng tròn tháng giêng 1910 ... kể từ đây, Neptune và Uranus trở thành các hành tinh hiển lộ,.... và Jupiter, luôn luôn được xem là hành tinh tốt lành nhiều uy lực nhất, vẫn được xem là cho ảnh hưởng hành tinh mạnh mẽ nhất trong tương lai. Ngay cả hội Theosophia cũng bị lầm với giả định này, và tưởng rằng nghi lễ, một trong những điều mà Jupiter quản trị, sẽ đóng vai trò nổi bật trong hoạt động của hội.... (Nguồn: David Anrias: Chiêm Tinh gia và Huyền Bí gia - Chương VII)
+ Hải Vương Tinh - Hành Tinh Neptune (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Neptune không thực sự tuỳ thuộc vào thái dương hệ chúng ta, mặc dù có sự liên hệ bề ngoài với Mặt Trời. Sự liên hệ này là tưởng tượng”. (GLBN I, 129. Chú thích)
2. “Trong số các hình cầu huyền bí hay là các Thiên Thần tinh tú… Neptune không được bao hàm”. (GLBN I, 629)
3. “Neptune là Chúa của lập luận”. (GLBN II, 840)
4. “Sirius có ảnh hưởng đến toàn bộ thái dương hệ chúng ta về mặt tâm linh xuyên qua ba hành tinh hệ tổng hợp – Uranus, Neptune và Saturn.” (LVLCK, 378)
5. “Có một nhóm các Đấng đặc biệt liên kết với một số chòm sao và chòm Tiểu Thiên Long, các Ngài có trú sở của các Ngài trên Neptune và hoạt động với nguyên khí thứ sáu trong thái dương hệ”. (LVLCK, 534)
6. “Định Luật Hy Sinh và Tử Vong là … theo một cách bí ẩn định luật này là mặt trái của định luật thứ nhất, định luật Rung Động. Chính Vulcan và Neptune đang ở thế đối nghịch cho đến nay hầu như là điều không thể hiểu được đối với chúng ta”. (LVLCK, 597).
7. “Không một ai bắt đầu phối kết được hiện thể Buddhi cho đến khi y tiến đến dưới ảnh hưởng của Neptune … Khi xảy ra điều này, lá số phàm ngã của y sẽ cho thấy ảnh hưởng này đang chiếm ưu thế ở nơi nào đó”. (LVLCK, 899).
8. “Hành tinh hệ Neptune chi phối một trong ba con đường trở về và sau rốt gom vào chính nó mọi Chân Ngã đang đạt tới mục tiêu của mình, chủ yếu là qua việc vận dụng năng lượng Cung VI”. (LVLCK, 899)
9. “Neptune
a/ Chủ trí và làm cho cuộc điểm đạo thứ hai có thể xảy ra.
b/ Là một trong các hành tinh tổng hợp chính.
c/ Là một hành tinh thu hút hay là hành tinh trừu tượng hoá (abstracting planet).
d/ Được liên kết với tiến trình hoàn thiện”. (LVLCK, 899).
10. “Neptune là kho chứa của các lửa thái dương”. (LVLCK, 1154).
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem thêm: Tổng hợp về Hải Vương Tinh
+ Diêm Vương Tinh - Pluto: Vulcan và Diêm Vương tinh truyền dẫn Cung 1 (GQ1- CT con người)
+ Pluto: Ám ảnh, ép buộc, cuồng tín, ý thức nhiệm vụ, bị tình cảm tác động. (Nguồn: Xem thêm)
+ Pluto là hành tinh tái sinh và chuyển đổi. Nhiều nhà chiêm tinh nhấn mạnh rằng Sao Diêm Vương sẽ biến đổi cuộc sống của bạn. Bất cứ khi nào Pluto hoạt động, cuộc sống sẽ bị biến hình thành một cái gì đó khác với cách nó bắt đầu.
+ Cặp bài trùng: Hỏa tinh - Mars và Pluto - Diêm Vương tinh là cặp bài trùng (về nội môn), nó tương tự như Kim tinh và Địa cầu ( Xem thêm: Tổng hợp về Diêm Vương tinh)
+ Sao Diêm Vương:
Pluto là hành tinh tái sinh và chuyển đổi. Nhiều nhà chiêm tinh nhấn mạnh rằng Sao Diêm Vương sẽ biến đổi cuộc sống của bạn. Bất cứ khi nào Pluto hoạt động, cuộc sống sẽ bị biến hình thành một cái gì đó khác với cách nó bắt đầu.
Reinhold Ebertin gắn với Sao Diêm Vương với sự cuồng tín, ám ảnh, và ép buộc. Nhiều nhà chiêm tinh học lưu ý rằng ảnh hưởng của Pluto có vẻ như nắm bắt cá nhân và cảm thấy vượt quá sự kiểm soát của người đó. Họ cảm thấy những động lực cưỡng ép hoặc biến đổi dường như kiểm soát cuộc sống của một người.
Tôi đã phát triển một giả thuyết về ảnh hưởng của Sao Diêm Vương sau khi nhà chiêm tinh Charles Jayne nói với tôi rằng ảnh hưởng của Pluto hoạt động ở mức độ cảm xúc và ảnh hưởng của Pluto có mối liên hệ với ảnh hưởng của Mặt Trăng. Sau khi nghiên cứu nhiều lá số, tôi bắt đầu tin rằng Jayne đã đúng.
Tôi kết hợp lý thuyết của Jayne với Ebertin trong khi nghiên cứu ảnh hưởng của Pluto trong các lá số để đưa ra giả thuyết này: Pluto buộc các cảm giác chôn sâu trồi lên bề mặt, Pluto buộc những thứ ẩn sâu trong trồi lên nhận thức có ý thức và vào cuộc sống của chúng ta, theo cách mà chúng ta ít có thể kiểm soát. Mặt trăng khiến chúng ta liên hệ với quá khứ qua những tâm trạng và cảm xúc của chúng ta. Pluto buộc những cảm giác bị đè nén hoặc tiềm ẩn lên bề mặt. Như Ebertin chỉ ra, Pluto có khuynh hướng làm một người bị ám ảnh, cưỡng ép, hoặc cuồng tín.
Người Plutonic không được thúc đẩy bởi logic và lý trí hay bởi thiện chí. Anh ta bị thúc ép bởi ham muốn cưỡng bách. Bất cứ khi nào một người đi đến cực đoan có vẻ như không cân bằng hoặc cuồng tín, Pluto thường có liên quan, đặc biệt nếu nó không phải là chủ nghĩa lý tưởng đang dẫn dắt họ. Vận động viên hoặc người biểu diễn luyện tập 8 tiếng mỗi ngày, hoặc người hy sinh những sở thích và những thói quen “bình thường” để theo đuổi những gì quan tâm có thể sẽ có Pluto nổi bật trong lá số sinh. Diễn giả sôi nổi khuyến khích bạn thực hiện theo nguyên tắc của mình rất thường xuyên bị thúc đẩy bởi một sự thúc giục cuồng tín vượt ngoài lí trì và sự phán đoán hợp lý về tình trạng; Anh ta bị sức mạnh của Pluto khống chế. Sao Diêm Vương ép buộc cảm xúc sâu sắc trồi lên bề mặt và do đó ép chúng ta bằng sức mạnh của nó giống như làn sóng thủy triều có cường độ cảm xúc không thể phủ nhận.
Nhiều nhà chiêm tinh học sẽ thấy rằng giải thích trên về ý nghĩa Pluto đã bỏ qua tính năng quan trọng nhất của Sao Diêm Vương: sự chuyển đổi. Sự biến đổi thường là kết quả của sự tràn ngập cảm xúc của cảm xúc sâu xa, nhưng sự biến đổi này có thể là một sản phẩm phụ của quá trình cơ bản.
Có lẽ việc rút gọn mỗi hành tinh thành một quá trình năng lượng cơ bản có vẻ là một bài tập vô ích đối với bạn. Tuy nhiên, nếu không còn gì khác, nó có thể đơn giản hóa nhiều việc luận giải lá số; Chúng ta tập trung vào quy trình năng lượng cơ bản trong công việc, và chúng ta không phải lựa chọn trong số rất nhiều chi tiết dường như không liên quan để giải thích lá số. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Hành Tinh Pluto - Diêm Vương Tinh (Trích dẫn trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Pluto là một vị thần (deity) có các thuộc tính của rắn. Pluto là tay chữa bệnh, kẻ ban phát sức khoẻ, về tinh thần, thể chất và về giác ngộ”. (GLBN II, 30. Chú thích).
2. “Theo truyền thuyết, Orpheus tìm kiếm linh hồn thất lạc của mình trong vương quốc của Pluto. Krishna cứu ra khỏi Pluto sáu nguyên khí của y (II, 30), vốn là cái thứ bảy chính y… y là điểm đạo đồ hoàn toàn, toàn bộ sáu nguyên khí của y nhập vào cái thứ bảy.” (GLBN III, 142)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Phương pháp Hành tinh quá cảnh (transiting planets) hay lưu tinh Thuật ngữ “hành tinh quá cảnh” đề cập đến hành tinh vào thời điểm chúng ta quan tâm. Ví dụ, tuyên bố “vào ngày cưới của tôi, sao Kim quá cảnh ở 3 độ Cự Giải” có nghĩa là sao Kim vào ngày đám cưới ở 3 độ của Cự Giải. Trong trường hợp đặc biệt này, từ “quá cảnh” có thể bỏ đi và chúng ta có thể chỉ nói đơn giản rằng “vào ngày cưới của tôi, sao Kim ở 3 độ Cự Giải”. Từ “quá cảnh” trong trường hợp này chỉ nhằm nhấn mạnh điểm đó là vị trí của sao Kim tại thời điểm đang được nói đến. Nhiều kỹ thuật được sử dụng để phân tích hành tinh quá cảnh cũng tương tự như cách phân tích các mối quan hệ. Để giải thích ý nghĩa của hành tinh quá cảnh trong các nhà của lá số sinh, bạn phải rất quen thuộc với tốc độ của mỗi hành tinh như liệt kê trong bảng dưới đây. Tốc độ đưa ra trong bảng là các tốc độ gần đúng. Tốc độ thực tế của hành tinh thay đổi theo thời gian. Bạn không cần phải ghi nhớ bảng này nhưng bạn nên có một ý niệm sơ bộ về tốc độ của các hành tinh. Xem Chiêm tinh học nội môn 5
+ Trạng thái Vượng Tướng Tù Tử của Hành tinh trong các cung Hoàng đạo - Hành tinh Vượng: Khi nó nằm ở đúng Cung Hoàng Đạo mà nó quản/ Chủ tinh (CTHNM 17)
+ Hành Tinh bị Tù : Khi nó nằm ở Cung Hoàng đạo ngược lại với Cung nó quản/ là Chủ tinh - Hành Tinh ở Tướng: Hành tinh nằm trong cung Hoàng đạo mà nó được "Sinh", tức làm nó mạnh thêm - Hành Tịnh bị Tử: Hành tinh nằm trong cung Hoàng đạo mà nó bị "Khắc", tức làm nó Suy yếu * Trong chiêm tinh truyền thống, mỗi hành tinh đều có một cung mà nó cai quản; đây là cung mà hành tinh cảm thấy thoải mái nhất, nơi mà ảnh hưởng của nó là tự nhiên nhất. Chẳng hạn, sao Hỏa cai quản Bạch Dương, và sao Mộc cai quản Nhân Mã. Dấu hiệu ngược lại được gọi là “tù—detriment”. Sao Hỏa bị detriment (“tù”) trong Thiên Bình, và sao Mộc “tù” trong Song Tử. Dấu hiệu Cung tướng là cung, theo một nghĩa nào đó, sẽ nâng cao tính chất của hành tinh. Sao Hỏa tướng trong Capricorn. Tính hành thổ của Capricorn sẽ làm chậm lại sao Hỏa nhưng Capricorn cũng được coi là dấu hiệu của sự thành tựu nên sao Hỏa không bị ngăn trở trong Capricorn, nhưng thay vào đó Mars có thể hoạt động rất hiệu quả trong cung này theo khái niệm này. Cung ngược lại với cung vượng là cung mà hành tinh suy yếu. Mars “tử” trong Cự Giải, một cung rất khó để sao Hỏa hoạt động theo chiêm tinh truyền thống. (Nguồn: CTHNM III)
+ Vulcan: Với Ngoại môn xem như dùng Mặt Trời (CTHNM, 772)
+ Vulcan tức Hỏa Vương Tinh - Cung 1. Không bao giờ tương tác Ngoại môn
- Vulcan: Dẫn truyền Cung 1; Pluto cũng dẫn truyền Cung 1 (Vài Cung tự biểu hiện qua 2 hành tinh. Thí dụ Cung 4, qua Mặt Trăng và cả qua Mercury, trong khi Cung 1, đến với chúng ta qua Vulcan và qua Pluto. Lý do thực sự là một trong các bí mật của điểm đạo và được ẩn giấu trong vận mệnh của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư - Nhân loại.
+ Vulcan - Nằm Giữa Sao Thủy và Mặt Trời: Trong chiêm tinh học nội môn, vẫn sử dụng các hành tinh thông thường nhưng có bổ sung thêm Vulcan, một hành tinh được cho là nằm gần mặt trời. Vòng hoàng đạo sử dụng là vòng hoàng đạo xích đới (tropical). (Chiêm THNM 8)
+ Việc đặt Vulcan lên Mặt Trăng hay Mặt Trời là đúng, bởi vì (trên đường đạo/ Nội môn) lực của Vulcan (Hải Vương tinh/ Mặt Trăng, Thiên Vương tinh/ Mặt Trời) tuôn chảy trực tiếp quá Mặt Trăng (Tình cảm), Mặt Trời (Bản Ngã); (Nguồn: Trả lời câu hỏi Chiêm THNM 9;)
+ Ba hành tinh bị che lấp – Vulcan, Uranus và Neptune: Là các hành tinh thánh thiện, Cung thứ nhất, thứ bảy và thứ sáu. Vulcan không bao giờ là chủ thể cai quản bên ngoài, và chỉ hoạt động thực sự khi một người đang ở trên Thánh Đạo, trong khi Uranus và Neptune là các chủ thể cai quản của cung thứ 11 và 12, và chi phối Aquarius cùng Pisces. Các hàm ý sẽ trở nên sáng tỏ cho bạn (CTHNM, 570)
+ Hỏa Vương Tinh: Hành tinh thánh thiện tương ứng với 7 Trung tâm lực trong con người, tức 7 Luân Xa (TLHNM III, 19):
1. Hỏa vương tinh (Vulcan) ........ Cung 1
2. Thủy vương tinh (Mercury) ..... Cung 4
3. Kim tinh (Venus) ................... Cung 5
4. Mộc tinh (Jupiter) .................. Cung 2
5. Thổ tinh (Saturn) .................. Cung 3
6. Hải vương tinh (Neptune) ...... Cung 6
7. Thiên vương tinh (Uranus) ..... Cung 7
+ Vulcan - Nằm Giữa Sao Thủy và Mặt Trời: Trong chiêm tinh học nội môn, vẫn sử dụng các hành tinh thông thường nhưng có bổ sung thêm Vulcan, một hành tinh được cho là nằm gần mặt trời. Vòng hoàng đạo sử dụng là vòng hoàng đạo xích đới (tropical). (Chiêm THNM 8)
+ Vulcan: Với Ngoại môn xem như dùng Mặt Trời (CTHNM, 772)
+ Vulcan tức Hỏa Vương Tinh - Cung 1. Không bao giờ tương tác Ngoại môn - Vulcan: Dẫn truyền Cung 1; Pluto cũng dẫn truyền Cung 1 (Vài Cung tự biểu hiện qua 2 hành tinh. Thí dụ Cung 4, qua Mặt Trăng và cả qua Mercury, trong khi Cung 1, đến với chúng ta qua Vulcan và qua Pluto. Lý do thực sự là một trong các bí mật của điểm đạo và được ẩn giấu trong vận mệnh của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư - Nhân loại.
+ Việc đặt Vulcan lên Mặt Trăng hay Mặt Trời là đúng, bởi vì (trên đường đạo) lực của Vulcan (Hải Vương tinh, Thiên Vương tinh) tuôn chảy trực tiếp quá Mặt Trăng (Tình cảm), Mặt Trời (Bản Ngã); Nguồn: Trả lời câu hỏi Chiêm THNM 9;
+ Hỏa Vương tinh - Hành Tinh – Vulcan (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Jehovah được đồng hoá với Saturn và Vulcan.” (GLBN I, 632)
2. “Vulcan ở bên trong quỹ đạo của Mercury.” (LVLCK, 206. Chú thích)
3. “Định Luật Hy Sinh và Tử Vong, ‘theo một cách bí ẩn’, là đối nghịch của định luật thứ nhất, Định Luật Rung Động. Chính Vulcan và Neptune đang đối nghịch (in opposition), mà cho đến nay là một ý tưởng không thể hiểu được đối với chúng ta.” (LVLCK, 597)
4. “Trong Vulcan, Các Con của Trí Tuệ hầu như đã hoàn tất công việc của họ.” (LVLCK, 742) . * Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem: Tổng hợp về Hành tinh
+ Quyền năng/ Huyền công/ Thần thông (power, siddhis):
+ Các Hành tinh chi phối Khả năng (CTHNM, 715):
- Thổ tinh“ Saturn – chi phối các khả năng mộ đạo.
- Thủy tinh Mercury – chi phối các khả năng trí tuệ.
- Mộc tinh Jupiter – điều hành các khả năng tình cảm.
- Mặt Trời – điều hành các khả năng cai trị.
- Hỏa tinh Mars – chi phối các khả năng ích kỷ.
- Kim tinh Venus – chi phối các khả năng kiên trì.
- Mặt Trăng – chi phối các bản năng”.(GLBN III, 463).
+ Hành tinh dẫn truyền Cung NL(GQ1- Cấu tạo con người):
Vulcan và Diêm Vương tinh - Cung 1,
Mặt trời và Mộc tinh- Cung 2,
Trái đất và Thổ tinh - Cung 3,
Thủy tinh và Mặt trăng - Cung 4,
Kim Tinh - Cung 5,
Hỏa tinh và Hải Vương Tinh - Cung 6,
Thiên Vương Tinh- Cung 7
+ Ý nghĩa từ khóa của các hành tinh (Ngoại môn)
1-Mặt trời: bản ngã, cái tôi, ngoại hình, lập trường trong cuộc sống hoặc bạn là ai
2-Mặt trăng: tính khí, nhà, bản chất trong nhà, phẩm chất nuôi dưỡng
3-Thuỷ tinh: lời nói, viết, suy nghĩ có ý thức, logic
4-Kim tinh: cảm nhận thẩm mỹ, nghệ thuật, vẻ đẹp, tình cảm, tình yêu
5-Hoả tinh: tham vọng, lực đẩy, năng lượng, bản chất hung hăng
6-Mộc tinh: mở rộng bất cứ cái gì nó chạm vào. Lớn, quá mức, hạnh phúc
7-Thổ Tinh: cấu trúc, kỷ luật, tập trung, nghiêm trọng, tách rời, phân cách
8-Thiên Vương Tinh: không ổn định, tự phát, bốc đồng, sáng tạo, không có kỷ luật
9-Hải Vương tinh: tưởng tượng, lý tưởng, mơ mộng, trẻ con, nghệ thuật, tưởng tượng, dễ tiếp thu
10-Diêm Vương Tinh: ám ảnh, ép buộc, cuồng tín, ý thức nhiệm vụ, bị tình cảm tác động (Nguồn: CTHNM 3)
+ Hành tinh đại diện bốn phương chính (Đông - Tây - Nam - Bắc): Chính xác nhất cho bán cầu nam là Thổ Tinh; Hỏa Tinh ở Bán cầu đông; Mặt trăng ở Bán cầu bắc; và Kim Tinh ở Bán cầu tây. Điều này là do thực tế rằng chúng cũng là những chủ tinh tự nhiên của bốn nhà góc (nhà 10, nhà 1, nhà 4 và nhà 7) tạo thành khung cơ bản cho các ngôi nhà khác của lá số chiêm tinh. Nguyên tắc tứ phân này là nguyên mẫu mà theo đó chúng ta đưa ra thực tiễn. Có bốn mùa, bốn hướng chính, bốn yếu tố, bốn mặt của một kim tự tháp, và bốn loại tâm lý.... (Nguồn: CTHNM 2)
Xem thêm trang Thuật ngữ: Tổng hợp về mầu sắc
Xem thêm trang Thuật ngữ: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Phương Pháp Khất Thực/ Kinh Hành Thanh Tịnh
Thế Tôn nói với Tôn giả Sariputta đang ngồi một bên:
-- Này Sariputta, các căn của Ông rất sáng suốt, sắc da của Ông thanh tịnh trong sáng. Này Sariputta, Ông nay đang phần lớn an trú với loại an trú nào?
-- Bạch Thế Tôn, con nay đang phần lớn an trú với Không trú.
-- Lành thay, lành thay! Này Sariputta, Ông nay đang phần lớn an trú với sự an trú của bậc Ðại nhân. Này Sariputta, sự an trú của bậc Ðại nhân tức là không tánh. Do vậy, này Sariputta, nếu Tỷ-kheo ước mong rằng: "Mong rằng tôi nay phần lớn an trú với sự an trú không tánh", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Trên con đường ta đã đi vào làng để khất thực, tại trú xứ ta đã đi khất thực, và trên con đường từ làng ta đi khất thực trở về, tại chỗ ấy, đối với các sắc do mắt nhận thức, có khởi lên ở nơi ta dục, tham, sân si, hay hận tâm không?"
Này Sariputta, nếu Tỷ-kheo sau khi tư duy biết rằng: "Trên con đường ta đã đi vào làng để khất thực, tại trú xứ ta đã đi khất thực và trên con đường từ làng ta đi khất thực trở về, đối với các sắc do mắt nhận thức, có khởi lên nơi ta dục, tham, sân, si hay hận tâm", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải tinh tấn đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy. Nhưng này Sariputta, nếu Tỷ-kheo trong khi suy tư được biết như sau: "Trên con đường ta đã đi... ta đi khất thực trở về, đối với các sắc do mắt nhận thức, không có khởi lên nơi dục, tham, sân, si hay hận tâm", thời này Sariputta, Tỷ-kheo ấy phải an trú với hỷ và hân hoan ngày đêm tu học trong các thiện pháp.
Nguồn: Kinh Khất Thực Thanh Tịnh
+ Ðức Phật dạy: "Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc đẹp to lớn không gì sánh bằng. May thay, chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế thì khắp thiên hạ không ai có thể tu Ðạo được cả!". Người đời Tham ái/ Tham yêu Thất tình, ngũ dục (Mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham dục và Tài, sắc, danh, thực, thùy) nên phải trôi năn ba cõi sáu đường... (Nguồn: HT Tuyên Hóa Khai thị về Ái dục rất hay)
+ II- Sự tham ái. Đồng nghĩa với ái trước, ái nhiễm, ái chấp - Ái chấp là hưởng thụ tình ái. Tính dục - Bản năng của con người chỉ đứng sau thực dục.
- (I) Nghĩa của Ái Dục: Luyến ái và dục vọng, hoặc tình thương yêu gia đình
- (II) Những lời Phật dạy về “Ái Dục” trong Kinh Pháp Cú:
6) Những người có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ dong ruổi theo dục cảnh chẳng chút ngại ngùng, bởi vậy người đã có tâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi dạt hoài
- Khát ái. Thô kệch hay vi tế, luôn ngủ ngầm trong mỗi người, và là nguyên nhân chủ yếu những bất hạnh lớn trong đời. Ái dục làm ta bám víu vào đời sống với mọi hình thức và do đó dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi.
(Pháp Cú 251)
Lửa nào có thể sánh ngang
Lửa tham dục nọ dữ dằn vô biên,
Không còn cố chấp nào bền
Bằng tâm sân hận nổi lên cấp kỳ,
Lưới nào trói buộc dầm dề
So ra với lưới ngu si buộc ràng,
Sông nào chìm đắm cho bằng
Dòng sông ái dục cuốn phăng bao người. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Tham ái: Tham đắm yêu thích Ngũ dục nên không thể ra khỏi sinh tử luân hồi. Tham và ái (yêu) là cùng thể khác tên. Tham là sự ham muốn, mong cầu những tài vật nhiễm ô mà không biết nhàm chán. Ái là yêu thích đắm đuối, là 1 trong 12 nhân duyên, hoặc là 1 trong 9 kết. Theo kinh Thắng Thiên Vương bát nhã quyển 1 thì sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong 6 đường luân hồi mãi mãi không dứt là đều do Tham ái. Luận Đại tì bà sa quyển 50 cho rằng Ái kết là Tham trong 3 cõi; trong 9 kết, Tham trong 3 cõi được lập chung làm Ái kết, trong 7 Tùy miên lập làm 2 Tùy miên: 1. Tham ở cõi Dục gọi là Dục tham tùy miên. 2. Tham ở cõi sắc, cõi Vô sắc gọi là Hữu tham tùy miên. Trong các kinh luận khác thì có lập Tam ái: Dục ái, Sắc ái và Vô sắc ái. (xt. Tham, Ái).
Passion—Desire—Cupidity - Tham ái, tham dục đòi hỏi những sự ham muốn về vật chất như thèm ăn, thèm ngủ, thèm ân ái,......., là những khoái lạc về ngũ quan. Con người còn ham muốn để được thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần như ham chiếm đoạt, ham phô trương, ham quyền lực, ham lợi lộc. Lòng ham muốn đắm mê không bao giờ biết ngừng, không bao giờ được thỏa mãn cả, như chiếc thùng không đáy. Để thỏa mãn dục vọng mà con người sanh ra vị kỷ, độc ác, làm hại, làm khổ người khác để mình được vui, được sung sướng. Vì lòng tham mà chúng ta không ngại xử dụng mọi thủ đoạn để đạt cho được mục đích, bất kể chuyện gì xãy đến cho người khác. Phật tử chúng ta nên thấy rõ vì không tu nên cõi đời trở thành một đấu trường mà nước mắt đổ như mưa rào, bể khổ dâng lên như nước thủy triều biển khơi. (Nguồn: Tham ái - Thuvienhoasen)
+ 5. Loại ái dục: Trích Phật dậy toàn diện về Ái Dục.... Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như thật về tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái.
Biết như thật về ái? Có ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Biết như thật về tập của ái? Do thọ mà có ái.
Biết như thật về diệt của ái? Thọ diệt tức ái diệt.
Biết như thật về diệt đạo của ái? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
Yêu và không yêu là nhân nơi dục và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có. Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy. Kinh nhiều nội dung giành cho người trí tu. (Nguồn: mục 453- Phật dậy Toàn diện về Ái Dục - Trung A Hàm)
Xem thêm: HT Tuyên Hóa khai thị về Ái Dục
Xem tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
+ Tu Thân Tâm Thanh tịnh: ... Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ. Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. ... Chi tiết Quán thân - Quán thọ - Quán Tâm - Quán Pháp (xem Kinh Niệm Xứ)
+ Tu Tâm Bệnh để Thanh Tịnh Tâm:
Trích kinh văn: “Muốn đạt được tâm thanh tịnh” chính là trọng điểm của toàn bản kinh này, nghĩa là làm thế nào mới hòng đạt được tâm thanh tịnh? Chuyện này rất quan trọng đối với việc tu hành của chúng ta vậy. Tổng kết Kinh Thanh tịnh tâm, đức Phật nói 5 thứ chướng ngại => Phải đoạn trừ:
1) Tham dục chướng ngại sự bố thí, trì giới đại viên mãn của tự tánh. Do có tâm tham dục, nhất định chẳng có tâm bố thí; có ba độc Tham - Sân - Si, tâm địa chẳng thanh tịnh => nói gì đến trì giới nữa đây?
2) Sân Khuể chướng ngại từ bi, nhẫn nhục đại viên mãn nơi tự tánh.
3) Ngủ nghê chướng ngại tinh tấn đại viên mãn nơi tự tánh.
4) Trạo Hối chướng ngại thiền định đại viên mãn của tự tánh.
5) Nghi chướng ngại trí huệ đại viên mãn của tự tánh.
Chúng ta muốn viên mãn sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi đầu từ chỗ này. Ngoài ra, còn có bảy điều chúng ta phải tu tập.
Những gì là bảy pháp?
1. Trạch pháp giác chi: “Chọn lựa pháp môn tà hay chánh phải đặc biệt chú ý”. Tùy căn cơ mục đích chọn pháp phù hợp.
2. Niệm giác chi: Phải hiểu được điều hòa thân tâm, nên rất cần vị thầy "Biết bệnh - Cho thuốc", chỉ dẫn để tu cho thân tâm khỏe mạnh.
3. Tinh tấn giác chi: Tinh thần thuần chẳng tạp niệm. Tấn là tiến chứ không lùi. Nên chuyên tinh thâm sâu để có thành tựu cao siêu.
4. Hỷ giác chi: Tu đúng sẽ đạt được trạng thái khinh an, tự tại, thong dong vì đã xả bỏ mọi phiền lão chấp trước. Trí tuệ tăng trưởng.
5. Khinh an giác chi: Tu đạt thân tâm nhẹ nhàng. Nên nhớ không sanh tâm ngã mạn sẽ mất đi trạng thái khinh an.
6. Định giác chi: Tu thiền đạt định lực, pháp môn giành cho người trí. Muốn thành tựu phải trừ chướng ngại, nghiêm trì giới.
7. Xả giác chi: Xả là buông bỏ, Pháp thế gian phải bỏ đã đành, mà pháp xuất thế gian cũng phải bỏ luôn. Không xả rễ tham ái, chấp trước. Hãy nên tu tập bảy pháp như thế. Tu như vậy, chứng quả ngay trong đời này, chứng được quả viên mãn. Đây chính là điều chúng tôi thường nói: “Phá một phần vô minh, chứng được một phần Pháp Thân”.(Nguồn - PS Tịnh Không giảng Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Tu Thanh Tịnh Pháp Thân - Tâm Kim cang: Trích Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là thanh tịnh pháp thân?
Thế Tôn nói: Thanh tịnh pháp thân ấy là chơn tánh thanh tịnh. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân, xưa nay thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh, tại chỗ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân. Nếu không tu hành thì không thể ngộ được bản lai diện mục. Nếu người muốn được giác ngộ mà không cầu thầy chứng minh cho, nhận giả làm thiệt, lâu ngày sẽ thành tà ma ngoại đạo, thành yêu thành quái, phỉnh gạt chúng sanh. Hiện đời sẽ bị pháp luật nhà vua hành phạt, chết rồi đọa vào ác đạo, một khi mất thân người muôn kiếp khó khục hồi được.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Quy Y - Nương theo Tam Bảo nơi Tánh mình tu Tâm Thanh Tịnh: Từ nay sắp sau, hãy xưng Giác làm Thầy, chẳng nên nương theo tà ma ngoại đạo. Hãy lấy Tam bảo của tánh mình mà thường tự chứng tỏ các công đức của mình. Ta khuyên chư Thiện tri thức phải nương theo Tam bảo của tánh mình là:
1. Phật nghĩa là Giác (tánh Giác ngộ).
2. Pháp nghĩa là Chánh (tánh Chơn chánh).
3. Tăng nghĩa là Tịnh (tánh Thanh tịnh).
Tâm mình nương theo tánh Giác, thì tà mê chẳng sanh. Lại ít có sự ham muốn, thường biết đủ (thiểu dục tri túc), lìa được của tiền sắc dục, gọi là Lưỡng Túc Tôn.
Tâm mình nương theo tánh Chánh, thì niệm niệm không sanh tà kiến. Bởi không tà kiến, nên không lòng nhơn ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn.
Tâm mình nương theo tánh Tịnh, thì cả thảy các cảnh giới trần lao, ái dục, tâm mình chẳng nhiễm chẳng vương, gọi là Chúng Trung Tôn. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tánh Giác Ngộ Tròn Đầy: Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp và không hòa hợp, thì diệt trừ được các nhân sinh tử, đó chính là tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt, chính là chân tâm bản giác thanh tịnh thường trú. Giảng:
Nhân của sinh tử chính là vô minh, duyên của sinh tử chính là nghiệp thức. Khi nhân – vô minh, và duyên –nghiệp thức nầy hòa hợp với nhau thì có sinh tử. Như Đức Phật dạy trong kinh nầy:
Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp – sự hòa hợp của nhân vô minh và duyên nghiệp thức–và không hòa hợp– và sự kết hợp của bất kỳ các nhân duyên không hòa hợp – thì diệt trừ được các nhân sinh tử. Khi ấy quý vị thóat khỏi phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử.
Đó chính là tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt. Khi xa lìa sạch mọi nguyên nhân sinh tử thì quý vị đạt được quả niết-bàn vi diệu, tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt.
Đó chính là chân tâm, là bản tánh giác ngộ thường trú không sinh không diệt: nghĩa là Tự tánh. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng - Q2)
+ Tùy thuận chúng sinh: Hỏi: Kính thưa lão Pháp sư, sau khi độ cha mẹ thành Phật rồi con mới vãng sanh hay là con nên vãng sanh trước rồi trở về độ họ?
Trả lời: ... Phật thường dạy chúng ta là “Tùy duyên chứ không phan duyên”. Tùy duyên thì mới được tự tại (giải thoát). Nếu chính mình muốn làm như thế này, như thế kia thì sự việc và ý muốn thường luôn trái ngược, mà việc làm cũng không thành. Hãy nghiêm túc nỗ lực y theo lời dạy của Phật mà tu hành, thường xuyên đem công đức của bạn hồi hướng cho cha mẹ, đây chính là điều mà người con hiếu thuận nên làm. Chính mình nhất định phải phát nguyện vãng sanh, còn việc bạn đi trước hay là cha mẹ bạn đi trước thì do nghiệp lực làm chủ, bản thân không thể làm chủ. Việc này rất khó nói, thế nhưng chính mình xác thực phải đầy đủ tin sâu, nguyện thiết, cầu sanh Tịnh Độ (Cực Lạc) hồi hướng cho cha mẹ. Tốt nhất là có thể khuyên cha mẹ cũng niệm Phật, đó chính là đại hiếu. (Nguồn: Tuyển chọn Phật pháp - PS Tịnh Không trả lời)
+ Phan duyên - Hóa duyên: ... Thứ tư giải thoát hương, chính là không có tâm phan duyên (tâm bám víu, dính vương), nếu có chỗ phan duyên thì không buông xả được, thường hay tưởng nhớ đến một sự việc nào, đó chính là tà niệm, thì không thể giải thoát được. Không nghĩ thiện, cũng không nghĩ ác, hoàn toàn tự tại, không có chỗ chướng ngại, đó chính là giải thoát hương.
Thứ năm là giải thoát tri kiến hương, tức không phan duyên điều thiện, cũng không phan duyên điều ác, nhưng cũng không chấp trước vào không mà trầm không trệ tịch. Không nên nói: "Tôi ngồi ở đây, cái gì cũng không học, đó chính là không." Kỳ thực đó là ngoan không, không có một chỗ dụng, giống như trong quả banh cũng là không nhưng cái không đó không có cái dụng nào. Cảnh giới trầm không trệ tịch này, cũng giống như cái không trong quả banh. Đó là ngoan không, tuy cùng là không, nhưng nó không giống với cái không của hư không. Đây biểu thị một người suốt ngày ngồi chết tại một chỗ, trăm vật không nghĩ, cái gì cũng không nhớ đến, đến giờ ăn cơm thì ăn cơm, giờ ngủ thì ngủ, cái gì cũng không làm, thời gian trôi qua vô ích; quý vị xem thế có đáng thương xót hay không?
Như vậy cần phải làm sao? Cần phải quảng học đa văn. Nay chúng ta nghe Kinh, học tập Phật pháp, cần phải nghe nhiều học rộng. Có người muốn học Phật pháp nhưng lại không nghe Kinh, cũng không học Phật pháp, đối với Phật pháp một chút cũng không biết, lại nói cái gì cũng hiểu rõ sáng suốt, đây là loại người trầm không trệ tịch.
Cần phải nhận thức bổn tâm chính mình, thông đạt tất cả nghĩa lý Kinh Phật, hòa quang tiếp vật. ...Quý vị không làm chướng ngại tôi, tôi cũng không làm chướng ngại quý vị, đó chính là hòa quang. ....
Cái gì gọi là tiếp vật? Tức tiếp dẫn chúng sanh, tiếp dẫn tùy theo căn cơ chúng sanh. Ông thích Đại thừa Phật pháp, tôi liền giảng Phật giáo đại thừa; ông thích Phật giáo Tiểu thừa, tôi giảng pháp Tứ đế của Tiểu thừa, ông thích hành Bồ Tát đạo, tôi giảng Lục độ vạn hạnh; ông thích pháp Bích Chi Phật, tôi giảng Mười hai nhân duyên. Đó chính là hòa quang tiếp vật, tùy theo căn cơ chúng sanh mà thuyết pháp độ sanh, tiếp dẫn chúng sanh khiến chúng sanh thoát khổ được vui.
Cần phải vô ngã vô nhân mới có thể hòa quang tiếp vật .........
..... Người chân chánh học đạo cần phải trì giới không giữ tiền bạc. Trên người không có tiền đó chính là tịnh, có tiền thì không trong sạch, không thanh tịnh. Cho nên người chân chánh tu đạo cần phải ly khai tiền bạc. Nhưng ngược lại, không có tiền tài thì không dưỡng được đạo, nếu không có tiền mà muốn tu hành thì cũng không thể sanh tồn, vì thế cũng cần có tiền. Nhưng cũng không nên chấp trước vào tiền bạc, không nên từ sáng đến tối phan duyên, cầu cạnh, nói ai đó trong ngân hàng có mấy trăm vạn, ta đến hóa duyên ông ta một số tiền để xây chùa, xây trường học, thỉnh một bộ Đại Tạng Kinh. Đây tuy đều là công đức, nhưng lại quên đi đó chính là phan duyên, tiền là vật không thanh tịnh. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Không Phan Duyên: “Treo phướn, đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường.” Kế đến, người thiện nam tín nữ đó nên treo phướn lên cao và thắp đèn cho sáng; đồng thời sắm sửa hương thơm, các loại hoa muôn màu muôn sắc, cùng đồ ăn thức uống đủ mùi đủ vị để cúng dường Tam Bảo.
“Kềm tâm ở một chỗ, chớ theo dị duyên.” Quý vị phải kiềm giữ cái tâm mình ở một chỗ, trong lòng không sanh vọng tưởng, chẳng khởi tạp niệm, và cũng đừng xen vào những duyên sự khác. “Chớ theo dị duyên” tức là không phan duyên, tâm trí không vướng mắc, không nghĩ ngợi những sự việc khác nữa. (Nguồn: Giảng Chú Đại Bi_HT Tuyên Hóa)
+ Tùy thuận cha mẹ: Chúng ta phải "lấy thuận làm hiếu" chiều theo tâm ý và nguyện vọng của cha mẹ mình. Cha mẹ vui thì mình cũng nên vui, những gì cha mẹ yêu thích thì mình cũng nên mến chuộng......
"Thuận" ở đây tức là thuận theo những ước muốn chánh đáng của bậc cha mẹ đối với con cái. Chúng ta phải tìm hiểu tâm nguyện cũng như sở thích của cha mẹ để khỏi làm trái ý hoặc phụ lòng mong mỏi của cha mẹ đó gọi là "hiếu" vậy.
.... Tôi đã giảng về câu "dê con quỳ bú, quạ mớm nuôi mẹ" (cao dương quỳ nhũ, ô nha phản bộ). Câu này có nghĩa là dê con mỗi khi bú đều quỳ hai chân trước xuống trước mặt dê mẹ, còn quạ con thì biết mớm mồi nuôi quạ mẹ (do đó ở Trung Hoa người ta gọi quạ là loài chim hiếu—hiếu điểu). Vì sau khi ấp trứng nở ra quạ con, quạ mẹ già yếu không bay đi kiếm mồi được nữa, quạ con bèn đi tìm thức ăn mang về cho quạ mẹ. Quý vị xem, quạ và dê đều là loài cầm thú mà còn biết hiếu thảo với cha mẹ, huống hồ là loài người chúng ta? Do đó, nếu chúng ta ăn ở bất hiếu với cha mẹ, thì chúng ta còn thua cả loài cầm thú nữa! ... Cho nên, làm người thì điều quan trọng nhất là phải hiếu thảo với cha mẹ!.......
Xuất gia tu hành là một hành động thể hiện lòng "đại hiếu," bởi đó chính là hạnh hiếu thảo vĩ đại nhất, cao cả nhất. Có câu: "Một người con về cửa Phật, tổ tiên chín đời được lên cõi trời." (Nguồn: links: https://www.dharmasite.net/KDTLGpham3.htm)
+ Xá Lợi Phất - Dòng Bà La Môn
"Như Xá-lợi-phất ..."Tôi đã giảng về Xá-lợi-phất trước đây. Mắt của mẹ ngài đẹp như mắt của loài chim diệc trắng. Chim diệc, tiếng Phạn là Śāri.[74] Đọc là Xá-lợi. Còn chữ 'phất弗' trong tiếng Phạn là putra, Hán dịch là tử子, có nghĩa là 'con trai'. Nên chữ Śāriputra (Xá-lợi-phất) có nghĩa là 'Người con trai của bà Śāri.' Ông ta thuộc dòng họ Bà-la-môn. Bà-la-môn là một trong bốn tầng lớp cao nhất của xã hội Ấn Độ. 'Bà-la-môn[75]' là tiếng Phạn có nghĩa là 'dòng dõi trong sạch', chủng tử thanh tịnh. Nhưng thực ra, chủng tử của loài người thì không mấy thanh tịnh. 'Bà-la-môn' còn được giải thích với ý nghĩa là 'mục đích thanh tịnh.' Họ cho rằng thuỷ tổ của họ xuất thân từ cõi trời Phạm thiên (Brahma Heaven) thế nên họ cho rằng họ thuộc dòng họ cao quý và thanh tịnh.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Xá Lợi Phất Trí Tuệ Đệ nhất :
.... Cậu của Xá Lợi Phất là Ma Ha Câu Hy La, sau khi đấu lý luận thua Phật, ông hỏi Phật cho mượn con dao: “Xin Ngài cho tôi mượn con dao!”. Phật hỏi: “Ông cần dao để làm gì?” Ông đáp: “Tôi đã lập ra điều kiện cho cuộc biện luận này với Ngài, bây giờ tôi thua rồi, tôi phải cắt đầu của mình đưa cho Ngài!”...
Phật bảo: “Trong giáo pháp của Phật không có loại phương thức này! Ông thua, xem như xong, hà tất phải cắt đầu?” Thế là Phật thuyết pháp cho ông; vừa nghe, ông liền đắc được Pháp nhãn tịnh ngay tại chỗ, mở được con mắt pháp. Mắt pháp vừa mở, ông biết được Phật pháp thâm diệu vô cùng: “Thì ra pháp ngoại đạo mà mình đã học nhiều năm như thế đều không bằng một phần vạn của Phật pháp!” Cho nên, ông không những không bắt cháu mình về, mà chính ông cũng xuất gia theo Phật....
Giảng về ngài Xá Lợi Phất trí tuệ đệ nhất trong Kinh Pháp Hoa của HT Tuyên Hóa: Xá Lợi Phất - Trí Tuệ Đệ Nhất
+ Xa-ma-tha[24] là tiếng Phạn, Hán dịch là tịch tĩnh. Tuy vậy, đó là sự “tịch tĩnh” do nỗ lực gắng sức dụng công mà có được, hành giả đạt được loại định lực này bằng cách đè nén, đình chỉ tâm ý thức, không cho phát khởi vọng tưởng. Nên đó không phải là định rốt ráo. Đó chỉ là pháp môn phương tiện của hàng Nhị thừa mà Đức Phật giảng dạy vào thời kỳ đầu tiên.
+ Tam-ma (samāpatti)[25] là tiếng Phạn, Hán dịch là “quán chiếu”, chẳng hạn quán chiếu mười hai nhân duyên hoặc quán pháp Tứ diệu đế.
+ Thiền-na: tiếng Phạn là (dhyāna), Hán dịch là “tư duy tu” nghĩa là dụng tâm để tư duy và quán tưởng, cũng gọi là tu “chỉ quán.” Hành giả dùng tâm để theo dõi sự đến và đi, sinh và diệt của ý tưởng. Rất giống pháp tu “chỉ quán” của tông Thiên thai, chủ trương tam chỉ, tam quán: quán không, quán giả, quán trung. Cơ bản giáo lý vốn không sai khác, nhưng pháp quán này không thể so sánh được với Thủ-lăng-nghiêm đại định.
Thiền-na[26] là tĩnh lự. Nay tu theo pháp tĩnh tọa, cũng còn được gọi là thiền na. Nhưng tu theo thiền-na có pháp triệt để và cũng có pháp không triệt để. Hàng Tiểu thừa dùng tâm thức để tu thiền, nhưng thức tâm vốn là đối tượng của sinh diệt, nên pháp tu này không kiên cố.
+ Chỉ và Quán: Tức xa-ma-tha và tỳ-bà-xá-na, được phiên âm từ các Phạn ngữ śamatha và vipaśyan, theo truyền thống luôn được dịch là chỉ và quán. Chỉ nghĩa là “dừng lại”, có ý nghĩa tu tập sự định tâm, dứt mọi vọng niệm; quán nghĩa là “quán xét”, có ý nghĩa tu tập nhận thức đúng thật, sáng suốt về thực tại. Vì thế, xét về kết quả tu tập thì hai pháp tu chỉ và quán cũng được gọi là định và tuệ, vì chỉ giúp đạt được định và quán giúp đạt được tuệ. Kinh điển Đại thừa thường đề cập đến định và tuệ nhiều hơn. (Nguồn: Chỉ và Quán - thuvienhoasen.org)
+ Pháp tịch tĩnh: Tức là tu thiền định (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - T1)
+ Phật dậy Ananda quán chiếu: Em phải thật sự quán chiếu tự tánh vô thường của vạn vật. Này em nhìn xem. Theo ngón tay Bụt, Nanda nhìn lên thì thấy một bà lão đang chống gậy đi qua ngõ trúc. Bà lão còn mạnh khỏe, nhưng da trên mặt bà đã nhăn nhúm lại.
- Bà già này hồi trẻ chắc chắn là người có nhan sắc. Nhan sắc Kalyani rồi cũng sẽ tàn tạ trong vòng vài mươi năm. Trong khi đó sự nghiệp giác ngộ của em có thể đem lại ánh sáng và an lạc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nanda, em hãy nhìn lên đôi khỉ đang đong đưa trên cành cây kia. Em hãy để ý tới con khỉ cái, em có thể nghĩ rằng với một cái miệng nhọn như thế và một cái đít đỏ như thế, con khỉ đó không đẹp đẽ gì, nhưng đối với con khỉ đực ngồi một bên thì đó là một con khỉ cái đẹp nhất trên đời. Đối với nó, con khỉ cái là độc nhất, và nó có thể sẵn sàng để chết vì con khỉ cái kia. Em có biết rằng…
Nanda ngắt lời Bụt: Thôi xin Bụt đừng nói nữa. Em đã hiểu rồi, em hứa từ nay sẽ tinh tiến tu học.
- Vậy thì tốt lắm, em phải thực tập trở lại phép quán niệm hơi thở cho chuyên cần mỗi ngày, rồi em sẽ tập quán chiếu thân thể, quán chiếu cảm giác, quán chiếu tâm ý và cuối cùng quán chiếu các pháp. Các pháp chính là đối tượng của tâm ý. Phải quán chiếu để thấy cho được quá trình sinh khởi, tồn tại và hoại diệt của mọi hiện tượng, từ thân thể qua cảm giác đến tâm tư và các pháp. Có gì không hiểu em có thể đến hỏi lại ta, hoặc nếu ta không có đó thì em có thể hỏi thầy Sariputta. Nanda! Nên nhớ rằng hạnh phúc của giải thoát mới là thứ hạnh phúc chân thật, không tùy thuộc vào điều kiện, không bao giờ bị tàn hoại. Em phải đạt cho được thứ hạnh phúc ấy. (Nguồn: Đường xưa mây trắng)
+ Thuật ngữ “Thanh tịnh” có nghĩa là tự tại thoát khỏi mọi nhiễm ô dù vi tế nhất. Với cái nhìn bằng huệ nhãn thấy đạo lý rất trong sáng và chân thực. Nếu quý vị có đạo nhãn thanh tịnh thì quý vị sẽ không bị chướng ngại và có thể hiểu tường tận mọi đạo lý.
Bản tánh vốn thanh tịnh và trong sáng. Chơn tâm vốn thường sáng suốt. Do nhờ tâm tánh trong sạch, sáng suốt, thanh tịnh nên quý vị có được con mắt đạo thanh tịnh. Đó chính là đạo nhãn mà A-nan thỉnh cầu Đức Phật mở bày cho. Đạo nhãn này cũng còn gọi là huệ nhãn (con mắt trí huệ). (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Các cấp độ thanh tịnh Tâm gồm: Nhân Cách Thanh Tịnh - Tâm Thanh Tịnh - Tâm Giải Thoát - Tâm Kim cang hay Chân Tâm.
+ Pháp Tu Tâm Thanh Tịnh: “Muốn đạt được tâm thanh tịnh” chính là trọng điểm của toàn bản kinh Thanh tịnh tâm này, nghĩa là làm thế nào mới hòng đạt được tâm thanh tịnh? Chuyện này rất quan trọng đối với việc tu hành của chúng ta vậy. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Thân Phật hiện cùng khắp hư không:
Thân Phật khắp cùng các đại hội
Đầy khắp pháp giới không cùng tận
Tịch tĩnh không tánh không thể lấy
Vì cứu thế gian mà xuất hiện.
Giảng: ‘’ Thân Phật khắp cùng các đại hội.’’ Thân Phật này là nói Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khắp cùng tức là vô tại vô bất tại (chỗ nào cũng có thân Phật), chẳng có trong một hạt bụi nào mà chẳng phải là chỗ sở tại của thân Phật. Các đại hội tức là đại pháp hội chư Phật thuyết pháp.
Phật Phật đạo đồng, Đức Phật kia thuyết pháp, Đức Phật này ủng hộ pháp hội. Đức Phật này thuyết pháp, Đức Phật kia ủng hộ pháp hội, cho nên nói thân Phật khắp cùng các đại hội.
‘’ Đầy khắp pháp giới không cùng tận.’’ Thân Phật không những biến hoá khắp các đại hội, mà còn đầy khắp tận cùng hư không biến pháp giới, tất cả thế giới vô cùng tận. Tóm lại thế giới này thế giới kia, vô lượng các thế giới ; cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước đều đầy khắp thân Phật, cho nên nói đầy khắp pháp giới không cùng tận.
‘’ Tịch tĩnh không tánh không thể lấy.’’ Thân Phật tuy nhiên khắp cùng các đại hội, đầy khắp pháp giới, nhưng Ngài là vắng lặng, vô tướng, lấy mà không thể được, xả bỏ cũng không thể được. Nói cho dễ hiểu là lấy cũng chẳng có, mà xả bỏ cũng chẳng có. Chính vì bổn lai chẳng có, cho nên chẳng có gì có thể giữ, càng chẳng có gì có thể bỏ.
Vậy, rõ là các pháp vốn thường vắng lặng, Phật lại cần gì xuất hiện ra đời ? Trong Kinh Pháp Hoa có nói : ‘’ Phật vì một đại sự nhân duyên mà hiện ra đời.’’ Đại sự gì ? Tức là vấn đề sinh tử. Phật muốn nói với chúng sinh rằng sinh từ đâu đến và chết sẽ đi về đâu, khiến cho chúng sinh chấm dứt thoát tử, đạt đến Niết Bàn bờ bên kia.
‘’ Vì cứu thế gian mà xuất hiện.’’ Phật thấy chúng sinh trầm luân trong biển ái, không cách chi ra khỏi được, mới phát tâm đại từ bi đến thế giới Ta Bà, cứu tất cả chúng sinh thế gian, khiến cho lìa khổ được vui. Nhưng chúng sinh không nghe sự giáo hóa của Phật, còn hồ đồ mê muội tham luyến sự khổ não của thế giới này. Ý niệm trước thì muốn lìa khỏi thế giới năm trược này, ý niệm sau thì chẳng muốn lìa khỏi, cuối cùng thì không lìa khỏi được. Cho nên Phật đến thế giới này, khuyến hóa và nói với chúng sinh : ‘’ Hãy mau sớm tỉnh mộng ! Sớm trở về ngôi nhà thật của mình ! Đừng lang thang ở bên ngoài ! Đừng mê hồ như thế, quên mất nguồn gốc ! ‘’(Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng-T1)
+ Thân Phật hiện khắp mười phương
Tịch tĩnh giải thoát chúa trời người
Mười phương không chỗ nào chẳng hiện
Quang minh chiếu sáng khắp thế gian
Pháp vô ngại này Nghiêm Tràng thấy.
Tịch tĩnh là nơi không ồn ào. Vì nơi tịch tĩnh mới đắc được giải thoát, đắc được giải thoát mới thật tịch tĩnh. Tên gọi này chỉ có đức Phật, mới đảm đang được, mới có tư cách xưng là, tịch tĩnh giải thoát chúa của trời, người.
‘’ Mười phương không chỗ nào chẳng hiện.’’ Pháp thân Phật, là vô tại vô sở bất tại. Mười phương thế giới, không có chỗ nào mà Phật chẳng đến, Phật chẳng đi, Phật không ở đó. Cho nên mới nói mười phương không chỗ nào không hiện.
Quang minh của Phật, chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, trí huệ quang minh đầy khắp thế gian, khiến cho chúng sinh đều đắc được lợi ích, bỏ trần lao hợp với giác ngộ, lìa khổ được vui.... (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Thân của Đức Phật khi giảng pháp: A-nan, trước đây ông đã trả lời rằng thấy nắm tay chói sáng. Vậy nắm tay này nhân đau mà có? Làm sao nắm tay trở nên sáng chói? Ông lấy cái gì để thấy?
A-nan thưa:
– Thân của Phật như vàng diêm-phù-đàn sáng ngời như núi báu, do đức tính thanh tịnh sinh ra, vậy nên có hào quang chói sáng. Con thật đã dùng mắt xem thấy năm ngón tay Phật co lại thành nắm tay, đưa lên cho mọi người xem.
HT Tuyên Hóa giảng: ... Toàn thân của Đức Phật là màu vàng của diêm-phù-đàn. Diêm-phù-đàn[63] là tiếng Phạn. Tiếng Hán dịch là Thắng kim. Ở phía Nam núi Tu-di có con sông, ở đó có loại cây diêm-phù mọc rất nhiều, quả của cây này khi chín rụng xuống sông thì cát dưới sông nhuốm thành màu vàng, màu vàng này có màu đậm hơn sắc vàng thường. Hạt sa thạch vàng này cũng nặng hơn vàng thường, khi đem một ít hạt vàng này vào để trong phòng tối thì phát ra ánh sáng như ban ngày. Thân của Đức Phật có màu vàng giống như màu của vàng ở sông diêm-phù. Màu vàng nơi thân Phật là hỗn hợp giữa màu vàng và đỏ. Thân thể Đức Phật với dạng hình tướng ấy là kết tinh từ đức tính thanh tịnh nên thân ấy phát ra ánh sáng. Con thật đã dùng mắt xem thấy. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q.1)
+ Sắc thân như lai - Sắc thân đức phật - Sắc thân của phật - Sắc thân của đức phật
Sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh
Hiện khắp mười phương không gì sánh
Thân này không tánh không chỗ nương
Thiện Tư Duy Thiên quán sát được.
‘’ Sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh.’’ Pháp thân của Như Lai là thanh tịnh, báo thân của Như Lai cũng thanh tịnh, ứng thân Như Lai cũng thanh tịnh, cho nên nói sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh, là sắc thân vàng tốt đẹp trang nghiêm.
‘’ Hiện khắp mười phương không gì sánh.’’ Sắc thân thanh tịnh quang minh tốt đẹp này không thể nghĩ bàn, thị hiện khắp mười phương thế giới của chư Phật. Tức là mười phương chư Phật, cũng không thể sánh được thân quang minh thanh tịnh của Phật, cho nên nói hiện khắp mười phương không thể sánh.
‘’ Thân này không tánh không chỗ nương.’’ Sắc thân Phật này đẹp thanh tịnh, chẳng có tự tánh cũng chẳng có chỗ nương tựa. Vì Phật rất tự tại, vô tại vô bất tại, vô sở bất tại (chẳng có chỗ nào mà không có thân Phật), cho nên nói thân này không tánh không chỗ nương.
‘’ Thiện Tư Duy Thiên quán sát được.’’ Cảnh giới này vị Thiện Tư Duy Quang Minh Thiên Vương thấy được. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Cơ thể con người: Chất liệu của 2 phân cảnh (cõi phụ) thấp nhất của cõi trần và cõi cảm dục không bao giờ được kiến tạo thành cơ thể con người như ngày nay; chất liệu đó có rung động quá thấp và có mức độ quá thô trược ngay cả đối với hạng người thấp kém nhất trên địa cầu hiện giờ. Cũng cần nói thêm rằng nơi kẻ thường nhân, chất liệu của một cõi phụ nào đó sẽ chiếm đa số tùy theo mức tiến hóa của người đó. (LVLCK,942)
* Cơ thể con người: Cơ thể cấu tạo con người căn bản gồm Thân và Tâm. Theo Phật giáo, thân tâm được hình thành do con người nhận lầm Thức tâm phân biệt luôn thay đổi sinh diệt thay cho Diệu minh Chân tâm thường trụ không sinh không diệt. Do nhận thức sai lầm này mà nhận giặc/ Thuận theo các thức căn sinh diệt làm mình, cho lên phải luân hồi. (Nhân Trắc Học)
+ Cơ Thể Hỏa Tinh Quân - Agni: Mỗi một trong 7 Hỏa Tinh Quân được phân hoá ra thành nhiều nhóm hoả thực thể, từ các Thiên Thần Tinh Quân của một cõi giới xuống đến các hoả tinh linh nhỏ bé của các lò lửa trong nhà (LVLCK, 87)
+ Cơ Thể Tinh Quân (Hỏa Tinh Quân Vũ Trụ - Fohat): Bảy Hỏa Tinh Quân/ Chơn Linh (Agni) hợp thành cơ thể Ngài. Ngài là Đấng Thông Tuệ Linh Hoạt của lửa, là cơ bản của Lửa bên trong của Thái Dương Hệ. Ba vị Huynh Trưởng ngự trị trên cõi 1, 3, và 5 hay là trên cõi Tối Đại Niết Bàn (adi), cõi Niết Bàn (atma) (1) và cõi trí (manas). Bảy Đấng này hợp thành tinh hoa của Tinh Quân vũ trụ - Là Fohat;
Cơ Thể Hành Tinh Thượng Đế và Thái Dương Thượng Đế: Tương tự (Như Hỏa Tinh Quân), Bảy vị Chohans (Một Tinh Quân/ Chân Sư/ Master) với các nhóm môn đồ gắn bó của các Ngài, hợp thành bản thể hay các trung tâm lực trong cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế. Đến phiên các Đấng này lại hợp thành bản thể của Thái Dương Thượng Đế.
+ Cơ Thể Thượng Đế Vũ Trụ: Là Thượng Đế ba Ngôi chưa biểu lộ Thất phân (Biểu lộ Thất phân hợp lại thành Ba ngôi), gồm:
a. Tinh Quân Ý Chí Quyền Năng vũ trụ: Nắm giữ tương lai trong thiên cơ và tâm thức của Ngài.
b. Tinh Quân Bác Ái và Minh Triết vũ trụ: Ngài tiêu biểu cho mọi Hiện tại. Ngài là Sự Sống hữu thức. Ngài là Đấng Con Thiêng và sự sống cùng bản chất Ngài tiến hoá xuyên qua mọi hình thức hiện hữu;
c. Tinh Quân Trí Tuệ Hoạt Động vũ trụ: Ngài là sự sống của vật chất, Lửa bên trong tiềm tàng của vật chất. Bản chất của Ngài là bản chất của lửa đang nằm ở tâm của mặt trời, của hành tinh và của các hình hài vật chất của con người. Ngài là toàn bộ của quá khứ;
* Đây là biểu lộ của 3 Lửa của Thượng Đế Ngôi 3.
+ Thượng Đế Duy Nhất: Tất cả 3 Đấng là Các Con của một Từ Phụ, cả 3 là các trạng thái của Thượng Đế Duy Nhất (LVLCK, 83)
+ Kinh Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm:
Trích kinh văn - PS Tịnh Không giảng giải: ... Nhược chư Thanh Văn tu tập chánh hạnh, dục đắc thanh tịnh tâm giả.
(Nếu các Thanh Văn tu tập chánh hạnh, muốn đạt được tâm thanh tịnh)
Trước hết, Ngài nêu lên đề mục giảng dạy. Chữ “chư Thanh Văn" chỉ các vị học pháp Tiểu Thừa; từ Sơ Quả cho đến Tứ Quả hoàn toàn bao gồm trong loại này.
“Tu tập chánh hạnh”: Chúng ta biết Chánh Hạnh của người tu Tiểu Thừa là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, trung tâm là Bát Chánh Đạo. Thật ra, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo không phải chỉ dành riêng cho người học Tiểu Thừa, người học Đại Thừa cũng chẳng thể thoát ra ngoài được. Chúng ta thấy trong trước tác của Thiên Thai đại sư, Tứ Niệm Xứ được phân thành bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên để giảng. Tứ Niệm Xứ của Tạng Giáo đương nhiên là Tiểu Thừa; Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên Giáo thuộc về Đại Thừa. Tiểu Thừa có Tứ Niệm Xứ; Đại Thừa cũng có Tứ Niệm Xứ. Tiểu Thừa có Bát Chánh Đạo, Đại Thừa có lúc nào không có Bát Chánh Đạo? Do đó biết là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm chung cho hết thảy Phật pháp, chẳng riêng gì Đại Tiểu Thừa, Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển, Mật thảy đều viên mãn đầy đủ. Nhìn từ góc độ này, lời Phật khai thị vừa sâu vừa rộng, nào phải chỉ hạn cuộc nơi Tiểu Thừa Thanh Văn; chúng ta phải đặc biệt chú ý điều này.
“Muốn đạt được tâm thanh tịnh” chính là trọng điểm của toàn bản kinh này, nghĩa là làm thế nào mới hòng đạt được tâm thanh tịnh? Chuyện này rất quan trọng đối với việc tu hành của chúng ta vậy.
Bộ kinh này do đức Phật khi còn tại thế giảng cho những người xuất gia. Người xuất gia ngủ bốn giờ, nhằm lúc trung dạ. Ở Ấn Độ thời gian được chia thành ba thời ban ngày, ba thời ban đêm, một ngày ở Ấn Độ thời cổ là sáu thời. Trung dạ là từ mười giờ đêm đến hai giờ sáng, đó là thời gian để người xuất gia ngủ nghỉ, hai giờ sáng thức dậy tụng khóa sáng, một ngày chỉ ngủ bốn tiếng đồng hồ. Hiện tại, chúng ta nghiệp chướng nặng nề, người Tây Dương đề xướng ngủ tám tiếng. Ngủ hơn tám tiếng là chẳng như pháp! Nếu có thể giảm bớt một, hai tiếng, tôi cho rằng ngủ sáu tiếng là được lắm rồi. Một phần quang âm là một phần thọ mạng đấy nhé! Thế gian thường nói: “Một tấc quang âm, một tấc vàng”. Quang âm trọng yếu như thế đó, cho nên phải gìn giữ quang âm quý báu, nỗ lực tu hành.
Tổng kết Kinh Thanh tịnh tâm, đức Phật nói 5 thứ chướng ngại:
1) Tham dục chướng ngại sự bố thí, trì giới đại viên mãn của tự tánh. Do có tâm tham dục, nhất định chẳng có tâm bố thí; có ba độc Tham - Sân - Si, tâm địa chẳng thanh tịnh => nói gì đến trì giới nữa đây?
2) Sân Khuể chướng ngại từ bi, nhẫn nhục đại viên mãn nơi tự tánh.
3) Ngủ nghê chướng ngại tinh tấn đại viên mãn nơi tự tánh.
4) Trạo Hối chướng ngại thiền định đại viên mãn của tự tánh.
5) Nghi chướng ngại trí huệ đại viên mãn của tự tánh.
Chúng ta muốn viên mãn sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi đầu từ chỗ này. Ngoài ra, còn có bảy điều chúng ta phải tu tập.
Những gì là bảy pháp?
1. Trạch pháp giác chi: “Chọn lựa pháp môn tà hay chánh phải đặc biệt chú ý”. Tùy căn cơ mục đích chọn pháp phù hợp.
2. Niệm giác chi: Phải hiểu được điều hòa thân tâm, nên rất cần vị thầy "Biết bệnh - Cho thuốc", chỉ dẫn để thân tâm khỏe mạnh để tiến tu.
3. Tinh tấn giác chi: Tinh thần thuần chẳng tạp niệm. Tấn là tiến chứ không lùi. Nên chuyên tinh thâm sâu để có thành tựu cao siêu.
4. Hỷ giác chi: Tu đúng sẽ đạt được trạng thái khinh an, tự tại, thong dong vì đã xả bỏ mọi phiền lão chấp trước. Trí tuệ tăng trưởng.
5. Khinh an giác chi: Tu đạt thân tâm nhẹ nhàng. Nên nhớ không sanh tâm ngã mạn sẽ mất đi trạng thái khinh an.
6. Định giác chi: Tu thiền đạt định lực, pháp môn giành cho người trí. Muốn thành tựu phải trừ chướng ngại, nghiêm trì giới.
7. Xả giác chi: Xả là buông bỏ, Pháp thế gian phải bỏ đã đành, mà pháp xuất thế gian cũng phải bỏ luôn. Không xả rễ tham ái, chấp trước.
Hãy nên tu tập bảy pháp như thế.
Hiện tiền chứng lấy tự quả, hết bờ mé khổ.
Giảng: “Hiện tiền” là chẳng phải đợi đến đời sau, chứng quả ngay trong đời này, chứng được quả viên mãn. Đây chính là điều chúng tôi thường nói: “Phá một phần vô minh, chứng được một phần Pháp Thân”. “Khổ biên tế” là lục đạo luân hồi. “Tận khổ biên tế” là vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chẳng còn lưu chuyển sanh tử nữa, siêu thoát tam giới, thành Pháp Thân đại sĩ. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Tâm Thanh Tịnh - Tâm giải thoát: Trong đoạn kinh này, đức Phật dạy chúng ta: Hiểu đơn giản nhất “Thanh tịnh tâm’” tức là tâm được giải thoát. Tâm giải thoát thì huệ cũng sẽ giải thoát. Vậy thì cái tâm này giải thoát như thế nào? Giải thoát là cách nói hình dung, tỷ dụ. Chẳng hạn như một người bị dây rợ trói chặt, chẳng tự tại, chẳng tự do, giờ đây có ai tháo gỡ cho, ngay lập tức bèn tự tại. Hiện thời tâm chúng ta chẳng tự tại, rất giống như người bị dây thừng trói chặt. Những dây thừng đó chính là vọng tưởng, phiền não, ưu lự, vướng mắc, trói buộc tâm ta chẳng được tự tại, mà Huệ chính là tác dụng của Tâm. Tâm chẳng tự tại, bèn chẳng có Huệ; tâm được tự tại, Huệ bèn hiện tiền.... Trong kinh đức Phật dạy: “Y báo chuyển theo chánh báo”. Hoàn cảnh là y báo, nhân tâm là chánh báo. Nhân tâm chẳng thanh tịnh thì hoàn cảnh làm sao thanh tịnh được? Muốn cho hoàn cảnh thanh tịnh thì tâm phải cầu thanh tịnh trước đã! Nhưng tâm con người muốn đạt thanh tịnh thì phương pháp tối hiệu quả duy nhất là Phật pháp. Đích xác là Phật pháp có thể thanh tịnh thân tâm, khiến cho tâm chúng ta được giải thoát. Tâm thanh tịnh là tâm giải thoát, tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ chân thật. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm)
+ Tâm Thanh Tịnh thì Huyết Thanh Tịnh: Do đó tâm khởi phiền não ác nghiệp thì không chỉ là biểu hiện của tâm bệnh mà còn có thể dẫn đến “thân bệnh”. Trong “Chánh pháp niệm xứ kinh quán thiên phẩm” có nói: “Tâm thanh tịnh thì huyết thanh tịnh, huyết thanh tịnh thì nhan sắc (mặt) thanh tịnh”. Có thể nói Phật giáo đã đưa ra sự liên hệ chặt chẽ giữa tâm lý, hành vi của con người với sinh lý, bệnh tật cho đến cả cá nhân con người và xã hội, chỉ cho chúng sinh con đường thoát ly mọi thống khổ của tâm bệnh, thân bệnh, từ đó mà đạt đến cảnh giới Niết bàn an lạc vĩnh hằng.(Nguồn)
+ Tâm thanh tịnh:
Tâm thanh nước hiện trăng
Ý tịnh trời sạch mây
+ Pháp Quán: Quán bản ngã - Quán tự ngã - Tư lượng tự ngã - Tư lượng bản ngã - Tư tưởng đối nghịch - Quán tâm - Quán sát tâm
(1) Chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải tư lượng tự ngã với tự ngã như sau:
"Người này có ác dục, bị ác dục chi phối nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy. Và nếu ta có ác dục, bị ác dục chi phối, các người khác sẽ không ưa ta, không thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy cần phải phát tâm như sau: "Ta sẽ không có ác dục, sẽ không bị ác dục chi phối."
(2) "Người này khen mình chê người, nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy. Và nếu ta khen mình chê người, các người khác sẽ không ưa ta, sẽ không thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy, cần phải phát tâm như sau: "Ta sẽ không khen mình chê người."
(3) "Người này có phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối, nên ta không ưa người ấy... Và nếu ta có ........, cần phải phát tâm: Ta sẽ không phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối";
(4) "Người này phẫn nộ, vì vị phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm hận nên ta không ưa người ấy...Và nếu ta không phẫn ........, cần phải phát tâm: Ta sẽ không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm hận";
(5) "Người này phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp nên ta không ưa người ấy...Và nếu ta có phẫn ........, cần phải phát tâm: Ta sẽ không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp";
(6) "Người này phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ nên Ta không ưa người ấy...Và nếu ta phẫn ........, cần phải phát tâm: Ta sẽ không phẫn nộ, không thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ";
(7) "Người này bị buộc tội, trở lại chống đối vị đã buộc tội mình, nên Ta không ưa người ấy...Và nếu ta có bị ........, cần phải phát tâm: Ta có bị buộc tội, sẽ không trở lại chống đối vị buộc tội mình";
(8) "Người này bị buộc tội trở lại chỉ trích vị đã khiển trách mình, nên Ta không ưa người ấy...Và nếu ta có bị ........, cần phải phát tâm: Ta có bị buộc tội, sẽ không trở lại chỉ trích vị buộc tội mình";
(9) "Người này bị buộc tội, trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình, nên ta không ưa người ấy...Và nếu ta có bị ........, cần phải phát tâm: Ta có bị buộc tội, sẽ không trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình";
(10) "Người này bị buộc tội, tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của mình, nên ta không ưa người ấy...Và nếu ta bị ........, cần phải phát tâm: Ta bị buộc tội sẽ không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, không trả lời ra ngoài vấn đề, và không để lộ phẫn nộ, sân hận bất mãn của mình";
(11) "Người này bị buộc tội, không giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội biết nên ta không ưa người ấy...Và nếu ta bị ........, cần phải phát tâm: Ta bị buộc tội, sẽ giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội biết";
(12) "Người này hư ngụy và não hại nên Ta không ưa người ấy...Và nếu ta có ........, cần phải phát tâm: Ta sẽ không hư ngụy và não hại";
(13) "Người này tật đố và xan tham nên ta không ưa người ấy...Và nếu ta có ........, cần phải phát tâm: Ta sẽ không tật đố và xan tham";
(14) "Người này khi cuống và lường gạt nên ta không ưa người ấy...Và nếu ta có ........, cần phải phát tâm: Ta sẽ không khi cuống và lường gạt";
(15) "Người này ngoan mê và quá mạn nên ta không ưa người ấy...Và nếu ta có ........, cần phải phát tâm: Ta sẽ không ngoan mê và quá mạn";
(16) "Người này chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy. Và nếu ta chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, các người khác sẽ không ưa ta, không thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy, cần phải phát tâm như sau: "Ta sẽ không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả".
Chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo cần phải quán sát tự ngã với tự ngã như sau:
(1) "Không biết ta có ác dục, có bị ác dục chi phối không?"
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng:
"Ta có ác dục và bị ác dục chi phối", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy.
"Ta không có ác dục, không bị ác dục chi phối", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.
(2) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát tự ngã với tự ngã như sau:
"Không biết ta có khen mình chê người hay không? Ta không khen mình chê người... phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.
(3) Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối không...? Ta không có phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối... phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.
(4) Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân, trở thành có hiềm hận không...? Ta không có phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân, trở thành người hiềm hận... các thiện pháp.
(5) Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ làm nhân, trở thành người cố chấp...? Ta không có phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân, trở thành người cố chấp... các thiện pháp.
(6) Lại nữa,... không biết ta có phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ...? Ta không có phẫn nộ, không thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ... phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.
(7) Lại nữa...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chống vị đã buộc tội ta... phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.
(8) Lại nữa...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chỉ trích vị đã buộc tội ta ... phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.
(9) Lại nữa...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta ... phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.
(10) Lại nữa...? Ta bị buộc tội, ta không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, không trả lời ngoài vấn đề, và ta không để lộ sự phẫn nộ, sân hận và bất mãn của ta... phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.
(11) Lại nữa...? Ta bị buộc tội, Ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết... phải sống ... ngày đêm tu học các thiện pháp.
(12) Lại nữa, không biết ta có hư ngụy và não hại...? Ta không có hư ngụy và não hại... phải sống ... ngày đêm tu học các thiện pháp.
(13) Lại nữa, không biết ta có tật đố và xan tham...? Ta không có tật đố và xan tham...phải sống ... ngày đêm tu học các thiện pháp.
(14) Lại nữa, không biết ta có khi cuống và lường gạt...? Ta không có khi cuống và lường gạt... phải sống ... ngày đêm tu học các thiện pháp.
(15) Lại nữa... không biết ta có ngoan mê và quá mạn...? Ta không có ngoan mê và quá mạn... phải sống ... ngày đêm tu học các thiện pháp.
(16) Lại nữa, chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải quán sát tự ngã như sau:
"Không biết ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả không?"
"Ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ những ác, bất thiện pháp ấy.
"Ta không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.
Chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy.
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp đã được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.
Chư Hiền, ví như một phụ nữ hay một đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của mình trong một tấm kính sạch sẽ và trong suốt, hay trong một bát nước trong sáng. Nếu người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy tinh tấn đoạn trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu người ấy không thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy sẽ hoan hỷ nghĩ rằng: "Thật sự ta được điều tốt đẹp; thật sự ta được thanh tịnh".
Cũng vậy chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng các ác, bất thiện pháp đã đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.
Tôn giả Mahamoggallana (Ðại Mục-kiền-liên) thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Tôn giả Mahamoggallana. (Nguồn: 15. Kinh Tư Lượng)
+ Cần Quán như thật với Chánh trí tuệ: ... Đức Phật bảo: Do vậy, này các Tỷ-kheo, bất cứ các sắc pháp nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc pháp là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là của tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", cần phải như thật quán với chánh trí tuệ. Bất cứ cảm thọ nào... Bất cứ tưởng nào... Bất cứ hành nào... Bất cứ thức nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.
Chư Tỷ-kheo, nhờ thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với hành, yểm ly đối với thức, do yểm ly nên ly tham, do ly tham, nên được giải thoát, trong sự giải thoát có trí khởi lên, biết được đã giải thoát. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui tại đây với một đời sống khác".(Nguồn: 22.Kinh ví dụ con rắn)
+ Quán Sát tâm - Dùng Tư Tưởng đối nghịch trong tham thiền để Tu tâm thiện lành. Giáo lý dạy chúng ta rất nhiều câu mẫu thiện lành làm đối nghịch với các ác tâm, ác pháp cần xa lìa, trừ diệt trong tu. Vài ví dụ đã có trong Tooltip)
- Quán bản ngã - Quán tự ngã - Tư lượng tự ngã - Tư lượng bản ngã. (Xem Tooltip)
+ Quán Nội Tâm - Kinh Niệm Xứ: Ái dục - sân hận - hôm trầm - trạo hối - Nghi ngờ - Sống quán pháp - Pháp Tuệ tri - Bốn Niệm xứ.
Quán tâm: Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: "Tâm có tham"; hay với tâm không tham, tuệ tri: "Tâm không tham". Hay với tâm có sân, tuệ tri: "Tâm có sân"; hay với tâm không sân, tuệ tri: "Tâm không sân". Hay với tâm có si, tuệ tri: "Tâm có si"; hay với tâm không si, tuệ tri: "Tâm không si". Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: "Tâm được thâu nhiếp". Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: "Tâm bị tán loạn". Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: "Tâm được quảng đại"; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: "Tâm không được quảng đại". Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: "Tâm hữu hạn". Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: "Tâm vô thượng". Hay với tâm có định, tuệ tri: "Tâm có định"; hay với tâm không định, tuệ tri: "Tâm không định". Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: "Tâm có giải thoát"; hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: "Tâm không giải thoát".
Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời.
Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.
Quán Pháp: Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái. Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có ái dục"; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ái dục". Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có sân hận". Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có nghi". Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư: "Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng tập; đây là tưởng diệt. Ðây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Ðây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt". Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Tỷ-kheo tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... tuệ tri lưỡi... và tuệ tri các vị... tuệ tri thân và tuệ tri các xúc, tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có niệm giác chi"; hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ý niệm giác chi". Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay Tỷ-kheo nội tâm có trạch pháp giác chi... (như trên)... hay nội tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có hỷ giác chi... (như trên)... hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)... hay nội tâm có định giác chi... (như trên)... hay nội tâm có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có xả giác chi"; hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có xả giác chi". Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ kheo như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ"; như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ tập"; như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt".
Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế.
* Còn nhiều nội dung quán tưởng, mời xem Kinh Niệm Xứ
(Kết luận)
Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn. (Nguồn: Kinh Niệm Xứ)
+ 544. QUÁN TÂM NHƯ TÂM
Tỳ-kheo có tâm tham dục thì biết đúng như thật có tâm tham dục, có tâm vô dục thì biết đúng như thật là có tâm vô dục. Khi có sân hay không sân, có si hay không si, có ô uế hay không ô uế, có hợp hay có tan, có thấp hay có cao, có nhỏ hay có lớn; tụ hay không tụ, định hay không định, giải thoát hay không giải thoát. Cũng như vậy, có tâm giải thoát thì biết đúng như thật có tâm giải thoát; có tâm không giải thoát thì biết đúng như thật là có tâm không giải thoát. Tỳ-kheo như vậy, quán nội tâm như tâm, lập niệm tại tâm, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy là Tỳ-kheo quán tâm như tâm.
Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán tâm như tâm như vậy, đó gọi là niệm xứ quán tâm như tâm. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Xứ, Phẩm 9, số 98)
545. QUÁN THỌ NHƯ THỌ
Tỳ-kheo khi thọ nhận cảm giác lạc liền biết đang thọ nhận cảm giác lạc, khi thọ nhận cảm giác khổ liền biết đang thọ nhận cảm giác khổ, khi thọ nhận cảm giác không lạc không khổ liền biết đang thọ nhận cảm giác không lạc không khổ. Khi thân thọ nhận cảm giác lạc, thân thọ nhận cảm giác khổ, thân thọ nhận cảm giác không lạc không khổ; khi tâm thọ nhận cảm giác lạc, tâm thọ nhận cảm giác khổ, tâm thọ nhận cảm giác không lạc không khổ; cảm giác lạc khi ăn, cảm giác khổ khi ăn, cảm giác không lạc không khổ khi ăn; cảm giác lạc khi không ăn, cảm giác khổ khi không ăn, cảm giác không lạc không khổ khi không ăn; cảm giác lạc khi có dục, cảm giác khổ khi có dục, cảm giác không khổ không lạc khi có dục; cảm giác lạc khi không có dục, cảm giác khổ khi không có dục, cảm giác không lạc không khổ khi không có dục. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thọ như thọ, quán ngoại thọ như thọ, lập niệm tại thọ, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán thọ như thọ như vậy, gọi là niệm xứ quán thọ như thọ. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Xứ, Phẩm 9, số 98)
+ Sắc thân như lai - Sắc thân đức phật - Sắc thân của phật - Sắc thân của đức phật
Sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh
Hiện khắp mười phương không gì sánh
Thân này không tánh không chỗ nương
Thiện Tư Duy Thiên quán sát được.
‘’ Sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh.’’ Pháp thân của Như Lai là thanh tịnh, báo thân của Như Lai cũng thanh tịnh, ứng thân Như Lai cũng thanh tịnh, cho nên nói sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh, là sắc thân vàng tốt đẹp trang nghiêm.
‘’ Hiện khắp mười phương không gì sánh.’’ Sắc thân thanh tịnh quang minh tốt đẹp này không thể nghĩ bàn, thị hiện khắp mười phương thế giới của chư Phật. Tức là mười phương chư Phật, cũng không thể sánh được thân quang minh thanh tịnh của Phật, cho nên nói hiện khắp mười phương không thể sánh.
‘’ Thân này không tánh không chỗ nương.’’ Sắc thân Phật này đẹp thanh tịnh, chẳng có tự tánh cũng chẳng có chỗ nương tựa. Vì Phật rất tự tại, vô tại vô bất tại, vô sở bất tại (chẳng có chỗ nào mà không có thân Phật), cho nên nói thân này không tánh không chỗ nương.
‘’ Thiện Tư Duy Thiên quán sát được.’’ Cảnh giới này vị Thiện Tư Duy Quang Minh Thiên Vương thấy được. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Tánh Thanh tịnh - Tứ chủng thanh tịnh minh hối: Sát - Đạo - Dâm - Vọng
Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là: "Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng" (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu đạo (tức là ăn cắp), và giới vọng ngữ (tức là nói láo). Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể!
- Đoạn dâm dục
Việt: “Nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.”
Việt: “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm dâm-dục thì chẳng thể ra khỏi trần-lao.”
Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo--thượng phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma-nữ.”
Giảng nghĩa: Do vậy, chỉ có những kẻ vô cùng si mê mới vừa muốn giữ cái tâm dâm dục lại vừa muốn được khai ngộ. Tư tưởng này thuộc loại ngu si tột đỉnh, và những người mang tư tưởng này là những kẻ khó có thể giáo hóa nhất; cho dù bây giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có giáng thế đi chăng nữa thì Ngài cũng không có cách nào làm cho họ đắc Đạo hay chứng quả vị được cả! Cho nên, hạng người này là ngu dốt nhất, si mê nhất!
Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo--thượng phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma-nữ.”
Việt: “Những loại ma ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.”
Việt: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm, lại tự xưng là Thiện-tri-thức, khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đường Bồ-đề.”
Việt: “Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật Thế Tôn thuở trước.”
Việt: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm, dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Vì sao? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn!”
Việt: “Ông lấy dâm-thân mà cầu diệu-quả của Phật, cho dẫu có đắc diệu-ngộ thì cũng đều là dâm-căn. Căn bổn đã thành dâm, tất phải luân chuyển trong Tam-đồ, không thoát ra được. Thế thì Niết-bàn của Như-Lai do đường nào mà tu chứng?”
Việt: “Phải làm cho dâm-cơ của thân và tâm đều dứt, và tánh ‘dứt’ ấy cũng không còn, thì mới mong đạt được quả Bồ-đề của Phật.”
Việt: “Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần.”
- Đoạn sát sanh:
Việt: “A-Nan! Lại nữa, nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không sát sanh thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.”
Việt: “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm sát-sanh thì chẳng thể ra khỏi trần-lao.”
Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ sát sanh, tất sẽ lạc vào Thần-đạo--người thượng phẩm thì làm Đại-lực Quỷ, trung phẩm thì làm Phi-hành Dạ-xoa hoặc làm Quỷ-soái, hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát.”
Giảng nghĩa:
“Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ sát sanh, tất sẽ lạc vào Thần-đạo.” “Đa trí” ở đây không phải là trí huệ xuất thế mà là thế trí biện thông - thứ trí huệ của thế gian. Như vậy, cho dù quý vị rất thông minh, có được thế trí biện thông, có tài ăn nói, giỏi biện luận, khéo biện biệt, và công phu tu hành cũng đã tương ưng rồi; song le, nếu không dứt bỏ tâm sát sanh, thì trong tương lai, quý vị sẽ bị rơi vào đường Thần-đạo và có thể làm Thần, làm Thiên-vuơng, Thiên-chủ, hoặc Đại-lực Tướng-quân (tức Đại-lực Quỷ) ở cõi trời.
“Người thượng phẩm thì làm Đại-lực Quỷ. Người thượng phẩm (tức là người giỏi nhất) thì làm loại quỷ thần có thế lực lớn; loại quỷ này cũng là thần. Đại-lực Quỷ chính là Thiên-hành Dạ-xoa (quỷ Dạ-xoa ở cõi trời). Trung phẩm thì làm Phi-hành Dạ-xoa hoặc làm Quỷ-soái. Hạng quỷ trung phẩm, thần trung phẩm này có thể là Phi-hành Dạ-xoa (quỷ Dạ-xoa bay liệng trên không), hoặc nguyên soái của loài quỷ. Hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát. Hạng người thuộc hạ phẩm thì làm Địa-hành La-sát, loại quỷ La-sát ở dưới đất.”
Việt: “Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.”
Giảng nghĩa:
“Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng.” Những quỷ thần này – Thiên chủ, Thần ở cõi trời, hoặc loài quỷ ở địa ngục, loài Địa-hành La-sát ở nhân gian, loài Phi-hành Dạ-xoa bay trên không, và Thần-vương Đại-lực Quỷ - đều có rất đông đồ chúng. “Đồ” tức là đồ đệ; “đồ chúng” tức là bè đảng rất đông, rất nhiều. Có rất nhiều loại quỷ, như Đại-lực Quỷ (quỷ có thế lực lớn), Đa-tài quỷ (quỷ có nhiều tiền của), Thiểu-tài Quỷ (quỷ có ít tiền của), Vô-tài quỷ (quỷ không có tiền của), Khứu hưong Quỷ (quỷ ngửi mùi thơm), Khứu-xú Quỷ (quỷ ngửi mùi hôi)... Bởi có tới mấy vạn loại quỷ khác nhau, cho nên Đức Phật nói: “Các quỷ thần ấy cũng có đồ chúng” - kẻ này có đệ tử, kẻ kia cũng có đồ đệ, cho nên bọn chúng rất là đông đúc.
“Tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.” Những quỷ thần ấy, kẻ nào cũng ngạo mạn, tự xưng là mình đã thành tựu được Đạo Vô-thượng. Ở Trung-Hoa có vị Quan Đế Công vốn là loại Đa-tài Quỷ (quỷ có nhiều tiền của), song về sau đã quy y Tam Bảo và đưọc tôn xưng là Bồ-tát Già-Lam. Đối với Phật-giáo thì Bồ-tát Già-Lam là một vị Thần Hộ-Pháp; và khi ở trong chùa hay trước mặt Đức Phật thì vị Thần Hộ-Pháp này phải đứng, bởi không có chỗ ngồi cho thần.
Việt: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp, sẽ có nhiều loại quỷ thần ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, tự nói rằng ăn thịt thì đắc được con đường Bồ-đề.”
Vịêt: “A Nan ! Ta cho phép chúng Tỳ-khưu ăn Ngũ Tịnh-nhục; thịt ấy đều do thần lực của Ta hóa sanh chớ vốn không có mạng căn. Bà-la-môn các ông ở nơi nóng, ẩm, lại thêm có đá sạn nên rau cỏ không sống được; vì thế, Ta dùng thần lực đại bi gia hộ, do đại từ bi mà giả gọi là thịt cho các ông có được cái vị. Làm sao sau khi Như Lai diệt độ, những kẻ ăn thịt chúng sanh lại gọi là Thích tử được?”
Việt: "Các ông phải biết: Những kẻ ăn thịt dầu được tâm khai tựa Tam-ma-địa, cũng chỉ là loài Ðại La-sát, đến khi báo chung phải chịu trầm luân trong biển khổ sanh tử, chớ không phải là đệ tử của Phật. Những người như vậy là hạng giết hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau, hỗ tương ăn nuốt không dứt, thì làm sao ra khỏi được Tam-giới?"
Việt: "Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, kế đến phải dứt trừ sát sanh. Ðó là lời minh huấn quyết định thứ hai về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước."
Việt: "Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ sát sanh thì cũng như người tự bịt tai rồi cất tiếng kêu to mà lại cầu cho người khác đừng nghe thấy; đó gọi là 'muốn giấu mà lại thành lộ rõ'."
Việt: "Chư Bồ-tát và các Tỳ-khưu thanh tịnh khi đi trên lối rẽ còn không đạp lên cỏ sống huống hồ là lấy tay nhổ, thì sao kẻ có tâm đại bi lại lấy máu thịt của chúng sanh làm thức ăn?"
Việt: "Những vị Tỳ-khưu nào không phục-dụng các thứ tơ bông, hàng lụa Ðông-phương, cùng các ủng da, giày dép da, áo da, áo lông, sữa, pho-mát, sữa đặc tinh của miền đó, thì những vị Tỳ-khưu ấy thật sự được giải thoát ở đời; trả xong nợ trước, họ sẽ không trở lại Tam-giới nữa."
HT Tuyên Hóa giảng: Cả tiểu thừa và đại thừa đều không khắt khe về ăn sữa, pho mát, sữa đặc tinh
Việt: "Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy tức là lời của Ma Ba-Tuần."
- Đoạn trộm cắp
Việt: "A-Nan! Lại nữa, nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không trộm cắp thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục."
Việt : "Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm trộm cắp thì chẳng thể ra khỏi trần-lao."
Việt: "Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ trộm cắp, tất sẽ lạc vào Tà-đạo--thượng phẩm thì làm tinh-linh, trung phẩm thì làm yêu mị, hạ phẩm thì làm tà-nhân bị chúng mị ám nhập."
Việt: "Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ trộm cắp, tất sẽ lạc vào Tà-đạo--thượng phẩm thì làm tinh-linh, trung phẩm thì làm yêu mị, hạ phẩm thì làm tà-nhân bị chúng mị ám nhập."
Giảng: "Thượng phẩm thì làm tinh-linh." Bậc cao nhất của Tà-đạo là gì? Là tinh-linh. "Tinh" tức là yêu tinh. Thế nào gọi là "tinh linh"? Mới gặp thì quý vị thấy chúng rất thông minh, nhưng trên thực tế đó chỉ là giả dối. Các hiệu thuốc ở Trung-Hoa thường có bán một loại dược thảo gọi là phục-linh; cái "linh" này của "phục linh" là giả chứ không phải thật.
"Trung phẩm thì làm yêu mị." "Yêu" tức là yêu tinh, yêu quái. Loài yêu mị có thần thông và có thể ám hại người.
"Hạ phẩm thì làm tà-nhân bị chúng mị ám nhập." "Mị" tức là quỷ mị. Mấy hôm trước đã có giảng về "yểm mị quỷ," tức là Cưu-bàn-trà rồi. Quỷ yểm-mị thì thừa lúc người ta đang ngủ đến đè lên người họ (bóng đè); còn loại quỷ mị này thì không đợi người ta ngủ mà ngay trong lúc họ còn thức, chúng cũng có thể nhập vào thân họ, mượn thân họ để nói chuyện và làm những điều chúng muốn. Những người như thế được gọi là "tà-nhân" (người tà); ở Trung-Hoa thì gọi họ là "thầy cúng," hay "cô đồng." Ngoài ra, họ lại còn một tên khác nữa là "khiêu thần" (thần nhảy múa). Tại sao gọi là "khiêu thần"? Bởi họ lắc lư, nhảy nhót, múa may một hồi thì "lên đồng," có "thần" nhập vào thân họ; đó cũng bởi đời trước họ chuyên môn trộm cắp, nên bây giờ phải nhận lãnh quả báo này.
Vì sao những người đó phải chịu nghiệp báo làm tà-nhân? Là vì kiếp trước họ đã phạm tội trộm cắp! Bởi không dứt trừ tâm trộm cắp nên họ bị đọa lạc--hạng cao nhất thì bị đọa làm tinh-linh, hạng trung bình thì bị đọa làm yêu quái, và hạng thấp nhất thì bị đọa làm tà-nhân, bị các tà ma quỷ quái nhập vào thân họ mà nói chuyện.
Việt: "Những bọn tà ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Ðạo Vô-thượng."
Việt: "Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều thứ yêu tà ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, âm thầm lừa dối mọi người, xưng là bậc Thiện-tri-thức, và kẻ nào cũng tự nói là đã đắc Thượng-nhân Pháp. Chúng mê hoặc, lường gạt những kẻ không hiểu biết, khiến cho họ khủng hoảng đến thất tâm. Chúng đi đến nơi nào thì nơi ấy đều bị hao tổn."
Việt: "Ta dạy các Tỳ-khưu khất thực tuần tự theo phương hướng nhằm khiến họ xả bỏ lòng tham để thành Ðạo Bồ-đề. Các thầy Tỳ-khưu khỏi tự lo sự nấu ăn, chỉ gởi tạm cái thân sống thừa nơi Tam-giới. Đó biểu thị họ là những bậc ‘nhất vãng hoàn,’ đi rồi thì không trở lại nữa."
Việt: "Cớ sao bọn trộm cắp kia giả mặc y phục của Ta, mua bán Như-Lai, tạo ra vô số nghiệp mà lại nói đó đều là Phật Pháp? Chúng phỉ báng người xuất gia và xem các thầy Tỳ-khưu đã thọ Cụ-túc Giới là hàng Tiểu-thừa. Do sự nghi ngờ và ngộ nhận mà vô lượng chúng sanh phải đọa địa ngục Vô-gián."
Việt: "Sau khi Ta diệt độ, nếu có những thầy Tỳ-khưu nào phát tâm quyết định tu pháp Tam-ma-đề, và có thể đối trước tượng Như-Lai mà thắp một ngọn đèn nơi thân, hoặc đốt một lóng ngón tay, hoặc nhen cháy một viên hương trên thân thể, thì Ta nói những người ấy, bao nhiêu nợ nần từ vô thủy đến nay đều trả xong trong một lúc, xa lìa hẳn cõi thế gian và vĩnh viễn thoát khỏi các lậu, tuy tức thời chưa hiểu rõ con đường Vô-thượng Giác, mà cái tâm của họ đối với Pháp đã quyết định rồi."
Việt: "Nếu không tạo cái nhân xả thân như vậy, thì dầu có tu thành Vô-vi, cũng phải trở lại sanh làm người mà đền trả nợ cũ, giống như Ta phải ăn lúa ngựa vậy."
Việt: "Vậy, ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, tiếp đến là phải dứt trừ trộm cắp. Ðó là lời minh huấn quyết định thứ ba về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước."
Việt: "Cho nên, A-Nan, kẻ tu Thiền-định mà nếu chẳng dứt trừ trộm cắp, thì cũng như người rót nước vào chén lủng mà muốn cho đầy, dầu có trải đến trần kiếp cũng không thể nào đầy được!"
Việt: "Nếu các thầy Tỳ-khưu, ngoài y bát ra không còn cất giấu phân tấc gì cả; phần khất thực có dư thì bố thí cho các chúng sanh đói khát; khi ở giữa đại-hội thì chắp tay lễ chúng; nếu bị người chửi mắng thì xem như sự khen ngợi; có thể khiến cho thân và tâm, cả hai đều xả bỏ, thân thịt xương máu chung cùng với chúng sanh; chẳng đem cái thuyết 'bất liễu nghĩa' của Như-Lai trở lại làm cái giải thích riêng của mình khiến cho kẻ sơ-học hiểu lầm; thì Phật ấn chứng những người ấy sẽ đắc chân chánh Tam-muội."
Việt: "Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy tức là lời của Ma Ba-Tuần."
- Đoạn Vọng ngữ - Không nói dối
Việt: "A-Nan! Chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới tuy thân và tâm không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, ba hạnh ấy đã viên mãn nhưng nếu còn đại-vọng-ngữ thì phần Tam-ma-địa chẳng được thanh tịnh, trở thành ma ái-kiến, làm mất chủng tử Như-Lai."
Việt: “Họ chưa đắc mà nói đắc, chưa chứng mà nói chứng, hoặc cầu mong được làm bậc tôn-thắng, đệ nhất ở thế gian; họ đối trước mặt người khác mà nói rằng: ‘Tôi nay đã đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, Bích-chi Phật thừa, hoặc các quả vị của chư Bồ-tát Thập-địa và Ðịa-tiền’; để tham cầu sự lễ sám và đồ vật cúng dường của kẻ khác."
Việt: "Hạng Nhất-điên-ca này làm tiêu diệt Phật-chủng thì cũng như người lấy dao chặt cây Ða-la vậy. Phật nói những người ấy đã vĩnh viễn chặt đứt thiện căn, không còn tri-kiến nữa, phải trầm luân trong biển Tam-khổ, không thành tựu Tam-muội được."
Việt: "Ta có sắc lệnh cho các Bồ-tát và A-la-hán rằng sau khi Ta diệt độ, hãy ứng thân sanh vào thời Mạt Pháp, thị hiện vô số hình tướng để độ những kẻ còn trong vòng luân chuyển."
Việt: "Hoặc làm thầy Sa-môn, người bạch-y cư-sĩ, nhân vương, tể quan, đồng nam, đồng nữ, như vậy cho đến làm dâm nữ, quả phụ, kẻ gian, kẻ cắp, đồ tể, kẻ buôn hàng lậu, rồi đồng sự với những hạng người đó để xưng tán Phật-thừa, khiến cho thân tâm họ đều nhập Tam-ma-địa."
Việt: "Nhưng không khi nào tự xưng: 'Tôi thật là bậc Bồ-tát, thật là bậc A-la-hán,' tiết lộ mật nhân của Phật, khinh ngôn với kẻ vị-học, chỉ trừ lúc mạng chung có di chúc âm thầm cho biết mà thôi. Thế sao hạng người kia lại mê hoặc chúng sanh mà tạo thành đại-vọng-ngữ như vậy?”
Việt : "Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, sau nữa là phải đoạn trừ các thứ đại vọng-ngữ. Ðó là lời mình huấn quyết định thứ tư về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước."
Việt : "Vậy nên A-Nan, nếu chẳng dứt trừ đại vọng-ngữ thì cũng như chạm phẩn người làm hình chiên-đàn, cầu cho có hương thơm, đó là điều không thể có được!"
Việt : "Ta dạy chúng Tỳ-khưu lấy tâm ngay thẳng làm đạo tràng, đối với bốn oai nghi và tất cả các hạnh còn không được giả dối, thì sao lại tự xưng là đã đắc Thượng-nhân Pháp?"
Việt: "Ví như kẻ cùng-đinh mạo xưng đế-vương mà tự chuốc lấy tội tru diệt ; huống hồ là danh vị Pháp-vương, sao dám trộm lấy? Nhân địa đã chẳng chân thật tất phải chiêu cảm cái quả báo cong vạy, dầu muốn cầu đạo Bồ-đề của Phật thì cũng như người tự cắn rốn, há có ai thành tựu?"
Việt: "Nếu tâm của các Tỳ-khưu thẳng như dây đờn, tất cả đều chân thật, có thể nhập Tam-ma-địa, vĩnh viễn không gặp các ma sự, thì Ta ấn chứng những người ấy sẽ thành tựu được Bồ-tát Vô thượng Tri giác."
Việt: "Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần."
Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng
+ Thuật ngữ: Tập chủng tính - Giải hạnh - Tịnh Tâm Địa - Cứu Cánh địa
(40) Tập chủng tính: Gọi đủ là Tập sở thành chủng tính. Phạn Samudanitam gotram, gọi tắt là Tập chủng. Chỉ cho chủng tính trước đó chưa có mà sau này tu được, cũng chính là huân tập. Chủng tính do tu các thiện Pháp mà được thành. Tập chủng tính thường được gọi chung với tính chủng tính, hai chủng tính này trong các Kinh Luận có nhiều chỗ đề cập đến, như Luận Đại thừa Khởi tín gọi nó là Bản giác với Thủy giác. Thành duy thức luận lại nói là: Chủng tử sẳn có với chủng tử mới huân. Nghĩa là tính Phật sẵn có phát ra chủng tử vô lậu, phát ra bên ngoài, làm cái nhân huân tập trở vào bên trong, cho nên gọi là Bản giác và Thủy giác. Đây cũng tiêu biểu giai vị tu hành của Bồ Tát. Kinh Nhân Vương, Kinh Bát Nhã nói đến ba chủng tính là Tập chủng tính, tính chủng tính, Đạo chủng tính. Y theo thứ tự có thể phối với giai vị tu hành của Bồ Tát Đại thừa là Thập tín tâm, Thập trụ tâm, Thập hạnh tâm. Lại như Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp quyển thượng lập danh thì có: Tập chủng tính, Tính chủng tính, Đạo chủng tính, Thánh chủng tính, Đẳng giác tính, Diệu giác tính. Y thứ tự có thể phối với Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác. Tóm lại Tập chủng tính là nói về 10 giai vị của Bồ Tát thuộc Thập trụ.
(41) Giải hạnh: Từ ngữ này để chỉ các bậc Bồ Tát thuộc Tam hiền, tức Thập trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi hướng. Các Ngài vừa hiểu biết Chính Pháp của Phật một cách sâu sắc, luôn luôn tu tập ba Pháp quán không quán, giả quán và trung đạo quán, và thực hành sáu ba la mật (thí, giới, nhẫn, tấn, thiền, trí) cho nên gọi là giải hạnh.
(42) Tịnh tâm địa: Đây là bậc thứ nhất trong Thập địa, cũng gọi là sơ hoan hỷ địa. Thập địa còn gọi là Thập thánh. Khi Bồ Tát tu hành đến mãn Thập hồi hướng là qua A tăng kỳ kiếp, có thể chứng vào bậc Tịnh tâm địa này. Đến đây là chứng nhập Pháp thân thanh tịnh, phá từng phần căn bản vô minh tiến lên các địa sau và thành tựu diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn.
(43) Cứu cánh địa: Chỉ cho bậc Bồ Tát từ Đẳng giác đến Diệu giác (Phật). Theo cấp bậc tu hành của Bồ Tát thuộc Viên giáo thì đến đây Bồ Tát đã phá xong vô minh phẩm thứ 42, chứng được Thật tướng các Pháp một cách rốt ráo. Chữ cứu cánh có nghĩa là đến chỗ chí cực, Lý và Thể không hai. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Pháp môn Tâm Địa: Đối với chúng ta, những người xuất gia theo Hòa Thượng tu hành, tâm ô trược của chúng ta đều được Ngài thanh lọc. Ngài mang đến cho thế gian này sáu đại tông chỉ: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Sáu tông chỉ này là pháp môn Tâm Địa ; có thể khiến tâm chúng ta được thanh tịnh và sáng suốt. Đó là hạnh bố thí ba-la-mật của bồ-tát. Hòa Thượng ban cho chúng ta pháp môn tùy theo sở nguyện của mỗi người cho chúng ta gieo trồng ruộng phước và công đức. Chúng ta chỉ cần toàn tâm lãnh thọ mà thôi.... (Nguồn: Thầy Hằng Thật)
+ Thanh Tinh Kinh - Trong bộ Kinh của Lão Tử giảng về Chữ đạo và Chữ Đức của Pháp Thế gian và Xuất thế gian
Lão tử nghiên cứu thiên văn học, lại nghiên cứu địa lý học, đối với nhân văn ông cũng nghiên cứu, do đó ông viết ra bộ kinh gọi là Thanh Tịnh Kinh. Kinh văn như sau :
Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.... Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu.
Ðại đạo vô hình, sinh dục thiên địa: Vũ trụ lớn rộng như vậy, nhưng lại do đạo mà sanh ra. Nếu không có đạo, thì trời đất, trăng sao v.v.. đều không có, tất cả chỉ là một cái thể hỗn độn. Bởi có đạo nên mới có trời, đất, vạn vật, rồi có tiên, Phật, thánh nhân.
Ðại đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt: Ðại đạo thì không có tình cảm, đối trước vạn vật thì bình đẳng; không giống như con người, hành động trong tình cảm, có nhân tình, có ái tình. (Có người nói: "Như vậy là giống như cây cỏ bất nhân hay sao?" Không phải vậy. Ðó là hiện tượng vượt pháp thế gian.)
Mặt trời là tinh hoa của yếu tố dương, mặt trăng là tinh hoa của âm, cả hai đều vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo, do đó mới có bốn mùa là xuân, hạ, thu, đông, chi tiết hơn thì phân ra thành 24 tiết, 72 hậu. Tiết và hậu đều phát sinh từ sự vận hành của mặt trăng và mặt trời vậy.
Ðại đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật: Ðại đạo không có tên, nhưng hết thẩy vạn vật đều từ trong đại đạo mà sanh ra và lớn lên. Cảnh giới này, càng nghiên cứu càng thấy nó ảo diệu vô cùng.
Ngô bất tri danh, cưỡng danh vị đạo: Lão tử nói rằng: "Ta không biết tên của nó là gì, ấy là ta miễn cưỡng đặt cho nó một cái tên, gọi là 'Ðạo' mà thôi!" Tiếp theo Lão tử giải thích như sau:
Phù đạo giả! hữu thanh hữu trược, hữu động hữu tĩnh: Cái đạo này, có thanh, cũng có trược. Thanh tịnh đến cực điểm thì hóa ra trược, trược đến cực điểm thì hóa ra thanh. Cái đạo này, tánh chất của nó là tự nhiên, giống như hơi điện vậy nó có động có tĩnh, động là dương và tĩnh là âm, cho nên có câu: "nhất dương nhất âm chi vị đạo," một dương với một âm là đạo.
Thiên thanh địa trược, thiên động địa tĩnh: Trời thì thanh, khí thanh bốc lên tạo thành bầu trời; đất thì trược, khí trược chìm xuống thành ra đất. Trời thì động, có mặt trăng mặt trời vận hành, các sao di động, đều là động cả. Ðất thì tĩnh, núi sông, đất rộng, và nhà cửa đều ở trạng thái tĩnh.
Nam thanh nữ trược, nam động nữ tĩnh: Phái nam thì thuộc về thể thanh tịnh, phái nữ thì thuộc thể ô trược. Nam thì động, chủ về phía ngoài, gây dựng sự nghiệp, đi bôn ba khắp nơi. Nữ thì tĩnh, chủ về bên trong, giúp chồng dạy con, quản lý gia đình. Vợ chồng phân công hợp tác, tạo nên gia đình tốt đẹp. (Nay thì nam nữ bình quyền, kinh tế bình đẳng, thậm chí đi đến chỗ đồng tính luyến ái, cái đó chính là phản lại luật âm dương của trời đất, tạo thành tai vạ, ắt đọa địa ngục)
Giáng bổn lưu mạt, nhi sanh vạn vật: Từ gốc đi tới ngọn, vào trong luân hồi lục đạo, sanh ra làm người hay chẳng phải người, đó là các loại động vật hữu tình, rồi trăm ngàn thứ kỳ lạ, cái gì cũng có cả......
Vạn vật tuần hoàn, trong dương có âm, âm cực dương sinh, có sinh ắt có tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở về với đạo. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được vạn vật ? Là nhờ đạo.
Trong trời đất có bốn cái vĩ đại là Đạo, tự nhiên, trời đất và con người. Luật con người nên bắt chước tự nhiên, luật tự nhiên bắt chước luật của trời đất, luật trời đất bắt chước Đạo.
Ít nói thì hợp với tự nhiên. Cơn gió lớn không thể thổi suốt buổi sáng, cơn mưa lớn không kéo dài suốt ngày. Ai làm ra những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống chi là con người ? Người hiểu đạo biết rằng không ai có thể đoán trước những gì tương lai nắm giữ.(Nguồn: Thái Thượng Lão Quân TTK - HT Tuyên Hóa giảng)
Xem thêm HT Tuyên Hóa giảng về chữ Đạo: Chữ Đạo - HT Tuyên Hóa
Xem thêm bản đầy đủ về: Thanh Tịnh Kinh và Đạo Đức Kinh
+ Sám Hối Chiêm Sát của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Pháp sám hối thanh tịnh thân tâm dùng Mộc Luân kiểm tra
Lời của Đại Sư Ngẫu Ích – Tổ thứ 9 Tịnh Độ Tông: Chư Phật Bồ Tát, thương nhớ quần mê, còn hơn mẹ nhớ con, dùng đủ loại phương tiện, dạy dỗ để thoát khỏi khổ ải luân hồi. Thế nhưng chúng sanh không hiểu rõ nhân duyên nghiệp báo, không biết đoạn ác tu thiện, tín tâm thanh tịnh ngày một suy yếu, năm thứ ô trọc (ngũ trọc) tăng lớn. Bởi do cảm thương trước sự kịch khổ, với lòng từ bi đáp lại duyên cớ đó, mà có một vị Bồ Tát tên là Kiên Tịnh Tín, thưa thỉnh Thế Tôn, thương xót chỉ bày phương tiện cứu giúp. Đức Phật mới ngợi khen rộng lớn công đức của Địa Tạng Bồ Tát, vì chúng sanh mà kiến lập phương tiện dùng Tam Chủng Luân Tướng để xem sai biệt về thiện ác của chúng nó, từ đó tu hai phép quán, quay về nhất thật cảnh giới. Nên với những người nghiệp nặng, trước tiên không nên tu định tuệ, mà chiếu theo Sám pháp để đạt được thanh tịnh, sau đó mới tu tập hai phép quán thì mới tránh được chướng ngại. Thực sự đối với thời mạt pháp thì đây là phương tiện thù thằng trong các loại phương tiện vậy.
Tôi buồn vì chướng tâm sâu nặng, học pháp thì ngày càng loạn, luật giáo thiền tông, tạp loạn cũng chẳng chuyên nhất được, may mắn thay gặp được pháp này, khai phá mê mờ cho tôi, xem xét về nghi thức này thấy cả lý quán, lại có thể thực hành ngay, bèn đem các sám pháp, chắt lọc lựa chọn để vào bản sám nghi này, lập thành Thập khoa hành pháp, mỗi mỗi đều được lấy bày ra trước mắt, từ đầu đến cuối xem xét từng chi tiết nhỏ một để quyết định. Nay thuật lại duyên khởi về pháp hành này cho chư vị.
KHUYẾN TU
Nếu là đệ tử Phật, như là muốn tu xuất thế chánh pháp, hoặc muốn hiện tại không gặp các chướng duyên, hoặc là muốn diệt trừ các nghiệp nặng vô gián như ngũ nghịch thập ác, hoặc muốn cầu hiện tại cuộc sống sung túc, hoặc muốn cho các tội trọng nạn khinh giá đều được tiêu diệt, hoặc muốn đắc thanh tịnh luật nghi ưu-bà-tắc, sa-di, tỳ-kheo, hoặc muốn đắc tam tụ tịnh giới Bồ tát, hoặc muốn được các loại thiền tam muội, hoặc muốn được vô tướng trí huệ, hoặc cầu hiện chứng tam thừa quả vị, hoặc tuỳ ý vãng sanh Phật quốc Tịnh độ, hoặc muốn ngộ vô sanh pháp nhẫn viên mãn chứng nhập nhất thật cảnh giới, đều nên tiếp nhận thọ trì tu hành pháp sám hối này. Tại sao vậy? Đây là do Thích Ca Như Lai có lòng từ bi quảng đại, mới nói các nguyện từ bi rộng lớn của Ngài Địa Tạng Bồ Tát, không khổ nào mà chẳng diệt, không vui nào mà chẳng sanh.
Cứ nương theo đó mà tu hành thì Tịnh tín kiên cố, như ánh sáng quảng đại của Kinh, vì thế nên tin vào bản sám nghi này.
TÓM TẮT CÙNG THỰC HÀNH
Trong Kinh không nói về số người nhiều ít cùng thực hành pháp này, nhưng theo tôi thì tối đa chỉ nên 10 người. Tuy nhiên, nên tuyển chọn kỹ càng những người thực sự đều là pháp khí, đều có đạo tâm, nếu không cùng chí hướng, tốt nhất nên hành một mình. Có thể là những người chân thật vì sanh tử, đồng hành với nhau, nội trong 10 người là đủ, nhiều ít không vấn đề gì.
Lại nữa, nhất định trước tiên phải xem xét sở cầu, hoặc cầu luật nghi, hoặc cầu định tuệ, hoặc cầu chứng quả, hoặc cầu vãng sanh, sở cầu phải tương hợp thì mới có thể cùng tu. Trong 10 người đó, bầu ra một người túc đức (có hiểu biết, có tu hành, biết Phật pháp) để làm giáo thọ sư, từ sự đến lý, việc lớn việc nhỏ đều phải vâng theo. Chớ có cẩu thả khinh xuất mà phải chịu khó khăn trong việc hành.
CHIÊM SÁT LUÂN TƯỚNG
Đối với pháp sám hối, tuy rằng quy tắc phổ biến là vì chúng sanh mà phát lồ sám hối tội lỗi, song người thời nay từ vô thuỷ huân tập nghiệp lực, nhiều thứ thiên cường, do đó ở trong Kinh nói, trước hết phải chiêm luân tướng ban đầu, sau đó mới sáng tỏ được phương pháp sám hối. Nay muốn tu sám hối thì phải nghiêm tịnh đạo tràng, chiếu theo nghi thức mà thực hiện chiêm sát luân tướng. Theo đó mà xem xét quán sát thiện ác của mình, xem tội nặng nhẹ như thế nào, từ đó đối với từng tội, trong các thời khoá tu sám hối, nói ra cho rõ ràng.
Trên đây là nói phần phụ của Chiêm Sát Sám pháp. (Nguồn: Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh hành Pháp)
Xem bản: Sám Hối Chiêm Sát bản Rút gọn/ Thuần thục
Xem thêm: Sám Hối Chiêm Sát bản đầy đủ
Xem thêm: Pháp Hội Sám Hối Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
+ Pháp Sám hối vô tướng của Lục Tổ Huệ Năng
Trước ta truyền năm phần Chơn hương của Pháp thân trong Bổn tánh mình, kế ta truyền pháp Sám hối không tướng.
Sư nói rằng: "Một là giới hương, nghĩa là tâm mình không tưởng điều quấy, không toan việc dữ, không sanh ghen ghét, không sanh tham lam giận hờn, không mong cướp của hại người. Ấy gọi là Giới hương.
Hai là Định hương, nghĩa là thấy các cảnh tướng lành dữ mà tâm mình chẳng tán loạn. Ấy gọi là Định hương.
Ba là Huệ hương, nghĩa là tâm mình không bị ngăn lấp, mình lấy trí huệ mà quán chiếu tánh mình và chẳng tạo các điều dữ. Tuy mình tu các hạnh lành mà tâm không chấp trước, thường kính người trên tưởng kẻ dưới, hay xót thương những kẻ côi cút nghèo nàn. Ấy gọi là Huệ hương.
Bốn là Giải thoát hương, nghĩa là tâm không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, thông thả suốt thông (tự tại vô ngại). Ấy gọi là Giải thoát hương.
Năm là Giải thoát tri kiến hương, nghĩa là tâm mình tuy đã không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, nhưng chẳng nên "trầm không thủ tịch." Phải học rộng nghe nhiều, phải biết Bổn tâm mình, phải rõ thông đạo lý của chư Phật, phải xen lẫn trong thế gian mà cứu nhơn lợi vật (hòa quang tiếp vật), không phải nhơn ngã, mà thẳng đến Bồ đề – cái Chơn tánh không thay đổi. Ấy gọi là Giải thoát tri kiến hương.
Chư Thiện tri thức! Chơn hương nầy, mỗi phần tự có cái chất xông thơm ở bên trong, đừng tìm kiếm bên ngoài.
Chư Thiện tri thức! Hãy đồng xướng lên một lượt và nói theo ta.
Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ngu mê. Các tội do nghiệp ác ngu mê đã tạo ra từ trước thảy đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ngạo dối. Các tội do nghiệp ác ngạo dối đã tạo ra từ trước thảy đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ghen ghét. Các tội do nghiệp ác ghen ghét đã tạo ra từ trước đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa.
Chư Thiện tri thức! nhẫn lên là pháp Sám hối không tướng
Quý vị Thiện tri thức! Những điều tôi nói ở trên chính là pháp môn Vô tướng sám hối.
Sao gọi là Sám? Sao gọi là Hối?
Sám nghĩa là ăn năn các tội trước của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét, đã tạo ra từ trước, tất cả đều ăn năn, hằng chẳng gây lại nữa. Ấy gọi là Sám.
Hối nghĩa là ăn năn các lỗi sau của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét tạo ra, nay đã giác ngộ rồi, tất cả đều dứt bỏ đời đời, ngày sau chẳng gây ra nữa. Ấy gọi là Hối. Cho nên kêu là Sám hối.
Các người phàm phu ngu muội chỉ biết ăn năn tội trước của mình, mà chẳng biết ăn năn lỗi sau. Bởi chẳng ăn năn, nên tội trước chẳng dứt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại sanh, thì sao gọi là Sám hối được?
Chư Thiện tri thức! Đã sám hối rồi, bây giờ ta cho các ngươi lập Bốn điều thề nguyền lớn (tứ hoằng thệ nguyện). Mỗi người phải dùng tâm chơn chánh mà nghe ta dạy:
Cả thảy chúng sanh không giới hạn trong tâm mình đều thề nguyền hóa độ.
Cả thảy các điều phiền não chẳng xiết kể trong tâm mình đều thề dứt bỏ.
Cả thảy các pháp môn kể trong tánh mình đều thề nguyện học cả.
Đạo Phật cao hơn hết trong tánh mình thề nguyền tu đến thành công.
Chư Thiện tri thức! Cả thảy chúng ngươi há chẳng nói: "Cả thảy chúng sanh không giới hạn, mà tự mình đều thề nguyền hóa độ, thế thì chẳng phải Sư Huệ Năng độ!"
Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tam thân Phật: Sư nói: "Ba thân là Thanh Tịnh Pháp Thân, đó là tánh của ngươi, Viên Mãn Báo Thân là trí của ngươi, Thiên Bách Ức Hóa Thân là hạnh của ngươi vậy. Nếu ngươi lìa Bổn tánh mà nói riêng ba thân, tức gọi là có thân mà không trí. Bằng ngộ được ba thân không có tự tánh riêng, tức gọi là tứ trí Bồ đề. Hãy nghe ta kệ:
Tự tánh đủ ba thân,
Phát minh thành tứ trí.
Chẳng lìa duyên thấy nghe,
Siêu nhiên lên quả Phật.
Nay tôi vì ông nói,
Tin chắc hằng không mê.
Chớ học người tìm cầu,
Trọn ngày nói Bồ đề."
Trí Thông lại bạch rằng: "Cái nghĩa tứ trí có thể được nghe chăng?"
Sư nói: "Đã hiểu ba thân thì rõ tứ trí, sao lại hỏi nữa? Nếu lìa ba thân mà nói riêng tứ trí, ấy gọi là có trí mà không thân, tức là có trí trở lại thành không trí."
Sư lại nói kệ rằng:
Đại Viên Cảnh Trí, tánh thanh tịnh.
Bình Đẳng Tánh Trí, tâm vô bịnh.
Diệu Quán Sát Trí, kiến phi công,
Thành Sở Tác Trí, đồng viên cảnh.
Ngũ Bát quả, Lục Thất nhơn, chuyển,
Chỉ dùng danh ngôn không thật tánh.
Nếu ngay chỗ chuyển chẳng lưu tình,
Ngay nơi ồn náo, Na-già định.
HT Tuyên Hóa giảng:
Phật có tứ trí tức Đại Viên Cảnh Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quan Sát Trí, Thành Sở Tác Trí.
- Đại Viên Cảnh Trí là gì? Là do thức thứ tám chuyển, cho nên nói chuyển thức thành trí. Lúc ông không biết dụng đó là thức, lúc ông phản bổn hoàn nguyên tức chuyển thức thứ tám mà thành Đại Viên Cảnh Trí, cho nên bổn tánh của nó thanh tịnh không có ô nhiễm, vì thế nói Đại Viên Cảnh Trí tánh thanh tịnh.
- Bình Đẳng Tánh Trí là do thức thứ bảy chuyển. Lúc ông chưa hiểu rõ thì gọi là thức thứ bảy, sau khi khai ngộ thì gọi là Bình Đẳng Tánh Trí. Thức thứ bảy cũng gọi là Mạt na da thức, cũng gọi là truyền tống thức, nó do thức thứ sáu truyền cho thức thức tám, cho nên gọi là truyền tống thức, mà thức thứ tám còn gọi là hàm tàng thức, Phạn ngữ là A lại da thức. Những hột giống thiện ác, đều chứa trong thức thứ tám, cho nên trồng thiện nhân liền kết quả thiện, trồng nhân ác liền kết quả ác, cho nên gọi bát thức điền. Thức này giống như một mảnh ruộng, quý vị trồng cái gì thì nó liền sanh cái đó. Bình Đẳng Tánh Trí tâm vô bệnh, bình đẳng tức tâm Chư Phật và chúng sanh thì bình đẳng, vô bệnh tức không có chướng ngại, tật đố, tham sân si. Nếu quý vị không có chướng ngại, tật đố, tham sân si thì có thể chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí.
- Diệu Quán Sát Trí kiến phi công: Diệu Quán Sát Trí thì do ý thức thứ sáu chuyển, thức thứ sáu này cái gì cũng đều phân biệt, phân biệt thiện ác, thị phi, nam nữ, cho nên xem ra thì rất thông minh, thực tế đã biến thành ý thức. Nếu đã chuyển thức thành trí, thành Diệu Quán Sát Trí – Nó nhìn thấy mọi cảnh giới mà không cần phân biệt vẫn có thể hiểu rõ. Diệu quán sát và tâm phân biệt không giống nhau, cho nên chứng quả A la hán cần phải tác ý quan sát, tác ý chính là từ trong tịnh quan sát, mà có thể biết được những sự việc trong tám vạn đại kiếp. Chính là sử dụng Diệu Quán Sát Trí này mà có thể biết được, nhưng nếu quý vị không tác ý quan sát, vẫn là dùng ý thức, tức là người thường đều có.
- Thành Sở Tác Trí đồng viên cảnh: Thành Sở Tác Trí là do năm thức đầu: tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thành tựu, giống như một cái gương tròn.
- Ngũ Bát, Lục Thất quả nhân chuyển: Ngũ chính là năm thức đầu, Bát chính là thức thứ tám; Ngũ Bát quả chuyển tức là năm thức đầu và thức thứ tám được chuyển ở giai đoạn gặt quả, thành Đại Viên Cảnh Trí và Thành Sở Tác Trí. Lục Thất nhân chuyển tức là thức thứ sáu và thức thứ bảy được chuyển trước trong thời kỳ gieo nhân, thành Diệu Quán Sát Trí và Bình Đẳng Tánh Trí. Trong việc chuyển bát thức thành tứ trí, thức thứ sáu và bảy chuyển trước ở giai đoạn gieo nhân, kế sau là chuyển năm thức đầu và thức thứ tám ở thời kỳ gặt quả.
- Đản dụng danh ngôn vô thực tánh: Tuy nói trên nhân chuyển, trên quả chuyển, thực tế thì không có thực tánh nào, chỉ là một số danh từ mà thôi.
- Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình: Nếu ông đang ở chỗ (tình thức) chuyển không ngừng, mà ông không dùng tâm tình phàm phu lại suy tính đo lường.
- Phồn hưng vĩnh xứ Na-già định: Phồn có nghĩa là nhiều, Hưng có nghĩa hưng khởi, tức là thường ở trong Na già định – Na già (Naga) định chính là định của rồng. Tại sao rồng có thể lớn có thể nhỏ? Chính là từ trong định biến hóa, cho nên rồng gọi là Thần Long, vì nó có thể biến hóa vô cùng. Giống như lời tựa đã nói: Lục Tổ Đại sư dùng bát hàng phục rồng, rồng này chắc có vô minh và tính nóng giận. Nó nghĩ: "Thầy nói tôi không dám vào trong bát của thầy à? Xem nè!" Vì thế bèn nhảy vào trong bát, nhưng khi đã nhảy vào rồi thì không có cách nào nhảy ra. Rồng này sau khi nghe Lục Tổ Đại sư thuyết pháp liền được vãng sanh. Tuy rồng này thường ở trong định, nhưng chưa phá vô minh, cho nên vẫn còn nổi nóng, muốn hiển thần thông. Nếu nó có định lực, dù có nghe Lục Tổ nói: "Ngươi không thể hóa thành thân nhỏ," thì cũng không bị dao động. Na-già định là thứ định bất khả tư nghì. Do đâu mà trở thành rồng? Do là lúc trước, ở nhân địa, học Phật pháp rất tinh tấn, nhưng lại không giữ giới luật. Nghĩ rằng: "Người thường cần giữ giới luật nhưng tôi có thể không giữ." Cho nên nói: "Tu hành thì siêng năng nhưng giới luật thì buông thả (thừa cấp giới hoãn)," vì thế nên biến thành rồng.
Lưu Ý (Nguyên chú): phần nói về chuyển thức thành trí: "Chuyển tiền ngũ thức là Thành Sở Tác Trí. Chuyển thức thứ sáu làm Diệu Quán Sát Trí. Chuyển thức thứ bảy làm Bình Đẳng Tánh Trí. Chuyển thức thứ tám thành Đại Viên Cảnh Trí. Tuy thức thứ sáu thứ bảy ở trong nhân chuyển, năm thức trước và thức thứ tám ở trên quả chuyển, nhưng chỉ chuyển trên danh tướng mà không chuyển bản thể của nó" theo bản khắc Đại Tạng Kinh, cùng với bản khắc đời Minh, đều là chữ nhỏ. Chỉ có bản khắc gần đây khắc lầm là chữ lớn, lẫn lộn với nguyên văn của Đàn Kinh. Như vậy không đúng! Cho nên vẫn làm chữ nhỏ mà viết thêm hai chữ "nguyên chú" (tức là lưu ý) để phân biệt. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tám Thức hoạt động: 346. Hỏi: Con thường nghe nói rằng: tất cả những hành động của chúng ta đều sẽ trở thành chủng tử trong thức thứ tám. Con không biết giữa thức thứ tám này và bảy thức trước có mối quan hệ ra sao?
Đáp: Bảy thức trước là cùng làm việc với nhau trong thân thể chúng ta. Bảy thức đó đều chịu sự chi phối của thức thứ tám. Nếu phân tách ra thì bảy thức đó cũng không có trách nhiệm gì mà lãnh trách nhiệm lại là thức thứ tám. Nhưng đến lúc cuối cùng, khi thức thứ tám không thể điều khiển được bảy thức trước thì con người sẽ chết. Lúc chết, thức thứ tám rời khỏi thân thể sau hết, nhưng lúc nhập thai thì nó lại đến trước tiên. Cho nên nói: “Đi sau tới trước làm chủ ông.” Thức thứ tám là chủ nhân ông, nếu y không tới thì bảy thức kia cũng không có tác dụng gì. Bảy thức đều do thức thứ tám mà có, nếu nó bị hư hoại thì bảy thức kia cũng bị hoại luôn. Giống như bộ phận tống dầu trong đầu máy xe mà bị hư thì các bộ phận còn lại đều không có tác dụng gì cả! (Nguồn: Gậy Kim Cang Hát 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tương Tác Năng Lượng trong vũ trụ - Hành tinh - Con người.
Diễn đạt kế tiếp mà Tôi muốn trình bày, và thông thường nó xuất phát từ bên trên, đó là các năng lượng của hoàng đạo, của thái dương hệ và của hành tinh, tác động hoặc là dưới hình thức các lực gây cản trở, hoặc là dưới hình thức lực kích động tùy theo loại vận thể hay thể mà chúng tác động vào; bản chất của các vận thể (vehicles) này và năng lực của chúng để thu hút, để đáp ứng, để loại bỏ, để tiếp nhận và để chuyển hóa đều hoàn toàn tùy thuộc vào mức tiến hóa đã đạt được và cũng tùy thuộc vào tình hình chung của hành tinh và tâm lý đang có trong gia đình nhân loại ở bất cứ thời kỳ đã chọn nào. Một trường hợp của tình hình sau, ngày nay có thể nhìn thấy trên thế giới, nơi mà các lực đang khuấy động với một mức độ hầu như dữ dội và có phần mới mẻ, và nhịp độ trên sự sống hành tinh chúng ta đang khơi dậy một đáp ứng được làm mạnh thêm rất nhiều từ các tư tưởng gia trên thế giới, nhờ thế kích thích họ đến cố gắng nhiệt thành theo các đường lối ý thức hệ, và đồng thời bị lôi kéo từ quần chúng và người kém tiến hóa không có gì khác ngoài sự sợ hãi, một số phận đáng thương, sự suy yếu vật chất lan rộng và nhiều phản ứng không mong muốn từ bản chất hình hài.
Một hiểu biết về các ảnh hưởng gây cản trở hoặc kích thích này có thể dễ dàng hiểu được bởi người nào có thể hiểu được bản chất của các hoạt động của hành tinh Saturn (Thổ Tinh).
Đây là hành tinh hiện chi phối trước tiên mức tiến hóa nơi mà sự chọn lựa chắc chắn xảy ra, nơi mà sự bác bỏ cơ hội hoặc chấp nhận cơ hội đó có thể được đảm đương một cách sáng suốt, và việc gánh vác trách nhiệm cá nhân trở nên một sự kiện được nhận biết trong một kiếp sống có hoạch định và có nền nếp. Điểm này trong diễn trình tiến hóa nhân loại được nói đến trong Cổ Luận bằng các câu tượng trưng sau đây:
“Ở giữa các mãnh lực xoay tít, tôi chịu đựng mơ hồ. Tôi không biết chúng, vì trong tất cả quá khứ của tôi, chúng đã cuốn tôi lên và xuống vùng đất trong đó tôi đã hoạt động, chóa mắt và không hay biết. Từ nơi này đến nơi khác, và điểm này đến điểm khác, chúng đẩy tôi lên và xuống vùng đất đó và không dừng lại nơi nào cả.
Hiện giờ tôi biết chúng và nơi đây tôi dừng lại, và sẽ không hành động cho tới khi tôi biết được Định Luật đang chi phối mọi hoạt động lên và xuống vùng đất đó. Tôi có thể quay vòng và xoay mặt theo nhiều hướng khác nhau; tôi đối mặt với một số chân trời rộng lớn và tuy vậy ngày nay tôi trụ lại.
Tôi sẽ định cách đi cho chính tôi. Kế đó tôi sẽ tiến tới. Tôi sẽ không đi lên và xuống vùng đất đó, cũng không quay lại không gian. Nhưng tôi sẽ tiến lên”. (Chiêm tinh học nội môn, 28)
+ Sự Hiểu biết tương ứng - Trí tuệ tương ứng của Chiêm tinh gia - Thầy dự đoán Số mệnh - Người chí nguyện - Các đệ tử - Các Điểm đạo đồ
Khi các ảnh hưởng này tuôn đổ qua hành tinh chúng ta và từ đó đi đến các trung tâm lực trên hành tinh, chúng tạo ra một hiệu quả song đôi:
1. Chúng tạo ra một hiệu quả nơi người tiến hóa, kích hoạt các trung tâm lực phía trên cách mô đi vào hoạt động và giúp cho con người đáp ứng với phóng phát (radiation) và hoạt động của Thánh Đoàn (Hierarchy).
2. Chúng tạo ra một hiệu quả nơi người kém tiến hóa giúp cho y hoạt động như một con người thông thường chưa giác ngộ.
Tuy nhiên, ở đây cần nên lưu ý rằng mọi năng lượng – thuộc hoàng đạo, thái dương hệ và hành tinh – đều có hiệu quả nhất định trên mọi sự sống trong mọi hình tướng trong tất cả các giới của thiên nhiên. Không gì có thể thoát được các ảnh hưởng bức xạ và từ lực này. Mục tiêu tiến hóa cho nhân loại là trở nên hiểu biết một cách sáng suốt và linh động về bản chất của các năng lượng này và bắt đầu biết đến chúng và vận dụng được chúng. Đây là lĩnh vực của huyền linh học như Thánh Đoàn đã luôn luôn dạy cho con người. Có thể nói rằng đệ tử phải hiểu biết một cách sáng suốt về các ảnh hưởng của hành tinh và bắt đầu sử dụng chúng cho việc xúc tiến mục đích của linh hồn. Điểm đạo đồ phải biết về các ảnh hưởng của hoàng đạo đang phóng phát ra bên ngoài của toàn thể thái dương hệ. (CTHNM, 29)
+ Kiến thức cần học tương ứng: Toàn bộ lịch sử về hoàng đạo có thể được tóm tắt một cách sinh động tuy vẫn chính xác trong diễn đạt sau: có ba quyển sách mà ba loại người nghiên cứu và học hỏi trong đó:
1. Sách về Sự Sống – Các Điểm Đạo Đồ ‒ 12 chòm sao.
2. Sách về Minh Triết – Các Đệ Tử ‒ 12 hành tinh.
3. Sách về Hình Hài hay về Sự Biểu Lộ ‒ Nhân Loại – 12 Huyền Giai Sáng Tạo (12 Creative Hierarchies). (CTHNM, tr31)
605. TÁI SANH CHỖ BẤT THIỆN
Nếu có một người bên trong thật có ô uế mà không tự biết, không biết như thật bên trong thật có ô uế, thì nên biết, người ấy không muốn đoạn trừ ô uế, không cầu phương tiện, không tinh cần học. Người ấy khi mạng chung, với ô uế làm ô uế tâm, do mạng chung với ô uế làm ô uế tâm, nó chết không an lành, sanh vào chỗ bất thiện. Vì sao? Vì người ấy do mạng chung với ô uế làm ô uế tâm.
Cũng như có một người từ chợ, quán, hoặc từ nhà làm đồ đồng mua về một cái mâm đồng bị bụi dơ làm dơ. Người ấy mang về nhưng không năng rửa bụi, không năng lau chùi, cũng không phơi nắng, lại để chỗ nhiều bụi bặm nên đồng càng dính thêm bụi bặm dơ bẩn. Hiền giả, cũng vậy, nếu có một người bên trong thật có ô uế mà không tự biết, không biết như thật bên trong thật có ô uế, thì nên biết, người ấy không muốn đoạn trừ ô uế, không cần phương tiện, không tinh cần học, nó mạng chung với sự ô uế làm ô uế tâm. Do mạng chung với sự ô uế làm ô uế tâm, nó chết không an lành, sanh vào chỗ bất thiện. Vì sao? Bởi vì nó mạng chung với ô uế làm ô uế tâm. (Trung A Hàm, Kinh Uế Phẩm, Phẩm 8, số 87)
606. TÁI SANH CÕI THIỆN
Nếu có một người biết như thật rằng: ‘Trong ta có ô uế, trong ta quả thật có ô uế này’, thì nên biết, người ấy muốn đoạn trừ ô uế đó, cầu phương tiện và tinh cần học. Người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm. Do mạng chung không có ô uế, không làm ô uế tâm, người ấy chết an lành, sanh vào cõi thiện. Vì sao? Vì người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm.
Cũng như có người từ chợ, quán, hoặc từ nhà người làm đồ đồng mua về một cái mâm đồng bị bụi bặm làm dơ bẩn. Người ấy mang mâm về, thường năng rửa bụi bặm, thường năng lau chùi, thường năng phơi nắng và không để chỗ nhiều bụi bặm. Như vậy, mâm đồng hết sức sạch bóng. Hiền giả, cũng vậy, nếu có một người biết như thật rằng: ‘Trong ta có ô uế; trong ta quả thật có ô uế này’, thì nên biết, người ấy muốn đoạn trừ ô uế đó, cầu phương tiện và tinh cần học. Người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm. Do mạng chung không có ô uế, không làm ô uế tâm, người ấy chết an lành, sanh vào cõi thiện. Vì sao? Vì người ấy mạng chung mà không có ô uế, không làm ô uế tâm. (Trung A Hàm, Kinh Uế Phẩm, Phẩm 8, số 87)
136. CHẾT AN LÀNH, MẠNG CHUNG AN LÀNH
Các Tỳ-kheo bạch rằng: Làm thế nào một Tỳ-kheo chết an lành, mạng chung an lành?
Tôn giả A-na-luật-đà đáp: Chư Hiền, nếu Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, cho đến chứng đắc Tứ thiền; đó gọi là Tỳ-kheo chết an lành, mạng chung an lành.
Chư Hiền, Tỳ-kheo không phải chỉ cùng đích như vậy là chết an lành mạng chung an lành. Lại nữa, này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo chứng đắc như ý túc về thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí, lậu tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Đó là Tỳ-kheo chết an lành, mạng chung an lành. (Trung A Hàm, Kinh A-Na-Luật, Phẩm 18, số 218)
422. NĂM GIỚI - TU GIỮ GIỚI LÀM NGƯỜI THIỆN NAM - TÍN NỮ
1) Đó là bạch y Thánh đệ tử xa lìa sát sanh, vứt bỏ dao gậy, có tâm tàm quý, tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến loài côn trùng, người ấy đối với sự sát sanh, tâm đã tịnh trừ.
2) Bạch y Thánh đệ tử xa lìa việc lấy của không cho, dứt trừ việc lấy của không cho. Khi nào cho mới lấy, vui với việc cho mới lấy, thường ưa bố thí, hoan hỷ không keo kiết, không mong đền trả, không tham lam, thấy tài vật của kẻ khác không lấy về mình. Người ấy đối với việc không cho mà lấy tâm đã tịnh trừ.
3) Bạch y Thánh đệ tử xa lìa tà dâm, dứt trừ tà dâm. Người nữ kia hoặc có cha giữ gìn, hoặc có mẹ giữ, hoặc cả cha cả mẹ cùng giữ, hoặc anh em giữ, hoặc chị em giữ, hoặc gia nương giữ, hoặc thân tộc giữ, hoặc người cùng họ giữ, hoặc là vợ của người khác, hoặc có phạt gậy, khủng bố, hoặc đã có ước hẹn bằng tài hóa, cho đến bằng một tràng hoa; đối với tất cả những người nữ ấy, không xâm phạm đến. Người ấy đối với tà dâm, tâm đã tịnh trừ.
4) Bạch y Thánh đệ tử xa lìa nói dối, dứt trừ nói dối; nói lời chân thật, ưa sự chân thật, an trụ nơi sự chân thật, không dời đổi sai chạy. Tất cả những lời nói đều đáng tin, không lừa dối thế gian. Người ấy đối với sự nói dối, tâm đã tịnh trừ.
5) Bạch y Thánh đệ tử lìa rượu, bỏ rượu. Người ấy đối với việc uống rượu, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ năm mà bạch y Thánh đệ tử giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
Thánh đệ tử này không còn đọa địa ngục, cũng không còn sanh vào loài súc sanh, ngạ quỷ và các chỗ ác, được quả Tu-đà-hoàn, không đọa ác pháp, nhất định thẳng tiến tới quả vị Chánh giác, tối đa chịu bảy lần sanh tử nữa. (Trung A Hàm, Kinh Ưu-bà-tắc, Phẩm 11, số 128)
+ Cách nhiếp tâm - Giữ tứ chủng thanh tịnh minh hối: A Nan! Ngươi hỏi cách nhiếp tâm, trước ta đã nói về pháp môn vi diệu, tu tập Tam Ma Địa. Người cầu đạo bồ đề trước tiên phải giữ bốn thứ luật nghi ... nhờ đó, ba ý nghiệp và bốn khẩu nghiệp ắt chẳng có nhân để sanh khởi.
Giảng:
Việc đầu tiên quý vị phải làm là phải giữ tứ chủng thanh tịnh minh hối: không sát, không trộm, không dâm và không dối. Giới không dâm dục không phải chỉ giữ giới tà dâm qua thân thể, mà luôn cả tâm trí. .... Quý vị phải làm cho thân tâm thanh tịnh trong sáng như băng tuyết, sáng như lưu ly, không một chúc dơ bẩn, không một đóm đen.
Khi ba ý nghiệp và bốn khẩu nghiệp đã không còn phạm thì những ác nghiệp không còn nhân để sanh khởi, bởi vì quý vị giữ giới và nuôi dưỡng tứ thanh tịnh minh hối.
A Nan, nếu giữ kỹ bốn giới chẳng bỏ sót, tâm còn chẳng duyên theo Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, thì tất cả ma sự làm sao còn sanh khởi được?
Giảng: Nếu quý vị không đeo đuổi theo Sắc, Thanh, Hương, Vị, và quý vị không bám vào chúng, thì tất cả ác nghiệp sẽ tự nhiên biến mất. Khi ác nghiệp đã biến mất, chúng không còn nhân để phát sanh.
Nếu có tập khí xưa chẳng thể diệt trừ, ngươi dạy người ấy nhất tâm tụng trì Phật Đảnh Quang Minh, Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát La Vô Thượng Thần Chú của ta, ấy là cái tâm chú do Vô Kiến Đảnh Tướng Như Lai, từ nơi đảnh đầu hiện ra Vô Vi Tâm Phật, ngồi trên bửu liên hoa mà thuyết tâm chú.
Giảng: Điều quan trọng là nhất tâm. Đừng để tâm chi phối như là miệng thì tụng chú, và tâm thì nữa tin nữa nghi ngờ về chức năng của chú. Quý vị đừng có phân tâm rồi tụng chú và nghĩ tán loạn. Quý vị tuy là một thân, nhưng lại có hai tâm trí. Một tâm thì nghĩ rằng có một lợi ích gì đó khi tụng chú, trong khi một bên thì nghĩ rằng: “Tôi đang làm những chuyện tụng chú mà chính tôi cũng không hiểu nó?” Những chi phối như vậy rất đáng sợ. Quý vị phải nhất tâm tụng trì. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tập 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
513. PHÁP LẤY GÌ LÀM GỐC
Nếu có dị đạo đến hỏi các ông ‘Tất cả các pháp lấy gì làm gốc?’ thì các ông nên trả lời họ như thế này: ‘Tất cả các pháp lấy dục làm gốc’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm hòa hiệp?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy xúc làm hòa hiệp’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm dẫn khởi?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy thọ làm dẫn khởi’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm hữu?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy tư tưởng làm hữu.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm thượng thủ?’ thì nên đáp như vầy: Lấy niệm làm thượng thủ’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm tiền đạo?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy định làm tiền đạo.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm tối thượng?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy tuệ làm tối thượng.’
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm chắc thật?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy giải thoát làm chắc thật’.
Nếu lại hỏi, ‘Lấy gì làm ý nghĩa?’ thì nên đáp như vầy, ‘Lấy Niết-bàn làm ý nghĩa’. (Trung A Hàm, Kinh Chư Pháp Bổn, Phẩm 10, số 113)
514. PHÁP NGU SI
Như thuốc A-ma-ni-dược, một phần có sắc, có hương, có vị, nhưng có trộn chất độc; hoặc có người bị bệnh nên uống, khi uống thì sắc, hương và vị ngon miệng mà không tổn hại cổ họng, nhưng khi uống xong, vào trong bụng rồi lại chẳng thành thuốc.
Cũng vậy, thọ pháp này hiện tại lạc mà tương lai phải chịu lấy quả báo khổ. Người kia ngu si không biết như thật rằng pháp thọ này hiện tại lạc mà tương lai phải chịu quả báo khổ. Khi đã không biết như thật liền tập hành không đoạn trừ. Sau khi tập hành không đoạn trừ, pháp không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý lại sanh; pháp đáng thích, đáng yêu, đáng vừa ý lại diệt. Đó gọi là pháp ngu si. (Trung A Hàm, Kinh Thọ Pháp II, Phẩm 14, số 175)
516. PHÁP SUY THOÁI
A-nan, ví như từ lúc xế trưa cho đến khi mặt trời lặn, ánh sáng diệt, bóng tối sanh; A-nan, ý ông nghĩ sao, sau khi mặt trời lặn, phải chăng ánh sáng đã diệt, bóng tối đã sanh?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Cũng vậy, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện; người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc chắn rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp suy thoái. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
517. PHÁP THANH TỊNH
Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện.
Ví như sáng sớm, mặt trời vừa xuất hiện, bóng tối diệt, ánh sáng sanh. A-nan, ý ông nghĩ sao, mặt trời lên dần cho đến giờ ăn trưa, phải chăng bóng tối đã diệt, ánh sáng đã sanh?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Cũng vậy, này A-nan, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, nhưng thiện căn còn sót lại, chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó sẽ lại phát sanh pháp thiện. Như vậy, người này đạt được pháp thanh tịnh. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
518. PHÁP TUỆ
Như đại tiểu tiện có hòa với nhiều thứ thuốc, hoặc có người bị bệnh uống; khi uống, sắc xấu, hôi thối, không mùi vị, không ngon miệng mà hại đau cuống họng, nhưng uống vào trong bụng lại thành thuốc.
Cũng vậy, thọ pháp này hiện tại khổ mà tương lai thọ quả báo lạc, người trí tuệ biết như thật rằng thọ pháp này hiện tại khổ mà tương lai thọ quả báo lạc. Do biết như thật, vị ấy tập hành nó mà không đoạn trừ. Do tập hành mà không đoạn trừ, pháp không đáng thích, không đáng yêu, không vừa ý diệt, mà pháp đáng thích đáng yêu, đáng vừa ý sanh. Đó gọi là pháp tuệ. (Trung A Hàm, Kinh Thọ Pháp II, Phẩm 14, số 175)
519. PHẬT PHÁP THẬM THÂM
Pháp của Ta rất sâu sắc, rất kỳ diệu, rất hy hữu, khó hiểu, khó biết, khó thấy, khó chứng đắc, mà Ta dạy bảo cho đệ tử và đệ tử sau khi vâng lãnh sự dạy bảo rồi liền được an ổn, trọn đời tịnh tu phạm hạnh và đem dạy lại cho người khác nữa. (Trung A Hàm, Kinh Ưu-đàm-bà-la, Phẩm 9, số 104)
699. TỊNH TĨNH
Thế Tôn nhập định quán tâm các Tỳ-kheo. Lúc đó Thế Tôn thấy chúng Tỳ-kheo tĩnh tọa im lặng, rất im lặng, không có thụy miên vì đã dứt trừ ấm cái. Chúng Tỳ-kheo ngồi thậm thâm, rất thậm thâm; tịch tĩnh, rất tịch tĩnh; vi diệu, rất vi diệu. (Trung A Hàm, Kinh Tam Thập Dụ, Phẩm 6, số 69)
700. TĨNH TỌA
Tỳ-kheo ưa thích sự tĩnh tọa, nội hành tĩnh chỉ vắng lặng, cũng không rời tư sát, thành tựu quán hạnh, tăng trưởng không hành. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất ưa thích sự tĩnh tọa, thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy. (Trung A Hàm, Kinh Toán Số Mục-Kiền-Liên, Phẩm 12, số 144)
704. TỌA THIỀN
Tôn giả Xá-lê Tử hỏi rằng: ‘Khả ái thay, rừng Ngưu giác sa-la này, ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát, ví như hoa trời’. Hiền giả Ly-việt-đa, những Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la?’
Hiền giả Ly-việt-đa đáp rằng, ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo ưa yên tọa, bên trong tu hành nội tâm tĩnh chỉ, không bỏ tọa thiền, thành tựu quán tưởng, thường thích nhàn cư, ưa chỗ yên tĩnh. Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la’.
Thế Tôn khen rằng: Lành thay! Xá-lê Tử, đúng như lời Tỳ-kheo Ly-việt-đa đã nói. Vì sao? Vì Tỳ-kheo Ly-việt-đa ưa Tọa thiền. (Trung A Hàm, Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm, Phẩm 15, số 184)
701. TĨNH TỌA NƠI RỪNG VẮNG
Này Đại Mục-kiền-liên, ở nơi rừng vắng kia, Ta nói pháp này có thể cùng hợp hội: núi rừng, dưới cây, chỗ an tĩnh không nhàn, núi cao, hang đá, vắng bặt âm thanh, viễn ly, không ác, không người, có thể tùy thuận mà tĩnh tọa. (Trung A Hàm, Kinh Trưởng Lão Thượng Tôn Thụy Miên, Phẩm 7, số 83)
+ Tham thiền đến cảnh giới "Mặt trăng nằm trên đỉnh đầu": Nguyệt đáo thiên tâm xứ - Phong lai thủy diện thời - Nhất ban thanh ý vị - Liễu đắc thiểu nhân tri. Nguyệt đáo ...: Hình dung người dụng công đạt được cảnh giới giống như Mặt trăng nằm ở trên đỉnh đầu; Phong lai ....: Gió thổi đến mặt nước còn chưa có sóng; Nhất ban ....: Ý nói cảnh rất thanh tịnh và ôn hòa; Liễu đăc....: Nhưng rất ít người biết thưởng thức ý vị cảnh giới này. ===> Dụng công đến không thấy Ta - Người - Chúng sinh - Thọ mạng thì như bên trong không thấy Thân Tâm. bên ngoài không thấy có thế giới. Thân tâm đều không, thế giới cũng không còn tồn tại. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 32 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Làm việc ngay há phải tu thiền: Hành vi công bình chính trực, đó chính là thiền, thiền cũng chính là dạy quý vị trừ đi tất cả tập khí tật xấu. Có người nói: "Tâm bình không cần trì giới, vậy tôi không trì giới nữa," nhưng tâm của quý vị đã bình hay chưa? Quý vị không kể tâm mình bình hay chưa, liền không trì giới. Tâm của quý vị cần phải bình mới có thể không trì giới, nếu tâm không bình thì làm sao có thể không trì giới? Nếu dối gạt người nói tâm tôi đã bình rồi, nhưng khi làm việc gì thì không công bình, lại tự tư, tự lợi, ích kỷ, tật đố chướng ngại, loại người này tâm làm sao có thể bình được. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu thanh tịnh thiền/ Thiền định giải thoát luân hồi: Phải tu đúng theo lời đức Phật dạy, tu Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối gồm
a/ Đoạn dâm: Không đoạn dâm dù có Định lực vẫn không để thoát luân hồi (Nấu cát mong thành cơm), nên vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương ứng Ma vương - Ma dân - Ma nữ. Thời mạt pháp ma dân rất nhiều
b/ Đoạn giết: Không đoạn giết hại (Ăn thịt và uống sữa ...) dù có Định lực cao thì vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương tương ứng Đại lực quỷ vương - Thủ lãnh loài quỷ (Bay trên không) - Quỷ bạo ác đi trên đất. Thời mạt pháp nói ăn thịt không trở ngại con đường giác ngộ. Ăn thịt không phải đệ tử Phật (Ngài dạy ăn Tam tịnh nhục là thịt do Ngài biến hiện ra). Người tu không đoạn giết ví như người tự bịt tai mình hô lớn tiếng, lại mong người khác chẳng nghe vậy (Bịt tai ăn cắp chuông). Đây như người muốn che dấu chứng cớ giành giành.
c/ Đoạn trộm cắp: Không đoạn trộm cắp dù có Định thì vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương tương ứng Quỷ hút tinh khí - Yêu ma quỷ quái - Ma qủy nhập thân người. Mạt pháp, nơi nào chúng đi qua gia đình suy bại và ly tán. Tu giải thoát mà phạm trộm cắp như đổ nước vào Ly nước bị thủng lỗ, muôn kiếp không đầy.
d/ Đoạn vọng ngữ: Không đoạn vọng ngữ (4 khẩu nghiệp, tự xưng chưa chứng đắc nói đã chứng) dù có Định lực cao thì vẫn là đọa lạc luân hồi. Người đó như lấy phân nặn thành hương đốt muốn thơm thì không thể được. Khi khởi đầu không chân thật thì kết quả sẽ chuốc lấy quanh co, muốn cầu đạo vô thượng mà phạm thì như người muốn tự cắn rốn mình - Không thể được.
=> Thành tựu Tứ chủng thanh tịnh minh hối đạt bất thoái chuyển thì Tâm không còn vướng Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, việc ma sự không thể phát sinh.
Với ai tập khí tiền kiếp sâu dày, tu Chú Lăng Nghiêm sẽ sớm thành tựu. Ví như dâm nữ có duyên sâu dày nhiều kiếp với ngài A Nan, dù tiền kiếp đã từng là dâm nữ, chưa từng khởi tâm tu hành bao giờ, thế mà khi nghe được đức Phật tuyên dương giáo pháp chỉ một lần, do năng lực âm thầm của Thần Chú Lăng Nghiêm mà còn mau chứng quả vị vô học. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Năm ác tinh (Theo Minh triết): 5 Hành tinh không thánh thiện, gồm:
1. Hỏa tinh (Mars) ……............ Cung 6
2. Địa cầu (Earth) …………...... Cung 3
3. Diêm vương tinh (Pluto) ....... Cung 1
4. Nguyệt cầu (Chủ Trí tuệ) ....... Cung 4
5. Mặt trời (Chủ về Hiểu biết) ... Cung 2
+ Tương ứng cung Hoàng đạo và Phàm ngã: Thật là lý thú, các hành tinh không thánh thiện chi phối các cung thứ nhất, thứ tư, thứ năm và thứ tám trong hoàng đạo nhỏ và Địa Cầu - Hành tinh không thánh thiện => Bạn có 4 hành tinh không thánh thiện, đang kiểm soát hay chi phối 01 hành tinh không thánh thiện thứ 5 – Một tương ứng với 4 trạng thái của phàm ngã:
(i)- Xác thân bên ngoài
(ii)- Thể dĩ thái hay là thể sinh lực
(iii)- Thể cảm dục và
(iiii)- Thể hạ trí, cộng với sự dung hợp với thể thứ 5, tức Phàm ngã / Mặt trời (CTHNM, 567)
+ Một hành tinh không thánh thiện như là Địa Cầu thì vẫn còn tuân phục vào cung Phàm ngã của Đấng (Life) đang làm cho nó linh hoạt, còn phần tương ứng với cung Chân Thần nội môn thì chưa hữu hiệu. (CTHNM, 363)
- Thượng Đế của hành tinh không thánh thiện nhận được 3 cuộc điểm đạo vũ trụ.(CTHNM, 504)
+ Các năng lượng chi phối con người: Các Ác tinh - Các hung tinh. Hai tám ác tinh - Bảy ác tinh chính.
A Nan, cõi ta bà này có tám mươi bốn nghìn ác tinh tai biến, hai mươi tám đại ác tinh làm thượng thủ, lại có tám đại ác tinh làm chủ, xuất hiện trên đời với nhiều hình dạng, có thể sinh ra các tai nạn kỳ dị cho chúng sinh. Giảng giải:
A Nan, cõi ta bà này có tám mươi bốn nghìn ác tinh tai biến. Có vô số ác tinh liên hệ với thế giới chúng ta đang sống, 28 đại ác tinh làm thượng thủ, lại có tám đại ác tinh làm chủ. Mặc dù có hai mươi tám loại ác, nhưng chúng có thể cũng là thiện. Ở Trung Quốc, 28 chòm sao phân chia thành bốn hướng mỗi hướng có bảy sao. Theo thiên văn Trung Quốc, các chòm sao được đặt định tương ứng với thời gian ngày, giờ.
Mỗi chu kỳ là 28 ngày – theo tháng Âm lịch. Nếu một người thiện, các sao dữ sẽ biến thành thiện. Nếu như người ở nơi dữ thì các thiện tinh cũng sẽ biến thành hung tinh. Do đó, không có vì sao nào nhất định là hung, là cát – điều đó còn tùy thuộc ở nghiệp quả và các hành vi thiện – ác. Ở đây nói đến các ác tinh, và chú lăng Nghiêm có công năng hóa giải. Theo bản kinh, những ác tinh đó là điềm xấu, chỉ mang lại bất hạnh. Đối với các ác tinh – biểu hiện cho điềm dữ, nếu một người thiếu đi thiện căn, hoặc kém phúc đức, dĩ nhiên, người đó sẽ gặp nhiều điều bất lợi. Nhưng nếu anh ta trì tụng chú Lăng Nghiêm, những bất lợi kia sẽ biến thành lợi lạc cho người đó.
Lược kê hai mươi tám sao.
Thứ 5
|
Thứ 6
|
Thứ 7
|
C.nhật
|
Thứ hai
|
Thứ ba
|
Thứ tư
|
Giác
Đầu
Khuê
Tỉnh
|
Cang
Ngưu
Lâu
Quỹ
|
Đề
Nữ
Vị
Liễu
|
Phòng
Hư
Mão
Tinh
|
Tâm
Nguy
Tất
Trương
|
Vỹ
Thất
Chủng
Dực
|
Cơ
Bích
Sâm
Chẩn
|
Lại có 8 đại ác tinh làm chủ.
1. Mộc tinh – Jupiter
2. Hỏa tinh – Mars
3. Thổ tinh – Saturn
4. Kim tinh – Venus
5. Thủy tinh – Mercury
6. La Hầu – (North Node)
7. Kế đô – (South node)
8. Tuệ tinh (Sao Trổi).
Có vài thiên thể rất đáng sợ, một số khác tốt đẹp hơn. Trong suốt các vương triều ở Trung Quốc, có sao chổi từng xuất hiện. Thực sự, sao chổi (Tuệ tinh) ấy là gì? Đấy là một đứa bé mặc áo ngủ màu đỏ, nó đi dạy các trẻ khác hát. Khi mọi trẻ con cùng hát thì xứ ấy đã đến hồi kết thúc. Điều ấy ám chỉ, khi có sao chổi xuất hiện thì chính quyền thay đổi, tân Hoàng đế sẽ đứng lên trị vì đất nước. Những biến cố của vận mệnh, thường không thấy biết được. Có những trường hợp đặc biệt nảy sinh bất thường và luôn luôn là điềm không hay. Các biến cố, các tình huống bất thường ấy báo hiệu sự việc có chiều thay đổi và mất cân bằng, không chính xác./.
Nơi nào có chú này thì tất cả đều tiêu diệt, lấy mười hai do tuần làm vòng kết giới, các tai biến hung hiểm hẳn không vào được.
Vậy nên Như Lai tuyên dạy chú này, bảo hộ cho những người tu hành sơ học, trong đời
Không còn các ma, quỷ thần và những oan khiên đời trước, nghiệp cũ nợ xưa, từ vô thủy tới nay đến khuấy hại. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nước Chú Đại Bi chữa bệnh: HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG KHAI THỊ DÁN CHÚ ĐẠI BI LÊN BÌNH NƯỚC CỐC NƯỚC UỐNG TRỊ BỆNH.
Bản thân chúng ta uống nước, bây giờ chúng ta biết rằng nước cùng với vạn vật đều có kiến văn giác tri, đều có thể hiểu được ý của con người. Cho nên bạn gửi cho nó một tín hiệu tốt thực sự nó có thể trở nên rất tốt rất đẹp. Đây là tiến sĩ Giang Bản của Nhật Bản đã làm thí nghiệm cho chúng ta; Ví dụ như bình nước chúng ta uống hàng ngày, bạn dán chữ “cảm ơn” lên mặt nước, dán lên từ “yêu”, chất lượng của nước này sẽ đặc biệt rất tốt; Nếu làm ngược lại, dán lên “tôi ghét bạn, tôi hận bạn” thì chất lượng nước sẽ thực sự không tốt, thậm chí uống thường xuyên có thể sinh bệnh.
Sau đó bạn liền hiểu được tại sao nước Đại bi có thể trị bệnh, chính là đạo lý này vậy. Bây giờ chúng ta hiểu được nước có kiến văn giác tri, chúng ta dán chú Đại Bi lên cốc nước, đó chính là nước Đại Bi. Cho nên bây giờ tôi dạy cách cho mọi người: chú Đại Bi in nhỏ lại lên giấy dán, bạn dán lên bình nước, dán lên cốc nước, đó chính là nước Đại Bi. Khi nào dán lên rồi, thì sau đó một tiếng hãy uống, điều này thực sự có tác dụng, bạn không thể niệm cũng không sao, dán lên là được rồi, nước có thể nhìn thấy. Cho nên phương pháp này rất tốt. Tôi bảo họ làm rất lâu rồi nhưng vẫn chưa làm được, tôi lại phải đi giục thêm nữa, giống như bình nước nhà các bạn đều có thể dán, sau khi dán lên, khi chúng ta sử dụng nước phải cung kính, đừng lấy một cách tùy tiện, khi cầm cốc uống nước, cũng phải cẩn thận, đừng nên tùy ý, cung kính thì mới có công đức. (Nguồn: Ân Sư Tịnh Không khai thị.)
+ Nước thanh tịnh chữa bệnh: ... 13. Nước biểu thị cái tâm, tâm thanh tịnh, nước thanh tịnh. Nước bình lặng, biểu thị sự thanh tịnh, bình đẳng. Thấy một chén nước, bèn nghĩ xem cái tâm có giống nước hay không, nó biểu thị pháp. Tuyệt đối chẳng phải nước đã cúng dường Phật ấy uống vào có thể trị bách bệnh, [thế nhưng hiểu theo chân nghĩa thì] thật sự là trị bách bệnh! Chẳng phải là uống vào trị bách bệnh, mà quý vị hiểu ý nghĩa của nó: Tâm địa quý vị thanh tịnh, bình đẳng thì bệnh gì cũng đều chẳng có! Bệnh từ đâu ra? Tâm quý vị chẳng thanh tịnh thì mới sinh bệnh, tâm đã thanh tịnh, lẽ đâu sinh bệnh? Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, sẽ không thể sinh bệnh. Nước biểu thị thanh tịnh và bình đẳng. (Nguồn: HT Tịnh Không khai thị)
+ Tĩnh cực quang thông đạt - Ngồi thiền thấy ánh quang: Ngồi thiền tĩnh đến cực điểm thì trí huệ quang minh liền hiện tiền, nhưng quang minh không phải là chân, bạn nhìn thấy quang minh đó bất quá thì chỉ là bóng trăng mà thôi, không nên cho đó là chân. Chúng ta tu hành có chút cảm ứng hoặc chút cảnh giới, không nên được nhỏ cho là đủ, phải tiếp tục lỗ lực, từ từ, mỗi ngày định thời ngồi thiền tập tĩnh; Ngày ngày dụng công, lâu dần công phu thuần thục thì thượng lộ, một khi công phu thượng lộ, thì thời thời khắc khắc luôn luôn nghĩ muốn dụng công.
Tâm thanh thủy hiện nguyệt - Ý định thiên vô vân: Tâm thanh tịnh thì như mặt trăng hiện trong nước, Ý định thì như bầu trời không mây.
Tâm bình bách nạn tán - Ý định vạn sự cát: Tâm yên tĩnh thì trăm nạn tiêu trừ - Ý định thì vạn sự đều tốt lành.
Bình thường không cần giảng nhiều. Đầu lưỡi uốn cong lên hàm trên, có nước dãi thì nuốt vào, đó là nước nhà mình, cũng gọi là nước cam lồ, thường uống nước cam lồ, sẽ tiêu trừ bách bệnh, thân thể tự nhiên kiện khang. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 138 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người thú: Vào thời kỳ xa xăm cách nay 21 triệu năm, khi con người vừa mới có hình người và khi họ có liên quan chặt chẽ với giới động vật - Danh xưng là “người thú”.(CTNM, 226)
2. Người thú: (EPII 203-4): Những linh hồn vốn chỉ ý thức sự sống ở cõi trần và sự cảm giác ... chậm chạp, trì trệ, không nói được, bị bối rối bởi môi trường của họ ... đang ngủ về mặt tình cảm, và hoàn toàn không thức tỉnh về trí tuệ ... Họ có thể đào bới và khuân vác, dưới sự chỉ đạo; họ ăn, ngủ và sinh sản, theo bản năng tự nhiên của thể xác động vật. (GQ1.1, trích dẫn EPII,22)
+ Người Lemuria - Người có ham muốn thú vật – Những linh hồn còn trẻ thơ (EPII 24)
Trong các giai đoạn đầu ... "tâm thức Lemurian" là đặc điểm của người sống theo giác quan, khía cạnh rời rạc đó của linh hồn đang cư trú và thấm nhuần hình dạng con người ... bất kỳ tâm thức con người thật sự nào có thể hiện diện, đều là trì trệ, còn phôi thai và không có tổ chức; nó không có thể trí như chúng ta hiểu về điều đó, và chỉ được nhận ra bởi một sự đồng nhất hóa hoàn toàn với thể xác và các hoạt động của nó. Đây là giai đoạn của các phản ứng bất động chậm chạp đối với sự khổ đau, niềm vui, sự đau đớn, đối với sự thôi thúc và sự thỏa mãn ham muốn ... Hết kiếp này sang kiếp khác trôi qua, và từ từ năng lực đồng nhất hóa hữu thức gia tăng, với sự ham muốn ngày càng tăng cho một phạm vi lớn hơn của những sự thỏa mãn; linh hồn nội tại và sinh động trở nên ngày càng ẩn sâu hơn, là tù nhân của bản chất hình tướng. - (EP II 204-5)
Các linh hồn đang bắt đầu tích hợp và sống động về mặt tình cảm và thông linh ... bản chất động vật thức tỉnh và bản chất dục vọng đang trở nên phát triển ... được nhận thấy trong tất cả các giống dân đến một mức độ nhỏ, một số trong số người da đen. . tương đối trẻ con ... những linh hồn trẻ thơ... có khí cụ trí tuệ và một số có thể được huấn luyện để sử dụng nó, (nhưng) sự chú trọng của đời sống hoàn toàn dựa trên hoạt động thể chất khi nó được thúc đẩy bởi ham muốn thuộc loại nào đó để thỏa mãn... Những linh hồn này đều là những tương ứng hiện đại đối với các nền văn hóa Lemuria cổ. - (EP II 24) Toàn bộ các mãnh lực của sự sống tập trung vào thể xác, và các ham muốn được biểu lộ khi đó là những ham muốn vật chất; đồng thời có một xu hướng đang phát triển hướng tới những ham muốn tinh tế hơn, đó là do thể cảm dục gợi lên.(GQ1.1,Các trích dẫn EPII,22)
+ Thiên chức người phụ nữ: NỮ NHÂN LẤY “TƯƠNG PHU GIÁO TỬ” (GIÚP CHỒNG DẠY CON) LÀM THIÊN CHỨC. GIÚP CHỒNG THÀNH TỰU ĐỨC HẠNH, KHÉO DẠY BẢO CON CÁI, KHIẾN CHO BỌN HỌ ĐỀU THÀNH HIỀN NHÂN, THIỆN NHÂN, ĐẤY CHÍNH LÀ CHỨC PHẬN CỦA NỮ GIỚI!
Phàm người quy y Phật pháp, bất luận nam hay nữ, đều phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, yêu tiếc sanh mạng loài vật, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây phương. Chớ nên dùng công phu luyện đan vận khí của ngoại đạo để cầu trường sanh và sanh lên trời làm thần tiên cõi trời Đại La v.v… Hãy quyết định phát nguyện cầu khi lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, ai nấy đều có thể vãng sanh. Nếu được vãng sanh thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử........ (Trích sách Tại Gia Học Phật, Ấn Quang đại sư khai thị, Như Hòa chuyển ngữ_Theo Facebook Thiếu Niên Bảo Thân)
+ Người nữ trong gia tộc: “Người phụ nữ đọc kinh sách chính là cái đức của bản thân họ, của gia tộc và của cả quốc gia. Phụ nữ tu học Phật chính là đang đi trên con đường đúng đắn trong cuộc đời, học cách làm người mẹ tốt, con dâu tốt, người vợ tốt”.
Phúc báo của một người phụ nữ, không những ảnh hưởng đến cuộc đời chính họ, mà còn tác động đến chồng con và gia đình.
Kim cương thừa nhấn mạnh tới nguyên lý mẫu tính giác ngộ thông qua những hình ảnh Phật Mẫu Bát nhã, Phật Mẫu Tara, biểu trưng cho cội nguồn của vạn pháp. Cho nên được gọi là mẹ của hết thảy chư Phật.
Nếu coi gia tộc là một cây đại thụ, thì nữ giới chính là nguồn nước, cây mà thiếu nước ắt khô, cành lá cũng héo úa. (Nguồn: Phụ nữ tu Phật Pháp)
+ Phụ nữ trong xã hội: ... Đại sư Ấn Quang ở trong “Văn Sao” cật lực chủ trương: “Phụ nữ, sự nghiệp vĩ đại nhất của họ, cống hiến lớn nhất của họ đối với tất cả chúng sanh, đối với quốc gia xã hội, đối với dân tộc chính là chăm sóc con cái”. Toàn tâm toàn lực chăm sóc, bồi dưỡng chúng, con cái của bạn có tài đức, con cái của bạn hiểu biết, đây chính là rường cột của quốc gia, của xã hội. Làm thế nào để bồi dưỡng? Do mẹ bồi dưỡng giáo dục. Ấn Tổ nói, hiện nay sự nghiệp vĩ đại nhất của phụ nữ đã vứt bỏ rồi, họ không làm, họ tìm một công việc nhỏ ở trong xã hội, đây là điên đảo. Cho nên, tiêu chuẩn đúng, sai của các bậc thánh hiền quả thật không giống như người thế gian chúng ta, họ nhìn rất xa, nhìn rất sâu. (Nguồn: Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao)
+ Đau khổ riêng biệt của đàn bà: Đức Phật dạy "Có năm đau khổ riêng biệt mà người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông"
1. Người đàn bà lúc trẻ tuổi đi đến nhà chồng, không có bà con (Vạn sự phải tự thích nghi nơi bên nhà chồng)
2. Người đàn bà có kinh nguyệt.
3. Người đàn bà phải mang thai. (Cái đau đớn và đau tâm sinh lý trong lúc kinh kỳ, mang thai và sanh nở ...)
4. Một người đàn bà phải sanh con.
5. Người đàn bà hầu hạ đàn ông.
(Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương Ưng Nữ Nhân)
+ Sức mạnh người đàn bà với người đàn ông:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, rừng Jetavana, tại khu vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
1. Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
2. Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
3-5.Ta không thấy một hương... một vị... một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương... vị... xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
6. Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà như sắc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà.
7-10. Ta không thấy một tiếng... một hương... một vị... một xúc nào khác. Này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như tiếng... hương... vị... xúc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà. (Nguồn: Phẩm Sắc- Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Sức mạnh người đàn bà trong gia đình: Phần Ba - Phẩm Các Sức Mạnh
* Người đàn bà có đủ năm sức mạnh: Sắc đẹp - Tài sản - Bà con - Con trai - Giới hạnh (Thiếu một thì sức mạnh không đủ)
25. I. Không Sợ Hãi: Đầy đủ 5 sức mạnh - Người đàn bà sống ở nhà không có sợ hãi.
26. II. Ưc Chế (Người chồng): Đầy đủ 5 sức mạnh - Người đàn bà sống ở nhà, ức chế người chồng.
27. III. Chinh Phục: Đầy đủ năm sức mạnh - Người đàn bà sống ở nhà, chinh phục người chồng.
28. IV. Một - Đàn ông chinh phục đàn bà có đủ 5 sức mạnh: Do đầy đủ một sức mạnh? Sức mạnh của người làm chủ (isariyabalena) - Người đàn bà đã bị chinh phục bởi sức mạnh của người làm chủ, này các Tỷ-kheo, thời sức mạnh nhan sắc không che chở được, sức mạnh tài sản không che chở được, sức mạnh bà con không che chở được, sức mạnh con trai không che chở được, sức mạnh giới hạnh không che chở được. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương Ưng Nữ Nhân)
30. VI. Họ Đuổi Đi: .... Người đàn bà có đủ giới hạnh nhưng thiếu 1 trong 4 sức mạnh kia thì vẫn KHÔNG bị đuổi ra khỏi nhà. Nhưng có đủ 4 sức mạnh kia màd thiếu giới hạnh thì vẫn bị đuổi ra khỏi nhà (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương Ưng Nữ Nhân)
+ Kinh Phật: Bồ Tát Quả Trách Sắc Dục - Dâm giới - Giới dâm
* Xem thêm: Đạo làm người thiện lành
56. Bảy hạng người dưới nước - Các mức tu thành tựu đạo quả khác nhau
1) Thế nào là hạng người nằm mãi dưới nước?
Hoặc có những người bị pháp bất thiện che lấp, bị nhiễm bởi nhiễm ô, thọ quả báo của ác pháp, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là hạng người nằm mãi dưới nước. Cũng như người chìm lỉm, nằm luôn dưới nước, Ta nói người kia cũng giống như vậy. Đó là hạng người thứ nhất của ví dụ về nước, thế gian quả thực có hạng người như vậy.
2) Thế nào là hạng người ra khỏi nước rồi chìm lại?
Đó là người đã làm trỗi lên tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người ấy sau đó lại mất tín tâm, không kiên cố, mất sự trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, không kiên cố.
3) Thế nào là hạng người ra rồi đứng?
Đó là người đã trỗi tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn kiên cố, chắc chắn không mất, trì giới, bố thí đa văn, trí tuệ đều kiên cố, không mất.
4) Thế nào là hạng người ra rồi đứng; đứng rồi nhìn quanh?
Đó là người làm trỗi dậy tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm kiên cố vẫn không mất, trì giới, bố thí đa văn, trí tuệ vẫn kiên cố không mất; trụ trong thiện pháp; biết như thật về Khổ, biết như thật về Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo. Người kia biết như vậy, thấy như vậy, ba kiết liền dứt sạch, đó là thân kiến, giới thủ và nghi. Ba kiết đã dứt sạch liền chứng Tu-đà-hoàn, không đọa ác pháp, quyết định thẳng đến chánh giác, đời sau thọ sanh tối đa bảy lần, qua lại bảy lần trong nhân gian, thiên thượng; rồi chứng đắc biên tế của sự khổ.
5) Thế nào là người ra rồi đứng; đứng rồi nhìn quanh; nhìn quanh rồi lội qua?
Đó là người trỗi được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn không mất, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ đều đã kiên cố không mất, trú trong thiện pháp. Biết như thật về Khổ, về Khổ tập, về Khổ diệt, về Khổ diệt đạo. Biết như vậy, thấy như vậy, ba kiết liền dứt sạch. Đó là, thân kiến, giới thủ, nghi; ba kiết đã dứt sạch. Dâm, nộ, si vơi mỏng. Còn phải một lần vãng lai trong nhân gian, thiên thượng. Sau khi qua lại một lần đó rồi liền chứng đắc Khổ đế.
6) Thế nào là người ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn quanh rồi lội qua, qua rồi đến bờ bên kia?
Đó là người đã làm trỗi dậy được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn, không mất. Trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ đều vẫn kiên cố, không mất, trụ trong thiện pháp. Biết như thế, thấy như thế, năm hạ phần kiết dứt sạch. Đó là tham dục, sân nhuế, thân kiến, giới thủ, nghi. Năm hạ phần kiết dứt sạch rồi, sanh vào cõi ấy, rồi nhập Niết-bàn, chứng pháp bất thối, không trở lại thế gian này nữa.
7) ‘Thế nào là người ra rồi đứng, đứng rồi nhìn quanh, nhìn quanh rồi lội qua, qua rồi đến bờ bên kia. Đến bờ bên kia rồi được gọi là người Phạm chí đứng trên bờ?
Đó là người đã làm trỗi dậy được tín tâm nơi thiện pháp, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp. Người đó về sau tín tâm vẫn chắc chắn không mất, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, tu tập thiện pháp, biết như thật về Khổ, về Khổ tập, về Khổ diệt, về Khổ diệt đạo. Biết như vậy, thấy như vậy. Tâm giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi liền biết mình đã giải thoát và biết một cách như thật rằng: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. (Trung A Hàm, Kinh Thủy Dụ, Phẩm 1, số 4)
+ (VIII) (198) Tự Hành Hạ Mình
1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, và hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người. Hạng người ấy không hành khổ mình, không hành khổ người, hiện tại sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào phạm thể.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng một chỗ, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn dành riêng, không nhận mời đi ăn, không nhận từ nơi miệng nồi, không nhận từ nơi miệng chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa những cây gậy, không nhận giữa những cối giã gạo, không nhận từ hai người đang ăn, không nhận từ người đàn bà có thai, không nhận từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận từ người đàn bà đang đi đến giữa người đàn ông, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, không ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men, không uống nước cháo. Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà hay chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà hay chỉ nhận ăn hai miếng, ... hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà hay chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát ... nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy, vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Vị ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa hoang, ăn da vụn, ăn rong nước, ăn bọt tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ hay ăn phân bò. Vị ấy ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái câu rụng để sống. Vị ấy mặc vải gai thô, vải gai thô lẫn các vải khác, mặc vải tẩn liệm, rồi quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vải vỏ cây tirita làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện từ từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng vỏ cát tường, mặc áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người chuyên sống theo hạnh nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, từ bỏ chỗ ngồi, là người ngồi chò hỏ, chuyên sống theo hạnh ngồi chò hỏ một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường nằm ngủ trên giường gai, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi). Như vậy, dưới nhiều hình thức, vị ấy sống tự hành khổ mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ
mình.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người là người giết trâu, bò, là người giết heo, là người giết vịt, săn thú, là thợ săn, người đánh cá, ăn trộm, người xử tử các người ăn trộm, cai ngục và các người làm các nghề ác độc khác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm tự hành khổ người?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, hay một vị Bàla-môn triệu phú. Vị này cho xây một giảng đường mới về phía đông thành phố, cạo bỏ râu tóc, đắp áo da khô, toàn thân bôi thục tô và dầu, gãi lưng với một sừng nai, đi vào giảng đường với người vợ chính và một Bà-la-môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống dưới đất trống trơn chỉ có lá cỏ. Vị vua sống với sữa từ vú một con bò cái, có con bò con cùng một màu sắc. Bà vợ chính sống với sữa từ vú thứ hai; và Bà-la-môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba, sữa từ vú thứ tư thường dùng để tế lửa. Còn con nghé con sống với đồ còn lại. Vua nói như sau: “Hãy giết một số bò đực để tế lễ, hãy giết một số nghé đực để tế lễ, hãy giết một số nghé cái để tế lễ, hãy giết một số dê để tế lễ, hãy giết một số cừu để tế lễ, hãy giết một số ngựa để tế lễ, hãy chặt một số thân cây để làm cột tế lễ, hãy thâu lượm một số cỏ dabbhà để làm chỗ tế lễ. Và những người nô tỳ, những người phục vụ, những người làm công, những người này vì sợ đòn gậy, vì sợ nguy hiểm, với mặt tràn đầy nước mắt, khóc lóc làm các công việc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người vừa hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa không hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người? Hạng người này không tự hành khổ mình, không hành khổ người, hiện tại sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể.
6. Ở đây, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều ngự Trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với thắng trí, thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố bốn điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn, đầy đủ nghĩa. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Người gia trưởng hay con của người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp hạ tiện nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tin ở Như Lai.
7. Khi có được lòng tin ấy, người ấy suy nghĩ: “Gò bó là đời sống gia đình, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
8. Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống của các vị Tỷ-kheo, đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy đoạn tận đời sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt. Vị ấy đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi., nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở nhũng người kia. Như vậy, vị này sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hoà hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa hợp hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
Vị ấy đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói liên hệ đến nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những lời đáng giữ gìn, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
9. Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các loại hạt giống và các kloài cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt sống; từ bỏ không nhận thịt sống; từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai;; từ bỏ không dùng người làm môi giới, hoặc tự mình làm người đưa tin; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo, gạt lường; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, cướp đường, cướp giật, cưỡng đoạt.
10. Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tâm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát), như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh. Cũng vậy, Tỷkheo bằng lòng với tâm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu. Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc không có lỗi lầm.
11. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Do nguyên nhân gì khiến nhãn căn này không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng..., mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc.. ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Do nguyê n nhân gì không được chế ngự khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, nội tâm hưởng vô uế lạc.
12. Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y dép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nếm đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.
13. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, thành tưu Thánh chánh niệm tỉnh giác này (thành tựu Thánh biết đủ này), lựa một trú xứ thanh vắng như khu rừng, gốc cây, đồi, núi, khe nước, hang đá, bãi tha ma, rừng rậm, ngoài trời, đống rơm. Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy đoạn tận tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Ðoạn tận sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Ðoạn tận hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sánh, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Ðoạn tận trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối quá, nội tâm trầm lặng, gột rửa hết tâm trạo cử, hối quá. Ðoạn tận nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi
ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với pháp thiện.
14. Vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái này, các pháp làm tân cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
15. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, tinh khiết, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: “Ðây là khổ”; biết như thật: “Ðây là khổ tập”; biết như thật: “Ðây là khổ diệt”; biết như thật: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”; biết như thật: “Ðây là những lậu hoặc”; biết như thật: “Ðây là nguyên nhân của những lậu hoặc”; biết như thật: “Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc”; biết như thật: “Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy quán tri: “Sanh đã diệt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không có trở lui trạng thái này nữa”.
16. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người vừa không hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm tự hành khổ người. Vị ấy không tự hành khổ mình, không hành khổ người, trong hiện tại sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Trang 329)
+ Người nữ trói buộc người nam: 100. CHÍN VŨ KHÍ CỦA NGƯỜI NỮ TRÓI BUỘC NGƯỜI NAM
Người nữ thành tựu chín pháp để trói buộc người nam:
Ca, múa, kịch, nhạc, cười, khóc, trau chuốt nghi dung, huyễn thuật mê hoặc, nhan sắc thể hình. Trong tất cả hình thức ấy, chỉ có xúc trói người chặt nhất, gấp trăm nghìn lần, không có gì để so sánh.
Ở đây, Ta thấy ý nghĩa này, xúc trói người chặt nhất không cho ra thóat khỏi; đó là sợi dây buộc chặt người nam vào người nữ. Cho nên, Tỳ-kheo, hãy niệm tưởng xả bỏ chín pháp này. (Tăng Nhất A Hàm, Chín Pháp, 44. Phẩm Chín Chúng Sanh Cư, Kinh số 5)
+ Người nữ trong Kinh Tạng: Người phụ nữ - Phái yếu vì do chân yếu tay mềm, do tính tình đa sầu đa cảm nên rất cần được sự che chở và yêu thương của mọi người trong gia đình và sự hỗ trợ ngoài xã hội.... Khi người phụ nữ có sắc đẹp “nghiêng thành đổ nước” hay là sắc đẹp “chim sa cá lặn”. Đó chính là vũ khí lợi hại nhất, là sức mạnh của phái yếu để họ có thể chinh phục và chiếm lĩnh trái tim của người đàn ông.... Đức Phật đã dạy cho các vị Tỳ kheo về sự "Xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông" như sau:
Ta không thấy một sắc nào khác, này các tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như Sắc người đàn bà - Tiếng người đàn bà - Hương người đàn bà - Vị người đàn bà - Xúc người đàn bà.
Ở một đoạn kinh khác, Thế Tôn đã đề cập đến tám thứ “dây” để người phụ nữ có thể cột trói người đàn ông được, giống như bị trói buộc bởi bẫy sập, gồm: Nhan sắc - Tiếng cười - Lời nói - Lời ca - Nước mắt - Với Áo quần - Với vật tặng - Với xúc chạm. Nam nhân cũng trói buộc nữ nhân với tám hình tướng tương tự như thế.
Như vậy, tất cả đều là thứ vũ khí lợi hại nhất, có sức mạnh nhất để tấn công vào trái tim của người đàn ông.
Nam Nữ đều có sức mạnh của riêng mình.
Này các tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của người đàn bà. Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. Nhan sắc của nữ nhân có thể làm cho trái tim của bao người điên đảo, từ kẻ bần dân cho đến các hàng vua chúa đều phải lụy với sắc đẹp của bao giai nhân tuyệt sắc. Đây là thứ vũ khí lợi hại nhất mà rất nhiều người phải bị dính “độc hoa tình”. Giàu sang, tiền bạc và của cải cũng là thứ vũ khí giúp sức cho người nữ rất nhiều, và bên cạnh đó là sự giúp sức của bà con họ hàng càng làm cho sức mạnh tăng thêm gấp bội lần. Tuy nhiên, nhan sắc có thể phai tàn theo thời gian, tài sản, bà con có thể sẽ mất đi theo năm tháng, có được con trai (theo quan niệm xa xưa là để thờ cúng ông bà) thì những cái đó không cao quý bằng sức mạnh về giới hạnh của người phụ nữ. Đó là một sức mạnh tiềm tàng bên trong rất đáng được trân quý và gìn giữ. Chính đức hạnh của người nữ sẽ giúp cho họ dễ dàng chinh phục mọi người, là tâm điểm của mọi hoạt động và để lại hình ảnh người phụ nữ có tài có đức trong trái tim những người đàn ông. Và điều đặc biệt hơn nữa đã được Thế Tôn đề cập đến như sau :
Này các tỷ-kheo, người đàn bà không do nhân nhan sắc, không do nhân tài sản, không do nhân bà con hay không do nhân con trai, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Này các tỷ-kheo, người đàn bà do nhân giới hạnh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này .
Chính vì có sức mạnh nên nữ nhân sẽ có được những thành công rực rỡ trong cuộc sống xã hội bên ngoài cho cho đến thành công trong việc tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc gia đình....
Những yếu tố có thể giúp người phụ nữ đạt đến sự thành công chính là những điều mà đức Thế Tôn giảng dạy cho nàng Visākhā trong đoạn kinh sau:
Này Visākhā, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời này. Ðời này rơi vào tầm tay của nàng.
Ở đây, này Visākhā, nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc, biết thâu nhiếp các người phục vụ, sở hành vừa ý chồng, biết giữ gìn tài sản cất chứa.
Nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc: Phàm có những công việc trong nhà, thuộc về len hay vải bông, ở đây, nữ nhân ấy thông thạo, không biếng nhác, tự tìm phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm.
Nữ nhân biết thâu nhiếp các người phục vụ: Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, nữ nhân biết công việc của họ với công việc đã làm, biết sự thiếu xót của họ với công việc không làm; biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh; biết chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo từng phần của mình.
Nữ nhân sở hành vừa ý chồng: Nữ nhân, những gì người chồng không vừa ý, dầu cho có vì sanh mạng, nàng cũng không làm.
Nữ nhân biết giữ gìn tài sản thâu hoạch được: Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, nữ nhân ấy bảo vệ, phòng hộ chúng, giữ gìn để khỏi bọn ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại. Như vậy, là nữ nhân biết giữ gìn tài sản thâu hoạch được.
Thành tựu bốn pháp này, này Visākhā, nữ nhân thành tựu với sự chiến thắng ở đời. .... Tuy nhiên, đó chỉ là vấn đề trong hiện tại mà thôi, người phụ nữ có trí tuệ nếu biết suy xét sẽ tìm cách để mình có thể thành đạt được mọi việc ở tương lai nữa.
Này Visākhā, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời sau. Ðời sau rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn: Nữ nhân đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ.
Nữ nhân đầy đủ lòng tin: Nữ nhân có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của như lai: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn “.
Nữ nhân đầy đủ giới đức: Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu.
Nữ nhân đầy đủ bố thí: Nữ nhân sống ở gia đình với tâm tư từ bỏ cấu uế của xan tham, bố thí rộng rãi, với bàn tay cởi mở, vui thích từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu, vui thích chia xẻ các vật dụng bố thí.
Nữ nhân đầy đủ trí tuệ: Nữ nhân có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với thánh thể nhập đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau.
Để có thể đạt đến sự thành công ở tương lai, người phụ nữ ngoài việc trao dồi phẩm hạnh, đạo đức còn phải tạo cho mình có được niềm tin chân chánh, có được giới đức, có sự xả tài và có được trí tuệ.......
Sự kiên trì tu hành hàng ngày sẽ mang đến sự đẹp về tâm hồn, đẹp về thể xác mà còn biết gìn giữ hạnh phúc gia đình, lo lắng cho gia đình… tất cả những sức mạnh đó là thứ vũ khí lợi hại nhất.
Lời bàn về Nam nữ trói buộc nhau:
Do nghiệp lực, nên mỗi loài chúng sanh đều được phân chia thành hai phái tính, có hấp lực thu hút lẫn nhau để tự sinh tồn. Loài người cũng vậy, luyến ái giữa nam và nữ là bản chất của con người và trở thành một trong những vấn đề trọng đại của cả đời người.
Kinh nghiệm dân gian cho rằng “gái yêu bằng tai, trai yêu bằng mắt” hay “gái ham tài, trai ham sắc” nhưng thực tế thì sự luyến ái nam nữ xảy ra không chỉ giới hạn ở đó mà trải rộng trên tám phương diện, tất cả đều là những tác nhân tạo ra hấp lực hình thành nên sự yêu thương, luyến ái lẫn nhau.
Người Phật tử tu học thế nào để có tướng mạo đẹp?
Tất nhiên, căn nguyên sâu xa của sự thương yêu, trói buộc lẫn nhau giữa nam nữ là lòng ái dục. Sự tự nguyện trói buộc, luyến ái lẫn nhau sẽ đạt đến đỉnh cao nếu được hỗ trợ đầy đủ các điều kiện như trên. Nắm vững nguyên tắc này, con người hiện đại biết khai thác và tận dụng triệt để những lợi thế mà mình có, để biến mình luôn luôn là “cạm bẫy” cho bất cứ đối tượng khác phái nào.
Đối với người xuất gia, phát nguyện sống đời phạm hạnh, ly dục thì nhờ nắm vững nhân duyên của sự trói buộc, luyến ái nam nữ nên dễ dàng tránh duyên.......
Riêng hàng Phật tử tại gia, vì đã tự nguyện trói buộc lẫn nhau nên cần phát huy hơn nữa mọi lợi thế của mình để gắn bó, thương yêu nhau trong suốt cuộc đời. Tự chăm sóc mình và chăm sóc người bạn đời để mãi mãi “trói buộc” nhau, xây dựng đời sống gia đình hạnh phúc là điều cần làm theo lời Phật dạy. (Nguồn: Nữ nhân trong Kinh Tạng và Tám tướng trói buộc nam nữ)
+ Si ái triền miên thành Thảo mộc: ... Như vậy đủ thấy rằng tình yêu càng sâu đậm thì càng nguy hiểm. Ðây không phải là chuyện nói chơi nói giỡn đâu. Có người trong bụng nghĩ rằng: "Thầy ơi! Thầy nói Pháp này tôi không thể tin được, bởi vì nó không có chứng minh, không hợp lý. Ðại khái Thầy muốn dọa con nít, nói lời chiêm bao thôi." Tin hay không là do quý vị, tôi không có cách nào làm quý vị tin được bởi vì đây là Pháp rất khó nói, khó thuyết. Người đã mê luyến ái thì dù mình có nói cách nào đi nữa họ vẫn không thức tỉnh, không chấp nhận được. Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm. Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh. Không phải người ta không biết lý ấy; biết nhưng cố phạm là vì chẳng cách gì dứt bỏ thói quen đã làm trong nhiều kiếp trước.
Trời mưa rưới nước khắp nơi, song khó tươi nhuận cây cỏ không gốc.
Cửa Phật tuy rộng thênh thang, mà vẫn khó độ kẻ chẳng lòng tin.
Tôi đã bảo tồn gốc cây nầy lâu năm rồi. Có nhiều người tôi không muốn cho họ thấy bởi vì có nói pháp nầy cho họ, họ cũng chẳng tin. Tôi phải chờ cho thời điểm chín mùi rồi tôi mới nói. Ngày 24 tháng 10, quý vị từ khắp nơi xa xôi đến đây để triều bái, tôi đem gốc cây nầy ra Vạn Phật Ðiện. Tuy nhiên cho đến ba tuần sau tôi mới nói là vì nếu không nói thì e chẳng còn thời gian nữa; nên bất kể là quý vị có tin hay không, tôi cứ kể nhân duyên của gốc cây nầy cho quý vị nghe
(Nguồn: Ái tình sâu nặng - HT Tuyên Hóa)
+ Người hiền tài - Thiện tri thức:
Là người vừa có đạo đức chân thật, vừa có trí tuệ thông minh xuất chúng
Với nhân loại: Có câu "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia". Rất hiếm hoi.
+ Thế Nào Là Thiện Tri Thức:
Nói một cách đơn giản, Thiện-tri-thức tức là người có trí huệ, ác tri thức tức là người ngu si. Thiện-tri-thức thì có chính tri chính kiến, ác tri thức thì có tà tri tà kiến, hiểu biết sai lầm, tà vạy. Nếu điều gì hợp với Phật Pháp thì đó là chính tri chính kiến, hiểu biết chân chính. Nếu điều gì không hợp với Phật Pháp thì là tà tri tà kiến. Thiện-tri-thức là người dựa vào Phật Pháp mà tu hành, ác tri-thức thì dựa vào ma pháp để tu hành. Thiện, ác khác nhau, phân biệt là ở chỗ này.
Bậc Thiện-tri-thức thì dùng Tứ Nhiếp Pháp để giáo hóa chúng sanh. Thế nào là Tứ Nhiếp Pháp? Tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bốn pháp này có thể dễ dàng hòa hợp với chúng sanh, làm cho chúng sanh đối với Phật Pháp phát tâm hứng thú, tin sâu nơi Phật Pháp.
Bố-thí: Muốn cho người ta tin Phật Pháp thì mình cần phải bố thí vật và giáo lý, làm cho họ đối với mình phát sanh thiện cảm.
Ái ngữ: Lời nói không có đi ngược lại với nhân tình, không có đi ngược lại với Phật Pháp, lời mình nói ra thì nhân từ đạo đức.
Lợi hành: Lời nói, hành động và suy nghĩ tùy duyên tu hành khiến chúng sanh được lợi ích.
Ðồng sự: Ðối với những chúng sanh đáng được độ, thì làm công việc giống như họ để giáo dục họ.
Ðó là bốn Pháp giúp mình gây thiện cảm và tín nhiệm đối với chúng sanh. Nếu lời nói mình nhất trí với hành động, vì lợi ích chung không vì riêng tư, lấy thân làm gương, gặp chuyện nghĩa thì dũng mãnh mà làm, như vậy chúng sanh tự nhiên sẽ tin ở lời nói của mình và cũng tin rằng Phật Pháp chính là con thuyền thoát khỏi biển sanh tử.
Các bạn tới đây để nghe giảng kinh thuyết pháp, mỗi vị ai cũng là bậc đại tri thức.... Bồ-đề tự tánh này cũng chính là Phật tánh. Ðiểm này xin các bạn đặc biệt chú ý! Mỗi người cũng ai có Phật tánh giống hệt như của Phật vậy, chẳng gì khác biệt. Bất quá mình ngu si nặng nề, bị vô minh vọng tưởng che lấp, nên Phật tánh không thể hiện tiền. Nếu dùng trí huệ để xử lý mọi chuyện thì Phật tánh sẽ hiện tiền. Lúc đó bạn chính là vị Thiện-tri-thức. (Nguồn: Khai thị Q3-HT Tuyên Hóa)
+ Thiện Tri Thức: hoặc Thiện hữu (善友), Ðạo hữu (道友);
Danh từ chỉ một người bạn đạo. Trong thời Phật giáo nguyên thuỷ, danh từ này được dùng để chỉ một vị tăng đầy đủ những đạo hạnh như nắm vững lí thuyết Phật pháp và tinh thông thiền định, có thể giúp đỡ những vị khác trên con đường tu học.
Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni rất quý trọng tình bạn trên con đường giải thoát. Ngài dạy như sau: Cả một cuộc đời tầm đạo đều lấy tình bạn làm căn bản… Một Tỉ-khâu, một Thiện tri thức, một người bạn đồng hành – từ một vị này người ta có thể mong đợi rằng, ông ta sẽ tinh cần tu học Bát chính đạo để đạt giải thoát cho chính mình và những người bạn đồng hành.
Dần dần, danh từ này cũng thường được sử dụng để chỉ những người tìm đạo, trong giới Cư sĩ và cả trong Tăng già. Trong những bài thuyết pháp, các vị Thiền sư thường dùng các biểu thị Thiện tri thức, Ðạo lưu… để chỉ những người hâm mộ Phật pháp đang chú tâm lắng nghe.
Người ta thường phân Thiện tri thức thành ba hạng:
1. Giáo thụ thiện tri thức, là những người có khả năng hướng dẫn, dạy dỗ trên con đường tu hành, là bậc thầy;
2. Ðồng hạnh thiện tri thức, là những người đồng chí, đồng hạnh, tức là người bạn tốt, trung thành;
3. Ngoại hộ thiện tri thức, là những người giúp cho những tiện nghi, tạo điều kiện tốt cho người tu hành. (Nguồn: Thiện Chi Thức)
+ CÁC VỊ ĐỀU LÀ THIỆN TRI THỨC.
Các vị thiện tri thức! Tại sao lại xưng hô quý vị là thiện tri thức? Nếu chẳng phải là thiện tri thức thì quý vị chẳng khi nào đến Bát-nhã đường (thiền đường).
Phàm đến Bát-nhã đường để tu hành thì tất cả đều là thiện tri thức, do đó mới xưng hô quý vị là thiện tri thức.
Bát-nhã là tiếng Phạn (Prajna), dịch nghĩa thành trí huệ. Quý vị đều là bậc đại trí huệ mới đến Bát-nhã đường. Tại sao là đại trí huệ? Bởi trong các kiếp quá khứ quý vị đã từng gieo nhiều căn lành, nhiều hạt giống Bồ-đề.
Cũng chính là trong quá khứ, quý vị đã đời đời kiếp kiếp cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Ðã tích lũy những công đức như thế, thì ngày nay nhân duyên thành tựu, mới tham dự khóa thiền.
Ðây chẳng phải là nhân duyên nhỏ, mà là nhân duyên to lớn, cũng là nhân duyên của việc liễu sinh thoát tử, mà cũng có thể nói là nhân duyên thành Phật. Bởi các lý do trên nên mới xưng hô quý vị là thiện tri thức.
Thiện tri thức chính là biết con đường thiện, không biết con đường ác. Nếu biết đường ác thì phải kêu là ác tri thức. Thế nào là thiện tri thức?
Thiện tri thức là chánh tri chánh kiến, hành động hợp với Phật pháp, tu tập chiếu theo Phật pháp, từng hành động cử chỉ đều tương ứng với Phật pháp.
Thế nào là ác tri thức? Ác tri thức thì tà tri, tà kiến, chuyện gì cũng đi ngược với Phật pháp, tức như câu nói "bội đạo nhi trì," quay lưng với đạo mà đi.
Nay quý vị tụ hội tại Bát-nhã đường, nhất tâm thiền định để cầu khai ngộ và đại trí huệ. Nếu thực sự sáng suốt, chân chánh giác ngộ, quý vị sẽ tuyệt đối không làm chuyện điên đảo nữa. Giác ngộ và sáng suốt như vậy nhất loạt đều do công phu tu hành mà thành tựu.
Bởi vậy kẻ tu hành không nên sợ khổ, sợ khó khăn. Khi đã ngồi thiền thì chân đau cũng mặc, lưng mỏi cũng không quan tâm, phải giữ vững tinh thần đại vô úy, sống chết với thiền, sống chết với tu, tuyệt đối không thể vì đau mỏi mà đầu hàng, phải làm kẻ đại trượng phu, đại anh hùng.
Kẻ tu hành cần phải có một sự kiên nhẫn không lay chuyển, một ý chí không lùi bước, trước mọi nghịch cảnh tuyệt đối không cúi đầu, tuyệt đối không bị khuất phục.
Chân đau lại càng cố chịu đựng, lưng mỏi càng cố gắng. Buồn ngủ ư? Mở to hai mắt, thách thức ma ngủ. Càng buồn ngủ càng tốt, đàng nào cũng tham, tham cho tới lúc dương khí đầy đủ trở lại, thì ma ngủ phải bỏ chạy.
Nếu như chúng ta không chiến đấu với ma ngủ, thì ta sẽ muôn đời làm nô lệ cho nó, nghe theo mệnh lệnh của nó và sẽ chịu nó sai khiến. (HT TUYÊN HÓA KHAI THỊ - Theo Facebook Palmlien)
+ Người thiện tri thức - Người thành tựu phước huệ song tu
- Thiện trí thức: Trích Bồ tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật: Hành trì làm sao tên là thiện trí thức?
Đức Phật nói: Thiện trí thức tâm tánh mềm mỏng hòa nhã, giới hạnh tinh chuyên, lòng không tham lam tật đố, không ái luyến vật chất, tâm thường bình đẳng, ý không thương ghét. Có đại phương tiện độ mình độ người, tùy theo căn tánh cũa mỗi người mà giáo hóa, đủ pháp tổng trì. Lòng tốt đối với người, làm ơn cho người chẳng cần trả, tu hành trong sạch, không có lỗi lầm, thuyết pháp luận nghĩa đều hiệp ý kinh. Người nào đầy đủ mấy việc này là thiện trí thức.
- Đại thiện tri thức: Nếu có trí tuệ hơn người, phước đức siêu quần, không chỗ nào chẳng lành, không pháp nào chẳng biết. Làm tai mắt cho cõi người cõi trời, là rường cột trong Phật pháp, cầm cái cân trong Phật Tổ, làm lãnh tụ trong pháp môn. Mở cửa chánh đạo, ngăn dẹp đường tà, nối thành dòng Phật, trồng trí huệ thơm khắp, lấy tâm ấn tâm lưu truyền chẳng dứt. Căn cơ lớn, diệu dụng lớn, hạnh nguyện lớn, uy lực lớn. Đây gọi là đại thiện trí thức chân chánh.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Nhận biết bậc trí tuệ: Trẫm muốn nghe lời Ngài dạy, và nếu như có người nào khác đến, thì Trẫm làm sao biết được người đó là bậc trí?
Hiền Nhân đáp:
- Chỗ vấn đáp của người trí bao giờ cũng khác xa kẻ tầm thường. Không lời nói nào của họ mà không phải là lời lành. Bực thầy bao giờ cũng chính đáng. Và những đức tánh nầy chứng tỏ rằng kẻ ấy là bực trí giả: nhân từ, mềm mỏng, cẩn thận, chắc thật, ôn hòa nhà nhặn, lời nói hoạt bát và hay hâm mộ các việc lành. Bệ hạ đừng có nghi nan gì nữa.
Nghe lời nói, thấy việc làm của họ, có thì biết là tâm và khẩu giống nhau . Xem cách cư xử, vẻ đi đứng của họ mà biết là không giả dối; nghiệm việc họ làm, cách ăn mặc, cách làm lụng cũng dư biết là bực trí tuệ.
Đàm luận với người trí phải cho vừa ý họ, mà muốn vừa ý họ thì thực là khó.
- Trẫm muốn tôn thờ người trí mà đừng làm mất ý họ thì phải làm sao ?
- Kính mà đừng khinh, nghe lời dạy phải làm theo vì chỗ hiểu biết của người trí rất đúng, bao giờ họ cũng thể theo chính đạo và không có tâm tham cầu, lại có thể suy xét rõ được việc quá khứ, hiện tại và vị lai. Tầm mắt của bực trí giả rất rộng: họ thấy rõ muôn vật trong không gian và thời gian đều chỉ là biến hiện, muôn pháp đều quay về nơi nhất điểm không tịch bản nhiên.
Kẻ trí giả nhìn thấy rõ ràng đời là một sự biến đổi tang thương; trẻ trung rồi sẽ già nua, cường tráng rồi sẽ suy nhược, có sống thì sẽ có chết; giàu sang như mây nổi, đều là vô thường cả. Cho nên, lúc an ổn phải nghĩ đến khi nguy ngập, khi hưng thạnh thì nghĩ đến lúc vô thường, người lành thì kính mến, người ác thì phải lánh xa. Có giận hờn ai thì nên trừ bỏ, đừng vì thế mà gây ác hại người. Nhu hòa mà khó xâm phạm, yếu đuối mà người khó thắng. Người trí như vậy đó, ta không nên khinh thường.
- Trẫm hết sức cung kính tôn sùng người trí, như thế có phước chi chăng?
- Người trí thì theo phép thánh hiền, thường làm việc nhân từ và ưa dạy dỗ kẻ ngu muội trở nên sáng suốt như họ. Người trị nước thì nên ban bố ân huệ cho kẻ biết làm lành, kẻ tu hành thì lo dắt dẫn mọi người về nơi chánh đạo; quốc gia có cấp nạn thì cùng nhau đàm luận lo toan; tới lui phải biết thời mới khỏi bị sự nghi ngờ oán trách. Tuy có ân rộng đức lớn với người, nhưng đừng mong cầu người báo đáp; thờ người trí thì được phước và trọn đời không mắc phải tai nạn. Bệ hạ đừng có nghi nan. Pháp chánh trị không nên trái với lý đạo, dạy dân làm lành thì càng ngày càng thêm lợi ích cho nước. (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
IX. Khuyên nhủ các thiện tín tại gia (Trích: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục Phần 6)
1. Dạy về luân thường đại giáo
* Phải tận tánh học Phật mới có thể tận hết luân thường học Khổng. Phải tận hết luân thường học Khổng mới có thể tận tánh học Phật. Thử coi những bậc đại trung, đại hiếu và những vị phát huy tâm pháp của thánh hiền trong Nho Giáo xưa nay không vị nào là chẳng nghiên cứu kinh Phật sâu xa, ngầm tu thầm chứng. Hợp hai đạo Phật và Nho lại thì cả hai cùng tốt đẹp, tách ra thì cả hai cùng bị tổn thương; bởi lẽ, người trong cõi đời không ai chẳng thuộc trong vòng luân thường, mà cũng không ai ra khỏi tâm tánh được. Để trọn vẹn luân thường tâm tánh ấy thì dùng “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” của nhà Phật để khắc kỷ, giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, dùng “cha hiền, con hiếu, anh nhường, em kính” để hỗ trợ. Do vậy, cha con, anh em v.v... dắt dìu nhau cùng trọn vẹn luân thường, tâm tánh, trừ khử phiền hoặc huyễn vọng để khôi phục Phật tánh sẵn có. Chẳng những về thể là một, mà về dụng cũng chẳng có hai!
* Phải biết rằng Phật pháp là pháp chung của cả chín pháp giới, không một ai là chẳng nên tu mà cũng không ai là chẳng thể tu nổi. Những kẻ nói Phật giáo vứt bỏ nhân luân, làm hại thánh đạo đều là những kẻ mù chẳng thấy hình sắc cứ luận càn. Vì sao nói như thế? Đức Phật đối với cha dạy lòng từ, với con dạy lòng hiếu, với vua dạy lòng nhân, với bầy tôi dạy lòng trung, chồng xướng vợ theo, anh nhường, em kính.
Với những lời lẽ hay đẹp, những hành vi tốt đẹp, không điều nào kinh Phật lại chẳng thuật rõ túc nhân hậu quả, tiền nhân hậu quả. Những điều Phật dạy về lòng từ, lòng hiếu... giống với Nho Giáo, nhưng những điều đạo Phật dạy về nhân quả ba đời thì Nho giáo còn chưa bao giờ được nghe đến, huống hồ là “đoạn Hoặc chứng chân” và “viên mãn Bồ Đề, quy về pháp vô sở đắc”! Tiếc là những kẻ ấy chưa được biết đến, chứ nếu đọc kỹ, nghĩ chín, ắt sẽ khóc lóc, đau đớn, tiếng rền cả đại thiên thế giới, buồn thương vì tội lỗi báng Phật vậy!
* Muốn học Phật, Tổ, trước hết phải giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như thiếu sót bổn phận, trái nghịch luân thường thì đã là kẻ tội nhân danh giáo, còn làm đệ tử Phật sao được? Phật giáo tuy vượt ngoài thế pháp, nhưng gặp vua nói Nhân, gặp bầy tôi nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, từ cạn mà lần đến sâu, hạ học thượng đạt (học từ những điều căn bản, thấp kém, nhưng đạt được những điều cao quý). Hãy đọc kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt sẽ biết được đại khái vậy!
* Muốn làm Phật tử chân thật, phải bắt đầu làm chân Nho trước đã. Nếu đối với những sự như chí tâm thành ý, khắc kỷ, giữ lễ, giữ lòng kính, trọng lòng thành, hiếu đễ, vui vẻ, cung kính... mà chẳng thể tu tập, đôn đốc thì nền tảng chẳng kiên cố, học Phật sao được? Chọn lấy tôi trung trong đám con hiếu; kẻ tánh hạnh trái nghịch Nho phong lẽ nào gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, trên nối tiếp huệ mạng, dưới hóa độ chúng sanh cơ chứ?
Phật pháp không sự gì to lớn chẳng bao hàm, không điều gì nhỏ nhặt chẳng nêu lên. Dù là pháp thế gian hay xuất thế gian, không một pháp nào lại chẳng thuộc phạm vi của Phật pháp. Những kẻ câu nệ, hủ bại trong thế gian thường cứ bảo “xuất gia là trái nghịch luân lý”, họ đều là hạng chưa suy xét thấu đáo đã vội hủy báng, sợ mắc nghẹn nên bỏ ăn, tự chôn vùi tánh mạng, thật là đáng thương!
Nếu có mở rộng được tầm mắt thì mới biết Phật pháp lưu truyền rộng rãi khắp trong ngoài Trung Hoa, đạo pháp thạnh hành cả hai ngàn năm qua, được rất nhiều vua thánh, tôi hiền, hào kiệt, vĩ nhân hộ trì, truyền bá. Lẽ đương nhiên đạo ấy phải là chân đạo mà phàm tình chẳng thể suy lường được nổi! Dù có bị một hai gã nho sĩ câu nệ, hủ bại bài xích, hay những tên vua bạo ác hủy phá, rốt cuộc hai tay vẫn không che nổi mặt trời, ngửa mặt nhổ lên trời, chỉ càng tự phô bày cái thấy biết kém cỏi, ít ỏi của mình mà thôi, tự lầm lạc gây tạo tội lỗi, chứ rốt cuộc Phật pháp có bị tổn hại gì đâu?
Lại có kẻ bề ngoài làm ra vẻ chê bai Phật pháp, chứ bề trong lại thực sự tu chứng. Từ đời Tống đến nay, những bậc danh nho không có ai là chẳng như vậy cả! Cho nên Quang tôi nói “thành ý chánh tâm do vậy hãy còn khiếm khuyết” thật đúng là lời bàn quyết định vậy!
* Đối với việc học Phật, vốn phải trọn vẹn nhân đạo mới hòng hướng đến được. Nếu chẳng thật sự thực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, dù có suốt ngày thờ Phật, Phật cũng chẳng gia hộ! Ấy là vì Phật giáo bao gồm hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian. Vì thế với cha nói Từ, với con nói Hiếu, khiến ai nấy đều tận hết bổn phận làm người, sau đấy mới tu pháp xuất thế. Ví như muốn dựng lầu cao vạn trượng, ắt trước hết phải đắp nền móng kiên cố, khai thông đường nước thì lầu cao vạn trượng mới có thể xây lên được, mới vĩnh cửu chẳng hư hoại. Nếu như nền móng chẳng vững, ắt chưa xây xong đã sụp.
Sách Luận Ngữ nói: “Tuyển trung thần ư hiếu tử chi môn” (chọn tôi trung từ nơi con hiếu); học Phật cũng giống như vậy. Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào Thiền Sư: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Muốn học Phật pháp, phải khắc kỷ, dè dặt, việc gì cũng đều phải phát xuất từ cái tâm chân thật mà làm. Người như vậy mới đáng gọi là chân Phật tử. Nếu tấm lòng gian ác, lại toan mượn Phật pháp để tránh tội nghiệp, có khác gì trước đã uống thuốc độc, sau lại uống thuốc bổ, muốn cho thân thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ, phỏng có được chăng?
* Đại trượng phu muốn văn chương thiên hạ, công nghiệp vang dội vũ trụ, nhưng chẳng thể đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thì chỉ là chấp vào cái bên ngoài, bỏ sót cái bên trong, chấp cái Có tuy nó chỉ là đằng ngọn, bỏ đi cái Không dù nó chính là đằng gốc. Người đời ai có thể vẹn toàn được mọi việc, chúng ta chỉ nên gắng sức giữ vẹn luân thường, tận lực tu Tịnh nghiệp là được, cần gì phải bận tâm đến điều gì khác nữa!
* Trộm nghĩ Nho lễ coi trọng cúng tế Xuân Thu, Thích giáo đặt nặng việc quanh năm truy tiến. Nghĩ đến cái ân nguồn nước, cội cây mà thực hành cẩn thận, chu đáo việc truy tiến thì thế gian, xuất thế gian nào có gián đoạn chi?
Ấn Quang Đại sư - Ngài đã tu hành thành tựu, có nhiều lời dạy cho Phật tử tại gia rất tuyệt diệu, mời đọc giáo lý của ngài: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục phần 6
+ Học Phật - Phải học làm người và Phước Huệ song tu: .... 2. Học Phật phải khởi đầu bằng học làm người, phải học từ tu phước, học từ đoạn ác tu thiện. Chư vị phải biết: Phật là đấng Nhị Túc Tôn, phước trọn đủ, huệ cũng viên mãn. Do hai môn phước và huệ đều viên mãn, nên gọi là Nhị Túc Tôn. Trong thế gian lẫn xuất thế gian, Phật có phước báo lớn bậc nhất! Nếu chúng ta chẳng tu phước, làm sao có thể thành Phật cho được? Cố nhiên, tu huệ là trọng yếu, nhưng chẳng tu phước thì huệ cũng chẳng tu thành. Vì sao? Quý vị chẳng tu phước, quý vị chẳng có cái ăn, chẳng có cái mặc, chẳng có nơi để ở, làm sao có thể tu huệ cho được? Phật môn Trung Hoa có một câu tục ngữ: “Pháp luân vị chuyển, thực luân tiên” (Chưa chuyển pháp luân, phải lo cái ăn trước). Ăn uống là chuyện khẩn yếu bậc nhất! Chẳng ăn no, làm sao có thể tu Phật pháp cho được? Điều này nói rõ tu phước trọng yếu ngần ấy! (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Người học Phật có hai hạng nhất định có thành tựu:
a) Một là người thông minh phi thường, nhà Phật thường gọi là “thượng căn lợi trí”. Hạng người này vừa nghe Phật pháp, giác ngộ ngay lập tức. Sau đó bèn chân chánh y giáo phụng hành, hạng người như vậy nhất định có thể thành tựu.
b) Hạng người thứ hai là “thiện căn sâu dày”. Hạng người đối với những lời giáo huấn của Phật, Bồ Tát bèn nỗ lực vâng làm, họ chẳng cần biết đến lý luận, cứ dựa theo lời chỉ dạy của Phật mà làm theo. Hạng người chân thật như thế có thể thành tựu.
Con người chân thật chẳng phải là đơn giản đâu nhé, xét về mặt vãng sanh, người thượng căn lợi trí chẳng theo kịp được họ. Vì sao người chân thật có được thành tựu như thế? Chúng tôi đọc Đại Kinh rồi mới hiểu rõ. Nguyên do là hạng người này trong đời quá khứ, đời đời tu tập, tích lũy vô lượng thiện căn, trong đời này nhân duyên thành thục, bèn đối với lời giáo hối của Phật, Bồ Tát chẳng hề so đo cứ y giáo phụng hành, cho nên được thành tựu. Hạng thượng căn lợi trí, trí huệ thông minh tuyệt đỉnh ta học theo chẳng được, nhưng học theo người chân thật chúng ta đều có thể học được.
Vì sao người chân thật nghe được, còn chúng ta nghe chẳng được? Chúng ta nghe những điều Phật dạy trong kinh thảy đều châm chước, cắt xén đi rất nhiều cho nên chẳng thể thành tựu. Mọi người hãy nên hoàn toàn y giáo phụng hành; điều này chúng ta phải nhớ kỹ, phải tích cực tu tập! (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Quy trình phải theo khi tu trí tuệ:
I- Đức Phật dạy thứ tự tu:
44.IV. Liệt Tuệ: Do bảy giác chi không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này Tỷ-kheo, nên được gọi là liệt tuệ ngu đần.
45.V. Có Trí Tuệ: Do tu tập, do làm cho sung mãn bảy giác chi, này các Tỷ-kheo, được gọi là có trí tuệ không ngu đần.
II. Bảy Giác chi thành 14 Giác chi
1- Niệm với Nội pháp và Ngoại pháp, cái ấy là niệm giác chi
2- Quyết trạch, tư sát, quán sát với trí tuệ đối với Nội pháp và Ngoại pháp, là trạch pháp giác chi.
3- Thân và Tâm tinh tấn là tinh tấn giác chi.
4- Hỷ có tầm và Hỷ không có tầm có tứ là hỷ giác chi.
5- Thân và Tâm khinh an là khinh an giác chi.
6- Định có tầm và Định không có tầm, có tứ là định giác chi.
7- Xả với các nội pháp và Ngoại pháp là xả giác chi.
* 28) Này các Tỷ-kheo, chính là pháp môn này, y cứ pháp môn này, bảy giác chi trở thành mười bốn. (Nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi)
II- Pháp tu hành 14 Giác Chi:
1- Các món ăn trong tu Thân Tâm:
1.1- Các món ăn của 5 Triền cái:
a/ Của Năm triền cái: .... Nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho các dục tham - Tâm sân - Hôn trầm thụy miên (Không hân hoan, biếng nhác, chán nản, ăn quá no, tâm uể oải) - Tâm trạo hối (Tâm chưa chỉ tịnh) - Tâm nghi hoặc (Chú xứ vào tà kiến nghi ngờ) chưa sanh được sanh, đã sanh được trưởng dưỡng mạnh lên "làm chướng ngại người tu".
b/ Không phải các món ăn của 5 Triền: Nếu những gì không phải món ăn khiến cho các dục tham (có bất tịnh tướng) - Tâm sân (có từ tâm giải thoát) - Hôn trầm thụy miên (có phát cần giới, tinh cần giới, dõng mãnh giới) - Tâm trạo hối (có tâm chỉ tịnh) - Tâm nghi hoặc (có pháp thiện và bất thiện, có pháp có tội và không có tội, có pháp liệt và thắng, có pháp dự phần vào đen và trắng), nếu như lý tác ý làm cho 5 triền cái chưa sanh không sanh, đã sanh được trừ bỏ [Làm cho 5 triền cái không sanh, trưởng], sẽ "Làm cho người tu nhanh tiến đến giải thoát".
1.2- Các món ăn của 7 Giác chi:
a/ Của Bảy Giác chi: ... Nếu đúng như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho các Niệm giác chi (có các pháp trú xứ cho niệm giác chi) - Trạch pháp chi (Có những pháp thiện và bất thiện, có những pháp có tội và không có tội, có những pháp liệt và thắng, có những pháp dự phần đen và trắng) - Tinh tấn giác chi (Có phát cần giới, này các Tỷ-kheo, tinh cần giới, dõng mãnh giới) - Hỷ giác chi (có những pháp trú xứ cho hỷ giác chi) - Khinh an giác chi (có thân khinh an, tâm khinh an) - Định giác chi (có tịnh chỉ tướng, bất loạn tướng) - Xả giác chi (có các pháp trú xứ cho xả giác chi) làm cho các pháp thiện này chưa sanh được sanh, đã sanh được trưởng dưỡng mạnh lên "Làm cho người tu nhanh tiến đến giải thoát".
b/ Không phải các món ăn của 7 Giác chi: Nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho các Niệm giác chi - Trạch pháp chi - Tinh tấn giác chi - Hỷ giác chi - Khinh an giác chi - Định giác chi - Xả giác chi làm cho các pháp bất thiện này chưa sanh được sanh, đã sanh được trưởng dưỡng mạnh lên "làm chướng ngại người tu". (Nguồn: Món ăn độc hại của 7 Giác chi và 5 Triền cái)
2- Bảy giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn.
a/- Tu bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn.
b/- Tu ba thiện hành, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.
c/- Tu hộ trì căn được tu tập, khiến cho ba thiện hành được viên mãn.
=> Thứ tự tu không đảo ngược là Hộ trì Căn => Ba Thiện hành => Bốn niệm xứ => Bảy giác chi được viên mãn => Dẫn đến Minh và giải thoát.
2- Chi tiết các pháp tu
2.1/ Tu Hộ trì các Căn => Ba thiện hành được viên mãn:
a/ Tu Thân và Tâm: Khi mắt thấy sắc khả ý không có tham trước, không có hoan hỷ, không để tham dục (ràga) khởi lên. Thân của vị ấy được an trú, tâm an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát. Và khi mắt thấy sắc không khả ý, không có tuyệt vọng (manku), tâm không có dao động, ý không có chán nản (àdìnamànaso), tâm không có tức tối (avyàpannàcetaso). Thân của vị ấy được an trú, tâm được an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát.
- Các căn khác: Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... Khả ý hay không khả ý cũng giữ Thân - Tâm an chú, giải thoát.
b/ Tu Ý Căn: Khi Ý biết pháp khả ý, không tham trước, không có hoan hỷ, không để tham dục khởi lên. Thân của vị ấy được an trú, tâm an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát. Và Tỷ-kheo khi ý biết pháp không khả ý, không có tuyệt vọng, tâm không có dao động, ý không có chán nản, tâm không có tức tối. Thân của vị ấy được an trú, tâm được an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát.
+ Khi tu hộ trì các Căn như tai nghe tiếng...... mũi ngửi hương....... lưỡi nếm vị....... thân cảm xúc...... khi ý biết pháp, đối với Căn khả ý hay không khả ý, thân được an trú, tâm được an trú, nội phần được khéo an trú, khéo giải thoát.
Này Kundaliya, hộ trì căn được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho ba thiện hành [Thân - Khẩu - Ý] được viên mãn.
3- Tu Bốn niệm xứ viên mãn: Tu Ba Thiện Căn gồm (1) đoạn tận Thân ác hành, tu tập Thân thiện hành; (2) đoạn tận khẩu ác hành, tu tập Khẩu thiện hành; (3) đoạn tận Ý ác hành, tu tập ý thiện hành. Ba thiện hành được tu tập, làm cho sung mãn như vậy, khiến cho 4 niệm xứ được viên mãn.
4- Tu bảy Giác chi viên mãn: Tu 4 niệm sứ gồm có (1) quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời, (2) quán thọ trên các thọ... (3) Quán tâm trên các tâm... (4) Quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này Kundaliya, bốn niệm xứ được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy khiến cho bảy giác chi được viên mãn.
* Tu tập theo bốn cử chỉ, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm. Tất cả những sanh loại ấy y cứ vào đất, an trú vào đất; mà thực hiện bốn cử chỉ. Cũng vậy, Tỷ-kheo y cứ vào giới, an trú vào giới, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi.
* Tu tập Bảy Giác chi này đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn => Sẽ thành những thánh dẫn độ, dắt dẫn người sở hành chơn chánh đoạn diệt khổ đau.
* Những ai thối thất hay tấn tu bảy giác chi thì cũng thối thất hay tấn tu Thánh đạo Tám ngành đưa đến tận diệt khổ.
5- Tu bảy Minh và Giải thoát viên mãn: Tu bảy giác chi được tu tập như thế nào, được làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn? Ở đây, này Kundaliya, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này Kundaliya, bảy giác chi được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn. (Nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi)
II- Tu đúng theo Thời - Tùy theo Tâm thu động hoặc giao động: .... "Này chư Hiền, khi tâm thụ động (linam), trong khi ấy, tu tập giác chi nào là không phải thời hoặc là phải thời? Trong khi tâm dao động (uddhatam) thì tu tập giác chi nào là không phải thời hoặc là phải thời?". Đức Phật dạy:
I. Phi Thời: Trong khi tâm thụ động - Không phải thời để tu tập khinh an giác chi; định giác chi; xả giác chi. Ví như, một người muốn đốt lên một ngọn lửa nhỏ, người ấy ném vào đấy cỏ ướt, phân bò ướt, củi ướt, để ngọn lửa ấy giữa mưa, gió và rắc bụi lên trên; người ấy có thể nhen đỏ ngọn lửa nhỏ ấy không? Khi tâm thụ động, thật khó làm tâm phát khởi nhờ những pháp này.
II. Phải Thời Trong khi tâm thụ động - Phải thời để tu tập trạch pháp giác chi; Tinh tấn giác chi; Hỷ giác chi. Ví như một người muốn đốt lên một ngọn lửa nhỏ, người ấy ném vào đấy cỏ khô, phân bò khô, củi khô, dùng miệng thổi, không có rắc bụi lên trên; người ấy có thể nhen đỏ ngọn lửa ấy không? Khi tâm thụ động, thật dễ làm tâm phát khởi nhờ những pháp này.
III. Không Phải Thời: Trong khi tâm dao động - Không phải thời là tu tập trạch pháp giác chi; Tinh tấn giác chi; Hỷ giác chi. Ví như một người muốn dập tắt một đống lửa lớn. Ở đây, người ấy ném vào cỏ khô, phân bò khô và củi khô, lấy miệng thổi, và không rắc bụi lên trên. Người ấy có thể dập tắt đống lửa lớn ấy không? Vì rằng, tâm dao động, thật không dễ được tịnh chỉ nhờ những pháp ấy.
IV. Phải Thời: Trong khi tâm dao động, trong khi ấy, phải thời là tu tập khinh an giác chi; Định giác chi; Xả giác chi. Ví như có người muốn dập tắt một đống lửa lớn. Ở đây, người ấy ném vào cỏ ướt, ném vào phân bò ướt, ném vào củi ướt, để giữa gió và mưa, và rắc bụi lên trên. Người ấy có thể dập tắt ngọn lửa lớn ấy không? Vì rằng, tâm dao động, thật dễ được tịnh chỉ nhờ các pháp này.
21) Nhưng đối với niệm (Giác chi), này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng lợi ích trong mọi trường hợp (Đều phải thời để tu tập). (Nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi)
+ Trí - Huệ: Nếu quý vị có trí thì giống như có thái dương/ Ngoài, có huệ giống như trăng sáng/ Trong tâm. Trí Huệ bát nhã thường chiếu sáng trong ngoài thân tâm, trong ngoài đều sáng suốt giống như lưu ly, vạn pháp trong tự tánh vốn trong sáng. Quý vị nhận biết bổn tâm của mình, thấy được bổn tánh, thì cũng giống như trời xanh không mây ... chính là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Lục Tổ Đàn Kinh)
+ Bát Nhã: ... Đây là nguyên khí (principle) giúp cho sự Giác Ngộ (Enlightement) có thể xảy ra nơi chúng ta cũng như nơi Đức Phật (Buddha). Không có trí huệ thì không thể có sự giác ngộ, đó là quyền năng tâm linh cao siêu nhất (highest spiritual power) mà chúng ta có được. Trí tuệ (the intellect) ... có hoạt động tương đối của nó ...Trước khi được giác ngộ, Đức Phật chỉ là một con người bình thường và chúng ta, tức những người bình thường, sẽ trở thành Phật vào lúc mà con mắt trí tuệ (mental eyes) của chúng ta mở ra cho sự Giác Ngộ. (TTTĐTG, 188)
- Pragna đồng nghĩa với Mahat, Toàn Linh Trí (Universal Mind). Năng lực nhận thức. Tâm thức . (NGMTTL, 259)
- Pragna là minh triết riêng của các Dhyan Chohans.
+ Trí Huệ/ Bát nhã: Tiếng Bát Nhã Ba La Mật. "Bát Nhã" là tiếng Phạn (Prajna); Trung Hoa dịch là "trí huệ." Trí Huệ lại phân ra Thế Gian Trí và Xuất Thế Gian Trí, cũng gọi là Thế Trí Biện Thông. Những tiến bộ về khoa học, triết học hiện nay cùng tất cả các kiến thức, đều là học vấn của thế gian. Khả năng biện luận thông minh, nhạy bén về các việc thế gian, dù không có lý cũng có thể nói thành có lý - đó gọi là Thế Trí Biện Thông.
Xuất Thế Gian Trí tức là trí huệ của xuất thế gian. Siêng năng cầu Phật Ðạo, nghiên cứu Phật Pháp không bao giờ ngơi nghỉ, thậm chí lúc ngủ cũng tư duy đến Phật Pháp, chiêm bao cũng suy nghĩ đến Phật Pháp, và cho dù ốm đau bệnh hoạn, bất kỳ lúc nào cũng nghĩ đến Phật Pháp - đó chính là chân chánh tu tập trí huệ xuất thế vậy.
Vậy thì trí huệ xuất thế gian và trí huệ thế gian rốt cuộc là một hay là hai thứ khác nhau? Ðó vốn chỉ là một, nhưng còn phải xem quý vị sử dụng nó như thế nào - dùng vào chuyện thế gian thì nó là trí huệ thế gian, dùng ở Phật Pháp xuất thế thì nó là trí huệ xuất thế.
Trí huệ hoàn toàn không có hai, mà chỉ phân ra để giảng thôi. Ban đầu, quý vị nghiên cứu các vấn đề của thế gian và biết được tất cả mọi thứ trên cõi đời này đều là Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Rồi sau đó, nếu quý vị dùng cái trí hiểu biết về việc thế gian ấy để nghiên cứu học vấn xuất thế, thì đó cũng chính là trí huệ xuất thế vậy. Cho nên, Thế Gian Trí và Xuất Thế Gian Trí vốn không phải là hai.
Ða số người đời chỉ có trí huệ thế gian chứ không có trí huệ xuất thế gian; song cũng có người lại có trí huệ xuất thế gian mà không có trí huệ thế gian. Vì sao lại có sự như thế? Có nhiều người rất thông minh nhưng cứ làm toàn những việc hồ đồ - chuyện không cần thiết thì tận lực mà làm, còn việc quan trọng như vấn đề sanh tử thì lại thờ ơ, chẳng để ý đến và cũng chẳng muốn tìm hiểu. Ngoài ra, cũng có người nghiên cứu vấn đề xuất thế nhưng lại không hiểu gì về pháp thế gian cả. Chúng ta cần phải hiểu rõ cả pháp nhập thế lẫn pháp xuất thế:
Nhập thế mà xuất thế, xuất thế mà nhập thế - sự nhập thế và xuất thế cần phải thông đạt vô ngại. Nếu quý vị hiểu rõ thì nhập thế cũng chính là xuất thế; nhược bằng không hiểu thì cho dù là xuất thế cũng trở thành nhập thế vậy!
Cổ nhân có câu:
(Thông minh sáng dạ nhờ âm đức,
Âm đức dẫn lối tới thông minh,
Thông minh nếu chẳng tin âm đức,
Ấy thông minh phản, thông minh hại)
(thông minh sáng dạ nhờ âm đức). Chúng ta nhờ đâu mà có được trí thông minh? Ðó là nhờ đời trước chúng ta làm được nhiều việc "âm trắc." Việc "âm trắc" là gì? Ðó là những việc nhân đức được thực hiện một cách âm thầm với lòng hảo tâm thật sự, chứ không phải với mục đích khoe khoang, hoặc để cho người khác thấy. Chẳng hạn có người cảnh nhà đơn chiếc, chết mà không có quan tài để chôn, quý vị động lòng trắc ẩn bèn mua cho người đó một cỗ áo quan, rồi lo khâm liệm và chôn cất tử tế; tuy làm được một việc tốt, đáng khen, nhưng quý vị không khoe khoang, không tiết lộ với ai cả - như thế là có âm đức vậy.
Tóm lại, quý vị ngầm giúp đỡ hoặc làm những việc có lợi cho người khác, song quý vị không kể lể lôi thôi, không để cho ai biết cả, thì đó gọi là "âm trắc." Ðời trước làm nhiều việc âm trắc thì đời này được thông minh; đời trước xem nhiều sách về Phật Học, tụng nhiều kinh điển Phật Giáo, như tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật được vài vạn biến, thì đời này cũng được thông minh, sáng dạ. Ngoài ra, nếu đời trước đọc sách nhiều, chịu khó nghiên cứu sách vở để học hỏi, thì đời này cũng được trí óc minh mẫn. Như vậy, trí thông minh chính là đến từ âm trắc - do đời trước đã tu nhân tích đức, tạo được nhiều âm đức, cho nên đời này mới được thông minh tài trí hơn người.
(âm đức dẫn lối tới thông minh). Nhờ có đức hạnh cho nên quý vị mới được thông minh; do đó có thể nói rằng chính đức hạnh đã dẫn dắt quý vị tới con đường thông minh vậy.
(thông minh nếu chẳng tin âm đức,/ ấy thông minh phản, thông minh hại). Nếu đời này quý vị được thông minh, nhưng vì quên lãng nên quý vị không đi theo đường ngay nẻo phải, không tin âm đức, không làm việc thiện, chỉ cậy vào trí thông minh của mình để mưu đồ việc xấu, thì chính cái trí thông minh của quý vị sẽ hại quý vị vậy. Vì sao ư? Bởi nếu không thông minh thì quý vị sẽ không làm được nhiều việc xấu! Chính vì thông minh lanh lợi cho nên quý vị mới biết được những điều mà kẻ khác không thể nào ngờ tới; do đó, cho dù quý vị làm điều mờ ám hoặc ám hại người khác, thì nhờ khôn khéo, quý vị vẫn không bị ai nghi ngờ hoặc phát giác ra được. Cho nên, sử dụng trí thông minh mà không tin là có âm đức, thì cái trí thông minh đó sẽ trở thành chướng ngại, và là thứ "thông minh có hại" vậy! (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Trí Huệ: Chư Thiện tri thức! Trí như mặt nhựt, Huệ như mặt nguyệt. Trí huệ thường sáng, nhưng bởi tâm dính níu cảnh vật ở ngoài, rồi bị mây vọng niệm của mình che án tánh mình, nên trí huệ chẳng đặng tỏ sáng. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe người giảng chánh pháp, rồi tự mình dứt các điều mê vọng, trong ngoài sáng thấu, thì trong tánh muôn pháp đều hiện ra rõ ràng. Người thấy tánh cũng giống như thế. Ấy gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật. (Giảng: Nếu quý vị có trí thì giống như có thái dương, có huệ giống như trăng sáng. Tuy trí huệ Bát nhã thường thường chiếu sáng, nhưng nếu chấp trước cảnh giới bên ngoài thì bị phù vân vọng niệm che phủ tự tánh, trở thành ngu si mà không đắc được đại trí huệ). ..... Quý vị nhận biết bổn tâm của mình, thấy được bổn tánh, thì cũng giống như trời xanh không mây, cho nên nói: "Tâm bình bách nạn tán, ý định vạn sự kiết." Nếu tâm bình thì nạn tai nào cũng không có, ý nếu định thì việc gì cũng kiết tường. Lại nữa, tâm thanh tịnh hiện tiền giống như trời xanh không mây: "Tâm thanh thủy hiện, ý định thiên vô vân." Lại nói: "Tâm chỉ niệm tuyệt chân phú quý, tư dục đoạn tận chân phước điền."........
Quý vị đối với Lục Tổ Đại sư nên có nhận thức chân chánh, Lục Tổ Đại sư chính vì không giải đãi, mà nỗ lực hành trì, cho nên Ngài mới có thể giác ngộ. Sau khi khai ngộ Ngài thuyết Lục Tổ Đàn Kinh. Tuy Ngài không biết chữ, nhưng cái không biết chữ này là trí huệ của thế gian. Mà Ngài nhận thức hiểu rõ tự tánh, minh tâm kiến tánh, cho nên sử dụng đại trí huệ vốn có. Kinh điển mà Ngài thuyết ra, là từ quang minh trí huệ nói ra, cho nên giá trị của bộ kinh này thì không thể so sánh được. Kinh này và kinh Phật nói thì giống nhau, vì thế chúng ta không nên nói vì Ngài không biết chữ, liền sanh tâm khinh mạn. Sau khi giảng xong Lục Tổ Đàn Kinh, tôi hy vọng các vị đối với điều này cần nên triệt để hiểu rõ. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thể tánh các đại: Trong NHƯ LAI TẠNG - Các đại không ngăn ngại nhau
...... Ngài Phú Lâu Na Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các thứ: 5 ấm, 12 xứ, 18 giới và 7 đại trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện xuất phát từ tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Tạng, vậy thì tại sao Như Lai Tạng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế?
Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng đã từng nói : Địa, thủy, hỏa, phong 4 đại bản tánh viên dung, khắp cùng khắp giới, vắng lặng thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung được thủy đại? Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đại có điều kiện phát sinh? Làm sao có thể hiểu biết được rằng: Thủy đại và hỏa đại đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau? Bạch Thế Tôn! Tánh địa đại thì ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp giới? Con không biết nghĩa ấy là thế nào. Xin Phật rủ lòng từ, vén mây mê lầm cho con và đại chúng. Có 2 câu hỏi ở đây:
1) Tại sao trong Như Lai Tạng tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng dưng lại chuyển biến sinh ra những hiện tượng hữu vi như như núi, sông, đất, liền…?
2) Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức thì trong 7 đại này tánh chất có đối kháng nhau. Thí dụ nước kỵ lửa, gió kỵ đất… Nếu thế, tại sao chúng có thể dung hợp được với nhau trong Như Lai Tạng mà không tương tàn, tương diệt? Phật dạy rằng:
- ”Tánh sắc chơn không” nghĩa là Tánh của sắc là không mà hư không thì bao trùm bao la vô cùng vô tận.
- ”Tánh không chơn sắc” nghĩa là trong hư không đã có đủ tất cả tánh chất của sắc hay nói chung của địa, thủy, hỏa, phong…,
=> Nhưng từ cái thể tánh thanh tịnh của hư không khi hội tụ đủ nhân duyên sẽ biến hiện thành ra sắc.
- Tuy thủy đại đầy khắp hư không pháp giới tức là nơi nào trong không gian vô tận cũng đều chứa nước mà nước đâu có dập tắt lửa và nước cũng không làm ngập chìm cả thế gian nên Phật nói rằng: ”Tánh thủy chơn không”. Trong hư không tức là pháp giới không đại, vốn không phải nước vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại. Do đó Phật mới dạy rằng : ”Tánh không chơn thủy”.
- Hỏa đại cũng thế, lửa thì đầy khắp hư không mà không làm cháy nhà cửa, xe cộ, núi rừng hay vạn hữu thế gian. Vì vậy Phật mới nói : ”Tánh hỏa chơn không”. Trong hư không vốn không có lửa, nhưng khi chúng sinh cần thì lửa sẽ có trong hư không, cho nên Phật dạy rằng : ”Tánh không chơn hỏa”.
=> Nói tóm lại, tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến).
=> Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm........... (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phẩm tính các Hành: Các yếu tố tượng trưng cho bốn trạng thái vật chất: Lửa - năng lượng ion hóa rực rỡ; Đất - rắn; Khí - Gió/ Phong khí/ Chất hơi; Nước - chất lỏng.
Mọi thứ chúng ta nhận biết và kinh nghiệm đều bao gồm các yếu tố. Bất cứ thứ gì được kích động, năng động, hoặc bùng phát trào phản ánh yếu tố của lửa (Hành hỏa). Tính ổn định hoặc cấu trúc phản ánh yếu tố đất (Hành thổ). Hài hước, không thực tế hoặc định hướng về mối quan hệ phản ánh yếu tố khí (Hành khí). Bất cứ điều gì nhạy cảm hoặc hấp thụ phản ánh yếu tố nước (Hành thủy). (Nguồn: Ôn lại về Hành)
* Cụ thể: Xem Tooltip từng đại, từng hành
+ Thanh tịnh thiền: Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thiền thanh tịnh. Đó là :
1. Thiền thanh tịnh thường thích xuất gia, vì xả bỏ được hết thảy tất cả tài vật, bố thí cho người khác.
2. Thiền thanh tịnh được bạn lành chân thật, bạn đồng tu đạo, khuyến khích lẫn nhau, động viên lẫn nhau, chỉ bày chánh pháp lẫn nhau, chỉ dạy chánh đạo lẫn nhau, cùng nhau tu hành, làm gương lẫn nhau.
3. Thiền thanh tịnh trụ A lan nhã chịu mưa gió .v.v… ở chỗ vắng lặng tham thiền đả toạ, rất dễ nhập định. Tu thiền như thế phải chịu đựng mưa gió, phải lìa khỏi cảnh giới cái ta và của ta. Chẳng có mọi sự chấp trước, mới có thể tĩnh tâm ngồi thiền.
4. Thiền thanh tịnh lìa chúng sinh ồn náo, phải lìa khỏi sự ồn ào náo nhiệt, phải lìa khỏi chúng sinh thích nói thị phi. Phàm là khiến cho bạn tâm chẳng thanh tịnh, chẳng an lạc, tức là ồn náo. Giống như ở dưới nhà bếp, là nơi ồn náo, có những người chẳng dụng công tu đạo, thường chạy xuống nhà bếp, nhóm họp nói chuyện, chẳng thảo luận về chánh sự, mà chuyên môn nói chuyện thị phi.
Các vị chú ý ! Nếu có sự ồn náo, thì không thể nào đắc được thiền định thanh tịnh; nếu không có ồn náo, thì sẽ đắc được thiền định thanh tịnh. Do đó có câu : « Sai một ly, đi ngàn dặm », tại sao chúng ta chẳng chứng quả ? Vì chẳng lìa khỏi chúng sinh ồn náo. Tại sao chúng ta chẳng có chứng quả ? Vì chẳng lìa khỏi tập khí mao bệnh. Nếu buông bỏ hết tập khí mao bệnh, thì không còn xuống nhà bếp nói đông, nói tây, nói nam, nói bắc, như vậy sẽ đắc được thiền định thanh tịnh. Tại sao phải lìa khỏi chúng sinh ồn náo ? Vì mình muốn sự vắng lặng, an tâm tu đạo.
5. Thiền thanh tịnh tâm nghiệp điều nhu, tâm nghiệp tức là sự nghiệp vọng tưởng tạo ra. Phải điều phục tánh cang cường của mình, phải nhu hoà tập khí của mình, thì mới có thể đắc được thiền định thanh tịnh. Phải giữ gìn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý sáu căn, đừng bị cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sáu trần làm lay chuyển.
6. Thiền thanh tịnh tâm trí vắng lặng, trí huệ trong tâm thường vắng lặng, chẳng có vọng tưởng. Tất cả âm thanh và các chướng thiền định, không thể bị nó làm lay chuyển, không thể tán loạn được. Nếu bị vọng tưởng làm lay chuyển, thì chắc chắn sẽ tán loạn. Tại sao trong tâm chúng ta không thể vắng lặng ? Vì chẳng có trí huệ, bị cảnh giới bên ngoài kích thích, mê hoặc, làm cho hồ đồ, tuỳ theo cảnh giới mà lay chuyển, mất đi định lực, mà làm những việc điên đảo phạm giới.
7. Thiền thanh tịnh giác đạo phương tiện, vì quán sát nhất thiết trí huệ đều hiện chứng.
8. Thiền thanh tịnh lìa chấp trước vị, tất cả chúng sinh đều chấp vào cảnh giới sáu trần, nhất là rất gần gũi với vị trần, rất dễ chấp vào mùi vị. Ví như, ngồi thiền thì chấp vào vị thiền, đó tức là chấp trước. Nếu lìa khỏi những sự chấp trước đó, thì mới có thể đắc được thiền định thanh tịnh. Thiền nầy chẳng bỏ cõi dục, tuy ở tại cõi dục, nhưng hay lìa khỏi cõi dục.
9. Thiền thanh tịnh phát khởi thông minh, vì biết được căn tánh của tất cả chúng sinh. Chúng sinh nào có căn tánh gì, thì đều biết được rất rõ ràng.
10. Thiền thanh tịnh tự tại du hí, thiền nhậm vận tự tại du hí nầy, chẳng tạo tác, cũng chẳng tác ý, tự nhiên mà có. Thiền thanh tịnh nầy, hay nhập vào tam muội của Phật biết không có cái ta.
Đó là mười thứ thiền thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại thiền thanh tịnh vô thượng của Như Lai. (Kinh Hoa Nghiêm-T20-HT Tuyên Hóa)
+ Đức Phật dạy Thanh Tịnh Thiền (Xin chỉ tham khảo - Chưa rõ nguồn gốc kinh Phật):
Các ông muốn cho Phật tánh của chính mình hiện ra, các ông chỉ cần để tâm tự nhiên thanh tịnh nhưng luôn hằng biết là đủ.
Còn các ông tu dụng công kiểu này, hành thiền kiểu nọ tức các ông khuấy động Tâm Vật Lý của chính các ông Bị Động, càng dụng công càng bị động thêm, thì làm sao Phật Tánh Hiển Lộ ra được ?.
Vì nguyên lý này, mà Đức Phật dạy vị nào tu theo Pháp môn thiền thanh tịnh là không được dụng công.
Đức Phật dạy: Khi ông chưa vào được Trung tâm vận hành Nhân quả Luân hồi, mà ông muốn thấy Màn trong suốt, ông vừa khởi niệm muốn, là cái màn vô minh xuất hiện ra liền, thì làm sao ông thấy được. Việc làm thiết thực của người tu Thanh tịnh thiền chỉ có 2 việc chánh:
1- Phải học hỏi cho thật rõ pháp môn Thanh tịnh thiền này.
2- Giúp được nhiều người hiểu để mình có công đức.
– Khi mình được khối công đức lớn rồi, không cần mong thấy và biết, cũng tự nhiên thấy và biết. (Nguồn Người buôn bán tu)
+ Nghệ thuật bố thí - Ruộng phước điền quan trọng:
Lại có nghiệp ban đầu vui sau khổ: Ví như có chúng sinh được người khuyên hoan hỷ thực hành bố trí, tâm bố thí không keo kiệt, nhưng sau lại hối hận. Do nhân duyên đó sinh ở loài người, trước tuy giàu vui, sau lại nghèo khổ.
Lại có nghiệp ban đầu khổ sau vui: Ví như có chúng sinh được người khuyên bảo cố gắng bố thí chút ít, bố thí rồi tâm hoan hỷ không hối tiếc. Do nhân duyên đó, sinh ra ở nhân gian ban đầu nghèo khổ, sau lại giàu vui. Đó gọi là ban đầu khổ sau vui.
Lại có nghiệp ban đầu khổ sau khổ: Ví như có chúng sinh xa lìa thiện tri thức, không khuyên bảo người bố thí, cho đến chẳng hay thực hành một chút bố thí. Do nhân duyên ấy, sinh ở nhân gian ban đầu thời nghèo khổ, sau cũng nghèo khổ.
Lại có nghiệp ban đầu vui sau vui: Ví như có chúng sinh gần thiện tri thức khuyên dạy thực hành bố thí liền sinh hoan hỷ, mãi tu hạnh bố thí. Do nhân duyên đó, sinh ở nhân gian ban đầu giàu vui, sau cũng giàu vui.
Lại có nghiệp nghèo mà vui thích bố thí: Ví như có chúng sinh trước từng làm việc bố thí mà chẳng gặp phước điền (Phật, Pháp, Tăng), sau đó lưu chuyển trong sinh tử, sinh vào loài người, do chẳng gặp phước điền nên quả báo nhỏ hẹp, hoặc được hoặc mất, do xưa kia từng tập bố thí nên tuy ở nơi nghèo cùng mà thích thực hành bố thí.
Lại có nghiệp giàu mà tham lam, bỏn xẻn: Ví như có chúng sinh chưa từng bố thí, gặp thiện tri thức tạm thực hành một lần bố thí vào được phước điền tốt, do phước điền thù thắng nên tài sản đầy đủ, trước chẳng từng tập nên tuy giàu mà xan tham.
Lại có nghiệp giàu mà hay bố thí: Ví như có chúng sinh gặp thiện tri thức, phần nhiều tu hạnh bố thí, lại gặp phước điền tốt. Do nhân duyên đó, giàu to nhiều của cải mà thích thực hành bố thí.
Lại có nghiệp nghèo mà tham lam, bỏn xẻn: Ví như có chúng sinh xa lìa tri thức, không khuyên dạy người mà chính mình cũng chẳng thực hành bố thí. Do nhân duyên đó, sinh nơi bần cùng mà lại tham lam, bỏn xẻn. (Nguồn: Phật nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ Bố thí Ba la mật - Phật dạy: Nếu có người đối với tài, pháp và đồ uống ăn khởi tâm bỏn xẻn nên biết người ấy trong vô lượng đời bị quả báo ngu mê nghèo cùng. Thế nên Bồ-tát tu bố thí ba-la-mật cần phải làm lợi ích cho mình, cho người.
- Người hành pháp bố thí nên khởi tâm bình đẳng đối với tất cả đối tượng không khởi tâm phân biệt
- Có 5 cách thí: Chí tâm bố thí, tự tay bố thí, tín tâm bố thí, theo thời tiết bố thí, đúng như pháp tìm vật để bố thí.
- Dùng 4 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) để bố thí.
- Có 3 loại bố thí: Tài thí, pháp thí, vô úy thí.
- 4 điều chướng ngại thường có khi hành pháp bố thí: lòng tham tiếc, không ưa bố thí, xem thường vật nhỏ, mong cầu quả báo.
- Muốn bố thí phải trừ 5 điều: tâm hờn giận, tâm bỏn xẻn, tâm ganh ghét, tiếc thân mạng, không tin nhân quả.
- Có 2 pháp trừ được chướng ngại là: quán vô ngã, quán vô thường.
- Người bố thí được 5 điều lợi lạc: Thường gần bậc thánh nhân, chúng sinh ưa thấy và thích nghe, trước đại chúng không khiếp sợ, được danh thơm tiếng tốt, trang nghiêm bồ-đề..........
- Có 3 hạng thí chủ: Bậc Thượng, Trung, Hạ:
+ Người không tin nghiệp quả, lòng bỏn xẻn tham tiếc, giận ghét, ngăn cản kẻ đến xin ấy là thí chủ bậc hạ.
+ Mặc dù tin nghiệp quả nhưng tâm vẫn còn bỏn xẻn, tham tiếc, ghét bỏ người cầu xin, ấy là thí chủ bậc trung.
+ Không khởi tâm bỏn xẻn, quán các pháp là vô thường, khởi tâm vui mừng khi được bố thí, ấy là bố thí bậc thượng.............
+ Người tạo nghiệp không phải người thọ báo nhưng cũng không khác người thọ báo. Ai thông đạt điều này sẽ được quả vô thượng.
- Có 3 việc làm người bố thí mất đi quả báo thù thắng: 1. Trước định cho nhiều sau lại cho ít, 2. Lấy đồ vật hư xấu mang bố thí. 3. Sau khi bố thí sanh tâm hối hận.
- Người trí làm việc bố thí không vì muốn báo đáp, danh tiếng, sợ hãi, hơn thua, quyền lợi…mà chỉ vì thương xót chúng sanh muốn mọi người được an lạc, diệt trừ các phiền não, các pháp hữu lậu, chứng nhập niết bàn.
- Lại có 8 việc làm cho người bố thí không được quả báo thù thắng.
Bố thí xong tìm lỗi người nhận
Khi bố thí tâm không bình đẳng.
Bố thí xong yêu cầu người nhận phục vụ mình.
Bố thí xong lại tự khen mình.
trước nói không có sau mới bố thí.
Bố thí xong đánh mắng chửi rủa.
Bố thí xong đòi trả gấp đôi.
Bố thí xong sanh tâm nghi ngờ,.
- Nếu sanh tâm mong cầu quả báo, sự bố thí thì chẳng khác gì làm việc đổi chác.
Chi tiết mời xem đầy đủ kinh văn tài Nguồn: Xem phẩm Bố thí Ba la mật - Kinh Ưu Bà Tắc giới)
+ 108. CÁC PHÁP THÍ
Người tinh tấn thí người không tinh tấn
Thí đúng pháp được tâm hoan hỷ
Vì tin có nghiệp và quả báo
Loại thí này thí chủ thanh tịnh.
Không tinh tấn thí người tinh tấn
Không đúng pháp, không tâm hoan hỷ
Vì không tin nghiệp và quả báo
Loại thí này người nhận thanh tịnh.
Người giải đãi thí không tinh tấn
Không đúng pháp, không tâm hoan hỷ
Vì không tin nghiệp và quả báo
Loại thí này không được quảng báo.
Người tinh tấn thí người tinh tấn
Là đúng pháp, được tâm hoan hỷ
Vì tin có nghiệp và quả báo
Loại thí này đạt được quảng báo.
Kẻ nô tỳ và kẻ bần cùng
Hoan hỷ tự mình làm bố thí
Vì tin có nghiệp, có quả báo
Bố thí như vậy thiên nhân khen.
Khéo léo giữ gìn cả thân miệng
Đưa tay cầu xin đúng Chánh pháp
Người ly dục thí người ly dục
Đó chính là tài thí đệ nhất. Nguồn: (Trung A Hàm, Kinh Cù-đàm-di, Phẩm 14, số 180)
+ Bố thí thanh tịnh: 383. LOẠI BỐ THÌ NÀO ĐƯỢC THANH TINH
1) Thế nào gọi là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh, không phải do người thọ nhận?
Là thí chủ thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’.
Còn người thọ nhận thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’.
2) Thế nào gọi là loại bố thí do người thọ nhận thanh tịnh, không phải do thí chủ?
Là thí chủ thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo.
Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’. Còn người thọ nhận thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’.
3) Thế nào gọi là loại bố thí không phải do thí chủ thanh tịnh, cũng không phải do người thọ nhận?
Là thí chủ thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo.
Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’. Và người thọ nhận cũng không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’.
4) Thế nào gọi là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh và người thọ nhận cũng vậy?
Là thí chủ thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’. Và người thọ nhận cũng tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’. (Trung A Hàm, Kinh Cù-đàm-di, Phẩm 14, số 180)
51. BỐ THÍ TỐI THƯỢNG
Ta không thấy một người nào mà bố thí cho vị ấy thì sự bố thí này không gì vượt qua, tối thượng trên cả sự bố thí cho chư thiên, thế gian, sa-môn, bà-la-môn. Hành thí này mới đích thật là thí, được quả báo lớn, được công đức lớn, tiếng đồn vang khắp, được pháp vị cam lồ. Nghĩa là bố thí đến Như Lai Chí chơn, Đẳng chánh giác.
Nên biết, đó là bố thí tối thượng trong sự bố thí, không có gì vượt qua. Hành thí này mới đích thật là thí, được quả báo lớn, được công đức lớn. Nay Ta vì nhân duyên này mà nói ra như vậy: Chăm sóc bệnh nhân, tức là đã chăm sóc Ta không khác. Các ngươi lâu dài được phước lợi lớn. (Tăng Nhất A Hàm, Một Pháp, 11. Phẩm Nhập Đạo, Kinh số 4)
+ 1- Sự hào phóng siêu nhiên
Hào phóng là khả năng mở rộng lòng ta để hiến dâng tất cả cho kẻ khác. Đó là liều thuốc hoá giải mọi sự bủn xỉn và bần tiện, mọi tính toán, mưu đồ và tham lam. Giàu có không đơn thuần căn cứ trên phương diện vật chất và tiền bạc, nhưng còn dựa trên khía cạnh tinh thần, học thức và khả năng yêu thương. Vì thế, mỗi người trong chúng ta đều có một chút gì để cho, để hiến dâng cho kẻ khác. Bố thí Ba-la-mật không phải tùy thuộc vào số lượng vật chất hiến dâng mà chính là khả năng mà ta có thể đặt lòng ta vào hai bàn tay của kẻ khác. Khi càng ý thức được thế nào là ích kỷ thì ta lại càng biết mở rộng lòng ta trước những kẻ khổ đau. Có những người rất nghèo, và cũng không có vốn liếng học thức cao, nhưng họ có thể bật khóc trước cảnh khổ đau và cơ hàn của kẻ khác. Ngoài tình thương ra, họ không có gì để hiến dâng, nhưng chính đó mới thật là bố thí. (Nguồn: Lục Ba La mật)
+ Bố Thí Ba La Mật: ... Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Đàn Ba la mật: Lìa ngã mà bố thí, lìa vì ngã mà bố thí, lìa thương yêu mà bố thí, lìa vô minh kiến mà bố thí, lià tướng bỉ ngã mà bố thí, lìa các suy tưởng mà bố thí, lìa hy vọng báo Đáp mà bố thí, lìa bỏn xẻn ganh ghét mà bố thí, tâm bình Đẳng như hư không mà bố thí. Đây là tám pháp mà Bồ Tát thành tựu thì có thể tịnh Đàn Ba la mật . Tám pháp ly nầy gọi là tịnh thí . Như hư không không có chỗ nào là chẳng Đến, Bồ Tát từ tâm bố thí cũng như vậy. Như hư không chẳng phải sắc chẳng thấy Được, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa nơi các sắc cũng như vậy. Như hư không chẳng cảm thọ khổ vui, Bồ Tát hành thí rời lìa các sự khổ vui cũng như vậy . Như hư không không có tưởng biết, Bồ Tát hành thí rời lìa các ý tưởng cũng như vậy . Như hư không là tướng vô vi, Bồ Tát hành thí vô vi vô tác cũng như vậy . Như hư không hư giả vô tướng, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa thức tưởng cũng như vậy . Như hư không tăng ích tất cả chúng sanh, Bồ Tát hành thí lợi ích tất cả chúng sanh cũng như vậy . Như hư không vô biên vô tận, Bồ Tát hành thí ở trong sanh tử không có cùng tận cũng như vậy. (Nguồn: Phẩm Hư Không Tạng Bồ Tát)
+ Ba-la-mật cũng là mật hạnh, đại hạnh của Bồ tát. Nếu dùng bố thí độ xan tham, trì giới độ phá giới.... thì còn hạn chế trong việc đối trị; ở đây, lục độ với tinh thần Ba-la-mật có sự hài hòa giữa trí tuệ, từ bi và hùng lực. Bằng trí tuệ, Bồ tát thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do mê muội không nhận ra, nên mãi tạo nghiệp và trầm luân trong sanh tử. Vì thế, Bồ tát phát khởi lòng từ bi, nguyện độ tận chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Có từ bi, các Ngài có đủ hùng lực, thi thiết mọi phương tiện quyền xảo tùy căn cơ giáo hóa chúng sinh, dù bao nghịch cảnh vẫn không thối chí.
Ba-la-mật còn có nghĩa là cứu cánh, rốt ráo. Mục đích cuối cùng của đời tu, cũng như bản hoài của chư Phật đối với tất cả chúng sanh, là nhận ra và hằng sống với bản tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Đó là Phật tánh, chân tâm, bản lai diện mục... Nhận ra bản tâm là chánh nhân thành Phật, hằng sống trọn vẹn với bản tâm là viên mãn Phật quả.
1. Bố thí Ba-la-mật
Hiểu theo sự, bố thí là chia sẻ, ban cho, cung cấp; gồm 3 loại: tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí là bố thí tài sản vật chất (ngoại tài) hoặc công lao, thân mạng của chính mình (nội tài). Pháp thí là dùng lời khuyên răn về đạo đức làm người, khiến ngưới bỏ ác hướng thiện, hoặc dùng chánh pháp hướng dẫn người tu hành để được giác ngộ giải thoát. Tài thí giúp người đỡ phần khốn khó về thân trong một thời gian nhất định; trong khi tóm lược một pháp yếu, con người có thể áp dụng suốt đời tu, nên pháp thí có thể mang đến sự bình ổn nội tâm trong thời gian lâu dài. Người bố thí tài chỉ có một khả năng nào đó để đáp ứng một phần nhu cầu của người nhận; còn người giảng được một đoạn kinh hay, thì dù số người nghe đông bao nhiêu cũng đều có phần lợi lạc. Lại nữa, tài thí chỉ có giá trị nhất thời, trong lúc pháp thí giúp vĩnh thoát sinh tử nên giá trị vô hạn. Như vậy, so với tài thí thì pháp thí thù thắng hơn rất nhiều, nhưng người bố thí phải có trình độ về đạo học và biết cách thu phục nhân tâm.
Vô úy thí là giúp người bớt sợ hãi bằng lời nói hay việc làm. Từ những điều sợ hãi nhỏ nhặt như sợ côn trùng, sợ bóng đen... Đến những nỗi khiếp đảm đối với thiên tai, chiến tranh, bịnh tật, chết chóc... những lời an ủi động viên hoặc hành động bảo bọc vỗ về sẽ làm con người cảm thấy bình an hơn. Thậm chí lúc sắp lâm chung, nếu được nghe kinh kệ, nghe niệm hồng danh chư Phật hoặc được hướng dẫn về những điều cần làm khi bước qua bên kia cửa tử, người sắp mất có thể yên tâm ra đi với một cận tử nghiệp thiện lành.
Hiểu theo lý, bố thí nghĩa là buông xả. Kinh Kim-Cang, Đức Phật dạy: “Bồ tát đối với pháp không nên có chỗ trụ mà làm việc bố thí... Nếu Bồ tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ bàn”. Khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi duyên mà tâm không dính mắc, không khởi niệm phân biệt phê phán, làm tất cả việc vì người khác mà không trụ tướng, đó là hoàn toàn buông xả phù hợp với ý nghĩa sâu xa của bố thí Ba-la-mật.
Như thế, bố thí Ba-la-mật vừa làm lợi cho mình vừa có ích cho người. Đối với người, đây là một nghệ thuật sống, giúp người bớt khốn khổ, bớt sợ hãi lo âu, đem đến niềm an ủi, sự ấm áp của tình người. Không chỉ có tài sản mới bố thí được, mà một lời nói hay, một việc làm nhỏ, một nụ cười vui… phát xuất từ tâm chân thành thiết tha đều mang nhiều lợi lạc. Mọi công đức đều xuất phát từ tâm ý, tâm càng thanh tịnh, càng bớt ngã chấp thì kết quả của việc làm càng lớn lao. Đối với mình, càng bố thí ta càng giảm được lòng tham, càng có niềm vui khi việc làm có ích cho cộng đồng. Tiến thêm một bước, thực hiện hạnh buông xả, ta có thể tự tại an nhiên trước mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc sống. Hình ảnh các thiền sư “đói đến thì ăn, mệt ngủ khò” và khi hết duyên, ngồi kiết già thị tịch trước các môn đệ, là những hình ảnh sáng ngời của sự tự tại đối với sinh và tử. (Nguồn: Lục độ Ba la mật)
+ Bố thí Ba la mật về thực hành bố thí giảm thiểu chướng ngại để có được quả báo thành tựu lớn nhất: Xem phẩm Bố thí Ba la mật - Kinh Ưu Bà Tắc giới
+ Siêu Bố thí - Bồ Tát Bố thí Ba La Mật: Chi tiết xin mời xem trong Kinh Hoa Nghiêm. hàng Bồ tát tu bố thí Ba la mật không tiếc cả thân mạng của mình, sẵn sàng chết để chúng sanh khác được sống.
+ Bố thí - Quả báo lớn nhất (Nghệ thuật bố thí - Bí quyết là ở hạ mình): ...“Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố thí có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời, có người hưởng phước trong mười đời, hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời.
Những sự ấy tại làm sao thế? Cúi xin đức Thế Tôn dạy cho”.
Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng:
.... Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng: “Trong cõi Nam Diêm Phù Đề có các vị Quốc Vương, hàng Tể Phụ quan chức lớn, hàng đại Trưởng Giả, hàng đại Sát Đế Lợi, hàng đại Bà La Môn ...v.v...
Nếu gặp kẻ hết sức nghèo túng, nhẫn đến kẻ tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây mù quáng, gặp những hạng người thân thể không được vẹn toàn như thế.
Lúc các vị Quốc Vương đó v.v... muốn bố thí, nếu có thể đủ tâm từ bi lớn, lại có lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc bảo người khác đem cho, lại dùng lời ôn hòa dịu dàng an ủi.
Các vị Quốc Vương, Đại Thần đó v.v... đặng phước lợi bằng phước lợi công đức cúng dường cho một trăm hằng hà sa chư Phật vậy.
Tại làm sao? Chính bởi vị Quốc Vương đó v.v... phát tâm đại từ bi đối với kẻ rất mực nghèo cùng và với những người tàn tật kia, cho nên phước lành được hưởng quả báo như thế này, trong trăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ để thọ dùng như y phục đồ uống ăn ...v.v... (còn dài, mời quý vị đọc trong Kinh Địa Tạng để hiểu, kết hợp hài hòa về dụng Tâm bình đẳng và nghệ thuật bố thí).
+ Bố thí - Cho đi đúng pháp để được Quả báo cát tường và nhiệm mầu
Biết bố thí với tâm niệm bình đẳng
Biết phụng sự những bậc đắc đạo
Biết tôn quý những kẻ đáng tôn quý trong hai giới nhân và thiên
Đó là điềm lành lớn nhất.
Đẳng tâm hành bố thí: Đẳng tâm là tâm niệm bình đẳng, biết phụng sự những bậc đắc đạo, biết tôn quý những bậc đáng quý trong hai giới trời và người, đó là điềm lành lớn nhất. Đẳng tâm là tâm niệm không kỳ thị, coi tất cả mọi loài đều bằng nhau. Khi cứu giúp người thì mình không kỳ thị, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo. Giúp là giúp thôi, tại người ta khổ nên mình giúp đó gọi là đẳng tâm hành bố thí.
Bố thí là một phép thực tập, nó đem lại cho mình hạnh phúc, nó là một trong sáu sự thực tập có thể đưa mình từ bến bờ khổ đau, hệ lụy đi sang bến bờ thảnh thơi, an lạc, gọi là Lục Ba La Mật (Six Paramitas). Lục Ba La Mật là sáu phương pháp thực tập đưa mình từ bờ bên này sang bờ bên kia gồm: bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định, nhẫn nhục và trí tuệ.
Phép thứ sáu có liên hệ với nguồn năng lượng thứ năm, gọi là tuệ.
Phép thứ năm, nó liên hệ tới nguồn năng lượng thứ tư là định. Trì giới cũng liên hệ ít nhiều tới niệm định tuệ và có khi là giới định tuệ. Niệm và giới liên hệ mật thiết đến nỗi không phân biệt được, đó là trái tim của sự thực tập đạo Bụt, gọi là niệm định tuệ hay là giới định tuệ nó còn được gọi là tam vô lậu học, tức là ba sự rèn luyện, ba sự thực tập, nó giúp cho mình không rơi rụng trong thế giới của hệ lụy, sầu khổ. Vô lậu tức là không có rạn nứt, không rơi rớt xuống.
Bố thí là hiến tặng, là phân phát, là chia sẻ. Sự thực tập đó có thể đưa từ thế giới của hận thù, của khổ đau, của hệ lụy đi sang thế giới của giải thoát, của an lạc, của tình thương. Khi giận ai thì mình không muốn cho người đó cái gì hết, để dành cho người khác, nhưng nếu mình nói, thôi cho người đó đi thì tự nhiên mình hết giận liền. Đó là một đề nghị của đức Thế Tôn.
Người mình thương, lâu lâu mình giận người đó, biết trước như vậy thì bây giờ khi chưa giận mình lo mua quà trước cất trong tủ, giữ cho kỹ, để khi nào mình giận mà tháo gỡ không được thì mình nhớ lời Bụt dạy, đi kiếm món quà tặng cho người đó: anh có món quà cho em, chỉ cần nghĩ tới vậy là mình hết giận liền, rất là hay.
Bố thí không phải chỉ đối trị với sự ích kỷ, tham lam mà còn đối trị luôn với sân và si, nó đối trị cả tam độc. Khi mình biết rằng khổ đau của người đó tức là khổ đau của mình, làm cho người đó hạnh phúc thì mình được hạnh phúc hơn, đó là vô si, là trí tuệ, mà có trí tuệ thì hết khổ. Vì vậy bố thí không phải chỉ là đối trị với sự bỏn sẻn, tham lam, ích kỷ mà nó còn chuyển hóa luôn cả cái sân hận và cái si mê, cho nên gọi là Bố Thí Ba La Mật (Dana Pamarita). Vị Bồ Tát mà thực tập bố thí thì phải bố thí một cách bình đẳng, nghĩa là không phân biệt, không kỳ thị. Bố thí có nhiều loại, ở đây chúng ta chỉ nói tới ba loại là : tài thí, pháp thí và vô úy thí.
- Tài thí tức là bố thí tài vật như : tiền bạc, nhà ở, cơm áo, thuốc men…,
- Pháp thí là chỉ cho người kia phương pháp để người ấy thoát khổ. Mình biết con đường Bát Chánh Đạo nên biết cách tháo gỡ, hòa giải được cho họ, giúp họ vượt thoát buồn lo, sợ hãi. Thành ra không cần giàu có mới bố thí được, mình có trí tuệ là có thể bố thí được rất nhiều, mình có giáo pháp, mở khóa tu là pháp thí
- Thứ ba là vô úy thí tức là hiến tặng sự không sợ hãi, người kia sợ chết, người kia sợ đói, người kia sợ cô đơn. Cái sợ của người kia làm cho họ co rúm lại, khiến họ không thể có được hạnh phúc trong đời sống hàng ngày
Trên thế giới bây giờ cái sợ rất lớn, các nước đều sợ mà sợ những cái rất hão huyền, vì sợ cho nên phải mua súng, mua bom, vì sợ cho nên phải bỏ hết tiền ra để mà trang bị quân đội, không có tiền đủ để cung cấp lương thực cho dân. Thế giới bây giờ được vận hành trên cái sợ, vì sợ cho nên có nhu yếu muốn mua vũ khí mà nhiều người vì tham cho nên đã chơi trên cái sợ của người khác. Họ chế tạo vũ khí, họ nói nếu anh không mua cái này, mai mốt nó đánh anh, anh ráng chịu. Vì vậy mình biết rõ ràng rằng cái tham và cái sợ đi đôi với nhau. Vô úy thí là trao tặng sự không sợ hãi, mà muốn trao tặng sự vô úy thì chính mình phải có sự vô úy. Mình có trí tuệ, mình không sợ chết, không sợ đói, không sợ nghèo và khi mình có cái vô úy đó rồi thì mình mới có thể hiến tặng cho người khác được. Nhờ có trí tuệ mà mình không sợ hãi, còn nếu không có trí tuệ thì sợ hãi rất nhiều.
Cái sợ đó đưa tới sự chia rẽ, bạo động, đưa tới nghi ngờ, đưa tới khủng bố và chống khủng bố. Vì vậy bố thí là một trong sáu phương pháp thực tập để đưa mình từ bờ của khổ đau, của hệ lụy đi sang bờ của giải thoát, của an lạc, của tình thương, của hạnh phúc. Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị bồ tát chuyên môn ban tặng sự không sợ hãi.
Biết phụng sự những bậc đắc đạo: Đây là vấn đề đầu tư. Mình biết bố thí một cách bình đẳng không kỳ thị rồi nhưng mình cũng biết đầu tư nữa. Những bậc đắc đạo, những người có trí sáng thì sự có mặt của những vị đó rất có lợi cho quần chúng, cho nhân gian, tại vì có mặt của những người đó là có nhiều ánh sáng, có nhiều trí tuệ vì vậy giúp người ta sẽ không đi lầm đường, lạc lối, xuôi về ba nẻo xấu ác. Do đó mình phải đặc biệt yểm trợ những bậc đắc đạo, mình không kỳ thị, nhưng mình đặc biệt chú trọng tới các vị ấy, đó là vấn đề đầu tư. Đây là giá trị đạo đức, giá trị trí tuệ. Ở trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có một đoạn khi mình mới nghe thì giống như là bố thí không có bình đẳng, đoạn đó nói rằng cho một người ác ăn cơm, không có công đức bằng cho một người hiền ăn cơm. Tại vì cho người hiền ăn cơm tức là đầu tư vào người hiền, người hiền đó có thể giúp được rất nhiều người. Cố nhiên là người ác khi đói cũng khổ, cho nên cũng cho họ ăn cơm, nhưng nếu mình có cơ hội cho người hiền ăn cơm thì công đức còn nhiều hơn nữa. Nó có nghĩa không phải là mình không cho người ác ăn cơm, nhưng trong khi bố thí thì có sự đầu tư vào trong đó. Thành ra hai cái không chống đối với nhau, nó có thể đi đôi với nhau, một bên là tâm không kỳ thị, một bên là ý hướng muốn đầu tư, nó tế nhị lắm.
Biết tôn qúy những kẻ đáng tôn qúy trong hai giới nhân và thiên: Nó cũng nằm trong tinh thần đó, nghĩa là mình phải có sự đối xử đặc biệt, tôn kính đối với người đáng tôn kính, tại vì những người đó có đạo hạnh, họ có trí tuệ. Mình yểm trợ cho những người đó thì nó có lợi lạc nhiều cho thế giới của mình. Tôn kính bậc đáng kính, cái này cũng có trong bản chữ Pali. (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức - HT Thích Nhất Hạnh)
c) Pháp thí (dharmadana) : một số kinh sách xếp Pháp thí vào hàng thứ hai trước khi nói đến Vô úy thí, nhưng cũng có kinh sách xếp vào hàng thứ ba hay thứ nhất vì tính cách đặc biệt của thể dạng Bố thí này. Pháp thí có nghĩa là hiến dâng và truyền lại cho kẻ khác Đạo Pháp, tức những lời giáo huấn của Đức Phật. Ta thường hiểu chỉ có Tăng đoàn mới đủ tư cách hiến dâng Đạo Pháp, nhưng thật ra bất cứ ai cũng có thể hiến dâng Đạo Pháp, tùy theo khả năng tu tập và hiểu biết của mình. Có thể ta không biết nhiều về Đạo Pháp nhưng ta vẫn có thể tụng một bài kinh cho người khác nghe, nghe kinh cũng có thể làm tan biến một phần nào sự sợ hãi, lời tụng chân thành của ta cũng có thể làm cho người nghe đến gần với Đạo Pháp hơn.
Trong hành vi Pháp thí, ta cũng nên cẩn thận. Tại sao phải cẩn thận ? Vì Pháp thí rất tế nhị, tùy vào trình độ của ta và của người nhận và nhất là người nhận có sẳn sàng hay không, mức độ vô minh và cái ngã của họ đang tác hại họ như thế nào ? Lời Pháp ta cầu mong hiến dâng cho họ có phù hợp với hoàn cảnh tâm thức của họ hay không ? Pháp thí phải cẩn thận là như vậy. Ngoài ra, Pháp thí còn cần đến sự chân thật và can đảm nữa, chính kinh nghiệm về những gì mà Đạo Pháp đã đem đến cho ta sẽ giúp ta can đảm để Pháp thí. Một vài người cư sĩ hay tỳ kheo dùng tài hùng biện, hoặc lối kể chuyện khôi hài và hấp dẫn để mê hoặc người nghe, lấy Đạo Pháp làm bùa án ngữ mọi sự suy luận, những hành vi như thế không phải là Pháp thí. Pháp thí cũng không phải là thủ đoạn áp đặt một đức tin, dù là đức tin nơi Phật, nhưng đúng hơn là cách giúp kẻ khác suy luận, phán đoán để họ tự tìm lấy một con đường cho họ.
Còn một khía cạnh nữa mà kinh sách ít nói đến và ít nhấn mạnh là tính cách tích cực và tầm quan trọng của việc quảng bá Đạo Pháp trong khi Đức Phật còn tại thế và cả trong những thế kỷ tiếp theo sau đó. Trong giai đoạn tiên khởi này, việc phố biến Đạo Pháp nhất thiết nhờ vào cách truyền khẩu. Người này kể lại cho người kia những lời Phật dạy, cha kể lại cho con, vợ kể lại cho chồng, thầy kể lại cho trò, Tăng đoàn tu tập với nhau, giải thích cho nhau. Ngày nay, việc học thuộc lòng kinh điển vẫn còn lưu truyền trong các tu viện của Phật giáo Tây tạng. Học thuộc và tìm hiểu những lời giảng huấn của Phật, kèm thêm những kinh nghiệm đạt được do sự tu tập của mỗi người để giảng cho nhau và chỉ cho nhau, gọi là Pháp thí. Chính nhờ Pháp thí mà Đạo Pháp đã vượt qua nhiều trăm năm không cần đến chữ viết trong giai đoạn đầu, và cũng nhờ đó đã lưu truyền cho đến ngày nay một cách vô cùng phong phú. Với những kỷ thuật hiện đại với băng dĩa và mọi phương tiện truyền thông để phổ biến, ta không có quyền làm cho Đạo Pháp nghèo nàn và mai một. Đối với chúng ta hôm nay, học hỏi Đạo Pháp để truyền lại cho nhau thật là cần thiết. Ý thức được như thế ta sẽ thán phục hơn những thế hệ Phật tử của hơn hai ngàn năm trước : có mấy người trong số họ được đi học, nhưng chỉ nhờ thành tâm, cố gắng và lòng mộ đạo của họ mà hôm nay đây, tất cả chúng ta được may mắn thừa hưởng một nền Đạo Pháp thật tuyệt vời.
Pháp thí còn có nghĩa là nên nói những gì ta học hỏi được và hiểu được một cách chân thật, nêu lên những kinh nghiệm của ta về những điều học hỏi ấy một cách kín đáo và khiêm tốn, đồng thời ta cũng sẳn sàng thú nhận những gì không biết hoặc không hiểu, tránh tất cả những thí dụ vướng mắc trong dị đoan và mê tín, nhất là luôn luôn phải dựa vào chánh Pháp và không đi ra ngoài chánh Pháp. (Nguồn: Bố thí lục ba la mật)
+ Chú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà ra Ni: ..... Bỗng nhiên giữa hư không có tiếng gọi bảo: "Thiện Trụ thiên tử! Bảy hôm nữa, ông sẽ hết phước trời, xả báo thân, đọa xuống cõi Diêm Phù Đề, 7 lần làm cầm thú, thường ăn đồ nhơ uế. Kế đó lại đọa vào địa ngục, chịu đủ các sự khổ trải qua nhiều kiếp mới được làm người ..., nhưng lại đen lùn, thô xấu, mù cả đôi mắt, các căn không đủ ...
.... Đức Thế Tôn lại nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi bảo rằng: Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, ông trì chú này tất sẽ thoát khỏi vòng khổ ách. .... Trong các thần chú về Phật Đảnh, môn đà ra ni này rất tối tôn tối thắng, hay trừ tất cả sự khổ não trong nẻo luân hồi của tất cả chúng sanh!"
Bấy giờ đức Như Lai ..... thuyết chú rằng: Tiếng Phạn: namo bhagavate trailokya prativiśiṣṭaya buddhāya bhagavate..............
Phiên âm theo tiếng Hán như sau:
1. Nam mô bạc già phạt đế.
2. Tát bà tha đát lan lô chỉ dã.
3. Bát lạt để tì điệt sắt tra dã.
4. Bột đà dã. Bạc già phạt đế.
5. Đát điệt tha.
6. Úm, bột lâm bột lâm.
7. Thuật đà dã thuật đà dã.
8. Tỳ thâu đà dã. Tỳ thâu đà dã.
9. A táp ma táp ma.
10. Tam mạn đa. Phạ hoa sát.
11. Táp bát ra noa yết để ngược yết na.
12. Tỏa bà bà, tì thú đệ.
13. A tỳ xiển giả. Đổ mạn.
14. Tát bà đát da già đa.
15. Tô yết đa
16. Bạt ra bạt giả na.
17. A mật lật đa tỳ sư kế.
18. Ma ha mẫu đà ra, mạn đa ra bà na.
19. Úm. A hát ra a hát ra.
20. A dũ san đà ra ni.
21. Thu đà dã. Thu đà dã.
22. Già già na. Xoa phạ bà. Tỳ thú đệ.
23. Ô sắt nị sa. Tỳ thệ dã tỳ thú đệ.
24. Tố ha tát ra yết lại thấp nhị. San thù địa đế.
25. Tát ra bà đát tha yết đa.
26. A bà lô ky ni.
27. Tát bà đát đá già đa mạt đế.
28. Tát đà ra, ba la mật đa.
29. Ba rị, phú ra ni.
30. Na ta bồ mật bà la. Địa sắt sỉ đế.
31. Tát la bà đát đà yết đa da. Hất rị đà da.
32. Địa sắc sá na.
33. Đế sắt sỉ đê.
34. Úm, một điệt lệ, một điệt lệ. Ma ha một điệt lệ.
35. Bạt triết la ca dã.
36. Tăng hát đản na tỳ thú đệ.
37. Tát ra bà yết ma, phạt lạt noa tỳ thú đệ.
38. Bát lạt đổ rị ca đế, tì rị, tì thú đệ.
39. Bát lạt để na bà ra đái dã. A dũ thú đệ.
40. Tam ma da. Địa sắt sỉ na. Địa sắt xỉ đế.
41. Úm. Mạt nhĩ, mạt nhĩ, ma ha mạt nhĩ.
42. Á ma ni, á ma ni.
43. Tì ma ni, tì ma ni, mạ hạ tì ma ni..
44. Mạt địa mạt đế, ma ha mạt đế.
45. Đát đạt đa bột đa.
46. Cô thi tì lê thú đễ.
47. Tị tốt bố tra. Bột địa tỳ thú đệ.
48. Úm, hy hy.
49. Thệ dã thệ dã.
50. Tị thệ dạ tị thệ dã.
51. Tam mạt ra tam mạt ra.
52. Sa phạ ra, sa phạ ra.
53. Tát la bà bột đà.
54. Địa sắt sỉ na.
55. Địa sắc sỉ đa.
56. Thú đệ thú đệ.
57. Bạt triết lệ, bạt triết lệ. Ma ha bạt triết lệ.
58. A bạt triết lệ.
59. Bạt triết la yết tì.
60. Thệ da yết tì.
61. Tì giá gia yết tì.
62. Bạt triết ra thệ bạt la yết tì.
63. Bạt triết rô na già đế.
64. Bạt triết rô na bà đế.
65. Bạt triết la tam bà phệ.
66. Bạt triết rô bạt triết rị na.
67. Bạt triết lam, bạt bà đổ mạ mạ.
68. Tát rị lam. Tát la phạ. Tát đỏa bà năng.
69. Tát xá gia. Tì lê, tì thú đệ.
70. Sất dạ phạ bà đổ mế tát na.
71. Tát lạt bà yết đế tì lê thú đễ.
72. Tát lạt bà đát đà yết đa. Sất da mi.
73. Tam ma ta phạ. Tát diện đô.
74. Tát bà đát đá già đa.
75. Tam ma tát phạ sa địa sắt sỉ đế.
76. Úm! Sất địa da, sất địa dạ.
77. Bột đề dã, bột đề dã.
78. Tỳ bồ đề dã, tì bồ đề dạ.
79. Bồ đà dạ, bồ đà dạ.
80. Tì bồ đà dạ, tì bồ đà dã.
81. Mô ca dã, mô ca dã.
82. Tì mộ ca dã, tì mộ ca dạ.
83. Thuật đà dạ, thuật đà dã.
84. Tì thuật đà dã, tì thuật đà dã.
85. Tam mạn đa đát biệt lệ, mô ca dã.
86. Tam mạn đà da sa mế biệt rị thú đễ.
87. Tát la bà đát tha già đa tam ma da hất rị đà da.
88. Địa sắt sa na, địa sắt sỉ đế.
89. Úm, mẫu đề lê mẫu đề lê, ma ha mẫu đà ra,.
90. Mạn đa ra, bát na
91. Địa sắc sỉ đế.
92. Xóa ha.
Thuyết chú xong, đức Phật bảo: .... Nếu có Tì kheo, tì kheo ni, thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào thọ trì hoặc đọc tụng, do công đức ấy,........... Bởi môn đà ra ni này hay trừ sạch tội ngũ nghịch, thập ác của chúng sanh, hay cứu tất cả sự khổ nạn trong cảnh Diêm Ma, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục, hay độ thoát tất cả chúng sanh nghiệp dày phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yểu thọ, xấu xa, câm ngọng, đui điếc, hay cứu vớt các loại A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Phú Đơn Na, Ca Tra Phú Đơn Na (6), các thân quỷ thần, cho đến hay độ thoát các loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết, ruồi muỗi, côn trùng. Các chúng sanh ấy tùy phận sẽ được sanh lên các cảnh giới an lành, và lần lượt đều được chứng quả giải thoát.
Từ kiếp hiện tại trở về sau, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo ....
Hàng vua quan tứ chúng nếu biên chép đà ra ni này để trong tháp 7 báu, nơi bảo tòa sư tử, nơi tháp ngã tư đường, hoặc nơi đầu phướn cao, lại dùng các thứ hoa, hương, anh lạc, y phục, thức ăn uống, thuốc men cúng dường, kẻ ấy công đức vô lượng vô biên, .....vì cứu vớt được vô lượng chúng sanh đi qua đi lại nơi đó. Nếu có chúng sanh nào phạm .... tất cả tội nặng, ... mà đi ngang qua tháp hoặc phướn có để đà ra ni này, được một điểm bụi hay một chút gió từ tháp phướn ấy dính nhiễm đến thân mình, hoặc được bóng tháp phướn che thì tất cả tội nặng đều tiêu trừ,....
Các hàng Tì Kheo, Tì Kheo Ni, thiện nam, tín nữ nếu trai giới thanh tịnh, sáu thời thọ trì đà ra ni này, thì các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác cùng tất cả các tội nặng trong ba đời thảy đều được tiêu diệt, ....
Bạch đức Thế Tôn! .... nói các pháp yếu về thần chú này, để cho sự thọ trì của chúng con được thông suốt và thành tựu. Đức Phật bảo....:
* Nếu có chúng sanh nào bị khổ nạn, tội chướng cực nặng, không ai cứu hộ, nên chọn ngày trăng sáng, tắm gội, mặc y phục sạch sẽ, thọ bát quan trai giới, quỳ trước tượng Phật tụng đà ra ni này 1.080 biến thì tất cả tội nghiệp, chướng nạn đều tiêu diệt ... biện tài vô ngại.
* Nếu kẻ nào tuy chưa trì tụng, mà chỉ nghe âm thanh của đà ra ni này lọt vào tai, tức liền thành hạt giống Phật.......
* Nghe được Đà Ra Ni này, qua kiếp hiện tại sẽ không còn bị các tật bịnh và các sự khổ não,......
* Nếu có kẻ nào mới chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng 21 biến đà ra ni này vào một nắm đất hoặc cát, rải lên thi hài, ......
* Nếu chúng sanh nào mỗi ngày tụng chú này 21 biến,.......
* Nếu muốn được oai lực tự tại,.......
* Nếu bị nạn vua, nạn quan, nạn binh, nạn giặc cướp, nạn khẩu thiệt, tụng chú này 21 biến vào năm thứ nước thơm, đem rưới trên đảnh Phật, các nạn sẽ tiêu diệt.
* Nếu chúng sanh nào tướng mạng yểu, muốn cầu sống lâu, nên chọn ngày trăng sáng, trai giới, tắm gội, mặc y phục sạch, tụng chú này đủ 1.080 biến, sẽ được trường thọ......
* Nếu có người tụng chú này một biến vào lỗ tai của bất kỳ loài cầm thú nào, ......
* Nếu kẻ nào bị bịnh trầm trọng, chịu nhiều đau khổ, được nghe đà ra ni này, sẽ lìa bịnh khổ, tội chướng tiêu diệt. ......
* Nếu có chúng sanh nào vừa mới khôn lớn, đã tạo các thứ tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, cho đến lúc tuổi già, tự suy nghĩ ..... nên chọn ngày rằm, tắm gội mặc y phục tinh khiết, dùng cái bát bằng vàng, bạc hoặc đồng, lượng chứa ước một thăng, đựng nước ..... Nơi đàn tràng, mình đứng ở phương Đông hướng về tượng Phật ở phương Tây, .... Làm phép này xong, tất cả tội chướng đều được tiêu diệt, .....
* Nếu muốn cứu độ người tội nặng, nên chọn ngày rằm, tụng chú này vào mật hoặc sữa 1.080 biến, rồi cho người đó ăn. ... sẽ tiêu trừ tội chướng sanh về cõi lành,.....
* Nếu tụng 21 biến chân ngôn này gia trì vào tăm xỉa răng, rồi đem dùng có thể trừ bịnh đau răng, được mạnh khỏe, thông minh, trường thọ.
* Nếu muốn cứu độ tội khổ của loài súc sanh, nên gia trì chú này vào cát hoặc đất vàng 21 biến, rồi rải trên mình chúng và bốn phương, tội chướng của chúng nó sẽ tiêu diệt.
* Nếu có chúng sanh nào muốn được phước đức đầy đủ, muốn cầu tài bảo xứng ý, muốn cứu hộ mình và người nên khởi lòng lành, mỗi ngày phát nguyện sám hối, đối trước tượng Phật, kiết ấn tụng chú này bảy biến, .....
* Nếu hành giả ở nơi đàn tràng mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến gia trì vào chén nước sạch, rồi dùng tâm trân trọng bưng chén nước uống. Làm như thế sẽ tiêu trừ các bệnh, sống lâu trăm tuổi, giải mọi oán kết, tiếng nói thanh diệu, biện tài thông suốt, mỗi đời thường được Túc Mạng Thông, nhớ biết tiền kiếp. Nếu đem chén nước ấy rưới trong phòng nhà, cho đến chỗ chuồng trâu, ngựa, thì nơi đó sẽ được oai lực của chân ngôn giữ gìn an ổn, trừ các nạn: la sát, rắn, rồng. Như đem chén nước ấy, miệng tụng chú rưới trên đảnh người bịnh và cho bịnh nhơn uống, các thứ bịnh nặng sẽ tiêu trừ.
* Nếu muốn tiêu trừ các tai chướng, nên dùng vải lụa vụn năm sắc, kết làm cây phất trần. Kế đó tụng chú nơi cây phất, quét bụi nơi tượng Phật và kinh. Thường làm như thế, chướng nạn của mình sẽ tiêu, mà tội nghiệp của chúng sanh cũng được trừ diệt.
* Nếu bị nhiều khẩu thiệt, tai tiếng phát khởi, nên dùng châu sa hòa với bạch mật, hoặc đường cát trắng, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem thoa vào môi 100 tượng Phật. Làm như thế khẩu thiệt, tai tiếng sẽ tiêu trừ.
* Nếu vợ chồng chán ghét nhau, muốn được hòa thuận, tụng chú vào vải hay lụa 21 biến, đem may áo cho chồng hoặc vợ mặc, làm như thế, vợ chồng sẽ hòa thuận.
* Nếu người nam hay nữ bị ma quỉ khuấy rối, hoặc phần âm yêu đắm, quyến luyến không tha, nên giữ chánh niệm vừa tụng chú vừa xoa khắp mình nạn nhân, kế đó lấy tay vỗ vào thân, ma quỉ liền bỏ chạy.
* Nếu người nữ không có ai đến cưới hỏi, nên dùng muối tốt sạch, tụng chú vào đó 108 biến, rồi đem cúng dường hiện tiền tăng, tất sẽ được như ý.
* Nếu chỗ ở có quỷ thần dữ khuấy rối, nên tụng chú vào thức ăn 21 biến rồi đem cúng thí cho ăn. Trong khi ấy lại nói: "Nay tôi cúng thí cho các vị, như không làm tổn hại chúng sanh thì tùy ý ở lại, nếu làm tổn hại thì phải mau đi nơi khác". Nếu quỷ thần hung hãn không nghe lời, nên dùng nọc sắt dài 12 ngón tay, tụng chú vào đó 21 biến rồi đem đóng xuống đất. Làm như thế, các quỷ thần dữ phải chạy ra khỏi địa giới.
* Nếu có bệnh nhân bị tinh mị dựa vào, kẻ cứu hộ nên nhìn chăm chú vào mặt người bịnh mà tụng đà ra ni này, tinh mị sẽ xuất ra.
* Nếu có quỷ La Sát hoặc các loài quỷ dữ vào quốc giới gây đau bịnh, làm khủng bố và não loạn dân chúng, nên xưng niệm Tam Bảo, ngày đêm tụng trì chú này, kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng rải khắp bốn phương, thì các tai nạn đều tiêu diệt, làm như thế, cũng cứu được chúng sanh thọ khổ ở tam đồ.
* Nếu muốn thí nước cho loài ngạ quỷ, tụng chú này vào nước sạch 7 biến, rồi rải khắp 4 phương, tâm tưởng miệng nói, cầu cho chúng được thọ dụng, thì các ngạ quỷ sẽ được uống nước cam lộ.
* Nếu người nào buôn bán ế ẩm, muốn được khách hàng chiếu cố, thường kiết ấn tụng chú này 21 biến, an trí tượng Phật nơi chỗ tinh sạch kín đáo mà cúng dường, tất sẽ được như ý.
* Mỗi ngày 3 thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến, ....
Đức Phật bảo vua Diễm La và các vị thiên vương:
- Nếu chúng sanh nào muốn lập đàn trì đà ra ni này, nên dùng đất vàng trộn với nước thơm mà bôi trên mặt đàn, ......
Muốn kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chắp hai tay lại, hai ngón trỏ co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn thành.
Khi kiết ấn này tụng chú 108 biến, tức là đã cúng dường thừa sự 88 cu chi hằng hà sa na do tha trăm ngàn chư Phật, được chư Phật khen ngợi, xưng là Phật tử.
Mỗi ngày kiết ấn, tụng chú này 108 biến sẽ được 10 phương chư Phật thọ ký, quyết định không còn nghi. Như mỗi ngày kiết ấn tụng được 1080 biến, kẻ ấy sẽ được thân kim cang bất hoại, mau thành đạo quả.
Mỗi ngày thường trì chú này, rồi kiết ấn đối 4 phương, mỗi phương tụng chú một biến, ......
Đức Phật bảo thiên đế và đại chúng:
- Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni đây trong thời mạt pháp nếu có hàng vua quan tứ chúng, y đúng pháp thức lập đàn thọ trì và cúng dường, đó gọi là tu Bố Thí độ. Khi lập đàn tu hành, giữ ba nghiệp thanh tịnh, không phiền não giận hờn, là trì giới độ và nhẫn nhục độ, mỗi ngày trì niệm không gián đoạn biếng trễ là tinh tấn độ. Chuyên y theo pháp tắc, một lòng không loạn là thiền định độ. Bố thí đàn tràng đúng pháp, thông hiểu phép thọ trì, khéo lượng chừng độ, biết việc nên làm hoặc không nên làm là Bát Nhã độ........ (Nguồn: Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà ra Ni)
+ PHƯƠNG TIỆN TRÌ CHÚ: Chú đàn - Đàn tràng
Trì tức là thọ trì, thọ nơi tâm, trì nơi thân. ‘’Trì‘’ cũng giống như dùng tay cầm vật gì. Trì niệm thần Chú thì đừng quên nó, đừng thiếu nó, phải niệm từ từ, thời thời phút phút tụng trì Chú này.
Trì Chú nên có một đàn tràng, gọi là Chú đàn, cũng giống như truyền giới, cần có giới đàn. Chú đàn phải thanh tịnh, không cho người vào hỗn tạp, chỉ có người trì Chú, tu pháp ở trong đó. Nghi kiến lập đàn là phương tiện trước khi trì Chú, kiến lập đàn vốn có quy củ nhất định, trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến, đây là vì người tụng Kinh hành đạo, cầu hiện chứng mà thiết lập. Hiện chứng là đời này đắc được lợi ích của Chú. Nếu "truy tố" phát tâm tán trì. "Truy" là người xuất gia ; "tố" là người tại gia, tán trì tức là không có đàn tràng, như vậy phải chuyên nhất tâm ý kiền thành cung kính. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : ‘’Nếu có chúng sinh, tâm khởi tán loạn, thì chẳng phải là Tam Ma Địa (định lực). Tâm nhớ miệng trì là Kim Cang Vương, thường tùy tùng theo các người thiện nam, hà huống người quyết định phát đại tâm bồ đề.’’ ‘’ Tán tâm trì Chú không ở trong định, thì có tám vạn bốn ngàn Kim Cang Vương hộ pháp thường theo bạn, hà huống quyết định phát đại tâm bồ đề !‘’ Trong Kinh lại nói : ‘’ Nếu không làm đàn, không nhập đạo tràng, cũng không hành đạo, tụng trì Chú này, vẫn đồng công đức nhập đạo tràng không khác. Cho đến đọc tụng biên chép Chú này, có ở trong người, thì ở đâu cũng yên nhà cửa vườn tược, tích nghiệp như thế không lâu sẽ ngộ vô sinh nhẫn.’’
Chỉ nói đơn giản chỗ chính yếu. Trì Chú phải "ba mật" tương ưng mới đắc được cảm ứng. Ba mật tức là : Miệng tụng thần Chú, tâm tưởng chữ Phạn, tay kết ấn tướng, cũng gọi là ba đàn. Tại sao gọi là thần Chú ? Vì diệu không thể tả. Tâm tưởng chữ Phạn, là quán tưởng mặt sau tâm Chú của mỗi chữ Phạn. Ba mật tương ưng tức là phương tiện trước khi trì Chú.
Thứ nhất là ‘’ Chú ngữ đàn.’’ Trì Chú thì tự nhiên kết thành đàn, đây là nói mỗi ngày, hoặc mỗi lần trước tiên niệm Chú Lăng Nghiêm một biến, sau đó trì tâm Chú một trăm lẻ tám biến. Tâm Chú tức là : ‘’ Đát điệt tha. Án a na lệ tì xá đề, bệ ra bạt xa ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàng ni, phấn hổ hồng đô lô ung, phấn ta bà ha.’’ Tâm Chú này diệu không thể tả. Nếu trên thế gian không còn ai niệm Chú Lăng Nghiêm, thì tất cả yêu ma quỷ quái đều xuất hiện ra đời. Tâm Chú này có hai câu : ‘’ A na lệ, tì xá đề.’’ Một câu nghĩa là "dọc cùng tam tế", một câu nghĩa là "ngang khắp mười phương". Một khi niệm hai câu Chú này, thì thiên ma ngoại đạo không có chỗ đào thoát. Chúng sẽ lão lão thực thực nghe vẫy kêu. Chỉ sức lực của hai câu Chú này, thật không thể nghĩ bàn. Nếu sáng sớm bạn tụng niệm Chú Lăng Nghiêm một lần, sau đó tụng tâm Chú 108 lần, thì sẽ được phước báu vô lượng vô biên. Cho nên nói, nếu bạn trì tụng Chú Lăng Nghiêm, thì đời sau sẽ đắc được giàu sang phú quý bảy đời. Đây là nói bạn muốn cầu phước báu trời người, nếu không muốn cầu, thì đương nhiên không cần. Nếu bạn muốn cầu quả báo xuất thế, thì sẽ đạt được mục đích. Đây là ‘’ Chú ngữ đàn.’’
Thứ hai là :‘’ Tâm tưởng đàn.’’ Nghĩa là khi tụng tâm Chú, thì quán tưởng từng chữ Phạn. Nói đến chữ Phạn, có lúc sự tình không nhất định minh bạch, nếu minh bạch thì nhuệ khí, cảm thấy đã đủ rồi. Nếu không minh bạch, thì cảm thấy có chút ý nghĩa trong đó. Không minh bạch thì ví như ăn thức ăn, chưa ăn thì cảm thấy ngon, ăn rồi thì nếm qua: chua ngọt đắng cay, tâm tham ăn đã dừng lại, cảm thấy chẳng còn ngon nữa. Tu hành cũng như thế.
Nếu bạn không biết ý nghĩa của Chú, ý nghĩa chữ Phạn thì cảm thấy diệu không thể tả. Tâm niệm luôn luôn nghĩ muốn biết, nếu bạn biết rồi thì không chú ý. Quán tưởng chữ Phạn cũng lại như thế, vì chữ Phạn chúng ta chưa học qua, nên không biết ý nghĩa của nó, không giống như chữ Tàu. Đây là chữ ‘’ đại ‘’ kia là hai chữ ‘’ Bồ Tát.‘’ Quán tưởng chữ Phạn sẽ đắc được ngũ nhãn lục thông, phải quán tưởng từng chữ rõ ràng, mở mắt nhắm mắt đều thấy rõ ràng, lâu dần thì chỗ diệu dụng sẽ phát sinh, có thể khiến cho bạn khai mở ngũ nhãn lục thông, thông nhân đạt quả, là vì chúng ta không minh bạch chữ Phạn, thì có một sức lực thần diệu.
Quán tưởng chữ Phạn cũng là phương pháp khóa tâm lại, chế tâm tại một chỗ đừng cho khởi vọng tưởng, ấn nhập từng chữ Phạn vào trong tâm, bất cứ mở hoặc nhắm mắt đều rõ ràng. Như thế lâu dần sẽ đắc được tam muội.
Thứ ba là :‘’ thủ ấn đàn.’’ Thủ ấn cũng gọi là thủ quyết. Một số cho rằng Kháp quyết niệm Chú tức là Sáp quyết. Đã minh bạch Chú ngữ đàn và quán tưởng đàn rồi, thì Thủ ấn đàn cũng phải minh bạch. Trong quyển Nhứt Tự Phật Đảnh Luân Vương Niệm Tụng Nghi Quy cũng nói rõ : ‘’ Bạch tản cái Phật đỉnh ấn ‘’, dùng hai ngón cái, mỗi ngón bắt lấy đầu ngón thứ tư, chạm nhau, hai đầu ngón cong như hình cái lọng, hai ngón giữa cong một chút chạm nhau, hai ngón út dựng thẳng chạm nhau tức thành đại bạch tản cái Phật đỉnh luân vương. (Xem hình ở dưới).
Kháp quyết niệm Chú, tức là bạn phải tập trung tinh thần, bạn làm động tác này, thì không nên khởi vọng tưởng gì khác. Chẳng phải ý nghĩa gì khác, chẳng phải nói một khi Kháp quyết thì linh. Nếu bạn không có vọng tưởng gì khác, không Kháp quyết cũng là ba mật tương ưng. Nên biết chân lý, tại sao phải có ba mật tương ưng ? Vì Chú ngữ đàn, quán tưởng đàn, thủ ấn đàn, đều muốn bạn đừng khởi bất cứ vọng tưởng gì. Cho nên chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán loạn.
Lại có Thủ ấn Kim Cang quyền, Kim Cang chưởng, Kim Cang phược. Không giống ‘’ Bạch tản cái Phật đỉnh ấn ’’ rất phức tạp. Hai bàn tay nắm lại, gọi là Kim Cang chưởng, nhưng đừng trợn mắt, bằng không thì thành Kim Cang trợn mắt. Mười ngón tay bắt chéo với nhau ngửa lên, gọi là thủ ấn Kim Cang chưởng, úp xuống gọi là thủ ấn Kim Cang phược. (Xem hình ở dưới) Hết thảy pháp Tam muội đều do Kim Cang quyền, Kim Cang chưởng, Kim Cang phược sinh ra. Khi bạn niệm Chú thì ba đàn tương ưng. Ba thủ ấn này muốn kết ấn nào cũng được, đều thành ‘’Lăng Nghiêm vương đại bạch tản cái Phật đỉnh tâm Chú ấn.’’ Sau đó quán tưởng tụng niệm Chú này, thì ba mật sẽ tương ưng. Được như thế thì sẽ đắc được thân, miệng, ý tam luân không thể nghĩ bàn của mười phương chư Phật. Bất cứ sở cầu thế gian, xuất thế gian, không có gì mà chẳng được như ý, nhưng tốt nhất vẫn là vô sở cầu. Vì có sở cầu thì có tâm tham, có tâm tham thì chẳng đắc được cảm ứng hiện thời, không thể được vô lượng công đức. Nếu vô sở cầu thì công đức mới lớn.
Nếu bạn không thể bắt ấn, thì trong bộ mật có ba bài Chú, tùy ý niệm cũng thành đàn.
Thứ nhất là Pháp Giới Chân Ngôn : "Án phạ nhật la đà đổ một.’’ Niệm rồi thì pháp giới đều thanh tịnh.
Thứ hai là Thanh Tịnh Chân Ngôn : ‘’ Án lam sa ha.’’
Thứ ba là khi Phóng Diệm Khẩu thì niệm Ba Đàn Chân Ngôn : ‘’ Án hạ hồng.’’ Ba đàn tức là Phật, Pháp, Tăng.
Chữ "Án" là trên đỉnh Tỳ Lô làm Phật đàn.
Chữ "Hạ" là trong miệng Di Đà làm Pháp đàn.
Chữ "Hồng" là trong tâm A Súc làm Tăng đàn.
Ba câu Chú này mỗi câu niệm bảy biến, thì ba mật cũng tương ưng. Trước khi niệm Chú, niệm ba bài Chú này cũng rất tốt. (Nguồn: Giảng giải Chú Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa)
+ Ảnh Tâm chú Lăng Nghiêm bằng tiếng Phạn - Có phiên âm tiếng Việt - Có ảnh các Tay bắt Ấn pháp gồm: Bạch tản cái Phật đỉnh ấn - Thủ ấn kim cang quyền - Thủ ấn Kim xang chưởng - Thủ ấn Kim cang phược. (Nguồn: Fai đính kèm trang Web bài: Giảng giải Chú Lăng Nghiêm, Tr 22, 29 - HT Tuyên Hóa)
+ Gia trì của chư Phật - Bồ Tát - Hộ pháp thiện thần để thành tựu đạo nghiệp: Điều quan trọng là hành trì đều đặng mỗi ngày, bất cứ lúc nào, ở đâu, tụng ra tiếng, hoặc tụng thầm, công đức đều không thể nghĩ bàn được. Vì Chú Lăng Nghiêm là đại định, cũng là vua trong các định. Định lực của Chú Lăng Nghiêm hàng phục được tất cả tà ma ngoại đạo. Chỉ cần tụng lên thì chư Thiên, hộ pháp, thiện thần đều cung kính bảo hộ hành giả.
Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều nhờ đại định Chú Lăng Nghiêm mà thành tựu. Nói chung người tu hành không thể nào thiếu đại định Lăng Nghiêm. Như chúng ta đều biết, Ngài A Nan là đa văn bậc nhất, thuộc lòng Đại Tạng Kinh không sót một chữ, mà lúc gặp nạn, nếu không nhờ đức Phật sai Bồ Tát Văn Thù dùng thần Chú Thủ Lăng Nghiêm đến cứu, thì Ngài A Nan đã mất giới thể, mà mất giới thể thì làm sao mà thành tựu đạo Nghiệp ! Như thế mới biết, trên đường tu gặp rất nhiều chướng ngại, thử thách. Nếu không nhờ sự gia trì của chư Phật, Bồ Tát, hộ pháp thiện thần, thì rất khó thành tựu đạo nghiệp. Những bậc cao Tăng, Tổ sư, thời nào cũng thế, đều nhờ tu hành giới đức trang nghiêm, phước huệ song tu, tích luỹ nhiều đời nhiều kiếp, được sự gia trì của chư Phật, Bồ Tát, hộ pháp thiện thần, mới vượt qua chướng ngại thử thách, cuối cùng giác ngộ chứng quả.
Chú Lăng Nghiêm là hành trang, tư lương, không thể thiếu của người tu Phật. Chỉ cần chúng ta cố gắng trì tụng mỗi ngày, thì công đức không nhỏ, đồng thời cũng là góp phần vào bảo vệ chánh pháp trụ thế lâu dài, lợi lạc tất cả chúng sinh.
Việt dịch - Thầy Hằng Lý: … Bây giờ nhờ sự giảng giải của cố Hoà Thượng Tuyên Hoá, mới hiểu được tầm quan trọng của Chú Lăng Nghiêm. Đây cũng là nhân duyên lớn, tôi được gặp Hoà Thượng tại nước Pháp, nhân chuyến Ngài sang hoằng pháp ở Âu châu vào năm 1990 và tôi có xin Ngài sang Vạn Phật Thành tu học, tu học được khoảng 5 năm thì Ngài viên tịch (1995), tôi trở về lại Pháp và có xin đem những Kinh giảng giải của Ngài bằng Hán văn, mang về Pháp để dịch ra tiếng Việt, truyền bá cho người Việt mình. Không màng tài hèn đức mọn, xin dịch ra để cống hiến cho tất cả mọi người đọc, nếu có gì sơ sót, mong các bậc cao Tăng chỉ dạy thêm.
... Vì như lời cố Hoà Thượng Tuyên Hoá nói, thì sẽ không có người thứ hai giảng giải Chú Lăng Nghiêm. Cho nên chúng ta có nhân duyên thù thắng mới được trì tụng và hiểu nghĩa lý của Chú Lăng Nghiêm.
Điều quan trọng là hành trì đều đặng mỗi ngày, bất cứ lúc nào, ở đâu, tụng ra tiếng, hoặc tụng thầm, công đức đều không thể nghĩ bàn được. Vì Chú Lăng Nghiêm là đại định, cũng là vua trong các định. Định lực của Chú Lăng Nghiêm hàng phục được tất cả tà ma ngoại đạo. Chỉ cần tụng lên thì chư Thiên, hộ pháp, thiện thần đều cung kính bảo hộ hành giả.
Nam Mô Thủ Lăng Nghiêm hội thượng Phật Bồ Tát (Nguồn: Chú Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa)
Dịch giả: Tỳ Kheo Thích Minh Định - Hằng Lý
+ Các ảnh theo Chú Lăng Nghiêm
-Ảnh bồ tát vi đà - Ảnh hộ pháp vi đà: Xem trang 484 - Chú Lăng Nghiêm giảng giải - HT Tuyên Hóa
- Ảnh Tâm chú Lăng Nghiêm bằng tiếng Phạn - Có phiên âm tiếng Việt - Có ảnh các Tay bắt Ấn pháp gồm: Bạch tản cái Phật đỉnh ấn - Thủ ấn kim cang quyền - Thủ ấn Kim xang chưởng - Thủ ấn Kim cang phược. (Nguồn: Fai đính kèm trang Web bài: Giảng giải Chú Lăng Nghiêm, Tr 22, 29 - HT Tuyên Hóa)
+ So sánh Nam Nữ: Đời sống nhân loại - Pháp thuộc thế gian. Nhân loại đang tiến đến quyền bình đẳng qua thực hành dân chủ - Chiến thắng tập quán phân biệt đẳng cấp trọng nam, khinh nữ.
- Nam Nữ khả ý và không khả ý với nhau
1. Nữ không khả ý Nam: ... Đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông: Nhan sắc - Tài sản - Giới hạnh - Lười biếng - Vô sinh con. Có đủ 5 là khả ý nhất.
2. Nam không khả ý Nữ: ... Đầy đủ năm đức tánh này, một người đàn ông hoàn toàn không khả ý đối với nữ nhân: ... Nhan sắc - Tài sản - Giới hạnh - Lười biếng - Vô sinh con. Có đủ 5 là khả ý nhất.
Trong kinh có nhiều điều Đức Phật dạy liên quan đến người đàn bà, rất đáng đọc và suy ngẫm. (Nguồn: Kinh tương ưn bộ)
+ Thân đàn ông và Thân đàn bà khác nhau:
- Đàn ông có 7 thứ báu: Có chí khí, dạo chơi không sợ hãi - Thường làm chủ, nắm quyền hành - Tự chủ, tự lập tài sản, lập nghiệp - An thân, giúp việc quan quyền, hiếu dưỡng cha mẹ - Thánh tri, hay quyết đoán sự việc - An bang giao lưu khắp cả, sự lý dung hòa - Định tánh, gần gũi người hiền, tôn thờ vị thánh.
- Đàn bà có 5 thứ lậu là chẳng đặng: Làm chủ Thân - Làm chủ trong nhà - Làm chủ người khác - Làm chủ súc vật - Làm vị Thánh. (Nguồn: Kinh Kim Cang)
+ Bổn phận nam nữ: Đức Phật cảm nhận an lạc và hòa hài trong gia đình ở một mức rộng lớn là do người đàn bà. Nhiều trường hợp này đã được miêu tả rõ ràng trong các Kinh Anguttara Nikaya và Samyutta Nikaya.
a- Về phần người chồng:
- Người chồng phải trung thành, lịch sự và không khinh miệt.
- Bổn phận người chồng là trao quyền cho người vợ;
- Thỉnh thoảng cung cấp đồ trang sức cho vợ.
- Người đàn ông phải cải tiến và ổn định kỹ năng và tài thủ công nghệ và chuyên cần vào công việc của mình.
- Phải có khả năng tìm ra những phương tiện để duy trì và giữ vững gia đình.
- Bổn phận người đàn ông là tìm kiếm kiến thức không bao giờ chấm dứt.
b- Mặt khác, bổn phận của phụ nữ:
- Coi sóc nhà cửa và chồng.
- Phục vụ cha mẹ chồng trong tình thương yêu như chính cha mẹ mình.
- Phải trân trọng và kính nể thân quyến và bè bạn bên chồng như vậy bầu không khí thuận thảo và hạnh phúc sẽ được tạo nên trong gia đình khi mới về nhà chồng.
- Phải tìm hiểu bản tính người chồng, xác định hoạt động, tính nết, tâm tính của chồng, và trở nên luôn luôn hữu ích và cộng tác khi mới về nhà chồng.
- Nên lễ phép, tử tế và ý tứ trong sự giao tế với người làm.
- Phải dành dụm tiền kiếm được của người chồng và phải biết sự chi tiêu trong gia đình cần được tính toán và duy trì. Đó là lời khuyên có giá trị vô tận của Đức Phật.
+ Sống thuận thiên chức - Theo luân thường đạo lý:
-Thuận thiên chức: Người nam hợp chủ gia đình, ra ngoài làm kinh tế ...; Người nữ hợp nội trợ, nôi dạy con cái ...
- Theo luân thường đạo lý: Ngũ luân và ngũ thường (Nguồn: Đạo làm người thiện lành)
+ Điều kiện sinh Thiên Nữ khả ái: Một thời nọ, đức Phật trú tại Kosambi. Lúc bấy giờ, Tôn giả Anuruddha đang ngồi thiền định thì rất nhiều Thiên nữ đi đến thưa Tôn giả: Chúng tôi là những Thiên nữ với thân hình khả ái. Trên cả ba lĩnh vực, chúng tôi có quyền lực và tự tại. Thưa Tôn giả, chúng tôi muốn có hình sắc, tiếng hay và lạc thọ như thế nào thì ngay lập tức liền được hình sắc, tiếng hay và lạc thọ như thế ấy.
Rồi Tôn giả Anuruddha xuất thiền, đi đến đảnh lễ và bạch lại với Phật: Trong khi con tọa thiền, các Thiên nữ khả ái đi đến nói “chúng tôi có quyền lực và tự tại”. Bạch Thế Tôn, phải thành tựu bao nhiêu pháp thì nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung mới được sinh về ở chung với các Thiên nữ khả ái đó?
- Này Anuruddha, phải có đầy đủ tám pháp, thế nào là tám?
Ở đây:
1. Nữ nhân đối với chồng ngủ sau, dậy trước, vui vẻ với công việc, xử sự đẹp lòng, nói lời dễ thương;
2. Người chồng kính trọng Sa môn, Bà la môn thì nữ nhân ấy cũng kính trọng, cúng dường;
3. Phàm tất cả việc nhà phải thông thạo, phải biết phương pháp làm hay phải biết sắp đặt người làm;
4. Trong nhà người chồng, nếu có nô tỳ, nhân công thì nữ nhân phải biết quản lý, sắp xếp công việc và phải quan tâm đến đời sống của họ;
5. Tài sản chồng làm ra, nữ nhân phải biết gìn giữ, bảo vệ không để hao phí, mất mát;
6. Nữ nhân quy y Tam bảo;
7. Nữ nhân giữ gìn ngũ giới;
8. Nữ nhân sống với tâm rộng rãi, ưa thích bố thí.
Nếu thành tựu tám pháp này, nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung, được sinh về ở chung với các Thiên nữ khả ái.”
Từ thực tế cuộc sống chúng ta dễ dàng nhận ra rằng, không phải khi nữ nhân thực hành 8 điều này thì phải đợi đến khi quá vãng mới được sinh thiên mà ngay trong đời sống hiện tại, họ cũng sẽ được hưởng hạnh phúc, an lành không khác gì ở cõi Thiên. (Nguồn: Đức Phật nói về phụ nữ)
+ Các pháp: .... Cặp đối phát sanh gồm 12 Tướng các cặp đối lập động tĩnh hợp li, điềm biến thông tắc, sanh diệt ám minh phát sinh Căn tánh:
1. Sáng - Tối hiển bày lẫn nhau => Cái Thấy - Ánh hiện thành SẮC;
2. Động - Tịnh đối chọi => Cái Nghe;
3. Thông - Bít phát hiện lẫn nhau => Tính Ngửi;
4. Không vị - Mặn nhạt xen lẫn nhau => Tính Nếm;
5. Ly - Hợp cọ sát => Biết Xúc chạm;
6. Sinh - Diệt tương tục => Cái Biết - Ánh hiện thành các Pháp;
Cho nên, đức Phật dạy, "Tất cả Pháp lấy Dục làm căn bản" là như thế. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Dụng tâm: Đức Phật dạy "Tất cả do Tâm tưởng sanh". Hiểu câu này thế nào cho đúng?
Bậc Thánh hiền thường nói, Tâm thanh tịnh thì KHÔNG có phiền lão khổ đau, KHÔNG có nghiệp chướng, KHÔNG có oan gia đối đầu .... Đây là nói trong TÂM KHÔNG CÓ phiền lão, chẳng có oan gia nghiệp chướng chướng ngại, cho dù oan nghiệp VẪN THƯỜNG CÓ đầy dãy hàng ngày xuất hiện và chướng ngại mỗi người chúng ta, nhưng trong Tâm ta chẳng có, chẳng ứng sử như thể họ là oan gia nghiệp chướng, cũng chẳng lữu giữ dù chỉ một chút nào cả. Ta hiểu rằng, tất cả chỉ là đang diễn nói Pháp, các cảnh giới sinh diệt hiện ẩn mà thôi - KHÔNG PHẢI chúng trường tồn. Chân Tâm ta mới trường tồn vĩnh hẳng bất biến, trong Tâm chỉ có duy nhất Tình thương yêu muôn người, muôn loài. Chân Tâm/ Phật tánh ai ai cũng có, là Tâm bao la rộng lớn bao trùm khắp Hư không biến pháp giới mà thôi. Theo đó, mọi sự sảy đến chướng ngại Ta, Tâm Ta không xem họ là oan gia, không ứng sử như họ là oan gia thì chính là Chân Tâm thanh tịnh, nên nói rằng chẳng còn có oan nghiệp nữa vậy. (Theo Pháp sư Tịnh Không giảng)
+ III. Phẩm Khó Sử Dụng
1-10. Tâm Không Tu Tập, này các Tỷ-kheo, khó sử dụng.
2. Tâm có tu tập, này các Tỷ-kheo, dễ sử dụng.
3. Tâm không tu tập, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
4. Tâm được tu tập, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
5. Tâm không tu tập, không làm cho hiển lộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi.
6. Tâm được tu tập, được làm cho hiển lộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
7. Tâm không tu tập, không làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
8. Tâm được tu tập, được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
9. Tâm không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đem lại đau khổ.
10. Tâm được tu tập, được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đem lại an lạc.
IV. Phẩm Không Điều Phục
1-10 Tâm Không Điều Phục
1. Tâm không được diều phục, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
2. Tâm được điều phục, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
3. Tâm không được hộ trì, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
4. Tâm được hộ trì, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
5. Tâm không được phòng hộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
6. Tâm được phòng hộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
7. Tâm không được bảo vệ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
8. Tâm được bảo vệ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
9. Tâm không được điều phục, không được hộ trì, không được phòng hộ, không được bảo vệ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
10. Tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
V. Phẩm Đặt Hướng và Trong Sáng
1-10 Tâm Đặt Sai Hướng v.v...
1. -Ví như ... sợi râu của lúa mì/ lúa mạch đặt sai hướng, khi bị tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân/ đổ máu; sự tình này không xảy ra - Vì sợi râu bị đặt sai hướng. Cũng vậy, với tâm bị đặt sai hướng, không thể đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn.
2. Ví như các sợi râu của lúa mì/ lúa mạch đặt đúng hướng - Tay chân đè vào sẽ bị đam thủng, đổ máu. Cũng vậy, với tâm được đặt đúng hướng, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn;
3. Khi tâm một người là uế nhiễm, Ta rõ biết: "Nếu trong thời gian này, người này mệnh chung, người ấy bị rơi vào địa ngục như vậy tương xứng"......
4. Khi tâm một người là thanh tịnh, Ta biết rõ: "Nếu trong thời gian này, người này mệnh chung, người ấy được sanh lên Thiên giới như vậy tương xứng"......
5. Ví như, một hồ nước uế nhớp, bị khuấy động, đục bùn, không thể thấy các con ốc, các con sò,.... cũng vậy, với tâm bị khuấy đục không biết được lợi ích của mình, lợi ích của người, hay cả hai....
6. Ví như, một hồ nước trong sáng, sáng suốt, không bị khuấy đục. Tại đấy có thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn ... Cũng vậy, với tâm không bị khuấy đục biết được lợi ích của mình, của người, hay cả hai......
7. Ví như, .... Tâm được tu tập, được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, là nhu nhuyến và dễ sử dụng.
8. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại vận chuyển nhẹ nhàng hơn tâm. Thật không dễ gì, này các Tỷ-kheo, dùng một ví dụ để diễn tả sự vận chuyển nhẹ nhàng của tâm.
9. Tâm này, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào.
10. Tâm này, là sáng chói và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào.
VI. Phẩm Búng Ngón Tay
1-10 Tâm Được Tu Tập
1. - Tâm này, là sáng chói. Và tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Kẻ phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm kẻ phàm phu ít nghe, không tu tập được.
2. Tâm này, là sáng chói. Và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm bậc Thánh đệ tử nghe nhiều có được tu tập.
3. Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, vị Tỷ-kheo phát từ tâm .....
4-5. Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, vị Tỷ-kheo tu tập từ tâm, tác ý từ tâm; ....
6. Phàm những pháp nào, là bất thiện, thuộc thành phần bất thiện, đứng về phía bất thiện, tất cả các pháp ấy đều được ý đi trước. Ý khởi trước các pháp ấy. Các pháp bất thiện theo sau.
7. Phàm những pháp nào, là thiện, thuộc thành phần thiện, đứng về phía thiện, tất cả các pháp ấy đều được ý đi trước. Ý khởi trước các pháp ấy. Các pháp thiện theo sau.
8. ... Với người phóng dật, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.
9. ... Với người không phóng dật, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận.
10. ...Với người biếng nhác, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.
VII. Phẩm Tinh Tấn
1-10 Tinh Cần Tinh Tấn
1.- ... Với người tinh cần tinh tấn, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh được đoạn tận.
2. ... Với người có dục lớn, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.
3. .... Với người có ít dục, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận.
4. (Như số 2 ở trên, chỉ thế vào "không biết vừa đủ")...
5. (Như số 3 ở trên, chỉ thế vào "biết vừa đủ")...
6. (Như số 2 ở trên, chỉ thế vào "không như lý tác ý")...
7. (Như số 3 ở trên, chỉ thế vào "như lý tác ý")...
8. (Như số 2 ở trên, chỉ thế vào "không tỉnh giác")...
9. (Như số 3 ở trên, chỉ thế vào "tỉnh giác")...
10. ... Với người làm bạn với cái ác, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương I - Một Pháp)
1-10 Hai Loại Tội - Phẩm hình phạt (Quả bóa hiện tại và tương lai)
1.- Như vầy tôi nghe ... Thế tôn nói như sau:
- Có hai loại tội. Tội có kết quả ngay trong hiện tại, và tội có kết quả trong đời sau..... có người thấy vua chúa bắt được người ăn trộm, kẻ vô loại, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, ..... Họ tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ lấy gươm chặt đầu.
Người thấy vậy suy nghĩ như sau: "Do nhân các ác nghiệp như vậy, vua chúa bắt được kẽ ăn trộm, kẻ vô loại, áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi ... họ lấy gươm chặt đầu. Nếu ta làm các ác nghiệp như vậy, vua sẽ bắt ta và áp dụng các hình phạt như vậy". Người ấy sợ hãi tội phạm ngay trong hiện tại, không có cướp phá tài sản của những người khác. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tội có kết quả ngay trong hiện tại.
Tội có kết quả trong đời sau? Ở đây, có người suy xét như sau: .... "... Nếu thân ta làm ác, nói lời ác, nghĩ việc ác, sao ta lại không có thể, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Người ấy sợ hãi tội có kết quả trong đời sau, từ bỏ thân làm ác, tu tập thân làm thiện, từ bỏ miệng nói ác, tu tập miệng nói thiện, từ bỏ ý nghĩ ác, tu tập ý nghĩ thiện, và cư xử tự ngã hoàn toàn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tội có kết quả trong đời sau.
Này các Tỷ-kheo, trên đây là hai loại tội. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: "Chúng ta phải sợ hãi đối với tội có kết quả hiện tại. Chúng ta phải sợ hãi đối với tội có kết quả trong đời sau. Chúng ta phải tránh xa các tội. Chúng ta phải thấy rõ sự nguy hiểm của các tội". ..... chờ đợi rằng người ấy sẽ được giải thoát tất cả tội.
2. Có hai sự tinh cần này rất khó thực hiện ở đời. Sự tinh cần của các gia chủ ở nhà với mục đích bố thí các vật dụng như đồ ăn khất thực, các sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh, và sự tinh cần của các người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, với mục đích từ bỏ tất cả sanh y. Hai sự tinh cần này, naỹ các Tỷ kheo, rất khó thực hiện ở đời.
Trong hai tinh cần này, này các Tỷ-kheo, tối thắng là tinh cần với mục đích từ bỏ tất cả sanh y. ... các Thầy cần phải học tập.
3. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, làm cho nung nấu. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân làm ác, thân không làm thiện, miệng nói lời ác, miệng không nói thiện, ý nghĩ ác, ý không nghĩ thiện. Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Thân ta đã làm ác". Vị ấy bị nung nấu với ý nghĩ: "Thân ta đã không làm thiện". Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Miệng ta đã nói lời ác". Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Miệng ta đã không nói lời thiện". Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Ý ta đã nghĩ ác". Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Ý ta đã không nghĩ thiện". Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, làm cho nung nấu.
4. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, không làm cho nung nấu. Ở đây, có người thân làm thiện, thân không làm ác, miệng nói thiện, miệng không nói ác, ý nghĩ thiện, ý không nghĩ ác. Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Thân ta đã làm thiện". Vị ấy không bị nung nấu với ý nghĩ: "Thân ta đã không làm ác". Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Miệng ta đã nói lời thiện". Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Miệng ta đã không nói lời ác". Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Ý ta đã nghĩ thiện". Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Ý ta đã không nghĩ ác". Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, không làm cho nung nấu.
5. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, đã học được, biết được. Không biết đủ đối với thiện pháp và không có thối chuyển đối với tinh cần. Không có thối chuyển, này các Tỷ-kheo, ta cố gắng như sau: "Ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên trì đế chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh của người, nhờ tinh tấn của người, nhờ cần dõng của người. Ta nhờ không phóng dật, chứng được Chánh Giác. Nhờ không phóng dật, chứng được Vô thượng an ổn khỏi các khổ ách". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy không có thối chuyển, cố gắng như sau: "Ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên trì đế chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh của người, nhờ tinh tấn của người, nhờ cần dõng của người". Thời không bao lâu, này các Tỷ-kheo, các Thầy sẽ đạt được mục đích mà các Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: Đó chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, các Thầy với thắng trí, tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau: "Không có thối chuyển, chúng ta cố gắng, chúng ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên trì đế chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh con người, nhờ tinh tấn con người, nhờ cần dõng con người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
6. Có hai pháp này, .... Ai sống thấy vị ngọt trong các pháp có thể khởi lên kiết sử, ... Do tham không đoạn tận, sân không đoạn tận, si không đoạn tận, nên không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy không giải thoát khỏi khổ đau. Ai sống thấy nhàm chán trong các pháp có thể khởi lên kiết sử, .... Do tham được đoạn tận, sân được đoạn tận, si được đoạn tận, nên được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy giải thoát khỏi khổ đau - Là hai pháp.
7. Hai pháp này, là pháp đen: Không tàm và không quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp đen.
8. Hai pháp này, là pháp trắng. Thế nào là hai? Tàm và quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp trắng.
9. Hai pháp trắng này, che chở cho thế giới. Tàm và quý. Nếu hai pháp trắng này, không che chở cho thế giới, thời không thể chỉ được đây là mẹ hay là em, chị của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của Thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng. Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở cho thế giới, nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của Thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng.
10. Có hai thời kỳ an cư mùa mưa, này các Tỷ-kheo. Thế nào là hai? Tiền an cư và hậu an cư. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai thời kỳ an cư mùa mưa. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Hai Pháp)
III. Phẩm Người Ngu - Chương hai pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, có hai loại người ngu này. Người có phạm tội nhưng không thấy có phạm tội, và người không chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỷ-kheo, có hai loại người ngu này.
Này các Tỷ-kheo, có hai loại người có trí. Người có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình.....
2. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Người độc ác với tâm đầy sân hận, và người có lòng tin với tà kiến....
3. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết....
4. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai. Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai có nói, có thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai không nói, không thuyết....
5. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuyên tạc Như Lai. Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh đã được giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩ là kinh cần phải giải nghĩa.
6. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh cần phải giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩ là kinh đã được giải nghĩa. ...
7. Với người có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: địa ngục hay bàng sanh. Với người không có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: chư Thiên hay loài Người.
8. Với người có tà kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: địa ngục hay loại bàng sanh.
Với người có chánh kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: chư Thiên hay loài Người.
Người theo ác giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: địa ngục hay loài bàng sanh. Người đầy đủ thiện giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: chư Thiên và loài Người.
9. Do quán thấy hai lợi ích, này các Tỷ-kheo, Ta đi đến ngôi rừng hẻo lánh, các trú xứ xa vắng. Thế nào là hai? Thấy tự mình hiện tại lạc trú, và có lòng thương tưởng đến những chúng sanh về sau. Do quán thấy hai lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nên Ta đi đến các ngôi rừng hẻo lánh, các trú xứ xa vắng.
10. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, thuộc thành phần minh. Thế nào là hai? Chỉ và Quán. Chỉ được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận. Quán được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận. Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập. Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Hội chúng Bất hòa và Hòa hợp - Hai hội chúng:
1.- Này các Tỷ-kheo, có hai loại hội chúng này. Thế nào là hai? Hội chúng nông nổi và hội chúng thâm sâu. Tại hội chúng nào có các Tỷ-kheo tháo động, kiêu căng, lắm mồm lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn thả lỏng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng nông nổi.
Tại hội chúng nào có các Tỷ-kheo, không tháo động, không kiêu căng, không dao động, không lắm mồm lắm miệng, không lắm lời, không thất niệm, tỉnh giác, có định tĩnh, có nhất tâm, có các căn được bảo vệ. Đây gọi là hội chúng thâm sâu.
Hội chúng tối thượng giữa hai hội chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúng thâm sâu.
2. Có hai loại: Hội chúng bất hòa và hội chúng hòa hợp. Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng bất hòa.
Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo hòa hợp, hòa kính, không có đấu tranh, hòa hợp như sữa với nước, sống nhìn nhau với cặp mắt từ ái, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng hòa hợp.
Hội chúng tối thượng giữa hai hội chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúng hòa hợp.
3. Có hai loại: Hội chúng không thù thắng và hội chúng thù thắng. Tại hội chúng nào, các trưởng lão Tỷ-kheo sống trong sự đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly, không có gia sức tinh tấn để đạt đến những gì chưa đạt, để chứng được những gì chưa chứng, để ngộ được những gì chưa ngộ. Còn lớp hậu nhân, tùy thuộc hậu kiến của họ, sống trong sự đầy đủ, biếng nhác, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly, không có gia sức tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt, để chứng được những gì chưa chứng, để ngộ được những gì chưa ngộ.. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng không thù thắng.
Tại hội chúng nào, các trưởng lão Tỷ-kheo không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, từ bỏ não hại nặng đọa lạc, dẫn đầu trong đời sống viễn ly, có gia sức tinh tấn để đạt đến những gì chưa đạt, để chứng được những gì chưa chứng, để ngộ được những gì chưa ngộ. Còn lớp hậu nhân, tùy thuận hậu kiến của họ, không sống trong sự đầy đủ, không biếng nhác, từ bỏ gánh nặng đọa lạc, dẫn đầu trong đời sống viễn ly, có gia sức tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt, để chứng được những gì chưa chứng, để ngộ được những gì chưa ngộ.. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng thù thắng.
Hội chúng tối thắng trong hai hội chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúng thù thắng.
4. Có hai hội: Hội chúng không phải Thánh và hội chúng bậc Thánh. Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo không như thật rõ biết: "Đây là khổ"; không như thật rõ biết: "Đây là khổ tập"; không như thật rõ biết: "Đây là khổ diệt"; không như thật rõ biết: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng không phải Thánh.
Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo như thật rõ biết: "Đây là khổ"; như thật rõ biết: "Đây là khổ tập"; như thật rõ biết: "Đây là khổ diệt"; như thật rõ biết: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng bậc Thánh.
Hội chúng tối thắng trong hai hội chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúng bậc Thánh.
5. Có hai loại: Hội chúng cặn bã và hội chúng tinh ba. Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo đi đến con đường dục, đi đến con đường sân, đi đến con đường si, đi đến con đường sợ hãi, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng cặn bã.
Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo không đi đến con đường dục, không đi đến con đường sân, không đi đến con đường si, không đi đến con đường sợ hãi, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng tinh ba.
Hội chúng tối thắng trong hai hội chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúng tinh ba.
6. Có hai hội: Hội chúng được huấn luyện trong khoa trương, không được huấn luyện trong chất vấn và hội chúng được huấn luyện trong chất vấn, không được huấn luyện trong khoa trương. Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo đối với các kinh điển do Như Lai tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa siêu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các kinh điển ấy được thuyết giảng, họ không khéo nghe, không lóng tai, không an trú tâm để hiểu biết chúng, không nghĩ rằng các pháp ấy cần phải lãnh thọ, cần phải học thuộc lòng. Nhưng đối với các kinh điển thi văn do thi sĩ làm ra, với các nguyên âm hoa mỹ, với các phụ âm hoa mỹ, các kinh thuộc ngoại giáo, được các đệ tử ngoại giáo nói lên, khi các kinh điển ấy được thuyết giảng, họ khéo nghe, họ lóng tai, họ an trú tâm để hiểu biết chúng, họ nghĩ rằng các pháp ấy cần phải lãnh thọ, cần phải học thuộc lòng. Và sau khi học thuộc lòng các pháp ấy, họ không hỏi đi hỏi lại cùng nhau, không có mở rộng ra để thảo luận với những câu hỏi như: "Cái này là gì? Thế nào là ý nghĩa của cái này?" Họ không mở rộng những gì được che kín, hạng không phới bày những gì không được phơi bày, họ không giải nghi về những điểm nghi vấn trong Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng được huấn luyện trong khoa trương, không được huấn luyện trong chất vấn.
Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo đối với các kinh điển thi văn do thi sĩ làm ra, với các nguyên âm hoa mỹ, với các phụ âm hoa mỹ, các kinh thuộc ngoại giáo, được các đệ tử ngoại giáo nói lên, khi các kinh điển ấy được thuyết giảng, họ không khéo nghe, họ không lóng tai, họ không an trú tâm để hiểu biết chúng, họ không nghĩ rằng các pháp ấy cần phải lãnh thọ, cần phải học thuộc lòng. Nhưng đối với các kinh điển do Như Lai tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa siêu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các kinh điển ấy được thuyết giảng, họ khéo nghe, lóng tai, họ an trú tâm để hiểu biết chúng, họ nghĩ rằng các pháp ấy cần phải lãnh thọ, cần phải học thuộc lòng. Và sau khi học thuộc lòng các pháp ấy, họ hỏi đi hỏi lại cùng nhau, họ mở rộng ra để thảo luận với những câu hỏi như sau : "Cái này là gì? Thế nào là ý nghĩa của cái này?" Họ mở rộng những gì được che kín, họ phới bày những gì không được phơi bày, họ giải nghi về các điểm nghi vấn trong Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng được huấn luyện trong chất vấn, không được huấn luyện trong khoa trương.
Hội chúng tối thắng trong hai hội chúng này, tức là hội chúng được huấn luyện trong chất vấn, không được huấn luyện trong khoa trương.
7. Có hai loại: Hội chúng tôn trọng tài vật, không tôn trọng diệu pháp và hội chúng tôn trong diệu pháp, không tôn trọng tài vật. Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo trước mặt các gia chủ bận áo trắng, tự tán thán lẫn nhau như sau: "Tỷ-kheo này là bậc giải thoát cả hai phần, Tỷ-kheo này là bậc tuệ giải thoát, Tỷ-kheo nàylà bậc Thân chứng, Tỷ-kheo này là bậc Kiến chí, Tỷ-kheo này là bậc Tín giải thoát, Tỷ-kheo này là bậc Tuệ giải thoát, Tỷ-kheo này là bậc Tùy pháp hành, Tỷ-kheo này là bậc Tùy tín hành, Tỷ-kheo này là bậc có giới hạnh, theo thiện pháp, Tỷ-kheo này là kẻ Ác giới, theo Ác pháp". Do vậy, họ được các lợi dưỡng. Sau khi được các lợi dưỡng, họ thọ hưởng, bị trói buộc, mê say, đắm trước, không thấy các sự nguy hại, không hiểu rõ sự giải thoát khỏi các lợi dưỡng ấy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng tôn trọng tài vật, không tôn trọng diệu pháp.
Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo trước mặt các gia chủ bận áo trắng, không tự tán thán lẫn nhau như sau: "Tỷ-kheo này là bậc giải thoát cả hai phần, Tỷ-kheo này là bậc tuệ giải thoát, Tỷ-kheo này là bậc Thân chứng, Tỷ-kheo này là bậc Kiến chí, Tỷ-kheo này là bậc Tín giải thoát, Tỷ-kheo này là bậc Tùy pháp hành, Tỷ-kheo này là bậc Tùy tín hành, Tỷ-kheo này là bậc có giới hạnh, theo thiện pháp, Tỷ-kheo này là kẻ Ác giới, theo Ác pháp". Do vậy, họ được các lợi dưỡng, họ thọ hưởng các lợi dưỡng ấy, không bị trói buộc, không bị mê say, không đắm trước, thấy các sự nguy hại, hiểu rõ sự giải thoát khỏi các lợi dưỡng ấy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng tôn trọng diệu pháp, không tôn trọng tài vật. Này các Tỷ-kheo, có hai loại hội chúng này. Hội chúng tối thắng trong hai hội chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúng tôn trọng diệu pháp, không tôn trọng tài vật.
8. Có hai loại: Hội chúng không đồng đẳng và hội chúng đồng đẳng. Tại hội chúng nào, nghiệp phi pháp được thi hành, nghiệp đúng pháp không được thi hành, nghiệp phi luật được thi hành, nghiệp đúng luật không được thi hành, nghiệp phi pháp được phát huy, nghiệp đúng pháp không được phát huy, nghiệp phi luật được phát huy, nghiệp đúng luật không được phát huy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng không đồng đẳng.
Tại hội chúng nào, nghiệp đúng pháp được thi hành, nghiệp phi pháp không được thi hành, nghiệp đúng luật được thi hành, nghiệp phi luật không được thi hành, nghiệp đúng pháp được phát huy, nghiệp phi pháp không được phát huy, nghiệp đúng luật được phát huy, nghiệp phi luật không được phát huy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng đồng đẳng.
Hội chúng tối thắng trong hai hội chúng này tứ là hội chúng đồng đẳng.
9. Có hai loại: Hội chúng phi pháp và hội chúng đúng pháp. Hội chúng tối thắng trong hai hội chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúng đúng pháp.
10. Có hai loại: Hội chúng thuyết phi pháp và hội chúng thuyết đúng pháp. Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo khởi sự tranh tụng hợp pháp hay phi pháp. Sau khi khởi lên sự tranh tụng ấy, họ không tin cho nhau biết và không tìm cách tin cho nhau biết, họ không hòa giải cùng nhau và không tìm cách đi đến hòa giải. Họ cương quyết không tin cho nhau biết, họ cương quyết không hòa giải với nhau, họ không từ bỏ tranh tụng ấy, họ kiên trì tranh tụng ấy, chấp thủ, thiên chấp và tuyên bố: "Chỉ có đây mới là sự thật, ngoài ra là hư ngụy". Này các Tỷ-kheo, đây là hội chúng thuyết phi pháp.
Tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo khởi lên sự tranh tụng hợp pháp hay phi pháp. Sau khi khởi lên sự tranh tụng ấy, họ tin cho nhau biết và tìm cách tin cho nhau biết, họ hòa giải cùng nhau và tìm cách đi đến hòa giải. Họ cương quyết tin cho nhau biết và cương quyết hòa giải với nhau, họ từ bỏ tranh tụng ấy, họ không kiên trì tranh tụng ấy, không chấp thủ, không thiên chấp và không tuyên bố: "Chỉ có đây là sự thật, ngoài ra là hư ngụy". Này các Tỷ-kheo, đây là hội chúng thuyết đúng pháp.
Hội chúng tối thắng trong hai hội chúng này, tức là hội chúng thuyết đúng pháp. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Hai pháp)
XII. Phẩm Hy Cầu (Hy vọng cầu mong)
1 - 11 Hy Cầu (Đức Phật dậy nên hy vọng và cầu nguyện mình được như các đệ tử xuất sắc của ngài):
1.- Tỷ-kheo có tín tâm, này các Tỷ-kheo, nếu hy cầu một cách chơn chánh, sẽ hy cầu như sau: "Mong rằng ta sẽ như Sàriputta và Moggallàna". Đây là cán cân, này các Tỷ-kheo, đây là đồ đo lường đối với các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, tức là Sàriputta và Moggallàna.
2. Tỷ-kheo-ni có tín tâm, này các Tỷ-kheo, nếu hy cầu một cách chơn chánh, sẽ hy cầu như sau: "Mong rằng ta sẽ như Tỷ-kheo-ni Khemà và Uppalavannà". Đây là cán cân, này các Tỷ-kheo, đây là đồ đo lường đối với các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, tức là Tỷ-kheo-ni Khemà và Uppalavannà.
3. Cư sĩ có tín tâm, này các Tỷ-kheo, nếu hy cầu một cách chơn chánh, sẽ hy cầu như sau: "Mong rằng ta sẽ như gia chủ Citta và Hatthaka ở Alavì". Đây là cán cân, này các Tỷ-kheo, đây là đồ đo lường đối với các đệ tử cư sĩ của Ta, tức là gia chủ Citta và Hatthaka ở Alavì.
4. Nữ cư sĩ có tín tâm, này các Tỷ-kheo, nếu hy cầu một cách chơn chánh, sẽ hy cầu như sau: "Mong rằng ta sẽ như nữ cư sĩ Khujjuttarà và Velukantakiyà, mẹ của Nanda". Đây là cán cân, này các Tỷ-kheo, đây là đồ đo lường đối với các đệ tử nữ cư sĩ của Ta, tức là nữ cư sĩ Khujjuttarà và Velukantakiyà, mẹ của Nanda.... Còn nhiều lời dạy nữa. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Hai pháp)
XV. Phẩm Nhập Định
1-17 Nhập Định (hay Thiền chứng)
1.- Này các Tỷ-kheo, có hai pháp này. Thế nào là hai? Thiện xảo nhập định và thiện xảo xuất định. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp.
2-17. (Như trên đối với các pháp sau đây:)
2. Chất thực và nhu hòa
3. Kham nhẫn và dịu hiền
4. Hòa thuận và đón tiếp
5. Bất hại và thanh tịnh
6. Không hộ trì các căn và không tiết độ trong ăn uống
7. Hộ trì các căn và tiết độ trong ăn uống
8. Tư trạch lực và tu tập lực.
9. Niệm lực và định lực.
10. Chỉ và quán
11. Phá giới và phá kiến
12. Cụ túc giới và cụ túc kiến
13. Giới thanh tịnh và kiến thanh tịnh
14. Kiến thanh tịnh và tinh tấn như kiến
15. Không biết đủ đối với các thiện pháp và không thiên về tinh tấn
16. Thất niệm và không tỉnh giác
17. Niệm và tỉnh giác. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Hai pháp)
+ Người thiện ác:
I. Phẩm Người Ngu (1-10 Người Ngu)
1.- Như vầy tôi nghe..... Thế Tôn nói như sau:
- Phàm có sự sợ hãi nào khởi lên, này các Tỷ-kheo, tất cả sự sợ hãi ấy khơỉ lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất cả những tai họa ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí....
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi, người ngu có nguy hiểm, người trí không có nguy hiểm: người ngu có tai họa, người trí không có tai họa. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi đến với người trí, không có nguy hiểm đến với người trí, không có tai họa đến với người trí.
Do vậy, ở đây, cần phải học tập như sau: Thành tựu với ba pháp nào, một người ngu được biết là như vậy, hãy từ bỏ ba pháp ấy. Tướng của người ngu/ Người trí ở trong hành động (của mình). Trí tuệ chói sáng trong nếp sống (của mình)
Thành tựu với ba pháp, người ngu được biết đến. Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác....
Thành tựu với ba pháp, người trí được biết đến. Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện....
Do vậy, cần và phải học tập thành tựu với ba pháp, người trí được biết đến; hãy chấp nhận ba pháp ấy, và thực hành chúng....
3.- Có những pháp này, là đặc tính, là tướng trạng, là ẩn tích của người ngu. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác. Nếu người ngu này, này các Tỷ-kheo, không suy nghĩ ác, không nói ác và không làm ác, thời lấy gì người hiền trí biết được: "Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân"? Vì rằng, này các Tỷ-kheo người ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác, nên các người hiền trí biết được: "Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân". Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tánh của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của người ngu.
Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người hiền trí. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện. Nếu người hiền trí này, này các Tỷ-kheo, không suy nghĩ thiện, không nói thiện và không làm thiện, thời lấy gì người hiền trí biết được: "Người này là người hiền trí, bậc chân nhân"? Vì rằng, này các Tỷ-kheo người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện, nên các người hiền trí biết được: "Người này là người hiền trí, là bậc chân nhân". Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tánh của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ấn tích của người hiền trí.
4.- Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Phạm tội, không thấy là có phạm tội; phạm tội sau khi thấy là có phạm tội, không như pháp sám hối; được người khác pháp lộ có tội, không như pháp chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Phạm tội, thấy là có phạm tội; phạm tội sau khi thấy là có phạm tội, như pháp sám hối; được người khác pháp lộ có tội, như pháp chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
5.-Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Không như lý suy tư, đặt câu hỏi; không như lý suy tư, trả lời câu hỏi; khi người khác như lý trả lời câu hỏi với những câu, những chữ vuông tròn, với những hành văn trơn tru chải chuốt, không có chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Như lý suy tư, đặt câu hỏi; Như lý suy tư, trả lời câu hỏi; khi người khác như lý trả lời câu hỏi với những câu, những chữ vuông tròn, với những hành văn trơn tru chải chuốt, liền chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
6.-Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm bất thiện, miệng nói bất thiện, ý nghĩ bất thiện. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
7.-Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm có tội, miệng nói có tội, ý nghĩ có tội. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm không có tội, miệng nói không có tội, ý nghĩ không có tội. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
8.-Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm có não hại, miệng nói có não hại, ý nghĩ có não hại. ... (như trên)
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm không có não hại, miệng nói không có não hại, ý nghĩ không có não hại. ... (như trên)
9.-Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu vụng về, không phải bậc chân nhân, tự mình xử sự như một kẻ mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách và tạo nên nhiều điều vô phước. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác (như trên) ...
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí không vụng về, là bậc chân nhân, tự mình xử sự không như một kẻ mất gốc, không bị thương tích, không phạm tội, không bị kẻ trí quở trách và tạo nên nhiều phước đức ... (như trên) ...
10.- Do thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba cấu uế, tương xứng như vậy, bị quăng vào địa ngục. Thế nào là ba? Ác giới và cấu uế của ác giới không được đoạn tận; tật đố và cấu uế của tật đố không được đoạn tận; xan tham và cấu uế của xan tham không được đoạn tận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba cấu uế này, như vậy bị quăng vào địa ngục tương xứng.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy được sinh lên cõi Trời. Thế nào là ba? Có giữ giới và cấu uế của các giới được đoạn tận; không có tật đố và cấu uế của tật đố được đoạn tận; không có xan tham và cấu uế của xan tham được đoạn tận. Thành tựu với ba pháp này, đoạn tận ba cấu uế này, tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời.
+ Tùy duyên: Đức Phật nói rằng: “Duyên đến nên quý, duyên hết nên buông. Hoa nở là hữu tình, hoa rơi là vô ý. Người đến là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Duyên sâu thì hợp, duyên mỏng thì tan. Vạn pháp do duyên, vạn sự tùy duyên”. Người nên đến thì sẽ đến, người muốn đi thì đừng nên níu kéo. Đừng ép người, đừng ép mình, đừng bận tâm, đau lòng chỉ vì một chuyện, sống trên đời nên học cách "tùy duyên".(Nguồn: Nhân duyên - N.T. Bích Vân)
+ Duyên nợ: Đức Phật có câu: “Bất luận bạn gặp ai, người đó là người cần xuất hiện trong cuộc đời của bạn, tuyệt đối chẳng phải ngẫu nhiên, người đó sẽ dạy cho bạn một điều gì đó”. Đây đều là “nhân duyên” quyết định..... Mỗi người đến với thế gian đều có một số phận, một sứ mệnh khác nhau, có người mang đến cho ta niềm vui, niềm hạnh phúc, có người lại mang đến sự buồn phiền, khổ đau, sự oán trách, dằn vặt.
Phật dạy rằng, kiếp trước 500 lần ngoái đầu nhìn lại mới đổi được kiếp này một lần gặp thoáng qua. Cuộc đời ai cũng sẽ gặp một người mà ta yêu thương thật lòng, một người mà suốt đời này ta muốn gắn bó và ở cạnh bên nhưng đôi khi lại chẳng thể đến được với nhau. Đó là những người có duyên nhưng không có phận. Quả thực, duyên phận là điều gì đó rất kỳ lạ, không một ai có thể hiểu rõ và lý giải hết được. Những người “hữu duyên” vô tình quen biết nhưng lại thấu hiểu, yêu mến nhau. Có người dù xa lạ, dù chưa hề biết nhau nhưng vừa gặp mặt đã cảm thấy vô cùng thân thiết, quen thuộc như đã từng gặp nhau ở đâu rồi. Ngược lại, có những người vừa mới gặp đã thấy ác cảm, muốn tránh xa. Cũng có nhiều người có thể hài hòa với nhau, cảm mến nhau nhưng lại chẳng thể nào gần được nhau.
Đức Phật nói rằng: “Kiếp sống con người chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy luân hồi. Kiếp này nối tiếp kiếp khác, thừa hưởng và kế thừa lẫn nhau. Con người gặp nhau là bởi chữ “duyên”, sống và yêu nhau là bởi chữ “nợ”. Có người lập gia đình nhưng cuộc sống của họ lại giống như một cơn ác mộng, họ sống trong khổ đau, trong muộn phiền, trong nước mắt. Họ ước giá như mình chưa từng bước vào cuộc hôn nhân bất hạnh này, họ đấu tranh, vẫy vùng để cố thoát ra nhưng cũng không tài nào dứt ra được. Tất cả là do nợ, vì chữ nợ mà dù muốn trốn tránh cũng không được, buông bỏ cũng không xong. Và rồi cho đến một thời điểm nào đó, hết nợ thì duyên cũng hết, họ rời xa nhau, đường ai nấy đi, thậm chí không còn bất cứ mối liên hệ với nhau hoặc nếu có gặp lại cũng vui vẻ, chứ không còn gây đau khổ cho nhau nữa. Rồi cũng có những người được hưởng hạnh phúc trọn vẹn từ cuộc hôn nhân của chính mình, họ được yêu thương, được chiều chuộng, được chở che. Với họ, gia đình là một tổ ấm thật sự, cuộc sống của họ tràn ngập tiếng cười, niềm vui và dường như chỉ có một gam màu hồng của hạnh phúc. Chứng tỏ phước đức của họ từ kiếp trước là vô biên. (Nguồn: Chữ Nhân - duyên - Nợ)
+ Nhân Duyên Tình Yêu nảy nở qua luân hồi: Ví dụ về Ngài A Nan - Đệ tử gần gữi của Đức Phật Thích Ca mâu Ni. Trích đoạn HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm: ... Trong 500 đời trước, A-nan và con gái của Ma-đăng-già đã là vợ chồng của nhau. Thế nên khi cô ta thấy A-nan, liền phải lòng – cô ta đã gặp lại chồng mình trong những đời trước. Tình yêu của cô ta đối với A-nan là không thể nào tránh khỏi được. Thực vậy, có lẽ họ đã có lời thề nguyền trong những kiếp trước. Trong kiếp sống sau cùng gần nhất, cô ta có lẽ đã nói với A-nan, “Trong tương lai, chúng ta sẽ làm vợ chồng nhau mãi mãi. Đừng bao giờ xa nhau.” Đó là lý do tại sao tình yêu giữa hai người quá mạnh đến mức họ yêu nhau ngay khi vừa thấy nhau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Định nghĩa Chủng tử (Theo Duy Thức Học mới thật là Chủng tử): Bốn đại là chỗ nương tựa của tất cả các pháp do chúng tạo ra (pháp sở tạo). [Bốn đại này được gọi là tứ đại năng tạo; còn sắc, hương, vị, xúc được gọi là tứ đại sở tạo. Khi học trong Pháp tướng, thì các vị sẽ hay gặp mấy chữ đó. Tứ đại năng tạo và tứ đại sở tạo là sao? Tứ đại năng tạo là đất, nước, gió, lửa. Tứ đại sở tạo là sắc, hương, vị, xúc. Sắc, hương, vị, xúc nương nơi đất, nước, gió, lửa mà có. Gộp chung lại thì tất cả các sự vật hình tướng giữa thế gian này đều không ngoài tứ đại năng tạo và tứ đại sở tạo.]
Như hư không phổ biến khắp nơi, tuy có thể là đại, nhưng không gọi là chủng.
[Hư không thì khắp nơi nào cũng có hết. Cho nên, nếu nói đại, thì được; còn nói chủng thì không được. Vì nó không có sinh ra một cái gì hết, nó không phải là một cái vật thể, là cái gì hết].
Lại nữa, như hạt giống cây cỏ, tuy có thể sinh mầm nhánh mà được gọi là chủng, nhưng không thể gọi là đại. [Hạt giống, cây cỏ không gọi là đại.]
Nay ở đây đất, nước, lửa, gió, không những thể, tướng và dụng đều được gọi là đại mà còn chủng tử của tất cả sắc pháp đều được gọi là đại chủng.
[Nên nhớ chữ chủng tử này nó cũng có một cái phần tương đương, nó đồng danh từ chủng tử như ở trong Duy thức nói. Nhưng chủng tử ở trong Duy thức mới thật là chủng tử; còn chủng tử đây bất quá chỉ đối với sự vật hiện hành mà gọi là chủng tử, nhưng kỳ thật nó cũng hiện hành chứ không phải là chủng tử. Bởi vì theo Duy thức những cái gì hay mầm mống gì ta không huân tập vào trong Đệ bát thức, cái đó là thân nhân của tất cả các pháp, thì chính cái đó mới là thân sinh chủng tử. Từ nơi chủng tử thân sinh thân nhân ở nơi Đệ bát thức đó mà sinh hiện ra các pháp, thì cái đó mới thật là chủng tử. Như cái chủng tử đó mà hiện hành ra các pháp thì gọi là chủng tử sinh hiện hành. Như vậy đất cũng là hiện hành, gió cũng là hiện hành, nước cũng là hiện hành, lửa cũng là hiện hành. Nhưng hiện hành mà phải gọi là chủng, chứ kỳ thật theo lý Duy thức thì nó cũng là hiện chứ không phải chủng. Có thể gọi là hiện hành sinh hiện hành. Chỉ có cái chủng tử huân tập A-lại-da thức mới thật sự là chủng; còn tất cả các pháp được chủng tử đó hiện hành ra thì đều là hiện hành. Đó gọi là chủng sinh hiện. Nhưng đất, nước, gió, lửa hiện hành mà nó lại sinh ra cái hiện hành khác, nghĩa là hiện hành các sự vật khác. Cho nên tương đối mà cho nó là chủng chứ không phải chủng như chủng ở trong A-lại-da thức. Chủng tử là vậy đó. Thành ở đây chủng tử mà chủng tử hiện hành cũng như cái hạt giống bắp, hạt giống đậu cũng là chủng tử (hạt giống), nhưng đó là chủng tử nhưng mà hiện hành. Hiện sinh hiện, như hạt giống là hiện hành sinh ra hạt giống là hiện hành. Chủng tử mà sinh ra cây lúa hiện thành quả, hiện hành của hiện hành.] (Nguồn: Luận Câu Xá - HT Thích Thiện Siêu)
I- Chủng tử tự với Mạn Đà La Trì Chú Đại Bi:
+ Chủng Tử Tự: Chủng tử phát xuất từ đâu: Mời xem Thầy Hằng Trường giảng tại Clip ; Chủng tử tự 1 và Chủng tử tự 2
+ Chủng tử : ... Bởi vậy cho nên trong kỳ Pháp hội 2017 này, còn gọi là Mandala Đại Bi Quán Âm, Thầy chọn một chủng tử tự hay một hạt giống quang minh. Hạt giống quang minh này chính là chủng tử JA. JA có nghĩa là Nhập Thế Gian Hải Thanh Tịnh. Thế nào là hạt giống quang minh? Hạt giống quang minh tức là Dharma. Dharma hay pháp có nghĩa là khi các Bác càng tụng, càng chuyên chú thì sự khai mở của hạt giống này sẽ bùng vở lên, giúp cho mình chứng ngộ được sự thanh tịnh mà đức Phật đã từng chứng ngộ. Ý nghĩa của chủng tử JA rất hay, nhập thế gian là đi vào trong đời, hải là biển vô cùng rộng lớn. .... Năm nay, chủng tử JA sẽ được dùng để kết nối mình với Quán Âm Bồ tát và còn được dùng vào một mục đích khác nữa là mình xin nhập thế gian hải thanh tịnh. Cho nên sau khi xong Mandala, khi chúng ta đi vào đời làm việc thì lúc nào cũng được sự thanh tịnh cả. Mình đi tới sự thanh tịnh, nhập vào trong sự thanh tịnh chứ không bị tràn ngập trong sự đau khổ và nghiện ngập. Ký hiệu chủng tử JA mời xem tại trang nguồn: Thầy Hằng Trường giảng về JA
+ 42 Chủng tử tự: Giải thích này dựa vào tinh thần và triết lý cũng như sự tu tập của 42 chủng tử tự trong kinh Hoa Nghiêm, không phải là sự tu tập của thiền định hít thở thông thường mà các Bác đã quen rồi. Cho nên Thầy hy vọng là các Bác có thể tới tu tập một chủng tử tự trong Mandala, chủng tử tự đó chính là chủng tử JA. Chủng tử JA là chủng tử tự mà ánh sáng lan tỏa để khi chúng ta đi vào trong cuộc sống phàm tục thì tâm mình lúc nào cũng thanh tịnh, nhẹ nhàng. Chủng tử tự JA còn có cái tên rất là hay gọi là Nhập Thế Gian Hải Thanh Tịnh. Nhập vào sự thanh tịnh ở trong biển ô trược của thế gian. (trang nguồn: Thầy Hằng Trường giảng về JA)
+ 42 Chủng Tử Tự trong Kinh Hoa Nghiêm: Kinh giảng về thứ tự tu hành từ thấp đến cao, một bản đồ tu hành, chỉ dẫn con đường tu đạo đến quả vị Bồ Tát, Phật quả.
Đức Phật gói nghém cảnh giới bất nhị/ Vô sắc vô hiện của Ngài vào 42 chủng tử Tự, qua Mạn đà la ... biểu hiện bản tánh của Ngài. 42 chủng tử tự (Đỉnh cao của trí tuệ) ứng vô số cửa giải thoát. Sử dụng để giúp chúng sinh, ví dụ một người đang buồn, nếu dụng chủng tử tự và câu Chú tương ứng nhập vào Tâm anh ta, mang năng lượng tình thương vào hóa giải (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
II- Chủng tử Theo Minh Triết Mới
- Chủng tử 2: Định đoạt tính chất của thể dĩ thái như là một hiện thể mà nhờ đó các thần lực cung có thể tiếp xúc được với thể xác trọng trược. Nó định giới hạn cho cấu trúc dĩ thái hay là sinh võng (vital web) mà năng lượng sau này sẽ luân lưu theo đó và có liên kết một cách đặc biệt với trung tâm lực đặc biệt (trong số 7 bí huyệt) vốn sẽ là bí huyệt sinh động và linh hoạt nhất trong lần luân hồi tới.
- Chủng tử 3 mang lại chìa khóa cho thể cảm dục mà con người sẽ được an trụ vào đó trong lần luân hồi tới. Đừng quên rằng ở đây tôi đang nói về kẻ thường nhân chứ không nói đến người tiến hóa, đệ tử hay đạo đồ. Chính chủng tử này – qua các lực mà nó thu hút – giúp con người lập liên hệ trở lại với những người mà trước đây y yêu thương hay đã có sự tiếp xúc chặt chẽ. Một sự kiện cần được nhận biết rằng ý tưởng của nhóm chi phối một cách chủ quan tất cả các lần lâm phàm, và con người đi đầu thai, không những do ý muốn của riêng y là khao khát có được kinh nghiệm ở cõi trần mà còn theo sự thôi thúc của nhóm (group impulse) và theo cùng với nghiệp quả của nhóm cũng như hợp với nghiệp quả của riêng y.
+ Tư tưởng hạt giống – chủng đề (seed thought)
Nói chung, có hai phương pháp tham thiền. Trong phương pháp đầu tiên (“tham thiền hữu chủng”) tâm trí tập trung vào một "tư tưởng hạt giống" – đó là một từ, một cụm từ hoặc một câu được phân tích trong khi tham thiền. Đây là loại tham thiền phân tích và là phương pháp được sử dụng trong khóa học này. Phương pháp thứ hai ở trình độ cao hơn, được gọi tham thiền "vô chủng," liên quan đến việc sử dụng khả năng trực giác. Tuy nhiên, nếu tâm trí chưa phát triển trước đó, người học viên chưa sẵn sàng sẽ rơi vào một trạng thái hôn mê nguy hiểm hoặc trạng thái vô thức. (Nguồn: Khóa thiền MQ - MFVN)
+ Tham thiền vô chủng (meditation without seed): Khi tham thiền, tập trung vào việc chỉnh hợp Chân Ngã và tạo ra sự trống không (vacuum) giữa bộ óc xác thân với Chân Ngã, kết quả là thiên tính hiện ra và tất nhiên là hình hài bị phá vỡ, đưa tới sự giải thoát.(TVTTHL, 58)
Xem: Tổng hợp về tham thiền huyền môn; Thần Bí và Huyền bí gia ...
+ Tứ duyên là bốn điều kiện cần có để một hiện tượng (một pháp) có thể phát sinh.
1.Nhân duyên
Nhân duyên là điều kiện đầu, điều kiện chính, cũng như hạt bắp là nhân duyên của cây bắp. Ta có thể dịch là chief cause hay primary cause. Chữ nhân 因 được viết giống như có bốn bức tường giới hạn tầm phát triển, ở giữa có chữ đại 大 (là lớn). Cái lớn nhưng nó nằm trong khuôn khổ rất nhỏ nên chúng ta chưa thấy được, nhưng nếu có những điều kiện khác thì nó sẽ trở thành lớn. Ví dụ như một hạt hướng dương rất nhỏ, nhưng trong đó có chứa một cây hướng dương rất lớn. Cây hướng dương đó nằm trong giới hạn của hạt hướng dương. Sau này nhờ đất, nước, ánh sáng, mặt trời..., những bức tường xung quanh được lấy đi và hạt hướng dương trở thành lớn thiệt.
Nhân duyên tức là điều kiện hạt nhân (hạt giống), điều kiện chính mà chúng ta dịch là primary cause hay chief cause. Nhưng cả hai chữ đều không diễn tả được cái hay của chữ hetupratyaya.
2. Thứ đệ duyên
Thứ đệ là có thứ tự, có lớp trước lớp sau. Nếu không có cái trước thì làm sao có cái sau? Thứ đệ duyên có khi còn gọi là đẳng vô gián duyên. Đẳng là đều đều. Vô gián là không có sự gián đoạn. Đây là điều kiện thứ hai, điều kiện của sự liên tục như một vòng xích. Dây xích có nhiều khoen, có khoen này thì mới có khoen kia. Nếu khoen này đứt thì không thể nào nối liền khoen kia được. Vậy thì giây phút trước là điều kiện thứ đệ duyên cho giây phút sau. Không có giây phút trước thì sẽ không có giây phút sau, cũng như không có cha mẹ thì làm sao có chúng ta. Nhờ có cha mẹ nên chúng ta mới tiếp nối được ông bà, tổ tiên mình. Cha mẹ là đẳng vô gián duyên hay thứ đệ duyên, dịch là immediate subcondition. Tiếng Phạn là Samanantarah-pratyaya.
3. Duyên duyên
Nói cho đủ là Sở duyên duyên. Sở duyên duyên là đối tượng của nhận thức (tiếng Phạn là Alambanapratyaya), gọi tắt là Duyên duyên. Có chủ thể thì phải có đối tượng. Tri giác phải có đối tượng của tri giác. Cái ghét và cái thương đều phải có đối tượng của ghét và thương thì nó mới sinh khởi ra được; cái vui, cái buồn đều phải có đối tượng thì mới sinh khởi ra được. Vì vậy, điều kiện thứ ba là đối tượng, chúng ta dịch là objective subcause.
4. Tăng thượng duyên
Tăng thượng duyên tiếng Phạn là Adhipatipratyaya. Tăng thượng duyên là điều kiện giúp cho những duyên khác có khả năng đưa ra đời một cái quả. Bản dịch tiếng Việt của chúng ta cũng dễ hiểu:
Nhân duyên, Thứ đệ duyên
Duyên duyên, Tăng thượng duyên
Bốn duyên sinh các pháp
Không có duyên thứ năm (Nguồn: Pháp Nhân Duyên - TS Thích Nhất Hạnh)
+ Phật duyên - Duyên tu hành - Thiện căn: ... Có một lần, tôi dẫn con gái lớn tới chùa Kim Luân, bởi vì tôi muốn xin Hòa Thượng gia hộ cho nó, với hy vọng nó tìm được đối tượng tốt để kết hôn. Hòa Thượng nhìn con tôi một lát và rất từ bi rồi nói với tôi rằng: Đứa nhỏ này rất có Phật duyên, rất tiếc là trên phương diện tình cảm nam nữ lại quá nặng nề, nếu đặt cái tình cảm này vào việc học Phật hay tu Phật thì nó sẽ được rất nhiều thành quả. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị - Q.3)
+ KINH DUYÊN SINH (Dịch giả: Thích-Tâm-Châu)
DUYÊN-SINH (1) (Tức: Phật thuyết Đại-thừa Đạo-can kinh)
Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Thế-Tôn ở trong núi Kỳ-Xà-Quật thuộc thành Vương-Xá, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỳ-Khưu và các vị Đại Bồ-Tát.
Cụ Thọ Xá-Lỵ-Tử nói lời ấy rồi, Đại Bồ-Tát Di-Lặc đáp lại Cụ Thọ Xá-Lỵ-Tử rằng: "Nay Phật, Pháp-Vương, Chánh-Biến-Tri(5) bảo các vị Tỳ-Khưu: "Nếu ai thấy được Nhân-duyên, tức là người ấy thấy được Pháp; nếu ai thấy được Pháp tức là người ấy thấy được Phật", vậy trong này thời cái gì là Nhân-duyên? Nói là Nhân-duyên, thời: "đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh". Như: Vô-minh duyên cho Hành, Hành duyên cho Thức, Thức duyên cho Danh-sắc, Danh-sắc duyên cho Lục-nhập, Lục-nhập duyên cho Xúc, Xúc duyên cho Thụ, Thụ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu, Hữu duyên cho Sinh, Sinh duyên cho Lão-tử, sầu, thán, khổ, ưu, não, sinh-khởi được. Như thế, là chỉ sinh-khởi sự kết-tụ những khổ đau lớn-lao, thuần-nhất, cùng cực vậy.(6)
Gì là Pháp? - Là tám Thánh-đạo: chính-kiến (thấy rõ lý chính-xác), chính-tư-duy (suy- nghĩ chân-chính), chính-ngữ (nói-năng chân-chính), chính-nghiệp (hành-động chân-chính), chính-mệnh (mưu-sinh chân-chính), chính-tinh-tiến (cố-gắng trong chân-chính), chính- niệm (ghi nhớ rõ lẽ chân-chính), và chính-định (chú-định vào chính-lý, chính-đạo). Thế là tám Thánh-đạo-quả và Niết-Bàn, đức Thế-Tôn nói ra, gọi đấy là Pháp.(8)
- Gì là Phật? - Là bậc biết hết thảy pháp, gọi là Phật. Tuệ-nhãn (con mắt trí-tuệ), Pháp- thân (pháp-tính-thân) của bậc kia trông thấy hết thảy pháp, tạo-tác nhân Bồ-Đề(9) và đạt tới địa-vị Học, Vô-học-pháp.)10)
Hỏi: Tại sao gọi là Nhân-Duyên?
Đáp: Có Nhân, có Duyên gọi là Nhân-duyên, không phải là không có nhân, không có duyên, nên gọi là nhân-duyên-pháp. Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ. Cho đến pháp-tính (nhân-duyên-tính), pháp-trụ-tính (tính trong pháp của nhân-duyên vẫn thường-trụ), pháp-định-tính (tính của mọi pháp quyết-định như thế), dữ nhân-duyên tương-ứng-tính (tính cùng nhân-duyên ứng- hợp nhau), chân như tính (tính của mọi pháp là như thực), vô-thác-mậu-tính (tính chân-như phổ-biến không sai-lầm, thiên-lệch), vô biến dị-tính (tính chân-như không thay đổi sai khác), chân-thực-tính (tính chân-thực), thực-tế-tính (tính thực-tế), bất hư-vọng-tính (tính không giả-dối), bất điên-đảo-tính (tính không xáo-lộn) v.v... Đó là đức Thế-Tôn nói những lời nói như thế.(14)
Nhân-duyên-pháp này, vì hai thứ mà nó sinh-khởi được. Hai thứ ấy là gì? - Là: Nhân- tương-ứng và Duyên-tương-ứng. Nhân-duyên kia lại có hai thứ: ngoại-nhân-duyên và nội- nhân-duyên.(15) .......... Kinh còn rất dài, mời xem tại nguồn: Kinh Duyên Sinh
264. HẠT GIỐNG BỊ MỤC NÁT
Ví như hạt giống không hư, vỡ, mục nát, bị gió nắng làm thương tổn, mùa thu không được cất giấu kín đáo. Nếu người cư sĩ kia không phải là nông phu giỏi, lại không khéo canh tác, gieo hạt giống xuống và mưa không phải thời, thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống lúa có dần dần lớn lên được chăng?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, dạ không.
Thế Tôn nói: Cũng vậy, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, Ta không thấy người này có được chút pháp bạch tịnh, dù bằng sợi lông. Người này pháp ác bất thiện hoàn toàn dẫy đầy, ô uế, làm gốc rễ cho sự hữu trong tương lai, lại phiền nhiệt, khổ báo, nguyên nhân của sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người này khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như vậy. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
265. HẠT GIỐNG GẶP ĐẤT TỐT
Cũng như hạt giống, các loại hạt giống, các loại thảo mộc, trăm giống lúa, cây thuốc được phát sanh, trưởng dưỡng, tất cả đều nhân nơi đất, y cứ trên đất, thiết lập trên đất mới được sanh trưởng.
Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất. (Trung A Hàm, Kinh Dụ, Phẩm 11, số 141)
266. HẠT GIỐNG KHỔNG THỂ NẢY MẦM
Ví như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió, nắng làm thương tổn, mùa thu đến được cất giấu kín đáo. Nếu người cư sĩ kia giỏi, sửa sang ruộng tốt rồi vãi hạt giống vào nhưng mưa xuống không phải thời, thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống này có dần dần lớn lên được không?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, không thể được.
Cũng vậy, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện; người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc chắn rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp suy thoái.
A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như vậy. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
+ Chế giới luật - Thuận thời thế - Nói đúng thời khi biết Bệnh hết thuốc chữa:
Hỏi: Tại sao Như Lai biết vạn sự, sao không ngăn cản ngoại đạo vu oan cho ngài, để giúp họ thoát bị đọa địa ngục ???
Phật dậy, như người biết họ có nghiệp bị bệnh nạn nặng, nhưng khi bệnh chưa đến thời phát thì thầy thuốc có trị được không??? Hiện không có bệnh sao có thể trị??? Cũng vậy, Phật tuy biết hết trước, nhưng chưa phải thời thì không nói ra. Hơn nữa, như thầy thuốc khám ra bệnh quá nặng, do nghiệp chẳng thể chữa trị, đành chịu chết. Đức Phật cũng vậy, biết người có ác tâm hại Phật, nhưng họ lại vô duyên với Pháp của Phật dậy, ngài biết nói và khuyên nhủ họ cũng chẳng nghe, đành im lặng để họ tạo nghiệp và chịu nghiệp, Phật cũng chẳng có cách khác giúp họ được. Phật KHÔNG thể làm trái nghiệp báo và chỉ có thể ghi nhận như thế.
Phật dậy Văn Thù BT: Như chiếc áo bị bẩn, giặt sạch đi là hết - Chiếc áo vẫn còn ... các nhơ bẩn ngũ ấm, dùng nước trí tuệ tẩy rửa sạch thì còn Chân tâm bản nhiên diệu giác ...
Đời có ngũ trược ..... Mạng trược là thọ yểu tùy nghiệp báo, có thọ mạng 10 - 20 - 50 - 100 - 200 tuổi, thọ yểu như thế ....
Cũng thế, chỉ khi có người tạo tội thì Phật mới chế ra Giới Cấm, thế mới hợp với Nhất Thiết Trí. Nếu nói trước rễ bị người hủy báng ... ví như người chưa có con, nói trước là họ sẽ có con là không nên. => Vậy nên, có bệnh thì trị. Người chưa tạo tội nghiệp - Trời người chưa thấy biết, thì tại sao lại NGHỊCH chế giới ... cũng như người khỏe, người thiện thì chẳng cần thầy thuốc chữa, chẳng cần chế giới luật ...
Phật dậy: Như hạt mới gieo giống nảy mầm chưa dùng được, vì chưa thuần thục; Nụ hoa đang phát triển chưa thành thục KHÔNG thể ép nở được ... Phật cũng thế, khi CĂN LÀNH chưa tới thì chưa CHẾ GIỚI - DỤNG GIỚI LUẬT cũng như thế - vì CHƯA PHẢI THỜI. Họ chưa phạm lỗi thì họ KHÔNG thọ giới; Lúa chưa chín chẳng thể thu hoạch được.
Phật dậy: TẤT CẢ PHẬT NGANG BẰNG VỚI HƯ KHÔNG vì biến khắp tất cả, không tư duy, không tâm thức.... nên KHÔNG có Thế Tôn, không có Phật vì ngang bằng với Hư không .. như Trăng trong nước, như tiếng vỗ tay vang ra ... (Nguồn: Văn Thù Tạp Vấn Phật)
+ Các loại nhân duyên: Duyên tánh thấy - Duyên kinh doanh:
- Tánh thấy có đủ bốn nhân duyên: Ngài A-nan lại nghi tiếp: “Đã chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, cớ gì Thế Tôn thường chỉ dạy các Tỷ-kheo là tánh thấy có đủ bốn nhân duyên: Nhân hư không, nhân ánh sáng, nhân tâm và nhân mắt?”.
Nhân hư không, là từ vật tới mắt phải có khoảng cách vừa đủ mới thấy. Xa quá hay cận quá… đều không thể thấy.
Nhân ánh sáng, là phải có duyên ánh sáng thì mới thấy được vật, tối quá thì không thể thấy.
Nhân tâm, là muốn nói đến 4 thức: Nhãn thức, thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám. Khi mắt thấy được trần cảnh thì lúc ấy có đầy đủ 4 thức đó hoạt động.
Nhân mắt, như mắt phải sáng mới có thể thấy, mù thì không thể thấy.
Hỏi như vậy vì ngài A-nan vẫn chưa phân định được cái thấy và tánh của cái thấy. Tánh cái thấy thì không (không tướng), không phải tự nhiên cũng không do nhân duyên mà thành. Còn cái thấy là do ba thứ căn - trần - thức duyên hợp mà thành. Tánh, không phải là tướng mà tánh thì không lìa tướng. Như Phật đã nói: “Lìa tất cả tướng mà tức tất cả pháp”. Cho nên, Phật trả lời: “Này A-nan! Đó là ta nói các tướng nhân duyên trong thế gian, không phải nói đến Đệ nhất nghĩa đế”. Đệ nhất nghĩa đế, chỉ cho tánh của cái thấy, chính là Phật tánh. (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên - Tự nhiên)
+ Tương tự: Nhân duyên của ngũ quan Tánh nghe - Tánh ngửi .... với Sắc - Thanh - Hương - Vị - Xúc - Pháp ..., mời đọc: Tóm lược Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng
+ Nhân duyên người cùng trong một gia đình: Không ngoài bốn nhân duyên Báo ân - báo oán - Trả nợ - Đòi nợ. (Nguồn: Bốn nhân duyên con cái đầu thai)
+ Nhân duyên tương tác: Động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, bít, sanh, diệt, tối, sáng đó là 12 tướng hữu vi
- Đức Phật dậy A Nan! Sáu căn của ông bị hạn chế là bởi “tánh giác minh” bị trở thành “minh giác”. Do vậy, tánh giác minh mất phẩm chất trong sáng bản nhiên, tác dụng với các vọng mà phát ra hay biết. Hiện nay
1-2. Với cái thấy: Ông rời tối, rời sáng thì không có cái thấy.
3-4. Với Tánh nghe: Rời động và rời tĩnh thì không có tánh nghe.
5-6. Với Mũi ngửi: Rời thông và bít thì không có tánh ngửi.
7-8. Với Lưỡi nếm: Không vị không nhạt thì không có cái nếm.
9-10. Với Xúc chạm: Không hợp, không ly thì không có tánh xúc.
11-12. Với Ý - Nhận thức: Không diệt không sanh thì cái nhận thức không có điều kiện sanh.
- Ông đừng chạy theo sự chi phối, lôi cuốn của 12 tướng hữu vi của chúng. Tùy nghị lực của ông, nhận xét tìm ưu thế của một căn, chặt nhổ gốc rễ vô minh phiền não, xoay tánh giác minh trở về vị trí bản nguyên minh diệu của nó. Phát huy thế mạnh trừ khử mê mờ, làm chủ được một căn thì năm căn còn lại sẽ được thanh tịnh giải thoát hết. (Xem mục: Ở 1/4 cuối trang - Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Mantra Yoga: Khoa Yoga về âm thanh hay linh từ sáng tạo (creative Word). (ASCLH, 347)
+ Tu hành với âm thanh: Không khởi vọng tưởng thì chính là tu hành.
Có vị đệ tử đang vọng tưởng: Tại sao âm thanh ồn ào trong thiền đường không thể lắng yên xuống được?
HÒA THƯỢNG: Nếu muốn tìm một chỗ mà không có âm thanh nào thì rất khó. Có các âm thanh ở bên ngoài đến như máy bay, xe cộ và có âm thanh bên trong như tim đập, mạch nhảy. Hãy còn có âm thanh các làn sóng điện trong không trung, và hơn nữa lại còn có thêm âm thanh của vi trần, âm thanh của mỗi hạt bụi vi trần di động bay phất phơ trong không trung.
Chúng ta dù ở trong hang dưới lòng đất, rồi dùng bê tông cốt sắt che đậy hang lại, nhưng vẫn có âm thanh trong lòng đất mà. Trong thiền đường thì cũng có tiếng của người ho. Ở cái thế giới Ta Bà này, chúng ta không thể tìm ra một nơi nào mà không có âm thanh nào cả.
Quý vị đừng đi tìm âm thanh thì sẽ không có âm thanh. (Nguồn: HT Tuyên hóa khai thị - Q.3)
+ Người bệnh: 22.- Người Bệnh
- Có mặt ba hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba?
Một hạng người bệnh, dầu có được hay không được ăn các món thích hợp, dầu có được hay không được các thuốc men thích hợp, dầu có được hay không được sự chăm sóc thích đáng, không được bình phục từ chứng bệnh ấy.
Có hạng người bệnh, dầu có được hay không được ăn các món thích hợp, dầu có được hay không được các thuốc men thích hợp, dầu có được hay không được sự chăm sóc thích đáng, được bình phục từ chứng bệnh ấy.
Có hạng người bệnh, có được ăn các món thích hợp, không phải không được, có các thuốc men thích hợp, không phải không được, có được sự chăm sóc thích đáng, không phải không được, được bình phục từ chứng bệnh ấy.
Hạng người bệnh này, có được các món ăn thích hợp, không phải không được, có được các thuốc men thích hợp, không phải không được, có được sự chăm sóc thích đáng, không phải không được, được bình phục khỏi chứng bệnh ấy. Chính do duyên với hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, các món ăn thích hợp với người bệnh đã được chấp thuận, các thuốc men thích hợp với người bệnh đã được chấp thuận., sự chăm sóc thích đáng với người bệnh đã được chấp thuận. Chính do duyên với hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, các người bệnh khác cần phải được chăm sóc như vậy. => Ba hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba hạng người này, có mặt, xuất hiện ở đời, có thể so sánh với ba hạng người bệnh này. Thế nào là ba?
Có hạng người được thấy Như Lai hay không được thấy Như Lai, được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, hay không được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, không có đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp.
Có hạng người không được thấy Như Lai, được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, hay không được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp.
Có hạng người được thấy Như Lai, không phải không được thấy, được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, không phải không được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp.
Có hạng người được thấy Như Lai, không phải không được thấy, được nghe Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, không phải không được nghe, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp. Chính do duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, thuyết pháp được chấp nhận, và chính do duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, pháp được thuyết giảng cho các người khác.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời được ví dụ với ba hạng người bệnh. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba pháp)
+ Chữ Duyên: III. Duyên(S.ii,29)
2) -- Này các Tỷ-kheo, đối với người biết, này các Tỷ-kheo, đối với người thấy, Ta nói các lậu hoặc được đoạn diệt, không phải đối với người không biết, không phải đối với người không thấy.
3) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào đối với người biết, đối với người thấy, các lậu hoặc được đoạn diệt? Đây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Đây là thọ... Đây là tưởng... Đây là hành... Đây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đối với người biết, như vậy đối với người thấy, các lậu hoặc được đoạn diệt.
4) Này các Tỷ-kheo, trong đoạn diệt ấy, trí về đoạn diệt, Ta nói rằng trí ấy có duyên, không phải không có duyên.
5) Và này các Tỷ-kheo, duyên của trí về đoạn diệt là gì? Giải thoát là câu trả lời.
6) Và này các Tỷ-kheo, duyên của giải thoát là gì? Ly tham là câu trả lời.
7) Và này các Tỷ-kheo, duyên của ly tham là gì? Yếm ly là câu trả lời.
8) Và này các Tỷ-kheo, duyên của yếm ly là gì? Tri kiến như chân là câu trả lời.
9) Và này các Tỷ-kheo, duyên của tri kiến như chân là gì? Định là câu trả lời.
10) Và này các Tỷ-kheo, duyên của định là gì? Lạc là câu trả lời.
11) Này các Tỷ-kheo, duyên của lạc là gì? Khinh an là câu trả lời.
12) Và này các Tỷ-kheo, duyên của khinh an là gì? Hỷ là câu trả lời.
13) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hỷ là gì? Hân hoan là câu trả lời.
14) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hân hoan là gì? Lòng tin là câu trả lời.
15) Và này các Tỷ-kheo, duyên của lòng tin là gì? Khổ là câu trả lời.
16) Và này các Tỷ-kheo, duyên của khổ là gì? Sanh là câu trả lời.
17) Và này các Tỷ-kheo, duyên của sanh là gì? Hữu là câu trả lời.
18) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hữu là gì? Thủ là câu trả lời.
19) Và này các Tỷ-kheo, duyên của thủ là gì? Ái là câu trả lời.
20-25) Và này các Tỷ-kheo, duyên của ái là gì? Thọ là câu trả lời... (như trên)...
Xúc là câu trả lời...
Sáu xứ là câu trả lời...
Danh sắc là câu trả lời...
Thức là câu trả lời...
Hành là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hành có duyên, không phải không có duyên.
26) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hành là gì? Vô minh là câu trả lời.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên khổ; khổ duyên tín; tín duyên hân hoan; hân hoan duyên hỷ; hỷ duyên khinh an; khinh an duyên lạc; lạc duyên định; định duyên tri kiến như chân; tri kiến như chân duyên yếm ly (Chán ghét và lìa bỏ thế sự); yếm ly duyên ly tham; ly tham duyên giải thoát; giải thoát duyên trí về đoạn diệt. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ 26.- Cần Phải Thân Cận
- Có ba hạng người này,.... này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, nên thân cận gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Không nên gần gũi - Sống chung - Hầu hạ: Có hạng người thấp kém về giới, định, tuệ ..., trừ khi vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn.
Nên gần gũi - Sống chung - Hầu hạ: Người đồng đẳng với mình về giới định, tuệ. ... Vì cớ sao? Với ý nghĩ: "(Cả hai) thiện xảo về giới, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về giới, được diễn tiến (lợi ích) cho cả hai chúng ta, và sẽ làm cho hai chúng ta được an lạc. (Cả hai) là thiện xảo về định ...... (Cả hai) là thiện xảo về tuệ, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về tuệ, được diễn tiến (lợi ích) cho cả hai, và chúng sẽ làm cho hai chúng ta an lạc". ...
... Có hạng người thù thắng về giới, định và tuệ. Hạng người ấy, này các Tỷ-kheo, sau khi cung kính tôn trọng, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao? Với y nghĩ: "Như vậy, nếu giới chưa đầy đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu giới được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Hay nếu định chưa đầy đủ, ta sẽ làm cho đầy đủ, hay nếu định được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Hay nếu tuệ chưa đầy đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu tuệ được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Cho nên, với hạng người này, sau khi cung kính tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Người gần kẻ hạ liệt
Rồi cũng bị hạ liệt
Thân cận người đồng đẳng
Được khỏi bị thối đọa
Ai gần bậc thù thắng
Mau chóng được thăng tiến
Do vậy hãy sống chung
Bậc ưu thắng hơn mình (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba pháp)
33.- Các Nguyên Nhân
1. - Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp. Thế nào là ba? Tham là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Si là nguyên nhân khởi lên các nghiệp.
Phàm nghiệp nào được làm vì tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ tham, tại chỗ nào tự ngã được hiện hữu, tại chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần thục. Chỗ nào nghiệp ấy được thuần thục, cỗ ấy quả dị thục của nghiệp ấy được cảm thọ ngay trong hiện tại, hay trong đời sống kế tiếp, hay trong một đời sau nữa.
Phàm nghiệp nào được làm vì sân, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ sân ... Phàm nghiệp nào được làm vì si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ si ... tại chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần thục ... hay trong một đời sau nữa.
Ví dũ, này các Tỷ-kheo, các hạt giống không bị bể vụn, không bị hư thối, không bị gió và nắng làm hư, còn tươi tốt được khéo gieo vào một đồng ruộng tốt, được trồng vào đất khéo sửa soạn, và được trời mưa xuống đều đặn, các hạt giống ấy, này các Tỷ-kheo, được lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm vì tham ... hay trong môt đời sau nữa. Phàm nghiệp nào được làm vì sân ... hay trong một đời sau nữa. Phàm nghiệp nào được làm vì si ... hay trong một đời sau nữa.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp.
2. Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp. Thế nào là ba? Không tham là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Không sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Không si là nguyên nhân khởi lên các nghiệp.
Phàm nghiệp nào được làm vì không tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không tham, duyên khởi từ không tham, tập khởi từ không tham. Vì rằng tham được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Phàm nghiệp nào được làm vì không sân ... Phàm nghiệp nào được làm vì không si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không si ... Vì rằng si được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Ví như này các Tỷ-kheo, các hạt giống không thể bị bể vụn, không bị hư thối, không bị gió và nắng làm hư, còn được tươi tốt, được khéo gieo. Và một người lấy lửa đốt chúng, sau khi lấy lửa đốt, làm cho chúng thành tro, sau khi làm thành tro, quạt chúng trong gió lớn, hay cho vào dòng nước sông chảy nhanh mang cuốn đi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hạt giống ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm từ không tham ... không thể sanh khởi trong tương lai. Phàm nghiệp nào được làm từ không sân ... không thể sanh khởi trong tương lai. Phàm nghiệp nào được làm từ không si ... không thể sanh khởi trong tương lai.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo, khởi lên các nghiệp:
Phàm có hạnh nghiệp nào,
Sanh từ tham sân si,
Do kẻ vô trí làm
Dầu có ít hay nhiều
tại đây được cảm thọ,
Không phải tại chỗ khác
Do vậy vị Tỷ-kheo
Từ bỏ tham, sân, si
Làm khởi lên minh trí,
Từ bỏ mọi ác thú. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương ba pháp)
+ Long Thọ Bồ Tát:
CHƯƠNG I: QUÁN NHÂN DUYÊN[1]
Không sanh cũng không diệt,
Không thường cũng không đoạn,
Không nhất cũng không dị,
Không lai cũng không khứ;
Khéo nói nhân duyên này [2],
Thiện[3] diệt những hí luận.
Con cúi đầu lễ Phật,
Bậc thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi: Vì cớ gì làm luận này?
Đáp: có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”. Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói: “Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà sanh ra”.
Những thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như: Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì, tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt, không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập, 18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không, làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…” Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không sanh cũng không diệt,
Không thường cũng không,
Không nhất cũng không dị,
Không Lai cũng không khứ;
Khéo nói nhân duyên ấy,
Thiện, diệt những hí luận.
Con cúi đầu lễ Phật,
Bậc thuyết giáo đệ nhất.
Với hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách cô đọng về Đệ nhất nghĩa. Nội dung giải đáp còn dài, mời xem Kinh gốc: Long Thọ Bồ Tát - Quán nhân duyên)
+ Chữ Pháp trong Duy thức học và Phật pháp: Học phái "Duy thức học" này có một định nghĩa về chữ pháp. Pháp là nhậm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải. “Nhậm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải” có nghĩa là nó duy trì được tự tánh riêng biệt của mình; tự tánh đó là mẫu mực, là kích thước để làm phát sinh ra cái nghĩ, cái nhận thức của ta về cái đó. Ví dụ như tự tánh của nước đá là vừa lạnh vừa cứng. Nước đá phải duy trì tự tánh đó thì nó mới có những quy củ, những mẫu mực giúp ta phát sinh ra một cái hiểu về nó. Nếu nước đá không có đặc tánh vừa lạnh vừa cứng thì làm sao ta biết nó là nước đá. Nhậm trì tự tánh có nghĩa là: nước đá phải duy trì được cái lạnh và cái cứng của nó. Quỹ sinh vật giải có nghĩa là: đó là cái mẫu mực giúp ta phát sinh ra cái hiểu, cái thấy về nước đá. (Dharma is something that can retain its characteristics, so that it can give us opportunity to perceive it as something different from another thing). Giải là hiểu, là thấy; vật giải là thấy nó là một vật. Đó là định nghĩa của Duy Thức học về pháp.
Trong đạo Bụt, chữ pháp có nhiều nghĩa. Chữ Pháp viết hoa (Dharma) có nghĩa là giáo pháp, là chân lý. Chữ pháp viết thường (dharma) có nghĩa là sự vật, là hiện tượng, ta có thể dịch là une chose, a thing. Như bông hoa là một pháp, đám mây là một pháp, hạt sỏi là một pháp (un phénomène). Bây giờ trong giới Phật học, người ta hay dịch chữ dharma là elements of existence, elements of being. Họ nghĩ elements of being thì gần với nghĩa của chữ dharma hơn.
Nhưng trước hết, chúng ta phải nhớ rằng pháp là một đối tượng của ý thức. (Dharma, first at all, is an object of our consciousness, of our mind consciousness). Quý vị đã biết là có sáu căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Đối với sáu căn thì có sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Vậy pháp là đối tượng của ý. Nước đá cũng là đối tượng của tâm ý, mà lửa cũng là đối tượng của tâm ý. Cho nên “pháp là đối tượng của tâm ý” là định nghĩa hay nhất và căn bản nhất trong đạo Bụt. Còn định nghĩa “elements of being, a thing, a phenomena” cũng chưa hay lắm, tại vì người ta có thể nghĩ rằng những thứ đó có mặt độc lập với nhận thức của mình. Chúng ta dịch như thế nào để có thể nhớ rằng cái đó chẳng qua là một đối tượng của tâm ý mà không phải là một thực tại có mặt ngoài tâm ý. Đó là chính thống nhất, không thể nào sai được. Định nghĩa này là định nghĩa của Pháp Tướng Tông, của Duy Biểu học.
Trong khi đó, Pháp Tánh Tông là tông phái chuyên nghiên cứu về tự tánh. Tông phái đó muốn đập bể cái vỏ để đi vào cái ruột, muốn đập bể hiện tượng bên ngoài để đi vào bản chất bên trong gọi là tự tánh. Chữ tự tánh, có người dịch là own-being. Nước đá có tự tánh của nước đá, lửa có tự tánh của lửa, hai cái không thể lẫn lộn với nhau được. Trong bài kệ chúng ta đang học có nói: Tự tánh đã là không, tha tánh làm gì có. Theo Pháp Tánh Tông, cái mà ta gọi là tự tánh đó chỉ là một ý niệm. Nhìn sâu vào thì tự tánh không có và chúng ta đi tới kết luận là vô tánh.
Nhưng Pháp Tướng Tông không chỉ nhằm về phương diện tướng (Laksana) mà Pháp Tướng Tông giúp ta đi từ từ vào tánh, tức là khi chúng ta nhìn sâu vào hiện tượng thì có thể chạm vào được bản thể. Thế giới hiện tượng (phenomenal world) là thế giới của tướng, đó là đối tượng nghiên cứu của Pháp Tướng Tông.
Đối tượng nghiên cứu của Pháp Tánh Tông là bản thể (noumenal world). Noumena là bản thể, phenomena là hiện tượng. Mục đích của Pháp Tướng Tông không phải chỉ nghiên cứu tướng trạng của vạn pháp mà còn có chủ đích thâm sâu là chọc thủng được vào trong tự tánh, gọi là tùng tướng nhập tánh, từ tướng mà đi vào tánh (from the phenomena we penetrate into the noumena). (Nguồn: Pháp Nhân Duyên - TS Thích Nhất Hạnh)
+ Pháp tu hành nhiệm mầu:
... Chúng ta nương vào nhau mà biểu hiện. Khi ta hát thì những con lạp chất (Trong cơ thể ta) đang hát bài hát của ta; khi ta suy tư, ta đừng tưởng là ta suy tư, chính tụi nó suy tư. (They think our thought, they sing our song, they walk our walk). Chúng ta biết rằng tất cả gia tài tâm linh và huyết thống, những khổ đau, những hạnh phúc, những sai lầm, và tuệ giác của tổ tiên ta vẫn còn ở trong mỗi tế bào cơ thể ta. Ta có Bụt, có thầy, có cha, có mẹ trong từng tế bào. Khi ta đi, ta nên biết rằng thầy ta đang đi cái đi đó, Bụt đang đi cái đi đó, cha ta đang đi cái đi đó, mẹ ta đang đi cái đi đó. Đừng tưởng là ta đang đi. Ta là cái gì đâu? Ta là một cái gì rất là trống rỗng (empty). Ta phải thấy được cái đó. Khi thấy được thì gọi là có tuệ giác.
Ví dụ một sư chú đang cực nhọc vì cái máy vi tính. Sư chú chỉ mới học vi tính sáu tháng nên gặp một vài khó khăn. Sư chú đang thở ngắn thở dài thì có một sư anh tới gần: “Em để đó cho sư anh!”. Sư chú mừng quá, tại vì sư anh này rất giỏi về vi tính. Sư chú rất hoan hỉ ngồi xích ra một bên để sư anh ngồi vào giúp. Mấy ngón tay của sư anh sao mà hay quá, mới chạm vào một cái đã hiện ra được hết những gì mà mình tìm hoài không ra. Ngày hôm qua, tôi có nói với thầy Pháp Hội: “Con nên thực tập như vậy. Mỗi khi con có phiền não, có khó khăn, con nhường chỗ cho Bụt/ Đức Phật. Con mời Bụt vô ngồi ở chỗ đó để Bụt làm.” Pháp môn này, tôi thực tập rất là hay, rất là thành công. (Let him walk your walk, let him breathe your breath, let him sing your song, and everything will be OK!). Để cho Bụt bước đi: “Bụt ơi! Bụt bước đi, con không bước nữa, con để Ngài bước. Bụt ơi! Thở đi! Con không thở nữa, con để Ngài thở. Bụt ơi! Mỉm cười đi!”, thì tự nhiên mình thoát ra khỏi tình trạng bế tắc rất mau chóng. Tại sao mình cứ níu vào đó, cứ kẹt vào đó, mình cứ cố thủ, mình quyết tử với nó? Tại sao mình không để cho Bụt giúp? Mà Bụt là ai? Bụt cũng là mình, nhưng mình cứ giành chỗ của Bụt, mình cứ giành chỗ của thầy. Thầy tới nói: “Con xích ra, để thầy làm cho!” “Sư em xích ra để sư anh làm cho!” Mình sướng quá trời! Sao thực tập dễ như vậy mà mình không chịu thực tập? Khi nhìn vào đạo lý nhân duyên một cách sâu sắc, thấy được Tánh Không thì ta thoát ra được sự cố chấp đó. Tuệ giác của Tánh Không rất thực tế.
Những bài này tuy có vẻ khó như vậy, nhưng thực ra nó chưa khó lắm đâu, đi sâu vào mới khó. Đây là một loại toán học cao cấp (high mathematics) mà nếu chúng ta giải được thì rất mầu nhiệm.
Ta đau cái đau của ta, ta khổ cái khổ của ta, ta lo cái lo của ta. Ta hấp tấp, vụt chạc, ta bước trên than hồng, ta ngồi trong lò lửa. Tại sao ta không nhường chỗ cho Bụt? Bụt cũng ở trong ta. Hãy cho Bụt một cơ hội! (Give the Buddha a chance!) Hãy cho Thầy một cơ hội! Thầy và Bụt ở đâu? Ở trong mỗi tế bào của cơ thể ta. Ta có chân của Bụt mà không để cho Bụt đi. Ta có mắt của Bụt mà không để cho Bụt nhìn. Ta cứ cố thủ, ta nói: “Bụt xê ra để con tự làm lấy được.” Mà con là gì? Con thì đang còn vướng víu biết bao nhiêu là cái! ... (Nguồn: Phẩm Nhân Duyên - TS Thích Nhất Hạnh giảng)
+ Duyên khởi - Trùng trùng duyên khởi trong Kinh Hoa Nghiêm:
Bài kệ 4
Bài kệ thứ tư lặp lại lập luận: Quả từ duyên mà sinh ra. Lặp lại để mà xét. Bài kệ này giống như một đối tượng của sự quán sát. Ta đưa đối tượng lên, rồi nhìn vào đối tượng:
Quả là từ duyên sinh?
Hay từ phi duyên sinh?
Trong duyên sẵn có quả?
Hay là không có quả?
Quả vi tùng duyên sinh
Đó là một câu hỏi: Anh nói quả là từ duyên mà sinh ra? (Did you say that the effect comes from the cause?)
Vi tùng phi duyên sinh
Hay là anh nói rằng quả là phi duyên mà sinh ra? (Or did you say that the effect comes from a non-cause?) Ví dụ như khi chúng ta nói, cái trứng gà là từ con gà mà sinh ra. Con gà là duyên và trứng gà là quả. Nhưng nếu nói trứng từ cái bàn sinh ra thì cái bàn là duyên hay là phi duyên? Trên phương diện hình thức, chúng ta thấy con gà mới là duyên của cái trứng gà, còn cái bàn không phải là duyên của cái trứng gà. Con gà là duyên (cause), và cái bàn là phi duyên (non-cause). Đó là câu hỏi mà thầy Long Thọ đưa ra.
Thị duyên vi hữu quả
Thị duyên vi vô quả
Câu hỏi thứ hai là trong cái duyên đó có sẵn quả rồi hay là không có sẵn quả? Cái trứng có sẵn trong con gà rồi hay là chưa có? Đây là câu hỏi thứ hai của thầy Long Thọ đưa ra. Trong bài kệ này câu hỏi đặt ra rất là rõ. Câu hỏi thứ nhất là: Quả từ duyên sinh hay từ phi duyên mà sinh? Câu hỏi thứ hai là: Trong duyên đã có quả hay trong duyên không có quả?
Bây giờ chúng ta làm cho bài kệ dễ hiểu hơn nữa: Quả là từ duyên mà sinh hay là từ phi duyên mà sinh? Trong duyên đó, đã có quả rồi hay là chưa có quả? Đặt câu hỏi như vậy ta thấy rất rõ. Câu trả lời là bài kệ thứ năm.
Bài kệ 5
Nhân thị pháp sinh quả 因是法生果
Thị pháp danh vi duyên 是法名為緣
Nhược thị quả vị sinh 若是果未生
Hà bất danh phi duyên. 何不名非緣
Nhân là cái sinh quả
Cái ấy gọi là duyên
Vậy khi quả chưa sinh
Sao không gọi phi duyên?
Bài kệ thứ năm là phát súng đầu để đập tan lập luận: quả có sẵn trong duyên. Chúng ta biết có bốn duyên mà duyên thứ nhất là Nhân duyên. Ở đây nhắm tới Nhân duyên mà xét, xét Nhân duyên xong rồi chúng ta mới xét tới những duyên khác. Nhân là gì? Nhân là một pháp mà từ đó sinh ra quả.
Nhân thị pháp sinh quả
Nhân là cái sinh ra quả (the chief cause is thought to be what that produces effect).
Thị pháp danh vi duyên
Và pháp đó được gọi là duyên. Nhân là một thứ duyên (the chief cause is a condition. The chief cause is one of the four conditions and it is what produces the effect. This is why we call it a cause).
Nhược thị quả vị sinh
Hà bất danh phi duyên
Vậy khi cái quả đó chưa sinh ra thì tại sao chúng ta không gọi nó là phi duyên? Có hai cái, một là duyên, hai là quả. Sau khi cái duyên đó sinh ra cái quả thì ta gọi nó là duyên. Vậy trước khi nó sinh ra quả tại sao ta không gọi nó là phi duyên? Duyên là duyên cái gì? Ví dụ như con gà sinh ra cái trứng. Sau khi con gà sinh ra cái trứng thì ta gọi con gà là duyên của cái trứng. Nhưng trước khi sinh ra cái trứng thì con gà cũng giống như cái bàn thôi, nó là một phi duyên. Nó chỉ được gọi là duyên khi nó sinh ra quả, còn khi chưa sinh ra quả thì tại sao chúng ta không gọi nó là phi duyên? (The chief cause is what producing effect and that is called condition. Why, before the effect is born, we did not call it a non-condition?)
Ví dụ như có một cô gái đi lấy chồng, và cô sinh ra một đứa con. Khi sinh ra đứa con thì cô gái đó được gọi là mẹ, và đứa con đó được gọi là con. Khi cô còn là một cô gái thì ta đâu có thể gọi cô là mẹ được? Chỉ khi nào cô sinh con thì mới được gọi là mẹ, còn chưa sinh con thì chưa được gọi là mẹ. Cũng một cái đó mà có khi ta gọi là duyên, có khi gọi là phi duyên. Khi có cái quả sinh ra từ cái duyên thì ta gọi nó là duyên. Nhưng khi cái quả chưa sinh ra từ cái duyên thì tại sao mình không gọi nó là phi duyên? Vậy thì cái gì làm cho duyên khác với phi duyên?
Duyên với quả sở dĩ thành lập được là vì nó có sự liên hệ nhân-quả. Cái mình gọi là nhân (hay duyên), chính cái đó, trước khi nó sinh ra quả, tại sao mình không gọi nó là phi duyên (non-condition)? Sự thật là như vậy! Đây là câu hỏi đầu tiên làm chúng ta bối rối, tại vì chúng ta quá tin chắc vào ý niệm nhân quả của mình. Ý niệm nhân quả của chúng ta còn đơn sơ, còn nông cạn lắm. Chúng ta bị kẹt vào trong những giáo điều mà chúng ta không biết. Đây là câu hỏi để giúp chúng ta đặt lại vấn đề (make you less sure of yourself). Cũng cái đó, khi chưa sinh ra quả thì được gọi là phi duyên, khi sinh ra quả rồi thì được gọi là duyên.
Nhìn con gà, chúng ta thấy nó có dính líu tới trứng gà. Nhìn cái bàn, chúng ta thấy nó không có dính líu gì tới trứng gà. Nhưng chưa chắc là cái bàn không sinh ra cái trứng! Cái bàn có dính líu gì tới cái trứng? Cái bàn là cây, nếu cây không có thì con gà không có và cái trứng cũng không có được. Đó là những gì chúng ta học được trong giáo lý trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm sau này. Chúng ta thấy không có cái nào mà không liên hệ tới cái nào. Trong cái một chứa đựng cái tất cả. Trong đám mây hay mặt trời, chúng ta không thấy mẹ của cái trứng, chúng ta chỉ thấy con gà là mẹ của cái trứng thôi. Nhưng nếu không có đám mây, không có mặt trời thì làm sao có con gà, mà không có con gà thì làm sao có cái trứng? Sự phân biệt giữa duyên và phi duyên của chúng ta rất là sai lạc, rất là nông cạn. Sự phân biệt giữa duyên và phi duyên (cái này ta gọi là duyên còn cái kia ta gọi là phi duyên) đó không đúng. Rồi từ từ chúng ta sẽ hiểu thêm. (Nguồn: Pháp Nhân Duyên - TS Thích Nhất Hạnh)
+ Pháp phá tà hiển chánh - Pháp chánh đạo - Pháp của đức Thế Tôn:
Dưới đây trích đoạn giảng rất hay về Tà pháp, tìm ra chánh pháp: ..... Trước hết là thầy Pháp Cứu (Dharmatrāta) đã dùng ví dụ vàng và những vật được chế tạo ra bằng vàng. Ví dụ như một đôi bông tai vàng hay một chiếc nhẫn vàng hay một cái kiềng vàng, ba vật đó rất khác nhau. Nhưng kỳ thực chúng có một cái chung là vàng. Vậy thì ba thời, quá khứ, hiện tại và vị lai, khác nhau như vậy, có khi được gọi là còn hay không còn, có mặt hay không có mặt, nhưng nằm dưới sự khác nhau đó có cái chung của ba thời. Nhìn vào trong đôi bông tai, trong chiếc nhẫn và trong cái kiềng, chúng ta thấy có một cái gì chung cho cả ba, và cái đó thường có. Đó là ví dụ của thầy Pháp Cứu (Dharmatrāta).
Một thầy khác là thầy Diệu Âm (Ghosa) thì dùng một ví dụ khác rất hay: có nhiều người khác nhau nhưng có cùng một phận sự nào đó như phận sự làm bếp chẳng hạn. Như thầy Pháp Độ là một, thượng tọa Giác Trí là hai, sư anh Nguyện Hải là ba, chúng ta có ba đầu bếp, ba người rất khác nhau nhưng khi đã vào bếp thì đều thành ra đầu bếp. Tuy chúng ta thấy ba người khác nhau, nhưng phận sự vẫn là một. Nhìn vào ba người khác nhau, ta thấy có một cái gì chung nằm sâu trong đó, đó là tài nấu bếp của các thầy, là khả năng có thể đóng vai trò đầu bếp. Đó là ví dụ của thầy Diệu Âm (Ghosa).
Thầy Thế Hữu (Vasumitra) là người sáng tạo ra bộ “Dị Bộ Tông Luân Luận”, một tác phẩm nói về nội dung của 18 bộ phái khác nhau của Phật giáo. Thầy đã dùng ý niệm về con số như con số 1, con số 2 hay con số 3. Mỗi con số có thể đóng được nhiều vai trò. Ví dụ như số 3, khi đi với một con số 0 thì nó là 30 (ba mươi), khi đi với hai con số 0 thì nó thành 300 (ba trăm), khi đi với ba con số 0 thì nó thành 3000 (ba ngàn). Ta thấy 30 không giống 300, 300 không giống 3000, nhưng trong ba trường hợp đều có ý niệm về số 3. Những thứ khác nhau như quá khứ, hiện tại, vị lai, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,... những thứ đó khác nhau như vậy nhưng bên dưới chúng có một cái gì đồng nhất, đó là tự tánh.
Thứ tư là thầy Giác Thiên (Buddhadeva). Thầy lấy ví dụ một cô con gái. Khi sinh ra, cô được gọi là con, cô đóng vai trò người con. Khi lớn lên lấy chồng, cô đóng vai trò thứ hai là người vợ. Khi sinh con ra thì cô đóng vai trò người mẹ. Ba vai trò rất khác nhau: con gái, vợ, mẹ; nhưng chỉ có một cô đó đóng vai mà thôi. Trong ba cái khác nhau có một cái gì đồng nhất, cái đó gọi là tự tánh.
Chủ trương đó rất nguy hiểm, có thể đưa đạo Bụt trở lại với chủ trương của Số luận (Samkhyā) và đưa tới quan niệm của Vedānta, nó không phải là chính thống Phật giáo. Vì vậy cho nên thầy Long Thọ rất lo, thầy dùng biện chứng pháp để đập phá những tư tưởng như là “Pháp thể hằng hữu”, có nghĩa là tự tánh của các pháp luôn luôn có, giống như vàng của ba thứ trang sức, giống như số 3 của toán học, giống như trách vụ nấu bếp của ba thầy, giống như một người vừa làm con, vừa làm vợ, vừa làm mẹ.
Hữu Bộ thuộc về Tiểu thừa, thuộc về Phật giáo Bộ phái, nhưng đã đi xa đạo Bụt nguyên thỉ. Nói Phật giáo Tiểu thừa hay Phật giáo Bộ phái là Phật giáo nguyên thỉ thì điều này không đúng. Phật giáo nguyên thỉ rất là trong (pure). Chúng ta phải khôn khéo để đừng đi xa nguyên ý của Đức Thế Tôn.
Thầy Long Thọ được coi như người có công rất lớn, thầy dùng trí thông minh tuyệt thế của thầy để đập phá những quan niệm, những sự giảng giải đưa người ta đi xa nguyên ý của Đức Thế Tôn. Đương thời cũng như những thế hệ sau đã nghĩ rằng thầy Long Thọ là một vị Bụt thứ hai (the second Buddha). Đó là một vị Bụt thứ hai đã cứu vị Bụt thứ nhất, để vị Bụt thứ nhất là Đức Thích Ca không bị hiểu lầm. Toàn tác phẩm Trung Quán Luận là để “phá tà hiển chính”, tức là phá tất cả những quan niệm sai lầm và làm hiển lộ ra giáo pháp chân chính nguyên thỉ của Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã từng dạy rằng: “Giáo pháp của ta như ngón tay chỉ mặt trăng, đừng có lầm ngón tay là mặt trăng”. Bụt nói ra câu gì thì người ta bị kẹt vào câu đó, ví dụ như Bụt nói “chỉ có hiện tại thôi” để chúng ta đừng tự đánh mất mình trong quá khứ, trong tương lai. Nhưng chúng ta lại cho là, nếu hiện tại có thì cố nhiên quá khứ có, quá khứ có thì hiện tại mới có. Chúng ta đã đi quá xa. Bụt không cố ý chứng minh hiện tại là có. Mục đích của Ngài không phải là triết học, mục tiêu của Ngài là giúp cho chúng ta đừng sống trong quên lãng. Chúng ta lấy giáo lý đó làm nền tảng cho một nền triết học thì hơi tội cho Ngài.
Tỳ Bà Sa Luận là một công trình triết học đồ sộ, chuyên làm việc phân tích. Thầy Long Thọ từ miền Nam lên và thầy nghiên cứu nền triết học của Tỳ Bà Sa Luận. Cái thấy về Trung Quán của thầy nhờ đó mà sâu hơn. Và thầy thấy được phải dùng phương pháp nào để đả phá những quan niệm triết học có thể đưa giáo lý nguyên thỉ đi xa. Vì thế thầy mới sáng tác Trung Quán Luận.... Đây chỉ là trích đoạn, mời đọc kỹ trong bài giảng tại: Phẩm Nhân Duyên - TS Thích Nhất Hạnh giảng
+ Pháp Xuất Thế Gian/ Chân lý tuyệt đối - Không hý luận (Xét sự sống trong ba đời): Đạo Vô Thượng Bồ Để - Đạo Giác Ngộ Hàng Bồ tát - Bồ Tát Thừa - Pháp Đại Thừa Cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác - Giáo Lý Chân Thật - Là Pháp Trung Đạo - Là Thật Pháp - Pháp Môn Chân Thật - Đệ Nhất Nghĩa Đế - Chân Lý Cao Tột Nhất - Chân Lý Tuyệt Đối - Giáo Pháp Chân Thật Không Còn Hý Luận. Thế nào là nghĩa 'hí luận? Tất cả các pháp môn quyền thừa và lý thuyết của ngoại đạo đều được gọi là hí luận. Giáo pháp đang được giảng giải bây giờ, Thật pháp (Kinh Thủ Lăng Nghiêm), được gọi là nghĩa rốt ráo của Trung đạo (Trung đạo liễu nghĩa). Trung đạo là không rơi vào không, chẳng rơi vào có. Thuyết tự nhiên của hàng ngoại đạo rơi vào chấp không. Thuyết nhân duyên lại thuộc về có. Bây giờ cái chẳng không chẳng có đã được giải nghĩa; đó là nghĩa rốt ráo của Trung đạo, là pháp môn vượt qua mọi hí luận. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Giảng về phân biệt Pháp thế gian/ Hý luận với Pháp xuất thế gian: Tại Làng Mai, chúng ta thường học: Quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới, chỉ có hiện tại mới có thật. Chúng ta gần như đi theo lý thuyết của những người chống đối thầy Long Thọ, không có quá khứ, không có tương lai, chỉ có hiện tại thôi, và mình phải sống sâu sắc trong giây phút hiện tại. Nhưng trong khi nói như vậy thì chúng ta ý thức rằng mình đang nói trên bình diện chân lý tương đối mà không nói đến chân lý tuyệt đối. Chân lý tương đối (conventional truth) thì có chúng ta đang ăn cơm, có chúng ta sẽ đi ngủ, có tôi và có anh, có hai người khác nhau. Nhưng nếu chúng ta xé toạc được màng lưới của chân lý tương đối thì chúng ta có thể thấy được chân lý tuyệt đối. Khi học đến chương Tứ Đế thì thầy Long Thọ sẽ chỉ bày cho chúng ta thấy là có hai sự thật, sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Mời xem TS Thích Nhất Hạnh giảng giải hay và rễ hiểu,(Nguồn: xem tại đây)
+ PS Tịnh Không: Nhà Phật thường nói “y văn giải tự, tam thế Phật oan” nghĩa là y theo câu văn hiểu nghĩa theo mặt chữ, thì ba đời Phật bị oan. Cứ chiếu theo văn tự để nghiên cứu, giải thích thì tam thế chư Phật là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật đều kêu oan uổng, quý vị hiểu lầm ý Phật mất rồi!
Trong bài kệ Khai Kinh có câu “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, tôi nói con người hiện tại hiểu sai lệch, nên trở thành “khúc giải Như Lai chân thật nghĩa” tức là hiểu cong vạy ý nghĩa chân thật của Như Lai, hoặc “ngộ giải Như Lai chân thật nghĩa” là hiểu lầm lạc ý nghĩa chân thật của Như Lai.
- Quý vị xem: Học Phật pháp phải quy về tự tánh, điều này khẩn yếu lắm, giúp cho chúng ta đạt được tâm thanh tịnh, mở mang trí huệ, đấy chính là Phật pháp. ....” (Nguồn: Y Kinh Giải Nghĩa ...)
+ HT Thanh Từ: Chư Tổ nói "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan" có nghĩa là chấp chặt nơi văn tự mà giải nghĩa, thì oan cho ba đời đức Phật, mà rời bỏ kinh điển thì lại lạc vào những tà thuyết của ma vương". Vì lời nói của chư Phật như trên đã trình bày chỉ là phương tiện tạm thời, nghĩa là tùy bệnh cho thuốc. Thuốc trị bệnh của Phật là thuốc phá chấp, nếu chiếu theo văn tự để giải nghĩa, hễ Phật nói Có thì mình chấp cái Có đó là thật, hễ Phật nói Không thì lại chấp cái Không đó là thật, ấy là oan cho Phật.
- Kinh là phá chấp, nếu lìa kinh tức còn chấp, còn chấp là ma, không thể giải thoát được.
- Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy: Giáo pháp của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng, là phương tiện để đạt đến chân lý, cho nên đừng lầm ngón tay là mặt trăng, chân lý không nằm trong kinh điển. Nếu y theo kinh điển để giải nghĩa, để tìm chân lý trong những giòng chữ, thì đó chính là chỉ biết nhìn ngón tay mà chưa biết nhìn mặt trăng. Nhưng rời bỏ hẳn kinh điển đi thì lại có thể rơi vào những điên đảo vọng tưởng. Cũng vì không muốn cho môn đệ chấp chặt rằng kinh điển là chân lý mà thật ra chỉ là phương tiện chỉ bày chân lý cho nên đức Phật đã nói: "trong bốn mươi chín năm thuyết pháp ta chưa từng thuyết một chữ." Và chấp lấy phương tiện làm cứu cánh tức là làm oan ức cho chư Phật, mà bỏ mất phương tiện đi thì cũng không có cách gì đạt đến cứu cánh.
+ Kinh pháp Phật giáo: Phật dạy A Nan rằng: "Chỉ học thuộc lòng và nhiều kiếp nhớ ghi Kinh văn diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian..."..
- A Nan là một điển hình cho chúng sinh tập khí giỏi văn chương, giàu ngôn từ, nhưng không chịu tham thiền, nhập định nên không bao giờ thấy được Pháp thân thanh tịnh của mình. Tuy Phật pháp cao siêu mầu nhiệm và được dung chứa trong 12 bộ kinh, nhưng Đức Phật giáo hóa chúng sinh dựa theo 8 phương thức (tám khoa) khác nhau:
1) Tạng giáo: là các pháp môn tu học có dạy chung trong tam tạng kinh (Kinh tạng, Luận tạng và Luật tạng).
2) Thông giáo: là giáo pháp dạy chung cho tất cả ba hạng căn cơ : Thượng, Hạ, Trung và ba thừa: Tiểu, Trung và Đại.
3) Biệt giáo: là giáo pháp dạy riêng cho mỗi căn cơ hoặc Thượng, hoặc Trung, hoặc Hạ, hoặc riêng cho Tiểu thừa, hoặc riêng cho Trung thừa, Duyên giác, hoặc riêng cho Đại thừa Bồ-tát.
4) Viên giáo: là giáo pháp viên tròn, đầy đủ cũng còn gọi là “liễu nghĩa/ thắng nghĩa”. Thí dụ như kinh Hoa Nghiêm chỉ chuyên dạy cho các hàng Bồ-tát Đại sĩ Pháp thân (từ Thập trụ đến Thập Địa Bồ-tát).
5) Đốn giáo: là giáo pháp đốn ngộ tức là giác ngộ nhanh chóng. Đây là pháp môn trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật hay là “Trực chỉ Thiền” của Tổ Bồ-đề Đạt Ma hay Lục Tổ Huệ Năng.
6) Tiệm giáo: là giáo pháp dạy tu chứng dần dần, từ bậc thấp lên đến bậc cao. Thiền thì có Ngài Thần Tú và cũng là Tịnh độ pháp môn.
7) Bí mật giáo: là dạy vế cách bắt ấn, trì chú, tam mật tương ưng tức thân thành Phật. Nói cách khác thân, khẩu, ý của mình tương ứng với thân, khẩu, ý của Phật. Đây là Mật tông.
8) Bất định giáo: là giáo pháp mà Đức Phật tùy theo cơ nghi thuyết dạy chớ không nhất định là phải thuộc riêng về một căn cơ nào cả. (Nguồn: Mục Lại rơi vào thuyết nhân duyên đối đãi ....)
+ Danh sắc: ... Chúng ta phải biết rằng, chương đầu của Trung Luận là để chĩa mũi dùi tới ý niệm tự tánh. Ý niệm tự tánh là một ý niệm đã có từ lâu trong Ấn Độ giáo, trong Thắng Luận, Số Luận và trong triết học Ấn Độ. Tự tánh, tiếng Anh là self-nature hay own-being. Trong Ấn Độ giáo (Bà la môn giáo) có ý niệm về thần ngã, có nghĩa là: Dưới những cái thay đổi có một cái không thay đổi, cái đó gọi là Ngã hay là Phạm Thiên.
Khi Đức Thế Tôn ra đời, Ngài làm một cuộc cách mạng, Ngài nói rằng cái gọi là ngã hay là tự tánh, nó không có! Ngài chỉ cho chúng ta thấy hiện tượng và nói: “Chỉ có hiện tượng, còn núp sau hiện tượng thì không có một cái gì bất diệt hay bất biến cả, dù cái bất biến đó gọi là Ngã hay Phạm Thiên”. Đức Thế Tôn chỉ công nhận danh-sắc tức là hợp thể năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức), và nhìn vào hợp thể đó thì thấy tất cả đều biến chuyển, không có gì bền bỉ và kéo dài được. Có khi gọi đó là hợp thể danh-sắc (nāma-rūpa). Sắc tức là hình hài của ta, danh tức là tâm lý của ta. Sắc là uẩn thứ nhất, danh là bốn uẩn sau (thọ, tưởng, hành, thức). Nhìn vào đó ta không thấy có gì bền chắc, bất biến, không có gì tương đương với attā trong triết học Ấn Độ, trong Bà la môn giáo. Khi nhìn như vậy, chúng ta chỉ thấy cái “không ngã” (anattā). Tất cả những gì mà chúng ta có thể kinh nghiệm tới được như năm uẩn, như những hiện tượng; tất cả những cái đó cũng vô thường, cũng biến chuyển. Và nhìn sâu vào nó, chúng ta không nắm được một cái gì gọi là vĩnh cửu, thường hằng hết. Khi Đức Thế Tôn xuất hiện thì Ngài làm một cuộc cách mạng tư tưởng rất lớn. Giáo lý của Ngài rất thực tế. Ngài không công nhận thần ngã. Anattā (anātman) tức là vô ngã.
Trong khi đó thì Bà la môn giáo nói, nằm dưới anātman tức năm uẩn biến chuyển thì có attā (ātman) hay thần ngã, đứng về phương diện cá nhân thì gọi là ngã. Nhìn kỹ vào thần ngã đó, ta thấy cái tuyệt đối (paramārtha) tức là Brahma. Đó là giáo lý của Ấn Độ giáo.
Đức Thế Tôn ra đời, Ngài dạy giáo lý về vô thường, vô ngã, và mũi dùi giáo lý đó chĩa vào ý niệm về ngã hay tiểu ngã (ātman) và ý niệm về Phạm thiên hay đại ngã (Brahma). Hai cái đó cùng một chất. Brahma là siêu ngã, còn ātman là cái ngã nhỏ của mình. Những tác phẩm nổi tiếng sau này của Ấn Độ giáo đã được tinh luyện để đối phó với giáo lý đạo Bụt. Giáo lý đạo Bụt nói vô ngã (anattā), không công nhận một cái tự ngã (self-nature, own-being) nào nằm dưới hết. Ấn Độ giáo phản ứng lại, đưa ra rất nhiều luận chứng nên đệ tử của Bụt cũng phải phát triển giáo lý của mình để đáp ứng lại. (Nguồn: Phẩm Nhân Duyên - TS Thích Nhất Hạnh giảng)
+ Kinh Tăng Chi Bộ (PDF): Nội dung trong kinh rất phong phú, rộng và bao trùm, căn bản gần gũi với Pháp thế gian. Mời đọc: Xem tại đây
+ Hữu duyên - Vô duyên:
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,
Vô duyên đối diện bất tương phùng.
Có duyên dù ở xa ngàn dặm cũng gặp nhau, còn không có duyên dù đối diện trước mặt cũng không thông cảm nhau được. Hai câu đó của sách Nho đời Tống, là do ảnh hưởng Phật nên mới nói thế.
Câu "Phật hóa hữu duyên nhân" nói lên lẽ thật chúng ta đang sống chớ không phải tưởng tượng. Trong kinh kể mỗi buổi sáng, trước khi đi giáo hóa, đức Phật dùng thiên nhãn xem hôm nay người nào có duyên với mình, Ngài đi thẳng tới đó giáo hóa. Nơi nào không có duyên Ngài không đi. Rất tiếc Tăng Ni thời nay không có thiên nhãn, nên nhiều khi đi giáo hóa bị thiên hạ rầy. Đó là vì mình không có duyên mà đi đại, đi càn. Tôi nói vậy để quí vị thấy ý nghĩa của chữ có duyên và vô duyên.....
.... Như vậy rõ ràng Phật đi khất thực là gieo duyên với chúng sanh. Nếu cứ ngồi một chỗ, chúng sanh đâu có duyên để đến với Ngài. Nhờ gieo duyên như thế, Ngài độ được vô lượng chúng sanh. Đó là ý nghĩa gieo duyên của đức Phật. Ngài làm hai việc một lúc: Việc thứ nhất tìm người đã có duyên để độ. Việc thứ hai người chưa có duyên thì tới để gieo duyên. Thử hỏi đức Phật hành đạo như thế có tiêu cực không?...
Tăng Ni nhận của Phật tử cúng dường là nhận duyên người ta gieo với mình. Cho nên khi thọ giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni rồi, Tăng Ni đắp y có nhiều mảnh nối, tượng trưng cho những thửa ruộng phước mà chúng sanh đã gieo với mình. Như vậy tinh thần gieo duyên của đạo Phật rất rõ ràng. Người nào đã có duyên thì Phật và chư Tăng, chư Ni độ trước. Người nào chưa có duyên thì tìm cách gieo duyên. Đã có duyên thì dù xa mấy cũng tìm đến, cho nên chùa chiền không cần phải ở giữa thành thị. Tuy ẩn mình trên núi rừng, nhưng Phật tử có duyên vẫn tìm tới như thường. Đó là tinh thần đặc biệt của đạo Phật.
Đạo Phật chủ trương người phát tâm tìm đến, chớ không khuyến dụ, không tuyên truyền, không ép buộc. Chư Sư lặng lẽ tu trên núi rừng, ai tìm tới là người có duyên, nên sẵn lòng hóa độ. Vì vậy đạo Phật không có tham vọng làm bá chủ nhân loại. Chúng ta chỉ hướng dẫn, giáo dục người nào có duyên, còn người không có duyên thì họ tự do lựa chọn con đường của mình, cuộc sống của mình. Qua đó đủ thấy đạo Phật rất tôn trọng tự do của mỗi người, có duyên thì đến không duyên thì thôi....
Nhân đây tôi kể lại câu chuyện thời đức Phật còn tại thế. Ngày xưa có một vị Tỳ-kheo, đệ tử ngài Xá-lợi-phất, tu chứng quả A-la-hán. Thầy đi khất thực cả xóm không ai cúng. Nhiều lần liên tục như vậy khiến Thầy phải nhịn đói. Ngài Xá-lợi-phất thấy thương quá, bèn bảo: "Để ta khất thực đem về cho." Khi Tôn giả khất thực về, sớt cơm qua bát của Thầy. Vì đói quá, tay Thầy run rẩy làm đổ bát cơm đi, nên cũng không ăn được. Phật nói nguyên nhân đời trước Thầy đã mấy lần ngăn không cho người ta cúng dường chúng Tăng, nên bây giờ bị quả báo như thế. Đó là vì thầy Tỳ-kheo này không gieo duyên để người cúng dường, nên bây giờ không được cúng dường, dù Thầy đã chứng quả nhưng vẫn đói như thường. ... Chúng ta phải hiểu lý nhân duyên là thế (Nguồn: HT Thích Thanh Từ giảng)
+ Tùy duyên: Tùy duyên thì luôn cần có trí phân biện ở đó để linh hoạt ứng sử đúng Như lý như Pháp Phật dậy. Mời tham khảo bài viết Tùy duyên của HT Thích Thanh Từ
+ Mời đọc thêm bài giảng Tùy duyên của HT Thích Thanh Từ
+ Tương quan nhân quả - Lý nhân quả - Lý sinh diệt
Lý Duyên Khởi gốc từ tiếng Pàli là "Paticca Samuppàda Dhamma", dịch là "tuỳ thuộc phát sinh, nương theo các duyên mà sinh".
Tiếng Anh dịch là Dependent origination. Lý là nguyên lý hay định lý. Duyên là điều kiện. Lý Duyên Khởi có nghĩa là: "Tất cả những hiện tượng thế gian khởi lên là do nhiều điều kiện hay nhiều nhân nhiều duyên mà được thành lập." hay nói ngắn gọn: "Lý Duyên Khởi là từ điều kiện này khởi ra cái khác".
Pháp Duyên Sinh gốc từ tiếng Pàli là "Paticca Samuppanna Dhammà". Pháp này là hiện tượng thế gian. Pháp Duyên Sinh có nghĩa là "Hiện tượng thế gian (pháp) thành lập là do nhiều điều kiện, nhiều yếu tố kết hợp sinh ra nó (pháp)" hay nói ngắn gọn: "Cái này có mặt là do nhiều điều kiện sinh ra".
Gút lại: Tất cả các pháp trong vũ trụ vạn hữu đều vận hành theo quy luật Duyên sinh hay Duyên khởi. Nghĩa là các pháp sinh khởi theo Duyên, theo các điều kiện. Không có một pháp nào tồn tại độc lập. Chúng phải nương vào các yếu tố, điều kiện để phát sinh.
So sánh Lý Duyên Khởi và Pháp Duyên Sinh ta có thể hiểu như sau:
- Lý Duyên Khởi: Từ điều kiện (duyên) này sinh ra cái khác (pháp). Thí dụ: Nhờ cây trái mà người ta có việc làm, có lương, nuôi sống gia đình. Nhờ cây trái (là điều kiện) mới có (khởi) việc làm. Có việc làm (là điều kiện) mới có (khởi) lương. Có lương (điều kiện) mới (khởi) nuôi sống gia đình. Đây là Lý Duyên Khởi.
- Pháp duyên sinh: Là khi đứng ở chỗ hiện tượng thế gian (pháp) có mặt là do nhiều điều kiện hợp lại sinh ra nó. Thí dụ: Một hạt mầm nhờ đất nước phân bón sinh ra cây, từ cây sinh ra trái. Cây sinh ra trái (hiện tượng thế gian) do hột mầm cộng đất nước, phân bón, ánh nắng mặt trời... (là các điều kiện hợp lại) mới sinh ra cây, cây mới ra trái. Đây là Pháp duyên sinh.
CHỨNG NGỘ LÝ DUYÊN KHỞI
Trong kinh Phật Tự Thuyết, Đức Phật thuật lại rằng sau khi chứng ngộ Ba Minh. Ngài tiếp tục thiền định trong một tuần lễ để chiêm nghiệm thành quả giải thoát. Sau đó, Ngài đã lần lượt quán chiếu về mười hai nguyên nhân gây ra luân hồi của con người.
Ngài nhận ra mười hai Duyên khởi theo chiều xuôi, tức là mười hai nhân duyên (nhân) khởi lên mười hai sự kiện (quả) gây nên khổ uẩn. Tiếp theo, Ngài quán Lý Duyên khởi theo chiều ngược. Tức là Duyên này diệt, Duyên kia sẽ diệt và toàn bộ mười hai Duyên cũng sẽ diệt. Đây là chìa khoá chấm dứt khổ uẩn, chấm dứt Vô Minh. Sau cùng, Ngài đúc kết lại thành một hệ thống Lý Duyên Khởi đặt ra định lý "Tương quan nhân quả" như sau:
Chiều xuôi:
"Cái này có, cái kia có
Cái này sinh, cái kia sinh
Chiều ngược:
"Cái này không, cái kia không
Cái này diệt, cái kia diệt"
Đây là Chân lý thường hằng bất biến không thay đổi. Chân lý này áp dụng cho con người, loài thú, sự kiện cũng như tất cả vạn vật vô tri vô giác, tức là cho mọi hiện tượng thế gian. ... (Nguồn: Lý duyên khởi - Pháp duyên sinh; Thích Nữ Hằng Như giảng)
+ Pháp Thường kiến - Đoạn kiến và Trung đạo:
XVII. Loã Thể 1) Như vầy tôi nghe.
-- Vậy hãy hỏi đi, này Kassapa, như Ông muốn.
7) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do tự mình làm ra?
Thế Tôn đáp: Không phải vậy, này Kassapa.
8) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp: Không phải vậy, này Kassapa.
9) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do mình làm ra và do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp: Không phải vậy, này Kassapa.
10) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?
Thế Tôn đáp: Không phải vậy, này Kassapa.
11) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không có?
-- Này Kassapa, không phải khổ không có. Khổ có, này Kassapa.
12) -- Như vậy, Tôn giả Gotama không biết, không thấy khổ.
-- Này Kassapa, không phải Ta không biết, không thấy khổ. Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ.
13) -- Được hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có phải tự mình làm ra", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Được hỏi: ... (như trên). Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói lên cho con về khổ, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết cho con về khổ.
14) -- Một người làm và chính người làm ấy cảm thọ (kết quả). Này Kassapa, như Ông gọi ban đầu "khổ do tự mình làm ra", như vậy có nghĩa là thường kiến (Thiên về có/ Thường tồn. Ví dụ: Có linh hồn).
Một người khác làm và một người khác cảm thọ. Này Kassapa, như vậy đối với người bị cảm thọ, được xảy ra như: "Khổ do người khác làm ra", như vậy có nghĩa là đoạn kiến/ Thiên về không - Đoạn diệt.
15) Này Kassapa, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo. Vô minh duyên hành, hành duyên thức... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do ly tham và đoạn diệt hoàn toàn vô minh, các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
16) Khi được nghe nói vậy, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! ..... Và nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, con xin xuất gia với Thế Tôn, con xin thọ đại giới.
* 12) -- Lành thay, lành thay, này Ananda! Sàriputta trả lời như vậy là trả lời một cách chơn chánh. Này Ananda, Ta nói rằng khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc (6 tiếp xúc: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc). Nói như vậy là đáp đúng lời Ta tuyên bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thật, và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn, cũng không tìm được lý do để chỉ trích. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ưng nhân duyên)
+ Kinh Phật Tự Thuyết (Udàna)
Mục Lục
Chương 01-03
Chương 1: Phẩm Bồ Đề
Chương 2: Phẩm Muccalinda
Chương 3: Phẩm Nanda
Chương 04-05
Chương 4: Phẩm Meghiya
Chương 5: Phẩm Trưởng Lão Sona
Chương 06-08
Chương 6: Phẩm Sanh Ra Đã Mù
Chương 7: Phẩm Nhỏ
Chương 8: Phẩm Pataligamiya
Giới Thiệu - Hoà thượng Thích Minh Châu
Kinh Udàna, được dịch là Phật tự thuyết kinh, nghĩa là những kinh này đức Phật tự nói, do cảm xúc mạnh đột khởi, không ai thỉnh Phật thuyết. ......
Tập này gồm tám chương. Mỗi chương có 10 kinh. Như vậy có tám mươi kinh tất cả. Để tiện tìm kiếm, khi viết "I, 2" thời hiểu là chương I, kinh số 2; khi ghi "IV, 7", thời hiểu là chương IV kinh 7 v.v... Mỗi kinh gồm hai phần, phần đầu văn xuôi, ghi nhận một câu chuyện do đức Phật chứng kiến hay do các tỷ kheo kể lại, và phần thứ hai là lời cảm hứng của đức Phật, phần lớn là bằng những bài kệ (gàthà), chỉ có 1, 2 bài kinh Udàna được chép bằng văn xuôi.
Trước hết là một số kinh do liên hệ đến đời sống của đức Phật, như ba kinh đầu, Phẩm Bồ Đề diễn tả đức Phật khi mới thành đạo, ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề, suy tưởng đến lý 12 nhân duyên, thuận chiều và nghịch chiều rồi nói lên cảm hứng. (xem I. 1, 2, 3). Kinh II, 1 nói đến tích đức Phật ngồi nhập định gặp mưa to gió lớn, có con rắn Mucalinda quấn thân mình chung quanh đức Phật để che chở cho Ngài. Kinh IV, 5 đề cập đến tích đức Phật bị các vị xuất gia, tại gia, vua chúa đến làm phiền nhiễu nên Ngài bỏ đi vào núi một mình và sống với một con voi, con voi này cũng bị đàn voi quấy rầy nên đến sống một mình với đức Phật. Sự tích khi đức Phật từ bỏ thọ hành và tuyên bố sau ba tháng sẽ nhập Niết bàn được kinh VI, 1 diễn tả. Và cũng được diễn tả là bữa cơm cuối cùng do thợ rèn Cunda cúng dường đức Phật. Sau bữa cơm ấy, đức Phật nhuốm bệnh và không bao lâu đức Phật nhập Niết bàn. Những sự tích trên giúp chúng ta có thêm một số tài liệu về lịch sử đức Phật.... (Nguồn: Kinh Phật Tự Thuyết - HT Thích Minh Châu dịch giảng)
+ Pháp Thiền về mười hai nhân duyên
IV. Vipassì (Tỳ-bà-thi) (Tạp 15.2-3, Đại 2,101a) (S.ii,5)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, trước khi Ngài giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, còn là Bồ-tát, đã khởi lên tư tưởng sau đây: "Thật sự thế giới này đang lâm nguy, bị sanh, bị già, bị chết, đoạn diệt và tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết xuất ly, thoát khỏi già và chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi nào biết đến xuất ly, thoát khỏi già và chết".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, già, chết có mặt? Do duyên gì, già, chết (sanh khởi)?". Sau khi như lý tư duy, này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do sanh có mặt, già chết có mặt. Do duyên sanh, già chết (sanh khởi)".
4) Rồi Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, sanh có mặt? Do duyên gì, sanh sanh khởi?". Sau khi như lý tư duy, này các Tỷ- kheo, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do hữu có mặt nên sanh có mặt. Do duyên hữu, sanh (sanh khởi)".
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, hữu có mặt? Do duyên gì, hữu (sanh khởi)?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thủ có mặt, nên hữu có mặt. Do duyên thủ, hữu sanh khởi".
6) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thủ có mặt? Do duyên gì, thủ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do ái có mặt nên thủ có mặt. Do duyên ái, thủ sanh khởi".
7) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, ái có mặt? Do duyên gì, ái sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thọ có mặt nên ái có mặt. Do duyên thọ, nên ái sanh khởi".
8) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thọ có mặt? Do duyên gì, thọ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ phát sinh minh kiến như sau: "Do xúc có mặt nên thọ có mặt. Do duyên xúc, thọ sanh khởi".
9) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, xúc có mặt? Do duyên gì, xúc sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do sáu xứ có mặt nên xúc có mặt. Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi".
10) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, sáu xứ có mặt? Do duyên gì, sáu xứ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do danh sắc có mặt nên sáu xứ có mặt. Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi".
11) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, danh sắc có mặt? Do duyên gì, danh sắc sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thức có mặt nên danh sắc có mặt. Do duyên thức, danh sắc sanh khởi".
12) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thức có mặt? Do duyên gì, thức sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do hành có mặt nên thức có mặt. Do duyên hành, thức sanh khởi".
13) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, hành có mặt? Do duyên gì, hành sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do vô minh có mặt nên hành có mặt. Do duyên vô minh, hành sanh khởi".
14) Như vậy, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
15) "Tập khởi, tập khởi", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, với Bồ-tát Vipassì, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.
16) Và này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên già, chết không có mặt? Do cái gì diệt, già, chết diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do sanh không có mặt nên già chết không có mặt. Do sanh diệt nên già chết diệt".
17) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên sanh không có mặt? Do cái gì diệt nên sanh diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do hữu không có mặt nên sanh không có mặt. Do hữu diệt nên sanh diệt".
18) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên hữu không có mặt? Do cái gì diệt nên hữu diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do thủ không có mặt nên hữu không có mặt. Do thủ diệt nên hữu diệt".
19) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên thủ không có mặt? Do cái gì diệt nên thủ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do ái không có mặt nên thủ không có mặt. Do ái diệt nên thủ diệt".
20) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên ái không có mặt? Do cái gì diệt nên ái diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do thọ không có mặt nên ái không có mặt. Do thọ diệt nên ái diệt".
21) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên thọ không có mặt? Do cái gì diệt nên thọ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do xúc không có mặt nên thọ không có mặt. Do xúc diệt nên thọ diệt".
22) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên xúc không có mặt? Do cái gì diệt nên xúc diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do sáu xứ không có mặt nên xúc không có mặt. Do sáu xứ diệt, nên xúc diệt".
23) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên sáu xứ không có mặt? Do cái gì diệt nên sáu xứ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do danh sắc không có mặt nên sáu xứ không có mặt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt".
24) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên danh sắc không có mặt? Do cái gì diệt nên danh sắc diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do thức không có mặt nên danh sắc không có mặt. Do thức diệt nên danh sắc diệt".
25) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên thức không có mặt? Do cái gì diệt nên thức diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do hành không có mặt nên thức không có mặt. Do hành diệt nên thức diệt".
26) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên hành không có mặt? Do cái gì diệt nên hành diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do vô minh không có mặt nên hành không có mặt. Do vô minh diệt nên hành diệt".
27) Như vậy, do vô minh diệt nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
28) "Đoạn diệt, đoạn diệt", này các Tỷ-kheo, trong các pháp từ trước chưa từng được nghe, đối với Bồ-tát Vipassì, nhãn khởi nên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Các Pháp chứng trong Phật giáo:
5) Như vậy, này các Tỷ-kheo, Pháp được Ta khéo thuyết, hiển thị, khai thị, hiển lộ, các buộc ràng được cắt đoạn.
6) Như vậy, này các Tỷ-kheo, với Pháp được Ta khéo thuyết, hiển thị, khai thị, hiển lộ, các buộc ràng được cắt đoạn, thật là đủ cho Thiện nam tử do lòng tin xuất gia có thể bắt đầu tinh tấn (hành trì và nguyện). Như vậy, này các Tỷ-kheo, với Pháp được Ta khéo thuyết, hiển thị, hiển lộ các buộc ràng được cắt đoạn. Chắc chắn dầu chỉ còn lại da, gân và xương trên thân, dầu thịt, máu trở thành khô cạn, mong rằng tinh tấn lực, sẽ được kiên trì để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ trượng phu lực, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng.
7) Khổ thay, này các Tỷ-kheo, là người sống biếng nhác, dính đầy các pháp ác, bất thiện và mục đích lớn bị suy giảm! An lạc thay, này các Tỷ-kheo, là người sống tinh cần, tinh tấn, viễn ly các ác, bất thiện pháp, và mục đích lớn được viên mãn!
8) Này các Tỷ-kheo, không phải với cái hạ liệt có thể đạt được cái cao thượng. Này các Tỷ-kheo, phải với cái cao thượng mới đạt được cái cao thượng. Đáng được tán thán, này các Tỷ-kheo, là Phạm hạnh này với sự có mặt của bậc Đạo Sư. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy tinh tấn lên để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
9) Có vậy, sự xuất gia này của chúng ta sẽ không phải trống không, có kết quả, có thành tích (Sa udrayà). Và những vật dụng chúng ta thọ dụng như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc trị bệnh, dầu cho những thứ này là khiêm tốn (vokàrà), đối với chúng ta sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn.
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập. Này các Tỷ-kheo, thấy được tự lợi là vừa đủ để tinh tấn không phóng dật. Hay này các Tỷ-kheo, khi thấy lợi tha là vừa đủ để tinh tấn, không phóng dật. Hay này các Tỷ-kheo, thấy lợi cả hai, là vừa đủ để tinh tấn, không phóng dật. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Duyên sợ hãi - Nguyên nhân có sợ hãi và xóa bỏ sợ hãi - Nguồn gốc sợ hãi:
I. Năm Hận Thù Sợ Hãi (S.ii,68)
1) Trú ở Sàvatthi...
2) Rồi Gia chủ Anàthapindika (Cấp Cô Độc) đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với Gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên :
3) -- Khi nào, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử nhiếp phục được năm sợ hãi, hận thù, khi nào được đầy đủ bốn dự lưu chi, khi nào Thánh lý (nàya) nhờ trí tuệ được khéo thấy, được khéo thâm nhập, khi ấy, vị ấy nếu muốn có thể tự mình tuyên bố cho mình: "Ta là người đoạn diệt được địa ngục, đoạn diệt được bàng sanh, đoạn diệt được ngạ quỷ, đoạn diệt được cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, ta không còn bị đọa lạc, ta đã được quyết định, Chánh Đẳng Giác là mục tiêu tối hậu (của ta)".
4) Thế nào là năm sợ hãi, hận thù được nhiếp phục?
5) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người sát sinh, vì duyên sát sinh đưa đến trong hiện tại; sợ hãi, hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Đối với vị đoạn tuyệt sát sanh, như vậy sợ hãi, hận thù được nhiếp phục.
6) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người lấy của không cho, vì duyên lấy của không cho đưa đến trong hiện tại; sợ hãi, hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Đối với vị đoạn tuyệt lấy của không cho, như vậy sợ hãi, hận thù được nhiếp phục.
7) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người sống tà hạnh trong các dục, vì duyên sống tà hạnh trong các dục đưa đến trong hiện tại; sợ hãi, hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Đối với vị đoạn tuyệt sống tà hạnh trong các dục vọng, như vậy sợ hãi, hận thù được nhiếp phục.
8) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người nói láo, và duyên nói láo đưa đến trong hiện tại; sợ hãi, hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Đối với vị đoạn tuyệt nói láo, như vậy sợ hãi, hận thù được nhiếp phục.
9) Này Gia chủ, sợ hãi, hận thù do người đắm say rượu men, rượu nấu, và duyên đắm say rượu men, rượu nấu đưa đến trong hiện tại; sợ hãi hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Đối với vị đoạn tuyệt đắm say rượu men rượu nấu, như vậy sợ hãi hận thù được nhiếp phục.
Giữ năm giới - Năm sự sợ hãi oán thù này được nhiếp phục. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ưng nhân duyên)
+ Thiện tri thức - Người quân tử tu:
IX. Thánh Đệ Tử (Tạp 14,8 Thánh đệ tử. Đại 2,98b) (S.ii,77)
2) -- Này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử không có suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, cái gì hiện hữu? Do cái gì sanh khởi, cái gì sanh khởi? Do cái gì có mặt, các hành hiện hữu? Do cái gì có mặt, danh sắc hiện hữu? Do cái gì có mặt, sáu xứ hiện hữu? Do cái gì có mặt, xúc hiện hữu? Do cái gì có mặt, thọ hiện hữu? Do cái gì có mặt, ái hiện hữu? Do cái gì có mặt, thủ hiện hữu? Do cái gì có mặt, hữu hiện hữu? Do cái gì có mặt, sanh hiện hữu? Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu?"
3) Này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử không duyên người khác, ở đây có trí như sau: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh khởi, cái kia sanh khởi. Do duyên vô minh nên có hành. Do duyên hành nên có thức. Do duyên thức nên có danh sắc... Do duyên sanh nên có già chết. Vị ấy hiểu biết như vậy. Như vậy là sự sanh khởi của thế giới này".
4) Này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử không có suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt, cái gì không hiện hữu? Do cái gì diệt, cái gì diệt? Do cái gì không có mặt, hành không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thức không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, danh sắc không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, sáu xứ không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, xúc không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thọ không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, ái không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thủ không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, hữu không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, sanh không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu?".
5) Này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử không duyên theo người khác, ở đây có trí như sau: "Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu. Do cái này diệt, cái kia diệt. Do vô minh không có mặt, các hành không hiện hữu. Do các hành không có mặt, thức không hiện hữu. Do thức không có mặt, danh sắc không hiện hữu. Do danh sắc không không có mặt, sáu xứ không hiện hữu. Do sáu xứ không có mặt, xúc không hiện hữu. Do xúc không có mặt, thọ không hiện hữu. Do thọ không có mặt, ái không hiện hữu. Do ái không có mặt, thủ không hiện hữu. Do thủ không có mặt, hữu không hiện hữu. Do hữu không có mặt, sanh không hiện hữu. Do sanh không có mặt, già chết không hiện hữu". Vị ấy hiểu biết như vậy. Như vậy là sự đoạn diệt của thế giới này.
6) Và này các Tỷ-kheo, vì rằng vị Thánh đệ tử như thật biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của thế gian như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử này được gọi là kiến đạt... (như trên)... đã đứng gõ cửa bất tử.
X. Thánh Đệ Tử (S.ii,79)
2) -- Này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử không có suy nghĩ như sau: "Có phải do cái gì có mặt, cái gì hiện hữu? Do cái gì sanh khởi, cái gì sanh khởi? Do cái gì có mặt, các hành hiện hữu? Do cái gì có mặt, thức hiện hữu? Do cái gì có mặt, danh sắc hiện hữu? Do cái gì có mặt, sáu xứ hiện hữu? Do cái gì có mặt, xúc hiện hữu? Do cái gì có mặt, thọ hiện hữu? Do cái gì có mặt, ái hiện hữu? Do cái gì có mặt, thủ hiện hữu? Do cái gì có mặt, hữu hiện hữu? Do cái gì có mặt, sanh hiện hữu? Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu?".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử không duyên một ai khác, ở đây có trí như sau: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh khởi, cái kia sanh khởi. Do vô minh có mặt, hành hiện hữu. Do hành có mặt, thức hiện hữu. Do thức có mặt, danh sắc hiện hữu. Do danh sắc có mặt, sáu xứ hiện hữu. Do sáu xứ có mặt, xúc hiện hữu. Do xúc có mặt, thọ hiện hữu. Do thọ có mặt, ái hiện hữu. Do ái có mặt, thủ hiện hữu. Do thủ có mặt, hữu hiện hữu. Do hữu có mặt, sanh hiện hữu. Do sanh có mặt, già chết hiện hữu". Vị ấy hiểu biết như vậy. Như vậy là sự sanh khởi của thế giới này.
4) Này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử không suy nghĩ như sau: "Có phải, do cái gì không có mặt, cái gì không hiện hữu? Do cái gì diệt, cái gì diệt? Do cái gì không có mặt, các hành không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thức không hiện hữu... (như trên)... Do cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu?"
5) Này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử không duyên một ai khác, ở đây có trí như sau: "Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu? Do cái này diệt, cái kia diệt. Do vô minh không có mặt, các hành không hiện hữu. Do các hành không có mặt, thức không hiện hữu. Do thức không có mặt, danh sắc không hiện hữu. Do danh sắc không có mặt,sáu xứ không hiện hữu. Do sáu xứ không có mặt, xúc không hiện hữu... (như trên)... Do sanh không có mặt, già chết không hiện hữu". Vị ấy hiểu biết như vậy. Như vậy là sự đoạn diệt của thế giới này.
6) Vì rằng này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử như thật biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của thế giới này như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là kiến đạt, vị ấy thấy diệu pháp này, vị ấy đầy đủ trí của bậc hữu học, vị ấy đầy đủ minh của bậc hữu học, đã nhập được Pháp lưu, là bậc Thánh minh đạt tuệ, là vị đã đứng gõ cửa bất tử. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ưng nhân duyên)
+ Các Pháp tu thiền tuệ tri - Các pháp tham thiền theo Tư tưởng gốc:
* Mô tả Pháp tu ở độ tuổi cao hơn thì xem như đã tu thành tựu pháp tu của người ở tuổi thấp hơn. Theo đó nếu người cao tuổi hơn mà chưa tu thành tựu Đạo hạnh của người tuổi thấp hơn thì xem như vẫn phải tu hành lại. Cho nên nhân gian có câu, đại khái "Người trẻ bảy tuổi học đã biết đạo, nhưng ông già bảy mươi cẫn chưa tu thành tựu" là vậy.
I- Đối tượng tu Pháp thế gian - Tu phước thế gian:
Họ là người hàng ngày tu thành tựu đạo thiện lành, giữ ngũ giới, hành thiện tránh ác, tu tích phúc đức, gốc là tu thành tự "Hiếu thân tôn sư", sau là tu Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín, đồng thời tu thành tựu luân thường đạo lý của thế gian.
1- Thiếu niên tu các tư tưởng gốc - Hạt giống: Tu theo những điều bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng. Thường ngày hành đạo "Hiếu kính cha mẹ - Kính trọng thày tổ", yêu thương anh chị em và tất cả mọi người, mọi chúng sinh, không gây tổn hại cho tất cả chúng sinh.
2- Thanh niên tu các tư tưởng gốc - Hạt giống: Tu chủ đạo là tu "Hiếu thân tôn sư", yêu quý bản thân, hiểu được trách nhiệm gìn giữ "Hình hài của mẹ cha cho", để sống không gây tổn hại, trộm cắp, tà dâm, nói giói và nghiện ngập. Hiểu thấu công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, nguyện sống đúng như "Công cha như núi thái sơn - Nghĩa mẹ như nước trong ngườn chảy ra ....). Luôn tự hào vì mình được sinh ra có bố mẹ như thế, KHÔNG xấu hổ, che bai, bất mãn với hoàn cảnh gia đình, bố mẹ anh em, dòng tộc vì bất cứ lý do gì, vì đó đều là hành vi vô đạo đức, là bất hiếu, tội nghiệp rất nặng.
3- Người trẻ tu các tư tưởng gốc - Hạt giống: Từng bước, tùy theo độ tuổi mà dần học hiểu và tin sâu về Nhân quả - Luân hồi tái sanh tạo ra Số mệnh, không phải là định mệnh với người tu cải mệnh.
4- Trung niên tu các tư tưởng gốc - Hạt giống: Tu học phát triển trí tuệ phân biện qua Giới - Định - Tuệ đối trị Tham - Sân - Si. Hiểu rõ vạn sự sảy đến với mình và gia đình đều do Nhân Quả - Nhân nào quả đấy. Theo đó, luôn tu phấn đấu chấp nhận quả báo đến, tích cực tu hành cải mệnh số qua thật hành hàng ngày tu giữ ngũ giới, làm thiện chánh ác, bố thí theo khả năng ... sống phù hợp với quy luật tự nhiên. Tự mình và gia đình cùng tích lũy công đức để hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng kết hợp với phát triển sự nghiệp và nhớ, luôn nên lượng sức mình, chánh tham muốn quá sức để có cuộc sống tự do, an nhiên tự tại, giải thoát mà KHÔNG bị trói buộc bởi nợ lần rất đáng sợ, vì nó là nguồn gốc của khổ đau hết kiếp này đến kiếp khác vậy.
5- Cao tuổi tu các tư tưởng gốc - Hạt giống: Tu thành tựu đức hạnh theo độ tuổi ở trên, quan trọng nhất là nên "Quy y Tam Bảo" để gieo hạt giống giải thoát, làm gương cho con cháu noi theo. Học cách buôn xả vạn duyên, tu tứ vô lượng tâm 'TỪ - BI - HỶ - XẢ" và niệm Phật, Bồ Tát. Tu tham thiền theo khả năng. Đức Phật dạy về đạo người làm con, khuyên bảo bố mẹ làm sao để "Sáng Quy y Tam bảo - Chiều xả bỏ báo thân" thì cũng xem như hoàn thành đại hiếu ở đời, chứ không phải chỉ lo đủ đầy việc ăn uống, áo quần, ngủ nghỉ, thuốc thang đầy đủ .... tuy đã là Hiếu nhưng chưa phải đại hiếu.
II- Đối tượng tu Pháp xuất thế gian - Tu giải thoát:
Họ là người đã "Quy y Tam Bảo", họ đã tu tập nhiều kiếp có thành tựu là người quân tử, bậc thiện tri thức tu tập hướng đến giải thoát luân hồi sinh tử. Họ đã hiểu sâu Nhân quả - Luân hồi tái sanh. Họ tiến tu hướng đến giải thoát luân hồi sinh tử chứ KHÔNG tu tích phước hữu lậu thế gian.
1- Pháp tu Tứ diệu đế: Là người thiện tri thức, họ là Người chí nguyện, dự bị đệ tử và đệ tử tu
2- Pháp tu mười hai nhân duyên: Bậc thiện tri thức, hàng thánh nhân đã đắc đạo quả giai đoạn đầu của đường đạo. Họ đã thành tựu về tứ vô lượng tâm TỪ BI HỶ XẢ ... Nói chung họ là hàng Thánh nhân do đã tu hành thành tựu, đắc đạo quả qua nhiều kiếp sống.
3- Pháp tu Đại Định Thủ Lăng Nghiêm: Họ là bậc Đại Thiện tri thức, Hàng Thánh nhân, hàng Bồ Tát tu ... nhân loại thông thường không thể hiểu nổi.
III- Vài Kinh Phật dậy tu Pháp xuất thế gian - Tu thiền tuệ tri giải thoát luân hồi sinh tử:
+ Pháp tu mười hai nhân duyên: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ưng nhân duyên)
+ Tin Phật dậy - Tin Chánh pháp:
Hãy tin ở Ta - Phật dật:
I. Tư Lường (Tạp 12.10, Đại 2,82c) (S.ii,80)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc).
2) Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch Thế Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tư lường, phải tư lường như thế nào để chơn chánh diệt khổ một cách trọn vẹn?
-- Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm điểm tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn nói lên ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
4) -- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
5) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đang tư lường, tư lường như sau: "Sự đau khổ nhiều loại và đa dạng này khởi lên trên đời như già và chết; sự đau khổ này lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu? Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu? Do cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu?"
6) Tư lường như vậy, vị ấy biết như sau: "Sự đau khổ nhiều loại và đa dạng này khởi lên trên đời như già và chết, sự đau khổ này lấy sanh làm nhân, lấy sanh làm tập khởi, lấy sanh làm tác sanh, lấy sanh làm hiện hữu. Do sanh có mặt, già chết hiện hữu. Do sanh không có mặt, già chết không hiện hữu".
7) Và vị ấy biết già chết, biết già chết tập khởi, biết già chết đoạn diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến già chết đoạn diệt. Do thực hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành.
8) Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị Tỷ-kheo đã thực hành một cách trọn vẹn để chơn chánh đoạn tận khổ đau và đoạn diệt già chết.
9) Tư lường thêm nữa, vị ấy tư lường như sau: "Còn hữu này, do cái gì làm nhân? Còn thủ này, do cái gì làm nhân? Còn ái này, do cái gì làm nhân? Còn thọ này, do cái gì làm nhân? Còn xúc này... Còn sáu xứ này... Còn danh sắc này... Còn thức này... Còn các hành này, do cái gì làm nhân, cái gì tập khởi, cái gì tác sanh, cái gì làm hiện hữu? Do cái gì có mặt, các hành hiện hữu? Do cái gì không có mặt các hành không hiện hữu?"
10) Tư lường như vậy, vị ấy biết như sau: "Các hành lấy vô minh làm nhân, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh làm tác sanh, lấy vô minh làm hiện hữu. Do vô minh có mặt, các hành hiện hữu. Do vô minh không có mặt, các hành không hiện hữu".
11) Và vị ấy biết các hành, biết các hành tập khởi, biết các hành đoạn diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến các hành đoạn diệt. Do thực hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành. Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị Tỷ-kheo đã thực hành một cách trọn vẹn để chơn chánh đoạn tận khổ đau và đoạn diệt các hành.
12) Này các Tỷ-kheo, nếu người nào bị vô minh chi phối, dự tính làm phước hành, thức (của người ấy) đi đến phước. Nếu người ấy dự tính làm phi phước hành, thức (của người ấy) đi đến phi phước. Nếu người ấy dự tính làm bất động hành, thức (của người ấy) đi đến bất động.
13) Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đoạn tận vô minh, minh được sanh khởi. Vị ấy do vô minh đoạn tận, minh sanh khởi, không dự tính làm phước hành, không dự tính làm phi phước hành, không dự tính làm bất động hành.
14) Không có dự tính, không có dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự gì ở đời. Không chấp thủ, vị ấy không sợ hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch tịnh. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy biết lạc thọ ấy vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy biết khổ thọ vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết thọ ấy vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ.
16) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly (visannutto).
17) Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được bỏ qua một bên".
18) Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò nung của người thợ gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên một khoảng đất bằng phẳng để sức nóng ở đấy được nguội dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được bỏ qua một bên".
19) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc có dự tính làm các phước hành, hay có dự tính làm các phi phước hành, hay có dự tính làm các bất động hành?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
20) -- Hay nếu các hành không có mặt một cách trọn vẹn, do các hành đoạn diệt, thời thức có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
21) -- Hay nếu thức không có mặt một cách trọn vẹn, do thức đoạn diệt, thời danh sắc có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
22) -- Hay nếu danh sắc không có mặt một cách trọn vẹn, do danh sắc đoạn diệt, thời sáu xứ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
23) -- Hay nếu sáu xứ không có mặt một cách trọn vẹn, do sáu xứ đoạn diệt, thời xúc có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
24) -- Hay nếu xúc không có mặt một cách trọn vẹn, do xúc đoạn diệt, thời thọ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
25) -- Hay nếu thọ không có mặt một cách trọn vẹn, do thọ đoạn diệt, thời ái có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
26) -- Hay nếu ái không có mặt một cách trọn vẹn, do ái đoạn diệt, thời thủ có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
27) -- Hay nếu thủ không có mặt một cách trọn vẹn, do thủ đoạn diệt, thời hữu có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
28) -- Hay nếu hữu không có mặt một cách trọn vẹn, do hữu đoạn diệt, thời sanh có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
29) -- Hay nếu sanh không có mặt một cách trọn vẹn, do sanh đoạn diệt, thời già chết có hiện hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
30) -- Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Phải là như vậy, này các Tỷ-kheo! Không thể khác vậy. Hãy tin ở Ta, này các Tỷ-kheo! Hãy quyết định, chớ có nghi ngờ, chớ có phân vân! Đây là khổ được đoạn tận.
30) -- Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Phải là như vậy, này các Tỷ-kheo! Không thể khác vậy. Hãy tin ở Ta, này các Tỷ-kheo! Hãy quyết định, chớ có nghi ngờ, chớ có phân vân! Đây là khổ được đoạn tận. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ưng nhân duyên - Phẩm Cây)
+ Nhân duyên kinh doanh - Giầu có:
1- Số mệnh là có - Do Nhân Quả an bài - Có thể thay đổi qua tu hành Phật pháp:
* Đức Phật dậy: Tất cả chúng sinh đều mang theo nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sinh.
Mời đọc để biết cảnh dị đồng khác nhau do Nhân nào - Quả đấy mà mỗi người phải nhận lãnh tùy theo Nhân mình đã gieo tại: Kinh Thiện Ác Nhân Quả - PS Tịnh Không giảng
* Chữ Duyên rất quan trọng: Có một đệ tử hỏi Phật rằng, “Ngài có thần thông và từ bi, vì sao vẫn còn những kẻ chịu khổ vậy?"
Phật rằng: “Tôi tuy có sức thần thông rất lớn; nhưng có 4 điều là vẫn không thể thực hiện được, chính là:
Điều 1: Nhân quả không thể đổi thay, tự gieo nhân thì tự nhận quả, người khác không thể nhận thay.
Điều 2: Trí tuệ không thể cho được, bất kỳ ai muốn có trí tuệ thì phải tự mình tu, học.
Điều 3: Diệu pháp không thể diễn tả được, Bản thể chân thật của vũ trụ dùng ngôn ngữ không thể cắt nghĩa mà hiểu được, chỉ có thể dựa vào thực chứng mà thôi.
Điều 4: Không có duyên thì không thể độ, người không có duyên thì họ không bao giờ nghe những lời nói mà ta chia sẻ. Mưa trời tuy lớn, cây không rễ khó mà thấm nước; Phật môn tuy rộng mở, khó độ người vô duyên. (Xem: Bốn Điều Phật Không Thể Làm)
2- Nhân duyên gặp và tương tác giữa người với người: Chữ "Nhân" trong nhân duyên quyết định việc Ta người có thể gặp nhau khi hội tụ đủ "Duyên" cần thiết. Chữ nhân này do đâu mà có? Căn bản do trong tiền kiếp, Ta với họ cùng gieo "Nhân" lành dữ/ Thiện ác với nhau, nên kiếp này cùng nhau tái sanh để nhận quả báo đã gieo với nhau dù là xấu hay tốt, để thanh toán nợ lần với nhau. Đức Phật dậy "Gieo nhân gì gặt quả đấy, là "Trồng dưa được dưa - Trồng đầu được đậu". Trong kinh doanh thì cần gieo nhân thiện, chánh gieo nhân ác.
Gieo "Nhân" là có hành động, lời nói, suy nghĩ thiện ác, lành dữ với nhau. Theo đó mà "gặt quả báo" khác nhau. Không có "Nhân" thiện ác sâu thì dù có chút "Duyên" gặp mặt thì dù gặp cũng như không, chỉ nhìn thấy nhau chút mà thôi, khó mà phát sinh giao tiếp, nói chi xuống tiền mua hàng, sử dụng dịch vụ của nhau, làm giầu cho nhau.
+ Gieo nhân thiện không ngoài ba pháp bố thí như đức Phật dậy, mỗi loại có quả báo tương ứng khác nhau:
- Bố thí Tài: Cho đi tiền bạc, tài sản như thức ăn, quần áo, thuốc thang, đồ dùng ... là gieo nhân giầu -> Được quả báo giầu có, tâm thần an ổn....
- Bố thí pháp: In kinh và phát miễn phí, giảng kinh thuyết pháp, chỉ dẫn tu tập cho người có duyên là gieo nhân trí tuệ -> Được quả báo là người thông minh, phát triển trí tuệ phân biện, tinh thông các Pháp, học một biết mười....
- Bố thí Vô úy: Không gây tổn hại và thực hiện phóng sinh là gieo nhân sống thọ -> Được quả báo sức khỏe tốt, ít bệnh, thọ mạng lâu dài ....
+ Gieo nhân không thiện không ác: Chỉ lấy sức lao động ra làm giầu, nuôi sống gia đình là chính. làm giầu qua tiết kiệm, tích trữ của cải. Do ít gieo nhân ác nên ít bị tiêu tán tài sản. Ví như do ốm đau, lừa mất, bị nước lửa mất .v.v... Trong kinh doanh thì ÍT CÓ DUYÊN gặp gỡ khách sẵn sàng xuống tiền mua hàng hóa, dịch vụ. Nói chung không thuộc hàng mua may bán đắt, khó làm giầu từ kinh doanh.
+ Gieo nhân thiện ác đan xen: Thì được quả báo tương ứng. Ví như gieo nhân thường bố thì tiền tài thì được giầu có. Nhưng lại nóng giận, thù hận thì rễ bị sinh bệnh, tiêu tốn tài sản, chết uổng, sống không thọ....
+ Gieo nhân xấu ác nhiều như Sát sanh - Trộm cắp - Tà dâm - Nói giối - Nghiện ngập - Kiêu mạn - Sân hận. Quả báo của nhân xấu ác trong kinh doanh nhẹ thì hao tán tiền tài, gia đình lục đục, nặng thì tan nát nhân duyên phá sản, tù tội, mất hết danh dự nhân phẩm ....
=> Nói theo thế gian thì Số mệnh do nhân quả an bài, đây là chỉ với người KHÔNG tu cải mệnh. Cho nên, sống thiện lành và năng gieo NHÂN lành ngay khi CÓ DUYÊN gặp gỡ người khác, càng nhiều người càng tốt, là để tích lũy phúc báu, để được tăng trưởng tiền tài, cải mệnh từ nghèo sang giầu có ngay đời này và nhiều đời sau giầu có nữa.
3- Làm sao biết có Duyên lành mở kinh doanh: Trong kinh doanh, nếu Ta/ Người bán và Khách/ Người mua KHÔNG có duyên với nhau thì KHÔNG thể có cơ hội gặp gỡ, dù là gặp mặt trực tiếp hay gặp nhau qua mạng xã hội. Đây là chưa nói duyên lành dữ. Mà KHÔNG gặp thì sao có thể thực hiện trao đổi, thương thảo để thực hiện xuống tiền mua bán, sử dụng dịch vụ của nhau được. Nhân Trắc Học căn cứ vào Lá số Số mệnh theo Tứ trụ sẽ cho dự báo biết nhân lành dữ, nếu Ta mở kinh doanh thì sẽ có Khách - Có đông khách hàng hay không? Ở đây là chỉ nói đến nhóm Khách biết đến việc kinh doanh của Ta, có cơ sẵn sàng xuống tiền mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của Ta, chứ không nói đến nhóm Khách biết Ta có kinh doanh nhưng KHÔNG sẵn sàng xuống tiền. Để có được điều này, Ta cần hội đủ hai thứ NHÂN và DUYÊN.
Hội đủ các nhân duyên, trong đó Nhân lành về phát lộc tiền tài quyết định sự thành bại khi đầu tư kinh doanh. Mời đọc bài viết Phát triển sự nghiệp - Kinh doanh giầu có
4- Khơi dậy và phát huy Duyên lành:
+ Nhân lành biểu lộ qua Thời vận: Con người có Vận mệnh riêng trong cái chung, được quyết định căn bản trên cơ sở Nghiệp riêng và cộng nghiệp, theo đó mà có cuộc sống sướng khổ khác nhau theo như Nhân Quả đức Phật đã dậy. Người trí thì biết cách "Xu cát - Tị hung/ Đón cát - Chánh hung". Thánh hiền có nói "Thời vận không thông - Mưu cầu vô ích". Do đó, cần nắm bắt Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa, biết khi nào nên tiến thì tiến, nên dừng thì dừng, nên lui thì lui. Đây là nói hành nhân thuận theo đạo trời đất vậy. Ví như mùa xuân cây đam trồi nảy lộc, mùa hạ phát triển xum xuê, mùa thu lá rụng về cội, mùa đông sơ xác tiêu điều, vạn vật dừng nghỉ ngơi. Con người sống thì cũng thuận theo tự nhiên, thực hành lời dạy của Thánh hiền về thuật dưỡng sinh cũng chính là thuận theo Đạo vậy.
+ Thời vận trong con người biểu lộ qua các Đại vận:
- Đại vận - Thời vận mỗi mười năm: Mỗi người sanh ra đều trải qua khoảng 8 Đại vận tương ứng với tuổi thọ trên 80 tuổi. Mỗi khi đổi Vận là có sự thay đổi cát hung họa phúc, có thể hiểu đơn gian như thay đổi của 12 tháng và bốn mùa tuần hoàn trong năm vậy.
- Thời vận không thông - Hung nhiều cát ít: Đặc biệt trong kinh doanh, thời vận không thông thì rễ buôn bán ế ẩm, thất tán tài sản nhiều hơn là tăng trưởng, tích lũy. Nghĩa là thời điểm có "Nhân" lành thì ít, Nhân dữ thì nhiều khởi phát theo thời vận nào đó, lại còn mỗi vận mười năm, cát hung chia theo mỗi 5 năm, cả cuộc đời đều như vậy. Nắm bắt được "Thiên thời" này thì hành động sao cho phù hợp với vận mệnh là "Xu cát - Tị hung". Ví như, gặp vận khôpng thuận thì nên bảo toàn lực lượng, sống trong an vui, thanh thản, tiến tu học tinh tấn chờ thời. Khi thời vận thông thuận đến thì cần chớp thời cơ mạnh dạn mở rộng đầu tư kinh doanh phù hợp với Phật pháp để có thể duy trì, kéo dài lâu vận thông thuận, cũng tức là Pháp hạn chế và rút ngắn vận không thuận.
- Thời vận thông thuận thì "Nhân" lành chỉ chờ thời gian đến là hội đủ "Duyên" thiện lành. Căn cứ vào "Nhân" lành mà chớp thời cơ, có hoạt động phù hợp, mang lại hiệu quả thiện lành cao nhất. Muốn vậy, cần có các yêu tố sau:
+ Chọn phương hướng: Xem Lá số sinh mệnh xem "Nhân" lành, căn cứ vào "Dụng thần" của mệnh và Đại vận để xác định phương hướng, địa bàn hoạt động cho phù hợp. Đây là phương mà người Ta gặp sẵn sàng giúp nhau, là vì có "Nợ Duyên" lành với nhau, gặp nhau sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ nhau.
+ Gieo nhân lành mới: Cần luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người theo khả năng và khi người khác có nhu cầu cần giúp đỡ. Đây là hành động gieo "Nhân lành" ngay khi có thuận "Duyên", để tạo nguồn phúc báo tùy theo "Nhân" mình đã gieo, chắc chắn có ngày gặp "Quả ngọt" từ "Nhân" đã gieo.
Theo Kinh Ma Ý. Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: có 5 việc bố thí được phước báu lớn:
1. Tạo lập vườn tược (để trồng trọt),
2. Trồng cây bên đường (làm lâm nghiệp)
3. Tạo tác cầu cống (thuỷ lợi & giao thông)
4. Đóng thuyền to (để cứu hộ và phòng thiên tai),
5. Vì người sẽ đến mà xây cất chỗ ở (lo an cư cho dân)
+ Giải pháp hội tụ duyên lành gặp gỡ để có quả báo tốt đẹp: Nên kín đáo quảng bá thương hiệu hướng đến phương hướng, vùng miền địa lý chủ đạo mà mình có thể đón nhận được nhiều "Duyên lành" nhất có thể, trên tinh thần quảng cáo hàng hóa, dịch vụ chân thành, chất lượng đúng sự thật. Hoạt động kinh doanh luôn giữ uy tín. Sử dụng lợi nhuận theo như Phật dậy để luôn phát triển kinh doanh ngày càng rộng mở, lại thường gieo "Nhân" lành qua việc làm từ thiện, phổ biến Phật pháp, phóng sanh.
+ Cần gây dựng tiền tài: ... Này gia chủ, có năm lý do để gầy dựng tài sản. Thế nào là năm?
Làm cho cha mẹ, vợ con, người phục vụ, người làm công được an lạc, hoan hỷ; làm cho bạn bè, thân hữu an lạc, hoan hỷ; vị ấy giữ tài sản được an toàn Vị ấy có thể hiến cúng cho bà con, cho khách, cho hương linh đã chết; hiến cúng cho vua và chư Thiên.; Vị ấy tổ chức cúng dường các vị Sa Môn, Bà La Môn.... Làm giàu chân chính vẫn là điều mà Đức Phật khuyến khích và tán thán chúng ta. (Nguồn: Phật dậy về làm giầu)
* Trên đây là Nhân Trắc Học tổng hợp sơ lược kiến thức Thánh hiền dậy, rất mong nhận được góp ý.
+ Nghệ thuật sống - Nghệ thuật làm chủ Tâm Thức:
1- Mỗi khi cảm thấy hoang mang và mất tự tin thì hãy nghĩ ngay đến các phẩm năng tuyệt vời của con người mà mình đang có, các phẩm năng ấy của quý vị chỉ mong sao được nẩy nở thêm. Vậy hãy giữ lòng hân hoan nhìn vào kho tàng quý giá đó đang được cất dấu bên trong nội tâm của quý vị: Hân hoan là một sức mạnh, vì vậy quý vị hãy phát huy nó.
2- Điều cốt yếu có thể mang lại hạnh phúc cho quý vị chính là biết hài lòng với những gì đang là chính mình trong những giây phút hiện tại. Sự toại nguyện bên trong nội tâm đó sẽ biến cải cảm quan của quý vị khi phóng nhìn vào vạn vật chung quanh, và nhất định quý vị sẽ tìm thấy sự an bình trong tâm thức.
3- Khi có kẻ gây ra tổn thương cho mình thì không nên do dự một chút nào cả, hãy tha thứ cho họ. Lý do là vì nếu nghĩ đến những gì đã thúc đẩy họ hành động như vậy thì quý vị tất sẽ thấy rằng đấy chính là những thứ khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, chứ không phải là do họ quyết tâm và cố tình làm tổn thương và gây tai hại cho quý vị. Tha thứ là một cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, chứ không hề là một việc bỏ qua cho xong chuyện. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận thực trạng của những tình huống xảy ra với mình.
4- Hãy bố thí cho kẻ khác mà không mong đợi một sự hồi đáp nào và cũng không tính toán gì cả. Không vì mong muốn tìm sự thích thú mà bố thí hay là để người khác yêu quý mình, thì như thế mới đúng thật là một hành động bố thí mang lại niềm hạnh phúc cho mình. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều duy nhất có thể mang tất cả chúng sinh có giác cảm đến gần với nhau chính là tình Thương Yêu.
5- Hãy cám ơn kẻ thù của quý vị vì họ là những vị thầy quan trọng nhất của mình. Họ tập cho quý vị đương đầu với khổ đau và phát huy sự nhẫn nhục, sự bao dung và lòng từ bi. Họ không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.
Mời đọc bài viết: 108 Lời Dậy Của Đức Đại Lai Lạt Ma
+ Kiến thức Minh triết giúp ta có nghệ thuật sống đúng Đạo:
- Hiểu về Nhân quả - Luân hồi - Tái sanh: Chúng ta có Nhân Quả, trải qua bao kiếp sống chúng ta đã gieo vô lượng vô biên nhân lành dữ, do đó chúng ta bị bắt buộc phải tái sanh theo Luật vũ trụ. Do Vô minh nên các kiếp sống khổ đau thì nhiều, sung sướng hành phúc chẳng bao nhiêu.... mời đọc bài viết Nhân quả - Luân hồi - Tái sanh: Ta là ai - Từ đâu đến - Chết đi về đâu?
- Số mệnh không phải là định mệnh, có thể thay đổi được: Mời đọc Nhân quả và Số mệnh
- Nghệ thuật sống: Cuốn sách tổng hợp các phương pháp sống thiện lành từ nguồn giáo lý minh triết mà Thành hiền đã dậy, để giúp con người có được hạnh phúc ngay trong hiện tại và cả tương lai nhiều kiếp sống sau này, gồm:
- Tin Sâu Nhân Quả - Luân Hồi: Nhân Quả Tạo Ra Số Mệnh - Hoàn Toàn Có Thể Thay Đổi Qua Tu Hành Cải Mệnh
- Học Phật Pháp: Xóa Vô Minh - Xa Lìa Tà Kiến. Sống Giác ngộ với Trí tuệ Phân biện
- Chữ Hiếu - Sống Hiếu thảo - Người Có Hiếu -Biết Báo Hiếu Với Lòng hiếu với Cha Mẹ là lẽ sống mang lại nhiều Phúc đức và cả sự Nhiệm mầu
- Nạo Phá Thai - Tội Giết Người. Người cố ý thì không thể Sám Hối
- Hiểu Về Nhẫn Nhục Và Thuật Ngữ Tu Hành Cải Mệnh Thông Dụng
- Hai Mươi Tám điều về Đạo Làm Người Thiện Nam - Tín Nữ. Xứng Danh Người Quân Tử Trọng Nghĩa Khinh Tài
- Vì Sao Không Tương Ưng Với Ðạo - Nghệ thuật sống tương ưng với Đạo
- Pháp Cải Mệnh Tùy Bệnh - Cho Thuốc. HÓA GIẢI ÂU LO - BỆNH NẠN ĐỂ KHỎE VÀ GIẦU SANG - HẠNH PHÚC - GIẢI THOÁT
- Đức Phật dậy về giải quyết bất hòa trong cuộc sống
- Người Quân Tử hiểu về Thuật Số và Phong Thủy, Tướng mạo, Xem Tinh tú để không bị mê tín dị đoan quá. Vì Vận Mạng do mình làm chủ - Có thể thay đổi được;
- Làm Sao Để Phát Tài Giầu Có và Làm Chủ Tiền Tài - Hạn Chế Khổ Đau Phát Sinh Từ Sự Giầu Có
- Kinh Thiện Sinh: Kính Lễ Sáu Phương và Đối Nhân Sử Thế Trong Đời Sống
- Kinh Hiền Nhân
- Con Người sinh ra và Chết đi trong hồ đồ - Không biết Mình là ai - Từ đâu đến - Chết đi về đâu. Làm sao để có thể tự do Sanh Tử đây?
- Người đệ tử
- Người nhà chẳng tin, họ còn muốn ăn thịt, mỗi ngày đều phải cắt xẻ cho họ, vẫn còn chặt thịt cá, vẫn phải nấu nướng phục vụ cho họ thì phải làm sao?
- Làm sao để được tự do sanh tử - Hãy thực hành theo sáu đại tông chỉ: Không tranh - Không tham - Không mong cầu - Không ích kỷ - Không tự lợi - Không vọng ngữ (Nguồn: Sách Nghệ Thuật Sống)
+ Khai mở huệ nhãn - Có huệ nhãn - Con mắt Pháp:
“Trí Độ Luận viết: vi thật tướng cố, cầu huệ nhãn. Đắc huệ nhãn, bất kiến chúng sanh, tận diệt nhất dị tướng, xả ly chư trước, bất thọ nhất thiết pháp, trí huệ tự nội diệt, thị danh huệ nhãn”. Trong Trí Độ Luận nói, nói rất hay. Vì sao cầu huệ nhãn? Là vì thật tướng. Thật tướng là gì? Là chân tướng của các pháp, thật là chân thật. Huệ nhãn có thể thấy chân thật, không có huệ nhãn thì không thấy được thật tướng. Cho nên Bồ Tát muốn minh tâm kiến tánh, không có huệ nhãn thì làm sao được? Huệ nhãn là trí huệ chân thật, quý vị mới thấy được thật tướng của các pháp.
Được huệ nhãn, thì quý vị không thấy chúng sanh. Điều này có thể cho chúng ta một chứng nghiệm, thật sự tu học cầu huệ nhãn, quý vị còn thấy có chúng sanh, điều đó nói lên rằng quý vị không có huệ nhãn. Huệ nhãn hiện tiền như thế nào? Tất cả chúng sanh đều là Bồ Tát. Quý vị còn thấy có chúng sanh, chứ không thấy có Bồ Tát, quý vị không thấy được. Nếu quý vị được Phật nhãn, thì quý vị thấy tất cả chúng sanh đều là Phật. Cho nên quý vị địa vị nào thì quý vị tự biết. Khi nào giống Phật Thích Ca Mâu Ni: “tất cả chúng sanh vốn là Phật”, chúc mừng quý vị, quý vị đã thành Phật. Lúc nào thấy được tất cả chúng sanh là Bồ Tát, thì đã nói lên rằng quý vị đã khai mở huệ nhãn, quý vị thấy được chân tướng. Tất cả chúng sanh là Bồ Tát, tất cả chúng sanh đều đang hành Bồ Tát đạo, hành Bồ Tát đạo làm thiện, làm ác cũng là hành đạo Bồ Tát, quý vị không thấy được điều này.
Người khai mở huệ nhãn là người như thế nào? Như một người vừa ra khỏi lục đạo, ra khỏi rồi quay đầu nhìn lại lục đạo, thấy lục đạo như thế nào? Như một sân khấu lớn, có rất nhiều Bồ Tát đang biểu diễn. Biểu diễn cho ai xem? Biểu diễn cho ta xem, các Ngài đều là diễn viên, ta bây giờ trở thành người xem rồi. Quý vị thấy làm thiện thì được quả báo thiện, tạo ác thì thọ quả báo ác, diễn giống như thật! Thật có việc này không? Không có, “tất cả pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”. Khi có được huệ nhãn thì quý vị biết được, trên sân khấu này là biểu diễn, không có một thứ gì là thật, tạo thiên nhân không có thật, được thiện quả không có thật, tạo ác không có thật, quả báo địa ngục cũng không thật. Thật là gì? Thật là một tướng, tất cả pháp đều như vậy. Mới biết rằng có rất nhiều Bồ Tát đang diễn một vở kịch, giúp chúng ta khai ngộ, giúp chúng ta thành Phật, tất cả chúng sanh này là ân nhân của ta. Vở kịch này ai nhìn thấy được? ... (Nguồn: Thành Kính Khiêm Hòa - PS Tịnh Không)
+ CẦU HUỆ NHÃN
Do vậy trong đạo Phật, được thân cận một vị minh sư là điều rất quan trọng. Trong số các vị Thiền sư trưởng lão, có rất ít vị chân thực là minh sư. Có thể họ là người thông thái, nhưng chưa hẳn là bậc ‘sáng mắt’ có nghĩa là, chưa hẳn họ đã được ‘khai ngũ nhãn.’ Quý vị đừng cho rằng đây là việc dễ làm. Thực vậy. Khai được Phật nhãn chắc chắn không phải như chứng được quả vị A-la-hán, mà đòi hỏi quý vị phải trồng nhiều căn lành trong quá khứ.
Để có được Phật nhãn, quý vị phải nhất tâm tu tập pháp đại bi, đặc biệt là 42 Đại bi thủ nhãn ấn pháp (Forty-two Greatly Compassionate Hands and Eyes). Nếu quý vị nhiệt tâm tu tập pháp nầy thì có thể đạt được Phật nhãn. Đó là pháp ‘vượt cầu môn.’ Nếu một người đã đạt được Phật nhãn mà xuất gia, thì vị ấy sẽ cứu giúp cho rất nhiều chúng sinh, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào nhân duyên. Những ai muốn có được Phật nhãn phải cực kỳ tinh tấn tu tập 42 Đại bi thủ nhãn ấn pháp. Đừng bỏ công phu dù chỉ một ngày. Và điều quan trọng nhất là quý vị không được hút thuốc khi tu tập pháp nầy. Nếu quý vị vẫn hút thuốc trong khi tu, thì các vị hộ pháp thiện thần (dharma-protecting good spirits) sẽ qủa trách quý vị. Thế nên đừng tuỳ tiện việc ấy.
Tôi hy vọng rằng mọi người trong chúng đây sẽ rất tinh chuyên tu tập 42 Đại bi thủ nhãn ấn pháp. Đừng bao giờ lơ là dù chỉ một ngày. Tuy vậy, cũng phải cần đến vài ba năm công phu mới mong đạt được kết quả. Nếu quý vị đã từng tu tập trong đời trước rồi, thì tiến bộ sẽ rất nhanh. Quý vị sẽ rất sớm có được huệ nhãn. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tâm thành kính: Nhập đạo nhiều môn, chỉ do chí hướng mỗi người mà thâm nhập một môn, trọn chẳng có một pháp nhất định. Nhưng nhất định phải: 1. Thành; 2. Cung kính. Hai điều này dù cho tất cả chư Phật tận đời vị lai đều xuất thế cả vẫn chẳng thể khác được. Chúng ta đã là phàm phu sát đất, muốn mau tiêu nghiệp lụy, mau chứng Vô sinh, chẳng dốc sức vào hai việc này thì ví như cây không rễ lại mong tươi tốt, chim không cánh lại mong bay lên, có được hay chăng?
Thế tục đọc sách tuyệt không kính nể. Sáng dậy, chẳng buồn rửa ráy, súc miệng. Đi tiêu xong chẳng thèm gột rửa. Hoặc còn bỏ sách nơi giường, ghế, hoặc làm gối lót đầu để đêm ngủ đọc luôn, bỏ chung với đồ mặc, áo quần. Sách nào đặt trên bàn để đọc thì bỏ lẫn lộn với các vật khác, xem lời Hiền Thánh như mớ giấy cũ nát. Hoàn toàn không có ý chăm chút, không mảy may kính trọng.
Hiện tại, hàng sĩ đại phu học Phật rất nhiều, nhưng đa số chỉ đọc kinh văn, hiểu ý nghĩa, dùng đó để phô phang ngoài miệng hòng được tiếng là bậc thông gia mà thôi. Còn như cung kính, chí thành, y giáo tu trì, thật khó có được một ai!
Tôi thường nói: “Muốn hưởng lợi ích thật sự từ Phật pháp, phải cầu nơi cung kính. Có một phần cung kính sẽ tiêu được một phần tội nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính sẽ tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng mười phần phước huệ. Nếu chẳng cung kính đến nỗi khinh mạn thì tội nghiệp càng tăng, phước huệ càng giảm. Buồn thay!”.
Lễ, tụng, trì, niệm, các thứ tu trì đều phải lấy thành kính làm chủ. Nếu thành kính đến cùng cực thì công đức như trong kinh nói: “Còn ở địa vị phàm phu chưa thể viên đắc, nhưng sở đắc cũng đã khó nghĩ khó bàn! Nếu không thành kính, có khác chi hát tuồng, những trò khổ, sướng, buồn, vui đều là giả trang, chẳng phát xuất từ bên trong. Dù có công đức, cũng chẳng thể vượt quá cái phước si ám của cõi nhân thiên đó thôi. Nhưng do cái si phước ấy ắt sẽ tạo ác nghiệp, cái khổ tương lai có lúc nào xong?”.
Ấn Quang Đại Sư nói rất hay: Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích.
Ngày nay ai có tâm thành kính? Tâm thành kính là gì?
Hiếu thuận Cha Mẹ, tôn kính Sư Trưởng, Tôn Sư Trọng Đạo. Tâm này hiện tại không còn nữa. Người hiện tại không hiếu thuận Cha Mẹ, người hiện tại không tôn trọng Thầy Giáo. Vậy nếu Quý Vị nghe Kinh, nghe trên một trăm năm Quý Vị cũng không thể nhập môn, cho nên then chốt là ở đây, đây thực sự là điểm khó. (Nguồn: Tâm thành kính - Ấn Quang Đại Sư)
+ Tâm Thành Ắt Linh - Trí tâm trì tụng Chú Lăng Nghiêm
4. Tâm Thành Ắt Linh: Thế nào là “thành”? Đó chính là không có tâm hoài nghi!
Quý vị tụng kinh, trì chú, tu tất cả các pháp môn tất phải thành tâm, trai giới tắm gội, thân tâm thanh tịnh, trừ diệt tất cả vọng tưởng, để tu pháp môn này, thì mới có thể đạt được sự cảm ứng đạo giao, như tiếng vang ứng theo tiếng gọi vậy. Nếu quý vị không thành tâm, thì chú linh nghiệm thế nào cũng đều không còn linh nữa. Cho nên nói: “Tâm thành tắc linh,” tâm nếu không chân thành ắt sẽ không linh nghiệm.
Thế nào là “thành”? Chính là không có tâm hoài nghi. Phải chân chánh tin rằng năng lực của thần chú là không thể nghĩ bàn, chân chánh tin rằng năng lực của thần chú là không có gì mà chẳng thành tựu được cả. Nếu quý vị có thành tâm chân chánh, thì tu hành sẽ có thành tựu. Có người tu hành thời gian rất lâu song cũng không có cảm ứng gì cả, đó phải chăng là do Phật Pháp không linh? Hay là do kinh và chú không có năng lực cảm ứng đạo giao? Không phải vậy! Đó chẳng qua là vì quý vị không thành tâm, chỉ phô diễn qua loa, làm đại khái cho xong chuyện mà thôi! Cho nên chúng ta học Chú Lăng Nghiêm thì cần phải có đầy đủ tâm chân thật, đây là điều quan trọng nhất!
Trong Chú Lăng Nghiêm có rất nhiều tên của loài quỷ, cũng có rất nhiều tên của các vị thần và trời rồng tám bộ chúng (thiên long bát bộ). Quý vị vừa tụng đến tên của quỷ thần vương nào trong thần chú, thì tất cả quyến thuộc của con quỷ đó đều phải ngoan ngoãn, y giáo phụng hành, không dám không tuân theo quy củ. Cho nên người xuất gia ngày ngày trì tụng Chú Lăng Nghiêm, chính là giúp cho thế giới này tránh khỏi tất cả tai bay vạ gió, khiến cho thế giới được bình an. Người xuất gia sáng sớm thì tụng công phu sáng, chiều tối lại tụng thời khóa chiều, vô hình trung làm cho tất cả mọi người đều được bình an vui vẻ.
Hễ chúng ta tụng Chú Lăng Nghiêm, tức là chúng ta vừa làm cho không khí ô nhiễm của thế giới được trở nên trong sạch. Chúng ta vừa tụng Chú Lăng Nghiêm thì liền làm cho ôn dịch, bệnh truyền nhiễm trong hư không cũng đều bị tiêu diệt. Trong không trung vốn sẵn có khí độc, quý vị niệm Chú Lăng Nghiêm thì liền làm cho độc tố đó được giải trừ, chính là có được lợi ích lớn lao như vậy đấy! Vì thế, quý vị không nên xem thường Chú Lăng Nghiêm! Nếu quý vị có thể niệm hết cả bài chú thì tốt nhất; nếu không thể niệm hết được trọn bài, quý vị chỉ niệm được một đoạn nào đó thôi, thì cũng có được năng lực rất lớn, vì thế quý vị không nên “thấy vàng mà cho là đồng thau,” bởi như thế là sai lầm. Các vị nghiên cứu Phật học thì không được không trì tụng Chú Lăng Nghiêm!
10. Chí Tâm Trì Tụng Sẽ Đạt Được Diệu Định
Tất cả mười phương chư Phật đều từ trong Chú Lăng Nghiêm mà sinh xuất ra, cho nên có thể nói rằng Chú Lăng Nghiêm là mẹ của chư Phật! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Linh Vật trười đất cứu thế giới)
+ Chữ tín - Tín nguyện - Tín tâm
+ Tín Tâm - Tin Phật Pháp: Tỷ kheo có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Tỷ-kheo ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn. Tỷ-kheo ấy không lừa đảo, dối gạt, nêu rõ tự mình như chân đối với bậc Ðạo sư, đối với các vị sáng suốt, hay đối với các vị đồng Phạm hạnh. Tỷ-kheo ấy sống tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu với các thiện pháp. Tỷ-kheo ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sanh diệt các pháp, Thành tựu sự thể nhập thuộc bậc Thánh, đưa đến chân chánh đoạn diệt khổ đau. - Vị ấy suy nghĩ như trên: “Ta có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán,…Phật, Thế Tôn; Tỷ-kheo ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa....” ... (Xem phẩm Vua - Tỷ Kheo)
+ Tín tâm: Kinh Kim Cang nói bạn phải có chữ "Tin". Bát nhã là lý không, bạn nên tin. Giả như bạn không tin lý không thì giảng nhiều hay ít đều vô dụng. Phật pháp như biển cả, chỉ có chữ tin mới vào được. Bạn có tín tâm mới có thể đi vào biển Phật pháp được. Không tin thì không thể có tín tâm được. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa - HT Tuyên Hóa giảng)
+ NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN TÂM
1. Tin căn bản, tức là ưa nghĩ nhớ pháp chơn như.
2. Tin Phật có vô lượng công đức; hành giả thường phải nghĩ tưởng, gần gũi, cung kính và cúng dường chư Phật, để pháp khởi căn lành và nguyện cầu đặng "Nhứt thế trí".
3. Tin Pháp của Phật có lợi ích lớn; hành giả phải thường nhớ tu hành các pháp Ba la mật.
4. Tin Tăng là người chơn chánh tu hành, tự lợi lợi tha, và hành giả thường ưa thân cận các vị Bồ Tát để cầu học cái hạnh chơn thật. (Nguồn: Giảng về Tín Tâm trong Tu hành)
+ Tín tâm trong Tín Nguyện hạnh: Tín tương ưng với Định, niềm tin kiên cố không lay chuyển. Hạnh tương ưng với Giới, chỉ cho sự thực hành, hành trì, công phu tu tập. Và Nguyện tương ưng với Tuệ, trí tuệ sáng suốt soi đường dẫn lối để hành giả đi đúng con đường đến giải thoát.... Hạnh là thực hành. (Nguồn: Tín nguyện hạnh trong Kinh A Di Đà)
+ Trực Tâm là Đào Tràng: Tịnh Danh Kinh dạy _Kinh Duy Ma Cật nói: “Trực tâm là đạo tràng”.
- Đạo tràng nghĩa là gì? Chư Phật Như Lai, đại đạo ở đâu thì ở đó gọi là đạo tràng, cổ thánh tiên hiền, nơi hành đạo gọi là đạo tràng. Hành đạo, sinh hoạt là hành đạo. Họ ở đâu thì nơi đó gọi là đạo tràng, không nhất định là chỉ chùa chiền am đường, không phải vậy. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Đạo tràng - Nơi hành đạo:
Khi HT Tuyên Hóa giảng về Đạo tràng được nói đến trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, giảng đến câu "Các vị bồ-tát nhiều như số cát sông Hằng cùng đến đạo tràng".
Sông Hằng ở Ấn Độ rộng chừng mười lăm dặm, cát ở bờ sông ấy mịn như bột mì, nên cát sông Hằng thường được lấy làm ví dụ cho số đông bồ-tát không thể tính đếm được đến dự pháp hội Thủ-lăng-nghiêm này. Đạo tràng trong tiếng Phạn có nghĩa là nơi chốn để tu tập giác ngộ. Các vị bồ-tát đến để hộ trì cho pháp hội thuyết kinh Thủ-lăng-nghiêm. Đạo tràng cũng có nghĩa là đạo tràng hiện thời nơi tôi đang giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm. Các vị bồ-tát thượng thủ trong đạo tràng cũng đến dự. Quý vị không nên nhìn thoáng qua đạo tràng này, rồi cho rằng căn phòng quá nhỏ. ở đây có rất nhiều vị đại bồ-tát đang nghe kinh, hộ trì cho đạo tràng và khiến cho họ được tăng tiến lợi lạc hàng ngày.
Quý vị có muốn gặp họ không?
Tôi sẽ báo cho quý vị biết đạo tràng ấy có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi làm thượng thủ.
Văn-thù-sư-lợi là vị bồ-tát có đạo hạnh cũng như công phu tu tập thâm sâu nhất.
Ở Trung Hoa, đạo tràng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là ở Ngũ đài sơn. Ngài thường được gọi là Đại Trí Văn-thù-sư-lợi vì trí tuệ của ngài siêu tuyệt nhất trong hàng bồ-tát. Trong hàng a-la-hán, Xá-lợi-phất là người có trí tuệ nhất nhưng vẫn thấp hơn so với ngài Văn-thù-sư-lợi.
Văn-thù-sư-lợi (Mañjuśrī) là tiếng Phạn, Hán dịch là Diệu Đức, có nghĩa là đức hạnh của Ngài rất vi tế và mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Ngài cũng được gọi là Diệu Cát Tường. Vì Ngài đến nơi đâu thì nơi đó đều trở nên tốt lành. Hôm nay Ngài cũng có hiện hữu nơi đạo tràng này nên nơi đây cũng rất tốt lành. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Giảng giải kinh - HT Tuyên Hóa)
Xem thêm: Kiến lập đạo tràng dùng Tay ấn pháp của Chú Đại Bi
+ Chữa trị bệnh của Tâm Trí:
Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật. A Nan hỏi Phật: “Đó là bệnh gì?”
Đức Phật trả lời: “Không kính cha mẹ, đó là một bệnh; ngu si tạo ác, đó là hai bệnh; gian giảo điêu ngoa, đó là ba bệnh; lời nói hại người, đó là bốn bệnh; hay tìm lỗi người, là bệnh thứ năm; căn bệnh thứ sáu, giết hại chúng sinh; không biết hổ thẹn, đó là bảy bệnh; ham mê sắc dục, là bệnh thứ tám; kiêu ngạo khinh người, đó là chín bệnh; phạm tội không hối, là bệnh thứ mười; khen mình chê người, là bệnh mười một; không biết lợi hại, là bệnh mười hai”.
A Nan lại hỏi: ” Những bệnh như thế, chữa bằng cách nào?”
Đức Phật trả lời: “Dùng thuốc đúng bệnh, sẽ được thuyên giảm. Từ bi hỷ xả, khiêm tốn nhún nhường, tán thán Đại Thừa, nói lời hiền dịu, có lỗi lo đổi, thương người nghèo khó, kính người già cả, người ta chê mình, không giận không tức, khen ngợi người khác, nguyện độ chúng sinh, có oán phải giải, kính trên nhường dưới, đó là phương thuốc, trị những bệnh trên.”
A Nan lại hỏi: “Những thứ thuốc đó, tìm được ở đâu?” Đức Phật trả lời: “Ở núi Tu Di”. A Nan Lại hỏi: “Tu Di là gì?” Đức Phật trả lời: “Là thân người vậy. Hết thảy chúng sinh, đều có sáu nạn: Một là thân người khó được; hai là thân người khó đủ; ba là thiện tâm khó phát; bốn là Chính Pháp khó nghe; năm là trung quốc khó sinh; sáu là Đạo tràng khó gặp.”
Phật nói kệ rằng, giả sử tạo nghiệp, trong trăm nghìn kiếp, nghiệp cũng không mất, đến khi nhân duyên, hòa hợp đầy đủ, thì người gây nghiệp, phải chịu quả báo. Nét mặt tươi vui, đó là cúng dàng, miệng không nói dối, đó là diệu hương, lòng không sân hận, đó là Tịnh Độ, ý không nóng nảy, đó là đạo tràng. Làm người học đạo, mà không biết nhân, suốt ngày bận bịu, ham đắm sắc trần, chỉ biết lấy nước, lau rửa mặt mình, mà không lấy thiện, gột rửa lòng mình, thôi làm mọi điều ác, đó là nhân Tịnh Độ. Dù trí hay ngu, điều cần trước nhất, là bỏ tham sân. ... (Nguồn: Kinh Mục Liên Sám Pháp)
+ Phân thân (Fission, nứt ra):
a/ Việc chia làm 2 của đốm nguyên sinh chất thuần chất, thấy có ở loài moneron (sinh vật đơn bào không nhân) hoặc là con a–mip (amoeba).
b/ Tế bào có nhân tách ra làm 2 nhân nhỏ, mỗi nhân nhỏ hoặc là phát triển bên trong vách tế bào nguyên thủy, hoặc xé rách vách tế bào đó và phát triển ở bên ngoài như là các thực thể độc lập. (Cách sinh sản của căn chủng thứ nhất cũng như thế).
+ Khí hòa: Hồn nhiên vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý. Đứa trẻ mới sinh độc trùng không chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu không vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hòa......(Nguồn: Thanh Tịnh Kinh - Đạo Đức Kinh)
+ Cảnh giới huyễn hóa, hư huyễn - Các ma cảnh trong tu niệm và tu thiền:
Lúc đó chúng tôi tổ chức Pháp Hội này là vì có lời tiên đoán rằng vào năm 1974 sẽ có trận động đất lớn xảy ra tại San Francisco. Động đất thì chúng tôi niệm "Chú Sáu Chữ Đại Minh" này để chắn giữ, khiến mặt đất không rung chuyển. Như vậy là chúng tôi chiến đấu với thiên ma ngoại đạo. Thiên ma ngoại đạo thì muốn cho San Francisco bị động đất, chúng tôi thì muốn xoay chuyển trận động đất ấy của San Francisco . Vì thế mà ai nấy đều dũng mãnh, tinh tấn tụng niệm, chẳng có người nào lười biếng cả.
Bởi vì, để nói cho quý vị biết, tôi có cái “radar”, nên ở đó có người nào ngủ gục, người nào không ngủ gục, tôi đều có thể trông thấy rõ ràng. Tuy nhiên trong suốt bảy ngày đó, cả sáng lẫn tối đều không có lấy một người ngủ gục trong khi đang niệm chú! Cho nên tôi rất vui mừng! Điều làm tôi vui nhất là thấy người ta tu hành. Điều làm tôi không vui nhất là thấy người ta lừa dối lẫn nhau và chẳng chịu tu hành.
Trong bảy ngày ấy, mọi người đều rất tinh tấn và hết sức dụng công. Có người vận dụng công phu kỳ diệu không thể tả được, có người cảm thấy mệt mỏi vô cùng, có người mong được thần thông, có người thì ở đó niệm mà muốn đắc được quỷ thông, có người thì ở đó niệm mà muốn đắc được nhân thông. Thế mà, kết quả là một thông cũng chẳng thông, không có thần thông, không có quỷ thông, và người cũng chẳng thông!
Sau khi bảy ngày ấy viên mãn, tôi cảm thấy mọi người đều có thành tâm tụng niệm nên tôi viết bài thơ "Vũ Trụ Bạch” này để làm kỷ niệm. Bài thơ này là phỏng theo bài Mãn Giang Hồng của Nhạc Vũ Mục (tức Nhạc Phi 1103-1142, vị tướng nổi tiếng đời Nam Tống, Trung Hoa) là đối nhau từ xa (dao dao tương đối). Tôi tin rằng bài thơ ấy chứa đầy một khí thế hùng tráng un đúc núi sông, có sức mạnh cứu vãn được xã tắc. Tính khí bài thơ rất hùng tráng, mạnh mẽ. Tôi đổi tên nó lại là gì? Là “Vũ Trụ Bạch”! Màu đỏ trong bài thơ của Nhạc Vũ Mục bây giờ được đổi thành màu trắng – không phải chỉ có con sông mà toàn vũ trụ đều một mầu trắng xóa.....
Bây giờ, trong trạng thái tĩnh lặng, đầu óc tỉnh táo quán tưởng: "A! Hãy theo dõi cảnh giới hiện tại này của mình xem nó như thế nào!” Trong trạng thái tĩnh, vạn sự vạn vật đều nói Pháp.
Giữa động suy ngẫm (trong lúc động thì ngẫm nghĩ về các đạo lý). Ở vào trạng thái động tức là khi có sự di chuyển, hành động. Quý vị khi thì niệm trong lúc ngồi yên và khi thì niệm trong lúc bước đi – không để cho tiếng niệm bị gián đoạn. Và, trong trạng thái động thì suy ngẫm cặn kẽ các đạo lý Phật Pháp.
Suy ngẫm tức là “tham” – nghiên cứu tới nghiên cứu lui, suy đi xét lại. Quán sát cũng có nghĩa là “tham” – như tham khảo, nghiền ngẫm thoại đầu vậy. Vậy, khi có hành động, quý vị cần phải sáng suốt, tỉnh táo, không được hồ đồ; khi ngủ không được hồ đồ và khi thức cũng không được hồ đồ. Nói chung là phải giữ chánh niệm, dụng công trong chánh niệm – cho nên trong trạng thái động thì cần phải suy ngẫm.
Vào thời điểm này, quý vị đoán sẽ thế nào? Sẽ có một vài cảnh giới ma quái hiện ra. Cảnh giới ma quái nào? "Kìa rồng tranh, cọp đấu, đùa vui bất tận". Ở nơi ấy, rồng thì cỡi mây làm mưa, cọp thì vượt núi băng ngàn – chơi đùa vui vẻ. Những cảnh giới nầy hiện ra làm con người bị hoa mắt, rối loạn.
Khi thấy rồng tranh nhau, giằng co nhau, quý vị liền bị chi phối và chạy theo cảnh giới: "Mình hãy coi con rồng ấy!” Kết quả là quý vị bị lọt vào ma cảnh – đó gọi là tẩu hỏa nhập ma (lửa ra, ma vào).
Khi cọp vờn nhau thì trông rất ghê rợn, rất đáng sợ. Một khi quý vị để cho sự sợ hãi trấn áp, thì quý vị cũng bị "tẩu hỏa nhập ma”. Đây là cảnh giới xuất hiện trong trạng thái tĩnh và không đáng đề cập tới. Cũng như năm mươi thứ ấm ma mô tả trong Kinh Lăng Nghiêm, những cảnh giới này đều là những cảnh giới biến hóa huyễn hoặc, không thật. Thế thì phải làm sao? Quý vị hãy "nhìn mà như không nhìn, nghe mà như chẳng nghe” vậy!
"Nọ quỷ khóc, thần la, biến hóa dị kỳ". Vào lúc này quý vị có thể nghe tiếng quỷ hú hoặc tiếng than la gào thét. Sự biến hóa huyễn hoặc này rất kỳ quái và nhiều đến nỗi kể không hết, nhớ không xuể được. Đây cũng là một thứ cảnh giới huyễn hóa, hư vọng.
Quỷ khóc lóc than vãn: “Chao ôi! Tôi chết thật là oan uổng, tức tưởi! Có kẻ hãm hại tôi, hãy cứu tôi với, nhanh lên! Làm ơn tụng kinh thêm cho tôi, giúp cho tôi được siêu thoát với! Xin hãy rủ lòng từ bi. Tôi sẽ không nóng giận nữa. Trước kia là do tôi không hiểu biết!"
Thần gào thét: "Đừng để ý tới nó! Tên này tội lỗi, nghiệp chướng rất nặng nề! Các người giúp không nổi đâu!”
Quý vị xem! Họ cứ đấu nhau, lời qua tiếng lại như thế khiến quý vị cũng rối loạn, không biết bên nào nói đúng, bên nào nói không đúng nữa. Quý vị tự hỏi: "Mình biết làm sao bây giờ?” Và như thế là quý vị khởi vọng tưởng, chạy theo cảnh giới rồi. Kết quả là tà ma đã thừa cơ xâm nhập, làm chủ được quý vị. Khi đã bị ma nhập rồi thì từ sáng đến tối quý vị không còn một chút chánh tri chánh kiến nào cả.
"Quỷ khóc, thần la, biến hóa dị kỳ" – đây là một thứ cảnh giới hư huyễn, không nên lấy làm nghiêm trọng, và cũng đừng chấp trước vào hình tướng. Quý vị cần phải: "Đừng trụ vào đâu cả mà sanh cái tâm đó" - ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm – hãy sanh cái tâm không bám víu vào bất cứ nơi nào cả.
"Nghĩa chân thật bặt ngôn ngữ" (đối với nghĩa lý chân thật thì ngôn ngữ đã bị cắt đứt, vượt khỏi giới hạn của ngôn từ, lời lẽ cạn hết). Chẳng còn lời lẽ nào để nói cả – không có đúng mà cũng không có sai, không có dài mà cũng không có ngắn, không có thiện mà cũng không có ác. Nghĩa chân thật – cái gì cũng không có cả.
”Xưa nay không một vật. Ở đâu dính bụi trần?” – đây chính là chân thật nghĩa. Chân thật nghĩa vốn chẳng phải là một món đồ vật, thì bụi bám vào nơi đâu? Có chỗ nào để bụi dính vào được? Bởi cái gì cũng không có cả, cho nên “bặt ngôn ngữ (tuyệt ngôn).” (Nguồn: Thơ Vũ trụ bạch - HT Tuyên Hóa)
+ 100 pháp môn - Tất cả pháp: Tất cả các pháp tuy nhiều nhưng gom lại chỉ có 100 thứ và được phân chia thành năm loại: 8 món Tâm pháp/ Tâm Vương, 51 món Tâm Sở pháp/ Tâm Sở Hữu Pháp, 11 món Sắc Pháp, 24 món Bất Tương Ưng Hành Pháp và 6 món Vô Vi Pháp. (Nguồn: A Lại Da Thức - Duy Thức Học)
+ Luận đại thừa trăm pháp minh môn:
Quyển Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận này được HT Tuyên Hóa giảng vào năm 1970 cho các đệ tử người Mỹ nghe. Tuy có nhiều vị trong số những thanh niên này, có trình độ Thạc sĩ hay Tiến sĩ; nhưng họ không biết tiếng Hoa, không hiểu giáo lý đạo Phật. Cho nên Hòa Thượng dùng từ ngữ đơn giản nhất để diễn giải những chỗ thật khó hội khó hiểu về 100 pháp của Duy Thức. Về nội dung Hòa Thượng giảng đi giảng lại và thêm vào những lời khuyên răn. Có thể thấy rằng Ngài thật lòng tận tâm, không quản khó nhọc để độ kẻ sơ cơ.......
... Nếu những ai có duyên được xem quyển Luận này, thời chẳng nên chấp trước vào danh tướng của một trăm pháp, mà cần phải minh bạch rằng: “Tất cả pháp đều vô ngã.” Tức là phải triệt để bỏ cái ngã để tu hành. Cho nên 100 pháp này được giản yếu lại hầu giúp người đọc dễ ghi nhớ những lược đồ tóm tắt. Trong các phần, phân loại, mỗi pháp chẳng đồng nhau, nhưng nếu hiểu được mỗi loại pháp, chính là nắm được cái điều cốt yếu để thực tiễn tu hành.
Thí dụ như chúng ta minh bạch rằng “Tâm pháp” nghĩa là nhãn căn đối với sắc trần do ý thức máy móc tác động, khiến cho chúng ta thấy được con bồ câu. Còn nhãn thức thì khiến cho chúng ta phân biệt thế nào về hình dáng của nó. Lại thêm, Mạt-na thức, căn bản Ý thức, từ đệ bát thức (hay Tàng thức) phát sinh, cũng cho chúng ta biết thêm những cái này là con bồ câu. Nhưng dù thế nào, tất cả các pháp này đều hư giả. Chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng như thế hầu lìa tất cả pháp và tuyệt tất cả tướng, dần dần có thể tự mình dứt hoặc chứng chơn.
Lại còn các phiền não, tùy phiền não, bất định pháp v.v.. Nếu chúng ta biết nhận thức mỗi loại pháp rõ ràng và ra công thêm thì mới có thể trị liệu được. Nghĩa là dứt được một phần vô minh tức là chứng được một phần pháp tánh. Từ những giác ngộ nhỏ mà dần dần đi lần đến chỗ giác ngộ lớn và tiến thẳng đến đạo quả vô thượng Bồ-đề. Hy vọng khi đọc xong quyển Luận này chúng ta sẽ cùng nhau cố gắng tiến tu!
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thánh Thành, Mỹ Quốc. Nội dung sách gồm: Tất cả pháp lược gồm có 5 loại:
1. Tâm pháp (Pháp tối thắng)
2. Tâm sở hữu pháp (Tương ưng với tâm pháp)
3. Sắc pháp (Pháp sở hiện ảnh)
4. Tâm bất tương ưng hành pháp (Tam vị sai biệt)
5. Vô vi pháp (Tứ sở hiển hiện)
Thứ nhất, pháp tối thắng: Tâm pháp
Thứ hai, tương ưng với tâm pháp (thứ nhất)
Thứ ba, pháp sở hiện ảnh (hai pháp trước)
Thứ tư, tam vị sai biệt (ba pháp trên)
Thứ năm, pháp sở hiển thị (bốn pháp trên)
Các pháp thứ lớp như thế.
Thứ nhất: Tâm pháp lược gồm 8:
1. Nhãn thức.
2. Nhĩ thức.
3. Tỷ thức.
4. Thiệt thức.
5. Thân thức
6. Ý thức
7. Mạt-na thức
8. A-lại-da thức
Thứ hai, Tâm sở hữu pháp lược gồm có 51, phân ra làm sáu hạng:
I. Biến hành có 5.
II. Biệt cảnh có 5.
III. Thiện có 11.
IV. Căn bản phiền não có 6.
V. Tùy phiền não có 20.
VI. Bất định có 4.
I. Biến hành có 5.
1. Tác Ý,
2. Xúc,
3. Thọ,
4. Tưởng,
5. Tư.
II. Năm Biệt cảnh:
1. Dục,
2. Thắng Giải,
3. Niệm,
4. Tam-Ma-Địa,
5. Huệ.
III. Mười một Thiện:
1. Tín,
2. Tinh Tấn,
3. Tàm,
4. Quý,
5. Vô Tham,
6. Vô Sân,
7. Vô Si,
8. Khinh An,
9. Bất Phóng Dật,
10. Hành Xả,
11. Bất Hại.
IV. Sáu Căn bản phiền não:
1. Tham,
2. Sân,
3. Si,
4. Mạn,
5. Nghi,
6. Bất Chánh Kiến.
V. Hai mươi Tùy phiền não:
1. Phẫn,
2. Hận,
3. Não,
4. Phúc,
5. Cuống,
6. Siểm,
7. Kiêu,
8. Hại,
9. Tật,
10. San,
11. Vô Tàm,
12. Vô Quý,
13. Bất Tín,
14. Giải Đải,
15. Phóng Dật,
16. Hôn Trầm,
17. Trạo Cử,
18. Thất Niệm,
19. Bất Chánh Tri,
20. Tán Loạn.
VI. Bốn Bất định:
1. Thùy Miên,
2. Ác Tác,
3. Tầm,
4. Tứ.
Thứ ba, Sắc pháp lược gồm có mười một:
1. Nhãn,
2. Nhĩ,
3. Tỷ,
4. Thiệt,
5. Thân,
6. Sắc,
7. Thanh,
8. Hương,
9. Vị,
10. Xúc,
11. Pháp Xứ Sở Nhiếp Sắc.
Thứ tư, Tâm bất tương ưng hành pháp lược gồm có hai mươi bốn:
1. Đắc,
2. Mạng Căn,
3. Chúng Đồng Phận,
4. Dị Sanh Tánh,
5. Vô Tưởng Định,
6. Diệt Tận Định,
7. Vô Tưởng Báo,
8. Danh Thân,
9. Cú Thân,
10. Văn Thân,
11. Sanh,
12. Trụ,
13. Lão,
14. Vô Thường,
15. Lưu Chuyển,
16. Định Dị,
17. Tương Ưng,
18. Thế Tốc,
19. Thứ Đệ,
20. Thời,
21. Phương,
22. Số,
23. Hòa Hợp Tánh,
24. Bất Hòa Hợp Tánh.
Thứ năm, Vô vi pháp lược gồm có sáu:
1. Hư Không Vô Vi,
2. Trạch Diệt Vô Vi,
3. Phi Trạch Diệt Vô Vi,
4. Bất Động Diệt Vô Vi,
5. Tưởng Thọ Diệt Vô Vi,
6. Chân Như Vô Vi.
Nói về vô ngã lược gồm hai thứ: Bổ-đặc-già-la vô ngã, pháp vô ngã. (Nguồn: Thiên Thân Bồ Tát tạo. HT Tuyên Hóa giảng Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn)
+ Hỏi đáp về phá thai và siêu độ thai nhi
Hỏi: Vong linh thai nhi - Vong hồn thai nhi - Vong linh trẻ con cũng được cúng dường sao? (Trang 25)
Đáp: Đây không thể gọi là "cúng dường", bởi vì nó không phải Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Nếu nói cúng dường là lạc vào tà kiến, mà nên nói là siêu độ. Vì các vong linh trẻ con đó mang niềm oán hận quá sâu, nên rất khó siêu độ. Bởi vì người có món nợ là đoạt mạng nó cho nên nó đòi phải hoàn mạng lại. Họa may gặp được vị tu hành chân chánh không tham tài lợi mới siêu độ chúng nó được.
Hỏi: Có nhiểu người bỏ tiền ra cúng dường, độ vong linh thai nhi. Như vậy họ có giải trừ được mối oan khiên ấy không? (Trang 25)
Đáp: Không thể giải oán được. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hét - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Siêu độ Tiểu Quỷ: Tôi xin khuyên các vị nên thủ đạo phu thê, đừng ly dị và nên lo chăm nom con cái của mình cho đàng hoàng. Nếu gia đình đều được hòa thuận vui vẻ, thì đất nước tự nhiên sẽ thái bình. Còn một việc nữa là tôi khuyên quý vị chớ nên phá thai. Quý vị thử nghĩ xem, một sanh mạng chưa ra đời mà đã trở thành oan hồn thì chúng tiểu quỷ đó sẽ đi khắp nơi để tìm mạng sống. Quý vị nói đi, như vậy thì xã hội sẽ được an ổn sao? Cần phải có vị tu đạo hạnh và không tham tài lợi mới có thể siêu độ được chúng quỷ nhỏ này. Bọn tiểu quỷ khó chịu lắm đấy, rất khó mà trị được chúng. Tội lỗi, nghiệp báo khắp nơi như vậy, thì quý vị nói là có thể an ổn được sao? Có câu "Diêm Vương dễ gặp - Tiểu quỷ khó độ".
* Hiện tại chuyện tối quan trọng là thế giới đầy dẫy bọn tiểu quỷ và không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao có nhiều tụi tiểu quỷ như vậy? Bởi vì người ta phá thai quá nhiều. Thai nhi chưa thành hình mà đã bị giết rồi, nên khi làm quỷ chúng có tâm báo thù rất nặng nề. Do đó, nếu giữ giới không sát và phóng sanh thì bao hàm không được phá thai. Thật không dễ độ thoát bọn tiểu quỷ này đâu. Cho nên có câu “Diêm Vương dễ gặp, tiểu quỷ khó độ.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Số cánh hoa 7 bí huyệt chính: Để minh giải, chúng ta hãy liệt kê các hoa sen này với số cánh hoa và vị trí của chúng. Màu sắc của chúng thì không quan trọng hiện nay theo quan điểm của đạo sinh, vì nhiều điều đã được đưa ra thì không đúng hoặc có tính chất của một màn che, và bất luận thế nào, màu sắc nội môn khác xa với màu công truyền.
1. Đáy của xương sống .......... 4 cánh hoa
2. Bí huyệt xương cùng ......... 6 cánh hoa
3. Bí huyệt đan điền ............... 10 cánh hoa
4. Bí huyệt tim ........................ 12 cánh hoa
5. Bí huyệt cổ họng ................ 16 cánh hoa
6. Bí huyệt giữa lông mày ..... 2 cánh hoa
7. Bí huyệt đầu ....................... 1.000 cánh hoa (LVHLT, 190)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não. (LVHLT, 251)
+ Ta không phải thân xác này - Thân xác này là nhà Ta/ Linh hồn ở - Thân này do tứ đại giả hợp, sinh diệt vô thường:
"Thấy sắc tức không thọ nạp thế".
Thấy sắc tức không, nghĩa là thấy được sắc mà sắc vốn là không. Sao nói sắc vốn không ? Phàm phu chúng ta đều chấp trước sắc này. Chấp vào sắc gì ? Tổng thể của sắc. Sắc pháp tuy có nhiều loại, mà tổng thể của sắc chính là thân thể chúng ta, gọi là sắc thân. Sao sắc thân lại là không? "Thật sự thân này có mà !"
Chư vị biết mặc đồ, ăn uống, ngủ nghỉ, sao chẳng biết không ? Nếu chư vị hiểu rõ sắc thân này được hình thành như thế nào thì chư vị sẽ hiểu rõ tánh không của nó. Vì vậy nên giảng về chân không tích pháp, cũng là pháp phân tích. Thân này là tổng tướng của sắc. Đất nước gió lửa là biệt tướng (tướng riêng) của sắc. Thân thể của chúng ta do đất nước gió lửa hợp thành. Xương cốt thịt thà chính là đất. Nước mắt, nước mũi, máu, tiểu tiện, mồ hôi, là nước. Thân thể được ấm áp là nhờ có lửa. Vận động hô hấp nhờ thân thể có gió. Bốn đại hòa hợp thì thân thể còn. Chúng phân tán thì thân thể mất. Đất trở về đất đá. Nước trở về nước. Gió trở về gió. Lửa trở về lửa. Mỗi đại đều trở về cội gốc, nên không thật có. Vì thế, mọi người chấp trước vào thân thể, tự cho là có, thật là sai lầm. Sao thân thể không phải là mình ? Thân thể không phải là mình. Mình là gì ? Có thể giữ gìn thân thể, có thể thấy, nghe, ngửi, biết, nhận thức bằng tri giác. Tri giác này cũng là mình. Thân thể là gì ? "Thân thể chính là mình, mình là thân thể".
Không thể cho rằng thân thể chính là mình được, vì thân thể chỉ giống như nhà ở. Chư vị không thể cho rằng nhà mình ở chính là mình. Chư vị gọi nhà ở chính là mình thì sợ rằng người ngoài cười cho. Nhưng nói thân thể chính là mình thì không ai cười cả. Sao không ai cười chư vị ? Vì ai cũng cho rằng thân thể chính là mình, tức là chấp nhà ở chính là mình. Thấy, nghe, ngữi, nếm, giác, biết đều là Phật tánh. Phật tánh cũng chính là tự tánh của chư vị. Thân thể bất quá chỉ do nhân duyên hòa hợp. Nhân duyên ly biệt thì thân thể phân tán. Thế nên, chư vị đừng cho rằng thân thể chính là mình. Mình ở trong nhà, những việc bên ngoài không thể biết. Thế nên đừng chấp trước nhà ở chính là mình.
Bàn về sắc, chư vị hãy phân tích rõ, nó cũng là không. Do từ không mà biến thành sắc pháp. Đất nước gió lửa hợp thành thân thể mà có người lại nói rằng thượng đế tạo ra người. Dùng gì để tạo ra ? Cũng dùng đất nước gió lửa mà tạo thành. Chúng ta cũng có thể dùng một chút đất, nước, gió, lửa để tạo ra thân người. Ai ai cũng đều tạo ra người khác được. Con người do nhân duyên hòa hợp tạo thành. Nhân duyên biệt ly thì thân thể phân tán. Thế nên đừng gọi thân thể là mình. Sắc tức là không. Chư vị nếu hiểu rõ sắc tức là không thì không chấp trước thân thể là mình. Tất cả vật dụng thuộc về mình, mình đều bảo tồn, phụ trợ. Đó là làm nô lệ cho thân mình. Tâm của chư vị chính là tánh tri giác. Chư vị phải hiểu rõ thân thể là sắc pháp, là giả hợp, đừng nên chấp trước. Nếu không chấp trước thân thể tức là phá được sắc uẩn. Khi phá được sắc uẩn rồi thì nó biến thành không.
Thọ nạp như thế. Thọ uẩn cũng giống như sắc uẩn, là không thật có.
"Vọng tưởng quyện lưu hạnh nghiệp an bài, (vọng tưởng chuyển lưu, nghiệp an bài)".
Vọng tưởng là tưởng uẩn. Quyện lưu tức là hành uẩn. Hành nghiệp an bài là hành uẩn được an bài cùng hành nghiệp.
"Thức nãi liễu biệt ngũ âm cụ, (thức cũng liễu biệt đủ năm ấm)".
Liễu biệt là thức uẩn. Phân biệt đầy đủ năm ấm. Năm ấm là sắc thọ tưởng hành thức.
"Cảnh hoa thủy nguyệt liễu trần ai, (hoa gương trăng nước tuyệt bụi trần)".
Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giống như hoa hiện trong gương, như trăng hiện trên mặt nước. Tuyệt bụi trần tức là không còn một vết ô nhiễm bụi trần. Nói lên ý nghĩa là năm uẩn đều không.
"Không nhi bất không minh đại dụng, (không mà chẳng không rõ đại dụng)".
Chư vị phải hiểu rõ năm uẩn đều không. Lúc không hiểu rõ năm uẩn là không thì có nhiều phiền não, vọng tưởng. Hiểu rõ được thì chuyển thức thành trí. Khi ấy đắc đại diệu dụng phi thường. Hiểu rõ diệu dụng này tức thấy mà như chưa thấy thì an lạc sung sướng.
"Kiến do vị kiến lạc khoái tai, (thấy như chưa thấy, vui vô vàn)".
Nơi chân không xuất sanh ra diệu hữu, cùng đại dụng. Khi ấy chư vị thấy rõ mà cũng đồng như chưa thấy. Không bị cảnh giới chuyển. Có thế, chư vị mới đắc được an lạc chân chánh. Vì vậy nói rằng vui vẻ vô vàn. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tánh của các đại: ĐỊA ĐẠI - HẠT Vi Trần: Trích Phật dậy ngài A Nan về Tứ Đại.
...Ông hãy quán sát tính của địa đại, thô làm thành đất liền, tế làm thành vi trần, cho đến lân hư trần; Giảng:
"Ông hãy quán sát tính của địa đại. A-nan, nay Như Lai sẽ giảng giải về địa đại cho ông, ông phải nên lắng lòng nghe cho kỹ. Đừng có như trước đây, ông chỉ chú tâm học hiểu mà không công phu trau dồi định lực. Nay Như Lai sẽ chỉ cho ông giáo lý nền tảng để công phu trau dồi định lực.
Hãy xem xét đặc tính của đất: Thành phần thô làm thành đất liền." 'Thô' có nghĩa sự cấu thành của đất phần lớn là do sự hợp lại của nhiều hạt bụi. "Tế làm thành vi trần." Phần nhỏ nhất làm thành vi trần, cho đến lân hư trần.
'Lân hư trần' là những phân tử nhỏ nhất, mắt thường không thấy được. Nó là bạn láng giềng với hư không, ít nhiều gì nó chính là hư không, chứ không là gì khác. Có người nói rằng: "Khi ánh sáng mặt trời chiếu qua khe cửa, tôi thấy những hạt vi trần nhảy múa trong hư không."Đó là cái mà quý vị thấy được. Còn lân hư trần thì không thể nhìn thấy được bằng mắt thường.
Nếu chẻ chất cực vi có sắc tướng vô cùng nhỏ ra làm bảy phần. Càng chẻ lân hư trần đó nữa, thì thật là tánh hư không.
Giảng:
"Nếu chẻ chất cực vi có sắc tướng vô cùng nhỏ."
Lân hư trần là vật vô cùng nhỏ, là vật vi tế nhất trong tất cả mọi vật có hình tướng. Chẳng có gì nhỏ hơn nó nữa. Vậy mà, nó vẫn có một sắc tướng để có thể nhận biết được. "Ra làm bảy phần. Nếu quý vị chia chẻ những lân hư trần này ra làm bảy phần, thì nó rất gần với hư không. Càng chẻ lân hư trần đó nữa, thì thật là tánh hư không. Những lân hư trần đã được chia chẻ ra nầy thực sự là hư không." Cơ bản là không có sắc tướng. Đây là giải thích về tánh của địa đại.
HỎA ĐẠI:
A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh.....
Ông vẫn chưa biết trong Như Lai tạng, tánh lửa là chơn không, tánh không là chơn hỏa, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
A-nan, ông không biết rằng người đời cầm kính ở đâu, thì ở đó phát ra lửa. Khắp pháp giới cầm kính, thì cả pháp giới có lửa. Lửa khắp cả thế gian, đâu có nơi chốn.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
VỀ THỦY ĐẠI: A-nan, tánh nước không nhất định (Bất định), khi dừng khi chảy không chừng. Như trong thành Thất-la-phiệt, các vị tiên Ca-tỳ-la, Chước-ca-la và các vị đại huyễn thuật Bát-đầu-ma, Ha-tát-đa v.v... muốn cầu tinh thái âm để pha chế huyễn dược. Các vị ấy vào đêm trăng sáng, tay cầm hạt châu phương chư, hứng nước từ mặt trăng.
Giảng
Vào đêm trăng rằm, tức ngày 15 âm lịch mỗi tháng, họ đem dụng cụ ra–một cái mâm vuông và hạt châu phương chư[Xem 88]–để hứng nước tinh khiết. Khi hạt châu phương chư hướng về mặt trăng đêm rằm, nước sẽ tiết ra và đọng lại trong mâm. Nước nầy sẽ dùng để pha chế huyễn dược. Chắc là không có được nhiều.....
Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh nước là chơn không, tánh không là chơn thủy, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
"Giảng: Chúng ta hoàn toàn có đủ trong tâm chúng ta địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại , và thức đại là bảy đại. Nhưng, mặc dù chúng hiện hữu ở đó, chúng vẫn không lẫn lộn hay ngăn ngại nhau....Trong chơn không là diệu hữu. Nếu ông quán chiếu sâu vào đạo lý nầy, ông sẽ liễu ngộ được. Nói cách khác, khi chính ông có công phu[89]– khi ông tọa thiền, có được định lực và phát khởi trí huệ, thì ông sẽ nhận ra rằng đạo lý được giảng giải trong kinh nầy là chân thật, không hư ngụy. Nhưng, đạo lý nầy không dễ gì hiểu được nếu ông cố dò tìm nó bằng thức tâm."
Một nơi cầm hạt châu thì nơi ấy nước chảy ra, khắp nơi cầm hạt châu thì khắp pháp giới có nước. Thủy đại sinh khắp thế gian, đâu có nơi chốn.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
VỀ PHONG ĐẠI: A-nan, phong đại không có tự thể, động tĩnh không chừng. Như ông thường chỉnh y để vào trong đại chúng, khi chéo y tăng-già-lê chạm vào người bên cạnh, thì có chút gió phất qua mặt người kia....
A-nan, như một mình ông, khẽ động y áo, gió liền phát ra. Khắp pháp giới đều phất thì cả pháp giới đều có gió. Tánh gió đầy khắp thế gian, đâu có nơi chốn.
Ông vẫn chưa biết trong Như Lai tạng, tánh gió là chơn không, tánh không là chơn phong, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
A-nan, như một mình ông, khẽ động y áo, gió liền phát ra. Khắp pháp giới đều phất thì cả pháp giới đều có gió. Tánh gió đầy khắp thế gian, đâu có nơi chốn.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
VỀ KHÔNG ĐẠI - TÁNH HƯ KHÔNG:
A-nan, tánh hư không chẳng có hình, nhân sắc tướng mà hiển bày.
Giảng:
"Trước khi ông đào đất, thì hư không vẫn chẳng ít đi. Hư không vẫn bao hàm trong đất."....
Ông nên suy xét thật kỹ, quán sát thật sâu.....
Nếu hư không đó, tánh tròn đầy trùm khắp, vốn không lay động, thì nên biết hiện tiền hư không và bốn thứ đất, nước, lửa, gió đều gọi là năm đại, tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sinh không diệt.....
Ông hoàn toàn không biết, trong Như Lai tạng, tánh giác là chơn không, tánh không là chơn giác, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới......
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
VỀ KIẾN GIÁC:
A-nan, kiến giác không tự nhận thức được,[98] nhân các thứ sắc không mà hiện hữu. Như ông nay đang ở trong vườn Kỳ-đà, sớm mai thấy sáng, chiều hôm thấy tối, nếu lúc nửa đêm, trăng tròn thì sáng, không trăng thì tối. Những tướng sáng tối ấy, do cái thấy phân tích ra được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Già chết:
Hỏi: Già chết do ..... tạo ra, hay do tự nhiên sanh.
Phật đáp: Này Hiền giả Kotthita, già chết không do tự mình tạo ra,...... không do tự nhiên sanh. Già chết do duyên sanh..... ..... Thức do duyên danh sắc....... (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ứng nhân duyên - Chương 12)
+ Nước Thủy Triều Dâng: Khi biễn lớn dâng thì sông hồ lớn dâng .... các hồ nhỏ dâng.
Cũng vậy, khi vô minh dâng thì hành dâng ... Thức dâng .... Danh sắc dâng .... Sáu xứ dâng .... Xúc dâng .... Thọ dâng .... Ái dâng ..... Thủ dâng ..... Hữu dâng ..... Sanh dâng .... già chết dâng. Ngược lại ..... (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ứng nhân duyên - Chương 12)
+ Phát lộ sám hối: ..... Này Susìma, Ông thấy phạm tội là phạm tội và như pháp phát lộ, nên chúng ta chấp nhận tội ấy cho ông. này Sumìma, như vậy, Luật của bậc Thánh được tăng trưởng, khi thấy được phạm tội là phạm tội và như pháp phát lộ để ngăn giữ trong tương lai. .... Mời đọc kỹ trong Kinh. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ứng nhân duyên - Chương 12)
+ Cảm xúc: Cảm xúc là các dạng ham muốn, và rằng hai cấp độ cơ bản của bản ngã được trải nghiệm thông qua cảm xúc là: (1) mong muốn được hợp nhất với một đối tượng tạo ra khoái lạc, và (2) mong muốn được tách rời khỏi một đối tượng gây ra đau khổ—hay nói cách khác, lực hút và lực đẩy, thích và không thích, và bất kỳ cặp đối lập nào khác. ....
... “Ta xin được tồn tại”, có thể được coi là hình thức chính của ham muốn đúng nghĩa. Ham muốn - với tư cách là trạng thái thấp nhất của ý chí—ở đây được kết tinh thông qua ham muốn được tự bảo tồn, tự duy trì, tự tiếp tục và tự định hướng.
“Ta xin được trở thành nhiều”, có thể được coi là bình diện tri nhận của ham muốn, thông qua mong muốn được tự nâng cao, tự mở rộng, tự sở hữu, tự tích lũy và tự tô điểm thông qua các hình thức, kiến thức và sự vật.
Ta xin được trở thành nhiều,” có thể được cho là tương ứng với khía cạnh sáng tạo của ham muốn, thông qua ham muốn được tự nhân giống trong và thông qua con cháu, sự tự biểu lộ thông qua việc tự nhân giống trong ham muốn tình dục với người bạn tình, nửa kia của cuộc đời, người vợ/chồng; hoặc tự nhân lên nhiều lần thông qua thể hiện nghệ thuật sáng tạo.(Nguồn: Khoa học cảm xúc - MFVN)
+ Hiểu về trái tim: bài viết tổng hợp về các xúc cảm qua các thuật ngữ như khổ đau - hạnh phúc - Tình yêu - Tình thương - Tức giận - Chịu đựng - Ghen tuông - Tha thức - Sòng phẳng - Năng đỡ - Cô đơn - Tạ ơn - Thành thật - Thành kiến - Thảnh thơi - Thành công - Niềm tin - ........ và cách rèn luyện trái tim yêu thương.....
Do đó, cảm xúc là một dạng chuyển động; chuyển động về phía đối tượng của ham muốn, hoặc ra khỏi nó... (Mời xem: Hiểu Về Trái tim)
+ Thập lực Phật pháp luân: .... Vì thế đức Thế Tôn ta riêng rủ lòng thương sót, nhân lời hỏi của Địa Tạng Bồ Tát mà nói ra Thập Lực Phật Pháp luân để nghiến nát phiền hoặc, thành tựu đạo khí. Bởi đó, vứt bỏ ác pháp, đoạn trừ hết thảy hạnh vô y, tu trì thiện pháp, đầy đủ hết thảy hạnh hữu y. Nhưng muốn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn thì phải sám trừ tội khiên túc thế. Nếu có thể chẳng chấp trước Ngũ Ấm thì tự viên chứng được tam thân. Ngoài nương vào Phật lực - Pháp lực - Bồ Tát Thệ Nguyện lực; Trong cậy vào sức trí thành, sức sám hối, sức công đức của tự tánh nên tiêu diệt triệt để mây mù tội chướng mù mịt cả không trung, khiến bầu trời Chân tánh sẵn có hiển hiện toàn thể. Vì thế biết ba kinh: Thập Luân - Bản Nguyện - Chiêm Sát đều do sức đại bi nguyện của ngài Địa Tạng khiến cho chúng sinh trơ trọi cô quạnh trong đời mạt không nơi nương dựa đều có được chỗ nương cậy lớn lao. (Nguồn: Pháp Hội Sám Hối Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi)
+ Tam thánh các phương:
- Phương Đông: Phật Dược Sư và Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát
- Phương Tây: Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát
- Tam Thánh cõi Ta Bà - Hoa Nghiêm Tam Thánh: Phật Thích Ca và Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Ngoài ra, tam thánh còn được dùng để chỉ cho ba hàng chứng đắc thần thông thuộc ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát
Trong giới đàn Viên đốn, Tam thánh gồm Phật Thích Ca làm Hòa thượng , Bồ tát Văn-thù làm Yết-ma A-xà-lê, Bồ-tát Di Lặc làm Giáo thọ A-xà-lê. Tông Thiên Thai của Nhật Bản tôn xưng ba Đại sư Truyền giáo, Từ Giác, Trí Chúng là Tam thánh.
Việc thờ tượng Tam thánh Thích Ca, Di Đà là rất quan trọng, nhằm tăng trưởng niềm tin kính Phật và quan trọng nhất là thúc đẩy các Phật tử tu học, thực hành theo Phật pháp, đặc biệt là về đức hạnh và trí tuệ chứ không phải chỉ mong được phù hộ, ban ơn phước. (Nguồn: Ý nghĩa tượng Tam Thánh)
+ Hoa Nghiêm Tam Thánh: Ngoài việc là Thầy của chư Phật đời quá khứ, Văn Thù Bồ Tát từng có ân nghĩa dạy bảo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Kinh Phóng Bát ghi chép là: “Đức Phật bảo các Bồ Tát, A La Hán rằng: (lược đoạn giữa). Nay Ta được thành Phật, có 32 Tướng, 80 tùy hình tốt đẹp, Uy Thần tôn quý, độ thoát tất cả chúng sinh trong mười phương đều là ân của Văn Thù Sư Lợi vốn là bậc Thấy của Ta. Trước đây vô ương số chư Phật đời quá khứ đều là Đệ Tử của Văn Thù Sư Lợi, bậc đương lai cũng là nơi do Uy Thần Ân Lực của Ngài đã đem đến. Ví như Thế Gian con trẻ phải có cha mẹ thời Văn Thù tức là bậc cha mẹ trong Phật Đạo vậy”
_Trong Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán thì Bồ Tát Văn Thù được xưng là Tam Thế Giác Mẫu Diệu Cát Tường cùng với Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra) là hai vị hầu cận hai bên phải trái Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuṇi).
Người đời xưng là Hoa Nghiêm Tam Thánh. Trong đó Văn Thù Bồ Tát (Mañjuśrī) đại biểu cho Trí Đức, Tuệ Đức, Chứng Đức của tất cả chư Phật và Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra) đại biểu cho Lý Đức, Định Đức, Hạnh Đức của tất cả chư Phật. Cả hai vị này đều biểu hiện cho Lý Trí, Định Tuệ, Hạnh Chứng đã hoàn toàn viên mãn của Đức Phật.
_Trong Kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka-sūtra) bày rõ tất cả Phật Pháp quy về Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairocana-tathāgata) với hai vị Đại Sĩ Phổ Hiền (Samantabhadra), Văn Thù (Mañjuśrī). Ba vị này được xưng là Hoa Nghiêm Tam Thánh, trong đó Phổ Hiền Bồ Tát đại biểu cho Bản Thể Hạnh Đức của tất cả Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát đại biểu cho Chứng Đức của tất cả Bồ Tát. (Nguồn: Văn Thì Bồ Tát Pháp Kinh - Tr 03)
+ Thông qua năng lực của thần chú (Chú Đại Bi) mà mười pháp muôn được hiển bày.
1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.
2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành trì.
4. Thứ tư là “Trí”: là trí tuệ, dùng thanh gươm trí tuệ để cắt đứt tất cả phiền não. Trí tuệ tức là pháp môn lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ viên mãn nhất. Còn “quán” là lưu xuất từ pháp môn Thiền định Ba La Mật.
5. Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì.
6. Thứ sáu là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện, nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành.
7. Thứ bảy là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không nương theo lời dạy của đức Phật mà tu hành, thì dù quí vị có tu hành đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể nấu cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy nhiên, để có thể tu tập xứng hợp với giáo lý chân chính của đức Phật thì trước hết, quí vị phải thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận.
8. Thứ tám là “Lý”: nghĩa là đạo lý. Nếu quí vị có thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có được sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị không khế hội được diệu pháp này, thì quí vị chỉ là người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt được sự thành tựu.
9. Thứ chín là “Nhân”: Trong đời này quí vị phải gieo trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân thanh tịnh, thì vị lai quí vị sẽ gặt được quả thù thắng, quả vi diệu và quả thanh tịnh.
10. Thứ mười là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác ngộ tối thượng.
Như vậy từ chữ án, xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu. Nên khi quí vị trì niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ án thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác thần đều phải cung kính chấp trì. Công năng của thần chú thật to lớn, thần lực thật không thể nghĩ bàn. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi từ câu 1-10)
+ Chữ Nhẫn trong tu Bồ Tát Đạo: (37) Thuận nhẫn: Một trong năm nhẫn của các giai vị Bồ Tát gồm 42 địa vị trong Kinh Hoa Nghiêm. Năm nhẫn là: Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sinh nhẫn và Tịch diệt nhẫn. Bốn nhẫn trước mỗi nhẫn có thượng, trung, hạ thành ra 12 nhẫn. Nhẫn thứ năm (Tịch diệt nhẫn chia làm hai, là thượng và hạ).
1.Phục nhẫn: các vị Bồ Tát tiền địa (Tam hiền) chưa được trí tuệ vô lậu, phiền não chưa đoạn, chỉ thể hàng phục trụ địa phiền não, làm cho chẳng khởi mà thôi (chưa thể diệt). Trong đó Thập Trụ thuộc về Phục nhẫn bậc hạ. Thập Hạnh thuộc về Phục nhẫn bậc trung. Thập Hồi hướng thuộc Phục nhẫn bậc thượng.
2. Tín Nhẫn: Bồ Tát từ sơ địa trở lên, được Vô lậu tín, tùy thuận không nghi, trong đó Sơ địa là Hạ phẩm, Nhị địa là Trung phẩm, Tam địa là Thượng phẩm tín nhẫn.
3.Thuận nhẫn: Bồ Tát thuận Vô thượng Bồ đề đạo, hướng đến vô sinh quả, trong đó đệ tứ địa là Hạ phẩm Thuận nhẫn, ngũ địa là Trung phẩm, Lục địa là Thượng phẩm của Thuận nhẫn.
4. Vô sinh nhẫn: Bậc Bồ Tát đã hết vọng hoặc, biết rõ tất cả Pháp đều chẳng sinh, trong đó Thất địa là Hạ phẩm, Bát địa là Trung phẩm, Cửu địa là Thượng phẩm của Vô sinh nhẫn.
5. Tịch diệt nhẫn: các hoặc đã hết, thanh tịnh vô vi, lòng trong lặng lẽ, trong đây Thập địa là Hạ phẩm, Phật quả là Thượng phẩm (Kinh Nhân Vương, Kinh Bát Nhã…)
+ Phân biện Nhẫn nhục: Chúng ta nói rằng mình đang tu học Phật pháp, và không đến nỗi khó khăn lắm khi giữ giới. Điều khó là thực hành các điều giới ấy. Nhiều người tập hạnh nhẫn nhục bằng cách bảo người khác hãy nhẫn nhục đối với chính họ, và chẳng cần nhẫn nhục đối với người khác. Thế nên họ nói vớí những người không nhẫn nhục đối với họ rằng, “Anh phải học Phật pháp thật nhiều, lẽ ra anh phải nhẫn nhục hơn. Tại sao anh nổi nóng khi tôi chỉ mới nói đến anh?” Họ quở trách người khác không nhẫn nhục, nhưng chính họ lại không thể nhẫn nhục. Và tại sao họ lại duy lý như vậy? Họ tự cho rằng, “Tôi đã hiểu Phật pháp, tôi hầu như đã đạt đến vô ngã. Thế nên tôi không cần phải nhẫn. Tôi không có quan niệm về ngã, không có ngã tướng, thế nên khi nào cần phải nhẫn, đó là anh cần phải nhẫn chớ không phải tôi.” Nhưng khi đến giờ ăn, họ không nghĩ là mình có quan niệm về sự hiện hữu của con người, không có nhân tướng, thế nên họ cho rằng không cần phải có gì đó cho người khác ăn. Khi có việc cần làm, hoặc khi gặp khó khăn, họ nhớ lại rằng mình không có quan niệm có một bản ngã, thế nên họ nói rằng chẳng cần để ý đến những việc ấy. Và, nếu họ giết người, họ sẽ biện minh, “Chẳng hề gì, vì chẳng có chỗ khởi đầu của chúng sinh. Thế nên thực sự tôi chẳng giết họ.” Hoặc là vô cớ họ đánh người, khi hỏi tại sao lại làm vậy?, họ đáp, “Chẳng có cái gì gọi là chúng sinh tướng, và anh thuộc về dạng đó, thế nên tôi thực sự chẳng đánh ai cả!” Đó là loại tà tư tà kiến nơi họ. Khi ăn thịt, họ nói, “ Không sao, các ông chẳng nghe nói chúng sinh có đặc tính là không có thọ giả tướng [15] đó sao? Vì nó không có thọ giả tướng, nên nó có thể chết bất kỳ lúc nào, thế nên tôi tha hồ ăn thịt nó. Lại nữa, một khi nó chết rồi, thịt nó cũng thối rữa, nếu tôi không ăn thịt nó.” Đó là luận điệu của đệ tử ngoại đạo. Họ cho rằng gia súc được nuôi chủ yếu là để cho người ăn thịt, nếu không ăn, thì chúng sẽ sinh sôi nẩy nở chật cả thế giới. “Nếu người không ăn bò, dê, heo, thì chúng sẽ nhiều vô số kể cho đến khi tràn ngập cả thế giới.” Nhưng hãy nhớ rằng, con người không ăn thịt mèo, nhưng trên thế giới chưa bị tràn ngập bởi loài mèo. Thực vậy, khi con người không ăn thịt động vật, thì không tạo ra nghiệp sát nhiều, và súc vật không sinh sôi nẩy nở nhanh chóng. Thế nên có người giải thích đạo lý sai lạc, như ý nghĩa của nhẫn nhục, và cho rằng mọi người nên nhẫn nhục với họ, nhưng chính họ lại không nhẫn nhục với người khác. (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Tu chữ nhẫn - Hạnh nhẫn nhục: Mời xem tại đây
+ Tu hành là khổ - Tu là khổ - Tu là Phải chịu khổ
"Hữu vị Phật pháp khổ hậu điềm, (nếm vị Phật pháp sau khổ nhọc)."
Hương vị Phật pháp rất ngọt ngào. Đối với Phật pháp, chư vị học được một chút thì hiểu rõ một chút. Hôm qua tôi đã giảng về lý khai ngộ. Khai ngộ có tiểu ngộ, trung ngộ và đại ngộ.
- Tiểu ngộ là ít hay nhiều mà sao lại gọi là tiểu ? Giống như hư không rất rộng lớn, khi đã khai ngộ từ trong ruộng tám thức, chư vị cũng vẫn không hay biết.
- Trung ngộ nghĩa là chư vị cảm giác là mình hiểu rõ được chút ít đạo lý, như lý không tăng không giảm, lý không sanh không diệt xưa nay. Hiểu rõ những đạo lý này được rồi thì gọi là trung ngộ.
- Đại ngộ tức là dứt tận sanh tử, việc gì đến hay đi cũng đều biết hết. Sau gọi là tăng ? Sau gọi là giảm ? Biết rõ lý không tăng không giảm, hoàn toàn liễu giải được lý không sanh không diệt gọi là đại ngộ.
"Nếm vị Phật pháp sau khổ nhọc". Chư vị nhất định phải nhẫn chịu một chút khổ. Không phải học liên tiếp bốn năm ngày rồi cho đó là học Phật pháp đầy đủ rồi. Chư vị nhất định phải có tâm nhẫn nhục, không luận khốn khổ, gian nan gì cũng đều phải học. Ngày ngày tôi phải đến trường dạy tiếng Tàu cho học sinh. Đến lúc giảng kinh, tôi cũng phải giảng, trừ phi có những trường hợp đặc biệt. Tuyệt đối tôi không bao giờ làm biếng. Cần phải tu hành chân thật thì mới nếm được mùi vị Phật pháp, nên đầu tiên phải chịu khổ đau nhọc nhằn. Do đó, chớ có sợ khổ. Càng khổ nhiều chừng nào càng tốt chừng ấy. Phải phấn chấn tinh thần, lập định chí hướng, dũng mãnh tinh tấn tiến bước. Đừng sợ khổ nhọc, gian nan.
"Đạm nhiên tịnh cực siêu tạo hóa." Đạm nhiên tức là thanh tịnh. Cực tịnh nghĩa là tịch tĩnh đến cùng tột. Siêu tạo hóa, nghĩa là siêu xuất công năng tạo hóa của trời đất.
"Đốn giác ngã pháp bổn viên dung, (liền giác ngã pháp vốn viên dung)".
Chư vị nếu hiểu rõ đạo lý này thì tức khắc biết được mình và pháp vốn là một, không có phân biệt, không hai không khác, gốc vốn là viên dung không ngại. (Nguồn: Bát Nhã Ba Đa Mật Đa Tâm Kinh_HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thứ tự tu hành - Thứ tự phát nguyện hợp khả năng - Lượng sức mình:
... Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, thệ nguyện thứ nhất là Bồ Tát nguyện, nguyện thứ hai và thứ ba là Bồ Tát hạnh, nguyện thứ tư là quả vị Bồ Tát. Đã phát nguyện rồi, thực hiện từ nơi đâu? Thực hiện từ đoạn phiền não. Chẳng đoạn phiền não, chính mình chẳng thể thành tựu, mà cũng chẳng thể hóa độ chúng sanh. Đã đoạn phiền não rồi mới học pháp môn.
Vì thế, người học Phật hiện thời, học mấy chục năm, học suốt một đời, chẳng có thành tựu gì nơi Phật Pháp, nguyên nhân ở chỗ nào? Điên đảo thứ tự, vừa bắt đầu bèn “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, chẳng cần tới “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, nên người ấy vĩnh viễn chẳng thể học được! Vì sao? Căn khí của kẻ ấy là hữu lậu, giống như cái chén trà này đáy lủng một lỗ, đổ nước vào cách nào cũng chẳng đổ đầy được! Do bị rò rỉ, nên chẳng thể đổ đầy được. Kẻ ấy có Lậu, Lậu là tên gọi khác của phiền não. Vì thế, trình tự học Phật là trước hết đoạn phiền não, trước hết là tu tâm thanh tịnh, nhất định phải làm đúng theo trình tự của Phật.
Trình tự là Giới, Định, Huệ. “Thọ trì Tam Quy, trọn đủ các Giới, chẳng phạm oai nghi” là Giới Học trong Tam Học. “Phát Bồ Đề tâm, tin sâu Nhân Quả” là Định Học. “Đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” là Huệ Học. Nó có thứ tự, chẳng thể vượt cấp. Những điều sau nhất định bao gồm những điều trước, những điều trước chẳng bao gồm các điều sau, nhưng điều sau bao hàm điều trước. Nay chúng ta chẳng hiểu, bèn vượt cấp. Giống như xây một tòa cao ốc, chẳng cần ba tầng dưới, ta xây tầng thứ tư, thứ năm, xây bằng cách nào? Chẳng có cách nào xây cả! Vĩnh viễn cũng chẳng thể xây thành công! Đây là sai lầm to nhất mà người học Phật trong đời này phạm phải! (Nguồn: Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện - PS Tịnh Không)
+ Căn bản trí - Trí Huệ: Đức Phật dạy chúng ta cầu căn bản trí, cầu căn bản trí chính là tu giới định tuệ,
- Nhân giới được định,
- Nhân định phát tuệ,
Tuệ đó là căn bản trí. Tuệ đó có thể chính chúng ta cũng không biết, khởi tác dụng mới biết, khởi tác dụng là gì? Căn bản không thông qua tư duy, người khác đặt câu hỏi, quý vị tùy khẩu trả lời, giải đáp của trí tuệ, đó là gì? Căn bản trí khởi tác dụng, khởi tác dụng quý vị sẽ biết. Không khởi tác dụng là bát nhã vô tri, đó là căn bản trí. Khởi tác dụng vô sở bất trí, không ai hỏi thì không biết, có người hỏi lập tức xuất hiện. Đây không phải tri thức, đây là trí tuệ chân thật.(Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Định và Huệ - Đức Phật nói:
Như huyễn tam-ma-đề
Trong khoảnh khắc, vượt hàng vô học.
Giảng giải:
Còn gọi bằng một tên khác, Như huyễn tam-ma-đề. Tam-ma-đề là tiếng Sanskrit, Samāpatti; Hán dịch là đẳng trì; có nghĩa là duy trì tính quân bình của định (samadhi) và huệ. Bằng trí huệ, ta có thể mở được sáu nút. Với định, ta sẽ không tạo ra sáu nút nữa. Trong Tam-ma-đề, định huệ đẳng trì nầy, hành giả có thể trong khoảnh khắc, vượt hàng vô học. ‘Trong khoảnh khắc’, tức là ‘trong khoảng khảy móng tay.’ Chẳng mất chút nào thời gian, quý vị có thể vượt qua vị trí của hành hữu học và đạt đến vị trí của hàng vô học, có nghĩa là, quả vị thứ tư của hàng A-la-hán. Sơ quả, quả vị thứ nhì, quả vị thứ ba vẫn còn ở trong hàng hữu học. Chỉ trong khoảng gảy móng tay, hành giả có thể chứng được quả vị thứ tư, thành A-la-hán...(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Mời đọc bài viết: Tổng hợp về phát nguyện
+ Trình tự là Giới, Định, Huệ. “Thọ trì Tam Quy, trọn đủ các Giới, chẳng phạm oai nghi” là Giới Học trong Tam Học. “Phát Bồ Đề tâm, tin sâu Nhân Quả” là Định Học. “Đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” là Huệ Học. Nó có thứ tự, chẳng thể vượt cấp. Những điều sau nhất định bao gồm những điều trước, những điều trước chẳng bao gồm các điều sau, nhưng điều sau bao hàm điều trước. Nay chúng ta chẳng hiểu, bèn vượt cấp. Giống như xây một tòa cao ốc, chẳng cần ba tầng dưới, ta xây tầng thứ tư, thứ năm, xây bằng cách nào? Chẳng có cách nào xây cả! Vĩnh viễn cũng chẳng thể xây thành công! Đây là sai lầm to nhất mà người học Phật trong đời này phạm phải!
... Nếu chư vị muốn thật sự thành tựu, trước hết hãy đoạn phiền não rồi sẽ học pháp môn. Niệm Phật là một Pháp hữu hiệu để đoạn trừ phiền lão ... để có Tâm thanh tịnh, Bình đẳng mới có thể học Phật pháp.
... Phiền não (Vọng tưởng) chướng ngại ngộ môn, nên quý vị chẳng khai ngộ. Nếu quý vị chẳng có phiền não, nói thật thà, nghe Kinh vài lần, nhất định khai ngộ. Sau khi đã ngộ bèn chứng quả.
... Nói thật thà, một niệm chẳng sanh cũng là nhiễm ô, cũng là bất bình đẳng, vì sao? Người ấy có “một niệm chẳng sanh”, cũng là phiền phức! Tôi chỉ nói tới đây, quý vị hãy thấu hiểu cặn kẽ: Hễ có “một niệm chẳng sanh” thì cũng không được. [Nếu cảm thấy] “nay ta rất thanh tịnh”, thôi rồi, quý vị chấp trước thanh tịnh, vướng mắc nơi thanh tịnh, sự thanh tịnh ấy chính là chẳng thanh tịnh, cũng không được!
... Nhưng Phật tu phước cuối cùng, tu huệ trước, vì sao vậy? Nếu có huệ mà chẳng có phước, chẳng bị đọa lạc. Vì thế, sau khi thành tựu huệ lại tu phước, làm cách này rất thông minh!
Vì sao phải tu phước? Chẳng có phước báo, không thể độ chúng sanh. Đã thành Phật, thành Bồ Tát, nếu tướng mạo khó coi, rất xấu xí, người ta thoạt nhìn đã chán ghét, dẫu quý vị giảng Phật Pháp hay ho đến mấy đi nữa, họ chẳng nghe, họ chạy tuốt, chẳng muốn thân cận quý vị. Vì thế, Thích Ca Mâu Ni Phật có tướng mạo đẹp nhất, viên mãn nhất trong thế gian này.... (Nguồn: Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện - PS Tịnh Không)
+ Giới học: “Thọ trì Tam Quy, trọn đủ các Giới, chẳng phạm oai nghi” là Giới học. Tu tại gia thì giữ ngũ giới. Người xuất gia thì hàng trăm giới luật oai nghi.
+ Định học: "Phát Bồ Đề tâm, tin sâu Nhân Quả" là Định học. Học Nhân Quả - Luân hồi tái sanh và tin sâu nhân quả là khởi đầu để có thể tu giữ ngũ giới thành tựu.
+ Huệ học: “Đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” là Huệ học. Phát triển trí huệ qua đọc tụng Kinh Pháp đại thừa như Kinh Lăng Nghiêm, Chú Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bi - Chú Đại Bi, Bát Nhã Tâm Kinh ..v..v.. Rất nhiều Kinh Chú đều có thể giúp chúng ta hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng, đánh tan bao lớp màn vô minh che mặt trời Chân Tâm, từng bước làm cho Trí Huệ vốn có tỏa sáng hào quang vô lượng vô biên. (Nhân Trắc Học)
+ Sắc đẹp mê hoặc lòng người thế gian: Nhân gian có câu "Anh hùng không qua nổi cửa ải mỹ nhân". Con người bản chất vốn ham thích cái đẹp. Đây là điểm mà đức Phật tu cả Phước Huệ để có được 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, có như vậy thì mới có thể hấp dẫn chúng sanh đến nghe giảng Phật pháp.
... Chúng ta thấy trong Kinh Lăng Nghiêm [có chép duyên do khiến cho] tôn giả A Nan xuất gia. Đức Phật hỏi Ngài: “Vì sao ông xuất gia?” Ngài [trả lời là vì] thấy đức Phật tướng mạo đẹp quá, [nguyên do khiến A Nan] xuất gia là như vậy đó! Cổ nhân có nói: “Tú sắc khả xan” (vẻ đẹp nuốt người), nhìn thấy tướng mạo người ấy quá đẹp, tự nhiên đi theo người ấy. Vì thế, tướng mạo là một công cụ để nhiếp thọ chúng sanh, người ta luôn thích theo người có phước đức rất lớn. Đức Phật cũng phải thuận theo tâm lý của người đời. Nếu vì chính mình, chắc chắn đức Phật chẳng cần, trăm kiếp tu phước là phương tiện để độ chúng sanh. (Nguồn: Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện - PS Tịnh Không)
+ Nội cảm xúc:
... Tỳ kheo nắm giữ nội xúc như sau "Sự đau khổ đa loại, đa dạng này khởi nên ở đời với già chết .... do sanh có mặt, già chết hiện hữu. Sanh y không có mặt, già chết không hiện hữu.
Sanh y lấy ái làm nhân .... Ái có mặt, sanh y có mặt. Ái không có mặt, sanh y không có mặt.
Tất cả những gì ở đời khả ái, hấp dẫn, khởi lên. Tại chỗ đấy, ái được sinh ra và an chú
Ở đời, con mắt ở đời là khả ái, hấp dẫn khởi lên. Tại chỗ ấy, ái được sanh khởi và an chú
Lỗ tai ...., lỗ mũi ..., Lưỡi ...., Thân ...., Y..... ở đời khả ái, hấp dẫn khởi lên, tại chỗ ấy ái được sanh khởi và an chú. .....
.... Những ai từ bỏ ái, người đó từ bỏ sanh y. Những ai từ bỏt sanh y, những người ấy từ bỏ đau khổ. Những ai từ bỏ đau khổ, người ấy được giải thoát khỏi sanh già bệnh chết sầu bi khổ ưu não. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ứng nhân duyên - Chương 12)
+ Niệm Phật chữa bệnh - Niệm Bồ Tát chữa bệnh: ... Sử dụng phương pháp Niệm Phật, chư vị đều có thể niệm, nhưng mấu chốt là dụng tâm như thế nào. Nhất định phải dùng tâm thanh tịnh, phải dùng tâm bình đẳng, phải dùng cái tâm tin tưởng chân thật, nguyện thiết tha, quý vị sẽ có cảm ứng rất nhanh. Sự cảm ứng ấy chẳng phải là nói quý vị thấy Phật, thấy Bồ Tát tỏa ánh sáng, rúng động cõi đất, chẳng phải vậy!
Chẳng phải là những thứ cảm ứng ấy! Quý vị có thể cảm giác/ Nhận thức cái tâm của chính mình thanh tịnh, phiền não ít đi, sẽ cảm giác rất vui sướng, thậm chí thân thể quý vị có bệnh, bệnh chẳng còn nữa. Thật đấy! Chẳng cần chữa trị, tự nhiên [bệnh tật] chẳng còn nữa. Thân thể này xác thực là cảnh giới, cảnh chuyển theo tâm, tâm lý khôi phục sự lành mạnh, tâm thanh tịnh, thân thể này bèn trăm bệnh chẳng sanh. Khi thanh tịnh đến cùng cực, thân thể sẽ tỏa mùi thơm. Thân có mùi hôi, có tật bệnh, đều là nghiệp chướng.
Hãy nghiêm túc niệm Phật, dùng cái tâm này, dùng phương pháp này, dùng lý luận này để tiêu nghiệp chướng! Thân tâm khỏe mạnh, thân tâm vui sướng, là những điều đạt được trước mắt, Phật Pháp gọi những điều đó là hoa báo (quả báo hiện đời), hậu báo (quả báo tương lai) ở Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chín phẩm vãng sanh, sang bên đó làm Bồ Tát, làm Phật, đó là quả báo, công đức quả báo giống hệt từng điều được nói trong Kinh Vô Lượng Thọ, trang nghiêm thù thắng khôn sánh. (Nguồn: Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện - PS Tịnh Không)
+ Phát nguyện và sám hối:
Kẻ xuất gia tu Ðạo cần phải phát nguyện. Phát nguyện là để tinh tấn tu hành. Phát nguyện là để cảnh giác chính mình, sửa đổi điều ác mà làm điều thiện. Tu Ðạo mà không phát nguyện thì cũng như là hoa nở mà không kết trái vậy, đó là điều không thể được.
Nếu đã phát nguyện rồi tốt nhất cần phải hàng ngày lập lại, nói qua một lần nữa, bởi vì "ôn cố nhi tri tân"! Phải nhớ được nguyện mình từng phát là nguyện gì, mình cần phải làm điều gì, thì lúc đó nguyện mình đã phát mới không phải là lời hứa suông. Mình mới không tự lừa mình mà dối người, đồng thời không phải phát nguyện rồi quên mất đi.
Chư Phật và Bồ Tát trong quá khứ do chân thật phát nguyện nên các ngài mới chứng được Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chư Phật và Bồ Tát tương lai cũng do phát nguyện mà đắc được Chánh Ðẳng Chánh Giác. Phật là bậc Ðại Trí Huệ, chúng ta là kẻ đại ngu si, nên cần phải học đại trí huệ của Phật. Chúng ta phải lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy nguyện của Phật làm nguyện của mình, lúc nào cũng học bốn tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả, và lúc nào cũng tu trì hạnh nhẫn nại những điều khó nhẫn nại, làm những việc người khác khó làm nổi.
Mọi việc mình làm đều phải chân thật thì mới tương ưng với Ðạo được. Vì vậy phát nguyện cần phải thành tâm, thành ý, không thể có hành vi dối trá hoặc tham cầu hư danh được. Ðó là điểm mà tôi hy vọng các vị chú ý. Phật A Di Ðà do phát 48 đại nguyện nên mới thành tựu được Thế giới Cực Lạc và nhiếp thọ được tất cả chúng sinh ly khổ đắc lạc, liễu sinh thoát tử. Chúng ta cần phải y theo Ngài và chư Phật cùng Bồ Tát trong quá khứ, mà mau mau phát nguyện. Có phát nguyện thì mới có thể thành được Phật quả!
Nếu như mình có lỗi lầm thì phải đau lòng cải hóa đi, đừng nên che đậy hoặc tô điểm thêm những lỗi lầm xấu xa của mình. Phải hết sức thẳng thắn sám hối trước đại chúng, nếu ngược lại thì chỉ thêm tội lỗi. Mình chạy theo tập khí lỗi lầm tức là "bội giác hợp trần." Hễ có thể sửa đổi lỗi lầm, hướng về điều thiện thì đó là "bội trần hợp giác.".....
Phát nguyện là để ngăn ngừa tội lỗi, sám hối là để tiêu trừ tội lỗi, cho nên nói: "Di thiên đại tội, Nhất sám tiện tiêu." (Tội lỗi đầy trời, Sám hối liền sạch.) Do đó, bắt đầu từ đây về sau, mình làm con người mới!
"Phát nguyện" và "sám hối" tuy hai danh từ khác nhau nhưng đại ý không có gì khác biệt, đại đồng tiểu dị mà thôi. Nếu có thể sửa đổi được những thói quen xấu xa tức là dũng mãnh cải hóa, dũng mãnh chấp nhận sai lầm, dũng mãnh đối đầu với thật tại. Lúc đó mới vượt qua được thử thách, không bị cảnh giới làm cho lay chuyển. Ðừng nên có ngã kiến quá sâu dày, đừng nên có ngã tướng quá nặng nề. Phải hiểu rằng chúng ta đều có giác tánh viên minh hết sức quang minh, lỗi lạc, "tròn đầy, xán lạn"; mọi tập khí, tội lỗi ở trong đó đều chẳng tồn tại được! (Nguồn: Khi phát nguyện cần thành tâm - HT Tuyên Hóa)
+ Phát nguyện hàng ngày: .....Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.....
Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến.
Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm. (Nguồn: Thuật ngữ - Trích Tooltip)
+ Mời đọc bài viết: Tổng hợp về phát nguyện
+ Cõi Trời Đao Lợi thứ ba mươi ba:
Thiên chủ của cõi trời Ba Mươi Ba là Ðế Thích. Trong Kinh A Di Ðà có nói đến "Thích Ðề Hoàn Nhân", tức là vị Ðế Thích này vậy. Ngoài ra, trong Chú Lăng Nghiêm có câu "Nam Mô Nhân Ðà La Da", thì Nhân Ðà La Da cũng chính là Thiên Chủ Ðế Thích. Ở cõi trời thì Ðế Thích là một vị Thiên Chủ; còn trong Phật Giáo thì Ngài là một vị Hộ Pháp - Ngài chẳng những không được làm chủ mà ngay cả tòa sen để ngồi cũng không có nữa, Ngài chỉ đứng ở ngưỡng cửa mà thôi!
Thiên Chủ Ðế Thích cũng chính là đấng "Thượng Ðế Vạn Năng" mà người đời thường xưng tụng. Ðúng vậy, Ðế Thích quả là một "đấng vạn năng" - Ngài cai quản tất cả mọi việc ở cõi trời cũng như ở cõi người. Tuy nhiên, giữa Ngài và người thế gian chúng ta chẳng có gì khác biệt lắm. Vì sao? Vì Ngài vẫn còn tâm dâm dục, và vẫn cần ăn uống, ngủ nghỉ; có khác chăng là ba thứ dục vọng ấy ở Ngài thì nhẹ và tinh tế, chứ không nặng nề và thô thiển như ở phàm phu chúng ta! Người thế gian chúng ta chỉ không ăn không uống vài bữa là chịu không nổi, vài ngày không dâm dục là cảm thấy khó chịu, vài hôm không ngủ nghỉ là thấy uể oải, bạc nhược. Còn Trời Ðế Thích thì một trăm ngày không ăn cũng được; thậm chí hai trăm ngày, ba trăm ngày, hoặc một năm mới ăn một lần cũng chẳng sao; suốt năm không ngủ cũng vẫn tỉnh táo như thường, và quanh năm không dâm dục cũng chẳng lấy làm phiền - tuy nhiên, Ngài vẫn chưa đoạn trừ được dục vọng.
Tuổi thọ của chư thiên ở cõi trời Ðao Lợi là một ngàn năm. Một trăm năm của cõi nhân gian chúng ta chỉ là một ngày một đêm ở cõi trời Ðao Lợi. Vậy, quý vị thử tính xem, so với người thế gian chúng ta thì thọ mạng của chư thiên lâu hơn được bao nhiêu năm?
Cõi trời Ðao Lợi rộng tám vạn do-tuần; tất cả tường vách của thành trì nơi đây đều được làm bằng bảy thứ báu. Thành trì của Thiên Chủ Ðao Lợi Thiên là Thiện Kiến Thành, rộng sáu vạn do-tuần; và tất cả cung điện đều được xây bằng những vật liệu quý báu nhất. Ðây cũng là lý do khiến Thiên Chủ Ðế Thích sau khi được sanh về đó rồi thì chỉ muốn ở lại làm chúa trời, chứ không muốn "dọn nhà" đi nơi khác! Mọi thứ xung quanh Ðế Thích toàn làm bằng châu báu; ngay cả nhà cửa phòng ốc cũng được kiến tạo bằng những vật liệu vô cùng quý giá.
Vì được sống ở một nơi đẹp đẽ với những cung điện tráng lệ như thế, nên Ðế Thích khó thể dứt bỏ dục tâm. Ngài lấy làm thỏa mãn, an nhiên hưởng thụ phước trời, và cho rằng đó là nơi vui sướng nhất. Chẳng những thế, Ngài còn kêu gọi tất cả chúng sanh hãy sanh về "thiên quốc" - thế giới của Ngài. Ðối với Ngài, cõi trời Ðao Lợi là một thế giới đầy vui thú; do đó, ai thích thì cứ đến ở, Ngài sẵn lòng hoan nghênh tất cả. Ngài cho rằng Ngài rất khảng khái, rộng lượng, vì lúc nào cũng hoan hỷ nghênh đón mọi người đến ở và cùng an hưởng phước lạc của cõi trời với Ngài; song le, Ngài không biết rằng sở dĩ bản thân mình chưa thoát khỏi vòng sanh tử là bởi mình còn tham đắm dục lạc!
Vì sao Ngài được làm Thiên Chủ? Có phải là trước tiên thì làm Ðịa Chủ (chúa đất), rồi sau đó được thăng chức làm Thiên Chủ (chúa trời)? (Ở Quảng Châu, Trung Hoa, hầu như nhà nào cũng có thờ Ðịa Chủ cả.) Hay là phải từ địa vị Ðịa Chủ rồi lên Nhân Chủ (chúa nhân gian), sau đó mới từ Nhân Chủ mà thăng lên làm Thiên Chủ? Không phải! Thế thì nhờ đâu mà Ngài được làm Thiên Chủ?
Vào thời Ðức Phật Ca Diếp, vị chúa trời Ðế Thích này là một người con gái từng phát tâm xây cất ngôi tháp thờ Phật Ca Diếp. Do nhân duyên gì mà cô phát tâm như thế? Thuở ấy, nhân thấy một ngôi miếu đổ nát, mất nóc, và trong miếu có pho tượng Phật đã bị mưa gió làm loang lổ lớp vàng thếp trên mặt, cô cảm thấy rất đau lòng: "Chao ôi! Tượng Phật này đã bị nhện giăng bụi bám, bây giờ lại còn phải chịu cảnh gió táp mưa sa, tôi thật không đành lòng!". Thế là cô ta phát tâm sửa sang ngôi cổ miếu ấy lại cho trang nghiêm. Tuy nhiên, vì không có tiền, cô ta bèn tìm đến bạn bè và những người thân thuộc, nói với họ rằng: "Tôi muốn xây dựng lại ngôi cổ miếu nọ nhưng không có tiền, chẳng hay quý vị có thể giúp tôi một tay không? Quý vị ai có người thân thì kêu gọi người thân, ai có bạn bè thì kêu gọi bạn bè; chúng ta hãy hợp lực để làm một việc từ thiện, cùng nhau trùng tu ngôi cổ miếu này."
Bạn bè và bà con quyến thuộc của cô gái này đều hăng hái hưởng ứng: "Ðược, tất cả chúng ta hãy hợp tác để trùng tu ngôi cổ miếu!". Cô ta tìm được ba mươi hai người có cùng một tâm nguyện với mình, và có lẽ tất cả đều là nữ giới. (Ðiều này không thể kiểm chứng qua lịch sử, cũng chẳng thể tra cứu ở đâu được!) Cho dù có phái nam tham gia thì con số cũng rất ít; vì sao ư? Vì nam giới thường tự cho là mình tài giỏi, không thích việc xây chùa dựng tháp, lại còn bảo rằng họ nhường công việc đó cho phái nữ!
Sau khi cô gái khởi xướng và ba mươi hai người nữ ấy hoàn tất việc trùng tu ngôi cổ miếu, họ còn cùng nhau cất thêm một bảo tháp nữa. Họ cứ kẻ góp công người góp của, ai nấy đều tùy theo khả năng của mình mà góp phần, nhờ đó việc xây dựng ngôi bảo tháp cũng được thành tựu viên mãn. Ðến khi thọ mạng của ba mươi ba người này đã hết, tất cả đều được sanh lên cõi trời. Lên trời thì mỗi người một cõi, cho nên ba mươi ba người thì có ba mươi ba cõi trời. Vị Thiên Chủ của cõi trời trung ương Ba Mươi Ba - Ðao Lợi Thiên - là Ðế Thích, tức là cô gái khởi xướng việc trùng tu ngôi cổ miếu thuở trước. Ðó là sự tích của cung trời Ðao Lợi.
"Trời" - Không có nghĩa gì cả nên gọi là "trời"! "Trời" lấy "tự nhiên" làm nghĩa; "tự nhiên" là ý nghĩa của "trời". Những cõi trời này là do nghiệp báo, nghiệp lực của ba mươi ba người ấy cảm ứng mà hóa hiện ra. Nếu không có ba mươi ba người ấy, thì ba mươi ba cõi trời này cũng chẳng hiện hữu; cho nên tôi nói "trời" không có ý nghĩa là vì vậy. Ước vọng được lên cõi trời là một điều không có ý nghĩa, do đó chúng ta không nên cầu mong được đến ba mươi ba cõi trời ấy.
"Cung" tức là cung điện với lối kiến trúc nguy nga tráng lệ, vô cùng xinh đẹp. Tại Trung Hoa cũng còn một vài cung điện, song cung điện ở cõi trời thì tráng lệ và đẹp đẽ hơn, lộng lẫy không thể nói hết.
"Thần Thông". Thế nào gọi là "thần"? Thế nào gọi là "thông"? "Thần" là "thiên tâm", là tâm của trời; "thông" là "huệ tánh", tức là có trí huệ. "Thông" còn là "thông đạt vô ngại" - chẳng có gì không thông suốt; và "thần" cũng hàm ý thần kỳ bí ẩn.
Thần thông có sáu loại - sáu loại cũng là một loại, một loại mà phân làm sáu loại. Cho nên, tách riêng ra thì có tới sáu loại, song hợp lại thì chỉ là một. Thật ra, một loại cũng chẳng có nữa, bởi xưa nay vốn không có thần thông mà vốn cũng có thần thông!........
Có thần thông hay không có thần thông đều chẳng quan trọng. Quý vị chớ lầm tưởng rằng có thần thông tức là đắc Ðạo hoặc chứng được quả vị. Phải biết rằng có được thần thông rồi vẫn còn ở cách sự chứng quả và đắc Ðạo rất xa! Chúng ta không nên mới đạt được đôi chút thành tựu liền tự mãn: " - , phen này tôi phát tài rồi!" Mới có được một lượng vàng mà đã reo mừng rối rít, cho là mình phát tài; trong khi người ta có tới hàng ngàn hàng vạn lượng vàng thì lại không hề khoe khoang, vẫn bình thản như không có gì cả vậy! So với người ta thì việc mình có được một lượng vàng có gì là to tát đâu? ... (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngũ ác năm trược - Ngũ trược ác thế: Gồm ngũ trược của Thế giới và Ngũ trược/ Ngũ ác trược trong con người, cụ thể:
a/ Thế gian năm ác trược: ... Mười phương thế giới của chư Phật thiện nhiều ác ít rất dễ khai hóa. Chỉ có thế gian năm ác trược này rất là cực khổ. Ta nay thành Phật ở đây để giáo hóa quần sanh bỏ năm điều dữ, dứt năm sự thống khổ, lìa năm sự thiêu đốt, điều phục tâm ý khiến làm năm điều lành, phước đức được thành tựu. Những gì là năm? (Đang nói Ác trược trong con người, không phải ngũ trược của thế giới)
Điều thứ nhất: Các loài chúng sanh ở thế gian thích làm điều ác, mạnh hiếp yếu, chèn ép nhau, tàn sát tổn hại ăn nuốt lẫn nhau, không biết làm lành để chịu hậu quả, nên có kẻ cùng khổ, cô độc, câm điếc đui ngọng, si ác ngông cuồng là do đời trước không tin đạo đức, không chịu làm lành. Những hạng tôn quí, hào phú, hiền minh, trưởng giả, trí dõng tài cao là do biết từ ái hiếu thuận, tu thiện tích đức từ đời trước.
Khi còn sanh tiền đã làm sai trái, sau khi mạng chung vào chốn u minh chuyển thọ thân hình sanh vào các nẻo, nên có địa ngục, súc sanh – ví như lao ngục ở thế gian có cực hình kịch khổ – thần thức tùy tội đã tạo mà thọ mạng có dài ngắn theo nhau trả báo, tội ác chưa hết lại tiếp tục chịu tội, xoay vần nhiều kiếp không thôi rất khó giải thoát, khổ thống không thể nói hết được! Ác đạo tuần hoàn cảm ứng tự nhiên, tuy không báo ứng tức thời, nhưng thiện ác chung qui vẫn phải chịu quả báo.
Điều thứ hai: Nhân loại thế gian không theo pháp luật, hoang dâm thái quá mặc tình phóng túng, trên thì không minh, tại vị không chính, hãm hại oan uổng, tổn hại trung lương, tâm miệng khác biệt, mưu toan nhiều bề, trong ngoài dối trá, giận dỗi ngu si, muốn lợi về mình, tham lam không chán, lợi hại được thua, oán giận thành thù, tan nhà mất mạng, không xét trước sau, giàu có keo kiệt không chịu bố thí, chất chứa cho đầy, nhọc tâm khổ thân, đến khi mạng chung không đem được gì, thiện ác họa phước tùy nghiệp thọ sanh, hoặc sanh vào nơi sung sướng hay vào chốn khổ độc. Thấy người làm lành lại còn hủy báng không chịu bắt chước, thường nghĩ trộm cắp, rình đoạt của người, tiêu phá hết rồi lại đi tìm nữa. Chết đọa vào ba đường ác chịu vô lượng khổ, xoay vần nhiều kiếp rất khó ra khỏi, đau khổ vô cùng.
Điều thứ ba: Người đời nương nhau mà sống còn trong trời đất, thọ mạng chẳng được là bao? Kẻ bất lương tâm không chính đính, ôm lòng tà ác, luôn nghĩ dâm dục, phiền não tràn hông, thái độ tà ngụy buông lung, hao tổn tài sản, làm điều phi pháp, ai cầu xin gì cũng không chấp thuận, lại còn tụ bè kết đảng, hưng binh gây chiến đánh cướp giết hại, chiếm đoạt bức hiếp chu cấp cho vợ con, no thân hưởng lạc, khiến người chán ghét, lo lắng khổ cực, tạo nhiều tội ác, chết vào tam đồ chịu vô lượng khổ, qua lại nhiều kiếp, khó được giải thoát, khổ đau khôn xiết.
Điều thứ tư: Người ta ở đời không chịu tu thiện, nói dối, nói lời hung dữ, nói đâm thọc, nói thêu dệt, ganh ghét người lành, hãm hại người hiền, bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, chẳng thành tín với bằng hữu, tự cao tự đại, cho mình có lý, cậy mình ỷ thế, lấn hiếp mọi người mong người kính nể, không biết hổ thẹn, ôm lòng kiêu mạn, khó thể giáo hóa. Nhờ chút phước đức từ đời trước, đời này làm ác phước đức mất hết, thọ mạng hết rồi, các điều ác bao vây, oán cừu dẫn dắt không sao tránh khỏi, chỉ việc tiến vào vạc lửa, thân thể tan nát, tâm thần thống khổ, bấy giờ nghĩ lại ăn năn thì đã muộn rồi!
Điều thứ năm: Người đời phóng túng lười biếng không chịu làm lành, tu sửa thân tâm; cha mẹ khuyên bảo, ngang trái chống đối như là oan gia, phụ bạc ân nghĩa không chút báo đền, phóng túng lêu lổng, rượu chè xa hoa, đần độn bướng bỉnh, chẳng chút lễ nghĩa, không thể can gián, giao tiếp lục thân quyến thuộc không chút ân tình, không nhớ ơn cha mẹ, không đoái nghĩa thầy trò bằng hữu, chỉ lo cho tự thân, không được một điều lành, không tin Phật pháp, không tin sanh tử thiện ác, muốn hại hiền nhân, phá hoại Phật pháp, ngu si mông muội tự cho thông minh, không biết từ đâu sanh đến, chết sẽ đi về đâu, bất nhơn bất thuận lại muốn trường thọ. Thương xót khuyên bảo lại không chịu nghe, khô hơi khản tiếng cũng thành vô ích. Tâm ý cố chấp không chịu thấu hiểu. Mạng chung cận kề hối tiếc đã không tu thiện, đến khi nhắm mắt ăn năn hối hận sao còn kịp nữa!
Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối. Ai hay biết được? Chỉ có đức Phật biết rõ khai thị chỉ dạy, người tuân hành rất ít, nên sanh tử không thôi, ác đạo không dứt. Người đời tạo ác như thế, nên tự nhiên có ba đường ác, chịu vô lượng khổ, xoay vần nhiều kiếp không có hạn kỳ ra khỏi, khó được giải thoát đau đớn không thể nói được. Do vậy nên có ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, như lò lửa lớn thiêu đốt thân người.
Nếu tự nhứt tâm giữ ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hành tương xứng, chí tâm làm lành không làm việc ác, thì được độ thoát, đầy đủ phước đức được trường thọ đến đạo Bồ đề. Đây là năm điều đại thiện. (Nguồn: Kinh Vô Lượng Thọ- Phẩm 35)
b/ Đời ác năm trược là gì ? Thế giới này chúng ta đang ở có năm thứ cấu nhiễm (Ngũ trược của Thế giới).
1. Kiếp trược : Đến thời đại mạt pháp, tuổi thọ con người đến lúc thấp nhất thì thành diệt kiếp, có ba tai nạn lớn.
2. Kiến trược : Trong tâm con người đầy dẫy tư tưởng ngũ chủng kiến (năm thứ thấy không chân chánh) tức là : Thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến.
3. Phiền não trược : Trong tâm con người đầy dẫy năm thứ ngu độn tức là : Tham dục, sân hận, ngu si, ngã mạn, nghi hoặc.
4. Chúng sinh trược : Sinh mạng của chúng sinh là do năm uẩn giả hợp mà thành, phải chịu sinh già bệnh chết, đủ sự thống khổ và phiền não, vĩnh viễn luân hồi trong sáu nẻo.
5. Mạng trược : Sinh mạng của chúng sinh khổ nhiều vui ít, thọ mạng như sương buổi sáng, khoảng nháy mắt thì quỷ vô thường đến, thì sinh mạng sẽ chấm dứt.
Thân chúng sinh dễ được, nhưng thân người khó được, vì con người là thông minh nhất trong các loại chúng sinh, cho nên được thân người chẳng phải dễ. Cổ đức nói :
"Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, Nước lớn khó sinh, bạn hiền khó gặp".
Bây giờ người Mỹ đều có phước báu, nếu không có phước báu thì không thể sinh vào nước Mỹ. Có người nói : ‘’ Tây phương Cực Lạc Thế Giới là nước Mỹ bây giờ.’’ Mới nghe còn có chút nghi ngờ, không tin lời nói như thế, nhưng phân tích tỉ mỉ thì thật có lý. Thế giới Cực Lạc, căn cứ tên gọi mà suy nghĩ nghĩa của nó, là vui sướng đến cùng cực, mà chẳng có chút lo lắng gì. Bây giờ khắp nơi trên thế giới chịu sự uy hiếp về chiến tranh, uy hiếp về lương thực kinh tế, mà nước Mỹ là một nước giàu mạnh, không bao giờ sợ thiếu lương thực và chẳng sợ có chiến tranh, đây là thế giới cực lạc ở nhân gian. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Đời ác năm trược: Đức Phật bảo: Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó. Phật nói Kinh này rồi, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả người, trời, A-tu-la... ở thế gian nghe Phật nói rồi đều hoan hỷ tin nhận, lễ Phật mà lui ra.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo thêm ngài Xá-lợi-phất: "Ta lại cho ông biết một tin hay này; như ta hôm nay giống như ta bây giờ đang khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của bộ Kinh này, chư Phật ở sáu phương cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của bộ Kinh này; hơn nữa không phải chỉ riêng ta khen ngợi chư Phật, mà Chư Phật cũng lại khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta nữa. Các Ngài nói: "Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni làm được những việc rất khó, ít có." Ngài thật là cao cả, Ngài thật là hiếm có, làm được những việc mà người ta không làm nổi, những việc khó khăn, ít có trên đời Ngài đều có thể làm được. Người đã nghe Kinh đều biết ý nghĩa của Thích Ca Mâu Ni; Thích Ca là Năng nhơn, Mâu Ni là Tịch mặc. Năng nhơn là giáo hóa tất cả chúng sanh. Tịch mặc là hồi quang phản chiếu tu một thứ định. Năng nhơn là động, Tịch mặc là tịnh, thường động thường tịnh, động tịnh không hai, đó gọi là tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, đã tùy duyên mà lại bất biến, đã bất biến mà lại tùy duyên. Ngài là "Vô vi mà vô bất vi, vô tác mà vô bất tác", vì thế Phật Thích Ca Mâu Ni là không thể nghĩ bàn. Không thể nghĩ bàn ở chỗ nào? - Ngài hay ở cõi Ta-bà, Ta-bà là tiếng Phạn, dịch là Kham nhẫn. Kham năng nhẫn thọ được điều gì? Kham năng nhẫn thọ được những điều đau khổ. Bởi vì ở thế giới Ta-bà chỉ có khổ mà không có vui, nhưng chúng sanh ở thế giới này có tánh nhẫn nại rất to lớn, có thể nhẫn nại được các nỗi khổ ấy, ở cảnh giới khổ mà không biết là khổ, vì thế nên gọi thế giới Ta-bà là đời ác năm trược. Thế giới Ta-bà có năm thứ trược, ác thế thì rất xấu, mà Phật đã thành Phật được, tại sao chúng ta không thể thành Phật được ư? Nhân vì chúng ta bị đời ác ngũ trược này vây hãm. Ngũ trược này giống như bùn vậy, chúng ta rút chân này lên thì chân kia bị lún xuống, rốt cuộc không có cách nào rút chân ra khỏi đời ác ngũ trược được. Nhưng Ðức Phật Thích Ca rất có bản lãnh, rất có thần thông, Ngài có thể bảo ta nhảy một cái là ra khỏi ngay. Do nhảy một cái mà được ra khỏi nên có câu: "Trong một sát-na lìa ngũ trược", trong một sát-na mà lìa được năm trược ác thế. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh A Di Đà)
+ Các việc dữ: Các việc Hung họa - Tại ương, bệnh nạn hiểm nghèo thình lình ập đến ... Thổ Ðịa đều phải bảo vệ, che chở những người như thế! Ngoài ra, còn phải chẳng để cho các việc dữ, các tai nạn bất kỳ, hoặc bệnh nan y, bệnh hiểm nghèo bất kỳ, cho đến những việc không vừa ý đến gần chỗ của các nhà đó, huống là để cho vào cửa!”
Thế nào gọi là “việc dữ”? “Việc dữ” tức là những việc không như ý, chẳng hạn như cháy nhà, hoặc bỗng dưng lại xảy ra những việc ngoài ý muốn.
“Tai nạn bất kỳ” (hoạnh sự) là những sự rủi ro mà mình không ngờ tới, như bị xe đụng, máy bay rớt, xe lửa trật đường rầy ...
“Bệnh nan y” là những căn bệnh không trị lành được.
“Bệnh hiểm nghèo bất kỳ” (hoạnh bệnh) là thình lình mắc bệnh nặng, lây lất chưa được một tiếng đồng hồ là chết.
“Những việc không vừa ý” tức là những việc không may mắn, không kiết tường như mình hằng mong đợi. Các Quỷ Vương còn chẳng để cho những việc không may xảy ra ở gần những nhà có người tu hành như thế, huống chi là các việc dữ, các tai nạn rủi ro, hoặc các bệnh tật hiểm nghèo đột ngột! Cho nên, các Quỷ Vương cùng quyến thuộc của họ thường bảo hộ những người như thế, khiến cho mọi việc của những người ấy đều được kiết tường. Vì sao tất cả mọi việc của những người đó đều được tốt lành? Bởi họ đã cúng dường Tam Bảo, biết tu hành, làm nhiều thiện sự, do đó những việc dữ không thể xảy đến cho họ được!
Ðức Phật khen ngợi Quỷ Vương rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông cùng với Vua Diêm La có thể ủng hộ các thiện nam thiện nữ như thế! Ta cũng bảo Phạm Vương, Ðế Thích hộ vệ các ông!” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ðiều phục những chúng sanh cang cuờng. "Ðiều" là điều hòa,"phục" là hàng phục. Sao gọi là "điều hòa"? Chúng ta muốn cho thức ăn có hương vị ngon lành thì phải nêm nấu sao cho năm vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn được điều hòa, vừa phải. Nếu thức ăn cay quá thì người không quen ăn cay sẽ không ăn được; chua quá thì người không thích chua sẽ không đụng đến; đắng quá thì cũng có người không thích; mà ngọt quá thì cũng có người chê, chẳng muốn ăn! Cho nên các thứ gia vị phải điều hòa, mỗi loại chỉ nêm vừa phải, không nhiều không ít, để có được mùi vị thích đáng. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tùy người - Tùy đối tượng mà giảng Pháp phù hợp: ...điều phục những chúng sanh cang cường, khiến cho họ biết được pháp khổ, pháp vui. Rồi mỗi Ngài đều sai thị giả đến vấn an Ðức Thế Tôn. Bấy giờ, Ðức Như Lai mỉm cười, phóng ra trăm ngàn muôn ức vầng mây sáng rỡ lớn... Lược giảng:
Ðiều phục những chúng sanh cang cuờng. "Ðiều" là điều hòa,"phục" là hàng phục. Sao gọi là "điều hòa"? Chúng ta muốn cho thức ăn có hương vị ngon lành thì phải nêm nấu sao cho năm vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn được điều hòa, vừa phải. Nếu thức ăn cay quá thì người không quen ăn cay sẽ không ăn được; chua quá thì người không thích chua sẽ không đụng đến; đắng quá thì cũng có người không thích; mà ngọt quá thì cũng có người chê, chẳng muốn ăn! Cho nên các thứ gia vị phải điều hòa, mỗi loại chỉ nêm vừa phải, không nhiều không ít, để có được mùi vị thích đáng.
Mọi người thường chỉ thích thưởng thức các món ăn hợp khẩu vị của mình. Tương tự như thế, về Phật Pháp thì có người thích pháp môn này, có người thích pháp môn kia. Về tín ngưỡng thì có người tin Gia Tô Giáo, có người tin Hồi Giáo, có người theo Ðạo Giáo (đạo Lão), có người theo Nho Giáo (đạo Khổng). Khổng, Lão, Phật, Gia, Hồi là năm tôn giáo lớn trên thế giới. Tuy nói là năm, nhưng trên thực tế thì chỉ là một. Vì sao lại là một? Bởi pháp mà Ðức Phật nói ra thì "mọi pháp đều là Phật Pháp," và trong đó bao hàm tất cả các pháp môn của mọi tôn giáo. Bất luận là Gia Tô Giáo, Hồi Giáo, Ðạo Giáo, hay Nho Giáo, hết thảy đều được bao gồm trong "mọi pháp," đều không ở ngoài "mọi pháp." Không một tôn giáo nào có thể nói là không có giáo pháp; bởi vì nếu nói như thế tức là ở ngoài "mọi pháp," mà ở ngoài mọi pháp" thì hoàn toàn không có một pháp nào cả!
Ðể điều phục, cảm hóa những chúng sanh cang cường, trước hết, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni không nói thẳng với họ rằng nóng giận là không tốt; Ngài chỉ nói: "Này! Nóng tánh cũng không đến nỗi nào, vì phiền não chính là Bồ Ðề. Ngươi có tánh nóng nảy đấy, song cũng chẳng sao - phiền não là Bồ Ðề, sanh tử là Niết Bàn!"
Phật làm cho họ cảm thấy:"Mình có tánh nóng nảy nhưng không phải là người xấu. Ðành rằng mình rất nóng tánh, nhưng tâm Bồ Ðề của mình cũng đâu phải nhỏ! "Thế là họ quyết định thử tu sửa tâm tánh xem sao; và càng thử thì họ càng nhận thấy rằng hễ phiền não giảm bớt thì Bồ Ðề lại gia tăng. Phiền não càng ngày càng giảm thì Bồ Ðề càng ngày càng tăng. Giảm được phiền não, thì đó chính là Bồ Ðề vậy. Cho nên, đối với những chúng sanh tánh tình cang cường, ương ngạnh, thì Ðức Phật giảng nói thứ pháp như thế.
Còn đối với những chúng sanh nhu nhược thì sao? Những chúng sanh nhu nhược tức là những kẻ nhút nhát, từ sáng đến tối họ cứ hồi hộp sợ sệt; thậm chí tiếng mèo kêu hay tiếng chó sủa cũng làm cho họ giật mình run sợ, hồn phiêu phách tán. Bất cứ một động tĩnh gì cũng có thể làm cho họ hốt hoảng được cả; cho nên, Ðức Phật phải dùng lời dịu ngọt như dỗ dành trẻ con mà vỗ về những chúng sanh nhút nhát đó:"Con đừng sợ. Hãy bình tâm mà học Phật Pháp, Phật sẽ giúp đỡ và phù hộ cho con!" Các chúng sanh ấy nghe được liền cảm thấy an ủi phần nào, trong lòng thầm nghĩ rằng lời nói của người này thật đáng tin cậy; và thế là họ dốc lòng tin tưởng Phật Pháp. Sau khi tin và học Phật Pháp, họ càng ngày càng bớt nhút nhát, càng ngày càng mạnh dạn, can đảm thêm.
Ở Hồng Kông, tôi có một đệ tử quy y vốn tánh nhút nhát. Khi chưa quy y, anh ta rất sợ ma và sợ bóng tối. Trời vừa nhá nhem tối là anh ta không dám bước chân ra khỏi cửa, tánh rất nhát gan. Cho dù trong nhà có đông người, anh ta cũng vẫn cứ nơm nớp sợ hãi, cứ cảm thấy xung quanh mình - trái, phải, trước, sau - chỗ nào cũng có ma cả. Tuy chưa bao giờ gặp ma, nhưng anh ta lại rất sợ ma! Sau khi anh ta quy y Tam Bảo, mặc dù tôi không niệm Chú cũng chẳng làm phép thuật gì cho anh ta cả, nhưng kể từ đó thì anh ta không còn thói hay sợ sệt nữa - không sợ ma mà cũng chẳng sợ bóng tối. Ban đêm ở nhà một mình cũng không sợ, đi đâu lúc trời tối cũng không sợ. Cho nên, đối với những chúng sanh không có lòng gan dạ, thì chúng ta cần phải giúp đỡ, khiến họ có can đảm.
Ngoài ra, đối với những chúng sanh hay khóc, thì quý vị nên khuyên họ chớ khóc lóc nữa, mà hãy sanh tâm hoan hỷ, vui vẻ. Tóm lại, chúng sanh thường mang nhiều thành kiến lệch lạc, tánh tình cũng thiên vị, quá quắt; cho nên chúng ta phải tìm cách làm cho họ trở về với trung đạo, giữ được mức quân bình - như thế gọi là "điều phục" vậy.
Khiến cho họ biết được pháp khổ, pháp vui. Ðức Phật có thể điều phục các chúng sanh ương ngạnh, bướng bỉnh và làm cho họ hiểu rõ thế nào là khổ, thế nào là vui. Những chúng sanh này vì ương ngạnh cho nên khổ họ cũng bất chấp mà sướng họ cũng bất cần. Thế nào là khổ, thế nào là sướng? Họ chẳng hề để ý tới! Vì tánh ương ngạnh, khổ hay sướng họ đều không sợ; họ cứ sống một cách không lo không buồn, không khổ không sướng như thế.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có khả năng làm cho các chúng sanh ương ngạnh này biết được thế nào là "chân khổ" (đau khổ thật sự) và thế nào là "chân lạc" (an vui thật sự). Rốt cuộc, cái gì là "chân khổ"? Ðọa lạc chính là "chân khổ." Bị đọa xuống địa ngục, bị đọa làm ngạ quỷ, súc sanh - đó đều là "chân khổ." Cái gì là "chân lạc"? Ðược khai ngộ, chứng quả (như quả vị A La Hán chẳng hạn), thực hành Bồ Tát Ðạo - đó đều là "chân lạc" vậy. "Khổ" vốn rất nhiều loại, "vui" cũng rất nhiều thứ, song chúng ta bây giờ biết được ý nghĩa tổng quát là được rồi. Vậy, "biết được pháp khổ, pháp vui" tức là biết được "mùi vị" của đau khổ và của an vui. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Khí thuần - Chỉ có một yếu tố - Ít phiền lão trược: Nếu chúng không kết hợp với nhau, thì chẳng có gì hư vọng. Một khi đã có chân thì liền có vọng. Không có chân thì không có vọng. Khi có vọng, thì sẽ có chân. Chân và vọng là hai khái niệm đối đãi, thuộc phạm trù tương đối. Như Lão Tử đã từng nói:
Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa, 大道廢有仁義
Trí huệ xuất, hữu đại nguỵ, 智慧出有大偽
Lục thân bất hòa, hữu hiếu từ, 六親不和有 孝慈
Quốc gia hỗn loạn, hữu trung thần. 國家昏亂有忠臣.
Khi đại đạo đã tiêu trầm thì người ta mới nói về nhân nghĩa. Khi đại đạo vẫn còn lưu hành thì chẳng có ai cần đến điều nhân nghĩa. Khi mọi người đang tu đạo, ai cũng biết rõ là không nên làm cho người khác sinh khởi phiền não. Mọi người đều biết phải tôn trọng chính mình và tôn trọng người khác, thế nên không cần phải nói về nhân nghĩa nữa.
Khi con người đều thông minh trên mức trung bình một tí, thì chẳng có ai trong đó có thể lừa gạt người khác. Chỉ khi nào có người thông minh xuất hiện và nhận thấy rằng những người chung quanh mình sao quá ngu mê. Do sự so sánh như vậy, họ liền quyết định làm trò lừa dối các người kia, ngoại trừ những người thông minh như họ ra, chẳng có ai nhận biết được chuyện đó. Thế nên khi có kẻ thông minh xuất hiện, thì có sự xảo trá hư nguỵ. Nếu họ thực hành đạo ngũ luân, năm đạo lý tôn trọng lẫn nhau giữa:
1. Vua và quần thần.
2. Cha và con.
3. Vợ và chồng.
4. Anh và em.
5. Bằng hữu,
thì chẳng có ai đả động tới chuyện cha hiền con hiếu. Nhưng khi cha không hiền, con phải tỏ ra có hiếu hơn; thì đây là lúc chữ hiếu được nói tới. Hoặc nếu khi con bất hiếu, thì cha phải càng hiền từ hơn. Do vậy, ‘khi lục thân bất hòa, thì mới cần người con có hiếu.”
Làm sao có thể biết được ai là trung thần trong thời kỳ đất nước yên bình? Ai là người phản nghịch? Khi đất nước yên bình những kẻ trung thần không bao giờ mang áp phích cổ động với dòng chữ “trung thần,” cũng không ai chụp vào mình cái mũ phản quốc. Nhưng khi quốc gia bị xáo trộn, lòng trung thành trong mỗi vị trung thần tự nổi dậy. Đó là lý do tại sao người thời nay đánh giá rất cao Nhạc Phi 岳飛. Vì khi đất nước bị xâm lăng, ông dám đương đầu chống trả.
Đạo lý trong đoạn kinh nầy cũng giống như điều của Lão Tử muốn nói. Nếu chỉ có một yếu tố, thì sẽ không có gì trở nên hỗn trược. Nhất chân pháp giới, hoặc Như Lai tạng, hoặc hư không – không bao giờ sinh khởi thành hỗn trược. Nhưng vì chúng kết hợp với nhau và hình thành một khối, nên hư vọng sanh khởi. Điều nầy chứng minh rằng trong mọi pháp, đều có cái chân cái nguỵ, cái giả cái thật. Thế nên, ngay cả trong Như Lai tạng, cũng có cái hư vọng phát sinh từ cái chân thật. Cũng tương tự như vậy, trong thân thể con người vốn là vật hữu hình, thể rắn; nhưng bên cạnh đó chúng ta còn có một cái bóng. Trong pháp ẩn dụ, cái bóng biểu tượng cho hư vọng sinh khởi từ cái chân thật; cái bóng biểu tượng cho vô minh. Từ vô minh mà các vấn đề khác phát sinh. Và ở đây, cái hư vọng phát sinh từ lớp thứ ba, được gọi là phiền não trược. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4- Chương IV)
Phát tâm Bồ Đề có bốn thứ:
- Một là, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, hoặc được coi thấy, nghe thấy những việc bất khả tư nghị của chư Phật, Bồ Tát, liền sinh tâm cung kính, và nghĩ rằng: “Những sự của Phật, Bồ Tát là bất khả tư nghị, nếu Phật, Bồ Tát chứng được sự bất khả tư nghị ấy, thì ta đây cũng quyết sẽ chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, cho nên ta dốc lòng, nhớ nghĩ đạo Bồ Đề, và phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
- Hai là, lại có người không được coi thấy những sự bất tư nghị của chư Phật, Bồ Tát mà chỉ nghe thấy cái tạng bí mật của chư Phật, Bồ Tát liền sinh tâm cung kính tin tưởng, cầu đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, và Ma Ha Bát Nhã, cho nên phát tâm Bồ Đề.
- Ba là, lại có người không được coi thấy những việc bất tư nghị của chư Phật, Bồ Tát cũng không được nghe pháp, mà do vì khi coi thấy pháp diệt, rồi trong lòng nghĩ rằng: “Vô thượng Phật pháp, hay diệt trừ được vô lượng khổ não cho chúng sinh, làm ích lợi lớn lao cho chúng sinh, chỉ có chư Phật, Bồ Tát, mới hay làm cho Phật pháp được trường tồn bất diệt, ta ngày nay cũng nên phải phát tâm Bồ Đề, khiến cho các chúng sinh, xa lìa phiền não, thệ nguyện thân này của ta, dầu cho phải chịu mọi sự đại khổ não đi chăng nữa, ta quyết giữ gìn Phật pháp, khiến cho Phật pháp được trường tồn mãi mãi ở thế gian, cho nên ta phát tâm Bồ Đề.
- Bốn là, lại có người không được coi thấy chư Phật, Bồ Tát, không được nghe pháp, khi pháp diệt cũng không được thấy, mà chỉ thấy tất cả chúng sinh ở trong đời ác trược, đủ mọi thứ phiền não, tham dục, giận tức, ngu si, không thẹn, không hổ, bỏn xẻn, tật đố, ganh ghét, nghi ngờ, lười biến v.v…
Thấy như thế rồi, liền nghĩ rằng: “Trong đời ác trược này, chúng sinh chẳng chịu tu thiện, tâm Nhị thừa còn không phát, nữa là tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, ta nay phải nên phát tâm Bồ Đề, phát tâm Bồ Đề rồi, liền dạy bảo tất cả chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác”.
Bấy giờ Ngài Hỷ Vương Bồ Tát, lại bạch Phật rằng:
- Lạy Đức Thế Tôn! Bồ Tát tri ân báo ân bằng cách tự phát tâm Bồ Đề và dạy bảo tất cả chúng sinh đều phát tâm Bồ Đề. Song Đức Như Lai thuở xưa khi còn phải sinh tử, thoạt mới phát tâm Bồ Đề, là do nhân duyên gì?
Phật dạy:
- Thiện nam tử! Về đời quá khứ lâu xa, kiếp số nhiều không thể kể tính được, khi ta còn ở trong vòng sinh tử, do phiền não trọng chướng, tạo nên những nghiệp ác ở nơi thân, khẩu, ý, nên phải đọa lạc vào các địa ngục như: Địa ngục A ha ha, địa ngục A ba ba, địa ngục A đạt đa, địa ngục Đồng phủ, địa ngục Đại đồng phủ, địa ngục Hắc thạch, địa ngục Đại hắc thạch, cho đến địa ngục Hỏa xa.
Ta nhớ khi ta phải đọa vào địa ngục Hỏa xa, ta cùng với hai người bạn phải kéo một cái xe lửa, bốc cháy ngùn ngụt, quỷ đầu trâu tên là A Bàng, ngồi ở trên xe, mắm miệng, nghiến răng, trợn mắt, miệng, mắt, tai, mũi đều phun ra khói lửa, thân thể to lớn, tay chân gân guốc, hình sắc tía đen, tay cầm gậy sắt, đánh đập luôn luôn, mặc dầu ta bị đánh đập đau đớn, nhưng vẫn cố sức kéo, lúc đó hai người bạn của ta, vì hơi sức yếu đuối, kéo không nổi, nên bị quỷ đầu trâu A Bàng, lấy đinh ba bằng sắt, đâm vào bụng, lấy gậy bằng sắt đập vào lưng, máu phun ra như suối chảy, đau đớn khó nhẫn, những người ấy cất tiếng kêu gào rất thảm thiết, người thì kêu cha mẹ, người thì kêu vợ con. Nhưng dầu có kêu gào như thế, cũng chẳng ích lợi gì đối với mình. Lúc ấy, ta thấy những người bạn của ta chịu sự khổ não như vậy, lòng ta sinh ra thương xót. Nhân lòng sinh tưởng thương xót ấy, cho nên ta phát tâm Bồ Đề, vì những người chịu tội ấy, mà khuyên bảo quỷ đầu trâu A Bàng rằng:
- Những người phải chịu tội đây, thực đáng thương xót, xin ông hãy rũ lòng nới tay, đừng nên đánh đập họ tội nghiệp.
Lúc ấy quỷ đầu trâu A Bàng, nghe ta nói như thế, lòng sinh giận tức, dùng đinh ba bằng sắt đâm vào cổ ta, chết liền tại chỗ, ta liền được thoát khỏi cái tội trăm kiếp phải đọa lạc ở nơi địa ngục Hỏa xa, chính vì lúc đó ta phát được tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác vậy.
Phật bảo Ngài Bồ Tát Hỷ Vương:
- Người kéo xe lửa tức là thân ta ngày nay, nhân phát tâm Bồ Đề, mà chóng được thành Phật.
Thế nên biết: Tất cả chúng sinh phát tâm Bồ Đề, sự đó chẳng phải một, hoặc nhân lòng từ bi, hoặc nhân lòng giận tức, hoặc nhân lòng bố thí, hoặc nhân lòng bỏn xẻn, hoặc nhân lòng vui mừng, hoặc nhân phiền não, hoặc nhân ân ái ly biệt, hoặc nhân sự oán ghét gặp gỡ, hoặc nhân gần gũi bạn lành, hoặc nhân bạn ác, hoặc nhân được coi thấy Phật, hoặc nhân được nghe pháp… cho nên biết: Tất cả chúng sinh, phát tâm Bồ Đề, mỗi mỗi chẳng phải đồng nhất.
Hỷ Vương nên biết! Bồ Tát Ma Ha Tát, tri ân báo ân, sự đó như thế. (Nguồn: Phẩm Phát Tâm Bồ Đề 4 - Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Tháp nhu cầu của con người:
Hệ thống nhu cầu của Maslow thường được mô tả theo hình dạng của một kim tự tháp với những nhu cầu cơ bản nhất, lớn nhất ở phía dưới và nhu cầu tự thể hiện và siêu việt ở phía trên. Nói cách khác, các nhu cầu cơ bản nhất của cá nhân phải được đáp ứng trước khi họ có động lực để đạt được nhu cầu cấp cao hơn.
Bộ não con người là một hệ thống phức tạp và chứa các quá trình song song chạy cùng một lúc, do đó nhiều động lực khác nhau từ các cấp bậc khác nhau của Maslow có thể xảy ra cùng một lúc. Maslow đã nói rõ ràng về các cấp độ của tháp nhu cầu và sự hài lòng của họ bằng các thuật ngữ như "tương đối", "chung" và "chủ yếu".[9][10]
5 tầng trong Tháp nhu cầu của Maslow (Từ dưới lên):
Tầng thứ nhất: Các nhu cầu căn bản nhất thuộc về "thể lý" (physiological) - thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) - cần có cảm giác được tôn trọng, kính mến, được tin tưởng.
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân cường độ cao (self - actualization) - muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt. ....... (Nguồn: Tháp nhu cầu của Maslow - https://vi.wikipedia.org/)
+ Thầy tà hay Ngoại đạo: Nhân đây, người viết xin giới thiệu bảy điểm rất quan trọng trong việc phân biệt chánh tà:
1. Vị Thầy lấy việc trao đổi chồng vợ, nam nữ hoang dâm, buông thả vô độ, làm mồi nhử để thu hút đồ chúng, và xem như là phương tiện để cứu thế gian; đó là tà.
2. Vị Thầy khơi dậy lòng tham của đồ chúng bằng cách nói rằng mình có thể dùng bùa, chú, và thần tài để giúp họ trở nên giàu có; đó là tà.
3. Vị Thầy khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp việc giết hai chúng sanh và ăn thịt chúng sanh, còn nói rằng mình có thể dùng bùa chú để cứu độ vong linh của những chúng sanh bị ăn thịt; đó là tà.
4. Vị Thầy thực hành các loại khổ hạnh kỳ dị, tự làm thương tổn để tác động chúng sanh, và gọi đó là chịu khổ thay cho chúng sanh; đó là tà.
5. Vị Thầy dùng thần thông và các điều kỳ dị làm "công cụ" để thu hút những chúng sanh có lòng hiếu kỳ; đó là tà.
6. Vị Thầy tự ý thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu hành trong Phật Giáo và giải thích lệch lạc ý nghĩa của "tín, giải, tu, chứng," còn tự cho mình là giáo chủ; đó là tà.
7. Vị Thầy tự lập ra tông phái rồi tự xưng là giáo chủ mà chính mình lại không có căn bản chân thật về đạo lý Phật Giáo;
Chỉ cần vi phạm một trong các điều trên đều không phải là thầy Chánh => đó là tà đạo. (Nguồn: Chánh Pháp là gì - HT Tuyên Hóa giảng giải)
+ Đoạn tâm dâm dục: ĐỐI VỚI NGƯỜI TU HỌC, TRONG QUAN HỆ VỢ CHỒNG PHẢI LÀM SAO MỚI ĐÚNG?
Có rất nhiều đồng tu khi đọc xong phần Kinh văn của Kinh Lăng Nghiêm, trong này nói rằng: " Người tu học cần phải đoạn tâm dâm dục, vì chính cái tâm dâm dục này là chướng ngại rất lớn trên con đường tu học", thì họ đến hỏi tôi rằng:
" Thưa sư phụ! Việc này phải làm sao?".
Tôi hỏi họ:" Nữ Phật tử, cô rất thương yêu chồng mình phải không?".
Cô ấy nói đúng rồi, tôi lại nói:
" Tình yêu này là giả đấy".
Cô ấy vô cùng ngạc nhiên mà hỏi tôi rằng:
" Tình yêu này sao lại là giả được chứ sư phụ?".
Tôi nói:
" Vì sao không thể là giả được? Cô có thể yêu thương chồng mình được mấy năm? Cứ cho là cô cùng với chồng mình sống với nhau hết cuộc đời này đi, sau khi chết rồi thì phải làm sao? Sau khi chết rồi thì mỗi người đi một ngã, dù có gặp lại nhau cũng chẳng thể nhận ra nhau, cũng xem như chẳng hề quen biết, rồi anh ta tiếp tục lấy người khác làm vợ, còn cô cũng như vậy, cũng tiếp tục lấy người khác làm chồng. Vậy đây có phải là tình yêu thật sự hay không?".
Cô ta hỏi:
' Thưa sư phụ! Vậy tình yêu thật sự là sao?".
Tôi nói:
" Tình yêu thật sự phải được nối tiếp mãi mãi, nó chẳng bị giới hạn bởi không gian và thời gian, cũng chẳng bị đứt đoạn qua từng đời từng đời. Nếu cô có thể vãng sanh Cực Lạc Tây Phương, thì tình yêu này của cô mới có thể gọi là chân thật. Vì sao? Vì khi đó cô mới có thể thương yêu và chăm sóc cho chồng cô mãi mãi được. Còn như cô không thể vãng sanh Cực Lạc, thì khi hết một đời này tình yêu của cô theo đó cũng chấm hết luôn".
Học Phật, nếu hai vợ chồng cùng nhau học Phật, cùng nhau niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc, vậy thì quá tốt, vì cả hai đều hiểu rõ đạo lý này nên nhất định sẽ tinh tấn tu học, mai sau cùng nắm tay nhau đi đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, vĩnh viễn được ở bên nhau, bằng không thì không có cách nào làm được.
Nếu như trong hai vợ chồng, chỉ có một người tin Phật, còn một người không tin, vậy thì người tin Phật cần phải nổ lực tinh tấn tu tập nhiều hơn nữa, để mai sau được vãng sanh Cực Lạc, tương lai bất luận là người vợ hay người chồng của mình lưu lạc vào đạo nào trong lục đạo thì mình đều có thể biết được, từ đó mới có thể thường xuyên chiếu cố, thường xuyên chăm sóc, thường xuyên bảo vệ. Đây mới thật sự là tình yêu chân thật.
Cô ta nói:
" Thưa sư phụ! Con lấy chồng khi tuổi còn rất trẻ, là vợ chồng với nhau nên con không thể đoạn được dâm dục".
Tôi nói:
" Về sự thì không sao, nhưng không thể có tâm. Do cô có cả hai sự lẫn tâm, cho nên cô mới bị ô nhiễm, tu học rất khó đạt được thành tựu".
Cô ta nói:
" Thưa sư phụ! Nếu không có tâm thì rất khó rất khó".
Tôi nói:
" Nếu dễ như vậy thì không phải mọi người đều sớm đã thành Phật, người người đều vãng sanh rồi sao? Khó, nhưng khó cũng phải quyết tâm mà làm".
Vậy thế nào mới có thể làm được? Giác ngộ rồi thì sẽ làm được. Còn như mình vẫn tiếp tục mê muội, thì không có cách nào làm được. Cho nên, chúng ta phải biết giác ngộ, phải biết thế gian này là huyễn hoá không phải thật, chúng ta sống trên thế gian này người người đều biết tương lai đều sẽ phải chết, chẳng có ai là sống mãi cả. Tương lai là bao lâu? Ai có thể đảm bảo chính mình sống được bao nhiêu năm chứ? Trong Kinh đức Phật bảo: "Sinh mệnh con người chỉ trong một hơi thở, một hơi thở ra mà không hít vào nữa thì đã qua đời thứ hai". Nếu thật sự thấu rõ được mạng người chỉ trong một hơi thở, thì Phật gọi người này là "Người giác ngộ".
Giác ngộ rồi thì phải nổ lực tu học, nổ lực niệm Phật. Trong cuộc sống hằng ngày quan hệ vợ chồng, nên cố gắng chỉ dụng sự, đừng dụng tâm, trong tâm tạm thời buông xuống đoạn tình chấp này, cố gắng niệm Phật cho thật tốt để tương lai được vãng sanh về Cực Lạc, chỉ khi về đến Cực Lạc rồi thì mới lại nhấc lên. (Nguồn: Quan hệ vợ chông - PS Tịnh Không)
+ Thấy Nghe Hiểu Biết/ hay biết - Thể trí tuệ - Hoạt động của trí tuệ. Các căn tánh - Tánh Ý căn
A-nan, ví như có người mệt nhọc thì ngủ, ngủ rất sâu rồi thức dậy, nhìn trần cảnh để nhớ lại (những gì đã hiện ra trong giấc ngủ), những gì không nhớ được thì gọi là quên. Các thứ sinh trụ dị diệt điên đảo đó, quen thói thu nạp vào bên trong mà không lẫn lộn nhau. Đó gọi là Ý căn. Cả ý căn cùng cái mỏi mệt đều là thể tính bồ-đề do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.
Giảng: .... “Các thứ sinh trụ dị diệt điên đảo đó,”– đây là các thứ điên đảo trong dòng tâm thức, là bốn tướng sinh, trụ, dị, diệt. ....
“Quen thói thu nạp vào bên trong.” Tâm thức thu nạp các trần tướng sinh, trụ, dị, diệt, trong khi đang ngủ. Những tướng trạng nầy xuất hiện trở lại trong bộ nhớ của con người, “mà không lẫn lộn nhau.” Tiến trình sinh, trụ, dị, diệt của niệm tưởng trong tâm thức hoàn toàn giống như sóng trong nước.
“Đó được gọi là ý căn.” Trong sáu giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; nay Ý được đề cập. “Cả Ý căn cùng cái mỏi mệt đều là thể tính bồ-đề do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.” Đây cũng là sự chăm chú, tính diên trì trong chân tánh bồ-đề khiến phát sinh ra tướng mỏi mệt.
Kinh văn: Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết bên trong. Thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược vào trong. Dòng nầy đi vào nơi không cùng tận, gọi là cái Ý hay biết.
Giảng: “Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết bên trong.” Các thứ vọng trần của tâm thức nằm ngay trong tâm. Tâm phan duyên chính là đối tượng của sinh diệt. Cũng có những pháp không phải là đối tượng của sinh diệt nhưng pháp do tâm phan duyên chính là pháp sinh diệt, đó chính là vọng trần, tánh hay biết tập hợp và trú ở bên trong vọng trần nầy, và “Thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược vào trong.” Vọng trần của cái thấy, cái nghe quay trở lại với tâm ý thức (thức thứ 6). “Dòng nầy đi vào nơi không cùng tận.” Trước khi dòng nầy đến được nơi chốn, có nghĩa là trước khi dòng tâm thức với cái thấy cái nghe quay trở lại đến nhập vào thức thứ tám, “gọi là cái ý hay biết.”
Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và ý thức = Thức thứ 6, chính là tính Giác tri của Ý căn. “Trước khi dòng nầy đến được nơi chốn,” đây cũng gọi là dòng nghịch lưu. Dòng nghịch lưu là gì? Khi tâm phan duyên khởi niệm, như thể có một dòng chảy ngược lại vào tâm thức. Trước khi dòng chảy ngược nầy đến nhập vào thức thứ 8 (cập địa), thì có phát sinh một cái ý hay biết (tánh Giác tri) ở trong thức thứ 6.
Kinh văn: Cái ý hay biết nầy rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia thì rốt ráo không có tự thể.
Thật vậy, A-nan nên biết cái Ý căn hay biết như thế, không phải do từ nơi thức, nơi ngủ mà đến; không phải do nơi sinh, nơi diệt mà có; không phải từ nơi ý căn mà ra, cũng không phải từ nơi hư không mà phát sinh.
Giảng: “ Thật vậy, A-nan– từ đạo lý vừa được giải thích, A-nan, ông nên biết cái ý căn hay biết như thế – Tánh hay biết – không phải do từ nơi thức, nơi ngủ mà đến; .....
Vì cớ sao? Nếu (cái ý căn hay biết) từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ? Nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hoá như không có rồi, thì lấy cái gì mà biết là diệt? Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh sẽ không có cái diệt, lấy cái gì mà biết là sinh?
“Vì cớ sao? Nếu (cái ý căn hay biết) từ nơi thức mà đến”– Tại sao như vậy? Nếu tính hay biết từ nơi thức mà đến,– “thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi.” Lẽ ra nó phải biến mất khi người ta ngủ, “Còn lấy cái gì làm cái ngủ?” Nếu tính hay biết không hiện hữu khi người ta đang ngủ, thì thế nào là nghĩa của ngủ? “Nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hoá như không có rồi.” Khi diệt, tính hay biết đó sẽ không có nữa rồi, “lấy cái gì mà biết là diệt?” Còn ai là người biết được cái diệt? “Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh sẽ không có cái diệt, lấy cái gì mà biết là sinh?” Trong trường hợp đó, tính hay biết phải biến mất khi có cái sinh, còn nếu không có tính hay biết, làm sao mà biết được là có cái sinh?
Kinh văn: Nếu do ý căn[9] mà ra, thì hai tướng thức ngủ thay đổi lẫn nhau nơi thân thể, nếu rời hai tướng ấy ra, thì cái ý hay biết ấy cũng đồng như hoa đốm giữa hư không, rốt ráo không có tự tánh.
Nếu (cái ý hay biết) do hư không mà sinh thì tự hư không ấy biết, có quan hệ gì đến chỗ thu nạp (ý nhập) của ông?
Do vậy nên biết, ý nhập là hư vọng, vốn không phải tính nhân duyên, chẳng phải tính tự nhiên.
Giảng: “Do vậy nên biết, ý nhập là hư vọng.” Ý nhập cũng là hư vọng, không thật. “Vốn không phải tính nhân duyên,”– Nó chẳng phải phát sinh từ tính nhân duyên– “chẳng phải tính tự nhiên.”– Vậy thì, rốt ráo, tại sao nay quý vị lại có được tánh hay biết? Nó phát ra từ sự chăm chú trong tánh chơn như nhiệm mầu của Như Lai tạng khiến phát sinh ra tướng mỏi mệt....(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
* Tóm lược của Nhân trắc học:
Tạo nghiệp xấu ác hao tổn phúc báo:
+ Hao tổn tài sản: Trong kinh Thiện Sanh, Đức Phật rất quan tâm đến pháp tu dành cho Cư sĩ, xin giới thiệu với các Bạn một đoạn kinh văn:
“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương; thì đời này tốt đẹp và cả đời sau cũng được quả báo tốt đẹp; đời này có căn cơ và đời sau có căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả bậc nhất , sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện.
1/. “Này Thiện Sinh, nên biết, hành bốn kết là: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ.
2/. “Thế nào là bốn trường hợp ác? Đó là: Tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Ai làm những việc ác theo bốn trường hợp đó sẽ bị hao tổn.
Nói như vậy xong, Phật lại nói bài tụng ...
... Sáu nghiệp hao tổn tài sản: Này Thiện Sinh, sáu nghiệp tổn tài là: 1. Đam mê rượu chè. 2. Cờ bạc. 3. Phóng đãng. 4. Đam mê kỹ nhạc. 5. Kết bạn với người ác. 6. Biếng lười. Phật cũng dậy chi tiết sự tai hại của sáu nghiệp này .... (Nguồn: Trích Kinh Thiện Sanh)
+ Hao tổn phước báo: Người xưa khuyên rằng, hành thiện sẽ tích được phúc báo. Nhưng trong cuộc sống, có rất nhiều việc mà chúng ta vô ý làm, không những không tích được phúc báo mà còn khiến phúc báo bị hao tổn mất. Dưới đây là 6 hành vi khiến phúc báo của một người bị hao tổn nhanh nhất mà một vị Hòa thượng khuyên bảo!
1. Tức giận, oán giận, cáu kỉnh:
2. Xung đột với cha mẹ, người bề trên:
3. Oán trời trách người, bàn lộng thị phi, ghen ghét người khác.
4. Khoe khoang, khoa trương bản thân:
5. Nói điều xấu, điều không đúng về người khác:
6. Thường xuyên sát sinh. (Nguồn: Hành vi hao tổn phước báo_HT Tịnh Không)
+ Nghiệp xấu ác hao tổn phước báo: Người xưa khuyên rằng, hành thiện sẽ tích được phúc báo. Nhưng trong cuộc sống, có rất nhiều việc mà chúng ta vô ý làm, không những không tích được phúc báo mà còn khiến phúc báo bị hao tổn mất. Dưới đây là 6 hành vi khiến phúc báo của một người bị hao tổn nhanh nhất mà một vị Hòa thượng khuyên bảo!
1. Tức giận, oán giận, cáu kỉnh:
Đại sư Ấn Quang khuyên bảo: “Người phụ nữ không hay tức giận, thì con cháu sống thọ hơn. Phụ nữ thường xuyên tức giận cáu kỉnh, sinh con sẽ khó nuôi.”
Phát giận là điều cứu không được. Tức giận chính là: “Lửa thiêu rừng công đức”. Chỉ một cơn lửa giận, có thể thiêu cháy hết cả phúc đức. Người xưa thường khuyên rằng: “Oán giận một lần đối với một người bình thường, sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 100 kiếp. Oán giận một lần đối với cha mẹ, người lớn tuổi, người Đại Đức, sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 1000 kiếp.” Hậu quả rõ ràng nhất là: “Phúc mỏng mệnh nông”.
2. Xung đột với cha mẹ, người bề trên:
Chống đối, mâu thuẫn với cha mẹ, người đã sinh ra mình, nuôi mình lớn lên, che chở bảo vệ cho mình khi hoạn nạn, khó khăn, vì mình có thể hy sinh cả thân mạng... Là việc đứng đầu trong những việc làm: “Tổn phúc bại lộc”. Vô luận là cầu cái gì cũng đều không đạt được, ngàn vạn lần cầu cũng uổng công, bởi vì tích phúc không có mà tổn phúc lại nhanh. Sự việc, nhân duyên, làm việc đều không thuận… Nếu như công việc không thuận lợi, cảm tình thống khổ, lập tức hiếu thuận với cha mẹ, cha mẹ vui mừng thì hết thảy Thiên Nhân, quỷ Thần đều sẽ đến bảo hộ. Người không chống đối, không có mâu thuẫn với cha mẹ, thì công việc sẽ thuận lợi, có nhân duyên tốt đẹp. Nếu như từ nhỏ đã không có mâu thuẫn gì với cha mẹ, thì cho dù xuất thân trong gia đình nghèo khó, sau này lớn nên cũng có thể trở thành người có sự nghiệp.
Người dùng tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ, tương lai tất sẽ giàu có, khá giả. Hiếu thuận, nhưng không dùng vật phẩm tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ, thì cho dù làm đại quan cũng sẽ thiếu hụt tài phú. Nói xấu, xuyên tạc bậc Thánh Hiền, Đại Đức, một câu làm tổn hại 100 thiện, làm hỏng hết huyết mạch phúc báo của gia đình.
3. Oán trời trách người, bàn lộng thị phi, ghen ghét người khác.
Những điều này làm tổn hại đức khí và hòa khí của trời đất, tài vận sẽ bị hủy diệt. Nếu như không có của cải của tổ tiên che chở, thì nhất định sẽ bần cùng, làm việc không thuận. Oán trời trách người, một lần sẽ làm tiêu tan ba thiện. Đại sư Ấn Quang nói: “Người gặp nghịch cảnh mà không oán trời trách người, thì nhất định sẽ có hậu phúc và con cháu thịnh vượng.”
Ghen ghét châm chọc, nói xấu người khác cái gì, thì tương lai cũng sẽ phải chịu như thế!
4. Khoe khoang, khoa trương bản thân:
Khoe khoang bản thân, ở đâu cũng đề cao mình, cũng tự mãn, dần dần sẽ khiến quỷ Thần ghen ghét mà phá bỏ. Cho nên, khoe khoang cái gì thì tương lai sẽ bị mất đi thứ đó.
5. Nói điều xấu, điều không đúng về người khác:
Nói những điều xấu, điều không đúng về người khác, là làm tổn thương đến hòa khí giữa trời và đất, chiêu mời tai họa của quỷ Thần giáng xuống. Hơn nữa, còn dùng những lời nói đồn đại không đúng sự thật, để khoa trương bản thân, cố ý hạ thấp người khác, khiến cho người bị nói tức giận khó chịu, thì làm sao có thể sống bình an đây?
6. Thường xuyên sát sinh:
Sát sinh, là hành vi đứng đầu trong những hành vi làm hao tổn phúc báo nhanh nhất. Trong cuộc sống hàng ngày, sát sinh là việc khó “đoạn tuyệt” được, nhưng nếu không nhất định phải sát sinh, thì chúng ta hãy hạn chế sát sinh. Bởi vì, sát sinh chính là cách làm hao tổn dần phúc báo của bản thân. Đến khi đã hưởng hết phúc báo từ đời trước, thì chúng ta sẽ phải chịu nghiệp báo của sát sinh gây ra. (Nguồn: Hành vi hao tổn phước báo_HT Tịnh Không)
+ Mười điều bị tổn phước báu
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Do gốc mười điều ác, ngoại vật còn suy giảm huống gì nội pháp. Thế nào là mười? Là sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói thêu dệt, nói lời ác, nói hai lưỡi đâm thọc gây rối đôi bên, tật đố, sân hận, tà kiến.
1. Do quả báo của sát sanh nên thọ mạng của chúng sanh rất ngắn.
2. Do quả báo trộm cắp nên chúng sanh sanh ra liền bị nghèo đói.
3. Do quả báo của dâm dục nên gia đình chúng sanh không trinh bạch.
4. Do quả báo nói thêu dệt, nên đất đai không bằng phẳng.
5. Do quả báo của nói hai lưỡi đâm thọc nên đất đai sanh gai góc.
6. Do quả báo nói lời ác nên có nhiều ngôn ngữ.
7. Do quả báo tật đố nên lúa thóc không dồi dào.
8. Do quả báo của sân hận nên có nhiều vật uế ác.
9. Do quả báo của tà kiến nên tự nhiên sanh trong tám địa ngục lớn.
10. Do quả báo của mười điều ác này nên khiến vật bên ngoài bị suy giảm, huống chi vật bên trong.
Thế nên, các Tỳ-kheo, nên nhớ nghĩ xả bỏ xa lìa mười pháp ác, tu hành mười pháp lành. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.(Nguồn: Kinh Tăng Nhất A Hàm – Tập III)
+ Tu hành theo tuổi - Giai đoạn vận trình đời người:
Hôm qua Quán Trưởng nói chuyện với tôi về Khổng Lão Phu Tử. Đức học của Phu Tử có từng giai đoạn rất rõ ràng, đây là tấm gương tốt cho chúng ta. Lão Phu Tử nói “Tam thập nhi lập”. Lập cái gì? Lập chí hướng! Lập chí theo nhà Nho nói giống như Phật pháp của chúng ta nói phát tâm. Phu Tử lập chí là chí đối với sự học, suốt đời theo nghiệp học vấn. Hôm nay chúng ta lập chí là độ khắp chúng sinh, chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, chúng ta đích thực lập chí này. Bốn hoằng thệ nguyện là lập chí, chúng ta có thật sự lập được không?
Nhà Nho nói nếu không lập chí thì việc gì cũng không thành tựu được. Vì sao? Bởi vì chúng ta không có phương hướng, không có mục tiêu, dù cho có nỗ lực cũng không thể có kết quả. Pháp xuất thế gian so với pháp thế gian càng phải nghiêm túc hơn nhiều, chúng ta không phát nguyện thì làm sao hành? Cho nên trước tiên phải phát nguyện, phát tâm Bồ-đề chính là phát đại nguyện. Quá trình đức học của Phu Tử quả là tấm gương cho chúng ta.
“Tứ thập nhi bất hoặc”. Đến tuổi này là Ngài không bị mê hoặc, không bị cảnh giới bên ngoài lôi kéo, vì Ngài không còn mê muội.
“Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”. Biết mệnh trời là ý nghĩa gì? Là Ngài biết biết rõ nhân duyên, quả báo; biết tất cả chúng sinh đều là hiện tượng nhân duyên, quả báo tuần hoàn tương tục.
“Lục thập nhi nhĩ thuận”. Là tâm an định, tâm thanh tịnh hiện tiền. Kinh Kim cang nói: “Tín tâm thanh tịnh thì sinh thật tướng”. Trí tuệ chân thật hiện ra. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng nói trong Đàn kinh:
Nếu người thật tu đạo
Không thấy lỗi thế gian.
Tai họ nghe nhưng không thấy lỗi của thế gian. Trong kinh Hoa nghiêm, Đồng tử Thiện Tài tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức, cũng không thấy lỗi thế gian. Cảnh giới này là cảnh giới tai đã thuận.
“Thất thập nhi tùy tâm sở dục”. Là đến bảy mươi tuổi công phu thành tựu. Giữ tâm như thế nào? Là tâm làm theo ý muốn nhưng không vượt qua phép tắc. Thế nào là phép tắc? Là hoàn toàn tương ứng với pháp tánh, tuyệt đối không trái với pháp tánh. Cũng chính là nói theo ý muốn mà Ngài tự nhiên hợp tình, hợp lý, hợp pháp. Điều này thật vi diệu, đạo Phật chúng ta nói là “đại tự tại”, cuộc sống tự tại, hành vi xử sự, đối nhân xử thế cũng tự tại. Đây chính là nói “lợi ích thật sự”, “thọ dụng thật sự”. Phu Tử làm được, chúng ta là người học Phật thì phải đạt đến một cách nhanh chóng và viên mãn... (Nguồn: Ba phúc - PS Tịnh Không giảng)
+ Tu hành theo Phật pháp: ... Bởi vì, trọng tâm tu học Phật pháp là thiền định, là tâm thanh tịnh. Nếu như tâm bạn luôn nghĩ đến hoàn cảnh bên ngoài rồi phân biệt nó thì đến khi nào bạn mới đạt được định? Sẽ không bao giờ đạt được mục đích ấy!.....
Bạn muốn thành tựu thiền định, thành tựu tâm thanh tịnh thật sự thì hoàn toàn không duyên theo cảnh bên ngoài, trở lại duyên bên trong; đây là Phật pháp cao minh; vì thế Phật pháp được gọi là “nội học” là dạy bạn không phan duyên bên ngoài. Cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng được; người tốt cũng được, người xấu cũng chẳng sao, bạn không cần để ý. Bạn đối với cảnh bên ngoài tâm luôn chân thật cung kính, thuận cảnh cũng như thế mà nghịch cảnh cũng như vậy; đối xử người thiện và người ác bình đẳng như nhau, tuyệt đối không được phân biệt, chỉ có tâm chân thành. Bạn vận dụng được tâm này thì không những người tốt, người thiện ca ngợi bạn mà người xấu cũng tán dương bạn; người xấu được bạn cảm hóa, đoạn ác tu thiện. Vì thế, Lục Tổ nói rất hay:
Nếu người thật tu đạo
Không thấy lỗi thế gian.
Người thường thấy lỗi thế gian là tự rước họa vào thân. Ngày nay, chúng ta mắc chứng bệnh nặng này rất phổ biến; từ sáng đến tối luôn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình. Khi nào chúng ta không thấy lỗi người khác mà chỉ thấy lỗi mình thì chúng ta thành công. Công phu tu tập của bạn đạt được hiệu quả, bạn được thọ dụng thật sự.
Người khác thì thế nào? Họ tự có nhân quả của họ, quan trọng là chính mình. Nhân quả của họ, bạn không thể chịu thay cho họ, cũng không thể giúp họ thay đổi. Huống gì ở thời buổi này, ai chịu nói lỗi của người khác? Người xưa cũng không nói. Chúng ta đọc Lễ ký, tác phẩm đời Hán ghi, người nào nói lỗi của bạn? Chỉ có cha mẹ của bạn và thầy giáo của bạn. Vì họ có trách nhiệm dạy dỗ nên mới nói lỗi của bạn, bạn không được cãi lại. Bạn nói lỗi của bạn đồng học thì bị họ oán hận, thù hiềm rình chờ cơ hội báo thù. Do đó, ai chịu nói lỗi cho mình? Không có người nào chịu.
Phật, Bồ-tát giảng kinh, thuyết pháp một cách khéo léo để chúng ta nghe rồi nghĩ lại, mình có lỗi hay không, nếu có lỗi thì hãy mau tự mình phản tỉnh; đây gọi là “có lỗi thì sửa, không có lỗi thì khen ngợi”. Các ngài không nói thẳng lỗi của chúng ta mà các ngài chỉ nói một cách khéo léo để chúng ta tự mình phản tỉnh, tự giác ngộ, vì tâm của các ngài thanh tịnh. Vì thế trong kinh, luận nói lỗi lầm của hàng phàm phu rất nhiều, nhưng trên thực tế Đức Phật chẳng thấy lỗi lầm của người nào; đây là sự tài tình trong cách dạy học của Đức Phật nên Ngài chẳng mất tâm thanh tịnh.
Chúng ta phải hiểu rõ những điều này để tự mình phản tỉnh, hiểu được lòng từ bi chân thành của chư Phật, Bồ-tát thật bao la. Chỉ cần chúng ta tự nỗ lực, tu hành đúng lời dạy của các ngài, không cần quan tâm đến hoàn cảnh thì tự nhiên có Phật hộ niệm; Hộ pháp, Thiện thần ủng hộ chúng ta. Chúng ta không cần lo lắng có người đến phá hoại, gây chướng ngại. Bằng không, dù người khác không đến gây chướng ngại mà chính mình lại tự gây chướng ngại trước. Chúng ta nghĩ làm việc gì thì đó chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm hỏng chính mình trước tiên; điều này chúng ta cần phải nhìn kỹ mà buông xả.
Chúng ta phải tin chắc có sự hộ niệm của chư Phật. Sự hộ niệm này chính là tất cả chư Phật thường nhớ nghĩ và quan tâm chúng ta; đây là sự thật. Hộ pháp, Thiện thần tôn kính, khâm phục nên luôn luôn ủng hộ chúng ta. Còn nếu mình luôn nghi ngờ thì chẳng những Đức Phật không hộ niệm mà Thiện thần, Hộ pháp cũng không che chở. Chúng ta phải tự xét kỹ, bằng không thì chịu thiệt thòi rất lớn.
Vì thế, hai chữ “tin Phật” thật không dễ dàng, tin Phật rồi, chúng ta có còn vọng tưởng không? Còn lo âu, còn bận tâm không? Tất cả đều không còn, như thế mới nhất tâm hướng về đạo. Đạo ở đâu? Đạo chính là ngay trong cuộc sống, là chuyện ăn cơm, mặc áo. Chúng ta đọc đoạn mở đầu trong kinh Kim Cang ghi: “Đức Phật Thích-ca đắp y, ôm bát, vào thành Xá Vệ khất thực”; đây chính là đạo. Do đó, chúng ta có thể biết trong cuộc sống thường ngày chẳng có gì thay đổi, công việc hằng ngày cũng như vậy; những việc xử sự, đãi nhân tiếp vật, xã giao vẫn như thường....
Đại tự tại, đại viên mãn đều từ trong tâm thanh tịnh sinh ra. Kinh Kim cang nói rất hay: “Tín tâm thanh tịnh thì sinh thật tướng” tức là sinh trí tuệ thật tướng Bát-nhã. Trí tuệ thật tướng Bát-nhã hiện ra thì làm sao mà không được tự tại! Làm sao mà không viên mãn! Rốt cuộc đều do tâm thanh tịnh.
Nói về nhân duyên ở đời, như trong kinh Đức Phật dạy: “Chúng ta có thể làm được việc thế gian, nhưng không được làm theo ý thế gian”. Hai câu nói này thật là hay. Việc thế gian chúng ta có thể làm được, kinh Hoa nghiêm ghi: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Vậy chướng ngại ở đâu? Chướng ngại ở ý thế gian. Ý thế gian là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bạn phải đoạn trừ những thứ này. Ý nghĩa hai câu này rất sâu rộng.....
Tôi nêu ra một ví dụ, khi chúng ta đọc kinh điển thấy lời Đức Phật dạy có hay không? Rất có thứ tự, lớp lang không một chút lộn xộn; bất luận là giảng lý hay sự, đều đâu ra đó....
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật, đồng tâm đồng nguyện, đồng đức đồng tâm. Chúng ta có hiểu được ý nghĩa này không? Ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta làm được bao nhiêu phần? Đây chính là điều chúng ta tu hành. Tại sao chúng ta hành không đạt hiệu quả? Vì sao không cải thiện được cuộc sống của chúng ta? Nguyên nhân là ở tại chỗ này.......
Trong kinh Đức Phật dạy hai chữ “thọ trì”; chẳng những chúng ta không làm được mà không hiểu ý nghĩa hai chữ này, nếu có hiểu thì lại hiểu sai; cho rằng mỗi ngày tôi tụng kinh một lần là thọ trì. Chúng ta biết sai ở đâu không?
Tôi nói thật, chúng ta muốn đạt được hiệu quả công phu tu tập là cải thiện cuộc sống của chúng ta, chẳng những cải thiện đời sống hiện tại mà còn cải thiện đời sau. Cuộc sống đời sau, ý nghĩa này thật là rất dài. Theo cách sống hiện tại của chúng ta đúng như trong kinh, luận Đại, Tiểu thừa Đức Phật dạy, sau khi chúng ta mất thân người, đời sau muốn được thân người, thật là khó. Vậy chúng ta sẽ đi về đâu? Phần đông đọa trong ba đường ác.
Làm sao chúng ta biết mình đọa vào ba đường ác? Chỉ cần nghe mọi người nói một câu thì biết rõ: “Chết rồi làm quỷ”. Mọi người đều cho rằng, sau khi chết rồi đều làm quỷ. Tôi chưa nghe ai nói chết rồi làm người mà chỉ nghe nói sau khi chết rồi làm quỷ.
Đức Phật thường dạy chân lý: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Theo cách nghĩ của bạn người chết đều thành quỷ. Bạn có ý nghĩ, quan điểm như vậy thì nhất định bạn đi làm quỷ rồi! Có bao nhiêu người suy nghĩ sau khi chết được làm người, hoặc sinh lên cõi trời hay làm Phật, Bồ-tát; điều này rất ít nghe nói đến, chỉ có nghe người chết đều bị làm quỷ. Chúng ta không nên cho câu nói này là bình thường, chưa chắc là đúng. Thật ra câu nói này là đúng, câu nói này thật không bình thường.
Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh, kinh Hoa nghiêm ghi: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đây cũng là lời Đức Phật dạy, con người sau khi chết, được thân người lại rất khó; huống gì theo nguyên lý kinh Phật đã dạy, đời sau muốn được làm thân người thì nhất định phải đầy đủ điều kiện của năm giới. Năm giới với năm thường của nhà Nho ở Trung Quốc nội dung giống nhau. Năm thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. ... (Nguồn: Ba phúc-PS Tịnh Không giảng)
+ Bệnh ở miệng:
Nếu gặp kẻ hay hủy báng, thì dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở. (Nguồn: Kinh Địa Tạng)
+ Cung quản tiền tài: Cung Thiên Bình - Libra là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này. Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Nghiên cứu thật kỹ hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn (Xem thêm về Tam giác lực với Libra ở đỉnh; CTHNM, 275)
+ Gây dựng tiền tài: ... Thế thì vấn đề làm giàu như thế nào, ta hãy nghe Phật dạy trong Kinh Tăng Chi Bộ như sau:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại khu vườn ông Anàthapindika. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến, sau khi đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika:
– Này gia chủ, có năm lý do để gầy dựng tài sản.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh của bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi, thâu được một cách hợp pháp. Tự mình làm an lạc, hoan hỷ. Làm cho cha mẹ, vợ con, người phục vụ, người làm công được an lạc, hoan hỷ. Đây là lý do thứ nhất để gây dựng tài sản.
Thứ hai ...…Vị này làm cho bạn bè, thân hữu an lạc, hoan hỷ.
Thứ ba ...... Các tai họa để trở thành trắng tay bị chặn đứng và vị ấy giữ tài sản được an toàn cho vị ấy.
Thứ tư .......Vị ấy có thể hiến cúng cho bà con, cho khách, cho hương linh đã chết; hiến cúng cho vua và chư Thiên.
Thứ năm ....Vị ấy tổ chức cúng dường các vị Sa Môn, Bà La Môn. Sự cúng dường tối thượng này đưa đến phước báu vô lượng ở cõi người, cõi trời.
Làm giàu như Phật dạy còn có ý nghĩa tạo sự hoan hỷ cho mọi người từ gia đình đến xã hội, đó là cách làm giàu mang tính âm đức của người con Phật. Làm giàu không có tội mà chỉ có tội khi làm giàu bất chính, gây khổ đau cho mình cho người, cho mọi chúng sanh. Làm giàu chân chính vẫn là điều mà Đức Phật khuyến khích và tán thán chúng ta. (Nguồn: Phật dậy về làm giầu)
+ Gieo nghiệp vượng tài: Theo Kinh Ma Ý. Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: có 5 việc bố thí được phước báu lớn:
1. Tạo lập vườn tược (để trồng trọt),
2. Trồng cây bên đường (làm lâm nghiệp)
3. Tạo tác cầu cống (thuỷ lợi & giao thông)
4. Đóng thuyền to (để cứu hộ và phòng thiên tai),
5. Vì người sẽ đến mà xây cất chỗ ở (lo an cư cho dân)
* Người muốn kinh doanh có thành tựu, cần hội đủ các nhân duyên, trong đó Nhân lành về tiền tài quyết định sự thành bại khi đầu tư kinh doanh. Mời đọc bài viết Phát triển sự nghiệp - Kinh doanh giầu có
+ Tăng trưởng tài vật - Cầu tiền tài - Cầu gì được ấy. Đại Cát Tường Thiên Nữ
..... Bạch đức Thế tôn, ai trì tụng minh chú này để triệu thỉnh con, thì con nghe là đến ngay chỗ người ấy để làm cho họ toại nguyện. Bạch đức Thế tôn, minh chú này là câu chữ của đại pháp quán đảnh, câu chữ của đại định thành tựu, câu chữ tối chân thật, câu chữ không dối trá, là việc làm bình đẳng, là thiện căn chính yếu đối với chúng sinh. Thọ trì đọc tụng minh chú này thì phải bảy ngày đêm thọ giới Bát quan trai, mỗi buổi sáng sớm đánh răng súc miệng sạch sẽ rồi, sau lúc quá trưa (83) thì hiến cúng hương hoa lên chư vị Thế tôn, phát lộ tội lỗi của mình. Hãy vì bản thân và vì chúng sinh mà hồi hướng, phát nguyện. Như thế mới làm cho hy vọng mau thành tựu. Hãy dọn sạch một cái phòng, hoặc ở chỗ trống vắng, hoặc ở chỗ lan nhã, dùng cù ma mà làm đàn tràng, đốt đàn hương mà hiến cúng. Hãy đặt một cái ghế đặc biệt, trang hoàng tràng phan, lọng dù. Hãy dùng bông hoa danh tiếng mà sắp ra trong đàn tràng. Rồi chí tâm tụng trì minh chú đã nói ở trên, mong ước con đến. Lúc này con tức khắc nghĩ đến người ấy, quan sát người ấy, và đến trong đàn tràng, ngồi nơi cái ghế đặc biệt, nhận sự hiến cúng của người ấy. Từ đó về sau, con làm cho người ấy được mộng thấy con. Người ấy cầu gì thì cứ nói thật. Thì dầu ở trong làng xóm, ở cạnh đầm chằm, hay ở trong trú xứ chư tăng, cầu gì cũng thỏa. Bạc vàng, tài sản, gia súc, thóc lúa, ẩm thực, y phục, đều tùy tâm ước muốn mà hưởng thụ lạc thú. Nhưng được sự linh nghiệm rồi, trước hết phải đem phần thượng hạng mà hiến cúng Tam bảo, hồi thí cho con. Hãy làm pháp hội lớn, thiết ẩm thực và bày hoa hương. Hiến cúng rồi thì cúng phẩm đem bán đi, lấy tiền mà hiến cúng nữa. Trọn đời người ấy con thường ở bên cạnh, giúp cho người ấy không thiếu thứ gì, cầu gì cũng thỏa. Nhưng cũng phải thường xuyên chu cấp cho người nghèo thiếu, không được tiếc lẫn, chỉ vị bản thân. Lại thường đọc tụng kinh này, hiến cúng không ngớt. Phải đem cái phước này phổ thí tất cả mà hồi hướng bồ đề, nguyện vượt sinh tử mà giải thoát mau chóng.
Bấy giờ đức Thế tôn tán dương, rằng lành thay Đại cát tường thiên nữ. Thiên nữ có thể quảng bá kinh này như vậy. Thì thật bất khả tư nghị, lợi ích cho cả bản thân và tha nhân. (Nguồn: Tăng trưởng tài vật - Kinh Kim Quang Minh)
+ Thức ăn sạch: Ngài A Nan hỏi Đức Phật: Những gì cần phải sạch, có bao nhiêu vật cần phải làm sạch?
Đáp: Rau quả nên dùng dao gọt, tay bóc, lửa đốt để làm sạch; chỉ có gạo là cần dùng lửa nấu chín. Quả đã lấy sạch hạt thì ăn sẽ không hề gì.
- Hỏi: Rau sống đã rửa sạch, nhưng còn gốc rễ, tì-kheo được phép dùng không?
Đáp: Được.
Chú giải: Nếu là rau sống, củ cải… thì đều có thể ăn cả gốc rễ. Như rau cải, cần phải bỏ rễ, nhưng nếu rửa thật sạch thì không cần bỏ rễ cũng có thể ăn, nên mới nói là được. Hoặc lúc đi trên đường không tiện làm cũng có thể dùng. (Trích Kinh Ngũ Bách Vấn)
+ Thuật trị bệnh:
(6) Y theo phép chữa bịnh
của tiên nhân đời xưa,
cha tuần tự nói cho,
khéo nghe để cứu người.
(7) Ba tháng là mùa xuân,
ba tháng là mùa hè,
ba tháng là mùa thu,
ba tháng là mùa đông.
(8) Ấy là theo một năm
ba tháng một mà nói.
Hai tháng một một tiết
một năm thành sáu tiết:
(9) giêng hai là tiết hoa,
ba tư là tiết nóng,
năm sáu là tiết mưa,
bảy tám là tiết thu,
(10) chín mười là tiết lạnh
một chạp là tiết tuyết.
Phải phân biệt như vậy,
cho thuốc đừng sai chậy
(11) Tùy theo mùa tiết ấy
mà điều hòa ăn uống,
vào bụng tiêu hóa được,
mọi bịnh mới không sinh.
(12) Khí hậu nếu thay đổi
thì tứ đại biến động,
bấy giờ mà không thuốc
thì tất sinh bịnh khổ.
(13) Thầy thuốc biết bốn mùa,
lại biết về sáu tiết,
biết bảy phần cơ thể
thì cho thuốc không sai.
(14) Bảy phần là vị (97) , máu,
thịt, mỡ, xương, tủy, não.
Biết bịnh nhập bảy phần
lại biết chữa được không.
(15) Bịnh thì có bốn loại:
các loại phong, nhiệt, đàm,
và loại bịnh hỗn hợp,
nên biết lúc chúng phát:
(16) mùa xuân phát bịnh đàm
mùa hè phát bịnh phong,
mùa thu phát bịnh nhiệt,
mùa đông bịnh hỗn hợp.
(17) Xuân ăn chất nóng cay,
hè béo nóng mặn dấm,
thu ăn lạnh ngọt béo,
đông ăn chát béo ngọt.
(18) Trong bốn mùa như vậy,
dùng thuốc và ăn uống
theo như mùi vị ấy,
bịnh không lý do sinh.
(19) Sau ăn bịnh do đàm,
ăn tiêu bịnh do nhiệt,
sau tiêu bịnh do phong,
cứ thế nhận thức bịnh.
(20) Nhận thức gốc bịnh rồi,
tùy bịnh mà cho thuốc.
Nếu bịnh trạng khác đi,
cũng chữa cái gốc trước.
(21) Phong thì dùng dầu, kem,
nhiệt thì lợi đại tiểu,
đàm thì hóa, thông, thổ,
hỗn hợp thì cả ba.
(22) Phong nhiệt đàm cùng có,
thế gọi là hỗn hợp.
Tuy biết lúc bịnh phát,
cũng phải xét gốc bịnh.
(23) Xét biết như vậy rồi,
tùy lúc mà cho thuốc.
Ăn, uống, thuốc, không sai,
mới gọi thầy thuốc giỏi.
(24) Lại nữa biết tám thuật
bao quát mọi cách chữa.
Nếu hiểu rõ tám thuật
hãy chữa bịnh cho người.
(25) Tám thuật là châm chích,
giải phẫu, chữa thân bịnh,
chữa tâm bịnh, trúng độc,
khoa nhi với khoa lão,
sau hết là dưỡng sinh,
[đó, tám thuật chữa bịnh].
(26) Trước xem xét hình sắc,
nói năng và tánh tình,
sau hỏi đến chiêm bao,
thì biết phong nhiệt đàm.
(27) Khô ốm đầu ít tóc,
tâm tính không ổn định,
nói nhiều mộng bay đi,
đó là thuộc loại phong.
(28) Tuổi trẻ mọc tóc trắng,
nhiều mồ hôi, hay giận,
thông minh, mộng thấy lửa,
đó là thuộc loại nhiệt.
(29) Tâm ổn, thân ngay thẳng,
nghĩ kỵ đầu nhờn, cáu,
mộng thấy nước, vật trắng,
đó là thuộc loại đàm.
(30) Hỗn hợp thì có chung,
chung hai hay chung ba,
và hễ loại nào nhiều
là tính bịnh hỗn hợp.
(31) Biết gốc, đặc tính bịnh,
chuẩn bịnh mà cho thuốc.
Nhưng thấy không tướng chết
mới rõ bịnh cứu được.
(32) Giác quan thì thác loạn,
khinh khi thầy thuốc giỏi,
thấy bạn thân cũng giận,
đó là hiện tượng chết.
(33) Mắt trái biến màu trắng
lưỡi đen, sống mũi lệch,
vành tai không như cũ,
môi dưới thì xệ xuống (98)
(34) Ha lê lặc một thứ
có đủ cả sáu vị,
trừ được tất cả bịnh,
là thuốc vua, không kị.
(35) Lại ba trái ba cay (99)
là thuốc dễ có được,
đường cát, mật ong, sữa,
cũng chữa được nhiều bịnh.
(36) Ngoài ra, dược liệu khác,
tùy bịnh mà thêm vào.
Nhưng trước phải từ tâm,
đừng mưu tính tài lợi.
(37) Cha đã nói những việc
cần cho sự chữa bịnh.
Con đem ra cứu người
thì phước sẽ vô biên.
Thiện nữ, bấy giờ trưởng giả tử Lưu thủy đích thân hỏi và nghe cha nói về tám thuật, về tứ đại thêm bớt, về thời tiết bất đồng, về cách cho thuốc. Hiểu biết rành rẽ rồi, trưởng giả tử tự xét ky mình đủ sức cứu chữa mọi bịnh. Bèn đi đến thành thị thôn xóm, chỗ nào có bịnh nhân cũng đến, dịu ngọt an ủi, và rằng tôi là thầy thuốc, tôi là thầy thuốc, tôi rành thuốc chữa bịnh. Tôi sẽ chữa cho các người lành mạnh. Thiện nữ, bấy giờ người ta nghe trưởng giả tử an ủi, hứa chữa bịnh cho, thì bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng nghe lời ấy cũng phấn chấn thân tâm, vui mừng hiếm có. Do vậy mà bịnh khổ tiêu tan, khí lực sung mãn, bình phục như cũ. Thiện nữ, bấy giờ lại có bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng mà khó cứu chữa, tức thì đến chỗ trưởng giả tử xin chữa thêm. Trưởng giả tử tức thì cho thuốc, bảo dùng, và ai cũng lành cả. Thiện nữ, cứ như thế, trưởng giả tử Lưu thủy chữa lành cho bao nhiêu bịnh nhân ở trong vương quốc. (Nguồn: Kinh Kim Quang - Chữa trị bệnh khổ)
+ Thuật dưỡng sinh - Đạo dưỡng sinh:
I- Danh y Hoa Đà đúc kết 38 bí quyết vàng về sức khỏe: Sau 18 thế kỷ vẫn còn vô cùng giá trị
Danh y Hoa Đà là 1 trong 4 nhân vật nổi tiếng nhất trong ngành Đông y TQ. 38 bí quyết này từng được xem là "phương châm sống thọ" của rất nhiều người. Bạn có thể tham khảo áp dụng.
Muốn sống khỏe mạnh thì phải dựa vào dưỡng sinh Danh y Hoa Đà (145 – 208) là một thầy thuốc nổi tiếng thời cuối Đông Hán và đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông được xưng tụng như một Thần y nổi tiếng không chỉ ở nội bộ đất nước Trung Quốc mà còn được biết đến rất nhiều trong các nước đồng văn hóa như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc, được xem là một trong những ông tổ của Đông Y. Ông cùng Đổng Phụng và Trương Trọng Cảnh được xưng tụng làm Kiến An tam Thần y, đồng thời cùng với Biển Thước, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được xem là 4 vị đại danh y nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc nói riêng và các nước có nền Đông y phát triển nói chung. Sau đây là 38 lời dạy của Hoa Đà về sức khỏe và dưỡng sinh, được người xưa coi là "bí quyết vàng". Nếu làm được, bạn sẽ hạn chế được bệnh tật phát sinh, cơ thể khỏe mạnh và tuổi thọ được kéo dài..... (Nguồn: Xem nghệ thuật sống dưỡng sinh)
+ Phân biệt ba Thân Phật: ... Thiện nam tử, chư vị Như lai có ba thân, một là hóa thân, hai là ứng thân, ba là pháp thân. Ba thân như vậy bao quát đầy đủ về vô thượng bồ đề, nhận thức chính xác thì mau chóng siêu thoát sinh tử. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức hóa thân như thế nào? Nên nhận thức rằng Như lai quá khứ ở trong vị trí tu hành, vì chúng sinh mà tu tập diệu pháp. Tu tập cho đến vị trí viên mãn. Thì do sức mạnh tu tập mà được sự tự tại lớn lao. Được sự tự tại nên tùy ý muốn của chúng sinh, tùy việc làm của chúng sinh, tùy thế giới của chúng sinh, biết rành tất cả. Rồi không chờ đợi cơ hội, không lỡ mất cơ hội, thích ứng địa phương, thích ứng thì gian, thích ứng việc làm, thích ứng thuyết pháp, mà thị hiện mọi loại thân hình, đó là hóa thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức ứng thân như thế nào? Nên nhận thức rằng Như lai vì làm cho bồ tát được sự thông đạt mà nói về chân đế, rằng do thấu triệt sinh tử với niết bàn là nhất thể, do loại trừ sự sợ hãi và sự vui mừng của chúng sinh chấp ngã, do làm căn bản cho vô biên phẩm chất Phật đà, do sức mạnh bản nguyện thích ứng đích thực với như như trí của như như lý, mà hình thành thân thể với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi nét đẹp, sau cổ là vầng sáng tròn, đó là ứng thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức pháp thân như thế nào? Nên nhận thức rằng do loại trừ phiền não chướng và sở tri chướng, do đầy đủ thiện pháp, mà chỉ có như như lý của như như trí (12) , đó là pháp thân.
Thiện nam tử, hai thân trước là có giả, thân thứ ba mới có thật, làm căn bản cho hai thân trước...... Tương ứng ba Thân Phật, ở người cũng có ba Tâm,(Quá khứ - Hiện tại - Vị lai_Lời Nhân trắc học), diệt tận ba Tâm thì hiển linh ba Thân Phật.....
Thiện nam tử, ....Họ nghe rồi chính xác ghi nhớ, phát tâm tu hành, được sức mạnh tinh tiến, loại trừ sự chướng ngại vì biếng nhác, diệt mọi tội lỗi, đối với giới pháp họ tách rời sự không tôn trọng, ngưng cả sự háo động và tiếc nuối, nên nhập vào địa thứ nhất. Do tâm của địa thứ nhất này loại trừ sự chướng ngại cho sự lợi ích chúng sinh, nên nhập vào địa thứ hai. Trong địa thứ hai này loại trừ sự chướng ngại cho sự không áp bức quấy rối chúng sinh, nên nhập vào địa thứ ba. Trong địa thứ ba này loại trừ sự chướng ngại cho tâm mềm dịu trong sáng, nên nhập vào địa thứ tư. Trong địa thứ tư này loại trừ sự chướng ngại cho phương tiện khéo léo, nên nhập vào địa thứ năm. Trong địa thứ năm này loại trừ sự chướng ngại vì thấy chân đế tục đế đối lập với nhau, nên nhập vào địa thứ sáu. Trong địa thứ sáu này loại trừ sự chướng ngại vì thấy có hành tướng, nên nhập vào địa thứ bảy. Trong địa thứ bảy này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự diệt, nên nhập vào địa thứ tám. Trong địa thứ tám này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự sinh, nên nhập vào địa thứ chín. Trong địa thứ chín này loại trừ sự chướng ngại cho lục thông, nên nhập vào địa thứ mười. Trong địa thứ mười này loại trừ sự chướng ngại vì ngu muội các pháp sở tri, loại trừ cái tâm căn bản, nên nhập vào Như lai địa.
Như lai địa do ba sự trong sáng mà gọi là cực trong sáng. Ba sự ấy là những gì? Một là trong sáng vì loại trừ phiền não, hai là trong sáng vì loại trừ khổ não, ba là trong sáng vì loại trừ tập khí. Như vàng thật chảy ra vì nung luyện, nung luyện rồi thì không còn quặng bẩn nữa, chứng tỏ vàng vốn trong sáng, chứ không phải không có vàng. Như nước dơ mà lọc trong thì không còn cặn bẩn, chứng tỏ nước vốn trong suốt, chứ không phải không có nước. Cũng là như vậy, pháp thân vốn tách rời phiền não, khổ và tập loại trừ rồi thì không còn tập quán thừa lại, chứng tỏ thể tánh pháp thân vốn trong sáng, chứ không phải không có thể tánh. Như không gian bị khói mây bụi mù che đi, trừ cái che ấy rồi thì không gian trong sáng, chứ không phải không có không gian; pháp thân cũng vậy, mọi sự khổ não loại bỏ hết rồi thì nói là trong sáng, không phải không có thể tánh pháp thân. Như có kẻ trong mộng thấy bị trôi theo dòng nước sông lớn, nên vận dụng cả tay chân mà bơi qua, đến được bờ bến bên kia, ấy là do cả thân tâm kẻ ấy không nhác, không lùi. Khi mộng tỉnh thì không còn thấy nước, thấy bờ bên này bờ bên kia, nhưng không phải không có cái tâm: vọng tưởng sinh tử loại bỏ hết rồi thì tuệ giác trong sáng, chứ không phải không có tuệ giác. Ấy vậy, pháp thân thì mọi thứ vọng tưởng không còn phát sinh nên nói là trong sáng, chứ không phải chư vị Như lai không có thật thể.
Lại nữa, thiện nam tử, pháp thân do làm sạch hoặc chướng mà biểu hiện ứng thân, do làm sạch nghiệp chướng mà biểu hiện hóa thân, do làm sạch trí chướng mà pháp thân tự biểu hiện. Ví như do không gian mà phát điện lực, do điện lực mà phát ánh sáng; cũng là như vậy, do pháp thân mà biểu hiện ứng thân, do ứng thân mà biểu hiện hóa thân. Do thể trong sáng mà pháp thân tự biểu hiện, do trí trong sáng mà biểu hiện ứng thân, do định trong sáng mà biểu hiện hóa thân. Ba sự trong sáng như vậy là pháp tánh như như, bất dị như như, nhất vị như như, giải thoát như như, cứu cánh như như, do vậy, chư vị Như lai thì thể tánh không có dị biệt. Thiện nam tử, nếu thiện nam hay thiện nữ nào nói đức Thế tôn là bậc Thầy cao cả của tôi, tin tưởng quyết định như vậy, thì người ấy, từ trong tâm trí sâu xa, thấu hiểu pháp thân Như lai không có dị biệt. Và thiện nam tử, do vậy mà, đối với các pháp, người ấy loại trừ hết cả sự tư duy không chính xác, biết các pháp là phi nhị biên, là vô phân biệt, là thánh giả tu hành. Đối với các pháp, chính xác tu hành sự không có nhị biên như thế nào, thì đối với các chướng cũng loại trừ như vậy; loại trừ các chướng như thế nào thì như như lý và như như trí cũng tối cực trong sáng như vậy; như như lý và như như trí trong sáng như thế nào thì mọi sự tự tại cũng như vậy, bao quát đầy đủ, thành đạt tất cả. Các chướng loại trừ, các chướng lọc sạch, đó là chân tướng của như như lý và như như trí. Thấy như vậy là cái thấy của thánh giả, và thế gọi là thật thấy Như lai, tại sao, vì đó là đúng như sự thật mà thấy như như lý của các pháp. Do vậy, chư vị Như lai thấy biết tất cả chư vị Như lai. Còn chư vị Thanh văn và Độc giác tuy siêu thoát ba cõi, nhưng cầu mà không thể thấy biết như như lý. Thánh giả mà còn không thể thấy biết, huống chi phàm phu thì nghi hoặc, phân biệt thác loạn, nên không thể vượt đến. Khác nào thỏ mà bơi qua biển cả thì bơi không qua được, vì sức lực của thỏ quá kém, phàm phu cũng vậy, họ không thể thông đạt như như lý của các pháp. Nhưng chư vị Như lai thì siêu phân biệt, nên được đại tự tại đối với hết thảy các pháp, được đầy đủ tuệ giác trong sáng và sâu xa, và đó là lĩnh vực của chư vị Như lai, chứ không phải chung cùng với người khác. Do vậy mà biết chư vị Như lai trong vô số kiếp không tiếc tính mạng, làm khổ hạnh khó làm, mới được pháp thân tối thượng, không thể sánh bằng, bất khả tư nghị, vượt quá lĩnh vực ngôn ngữ, vắng lặng nhiệm mầu, rời hết mọi sự sợ hãi (30) ..... Mời đọc kỹ trong kinh văn, giảng nhiều về ba thân Phật rất vi diệu .(Nguồn: Kinh Kim Quang Minh)
+ Hiểu ba Thân Phật: Trong Phật giáo, nếu thấu hiểu Kinh Hoa Nghiêm, thì sẽ đắc được toàn thân của Phật. Nếu minh bạch Kinh Lăng Nghiêm, thì minh bạch được đảnh của Phật. Nếu minh bạch được Kinh Pháp Hoa, thì minh bạch được thân của Phật. Nhưng đây vẫn chưa hoàn toàn, nếu dung hội quán thông được đạo lý của Kinh Hoa Nghiêm, thì sẽ minh bạch được toàn thân và huệ mạng của Phật. Kinh Hoa Nghiêm ví như biển cả, còn những Kinh khác như những dòng sông. Dòng sông làm sao sánh được với biển cả. Hiện tại trên thế giới giảng giải Kinh Hoa Nghiêm rất ít, lại rất ít. Có người học Phật pháp cả đời, mà tựa đề Kinh Hoa Nghiêm cũng chưa từng nghe qua, thật là đáng thương xót. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, đừng nói là giảng, dù đọc qua một lần cũng rất ít người đọc. Đọc nhanh qua một lần cũng phải mất hai mươi mốt ngày....
Ở Trung Quốc hoằng dương Kinh Hoa Nghiêm đều là đại Bồ Tát. Nếu chẳng phải có cảnh giới của Bồ Tát, thì không thể giảng nói cảnh giới của Hoa Nghiêm, mà cảnh giới Hoa Nghiêm là diệu trong diệu, huyền trong huyền, không thể nghĩ bàn ! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - T.25)
+ Nguyện thứ 18 của Phật A Đi Đà - Mười niệm vãng sanh
Hầu hết người học Phật tu theo pháp môn Tịnh độ, ai cũng biết đến đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện vĩ đại hàm chứa đức từ bi vô lượng của Ngài. Trong đó có đại nguyện thứ 18 gây ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn của mọi người phát tâm niệm Phật. Nội dung lời nguyện như sau: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến MƯỜI NIỆM, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng Chánh pháp”[1]. Bổn nguyện cứu độ chúng sanh của Phật vô cùng rộng lớn, gây niềm tin vững chắc cho người tu niệm Phật phát nguyện sanh về cõi Tây Phương. Xuất phát từ ý nghĩa đó, từ xưa cho tới nay, pháp niệm Phật vãng sanh và khuynh hướng hộ niệm người sắp lâm chung được phổ cập rộng rãi trong sinh hoạt của mọi người tu theo pháp môn Tịnh độ. Tuy nhiên, hiểu như thế nào về ý nghĩa mười niệm vãng sanh là điều quan trọng để có thái độ tu học thiết thực trong đời sống này.
Để hiểu thấu rõ điều nguyện này, mời quí vị đọc kỹ bài viết (Nguồn: Mười niệm vãng sanh)
+ Một ví dụ về đới nghiệp vãng sanh - Làm ác, nghiệp nặng, cả đời không tu (Trừ tội phỉ báng Tam Bảo), đến khi bị bệnh nặng mới tu, khi lâm trung niệm Phật Ba la mật 3 ngày vẫn được vãng sanh (Nguồn: Xem tại đây)
+ Hồi đầu tu thiện để vãng sanh: ... Quý vị xem Tịnh Độ Luận, mở kinh văn chúng ta sẽ thấy: “Thiện nam tử, thiện nữ nhơn”, đới nghiệp vãng sanh cũng là thiện nam tử, thiện nữ nhơn. Trong kinh nói: tạo tội ngũ nghịch thập ác, họ biết sám hối, biết thay đổi, ít nhất những ác nghiệp này của họ, dùng câu Phật hiệu này chế phục được, mới có thể vãng sanh ... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Hạnh Bồ Tát: Ngài Duy Ma Cật nói: Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm kia, chẳng trụ ở trong ấy cũng lại chẳng trụ chẳng điều phục tâm. Vì cớ sao? Nếu trụ chẳng điều phục tâm, ấy là pháp của người ngu; còn nếu trụ ở điều phục tâm, ấy là pháp của Thanh văn. Vì thế Bồ-tát không nên trụ ở nơi điều phục và chẳng điều phục tâm, lìa hai pháp này, ấy gọi là hạnh Bồ-tát. Ở trong sanh tử không làm những hạnh ô uế, trụ nơi Niết-bàn mà không hằng diệt độ, ấy là hạnh Bồ-tát. Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh hiền thánh, ấy là hạnh Bồ-tát. Chẳng phải hạnh cấu, chẳng phải hạnh tịnh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy vượt qua hạnh ma mà hiện hàng phục chúng ma, ấy là hạnh Bồ-tát. Cầu nhất thiết trí, không cầu phi thời, ấy là hạnh Bồ-tát.
Tuy quán các pháp chẳng sanh mà chẳng nhập chánh vị, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy quán mười hai nhân duyên khởi, mà vào các tà kiến, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy nhiếp phục tất cả chúng sanh mà không ái trước, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy ưa xa lìa mà không hoàn toàn y nơi diệt thân tâm, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy đi trong tam giới mà không hoại pháp tánh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành nơi Không mà gieo trồng các cộïi công đức, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành vô tướng mà độ chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả hạnh lành, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành lục ba-la-mật mà khắp biết tâm vương tâm sở của chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành lục thông mà không có tận lậu, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành tứ vô lượng tâm mà không tham trước sanh ở cõi trời Phạm thiên, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành thiền định giải thoát tam-muội mà không sanh theo cõi Thiền, ấy là hạnh của Bồ-tát. Tuy hành tứ niệm xứ mà không hằng lìa thân thọ tâm pháp, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành tứ chánh cần mà không xả thân tâm tinh tấn, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành tứ như ý túc mà được tự tại thần thông, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành ngũ căn mà phân biệt các căn lợi độn của chúng sanh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành ngũ lực mà ưa cầu thập lực của Phật, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành thất giác phần mà phân biệt trí tuệ Phật, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành bát chánh đạo mà ưa hành vô lượng Phật đạo, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành pháp chỉ quán trợ đạo mà cứu cánh không rơi vào tịch diệt, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hành các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân kia, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy hiện oai nghi Thanh văn Bích-chi Phật mà không xả Phật pháp, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy tùy tướng thanh tịnh cứu cánh của các pháp mà tùy sở ứng để hiện thân kia, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy quán cõi nước chư Phật hằng tịch như không mà hiện các cõi Phật thanh tịnh, ấy là hạnh Bồ-tát. Tuy được Phật đạo chuyển pháp luân vào Niết-bàn mà không bỏ đạo Bồ-tát, ấy là hạnh Bồ-tát.
Khi nói lời ấy rồi, đại chúng đi theo ngài Văn-thù-sư-lợi, trong đó tám ngàn vị thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. (Nguồn: Kinh Duy Ma Cật - Phẩm Văn Thù Thăm Bệnh)
+ Theo Nghiệp tái sanh:
Khi chúng ta có lòng tin, có sự thực hành thật trọn vẹn đối với giáo pháp của đức Phật, chắc chắn lúc mạng chung, những nghiệp thiện mà chúng ta đã tạo sẽ hướng chúng ta đến cảnh giới tốt đẹp. Giống như bơ hay dầu, dù chúng ta đổ ở dưới đáy, cũng sẽ nổi lên mặt nước. Hoặc giống như một cái cây, hướng về phía nào thì sẽ đổ về phía đó. Trong Tương Ưng Bộ Kinh, bài kinh số 21, có một câu chuyện như vầy:
Một thời, đức Phật trú ở khu vườn Nigrodha, tại thành Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ, có một người tên là Mahanama đến bạch với đức Phật rằng:
– Bạch đức Thế Tôn, thành Ca-tỳ-la-vệ này phồn vinh, phú cường, dân cư đông đúc, quần chúng chen chúc khắp nơi. Bạch đức Thế Tôn, sau khi hầu hạ Thế Tôn và các vị Tỳ-kheo đáng kính ra về, vào buổi chiều, trong thành Ca-tỳ-la-vệ, con gặp những con voi cuồng chạy, những con ngựa cuồng chạy, những người cuồng chạy, những chiếc xe lớn cuồng chạy, những chiếc xe nhỏ cuồng chạy. Lúc đó con bị hoang mang, không còn giữ được chánh niệm, không nhớ đến Phật, không nhớ đến Pháp, không nhớ đến Tăng. Giả sử, lúc đó con mạng chung thì sẽ sinh về cõi nào?
Đức Phật dạy:
– Chớ có sợ, này Mahanama, ai đã lâu ngày có lòng tin trong sạch, chí thành, thâm sâu và tu tập trọn vẹn về tín, giới, văn, thí, tuệ, với bất cứ cái chết nào, người đó cũng sinh về cảnh giới tốt đẹp.
Tiếp đó, đức Phật lấy một ví dụ rất hay:
– Ví như, này Mahanama, một người nhận chìm một ghè bơ, hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu và đập bể cái ghè ấy thì các mảnh ghè sẽ chìm xuống nước, nhưng bơ hay dầu sẽ nổi lên trên. Cũng như thế, một người đã lâu ngày có lòng tin trong sạch, chí thành, thâm sâu và tu tập trọn vẹn về tín, giới, văn, thí, tuệ thì trong bất cứ hoàn cảnh nào, sau khi mạng chung, cũng sẽ sinh về cảnh giới tốt đẹp.[4]
Trong bài kinh số 22, cũng lời dạy của đức Phật dành cho Mahanama. Ngài dạy rằng:
– Người nào thành tựu niềm tin trong sạch, bất động đối với Phật, Pháp, Tăng và thành tựu các tịnh giới thì sẽ nghiêng về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn.
Tiếp đó, đức Phật cũng lấy một ví dụ rất hay:
– Ví như, này Mahanama, một cái cây nghiêng về phía Đông, hướng về phía Đông, xuôi về phía Đông, nếu bị chặt đứt từ gốc rễ, nó sẽ đổ về phía nào?
Mahanama thưa:
– Bạch đức Thế Tôn, nó sẽ đổ về phía Đông.
Đức Phật nói:
– Cũng vậy, người nào thành tựu niềm tin trong sạch, bất động đối với Phật, Pháp, Tăng và thành tựu các tịnh giới thì sẽ nghiêng về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn.[5]
* Cấp Cô Độc Tái Sanh: .... Thăm hỏi và hướng dẫn phương pháp tu tập cho Cấp Cô Độc xong, Xá-lợi-phất và A-nan trở về tinh xá. Không lâu sau, Cấp Cô Độc thân hoại mạng chung, ra đi một cách an nhiên. Sau khi nhắm mắt, ông sinh về cõi trời Đâu-suất. Vừa hóa sinh, ông liền xuống lại vườn Kỳ-đà, nơi đức Phật đang trú ngụ. Bây giờ, ông là một thiên tử với dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực. Khi ông xuất hiện, dù trời còn tối, cả khu vườn Kỳ-đà sáng lên rạng rỡ. Ông đến đảnh lễ đức Phật, đọc một bài kệ tán thán Ngài, rồi biến mất.
Sáng hôm sau, đức Phật nói với đại chúng Tỳ-kheo rằng, hồi đêm có một vị thiên tử dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực cả khu vườn đến thăm Ta. Lúc đó, A-nan hỏi đức Phật:
– Bạch đức Thế Tôn, vị thiên tử đó có phải là Cấp Cô Độc không?
Đức Phật nói:
– Đúng, vị thiên tử đó chính là Cấp Cô Độc.[3] (Nguồn: Chi tiết cư sỹ Cấp Cô Độc)
+ Cấp Cô Độc
- Gương bố thí và làm giầu chân chánh: ... Sau đó, Cấp Cô Độc nghĩ đến người dân ở nước Xá-vệ của mình, xưa nay chưa biết Phật pháp, nên muốn cung thỉnh đức Phật về Xá-vệ, trước là để an cư ba tháng mùa mưa, sau là để truyền bá Phật pháp cho dân chúng. Cấp Cô Độc đem nguyện vọng đó thưa với đức Phật. Ngài hỏi: “Hiện tại, trong Tăng đoàn, số lượng chư Tăng rất đông, không biết ở Xá-vệ có nơi nào cho chư Tăng cư trú hay không?” Cấp Cô Độc thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, con sẽ cố gắng xây dựng một tinh xá để thỉnh Ngài và chư Tăng về an cư và hoằng pháp”. Đức Phật rất hoan hỷ. Sau khi sắp xếp công việc riêng tư, Cấp Cô Độc trở về Xá-vệ. Được sự cho phép của đức Phật, Xá-lợi-phất cũng đi theo ông để chuẩn bị cho việc xây dựng tinh xá.
Về Xá-vệ, Cấp Cô Độc đi tìm rất nhiều nơi, cuối cùng, ông thấy một khu vườn rất đẹp của Thắng Lâm Đồng Tử, tức thái tử Kỳ-đà. Cấp Cô Độc liền đến gặp thái tử Kỳ-đà để hỏi mua. Dù ông hỏi nhiều lần nhưng thái tử vẫn không chịu bán. Cuối cùng, thái tử nói rằng sẽ bán cho Cấp Cô Độc nếu ông có thể đem tiền trải đầy khu vườn. Thái tử nói như thế là để Cấp Cô Độc không nài nỉ mua nữa, nhưng không ngờ ông lại đồng ý.....Có một điều lưu ý là theo bản Kinh Trung A Hàm nói là tiền, nhưng trong một số kinh và tài liệu khác lại nói là vàng, có nghĩa là Cấp Cô Độc đã lấy vàng trải đầy đất để mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà ... (Nguồn: Chi tiết cư sỹ Cấp Cô Độc_Cúng dường Phật)
- Đau bệnh và Tái sanh: Một thời, đức Phật ở tại Xá-vệ, vườn Kỳ-đà, tinh xá của ông Cấp Cô Độc. Lúc bấy giờ, Cấp Cô Độc bị trọng bệnh, rất khổ đau. Ông gọi người nhà và nói người đó đi đến tinh xá, nhân danh ông đảnh lễ đức Phật; sau đó sang đảnh lễ Tôn giả Xá-lợi-phất và thỉnh Ngài về tư gia, ông đang rất cần sự dạy bảo của Ngài. Người nhà Cấp Cô Độc liền đi đến tinh xá, đảnh lễ, thăm hỏi đức Phật, rồi tìm gặp Xá-lợi-phất, đem nguyện vọng của Cấp Cô Độc thưa với Ngài. Tôn giả Xá-lợi-phất hoan hỷ nhận lời.
Sau đó, Xá-lợi-phất cùng A-nan đi đến nhà của Cấp Cô Độc. Khi đến nơi, Ngài thấy Cấp Cô Độc đang bệnh nặng, nằm liệt giường, trông rất đau đớn. Ngài hỏi thăm, Cấp Cô Độc nói:
– Bạch Đại đức, con đau lắm, không thể chịu đựng nổi. Ví như một người lực sĩ chém đầu của người khác bằng một thanh kiếm sắc bén; cũng vậy, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu con. Hoặc ví như một người lực sĩ lấy dây nịt bằng da cứng, quấn tròn quanh đầu người khác rồi siết chặt; cũng vậy, con cảm thấy bị đau đầu một cách kinh khủng. Hoặc ví như một người đồ tể hay đệ tử của người đồ tể cắt ngang bụng người khác với một con dao sắc bén; cũng vậy, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của con. Hoặc ví như hai lực sĩ nắm lấy cánh tay của một người yếu hơn, nhấc lên, nướng người ấy trên một hố than hừng; cũng vậy, một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân con.
Lúc đó, Xá-lợi-phất khuyên Cấp Cô Độc:
– Này Cấp Cô Độc, sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức), sáu giới (địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới)… cho đến cả thế giới này và những thế giới khác, đều là giả tạm, không thật. Ông hãy cố gắng quán tưởng tất cả đều là không để buông xả, không chấp thủ vào bất cứ thứ gì.
Nghe Xá-lợi-phất nói xong, Cấp Cô Độc xúc động khóc vì thấy bài pháp này quá hay. Ông nói:
– Bạch Đại đức, bài pháp này con chưa bao giờ được nghe.
– Bài pháp này chỉ nói cho người xuất gia, không nói cho cư sĩ tại gia.
– Bạch Đại đức, theo con, chúng sinh có nhiều căn cơ, trình độ khác nhau. Những người có căn lành, có trí tuệ, cấu uế không nhiều, có thể tiếp thu được giáo pháp này. Xin Đại đức hãy nói cho những người đó để họ học và tu.
Thăm hỏi và hướng dẫn phương pháp tu tập cho Cấp Cô Độc xong, Xá-lợi-phất và A-nan trở về tinh xá. Không lâu sau, Cấp Cô Độc thân hoại mạng chung, ra đi một cách an nhiên. Sau khi nhắm mắt, ông sinh về cõi trời Đâu-suất. Vừa hóa sinh, ông liền xuống lại vườn Kỳ-đà, nơi đức Phật đang trú ngụ. Bây giờ, ông là một thiên tử với dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực. Khi ông xuất hiện, dù trời còn tối, cả khu vườn Kỳ-đà sáng lên rạng rỡ. Ông đến đảnh lễ đức Phật, đọc một bài kệ tán thán Ngài, rồi biến mất.
Sáng hôm sau, đức Phật nói với đại chúng Tỳ-kheo rằng, hồi đêm có một vị thiên tử dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực cả khu vườn đến thăm Ta. Lúc đó, A-nan hỏi đức Phật:
– Bạch đức Thế Tôn, vị thiên tử đó có phải là Cấp Cô Độc không?
Đức Phật nói:
– Đúng, vị thiên tử đó chính là Cấp Cô Độc.[3]
Câu chuyện này nói việc ông Cấp Cô Độc đau bệnh, mời Xá-lợi-phất đến, và Ngài đã giáo hóa ông. Sau khi Xá-lợi-phất ra về, ông chết một cách nhẹ nhàng, rồi sinh về cõi trời Đâu-suất. Ở đây, khi nghe câu chuyện này, có thể nhiều người thắc mắc rằng ông Cấp Cô Độc cả đời làm điều tốt, tại sao lúc sắp chết lại bị bệnh hoạn, đau đớn, khổ sở như thế? Có suy nghĩ này là do họ chưa hiểu về nhân quả. Thứ nhất, thân thể của chúng ta là thân thể vật chất, đau bệnh là một điều tất nhiên, không ai tránh khỏi. Thứ hai, nếu là do nhân quả thì có thể ông Cấp Cô Độc đã phải chịu dư báo từ đời trước, nghĩa là trong đời quá khứ, ông từng sát sinh, hại vật, nên đời này phải chịu quả báo đau đớn, khổ sở. Còn những việc làm của ông ở hiện tại đã giúp ông sau khi mất, được sinh lên cõi trời, thành thiên tử, rồi trở lại đảnh lễ đức Phật. Nhân quả thông cả ba đời, gieo nhân ác ắt chịu quả xấu, gieo nhân thiện ắt hưởng quả tốt. (Nguồn: Chi tiết cư sỹ Cấp Cô Độc_Tái sanh)
+ Sách Thiếu Niên Bảo Thân - Ấn Quang Đại Sư
Hiện thời truyền thông, internet, truyền hình, báo chí, tạp chương mỗi ngày truyền bá sắc tình, bạo lực, tin tin tức phản diện hàng hàng lớp lớp đem con người dạy hư hết thảy.
Ở thanh thiếu niên tồn tại hai vấn đề phổ biến vô cùng nghiêm trọng đó là chứng thủ dâm và tình dục phóng túng gây ra hậu quả khôn lường đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng ra là sự thịnh suy của một quốc gia dân tộc. Đặc biệt quan niệm sai lầm về “thủ dâm” khiến cho nhiều nghĩ rằng đây là việc làm chánh đáng không có gì sai trái, không gây ra hậu quả gì nghiêm trọng. Nhưng than ôi, ít ai biết rằng đây là hành động tự giết dần, giết mòn bản thân, rò rỉ, phung phí thứ quý báu nhất. Thật là hành động “tổn thân bại đức”. Thân mạng chẳng được bảo toàn lâu dài huống gì tính đến chuyện sự nghiệp, công danh. Đệ Tử Quy có câu “Thân hữu thương di thân ưu, đức hữu hương di thân tu” (Nếu thân thể của chúng ta bị thương, thì cha mẹ sẽ lo âu. Nếu đức hạnh của chúng ta không tốt, thì cha mẹ cũng cảm thấy tủi hổ). Thể hội ra rằng thủ dâm không khác gì hành động bất hiếu đối với cha mẹ, vì đó là hành động “tổn thân bại đức” phương hại đến thân mạng và đức hạnh của chính mình.....
Cuối lời xin trích một đoạn khai thị của Ấn Quang Đại Sư trong Văn Sao Tục Biên cùng mọi người tiến bộ. Ngài viết: “Đối với lớp hậu sinh trong hiện thời, khi chúng nó vừa hiểu chuyện đời, liền dạy chúng nó về đạo giữ tinh, hộ thân. Nếu chúng nó biết tốt - xấu, sẽ chẳng đến nỗi tự xem thủ dâm là vui, để rồi mắc các nỗi họa như bị mất tánh mạng, hoặc trở thành tàn phế, hoặc vĩnh viễn truyền lại nòi giống yếu ớt v.v… Với đứa chưa hiểu chuyện đời, chớ nên nói. Còn đứa đã hiểu chuyện đời nếu chẳng nói thì trong mười đứa hết chín đứa phạm phải tật này, đáng sợ vô cùng!”
Những lời khai thị của Ấn Quang Đại Sư:
(1) Trong cõi đời gần đây, bọn thiếu niên do tình dục quá nặng, nên buông lung chơi bời, hoặc mê mệt thê thiếp, hoặc do ý chuyên nghĩ đến điều dâm mà tinh thần ngầm bị tổn thương, hoặc thủ dâm để rò rỉ, phung phí thứ quý báu nhất. Do vậy, thân yếu, tâm hèn, chưa già đã suy; học vấn, sự nghiệp đều chẳng thành tựu. Thậm chí con cái sanh ra đều bấy bớt hoặc khó khôn lớn, thành người được! Mà thọ mạng của chính mình cũng khó thể dài lâu như trong số mạng đã định, chẳng đáng buồn ư?
(2) Tám chữ “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” chính là quy củ, mực thước để làm người. Nếu ai chẳng tận sức nơi tám chữ ấy chính là đã mất đi tám chữ. Tám chữ đã mất thì là loài cầm thú đội mũ mặc áo! Người tuổi còn trẻ thì cái khó chế ngự nhất là tình dục. Thế đạo hiện thời chuyên lấy việc hướng dẫn khêu gợi dâm dục làm mục đích. Các con tuy có âm đức của tổ tiên, chẳng đến nỗi sa đà lắm, nhưng cần phải dè dặt tự giữ gìn mới hòng chẳng thẹn với cha ông. Nếu chẳng dốc sức tạo lập phẩm hạnh, bị dâm dục khống chế, sau này quyết định chẳng có thành tựu, hoặc đến nỗi đoản mạng mà chết. Nay ta gởi cho các con hai bộ Lịch Sử Thống Kỷ – đây là những chuyện nhân quả báo ứng rõ ràng trích từ hai mươi bốn bộ sử ra, hai cuốn Gia Ngôn Lục – đây chính là đạo trọng yếu để học Phật, là quy củ thường hằng để tu thân, hãy nên đọc kỹ!
Mười điều đại lợi ích của việc niệm Phật, Bồ Tát
Khóa lễ sáng chiều đơn giản nhất
MỤC LỤC
SỰ TỔN HẠI CỦA TÌNH DỤC ĐỐI VỚI THANH THIẾU NIÊN ĐƯƠNG ĐẠI... 12
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN, LỄ, NGHĨA, TRÍ, TÍN ĐỐI VỚI NỘI TẠNG ..... 52
Sự ảnh hưởng của “Nhân” đối với nội tạng .................................... 56
Sự ảnh hưởng của “Nghĩa” đối với nội tạng ................................... 62
Sư ảnh hưởng của “Lễ” đối với nội tạng ......................................... 69
Sự ảnh hưởng của “Trí” đối với nội tạng ........................................ 72
Sự ảnh hưởng của “Tín” đối với nội tạng ....................................... 76
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín là sự rút ngắn của Đệ Tử Quy ............... 80
KHUYÊN NGĂN SỰ THAM DÂM DỤC ........................................ 82
Khuyên người làm quan. (kể cả quan lại, nha dịch) Tổng cộng năm mục, bốn Pháp một Giới ..... 102
Khuyên người cầu công danh, Tổng cộng tám mục: bốn pháp, hai giới, hai pháp giới ...... 110
Khuyên người trẻ, Tổng cộng bốn mục, hai pháp, một giới, một pháp giới ...............117
Khuyên người cầu con, Tổng cộng năm mục, đều là pháp ........... 125
Khuyên người cầu sống lâu, Tổng cộng ba mục, một pháp, một giới, một giới pháp .........130
Khuyên người gặp nạn, Tổng cộng ba mục, hai pháp, một giới ... 133
Khuyên thầy thuốc, Tổng cộng hai mục, đều là pháp .................. 134
Khuyên người buôn bán, làm nông, làm công... Tổng cộng sáu mục, đều là giới, phụ lục phần hào bộc .....136
Khuyên những người trẻ thường đến chốn lầu xanh, Tổng cộng hai mục, đều là pháp ......... 140
Khuyên sám hối tội lỗi, Tổng cộng ba mục, mỗi tắc đều kiêm giới và pháp ....... 141
Khuyên những người phạm tội nặng căn bản, Tổng cộng ba mục, đều là giới ...... 144
Khuyên phát tâm xuất thế, dẫn theo kinh, Tổng cộng mười mục, tám pháp, hai giới ...... 147
Đức Như Lai khánh đản (Theo Thích ca Như lai phổ) ............. 148
Không nhiễm duyên trần (Kinh Phật bản hạnh và kinh Quá khứ nhân quả) ..... 149
Bồ tát hàng ma (Kinh Quán Phật tam muội hải) ...................... 150
Chê người con gái xấu (Kinh Tạp thí dụ) ................................. 151
Phật đánh đổ ham muốn người nam (Kinh Xuất diệu) ............. 151
Phật đả phá ham muốn người nữ (Kinh Ma đặng nữ) ............... 152
Mục liên từ chối phụ nữ (Kinh Thiền mật yếu) ........................ 152
Sa di giữ giới (Kinh Hiền ngu nhân duyên) .............................. 153
Quả báo tội ôm nhau ngủ (Kinh Tăng hộ) ................................ 154
Nghiệp thức hoá vi trùng (Kinh Pháp cú dụ) ............................ 154
Quyển 2 .................................................................................... 156
Thiên Thọ Trì ........................................................................... 156
Người đang làm quan, tất cả mười khoa, bảy mươi lăm điều, phần nhiều là chuyện trị nước và làm yên ổn quốc gia ... 156
Người đang ở nhà, tất cả mười khoa, một trăm điều, phần lớn thuộc về chuyện chỉnh đốn gia đình .......... 159
Thứ nhất, bỏ ngay những điều xằng bậy ................................... 159
Thứ hai, tránh nghi ngờ............................................................. 160
Thứ ba, chỉnh đốn vợ thê thiếp ................................................. 160
Thứ tư, gia giáo ......................................................................... 161
Thứ năm, cưới gã ...................................................................... 161
Thứ sáu, cúng tế, tang ma. ........................................................ 162
Thứ bảy, tụ tập ăn uống ............................................................ 162
Thứ tám, lo xa ........................................................................... 162
Thứ chín, những điều kiêng kị .................................................. 163
Thứ mười, đối xử với người dưới .............................................. 163
Rộng khuyên, tất cả mười khoa, một trăm hai mươi điều, phần nhiều thuộc việc tu thân, điều chỉnh lòng ngay thẳng ...... 164
Thứ nhất, giữ mình ................................................................... 164
Thứ hai, giữ tâm ........................................................................ 164
Thứ ba, lời ăn tiếng nói ............................................................. 165
Thứ tư, văn chương ................................................................... 165
Thứ năm, ra ngoài ..................................................................... 166
Thứ sáu, chọn bạn ..................................................................... 166
Thứ bảy, những thời gian kiêng kị ............................................ 167
Thứ tám những điều kiêng kị trong lúc mang thai .................... 167
Thứ chín, những điều thê thiếp nên kiêng kị ............................ 167
Thứ mười, ghi chép linh tinh .................................................... 168
Diệt trừ tội lỗi, tất cả bảy khoa, sáu mươi điều, phần nhiều thuộc chuyện thành ý ...... 168
Thứ nhất, thân cận ngôi Tam bảo ............................................. 168
Thứ hai, phát thệ nguyện lớn .................................................... 169
Thứ ba, sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng ............................... 169
Thứ tư, tích phước để làm lợi ích cho mọi người ...................... 170
Thứ năm, giác ngộ ngay trong đời này ..................................... 170
Thứ sáu, tuỳ hỉ công đức ........................................................... 170
Thứ bảy, biểu hiện của việc tội được diệt ................................. 171
Những kinh sách quan trọng nói đến chuyện tà dâm, chia theo kinh thành bốn khoa, hai mươi bốn điều, đa phần thuộc việc nghiên cứu để hiểu rõ lí lẽ ...
Thứ nhất, Bồ tát mắng dâm dục ..... 171
Thứ hai, tội báo tà dâm ............................................................. 173
Thứ ba, công đức của việc không dâm dục ............................... 174
Thứ tư, cảnh tỉnh những người tại gia ....................................... 175
Quán tưởng bào thai như ngục tối ................................................. 177
Quán thân thể là nơi trú ngụ của vi trùng ..................................... 179
Quán Không sạch sẽ ..................................................................... 181
Thứ nhất, hình dáng chung của nam nữ .................................... 182
Thứ hai, tướng căn người nữ ô uế ............................................. 183
Thứ ba, tướng bụng nhơ nhớp của người nữ ............................. 183
Thứ tư, tướng thân thể người đàn ông không sạch sẽ ................ 183
Thứ năm, tổng kết quán tưởng .................................................. 184
Thứ sáu, quyết định khuyến tu .................................................. 185
Quán bốn khoảng thời gian nên tỉnh giác .............. 185
Thứ nhất, lấy khoảng thời gian khi thức dậy để quán tưởng ..... 185
Thứ hai, dùng cảnh tượng sau khi say để quán tưởng ............... 185
Thứ ba, quán tưởng khi ta bệnh ................................................ 186
Thứ tư, dùng nhà xí để quán tưởng ........................................... 186
Quán tưởng chín điều ............................................................ 186
Thứ nhất, quán tưởng lúc mình vừa mất ................................... 187
Thứ hai, tưởng tượng nước xanh ứa ra ...................................... 187
Thứ ba, nghĩ tương máu mủ ...................................................... 187
Thứ tư, chất nhầy tiết ra ............................................................ 187
Thứ năm, sâu dòi rúc rỉa ........................................................... 187
Thứ sáu, gân buộc ..................................................................... 188
Thứ bảy, quán tưởng xương rời ra ............................................. 188
Thứ tám, quán tưởng cháy đen .................................................. 188
Thứ chín, quán tưởng xương khô .............................................. 188
Thứ mười, dẫn chứng kinh sách ................................................ 188
Quán tưởng luân hồi ................................................................ 189
Thứ nhất, hiện tượng người sau khi chết được sinh lên cõi trời ..... 189
Thứ hai, hiện tượng người cõi Diêm phù đề sau khi chết được sinh qua cõi Uất đơn việt .... 189
Thứ ba, hiện tượng người cõi Diêm phù đề sau khi chết sinh về cõi Cồ đà ni ....... 190
Thứ tư, hiện tượng người cõi Diêm phù đề sau khi chết sinh về cõi Phất bà đề ........... 190
Thứ năm, hiện tượng người hạ phẩm cõi Uất đơn việt sau khi chết được sinh lên các cõi trời ... 190
Thứ sáu, hiện tượng người trung phẩm cõi Uất đơn việt sau khi chết được sinh lên các cõi trời ........ 191
Thứ bảy, hiện tượng người thượng phẩm cõi Uất đơn việt sau khi chết được sinh lên các cõi trời ...... 191
Thứ tám, một hiện tượng khác nữa người cõi Uất đơn việt sinh lên cõi trời ......... 191
Thứ chín, hiện tượng người cõi Cồ đà ni sau khi chết được sinh lên các cõi trời ....... 191
Thứ mười, hiện tượng người cõi Phất bà đề sau khi chết được sinh lên cõi trời .......... 191
Thứ mười một, hiện tượng hết chịu kiếp quỉ đói được sinh lên cõi trời......... 192
Thứ mười hai, hiện tượng súc sinh hết nghiệp được sinh lên cõi trời............... 192
Thứ mười ba, hiện tượng hết chịu nghiệp ở địa ngục được sinh lên cõi trời ...... 192
Thứ mười bốn, hiện tượng người chết sinh trở lại làm người .... 192
Thứ mười lăm, hiện tượng người trên cõi trời sau khi chết lại được sinh lên cõi trời ......193
Thứ mười sáu, hiện tượng những người cõi trời trên khi chết sinh xuống cõi trời thấp hơn ....... 193
Thứ mười bảy, hiện tượng sinh qua lại của những người hai cõi Phất bà đề và Cồ đà ni ..... 193
Quán tầng trời cõi Dục ................................................................. 193
Thứ nhất, cõi trời Tứ vương và cõi trời Đao lợi ........................ 194
Thứ hai, cõi trời Dạ ma ............................................................. 194
Thứ ba, cõi trời Đâu suất .......................................................... 194
Thứ tư, cõi trời Hoá lạc ............................................................. 194
Thứ năm, cõi trời Tha hoá tự tại ............................................... 195
Quán nhân duyên .......................................................................... 195
Quán giải thoát ............................................................................. 196
Quyển 3 ............................................................................................ 201
Quyết Nghi Luận .............................................................................. 201
Chi tiết mời xem sách: Thanh Niên Bảo Thân
+ Chữ bệnh u tuyến giáp/ Can Mộc bất cập - Sửa tính cách kết hợp dùng thuốc: ... Bệnh nhân này họ Cao, là một bé gái, tìm đến tôi khám bệnh là vào mùa hè năm nay. Bệnh của bé là u tuyến giáp trạng, bé nói chỗ này của con rất khó chịu, chính là ở chỗ này, tuyến giáp trạng ở chỗ này. Sau đó tôi xem mạch của cháu thấy hai bên mạch đi rất Huyền, tôi liền nói với bé rằng, bệnh của cháu như vậy có một đức tính cần phải sửa đổi, là quá bất khuất. Trong tính cách quá bất khuất, người quá bất khuất thì kinh can không thông, người nam thì tán ra bên ngoài, còn người nữ thì thu vào bên trong, người nữ thì thường thu về chỗ vùng yết hầu, ở nơi này chính là nơi kinh can đi qua. Kinh can sau khi đi qua yết hầu, ở nơi này một khi bị ứ trở thì trên dưới không thông sẽ sinh ra bệnh. Bé nói: “Đúng quá!”. Tại sao vậy? Vì lúc đó, khi bé tìm đến tôi khám bệnh thì có cha mẹ ở bên cạnh, ba của bé đứng cạnh tôi nói: “Bé từ nhỏ tính cách rất bất khuất”. Bé hiện nay lái xe, bé tự mình lái xe, thấy xe của người khác vượt qua mình thì bé liền cố vượt lên trước, vượt qua họ và ép họ sang một bên, chính là tính cách này. Tôi liền nói với bé rằng: “Tính cách này của cháu nếu như không sửa đổi thì uống thuốc gì, điều trị thế nào cũng không khỏi, vì cái khí này còn tồn tại”. Quí vị chú ý, cái khí này trên thực tế chính là một dạng xu thế năng lượng. Tại sao nói như vậy? Vì chúng ta đều biết, cơ thể của chúng ta là do tế bào tạo nên, tế bào là do phân tử tạo nên, phân tử là do nguyên tử sắp xếp tổ hợp mà thành. Sở dĩ trước đây chỗ này chúng ta không có sưng, không có u, tại sao sau đó lại có u vậy? Vì do phương thức sắp xếp của tế bào, cách sắp xếp của phân tử nguyên tử khác nhau rồi. Cơ thể chúng ta trên thực tế là một thể tổ hợp của một khối nguyên tử, chúng sắp xếp thành hình dạng con người. Sắp xếp thành hình dạng người khỏe mạnh hay người có bệnh đều do khối nguyên tử này, chẳng qua là do cách sắp xếp khác nhau mà thôi. Nguyên tử nghe lời của ai? Là nghe theo năng lượng, tức là trường, hiện nay ngành vật lý gọi trường là trường năng, dạng khí này của bạn sẽ dẫn đến chỗ khối này có một loại trường năng. Cho dù sau khi bạn giải phẩu cắt bỏ hết vùng này, nhưng trường năng ở đây vẫn còn, sau này bạn ăn uống thì những phân tử này vẫn tụ tập trở lại ở đây, sau khi tụ xong thì lớn thành u bướu, cắt bỏ vô ích.
Cho nên tôi bảo cháu, trước tiên phải bắt đầu từ tính cách. Hơn nữa, cháu bé này còn có một đặc điểm đó là ưa đốp chát với cha mẹ. Chúng ta đều biết đây là đặc tính của mộc, trong đặc tính của mộc rất dễ tổn thương vùng can, vì giận thì khí đi lên. Một người nổi giận, đốp chát với người khác, thì cái khí này vọt lên liền. Cho nên tôi bảo cháu, nếu cháu muốn khỏi bệnh thì phải thay đổi tính cách cho tốt, phải sửa đổi từ đâu vậy? Là phải bắt đầu sửa đổi từ việc hiếu thuận với cha mẹ. Tại sao nói như vậy? Vì “Trăm điều thiện hiếu đứng đầu”, con người một khi hiếu thuận với cha mẹ rồi thì hỏa khí liền hạ xuống hết, sau khi hỏa khí hạ xuống rồi thì kinh lạc lưu thông rất dễ dàng, kinh lạc lưu thông rồi thì bệnh tự động khỏi thôi. Cho nên tôi hỏi, có phải cháu ở nhà không phụ giúp việc nhà phải không? Mẹ của cháu đứng bên cạnh gật đầu ngay. Bà nói cháu nó đây đúng như vậy, được nuông chiều từ nhỏ nên chẳng phụ giúp việc nhà gì cả. Tôi liền nói với cháu, nếu cháu muốn khỏi bệnh thì bắt đầu từ hôm nay, về nhà tất cả những việc nhà cháu không nên để mẹ cháu làm nữa, vì mẹ cháu lúc đó khi tìm đến tôi khám bệnh thì tuổi đã ngoài 50 rồi. Tôi nói cháu là một người trẻ tuổi, mẹ già ở nhà mỗi ngày quét nhà, mỗi ngày làm việc nhà, rửa chén, mọi việc cháu đều không làm, cháu ở bên cạnh mà siêng ăn nhác làm để mẹ làm, hơn nữa còm đốp chát với cha mẹ, cái khí này không đúng, khí không đúng thì sẽ sinh bệnh có đúng không?
Sau khi quay đầu, bé gái này bắt đầu sửa đổi. Vào ngày thứ hai trước khi tôi đến, cha mẹ cháu dắt cháu đến khám lại lần nữa, cô đưa tôi xem kết quả xét nghiệm của bệnh viện thì khối u đã nhỏ rất nhiều rồi. Lúc đó tôi cũng dùng đông dược hỗ trợ điều trị cho cháu, thực tế nếu đơn thuần dùng thuốc đông dược thì hiệu quả rất chậm. Quí vị đều biết, khối u tuyến giáp trạng không phải nhanh như vậy. Lúc đó khi cháu đến thăm tôi, cháu nói bệnh viện cũng rất kinh ngạc, không biết tại sao tiêu nhanh như vậy? Trên thực tế trong đây có một đạo lý rất sâu, là nếu tâm thái chúng ta điều chỉnh tốt thì bệnh khỏi rất nhanh.
Có người nói rằng, điều ông nói là đứng từ góc độ đông y mà nói, vậy từ góc độ khoa học hiện nay mà nói thì có căn cứ hay không? Tôi xin báo cáo với quí vị, là rất có căn cứ. Giáo sư Ngải Nhĩ Mã, nhà sinh lý học đại học Tư Thản Phúc Hoa Kỳ đã từng làm một thí nghiệm rất nổi tiếng, thí nghiệm này chính là thí nghiệm hơi nước. Ông thu thập hơi của những người giận dữ, buồn rầu, phiền não thở ra, ông đem hơi này cho chạy qua một cái ống nhỏ và dẫn vào trong một cái bình chứa đầy nước thuốc, màu của nước chứa trong bình này liền xảy ra thay đổi. Ông phát hiện, khi người giận dữ thì hơi của họ thở ra sẽ khiến cho nước biến thành màu tía, khi buồn rầu thì nước biến thành màu trắng xám. Và ông lại rút nước có màu tía chích vào trong cơ thể chuột bạch thì trong khoảng mấy phút sau chuột bạch co giật mà chết. Thí nghiệm này cho chúng ta thấy rất rõ ràng, khi chúng ta giận dữ thì trên thực tế là đang tiết ra độc tố. Hơn nữa vị giáo sư này nghiên cứu thêm môt bước và ông nói, khi con người giận dữ thì mức tiêu hao năng lượng bằng với mức tiêu hao năng lượng của một người chạy 3000 m, giận trong ba phút thì tiêu hao năng lượng tương đương với người chạy 3000 m, cũng chính là nói một người giận dữ sôi sục thì lúc này năng lượng sống của bạn rất tiêu hao, điều này đã minh chứng cho đạo lý của đông y. Đông y nói: “Giận thì khí đi lên”, vả lại khi khí này đi lên thì hỏa khí này sẽ làm tiêu tán hết tinh hoa của cơ thể. Chúng ta không nói xa vời, vì đạo của trời đất tự nhiên phản ánh trực tiếp trên cơ thể chúng ta, tại sao nói vậy? ... (Nguồn: Sách Thiếu Niên Bảo Thân)
+ Chữa bệnh tâm linh:... MỖI TẾ BÀO TRÊN THÂN CHÚNG TA ĐỀU CÓ THỂ THẤY, NGHE, HAY BIẾT CHÚNG TA KHỞI Ý NIỆM TỐT, XẤU. DƯỚI ĐÂY LÀ CÂU CHUYỆN VỀ CHỮA BỆNH BẰNG TÂM LINH - TÂM THUẦN TỊNH THUẦN THIỆN. - Cách chữa bệnh của họ là dùng tâm linh, dùng tâm thuần tịnh thuần thiện để chữa bệnh, họ không cần dùng phương pháp gì khác để trị bệnh, cũng không cần dùng bất kỳ loại thuốc gì cả, chỉ là dùng tâm thuần tịnh thuần thiện để trị lành bệnh, hơn nữa rất nhanh chóng khỏi bệnh. Như là ngày thứ nhất bị thương nặng, bị gãy xương cốt, đến sáng sớm ngày thứ hai thì có thể đi lại như mọi người, hoàn toàn hồi phục. Có một bác sĩ người Mỹ, chúng ta nhìn thấy thì cho là kỳ tích, nhưng trên thực tế, đạo lý này đều có trong Phật pháp. Các bạn nên biết, điều này không có gì khác hơn là phải biết, mỗi tế bào ở trên thân thể của chúng ta, mỗi một phân tử, mỗi một lạp tử đều là sống, đều có thấy, nghe, hay, biết. Họ trị bệnh như thế nào? Từ trên cao té xuống, thân thể bị thương nặng, xương cốt bị gãy, người thổ dân Úc Châu đó nói rất hay, sau khi bị té xuống thì những tổ chức tế bào ở vị trí đó đã bị hoảng sợ, vậy phải làm sao để chữa trị? Là hát cho nó nghe, an ủi nó. Khi an ủi, bảo nó không nên sợ hãi, mỗi người trở về với trách nhiệm công việc bình thường của mình, hợp tác lẫn nhau thì vết thương sẽ lành. Vi diệu vô cùng. Tôi ở Nhật Bản đã làm một thí nghiệm, kết quả là rất thành công. Ở Nhật Bản hiện tại ở miền Nam là mùa hè (mùa Đông có tuyết rơi), chênh lệch nhiệt độ rất lớn, cho nên lớp da bị dị ứng, trên đùi nổi lên rất nhiều đốm đỏ rất ngứa. Mấy ngày đầu tôi sử dụng dầu Miên Dương rất có kết quả, nhưng mỗi ngày đều phải dùng dầu, mỗi ngày phải rửa, mỗi ngày phải thoa dầu. Cuối cùng tôi nghĩ, đây không phải là cách giải quyết nên không dùng dầu Miên Dương nữa, mà thương lượng với cái chân. Tôi nói với nó: “Toàn thân của chúng ta, mỗi một bộ phận, mỗi một tế bào, mỗi một nguyên tử, mỗi một điện tử, mỗi một lạp tử, mỗi một vi trần, sinh mạng của chúng ta là cùng một thể, chúng ta phải hợp tác lẫn nhau, chúng ta đừng để bị ảnh hưởng của nhiệt độ ở bên ngoài, không nên bị ảnh hưởng của nhiệt độ bên ngoài, mỗi người hãy vui vẻ trở về vị trí làm việc của chính mình, hãy bình thường hợp tác lẫn nhau”. Tôi nói một ngày 3 lần đến 4 lần, ngày thứ hai thì thấy ổn rồi, các đốm đỏ tuy là chưa biến mất nhưng chẳng còn ngứa nữa, và không còn dùng thuốc nữa. Nếu biết được cách chữa này thì bác sĩ thất nghiệp. HT Tịnh Không (Nguồn: Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ ... Kinh - Tập 305. Cẩn dịch: Vọng Tây Cư sĩ)
+ Kinh Ngũ Khổ Chương Cú:
Đức Thế Tôn nói - Trong năm đường nơi ba cõi bị sinh tử không ngừng. Có năm khổ:
- Khổ của chư Thiên.
– Khổ của loài người: Có hàng trăm ngàn thứ khổ. Con người thật là khổ cực. Từ hạng nô tỳ cho đến kẻ xin ăn, bần cùng ti tiện. Còn những bậc phú quý tột bậc như Đế vương, Chuyển luân thánh vương đều bị sinh, già, bệnh, chết. Rồi nào đói khát, lạnh nóng, thống khổ, ưu sầu, tai họa hoặc bị lao tù phạt hình lửa thiêu đốt, nước nhấn chìm, rơi xuống hầm hố hoặc bị đá, dao, gậy, ngựa kéo, oan gia, giặc cướp giết hại lẫn nhau. Có rất nhiều cách chết. Vì chưa ra khỏi ba cõi nên tất cả chúng sinh đều có những thứ khổ ấy.
– Khổ của súc sinh: Dưới từ loài sâu bọ, côn trùng bò ngoằn ngoèo, nhỏ bé, chim bay, thú chạy; trên đất các loài voi, rồng, chim cánh vàng… đều là súc sinh. Chúng cũng biết lạnh, nóng, đói khát, lo buồn, đau khổ, con mạnh hiếp con yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hoặc có loài bị kẻ đồ tể săn lùng, đặt bẫy, lưới để bắt rồi lấy thịt cung cấp cho người. Hoặc có kẻ dùng trăm ngàn mưu kế để bắt giết, không thể nói hết.
– Khổ của ngạ quỷ: Ngạ quỷ có chín loại. Có loại quỷ thân dài một do-tuần, cổ nhỏ như lỗ kim. Khi đi có từng đốt khúc như năm trăm chiếc xe. Một khi phát ra tiếng thì lửa nơi cổ họng phát ra tự thiêu cháy thân. Nếu thấy dòng nước mà chạy đến thì nước liền khô cạn, không được một hớp. Nếu có được thì nước hóa thành máu mủ hoặc là phân dơ, hoặc nước đồng, khi vào cổ thì cháy rát, xuống dưới thì tiêu rụi không còn gì cả, vậy mà tội lỗi vẫn chưa hết, thân tự nhiên trở lại như cũ. Bị quả báo như vậy đều do đời trước làm người sống đời bạo ngược, khủng bố, hiếp đáp bức bách người, không theo đạo lý, tham lam, keo kiệt, không biết bố thí nên phải thọ nhận những tai ương như thế.
– Khổ của địa ngục: Thành vây bằng sắt, rồi nào vạc dầu, núi đao, rừng kiếm, trụ sắt, nước đồng sôi, máu mủ, băng lạnh, phân dơ, nước mặn, mũi nhọn, xe bằng lửa, lò than, đinh lửa, mười sáu mũi tên độc, quạ, diều, kên kên, chồn cáo, những loài chim mỏ cứng bằng sắt bay vào miệng người rồi xuyên thấu bên trong, ăn cả ngũ tạng, người ấy không thể trốn tránh ở chỗ nào được. Ngục tội cực khổ ác gồm có mười tám chỗ. Những kẻ bị tội không kể lớn, nhỏ, chỉ theo nghiệp nặng hay nhẹ mà tự nhận lấy quả báo một kiếp hay nửa kiếp mới hết. Có tội nhân không có khả năng thay đổi. Đến khi tội hết thì sinh trở lại thế gian, chịu các tai ương còn sót. Đó là một khổ.
1. Phật nói có tám chỗ ác:
2. Địa ngục.
3. Ngạ quỷ.
4. Súc sinh.
5. Biên địa.
6. Cõi trời Trường thọ.
7. Tuy làm người nhưng bị mù, điếc, câm, ngọng, tay chân tê liệt, không có khả năng nghe và nhận.
Tuy làm người, sáu căn đầy đủ, thế trí biện thông, nhưng học kinh điển của thế tục, tin theo tà kiến, cúng tế yêu quỷ, hoặc làm đồ tể săn bắt, tâm ý phóng túng, khinh khi, lừa gạt trăm điều, không tin Tam bảo. Sau khi qua đời, bị đọa trở lại vào địa ngục. Từ chỗ tối tăm vào tối tăm, không biết bao giờ thoát khỏi. Nay được làm người mà không tin chánh pháp, không phụng thờ Tam bảo, chê bai Thánh đạo.
8. Sinh ra không gặp Phật.
Tám ác này cũng gọi là tám nạn. (Nguồn: Kinh Ngũ Khổ Chương Cú)
+ Mùi thơm - Hương Chiên Đàn: Tất cả mùi thơm không gì bằng mùi thơm Chiên-đàn. Mùi thơm của nó giá trị như vàng ròng trong cõi Diêm-phù-đề, lại trị được bệnh. Nếu ai bị trúng độc, đau đầu, nóng sốt thì mài vụn Chiên-đàn thoa lên thân hoặc uống sẽ hết bệnh ngay. Tất cả chúng sinh đều mãn nguyện. Có người được cây Chiên-đàn rồi, bó làm củi để bán nhưng không ai mua.
Khi còn tại thế, Đức Phật nói kinh pháp để người đắc đạo, ai cũng đều được độ thoát. Sau khi Ngài nhập Niết-bàn, trong thế gian còn lưu lại mười hai bộ kinh với số lượng nhiều vô kể nhưng không có ai xem. Cũng như cây Chiên-đàn bó lại thành củi đem bán mà không ai mua.
Trong tất cả cây hôi thối không cây nào bằng cây Y-lan. Nó hôi thối ghê gớm, ai cũng ghét và sợ mùi của nó. Cây Y-lan và cây Chiên-đàn sinh ra có bốn loại:
Cây Chiên-đàn bị cây Y-lan bao quanh.
Cây Y-lan được cây Chiên-đàn bao quanh.
Cây Chiên-đàn mọc thành rừng.
Cây Y-lan bao quanh nhau.
–Sao gọi là cây Chiên-đàn bị cây Y-lan bao quanh? Như trưởng giả có lòng tin chánh pháp, hành theo nẻo đạo nhưng vợ con ông ta không ai nghe theo. Ngược lại, họ phụng thờ tà kiến ngoại đạo, cúng tế yêu quỷ, không chịu nghe lời ông. Đây là cây Chiên-đàn bị cây Y-lan bao quanh.
–Sao gọi là cây Y-lan được cây Chiên-đàn bao quanh? Như có trưởng giả tin theo tà đạo, cúng tế quỷ thần, nhưng vợ con lớn nhỏ trong nhà đều sùng tín Tam bảo, không bỏ Bát quan trai giới, bố thí, làm phước, không lìa sáu Độ. Dù trưởng giả quở trách nhưng họ vẫn cứ lén hành trì. Đây là cây Y-lan được cây Chiên-đàn bao quanh.
–Sao gọi là cây Chiên-đàn mọc thành rừng? Như có trưởng giả, dòng họ trong nhà đều nghe theo lời của ông ta không dám trái lời. Họ sùng tín Tam bảo, tâm ý hợp nhau. Đây là cây Chiên-đàn mọc thành rừng.
–Sao gọi là cây Y-lan bao quanh nhau? Như có gia đình trưởng giả tin theo tà kiến, làm mười điều ác, cúng tế yêu quỷ, đóng cửa sát sinh, rồi cùng nhau vui thích. Đây là cây Y-lan bao quanh nhau. (Nguồn: Kinh Ngũ Khổ Chương Cú)
+ Các phước đức của ngài A Nan _ Đức Phật dậy
Phật nói: –Trước kia trưởng giả A-nan-bân-để có năm phước đức: Giờ giấc - Thân giáo - Nói năng - Thuần nhất - Hòa thuận.
–Sao gọi là giờ giấc? Nghĩa là ngày đêm sáu thời không quên lễ kính. Đó là giờ giấc.
–Sao gọi là thân giáo? Nghĩa là khi trưởng giả làm gì thì lớn nhỏ trong nhà đều làm theo. Đây gọi là thân giáo.
–Sao gọi là nói năng? Nghĩa là trưởng giả muốn làm gì cũng được. Khi làm phước, ông nói trước với người trong nhà thì họ đều nghe theo. Đây gọi là nói năng.
–Sao gọi là thuần nhất? Nghĩa là mọi người ăn mặc bình đẳng, cho đến nô tỳ cũng vậy. Đây gọi là thuần nhất.
–Sao gọi là hòa thuận? Nghĩa là trên dưới thuận hợp, không chống trái nhau. Đây gọi là hòa thuận.
Do năm phước này mà hàng nô tỳ, trâu ngựa, gia súc, cả loài côn trùng trong nhà ông sau khi chết đều được sinh lên cõi trời.
Nếu mọi người trong nhà, người ngủ lại đêm, đi ngang nhà hoặc chim bay, thú chạy ngang nhà ông, khi chết cũng đều được sinh lên cõi trời.
Nhà trưởng giả bên trong cửa đóng, giảng nói, tụng kinh pháp mà tiếng kinh ngân vang không dứt. Nếu ai nghe âm thanh ấy đều vui mừng. Vì tâm làm gốc cho nên được sinh lên cõi trời. Trưởng giả được nguyện xưa là do vô số kiếp đến nay nói năng thành tín, không khinh khi, dối gạt người, không tạo các điều ác, công đức thuần thục. Nhờ năng lực của đại thệ nguyện mà ông ta đạt được như thế. (Nguồn: Kinh Ngũ Khổ Chương Cú)
+ Làm phước không chán - Phước huệ song tu: Thế Tôn bảo: Người cầu phước ở thế gian không ai hơn Ta, thường làm 6 pháp: Thí; dạy dỗ; nhẫn; nói pháp, nói nghĩa; bảo hộ chúng sanh; cầu đạo Vô thượng Chánh chân. Phật giúp A Na Luật (Bị mù) xâu kim, Đức Thế Tôn vẫn không nề hà giúp mọi người. ... A-na-luật bạch Phật: ... muốn cầu phước ở thế gian xâu kim cho con. Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Các sức mạnh thế gian
Dạo ở trong Trời, Người
Phước lực là hơn hết
Do phước thành Phật đạo.
Thế nên, A-na-luật! Nên cầu phương tiện được 6 pháp này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này. (Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 38)
+ Trí huệ Phật: Ngày xưa, vua Phần-hòa-đàn so sánh trí với Phật. Đức Phật bảo vua:
–Lấy nước biển để mài mực, vót cây làm bút viết những gì ta nhận biết làm thành quyển kinh, dù nước biển khô cạn, cây cối chết sạch, nhưng kinh của ta thì không hết. Vì sao? Vì Phật có trí Tam đạt nên tất cả sự việc từ xưa đến nay đều thông rõ. Kinh Phật rất nhiều, sánh với hư không. Trí Phật rộng sâu, không có đầu mối. Những điều giảng nói trong kinh thì không thể nghĩ lường. Hoặc khi lặp đi lặp lại, khó hiểu rõ. Nếu tóm lược thì có sáu việc mới có thể nhận biết được cốt lõi của nó:
Chánh đạo.
Thiện quyền.
Chí giáo.
Dụ đạo.
Phước đức.
Cấm giới.
–Sao gọi là Chánh đạo? Nghĩa là nói không có đầu mối, không tạo không tác, tất cả đều rỗng lặng, không có sở hữu, không từ đâu sinh, không hành, không đắc, tự nhiên như vậy. Đó là Chánh đạo.
–Sao gọi là Thiện quyền? Nghĩa là biến hóa đủ cách, hoặc đi, hoặc ở tùy loại mà sinh vào để làm nhân duyên. Hợp thời thì nói ngay, không cần chương cú, mục đích là để hóa độ thôi. Đó là Thiện quyền.
–Sao gọi là Chí giáo? Nghĩa là chỉ rõ tội, phước, làm như vậy, được như vậy, tất cả đều do nghiệp, không ai đem đến cả, việc ấy rõ ràng. Đó là Chí giáo.
–Sao gọi là Dụ đạo? Nghĩa là khai mở cho người chưa học, được trời bảo họ, có phước đức, được sống lâu, lợi ích, được kết quả trong đời hiện tại. Đó là Dụ đạo.
–Sao gọi là Phước đức? Nghĩa là tu sáu Độ rốt ráo, làm chủ trị sáu căn, giữ gìn các căn môn thì có thể được sinh lên cõi trời, làm Chuyển luân thánh vương, luôn luôn được vui sướng. Đó là Phước đức.
–Sao gọi là Cấm giới? Nghĩa là giữ gìn thân miệng, nhiếp tâm, thân không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, uống rượu, không ở lâu trong ba đường ác. Đó là Cấm giới.
Trước tiên hiểu rõ về ý này thì mới có thể hành theo đạo. Ví như kéo lưới, trước phải nắm lấy các giềng mối để cho các mắt lưới chính. Nếu không hiểu điều đó mà sửa các mắt lưới trước thì lưới sẽ bị rối ren, quấn lấy nhau không tháo ra được. Học cũng như vậy, nếu không thông đạt điều cốt yếu, không hiểu rõ những phương tiện giảng nói trong kinh thì không thể phân biệt được, cho nên chê bai nhau, luôn chấp ý riêng của mình rồi nổi sân giận, làm mất đi ý nghĩa căn bản, bỏ điều đúng, theo điều sai. Người học cũng vậy, không sửa đổi mình cho chánh. Hiểu đúng thì ít mà sai lầm thì nhiều.
Hạng người như vậy chỉ mang tiếng là học mà thôi..... (Nguồn: Kinh Ngũ Khổ Chương Cú)
+ Chúng sinh sợ quả:... Đạo Phật chú trọng về nhân quả, vì sự báo ứng tuần hoàn không hề sai lệch một tơ hào. Gieo nhân nào thì gặt quả đó. Trồng nhân lành thì kết quả lành, trồng nhân ác thì kết quả dữ. Nếu mình gieo nhân mắng chưởi người, tức mình sẽ bị kẻ khác đánh đập. Nếu mình gieo nhân đánh người, tương lai sẽ gặt quả báo bị người giết. Cổ nhân nói: “Giết cha người, người sẽ giết cha mình; giết anh người, người sẽ giết anh mình” là vậy. Nhân nào, quả nấy. Chúng sanh như chúng ta đều là sợ quả chứ không sợ nhân. Lúc gieo nhân, chúng ta không chịu cẩn thận, đến khi kết thành quả rồi thì mới lo lắng bồn chồn. Ngược lại, Bồ Tát thời sợ nhân chứ không sợ quả. Bồ Tát rất cẩn thận khi gieo nhân, cho nên khi quả báo đến thì Bồ Tát tình nguyện tiếp nhận quả báo đó, chứ không trốn tránh. Tư tưởng của chúng sanh và Bồ Tát khác nhau là ở chỗ nầy.... (Nguồn: Khai thị 6-HT Tuyên Hóa)
+ Bồ Tát sợ nhân - Chúng sinh sợ quả:
Phật nói: –Kinh luật của Như Lai gồm có tám ức bốn ngàn vạn quyển để làm lương thực chữa trị các bệnh về thân, khẩu, ý cùng sinh, già, bệnh, chết cho tất cả chúng sinh. Tất cả kinh điển ấy đều dạy chúng sinh hai điều:
Ai tạo nghiệp thì phải nhận lấy quả báo.
Ai không tạo nghiệp thì không nhận lấy quả báo.
Phật nói:
–Tội khổ não trong năm đường nơi ba cõi đều do ta tạo ra, không phải trời giáng xuống, cũng chẳng phải quỷ thần, vua chúa, cha mẹ, Sa-môn hay Bà-la-môn, Phạm chí đem đến. Làm tội hay phước giống như bóng theo hình, như tiếng vang dội lại, không mất một mảy may nào cả.
Phật nói:
–Vua Diêm-la có lòng Từ bi rộng lớn. Những tội nhân bị đọa trong địa ngục, vua đều thấy tất cả.
Vua hỏi:
–Vì sao các ngươi ở trong đây?
Các tội nhân trả lời:
–Lúc chết chúng con không biết đi đâu. Tự nhiên các thứ xấu ác xua đuổi chúng con đến nơi đây. Xin vua hãy thương xót cứu vớt tội lỗi cho chúng con.
Vua hỏi:
–Các ngươi đã làm điều ác gì chăng?
Tội nhân trả lời:
–Khi còn sống chúng con bất hiếu với cha mẹ, sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, tranh giành, cầm dao bức bách cướp lấy của người lương thiện, phỉ báng bậc Thánh hiền. Chúng con đã gây ra các việc ác không thể nói hết. Lại tin theo thầy tà, cúng tế quỷ thần để cầu phước, giết nấu sinh vật để tế lễ thần linh. Ngày nay chúng con tự nhận tội, sám hối việc ác đã tạo ra.
Vua hỏi:
–Khi các ngươi còn sống, ta đã sai năm sứ giả đi xem xét tình hình trong thiên hạ để chỉ bày, nhưng vì sao các ngươi không vâng theo?
Các tội nhân thưa:
–Khi còn sống chúng con thật ra không thấy nghe gì cả.
Vua nói:
–Hãy nghe cho kỹ! Ta sẽ nói về năm sứ giả cho các ngươi:
1. Người mẹ trên thế gian mang thai mười tháng. Do đó làm cho thân bệnh hoạn. Đến ngày gần sinh sản thì cha mẹ lo sợ. Khi đã được sinh rồi giống như từ cõi chết được cứu sống lại, rồi cho bú mớm, ôm ấp, chỗ ráo cho con nằm mẹ giành chỗ ướt, luôn mong con mau được trưởng thành với trăm mối lo âu.
Các ngươi thấy không?
Các tội nhân trả lời:
–Dạ thấy!
Vua nói:
–Đó là sứ giả thứ nhất của ta.
2. Người già trên thế gian sắc diện tiều tụy, tóc bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, thịt nhăn da đùn, đi lòm khòm. Các ngươi thấy không?
Các tội nhân thưa:
–Dạ thấy!
Vua nói:
–Đây là sứ giả thứ hai của ta.
3. Người bệnh ở thế gian nằm liệt giường liệt chiếu. Trăm đau đớn cùng nhau kéo đến. Thức ăn ngon cho là dở. Các ngươi có thấy không?
Các tội nhân thưa:
–Dạ thấy!
Vua nói:
–Đây là sứ giả thứ ba của ta.
4. Người chết trên thế gian như gió đao cắt từng mạch máu, nhổ mạng căn của họ. Thân thể đẹp đẽ như vậy mà chết chưa đến mười ngày thì thịt thối, máu chảy ra, sình trướng, rữa nát, hôi thối, không ai dám đụng đến. Khi sống thì yêu thương nhau, đến khi chết lại nhàm gớm nhau. Các ngươi thấy không?
Các tội nhân thưa:
–Dạ thấy!
Vua nói:
–Đây là sứ giả thứ tư của ta.
5. Kẻ phạm tội trên thế gian bị trói cột, tống vào lao ngục, bị gông cùm, đánh đập, chịu năm độc, dắt ra chợ để giết hoặc cắt tay, chặt chân, chúm đầu, thiêu đốt và dùng năm thứ hình phạt. Các ngươi thấy không?
Các tội nhân thưa:
–Dạ thấy!
Vua nói:
–Đây là sứ giả thứ năm của ta.
Vua nói tiếp:
–Các ngươi đã thấy rồi thì nên tự suy nghĩ. Thân của các ngươi cũng sinh, già, bệnh, chết. Nếu các ngươi phạm tội thì cũng như họ, hiện tại chịu tai ương. Sao các ngươi không hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính các bậc trưởng lão, lấy Từ bi làm đầu? Những gì mình không thích thì đừng đem cho người. Ở đời có bậc Hiền minh thì phải theo học hỏi, quy y Tam bảo, đem tậm phụng thờ đạo, hạn chế, trừ bỏ các dục tình thì mới vượt qua các khổ. Những gì các ngươi đã làm thì bây giờ phải gánh lấy. Ta không thể gánh vác thay các ngươi được.
Các tội nhân thưa:
–Khi còn sống chúng con đã tạo những tội lỗi tày trời, không có thời gian để tu sửa việc ấy. Vua bảo người giữ ngục:
–Ngươi hãy dẫn đám người này đi đến chỗ khổ sở nhất.
Tên giữ ngục ấy đầu trâu mà tay người. Hai chân với móng trâu. Hắn rất mạnh, có thể bứng núi, cầm xoa chỉa ba bằng sắt rất cứng. Cái xoa ấy là để xúc cả trăm ngàn vạn tội nhân vào trong vạc lớn. Vạc ấy cao rộng khoảng bốn mươi dặm. Xoa kia giữ chặt không cho một tội nhân nào rớt xuống. Vì tội lỗi chưa hết nên các tội nhân ấy không chết. Từ miệng vạc đến đấy vạc một trăm năm. Từ đáy vạc mà đi lên cũng một trăm năm. Đó gọi là chỗ khổ sở nhất.
Các tôi nhân chịu tội lại càng khổ sở phải trải qua hết mười tám chốn như vậy. Trong đó nếu tội nhân nào trả hết tội mới ra khỏi.
Vua hiện lên nói:
–Các ngươi nay hãy đi đi. Nếu làm con thì phải luôn nghĩ đến bao ân, hiếu thuận với cha mẹ. Khi còn nhỏ phải bỏ ác làm lành, dốc lòng tin Tam bảo, luôn giữ giới, làm theo đạo, tu hành nhiều công đức, đừng có làm ác nữa mà phải vào lại nơi đây. Những kẻ ở địa ngục không kêu ai được đâu, phải khéo tự suy nghĩ.
Nghe vậy, các tội nhân hoan hỷ, cùng hô:
–Vạn tuế!..... (Nguồn: Kinh Ngũ Khổ Chương Cú)
+ Có quỷ thần tồn tại hay không vậy? Đáp án khẳng định là có: Quỷ thần có quyền lực can thiệp chúng ta hay không? Điều này không thể hoàn toàn khẳng định. Trong kinh Phật nói, quỷ thần không có quyền can thiệp chúng ta, quỷ thần cũng là một loại chúng sanh. Vì vậy kiết hung họa phước là do bản thân chúng ta tạo tác nghiệp thiện ác chiêu cảm nên, đây là sự thật, đây là trong kinh điển Phật nói lời chân thật với chúng ta. Quỷ thần cùng lắm chẳng qua là ngoại duyên mà thôi, giống người chấp hành pháp luật ở trong xã hội này của chúng ta như thẩm phán, thám tử, cảnh sát. Nhân dân không phạm tội họ không có quyền can thiệp, bạn có phạm tội thì họ mới can thiệp đến bạn. Trong quỷ thần cũng có một loại chấp hành pháp luật tương tự như tình trạng này. Cho nên khoa học kỹ thuật phát triển thì phủ định có quỷ thần, đây là quan niệm sai lầm. Chúng ta khẳng định họ có tồn tại, nhưng chúng ta cũng khẳng định kiết hung họa phước là do nghiệp thiện ác chiêu cảm (Nguồn: Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Người - Quỷ Thần: Người Sợ Quỷ 3 phần - Quỷ sợ người 7 phần (Nguồn - PS Tịnh Không giảng)
+ Con Người Đối Sử Với Quỷ Thần: Khổng lão phu tử dạy chúng ta "Đối với quỷ thần cần phải tôn kính, nhưng phải lánh xa". Nguồn: Thần Cây - Quỷ Thần Gá Sống Ở Cây
+ Có 8 bộ quỷ thần: Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già (HT T.Không-Kinh Phật); Tin gốc
+ Quỷ thần Quy Y và nghe kinh: Nhiểu Quỷ thần cũng muốn được quí vị làm lễ quy y cho họ đi. Sau khi làm lễ quy y xong, mời họ đến để nghe Kinh (Chỉ để ánh sáng mờ nhẹ). Họ thích nghe “Kinh Bồ Tát Địa Tạng Bổn Nguyện”. Quỷ thần đặc biệt là thích bộ Kinh này. Bạn nên mở phát Kinh suốt 24 giờ không ngừng, họ được lợi ích vô lượng vô biên. Mở Kinh 24 giờ không gián đoạn, quỷ thần hoan hỷ (Nguồn: PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH (tập 263)_ Lão Pháp Sư Tịnh Không)
+ Đời sống của quỷ thần: Người và quỷ ở cùng nhau, khác cảnh giới, không chướng ngại nhau ... mời xem bài giảng của PS Tịnh Không: Quan hệ giữa người với quỷ thần
+ Phẩm 14: Ngọc Báu Như Ý - Các Thần chú xa lìa sấm xét và Không còn sợ hãi
Bấy giờ, ở trong đại hội, đức Thế tôn bảo tôn giả A nan đà, rằng các người nên biết có một minh chú danh hiệu minh chú Như ý, làm rời xa mọi sự tai ách, lại ngăn chận những thứ sấm sét dữ dội, .... Minh chú này làm đại lợi ích cho nhân loại, chư thiên, xót thương thế giới mà hộ vệ cho tất cả yên vui. ..... Đức Thế tôn nói, đại hội hãy lắng nghe. Hướng đông vị trí này có chúa sấm sét tên A ga ta, hướng nam vị trí này có chúa sấm sét tên Sa tát ru, hướng tây vị trí này có chúa sấm sét tên Chu ta ba, hướng bắc vị trí này có chúa sấm sét tên Su ta ma ni (65) . Thiện nam hay thiện nữ nào nghe được tên những chúa sấm sét này, và biết vị trí của họ, thì người ấy hết mọi sợ hãi và tai họa. Nơi chỗ ở mà viết tên của họ thì chỗ ở ấy không còn phải sợ sấm sét, không tai ách và chướng nạn, không cả chết phi thời, chết oan uổng. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú Như ý: Tát da tha, ni mi ni, ni mi ni, ni min đa ri, tri lô ka, lô ka ni, tri su ra pa ni, rát sa, rát sa, soa ha; cầu nguyện cho con và chỗ ở này rời xa sự sợ hãi, sự khổ não, sự sấm sét, sự uổng tử. (Tadyatha nimini nimini nimindhari triloka lokani trisurapani raksa raksa svaha).
Bấy giờ đại bồ tát Quan tự tại ... tuyên thuyết vắn tắt về minh chú Như ý....: Tát da tha, ga tê, vi ga tê, ni ga tê, prát da tha kê, pra ti mi trê, sút đê, mút tê, vi ma lê, pra ba soa rê, ăn đa rê, păn đa rê, suê tê, Păn đa ra va si ni, Ha ri, Kăn ta ri, Ka pi li, Pin ga lát si, Đa đi mu khi, rát sa, rát sa, soa ha; ....
Bấy giờ bồ tát bí mật chủ Chấp kim cang cũng ... xin nói minh chú danh hiệu Không gì hơn. .....: Tát da tha, mu ni, mu ni, mu ni nê, ha rê, ma ti, ma ti, su ma ti, ma ha ma ti, ha, ha, ha, ha, ma ba, i na si thi tê, pa pa, va jrắt pa ni, a hăn, chi ri, cha, soa ha. ....
Bấy giờ Phạn vương ... liền tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, hi li, mi li, đi li, soa ha, Brắt ma pu rê, Brắt ma ma ni, Brắt ma gar bê, pút pa săm si thi rê, soa ha....
Bấy giờ Đế thích, chủ chư thiên Đao lợi, ..... thuyết minh chú Va ja xá ni: Tát da tha, vi ni, va ri ni, van đa ma đăn đê, ma ni nê ti ni, Gau ri, Chăn đa li, Ma tăn gi, Pút ka si, sa ra pra ba, hi na mát da, ta ma, út ta ra ni, ma ha ra ni, đa ra ni ku, chắt ra va kê, sá va ri, sá va ri, soa ha.
Bấy giờ ... Bốn thiên vương liền tuyên thuyết minh chú ấy: Tát da tha, pút pê, su pút pê, đu ma, pa ri ha rê, a ry da pa ri sá sít đê, săn ti ni, mút tê, măm găn dê, si tu tê, sít đa vi tê, soa ha....
Bấy giờ lại có các đại long vương,.... liền tuyên thuyết minh chú: Tát da tha, a cha lê, a ma lê, ăm ri tê, át sa, dê, a ba dê, pun da, par dáp tê, sar va pa pa pra sá ma ni dê, soa ha, a li dê, pan đu, su par ni dê, soa ha....
Bạch đức Thế tôn, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào miệng nói minh chú này, ... thì không bao giờ bị sấm sét, mọi sự sợ hãi, đau khổ, lo buồn, cho đến uổng tử cũng được rời xa, thuốc độc, sâu cổ, quỉ mị, trù ếm, hay cọp beo, sư tử, rắn độc, muỗi mòng, không gì hại được.
Bấy giờ đức Thế tôn phổ cáo đại hội, lành thay, những minh chú [mà các người tuyên thuyết] đều có sức lớn, chúng sinh cầu gì cũng được thỏa mãn. Có lợi ích lớn lao như vậy, trừ ra không chí tâm. .... (Nguồn: Ngọc Báu Như Ý - Kinh Kim Quang Minh)
+ Tu Công đức - Pháp tu tự tánh - Tu cho Linh hồn để tích lũy công đức Cải mệnh nhiệm mầu
Chư Thiện tri thức! Niệm niệm không gián đoạn là công, lòng giữ công bình chánh trực là đức. Tự tu tự tánh là công, tự tu tự thân là đức.
Chư Thiện tri thức! Công đức phải thấy trong tánh mình, chớ chẳng phải tìm ở chỗ cúng dường và bố thí. Bởi vậy phước đức với công đức là khác nhau. Vua Võ Đế không biết Chơn lý, chớ chẳng phải Tổ Sư ta lầm.
Giảng:
Quý vị Thiện tri thức! Cái gì là công? Tức niệm niệm của mình chánh niệm không gián đoạn, niệm niệm tu hành không ngừng nghỉ lâu ngày sẽ có công, cho nên nói ban đầu miễn cưỡng lâu ngày trở thành tự nhiên; tâm mình thường hành bình đẳng chánh trực, mà không có tất cả tướng cong quẹo, chính là đức. Quý vị tự tu tự tánh của chính mình, tức là lúc chưa kiến tánh cần phải tự mình tu tánh. Tu tánh tức là không sanh phiền não, ai đánh mình thì xem như đập vào tường vách, ai chửi thì xem người đó đang ca hát hoặc cho rằng họ đang nói tiếng ngoại quốc, giống như người ngữa mặt lên trời nhổ nước miếng, nước miếng rơi xuống mặt người đó. Người đó chửi quý vị, quý vị không để ý đến, thì cũng giống như người đó tự mắng mình vậy. Có người nói:
–Nếu đánh tôi, thân tôi đau nhức thì làm sao không đánh trả lại?
Cũng giống như ban đêm không có đèn, đụng đầu vào bức tường thì quý vị có đánh cho bức tường vài đấm không? Nếu đánh vài cái vào bức tường, thì ngược lại làm cho tay ông đau nhức thêm. Quý vị cần nên không để ý đến nó, giống như Bồ Tát Di Lặc nói:
"Già khờ mặc áo vá,
Cơm lạt bụng no nê,
Vá áo để che lạnh,
Vạn sự tùy duyên liễu.
Có người mắng Già khờ,
Già khờ chỉ nói tốt.
Có người đánh Già khờ,
Già khờ tự té xuống.
Nhổ đàm mặt Già khờ,
Cứ để nó tự khô.
Già cũng không phí sức,
Ông cũng không phiền não.
Ba la mật như thế,
Chính là diệu trung bảo.
Nếu hiểu nghĩa lý này,
Lo gì không đạo đắc."
Thật tuyệt! Nhưng mà không dễ dàng làm được, diệu trung bảo này không thể dễ dàng đạt đến.
Tự tu tánh thì không nổi giận, tự tu thân thì không làm việc xấu, không có dục tâm, tham tâm, sân tâm, si tâm, không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, đó là tu thân và cũng chính là đức.
Quý vị Thiện tri thức! Công đức phải tự kiếm trên thân của mình, chớ không phải giong ruổi bên ngoài tìm cầu, không phải bố thí cúng dường Tam Bảo liền nói ông có công đức. Đó không có công đức, mà chỉ có phước. Cho nên phước đức và công đức có sự sai khác. Phước đức là do ông tạo phước nghiệp và tương lai sẽ thọ phước báo, mà công đức là ông lập tức nhận lấy, đương thời liền được lợi ích. Lương Võ Đế không hiểu chân lý, chớ không phải Tổ sư Đạt Ma của chúng ta giảng không đúng đạo lý, nói không có công đức. Lúc đó Tổ sư Đạt Ma vốn muốn cứu độ Lương Võ Đế, nhưng vì Võ Đế quá tự cao tự đại, cho rằng mình là Hoàng đế, đã có vô lượng công đức. Tổ sư Đạt Ma muốn phá chấp trước này của nhà vua, bèn nói nhà vua không có công đức. Lương Võ Đế nghe như vậy trong tâm không vui, không còn xem trọng Tổ sư Đạt Ma. Dù Tổ sư Đạt Ma có giảng gì đi nữa, nhà vua cũng không nghe, cho nên Tổ sư Đạt Ma bỏ đi. Quả nhiên sau đó không lâu, Lương Võ Đế bị đói chết. Nếu nói nhà vua có công đức thì tại sao lại bị chết đói? Tổ sư Đạt Ma muốn cứu vãn nghiệp tội, không để nhà vua chết đói, khiến cho nhà vua sanh tâm giác ngộ, nhưng đáng tiếc Lương Võ Đế ngô ngã quá lớn, cho nên Tổ sư Đạt Ma không thể cứu nhà vua được. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Dụng công đức: Đây là nói, đem công đức đoạn sân hận/ Cái công đức khác [hồi hướng vô thượng Bồ-đề], không cầu phước báo thế gian. Chư vị đồng tu cần phải nên biết rằng, không cầu phước báo thế gian, không phải là không có phước báo, mà là phước báo càng thù thắng hơn. Tuy phước báo hiện tiền, nhưng dứt khoát không được để ở trong tâm, dứt khoát không được sinh tâm hoan hỷ. Đây chính là nói không nhận phước báo, cho dù phước báo lớn đi nữa cũng không hưởng thụ, mà đem cái công đức này hồi hướng vô thượng Bồ-đề, đến sau khi thành Phật thì quả báo sẽ thù thắng. Loại thù thắng này là không có cách gì dùng ngôn ngữ mà mô tả được, cho nên trong kinh Phật thường nói: “Bất khả tư nghị”. (Kinh Thập thiện - Tập 37 - PS Tịnh Không giảng)
+ Tu phúc được quả báo tùy theo ruộng phúc điền người đó gieo hạt giống Nghiệp
Bấy giờ Đức Thế Tôn, cùng với Ngài A Nan, vào thành Vương Xá khuất thực...... Phật bảo các đệ tử rằng:
- Nên phải giữ gìn khẩu nghiệp, cái họa hoạn của khẩu nghiệp hơn cả lửa mạnh. Đối với cha mẹ, chúng Tăng, nên phải đem lòng cung kính cúng dàng, nói lời như hòa khen ngợi, thường nghĩ đến ân đức của các vị đó. Chúng Tăng là ruộng phúc, đã ra khỏi ba cõi; còn cha mẹ là ruộng phúc tối thắng trong ba cõi. Vì sao? –Vì trong chúng Tăng gồm có bốn quả, bốn hướng, mười hai bậc hiền sĩ, người nào cúng dàng các bậc ấy sẽ được hưởng phúc vô lượng, không những như vậy, nếu tinh tiến tu hành không thoái tâm, thì còn được thành Phật đạo nữa vậy.......
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
- Cha mẹ, chúng Tăng, là hai thứ ruộng phúc của tất cả chúng sinh, là diệu quả của cõi Nhân cõi Thiên, Niết Bàn giải thoát, cũng do đó mà được thành tựu vậy.......
- Ruộng phúc hữu vi và Vô vi: Khi ấy Đức Như Lai vì muốn cứu chúng sinh khỏi cái khổ trong ba cõi, tiêu trừ năm món phiền não và mười điều ràng buộc, khiến hết thảy chúng sinh đều được giải thoát vào cảnh Niết Bàn yên vui nên Ngài mới mở lòng từ bi sâu xa mà chỉ bày hai thứ ruộng phúc:
Một là ruộng phúc hữu vi; hai là ruộng phúc vô vi. Ruộng phúc hữu vi là cha mẹ; ruộng phúc vô vi là Sư trưởng, Chư Phật, Pháp, Tăng và các vị Bồ Tát. Nếu chúng sinh hết lòng phụng dưỡng cúng dàng, sẽ được phúc báo và có thể tiến đến thành đạo Bồ Đề. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ 69. GIỮ GIỚI CÓ NĂM CÔNG ĐỨC
1. Cầu gì đều được như nguyện.
2. Tài sản đã có thì thêm mãi không hao sút.
3. Ở đâu cũng được mọi người kính mến.
4. Tiếng tốt đồn khắp thiên hạ.
5. Thân hoại mệnh chung được sanh lên cõi trời. (Nguồn: mục 69- (Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
+ Ngũ phước: Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo:
"Khi hiền giả thuyết pháp có được năm phước đức:
- Phước đức thứ nhất: Người ấy lúc sống được trường thọ.
- Phước đức thứ hai: Người ấy lúc sống được giàu có, nhiều tiền, nhiều của.
- Phước đức thứ ba: Người ấy lúc sống được đoan chánh không sánh được.
- Phước đức thứ tư: Người ấy lúc sống được tiếng khen xa nghe.
- Phước đức thứ năm: Người ấy lúc sống được thông minh, đại trí.
“Do đâu hiền giả thuyết pháp được trường thọ? Do đời trước lúc thuyết pháp, điều nói trước cũng thiện, điều nói giữa cũng thiện, điều nói sau cũng thiện. Điều nói ấy đầy đủ ý nghĩa, quy về chỗ tịch lặng, vô vi. Kẻ hiếu sát nghe pháp này liền dừng lại không sát hại nữa. Do vậy mà được trường thọ.
“Do đâu người thuyết pháp được giàu có, nhiều tiền, nhiều của? ... Kẻ trộm cắp nghe được Kinh liền dừng lại không trộm mà còn bố thí. Do vậy được giàu có.
“Do đâu người thuyết pháp được đoan chánh không sánh được? .... khiến cho người nghe pháp an lành, hòa diệu, sắc mặt vui vẻ, tự sinh mừng rỡ. Do vậy mà được đoan chánh.
“Do đâu người thuyết pháp được tiếng khen xa nghe? ... khiến người nghe pháp kính Phật, kính Pháp, kính Tỳ kheo Tăng. Do vậy mà được nghe danh.
“Do đâu người thuyết pháp được thông minh, đại trí? ... khiến người nghe pháp thấy rõ trí tuệ tuyệt diệu. Do vậy mà được thông minh, đại trí.” (Nguồn: Phật Thuyết Hiền Giả Ngũ Phước Đức Kinh)
+ Phân biệt Công đức và phước đức:
Trong Ngũ Phước, quan trọng nhất là điều cuối cùng, vì lẽ nào? Nó quyết định quả báo của quý vị trong đời sau. Nếu chết chẳng tốt lành, hiện thời chúng ta thường thấy người già lú lẫn, chuyện này rất phiền phức, chẳng phải là chuyện tốt đẹp.
Người già bị lú lẫn, dẫu chúng ta niệm Phật trợ niệm cho họ, họ cũng chẳng được hưởng gì, chẳng đạt được lợi ích ấy, chắc chắn sẽ phải lưu chuyển theo nghiệp.
Nếu người ấy suốt đời tích đức, hành thiện, chúng ta tin tưởng người ấy tuổi già chẳng thể nào mắc phải chứng bệnh ấy, vì sao? Người ấy có phước báo, có các thiện hạnh và thiện đức bảo vệ.......;
Quý vị thật sự muốn tích lũy công đức, công đức và phước đức khác nhau, chớ nên coi phước đức là công đức. Quý vị làm chuyện tốt, giúp đỡ người khác, đó là phước đức.
Quý vị thấy thuở ấy, Đạt Ma tổ sư đến Trung Quốc, Lương Vũ Đế tiếp kiến Ngài. Có thể nói Lương Vũ Đế là một vị hộ pháp lớn nhất trong Phật giáo sử Trung Quốc, thật sự tận tâm tận lực hộ trì Phật pháp. Ông ta dùng thân phận đế vương, lập cho Phật giáo bốn trăm tám mươi tòa đạo tràng, tự viện, am, đường, hộ trì mấy chục vạn người xuất gia, chiếu cố họ, chính mình rất đắc ý.
Đạt Ma tổ sư đến Trung Quốc, hai người gặp mặt, Lương Vũ Đế khoe khoang chính mình đã thay Phật môn làm những chuyện tốt đẹp như thế, hướng về Tổ thỉnh giáo, trên thực tế là khoe khoang: “Trong Phật môn, trẫm đã làm chuyện tốt đẹp nhiều ngần ấy, công đức có lớn hay không?”
Đạt Ma tổ sư trả lời bằng một câu: “Trọn chẳng có công đức”.
Lương Vũ Đế nghe câu ấy chẳng chịu nổi, rất bực mình, đuổi Tổ đi, chẳng biếu tặng gì. Đạt Ma tổ sư nói chẳng sai, Ngài là người thật thà. Nếu tán thán nhà vua vài câu: “Rất lớn, rất lớn”, vua sẽ khoái chí, hộ trì Tổ, [do Tổ không làm như vậy] nên nhà vua hậm hực. Đây là [Tổ Đạt Ma] nói rõ Lương Vũ Đế làm chuyện gì? Phước đức, chẳng phải là công đức.
Công đức là gì? Công đức là tu hành. Trì giới có công, có công phu sẽ đạt được gì? Đắc Định, đắc Định là đức; có công phu tu Định sẽ khai trí huệ, do Định khai huệ, khai trí huệ là đức. Vì thế, những thứ ấy là thật, chẳng giả, chẳng dính dáng gì đến chuyện quý vị tu bố thí, cúng dường.
Bố thí, cúng dường là tu phước, nhất định phải biết điều này. Nếu khi ấy Lương Vũ Đế hỏi: “Trẫm có phước đức hay không”? Nhất định tổ Đạt Ma sẽ giơ ngón cái lên: “Rất ư là lớn, phước đức của bệ hạ rất lớn!”
Phước đức và công đức khác nhau, quả báo của phước đức là trong ba thiện đạo, công đức chẳng phải vậy, công đức là vượt thoát lục đạo luân hồi, thành Phật, làm Tổ, đó là công đức.
Công đức và phước đức nhất định phải phân biệt rõ ràng, phải hiểu rõ ràng. Chúng ta thường thấy trong chùa miếu ghi cái rương đựng tiền để người ta bỏ tiền vào là Công Đức Sương (rương công đức), lầm rồi, há phải là công đức? Người hiểu biết sẽ ghi là Phước Điền Sương (rương ruộng phước). Đó là đúng, quý vị đến gieo phước, [đó là] phước điền, chẳng có công đức.
Dẫu quý vị bố thí chùa miếu nhiều đến mấy vẫn chẳng có công đức, mà là phước đức. Nhất định phải hiểu rõ điều này, đừng nên lầm lẫn. Chúng ta học Phật, phải phước huệ song tu, công đức và phước đức đều phải nên tu; quý vị chỉ tu công đức, không tu phước đức, sẽ thiếu phước!
Trong kinh Phật có câu chuyện: “Tu huệ, bất tu phước, La Hán thác không bát” (Tu huệ, chẳng tu phước, La Hán đi khất thực, bát rỗng tuếch), A La Hán chứng đắc A La Hán quả, đó là công đức, nhưng thiếu phước báo, đi ra ngoài khất thực, chẳng được ai cúng dường, thiếu phước mà!
Ngược lại, “tu phước, bất tu huệ, đại tượng quải anh lạc” (tu phước, chẳng tu huệ, voi to đeo chuỗi báu). Thời cổ, công cụ giao thông chưa có xe cộ. Tại Ấn Độ và Nam Dương đều dùng voi để thay thế, quốc vương ra ngoài ngồi trên lưng voi. Voi ấy là người tu hành trong quá khứ, tu phước, chẳng tu huệ, đời này đầu thai đọa trong súc sanh đạo, là vật cưỡi của quốc vương, khắp mình đeo các chuỗi báu, đó gọi là “đại tượng quải anh lạc”. Trong kinh, đức Phật thường nêu lên tỷ dụ này, dụng ý rất sâu. Nếu chúng ta thấu hiểu, hãy phước huệ song tu.
Đức Phật trọn chẳng cấm chúng ta tu phước, nhưng tu Huệ trọng yếu hơn tu phước, phải lấy tu Huệ làm chánh yếu, phải tu công đức. Trợ tu là phụ trợ thì tu phước kèm theo, phước huệ song tu. Bất luận tại gia hay xuất gia đều phải hiểu đạo lý này, vì sao? Đã gặp gỡ Phật pháp, Phật pháp thù thắng ở chỗ nó tạo cơ hội cho quý vị, ngay trong một đời này có thể viên thành Phật đạo, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chuyện này rất hiếm có. Chẳng dễ thoát khỏi luân hồi! Đã sa vào hầm sâu này, chỉ có gặp gỡ Phật pháp thì quý vị mới có cơ hội vượt thoát luân hồi. Nhất là gặp gỡ Tịnh Độ, gặp gỡ Tịnh Độ mà nếu thật sự chịu tu tập, không ai chẳng thành công, thật sự giải thoát!
Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì có thể nói thân thể này của chúng ta là thân cuối cùng trong lục đạo luân hồi, đời sau chẳng còn luân hồi nữa, điều này trọng yếu lắm!
Tụng kinh, niệm Phật là công đức chân thật, tu thiện tích đức là chuyện tốt đẹp, phước huệ song tu, như vậy là đúng. (Nguồn: PS Tịnh Không khai thị - Công đức và phước đức)
+ Tật xấu và đức hạnh:
Tuy nhiên, sẽ tới ngày mà linh hồn thức tỉnh với nhu cầu phải chi phối tình hình và phải khẳng định uy quyền của chính nó. Khi đó, con người (lúc đầu thì thỉnh thoảng) đánh giá lại tình hình. Y phải khám phá trước tiên loại năng lượng nào nổi trội hơn, và là lực thúc đẩy trong kinh nghiệm hằng ngày của mình. Khi đã phát hiện ra điều này, y bắt đầu tổ chức lại, định hướng lại và xây dựng lại các thể của mình. Toàn bộ phần giảng dạy này có thể được tóm gọn trong hai từ ngữ: Tật xấu và Đức Hạnh.
Tật xấu là năng lượng của các lớp vỏ, riêng biệt hoặc được kết hợp trong phàm-ngã, khi nó kiểm soát các hoạt động của sự sống và làm cho linh hồn phụ thuộc vào các lớp vỏ, và vào các xung lực và các xu hướng của phàm-ngã.
Đức hạnh là việc đưa vào các năng lượng mới và của một nhịp điệu rung động mới, để cho linh hồn trở thành yếu tố kiểm soát tích cực, và các mãnh lực của linh hồn thay thế các mãnh lực của các thể thấp. Tiến trình này là tiến trình lập hạnh. Hãy để Tôi minh họa điều này. Một người là nạn nhân của một tính khí dễ cáu kỉnh và hay gắt gỏng. Chúng ta nói với y rằng anh ta cần phải bình tĩnh và thanh thản, và trau dồi hạnh dứt bỏ để nhờ thế đạt được sự tự kiểm soát. Chúng ta dạy cho anh ta rằng thay vì có tính tình cáu gắt, nên có sự dịu dàng và bình tĩnh. Điều này nghe có vẻ vô vị và nhàm chán. Tuy nhiên những gì thực sự được nói đến chính là: để thay cho bản chất vị kỷ dễ xúc động và hoạt động của luân xa tùng thái dương (mang theo các mãnh lực mạnh mẽ của cõi cảm dục), y nên áp đặt vào đó nhịp điệu điềm tĩnh vô tư và hòa hợp của linh hồn, tức Chân Ngã. Công việc áp đặt rung động cao lên trên rung động thấp này là việc lập hạnh, điều kiện tiên quyết đầu tiên trên Con Đường Dự Bị. Khi đọc mục này đạo sinh nhiệt tâm có thể bắt đầu tổng kết các tài sản về năng lượng của mình; y có thể lập bảng kê các lực mà y cảm thấy chi phối cuộc sống của mình, từ đó đi đến một sự hiểu biết hợp lý và trung thực về các lực cần được khống chế, và những lực cần được tăng cường. Sau đó, trong ánh sáng của chân tri thức, y hãy tiến tới trên con đường định mệnh của y..... (Nguồn: Tham thiền lập hạnh)
- Các đức tính nào cần xây dựng: Bạn đọc lại quyển sách Dưới Chân Thầy của Krishnamurti để hình dung các đức tính cần phải rèn luyện. Và căn cứ vào đó bạn quán chiếu lại bản thân mình để từng bước xây dựng các tính tốt. (Nguồn: Dưới Chân Thầy)
+ Xem thêm bản: Giảng giải sách Dưới Chân Thầy
+ Nghề chiêm tinh gia - Thầy tướng số - Nghề xem số đoán mệnh
51. Nhân viên dịch vụ cá nhân
516. Nhân viên dịch vụ cá nhân khác
Nhân viên dịch vụ cá nhân khác kể lại quá khứ, dự đoán tương lai của cuộc đời con người; cung cấp dịch vụ bầu bạn và dịch vụ cá nhân khác; làm đẹp, huấn luyện và chăm sóc vật nuôi; dịch vụ tang lễ và ướp xác; hướng dẫn lái xe.
Nhiệm vụ chủ yếu gồm: Viết lá số tử vi; cung cấp dịch vụ bầu bạn và dịch vụ cá nhân khác; cung cấp dịch vụ tang lễ và ướp xác; nuôi dưỡng, chăm sóc, làm đẹp vật nuôi; hướng dẫn lái xe.
5161. Nhà chiêm tinh, nhà tướng số và những người có liên quan đến tâm linh khác
Nhà chiêm tinh, nhà tướng số và những người có liên quan đến tâm linh khác nhắc lại quá khứ và dự đoán tương lai của cuộc đời con người qua tử vi, xem đặc điểm lòng bàn tay, rút thẻ hoặc các kỹ thuật khác.
Nhiệm vụ chủ yếu gồm:
- Viết lá số tử vi cho các cá nhân khi mới sinh ra hoặc khi đã lớn lên để kể lại quá khứ và dự báo các sự kiện và điều kiện sống của họ trong tương lai;
- Xem đặc điểm lòng bàn tay của khách hàng, rút thẻ, vị trí của lá trầu hoặc bã cà phê trong cốc, hình dạng và mẫu xương động vật chết…
- Dự báo sự kiện tương lai dựa vào những hiểu biết;
- Xem ngày giờ tốt cho các sự kiện như lễ nhậm chức, kết hôn, những
chuyến đi, những lễ kỷ niệm và tôn giáo khác;
- Đưa ra những cảnh báo và lời khuyên về các hoạt động;
- Đưa ra những lời khuyên để tránh những điềm xấu có thể xảy ra.
Ví dụ về các nghề được phân loại ở đây:
- Nhà chiêm tinh
- Nhà tướng số
- Nhà số học
- Người xem tướng tay
Loại trừ:
- Thầy lang - 3230
- Người chữa lành đức tin - 3413 (Nguồn: Phụ lục II - DANH MỤC NGHỀ NGHIỆP VIỆT NAM - (QĐ số 34/2020/QĐ-TTg, 26/ 11/ 2020)
+ Nghành nghề đào tạo Trung cấp - Cao đẳng:
a/ 53404 - 63404: Quản trị - Quản lý
b/ 5340401 - 6340401: Quản trị nhân sự
c/ 5340402 - 6340402: Quản trị nhân lực (Nguồn: Số 26/2020/TT-BLĐTBXH ngày 30/12 / 2020)
+ Bệnh thiếu máu, tan máu, Thalassemia,....:
Bây giờ đến câu hỏi của anh:
1. Theo giáo lý của Chân sư DK, Ngài có dạy gì về các bệnh và nghiệp liên quan đến máu không?
Trả lời cho các bệnh liên quan đến máu và nghiệp:
Chắc chắn có nghiệp liên quan ở đây mà Chân sư DK giải thích trong đoạn trích dẫn dưới đây:
cơ thể etheric (dĩ thái) là điểm tập trung cho tất cả các năng lượng bên trong cơ thể, và do đó năng lượng được truyền đi sẽ không chỉ thuần là năng lượng sống (sinh lực) hay đơn giản là
prana hành tinh mà còn được phẩm định bởi các mãnh lực đến từ thể cảm dục hoặc vận cụ cảm xúc, từ thể trí hoặc từ linh hồn. …. những yếu tố quy định này tạo nên thể etheric như nó vốn là trong bất kỳ lần lâm phàm nào; đến lượt chúng, những yếu tố này là kết quả của các hoạt động được khởi xướng và thực hiện trong các kiếp trước, và do đó tạo thành các trách nhiệm nghiệp của bệnh nhân hoặc sự tự do nghiệp của y. (EH p275)
Người đó phải trả giá cho những sai lầm đã tạo ra trong các kiếp trước (EH Định luật số II) các thể bên trong, thông qua thể etheric, chi phối biểu hiện bên ngoài của con người, và bệnh
tật hoặc sức khỏe phần lớn phụ thuộc vào chúng. Chúng là nguyên nhân nghiệp trực tiếp của sự hiện tồn thuộc cõi vật lý.
Nếu ý tưởng này sau đó được mở rộng để bao gồm các lần lâm phàm trước đó — như chắc chắn phải xảy ra — thì chúng ta đi đến kết luận rằng tình trạng của những thể bên trong này,
những hạn chế và sự giàu có của chúng, những khiếm khuyết và tài sản của chúng, cũng như các khuynh hướng tâm lý và tâm linh nói chung của chúng kế thừa từ các kiếp trước, và do đó
chịu trách nhiệm cho hoàn cảnh trần thế hiện tại. EH p289
Thông thường luân xa tim chi phối trái tim và liên quan đến bất kỳ căn bệnh nào ảnh hưởng đến hệ tuần hoàn và chính máu như Chân sư DK nói “máu là Sự sống”.
Có khả năng là con trai của anh ở kiếp trước đã vi phạm định luật Bác ái được ghi nhận bởi trung tâm lực tim, vì vậy trong lần lâm phàm này, linh hồn của cậu đang khắc phục tình hình.
Câu hỏi thứ hai mà anh hỏi là một câu hỏi quan trọng
2. Có cải thiện được không hay có cách nào cải thiện được tình trạng bệnh này không?
Có, Nghiệp có thể được hóa giải, nó không phải là cố định. Đây là trích dẫn từ Chân sư DK về cách đối phó với tình huống này:
Yếu tố có tầm quan trọng là những nguyên nhân, do con người khởi xướng từ kiếp này sang kiếp khác; những điều này phát sinh ra trong sự xuất hiện của bệnh tật, sự xuất hiện của một
số hậu quả tai hại trong hoàn cảnh và sự kiện, và trong điều kiện chung của một kiếp sống cụ thể.
Chính với những nguyên nhân này, con người phải học cách đối phó, nhận biết chúng, và truy tìm năng lượng vốn quy định kết quả tương ứng, sau đó giải quyết chủ yếu với nhiệm vụ phủ
định nguyên nhân này bằng cách đối lập nó với một ý chí được rèn luyện. Karma không phải là một điều tất yếu, không thể tránh khỏi và xảy ra thảm khốc. Nó có thể được hoá giải;
nhưng sự hóa giải này, đặc biệt khi có liên quan đến bệnh tật, sẽ bao gồm bốn loại hoạt động:
1. Xác định bản chất của nguyên nhân và khu vực trong tâm thức nơi nó bắt nguồn.
2. Phát triển những phẩm tính đối lập với nguyên nhân tạo quả.
3. Thực hành hạnh bất hại để ngăn chặn sự biểu lộ của nguyên nhân và ngăn chặn bất kỳ việc tạo thêm tình trạng đáng tiếc.
4. Thực hiện các biện pháp về thể chất cần thiết sẽ tạo ra các điều kiện mà linh hồn mong muốn.
Các bước này sẽ bao gồm:
a. Bằng lòng về mặt trí tuệ và chấp nhận thực tế của (nghiệp) quả — trong trường hợp mà chúng ta đang xem xét liên quan đến nghiệp — bệnh tật.
b. Hành động khôn ngoan theo phương pháp y học chính thống
c. Sự hỗ trợ của một nhóm chữa lành hoặc một người chữa lành để hỗ trợ việc chữa lành tinh thần bên trong.
d. Có tầm nhìn rõ ràng về kết quả. Điều này có thể dẫn đến sự chuẩn bị cho một cuộc sống cõi trần hữu ích hơn hoặc chuẩn bị cho quá trình chuyển tiếp vĩ đại được gọi là cái chết.EH296
Chúng ta hãy đi qua từng điểm một:
1. Xác định bản chất của nguyên nhân và khu vực trong tâm thức nơi nó bắt nguồn.
Biết về căn bệnh này, chúng ta nghiên cứu trở ngược lại và truy tìm nguồn gốc của căn bệnh, vì vậy chúng ta biết chính trung tâm lực tim là nơi bị ảnh hưởng. Chúng ta đang chứng kiến
sự xung đột giữa năng lượng linh hồn của tình yêu thương vô điều kiện và sự tập trung vào cái ngã thấp/cái tôi của luân xa tùng thái dương. Linh hồn đang cố gắng đánh thức luân xa
tim và làm cho nó đáp ứng hơn với sự rung động của nó, nhưng trải qua nhiều kiếp sống, xu hướng này là hướng tới những mong muốn phục vụ cái tôi/phàm ngã.
2. Phát triển những phẩm tính đối lập với nguyên nhân tạo quả. Những phẩm tính linh hồn liên quan đến luân xa tim cần được phát triển, tức là (những phẩm tính như) nghĩ đến lợi ích nhóm hoặc tình yêu thương nhóm, khiêm tốn, phục vụ người khác, nhẫn nại, khoan dung, nhân ái, cảm thông, nhạy cảm với đau khổ và nhu cầu của người khác được nuôi dưỡng và thể hiện để bù đắp nguyên nhân của sự ích kỷ, lợi ích cá nhân và ham muốn phàm ngã vốn được thực hành trong các kiếp trước.
3. Thực hành hạnh bất hại để ngăn chặn sự biểu lộ của nguyên nhân và ngăn chặn bất kỳ việc tạo thêm tình trạng đáng tiếc.
Đây là một điểm quan trọng vì hạnh bất hại là năng lượng mạnh nhất trong thái dương hệ của chúng ta. Đó là phẩm tính chính yếu của trái tim, của Đức Christ và của Hành tinh Thượng đế. Vì vậy, việc giúp con trai của anh nuôi dưỡng và thể hiện phẩm tính này trong hóa thân lần này là điều tối quan trọng cho sự hóa giải căn nguyên của bệnh tật.
4. Thực hiện các biện pháp về thể chất cần thiết
• Hiểu biết về mặt trí tuệ những tác động của Luật Nghiệp quả
• Anh đã thực hiện các hành động liên quan đến phương pháp y học vì anh cần quản lý và chăm sóc các nhu cầu thể chất [của cậu bé]
• Đưa con trai của mình vào danh sách bệnh nhân trong nhóm chữa lành, vì chữa lành bằng phát xạ là chữa lành thuộc linh hồn. Nhóm sẽ giúp linh hồn của cậu bé đạt được việc cần làm
của đời mình và loại bỏ nguyên nhân tạo ra căn bệnh từ đầu.
• Có tầm nhìn rõ ràng về kết quả. Làm hết sức mình cho con trai của anh, điều này thì không phải bàn vì anh là một người cha yêu thương và chu đáo. Linh hồn của con trai anh đã chọn cha mẹ quan tâm chu đáo để đạt được mục đích của nó và học được một bài học rất quan trọng trong lần hóa thân này và cha mẹ rõ ràng là những người tốt nhất để phát huy những điều tốt nhất trong cậu bé và dạy cậu thể hiện tình yêu thương của linh hồn mình và góp phần vào việc con trai anh tiến lên phía trước về con đường đạo, rất có thể đạt được hoặc ít nhất là chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ nhất hoặc thứ hai cùng với hàng triệu người đang lâm phàm vào thời điểm này để thiết lập giới thứ 5, giới linh hồn, trên trái đất vào đầu Thời đại Bảo bình.
Chủ thể trong quá trình hóa thân (chủ thể đang lâm phàm) — từ góc độ của linh hồn — chắc chắn và có ý thức lựa chọn cha mẹ của mình cho những gì họ có thể đóng góp vào việc làm hoàn
chỉnh thể xác của mình trong khi nhập thể. Do đó, thể sinh lực có bản chất khiến chủ thể dễ mắc phải một loại nhiễm trùng hoặc bệnh tật cụ thể nào đó; cơ thể vật lý có bản chất sao cho con
đường ít đối kháng nhất của nó cho phép xuất hiện và kiểm soát điều mà thể sinh lực [Trang 282] có thể làm được; linh hồn nhập thể tạo ra, trong công việc sáng tạo và trong phương tiện
sinh lực [ND: thể dĩ thái] của nó, một cấu tạo cụ thể mà cha mẹ được chọn đóng góp một khuynh hướng xác định. Người này do đó không có khả năng chống lại một số loại bệnh tật. Điều này
được xác định bởi nghiệp của y.
Các sinh viên [Trang 496] bí truyền nên nhớ rằng cha mẹ chỉ hiến tặng phần thể xác đậm đặc.
Họ không đóng góp gì khác ngoại trừ ra một cơ thể có một phẩm tính và bản chất cụ thể sẽ cung cấp phương tiện tiếp xúc cần thiết với môi trường mà linh hồn nhập thể yêu cầu. Họ cũng
có thể cung cấp phương thức cho mối quan hệ nhóm, nơi trải nghiệm linh hồn lâu dài và mối quan hệ nhóm thực sự đã được thiết lập. EH 496
Từ câu trích dẫn ở trên, rõ ràng là cha mẹ có một vai trò trong nghiệp quả của con trai họ.
Điều này đã được lên kế hoạch rõ như vậy trước khi lâm phàm. Bằng cách này, nó thúc đẩy và củng cố hơn nữa mối quan hệ giữa anh và con trai anh.
Tôi hy vọng phần giải thích này sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề xung quanh các mối quan hệ nghiệp.
Vui lòng liên hệ lại với tôi nếu cần làm rõ thêm và có thêm câu hỏi do đó. Tôi rất sẵn lòng hỗ trợ.
Trong Sự sống và Tình yêu thương. Ngày 21/10/2022 - Từ cô giáo Nicole. Anh Duy Sáng - MFVN phổ biến
+ Xử lý cơn giận: Nhưng, ta phải làm gì nếu ai đó đánh ta, làm hại ta, hay làm tổn thương ta? Làm gì nếu người khác sỉ nhục ta? Thường thì người đời đều muốn trả đũa hoặc trả thù - thói thường và phản ứng của con người là vậy. Nhưng, rồi nó sẽ dẫn đến đâu? Hận thù không thể nào được xóa bỏ bằng hận thù, như lời của Đức Phật được chép lại trong kinh Pháp cú. Một phản ứng giận dữ sẽ dẫn đến sự giận dữ. Nếu ta phản ứng lại cơn tức giận của người khác bằng tâm từ ái, thì sự tức giận của người đó sẽ được nguôi ngoai phần nào, hay ít nhất là không tăng lên. Từ từ cơn giận sẽ phai biến. Chỉ có tình thương mới xóa được hận thù.
Thời Đức Phật, có một người muốn làm kẻ thù của Phật và âm mưu giết Phật, đó là Devadatta. Người này xuất gia đi tu theo Phật, nhưng vì bất đồng quan điểm với Phật và vì lòng tham muốn lãnh đạo và thay đổi Tăng đoàn, nên ông sinh lòng thù hận và muốn giết Phật. Ông cho voi dữ uống rượu và canh đúng lúc, đúng nơi Phật đang đi qua, ông thả voi điên ra để giết Phật. Mọi người đều bỏ chạy, và ai cũng kêu Phật hãy bỏ chạy khỏi voi dữ. Ngài Ananda cũng bước lên đứng ngăn voi dữ tấn công Phật, nhưng Phật bảo ngài tránh ra, vì sức người như ngài cũng không ngăn được voi dữ.
Khi voi dữ đến gần Phật, nó chồm lên, hai tai dựng đứng trong cơn say điên. Đức Phật chỉ đứng im và phóng những ý nghĩ từ bi về phía con voi. Con voi ngừng lại, Phật đưa hai bàn tay ngửa về phía con voi và truyền tâm từ bi sang nó. Con voi phủ phục quỳ xuống dưới chân Phật, ngoan ngoãn như một con cừu. Lòng từ bi đã chinh phục được sự hung dữ dã man của một con vật đang trong cơn điên tiết.
Sự phản ứng tức giận đối với những tức giận, thù hận đối với thù hận, là kiểu phản ứng có điều kiện; do điều kiện tác động mà có; thứ đó là do học hỏi, do bắt chước hay do bị nhiễm thói phàm trần chứ không phải đơn thuần là bản năng. Nếu chúng ta được nuôi dạy từ nhỏ và có được tính nhẫn nhục, tốt bụng, và nhẹ nhàng, thì tâm từ đã trở thành một phần trong cuộc sống của ta. Nó đã trở thành một thói quen. Nếu không, nếu chúng ta (bị) lớn lên trong môi trường xấu, hoặc luôn nhìn thấy những thói đời xấu xa, tranh đấu và bạo lực, thì chúng ta chỉ toàn có thói quen luôn tức giận. Nhưng, ngay khi chúng ta đã là người lớn, chúng ta vẫn luôn còn cơ hội thay đổi thói quen phản ứng của chúng ta. Chúng ta có thể tu tập để phản ứng và đối xử theo một cách khác..... (Nguồn: Xử lý cơn giận_Thiền sư Gunarantana)
+ Cuộc sống Hạnh phúc đích thực: ... Ở trong kinh Pháp Hoa nói chúng ta là những gã cùng tử, chúng ta có những thứ tự làm cho mình có hạnh phúc được mà không tự khơi dậy, lại đi xin xỏ hạnh phúc từ người khác. Khi các vị tu tập có phẩm chất, các vị quay vào bên trong để mời ra được những chất liệu của sự thư dãn thoải mái, của sự thanh thản, của sự bình án, của sự tự do giải thoát, của sự bao dung, độ lượng, của nhẫn nhục, của yêu thương, tất cả những cái đó là tài sản của một con người, những giá trị quý báu của tâm hồn, và từ rất lâu rồi, chúng ta đã bỏ bê, đã không nuôi dưỡng, chúng ta đi tìm kiếm những cái bên ngoài, cần một sự kính trọng của người khác thì mình mới sống được, cần một sự yêu thương, cần một cú điện thoại thôi là cũng ngủ được. Thì tất cả những đòi hỏi đó là tại vì thiếu cái chất ở bên trong, thiếu tài sản ở bên trong. Chúng ta sở dĩ làm một gã cùng tử tha phương cầu thực là tại vì chúng ta không biết rằng trong chéo áo có viên ngọc minh châu. Đức Phật nói các vị cũng như tôi các vị ai cũng có những giá trị bên trong rất là tuyệt vời mà khi các vị chịu quay về để khơi dậy, để nuôi dưỡng thì các vị sẽ cảm thấy đủ, thấy no. Cái tôi, cái bản ngã các vị không còn hướng ra bên ngoài để tìm kiếm những thức ăn cảm xúc nữa. Nó đã no đủ rồi. Nó không có mong muốn, không có đòi hỏi, không hướng ra bên ngoài nữa, hoặc là hướng nhưng rất ít. Mà khi chúng ta không hướng ra bên ngoài nhiều, không chờ đợi, không mong cầu cái gì, thì không có cái gì có thể đụng được chúng ta cả, đừng nói gì là quật ngả. Chúng ta sở dĩ bị quật ngả là tại vì chúng ta quá cầu cạnh, quá cần những thứ bên ngoài. Khi chúng ta không cần nữa hoặc là có cũng được, không có cũng không sao tại vì chúng ta có cái bên trong rồi.
Tu tập phải có hỷ lạc. Ở bên thiền tập chúng tôi có câu "Thiền duyệt vi thực": lấy thiền làm thức ăn, niềm vui từ thiền định làm thức ăn, thức ăn cho bản ngã, không phải thức ăn cho bao tử. Khi mình có niềm vui từ thiền định, mình không khó chịu nữa. Mình khó chịu là gì? Là mình đòi hỏi cái gì bên ngoài nó không như ý mình....
Đức Phật dậy - Câu này vượt hơn hẳn mọi tôn giáo khác, "không có con người xấu xa mà chỉ có hành động xấu xa": hành động là nhất thời, hành động là vô thường hành động là hiện tượng, còn con người là bản chất. Đức Phật nói bản chất thì ai cũng có thể là một vị Phật hết, nhưng trên mặt hiện tượng thì họ không xài được chất Phật đó. (Linh hồn vốn đại Thiện, ai cũng có Tánh Phật ngự ở trong và có thể thành Phật_NTH) (Nguồn: Chuyển hóa cơn giận_Thích Minh Niệm)
+ Người nóng giận - Người nóng tính - Người thù hận:
Sân có nghĩa là nóng giận bộc phát ra bên ngoài khi ta không hài lòng hay bất bình về một điều gì đó. Sân được biểu lộ qua những trạng thái như đỏ mặt tía tai, bực tức, la hét, xỉa xói, nguyền rủa, chửi mắng, đánh đập, thậm chí có thể giết người khi không làm chủ được bản thân. Song song với sân là hận, có nghĩa là hờn, là dỗi, còn gọi là oán hờn, bức rức, khó chịu trong tâm. Theo từ Hán Việt, ta gọi chung là “sân hận”, một trạng thái của tâm được thể hiện ra bên ngoài gọi là sân, âm ỉ sôi sục bên trong gọi là hận.
Người nóng tính khi việc qua rồi sẽ không nhớ lại vì lời bộc trực họ nói rồi thôi, nhưng khi hận ai thì họ nhớ hoài, lâu ngày sinh ra thù ghét, mà đã thù ghét thì họ cố tình tìm đủ mọi cách để hại được người, nên mới gọi là hận thù. Nhất là những người làm chính trị; họ luyện tập để cơn giận không thể hiện ra bên ngoài, nhưng được đè nén, kìm hãm bên trong, nên đối phương không hề phác giác. Hạng người này rất nguy hiểm, họ giết người không bằng gươm đao, giết không gớm tay vì quyền lực, danh vọng, và có thể giết luôn cả người thân.
Ai mang tâm niệm thù hận này vào lòng mà không biết cách buông xả, trước nhất sẽ làm chính mình bất an, bực tức, khó chịu mỗi khi gặp hoặc nghe nói đến người. Như kẻ ngu kia vì ôm vào lòng tâm niệm hận thù, nên lúc nào cũng bức bách, khổ đau, phải tìm cách trả thù mới yên lòng, thỏa dạ. Dù được bạn bè khuyên nhủ thế nào cũng không bỏ qua, cứ một bề cố chấp trả thù cho bằng được. Hạng người này thật sự đáng thương hơn là đáng ghét. Họ bị vô minh, mê muội che lấp, nên dù có học Phật pháp nhiều năm họ cũng vậy, khó lòng thay đổi. Họ luôn thấy mình là thầy thiên hạ, càng ở chùa lâu càng si mê, sân hận, chấp trước, bám víu, và dính mắc vào đó. Người mang tâm niệm hận thù như thế trước mắt chưa hại được ai, mà đã tự hại chính mình, có khác gì kẻ đốt đuốc mà đi ngược chiều gió vậy. Kẻ ngu cũng sẽ như thế, chưa hại được ai mà đã tự đốt mình bằng ngọn lửa sân hận bốc cháy bên trong. (Nguồn: Giận khôn hay dại_Thích Đạt Ma Phổ Giác)
+ Kẻ thù trong ta - Kẻ cướp trong nhà khó đề phòng!
Từ kiếp vô thủy xa xưa đến nay, Sáu Căn của người phàm phu cứ chạy theo ngoại cảnh, tức là Lục Trần (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp) mà “tìm thanh kiếm sắc,” tạo ra không biết bao nhiêu nghiệp bất tịnh. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của con người thì giống như sáu kẻ gian làm mối lái cho giặc, chúng dẫn bọn cướp vào nhà lấy hết tất cả tài sản quý giá nơi “căn nhà” tự tánh của chúng ta.
Chúng ta cho rằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là những thứ giúp đỡ mình; kỳ thật, sáu thứ này là sáu vật rất xấu xa, chúng dẫn kẻ gian vào nhà cướp đoạt hết Pháp bảo tự tánh của chính mình mà mình vẫn không hay biết; quả thật là “kẻ cướp trong nhà khó đề phòng!” Bây giờ hãy nói về mắt và tai:
(Mắt không thấy, thì miệng không thèm thuồng, Tai không nghe, thì lòng không phiền não.)
(Ngàn ngày chẻ củi, một ngày đốt sạch.)
Cũng vậy, mình tu dưỡng công phu Thiền Ðịnh cả ngàn ngày, nhưng đến khi đạt được cảnh giới khinh an tự tại rồi, thì hốt nhiên chỉ vì khởi một niệm phiền não mà bao nhiêu công phu đều tiêu tan cả; nên có câu: (Một đốm lửa nhỏ có thể thiêu sạch cả rừng công đức.)
Cho nên người tu Ðạo cần phải: (Mắt nhìn hình sắc, lòng không động, Tai nghe thế sự, dạ chẳng hay!)
Phải có được Ðịnh-lực như thế thì mới không bị người ta tới cướp của quý trong nhà. Nếu không, thì suốt ngày các bạn sẽ theo Sáu Căn và Sáu Trần, tâm hướng ra ngoài mà chạy, chẳng biết hồi quang phản chiếu, và như thế gọi là “lậu,” có nghĩa là phiền não.....
Ðức Phật dạy rằng Sáu Thức chính là giặc trong nhà. Bởi do Sáu Căn cấu kết với Sáu Trần nên sanh ra Sáu Thức, rồi vì thế mà “khởi hoặc, tạo nghiệp,” trở nên mê mờ, gây ra đủ thứ ác nghiệp. Cho nên, Sáu Căn chính là kẻ môi giới dẫn dắt chúng ta tạo ra những việc ác.
“Gia bảo” (vật báu) trong nhà mình là gì? Gia bảo của mình chính là chân tâm thường trụ hay Như Lai Tạng với tánh giác mầu nhiệm sáng suốt, chứ không phải là thứ tiền tài vật chất có hình có tướng của thế gian. Tự tánh thì đầy đủ Phật-bảo, Pháp-bảo và Tăng-bảo, và chính là thứ “tài bảo chân chánh.” Ngoài ra, siêng năng tu học Giới, Ðịnh, Huệ, hoàn thành Tam Vô Lậu Học, cũng là “Pháp bảo chân chánh” của chúng ta.
Có người nói: “Thứ tài bảo này, tài sản quý báu mà Thầy nói, không thể nhìn thấy thì làm sao tôi tin được?” Người này cũng chẳng đáng trách, bởi vì “tài bảo” này thì không có hình tướng nên chẳng thể nào thấy được. Song lẽ, mình vẫn có thể cảm nhận được nó, người có huệ-căn thì sẽ biết được ngay, còn kẻ không có huệ-căn thì chẳng thể biết được. Ðó là vì huệ-căn chưa thuần thục, chín chắn, cho nên họ không thể sanh khởi lòng tin và cũng không thể có sự hiểu biết rõ ràng được! (Nguồn: Khai thị Q3-HT Tuyên Hóa)
+ Kẻ thù trong ta: Các thứ độc tố khuấy động bên trong tâm thức mình mới đúng thật là các kẻ thù của mình, đó là các thứ u mê (còn gọi là vô minh), hận thù, thèm khát, ganh tị, kiêu hãnh... Đó là các kẻ thù duy nhất có thể tàn phá hạnh phúc của chúng ta. Nguy hiểm hơn cả là sự nóng giận và thù hận, đó là nguồn gốc gây ra vô số những điều bất hạnh cho thế giới này, từ các sự cãi vã nhỏ nhặt trong gia đình đến các cuộc xung đột thật to lớn. Các niềm bất hạnh đó có thể biến bất cứ một khung cảnh an vui nào trở thành một bầu không khí không sao chịu đựng nỗi. Không có một tôn giáo nào ngợi khen các tính khí ấy cả mà nhất loạt đều nêu cao tình thương yêu và sự tốt bụng. Chỉ cần đọc qua các cách mô tả về thiên đường cũng đủ hiểu rằng trong cõi đó người ta chỉ nói đến sự an bình và tốt đẹp, các khu vườn tuyệt vời đầy hoa thơm, và ít nhất là theo sự hiểu biết của tôi thì tuyệt nhiên trong cõi ấy không bao giờ xảy ra xung đột và chiến tranh cả. Người ta không hề gán cho sự nóng giận bất cứ một phẩm tính nào.
... Một số người cho rằng nóng giận không phải là một khuyết điểm (một điểm yếu hay một thứ khiếm khuyết "tự nhiên" của tâm tính con người). Một số người khác không quen tìm hiểu sự vận hành của tâm thức thì nghĩ rằng sự nóng giận là thành phần tự nhiên của tâm thức, do đó không nên đè nén nó mà còn phải để nó phát lộ ra bên ngoài (đây cũng là quan điểm phổ biến đối với ngành Tâm lý học Tây phương nói chung). Nếu đúng là như thế thì sự u mê (vô minh) hay mù chữ cũng là thành phần của tâm thức hay sao, bởi vì khi mới sinh chúng ta chưa có một chút hiểu biết nào (mù chữ và sự hiểu biết sai lầm không phải là những thứ bẩm sinh. Sự thiếu hiểu biết hay hiểu biết sai lầm - còn gọi là vô minh - là các thể dạng tâm thần tuần tự sinh ra trên dòng phát triển của một cá thể; mù chữ cũng vậy là hậu quả của hoàn cảnh khiến mình không được học hành không phải là một hiện tượng bẩm sinh. Tóm lại các thể dạng tâm thần đó - vô minh, giận dữ, mù chữ... - phát sinh dưới tác động của nghiệp, có nghĩa là những gì tự mình tạo ra cho mình trong quá khứ cũng như hiện tại). Đấy là những thứ (u mê, hiểu biết sai lầm, mù chữ...) mà chúng ta phải tìm mọi cách để loại bỏ, không có ai chống lại điều đó bằng cách cho rằng chúng mang bản chất tự nhiên, không được phép làm cho chúng phải biến đổi khác đi. Vậy đối với hận thù và nóng giận gây ra các điều tệ hại to lớn hơn nhiều, thì tại sao lại không tìm cách loại bỏ chúng tương tự như các thứ u mê và mù chữ trên đây? Tất nhiên là các điều đó phải nên làm.......
..... Đối với sự nóng giận, hận thù, u mê... thì Phật giáo quan niệm rằng phải ngăn chận và hoá giải chúng từ bên trong tâm thức mình bằng các phương pháp thiền định; đối với môi trường bên ngoài thì phát huy lòng từ bi và tình thương yêu đối với tất cả chúng sinh, hầu ngăn chận trước không cho các sự nóng giận và hận thù từ bên trong phát lộ ra bên ngoài qua các hình thức ngôn từ và hành động).... (Nguồn: Giận dữ_Đại Lai Lạt Ma)
+ Tu hành là chiến đấu với muôn người/ Thói xấu nhiều: Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như một người chiến đấu với muôn người; mang giáp ra cửa, hoặc có ý khiếp nhược, hoặc nửa đường rồi lui, hoặc chống cự đến chết, hoặc đắc thắng mà về.
Bậc Sa-môn học Đạo phải giữ lòng bền vững và tinh tấn lướt tới, chẳng sợ cảnh trước, phá diệt bọn ma, chứng được Đạo-quả."
Lược giảng:
Đây là chương thứ 33. ,,, người tu Đạo cần phải tu học ba môn học vô-lậu là Giới, Định, Huệ và nên một lòng một dạ tinh tấn học Đạo.
Lấy thí dụ là có một người có nhiều điều gian dối, vô số thói hư tật xấu và đủ các thứ "hoặc" - kiến-hoặc, tư-hoặc, trần-sa hoặc - tích lũy từ vô thủy. Nếu quý vị có thể giữ tâm cho chuyên nhất mà học Đạo, thì quý vị được ví như "một người." Nếu quý vị có rất nhiều điều giả dối, rất nhiều mối "hoặc" cùng thói hư tật xấu - những thứ ấy được ví như "muôn người." Nếu quý vị có thể thọ trì và tu tập giới hạnh thanh tịnh, thì quý vị chẳng khác nào người chiến sĩ được trang bị áo giáp và nón sắt.
... Có Định-lực thì không bỏ cuộc giữa đường, không nửa đường quay về. Lại nữa, nếu quý vị không sợ trùng trùng điệp điệp cảnh giới trước mặt, không sợ hằng hà sa số địch quân ở đằng trước đang chờ dịp để tấn công mình, thì quý vị sẽ không bị mất mạng ngay khi vừa giao chiến - đây là một thứ Huệ-lực.
Liên kết ba sức mạnh của Giới, Định, Huệ với nhau, tất sẽ dứt trừ được những thói hư tật xấu và thói quen giả dối có từ vô thủy. Vô số thói hư tật xấu này được ví như "chúng ma." Phá tan "chúng ma" thì sẽ chứng được Đạo-quả. Chứng được Đạo-quả tức là "chiến thắng quay về" vậy!
Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như một người chiến đấu với muôn người." Nếu quý vị có thể chuyên tâm tu hành thì quý vị chẳng khác nào một người mà phải chiến đấu, đương đầu với cả vạn kẻ địch. Ở đây ngụ ý rằng trừ khử các thói hư tật xấu, thói giả dối, tham, sân, si, của bản thân thì cũng cam go như chiến đấu chống lại cả vạn địch quân vậy.
Người ấy "mang giáp ra cửa." Bấy giờ, quý vị cũng như người đã được trang bị áo giáp và nón sắt, sẵn sàng chiến đấu, không run sợ.
Người ấy "hoặc có ý khiếp nhược." Nếu ý chí của quý vị không kiên quyết, có vẻ như sợ sệt - đó là khiếp nhược.
"Hoặc nửa đường rồi lui." Có thể quý vị tu hành được một lúc rồi lại nản lòng chùn bước, không tu hành nữa - bỏ dở nửa chừng.
"Hoặc chống cự đến chết." Có thể là khi chiến đấu với những tập khí hư vọng và ma quân, quý vị bị bại trận, phải bỏ mình - tu hành không thành công.
"Hoặc đắc thắng mà về." Có thể là quý vị được trở về trong chiến thắng vinh quang.
"Bậc Sa-môn học Đạo phải giữ lòng bền vững. Bền tâm vững chí, chớ bỏ dở nửa chừng, và tinh tấn lướt tới, dũng mãnh dấn thân, chỉ có tiến chứ không chịu lùi bước. Chẳng sợ cảnh trước, phá diệt bọn ma, chứng được Đạo-quả." Nếu quý vị không khiếp sợ đông đảo địch quân ở phía trước, kiên quyết đánh bại hết thảy bè lũ Ma vương, thì tự nhiên chứng được Đạo-quả. (Nguồn: Kinh 42 chương - HT Tuyên Hóa)
+ Tà đạo - Tà pháp nói trái với Phật pháp chánh đạo:
I- Phần Thứ Ba: Hỏi Đáp với HT Tuyên Hóa
Hỏi: Có một vị pháp sư nói với đồ chúng của ông ấy rằng, không được trì Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi, bởi vì trì chú có thể khiến cho thiên ma ngoại đạo sanh tâm sợ hãi, đây là việc trái với tâm từ bi, cho nên vị pháp sư này dạy tín đồ của ông ta là bất kỳ kinh điển nào cũng không được dùng, cũng không được xem, không cần xem, chỉ cần nhất tâm niệm “A Di Đà Phật” là được rồi?
Hòa Thượng: Nếu nói người niệm chú là không có tâm từ bi, thế thì Phật đã không nói Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi, để khiến cho các đệ tử giảm thiểu tâm từ bi!
Hỏi: Có vị pháp sư nói, phụ nữ đang mang thai mà tụng Chú Lăng Nghiêm thì có thể bị sẩy thai, có đáng tin hay không?
Hòa Thượng: Chỉ toàn là nhảm nhí, nói năng xằng bậy!
Hỏi: Có người nói, trì tụng Chú Lăng Nghiêm nhất định phải trước năm giờ sáng là tốt nhất, có phải như vậy không?
Hòa Thượng: Bất kỳ thời điểm nào quý vị có thể trì tụng thì lúc đó luôn là năm giờ sáng.
Hỏi: Vì sao lúc trì Chú Đại Bi hoặc Chú Lăng Nghiêm, con thường cảm thấy bị nhức đầu, chóng mặt, hoặc cảm thấy thân thể bị lay động, phát lạnh run?
Hòa Thượng: Trong tâm quý vị có tà ma, cho nên trì Chú Đại Bi không còn linh nữa.
Hỏi: Có người nói, tụng Chú Lăng Nghiêm thì phải tụng trước bảy giờ sáng, xin hỏi sau bảy giờ sáng có thể tụng hay không?
Hòa Thượng: Ở đây bảy giờ là mấy giờ ở Mỹ thì tôi không biết; mà bảy giờ ở Mỹ và bảy giờ ở Đài Loan lại không giống nhau, làm sao bây giờ?
Hỏi: Vì sao một số những học giả học Phật lại nói Kinh Lăng Nghiêm là giả?
Hòa Thượng: Bởi vì trong kinh nói thật quá, nói triệt để về lỗi của người ta quá, khiến cho yêu ma quỷ quái không thể che giấu thân phận, phải lộ nguyên hình, nên họ không thể không nói Kinh Lăng Nghiêm là giả! Nếu nói kinh Lăng Nghiêm là thật, thứ nhất là họ làm không được, họ không thể tuân giữ Bốn Loại Thanh Tịnh Minh Hối, cũng không thể tu 25 viên thông!
Hỏi: Ủng hộ Kinh Lăng Nghiêm, trì Chú Lăng Nghiêm tức là chánh pháp, thế thì mỗi ngày nên trì bao nhiêu biến Chú Lăng Nghiêm là được?
Hòa Thượng: Quý vị muốn trì bao nhiêu biến thì trì bấy nhiêu biến!
Hỏi: Hiệu dụng của Chú Lăng Nghiêm là như thế nào?
Hòa Thượng: Khai mở trí tuệ. Có câu:
“Yếu tưởng Phật Pháp hưng, tiên học Lăng Nghiêm Kinh;
Yếu căn Diêm Vương đấu, tiên trì Lăng Nghiêm Chú.”
Muốn Phật Pháp được hưng thạnh, trường tồn, thì trước hết là phải học Kinh Lăng Nghiêm; còn muốn đấu với Diêm Vương thì phải trì Chú Lăng Nghiêm trước nhất!
Hỏi: Tu như thế nào để được vô lậu?
Hòa Thượng: Hãy trở về đọc Kinh Lăng Nghiêm nhiều hơn!
Hỏi: Nhiều người nói rằng Chú Lăng Nghiêm có lực sát thương rất mạnh, như thế nếu trì Chú Lăng Nghiêm để trị bệnh, chẳng phải là không được từ bi sao?
Hòa Thượng: Chú là dùng để điều giải, không phải để sát sanh. Không có tâm từ bi thì làm sao có thể trì chú được?
Hỏi: Có thể dùng bất kỳ một câu nào đó trong Chú Lăng Nghiêm để trị bệnh không?
Hòa Thượng: Đối với một số người nào đó thì không thể được, trái lại còn rước thêm phiền phức.
Hỏi: Chúng ta có phương pháp gì có thể chuyên tâm trì tụng vỏn vẹn một câu chú mà thôi? Câu chú này phải tụng trì bao nhiêu lần?
Hòa Thượng hỏi lại: Tại sao lại chỉ tụng trì một câu mà thôi?
Đáp: Như là niệm “Đột Tất Phạt…” chẳng hạn; hoặc là ...
Hòa thượng: Đây không chỉ là niệm một câu, mà đây chính là từng đoạn từng đoạn; quý vị chỉ niệm một câu thì không thể được. Mỗi một câu có ý nghĩa của mỗi một câu, nhưng cũng nhất quán với câu trước câu sau, từng đoạn nhỏ từng đoạn nhỏ vậy. Nếu quý vị muốn nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, thì phải hiểu được tầng thứ, từ câu nào đến câu nào là một đoạn, mới thực sự được coi như là đã hiểu rõ vậy.
Hỏi: Sư phụ nói câu “Tát Đát Đa Bát Đát La” này có thể minh tâm kiến tánh, có thể hàng phục thiên ma ngoại đạo, nhưng cần phải hiểu, rốt cuộc thì phải dùng như thế nào?
Hòa Thượng: Ví dụ quý vị học võ thuật, thì trước tiên là phải học công phu cho tốt, mới có thể dùng đao, dùng thương, đối địch với người khác; chứ không thể chỉ xem người ta tập mấy chiêu quyền cước Thiếu Lâm, cho rằng rất hay, tưởng mình là “thiên hạ vô địch,” có thể đánh khắp thiên hạ, không có đối thủ nào địch nổi! Bản thân mình một ngày cũng chưa học qua, quý vị xem mấy chiêu thì đã vội nói rằng tôi biết rồi! Quý vị vốn không có căn bản kìa! Chú Lăng Nghiêm cũng như vậy, quý vị còn chưa niệm mà đã muốn vận dụng, làm sao mà vận dụng cho được?
Hỏi: Làm thế nào để phân biệt tà chánh của đạo lộ, bàng môn tả đạo và yêu ma quỷ quái?
Hòa Thượng: Chúng ta nên học Kinh Lăng Nghiêm, niệm Chú Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm chính là tấm “kính chiếu yêu,” làm cho bàng môn tả đạo, yêu ma quỷ quái soi tới thì không thể che giấu hình dạng. Có thể trì Chú Lăng Nghiêm, thì có thể hàng phục thiên ma ngoại đạo, cho nên có thể gặp được Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm là một việc rất may mắn.
Hỏi: Người bị ma nhập, nếu có thể niệm Chú Lăng Nghiêm, thì ma có chịu bỏ đi hay không?
Hòa Thượng: Nếu quý vị có thể niệm Chú Lăng Nghiêm, thì ma gì cũng phải bỏ đi cả; nhưng quý vị cần phải giữ tâm cho chuyên nhất mà niệm. Nếu quý vị có thể chuyên nhất tâm để niệm, không khởi vọng tưởng, không có tâm tham, thì ma gì cũng sẽ tránh xa quý vị.
Hỏi: Dùng chú như thế nào để đối phó với si mị võng lượng?
Hòa Thượng: Phép thuật của ngoại đạo, yêu ma quỷ quái, có lúc làm cho quý vị bị nhức đầu, đau răng, đau mắt, hoặc có thể khiến cho quý vị không thể cất bước được, bị chóng mặt, phát cuồng, nói năng xằng bậy. Lúc bấy giờ, quý vị tụng chú này thì có thể phá được phép thuật của họ, khiến phép thuật của họ không còn linh nghiệm nữa. Tôi hoàn toàn không phải bảo quý vị vô cớ đi đối phó với si mị võng lượng. Nếu ngày ngày trong tâm quý vị có si mị võng lượng, thì cho dù không có si mị võng lượng đi nữa, thì quý vị cũng sẽ chiêu cảm, vời họ đến. Trong tâm quý vị đã đưa thiệp mời cho họ rồi, nói: “Ồ! Si mị võng lượng, mời quý vị hãy mau đến đây, tôi có chú thuật có thể đối phó với quý vị đây!” Đó là làm việc vô ích!
Hiểu được Chú Lăng Nghiêm, là nói rằng một khi có người gặp phải vấn đề khó khăn gì, thì quý vị có thể dùng chú này để phá phép thuật gây ra vấn đề đó, chứ không phải bảo quý vị ngày ngày đi phá. Làm gì có nhiều si mị võng lượng để cho quý vị ngày ngày đi phá như vậy chứ!? Bất luận là thứ si mị võng lượng gì, phép thuật gì, hễ gặp phải chú này, thì khí của họ đều bị phân tán hết, họ phải bỏ chạy hết, không còn tác dụng nữa. Một khi trong tâm quý vị đã muốn mời si mị võng lượng vào nhà mình trước rồi, thì đương nhiên là thứ gì họ cũng có.
Tâm chú tâm chú, chính là trong tâm quý vị phải có chú, phải sạch sẽ, thanh tịnh, cái gì cũng không có cả, thì đến lúc cần dùng tự nhiên sẽ có linh nghiệm. Thọ trì chú không phải là để hàng phục yêu ma quỷ quái. Điều này giống như trì tụng Chú Đại Bi, chính là niệm, lâu dần như vậy, không niệm mà lại tự niệm, tự nhiên có một năng lực của chú đến hộ trì quý vị. Thậm chí đến lúc, quý vị tụng chú hay không tụng chú thì cũng đều có cảm ứng, bởi vì lúc bình thường quý vị đã tu trì rất tốt, cho nên lúc cảnh giới đến, tự nhiên được giải quyết dễ dàng, mau chóng, vấn đề gì cũng không còn nữa! (Nguồn: Linh vật của trời đất ..._HT Tuyên Hóa)
+ Chữ lễ trong ngũ thường - Đạo của người quân từ:
Trái với lễ giáo thì đừng nhìn,
Trái với lễ giáo thì đừng nghe,
Trái với lễ giáo thì đừng nói,
Trái với lễ giáo thì đừng làm.
Ở đây, “lễ” tức là quy củ, phép tắc; mà quy củ, phép tắc thì cũng chính là Giới-luật. Nếu các bạn không nhìn những gì trái với lễ nghĩa thì căn mắt của các bạn được thanh tịnh, không nghe những gì trái với lễ nghĩa thì căn tai của các bạn được thanh tịnh, không nói những lời trái ngược với lễ nghĩa thì căn lưỡi của các bạn được thanh tịnh, không làm những điều trái ngược với lễ nghĩa thì căn thân của các bạn được thanh tịnh. Khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều thanh tịnh thì không còn lậu nữa. Có lậu, thì cũng giống như chiếc bình đựng nước có một lổ làm cho nước trong bình chảy ra ngoài, khiến bình vĩnh viễn không thể nào chứa đầy nước được. Ðối với việc tu Ðạo, lậu chính là phiền não, và tánh nóng nảy, sân hận. Nếu các bạn tu được một chút công đức mà lại bị “lửa” vô minh đốt sạch, thì các bạn vĩnh viễn không thành Ðạo quả. Mọi người cần phải lưu ý điểm này và phải tu hành một cách thận trọng. (Nguồn: Khai thị Q3-HT Tuyên Hóa)
+ Tu hành tinh tấn:
772. TỲ KHEO BIẾT SỰ HƠN KÉM CỦA NGƯỜI
1) Có hai hạng người: có tín và có bất tín, người có tín là hơn, người bất tín là kém.
2) Người có tín lại có hai hạng: Thường đến gặp Thiện tri thức và không thường đến gặp Thiện tri thứ. Người đến gặp thấy Thiện tri thứ là hơn, người không thường đến gặp Thiện tri thứ là kém.
3) Người thường đến gặp Thiện tri thứ lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính. Người có lễ kính là hơn; người không lễ kính là kém.
4) Người có lễ kính lại có hai hạng: có hỏi kinh và không hỏi kinh. Người có hỏi kinh là hơn, người không hỏi kinh là kém.
5) Người có hỏi kinh lại có hai hạng: nhất tâm nghe kinh và không nhất tâm nghe kinh. Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm nghe kinh là kém.
6) Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
7) Người nghe rồi thọ trì pháp lại có hai hạng: nghe pháp có quán sát nghĩa và nghe pháp không quán sát nghĩa. Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp không quán sát nghĩa là kém.
8) Hạng nghe pháp quán sát nghĩa lại có hai: biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp và thực hành đúng như pháp.
9) Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp là hơn; người không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng về pháp và thứ pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp là thấp kém.
10) Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người.
=> Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người. Người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.
Ví như từ bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sinh tô, từ sinh tô có thục tô, từ thục tô có tô tinh. Tô tinh là thứ bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu đối với những loại kia.
Nếu người nào tự làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời người, thì trong hai hạng người như trên đã nói, đã phân biệt, đã thi thiết, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu. Ấy là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người. (Trung A Hàm, Kinh Thiện Pháp, Phẩm 1, số 1)
+ Pháp sanh diệt - 12 Nhân duyên - Nguyên nhân luân hồi và phiền lão khổ đau: Nguồn gốc của khổ đau là con người buộc phải luân hồi tái sanh sáu cõi, tuân theo pháp 12 nhân duyên đức Phật dạy. Xét theo chiều thuận thì có sanh sanh diệt diệt luân hồi mãi không ngừng, bởi do tạo nghiệp vô minh. Chiều nghịch thì chấm dứt sanh tử luân hồi - Do chấm dứt vô minh tạo nghiệp luân hồi.
Ngài A Nan tham thiền quán xét pháp 12 nhân duyên và thưa với Phật, Pháp 12 nhân duyên không khó. Phật dậy: Pháp 12 nhân duyên rất vi diệu sâu xa ... Danh sắc duyên thức - Thức duyên danh sắc - Danh sắc duyên lục nhập - Lục nhập duyên Xúc - Xúc duyên Tho - Thọ duyên ái - Ái duyên Thủ - Thủ duyên hữu - Hữu duyên Sanh - Sanh duyên già chết, ưu bi khổ lão, tập thành một đại khổ ấm ...
Này A Nan, Tỳ kheo nào trong pháp này mà như thật chánh quán, với tâm giải thoát vô lậu, tỳ kheo ấy được gọi là Tuệ giải thoát - Tỳ kheo giải thoát - là vị A La Hán thành tựu Tâm giải thoát vô lậu do Tuệ mà đoạn trừ sở tri chướng - Chứng đắc giải thoát (Khác với do Định mà đoạn trừ phiền lão chướng, chứng đắc giải thoát, gọi là Tâm giải thoát)
Phật dậy, người thấy có Ngã - Thọ là ngã, gồm 3 thọ: Cảm thọ lạc - Cảm thọ khổ - Cảm thọ không lạc không khổ. Đều do Duyên Cảm xúc Lạc - Khổ mà cảm thọ, ví như 2 khúc cây cọ vào nhau sinh ra lửa, tách nhau thì lửa không có => Ba thọ là pháp Hữu vi, vô thường, do nhân duyên mà sanh diệt => Người nào cho thọ là ngã hoặc Thọ không phải ngã, Ngã là thọ đều là sai lầm ....
Có bảy chú xứ của Thức và hai nhập xứ gồm (1) loài người và chư Thiên; (2) Chúng sinh Trời Quang Âm; (3) Trời Biến Tịnh; (4) Nơi Không xứ; (5) Nơi Thức xứ; (6) Nới Vô sở hữu xứ; (7)..... => Tỳ kheo biết cái ấy không phải Ta - Với tri kiến như thật.
Hai nhập xứ: Vô tưởng nhập và Phi tưởng phi vô tưởng nhập => Tỳ kheo biết cái ấy không phải Ta - Với tri kiến như thật.
Tám pháp giải thoát .......... (Nguồn: 13. Đại duyên phương tiện - Kim A Hàm)
+ Kinh Thất Phất Thế Gian:
1- Phật Tỳ - Bà - Thi
2- Phật Thi Khí;
3- Phật Tỳ Xá phù
4- Phật câu lưu tôn
5- Phật Câu na Hàm Mâu Ni
6- Phật Ca Diếp
7- Phật Thích Ca Mâu Ni (Nguồn: Kinh Thất Phật 1 và Kinh Thất Phật 2)
+ Thất Phật Phụ Mẫu - Kinh Trường A hàm: Xem Thất Phật phụ Mẫu
+ Kinh thiện pháp - Bảy pháp thiện: “Nếu có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp tất được hoan hỷ an lạc trong pháp Hiền thánh[3], thẳng tiến đến lậu tận. Bảy pháp đó là gì? Đó là biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chúng hội và biết sự hơn kém của người[4].
1. Biết pháp: Biết chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa[5]. ... Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ pháp.
2. Biết nghĩa: Nghĩa là Tỳ-kheo biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này có nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này[6].... Đó là Tỳ-kheo khéo biết rõ nghĩa.
3. Biết thời: Đó là Tỳ-kheo biết thời nào nên tu phương pháp thấp, thời nào nên tu phương pháp cao, thời nào nên tu phương pháp xả[7]. .... Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ thời.
4. Biết tiết độ: Đó là Tỳ-kheo biết tiết độ trong việc ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. ...... Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ sự tiết độ.
5. Biết mình: Tỳ-kheo tự biết mình có mức độ ấy tín, giới thí, tuệ, biện, a-hàm và sở đắc[8]. ..... Tỳ-kheo như vậy là khéo biết rõ mình.
6. Biết chúng hội: Tỳ-kheo biết đây là chúng hội Sát-lợi, đây là Phạm chí, đây là chúng hội Cư sĩ, đây là chúng hội Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy. ..... Ấy là Tỳ-kheo khéo biết rõ chúng hội.
7. Biết sự hơn kém của người[9]? Có hai hạng người: có tín và có bất tín[10], người có tín là hơn, người bất tín là kém.
Người có tín lại có hai hạng: Người đến gặp thấy Tỳ-kheo là hơn, người không thường đến gặp Tỳ-kheo là kém.
Người thường đến gặp Tỳ-kheo lại có hai hạng: Người có lễ kính là hơn; người không lễ kính là kém.
Người có lễ kính lại có hai hạng: Người có hỏi kinh là hơn, người không hỏi kinh là kém.
Người có hỏi kinh lại có hai hạng: Người nhất tâm nghe kinh là hơn, người không nhất tâm nghe kinh là kém.
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
Người nghe rồi thọ trì pháp lại có hai hạng: Người nghe pháp có quán sát nghĩa là hơn, người nghe pháp không quán sát nghĩa là kém.
Hạng nghe pháp quán sát nghĩa lại có hai: Người biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp là hơn; người không ... là thấp kém.
Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng về pháp và thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian không cầu nghĩa và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người. Loại Tự làm lợi ích là bậc nhất là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.
Phật thuyết như vậy. Các vị Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.(Nguồn: Kinh Thiện pháp - Số 26 A Hàm)
+ Tu là khổ đau: Thọ khổ thì hết khổ - Tiến đến giải thoát luân hồi. Trong Kinh Mộc Tích Dụ, đức Phật khuyên người tu cần biết thọ khổ để tiến nhanh trên con đường tu giải thoát luân hồi sinh tử, dù phải thịt nát xương tan mà là chánh đạo cũng tiến không lui. Phải đạo thì tiến - Trái đạo thì lùi (Nguồn: Kinh Mộc Tích Dụ - A Hàm)
+ Trị liệu tâm lý: “Ba cách để xử lý những xung động được xã hội coi là không mong muốn,” là: (1) thưởng và phạt; (2) thăng hoa và cung cấp các đầu ra vô hại (hoặc thậm chí là có ích); và (3) điều trị sinh lý nhằm làm suy yếu hoặc phá hủy sự xung động kia.
1. Thưởng và Phạt
a. Trong trường hợp một người muốn giữ kỷ luật tự giác một cách có chủ đích, việc sử dụng phương pháp thưởng và phạt sẽ chủ yếu mang tính chủ quan bên trong hoặc trí tuệ, sẽ có hình thức suy ngẫm về những hệ quả tiêu cực và tích cực của việc cưỡng lại hoặc chịu thua những xung lực tốt hoặc xấu—khổ trước sướng sau nếu các xung lực của đức hạnh được tuân theo; hoặc sướng trước khổ sau nếu các tính xấu được phát huy.
b. Trong trường hợp của người bình thường, ý tưởng dai dẳng về thưởng và phạt cũng tạo ra những động cơ để kiềm chế y không chìm đắm vào những đam mê có phần ích kỷ, từ đó cho phép biểu lộ ra những điều tốt đẹp. Điểm khác biệt so với nhóm đối tượng trên là, khi những người thuộc nhóm đối tượng này tránh được việc nuông chiều bản thân và từ đó loại bỏ sự biểu lộ hậu quả hoặc không thể tránh khỏi của nó, và trong trường hợp này, phần lớn là công khai, thì phần thưởng và hình phạt họ nhận được sẽ mang tính cá nhân.
Đối với những cá nhân bị chi phối bởi ý thức về sự tách biệt vị kỷ cá nhân và sự ích kỷ, hệ thống khen thưởng và trừng phạt thuộc bên ngoài và việc duy trì chúng liên tục trước con mắt thể trí của y bằng các phương tiện hướng dẫn và kỷ luật khác nhau, phải xuất phát chủ yếu từ bên ngoài.
2. Thăng hoa.
Biện pháp cần được thực hiện ngay sau đó, hoặc thực sự được thực hiện đồng thời với biện pháp kiềm chế xung lực xấu, là cung cấp một lối thoát lành mạnh cho năng lượng liên quan, bằng phương pháp thăng hoa — nghĩa là chuyển hóa hoặc nâng cao từ một hình thức biểu hiện thấp và thô thiển hơn sang hình thức biểu hiện cao hơn, tinh tế hơn và cao quý hơn. Như một tiên đề trong tâm lý học, sinh lý học, vật lý, chính trị, v.v., việc chỉ kìm nén năng lượng mà không chuyển hướng chúng tới các đầu ra an toàn và hữu ích để giải phóng chúng, sẽ chỉ có thể dẫn đến kết quả là các vụ nổ, vỡ đập, ngập lụt, nổi loạn, cuồng loạn, điên loạn, điên cuồng, tắc nghẽn, và đủ các loại tệ nạn hoặc bệnh tật đặc biệt, trong đó ví dụ điển hình là bệnh ung thư.
“Đừng làm điều đó/ Điều sai trái,” mới chứa được một nửa lời khuyên khôn ngoan. “Hãy làm việc kia kìa/ Điều đúng đắn,” là nửa còn lại quan trọng hơn. ... Với sự thăng hoa, cũng như với thưởng và phạt, nó phải đến từ bên ngoài đối với các cá nhân chủ yếu là vị kỷ và không muốn cải tạo. Đối với những người vị tha hoặc có được một sự sống mới, nó sẽ đến từ bên trong.
Một cách chính yếu để mang lại sự thay đổi cần thiết thuộc tâm (trái tim) và trí óc, để chuyển hóa và thăng hoa năng lượng đam mê thành ngọn lửa đạo đức tái tạo liên tục và ánh sáng trí tuệ làm soi tỏ—nhờ đó mọi người sẽ khuyến khích và thúc đẩy lẫn nhau bằng các hành động và phản ứng - là siêng năng giảng dạy về một tôn giáo tuy mới mà lại cổ xưa nhất, để một lần nữa truyền bá “Tôn giáo Bí ẩn Vũ trụ Vĩnh cửu về bản chất Bất hoại và Bất diệt của Ngọn lửa Vũ trụ của Tinh thần Con người,” mà tất nhiên sẽ nằm trong tâm của tất cả chúng sinh và tất cả các tôn giáo chân chính. Khi thứ Thuốc Trường Sinh đó đi vào và từ từ tràn ngập khắp cơ cấu tổ chức của loài người, những bệnh tật và đồi bại đang tồn tại sẽ được tái sinh qua sự biến đổi và khát vọng rực lửa, từ đó toàn bộ nhân loại được trọn vẹn.
3. Hoạt Động Sinh Lý.
Phương thức thứ ba, điều trị sinh lý, theo quan điểm của các nhà tư tưởng chính thống, cho rằng một cuộc sống bốc đồng có thể được biến đổi hoàn toàn bằng các biện pháp sinh lý, nghĩa là bằng cách kích thích hoặc làm chậm hoạt động của các tuyến khác nhau, hoặc loại bỏ các bộ phận khác nhau của não hoặc các cơ quan khác trong cơ thể. ... y học cổ truyền của phương Đông dường như chủ yếu hoạt động từ bên trong, trong khi xã hội phương Tây hiện đại có xu hướng làm việc nhiều hơn từ bên ngoài. Chúng là bổ trợ lẫn nhau và một ngày nào đó người ta sẽ nhận ra điều này. Các biện pháp sinh lý trở thành các biện pháp tâm-vật lý trong thực hành yoga. Không phải là yoga không biết đến các loại phẫu thuật; nhưng hàm ý chung của các tác phẩm như Yoga Sûtra và Bhâshya là các dây thần kinh và các tuyến có thể được tác động từ bên trong (do kết quả của một nghiên cứu và kiến thức về giải phẫu huyền bí liên quan đến cấu tạo của con người) bằng cách sử dụng ba quá trình là dharanâ (sự tập trung tâm trí), dhyâna (sự suy ngẫm làm kích thích sự tái sinh của chất chitta—trí tuệ để chúng trở thành chất thông thái, thông qua quan sát đều đặn và có chủ đích), samâdhi (việc hiện thực hóa một cách chăm chú hoặc hình thức thiền định—suy ngẫm cao nhất), và tất cả những điều được tóm tắt trong sam-yama (sự chú ý kiểm soát thể trí). ...
Có một bài kệ cổ tiếng Phạn viết rằng, “Không có âm thanh nào mà không có sức mạnh kỳ diệu và không phải là một câu thần chú chân ngôn. Không có chất liệu nào mà không thể dùng để chữa bệnh. Không có một người nào là thực sự vô dụng. Nhưng thứ mà người ta muốn có và không thể dễ dàng tìm được là một người biết cách sử dụng từng thứ.” .....
Nơi mà tất cả những trạng thái này bắt đầu và kết thúc là trong chính bản chất của thể trí, và do đó, vì không được sử dụng, bị sử dụng sai, được sử dụng hoặc được sử dụng đúng đắn, nó sẽ dẫn đến đau khổ hoặc niềm vui, trói buộc hoặc tự do và giải phóng. Vì vậy, ta cần phải hướng sự chú ý của bản thân vào sự phát triển, kiểm soát và mở rộng tinh thần đúng đắn, cũng như việc sử dụng thể trí một cách đúng đắn, nhằm củng cố—theo hướng tâm linh đúng đắn—bản chất của ý chí.....
Những cá nhân ích kỷ tìm thấy niềm vui trong bất cứ điều gì làm tăng khoái lạc thuộc giác quan hoặc vỏ bọc vật chất của họ (upâdhi), hoặc từ việc họ ‘cảm thấy tuyệt vời’ hoặc từ tài sản vật chất của họ; do đó, ‘chiếm lấy’ là khẩu hiệu của họ, ngay cả khi chỉ là trong vô thức. ...(Mời xem: Hiểu Về Trái tim)
+ Khuyên giải người bệnh - Giáo hóa bệnh nhân: Dùng tâm lý học trị bệnh, động viên người bệnh (Nguồn: Kinh giáo hóa bệnh)
+ Phật đi đến - Phật đến đi. Như Lai đi thuyết pháp - Phật đi thuyết pháp
“Bạch Thế Tôn, hôm nay cõi đất bị chấn động mạnh. Khi cõi đất bị chấn động mạnh, bốn mặt gió lớn nổi lên, bốn phương sao chổi mọc; nhà cửa, tường vách, tất cả đều sụp đổ.”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nan rằng:
“Thật vậy, A-nan, nay đất bị chấn động mạnh. Thật vậy, A-nan, khi cõi đất bị chấn động mạnh, bốn mặt gió lớn nổi lên, bốn phương sao chổi mọc; nhà cửa, tường vách, tất cả đều sụp đổ.”
A-nan bạch rằng:
“Thế Tôn, có mấy nguyên nhân cõi đất bị chấn động mạnh. Khi cõi đất bị chấn động mạnh, bốn mặt gió lớn nổi lên, bốn phương sao chổi mọc; nhà cửa, tường vách, tất cả đều sụp đổ?”
Thế Tôn đáp:
“Này A-nan, có ba nguyên nhân khiến cõi đất bị chấn động mạnh. ... Những gì là ba?
“Này A-nan, cõi đất này y chỉ trên nước; nước y chỉ trên gió; gió y vào hư không. A-nan, có khi trong hư không nổi lên gió lớn. Gió nổi lên thì nước bị khuấy động. Nước bị khuấy động thì xảy ra động đất. Đó là nguyên nhân thứ nhất ...
“Lại nữa, A-nan, Tỳ-kheo có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, tâm tự tại như ý túc. Vị ấy khởi lên ý tưởng nhỏ đối với đất, khởi ý tưởng vô lượng tưởng đối với nước[5]. Do nguyên nhân ấy nên đất tùy theo sở dục, tùy theo ý tưởng của vị ấy mà bị xoáy rồi lại xoáy, chấn động rồi lại chấn động. Vị trời theo hộ vệ vị Tỳ-kheo ấy cũng lại như vậy, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, tâm tự tại như ý túc. Vị ấy khởi lên ý tưởng nhỏ đối với đất, khởi ý tưởng vô lượng tưởng đối với nước. Do nguyên nhân ấy nên đất tùy theo sở dục, tùy theo ý tưởng của vị ấy mà bị xoáy rồi lại xoáy, chấn động rồi lại chấn động. Đó là nguyên nhân thứ hai, ....
“Lại nữa, A-nan, nếu còn không đầy ba tháng nữa, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn. Do cớ ấy khiến cõi đất bị chấn động mạnh.... Đó là nguyên nhân thứ ba ...
Bấy giờ, sau khi nghe xong, Tôn giả A-nan buồn rầu khóc lóc, nước mắt đầm đìa, chắp tay hướng về Phật mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, thành tựu công đức, có nhiều pháp vị tằng hữu. Vì sao thế? Vì không bao lâu nữa, sau ba tháng, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn; bấy giờ khiến cõi đất bị chấn động mạnh. Khi cõi đất bị chấn động mạnh, bốn mặt gió lớn nổi lên, bốn phương sao chổi mọc; nhà cửa, tường vách, tất cả đều sụp đổ.”...
“Lại nữa, này A-nan, Ta đi đến vô lượng trăm ngàn chúng Sát-lợi, cùng đàm luận khiến cho họ hài lòng. Sau khi cùng ngồi xuống ổn định, giống như sắc tướng của họ, sắc tướng Ta cũng vậy; .... Sau khi dùng vô lượng phương tiện, khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ cho họ rồi, Ta biến mất khỏi nơi ấy. Khi Ta biến mất rồi, họ không biết Ta là ai, là người hay phi nhân. Này A-nan, như vậy thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, thành tựu công đức, có được pháp vị tằng hữu. Cũng như vậy, đối với các chúng Phạm chí, Sa-môn và cư sĩ.
“Này A-nan, Ta đi đến vô lượng trăm ngàn thiên chúng trời Tứ vương, cùng đàm luận khiến cho họ hài lòng. Sau khi cùng ngồi xuống ổn định, giống như sắc tướng của họ, sắc tướng Ta cũng vậy; ..... Khi Ta biến mất rồi, họ không biết Ta là ai, là người hay phi nhân..... Cũng vậy, đối với thiên chúng Tam thập tam thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa lạc thiên, Phạm thân thiên, Phạm-phú-lâu thiên, Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Hoảng dục thiên, Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên, Vô quái ngại thiên, Thọ phước thiên, Quả thật thiên, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiệân kiến thiên, và Thiên hiện thiên[7].
“Này A-nan, Ta đến ngồi giữa vô lượng trăm ngàn thiên chúng trời Sắc cứu cánh[8], cùng đàm luận khiến cho họ hài lòng. Sau khi cùng ngồi xuống ổn định, giống như sắc tướng của họ, sắc tướng Ta cũng vậy; .... Ta biến mất khỏi nơi ấy. Khi Ta biến mất rồi, họ không biết Ta là ai, là người hay phi nhân. Này A-nan, như vậy thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, thành tựu công đức, có được pháp vị tằng hữu.”..... (Nguồn: 36. Kinh Địa động - Kinh A Hàm)
+ Nguyên nhân sinh tử luân hồi tái sanh
“Ngươi hãy đến chỗ Xá-lê Tử/ Xá Lợi Phất nói rằng ‘Đức Thế Tôn muốn gọi ngài.’”..... Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lợi-phất, có thật vừa rồi thầy tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật, rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’ chăng?”
Tôn giả Xá-lê Tử bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, không phải với lời văn ấy, không phải đi với câu ấy mà con nói về nghĩa ấy”..... Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Xá-lê Tử nếu có vị phạm hạnh nào đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, biết thế nào, thấy thế nào, để có thể tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’ Này Xá-lê Tử nghe như vậy thầy sẽ trả lời sao?”
Tôn giả Xá-lê Tử trả lời rằng:
“Bạch Thế Tôn,.... con sẽ trả lời như vầy: ‘Chư Hiền, sanh có nhân. Nhân của sự sanh ấy diệt tận, thì biết nhân của sự sanh diệt tận; tôi tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’ ..... con sẽ trả lời như thế.
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Nếu các vị phạm hạnh đến hỏi như thế, thầy nên trả lời như vậy. Vì sao thế? Vì nói như thế nên biết đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu có vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, sự sanh do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc[6]?” Thầy nghe những câu hỏi đó, trả lời như thế nào?”......... Con nghe như vậy sẽ trả lời rằng: ‘Này chư Hiền, sự sanh lấy hữu làm nhân, lấy hữu làm duyên, từ hữu mà sanh, lấy hữu làm gốc’. ...
Đức Thế Tôn khen: “Hay thay! Hay thay! .....
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, hữu do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế nào?”...... ‘Này chư Hiền, hữu lấy thủ[7] làm nhân, lấy thủ làm duyên, từ thủ mà sanh, lấy thủ làm gốc.’....
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! ..... đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, thủ do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc?’ ........ ‘Này chư Hiền, thủ lấy ái làm nhân, lấy ái làm duyên, từ ái mà sanh, lấy ái làm gốc’. Bạch Thế Tôn, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con như thế, con sẽ trả lời như vậy”.
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! .... đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, thế nào là ái?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế nào?”......: ‘Này chư Hiền, có ba cảm thọ[8]; cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ không lạc không khổ. Ở trong đó mà ham muốn, đắm trước, đó gọi là ái’. ....
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! ... đó là nghĩa”..... Kinh còn dài nữa (Nguồn: 23.Kinh Trí 1 - Kinh A Hàm)
+ Quả báo bần cùng hạ tiện: 5) Mắc nợ (Phụ trái). Còn nhân tố thứ năm dẫn tới quả báo hạ tiện là gì? Là mắc nợ—mượn tiền của người ta rồi trốn tránh, không chịu trả. Không cần nhiều, cho dù chỉ nợ nần một đồng bạc, chúng ta cũng không được thiếu. Tiền bạc là giả tạm, song có thể được dùng để làm những việc chân thật, thiết thực và hữu ích; do đó chúng ta không nên hoang phí hoặc chi tiêu bừa bãi. Ví dụ, quý vị mượn tiền của người khác rồi không muốn trả, bèn lánh sang nơi khác để trốn nợ, và cho rằng hành động như thế là khôn ngoan, có lợi cho mình. Thật ra, không có lợi chút nào cả, bởi quý vị quỵt tiền của thiên hạ thì sau này, chính mình phải chịu quả báo bần cùng hạ tiện. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quả báo nhiều tài sản: Lại nữa, có mười nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo tài sản nhiều. Những gì là mười?
Một là xa lìa việc trộm cướp, hai là khuyên người khác không trộm cướp, ba là khen ngợi việc chẳng trộm cướp, bốn là thấy người khác chẳng trộm cướp tâm sinh vui mừng, năm là thường cúng dường những tài vật cần nuôi sống cha mẹ, sáu là đối với những bậc Hiền Thánh tôn trưởng thường cung cấp cho những vật cần thiết, bảy là thấy người được lợi tâm sinh vui mừng, tám là thấy người cầu lợi thì tạo phương tiện giúp đỡ, chín là thấy người bố thí tâm sinh vui mừng, mười là thấy đời đói rét khởi tâm thương xót. Do mười nghiệp trên nên khiến chúng sinh được quả báo tài sản nhiều. (Nguồn: Phật nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ Số nghèo: Do tiền kiếp không tu phước => Không có phước - Nghèo hèn, đi xin không ai cho - La hán cầm bình bát không:
Công đức và phước đức nhất định phải phân biệt rõ ràng, phải hiểu rõ ràng. Chúng ta thường thấy trong chùa miếu ghi cái rương đựng tiền để người ta bỏ tiền vào là Công Đức Sương (rương công đức), lầm rồi, há phải là công đức? Người hiểu biết sẽ ghi là Phước Điền Sương (rương ruộng phước). Đó là đúng, quý vị đến gieo phước, [đó là] phước điền, chẳng có công đức.
Dẫu quý vị bố thí chùa miếu nhiều đến mấy vẫn chẳng có công đức, mà là phước đức. Nhất định phải hiểu rõ điều này, đừng nên lầm lẫn. Chúng ta học Phật, phải phước huệ song tu, công đức và phước đức đều phải nên tu; quý vị chỉ tu công đức, không tu phước đức, sẽ thiếu phước!
Trong kinh Phật có câu chuyện: “Tu huệ, bất tu phước, La Hán thác không bát” (Tu huệ, chẳng tu phước, La Hán đi khất thực, bát rỗng tuếch), A La Hán chứng đắc A La Hán quả, đó là công đức, nhưng thiếu phước báo, đi ra ngoài khất thực, chẳng được ai cúng dường, thiếu phước mà!
Ngược lại, “tu phước, bất tu huệ, đại tượng quải anh lạc” (tu phước, chẳng tu huệ, voi to đeo chuỗi báu). Thời cổ, công cụ giao thông chưa có xe cộ. Tại Ấn Độ và Nam Dương đều dùng voi để thay thế, quốc vương ra ngoài ngồi trên lưng voi. Voi ấy là người tu hành trong quá khứ, tu phước, chẳng tu huệ, đời này đầu thai đọa trong súc sanh đạo, là vật cưỡi của quốc vương, khắp mình đeo các chuỗi báu, đó gọi là “đại tượng quải anh lạc”. Trong kinh, đức Phật thường nêu lên tỷ dụ này, dụng ý rất sâu. Nếu chúng ta thấu hiểu, hãy phước huệ song tu.
Đức Phật trọn chẳng cấm chúng ta tu phước, nhưng tu Huệ trọng yếu hơn tu phước, phải lấy tu Huệ làm chánh yếu, phải tu công đức. Trợ tu là phụ trợ thì tu phước kèm theo, phước huệ song tu. Bất luận tại gia hay xuất gia đều phải hiểu đạo lý này, vì sao? Đã gặp gỡ Phật pháp, Phật pháp thù thắng ở chỗ nó tạo cơ hội cho quý vị, ngay trong một đời này có thể viên thành Phật đạo, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chuyện này rất hiếm có. Chẳng dễ thoát khỏi luân hồi! Đã sa vào hầm sâu này, chỉ có gặp gỡ Phật pháp thì quý vị mới có cơ hội vượt thoát luân hồi. Nhất là gặp gỡ Tịnh Độ, gặp gỡ Tịnh Độ mà nếu thật sự chịu tu tập, không ai chẳng thành công, thật sự giải thoát!
Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì có thể nói thân thể này của chúng ta là thân cuối cùng trong lục đạo luân hồi, đời sau chẳng còn luân hồi nữa, điều này trọng yếu lắm!
Tụng kinh, niệm Phật là công đức chân thật, tu thiện tích đức là chuyện tốt đẹp, phước huệ song tu, như vậy là đúng. (Nguồn: PS Tịnh Không khai thị - Công đức và phước đức)
+ Tu thiện pháp - Các pháp thiện. Tu hành pháp thiện
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lê Tử nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Này chư Hiền, nếu có vô lượng thiện pháp, thì tất cả các thiện pháp ấy đều thu nhiếp vào bốn Thánh đế, đi vào trong bốn Thánh đế[2]. Nghĩa là, trong tất cả pháp, bốn Thánh đế là tối thượng bậc nhất. Vì sao thế? Vì nhiếp thọ tất cả các thiện pháp.
“Này chư Hiền, cũng như trong các dấu chân của loài thú vật, dấu chân voi là bậc nhất. Vì sao thế? Vì dấu chân voi rất là to lớn vậy.
“Cũng vậy, này chư Hiền, có vô lượng thiện pháp, thì tất cả các thiện pháp ấy đều thu nhiếp vào bốn Thánh đế, đi vào trong bốn Thánh đế. Nghĩa là trong tất cả pháp, bốn Thánh đế là tối thượng bậc nhất.
“Những gì là bốn? Đó là Khổ Thánh đế, Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo Thánh đế.
“Này chư Hiền, thế nào là Khổ Thánh đế[3]? Đó là, sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, oán ghét mà tự hội là khổ, thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ, nói tóm lược năm thủ uẩn là khổ[4]. (Nguồn: Kinh Tương Tích Dụ-Kinh A Hàm)
+ Các phương pháp thanh tịnh thiền Phật giáo
- Điều kiện: Phải thực hành Giới - Định - Tuệ hàng ngày
1. Thiền hành: Là đi kinh hành... là phương pháp giúp cơ thể vận động và tâm thư giãn, thảnh thơi theo mỗi bước chân đi.
2. Thiền trụ: Là đứng trụ một chỗ, 2 gót chân chạm nhau, bàn chân chữ V. Hai tay buông thỏng tự nhiên, không gượng ép. Mắt khép vừa, miệng ngậm, tâm theo dõi hơi thở... một đức tính kiên định, vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
3. Thiền ngọa: Nằm ngủ trong tỉnh giác... giúp cho người tu thiền luôn tỉnh giác, không gặp ác mộng, dậy tinh thần sảng khoái và minh mẫn.
4. Thiền tọa: Ngồi an định có 3 bước: điều thân, điều tức và điều tâm (Nguồn)
+ Người buôn bán tu thanh tịnh thiền, việc phải làm hàng ngày là:
– Cứ lo việc buôn bán của mình.
– Tâm ông lúc nào cũng thanh tịnh, rỗng lặng và hằng tri.
Ông hãy lấy câu đừng chấp Ngã làm kim chỉ Nam, như:
– Việc người khác ông đừng xen vào.
– Đừng cho pháp môn mình tu là cao hơn hết.
– Không rủ người khác tu theo pháp môn Thanh tịnh thiền này.
Vì sao vậy? Vì mỗi người đều có Tổng nghiệp riêng của họ. Tuy nhiên, nếu có ai hỏi, thì ông nói cho người hỏi nghe, nhưng ông phải dè dặt. Nếu họ thích, tìm cách giúp họ, còn họ có ý gì khác, thì thôi.
- Khi ông chưa vào được Trung tâm vận hành Nhân quả Luân hồi, mà ông muốn thấy Màn trong suốt, ông vừa khởi niệm muốn, là cái màn vô minh xuất hiện ra liền, thì làm sao ông thấy được. Việc làm thiết thực của người tu Thanh tịnh thiền chỉ có 2 việc chánh:
1- Phải học hỏi cho thật rõ pháp môn Thanh tịnh thiền này.
2- Giúp được nhiều người hiểu để mình có công đức.
– Khi mình được khối công đức lớn rồi, không cần mong thấy và biết, cũng tự nhiên thấy và biết. (Xem Người buôn bán tu thanh tịnh thiền)
+ Tu thanh tịnh thiền/ Thiền định giải thoát luân hồi: Phải tu đúng theo lời đức Phật dạy, tu Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối gồm
a/ Đoạn dâm: Không đoạn dâm dù có Định lực vẫn không để thoát luân hồi (Nấu cát mong thành cơm), nên vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương ứng Ma vương - Ma dân - Ma nữ. Thời mạt pháp ma dân rất nhiều
b/ Đoạn giết: Không đoạn giết hại (Ăn thịt và uống sữa ...) dù có Định lực cao thì vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương tương ứng Đại lực quỷ vương - Thủ lãnh loài quỷ (Bay trên không) - Quỷ bạo ác đi trên đất. Thời mạt pháp nói ăn thịt không trở ngại con đường giác ngộ. Ăn thịt không phải đệ tử Phật (Ngài dạy ăn Tam tịnh nhục là thịt do Ngài biến hiện ra). Người tu không đoạn giết ví như người tự bịt tai mình hô lớn tiếng, lại mong người khác chẳng nghe vậy (Bịt tai ăn cắp chuông). Đây như người muốn che dấu chứng cớ giành giành.
c/ Đoạn trộm cắp: Không đoạn trộm cắp dù có Định thì vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương tương ứng Quỷ hút tinh khí - Yêu ma quỷ quái - Ma qủy nhập thân người. Mạt pháp, nơi nào chúng đi qua gia đình suy bại và ly tán. Tu giải thoát mà phạm trộm cắp như đổ nước vào Ly nước bị thủng lỗ, muôn kiếp không đầy.
d/ Đoạn vọng ngữ: Không đoạn vọng ngữ (4 khẩu nghiệp, tự xưng chưa chứng đắc nói đã chứng) dù có Định lực cao thì vẫn là đọa lạc luân hồi. Người đó như lấy phân nặn thành hương đốt muốn thơm thì không thể được. Khi khởi đầu không chân thật thì kết quả sẽ chuốc lấy quanh co, muốn cầu đạo vô thượng mà phạm thì như người muốn tự cắn rốn mình - Không thể được.
=> Thành tựu Tứ chủng thanh tịnh minh hối đạt bất thoái chuyển thì Tâm không còn vướng Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, việc ma sự không thể phát sinh.
Với ai tập khí tiền kiếp sâu dày, tu Chú Lăng Nghiêm sẽ sớm thành tựu. Ví như dâm nữ có duyên sâu dày nhiều kiếp với ngài A Nan, dù tiền kiếp đã từng là dâm nữ, chưa từng khởi tâm tu hành bao giờ, thế mà khi nghe được đức Phật tuyên dương giáo pháp chỉ một lần, do năng lực âm thầm của Thần Chú Lăng Nghiêm mà còn mau chứng quả vị vô học. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Nghiên cứu về cấu tạo và hoạt động của Tâm:
"dứt được một phần vô minh tức là chứng được một phần pháp tánh". Từ những giác ngộ nhỏ mà dần dần đi lần đến chỗ giác ngộ lớn và tiến thẳng đến đạo quả vô thượng Bồ-đề. Hy vọng khi đọc xong quyển Luận (Quyển Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận) này chúng ta sẽ cùng nhau cố gắng tiến tu! Nội dung sách gồm: Tất cả pháp lược gồm có 5 loại:
1. Tâm pháp (Pháp tối thắng)
2. Tâm sở hữu pháp (Tương ưng với tâm pháp)
3. Sắc pháp (Pháp sở hiện ảnh)
4. Tâm bất tương ưng hành pháp (Tam vị sai biệt)
5. Vô vi pháp (Tứ sở hiển hiện)
Thứ nhất, pháp tối thắng: Tâm pháp
Thứ hai, tương ưng với tâm pháp (thứ nhất)
Thứ ba, pháp sở hiện ảnh (hai pháp trước)
Thứ tư, tam vị sai biệt (ba pháp trên)
Thứ năm, pháp sở hiển thị (bốn pháp trên)
Các pháp thứ lớp như thế.
Thứ nhất: Tâm pháp lược gồm 8:
1. Nhãn thức.
2. Nhĩ thức.
3. Tỷ thức.
4. Thiệt thức.
5. Thân thức
6. Ý thức
7. Mạt-na thức
8. A-lại-da thức
Thứ hai, Tâm sở hữu pháp lược gồm có 51, phân ra làm sáu hạng:
I. Biến hành có 5.
II. Biệt cảnh có 5.
III. Thiện có 11.
IV. Căn bản phiền não có 6.
V. Tùy phiền não có 20.
VI. Bất định có 4.
I. Biến hành có 5.
1. Tác Ý,
2. Xúc,
3. Thọ,
4. Tưởng,
5. Tư.
II. Năm Biệt cảnh:
1. Dục,
2. Thắng Giải,
3. Niệm,
4. Tam-Ma-Địa,
5. Huệ.
III. Mười một Thiện:
1. Tín,
2. Tinh Tấn,
3. Tàm,
4. Quý,
5. Vô Tham,
6. Vô Sân,
7. Vô Si,
8. Khinh An,
9. Bất Phóng Dật,
10. Hành Xả,
11. Bất Hại.
IV. Sáu Căn bản phiền não:
1. Tham,
2. Sân,
3. Si,
4. Mạn,
5. Nghi,
6. Bất Chánh Kiến.
V. Hai mươi Tùy phiền não:
1. Phẫn,
2. Hận,
3. Não,
4. Phúc,
5. Cuống,
6. Siểm,
7. Kiêu,
8. Hại,
9. Tật,
10. San,
11. Vô Tàm,
12. Vô Quý,
13. Bất Tín,
14. Giải Đải,
15. Phóng Dật,
16. Hôn Trầm,
17. Trạo Cử,
18. Thất Niệm,
19. Bất Chánh Tri,
20. Tán Loạn.
VI. Bốn Bất định:
1. Thùy Miên,
2. Ác Tác,
3. Tầm,
4. Tứ.
Thứ ba, Sắc pháp lược gồm có mười một:
1. Nhãn,
2. Nhĩ,
3. Tỷ,
4. Thiệt,
5. Thân,
6. Sắc,
7. Thanh,
8. Hương,
9. Vị,
10. Xúc,
11. Pháp Xứ Sở Nhiếp Sắc.
Thứ tư, Tâm bất tương ưng hành pháp lược gồm có hai mươi bốn:
1. Đắc,
2. Mạng Căn,
3. Chúng Đồng Phận,
4. Dị Sanh Tánh,
5. Vô Tưởng Định,
6. Diệt Tận Định,
7. Vô Tưởng Báo,
8. Danh Thân,
9. Cú Thân,
10. Văn Thân,
11. Sanh,
12. Trụ,
13. Lão,
14. Vô Thường,
15. Lưu Chuyển,
16. Định Dị,
17. Tương Ưng,
18. Thế Tốc,
19. Thứ Đệ,
20. Thời,
21. Phương,
22. Số,
23. Hòa Hợp Tánh,
24. Bất Hòa Hợp Tánh.
Thứ năm, Vô vi pháp lược gồm có sáu:
1. Hư Không Vô Vi,
2. Trạch Diệt Vô Vi,
3. Phi Trạch Diệt Vô Vi,
4. Bất Động Diệt Vô Vi,
5. Tưởng Thọ Diệt Vô Vi,
6. Chân Như Vô Vi.
Nói về vô ngã lược gồm hai thứ: Bổ-đặc-già-la vô ngã, pháp vô ngã. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Lược Giảng Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn)
+ Nghiên cứu về cấu tạo và hoạt động của Tâm:
"dứt được một phần vô minh tức là chứng được một phần pháp tánh". Từ những giác ngộ nhỏ mà dần dần đi lần đến chỗ giác ngộ lớn và tiến thẳng đến đạo quả vô thượng Bồ-đề. Hy vọng khi đọc xong quyển Luận (Quyển Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận) này chúng ta sẽ cùng nhau cố gắng tiến tu! Nội dung sách gồm: Tất cả pháp lược gồm có 5 loại:
1. Tâm pháp (Pháp tối thắng)
2. Tâm sở hữu pháp (Tương ưng với tâm pháp)
3. Sắc pháp (Pháp sở hiện ảnh)
4. Tâm bất tương ưng hành pháp (Tam vị sai biệt)
5. Vô vi pháp (Tứ sở hiển hiện)
Thứ nhất, pháp tối thắng: Tâm pháp
Thứ hai, tương ưng với tâm pháp (thứ nhất)
Thứ ba, pháp sở hiện ảnh (hai pháp trước)
Thứ tư, tam vị sai biệt (ba pháp trên)
Thứ năm, pháp sở hiển thị (bốn pháp trên)
Các pháp thứ lớp như thế.
a/ Thứ nhất: Tâm pháp lược gồm 8:
1. Nhãn thức.
2. Nhĩ thức.
3. Tỷ thức.
4. Thiệt thức.
5. Thân thức
6. Ý thức
7. Mạt-na thức
8. A-lại-da thức
b/ Thứ hai, Tâm sở hữu pháp lược gồm có 51, phân ra làm sáu hạng:
I. Biến hành có 5: 1. Tác Ý/ 2. Xúc/ 3. Thọ,/ 4. Tưởng,/ 5. Tư.
II. Biệt cảnh có 5: 1. Dục,/ 2. Thắng Giải,/ 3. Niệm,/ 4. Tam-Ma-Địa,/ 5. Huệ.
III. Thiện có 11: 1. Tín,/ 2. Tinh Tấn,/ 3. Tàm,/ 4. Quý,/ 5. Vô Tham,/ 6. Vô Sân,/ 7. Vô Si,/ 8. Khinh An,/ 9. Bất Phóng Dật,/ 10. Hành Xả,/ 11. Bất Hại.
IV. Căn bản phiền não có 6: 1. Tham,/ 2. Sân,/ 3. Si,/ 4. Mạn,/ 5. Nghi,/ 6. Bất Chánh Kiến.
V. Tùy phiền não có 20: 1. Phẫn,/ 2. Hận,/ 3. Não,/ 4. Phúc,/ 5. Cuống,/ 6. Siểm,/ 7. Kiêu,/ 8. Hại,/ 9. Tật,/ 10. San,/ 11. Vô Tàm,/ 12. Vô Quý,/ 13. Bất Tín,/ 14. Giải Đải,/ 15. Phóng Dật,/ 16. Hôn Trầm,/ 17. Trạo Cử,/ 18. Thất Niệm,/ 19. Bất Chánh Tri,/ 20. Tán Loạn.
VI. Bất định có 4: 1. Thùy Miên,/ 2. Ác Tác,/ 3. Tầm,/ 4. Tứ.
c/ Thứ ba, Sắc pháp lược gồm có mười một: 1. Nhãn,/ 2. Nhĩ,/ 3. Tỷ,/ 4. Thiệt,/ 5. Thân,/ 6. Sắc,/ 7. Thanh,/ 8. Hương,/ 9. Vị,/ 10. Xúc,/ 11. Pháp Xứ Sở Nhiếp Sắc.
d/ Thứ tư, Tâm bất tương ưng hành pháp lược gồm có hai mươi bốn: 1. Đắc,/ 2. Mạng Căn,/ 3. Chúng Đồng Phận,/ 4. Dị Sanh Tánh,/ 5. Vô Tưởng Định,/ 6. Diệt Tận Định,/ 7. Vô Tưởng Báo,/ 8. Danh Thân,/ 9. Cú Thân,/ 10. Văn Thân,/ 11. Sanh,/ 12. Trụ,/ 13. Lão,/ 14. Vô Thường,
15. Lưu Chuyển,/ 16. Định Dị,/ 17. Tương Ưng,/ 18. Thế Tốc,/ 19. Thứ Đệ,/ 20. Thời,/ 21. Phương,/ 22. Số,/ 23. Hòa Hợp Tánh,/ 24. Bất Hòa Hợp Tánh.
e/ Thứ năm, Vô vi pháp lược gồm có sáu: 1. Hư Không Vô Vi,/ 2. Trạch Diệt Vô Vi,/ 3. Phi Trạch Diệt Vô Vi,/ 4. Bất Động Diệt Vô Vi,/ 5. Tưởng Thọ Diệt Vô Vi,/ 6. Chân Như Vô Vi.
* Nói về vô ngã lược gồm hai thứ: Bổ-đặc-già-la vô ngã, pháp vô ngã. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Lược Giảng Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn)
+ TÂM (Pabhassara Citta) = TÁNH BIẾT thấy Thực Tánh của các Pháp. Tánh biết thể hiện qua rất nhiều mức độ nhận thức khác nhau: Liễu tri, tuệ tri, thắng tri, thức tri, tưởng tri, giác tri.
- 6 Căn + 6 Trần + 6 Thức = 18 GIỚI → Khổ Lạc Xả
- Sắc Thọ Tưởng Hành Thức = 5 UẨN
Sắc thuộc về sắc pháp. Thọ, tưởng, hành thuộc về tâm sở, thức thuộc về tâm vương. Khi một tiến trình năm uẩn khởi lên từ sự tiếp xúc của sắc (5 sắc căn + 5 tiền trần) đến phản ứng của các tâm sở (thọ, tưởng, hành) như thế nào thì cuối cùng gọi là tâm (thức) gì. Thí dụ tai tiếp xúc tiếng chửi (sắc), cảm thấy khó chịu (thọ khổ), nhận biết nghĩa khái niệm của tiếng chửi (tưởng), rồi bị chạm tự ái nên tức giận (hành) thì đó là tâm sân (thức).*
- Lục căn + Lục Trần = 12 Xứ
- Pháp trần (1) là Thực Tướng - Pháp trần (2) là Pháp trần (1) được lưu lại trong tâm thức. - Biết qua mắt tai mũi lưỡi thân ý là TƯỚNG BIẾT. Tướng biết tùy duyên căn trần mà sinh diệt. Biết được tướng biết là tánh biết, tánh biết không lệ thuộc vào duyên căn trần nên không sinh diệt. Không sanh vì nếu sanh thì phải thường biết, không diệt vì nếu diệt thì lấy gì biết được.- Trong những tiến trình tâm hữu thức (tướng biết) qua mắt tai mũi lưỡi và nhất là ý được lưu trữ vào tiềm thức Bhavanga hay tàng thức Alaya thì ý thức không còn biết được nữa, nhưng kho vô thức rộng lớn này vẫn tiếp tục hoạt động trong tánh biết. Ngay cả khi tiến trình tâm xảy ra thì ý thức cũng chỉ biết được một phần nhỏ, còn những phần khác tự động làm việc mà ý thức không hề biết được. Trong khi tánh biết vô hạn và bao trùm cả hoạt động của hữu thức lẫn vô thức thì tướng biết chỉ ý thức được một phần rất giới hạn. Cho nên, so với tánh biết thì tướng biết quá nhỏ bé.... (Nguồn: Bản đồ tâm linh_Thầy Viên Minh)
+ Tu thành Phật: Chánh Giác thủy thành: “Thập thân sơ mãn” và “Chánh Giác thủy thành”, ý nghĩa đó như nhau. Mới vừa thành Chánh Giác cũng chính là lúc vừa tròn đủ mười thân. Mười thân vừa thành cũng chính là Chánh Giác mới đủ. Chánh Giác ở đây không giống như những ác giác quán của các hàng ngoại đạo khác. Ngoại đạo cũng có giác quán, nhưng đó là ác quán, không phải chánh giác mà là tà giác, là tà tri kiến. Ngoại đạo cũng có trí huệ, nhưng chỉ là tà trí tà huệ. Còn đức Phật là chánh trí chánh huệ.
Lúc Phật mới vừa thành Chánh Giác, Ngài thốt lên ba tiếng “Lạ thay! Lạ thay! Lạ thay!”
“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không chứng đắc được quả vị này.”... (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HTTH giảng)
+ Bạch tịnh thức, tinh vi cao tột hơn thức thứ 8, đức Phật ít giảng đến (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bạch tịnh thức: Trong kinh Giải Thâm Mật, đức Như Lai vì hàng Bồ-tát mới phát tâm chẳng hay nhận được thức thứ tám, cho rằng thức thứ tám có hai nghĩa: minh và chẳng minh (chân và vọng), nên riêng lập thức thứ chín (bạch tịnh thức), lấy phần Bạch tịnh Thiên Chân (nghiêng về chân) kia, cũng tùy phương tiện mà nói, cùng với nghĩa này giống nhau.
+ Bạch Tịnh Thức - Phật quả: Ở quả vị này (Bồ tát Đệ bát Địa) tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử vô lậu. Các hạt giống hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân hồi sanh tử không còn nữa, A lại da thức chuyển đổi thành Bạch tịnh thức. Bạch tịnh thức còn được gọi là vô cấu thức. Khi này thức thứ tám không còn được gọi là thức A lại da nữa vì không còn chứa các chủng tử hữu lậu nên bài tụng nói A la hán vị xả. Xả tức là xả hết các hữu lậu chứ không phải là không còn thức A lại da nữa. Thức A lại da lúc này được gọi là Bạch tịnh thức hay là Vô cấu thức. Tùy theo tính chất nhiễm hay tịnh mà thức này có các tên gọi khác nhau chứ không phải là thức này đoạn diệt và thức khác sanh vì nếu đoạn diệt thì không thể nào duy trì sự tiếp nối của căn thân, thế giới và các hành tướng của nghiệp được.
Tuy nói là tới địa vị A la hán thì các chủng tử hữu lậu làm chướng ngại chân tâm bị hủy diệt nhưng thật ra hãy còn những chủng tử hữu lậu vi tế câu sanh nằm tiềm ẩn trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào các vị A la hán hồi đầu theo đại thừa và các vị Bồ tát đệ bát địa tiếp tục tiến tu pháp tối thắng vô phân biệt trí, được gọi là Thắng Pháp Không Quán, vượt khỏi bậc Bồ tát Thập địa đến bậc Đẳng Giác, khởi Kim Cang Dụ Định đạt được tới Phật Quả thì thức thứ tám này mới gột rửa được tất cả các vô lậu thậm thâm vi tế và chuyển thành Đai Viên Cảnh Trí. Quả vị này là Quả Vị Chuyển Y khi thức chuyển thành trí, là quả vị mà thức đã chuyển trở lại được với cái thể thanh tịnh của Chân Tâm, ví như mặt gương sáng chiếu soi vạn tượng một cách chân thật như thị bất khả tư nghì......
Có nghĩa là khi đến đệ bát địa thì thức thứ tám không còn có tên là Tàng thức hay A lại da thức nữa mà chỉ gọi là Dị thục thức. Khi đến địa vị Đẳng Giác tức là chứng được Kim Cang Đạo thì tên Dị thục cũng không còn nữa vì không còn câu sanh pháp chấp và không còn cảm thọ về sanh tử nên không còn nhận nghiệp quả dị thục nữa. Khi ấy các chủng tử vô lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này chuyển thành trí thanh tịnh chiếu khắp mười phương các cõi nhiều như vi trần nên gọi là Đại Viên Cảnh Trí. Lúc này vị Bồ tát có thể tùy duyên hóa hiện khắp pháp giới hoằng pháp hóa độ chúng sanh. (Nguồn: Đặc tánh A Lại Da thức - Duy Thức Học)
+ Chuyển thức thành trí: Lưu Ý (Nguyên chú): phần nói về chuyển thức thành trí: "Chuyển tiền ngũ thức là Thành Sở Tác Trí. Chuyển thức thứ sáu làm Diệu Quán Sát Trí. Chuyển thức thứ bảy làm Bình Đẳng Tánh Trí. Chuyển thức thứ tám thành Đại Viên Cảnh Trí. Tuy thức thứ sáu thứ bảy ở trong nhân chuyển, năm thức trước và thức thứ tám ở trên quả chuyển, nhưng chỉ chuyển trên danh tướng mà không chuyển bản thể của nó" theo bản khắc Đại Tạng Kinh, cùng với bản khắc đời Minh, đều là chữ nhỏ. Chỉ có bản khắc gần đây khắc lầm là chữ lớn, lẫn lộn với nguyên văn của Đàn Kinh. Như vậy không đúng! Cho nên vẫn làm chữ nhỏ mà viết thêm hai chữ "nguyên chú" (tức là lưu ý) để phân biệt. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cách ứng sử - hành sử của người bị oan - Vu không - hãm hại:
Lúc ấy vua trong nước là Ty Tiên Nặc với mọi người trong cung và tất cả nhân dân xứ ấy đều phụng sự Phật, cúng dường y thực, giường, chiếu, thuốc thang cho Ngài và các vị sa môn, cung cấp tất cả những vật cần dùng.
Thực là khi chưa có Phật ra đời, bọn tà sư ngoại đạo thạnh hành và kiêu hãnh, cũng như khi mặt trời chưa lên thì đuốc đèn khoe sáng. Nhưng khi Phật đã xuất hiện với ánh sáng tuyệt diệu, ngoại đạo đều khuất phục lặng yên, cũng như đuốc đèn mất hết cả ánh sáng khi mặt trời đã lên, huy hoàng và rạng rỡ. Trưới kia, trong nước có đến 500 tà sư ngoại đạo, nhưng bây giờ bọn ấy đều bị bỏ phế cả. Vì thế, một nhóm tà đạo mới sinh lòng oán ghét, cùng nhau lập mưu hủy nhục Phật để mọi người quay lại cung kính và lễ bái mình. Trong bọn, có nàng Tôn Đà Lî là đệ tử của chúng, bảo rằng:
- Các thầy không cần buồn rầu nữa. Tôi sẽ có cách làm cho mọi người không còn cung kính Phật nữa và sẽ trở lại thờ quý thầy như xưa.
"Bắt đầu từ hôm nay, ngày ngày tôi trang điểm và qua lại chỗ Phật và các vị Sa môn ở. Sau một tháng các thầy cứ âm thầm giết tôi đi và làm thế nào để chôn giấu trong vườn Thái tử họ Kỳ. Rồi các thầy giả cách tìm kiếm, mọi người sẽ nói: "Tôi thường thấy người con gái ấy qua lại tịnh xá luôn?. Liền đó, các thầy đến xin vua cho người đi tìm, tiện dịp vào moi xác tôi lên, vu oan cho chúng nó. Các thầy sẽ bảo cho mọi người nghe: ?Cái đạo gì mà dâm loạn. Cái đạo gì mà không có giới hạnh chi cả". Người trong nước nghe thế, quyết sẽ bỏ Phật và trở về phụng sự cho các thầy."
Bọn ngoại đạo nghe nàng nói thế, khen:
- Hay lắm! Nàng cứ làm như thế đi!
Nàng Tôn Đà Lî liền làm theo kế ấy. Nàng trang điểm cực kỳ mỹ lệ và mỗi ngày đều qua lại tịnh xá viếng Phật và Sa môn.
Một tháng sau, bọn ngoại đạo thuê bốn người lén giết nàng và chôn nàng trong vườn Kỳ thọ. Chôn xong, bọn đó đến cung vua kêu lạy:
- Tâu Bệ hạ, chúng tôi có mất sống một người con gái. Nàng thường hay qua viếng tịnh xá Phật và Sa môn luôn. Xin Bệ hạ thương chúng tôi, cho quân đi tìm thì chúng tôi được mong ơn Bệ hạ lắm.
Vua Ty Tiên Nặc liền cho các quan bộ lại phải cùng bọn tà sư đi tra xét tìm nả cho ra. Bọn tà sư giã cách đi lại bốn năm vòng rồi moi xác nàng Tôn Đà Lî lên. Chúng vừa khóc vừa để xác ấy lên xe chở đi khắp thành cho công chúng thấy. Vừa đi bọn đó vừa kêu la khóc lóc cho mọi người nghe:
- Cái phép của Sa Môn là giữ giới hạnh cho trong sạch mới phải. Chớ sao các ông lại hãm hiếp đàn bà rồi lại sợ bị tiết lộ mà đem chôn đi! Trời ơi có đạo nào lạ lùng như thế!
Nhân dân nghe vậy, nhiều người tin ngay là thật. Chỉ có các bậc đắc đạo mới biết đó là gian dối.
Lúc ấy Phật dạy các thầy Sa môn:
- Các ngươi đừng vào thành vội. Để bảy ngày nữa, sự thực hư thế nào sẽ rõ ràng.
Đến hôm thứ tám, Phật sai ông A Nan vào trong xóm truyền rằng: "Kẻ nói dối chê người, sẽ bị quả báo, kẻ vu oan cho người trong sạch, chết sẽ đọa địa ngục, chịu khổ mãi mãi, khi ấy mới trách mình ngu si bạo ngược".
Mọi người nghe vậy, bảo nhau: "Chắc các vị Sa môn trong sạch nên Phật mới nói thế". Vua cũng nghe phong phanh tin ấy, nên cho người đi dò xét. Thám tử bắt được quả tang bọn ngoại đạo đang ăn mừng được thành công, đang ban thưởng cho bốn người hung phạm.
Theo lệ, người nào học được nhiều kinh thì được chia nhiều phần thưởng. Trong bốn người, có một người dốt được phần ít hơn cả, liền nổi giận và nói:
- Tôi sẽ phản cho các anh xem. Đã chung nhau giết người vu oan cho Phật lại chia cho tôi phần quá ít.
Thám tử của nhà vua đứng ngoài nghe được, liền vào bắt người ấy giải lên vua. Nhà vua phán hỏi thì người ấy cứ thực mà khai tất cả.
Sau khi rõ âm mưu của ngoại đạo, vua với quần thần liền đi đến ra mắt Phật. Lúc bấy giờ cư sĩ Cấp Cô Độc cùng các vị thanh tín và nhân dân trong nước đều đến hầu Phật. Làm lễ xong, mỗi người đều ngồi ra một bên.
Nhà vua đứng dạy chắp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn, khi nghe lời vu oan của ngoại đạo, ai cũng lấy làm ngạc nhiên cả. Thực chỉ có Phật là bực chân thật hoàn toàn, thanh tịnh không lường. Bạch Ngài, xong chẳng hay vì nhân duyên gì mà xảy ra việc không hay như thế?
Phật bảo vua Ty Tiên Nặc:
- Nầy Đại vương! Những sự vu khống ấy đều do lòng tham lam tật đố mà ra cả. Song việc ấy đã xảy ra lâu đời rồi, chớ chẳng phải mới đây mà thôi. .... Xin xem tiếp trong Kinh văn (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Dâm dục - CÁCH ĐỐI TRỊ DÂM DỤC: Trong Đại Trí Độ Luận nói quá hay: “Dâm dục tuy không não loạn chúng sanh, nhưng nó trói buộc tâm mình”, tội này rất nặng, gọi là tình chấp. Du Già Sư Địa Luận nói: “Trong các ái, ái dục là nặng nhất”, cùng một ý nghĩa với Đại Trí Độ Luận. “Nếu có thể trị được nó, còn lại tự nhiên được hàng phục. Như lấy sức mạnh khống chế, yếu tự nhiên bị hàng phục”. Đây chính là nói, ở trong năm loại phiền não, lực lượng này mạnh nhất. Đối trị phiền não, là phải đối trị thứ mạnh nhất trước, nếu chế phục được phiền não này, các điều khác rất dể dàng, không khó. Căn tánh mỗi người khác nhau, điều này tự mình phải biết, tất cả đều thuộc về tham. Cho nên năm độc tham đứng hàng đầu, tham là gì? Tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi. Quý vị xem, quý vị tham, loại tham nào nghiêm trọng nhất thì phải đoạn nó trước. Phương pháp của người tu Tịnh độ dùng chính là trì danh niệm Phật, chấp trì danh hiệu. Ý niệm này vừa khởi, lập tức đổi thành A Di Đà Phật. Nếu chúng ta từ sáng đến tối, niệm niệm đều là Phật A Di Đà, những vọng tưởng, tạp niệm này đều không thể xen vào, đây gọi là công phu đắc lực. Một mặt niệm Phật, một mặt xen tạp những phiền não, khiến công phu niệm Phật của chúng ta bị phá hoại hoàn toàn, công phu niệm Phật không thể thành tựu, sự thật này không thể không biết. (Nguồn: Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa - Pháp sư Tịnh Không)
+ Sống mà dâm dật - Tà dâm: Luật Sa Di nói: “Năm giới tại gia, duy chế tà dâm. Mười giới xuất gia, đoạn tận tà dâm, phạm vào tất cả nam nữ trong thế gian, đều gọi là phá giới”. ....“Cho đến người thế gian vì dâm dục, mà mang họa sát thân tan nhà. Xuất gia làm tăng, há càng phạm chăng. Căn bản sanh tử, dâm dục đứng hàng đầu. Nên trong kinh dạy rằng: Sống mà dâm dật, không bằng chết mà trinh khiết”..... người thế gian vì dâm dục này, ái dục này, tình dục này mà “mất đi chức nghiệp - tan nhà mất mạng .....". Sống mà dâm dật, sau khi chết đọa vào địa ngục .... Còn chết mà trinh khiết tuyệt đại đa số đều sanh lên cõi trời, thiên đường và địa ngục sai biệt rất lớn ...
Cổ nhân nói, dâm dật: Đây là phiền não nghiêm trọng nhất trong phiền não. Bởi thế: “Dục không nặng không sanh Ta Bà, niệm không nhất không sanh Tịnh độ” ... Bên đại sư Thái Hiền nói: “Sanh tử lao ngục, dâm là xiềng xích, trói buộc hữu tình, khó ngày ra khỏi”. Giáo huấn của tổ sư đại đức, sanh tử như lao ngục chính là luân hồi lục đạo...
Phàm phu họ lấy điều dâm dục này làm vui thì phiền phức rất lớn. “Nên trói buộc tâm mình, tạo ra tội lớn”, tội dâm dục là gì? Thông thường chúng ta gọi là tình chấp, chấp trước này vô cùng sâu sắc, vô cùng nghiêm trọng, chướng ngại quý vị tu tập..... Du Già Sư Địa Luận nói: “Trong các ái, ái dục là nặng nhất”.....
“Như lấy sức mạnh khắc chế, yếu tự nhiên bị hàng phục”, ý nghĩa giống như ở trên. “Do đó dục pháp có ba loại”, dục pháp chính là dâm dục, có ba loại. Thứ nhất: “Khổ mà tưởng là vui”, điều này không ai nghĩ đến, đây là điều khổ không phải điều vui. Thứ hai: “Ít điều vui mà nhiều thiên tai”, mang đến cho chúng ta quá nhiều tai họa, mà ta không ngờ đến. Thứ ba: “Bất tịnh mà tưởng tịnh”, đây là nhiễm ô nghiêm trọng. “Lại nói, sao lại chìm đắm vui chơi trong sát na/ chốc lát, “mà phải chịu khổ lớn đời đời”.
Kinh Dục Ha lại nói: “Nữ sắc là xiềng xích của thế gian, phàm phu mê đắm, không thể tự thoát khỏi. Nữ sắc là hoạn nạn của thế gian, phàm phu vướng mắc vào đó, đến chết cũng không thoát được. Nữ sắc là lụn bại, tai họa của thế gian, phàm phu gặp phải, không có ách nạn gì không vướng”....
Hội Sớ nói: “Dâm như lửa đốt cháy bên trong, ngực nóng tâm cuồng”. Đây là nói đến “tà thái ngoại dật”, trạng thái tà dâm lộ ra bên ngoài. “Phí tổn gia tài”, phí là hao, tổn là giảm ít lại, nghĩa là giảm. Cái gọi là phá gia bại sản, có liên quan mật thiết với tà dâm...
..., Dưới giao kết tụ hội. “giao kết” có nghĩa cấu kết. “Tụ hội, tụ tập tà chúng”, tập hợp mọi người làm gì? “Giết hại cướp bóc”, vì thế nên dẫn đến dâm ác. Do dâm ác dẫn đến những tội giết người cướp của, cưỡng đoạt ngang nhiên như trong chiến tranh vậy.. (Nguồn: PS Tịnh Không - Tịnh Độ ... 256)
+ Dâm giới - Giữa giới dâm; Kinh Phật - Bồ Tát Quả Trách Dâm dục (Căn bản dạy Phật tử tại gia)
Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ, cùng phi đạo mà hành dâm dưới mọi hình thức: nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục. Là Phật tử, đối với tất cả mọi đối tượng trên, không được cố ý dâm dục và phải có lòng hiếu thuận, cứu độ tất cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh răn dạy người; trái lại, không có tâm từ bi, làm cho mọi người sanh việc dâm dục, không phân biệt súc sanh cho đến mẹ con, chị em trong lục thân cũng hành dâm. Phật tử này phạm Ba La Di tội.....
Nên biết, việc dâm dục nếu chưa bị tiêm nhiễm thì thôi, khi đã bị tiêm nhiễm rồi thì bị nó trói cột rất chặt. Chừng ấy muốn thoát ly nó, hoặc muốn cắt đứt dây ái dục, thật không phải đơn giản, nên Đại Trí Độ Luận của tổ Long Thọ dạy: “Dâm dục tuy bất não chúng sanh, hệ phược cố vi đại tội” (dâm dục dù không não hại chúng sanh, nhưng có sức trói cột, nên tội ác rất lớn).
Ví như lao ngục ở thế gian, vì sợ tù nhân chạy trốn nên bắt mỗi người phải mang gông vào cổ, lấy xiềng sắt còng tay chân lại. Nhưng đối với lao ngục sanh tử trong tam giới, gông cùm, xiềng xích tròng trói chúng sanh lại chính là ái dục vô hình.
Nên trong luật Tăng Kỳ nói: “Khả úy chi thậm vô quá nữ nhân, bại chánh hoại đức mạc bất do chi!” Nghĩa là: Những việc đáng sợ nhất không gì hơn người nữ; chánh pháp bại hoại, đạo đức suy đồi, tất cả đều do nơi người nữ. Nếu không tin hãy xem trên thế gian này nhiều việc thương phong bại đức, đâu có việc nào chẳng do nữ nhân mà ra. ...
Cả nam lẫn nữ đối với vấn đề dâm dục này đều có tâm tiêm nhiễm đắm say. Nên bao nhiêu tội ác có quan hệ đến tính dục, cả nam lẫn nữ phải cùng gánh trách nhiệm, không thể hoàn toàn quy lỗi về cho nữ chúng một cách đơn phương”.
Vì thế cả nam lẫn nữ, đối với sự sinh hoạt dâm dục đều phải tiết chế hoàn toàn, cho đến tuyệt đối đoạn tuyệt, không nên túng tình phóng đãng.
Nếu dâm dục vô độ, buông lung, chẳng những tự mình gặp nhiều việc khó khăn, lại phá hoại tín tâm của người đối với mình, đồng thời gây ra việc hủy báng cho nhiều người. Dĩ nhiên là tự mình bất lợi trước nhất. (Nguồn: Kinh Dâm giới - Giới dâm)
+ Hiểu ngữ nghĩa các từ - Hiểu nghĩa thuật ngữ
Sáng tác 50 Bài Tụng Duy Biểu, tác giả (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) mong sẽ nối tiếp sự nghiệp của Thầy Pháp Tạng: đưa giáo lý Hoa Nghiêm vào Duy Biểu để cho Duy Biểu trở thành viên giáo.
Tác giả cố gắng trình bày tác phẩm này như một giáo lý Đại thừa.
Nếu trong khi đọc sách, bạn không hiểu một câu hay chữ nào đó, thì đừng cố gắng quá. Hãy để cho giáo pháp thấm dần vào bạn như khi bạn nghe nhạc, như mặt đất thấm những giọt nước mưa. Nếu chỉ dùng lý trí để học những bài tụng này, thì cũng giống như phủ lên mặt đất một tấm vải nhựa vậy. Nhưng khi bạn cho phép mưa pháp thấm sâu vào tâm thức, thì 50 bài tụng này sẽ cống hiến bạn tất cả giáo nghĩa của Thắng Pháp A-tỳ-đạt-ma.
Giáo pháp Duy Biểu là một môn học hết sức phức tạp và vi tế, chúng ta cần cả cuộc đời để tìm hiểu cho thấu đáo. Xin đừng nản lòng vì sự phức tạp đó. Hãy cứ học một cách từ tốn. Đừng đọc nhiều trang mỗi lần, mà chỉ đọc từng câu, cùng lời bình giải đầy đủ trước khi sang câu khác. Với chánh niệm và từ bi, bạn sẽ hiểu những bài học này một cách tự nhiên và dễ dàng... (Nguồn: Duy Biểu Học - Thích Nhất Hạnh)
+ Người mẹ mang thai:
Huân tập thời ấu thơ, cả thời gian thai nghén. Ngay khi còn ở trong bụng mẹ, thức A-lại-gia của thai nhi đã bắt đầu hoạt động, đã có thể tiếp nhận những hạt giống khổ đau hay hạnh phúc từ mẹ mình hoặc cha mình. Khi mang thai, một bà mẹ hằng ngày tiếp tục gieo vào tàng thức của mình và của em bé đủ mọi hạt giống, từ thức ăn thức uống, đến buồn vui, khổ đau, lo lắng…
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là những dòng sông đưa hạt giống vào tàng thức của cả mẹ lẫn con. Ăn là ăn cho hai người, uống là uống cho hai người, vui là vui cho hai người, khổ là khổ cho hai người. Cho nên những bà mẹ tương lai phải tu nhiều lắm, phải chánh niệm nhiều lắm mới được. Khi đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, khi đọc sách, xem ti-vi, nói chuyện phải hết sức cẩn thận. Phải nuôi con từ lúc con chưa ra đời chứ không phải chỉ nuôi con từ lúc con còn bé. Người cha tương lai cũng cần phải có ý thức nhiều mới được. Mỗi cử chỉ vụng về, mỗi câu nói nặng, mỗi cái nhìn trách móc, mỗi cái nhìn lạnh nhạt của cha đối với mẹ, em bé đều tiếp nhận hết. Những hạt giống khổ đau của một đời người bắt đầu từ khi còn trứng nước trong bụng mẹ. Những hành động thiếu chánh niệm của người lớn gieo vào tâm em bé có thể ảnh hưởng suốt cuộc đời em.
Chúng ta cần ý thức rằng tàng thức em bé rất mong manh nhưng luôn luôn có mặt đó và sẽ tiếp nhận tất cả những gì xẩy ra trong đời sống gia đình. Chúng ta cũng nên biết rằng khi em bé sinh ra, tuy chưa hiểu tiếng người nhưng không có nghĩa là em bé không thể tiếp nhận hạt giống từ cha mẹ. Khi cha mẹ nói chuyện với nhau, tình cảm được biểu hiện trong lời nói. Một câu nói mà có sự săn sóc thương yêu hay một câu nói đầy giận hờn, bực bội em bé đều cảm nhận được hết. Không khí hạnh phúc hay khổ đau trong gia đình, dầu em bé còn nằm trong nôi, đều cảm nhận được hết. Những kỷ niệm của thời ấu thơ rất sâu đậm.
Có những em bé bị bệnh tâm thần ngay từ khi còn nhỏ bởi vì cha mẹ làm khổ nhau khi em bé còn trong bụng mẹ và tiếp tục làm khổ nhau khi bé ra đời cho nên chúng sợ người lớn lắm. Ở Tây phương người ta quan sát những em bé trong một phòng riêng với nhiều đồ chơi và nhận thấy có một số em vui chơi rất tự nhiên với đồ chơi khi trong phòng không có người lớn nào, nhưng khi có người lớn bước vào thì các em bé ấy im lặng và mềm ra như một sợi bún. Tâm Lý Học Tây phương gọi các em bé đó là những em bé mềm (les enfants mous) tại vì người lớn đã làm cho chúng khổ ngay từ trong bụng mẹ nên ngay khi sinh ra các em đã sợ người lớn. (Nguồn: Các loại hạt giống - Duy Biểu học - Bài 4)
+ Nhân quả thông ba đời: Trích đoạn từ "Kinh Vô Lượng Thọ Tinh Hoa":
Dục tri tiền thế nhân Kim sanh thọ giả thị, Dục tri lai thế quả Kim sanh tác giả thị. (Muốn biết nhân đời trước - Xem kết quả đời này, Muốn biết kết quả đời sau - Xem nguyên nhân đời hiện tại). Mệnh do ngã lập Phúc tự kỳ cầu Họa phúc vô môn Duy nhân tự chiêu. (Mạng do ta lập ra - Phước do chính ta cầu. Họa phước không có cửa - Do người tự chuốt lấy). Tùng sử bách thiên kiếp Sở tác nghiệp bất vong Nhân duyên hội ngộ thời Quả báo hoàn tự thọ. (Trải qua trăm ngàn kiếp - Nghiệp tạo chẳng mất tiêu. Nhân duyên đầy đủ thời - Quả báo mình lại thọ). Ác giả ác báo, nhược bằng bất báo, thời thần vị đáo. (Làm ác sẽ bị ác báo hại, nếu như chưa thấy, là tại ngày giờ chưa đến thôi). Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác, Tử tế tư lường thiên địa bất thác. Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, Nhược hoàn bất báo, thời thần vị đáo. (Chứa lành gặp lành, chứa ác gặp ác, Kỹ càng nghĩ lường, Trời Đất chẳng lầm. Lành có lành trả, dữ có dữ trả, Nếu về chẳng trả, ngày giờ chưa đến). Bình sanh hành thiện, Thiên gia phước, Nhược thị ngu ngoan thụ họa ương. Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, Cao phi viễn tẩu dã nan tàng. (Thường ngày làm lành, Trời ban thêm phước, Nếu ngu ngang ngạnh, thì chịu tai ương. Lành dữ cuối cùng đều có quả báo, Cao bay xa chạy nhưng vẫn khó trốn). Chịu thiệt thòi thì tiêu nghiệp, sanh phước. Tranh lợi về mình thì tạo nghiệp, tổn phước. Nếu không gấp rút tu (Nguồn: PS Tịnh Không giảng_Thầy Minh Nhẫn dịch)
+ Nhân quả báo ứng thông ba đời: Kinh dạy: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ-tát sợ gặp phải ác quả, nên đã đoạn sẵn ác nhân từ trước. Do vậy, tội chướng tiêu diệt, công đức viên mãn thẳng đến khi thành Phật mới thôi. Chúng sinh thường tạo ác nhân, muốn tránh ác quả, như ở trước mặt trời lại muốn không có bóng, cứ nhọc nhằn rảo chạy.
Thường thấy kẻ ngu vô tri vừa làm chút điều lành liền mong đại phước; vừa gặp phải nghịch cảnh bèn bảo làm lành mắc họa, chẳng có nhân quả. Từ đó, cái tâm ban đầu lùi sụt, đâm ra báng bổ Phật pháp. Họ nào biết đến ý chỉ huyền áo “báo thông ba đời, chuyển biến do tâm”.
Hiện đời làm thiện, làm ác; hiện đời được phước, mắc họa thì gọi là “hiện báo”. Đời này làm thiện, làm ác; đời sau được phước, mắc họa, gọi là “sinh báo”. Đời này làm thiện, làm ác, đến đời thứ ba, hoặc đời thứ tư, hoặc mười, trăm, vạn đời sau, hoặc đến vô lượng vô biên kiếp sau mới hưởng phước, mắc họa, thì gọi là “hậu báo”. Hâïu báo sớm, chậm bất định. Phàm những nghiệp đã tạo, tuyệt đối không có nghiệp nào lại chẳng có báo.
“Chuyển biến do tâm” là ví như có người đã tạo ác nghiệp, sẽ đọa mãi trong địa ngục, chịu khổ cả bao kiếp dài lâu. Về sau, kẻ ấy sinh lòng hổ thẹn lớn lao, phát đại Bồ-đề tâm, cải ác tu thiện, tụng kinh, niệm Phật, tự hành, dạy người hành, cầu sinh Tây Phương. Do đó, trong đời này, người ấy bị người khinh miệt hoặc mắc chút bệnh khổ, hoặc phải tạm chịu bần cùng và gặp hết thảy chuyện chẳng như ý. Nghiệp vĩnh viễn đọa địa ngục chịu khổ bao kiếp dài lâu mình đã tạo trước đây liền bị tiêu diệt, lại còn có thể liễu sinh thoát tử, siêu phàm nhập Thánh. Đấy là điều Kim Cang đã nói: “Nếu có người thọ trì kinh này bị người khác khinh rẻ, người ấy do tội nghiệp đời trước liền bị tiêu diệt, sẽ đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. Đây chính là ý nghĩa “chuyển biến do tâm”...... Nhân đã gieo dù trăm ngàn muôn kiếp vẫn không mất, chỉ cần hội đủ Nhân Duyên là Quả báo trổ. Đạo trời bình đẳng tuyệt đối. chẳng sai chạy ... (Nguồn: Giảng về Nhân quả về mặt Sự_Ấn Quang Đại Sư)
Xem thêm: Kinh Nhân Quả ba Đời
+ Vật Phẩm Phong Thủy:
Câu Hỏi 38: Đa số người ta nói là: Muốn có phong thủy tốt thì nên treo một tấm gương ở trước cửa chánh. Phía bên trái căn nhà nên đặt một chậu kiểng màu xanh. Phía trên đầu giường của chủ nhà nên treo hai thanh kiếm, và dọc theo lối đi thì nên treo cái chuông gió. Làm vậy có phải không?
Đáp:
1) Tấm gương biểu thị cho sự thanh tịnh, là thân tướng chúng ta được trong sạch khi ra khỏi nhà. Quét nhà là quét rác ra khỏi cửa, khiến cho chúng ta được sạch sẽ. Gương cũng là sự sáng tỏ, hiểu rõ sự và lý, biết – Chấp nhận theo định mạng tri túc, biết – không tham, không cầu. Vậy mà có một số người không biết, lại tin vào tà thuyết. Họ nghĩ rằng treo gương chiếu yêu ma thì tà ma không dám xâm phạm vào nhà. Nếu có ý nghĩ như vậy, thì tà ma đã nhập vào thân thể họ rồi.
2) Cây kiểng màu xanh chỉ là một cách trang trí trong nhà.
3) Kiếm trí huệ cắt dây tình ái để chúng ta đừng lạng quạng. Hai thanh kiếm chỉ là biểu tượng cho nam và nữ, mỗi người cầm giữ một kiếm. Không treo kiếm thì tà ma không đến, một khi treo lên thì tà ma sẽ tới chiến đấu với quý vị, bao lần ai thắng, ai bại không thể nào biết được.
4) Chuông gió tượng trưng cho sự điêu linh, tàn tạ. Ý nói trong gia đạo suy bại, mỗi ngày một lụng bại dần.
Tóm lại, phong thủy thì không ngoài tự tâm. Tâm địa tốt, quang minh chánh đại thì mọi việc đều tốt – không tốt cũng sẽ tốt. Còn nếu tâm địa không lương thiện, thì mỗi mỗi đều không tốt. Lúc đó việc tốt cũng biến thành không tốt. Vì vậy đức Phật nói: “Tất cả đều do tâm tạo.” Người xưa cũng nói: “Người đời cho rằng huyệt mạch ở trong núi, nhưng nào ai biết huyệt ở tại trong tâm.” Những kẻ giang hồ thuật sĩ hay cãi bướng, tự chế ra các lý luận không chính đáng để lừa gạt người ngu. Thật đáng thương! Đáng thương thay! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Hương vị Thiền: Cảm giác sung sướng - Khoái lạc - Khoái cảm - Đắm trước:
Khi Ðắm Trước Hương Vị Thiền
Thì Mọi Chuyện Ðều Sai Lầm
Mình chỉ chờ đợi thiền vị đến,
một khi chờ đợi thì quên dụng công.
Tọa thiền đừng tham đắc vị thiền. Thế nào là vị thiền? Ðó tức là cảm giác sung sướng của thiền. Ngồi một thời gian khá lâu, tự nhiên mình sẽ có cảm giác rất là tự tại, thoải mái và sung sướng vô cùng. Nếu mình tham trước cảnh giới tự tại sung sướng đó, thì không dễ dàng mà tiến bộ. Mình sẽ ngưng trệ, cứ khởi ý tìm lại thiền vị đó. Nếu như cảnh giới đó qua rồi, lại đi tìm cầu rằng: "Khi nào thì tôi sẽ có được cảnh giới như vậy nữa? Cảnh giới vô nhân, vô ngã, vô chúng sinh, vô thọ giả, vô phiền, vô não, hết sức tự tại an lạc đó, đến lúc nào thì tôi được nữa?...." Khi chờ đợi thiền vị nầy đến, thì mình sẽ quên dụng công, đây gọi là chấp trước vào vị thiền.
Người tọa thiền cần vô quái vô ngại, vô tham vô cầu, vô hỷ vô ưu, vô khủng vô bố. Nên đem thân mình ví như là hư không trong Pháp-giới vậy, không cần phải chấp trước tham cầu. Nếu có tham cầu thì sẽ rớt vào đệ nhị nghĩa.
Sau đây là bốn cảnh giới:
1. Sơ Thiền Thiên, Ly Sinh Hỷ Lạc Ðịa: Nghĩa là mình sẽ ly khai được phiền não của chúng sinh, đắc được món ăn thiền, sung mãn Pháp hỷ an lạc, ra khỏi sự mê đảo của chúng sinh và hướng tới con đường bồ-đề của thánh nhân. Ðạt tới cảnh giới thiền này thì không được mạo xưng, không được tự mình nói ra, mà phải được một vị thiện-tri-thức ấn chứng cho.
Cảnh giới này có cách để chứng minh: Tức là khi hơi thở của mình ngừng lại không còn hô hấp nữa, nhưng không phải là chết, đây tức là nhập định hay nhập sơ thiền. Sơ thiền này khác hẳn với sự ngủ nghỉ, quý-vị đừng cho rằng ngủ tức là nhập định. Ngủ không những là còn hô hấp, mà nhiều người còn ngáy pho pho khiến kẻ khác nghe như sấm vậy. Bởi vậy sự hô hấp của quý-vị đã ngừng hay chưa, những vị thiện-tri-thức nhìn sẽ biết ngay. Có kẻ nói rằng: "Tôi cảm thấy là tôi không còn hô hấp nữa." Ðó tức là giả, tức là mạo xưng. Nếu mà biết thì mình vẫn chưa nhập được sơ thiền. Nên không thể đem nhãn hiệu giả ra rao bán được.
Nếu muốn phân tích tường tận e phải viết cả khối sách. Nếu nói nhiều quá, sẽ sinh ra chướng ngại cho quý-vị. Nên nói một chút thôi, để tránh quý-vị đừng sinh ra tâm cống cao tà kiến, rằng mình đã nhập vào sơ thiền; cho mình như vậy, tức là lừa dối kẻ khác.
2. Nhị Thiền Thiên, Ðịnh Sinh Hỷ Lạc Ðịa: Cảnh giới này thì cao hơn một bước, không những hô hấp đã đoạn rồi, mà mạch tim cũng ngừng lại. Cảnh giới này không phải mình có thể biết hoặc là có thể nói ra. Nếu nói mình đã đạt cảnh giới đó, thì thử hỏi làm sao cảm thấy nó? ắt hẳn mình chưa hề nhập định, rồi lại mạo xưng để lừa người khác chăng?
3. Tam Thiền Thiên, Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa: Tới được cảnh giới này thì hô hấp và mạch tim đều ngừng lại, đến ý niệm cũng không còn. Tới cảnh giới này thì mình ra khỏi sự hoan hỷ, xả đi vị thiền, không còn đắm trước gì nữa. Cảnh giới nầy so với sơ thiền và nhị thiền thì cao hơn nhiều, lúc bấy giờ thì mọi sợi tóc mình cũng sinh ra hoan hỷ khác thường, lông mày con mắt đều tươi cười hết sức vui sướng vô ngần.
3. Tứ Thiền Thiên, Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa: Ðến lúc nầy tất cả mọi thứ đều là không, "nhất niệm bất sinh toàn thể hiện" Nghĩa là khi một niệm chẳng dấy lên, chân tâm bản thể hiện bày. Tới được chỗ:
Thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt.
Vạn lý vô vân vạn lý thiên.
Nghĩa là:
Ao hồ ngàn nước, ngàn trăng hiện.
Vạn dặm không mây, vạn dặm xanh.
Ở cảnh giới nầy thì mọi nơi đều thuyết Pháp cho mình nghe. Bởi vì "Lạc hoa lưu thủy diễn Ma-ha," nghĩa là hoa rơi, nước chảy đều như nói Pháp Ðại-thừa. Cảnh giới nầy mình không biết được nó đâu, và cũng không được nói rằng: "Tôi đến được Tứ Thiền Thiên rồi." Nếu vậy là mình sinh ra đại ngã mạn, nói ra lời hết sức láo lếu. Ðiều nầy cũng cần phải có vị thiện-tri-thức ấn chứng cho mình thì mới đúng được.
Tại sao gọi thiện-tri-thức là người có con mắt sáng? Bởi vì vị đó có thể nhìn và biết ngay công phu của mình đã đến trình độ nào rồi. Nếu mình muốn khảo nghiệm Ngài, thì cứ thử xem! Ngài chẳng quan tâm gì đến điều đó cả. Nếu là chân chính thiện-tri-thức thì không có cách gì bị chúng ta khảo nghiệm đặng. Ngài không vì lẽ bị hỏi mà liền nói toạc ra đâu. Chỉ cần mình thân cận với Ngài sau một thời gian lâu, thì Ngài sẽ nói cho mình biết. Nhưng chưa chắc là Ngài nói rõ hết đâu. Có lúc Ngài dùng ví dụ hoặc chỉ thuyết vài câu đơn giản mà thôi. Cho nên mình không thể đi đâu cũng đánh chuông nổi trống mà nói rằng: "Tôi đã thành Phật rồi!" Nói như vậy là hết sức láo lếu, làm trò hề, tương lai sẽ đọa địa ngục, bị cắt lưỡi. Ðó là điều hết sức đáng thương xót vậy.
Giảng vào tối ngày 18 tháng 11 năm 1982 tại Vạn Phật Thánh Thành: Xem HT Tuyên Hóa khai thị
+ Ứng dụng Kinh dịch: ... Kinh Dịch chỉ cho người ta bói toán để quyết định sự nghi hoặc. Nếu theo đạo lý nên làm, vẫn là cứ làm; nếu theo đạo lý mà không nên làm, tự nhiên không thể làm được; thế thì cần gì mà còn phải xem? Là vì có khi cùng trong một việc mà hoặc là lành hoặc là dữ, hay là có thể xử trí hai cách khác nhau. Bởi vậy không thể không xem.
Xem kinh dịch (tr, 70): Nghĩa là ngay thẳng chính đính thì lợi, không ngay thẳng chính đính thi không lợi ... (Kinh dịch - Ngô Tất Tố)
+ Ứng dụng Kinh dịch: ... Thiền sư Vân Cốc nói: Kinh Dịch cũng vì những người giữ lòng nhân đức mà tính trước nên đi hướng nào sẽ kiết tường, tránh được những việc hung hiểm, những người hung hiểm, những chổ hung hiểm. Nếu nói vận mệnh nhất định không thể thay đổi, thì làm sao có thể đến chỗ kiết tường, tránh nơi hung hiểm? Chương mở đầu của Kinh Dịch đã nói: Gia đình nào hành thiện, ắt sẽ dư nhiều phước báo, để lại cho con cháu. Đạo lý này Thánh hiền luôn khuyên tin dùng... (Nguồn: Sách Tích Phúc Cải Mệnh)
+ Sách Kinh Dịch: .. Kinh Dịch nói “Cùng lý tận tánh để thấu đạt vận mạng”. Tận tánh? Thấu tánh người (VD: Sở thích, điểm mạnh yếu ...), tỏ tánh mình (VD: Thập thiện ...) và cho đến tánh của vạn vật (Tách trà = Uống trà, Lư hương = Đốt hương ... biết công dụng, sở trường, tính chất ...). Trong Kinh Dịch nói “Thay đổi để cho hợp với quy luật của trời đất, cho nên mới có thể phát triển đạo của trời đất”. Đây chính là ý muốn nói Thánh nhơn tạo ra “Sự thay đổi (Dịch)” cho phù hợp với quy luật của tạo hóa - Là đạo lý này, cũng có nghĩa là “bao la trùm khắp”, nghĩa là bao la vạn hữu, tất cả sum la vạn tượng đều được bao bọc ở trong đó. ... (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quẻ dịch phối tiết khí (64 Quẻ dịch: Mời xem tại đây): Từ quẻ Phục khởi quanh bên tả, trải qua những quẻ: Địa Lôi, Sơn Lôi, Thủy Lôi, Phong Lôi, Thuần Lôi, Hỏa Lôi, Trạch Lôi, Thiên Lôi - Địa Hỏa, Sơn Hỏa, Thủy Hỏa, Phong Hỏa, Lôi Hỏa, Trạch Hỏa, Thiên Hỏa - Địa Trạch, Sơn Trạch, Thủy Trạch, Phong Trạch, Lôi Trạch, Hỏa Trạch, Thuần Đoài, Thiên Trạch - Địa Thiên, Sơn Thiên, Thủy Thiên, Phong Thiên, Lôi Thiên, Hỏa Thiên, Trạch Thiên.
Từ quẻ Cấu khởi quanh bên hữu trải qua những quẻ: Thiên Phong, Trạch Phong, Hỏa Phong, Lôi Phong, Thuần Tốn, Thủy Phong, Sơn Phong, Địa Phong – Thiên Thủy, Trạch Thủy, Hỏa Thủy, Lôi Thủy, Phong Thủy, Sơn Thủy, Địa Thủy – Thiên Sơn, Trạch Sơn, Hỏa Sơn, Lôi Sơn, Phong Sơn, Thủy Sơn, Thuần Cấn, Địa Sơn – Thiên Địa, Trạch Địa, Hỏa Địa, Lôi Địa, Phong Địa, Thủy Địa, Sơn Địa, cộng lại được 60 quẻ.
Lấy quẻ Địa Lôi Phục khởi ở Đông chí nửa giờ Tý, gồm 5 quẻ phối 2 khí:
- Quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Thuần Chấn phối với khí Đông chí - Tiểu hàn ;
- Quẻ Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí phối với khí Đại hàn - Lập xuân ;
- Quẻ Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Lôi Hỏa Phong, Trạch Hỏa Cách, Thiên Hỏa Đồng nhân phối với khí Vũ thủy – Kinh trập ;
- Quẻ Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Lôi Trạch Quy muội phối với khí Xuân phân – Thanh minh ;
- Quẻ Hỏa Trạch Khuê, Thuần Đoài, Thiên Trạch Lý, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại súc, phối với khí Cốc vũ - Lập hạ ;
- Quẻ Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, Lôi Thiên Đại tráng, Hỏa Thiên Đại hữu, Trạch Thiên Quải phối với khí Tiểu mãn – Mang chủng
- Quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Thuần Tốn phối với khí Hạ chí - Tiểu thử.
- Quẻ Thủy Phong Tỉnh, Sơn Phong Cổ, Địa Phong Thăng, Thiên Thủy Tụng, Trạch Thủy Khốn phối với khí Đại thử - Lập thu.
- Quẻ Hỏa Thủy Vị tế, Lôi Thủy Giải, Phong Thủy Hoán, Sơn Thủy Mông, Địa Thủy Sư phối với khí Sử thử - Bạch lộ
- Thiên Sơn Độn, Trạch Sơn Hàm, Hỏa Sơn Lữ, Lôi Sơn Tiểu quá, Phong Sơn Tiệm phối với khí Thu phân – Hàn lộ.
- Quẻ Thủy Sơn Kiển, Thuần Cấn, Địa Sơn Khiêm, Thiên Địa Bĩ, Trạch Địa Tụy phối với khí Sương giáng - Lập đông.
- Quẻ Hỏa Địa Tấn, Lôi Địa Dự, Phong Địa Quan, Thủy Địa Tỷ, Sơn Địa Bác phối với khí Tiểu tuyết - Đại tuyết.
* Quẻ dịch phối các tháng trong năm: Tháng Tý - Sửa - Dần - Mão - Thìn - Tị - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi. ......
* Giảng về Hà đồ - Lạc thư - Thái cực - lương nghi - Tứ tượng phối Quẻ dịch và Mặt trời, Mặt trăng, các Sao, liên hệ tương ứng các Tứ đại (Thủy Hỏa Thổ Thạch)......
* Hơn nữa, niên Vận ứng Trời, quanh quẩn ở Người, như Tùy mở Thái là tốt vậy. Âm theo Dương thì tốt, Dương theo Âm thì hung, dưới ra lệnh trên thường theo không thể Thái, cố đến ở trên thì hung vậy. Âm cô Dương là hung, Dương cô Âm là cát. Con sửa lỗi cha, lỗi chẳng đến: Bĩ vậy. Bĩ mà đến dùng Tùy Thái, mà đến dùng Cổ, trên xem vận trời, đạo ở quanh Càn, Bắc mà đến Nam, Nam mà đến Bắc, dưới nghiệm khí đất, đạo ở chuyển Khôn. Đó là sự kỳ lạ về nghiệm ứng, cũng tự khó lường......
* Luận bàn chi tiết kỹ càng về các con số Trời Đất với Quẻ. Trong sách giảng giải chi tiết dài (Quyển 4), mời xem trong sách: Hoàng Cực Kinh Thế - Thiệu Khang Tiết.
+ 10 Điều Tâm Niệm Của Nhà Phật
1. Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh tật, vì không bệnh tật thì tham dục dễ sinh
2. Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn dễ kiêu sa trỗi dậy
3. Cứu xét tâm linh đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc sở học không thấu đáo
4. Sự nghiệp đừng mong không bị chông gai, vì không chông gai thì chí nguyện không kiên cường
5. Làm việc đừng mong dễ thành, vì dễ thành lòng thường kiêu ngạo
6. Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa
7. Với người đừng mong thuận chiều ý mình, vì thuận chiều ý mình thì tất sinh tự kiêu
8. Thi ân đừng cầu đáp trả, vì cầu đáp trả là thi ân có mưu tính
9. Thấy lợi đừng nhúng tay, vì nhúng tay thì hắc ám tâm trí
10. Oan ức không cần bày tỏ, vì bày tỏ thì hèn nhát mà trả thù thì oán đối kéo dài.
Bởi vậy, Đức Phật dạy:
Lấy bịnh khổ làm thuốc thần
Lấy hoạn nạn làm giải thoát
Lấy khúc mắc làm thú vị
Lấy ma quân làm bạn đạo
Lấy khó khăn làm thích thú
Lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ
Lấy người chống đối làm nơi giao du
Coi thi ân như đôi dép bỏ
Lấy sự xã lợi làm vinh hoa
Lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh (https://phatphapungdung.com/)
+ Tu một ngày đêm ở Cõi Ta Bà này:
.... hàng ngày có Oan hồn cứ theo bà. Bà đành từ xa dùng tâm hỏi phụ nữ ấy rằng:
– Bà là ai vậy? Tại sao cứ đi theo tôi mãi như thế?
Oan hồn ấy đáp ( tâm truyền tâm):
– Kiếp trước bà và tôi cùng làm thiếp cho một phú ông danh tiếng, bà ganh tôi được ông ấy cưng chiều, nên vu khống tôi đã gian dâm với người đàn ông khác. Vì thế mà tôi bị ông ấy giết chết trong ẩn khuất đầy oán hận. Do vậy, đời này tôi tìm bà để trả thù, nhưng trớ trêu thay, đời này bà là người dâu hiếu thảo thường được nhiều vị thiện thần đi theo bảo vệ, tôi không thể đến gần để báo thù được.
Vì thế, ngày nào tôi cũng đi theo bà để tìm cơ hội tốt. Nhưng với sự bảo hộ của thiện thần như vậy, chắc có lẽ không bao giờ tôi báo thù được. Vậy thì, tôi đề nghị với bà, hãy phát tâm niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà một vạn câu hồi hướng công đức ấy cho tôi, để vừa giải oán thù, vừa giúp tôi siêu thoát.”
Bà ấy nghe vậy rất vui mừng, liền phát tâm niệm Phật, bà niệm một câu thì thấy vong hồn người phụ nữ ấy lạy một lạy, khi niệm xong một vạn câu thì không thấy phụ nữ ấy nữa! Sự kiện này, do bà ấy khi về già thuật lại vậy.
Đức Phật dạy trong kinh Vô Lượng Thọ: “ … tu một ngày một đêm ở cõi Ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ (Các Cõi nước Phật) cả trăm năm. Tại sao vậy?
Cõi nước của đức Phật đó đều hành thiện tích đức, không có một chút ác. Tu thiện ở Ta bà mười ngày đêm hơn làm lành ngàn năm ở các cõi Phật khác.
Tại sao vậy?
Vì cõi nước Phật ở phương khác thì phước đức tự nhiên có, không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới Ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là khổ độc chưa từng ngừng nghỉ…”
Nếu bạn hiểu ra được Nghịch lý này rồi, vậy xin chúc mừng bạn! Bạn đã có được một kim chỉ nam vô cùng quý giá để chỉ lối cho mình biết phải đi về đâu, trong khi đa số nhân loại vẫn đang lòng vòng trong một mê cung danh lợi đua chen không lối thoát.
Hãy đem công sức, thời gian, vận dụng tối đa những gì bạn có thể để siêng năng tu tập, tích lũy công đức, để một ngày kia chắc chắn phải đến, khi mà mắt nhắm, tay xuôi, khi mà phước nghiệp cả đời đến lúc kết sổ, quyết định sẽ sinh về đâu, bạn có thể mỉm cười mãn nguyện, vì đã không uổng phí một kiếp người. (Nguồn: Thân người là quý)
+ Nho - Thích - Đạo: Là ba bộ giáo lý Kinh điển tương ứng ba cấp độ tu Đạo làm người - Đạo Nhân thiên - Đạo Giải thoát luân hồi sinh tử. Cụ thể:
- Đạo Nho: Sách Đệ Tử Quy - Chủ về Đạo làm người, gốc ở đạo Hiếu - Chữ Hiếu đứng đầu. Sách cũng tương ứng với Đạo Người Quân Tử tu Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. Mời xem bản toàn văn: Đệ Tử Quy rất tuyệt diệu
- Đạo Gia: Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên - Chủ về việc đón kiết, tránh hung, phước thiện và đặc biệt trừ dâm. Lời kinh vang vọng đến thượng thiên, chấn động đại địa, hễ đọc đến tâm liền xúc động.... Mời quí vị xem bản đầy đủ lời giảng của Ấn Quang Đại Sư: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
- Đạo Phật: Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh - Bao gồm cả hai sách trên, nhưng mở rộng thì vô cùng, từ thường nhân cho đến Thanh Văn - Duyên Giác - Bồ Tát vẫn tu, chỉ đến khi thành Phật mới viên mãn Thập Thiện. .... Trước đây khi Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc làm thế nào? Lão tổ tông Trung Quốc có những tiêu chuẩn, giống với thập thiện mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói, hoàn toàn tương đồng. Cái mà Trung Quốc nói đến có luân lí, ngũ luân, ngũ thường, ngũ thường chính là ngũ giới, có tứ duy, bát đức. Nhìn bề ngoài giảng còn kỹ hơn so với thập thiện, giảng rất rõ ràng, đây là nhìn vẻ bên ngoài. Nhìn vào chiều sâu thì không được vậy. Nhìn chiều sâu, Thanh Văn đem thập thiện mở rộng thành ba ngàn thiện, gọi là ba ngàn oai nghi; Bồ Tát càng thù thắng, đem thập thiện mở rộng thành tám vạn bốn ngàn thiện; thiện viên mãn rồi, thập thiện viên mãn thì thành Phật. Ý ở đây muốn nói là, chớ xem thường thập thiện, Đẳng giác Bồ Tát thập thiện nghiệp đạo còn không thể nói viên mãn, vẫn còn kém một chút, đến Phật mới viên mãn......
“Mệnh trung khí quyên, thử tứ cú- bốn câu ở dưới - mạc thuỳ tuỳ giả, bần phú đồng nhiên, ưu khổ vạn đoạn”. Bốn câu này, chỉ cho tất cả người đời, khi lâm mạng chung, thì tất cả gia tài quyến thuộc, đều phải xả ly. Một mình đến đi, không ai làm bạn, người thương yêu nhất, có thể chết theo, nhưng không thể đi cùng, nghiệp nhân bất đồng, quả báo sai khác, nơi đến chẳng ai giống ai. Nên gọi là: “mạc thuỳ tuỳ giả”
.... đúng là có thể chết cùng lúc, đặc biệt là thiên tai, quý vị thấy người chết cùng lúc nhiều biết bao, nơi đến không giống nhau, chân tướng sự thật này chúng ta nhất định phải hiểu rõ...... Trong kinh đức Phật dạy rằng: Thượng phẩm thập thiện sanh thiên, trung phẩm thập thiện không mất thân người. Hạ phẩm là không được rồi, hạ phẩm mặc dù không đọa vào ba đường ác, phần lớn rơi vào ma đạo, A Tu La, La Sát đi đến chỗ đó, đó cũng không phải là nơi tốt đẹp. Từ đó cho thấy, thập thiện nghiệp đạo là tiêu chuẩn. Mời đọc bài giảng tuyệt hay của PS Tịnh Không giảng: Đời sống vô thường - Chết đi về đâu
Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên cùng với Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh là ba căn bản của Nho - Thích (Phật) - Đạo (Lão), bất luận là ai cũng phải từ ba căn bản này mà học tập vun bồi cội rễ, như thế mới có thể đạt được thành tựu chân thật trong một đời. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng từ tập 1 đến tập 128: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên)
+ Nho Phật Lão: Mọi sự việc trên đời đều có liên hệ tương quan, cũng giống như bên Trung Hoa, ba đạo Nho, Phật, Lão (Đạo), đều hỗ trợ lẫn nhau. Nho-giáo thì như ở trình độ sơ đẳng, tức là tiểu học (Đạo làm người thiện nhân/ Người quân tử), Ðạo-giáo thì như là trình độ trung học (Vừa đạo thế gian vừa xuất thế gian), còn Phật-giáo thì như là trình độ đại học (bao gồm cả hai loại kia).... (Nguôn HT Tuyên Hóa giảng: Xem tại đây)
+ Cái chết đến - Linh hồn rời thân xác: ... Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm nói: “người này lâm mạng chung thời, sát na sau cùng”, sát na này là nói đến niệm cuối cùng. “Tất cả các căn đều tán hoại”. Đây là nói đến cái gì? Là nói linh hồn quý vị rời thể xác quý vị, tất cả chức năng của các cơ quan trong cơ thể quý vị đều mất hết, ‘tán hoại’ ở đây ý nói là mất hết chức năng. “Tất cả quyến thuộc đều phải xa lìa”, người thân cáo biệt quý vị. “Tất cả uy thế đều phải thoái thất”. Ở đây nêu ra ví dụ là Quốc vương, quyền lực của quý vị, thế lực của quý vị, cùng đi theo thân thể quý vị, linh hồn rời thể xác cùng là rời tất cả mọi thứ. “Phụ tướng đại thần”, đây là người giúp đỡ quý vị, quý vị là Quốc vương, dưới quyền là tể tướng đại thần. Đây nói đến người và việc rời xa rồi, không thuộc về quý vị nữa. “Cung thành nội ngoại”, cung là cung điện, nơi quý vị cư trú, thành là thành thị, thời xưa nói kinh thành, kinh là lớn, bây giờ gọi là đại đô hội. Nội là nói đến cung, ngoại là nói đến thành. “Tượng mã xa thừa”, đây chính là phương tiện giao thông của quý vị. “Trân bảo phù tàng”, những trân bảo mà quý vị sưu tầm tàng trữ. “Như thị nhất thiết vô phục tương tuỳ”, tất cả mọi thứ này, không có gì mang theo được, quý vị muốn cái này để làm gì? Người trong thế gian đúng là có những sở thích này, muốn sưu tầm......
.... Có vị đồng tu nói với tôi, nghiệp báo tàn khốc nhất trong thế gian, không hề kém chiến tranh, tử vong trong cuộc chiến tranh, họ mãi mãi vẫn còn chiến tranh. Có người đưa ra vấn đề này để hỏi tôi, tôi ấn chứng cho họ, không hề sai tí nào. Lúc tôi mới học Phật, có lẽ là 20 năm sau khi học Phật, thường thường nằm mơ đang đánh nhau. Bởi vì hồi nhỏ chúng tôi sanh ra vào thời chiến tranh, chiến tranh Trung Nhật, cứ chạy nạn, cứ đánh nhau, quý vị xem ấn tượng rất sâu đậm, học Phật 20 năm rồi mà có lúc vẫn còn nằm mơ về điều này, mơ đang chạy nạn. Điều đó cho thấy, người mà tử vong trên chiến trường, trong thức A Lại Da vĩnh viễn không xoá được. Sau khi chết rồi thì thế nào? Họ không cảm thấy chết, họ đang đi đánh nhau, nếu như không giác ngộ thì mấy trăm năm, mấy ngàn năm sau cũng đang đánh nhau, đúng là khổ hết chỗ nói, mỗi ngày đều sống trong kinh hoàng và sợ hãi, lo sợ, thân tâm đều không thể yên ổn, đời đời kiếp kiếp phải làm đến mấy trăm năm, mấy ngàn năm, quý vị xem quá khổ. Chỉ có Bồ Tát từ bi, gặp được Bồ Tát rồi, Bồ Tát sẽ hiện thân đồng loại, giảng kinh thuyết pháp, giúp đỡ họ giác ngộ. Sau khi giác ngộ mới biết mình sai rồi, sau khi giác ngộ thì chiến tranh kết thúc từ lâu rồi, họ không biết kết thúc, rồi từ từ hồi phục bình thường, thật đáng thương. Trong tâm có tranh chấp thì “hữu sở nhuế nộ”, oán hận não nộ phiền phức bộc phát ra hết.......
.... Gần đây Cư sĩ ở Bắc kinh có tặng hai đĩa, nội dung nói về cuộc chiến tranh Trung Nhật, hầu như trong mỗi trận chiến người tử nạn là chiến sĩ của hai bên, gồm cả tướng quân, hiện nay họ đang làm gì? Vẫn đang đánh nhau. Một bộ phận nhỏ trong đó giác ngộ rồi đến cầu nguyện được siêu thoát, chứng tỏ chúng ta tụng kinh siêu độ có hiệu quả. Đặc biệt nhắc nhở, khi tụng kinh phải quán tưởng, phải thật sự nghĩ đến họ, thì họ mới được lợi ích. Nếu chỉ tụng kinh mà không nghĩ đến họ, nghĩ đến chuyện khác, họ không được lợi ích, điều này rất quan trọng. Cổ nhân thường nói: thành tắc linh, không phải thành tâm thì không linh, thành tâm là gì? Có câu: “tế thần như thần tại”, quý vị phải nghĩ đến điều này. Chúng ta lạy Phật Thích Ca Mâu Ni, trong tâm chỉ nghĩ Phật Thích Ca Mâu Ni thì ngài sẽ có cảm ứng, lạy Phật A Di Đà thì nghĩ đến Phật A Di Đà, lạy Phật A Di Đà mà nghĩ đến Phật Thích Ca Mâu Ni, thì không có cảm ứng. Chúng ta tiêu tai phải hồi hướng cho những chúng sanh này, hồi hướng cho những chúng sanh nào thì nghĩ đến chúng sanh đó. Vì thế đối với những người trong cuộc chiến giữa hai bên này, đối với những tướng sĩ đã tử nạn, nhân dân, quý vị nghĩ đến những tình trạng thê thảm của chiến trường, thì họ sẽ có có cảm ứng. Những linh hồn có thiện căn, một số có thể vãng sanh, đúng là niệm Phật vãng sanh, một số đến cõi trời, một số đến cõi súc sinh, cõi người, đều là điều tốt, cho dù họ là cõi súc sinh, họ từ ác quý cũng thăng lên một cấp. Có người hỏi họ, thật sự có thể nhận được! Thật sự hiện nay họ làm du hồn rất khổ. chúng tôi xem câu chuyện về đoàn quân La Mã, đây là điều có thật, gặp được Phật pháp họ đã được giải thoát..... PS Tịnh Không giảng: Đời sống vô thường - Chết đi về đâu
+ Khuyên bảo - Dạy bảo chẳng rễ: ... Ái ngữ không phải là nói lời nghe hay, lời nói hay cũng có lúc lại hại họ, yêu họ phải yêu chân thành, nếu như yêu họ xuất phát từ trái tim chân thành, đó là ‘ái ngữ’. Họ có gì sai thì khuyên bảo họ cũng gọi là ‘ái ngữ’. Khuyên bảo thật không dễ, ai có thể tiếp thu? Nếu không tiếp thu thì nhất định đừng khuyên họ, nếu phạm sai lầm rồi cũng không được nói họ, không tiếp thu mà. Nếu khuyên họ, họ sẽ nói: anh thì biết gì?
Trước đây thầy Lý dạy chúng tôi thường nói, người khuyên bạn là ai? Có hai người họ có trách nhiệm, một là cha mẹ, quý vị có gì sai họ sửa cho quý vị, người nữa là thầy giáo, thầy giáo đối với học sinh, cũng phải để ý lời nói sắc mặt, nếu học sinh này không thể tiếp thu, đừng gây oán hận với họ. Lúc chúng tôi học ở trường đã từng gặp chuyện này, thầy giáo rất nghiêm khắc, thường xuyên trách mắng học sinh này, tỏ rõ không thích học sinh này. Học sinh này thì nghĩ thế nào? Sau khi tốt nghiệp lấy được bằng cấp xong liền nghĩ cách để chỉnh thầy giáo đó, phải báo thù vị thầy này, sẽ đánh cho thầy này một trận. Đây là sự thật, không phải là giả, báo thù. Vì thế thầy Lý thường dạy chúng tôi, trong số học sinh người nào có thể dạy thì dạy họ, nếu không thể dạy thì xem họ như học dự thính, đối xử khách khí với họ, họ có mắc lỗi gì cũng đừng nói ra. PS Tịnh Không giảng: Đời sống vô thường - Chết đi về đâu
+ Hóa giải - Gải trừ báo oán và Nghiệp sát: Trong ngoặc dưới đây nói là “Như vua Lưu Ly vì trả oán thù xưa, mà muốn tiêu diệt dòng tộc họ Thích”. Trong kinh có chuyện này, vua Lưu Ly, Phật Thích Ca Mâu Ni tại thế, ông là đại quốc vương, ông có oan thù với dòng tộc Thích Ca. Oán này là có từ kiếp trước, điều này trong Thích Ca Phổ đều có ghi lại, không phải kiếp trước, cũng không phải là kiếp trước nữa, đây là thời gian rất lâu rất lâu trước đây. Nhóm người của vua Lưu Ly, lúc đó họ ở cõi súc sanh, ở trong một bể cá, họ là một bầy cá. Vua Lưu Ly chính là con đầu đàn trong bầy cá này. Tộc Thích Ca vào lúc đó là những người ngư phu, người đánh cá, có một lần họ muốn bắt hết tất cả những con cá trong bể cá này, liền xả hết nước trong bể cá này, toàn bộ cá bị chết hết. Những con cá trong bầy cá này, oán hận mãi không nguôi, đời đời kiếp kiếp đều ghi nhớ phải báo thù. Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, sanh ra từ dòng tộc Thích Ca này; Những con cá đó thì sao? Cá bây giờ biến thành người, vua Lưu Ly dòng tộc này. Với oán hận vô lượng của kiếp trước, những chuyện rất nhỏ bé xé thành chuyện to, rồi thành chiến tranh. Phật Thích Ca Mâu Ni muốn ngăn chặn cuộc chiến tranh này, nhưng không thể được. Như thị nhân, như thị nghiệp, như thị quả, như thị báo, cứu không được, khuyên thế nào cũng không nghe, không tiếp thu, nhất định phải diệt cho hết dòng tộc này. Cuối cùng Phật Thích Ca Mâu Ni khuyên mọi người trốn chạy, vì thế gia tộc của ngài chạy đến Tây Tạng, ở Hậu Tạng, về sau không trở về nữa, liền định cư tại Tây Tạng. Vì vậy Phật Thích Ca Mâu Ni cũng xem như là người Trung Quốc. Sự việc này, hồi xưa Chương Gia đại sư có nói với tôi, cả dòng tộc Thích Ca Mâu Ni chạy đến Hậu Tạng. Ở đây muốn đem những chuyện này để nói cho chúng ta rằng, oan gia nên giải không nên kết. Dù oán hận đến mấy cũng phải nhìn thấu, phải hoá giải, chớ đừng nên gây oán, hậu quả của việc gây oán quá thê thảm, đời này đến đời khác biết bao đời đều không thể giải quyết, càng gây càng thù, ngay cả Phật Bồ Tát cũng phải bó tay.
Vì vậy ở đây nói, là chỉ cho việc báo oán của thế gian, gây nên họa hại. Đã tạo nghiệp nhân, ắt kết ác quả, báo ứng tuy không lập tức hiển hiện, nên nói tuy không ngay lúc đó, nhưng nhân quả bất hư, chắc chắn đời sau phải đền trả. Việc này rất phiền phức, quả báo có thể giáng xuống vào thời điểm đó là thuộc loại nhẹ, càng tích càng nặng. Điều này chúng ta đã nhìn thấy trong lịch sử, chắc chắn đời sau phải đền trả. Chuyện của Từ Hy Thái Hậu, là ví dụ rõ ràng nhất. Bà là báo tư thù, tư thù báo rồi, bà lại tạo nghiệp mới. Nghiệp mới này là chuyện gì? Huỷ hoại văn hoá truyền thống, gây ra nghiệp tội càng nghiêm trọng hơn. Tư thù là có từ thời trước khi triều Thanh chiếm trung nguyên, cũng có nghĩa là vào thời triều Thanh, sống gần với họ có một bộ lạc nhỏ, là Diệp Hách Na La Thị, họ tiêu diệt bộ lạc này, dòng tộc này bị tiêu diệt. Thống lĩnh của Diệp Hách Na La Thị, trước khi chết thề với trời rằng: Trong dòng tộc của ta cho dù có sót lại một bé gái, cũng phải báo thù. Đưa ra lời thề này. Vì vậy người Mãn sau khi làm chủ Trung Quốc, làm Hoàng đế ở Trung Quốc, liền đưa ra một luật, chỉ cần là người Diệp Hách Na La Thị kiên quyết không được vào cung, phải cách ly. Mãi cho đến đời Hàm Phong hơn 200 năm trôi qua, hai trăm năm đều không sao. Vậy Hàm Phong liệu có biết Từ Hy là người Diệp Hách Na La Thị không? Quá biết, cho rằng cô gái này có gì là ghê gớm đâu, làm sao phải sợ cô ta? Vì thế liền phong bà làm quý phi. Về sau không ngờ được rằng bà quá là lợi hại, sau khi Hàm Phong chết bà chiếm quyền hết, vì sao vậy? Vì bà sanh được một người con trai, chỉ có một người con trai, chỉ có nó kế thừa vương vị, bà liền trở thành thái hậu. Con trai tuổi còn nhỏ, Thái hậu buông rèm nhiếp chính, vì thế mọi quyền hành của quốc gia này đều nằm trong tay bà, thích làm gì thì làm, tiêu diệt triều Thanh, báo thù được rồi. Nhưng mà thủ đoạn này, đã xoá bỏ mọi văn hoá đạo đức luân lý mấy ngàn năm của dân tộc Hán. Coi thường Phật pháp, tự xưng mình là Lão Phật gia, tất cả Bồ Tát đều đứng bên cạnh bà. Các Đế vương triều Thanh đều tín phụng Phật pháp, rất nhiều vị cao tăng trong Phật môn được phong làm Quốc sư, tự xưng là đệ tử của Phật. Chỉ có Bà tự xưng là Lão Phật gia, cái tội này quá nặng, đúng là vào địa ngục, bà muốn thoát khỏi địa ngục thật không dễ, không ai cứu bà, tâm thì quá ác, thủ đoạn quá độc.
Ngoài ra hiện nay trong xã hội, chúng ta cũng thường trông thấy, ở trong nước, nước ngoài đều có, phá gia chi tử, đây là cái gì? Con cái và cha mẹ có bốn nhân duyên, đây là báo oán. Vì vậy hiện nay có biết bao cha mẹ, người mà chúng tôi từng tiếp xúc, họ đều nói con cái không dễ dạy. Giáo viên, chúng tôi cũng thường gặp họ, giáo viên đến nói với chúng tôi, học sinh bây giờ khó dạy. Chúng tôi biết được nguyên nhân. Ngày nay người trong thế gian này, liệu có mấy người đối xử với người khác với cái tâm nhân từ? Quý vị đối xử với mọi người bằng cái tâm nhân từ, quý vị có ân với người khác, họ đến nhà quý vị làm con quý vị, họ đến để báo ân. Quý vị không có ân huệ với người khác, khởi tâm động niệm là hại người lợi mình, hay nói cách khác, quý vị gây cho người khác đều là oán, vậy con cái của quý vị là đều là oan gia trái chủ. Vì vậy chúng ta cũng phải ghi nhớ cho kỹ, Cổ đức dạy bảo chúng ta, tuyệt đối không được kết oán thù với người, oán oán tương báo không bao giờ hết. Phải kết ân với người, không được kết oán, phải cố gắng xả mình vì người, không được lợi dụng người khác. Nếu có ý niệm lợi dụng người khác, thì ý niệm này là trộm, trộm trong tâm, mặc dù quý vị không có hành động, tâm quý vị đã phạm giới ăn trộm, trong giới Bồ Tát gọi là phá giới. Giới tiểu thừa Tì Kheo luận sự bất luận tâm, dễ giữ; Bồ Tát giới khó giữ, giới Bồ Tát là luận tâm bất luận sự, việc kết tội là từ khởi tâm động niệm, nó không phải hành vi. Vì vậy Bồ Tát cao hơn nhiều so với Thanh Văn, cùng một điều giới, Bồ Tát so với Thanh Văn khó hơn nhiều, không khởi tâm, không động niệm.
Hiện nay chúng ta nhìn thấy trong xã hội này, cha mẹ giết con cái, con cái giết cha mẹ, anh em tàn sát lẫn nhau, đây đã là không phải tin văn nữa, đúng là quá nhiều quá nhiều, đây là cái gi? Đây chính là oan oan tương báo.
Còn nữa hiện nay phụ nữ phá thai, phá thai là việc gì? Chúng đến với nhà quý vị quý vị đem giết đi. Thế chúng có trở về lại không? Có, khi chúng trở về sẽ giết quý vị, chúng đến để báo thù. Nếu như đứa trẻ này là đến để báo ân, quý vị phá thai đem giết đi rồi, quý vị lấy ân biến thành thù; nếu như chúng đến để báo thù, quý vị lại giết chúng đi, đã thù lại thêm thù hận. Chúng đến đòi nợ đến trả nợ, món nợ, quý vị giết chúng đi rồi, không những thiếu nợ còn nợ mạng người. Nghĩ đến đây quý vị dám làm không? Không phải gây ra rồi là không sao, sau khi gây ra thì phiền phức càng lớn hơn, Phật Bồ Tát đều không thể giải quyết cho quý vị, những việc như thế này không thể không biết. ....Nghĩ đến hậu quả/ Quả báo đã sợ rồi, thì ý niệm của quý vị tự nhiên được dừng lại. Giáo dục nhân quả rất quan trọng, quan trọng hơn bất cứ điều gì. Trung Quốc mấy ngàn năm qua, quốc gia này xã hội trị an lâu dài, dựa vào điều gì? Nói thực là dựa vào giáo dục nhân quả, ít nhất là 70%, luân lý đạo đức chỉ có thể chiếm 30 %. .... PS Tịnh Không giảng: Đời sống vô thường - Chết đi về đâu
+ Bỏ ác tu thiền - Làm lành lánh dữ - Xa lìa ái dục - Ái dục nặng:
Chú giải của Niệm Lão, đoạn bên phải khuyên dụ người đời, xả ác tu thiện, đây là tông chỉ được nói trong hai hàng kinh văn này. “Ái dục”, chỉ cho tình ái và tham dục, hiện nay gọi là tình chấp, cái này rất khó dứt. “Ái bất trọng bất đọa Ta bà”, đây là điều mà Cổ đức nói, “niệm bất nhất bất sanh tịnh độ”. Người đời đa phần đều chìm đắm trong ái dục, câu nói này hiện nay, có thể nói là sự miêu tả toàn xã hội trên thế giới, đây không phải là một vùng, mà toàn thế giới đang đắm chìm trong ái dục. Tình ái, dục vọng, trong cái tình này đúng là có thương yêu không? Là giả không phải là thật. Phật pháp nói vĩnh hằng bất biến mới là thật, có mới nới cũ là giả. Hiện nay trong cái xã hội này, thật có tình yêu chăng? Nếu đúng là có tình yêu thì còn thể lượng thứ, nhưng đều là hư tình giả ý, mọi người lừa gạt lẫn nhau, một chút chân thành cũng không có, xã hội ngày nay không giống như nhân gian, có người nói là địa ngục trần gian, câu nói này chúng ta càng nghĩ càng thấy có lý. Địa ngục nằm ở đâu? Hiện nay nhân gian là địa ngục, quan niệm đạo đức cơ bản của nhân luận đều mất hết rồi, hoàn toàn mất hết. Chúng ta nói ngũ thường, đúng là ngày nay bất nhân, bất nghĩa, vô lễ, vô trí, vô tín. Trung Quốc trước đây ngũ thường trong xã hội là điều cơ bản, bất cứ ai cũng đều phải có, không có quý vị làm sao đứng vững trong xã hội? Không thể không coi trọng 5 chữ này. Nhân là nghĩ đến mình đến người, nghĩ đến mình phải nghĩ đến người khác, bắt đầu từ đâu? Trước hết nghĩ đến cha mẹ, sau đó nghĩ đến vợ con cái, sau đó nghĩ đến huynh đệ tỷ muội, mở rộng theo từng tầng từng tầng. Phải dốc hết bổn phận của mình, phải yêu quý những người này, phải quan tâm những người này, phải chăm sóc những người này, phải giúp đỡ những người này. Bây giờ không còn gì nữa, người bây giờ chỉ nghĩ đến bản thân, ngoài bản thân ra không để tâm đến ai. Để trong tâm những gì? Dục vọng, tình dục. Giữa vợ chồng yêu đương kết hôn, quý vị nếu hỏi hai người kết hôn này, giữa hai người liệu có thật sự tin tưởng lẫn nhau không? Họ sẽ lắc đầu: đến đâu hay đó thôi! Cái thái độ này là thật không phải là giả, thờ ơ, không thể trường tồn. Mấy ngày chia tay cũng có, mấy tháng chia tay cũng có, một hai năm chia tay cũng rất nhiều rất nhiều, đều là tạo nghiệp. Thế gây oán cho ai? Nếu như họ đã có con rồi, thì gây oán cho đứa trẻ này, quý vị bất hòa, chúng phải chịu tội, nỗi oán hận của chúng kiếp này đời này rửa không sạch, kiếp sau đời sau vô tình hay hữu ý gặp được không báo thù hay sao?
Chúng ta xem câu này của Niệm Lão: “tình ái và tham dục, thực sự là gốc của sanh tử”. Đây là lời cổ nhân dạy: “ái bất trọng bất đọa sa bà”, người trong thế gian này hoàn toàn chìm đắm vào trong đó, đây nói về lục đạo luân hồi. Chết đây sanh kia, lưu chuyển không ngừng. Lục đạo từ đâu mà có? Là từ đây mà ra, là tham sân si mà Phật pháp nói. Tuy quyến thuộc đầy nhà, giữa bờ sanh tử, lúc sanh đến một mình, khi chết độc thân đi, không ai đi theo, không ai thay thế, nên nói độc sanh độc tử, độc đến độc đi, khổ vui tự chịu, không ai chịu thay. Lại nói đến quả báo khổ vui, đều do tự làm tự chịu, cũng không ai có thể thay thế. Quý vị kiếp này gặp được thiện duyên hành thiện tích đức, thì nơi quý vị đến tốt đẹp, tốt cũng chỉ là hai cõi nhân thiên. Nếu như tâm hành bất thiện, thì nơi quý vị đến không tốt đẹp, nơi không tốt này chính là ba đường ác, khổ vui tự chịu, tự làm tự chịu. Cảnh Hưng nói: “tự đương”, tức là tự thọ. “Thiện ác biến hoá”, Thiện biến hoá, tức là thiện đạo. “Tức thiện thú báo”, quả báo của ba đường lành. “Ác biến hoá tức ác thú báo”, người biến hoá thành súc sanh, biến thành ác quỷ, biến thành địa ngục, biến hoá. Hội Sơ nói: “đời này tuy là thiện quả, nhưng tạo nghiệp nhân ác, thì đời sau sẽ biến thành ương quá”. Quá là lỗi lầm. Thiên tai nhân họa đều là do tự bản thân mình gây ra nhân nghiệp bất thiện mà có. Hiện nay mặc dù chúng ta có ác báo rất khổ, nhưng việc thiện mình làm, khi đến kiếp sau nó sẽ biến thành phước báo. Thiên biến vạn hoá, không thể nói hết. Sự biến hóa này đều có thể lý giải, đều có thể nói được, nó cũng là chân tướng sự thật. Tóm lại, thiện nhân thiện quả, ác nhân ác báo, là chân lý, là sự thật, không thể không biết, không thể không suy xét thận trọng.... PS Tịnh Không giảng: Đời sống vô thường - Chết đi về đâu
+ Số mệnh và Vận mệnh đời người:
+ Vận mệnh con người - Ấn định vận mệnh kiếp sống của một người: Thể cảm dục có chứa trong nó các đối phần của các trung tâm lực dĩ thái hay các trung nhiếp điểm; qua các trung tâm lực này, các mãnh lực và các năng lượng có nói đến trước đây, tuôn đổ vào thể dĩ thái. Các trung tâm lực này hứng chịu các năng lượng từ bảy hành tinh và từ mặt trời đến mọi phần của bộ phận cảm dục, như vậy, đặt con người vào mối quan hệ chặt chẽ với mọi phần của Thái Dương Hệ. Việc này đưa đến kết quả là ấn định vận mệnh kiếp sống của một người, mãi cho tới khi con người làm thức động cái di sản bất tử của mình và như thế trở nên nhạy cảm với các mãnh lực mà cho đến nay – đối với nhiều người – chưa được nhận biết. Các mãnh lực này tỏa ra từ hình tướng. Đây là lý do giải thích tại sao một lá số tử vi lại thường rất đúng khi lấy số cho người kém tiến hóa và cho người chưa giác ngộ, nhưng lại hoàn toàn sai lạc và lỗi lầm đối với trường hợp người tiến hóa (LVHLT, 295)
+ Quả báo - Nghiệp Quả báo ứng: Cổ nhân có nói là trước 40 tuổi, quả báo của chúng ta vẫn chịu sự ảnh hưởng của nghiệp báo quá khứ, quả báo còn sót lại. Sau 40 tuổi, nghiệp mà bản thân mình đời này đã tạo dần dần sẽ hiện ra. Lời nói này rất có đạo lý. Ác nghiệp tạo trong đời quá khứ chúng ta không sợ, chỉ cần chúng ta thật sự giác ngộ, thật sự quay đầu đoạn ác tu thiện. Chúng ta nhìn thấy ở trong Liễu Phàm Tứ Huấn, người giống như Viên Liễu Phàm này ở Trung Quốc trước đây, thậm chí là hiện đại rất nhiều. Họ đều có thể thay đổi vận mệnh của mình, vận mệnh đều nắm chắc ở trong tay của mình. Giáo dục của Phật Đà không có gì khác, chính là dạy chúng ta cải tạo vận mệnh. Đoạn ác tu thiện là cải tạo vận mệnh. Phá mê khai ngộ là chuyển phàm thành thánh. Chúng ta muốn cải tạo vận mệnh của mình, thì phải cố gắng học theo Phật. Phật đối với chúng ta từ bi đến tột đỉnh. Phật là hoàn toàn nghĩa vụ, nói lời chân thật. (Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Bắc Đẩu Thất tinh: ... Ông Văn Thù này! Bắc Đẩu Cổ Phật quảng đại từ bi, thị hiện giữa bầu trời, chủ trương niên – mệnh , thống lãnh Càn Khôn. Trên từ vua- chúa, dưới đến nhân dân, trời đất núi sông, chim muông cây cỏ, tất cả đều do Thất Tinh Bắc Đẩu cai quản soi chiếu. (Xem Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật)
+ Bảy vị Tinh Tú: ... Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả chúng sanh.... Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu soi. (Xem nguồn)
+ Linh hồn không có vận mệnh cá biệt mà chìm ngập vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của linh hồn là vận mệnh của tập thể và của Tổng thể. (LVHLT, 296)
+ Các Học thuyết: ... Cứu vớt địa cầu cần những gì? Tiến sĩ người Anh Toynbee (Arnold J. Toynbee) nói, cần có hai yếu tố là học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc và Phật pháp đại thừa mới có thể cứu vớt địa cầu.
Trong học thuyết Khổng Mạnh chủ yếu là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, còn trong Phật pháp đại thừa thì chính là sự chân thành, đức từ bi, thực hiện Tịnh Nghiệp Tam Phước, Ngũ Giới, Thập Thiện, Lục Hòa, Lục Độ bao nhiêu đó cũng đã đủ,.....
.... Ái, xuất phát từ tâm, lấy sự cảm thọ chân tâm làm nghĩa. Sự cảm thọ chân thành chính là ái (tình yêu thương). ... Ái chính là thực hiện viên mãn thập thiện nghiệp đạo, đệ tử quy, ... Ái chính là chân tâm, chân tánh, chân như, pháp tánh.
Ái chính là bổn tánh, bổn thiện, thuần tịnh, thuần thiện. Ái chính là chân lý, chân đế, sinh mệnh, vĩnh hằng. Ái chính là thần thánh, thượng đế, chân chủ, thánh linh. Ái (Tình yêu thương) sinh thành và dưỡng dục nên vạn vật trong vũ trụ, không một thứ gì không được sinh ra và lớn lên từ lòng yêu thương. Ái là căn nguyên của vạn phước, vạn năng, vạn đức. ..... Tam tai là quả, tam độc là nhân. Thủy tai là quả, tham dục là nhân. Hỏa tai là quả, sân hoạn là nhân. Phong tai là quả, ngu si là nhân. Địa chấn là quả, ngạo mạn là nhân. Cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si Tâm bình khí hóa, tai nạn tự tức ... tự nhiên sẽ không khởi tam tai chư nạn. (Nguồn: dẫn từ tuyên giảng “Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú” của PS Tịnh Không)
+ Tam tai: Nhân gì Phát Sanh Tam Tai?
(i)- Đại tam tai là ba tai ách lớn về lửa, nước và gió. (ii)- Tiểu tam tai là ba tai ách nhỏ về đao binh, mất mùa và bệnh dịch. Đó cũng tức là tai kiếp. Trong một đại kiếp có bốn trung kiếp gồm: thành, trụ, hoại, và không. Mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên nhân phát sanh đại tam tai.
Bởi con người có tâm tham mới phát sanh ra hỏa tai; con người có tâm sân hận mới sanh ra thủy tai; con người có tâm ngu si mới sanh ra phong tai. Cho nên tam tai đều là do tam độc mà sanh khởi. Trong tâm chúng ta, ai ai cũng có đầy đủ cả ba độc. ....
Tam tai phát sanh cũng có thứ lớp, bởi con người có thất tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tức là vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn. Bảy loại tình cảm nầy dần dần phát triển rộng ra. Và mỗi một loại tình sẽ phát sanh một lần tai nạn, cho nên mới hình thành bảy lần hỏa tai. Sau bảy lần hỏa tai thì sẽ phát sanh một lần thủy tai. Trong bảy tình, mỗi một tình lại chia ra làm bảy, cho nên mỗi cái “thất hỏa nhất thủy” nầy sẽ theo thứ tự mà lập đi lập lại bảy lần. Rồi lại trải qua bảy lần hỏa tai. Đến lúc sau cùng phong tai phát sanh và hủy diệt toàn cả thế giới.
Khi hỏa tai phát sanh, nó có thể thiêu đốt đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới, tức gồm cõi: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên.
Lúc thủy tai phát sanh thì có thể ngập đến tầng trời Nhị thiền của Sắc giới, .....
Khi phong tai phát sanh thì có thể thổi đến các tầng trời Tam thiền của Sắc giới, ....
Phong tai từ đâu tới? Nó đến từ sự tổng kết của bảy thứ tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phong tai thì tượng trưng cho si độc. Khi con người đã lâm vào tình cảnh ngu si, thời cái gì cũng quên sạch nhẵn. Do đó đại phong phát khởi, rồi từ trên trời Tam Thiền đến dưới tận địa ngục, cái chi cũng không còn, tất cả đều bị quét sạch. Dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, nhưng nội viện cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của Phật và Bồ Tát. Hiện nay, Bồ Tát Di Lặc đang ngự tại nội viện trên cung trời Đâu Suất, chờ đến khi trụ kiếp thứ mười trong thời kỳ Hiền Kiếp, Ngài mới giáng lâm thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh (hiện tại đang là Giảm Kiếp của Trụ Kiếp thứ chín).
Tham sân si hình thành biết bao loại ác khí, giống như nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng bom nguyên tử do tự chúng ta phát sanh từ lửa tam muội lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử nầy không phải đến từ bên ngoài, mà nó vốn đã có sẵn trong tự tánh. Chân hỏa tam muội trong tự tánh chúng ta vốn thuần là dương, nhưng vì bị ta lạm dụng nên nó biến thành lửa dục.
Trong thân người có tam tiêu hỏa là: thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa nầy có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả. Bởi bên trong có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm nầy.
Trong tâm có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh, bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy. Giảng ngày 29 / 7 /1985 (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị 6)
+ Tình yêu: Nhà tâm lý học người Mỹ Robert Sternberg phân loại tình yêu, với 3 thành phần: Cảm xúc yêu thương, đam mê và sự gắn bó.
1. Say mê/ Điên cuồng: Đây là khoảng thời gian mà mọi người hầu như không biết nhau, nhưng lại cảm thấy một sự hấp dẫn lẫn nhau. Họ không chắc có điểm chung nào, nhưng họ vẫn ở bên nhau. Sự mê đắm này có thể biến đổi thành một cái gì đó hoàn chỉnh hơn theo thời gian, thường ít sảy ra.
2. Thích nhau: Bạn luôn có thể là chính mình. Trong loại tình yêu này, mọi người thường được thống nhất bởi những sở thích chung, quan điểm về cuộc sống và cảm giác được hiểu. Sự thân mật như vậy mà không có niềm đam mê và cam kết sẽ có nhiều khả năng dẫn đến tình bạn hơn là tình yêu chính thức.
3. Tình yêu trống rỗng: Các cặp vợ chồng trải qua loại tình yêu này chỉ có cam kết mà không có sự thân mật và đam mê. Đôi khi loại mối quan hệ này xuất hiện sau một tình yêu lớn, nhiệt tình, và đôi khi ngược lại: những người trải nghiệm tình yêu trống rỗng có thể thay đổi, điều đó làm tăng thêm niềm đam mê với cảm xúc của họ.
4. Tình yêu lớn/ Ngốc nghếch: Loại tình yêu này bao gồm cam kết và niềm đam mê và quen thuộc với nhiều cặp vợ chồng. Đây là loại tình yêu tồn tại khi 2 người thực sự thu hút lẫn nhau và sẵn sàng theo một số truyền thống như đám cưới xa hoa, trao đổi lời thề, và chia sẻ trách nhiệm gia đình, nhưng không có sự thân mật thực sự. Các cặp vợ chồng như vậy có thể sống cùng nhau trong một thời gian dài, nhưng hạnh phúc của họ là tương đối. Trong thực tế, họ không cảm nhận được bạn đời của mình như một người bạn.
5. Tình yêu lãng mạn: Loại tình yêu này bao gồm niềm đam mê và sự thân mật. Những người trong các cặp vợ chồng như vậy được thu hút với nhau và cảm thấy thoải mái bên cạnh nhau, nhưng họ không sẵn sàng để thực hiện các cam kết nghiêm trọng. Thường không đạt đến mức sống chung hay hôn nhân.
6. Đồng hành: Tình yêu đồng hành bao gồm cam kết và thân mật. Các mối quan hệ như vậy mạnh hơn nhiều so với tình bạn bình thường , và có một sự gắn kết thực sự giữa các đối tác. Tuy nhiên, đây là một thỏa thuận khá trinh tiết bởi vì loại tình yêu này thiếu niềm đam mê. Thường có thể phát sinh sau nhiều năm của một người quen hay hôn nhân.
7. Tình yêu trọn vẹn/ Tuyệt vời: Tình yêu này bao gồm tất cả 3 thành phần: niềm đam mê, sự thân mật tình cảm và cam kết. Tất nhiên, mức độ của họ không phải lúc nào cũng bằng nhau, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là tất cả họ đều ở đây. Bạn hiếm khi có thể thấy loại mối quan hệ này, nếu có thì thật tốt.
+ Các nhà tâm lý học chắc chắn rằng một người trải nghiệm nhiều loại tình yêu khác nhau trong cuộc đời của họ. (Xem: Bảy loại Tình Chí)
+ Bản chất tình yêu: Khi tình yêu lên đến cực điểm, thì nó trở lại chỗ đối nghịch với nó, đó là ghét. Tại sao cái ghét phát sinh?. Vì có yêu. Vì sao có yêu? Vì có ghét. Và điều gì tiếp tục xảy ra giữa những cặp vợ chồng, cha mẹ và con cái là chuyện của những nhân trong quá khứ đã kết thành quả trong đời hiện tại. Một số vợ chồng ‘tương kính như tân – xem trọng nhau như khách.’ Họ rất tôn trọng lẫn nhau. Phụ nữ Trung Hoa mỗi khi mang thức ăn cho chồng đều dùng hai tay nâng lên ngang lông mày của mình, trong phong thái rất kính trọng. Người chồng cũng rất tôn trọng người vợ mình, họ giống như những người bạn thân thiết. Không có tình cảm thấp hèn nơi họ. Thế nên nếu những cặp vợ chồng vốn đã có quan hệ thân thiết từ nhiều đời trước, thì đời nay họ sẽ rất hợp nhau. Người chồng không được làm điều gì xúc phạm đền người vợ và người vợ cũng không được làm điều gì tổn thương đến người chồng. Khi một cặp vợ chồng có sự thân thiết, hai người đều giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Nếu người vợ bị bệnh, người chồng phải nhanh chóng tìm bác sĩ để chữa trị. Nếu người chồng mệt nhọc, người vợ phải tìm cách để chồng mình được nghỉ ngơi. Có nhiều cặp vợ chồng đến với nhau với những nguyên nhân không thuận. Cũng vậy, đó là do những nhân oán hận nhau trong đời trước, đời nầy họ tìm đến với nhau, bất luận người chồng nói điều gì, người vợ cũng cãi lại. Bất luận người vợ suy nghĩ điều gì, người chồng cũng bác bỏ. Đời sống gia đình trở nên hoàn toàn rối rắm và luôn luôn có sự tranh cãi nhau từ sáng đến tối. Chồng đánh vợ, vợ trả đũa bằng cánh đánh vào đầu chồng, nên người chồng rất ngượng ngùng khi ra ngoài công chúng. Như vậy có phải khổ không? Bắt đầu với tình yêu và chấm dứt bằng sự oán hận. Thế nên người ta nói tình yêu là đồng nhất với đau khổ.
Suốt ngày người ta nói yêu, yêu, yêu. Yêu cái gì? Yêu ngày này qua ngày khác, Yêu cho đến chết. Nhưng nói thử xem, quý vị yêu ai? Nếu hiểu được đạo lý nầy, hai thứ khổ yêu và ghét sẽ không còn nữa. Nếu quý vị không hiểu đạo lý này, thì cả hai thứ khổ ắt vẫn xung khắc nhau. Do vậy, chúng ta tu tập để giác ngộ, để hiểu rõ, để chúng ta không bị xoay chuyển bởi cảnh khổ nầy. Nên đừng yêu và ghét gì cả. Đó chính là Trung đạo.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Tình yêu bền vững: Truyện hòn Đá hỏi Đức Phật về Tình yêu. Đức Phật cười cười nói: ...."Sau khi tình yêu đã đến một mức độ nhất định, nó sẽ biến thành tình thân. Lúc này, con sẽ coi cô ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc đời con, như vậy con cũng càng thêm lòng bao dung và thấu hiểu đối phương. Chỉ có tình thân mới là thứ ông trời sắp đặt sẵn khi con mới chào đời...... "Tình yêu bắt đầu từ sự tán thưởng lẫn nhau, vì rung động mà yêu nhau, vì không thể tách rời mới quyết định đi đến hôn nhân. Nhưng muốn bên nhau trọn đời quan trọng nhất cần có sự bao dung và thấu hiểu lẫn nhau, chấp nhận khuyết điểm của nhau". (Nguồn: Câu chuyện về Đức Phật và hòn đá)
+ Tùy duyên: Đức Phật nói rằng: “Duyên đến nên quý, duyên hết nên buông. Hoa nở là hữu tình, hoa rơi là vô ý. Người đến là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Duyên sâu thì hợp, duyên mỏng thì tan. Vạn pháp do duyên, vạn sự tùy duyên”. Người nên đến thì sẽ đến, người muốn đi thì đừng nên níu kéo. Đừng ép người, đừng ép mình, đừng bận tâm, đau lòng chỉ vì một chuyện, sống trên đời nên học cách "tùy duyên".(Nguồn: Nhân duyên - N.T. Bích Vân)
+ Luận về âm dương: Thiên thủy của Càn, địa nguyệt của Khôn, Trạch hỏa của Đoài, sơn tinh của Cấn, Sao ôi là hỏa của Ly, sấm của Chấn, đất đá ôi là thủy của Khảm, phong của Tốn, nghĩa ấy ở đâu ? Có kẻ bảo lấy Chu dịch mà nói: Nam Ly-Bắc Khảm, Càn Khôn trong đồ của vua Hy, thực là gốc đó, cho nên Nhật Càn, thủy Khôn, khác nữa còn nói gì vật. Phương chi Hỏa ứng mặt Trời, nước ứng mặt Trăng, đất ứng với Thìn (sao), đá ứng Tinh (vì sao), khi đủ cùng lấy so le không phải đối vị. Này ! đồ nói số, số sinh tượng, tượng duy có 4: âm, dương , cương, nhu mà đều chia ra Thái Thiếu: Nhật Thái dương 1, Nguyệt Thái âm 2, Tinh Thiếu dương 3, Thìn Thiếu âm 4, bèn lấy đương với Càn số 1, Đoài số 2, Ly số 3, Chấn số 4, rõ ràng tóm đấy chỉ có Thiên (trời), Thái dương là Nhật khô ráo, đối lại bèn sinh Thủy, Thủy rất nhu mềm, giống mặt Trăng mà vâng theo mặt Trời mà sinh ở số 1. Thái âm là Nguyệt ẩm thấp, đối lại bèn sinh Hỏa, Hỏa cương quá giống mặt Trời mà ứng với Nguyệt sinh ở số 2. Sao Tinh sách của Thái dương tan bầy ra để biết rõ thứ Thổ, Thổ nhu quá, giống Thìn mà theo Tinh Mộc sinh số 3 mà phụ với Thổ. Thìn thể của Thiếu âm động khối lại mà thành đá rắn, đá cương ít giống như Tinh mà phối với Thìn sao ấy sinh số 4 mà dấu ẩn đá, khí đến mà hóa, số lấy đá là cùng cực. Không giản nói biết như phép này, lấy ít xem nhiều, mà xem xa, lấy cái nhỏ sở móc (thắt lại) để xem cái lớn sở khuyếch (rộng ra). Cái ít thực mà nhiều, chẳng phải hư vậy. Cái gần thực mà xa, chẳng phải hư vậy. Cái thắt lại nhỏ mà thực, cái mở rộng ra mà lớn, cũng không phải hư vậy, thời sách này không bàn định, cũng không biện minh. Trong ngoài 6 hợp, trên dưới 1 Nguyên, 12 Hội, 360 Vận 4320 Thế để nói ngay rằng: chí về Hoàng Cực Kinh Thế, lời của sách bình dị mà chính, chẳng phải có được ở Dịch mà bắt chước. Kính cẩn lời nói này làm cán nối ở giữa Trời Đất vậy.
Dương lấy Âm làm “thể”. Âm lấy Dương làm “tính”, động là “tính” vậy, tĩnh là “thể” vậy. Tại thiên thì Dương động mà Âm tĩnh. Tại địa thì Dương tĩnh mà Âm động. (Nguồn: Hoàng Cực Kinh Thế - Thiệu Khang Tiết)
+ Sách Hoàng Cực Kinh Thế:
Hồng phạm Thiên thứ 5 nói: dựng dùng Hoàng cực, “hoàng” nói là lớn, “cực” nói là giữa, Hoàng cực nói là “đại trung”. .....
Hỏi rằng “kinh thế” là sao ? Trời đất mở mang dựng lên, tổ chức mây, mưa sấm, chớp nói chia đường ngang đường dọc quấn quýt lấy nhau là hợp vậy, vả đường Nam Bắc là dọc, đường Đông Tây là ngang, nói Kinh mà Vỹ là suốt vậy. Kinh rằng đạo thường, chủ dùng số thường, thông ở biến, biến không mất thường, Đời (Thế) cùng xưa nay, Đời (Thế) để ghi năm thì nửa ở 6 Giáp, Thế để chép Đời, thì xa mãi đến ngàn năm. Vận mà Hội, Hội mà Nguyên, đều do Thế tích chứa, mà cũng thay đổi theo thứ tự vậy.
... Xem mọi Kinh quái hào, duy có Thời (giờ) của Vật, chẳng hoặc trái vậy. Vật lớn ấy chỉ có Trời Đất, mà vật ở Trời ấy chỉ có mặt Trời, mặt Trăng cùng các vì Sao. Vật ở Đất ấy là nước, lửa, đất, đá. Mặt trời Càn mà nước Khôn, mặt trăng Đoài mà lửa Cấn, Sao Ly mà đất Khảm, thần (các vì sao) Lôi mà đá Tốn. Trời 4 phương để ngang Trời, âm dương Thái Thiếu, dựng lên cột của trời. Đất 4 phương để ngang đất, cương, nhu, Thái, Thiếu dựng cột của đất, trời đất giao ngang, Thế (đời) không đổi vật, rời đi là số, lâu dài thường hằng là Đạo, số theo cùng tượng, đều lấy 4 lập (dựng), Đạo lấy Thế dùng làm Thần, chỉ lấy 1 vậy. Hoàng lấy Đạo để rộng khắp, Cực lấy Đạo để dựng, Kinh lấy Đạo để giữ, Thế (đời) lấy Đạo để trị, Vật lấy Đạo để cung cấp cho xem mà tìm Đạo thông. Vì số biến mà Đạo không biến, Đạo làm ngang, Đạo dựng mà trời đất đều dựng. Người làm cùng cực Đạo ở đâu ? Trong khoảng 1 động 1 tĩnh, thời “đại trung” cùng với tâm du ! Đại trung thế du ! Hoàng cực ngang chọn dùng ở Thế (đời), Vật xem chọn dùng ở vật biến. Sở học của Thiệu ta hầu như biết sự hóa dục hóa nuôi của Vật, mà trời lồng lộng to lớn vậy !
Dịch, đồ thuyết ở đầu thiên, lấy Lạc thư xét Ngũ hành phối với vị quẻ, bảo rằng Dương Hỏa gửi trong Cấn Thổ, Âm Thủy gửi trong Khôn Thổ, đều lệ suy quái vị của Văn Vương, tồn nghi vài điều tạp thuyết vậy. Số của Hà đồ và Ngũ hành phối nhau, 10 can kính ở 8 vị cùng 8 quái, khi nạp Thiên can vào Quẻ thì dựa vào số thứ tự Tiên thiên bát quái phối với thứ tự 10 Thiên can phân theo Ngũ hành như sau: Càn 1 đứng đầu nạp Giáp Mộc đứng đầu của Thiên can, Càn là Dương nạp Giáp cũng là Dương. Tiếp đến Đoài 2 phối với cặp Thiên can thứ 2 là Bính - Đinh thuộc Hỏa, Đoài quẻ âm nên Đinh thuộc âm. Tiếp đến Ly 3 phối với cặp Thiên can thứ 3 là Mậu - Kỷ thuộc Thổ, Ly là quẻ âm nên nạp Kỷ là can âm. Chấn 4 phối với cặp Thiên can thứ 4 là Canh - Tân thuộc Kim, Chấn là quẻ dương nên nạp Canh là can dương. Càn - Khôn đối nhau, trời đất định vị, Giáp nạp Càn nên Ất nạp Khôn. Đoài - Cấn đối nhau, núi đầm thông khí, Đinh nạp Đoài nên Bính nạp Cấn. Ly - Khảm đối nhau, thủy hỏa tương tề, Kỷ nạp Ly nên Mậu nạp Khảm. Chấn - Tốn đối nhau, sấm gió cùng nhau, Canh nạp Chấn nên Tốn nạp Tân. Còn lại cặp can Nhâm – Quý thuộc Thủy, nạp vào 2 quái phụ mẫu Càn Khôn, Càn dương nạp Nhâm dương, Khôn âm nạp Quý âm. Theo thứ tự Ngũ hành Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy phối với số Tiên thiên 1-2-3-4-5. Kẻ xem tìm thú vị trong đó, bảo lời ta nói nhầm du !..............
Người là kẻ ở giữa trời đất mà sinh ra, nhìn cao nhớ xa, trên dưới đều trong khoảng 64800 năm, trước xem thời mới mở mang, sau xem thời kỳ thu đóng đã hết. .....
Khôn khéo thay lời Trang Tử : “ngoài 6 hợp, bậc Thánh còn giữ mà không bàn, trong 6 hợp, bậc Thánh bàn mà không định”. Sách Xuân Thu trải đời, chí của bậc Tiên vương, bậc Thánh bàn định, mà không nói rõ ở đâu. Thiệu ta làm sách Hoàng cực, xem suốt 1 Nguyên 12 Hội, 360 Vận, 4320 đời, 129600 năm. ...... Còn như sách Xuân Thu kinh thế, chép nhân sự 242 năm, gần mà chứng thực, còn bàn định mà không rõ. Ta làm Hoàng cực, chép Đạo Trời 129600 năm, xa tìm tòi cái hư, giữ lại mà không luận bàn là phải, nơm nớp trong lo sợ, để nối tiếp thuật lại cho đời nay. Khi tai, mắt có tới cùng cực, nên xem cùng cực tới chỗ vô cùng ; bảo sông tự chứa đáy, không được trở nông, hết ở chỗ chứa đáy vậy.
Từ khi Ta sinh ra, trở về trước, ngược mà lên nữa, lại có trên nữa vậy, cho đời đã qua, không thể theo đuổi được, đều là ngồi mà có thể biết ấy vậy, là ở tìm cái cũ mà thôi. Từ khi Ta sinh ra, trở về tầng sau mà xuống, lại còn có xuống thêm nữa, cái sẽ lại mà không thể thấy, đều là cái nối sau mà có thể biết đó vậy ; cốt là xem ở cái nhân do mà thôi. Đầy rõ thì trị hay loạn ? giữ ở cái cũ, định lễ lập phép, giữ ở nhân do, cốt ở cùng cực sự biến thông. Giữ đã lâu Kinh dịch, đó là Dịch, là số nghịch vậy. Tỏ rõ Thiên đạo, bèn biết vật sẽ tới, chưa có bao giờ muốn kinh Thế, mà không xem vật ấy vậy, chưa có bao giờ muốn xem vật, mà không tìm đến Dịch ấy vậy. Thần tròn thời tìm ở cỏ thi, trí vuông thời tìm ở quẻ tượng, Dịch thời tìm ở hào, rõ rệt sự đã qua, khảo xét cái sẽ lại, cùng thần đạt hóa, hết thẩy tìm ở đồ số và tượng, mà diễn đến vô cùng vậy.
Đại truyện Kinh dịch nói về số rõ ràng vậy, tóm cùng cực ở kế sách của 2 thiên Thượng Hạ bàn về Càn Khôn, do đó mà nhân lên ở trời đất rất nhiều ngày trong chứa chất, thắt lại, nhưng về ở sự tính toán bàn tay có thể hết được. Tức là Thuyết quái Kinh dịch nói về Tượng cũng lược đủ vậy. Xét sự biến ở thể âm dương, cứng mềm, bát quái, xem loài mà thuộc về muôn vật, ở một vài bầy, chia ra ở trong mà bao quát hết, thì giữ ở bàn tay có thể đo hết được tầm Tượng, mà đến chỗ không có toán, xét ra không rời thước tấc mảy may mà đến 1 hạt bụi, hay xét đến cả gò đống. Cho nên, lập nên ít mà có thể xem được nhiều, lường được xa do ở trông gần, phép còn ở cửu chương, Đạo gốc ở nhất quán.
Ta nghiên cứu về Dịch, lòng hội biết sự huyền diệu về Đồ thư của vua Hy không truyền, ở số thì nghe 1 biết 10, ở tượng thời coi bóng mà biết hình, thông khôn do tư chất, hội thông do học, thấy sâu xa chỗ xuất của Đạo, đó là tâm pháp và toán pháp, lại gồm trải mọi pháp, gộp mà trị, không sót một chân tơ, rồi làm ra sách này, nói có lời nào hư đâu !
Tiên thiên tứ phủ thì Vật thuận theo sự biến hóa, vì cái nét vạch không có văn, mà Thánh nhân tứ phủ lễ nhạc, rõ ràng về suy thịnh, xem khoảng trong và ngoài, không một gì là không đích xác, có thừa y cứ. .....
Ta biết rút lại mà xem Phân-Sao ở Nguyên-Hội, mà sớm cái nấm, con ve sầu làm Vật đó, đã thực xem thấy vậy, cái lớn thời lại lấy 500 năm, 8000 năm để đương với số 2 của Xuân Thu bốn mùa, thời năm rộng mà lớn vậy. Trang tử ngụ ý vào lời nói, thời là lược số lẽ của Dịch, còn Thiệu ta nói thẳng, đây là phép của Dịch. Ngoại thị phần nhiều sùng Trang, kẻ sùng Trang lòng đi chơi tiêu diêu, còn kẻ tôn Thiệu ta thời Đạo biết hòa dục, lời nói không cứ nhỏ to mà đều chuẩn ở Đạo. Ở họ Trình, lời nói muôn vật yên lặng xem, cùng với Ta xem Vật cùng Thú, lấy sự xem Vật ở Hoàng cực, xem âm dương tiêu trưởng chuẩn ở Dịch. Xem trị loạn xưa nay, chuẩn ở sách Xuân Thu. Xem suốt lịch số đạo, đức, công, lực, chuẩn ở sách Kinh Thư. Còn luật, lữ, thanh, âm, xướng, họa thì đều chuẩn ở sách Kinh Thi. Gồm 4 kinh mà hợp làm 12 quyển, trong đó lấy kinh Thế minh Đạo làm tông chỉ tính học.........
Thiên thủy của Càn, địa nguyệt của Khôn, Trạch hỏa của Đoài, sơn tinh của Cấn, Sao ôi là hỏa của Ly, sấm của Chấn, đất đá ôi là thủy của Khảm, phong của Tốn, nghĩa ấy ở đâu ? Có kẻ bảo lấy Chu dịch mà nói: Nam Ly-Bắc Khảm, Càn Khôn trong đồ của vua Hy, thực là gốc đó, cho nên Nhật Càn, thủy Khôn, khác nữa còn nói gì vật. Phương chi Hỏa ứng mặt Trời, nước ứng mặt Trăng, đất ứng với Thìn (sao), đá ứng Tinh (vì sao), khi đủ cùng lấy so le không phải đối vị. Này ! đồ nói số, số sinh tượng, tượng duy có 4: âm, dương , cương, nhu mà đều chia ra Thái Thiếu: Nhật Thái dương 1, Nguyệt Thái âm 2, Tinh Thiếu dương 3, Thìn Thiếu âm 4, bèn lấy đương với Càn số 1, Đoài số 2, Ly số 3, Chấn số 4, rõ ràng tóm đấy chỉ có Thiên (trời), Thái dương là Nhật khô ráo, đối lại bèn sinh Thủy, Thủy rất nhu mềm, giống mặt Trăng mà vâng theo mặt Trời mà sinh ở số 1. Thái âm là Nguyệt ẩm thấp, đối lại bèn sinh Hỏa, Hỏa cương quá giống mặt Trời mà ứng với Nguyệt sinh ở số 2. Sao Tinh sách của Thái dương tan bầy ra để biết rõ thứ Thổ, Thổ nhu quá, giống Thìn mà theo Tinh Mộc sinh số 3 mà phụ với Thổ. Thìn thể của Thiếu âm động khối lại mà thành đá rắn, đá cương ít giống như Tinh mà phối với Thìn sao ấy sinh số 4 mà dấu ẩn đá, khí đến mà hóa, số lấy đá là cùng cực. Không giản nói biết như phép này, lấy ít xem nhiều, mà xem xa, lấy cái nhỏ sở móc (thắt lại) để xem cái lớn sở khuyếch (rộng ra). Cái ít thực mà nhiều, chẳng phải hư vậy. Cái gần thực mà xa, chẳng phải hư vậy. Cái thắt lại nhỏ mà thực, cái mở rộng ra mà lớn, cũng không phải hư vậy, thời sách này không bàn định, cũng không biện minh. Trong ngoài 6 hợp, trên dưới 1 Nguyên, 12 Hội, 360 Vận 4320 Thế để nói ngay rằng: chí về Hoàng Cực Kinh Thế, lời của sách bình dị mà chính, chẳng phải có được ở Dịch mà bắt chước. Kính cẩn lời nói này làm cán nối ở giữa Trời Đất vậy.
Dương lấy Âm làm “thể”. Âm lấy Dương làm “tính”, động là “tính” vậy, tĩnh là “thể” vậy. Tại thiên thì Dương động mà Âm tĩnh. Tại địa thì Dương tĩnh mà Âm động. (Nguồn: Sách Hoàng Cực Kinh Thế)
+ Tiêu tai diên thọ: Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật! Chúng ta niệm Ngài thì cứu kính chúng ta sẽ được tiêu tai sống lâu ? Hay là Phật Dược Sư tiêu tai sống lâu? Ðây chứng minh là chúng ta niệm thì chúng ta sẽ được tiêu tai sống lâu, vậy là chúng ta niệm muốn tiêu tai sống lâu, đó là một thứ tâm tham, lại có một thứ sở cầu, lại chấp trước tướng, phàm hết thảy tướng đều là hư vọng, phải hiển lộ tướng ở bên trong. Vậy chúng ta niệm Ngài , hy vọng chính mình tiêu tai diên thọ, đây tức là tâm tham và tâm ích kỷ. Vậy là ai tiêu tai ? Cũng không phải Phật Dược Sư , cũng không phải chính chúng ta. Cũng chẳng phải nói, tôi không niệm Phật Dược Sư, thì bây giờ tôi chết, còn phải diên thọ, còn phải tiêu tai, đây thật là mê tín. Vậy chúng ta tiêu tai diên thọ cho ai ? Cho tất cả hết thảy chúng sinh có tai nạn, thậm chí những chúng sinh sắp mạng chung.
Chúng ta niệm tiêu tai diên thọ Dược Sư Phật hồi hướng cho họ. Ðó mới là nghĩa rộng, không phải là nghĩa hẹp. Cho nên chúng ta niệm Phật, nhất cử nhất động tu hành, đều phải hiểu được lý luận chân chánh, đừng mù theo như thế, người ta sao tôi cũng vậy, họ nói như vầy, tôi cũng nói như vầy, họ nói như thế, tôi cũng nói như thế, chẳng khác nào như ngọn cỏ, gió thổi hướng nào thì ngả hướng đó.
Chúng ta học Phật phải có trí huệ chân chánh, trí huệ chân chánh không phải nói cứ nhìn mọi người không đúng, phải trọng lý luận, nghiên cứu lý luận rõ ràng. Chúng ta niệm Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, là vì tất cả chúng sinh có tai nạn, đem mạng sống chúng sinh gần chết để niệm, đó mới là lợi ích chúng sinh, mới là hành Bồ Tát đạo.
Người trì chú được tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát của Kim Cang Bộ, đến ủng hộ người trì Chú. ... Bây giờ nói về phương đông. ... Phật Dược Sư có hai mươi đại tướng Dược Xoa chuyên đi khắp nơi quản nhân sự, xem bọn thiên ma ngoại đạo không giữ quy cụ, thì giống như cảnh sát đi bắt, đi hàng phục, đi canh tuần, cảnh sát chúng ta là Kim Cang hữu hình, bạn đừng có hoài nghi. (Nguồn: Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tiêu giảm nghiệp đã tạo: Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Người có nhiều điều lỗi mà không tự hối, lại khiến tâm kia chợt dứt, thì tội lại dấn vào thân, như nước đổ về biển, lâu dần thành sâu rộng. Nếu người có lỗi tự biết nhận lỗi, đổi ác làm lành, thì tội sẽ tự nhiên tiêu diệt, như bệnh mà được ra mồ hôi, bệnh dần dần thuyên giảm vậy!"
Giả sử có người phạm tội tày trời, nếu người ấy biết sám hối, phục thiện, thì tội liền tiêu tan. Tội lỗi nghiêm trọng to lớn như trời, gọi là "di thiên đại tội." Tội lỗi của quý vị tuy lớn bằng trời, nhưng nếu quý vị có thể sám hối thì tội sẽ tiêu tan, không còn nữa. Quý vị cần phải sám hối, phải tự tháo gỡ mối kết buộc của nghiệp tội và phải nhận biết được những sai lầm của mình. Sau đó, quý vị phải sửa đổi những hạnh ác thành hạnh lành và chăm chỉ làm thiện sự. Được như thế, "thì tội sẽ tự nhiên tiêu diệt." Nếu quý vị có thể tự sửa chữa những sai lầm của mình để trở thành con người mới, thì mọi tội nghiệp của quý vị sẽ tiêu tan, cũng giống "như bệnh mà được ra mồ hôi, bệnh dần dần thuyên giảm vậy." Điều ấy cũng tương tự như khi quý vị đau ốm nóng sốt mà cả người được ra mồ hôi, bệnh từ từ nhẹ bớt và quý vị được bình phục vậy! ..... (Nguồn: Kinh 42 Chương - HT T.Hóa)
+ Tiêu tai giải nạn cát tường
- Kiền Thành Niệm Cát Tường Thần Chú
Năm nay, kể từ ngày Nguyên-đán, chúng ta cùng thành tâm niệm thần chú Tiêu Tai Cát Tường:
"Nam mô.Tam mãn đa. Mẫu đà nẫm. A bát la để. Hạ đa xá. Sa nẵng nẫm. Ðát điệt tha. Án. Khư khư. Khư hê. Khư hê. Hồng hông. Nhập phạ ra. Nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ ra. Ðể sắt xá. Ðể sắt xá. Sắt trí rị. Sắt chí rị. Sa phấn trá. Sa phấn trá. Phiến để ca. Thất lí duệ Sa bà ha."
Nếu như quý vị chuyên tâm trì niệm, chắn chắn sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn và tới được cảnh giới như trong câu nói: "Cảm ứng đạo giao.".......
- Ngũ Giới Thập Thiện Tiêu Tai Nạn
Vì chúng sanh tạo nghiệp nên trên thế giới mới thấy xuất hiện bao nhiêu là tai nạn. Có câu nói: "Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo," ba thứ này liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu không khởi hoặc thì sẽ không tạo nghiệp, và từ đó không có quả báo.
Sát sanh: ... Giết bò giết heo là sát sanh. Nhưng trong trường hợp này nghiệp báo không nặng lắm, bởi súc sanh là loài ngu si, nhất thời không kiếm ra được kẻ giết mình, ... người mắc bệnh ung thư, phần đông là do kiếp trước hay kiếp này đã tạo ra các nghiệp trọng về sát sanh, nên mới gặp loại bệnh không có thuốc chữa này.
Trong các nghiệp sát sanh thì nghiệp sát nhân là nghiêm trọng nhất. Nạn nhân bị giết biến thành oan hồn, tức khắc theo dõi anh, oan cừu chẳng báo, chẳng cam tâm, nên nhất định sẽ chờ, có cơ hội là báo oán xưa. Kẻ sát nhân ắt bị pháp luật trừng trị, hoặc giả tâm thần không an ổn, đứng ngồi không yên, luôn luôn ở trong một hoàn cảnh bị đe dọa, chẳng chóng thì chầy tinh thần sút kém, nếu chẳng chết thì cũng bị điên loạn.
Trộm cướp: Phàm là kẻ trộm cướp, tâm thường phập phồng sợ hãi .,.. kẻ trộm thì gan mật suy yếu. ...
Tà dâm: Hành dâm là điều cấm tuyệt đối với người xuất gia, còn đối với các đệ tử Phật tại gia thì việc tà dâm chỉ cấm nếu không phải là giữa vợ chồng. Ngoài ra, tư tưởng dâm dục cũng phải giới, .... bởi tới kiếp sau những tư tưởng đó vẫn còn theo đuổi mãi mãi không thôi ...
Nói dối: Người nói dối, không bao giờ tin vào lời nói của bất cứ ai. ... Có câu nói: "Lấy cái tâm tiểu nhân, đo lòng người quân tử." ...
Uống rượu: Phàm người uống rượu dễ bị mất lý trí. Ðương lúc hăng say không kịp nghĩ tới hậu quả nên dễ tạo ra những việc thương luân bại lý. Lý do là "tửu hậu vô đức" lý trí lúc bấy giờ không kềm hãm được tình cảm nữa.... (Nguồn: HT Tuyên Hóa Khai thị 4)
+ Hóa giải - Tiêu trừ nghiệp: ...Nên biết rằng mang nghiệp chỉ mang nghiệp cũ, không mang nghiệp mới. Không nên nghĩ rằng mang nghiệp vãng sanh thì ta mỗi ngày chúng ta có thể tạo nghiệp đều có thể mang theo. Làm gì có đạo lý như vậy, quá khứ đã tạo nghiệp có thể mang theo, hiện tại tạo nghiệp không thể mang theo. Phải hiểu rõ cái đạo lý này. PS Tịnh Không giảng về Sám hối tiêu trừ nghiệp chướng. (Nguồn: Giảng về Sám hối - PS Tịnh Không)
+ Thần Chú Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại:
Bấy giờ Đức Thế Tôn thương xót chúng sinh, muốn che hộ tất cả nên lại thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát nói Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Chú
Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Đại Bi xông ướp Tâm, nương theo Thần Lực của Đức Phật mà nói Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Chú.
“Nam mô Phật Đà
Nam mô Đạt Ma
Nam mô Tăng Già
Nam mô Bậc Đại Từ Đại Bi là Quán Thế Âm Bồ Đề Tát Đỏa, ma ha tát đỏa”
Nguyện xin xót thương con mà cứu hộ khổ não, cũng cứu tất cả chúng sinh đang bị sợ hãi khiến cho được Đại Hộ.........
Tất cả loài gây sự sợ hãi, tất cả loài tạo sự độc hại, tất cả loài Quỷ ác, cọp, sói, sư tử nghe thấy Chú này thì miệng bị bế tắc, chẳng có thể gây hại được.
Người phá Phạm Hạnh làm 10 nghiệp ác nghe được Chú này thì khử trừ phẩn uế (phân dơ) trở lại được thanh tịnh. Giả sử có nghiệp chướng độc ác chẳng lành, nếu xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát và trì tụng Chú này liền phá nghiệp chướng, đời này được gặp Phật.
Đức Phật bảo A Nan: “Nếu có Đệ Tử trong 4 Bộ thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng niệm Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni thì người hành Chú này, thân thường không có hoạn nạn, Tâm cũng không có tật bệnh .......... Chính vì thế cho nên ở Thế Giới Sa Bà (Saha Loka) này đều xưng tán Quán Thế Âm Bồ tát là Bậc ban cho sự không sợ hãi (Thí Vô Úy Giả _ Abhayamïdada)......
Đức Phật bảo: “Này A Nan! Đại thành Vương Xá có một nữ nhân bị ác quỷ nhiếp tên là Chiên Đà Lợi (Canïdïari). Ngày đêm Quỷ đó hiện thành hình người chồng đến quấy nhiễu cô gái này. Vì thân bị vướng tinh của con Quỷ nên sinh ra 500 Quỷ con. Ông còn nhớ chuyện đó không? Vào lúc ấy, Ta dạy cho cô gái này xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhờ Tâm lành tiếp nối mà được vào cảnh giới lành.......
Đề nghị xem kỹ Kinh văn gốc. Nếu thọ trì đọc tụng đúng như lý như pháp sẽ có được sự nhiệm mầu. (Nguồn: Kinh chú Đà La Ni Thỉnh Bồ Tát Quán Thế Âm Tiêu Phục Độc Hại)
+ Tiêu trừ nghiệp chướng: Phương Pháp tốt nhất để tiêu trừ nghiệp Chướng là đoạn ác, tu thiện, tích lũy công đức, nhất tâm hướng về Phật.
- Bố thí là phương pháp tiêu tai giải nạn tốt cho người người gặp bệnh nạn khổ đau, ví như người bệnh sống dở chết dở, người nhà đem tài sản của người đó đi bố thí đúng pháp thì hiệu quả rất tuyệt. (Xem nguồn: PS Tịnh Không)
+ Hỏi: Như thế nào mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng?
Hòa Thượng Tịnh Không trả lời: Tiêu trừ nghiệp chướng, quan trọng nhất là sám hối, biết chính mình đã làm sai, sám hối quan trọng nhất là “về sau không tạo nữa”. Sám hối rồi, ngày mai tái phạm nữa, như vậy không được, như vậy nghiệp chướng vĩnh viễn không thể tiêu trừ. ... Cho nên mục tiêu cuối cùng của học Phật là phải khai trí huệ, không thể không khai trí huệ, không khai trí huệ thì không thể giải quyết được vấn đề.(Nguồn: facebook Ngọc Diệp)
+ Tiêu Trừ Nghiệp Chướng: Câu Hỏi 113 - Phật giáo bảo là: “Định nghiệp thì không thể chuyển đổi được,” vậy nếu đã tạo ác nghiệp rồi thì nhất định là phải thọ quả báo phải không?
Đáp: Tuy nói, không thể thay đổi được định nghiệp, nhưng nhờ vào lực tam muội gia trì của Phật và Bồ Tát thì tội nghiệp cũng có thể được tiêu trừ. Nhưng chúng ta cần phải đặt hết lòng tin, sanh tâm hết sức chân thành sám hối và phải thật dũng cảm để sửa đổi các tội lỗi. Cho nên nói: “Lúc nóng giận mà có thể vui vẻ được, thì người chết sẽ sống trở lại. Nếu cho lời nói đây là giả, thì nên biết chư Phật không nói dối bao giờ?”
Tội lỗi dù ngập trời, nhưng một khi chúng ta sám hối thì tội lỗi liền tan. Bất luận là tội nghiệp có nặng nề bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu chúng ta thật có thể phát đại Bồ-đề tâm cùng hết lòng tín ngưỡng Tam Bảo và thiện tri thức để tu công chuộc tội. Lúc tu hành tích tụ công đức một cách đầy đủ rồi thì tự nhiên chúng ta sẽ miễn trừ được hết các tai nạn, và bịnh đau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Phá trừ ba Chướng trược:
Thứ tư là luận bàn về dụng.(Của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa)
"Lực dụng khu trừ tam trược, (dùng lực dẹp trừ ba chướng trược".
Tức là dùng lực dụng của kinh này để phá trừ ba chướng. Ba chướng là gì ?
Một là báo chướng. Hai là nghiệp chướng. Ba là phiền não chướng.
Bộ tâm kinh này năng phá trừ được ba chướng ... Do có trí huệ chân chánh, trí huệ vi diệu, tâm như như bất động, và chân tâm nên phá trừ được ba chướng. .... (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tiêu trừ Nghiệp:
HỎI: Con nghe nói theo như Phật giáo phá thai là việc làm không đúng. Nhưng trước đây vì con không biết nên đã phạm lỗi. Vậy kể từ nay về sau, con phải nên làm sao để bù đắp lại tội xưa ?.
ĐÁP : Có lỗi mà biết sửa, như vậy không phải là đại thiện rồi sao ? Vì tội lỗi dù ngập trời, một khi sám hối, tội lỗi liền tiêu. (HT Tuyên Hóa khai thị - Nguồn Nguyên Minh)
+ Tu đúng như pháp tu hành: KHÔNG HỌC ĐỆ TỬ QUY, CẢM ỨNG THIÊN, THẬP THIỆN NGHIỆP MÀ HỌC KINH VÔ LƯỢNG THỌ, QUÝ VỊ HỌC 300 NĂM NỮA CŨNG VÔ ÍCH.
... Trong tất cả những kinh Phật có sâu cạn khác nhau. Nhưng tu học nhất định từ nơi cạn đến sâu, không thể vượt bậc. Vượt bậc nhất định tu không thành tựu được. ..... trong Đại Tạng Kinh có, Phật dùng cách khuyên dạy như vầy: "Phật tử không học Tiểu thừa trước rồi sau đó học Đại Thừa thì không phải là đệ tử Phật". Câu nói này rất quan trọng. Phật không thích dạy người vượt cấp, nhất định theo từng bước mà làm, từng bước vững vàng, quí vị mới thành tựu. [...]
Nhưng ngày nay Nho cũng không cần, Đạo cũng không cần, Tiểu thừa cũng không cần nữa, vừa vào đã học Đại Thừa, sau khi học được đều cuồng vọng tự đại, cho nên không thành tựu gì cả. Đây là gì? Không nghe lời giáo huấn của Phật.
Người Trung Quốc cho rằng: "không nghe lời người lớn, chịu thiệt ngay trước mắt". ... Ngày nay phải cắm rễ từ đâu? Nhất định phải từ Đệ tử quy, Cảm ứng thiên, Thập thiện nghiệp để cắm rễ. Nếu như không phải từ đây mà cắm rễ, quí vị học thêm 300 năm nữa cũng vô ích. Quí vị có thể khai ngộ không, đắc định không? Chắc chắn không thể. Đạo lý này nhất định phải hiểu được, phải vô cùng chăm chỉ nổ lực, dùng công phu hai ba năm để cắm rễ cho chắc. Nhất định phải hiểu được đức Thế Tôn năm xưa tại thế, dùng thời gian 12 năm để cắm rễ, gốc rễ đó sâu biết bao. Vì vậy đương thời người chứng A La Hán rất nhiều...... (Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không)
+ Đức Phật dạy Tu hành:
Lạy, không phải là quỳ lưng nằm sấp mà là buông bỏ ngạo mạn.
Niệm, không phải là tính số lần mà là thanh tịnh lương tâm.
Xá, không phải là chắp tay cái chào mà là cung kính đối phương.
Định, không phải là ngồi yên bất động mà là ngoài tâm vô vật.
Hỷ, không chỉ là nét mặt tươi vui mà là thân tâm thư thái.
Tu, không chỉ buông bỏ dục vọng mà là tâm không ích kỷ.
Thí, không phải là buông bỏ tất cả mà là tích lũy từ bi.
+ Các hệ thống trong cơ thể:
1. Hệ tuần hoàn. (Tim, Máu, mạch máu - Hệ thống Bạch huyết gồm tuyến ức, A my dan, Lá lách ... giúp lưu thông máu)
2. Hệ hô hấp. (mũi, thanh quản, hầu, khí quản, phế quản và phổi ...)
3. Hệ thống tiêu hóa (miệng, thực quản, dạ dày, gan, ruột non, ruột già, túi mật, tuyến tụy, hậu môn ...)
4. Hệ thống xương. ...
5. Hệ vận động/ hệ cơ (Cơ tim, Cơ xương, cơ trơn), xương, khớp ...
6. Hệ thần kinh (Não bộ và tủy sống. ...)
7. Hệ thống bài tiết. (thận, ống dẫn nước tiểu, bàng quang..., lọc và đào thải ra ngoài, duy trì nước đầy đủ )
8. Hệ nội tiết.( tuyến yên, tuyến giáp, tuyến trên thận, tuyến tùng và các tuyến sinh dục ..., cân bằng hoạt động sinh lý)
9. Hệ vỏ bọc: da, tóc, mỡ, và Móng (động vật).
10. Hệ sinh dục: gồm các cơ quan sinh dục, như là buồng trứng, vòi tử cung, tử cung, âm đạo, tuyến vú, tinh hoàn, ống dẫn tinh, túi tinh và tuyến tiền liệt
+ Chi tiết:
1- Hệ tuần hoàn
Hệ thống tuần hoàn là một mạng lưới cơ thể toàn máu, mạch máu, và bạch huyết. Được cung cấp bởi tim, đó là hệ thống phân phối oxy, hormone và các chất dinh dưỡng thiết yếu đến các cơ quan, giúp nó hoạt động tốt.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống tuần hoàn: Tim. Phổi. Óc. Thận.
2- Hệ hô hấp
Mỗi mô trong cơ thể đều cần oxy để hoạt động. Hệ thống hô hấp, trong đó bao gồm đường dẫn khí, mạch phổi, phổi, và cơ, cung cấp oxy máu đến các mô cơ thể và loại bỏ khí thải.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống hô hấp: Mũi. Phổi. Hầu họng. Phế quản.
3- Hệ thống tiêu hóa
Hệ thống tiêu hóa giúp cơ thể chuyển hóa thức ăn thành các chất dinh dưỡng có thể sử dụng thông qua một quá trình phân hủy hóa học. Điều này xảy ra thông qua một hệ thống các cơ quan giống như ống, bao gồm thực quản, dạ dày, gan, tuyến tụy và ruột.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống tiêu hóa: Miệng. Lưỡi. Răng. Cổ họng. Cơ hoành. Dạ dày. Lách. Gan. Túi mật. Tuyến tụy. Ruột non.
4- Hệ thống cơ - xương
Hệ thống xương cho cơ thể khuôn khổ cơ bản của nó, xây dựng cấu trúc, bảo vệ, và chuyển động. 206 xương trong cơ thể cũng tạo ra các tế bào máu, lưu trữ các khoáng chất quan trọng và giải phóng các hormone cần thiết cho sự sống.
Hệ cơ
Hệ thống cơ bao gồm tổng số cơ khắp cơ thể theo bộ xương, duy trì tư thế ổn định, và tạo ra nhiệt thông qua sự trao đổi chất của tế bào. Con người có ba loại cơ bắp.
5- Hệ thần kinh
Hệ thống thần kinh cho phép chúng ta nhận thức, hiểu và đáp ứng với thế giới xung quanh chúng ta. Hệ thống thần kinh cũng vận hành các chức năng sinh lý thiết yếu của cơ thể, chẳng hạn như thở và tiêu hóa.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống thần kinh: Não. Tủy sống. Màng não. Màng cứng.
6- Hệ thống sinh sản (nữ)
Hệ thống sinh sản nữ bao gồm tất cả các bộ phận phụ nữ cần thiết để thụ thai và sinh một đứa trẻ.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống sinh sản nữ: Âm đạo. Cổ tử cung. Buồng trứng. Tử cung.
Hệ thống sinh sản (nam)
Hệ thống sinh sản nam bao gồm một loạt các cơ quan sử dụng trong quan hệ tình dục và sinh sản. Các cơ quan chính là tuyến sinh dục, sản xuất ra tinh trùng. Ở nam giới, đây là những tinh hoàn.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống sinh sản nam giới: Dương vật. Tinh hoàn. Mào tinh hoàn. Ống dẫn tinh.
* Xem nguồn: Hệ thống trong cơ thể
+ Lại có mười nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo xấu bên ngoài. Những gì là mười?
Ví như có chúng sinh nơi mười điều ác nghiệp, phần nhiều thực hành nên chiêu cảm đến các vật dụng bên ngoài thảy chẳng đầy đủ:
1. Một là người kia hành sát sinh nên khiến quả báo bên ngoài như quả đất có vị mặn, cây thuốc yếu ớt.
2. Hai là do nghiệp trộm cắp nên chiêu cảm đến thời tiết xấu, như sương muối mưa đá, sinh nhiều sâu bọ, châu chấu… khiến đời đói rét.
3. Ba là do nghiệp tà dâm nên chiêu cảm đến vật bên ngoài sinh ra thảy đều hôi nhơ.
4. Năm là nghiệp lưỡng thiệt (đòn xóc hai đầu) chiêu cảm bề mặt quả đất cao thấp chẳng bằng, có nhiều núi đồi, gò ụ, gốc cây, hầm hô.
5. Sáu là nghiệp ác khẩu nên chiêu cảm quả báo bên ngoài như có nhiều ngói, đá, cát, sỏi thô xấu, ác vật chẳng thể tiếp cận.
6. Bảy là nói lời thêu dệt nên chiêu cảm sinh quả báo bên ngoài như có nhiều cây cỏ dày đặc, cành nhỏ nhiều gai.
7. Tám là do nghiệp tham nên chiêu cảm quả báo bên ngoài khiến hạt giống lúa nhỏ lép.
8. Chín là do nghiệp sân nên chiêu cảm quả báo bên ngoài khiến quả cây to sinh ra xấu nhám.
9. Mười là do nghiệp tà kiến nên chiêu cảm sinh quả báo bên ngoài là mầm chồi yếu ớt, thu hoạch quả ít tươi. Do mười nghiệp trên nên bị quả báo ác bên ngoài.
Ví như có chúng sinh lễ Phật, tháp miến được mười thứ công đức:
Cúng thí lọng báu được mười thứ công đức,
Cúng thí chuông linh được mười thứ công đức,
Cúng thí y phục được mười thứ công đức,
Cúng thí bát đũa được mười thứ công đức,
Cúng thí thức ăn nước uống được mười thứ công đức,
Cúng thí giầy dép được mười thứ công đức,
Cúng thí hương hoa được mười thứ công đức,
Cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức,
Cúng thí cung kính chắp tay được mười thứ công đức. (Nguồn: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ Lại nữa, có mười nghiệp khiến chúng sinh bị quả báo uy thế yếu. Những gì là mười?
Một là sinh khởi tâm tật đó, hai là thấy người khác được lợi thì mình sinh tâm phiền não, ba là thấy người kia bất lợi thì mình sinh tâm hoan hỷ, bốn là thấy người khác được danh dự tốt thì ganh ghét, năm là nếu thấy nước khác mất danh dự thì tâm sinh rất vui vẻ, sáu là thối thất tâm Bồ đề và phá huỷ hình tượng Phật, bảy là đối với cha mẹ cua mình và Hiền Thành không có tâm hầu hạ cung kính, tám la chỉ khuyên người tu tập nghiệp uy thế yếu, chín là làm chướng sự nghiệp của bậc tu hành có đạo cao đức trọng, mười là thấy người uy thế yếu sinh tâm khinh chê. Do mười nghiệp trên khiến chúng sinh bị quả báo ít uy thế.
Lại nữa, có mười nghiệp hay khiến chúng sinh được uy thế mạnh. Những gì là mười? Một là đối với chúng sinh tâm không tật đó, hai là thấy người khác được lợi tâm sinh vui mừng, ba là thấy người khác mất lợi tâm khởi thương xót, bốn là thấy người khác được khen tốt tâm sinh vui mừng, năm là thấy người mất tiếng khen tốt thì khuyên nhủ chớ ôm lòng buồn phiền, sáu là phát tâm Bồ đề tạo hình tượng Phật, bảy là đối với cha mẹ mình và Hiền Thánh cung kính phụng thờ, tám là khuyên người xả bỏ nghiệp uy thế yếu, chín là khuyên người tu hành hạnh đại uy đức, mười là thấy người không uy đức chẳng sinh lòng khinh chê. Do mười nghiệp trên được quả báo uy thế lớn. (Nguồn: Phật nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ Lợi ích hồi đầu sám hối:
Lại nữa, có nghiệp khiến chúng sinh đọa vào địa ngục chỉ chịu phân nửa số tuổi thọ rồi chết yểu, chẳng sống đầy đủ tuổi thọ trong địa ngục.
Ví như có chúng sinh tạo nghiệp địa ngục, tích luỹ thành rồi, sau đó sinh tâm sợ hổ thẹn, xa lìa, sám hối, từ bỏ, chẳng có tâm tạo thêm. Do nghiệp trên nên đọa nơi địa ngục, sau đó hối hận nên chỉ thọ phân nửa số tuổi nơi địa ngục rồi chết yểu, chẳng sống hết tuổi thọ ở địa ngục như vua A Xà Thế giết cha rồi sau đó ăn năn sám hối… bị tội tạm vào địa ngục liền được thoát ra.
Ngay đó Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Nếu người tạo trọng tội,
Làm xong rất ăn năn,
Sám hối chẳng tái phạm,
Hay trừ căn bản nghiệp”. (Nguồn: Phật nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ KHI NGƯỜI PHỤ NỮ PHÁ THAI GIẾT CON, NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ PHẢI CHỊU NGHIỆP TỘI SÁT SANH, GIẾT CON MÌNH HAY KHÔNG?
[Hỏi] Thưa Pháp Sư, con có một anh bạn nói với con: anh ấy đã bỏ 5 cháu và cũng có ra ngoài với người phụ nữ khác và đã bỏ tiếp 13 cháu, anh ấy hỏi việc này có phải do anh ấy không? Và hỏi thêm: 13 cháu đã bỏ bên ngoài đó có phải là trách nhiệm của anh ấy không? Con trả lời: tất nhiên là có rồi! Anh ấy nói: vậy liên quan đến tôi ở chỗ nào, ... anh ấy có phải chịu Nhân-Quả cho việc phá thai không ạ?
[Đáp] Tội nghiệp này là như nhau! Những anh linh nhỏ bé đó sẽ không buông tha anh ta. Lúc anh ta có vận khí, gặp vận may những anh linh nhỏ bé này sẽ không đi tìm anh ta, họ đợi đến khi anh ta qua vận may rồi, lúc mà xui rủi đến thì chúng sẽ xuất hiện. Bọn chúng sẽ đợi cơ hội để báo thù người cha này của chúng.
Người nữ mà phá thai thì người nam phải chịu tội chung. Việc giết người này quá tàn nhẫn, quá tàn nhẫn, bạn nhất định không được làm chuyện này!
....... Quả báo rất nặng nề, quả báo chính ở địa ngục. Nếu nghĩ đến cái khổ ở địa ngục thì quý vị sẽ không dám làm việc này.
Cho nên con người ta hiện nay chưa từng được nghe dạy qua những giáo dục này. .... cái xã hội này loạn mất...... lòng người đã hư hoại rồi. Làm thế nào để khôi phục lại đây? Phải nhờ vào GIÁO DỤC!... Cho nên người xưa đã có nói: "KIẾN QUỐC QUÂN DÂN, GIÁO HỌC VI TIÊN" [Quân dân lập quốc, phải lấy việc dạy học làm đầu].... (Nguồn: Xin Đừng Phá Thai Giết Con)
+ Bỏ trẻ Phá thai: Vô cùng tai hại, linh hồn thai nhi luôn luôn đi cùng người mẹ như bóng với hình, với lòng oán hận và chỉ trực chờ đến mạt vận thì sẽ trả thù, rất đáng sợ. Bởi theo Luật, khi nó đã đầu thai thì không thể trở về nơi nó xuất phát đi đầu thai, là vì cái Xác cũ nó đã chết, xác mới bị hủy hoại, cho lên nó cứ vất vưởng theo người Mẹ, rất đáng thương (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi)
+ Các lời dậy về Thai nhi: ... Mối căm hận sâu thẵm trên thế gới do sự sát sinh. Có câu "Nợ sanh mạng trả sanh mạng, nợ tiền bạc trả tiền bạc." Nếu quý vị giết cha, anh người khác; cha, anh của quý vị sẽ bị giết bởi người khác. Như thế con người cứ luân phiên tàn sát lẫn nhau không bao giờ chấm dứt. Vì giết hại quá nhiều mà quả báo chín mùi trong thời gian ngắn, và vì thế có câu "Người ta trả quả ngay trong chính đời này."
Lấy ví dụ việc phá thai, là việc nghiêm trọng hơn việc cướp bóc ngoài xa lộ. Quý vị hãy suy nghĩ, bằng hành vi phá thai, quý vị đã chấm dứt một sanh mạng trước khi cơ thể đứa bé được thành hình đầy đủ! Với lòng thù hận thâm sâu nhất, những vong linh thai nhi bị hủy phá này "than trời trách người". Lòng sân hận của chúng mãnh liệt và độc hại hơn bom nguyên tử và bom khinh khí, chúng nhất định báo thù! Với tình trạng phá thai phổ biến như hiện nay, những vong linh thai nhi này hiện diện khắp nơi, nhiều hơn nhiều so với vong linh người lớn trên thế gian. Có những người không biết tại sao họ bị bệnh. Thật ra họ bị bệnh vì đã gây ra quá nhiều oán thù cừu hận. Ví dụ trong hầu hết các trường hợp, người ta bị bệnh ung thư vì đã giết hại nhiều sanh mạng. Do không thể giải được oán cừu với các chúng sanh đã bị họ giết, những người này phải mang lấy bệnh ung thư..... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Những vong linh thai nhi vô tội)
+ Phá Thai tội rất nặng - Không thể sám hối
Trong Kinh Phật Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt có đoạn nói: "Có mười loại nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo đoản mạng: 1) Tự mình làm việc giết hại; 2) khuyến khích kẻ khác làm việc giết hại... 7) hủy hoại thai tạng (tức là tự mình phá thai); 8) bảo kẻ khác hủy hoại (tức là khuyên người khác phá thai)... Mười nghiệp kể trên mang lại quả báo đoản mạng."
Ngoài ra, trong Kinh Phật Thuyết Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Tướng, Đức Phật nói: "Nếu kẻ nào cố ý phá thai và thai bị chết, kẻ đó đã phạm tội không thể sám hối được vậy."(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Vong Linh Thai Nhi do Phá Thai - Tiểu Quỷ rất khó độ: Tôi xin khuyên các vị nên thủ đạo phu thê, đừng ly dị và nên lo chăm nom con cái của mình cho đàng hoàng. Nếu gia đình đều được hòa thuận vui vẻ, thì đất nước tự nhiên sẽ thái bình. Còn một việc nữa là tôi khuyên quý vị chớ nên phá thai. Quý vị thử nghĩ xem, một sanh mạng chưa ra đời mà đã trở thành oan hồn thì chúng tiểu quỷ đó sẽ đi khắp nơi để tìm mạng sống. Quý vị nói đi, như vậy thì xã hội sẽ được an ổn sao? Cần phải có vị tu đạo hạnh và không tham tài lợi mới có thể siêu độ được chúng quỷ nhỏ này. Bọn tiểu quỷ khó chịu lắm đấy, rất khó mà trị được chúng. Tội lỗi, nghiệp báo khắp nơi như vậy, thì quý vị nói là có thể an ổn được sao? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Vong linh Thai nhi bị phá thai rất khó độ: .... Ngòai ra, tôi khẩn cầu mọi người hãy ngưng lại việc phá thai! Hãy suy nghĩ xem, nếu những chúng sinh trong bào thai chưa kịp chào đời đã trở thành những oan hồn; khắp nơi nhan nhản những hồn ma nhỏ bé phiêu bạt đòi mạng thì làm sao xã hội an lành được? Những hồn ma nhỏ bé này cần phải gặp được người có Đạo hạnh và không tham tiền thì mới được siêu độ. Rất khó đối phó với những hồn ma nhỏ bé này! Rất khó giải quyết những vấn đề này, vì vậy, với nghiệp chướng khắp nơi thì làm sao có hòa bình?
Câu hỏi: Con được nghe rằng phá thai là sai trái trong giáo lý Phật giáo, nhưng con đã phạm tôi này trong quá khứ mà không biết đó là sai trái. Con có thể làm cái gì bây giờ để đền bù lại những điều tai hại mà con đã làm trong quá khứ?
Hòa Thượng: Không có điều tốt đẹp nào hơn là tự sửa đổi lỗi lầm của mình. Dầu cho tội của quý vị rất to lớn, đầy ngập trời, nếu quý vị thành tâm ăn năn và sửa đổi, thì các tội sẽ tiêu sạch.
Câu hỏi: Ngày nay có nhiều quảng cáo "Cúng Dường Vong Linh Thai Nhi" trên báo hàng ngày và tạp chí. Chúng con có thể cúng dường những vong linh thai nhi này hay không, hay các vong linh thai nhi này nên được siêu độ ?
Hòa Thượng: Chữ "cúng dường" không thể dùng trong ý nghĩa này được, vì vong linh thai nhi không phải là Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Nếu quý vị xem đó là cúng dường vong linh thai nhi tức là đã rơi vào tà kiến vậy. Đó phải gọi là 'siêu độ'. Siêu độ chúng sanh không giống cúng dường cho chúng sanh, bởi vì việc siêu độ giúp chúng lìa khổ được vui. Tuy nhiên, vong linh thai nhi mang mối oán hận rất lớn khó làm vơi đi được, bởi vì đó là món nợ tước đoạt sanh mạng thì phải được trả bằng cách đền lại sanh mạng. Thế nhưng, nếu các vong linh thai nhi đó gặp được những vị chân tu không tham tiền thì chúng có cơ hội được siêu độ....
Câu hỏi: Nhiều người bỏ tiền ra cúng những vong linh thai nhi, có thể nào những căm hận của các vong linh thai nhi này được đền bù hay không?
Hòa Thượng: Không.
Thỉnh một bài vị cho một vong linh thai nhi là "lo cái ngọn mà quên cái gốc", cũng chưa chắc, vì rất khó siêu độ cho những Thai nhi tiểu quỷ này....
Về vấn đề phá thai, đó là một hành động vô nhân đạo! ... Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị điều này dù quý vị có tin hay không: mặc dù thai nhi bị hủy phá chỉ là một thai nhi nhỏ bé, nhưng vong linh thai nhi này còn dữ dằn hơn cả vong linh người lớn! Ngày nay bệnh ung thư trở nên khá thông thường trong xã hội chúng ta, và căn bệnh này một phần là do sự phá thai. Vì càng có nhiều trường hợp phá thai, số vong linh thai nhi càng gia tăng, và những vong linh thai nhi này rãi độc tố khắp nơi làm người ta bất an. Chúng nghĩ rằng: "Quý vị đã giết tôi sớm như vậy, tôi không để quý vị tránh thoát tội này đâu. Tôi cũng sẽ giết quý vị !" Vì thế, chúng ta có nhiều bệnh lạ lùng và không thuốc chữa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Những vong linh thai nhi vô tội)
+ Mời đọc các câu truyện và bài giảng về nạo Phá thai tội lỗi đáng sợ: Xem tại đây
+ Các giới - 81. BỐN ĐẠI
Này chư Hiền, những gì là bốn đại? Địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ 193. ĐỊA GIỚI: Nội địa giới và ngoại địa giới.
Nội địa giới là những gì ở trong thân, được thâu nhiếp trong thân như vật cứng, có tính chất cứng, được chấp thọ bên trong. Đó là tóc, lông, móng, răng, da thô và mịn, thịt, gân, xương, tim, thận, gan, phổi, lá lách, ruột, bao tử, phẩn và những thứ khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong, có tính chất cứng, bị chấp thủ bên trong....
Ngoại địa giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. Có lúc bị thủy tai, khi ấy ngoại địa giới tiêu diệt. (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
687. THỦY GIỚI: Nội thủy giới và ngoại thủy giới.
Nội thủy giới là ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là nước, thuộc về nước, ẩm ướt, bị chấp thủ bên trong. Đó là mỡ, óc, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ, máu, tủy, nước dãi, nước tiểu, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là nước, thuộc về nước, ẩm ướt, bị chấp thủ bên trong....
Ngoại thủy giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. Có lúc bị hỏa tai, khi ấy ngoại thủy giới tiêu diệt.(Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ 275. HỎA GIỚI: Nội hỏa giới và ngoại hỏa giới.
Nội hỏa giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân, những gì là lửa, có tính chất nóng, được chấp thủ trong thân. Đó là, thân nóng hấp, thân nóng bức, bức rức, ấm áp, và sự tiêu hóa ẩm thực, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, thuộc tính nóng, được chấp thủ bên trong....
Ngoại hỏa giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ 522. PHONG GIỚI: Nội phong giới và ngoại phong giới
Nội phong giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là gió đi lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang, gió co thắt lại, gió như dao cắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, được chấp thủ bên trong....
Ngoại phong giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Nguồn: mục 522- (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ 569. SÁU GIỚI & NGŨ ẤM XÍ THẠNH
Đó là địa giới, thủy, hỏa, phong, không và thức giới. Đó là pháp sáu giới mà ta đã tự tri tự giác, đã nói cho các ngươi biết.
Do hòa hiệp của sáu giới nên sanh thai mẹ. Nhân sáu giới mà có sáu xứ; nhân sáu xứ có xúc, nhân xúc mà có thọ.
Này các Tỳ-kheo, nếu ai có cảm thọ liền biết như thật về Khổ, biết về Khổ tập, biết về Khổ diệt, biết như thật về Khổ diệt đạo. Thế nào là biết như thật về khổ? Là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thù nghịch gặp nhau là khổ, yêu thương mà chia ly là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, năm ấm xí thạnh là khổ. (Trung A Hàm, Kinh Độ, Phẩm 2, số 13)
+ 543. QUÁN SÁU GIỚI
Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau. Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như gã đồ tể mổ bò, lột hết bộ da, trải lên mặt đất, phân thành sáu đoạn. Cũng vậy, Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng: ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như vậy, Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết trên như thật. Tỳ-kheo như thế, sống cô độc, viễn ly, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ các tai hoạn của tâm và được định tâm. Được định tâm rồi thì biết trên như thật. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Thân, Phẩm 7, số 81)
+ 768. TỲ KHEO BIẾT GIỚI
Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về mười tám giới: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới.
1) Sáu giới: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
2) Sáu giới: dục giới, nhuế giới, hại giới, vô dục giới, vô nhuế giới, vô hại giới.
3) Sáu giới: lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh giới.
4) Bốn giới: thọ giới, tưởng giới, hành giới, thức giới.
5) Ba giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
6) Ba giới: sắc giới, vô sắc giới, diệt giới.
7) Ba giới: quá khứ giới, vị lai giới, hiện tại giới.
8) Ba giới: diệu giới, bất diệu giới, trung giới
9) Ba giới: thiện giới, bất thiện giới, vô ký giới.
10) Ba giới: học giới, vô học giới, phi học vô học giới.
11) Hai giới: hữu lậu giới, vô lậu giới.
12) Hai giới: hữu vi giới, vô vi giới.
Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu mươi hai giới này. (Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
Nguồn các bài trên: Những lời dạy của Phật trong Trung A hàm
+ Hiểu về Ân Oán giữa con với cha mẹ:
- Ân cha mẹ: Người xưa có câu: “Bách thiện hiếu vi tiên” có nghĩa là trong trăm cái thiện thì hiếu là đứng đầu. Thế nên Phật dạy: “Trong thiên hạ, không có ân nào bằng ân cha mẹ”. Kinh Địa Tạng giảng: Vì người quá cố làm phúc, công đức có bảy phần thì người chết hưởng được một. Phật nói “Tất cả duy tâm tạo”, phải biết người tự phát tâm tu có công đức rất lớn.
- Cha mẹ oán - Con đọa lạc: Trong kinh “Đại thừa Bổn Sinh Tâm Địa Quán” giảng rất rõ: Nếu có nam, nữ nào bội ân bất hiếu, khiến cha mẹ phát lời thán oán, tức thì tùy theo đó mà con phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh… Người thế gian chỉ sợ thiên tai gió bão, nhưng họ không hề biết sức mạnh của oán niệm phát khởi từ cha mẹ còn mạnh và “khủng khiếp” hơn nhiều, đến nổi tất cả chư Phật, Bồ tát, chư tiên… cũng không thể cứu hộ…
- Làm con không được oán cha mẹ, vì tội này rất nặng:
1. Không oán trách cha mẹ “kém cỏi, bất lực”.
2. Không oán trách cha mẹ “dài dòng, cằn nhằn”
3. Không oán trách cha mẹ hay “trách mắng”
4. Không oán trách cha mẹ “chậm chạp”
5. Không oán trách cha mẹ “ốm yếu, bệnh tật”
Tại sao không được oán trách cha mẹ? Khi chúng ta hiểu Nghiệp Duyên quyết định người con tái sinh vào làm người một nhà với cha mẹ. Trong Kinh Trung Bộ, đức Phật dậy, Nghiệp duyên gồm ba yếu tố (i)- Cha Mẹ giao hợp; (ii)- Mẹ đang ở thời kỳ có thể thụ thai; (iii)- Linh hồn (Tâm thức chứa Nghiệp của người con) nhập thai. Như vậy, cả ba yếu tố không tự độc lập quyết định tạo nên mối quan hệ cha mẹ con cái theo ý muốn mà chính “duyên nghiệp” mới là điều kiện quyết định. Tức là người con do có cộng nghiệp với Cha Mẹ, và cha mẹ cũng có cộng nghiệp với Linh hồn người con, chính sự cộng nghiệp này quyết định, dẫn dắt Linh hồn nhập thai mẹ làm người một nhà. Các Linh hồn người Cha - Người Mẹ và người Con, có mức Thiện Ác khác nhau, đôi khi khác hoàn toàn, trái nghịch nhau, đó là vì mục đích đầu thai tái sanh để thực hiện Nghiệp chung qua bốn mối quan hệ Ân - Oán - Đền - Trả. Tức từ khi sanh ra, đến khi chết đi đều chỉ là để thực hiện Nghiệp báo như thế. Trả hết nợ nhau thì thường cái chết, bất kể tuổi còn trẻ hay cao tuổi. Là để mỗi Linh hồn tiếp tục trả Nghiệp ở cõi khác, với những cha mẹ khác ..., bản chất luân hồi muôn kiếp là thế. Chết không phải là hết là như thế.
Hiểu như thế thì người con cần biết ơn Cha Mẹ, vì không có Cha Mẹ thì không có mình. Luân hồi tái sanh giúp con người trả nghiệp và tiến hóa từ người ngu si ám muội thủa ban sơ, cho đến khi có trí tuệ viên mãn, hiểu biết tất cả, cho dù phải trải qua muôn kiếp luân hồi đi nữa, thì mục đích của Tâm thức/ Linh hồn đi vào luân hồi vẫn mãi mãi là như thế.
Hãy tận dụng thật tốt khi có được thân người, vì trong sáu cõi luân hồi, như đức Phật dậy "Cõi người là quý", vì chỉ có con người mới có trí tuệ, có sức nhớ dai, có thể học và nghe hiểu Phật pháp để tiến hóa, để có muôn kiếp sống thường được an vui, giầu có, hạnh phúc, dần dần tiến đến giải thoát luân hồi sinh tử.
Nguồn: Quan hệ ân oán trong gia đình
+Chữa bệnh tâm thần - Trị bệnh loạn tâm: Câu hỏi: Xin hỏi phải nên giúp đỡ người nhà bị bệnh tâm thần như thế nào ạ? Liệu có thể chữa khỏi không ạ?
Bệnh tâm thần là thuộc về nghiệp chướng. Nghiệp chướng có hai loại. Một loại là oan nghiệp, bị oan gia trái chủ tìm đến dựa thân. Loại này phải hóa giải, đối với oan gia trái chủ thì phải nói chuyện với họ, phải giúp đỡ họ, siêu độ cho họ. Hãy nói với họ, oan oan tương báo không phải là phương pháp hóa giải vấn đề, chỉ làm vấn đề càng nặng thêm, vì sao vậy? Kết hận thù này thì đời đời kiếp kiếp báo không xong, hai bên đều khổ sở, không phải là một bên, mà hai bên đều khổ sở, chẳng bằng hóa giải oán kết, đừng để ở trong tâm nữa, mọi người hãy niệm Phật thật tốt cầu sanh Tịnh Độ, tương lai đến Thế giới Cực Lạc đều là đồng tham đạo hữu. Tuyệt đại đa số oan gia trái chủ đều có thể tiếp nhận. Tiếp nhận thì họ sẽ rời khỏi, bệnh của bạn sẽ khỏi thôi.
Loại thứ hai là nghiệp bất thiện của chính mình, đã tạo quá nhiều, quá nặng, thì chính mình phải thật sự sám hối, nhanh chóng quay đầu, về sau không tái phạm nữa, vậy thì có thể xoay chuyển. Thật sự triệt để sám hối thì hồi phục cũng sẽ rất nhanh. Cho nên đều có phương pháp, chỉ cần bạn có thể hiểu rõ phương pháp, không hoài nghi, nghiêm túc đi làm. Nếu người trong nhà đều giúp họ thì càng nhanh hơn, hiệu quả càng lớn. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Làm sao thoát khỏi sự khống chế của Khí công sư:
Câu hỏi: Xin hỏi làm thế nào để thoát khỏi sự khống chế của khí công sư hoặc ngoại đạo khác?
Điều này hầu như ở giác ngộ của chính bạn, thật sự giác ngộ rồi thì đừng để ý đến họ nữa, họ sẽ không khống chế được bạn; Bạn không giác ngộ, bạn không thể rời khỏi họ thì bạn vĩnh viễn bị họ điều khiển. Năm xưa khi tôi ở San Francisco, có một pháp sư lúc chưa xuất gia thì là Đạo sĩ của Đạo giáo, trong Đạo giáo có một số phép thuật có thể khống chế người, cho nên sau khi ông xuất gia, cũng dùng phương pháp này để thị hiện thần thông. Có vị Tỳ kheo ni nói với tôi: Thưa pháp sư, pháp sư này gọi điện thoại cho cô ấy, nói lúc này bộ phận nào đó trên thân cô có phải là đang cảm thấy không thoải mái, đang đau nhức phải không? Cô ấy nói phải, làm sao Thầy biết được? Vị Tỳ-kheo-ni này rất thông minh, lập tức nghĩ đến có lẽ là do vị kia làm, cho nên cô ấy lập tức nói: “Pháp sư, không có việc này”, vị kia nói: “không có sao, có thật là không có không?”. “Đúng thật là không có, tôi rất bình thường”. Vị pháp sư kia đành bất lực, sau đó không làm gì được cô ấy nữa, vì sao vậy? Cô ấy không phản ứng gì. Thật ra cô ấy đúng là có phản ứng, nhưng cô ấy chợt nghĩ đến điều đó. Cho nên rất nhiều tín đồ của họ đều nói Hòa thượng này rất lợi hại, sư phụ của tôi giỏi, có thần thông, chỗ nào tôi bị đau Thầy đều biết. Nhưng hiệu quả của họ đại khái chỉ có ba giờ đồng hồ, sau ba giờ đồng hồ thì tự nhiên không còn nữa. Cho nên nếu bạn thừa nhận thì họ sẽ dạy bạn rằng bạn phải uống nhiều nước một chút, ăn một chút gì đó là tốt lên thôi, một lúc sau thì đúng là tốt lên thật. Loại sự việc này xưa nay trong ngoài nước đều có, chúng ta phải hiểu là họ đang làm những trò này, đây không phải là điều bình thường.
Đương nhiên việc này có liên quan đến công phu cạn hay sâu của thầy luyện khí công, người công phu sâu thì sức mạnh của họ rất lớn. Tôi còn nghe đồng tu nói với tôi, cũng là bị một thầy luyện khí công khống chế, thầy khí công ở phương Bắc, ông ở phương Nam, khi họ phát công thì có thể sai khiến bạn ném đồ đạc khắp nơi, ném vỡ hết đồ đạc trong nhà, tự mình tông vào tường, không thể khống chế bản thân. Chính họ hiểu là do sư phụ của họ đang làm phép, nhưng không có cách nào thoát khỏi. Nếu hỏi thật sự, bạn tỉnh táo rồi thì bạn biết là phàm cái gì có tướng đều là hư vọng, bạn dùng phương pháp Tam Quán: Không, Giả, Trung của Phật pháp thì hiệu quả của họ sẽ không còn nữa. “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Phật và Ma là một không phải hai, khi mê thì gọi là Ma, khi Giác ngộ thì gọi là Phật. Khi giác ngộ thì họ giúp đỡ chúng sanh, họ không làm hại chúng sanh, họ sẽ không khiến chúng sanh chịu khổ chịu nạn. Khi mê thì họ sẽ làm những việc này. Làm việc này đương nhiên họ có mục đích của họ, mục đích không gì ngoài việc giữ chắc tín đồ, họ không chịu buông cho bạn đi, bạn phải nghe lời họ. Cho nên vẫn là dục vọng đang tác quái, họ có dục vọng, bạn cũng có dục vọng, điều kiện này thúc đẩy thành mối quan hệ, duyên phận của các bạn. Họ có dục vọng, bạn không có dục vọng thì họ không tìm được bạn. Cho nên phải hiểu là Phật Bồ Tát không có dục vọng, chúng ta có thể hạ thấp dục vọng, làm nhẹ đi dục vọng thì tự nhiên sẽ tương ưng với Phật Bồ Tát. Chúng ta có dục vọng mạnh mẽ, dù Phật Bồ Tát có ở trước mặt thì chúng ta vẫn còn cách các Ngài rất xa. Đây là đạo lý nhất định. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
Luân xa tim: Để tiếp tục những chỉ dạy về Khoa học Tham Thiền, tôi muốn nhắc các bạn rằng chúng ta đang tiếp tục xây dựng nội dung này dựa trên những nguyên lý nền tảng đã được đưa ra trước đây (trong cuốn sách Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới, quyển I), và rằng những mục tiêu dài hạn và mục đích trước mắt vẫn giữ nguyên. Mối quan tâm của chúng ta hiện nay là mang lại sự hợp nhất cho nhóm trên cơ sở tình thương, và điều này đòi hỏi sự khơi hoạt luân xa tim mạnh mẽ hơn. Về điều này, để tôi nhắc lại điều tôi đã từng đề cập, bởi nó tạo nên dẫn nhập thích hợp cho những gì tôi sẽ yêu cầu các bạn làm ở đây:
“Thật ra, chỉ từ luân xa tim mà các tuyến năng lượng có thể chảy ra, nối kết và liên quan mật thiết với nhau. Do đó, tôi sẽ đưa ra cho các bạn một bài tham thiền nhóm nhằm kích thích luân xa tim đi vào hoạt động, kết nối luân xa tim (nằm giữa hai bả vai) với trung tâm lực ở đầu thông qua trung gian là một luân xa tim nữa nằm trong luân xa đỉnh đầu (hoa sen ngàn cánh). Luân xa tim này khi phát xạ và có từ tính đầy đủ sẽ liên kết các bạn với nhau và với thế giới theo một cách hoàn toàn mới. Cũng luân xa này, khi được kết nối với luân xa tùng thái dương nhờ một hoạt động ý chí của linh hồn, sẽ giúp tạo nên cách tương tác bằng viễn cảm, điều đang rất được mong đợi và sẽ đóng góp hữu ích cho công việc của Thánh Đoàn—miễn là nó được thiết lập trong một nhóm các đệ tử thệ nguyện, hiến mình cho hoạt động phụng sự nhân loại. Như vậy, những người này có thể tin tưởng được.” (Trang 87).
Hoạt động của luân xa tim không bao giờ biểu lộ trong mối quan hệ với các cá nhân. Đây là một sự thật cơ bản. Điều tàn phá hầu hết các đệ tử là khả năng của luân xa tùng thái dương (khi được thanh khiết hoá và thánh hoá), đồng hoá nó với các cá nhân. Nhưng luân xa tim không thể phản ứng ngoại trừ dưới động lực của nhóm, niềm hạnh phúc và bất hạnh của nhóm, cùng các mối quan hệ nhóm. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Giới khinh trọng: Giới Bồ tát được gọi là Đạo tục thông hành giới, nghĩa là người xuất gia và tại gia đều thọ trì như nhau. Không những thế mà các loài chúng sanh từ cõi trời Sắc giới trở xuống, hễ ai hiểu được lời nói của pháp sư đều có thể thọ giới, chỉ trừ những kẻ phạm 7 tội nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá sự hòa hợp của Tăng, làm cho thân Phật ra máu, giết Hòa thượng Bổn sư và giết thầy dạy phép tắc). Hơn nữa, giới này có thể thọ toàn phần hay từng phần, tùy theo khả năng. Ai đã thọ lãnh giới này rồi thì vĩnh viễn không mất giới, dù tái sinh ở bất cứ nơi đâu, chỉ trừ phạm 7 tội nghịch, phạm thượng phẩm trọng giới và bỏ mất tâm Bồ đề.
Giới này lấy tinh thần Tam tụ tịnh giới (xem lời giải thích ở Thập thiện giới) làm nền tảng. Sau đây, xin giới thiệu 10 giới trọng và 48 giới khinh thuộc giới bản Phạm Võng vốn phổ biến trong đời sống tu tập của người Phật tử Việt Nam:
10 giới trọng
1. Không được sát sinh
2. Không được trộm cướp
3. Không được dâm dục
4. Không được vọng ngữ
5. Không được mua bán rượu
6. Không được nói xấu người đồng đạo
7. Không được khen mình, chê người
8. Không được tiếc lẫn tài và pháp
9. Không được ấp ủ sự giận hờn
10. Không được phỉ báng Tam bảo.
48 giới khinh
1. Không được bất kính với thầy, bạn
2. Không được uống các thứ rượu
3. Không được ăn các loại thịt
4. Không được ăn những thức ăn cay nồng
5. Không được không khuyên bảo người sám hối
6. Không được không siêng cầu chánh pháp
7. Không được không đi nghe pháp
8. Không được phản bội giới pháp Đại thừa
9. Không được không giúp đỡ người bệnh
10. Không được tàng trữ dụng cụ sát sinh
11. Không được làm kẻ chủ mưu gây chiến
12. Không được buôn bán một cách tàn nhẫn
13. Không được vô cớ phỉ báng người khác
14. Không được thiêu đốt bừa bãi
15. Không được chỉ dạy sai lệch
16. Không được nói pháp rối loạn
17. Không được dựa thế lực để cầu lợi
18. Không được làm thầy mà mù quáng
19. Không được hủy báng người có giới đức
20. Không được không phóng sinh và làm phước
21. Không được giận dữ báo thù
22. Không được kiêu căng, không học
23. Không được thọ giới trái quy định
24. Không được học các sách khác
25. Không được lạm dụng gây rối
26. Không được không đãi khách Tăng chu đáo
27. Không được lấy của chúng Tăng làm của riêng
28. Không được mời riêng chư Tăng
29. Không được sống bằng tà mạng
30. Không được làm những việc điên đảo
31. Không được không cứu chuộc đồng đạo và kinh tượng
32. Không được làm tổn hại chúng sinh
33. Không được tà tâm làm quấy
34. Không được rời bỏ tâm Bồ đề
35. Không được không phát đại nguyện
36. Không được không phát đại thệ
37. Không được không hành Đầu đà và bố tát hàng tháng
38. Không được ngồi lộn xộn mất trật tự
39. Không được không làm việc lợi ích
40. Không được lựa chọn người để truyền giới
41. Không được vì tham lợi mà làm thầy
42. Không được nói giới cho kẻ ác
43. Không được cố ý phạm giới
44. Không được không tôn trọng kinh luật
45. Không được không giáo hóa người và vật
46. Không được thuyết pháp trái với thể thức
47. Không được tìm cách khống chế Phật giáo
48. Không được phá hoại đạo pháp.
(Bản tóm tắt này dựa vào Bồ tát Phạm Võng của HT Trí Quang, bản ấn hành năm 1994). (Nguồn: Các cấp độ giới pháp)
+ Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Phạn: वैरोचन, Vairochana, hoặc Maha-Vairochana), Tỳ Lô Giá Na có nghĩa là "tỏa sáng", là ánh sáng chiếu rực rỡ khắp mọi nơi (quang minh biến chiếu). Ngài là Đức Phật ở trung tâm, một trong những vị Phật của Ngũ Phương (Năm Phương). Màu của thân Ngài là màu trắng. Ngài ngồi chính giữa trên một đài sen do tám con sư tử lớn hợp thành. Ngài có thể diệt trừ si độc của ngũ độc, si độc của chúng sanh và có thể chuyển thức A Đà Na ( thức "duy trì") thành Pháp Giới Thể Tánh Trí. Trong năm bộ của Chú Lăng Nghiêm thì Ngài thuộc Phật Bộ Trung Ương.
Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm
Dòng tộc Như Lai dạy chúng sanh
Tu khắp vạn hạnh Ba La Mật
Các pháp vô ngã chứng viên thông.
Giảng giải: Đa tha dà đa dịch là "Như Lai", cũng chính là Phật Bộ. Chú Lăng Nghiêm có năm bộ, chia ra năm hướng. Chính giữa là Phât Bộ, có Đức Phật Tỳ Lô Giá Na là giáo chủ. Phương tây là Liên Hoa Bộ, có Phật A Di Ðà là giáo chủ. Phương đông là Kim Cang Bộ, có Phật A Súc là giáo chủ, tức là Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư. Phương nam là Bảo Sanh Bộ, Phật Bảo Sanh là giáo chủ. Phương bắc là Yết Ma Bộ, Phật Thành Tựu là giáo chủ. Cộng lại là năm bộ. Thế gian này là do giáo chủ của năm bộ quản lý và trấn áp năm đại ma quân thì năm đại ma quân mới tuân theo quy củ, tuy dù tuân theo quy củ nhưng chúng cứ nghĩ đến việc làm cho thế giới này từ từ rối loạn hư hỏng. Thế giới này sanh ra đủ thứ tai nạn là do thiên ma ngoại đạo làm ra. Thiên ma ngoại đạo chỉ sợ là thiên hạ không có loạn, chỉ sợ thế gian này không hư hoại nhanh chóng, nhưng do có năm phương Phật này trấn áp tại đây nên chúng lén lút phá hoại, không dám ngang ngược làm ác. Trên thế gian thì ma và Phật đối lập với nhau. Phật thì giáo hóa chúng sanh sớm thành Phật đạo, ma thì giáo hóa chúng sanh sớm thành ma đạo. Nhưng Phật là nhờ ma giúp Ngài tu thành tựu, do đó ma chính là thiện trí thức của người tu đạo Phật. Người tu đạo khi cảnh nghịch đến thì thuận theo thọ nhận, nên nhin phía mặt trái để biết được chỗ tốt. Chúng ta cần nên cung kính Phật, nhưng cũng không phản đối ma vương, xem kẻ oán người thân đều bình đẳng, Phật ma đều như một, cần phải như thế thì không ghét cũng không thương, không thiện cũng không ác. Cảnh giới như thế không khác biệt nhiều. Năm Bộ chú Lăng Nghiêm này sau sẽ giảng lại đầy đủ.
Câu Ra Gia là chủng tộc của Phật, là chủng tánh của Như Lai, tức là đệ tử Phật giáo tin Phật.
‘’Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm’’ Chính giữa là Phật bộ, thuộc về thổ (đất). Ðất sanh ra vạn vật, đất thịnh vượng cả bốn mùa, một năm bốn mùa đất đều thịnh vượng, Xuân hạ thu đông. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Một năm chỉ có bốn mùa, nhưng lại có 5 ngũ hành, thì sắp xếp như thế nào ? Vì thổ là ở chính giữa, kim mộc thủy hỏa là bốn bên, cho nên xuân hạ thu đông là bốn mùa. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Quý vị xem, mùa đông nơi đây thì ẩm ướt, không chỉ là một chút xíu, người Quảng Đông gọi là “Hồi Nam” có nghĩa là mùa ẩm ướt.
Nếu Thổ không có trong bốn mùa thì như thế nào ? Thổ thịnh vượng trong cả bốn mùa, mùa xuân ba tháng, trong ba tháng có chín mươi ngày, có thổ thì có thể sanh sôi nảy nở. Mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đều có thổ. Cho nên ở chính giữa là Mậu Kỷ thuộc thổ, phương đông là Giáp Ất thuộc mộc, phương nam là Bính Ðinh thuộc hỏa, phương tây là Canh Tân thuộc kim, phương bắc là Nhâm Quý thuộc thủy. Ðây là ngũ hành tương sanh tương khắc.
“Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm” Tỳ Lô là Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, dịch là "biến nhất thiết xứ".
“Dòng tộc Như Lai dạy chúng sanh’’. Chính giữa là Phật Bộ. Chủng tộc của Phật đến giáo hóa tất cả chúng sanh.
‘Tu khắp vạn hạnh Ba La Mật’’. Tu khắp vạn hạnh, lục độ vạn hạnh, thập độ vạn hạnh, tu pháp Ba La Mật đến bờ bên kia.
‘’Các pháp vô ngã chứng viên thông’’. Đắc được các pháp vô ngã, các pháp vô thường, chứng được diệu lý viên thông, tất cả đều viên thông, thông dung vô ngại. (Nguồn: Tỳ Lô Giá Na Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật Tỳ Lô Giá Na: Đức Phật đầu tiên trong Ngũ Phương Phật là Đức Phật Tỳ Lô Giá Na ở trung ương, và được dịch là “Phật Lô Xá Na” hoặc “Đại Nhật Như Lai,” bởi theo tiếng Phạn, từ ngữ này có nghĩa là “quang minh biến chiếu, phổ châu Pháp Giới vô ngại” (ánh sáng soi chiếu khắp nơi, bao trùm cả Pháp giới, không bị ngăn ngại.) Thân của vị Phật này có sắc trắng; Ngài ngồi chính giữa trên một đài sen do tám con sư tử lớn hợp thành. Năng lực của Ngài là diệt trừ si độc của chúng sanh–một trong năm thứ độc—và có thể chuyển thức A-đà-na (3) (Adana – thức thứ 8) thành Pháp Giới Thể Tánh Trí. Trong năm bộ của Chú Lăng Nghiêm, thì đó chính là Phật Bộ ở phương trung ương. (Nguồn: Về Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật phương Bắc:
Tác pháp biện sự Yết Ma bộ
Bồ Tát Ðịa Tạng tộc chúng nhiều
Thiện ác nghiệp báo chẳng mảy sai
Mặt đen vô tư lão Diêm Vương.
Giảng giải: Ðây là phương bắc, Phật Thành Tựu là Bộ Chủ. Yết Ma dịch là "Tác pháp" hoặc "Biện sự". Bộ này thuộc về phương bắc, Bồ Tát Ðịa Tạng thống lãnh tất cả chúng quỷ thần và vô số quyến thuộc.
‘’Thiện ác nghiệp báo không mảy sai.’’ Làm thiện được thiện báo, làm ác được ác báo, thiện ác quả báo tơ hào chẳng sai.
‘’Mặt đen vô tư lão Diêm Vương.’’ Mặt mày của vua Diêm La vô tư chẳng nói đến nhân tình, đúng là đúng, sai là sai, mặt của vua Diêm Vương đen giống như sắt, chẳng có một chút nhân tình đạo vị, bạn muốn lường gạt vua Diêm La không thể được, các bạn nhất định phải làm việc thiện. Nếu làm việc ác thì vua Diêm Vương chẳng tha cho bạn, làm việc thiện thì ông ta cung kính bạn. Cho nên phải thường niệm Chú Ðại Bi, thì vua Diêm Vương quản không được bạn. Có người tạo rất nhiều tội, lâm chung đến chỗ vua Diêm Vương, vua Diêm Vương hỏi y sao làm nhiều tội nghiệp như thế, y nói tôi chẳng tạo tội nghiệp gì, tôi thường làm việc tốt ! Vua Diêm Vương hỏi ông ta, ông làm tốt việc gì ? Ông ta nói tôi thường niệm Chú Ðại Bi, vua Diêm Vương nói ông nói láo, thường tụng Chú Ðại Bi cũng chẳng ăn thua gì, bèn tống ông ta vào núi đao, ông ta liền niệm Chú Ðại Bi, thì lập tức núi đao liền hóa thành hoa sen, ông ta ngồi trong hoa sen vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Cho nên nếu bạn một niệm hồi quang phản chiếu, sửa đổi lỗi lầm làm mới lại, thì tội nghiệp quá khứ sẽ tiêu diệt, nhưng phải chân thành sửa lỗi làm mới, thật biết sửa đổi lỗi lầm, thì dù tội nhiều như núi Tu Di, một khi sám hối, tội bèn tiêu sạch, thì hoa sen sẽ hiện tiền. Hoa sen hiện tiền là biểu thị tội nghiệp tiêu sạch. (Nguồn: Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật phương Bắc: 5. Vị Phật thứ năm ở phương Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật của Thắng Nghiệp Tịnh Đô. Ngài là chủ bộ Phương Bắc trong Ngũ Phương Như Lai, đại biểu cho “Thành Sở Tác Trí”. Ngài có thể chuyển hóa phiền não do đố kỵ, và chuyển hóa năm thức đầu tiên thành Thành Sở Tác Trí. Thân của vị Phật này có màu xanh lục, Ngài kết Ấn Vô Uý và ngồi trên bảo tòa làm bằng tám con chim đại bàng cánh vàng (bát đại bàng kim sí điểu). Ngài có thể hàng phục những con rồng ác và các loại rắn độc. Trong Chú Lăng nghiêm, Ngài được xếp vào Bộ Yết Ma, là thần chú của Chư Quỷ Thần, dùng pháp Tức Tai có thể thanh trừ tất cả tai nạn. Tuy nhiên, để dứt trừ mọi tai ương, chúng ta phải lấy việc sám hối nghiệp chướng làm đầu.
Lọng hương thơm đầy khắp hư không
Xông khắp hữu tình trong pháp tánh
Lực thù thắng giữ giới thanh tịnh
Phương bắc Yết Ma bộ chủ công.
Giảng giải:
Tần đà la tần đà la. Câu chú văn nầy phiên dịch thành Lọng Hương Thơm. Lọng Hương Thơm này, chẳng những chỉ ở một nơi, mà một khi quý vị niệm câu Chú này thì tận hư không khắp pháp giới đều hiện ra loại lọng hương thơm trang nghiêm này. Bởi vì tận hư không biến pháp giới đều có lọng hương thơm trang nghiêm này, nên yêu mà quỷ quái khi thấy được cảnh giới oai đức trang nghiêm thì đều từ chỗ trốn ngoan ngoãn hiện ra......
Lần này có Quả Chân đến kế tục bắt đầu giảng lại từ đầu, cũng có thể nói đây là một cơ hội rất lớn cho quý vị mà quý vị trước đây không chú ý, lần này quý vị phải chú ý lắng nghe.........
“Lọng hương thơm đầy khắp hư không”: Ý nghĩa câu Chú nầy là “lọng hương thơm”, khi quý vị niệm Chú nầy, thì tận hư không khắp pháp giới, đều có một thứ hương thơm lạ, nên nói: Lọng hương thơm đầy khắp trong hư không. Cái hư không này, khi tụng Chú này, thì chẳng những nhân gian tỏa hương thơm, mà trên trời cũng thơm, cho đến địa ngục, ngạ quỷ, cũng đều đắc được pháp cứu hộ.
“Khắp xông hữu tình trong pháp giới”: loại hương thơm nầy xông khắp, loại lọng hương thơm này, không chỉ xông riêng một hai người, mà là xông khắp cả pháp giới.
“Lực thù thắng giữ giới thanh tịnh”: Loai năng lực thù thằng này giúp trì giữ, Chú này lại chuyển thành năng lực thù thắng giúp trì giữ, là năng lực thù thắng giúp giữ gìn giới luật thanh tịnh.
Câu chú văn này là thuộc Bộ chủ của Bộ Yết Ma ở phương bắc, Bộ Yết Ma nói “Phương bắc Yết Ma bộ chủ công ”. Công này chính là giữ gìn công đạo, có thể nói chủ bộ này là công (đạo), đây là một bài kệ tụng. (Nguồn: Phật Bất Không - HT Tuyên Hóa)
+ Phật phương Tây:
4. Vị Phật ở phương Tây là đức Phật A Di Đà, có nghĩa là vô lượng quang và vô lượng thọ. Thân của Phật A Di Đà có màu đỏ. Ngài kết Di Đà Định Ấn, và ngồi ở phương Tây trên một bảo tòa được làm bằng hoa sen đỏ gắn trên đầu tám con công lớn (bát đại khổng tước). Ngài có thể chuyển hóa thức thứ sáu thành Diệu Quan Sát Trí và loại bỏ nghi độc–độc tố của sự hoài nghi và là một trong ngũ độc. Phật A Di Đà cũng được biết đến với danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, Cam Lồ Vương Phật hay Vô Lượng Quang Phật. Trong Chú Lăng Nghiêm, đó chính là Liên Hoa Bộ và là thần chú của chư Bồ Tát, và sử dụng Nhiếp Thọ Pháp. Đây là phương pháp phù hợp nhất cho các chúng sanh trong cả ba hạng căn tánh (tam căn phổ bị) (4). (Nguồn: Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Đức Phật A Di Đà (Phạn văn: अमिताभ, Amitābha), dịch ý là Vô Lượng Quang (Vô Lượng Ánh Sáng), Vô Lượng Thọ. Mật Tông xem Ngài là giáo chủ của Liên Hoa Bộ ở phương Tây trong các vị Phật của Năm Phương (Ngũ Phương), chủ về Diệu Quan Sát Trí. Thân của Phật A Di Đà có màu đỏ. Ngài kết Di Đà Định Ấn, và ngồi ở phương Tây trên một bảo tòa được làm bằng hoa sen đỏ gắn trên đầu tám con công lớn (bát đại khổng tước). Ngài có thể chuyển hóa thức thứ sáu thành Diệu Quan Sát Trí và loại bỏ nghi độc - độc tố của sự hoài nghi và là một trong ngũ độc. Phật A Di Đà cũng được biết đến với danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, Cam Lồ Vương Phật hay Vô Lượng Quang Phật. Trong Chú Lăng Nghiêm, đó chính là Liên Hoa Bộ và là thần chú của chư Bồ Tát, và sử dụng Nhiếp Thọ Pháp. Đây là phương pháp phù hợp nhất cho các chúng sanh trong cả ba hạng căn tánh (tam căn phổ bị).
Các kinh điển quan trọng về Đức Phật A Di Đà gồm có “Kinh Phật thuyết A Di Đà”, “Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ”, “Kinh Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật”, “Kinh Lăng Nghiêm – Chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông”, “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh – Phẩm Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện” v.v …
Kinh A Di Đà do Pháp Sư Cưu Ma La Thập phiên dịch. Kinh này là từ kim khẩu của Phật giảng nói lý vi diệu, không cần phải thưa thỉnh. Các kinh điển khác thì phải có người thưa hỏi Phật mới nói ra. Chỉ riêng kinh A Di Ðà này là không có ai thưa hỏi, Phật tự nói ra. Tại sao thế? Vì nghĩa lý kinh này rất huyền diệu, trí huệ của hàng Thanh Văn không thể đạt đến được, tất cả hàng Bồ Tát cũng không thể hiểu rõ, cho nên không có nhân duyên người thưa hỏi về pháp môn Tịnh độ. Chỉ vì pháp môn này đáng được nói ra, cho nên Ðức Phật xem thấy căn cơ thành thục bèn tự nói kinh này.
Di Ðà sen báu chốn Tây Phương,
Chờ đợi chúng sanh sớm đến nhà.
Một lòng niệm Phật không thối chuyển,
Mười vạn ức cõi đến liền ngay.
Giảng giải: Đây là Liên Hoa Bộ, “Di Ðà sen báu chốn Tây Phương” , Tây Phương là Phật A Di Đà, Ngài chủ trì Liên Hoa Bộ. Bát Đầu Ma này vốn là hoa sen đỏ, nhưng ở đây không nói là hoa sen đỏ, mà là hoa sen màu gì cũng đều có, đỏ, trắng, vàng, tím. Cho nên nói là hoa sen đỏ ánh sáng màu đỏ, hoa sen vàng ánh sáng màu vàng, hoa sen trắng ánh sáng màu trắng, hoa sen xanh ánh sáng màu xanh.
“Chờ đợi chúng sanh sớm đến nhà.’’ Chư vị ở đó đã chuẩn bị hoa sen, chuẩn bị cho tất cả chúng sanh đến đó. Khi hoa nở thì thấy Phật và chứng ngộ vô sanh, đến nơi đó thành Phật. Sớm đến nhà chính là đừng đến chậm trễ.
‘’Một lòng niệm Phật không thối chuyển.’’ Làm thế nào đi đến đó được ? Không có gì khác, chính là một lòng niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật”, luôn chuyên nhất một lòng không thối chuyển, quý vị luôn luôn không thối lui thì được rồi. Niệm Phật hoặc niệm Quán Thế Âm Bồ Tát đều được.
‘’Mười vạn ức cõi đến liền ngay.’’ Mười vạn ức cõi nước chỉ trong thời gian một sát na rất nhanh liền đến ngay. Do đó chúng ta muốn sanh về thế giới Cực Lạc thì phải niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật”, thì nhất định sẽ đi đến Thế Giới Cực Lạc rất nhanh. (Nguồn: Phật A Di Đà - HT Tuyên Hóa)
+ Quẻ Càn Khôn: Cần phân biệt bốn đức tính Nguyên - Hanh - Lợi - Chinh của Quẻ Càn và quẻ Khôn không chỉ khác nhau ở Âm Dương, mà còn phải theo Đạo thuận theo. Người thuận theo Đất - Đất thuận theo Trời - Trời thuận theo Đạo và Đạo theo Tự nhiên.
+ Đạo Càn Khôn: Càn là Cha - Khôn là Mẹ. Thánh hiền vẫn dạy, nguyên nhân của những người con là do người mẹ. Phân loại con của ai là của người Cha, nên con cái mang họ Cha là hợp lẽ Trời Đất.
+ Đạo làm người trong kinh dịch: LTS: Ðức Phật dạy rằng: Làm người cho tròn rồi mới làm Thánh hiền, làm Phật.
Nghĩa là xứng danh Thiện nam tử - Thiện nữ nhân trước đã. Người Thiện theo Thế tục thì thành tựu ngũ luân và ngũ thường để xứng danh Người quân tử đã. Theo Phật pháp thì tu giữ ngũ giới đến thập giới, là đoạn ác tu thiện, làm lành lánh dữ, Hiếu thân Tôn sư làm đầu.
Cần nghiên cứu tỷ mỷ sự phản ảnh Thời thế trong từng quẻ mà người quân tử dụng công tu hành tương ứng, lúc nên tiến thì tiến, đáng lùi thì lùi, nên dừng thì dừng, nên chuẩn bị tích lũy thì lo tích trữ lương thực, thuốc men, thời càng suy vi thì càng cần dữ Tâm bình Khí hòa chánh hoạn nạn .... Kinh doanh chẳng khác đánh giặc, mình thường có Tâm toan tính, lừa dối, thâm hiểm ..., hại người lợi mình thì chiêu cảm sự toan tính, lừa dối .... là tự hại mình, buôn bán thua lỗ ... từ đây mà ra, chẳng phải chỉ do nhân tiền kiếp nếu hiện kiếp vẫn hành động như thế => Thuận theo thời thế mà hành đạo người quân tử, phòng thân để vượt qua chướng ngại, khổ đau.
+ Đạo đức của quẻ càn: Đạo đức theo Kinh dịch - Đạo làm người trong kinh dịch:
Ðây là quẻ thứ nhất trong 64 quẻ của Kinh Dịch. Ðức Càn là đức thuần dương, hết sức cương quyết mạnh mẽ. Người có thân tu theo đạo Càn thì hành động không làm ác, không làm trái nhân nghĩa, ngược luân thường. Miệng không nói lời hủy báng, phá hoại kẻ khác hay dối trá, hiển độc, giả dối. Tâm không chút mờ ám, vẩn đục bởi tư lợi ích kỷ, hay nhỏ hẹp ganh ghét. Tâm người theo đạo Càn thì lúc nào cũng quang minh, chính đại, khoan dung độ lượng. Không bao giờ để cho hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng phá hoại lý tưởng và chí hướng bên trong.
Thầy Tăng tử nói rằng: Hàng ngày tôi tự nhắc nhở mình ba điều: khi tính chuyện làm việc cho kẻ khác, tôi có trung thật hay không? Khi kết giao với bạn hữu, tôi có giữ chữ tín chăng? Dạy người khác làm gì, tôi đã tự mình thực hành chưa?
1. Làm việc cho người: Hãy xét tâm mình có trung thật chăng? Tức là xét xem mình mưu sự cho người ta với động cơ gì? Phải chăng mình có mưu đồ, tính toán ích kỷ, lo toan cho ích lợi cá nhân, lợi dụng người khác để lợi mình. Mình có chân thật muốn giúp họ không? Người Phật tử làm việc cho chùa mà tính toán mưu cầu danh lợi thì chùa loạn. Người xuất gia làm việc cho chúng sinh mà mưu cầu cho cá nhân, quyền vị thì đạo loạn.
2. Kết giao với bạn hữu: Hãy xét xem lời mình nói có chân thật hay không? Mình có giữ lời hứa với bạn hay không. Tình bằng hữu sẽ bền vững và thắm thiết nếu mình biết giữ lời hứa và hy sinh cho bạn. Khi bạn cần giúp đở, mình hãy tận lòng giúp. Ðừng bao giờ bán đứng hay phản bội bạn. Ở đời kẻ phản bội thì chẳng có ai thích gần gũi, coi trọng, trước sau y cũng bị người đời khám phá, khinh rẻ, dù y có điạ vị cao đến dường nào. Ðối với người tu, tín nhiệm là điều quan trọng bậc nhất, bạn đạo có tín nhiệm thì mới tu chung được; thầy trò có tín nhiệm thì mới học hỏi nhau được; đạo tràng có tín nhiệm thì mới hết thị phi đuợc.
3. Dạy kẻ khác mà mình không tự làm: Nói mà không làm thì chẳng ai tin. Thái độ chỉ tay năm ngón bắt người làm, mình ngồi trên điều khiển thì chẳng ai thích. Không làm thì không có kinh nghiệm. Không tu thì không có thực chứng. Không kinh nghiệm thì không dạy được ai. Do đó phải làm phải tu thì mới dạy được người khác. Không làm không tu mà dạy người khác thì chẳng ai phục.
Khổng tử dạy rằng: Ðừng lo rằng bạn chẳng có điạ vị; lo rằng bạn chẳng có đủ đức (tài cán, năng lực, trí tuệ) để ở điạ vị ấy. Ðừng lo chẳng ai biết bạn, chỉ cầu sao bạn có đức xứng đáng để người ta biết (với cái tên mà người ta biết).
Lược giải:
Ðiạ vị không phải do tranh mà được. Kẻ có vị cao mà không có thật đức, tài cán, năng lực để làm việc thì không thể ngồi lâu tại vị. Thanh danh cũng chẳng phải do mua chuộc, thủ đoạn mà có. Thanh danh do mua, do đoạt thì luôn tạo đau khổ. Tu theo đạo quẻ Càn là tu đức độ, trí huệ, năng lực nội tại; không phải tu theo bóng dáng giả dối bên ngoài. Ðức Phật dạy ta cứ lo trồng nhân cho tốt, đừng bao giờ lo quả báo. Cũng chớ mong cầu quả báo tốt mà chẳng chịu trồng nhân tốt. Trồng nhân thì phải dựa vào chính mình, đừng dựa vào hoàn cảnh bên ngoài.
Khổng tử nói: Ta chưa thấy một ai cứng cỏi. Có người đáp rằng: Có anh Thân Chấn đó. Ðức Khổng tử trả lời: Anh Chấn còn đầy dục vọng, làm sao anh cứng cỏi được chớ?
Lược giải:
Thân Chấn tự là Tử Châu, người nước Lỗ, là một học sinh của đức Khổng Tử. Anh ta nổi tiếng là người có sức lực mạnh mẽ, cang cường bất khuất. Sức mạnh ấy chỉ để chinh phục những đối tượng bên ngoài. Sư chân chính cứng rắn cang kiện theo đức Khổng tử dạy là sức mạnh khắc phục những dục vọng trong tâm. Dục vọng thì ai cũng có. Kẻ mềm yếu thì bị dục vọng khống chế. Kẻ cang kiện thì khống chế dục vọng. Ðức Phật dạy rằng chẳng có chiến thắng nào lớn bằng chiến thắng lòng mình, khắc phục thói hư tật xấu của chính mình.
Nhiễm Cầu nói rằng: Chẳng phải tôi không thích đạo của phu tử, chẳng qua sức tôi không đủ để (học và hành) đạo ấy đó thôi. Khổng tử mới dạy rằng: Kẻ không đủ sức tu đạo, nửa đường là y đã bỏ phế. Bây giờ con chưa chi (chưa hành đạo gì cả), đã tự mình hạn chế chính mình rồi.
Lược giải:
Chuyện gì cũng phải làm thử. Ðạo thì phải thực hành, đức thì phải tu. Không muốn làm rồi tìm lý do bào chữa thì chỉ mình tự lừa mình. Lý do bào chữa thì lúc nào cũng có sẵn, nhiều đến vô lượng vô biên. Bởi vậy, tu theo đạo Càn là đừng khởi vọng tưởng, đừng để vọng tưởng làm cùn lụt ý chí tu hành. (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
+ Quẻ khôn: Nói về hình tượng của đất. Ðất thì rộng rãi, sâu dày. Người quân tử nhìn đó mà bắt chước, để tâm lượng và đạo đức cũng như đất: rộng rãi sâu dày. Ðất thì nuôi dưỡng mọi hạt giống, trưởng dưỡng cây cỏ, đem lại lợi ích cho muôn vật. Người quân tử nhìn đó nên bắt chước tính đất: trưởng dưỡng, lợi lạc kẻ khác. Nói về rộng rãi thì chẳng có gì bằng lòng đại bi. Nói về sâu dày thì chẳng gì hơn lòng nhân. Tu theo quẻ Khôn thì mình cần nuôi dưỡng lòng đại bi nhân từ, lúc nào cũng sẵn sàng giúp người, thành tựu người. Ðối xử với kẻ khác, bậc quân tử chỉ dùng đạo đức, mong sao có thể thật sự giúp ích cho người; chẳng dùng thủ đoạn, tính toán vị kỷ, chẳng hời hợt trên đầu môi chót lưỡi để vừa lòng người. Do lòng từ bi, bậc quân tử lúc nào cũng ôn hòa nhu thuận, không để ý nghĩ lời nói ác ôn giận dữ, thâm độc đố kỵ, hại người tổn đức, có cơ hội khơi dậy. Tu đạo Càn là tu trí huệ, tu đạo Khôn là tu đức hạnh, từ bi nhân hậu vậy. (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
+ Quẻ khôn: Đạo đức theo Kinh dịch - Đạo làm người trong kinh dịch:
LTS: Ðức Phật dạy rằng: Làm người cho tròn rồi mới làm Phật.
Bên Trung Hoa đạo làm người là trung tâm nền tảng giáo dục của đạo Khổng. Chúng tôi xin trích dẫn lời dạy về đạo làm người qua phần Ðại Tượng Truyện do đức Khổng Tử giải thích ở 64 quẻ trong Kinh Dịch. Phối hợp với quẻ Dịch là những lời dạy trong tập Luận Ngữ mà ngài Tăng Sâm, một đệ tử của đức Khổng Tử chép lại. Tất cả những kẻ thành tựu, bậc quân tử, vĩ nhân, thánh nhân, hay kẻ giác ngộ đều xây dựng sự nghiệp trên nền tảng đạo đức chắc thật, kiến giải thấu triệt và tâm lượng rộng lớn. Họ là những kẻ lúc nào cũng xoay về gốc, nhìn ngược lại tâm mình, sống với giá trị và lý tưởng cao thượng. Không nao núng trước thế lực và áp lực, không ngừng cải thiện tầm nhìn và sự hiểu biết, họ tìm cách cống hiến năng lực đời mình một cách thiết thực nhất.
Ðây là quẻ thứ hai trong Kinh Dịch. Quẻ Khôn là quẻ nói về hình tượng của đất. Ðất thì rộng rãi, sâu dày. Người quân tử nhìn đó mà bắt chước, để tâm lượng và đạo đức cũng như đất: rộng rãi sâu dày. Ðất thì nuôi dưỡng mọi hạt giống, trưởng dưỡng cây cỏ, đem lại lợi ích cho muôn vật. Người quân tử nhìn đó nên bắt chước tính đất: trưởng dưỡng, lợi lạc kẻ khác. Nói về rộng rãi thì chẳng có gì bằng lòng đại bi. Nói về sâu dày thì chẳng gì hơn lòng nhân. Tu theo quẻ Khôn thì mình cần nuôi dưỡng lòng đại bi nhân từ, lúc nào cũng sẵn sàng giúp người, thành tựu người. Ðối xử với kẻ khác, bậc quân tử chỉ dùng đạo đức, mong sao có thể thật sự giúp ích cho người; chẳng dùng thủ đoạn, tính toán vị kỷ, chẳng hời hợt trên đầu môi chót lưỡi để vừa lòng người. Do lòng từ bi, bậc quân tử lúc nào cũng ôn hòa nhu thuận, không để ý nghĩ lời nói ác ôn giận dữ, thâm độc đố kỵ, hại người tổn đức, có cơ hội khơi dậy. Tu đạo Càn là tu trí huệ, tu đạo Khôn là tu đức hạnh, từ bi nhân hậu vậy.
Lòng nhân từ thì có sẵn trong mỗi người chúng ta. Bởi vì tiêm nhiễm thói quen xấu, giáo dục sai lầm, gần gủi bạn bè bất nhân, nên ta không biết khơi dậy lòng nhân. Lòng nhân từ đôn hậu là lòng thương người, yêu thích điều thiện, lúc nào cũng chỉ muốn kẻ khác tốt. Thấy kẻ khác đau khổ thì lòng bất nhẫn, nên ra tay cứu. Thấy kẻ khác thiếu thốn thì lòng lân mẫn, nên tìm cách giúp. Trưởng dưỡng lòng nhân từ đến viên mãn thì nó biến thành lòng đại bi của nhà Phật. Thế Tôn dạy rằng muôn hạnh lành do lòng đại bi mà trưởng thành; mọi Phật pháp đều dựa vào tâm đại bi mà thiết lập.
Lòng nhân từ cũng như lòng đại bi, là gốc của mọi hạnh lành. Ðức Phật dạy ta phải quán sát tất cả người nữ là chị, là mẹ của mình, tất cả người nam là cha, là anh của mình. Mọi chúng sinh đều là bà con quyến thuộc của mình trong nhiều đời nhiều kiếp. Quán sát như vậy thì ta làm sao sinh ý nghĩa tổn hại chúng sinh được.
Ðạo của quẻ Khôn là đạo của đất, trưởng dưỡng vạn vật. Ðạo của Bồ tát là đạo từ bi, chỉ biết hy sinh thân mình để hoá độ chúng sinh, không tìm cầu an lạc tự lợi. Phật dạy mình phải lấy việc giáo hóa cứu độ chúng sinh là pháp môn tu hành. Quá trình trưởng dưỡng, thành tựu kẻ khác cũng là quá trình giúp ta trưởng dưỡng tâm Bồ đề, tâm đại bi. Bởi thế lợi tha cũng là tự lợi. (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
+ Quẻ Càn: Ðây là quẻ thứ nhất trong 64 quẻ của Kinh Dịch. Ðức Càn là đức thuần dương, hết sức cương quyết mạnh mẽ. Người có thân tu theo đạo Càn thì hành động không làm ác, không làm trái nhân nghĩa, ngược luân thường. Miệng không nói lời hủy báng, phá hoại kẻ khác hay dối trá, hiển độc, giả dối. Tâm không chút mờ ám, vẩn đục bởi tư lợi ích kỷ, hay nhỏ hẹp ganh ghét. Tâm người theo đạo Càn thì lúc nào cũng quang minh, chính đại, khoan dung độ lượng. Không bao giờ để cho hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng phá hoại lý tưởng và chí hướng bên trong. (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
+ Trục ngang dọc - Tung hoành - Rộng lớn:
Kỳ duy “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”: Bảy chữ “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh” là tựa đề của bộ kinh này. Kinh có tên chung và tên riêng. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm là tên riêng, đồng thời là tên đặc biệt của bộ kinh này, chỉ có một chữ Kinh là tên chung, toàn bộ hệ thống kinh điển đều được gọi là kinh. .....
Đại, thế nào gọi là Đại? Vì thể của nó bao trùm cả hư không, có khả năng bao cả hư không, mà hư không thì không có bờ mé, nên gọi là Đại.
Phương nghĩa là phương pháp. Phương pháp này cũng chính là Phật Pháp vậy. Nên nói “pháp môn vô lượng,” pháp môn trong Phật Pháp có vô lượng vô biên, rộng như biển cả, cho nên gọi là phương.
Quảng, giảng theo nghĩa ngang dọc, ngang là rộng mà dọc là lớn. Không có một thứ gì có thể rộng lớn hơn nó được nữa. Trong đây cũng chính là bao gồm: Dụng cũng lớn, thể cũng lớn, tướng cũng lớn. Dụng cũng rộng, thể cũng rộng mà tướng cũng rộng, vì vậy ba chữ Đại Phương Quảng này nói đại khái là như vậy.
Phật chính là một con người đã đạt đến trình độ đại giác, lìa cái sở giác mà mình đã giác ngộ. Thế nào gọi là ly giác? Ngày nào chúng ta cũng muốn mình phải giác ngộ... muốn phải được giác ngộ, thế thì chưa ly khai được ý niệm giác! Sau khi giác ngộ thì chính là lìa giác vậy. Lìa sở giác mà mình đã giác, chính là muốn nói Ngài đã ly khai ý niệm mà mình phải giác ngộ.
Có người nói: “Thế thì tôi cũng lìa ý niệm giác ngộ rồi, vậy tôi cũng chính là Phật”. Có thể quý vị làm một ông Phật giả. Trí huệ của Phật rạng ngời soi khắp, sáng hơn ánh sáng của mặt trời, có thể chiếu khắp tất cả, nếu quý vị có khả năng soi thấu tất cả thì quý vị mới được nói mình đã lìa ý niệm về giác ngộ. Nếu không soi chiếu được thì đừng nói mình đã lìa sở giác. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HTTH giảng)
+ Chân - Vọng:
Chơn vọng giao xen lẫn nhau, nên ngay tâm phàm mà thấy được tâm Phật. Sự lý song tu nương bổn trí để cầu Phật trí.
Chơn vọng giao triệt: Vọng là từ chơn mà ra, chơn cũng từ vọng mà có. Cho nên chơn không lìa vọng, vọng cũng chẳng rời chơn, đây gọi là chơn vọng giao triệt. Nó giống cái gì? Nó giống như sóng và tánh ướt của nước vậy, sóng không lìa tánh ướt, nhưng tánh ướt này không phải là sóng. Tánh ướt và sóng ở đây được ví như chơn và vọng vậy. Vọng chính là sóng, trong tánh ướt ấy sanh ra làn sóng, có sóng tức có vọng. Mà tánh ướt này chính là chơn, cho nên trong từng làn sóng ấy cũng luôn mang tánh ướt kia, nhưng bản thể của tánh ướt vốn không có sóng, chỉ thuần là tánh ướt, nó không nhất định có sóng, vì vậy mới mượn nó để thí dụ cho đạo lý chơn vọng giao nhau này, trong cái “chơn” vốn bao hàm cái “vọng”, trong cái “vọng” vốn bao hàm cái “chân”. Tuy là hai tên gọi khác nhau, nhưng thật ra nó chỉ một thể, vốn đều có tánh ướt. Trong bài “Chứng Đạo Ca của Đại sư Vĩnh Gia” có viết: “Không cầu chơn, không đoạn vọng, liễu tri hai pháp không vô tướng”. Tại sao lại không cầu chơn? Vì chơn cũng không có tướng. Tại sao không đoạn vọng? Vì vọng cũng không có tướng mạo. Nếu lúc quý vị mê thì đó là vọng; Nếu khi quý vị ngộ thì đó là chơn, cho nên nói chơn vọng giao triệt. Chơn và vọng vốn không rời nhau, cho nên mới nói:
Song phàm phu có thể thành Phật, vậy Phật có thể trở lại làm phàm phu không? Không thể nói như vậy được, không được nói: “Phật trở lại làm phàm phu”. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT T.Hóa giảng)
+ Kinh 42 chương: Đề tựa - Kinh tựa
Chương 1: Xuất Gia Chứng Quả
Chương 2: Trừ Dục Vọng, Dứt Mong Cầu
Chương 3: Cắt Ðứt Ái Dục, Xả Bỏ Lòng Tham
Chương 4: Thiện, Ác Phân Minh
Chương 5: Chuyển Nặng Thành Nhẹ
Chương 6: Nhịn Kẻ Ác Và Không Oán Hận
Chương 7: Ở Ác Gặp Ác
Chương 8: Gieo Gió Gặp Bão
Chương 9: Về Nguồn Gặp Ðạo
Chương 10: Hoan Hỷ Bố Thí Tất Ðược Phước
Chương 11: Sự Gia Tăng Của Công Ðức Trong Việc Bố Thí Thức Ăn
Chương 12: Nêu Ra Sự Khó Ðể Khuyên Tu
Chương 13: Hỏi Về Ðạo và Túc Mạng
Chương 14: Hỏi Về Tánh Thiện Và Ðại
Chương 15: Hỏi Về Sức Mạnh và Sáng
Chương 16: Bỏ Ái Dục Tất Ðắc Ðạo
Chương 17: Ánh Sáng Ðến, Bóng Tối Tan
Chương 18: Ý Niệm Và Mọi Thứ Vốn Là Không
Chương 19: Quán Xét Cả Thật Lẫn Giả
Chương 20: Suy Ra Cái "Ta" Vốn Là Không
Chương 21: Danh Vọng Hại Người
Chương 22: Tiền Của Và Sắc Dục Mang Lại Ðau Khổ
Chương 23: Gia Ðình Còn Tệ Hơn Lao Ngục
Chương 24: Sắc Dục Chướng Ngại Ðường Ðạo
Chương 25: Lửa Dục Ðốt Người
Chương 26: Thiên Ma Quấy Nhiễu Phật
Chương 27: Không Chấp Trước Tất Ðắc Ðạo
Chương 28: Ðừng Theo "Con Ngựa" Ý Niệm
Chương 29: Quán Tưởng Chân Chánh Thắng Ðược Sắc Dục
Chương 30: Lánh Xa Lửa Dục
Chương 31: Tâm Vắng Lặng, Dục Vọng Dứt
Chương 32: Không Còn Cái "Ngã" Thì Hết Sợ Hãi
Chương 33: Trí Huệ Và Sự Sáng Suốt Phá Tan Chúng Ma
Chương 34: Giữ Trung Dung Tất Ðắc Ðạo
Chương 35: Tẩy Sạch Cấu Bẩn, Chỉ Còn Vẻ Sáng
Chương 36: Sự Chuyển Ðổi Thù Thắng
Chương 37: Nhớ Nghĩ Ðến Giới Là Gần Với Ðạo
Chương 38: Có Sanh Tất Có Diệt
Chương 39: Sự Dạy Bảo Vốn Không Phân Biệt
Chương 40: Tâm Phải Thực Hành Theo Ðạo
Chương 41: Ngay Thẳng Dứt Trừ Dục Vọng
Chương 42: Hiểu Ðược Cõi Ðời Là Hư Huyễn
Lời tưa: ...Phật pháp được truyền bá đến nước Trung Hoa vào đời nhà Hán. Tuy nhiên, vì Đạo giáo tại Trung Hoa thời ấy đang rất thịnh hành, nên khi Phật giáo lan truyền đến quốc gia này thì có nhiều đạo sĩ sanh lòng ganh ghét và tâu với vua rằng: "Phật giáo chỉ là thứ giả. Đó là tôn giáo của ngoại bang chứ không phải của Trung Hoa. Vậy, xin Bệ hạ hãy ngăn cấm việc truyền bá đạo Phật và trục xuất Phật giáo ra khỏi lãnh thổ Trung Hoa! Nếu Bệ hạ không muốn xóa bỏ Phật giáo, thì xin hãy tổ chức một cuộc so tài!"
So tài như thế nào ư? Các đạo sĩ yêu cầu nhà vua cho mang tất cả kinh điển do Đức Phật thuyết giảng và kinh điển do Đạo giáo đến xếp chung vào một chỗ rồi châm lửa đốt. Hễ kinh điển của bên nào bị cháy thì bên ấy thứ giả; và kinh điển của bên nào không bị cháy thì bên đó là thứ thiệt! .... đến lần dùng lửa đốt kinh sách này thì thế nào?
Kinh điển của Phật giáo chẳng những đã không bốc cháy mà lại còn phát hào quang! ...
Còn kinh điển của Đạo giáo vừa đốt, thì đều bén lửa cháy rụi ngay, không còn sót lại gì cả! .... Đây là cuộc "đấu phép" xa xưa nhất giữa Phật giáo và Đạo giáo; và Đạo giáo đã chuốc lấy phần thảm bại!
.... Cho nên, những người đương thời và luôn cả Hoàng Đế thảy đều dốc lòng tin theo đạo Phật.
Vì vậy bộ kinh này rất quan trọng và đây cũng là bộ kinh đầu tiên được truyền đến nước Trung Hoa, cho nên hôm nay tôi muốn cùng quý vị nghiên cứu bộ kinh này....(Nguồn: Kinh 42 chương - HT Tuyên Hóa)
+ Tập khổ - Tứ diệu đế: Đức Phật dậy
Đây là Khổ, tánh bức bách;
Đây là Tập, tánh chiêu cảm;
Đây là Diệt, tánh khả chứng;
Đây là Đạo, tánh khả tu.
"Đây là Khổ, tánh bức bách.... Có Tam Khổ (Ba mối khổ), Bát Khổ (Tám mối khổ) và vô lượng vô biên nỗi khổ khác nữa.
Tam khổ là ba nỗi khổ: Khổ-khổ, Hoại-khổ, và Hành-khổ.
a) Khổ-khổ: Khổ-khổ tức là nỗi khổ này chồng chất lên nỗi khổ khác, trong mối khổ nọ còn thêm vào mối khổ kia. ... Đã ăn chẳng được no, mặc chẳng được ấm, bây giờ lại lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, chẳng chốn nương thân!... họ "bần cùng khốn khổ", nỗi khổ do sự nghèo nàn, túng quẫn gây ra,... nó bức bách, hành hạ con người một cách rất đáng sợ!
b) Hoại-khổ: Như vậy, kẻ giàu sang phú quý thì .... cái khổ vì sự suy tàn, lụn bại. Như có người rất giàu sang, lắm bạc nhiều tiền, bị bọn cướp bắt cóc. Ví như tổng tiền có 5 triệu, bị cướp bắt người đòi chuộc mạng 6 triệu, phải vạy thêm 1 triệu đồng nữa mới đủ số mà dâng nạp cho bọn tống tiền để được thoát thân. Thế thì, đó không phải là sự phú quý đang bị hủy hoại, sụp đổ hay sao?....
c) Hành-khổ: Quý vị có thể không phải chịu đựng nỗi bần cùng khốn khổ và cũng không phải đương đầu với phú quý hoại khổ; thế nhưng, quý vị vẫn phải trải qua tiến trình của đời người - Bát khổ, tức là tám nỗi khổ, thì gồm có:
Sanh khổ (nỗi khổ của sự sanh ra đời);
Lão khổ (nỗi khổ của sự già nua);
Bệnh khổ (nỗi khổ của đau ốm, bệnh tật);
Tử khổ (nỗi khổ của sự chết);
Ái biệt ly khổ (nỗi khổ vì phải xa lìa những gì mà mình yêu thích);
Oán tắng hội khổ (nỗi khổ vì phải gần gũi với những gì mà mình chán ghét)
Cầu bất đắc khổ (nỗi khổ do mong cầu mà không được toại ý);
Ngũ ấm xí thạnh khổ (nỗi khổ vì năm ấm1 hưng thạnh, thiêu đốt tâm thần.)
Vì ngoài các mối khổ này ra vẫn còn có vô số mối khổ khác nữa, nên Đức Phật dạy: "Đây là Khổ, tánh bức bách."
"Đây là Tập, tánh chiêu cảm." "Tập" ở đây tức là tập trung, tích lũy phiền não. Tích tập phiền não là một loại có tánh chiêu cảm. Một khi trong lòng chúng ta có phiền não, thì phiền não ở bên ngoài sẽ lũ lược kéo tới; và nếu thâm tâm quý vị chất chứa tham, sân, si, thì những chuyện không ưng ý từ bên ngoài sẽ đổ xô lại. Do đó, Đức Phật dạy: "Đây là Tập, tánh chiêu cảm."
"Đây là Diệt, tánh khả chứng." Diệt là tịch diệt. Tịch diệt (quietude) đem đến an lạc. Sự an lạc này mỗi chúng ta đều có thể chứng nghiệm được, bởi vì tánh nó là "khả chứng".
"Đây là Đạo, tánh khả tu." Ở đây, "Đạo" tức là Giới-đạo, Định-đạo và Huệ-đạo. Nói một cách chi tiết hơn, thì "Đạo" là Ba Mươi Bảy Phẩm Đạo, và đó là: Thất Bồ Đề, Bát Chánh Đạo, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, và Tứ Như Ý Túc. "Đạo" vốn tánh khả tu, nghĩa là quý vị đều có thể tu Đạo! (Nguồn: Kinh 42 Chương - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu là phải hành:
Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Học rộng, mến Đạo, thì Đạo ắt khó gặp. Giữ chí, thờ Đạo, thì Đạo kia rất lớn."
Lược giảng:
Trong chương thứ chín này, Đức Phật dạy những người tu hành rằng họ cần phải "văn nhi tư, tư nhi tu, nhi chứng"; nghĩa là phàm nghe rồi thì phải suy gẫm, suy gẫm kỹ rồi thì tu tập theo, và tu tập xong thì chứng đắc. Chớ nên chỉ biết nói suông hoặc chỉ lắng nghe Phật Pháp, mà chẳng áp dụng vào thân. Phải thực hành, ứng dụng thực tiễn thì mới đáng kể!
Cho nên, Đức Phật dạy: "Học rộng, mến Đạo." Thế nào gọi là "học rộng"? "Học rộng" tức là biết nhiều hiểu rộng. Tôn-giả A-Nan là bậc "đa văn đệ nhất," tức là người đứng đầu về khả năng "nghe nhiều hiểu rộng," và cũng có thể gọi là bậc "bác văn" (học rộng). Tuy nhiên, nếu chỉ học một cách thuần túy, chứ không quán xét những điều đã học, thì chẳng thể nào lãnh hội được những đạo lý tiềm tàng bên trong. Nếu chỉ đơn thuần dựa vào sức nhớ dai, trí nhớ tốt, có thể thuộc làu kinh điển, mà chẳng suy xét cặn kẽ và chẳng tu hành theo những điều đã học, thì cũng thành vô dụng!
"Mến Đạo" tức là nói về những người tu Đạo, nhận biết rằng Đạo thật là cao quý, nhưng lại không hiểu được rằng Đạo vốn là tự tâm và chẳng hề xa rời tự tâm, cho nên cứ hướng ra ngoài tâm để tìm Đạo. Tuy rằng họ có lòng mộ Đạo, nhưng cứ truy tìm ở ngoài là không đúng, và như thế "thì Đạo ắt khó gặp." Họ cứ tìm kiếm ở ngoài tâm như thế thì chắc chắn sẽ không hiểu Đạo và nhất định sẽ không gặp được Đạo. Không gặp được Đạo thì họ cũng sẽ không hiểu được Đạo, bởi đã lạc hướng thì càng chạy chỉ càng cách xa thêm mà thôi!
"Giữ chí, thờ Đạo." Thế nào gọi là "giữ chí"? "Giữ chí" tức là không khởi vọng tưởng, không truy tìm bên ngoài. Có câu:
Cầu chư kỷ, bất cầu chư nhân;
Cầu nội, bất cầu ngoại.
(Cầu ở mình, chớ cầu ở người;
Tìm ở trong, chớ tìm ở ngoài.)
Bên trong, niệm niệm phải tỏ ngộ, niệm niệm phải sáng suốt, niệm niệm phải hướng về tâm Bồ-đề, không cầu danh cũng không cầu lợi. Không có tâm cầu danh cầu lợi tức là "giữ chí" vậy.
Thế nào gọi là "thờ Đạo"? "thờ Đạo" tức là tôn kính và duy trì Đạo. Như vậy, "giữ chí, thờ Đạo" có nghĩa là niệm niệm không xa rời tự tâm, niệm niệm đều thể hội nguồn tâm của mình, đều biết rõ bản thể của tự tâm; và tuyệt nhiên không truy cầu, tìm kiếm bên ngoài.
Thì Đạo kia rất lớn." Nếu quý vị có thể tu hành như thế, thì tự nhiên sẽ đạt được thành quả rất lớn lao! (Nguồn: Kinh 42 Chương - HT T.Hóa)
+ Thủy chủ về trí - Tâm thủy - Trí cảm dục: Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Người ôm giữ lòng ái dục chẳng thấy được Đạo, ví như nước đã lóng trong lại lấy tay khuấy lên, khiến những người đến xem đều không thấy được bóng của họ. Người đời vì bị ái dục xáo trộn, làm cho cấu trược trong tâm nổi dậy, nên chẳng thấy được Đạo. Sa-môn các ông phải xả bỏ ái dục, cấu bẩn ái dục hết sạch thì có thể thấy được Đạo!"
Lược giảng:
Chương thứ mười sáu nói về tâm của người đời chúng ta. "Nước tâm" (tâm thủy) vốn lóng trong, nhưng nếu quý vị khuấy lên thì nước ấy sẽ không còn trong nữa. Như vậy, sự lóng trong là gì? Là Đạo! Còn không lóng trong là gì? Là ái dục! Chính lòng tham ái và tham dục gây chướng ngại, khiến chúng ta không thể minh tâm kiến tánh, không thấy được Đạo, không chứng được quả vị. Chứng được Sơ-quả A-la-hán là đạt đến ngôi vị Kiến Đạo, tức là đã thấy được Đạo vậy.
Đức Phật dạy: "Người ôm giữ lòng ái dục..." Giảng cái pháp này cho người Tây phương nghe thì thật khó mà giảng cho thông, vì đa số người Tây phương bất luận chuyện gì cũng đều nhắc tới ái (love), nói tới dục. .... Thật là những kẻ chẳng hiểu gì về Đạo cả!
Những người cứ ôm giữ lòng ái dục, thâm tâm chỉ toàn nhớ tưởng tới ái tình và dục vọng, thì "chẳng thấy được Đạo." Nếu quý vị tu Đạo nhưng lại không hiểu Đạo, thì sẽ một mặt tu hành, một mặt hủy hoại sự tu hành của mình - khuyên quý vị phải dứt bỏ lòng ái dục thì lòng ái dục của quý vị lại càng gia tăng!
"Ví như nước đã lóng trong lại lấy tay khuấy lên." Khi bị lòng tham ái và tham dục xâm chiếm thì quý vị không thể thấy được Đạo; giống như việc gì? Giống như nước đã lóng trong mà quý vị lại lấy tay khuấy lên, làm cho đục vậy. Sở dĩ như thế là vì trong nước ấy có đất cát, bùn, bụi bặm. Nếu trong nước hoàn toàn không có cát và bùn, thì quý vị có khuấy thế nào đi nữa, nước cũng chẳng bị đục! Cát và bùn ở đây tượng trưng cho cái gì? Tượng trưng cho ái và dục - ái tình và dục vọng ví như bụi bặm, bùn đất trong nước. Khi lòng tham ái và tham dục của quý vị dấy khởi, thì cũng giống như quý vị lấy tay khuấy đục nước, "khiến những người đến xem đều không thấy được bóng của họ" vậy. Tất cả những người đứng cạnh bờ nước đều không thấy có bóng mình phản chiếu trên mặt nước; vì sao? Vì nước đã bị khuấy đục! Vì sao quý vị không thấy được Đạo? Vì lòng tham ái và tham dục làm cho quý vị trở thành u mê tăm tối!
"Người đời vì bị ái dục xáo trộn, làm cho cấu trược trong tâm nổi dậy, nên chẳng thấy được Đạo." Từ sáng đến tối, họ chỉ nghĩ đến ái tình và dục vọng - những ý tưởng bất tịnh, không trong sạch. Vì bị lòng tham ái và tham dục xáo trộn, chi phối, nên họ không nghĩ tới điều gì khác ngoại trừ ái và dục. Trong tâm họ, cấu trược dấy lên làm đục "nước trí huệ" (trí huệ thủy) - họ không còn sáng suốt, không còn trí huệ nữa; và do đó, họ chẳng hiểu được Đạo. Quý vị ngày ngày miệt mài tu hành mà vẫn không chứng được quả vị, chẳng thấy được Đạo, là vì sao? Vì quý vị vẫn còn lòng tham ái và tham dục! Nếu không có tâm ái dục thì quý vị sẽ thấy được Đạo rất mau chóng.
Vì thế Đức Phật căn dặn: "Sa-môn các ông phải xả bỏ ái dục." ... Tất cả chúng ta đều nên dứt bỏ lòng tham ái và tham dục. Dứt bỏ ái dục không có nghĩa là phải tuyên bố: "Tôi rất ghét phái nữ. Hễ gặp họ là tôi nổi nóng, đuổi họ đi ngay!" Không phải như thế! Vậy thì phải như thế nào? Phải "nhìn mà như không thấy, nghe mà như chẳng nghe!" Quý vị không nhất thiết phải căm ghét họ; tuy nhiên, cũng chớ vì họ mà xao xuyến, khởi tâm động niệm, hoặc bị họ chi phối.
Trong câu "xả bỏ ái dục," thì "xả bỏ" có nghĩa là bố thí, đem cho. Thí dụ quý vị bố thí tiền bạc, thì một khi đã cho người ta rồi tức là quý vị không có số tiền đó nữa - quý vị đã xả bỏ số tiền ấy. "Cấu bẩn ái dục hết sạch thì có thể thấy được Đạo!" Khi lòng tham ái và dục niệm - những rác rưởi dơ bẩn - đều không còn nữa, thì quý vị có thể thấy được Đạo, chứng được quả vị. (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Tình dục gồm tình cảm và dục vọng:
Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như khúc gỗ dưới nước, theo dòng mà trôi. Nếu nó chẳng tấp vào hai bên bờ, chẳng bị người ta vớt lấy, chẳng bị quỷ thần ngăn trở, chẳng bị nước xoáy giữ lại, cũng chẳng bị mục nát, Ta cam đoan rằng khúc gỗ này nhất định sẽ ra đến biển. Người học Đạo nếu chẳng bị tình dục làm mê hoặc, chẳng bị các thứ tà vạy quấy nhiễu, lại tinh tấn tu pháp Vô-vi; Ta cam đoan rằng người này tất sẽ đắc Đạo."
Giảng: Vậy, trong chương này, "hai bên bờ" tức là gì? Ở đây, "hai bên bờ" tượng trưng cho tình cảm và dục vọng. Tình cảm và dục vọng được phân làm hai loại là kiến tư tình dục (tình cảm và dục vọng dấy khởi từ cái thấy và cái nghĩ) và vô minh dục (tình cảm và dục vọng dấy khởi từ sự vô minh). Kiến tư tình dục tức là sự chấp trước sanh tử, và được ví là "bờ bên này." Vô minh tình dục là sự chấp trước Niết-bàn, và được ví là "bờ bên kia."
Ngoài ra, khúc gỗ "bị người ta vớt lấy" là dụ cho kẻ bị bao bọc trong tấm lưới tà kiến; còn "bị quỷ thần ngăn trở," là dụ cho những người bị che phủ bởi tấm lưới kiến tư.
Khúc gỗ "bị nước xoáy giữ lại" ám chỉ sự lười biếng, trễ nãi, trái ngược với tinh tấn. Khúc gỗ "bị mục nát" tiêu biểu cho sự tương phản với pháp Vô-vi. Có nhiều người tu hành vì không thể chân chánh, thẳng thắn nhớ nghĩ đến Chân-như, nên mặc dù họ luôn luôn muốn tinh tấn nhưng rốt cuộc lại trở thành thối chuyển. Họ như đang ở trong vũng nước xoáy - nước tuy chảy xiết nhưng chỉ xoáy quanh một chỗ, chỉ rẽ ngoặt rồi quay lại chỗ cũ. Tương tự như thế, họ trở về lại khởi điểm và không thể đạt tới pháp Vô-vi. Chính vì không đạt được pháp Vô-vi nên họ mới sanh ra chấp tướng; và thế là việc tu phước, tu huệ của họ không được viên mãn. Những người ở trong tình huống này thì chẳng khác nào khúc gỗ mục nát. Họ tất sẽ bị đọa lạc, không đến được bờ bên kia của Niết-bàn, không chấm dứt được dòng sanh tử. Đó là do họ bị tình dục làm cho mê muội, bị những sai lầm của ái dục và tà kiến vây khốn, quấy nhiễu.
Nếu quý vị chân chánh nhớ nghĩ tới Chân-như và tinh tấn tu hành, hiểu được rằng bản tánh của Pháp vốn là Vô-vi, và không bị tình ái lôi cuốn, chi phối, thì chắc chắn quý vị sẽ đắc Đạo. Đó là ý nghĩa khái quát của phần kinh văn trong chương này.
Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như khúc gỗ dưới nước, theo dòng mà trôi." Đức Phật so sánh những người tu Đạo với khúc gỗ trôi xuôi theo dòng nước.
"Nếu nó chẳng tấp vào hai bên bờ." Giả sử khúc gỗ này chẳng bị đá ở hai bên bờ cản lại hoặc ngăn trở. "Tấp vào hai bên bờ" tức là bị mắc kẹt, bị chận lại. "Chẳng tấp vào hai bên bờ" tức là vẫn trôi lềnh bềnh, không bị vướng hoặc kẹt lại ở bờ nào cả. Khúc gỗ này ví như người tu Đạo không bị ái tình ràng buộc, níu kéo. Và nếu khúc gỗ ấy "chẳng bị người ta vớt lấy, chẳng bị quỷ thần ngăn trở hoặc che lấp, chẳng bị nước xoáy giữ lại, chẳng bị dòng nước cuộn tròn ngăn chận và cuốn lấy, và cũng chẳng bị mục nát, hư hoại; thì Ta cam đoan rằng khúc gỗ này nhất định sẽ ra đến biển, sẽ trôi ra được tới biển cả."
"Người học Đạo nếu chẳng bị tình dục - ái tình và vật dục - làm mê hoặc, chẳng bị các thứ tà vạy quấy nhiễu, chẳng bị vô minh, lười biếng ngăn trở, gây chướng ngại, lại tinh tấn tu pháp Vô-vi, hăng hái học tập theo pháp Vô-vi; thì Ta cam đoan rằng người này tất sẽ đắc Đạo. Ta bảo đảm là những người như thế nhất định sẽ đắc được Đạo." (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Phương pháp học đạo:
Dịch Nghĩa: Có thầy Sa-môn ban đêm tụng kinh Di-Giáo của Phật Ca-Diếp, giọng nghe có vẻ buồn thảm, hối hận muốn thụt lùi.
Đức Phật hỏi thầy: "Trước kia, ông ở nhà từng làm nghề gì?"
Đáp rằng: "Thưa, con thích gảy đàn cầm."
Phật hỏi: "Dây đàn chùng thì sao?" Đáp rằng: "Thưa, thì không rền vang được."
"Dây đàn căng thì sao"?" Đáp rằng: "Thưa, thì âm thanh đứt đoạn."
"Chùng, căng vừa chừng thì sao?" Đáp rằng: "Thưa, thì âm thanh phổ khắp."
Đức Phật dạy: "Bậc Sa-môn học Đạo cũng thế. Tâm, nếu giữ chừng mực thì Đạo có thể chứng được. Đối với Đạo, nếu hấp tấp thì thân mỏi mệt; thân nếu mỏi mệt thì ý liền sanh phiền não; ý nếu sanh phiền não thì hành liền thụt lùi; hành đã thụt lùi thì tội tất thêm lên. Chỉ có thanh tịnh, an lạc thì Đạo mới không mất vậy!"
Lược giảng:
Chương thứ ba mươi bốn nói về phương pháp học Đạo. Người học Đạo cần phải điều phục thân và tâm một cách khéo léo; không nên để cho thân và tâm bị quá căng thẳng hoặc quá ù lì, biếng nhác.
Trong Nho giáo cũng có nói rằng hễ tiến tới càng nhanh bao nhiêu, thì thối lui càng chóng bấy nhiêu! Khi tu Đạo, quý vị không nên xao lãng hoặc quên Đạo, nhưng đồng thời cũng đừng miễn cưỡng ép mình theo Đạo. Được như thế thì đó mới là phương pháp tu Đạo hoàn hảo; bằng không, sẽ không thành tựu Đạo quả được. Chỉ vì quý vị không biết cách dụng công, nên cứ không vội vàng thì lại chậm chạp. Có câu:
(Chặt thì căng, lơi thì chùng,
Không lơi không chặt mới thành công.)
Như dây đàn chẳng hạn, nếu lên dây thật chặt thì sẽ căng quá dễ bị đứt, còn nếu buộc lỏng lẻo thì dây lại bị chùng xuống. Tu hành cũng tương tự như thế, không gấp cũng không chậm thì tu Đạo mới thành công được.
Có thầy Sa-môn ban đêm tụng Kinh Di-Giáo của Phật Ca-Diếp. Một buổi tối nọ, có một thầy Sa-môn ngồi tụng Kinh Di-Giáo được lưu truyền từ thời Đức Phật Ca-Diếp. Khi thầy tụng bộ kinh ấy thì giọng nghe có vẻ buồn thảm, hối hận, muốn thụt lùi. Giọng thầy nghe rất bi thiết, áo não và đượm đầy căng thẳng, hoang mang. Thầy cảm thấy rất hổ thẹn và ân hận vì thâm tâm thầy không muốn tu hành nữa. Thầy đã thối chuyển, chỉ muốn rút lui.
Đức Phật hỏi thầy: "Trước kia, ông ở nhà từng làm nghề gì? Khi ông còn ở nhà với gia đình thì ông làm nghề gì, có khả năng làm được việc gì?"
Đáp rằng, thầy Sa-môn trả lời Đức Phật: "Thưa, con thích gảy đàn cầm. Con thích tấu nhạc gảy đàn. Đó là việc mà con thích nhất."
Đức Phật hỏi: "Dây đàn chùng thì sao?" Đức Phật bèn hỏi thầy ấy: "Như thế là ông biết rành về việc đánh đàn chứ gì? Vậy nếu dây đàn buộc lỏng, bị chùng, thì sao?" Đáp rằng: "Thưa, thì không rền vang." Thầy Sa-môn này mới bạch với Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Thì gảy không ra tiếng. Nếu dây bị chùng thì tiếng đàn nghe khàn đục, không âm vang, không ngân nga. Đàn không lên tiếng, chẳng có âm nhạc."
"Dây đàn căng thì sao?" Đức Phật lại hỏi: "Vậy nếu dây đàn buộc căng quá thì sao?" Đáp rằng: "Thưa, thì âm thanh đứt đoạn." Thầy Sa-môn bạch với Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thì khi gảy, dây đàn sẽ bị đứt và tiếng nhạc không còn nữa."
"Chùng, căng vừa chừng thì sao?" Đức Phật hỏi tiếp: "Nếu dây đàn không căng cũng không chùng, mà ở vào mức tương đối giữa căng và chùng thì sao?" Đáp rằng: "Thưa, thì âm thanh phổ khắp." Thầy Sa-môn bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thì tiếng nhạc tấu lên sẽ rền vang réo rắt, chan hòa khắp nơi, nghe rất hay!"
Đức Phật dạy: Bậc Sa-môn học Đạo cũng thế." Bậc Sa-môn - những người siêng năng cần mẫn tu học Giới, Định, Huệ và muốn dứt sạch tham, sân, si - học Đạo thì cũng phải giống như thế.
"Tâm, nếu giữ chừng mực thì Đạo có thể chứng được." Nếu quý vị không vội vàng hấp tấp, cũng không trì trệ, buông lung phóng dật, thì quý vị có thể thành Đạo. Đừng nôn nóng cũng đừng lười biếng, thì có thể đắc Đạo.
"Đối với Đạo, nếu hấp tấp thì thân mỏi mệt." Trong lúc tu Đạo, nếu nôn nóng vội vàng thì sẽ làm cho thân thể mệt nhọc. Hễ quý vị sốt ruột, nóng nảy, giận dữ, thì thân rất dễ bị mệt nhọc. "Thân nếu mỏi mệt, thì ý liền sanh phiền não." Một khi thân thể đã mệt mỏi, suy nhược thì ý niệm của quý vị cũng sanh phiền não, chán nản. "ý nếu sanh phiền não thì hành liền thụt lùi." Hễ phiền não nảy sanh thì sẽ dễ dàng đưa đến tâm trạng nản lòng thối chí, muốn lùi bước, muốn hoàn tục, không hăng hái tu hành nữa. "Hành đã thụt lùi thì tội tất thêm liền." Hành của quý vị đã thụt lùi, không còn tinh tấn nữa, thì tội nghiệp của quý vị chắc chắn sẽ gia tăng và có thể sẽ nặng nề, nghiêm trọng hơn nữa.
"Chỉ có thanh tịnh, an lạc, thì Đạo mới không mất vậy." Chỉ cần quý vị giữ cho tâm mình luôn được trong sạch, yên vui thanh thản, thì nhất định quý vị sẽ chứng được Đạo!" (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Tu là nghiêm giữ giới luật - Xa Phật ngàn dăm vẫn hơn gần bên:
Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Phật tử ở cách Ta vài ngàn dặm mà nhớ nghĩ đến Giới của Ta, tất sẽ chứng được Đạo quả; còn ở ngay bên phải bên trái Ta, tuy thường trông thấy Ta, nhưng chẳng y theo Giới của Ta, thì rốt cuộc sẽ không đắc được Đạo."
Lược giảng:
Chương thứ ba mươi bảy nói rằng nếu quý vị hết lòng tin tưởng vào giới luật của Đức Phật, thì dù quý vị có ở cách Phật đến bao xa đi chăng nữa cũng vẫn như đang ở trước mặt Ngài; còn nếu quý vị không tin tưởng và không thọ trì giới luật của Phật, thì dầu có được thường xuyên ở trước mặt Phật, quý vị cũng chẳng thấy được Phật, chẳng nghe được Pháp! Điều này cũng tương tự như lời dạy của Đức Lục Tổ Huệ Năng: "Nếu các ông tin Ta, thì dù ở cách Ta đến mười vạn tám ngàn dặm đường mà vẫn như đang ở bên cạnh Ta. Nhưng nếu các ông không tin Ta, thì tuy các ông luôn luôn ở bên cạnh Ta mà lại như xa cách Ta cả mười vạn tám ngàn dặm đường vậy!" Và, đó cũng là đại ý của chương kinh này.
Đức Phật dạy: "Phật-tử ở cách Ta vài ngàn dặm mà vẫn nhớ nghĩ đến giới của Ta, tất sẽ chứng đắc Đạo-quả." Đức Phật dạy rằng: "Những đệ tử của Ta mà ở cách Ta rất xa, xa tới cả vài ngàn dặm đường đi nữa, nếu họ có thể luôn luôn ghi nhớ, không bao giờ quên nghĩ đến giới luật của Ta, và nếu hành trì đúng theo giới luật, thì họ nhất định sẽ chứng được quả-vị trong việc tu Đạo."
"Còn ở ngay bên phải bên trái Ta, những đệ tử luôn kề cận bên mình Ta, tuy thường trông thấy Ta nhưng chẳng y theo Giới của Ta, thì rốt cuộc sẽ không đắc Đạo được. Mặc dù họ luôn luôn gặp Ta, nhưng nếu họ chẳng vâng theo giới luật của Ta đặt ra mà tu hành, thì không dễ gì chứng được Đạo."
Phần kinh văn này cho thấy rằng nếu quý vị vâng theo lời dạy của Phật và tu hành đúng theo Phật Pháp, thì quý vị là những đệ-tử chân chánh của Đức Phật - quý vị sẽ thường được thấy Phật, thường được theo Phật để học hỏi. Trái lại, nếu quý vị không thọ trì giới luật, thì quý vị cũng có thể lỡ mất dịp may trước mắt như thường!
Thuở trước, có hai thầy Tỳ-khưu nọ ở nước Ba-la-nại (Varanasi) muốn đến nước Xá-vệ (Shravasti) để bái kiến Đức Phật. Cả hai thầy đều đi bộ và phải vượt qua những chặng đường dài thăm thẳm. Dọc đường, họ cảm thấy rất khát nước; khát đến nỗi không có cách gì để đi tiếp tục nữa. Khi họ sắp chết khát thì bỗng thấy đằng trước có một chút nước đọng trong một cái sọ người! Một thầy Tỳ-khưu liền chụp lấy cái sọ và bưng lên uống, rồi đưa cho thầy kia. Thầy Tỳ-khưu này vì thấy đó là nước đọng trong sọ người, hơn nữa, trong nước lại có rất nhiều lăng quăng, giòi bọ, nên từ chối, không uống.
Thầy Tỳ-khưu thứ nhất bèn hỏi: "Tại sao thầy không uống! Coi chừng bị chết khát đó!"
Thầy Tỳ-khưu kia đáp: "Vì trong giới luật của Đức Phật có dạy không được uống nước có lăng quăng, giòi bọ. Tôi thà chịu chết khát chớ không đời nào uống thứ nước có giòi bọ này! Tôi muốn tu hành đúng theo giới luật của Phật."
Thầy Tỳ-khưu thứ nhất nói: "Thầy thật là ngu xuẩn! Thầy sắp bị chết khát rồi - nếu thầy uống nước thì còn có thể gặp Phật; còn không uống thì thầy sẽ phải chết khát. Thầy phải biết linh động một chút, không nên cố chấp như thế!" Thấy nói như vậy mà thầy kia vẫn khăng khăng không chịu uống, thầy Tỳ-khưu thứ nhất bèn uống luôn nước cặn; và khi tiếp tục đi, thầy cảm thấy trong người khỏe khoắn hơn nhiều.
Thầy Tỳ-khưu thứ hai, người không chịu uống nước, quả nhiên bị chết khát dọc đường. Nhờ chuyên tâm trì giới nên sau khi chết, thầy được sanh lên cõi trời Đao-Lợi và có đầy đủ phước tướng của người trời (thiên-nhân). Từ cung trời Đao-Lợi, thầy đi bái kiến Đức Phật và được Phật thuyết pháp cho nghe. Bấy giờ, thầy đắc được Tịnh Pháp Nhãn và chứng được quả-vị.
Trong khi đó, thầy Tỳ-khưu uống nước trong sọ người thì ba ngày sau mới đến được nước Xá-vệ. Thầy Tỳ-khưu bị chết khát thì được bái kiến Phật ngay tối hôm thầy chết và sau đó chứng được quả-vị. Ba hôm sau, thầy Tỳ-khưu không bị chết khát cũng tới nơi và đến bái kiến Phật. Đức Phật hỏi thầy: "Ông từ đâu đến? Có bao nhiêu người cùng đi với ông? Ông đi đường được bình an cả chứ?"
Thầy Tỳ-khưu kia thưa với Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Con từ nước Ba-la-nại đến. Đường đến đây rất xa xôi; dọc đường còn phải vượt qua một nơi hoàn toàn không có nước uống. Về sau, tìm được chút nước còn đọng trong một cái sọ, con bèn uống tạm một chút. Còn người bạn đồng tu đi với con vì thấy trong nước ấy có nhiều lăng quăng, giòi bọ, nên không chịu uống, do đó mà bị chết khát rồi. Ấu cũng bởi thầy ấy không có thiện duyên với Phật nên mới phải chết mà chưa được gặp Phật! Vả lại, thầy ấy cũng cố chấp quá. Lòng chấp trước của thầy ấy quá nặng nề!"
Thầy kia nói xong, Đức Phật gọi thầy Tỳ-khưu bị chết khát ra cho thầy kia gặp mặt, và dạy: "Chính trong ngày hôm đó ông ấy được vãng sanh lên cõi trời và được hưởng thọ mạng rất lâu dài của một vị thiên nhân. Ông ấy đã đến Pháp-hội của Ta, và Ta đã thuyết pháp cho ông ấy nghe. Nay ông ấy đã chứng được quả-vị! Ông chê ông ấy ngu xuẩn, kỳ thực, chính ông mới thật là ngu xuẩn! Ông không giữ giới luật của Phật, thì tuy ông được gặp Ta mà cũng như không gặp. Đó là vì ông không thật lòng, không thành tâm, không nghiêm trì giới luật!"
Qua công án này có thể thấy rằng bất luận quý vị có ở trước mặt Phật hay không, nếu quý vị lúc nào cũng tu hành đúng theo giới luật của Phật, tức là quý vị được thấy Phật. Trái lại, nếu quý vị không y theo giới luật của Phật mà tu hành thì dẫu có ở bên cạnh Phật cũng chẳng khác nào chưa từng được gặp Phật vậy!(Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Thiện nam - Tín nữ lập Mạn Đà La: Bấy giờ đức Thế tôn lại .... Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn …vv phát tâm kính trọng, muốn làm pháp mạn-đà-la này, trước cần phải chọn lựa chỗ đất thành tựu thanh tịnh thù thắng. Phải cuốc sâu xuống đất, lượm bỏ gạch ngói, cát đá, sỏi sành, gai than, lông tóc, các vật thô xấu không sạch, nhiên hậu mới lường đất kia đầy tám thước hoặc bốn thước, dùng đất sạch tốt xây đắp cho bằng phẳng, dùng ngưu phẩn hương …vv y pháp thoa phết. Mạn-đà-la ấy gồm ba lớp giới viện, đều họa vẽ bằng năm sắc, khiến rõ ràng tốt đẹp minh tịnh, chớ cho mờ ám, rộng hẹp vừa độ.
Phàm họa đàn pháp, trước tất cả phải từ Đông diện mà khởi. Họa Ngũ đảnh ấn, lại họa Ưu-bát-la hoa ấn, lại họa Nha ấn, lại họa Văn-thù Đồng tử diện ấn, lại họa Sóc ấn (cái giáo dài). Họa những ấn này tại Đông diện mạn-đà-la xong, lại Liên hoa ấn, rồi họa Ưu-bát-la hoa ấn, lại họa Tràng ấn, Phan ấn, Tán cái ấn, lại họa Ô-đầu-môn, lại họa Xa lộ ấn, rồi họa các ấn bạch tượng, mã, phong ngưu, thủy ngưu, lại họa Ca-bán-tất-ta-phạ (Kiết tường ấn). Lại họa Khổng tước ấn, rồi Cổ dương (con dê đen) ấn, rồi bạch dương, rồi nhơn, rồi đồng nam ấn. Họa những ấn như vậy, đều cần ngoại môn thứ đệ phân minh.
Như vậy ngoài tam trùng mạn-đà-la, ngoại viện, lại họa Dạ-xoa tướng: Đông Ma-ni Bạt-đà-la (Bảo Hiền) đại tướng; Nam Bố-nã Bạt-đà-la (Mãn Hiền) đại tướng; lại vẽ Vĩ-lỗ-bác-khất-xoa (Tây phương thần) Vi-sắc-ra-phạ-nõa (Bắc phương thần). Tất cả chư Thiên thần Nhật Nguyệt thất tinh, nhị thập bát tú và Phật thị giả Ha-lị-đế mẫu thần.
Mạn-đà-la pháp này, nếu vì ra-nhạ mà làm, thì nên làm trong nhà. Nếu muốn cầu Tượng ấn, thì nơi phường tượng mà làm. Muốn cầu mã thì nơi mã phường mà làm. Nếu bị độc xà chích mổ, thì nên làm bên ao lớn, hoặc chỗ nào có long ở. Nếu bị bịnh sốt rét một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, phải ở nơi thôn phường xá trạch gần hướng Nam mà làm. Nếu bị quỷ La-xoa bắt bớ phải ở nơi nhà trống xa vắng nơi chốn hoang vu, hoặc bên thi đà lâm (rừng bỏ xác chết) mà làm. Nếu bị quỷ Tỳ-xá-giá bắt, phải ở dưới cây Tỳ-ma ma làm. Nếu bị tất cả quỷ thần và các chấp quỷ bắt bớ, phải làm trong nhà người chết, hoặc trong nhà mới sanh trẻ nhỏ. Nếu bị các độc làm hại, phải tụng Bát tự chơn ngôn này bảy biến gia trì trong nước mà uống thì độc ấy liền trừ diệt. Nếu súc sanh bị dịch bịnh, phải làm dưới tán cây có trái. Nếu muốn lúa mạ tốt tươi, phải làm trong khuôn viên vườn.
Nếu phụ nhơn bị các ác bịnh, hoặc bị quỷ thần Ca-lâu-la, Càn-thát-bà …vv hút nút uống ăn tinh khí thành các thứ bịnh chẩn, phải nơi sông hoặc nơi trên đỉnh núi mà làm. Hoặc bị tất cả bịnh và Nã-chỉ-nễ quỷ, phải nơi chốn không nhàn vắng vẻ, hoặc chỗ có dòng nước mà làm.
Những phép tắc như vậy phải làm giữa ngày hoặc nửa đêm. Khi muốn xóa bỏ mạn-đà-la, phải tụng Bát tự chơn ngôn ở trước mà bỏ. Các vật trong mạn-đà-la nên đưa theo dòng nước tán thí, hoặc đem bố thí cho trẻ nghèo, tức sở cầu các việc đều được viên mãn. (Nguồn: Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi .... Mạn Đà La)
+ Ví dụ trong Phật Pháp làm sạch đất làm khu tu hành
... Đã nói Căn Bản Đà La Ni (Chú Thập Nhất Diện) xong, tiếp theo nói Pháp 7 ngày cúng dường Đàn. Nếu có Sa Môn hoặc nhóm Thiện Nam Tử tụng yếu quyết nơi Pháp tạng bí mật, thành tựu Đại Nghiệm. Hoặc các quốc vương sanh Tâm quyết định sám hối mọi tội.
Nguyện muốn thấy nghe Đô Đại Đạo Tràng Pháp Đàn Hội. Trước tiên, tìm nơi chốn thuộc nhà viện rộng rãi, nhà lớn sáng sủa với chùa chiền đẹp, Phật Đường, đất lộ thiên cũng được. Quyết định biết nơi chốn xong, lúc sáng sớm của ngày 1 trong kỳ Bạch Nguyệt, A Xà Lê (Ācārya) với các Đệ Tử (Śiṣya) dùng nước nóng thơm tắm gội, đem các hương hoa đến nơi chốn ấy. A Xà Lê dùng tay cầm Bạt Chiết La (Vajra: chày Kim Cang), thứu tự hỏi các nhóm Đệ Tử rằng: “Các ngươi quyết định muốn học Pháp Tạng bí mật (Guhya-dharma-garbha) của chư Phật mà chẳng sanh ngi ngờ chăng?”
Đồ Chúng đáp rằng: “Chúng con muốn học Pháp Tạng của chư Phật, quyết định tin tưởng chân thành, chẳng sanh Tâm nghi ngờ”
Như vậy theo thứ tự hỏi 3 lần, đáp 3 lần _Như vậy đáp xong. Tiếp theo, A Xà Lê dùng tay ấn lên nhóm lư hương, nước… Chú xong, tay bưng lư hương, quỳ gối, đốt hương, khải bạch tất cả chư Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên, cùng với tất cả Nghiệp Đạo Minh Kỳ: “Nay đất này là đất của con. Nay con muốn lập Hội của Đô Đại Đạo Tràng Pháp Đàn 7 ngày 7 đêm, cúng dường tất cả mười phương Pháp Giới, chư Phật Thế Tôn với Bát Nhã Ba La Mật Đa, các chúng Bồ Tát, Kim Cang, chư Thiên… lãnh các Đồ Chúng, quyết định chọn lấy các chứng thành Pháp Môn khó nghĩ bàn của tất cả Pháp Tạng bí mật. Con muốn hộ Thân, kết Giới, việc Pháp… ngay bên trong Viện này: Đông, Tây, Nam, Bắc, 4 góc, trên, dưới… hết thảy tất cả nhóm phá hoại Chánh Pháp, Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka), Thần Quỷ ác đều ra khỏi nơi Kết Giới của con ngoài 7 dặm. Nếu nhóm Thần Quỷ hiền thiện, hộ giữ Chánh Pháp, ở trong Phật Pháp của con có lợi ích thì tùy theo ý mà trụ”
Nói lời này xong. Tiếp đến, đều y theo Pháp Quân Trà Lợi ấy tịch trừ, kết Giới.
Đã kết Giới xong, liền khiết đào xới loại bỏ tất cả nhóm vật: đất ác, xương, tóc, than, vỏ trấu, gạch, đá vụn … bên trong đất 10 khuỷu tay. Nếu đất cực tốt thì đào sâu xuống một gang tay. Nếu là bậc trung thì đào xuống một khuỷu tay. Nếu là đất bậc hạ thì đào sâu xuống 2 khuỷu tay, nếu là đất bậc Hạ Hạ thì đào sâu xuống 3 khuỷu tay…
Loại bỏ hết vật ác xong, đem đất tốt sạch lấp đầy, đè nện cứng chắc khiến cho bằng phẳng, làm nền cao là tốt nhất
Tiếp theo, ngày thứ 2 với ngày thứ 3 dùng bùn tô trét đất. Tiếp theo, ngày thứ 4 dùng dùng phân bò, bùn thơm tô trét đất ấy xong
Tiếp theo, đem sợi dây giăng kéo một vòng 8 khuỷu tay ở 4 phương, chấm xuống một điểm ở 4 góc. Lại đem sợi dây từ góc Đông Bắc đến góc Tây Nam, từ góc Đông Nam đến góc Tây Bắc giăng kéo giao chéo nhau. trong chỗ giao chéo nhau chấm xuống một điểm. Đào đất sâu xuống một gang tay, chôn 5 thứ báu và 5 thứ lúa đậu.
5 thứ báu ấy là: một là vàng, hai là bạc, ba là trân châu, bốn là san hô, năm là hổ phách.
5 thứ lúa đậu là: một là đại mạch, hai là tiểu mạch, ba là lúa gạo, bốn là hạt đậu nhỏ, năm là mè
Dùng một tấm lụa gói vật báu, lúa đậu. Lấy sợi dây 5 màu cột tấm lụa lại rồi đem chôn, một đầu của sợi dây 5 màu ấy ló ra khỏi mặt đất, dài khoảng 5 ngón tay. Nhóm vật báu này vĩnh viễn không được lấy ra. Tiếp theo, làm Đại Kết Giới
Pháp kết Giới ấy: cầm Bạt Chiết La (Vajra: Đường gọi là chày Kim Cang) nhiễu quanh bên ngoài Đàn theo bên phải, chạy mau 3 vòng, làm Tỳ Na Dạ Ca Chủng Chủng Kết Giới Ấn ấn lên mặt đất, 4 phương, phương bên trên…. tụng Chú làm nhóm Pháp: Ấn, khải cáo, tịch trừ, kết Giới như ngày đầu tiên nói. Y theo thứ tự Pháp dùng của Quân Trà Lợi (Kuṇḍali).
Tiếp theo, ngày thứ 5: Kết Giới, Pháp Thức như ngày thứ tư. Lại dùng phân bò xoa bôi mặt đất
Pháp xoa bôi đất ấy: tay phải xoay chuyển chà xát, đứng hướng về bên trái chà xát. Việc còn lại ấy đồng với ngày thứ 4
Tiếp theo, ngày thứ 6: A Xà Lê tắm gội, trước tiên vào bên trong Đàn, lại chọn 2 người Đệ Tử rất thông minh cũng đều tắm gội, mặc áo sạch mới đi theo phìa sau vào Đàn. Dùng nướng nóng Đàn Hương hòa với tro đá xong, đem sợi dây nhuộm kỹ trong nước cốt của tro đá, khiến Đệ Tử cầm đầu sợi dây ấy đè ngay đầu góc ở phía Đông Bắc của Đàn, làm nơi chốn hạ xuống một điểm đầu tiên
Tiếp theo, A Xà Lê cầm một đấu sợi dây đè ngay đầu góc ở phía Đông Nam của Đàn, làm nơi chốn hạ xuống một điểm đầu tiên với giăng kéo sát đất, sai một Đệ Tử vin chính giữa sợi dây rồi ghép ráp ở trên mặt đất
Tiếp theo, Đệ Tử từ góc Đông Bắc đứng dậy hướng đến góc Đông Nam ngồi xuống, cũng làm như lúc trước
Tiếp theo, A Xà Lê từ góc Đông Nam đứng dậy hướng đến góc Tây Bắc ngồi xuống, cũng làm như lúc trước
Tiếp theo, Đệ Tử từ góc Tây Nam đứng dậy hướng đến góc Đông Bắc ngồi xuống, cũng làm như lúc trước
Tiếp theo, ở nơi ghép ráp lúc trước, từ bên ngoài hướng vào bên trong, lìa khoảng một khuỷu tay, lại y theo Pháp lúc trước, vây quanh ghép ráp
Tiếp theo, lấy sợi dây 8 khuỷu tay, co gập chính giữa, chấm xuống một điểm ngay một phương của Đàn. Lại gập sợi dây 2 khuỷu tay, từ điểm chính giữa ở một phương của Đàn liệu lường, hai bên trái phải lại chấm điểm ở 2 nơi. Tiếp theo, sợi dây cách vách tường ở cửa của một phương khoảng 4 ngón tay
Tiếp theo, lại lại co gập từ vách tường của cửa, hướng về 2 bên trái phải làm khoảng 5 ngón tay. Tiếp theo, hai bên trái phải làm rộng khoảng 5 ngón tay
Tiếp theo, mé bên ngoài cửa ấy, vẽ thẳng một phương, nếu như thế thì 3 phương dựa theo đây để biết
Tiếp theo làm sợi dây bên ngoài của Trung Viện khoảng 4 khuỷu tay Sợi dây bên trong của Ngoại Viện ấy với sợi dây bên ngoài ở giữa, khoảng cách giữa 2 sợi dây mở lối đi một khuỷu tay Trung Viện ấy: cửa, 4 phương, tường vách cùng hướng về 2 bên trái phải, làm chung khoảng 3 ngón tay Pháp ghép ráp sợi dây mé bên ngoài của cửa cũng như Pháp lúc trước Phương bên trong của Trung Viện ấy, lìa sợi dây bên ngoài một khủy tay, lại ghép ráp sợi dây tẩm tro đá
Ngay chính giữa của Đàn Ấy làm các Viện 2 khuỷu tay, đừng làm cửa ........
Chi tiết đầy đủ xin xem tại nguồn: Kinh Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Đà La Ni
Xem thêm: Chọn phong thủy nơi ở và tu hành thù thắng
+ Viên giác trong sáng - Chân tâm trong sáng:
Thiện nam tử, các vị bồ tát, và những người sau này, khi thực hiện được trạng thái huyễn ảo hủy diệt, thì bấy giờ thấy sự trong sáng vô biên, được biểu hiện bởi viên giác trong sáng vốn như không gian vô hạn.
Viên giác trong sáng nên tâm thức trong sáng, tâm thức trong sáng nên sự thấy trong sáng: sự thấy trong sáng nên nhãn căn trong sáng, nhãn căn trong sáng nên nhãn thức trong sáng; nhãn thức trong sáng nên sự nghe trong sáng: sự nghe trong sáng nên nhĩ căn trong sáng, nhĩ căn trong sáng nên nhĩ thức trong sáng; nhĩ thức trong sáng nên sự hay và sự biết trong sáng, nghĩa là tyՍ căn tyՠthức, thiệt căn thiệt thức, thân căn thân thức và ý căn ý thức đều trong sáng cả. Căn và thức trong sáng nên cảnh trong sáng: sắc thanh hương vị xúc pháp đều trong sáng cả. Sáu cảnh trong sáng nên bốn đại trong sáng : đất nước lửa gió đều trong sáng cả. Bốn đại trong sáng nên mười hai xứ, mười tám giới, và hâm lăm hữu, đều trong sáng cả.
Các pháp trên trong sáng nên mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại trí, mười tám bất cọng pháp, bâm bảy bồ đề phần, cho đến tám mươi bốn ngàn tổng trì môn đều trong sáng cả.
Thiện nam tử, toàn bộ các pháp bản thể trong sáng nên một thân trong sáng, một thân trong sáng nên nhiều thân trong sáng, nhiều thân trong sáng nên cho đến mười phương chúng sinh toàn là viên giác trong sáng.
Thiện nam tử, thân trong sáng nên thế giới trong sáng: một thế giới trong sáng nên nhiều thế giới trong sáng, nhiều thế giới trong sáng nên cho đến cùng không gian mười phương và suốt thì gian ba đời toàn bộ đều trong sáng.
Thiện nam tử, không gian bất động, nên viên giác bất động, bốn đại bất động nên viên giác bất động, và y như vậy, cho đến tám mươi bốn ngàn tổng trì môn đều bất động nên viên giác bất động.
Thiện nam tử, viên giác trong sáng, bất động và phổ biến nên sáu căn phổ biến pháp giới, sáu căn phổ biến pháp giới nên sáu cảnh phổ biến pháp giới, sáu cảnh phổ biến pháp giới nên bốn đại phổ biến pháp giới, và y như vậy, cho đến tất cả tổng trì môn đều phổ biến pháp giới.
Thiện nam tử, viên giác phổ biến nên căn và cảnh không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau, căn và cảnh không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau nên cho đến hết thảy tổng trì môn đều không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau. Sự thể ví như hàng trăm hàng ngàn ngọn đèn chiếu sáng một phòng, ánh sáng ngọn đèn nào cũng phổ biến cả phòng mà không phá hoại nhau không hỗn tạp nhau.
Thiện nam tử, bồ tát thành đạt viên giác như vậy, nên không buộc các pháp không mở các pháp, không chán sinh tử không ham niết bàn, không kính giữ giới không ghét phá giới, không trọng tu lâu không khinh mới học, vì lẽ toàn thể đều là viên giác. Sự thể ví như mắt thấy cảnh vật, sự thấy ấy thấy toàn diện mà không ghét không ưa, vì lẽ thực chất của sự thấy không có hai ý thức này. (Nguồn: Kinh Viên Giác - Phổ Hiền hỏi)
+ Kỳ tu tập hàng năm của cư sỹ tại gia từ 80 - 100 - 120 ngày:
Nếu không có việc gì, thì thiết lập đạo tràng mà an cư, với ba kỳ hạn: kỳ hạn dài một trăm hai mươi ngày, kỳ hạn vừa một trăm ngày, kỳ hạn ngắn tám mươi ngày. Bằng cách nếu Như lai đang ở đời thì hãy suy nghĩ chính xác đến Như lai, nếu Như lai đã diệt độ thì treo phan, chưng hoa, thiết trí hình tượng của Như lai, lòng dồn lại nơi hình tượng ấy, mắt nhìn cho rõ rồi nhắm lại tưởng tượng hình tượng ấy, tâm trí nghĩ nhớ chính xác đến Như lai, như thế thì cũng như ngày Như lai còn ở đời. Trải qua ba tuần bảy ngày, kính lạy hồng danh Phật đà mười phương, tha thiết sám hối, cảm được hiện tượng tốt thì tâm trí thư thái. Qua ba tuần bảy ngày này rồi, vẫn một mạch tập trung tư duy để tu tập những cách đầu tiên của ba thiền quán.
Nếu kỳ hạn như trên mà gặp đầu hạ ba tháng an cư, thì phải làm theo sự an cư trong sáng của bồ tát, bằng cách trong tâm tách rời thanh văn, không dựa đồng chúng. Đến ngày an cư thì đối trước hình tượng Như lai mà tác bạch như vầy: Nay con là tỷ kheo, hay tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di (Phật tử nam nữ tại gia), có tên như vậy, nguyện nương bồ tát thừa mà tu tịch diệt hạnh, để được đồng nhập thật tướng trong sáng. Vì bản thể niết bàn không tùy thuộc đâu cả, nên con nguyện lấy viên giác vĩ đại làm chốn tự viện, cả thân thể lẫn tâm trí đều an cư trong viên giác bình đẳng ấy. Con kính xin không nương tựa các vị thanh văn, chỉ nương tựa chư vị Thế tôn và Đại sĩ để an cư ba tháng, và vì lý do to lớn là tu tập viên giác vô thượng như các vị bồ tát đang tu, nên con không tùy thuộc đồng chúng.
Thiện nam tử, như thế đó là thiết lập đạo tràng mà an cư, và mỗi năm hết một trong ba kỳ hạn rồi, đi lại tùy ý.
Thiện nam tử, những người thời kỳ cuối cùng đi theo đường đi của bồ tát, bước vào một trong ba kỳ hạn an cư, thì hiện tượng nào không phải cái họ đã nghe, họ tuyệt đối không nên chấp nhận. (Nguồn: Kinh Viên Giác - Chương Viên giác)
+ Kinh Viên Giác: gồm các Chương
Chương Văn Thù; Chương Phổ Hiền; Chương Phổ Nhãn; Chương Kim Cang Tạng; Chương Di Lạc; Chương Thanh Tịnh Tuệ; Chương Uy Đức Tự Tại; Chương Biện Âm; Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng; Chương Phổ Giác; Chương Viên Giác; Chương Hiền Thiện Thủ.
- Chương Hiền Thiện Thủ: Lúc ấy bồ tát Hiền thiện thủ ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy,đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương cao cả, ngài đã khai thị một cách rộng rãi như trên, cho chúng con và những người thời kỳ cuối cùng, về những sự ngoài tầm tư duy và thảo luận. Thưa đức Thế tôn, kinh pháp đại thừa này nên mệnh danh là gì? nên phụng trì cách nào? ai tu tập thì được công đức gì? chúng con hộ trì cách nào cho những người phụng trì kinh này? kinh này đi đến đâu? Tác bạch rồi, bồ tát Hiền thiện thủ gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ tát Hiền thiện thủ: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát và những người sau này mà hỏi Như lai về danh hiệu, công đức, và những gì liên hệ đến kinh pháp như thế này. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ Tát Hiền thiện thủ vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử, kinh này được trăm ngàn vạn ức hằng sa Phật đà tuyên thuyết, được Phật đà quá khứ hiện tại và vị lai hộ trì, được bồ tát mười phương qui y, vì là con mắt trong sáng của cả mười hai loại khế kinh.
Kinh này mệnh danh là kinh nói về Tổng trì viên giác, thuộc loại cực kỳ cao rộng; cũng mệnh danh là kinh nói về Nghĩa lý cứu cánh của khế kinh, kinh nói về Chánh định chúa tể bí mật, kinh nói về Cảnh giới quyết định của Như lai, kinh nói về Đặc tính và sắc thái của Như lai tạng. Các ông hãy nhớ như vậy.
Thiện nam tử, kinh này chỉ nói cảnh giới của Như lai, chỉ Như lai mới nói cùng tận. Các vị bồ tát, và những người thời kỳ cuối cùng, y cứ kinh này mà tu hành thì tuần tự bước tới, đến tận địa vị Phật đà.
Thiện nam tử, kinh này là đại thừa đốn giáo, nên chúng sinh đốn cơ thì tỏ ngộ bởi kinh này. Nhưng kinh này cũng bao gồm các loại tiệm cơ. Bể cả thì đâu có kém sông bé, muỗi mòng hay tu la, loài nào uống nước biển cả cũng no đủ hết thảy.
Thiện nam tử, giả sử có ai đem bảy thứ quí báu chất đầy cả đại thiên thế giới mà bố thí, cũng không bằng có người nghe danh hiệu hay một câu một nghĩa của kinh này. Lại giả sử có ai giáo hóa một trăm hằng sa chúng sinh được tuệ giác La hán, cũng không bằng có người tuyên thuyết kinh này bằng cách phân tích nửa bài chỉnh cú.
Thiện nam tử, ai nghe danh hiệu kinh này mà thôi, mà tin một cách không còn bị mê hoặc, thì ông phải biết người ấy không phải chỉ gieo trồng phước đức và tuệ giác nơi một vài đức Phật, mà đã gieo trồng những thiện căn như vậy, và đã nghe kinh này, nơi hằng sa Phật đà. Thiện nam tử, các ông nên hộ trì người ấy, đừng để ma vương và ngoại đạo quấy rối thân thể và tâm trí của họ, làm cho họ lùi bước, khuất phục. (Nguồn: Kinh Viên Giác)
+ Căn Tánh Phàm phu - Người chưa giác ngộ - Người thế tục:
- Người thế tục: Có hai loại (i) người thế tục mù lòa), và ( ii) người thế tục hiểu biết
1.1 - Người thế tục mù lòa: Là người Không hiểu giáo pháp của Đức Phật. Chưa nghe giáo pháp của Đức Phật. Không tìm hiểu giáo pháp của Đức Phật. Những lời dạy của Đức Phật bao gồm những pháp như: Ngũ Uẩn, Căn, Trần, Xứ, Thập Nhị Nhân Duyên, Tứ Niệm Xứ v.v… Những pháp này là các đề tài được Đức Phật dạy. Một người chưa biết hoặc không hiểu những giáo pháp này được gọi là những người thế tục mù lòa.
1.2 - Người thế tục hiểu biết: Là người hiểu giáo pháp của Đức Phật như: Ngũ Uẩn, Căn, Trần, Xứ, Thập Nhị Nhân Duyên, Tứ Niệm Xứ v.v… Người này không những hiểu biết giáo pháp mà còn có khả năng bàn luận và phân tích giáo pháp cho người khác hiểu. Đôi khi nhờ hiểu biết, nhờ khả năng bàn luận về giáo pháp nên những người này có đức tin xác quyết về giáo pháp của Đức Phật. Như vậy, muốn trở thành người kalyāṇa puthujjana (người thế tục hiểu biết), chúng ta phải học hỏi giáo pháp Phật. (Nguồn: Các hạng chúng sinh)
+ Sáu loại căn tánh: 1. Dục tánh (Tham) 2. Nộ tánh (Sân) 3. Độn tánh (Si) 4. Đãng tánh (Tầm): buông cái này bắt cái kia, không theo đuổi đến cùng 1 thứ gì mà nay theo cái này, mốt theo cái kia … 5. Mộ tánh (Tín) : đức tin, sùng mộ, thần tượng … 6. Ngộ tánh (Giác)
“ LỤC ĐẠI CHÂN KINH “
1. Kinh Chánh Xuất Gia dành cho hạng chúng sanh Dục Tánh
2. Kinh Tranh Luận dành cho hạng chúng sanh Nộ Tánh
3. Kinh Mặt Trận Lớn (Những Vấn Đề Lớn) dành cho hạng chúng sanh Độn Tánh
4. Kinh Mặt Trận Nhỏ (Những Vấn Đề Nhỏ) dành cho hạng chúng sanh Đãng Tánh
5. Kinh Con Đường Mau Chóng dành cho hạng chúng sanh Mộ Tánh
6. Kinh Trước Khi Hủy Hoại (Chuyện Phải Làm Trước Khi Chết) dành cho hạng chúng sanh Ngộ Tánh. (Nguồn: Facebook: Diễn đàn chia sẻ Giáo lý của DTTX4)
+ Năm Căn tánh - Ngũ chủng tánh: Trên phương diện tương đối thì căn cơ của chúng sanh được chia ra làm 5 hạng:
1. Chủng Tánh Phàm Phu – Người có chủng tánh phàm phu thì ưa thích thị phi, tranh đấu hơn thua, chỉ vui thích theo thế thường phàm tục, không thích đến chùa hay nghe kinh pháp, nếu có nghe thì nhức đầu buồn ngủ hoặc không tiếp nhận nổi giáo lý. Nếu có kẻ đến chùa thì cũng với một mục đích riêng tư, tự lợi nào đó, ví dụ như kiếm thêm người để chơi hụi, chứ không phải là ý tốt.
2. Chủng Tánh Bất Định – Đây là những tâm hồn bất định, dễ nghe và dễ tin, không có một lập trường rõ ràng. Có người khuyên theo Phật liền theo Phật, hôm sau có người khuyên theo Chúa thì liền theo Chúa, hôm sau có người khuyên theo A La thì liền theo A La, không bao giờ xác định được lập trường của mình. Nói theo cách nói thông thường là “gió chiều nào thì theo chiều đó”.
3. Chủng Tánh Ngoại Đạo – Đây là hạng người hướng ngoại, tìm cầu đạo ở bên ngoài (ngoài cái Tâm), là những tâm hồn mê tín dị đoan, ưa thích những chuyện hoang đường huyễn hoặc, hay ưa thích cúng kiến lễ lạy, cầu khẩn bên ngoài, mong được ban ơn giáng phước mà không hiểu rõ chân lý. Họ rất sợ hãi và không tiếp nhận nổi chân lý (kinh Đại Thừa Liễu Nghĩa). Khi nghe đến hệ tư tưởng Đại Thừa thì họ liền bực bội khó chịu, đem lòng chống đối, phỉ báng ngang ngược vô lý.
4. Chủng Tánh Nhị Thừa (Tiểu Thừa) – Người có chủng tánh nhị thừa thì không tránh né, không sợ hãi và có thể tiếp nhận được hệ giáo lý Đại Thừa Liễu Nghĩa, mặc dù là chưa hiểu thấu suốt tường tận nghĩa lý thẩm sâu của hệ tư tưởng này.
5. Chủng Tánh Đại Thừa – Người có chủng tánh đại thừa khi nghe các kinh đại thừa liễu nghĩa liền hoan hỷ, tiếp thu nghĩa lý sâu xa của kinh một cách nhanh chóng, và cảm thấy tâm hồn nhẹ bổng, an lạc, như gỡ được một cái gánh nặng, và cảm thấy như một người vừa tỉnh một giấc mộng dài. Phải chăng đấy sự giải thoát giác ngộ mà chư tổ thường nhắc đến?
Như vậy, trong 5 loại chủng tánh thì chỉ có Chủng Tánh Nhị Thừa và Chủng Tánh Đại Thừa mới có thể tiếp nhận nổi giáo lý Đại Thừa Liễu Nghĩa, hày còn gọi là Viên Giáo. Nếu đạo hữu là một người thích nói kinh, thuyết pháp thì nên lưu ý các loại chủng tánh này. Vì nếu người có chủng tánh phàm phu hay ngoại đạo mà giảng nói kinh Đại Thừa liền bị chống đối và phỉ báng. Ngược lại đối với những người có chủng tánh Đại Thừa mà giảng nói các phẩm phương tiện hay bất liễu nghĩa thì liền bị “sửa lưng” ngay. Thầy thuốc muốn cho thuốc cũng phải cần bắt mạch. Thế thì muốn nói kinh cũng phải tùy căn cơ, chủng tánh của chúng sanh mà nói pháp, bao gồm cả khi đàm luận với bạn đạo. ....
Phân tích thêm về chủng tánh:
+ Thế gian chủng tánh/ Phàm phu: Đây cũng gọi là vô tánh, vô tánh là không chủng tánh gồm chánh pháp hoặc ngoại đạo mà chỉ có chủng tánh thế gian, người có chủng tánh thế gian hay nói cách khác là hạt giống đời, thì đối với Đạo lòng tin rất nông cạn. Dù có diễn giải về Đạo họ cũng lấy sự học hiểu của đời làm căn bản, không thể thâm nhập và làm mất ý nghĩa thuần túy của Đạo. Tuy nhiên vì đối với Đạo không có nhận thức và tin tưởng cố định, nên hạng này dễ dẫn nhập vào chánh pháp hơn kẻ ngoại đạo.
+ Bất định chủng tánh: Đây là hạng người có đủ chủng tánh ba thừa, đi theo đường lối tiệm ngộ, trước trãi qua các thừa sau mới vào Đại thừa, tiến trình hạng này có hai lối : Từ thanh văn hay Duyên giác vào Bồ Tát thừa, hoặc từ Độc giác vào Bồ Tát thừa, vì hạng này không nhất định lấy cảnh Vô dư Niết Bàn làm tiêu điểm chung cuộc nên gọi là Bất định chủng tánh vậy.
+ Ngoại đạo chủng tánh: Hạng này từ kiếp trước đã tu theo ngoại đạo nên trong tàng thức đã có hạt giống ngoại đạo, ưa thích ngoại giáo và bài bác chánh pháp. Những vị có chủng tử chánh pháp mà lạc vào ngoại đạo, nếu gặp thiện hữu tri thức có thể trở lại chánh giáo, trái lại nếu những kẻ có hạt giống ngoại đạo tuy hoàn cảnh được ở trong Đạo Phật nhưng lòng tin của họ không vững, gặp ngoại đạo liền hướng theo, vì thiếu chánh kiến nên họ diễn giải kinh điển thường bị sai lầm.
Trên đây là căn cứ theo nghiệp thức chúng sanh mà lập ra năm loại chủng tánh. Tuy nhiên thức tánh của loài hữu tình vẫn như huyễn, nếu chưa lên ngôi vị bất thối chuyển, thì dù có chủng tánh Bồ Đề mà không gặp thiện hữu tri thức vẫn có thể bị cảnh duyên làm biến đổi, phải bị sa đọa vào Tam Đồ, cho nên người học Phật cần phải duyệt lãnh Kinh điển, gần gũi Thầy lành bạn tốt, phải xa lánh các nhiễm duyên, siêng năng dõng mãnh, y cứ theo chỗ văn tư mà tu hành thì trên đường giải thoát mới có phần bảo đảm.
(Nguồn: Ngũ chủng tánh)
+ Giáo dục nhân quả:
Giảng Phật giảng Nho khuyên người hành thiện, người ta chưa hẳn đã nghe hiểu được. Nhưng thiện có thiện báo, ác có ác báo, quý vị nghe được không thể không sợ, giáo dục nhân quả.
Đặc biệt là quý vị thấy ngày nay bao nhiêu người trẻ tuổi, người trung niên muốn thay đổi vận mạng. Ba loại sách này (Liễu Phàm Tứ Huấn, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, An Sĩ Toàn Thư) chính là thay đổi vận mạng, tôi khái lược dự tính một chút ba loại sách này, lão pháp sư đại khái đã in trên ba trăm vạn quyển, ở thời đại của ngài như vậy thì quả là đáng nễ! Ba trăm vạn quyển, thật khiếp người. (Nguồn: Tịnh Độ Đại Kinh Diễn Nghĩa - PS Tịnh Không)
+ Kinh Tiếng Gầm Sư Tử Của Tôn Giả Xá Lợi Phất: Nói về đức hạnh của Tứ đại
Ngay khi Tôn Giả Xá Lợi Phất vừa đi khỏi, một tăng sĩ nói với Đức Thế Tôn: "Ông Xá Lợi Phất đã đánh con, rồi ông ra đi mà không có một lời xin lỗi."
... Đức Thế Tôn nói: "Một trong những tăng sĩ ở đây đã phàn nàn rằng Tôn Giả đã đánh ông ta và khi Tôn Giả ra đi, đã không để lại một lời xin lỗi."... "Bạch Thế Tôn, giống như những người vất lên mặt đất những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, mặt đất đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; quả tim con:
Giống như đất, rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ... Người có chánh niệm không nói xấu người khác sau lưng.
Giống như nước giặt những thứ mà bị dính bởi phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, nước đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ....
Giống như ngọn lửa đốt sạch những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, những thứ mà bị dính bởi phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, ngọn lửa đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ...
Giống như ngọn gió thổi sạch những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, ngọn gió đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ....
Giống như tấm giẻ lau những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, những thứ mà bị dính bởi phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, tấm giẻ đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ..., quả tim con giống như tấm giẻ lau, rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ....
Giống như một cậu bé hoặc một cô bé bị ruồng bỏ, không có gia đình, cầm hộp đi ăn xin, quần áo mặc như giẻ rách đi vào làng, ra phố chợ với một quả tim khiêm tốn; ... giống như quả tim của đứa bé không có gia đình kia, quả tim mà rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ...
Giống như một con bò đực có hai sừng bị cắt, hiền lành, thuần hóa, dễ huấn luyện, đi lang thang hết đường nầy đến đường kia, hết khu nầy đến khu kia, và không làm tổn thương bất cứ ai; ... con như con bò đực có hai sừng bị cắt, có quả tim rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ....
Giống như một người phụ nữ hoặc một người đàn ông, còn trẻ, khỏe mạnh, ưa thích đồ trang sức hoặc đồ trang trí, người nầy vừa gội đầu xong, nhưng rồi tâm trí họ bị phủ đầy với sự chán ghét, nôn mửa, hay thù hận, như thể họ bị xác chết của một con rắn, hoặc xác chết của một con chó hoặc xác chết của một con người quấn vòng quanh cổ; ....tâm trí con bị phủ đầy với sự chán ghét, nôn mửa, hay thù hận vì chính tấm thân hôi thối của con. ....
Giống như người bưng theo một bát mỡ, lỏng như nước có đầy lỗ và các kẽ hở, rỉ ra ngoài, rồi chảy nhỏ giọt; .... thân thể con có đầy lỗ và các kẽ hở, rỉ ra ngoài, rồi chảy nhỏ giọt. ....
... "Bạch Thế Tôn, con đã phạm tội vì con quá dại dột, ngu ngốc và không khéo léo, vì con đã buộc tội Tôn Giả Xá Lợi Phất, vì con đã nói sai, nói không đúng và nói không thật. Xin Đức Thế Tôn ưng thuận sự nhận tội của con, xin tha thứ cho con, ....
Đức Thế Tôn ... "Nầy, Xá Lợi Phất, hãy tha thứ cho người đàn ông ngu ngốc nầy,... (Nguồn: Đức hạnh ngài Xá Lợi Phất)
+ Xem thêm: Giảng về hạnh của Đất - Thích Chân Quang)
+ David Anrias: Chiêm Tinh gia nổi tiếng và Huyền Bí gia nổi tiếng:
Chúng tôi gặp David Anrias tại nhà của người bạn, và biết ơn họ hết sức, vì cuộc gặp gỡ này với anh cho thấy không những nó rất quan trọng cho chúng tôi mà còn cho cả cuốn sách này. Tuy Viola gọi đùa anh là ‘Phù Thủy’ anh không có vẻ gì là ghê gớm, về cả sắc diện lẫn tư cách. Ngược lại, mặt anh lộ nét vui tánh kèm với óc hài hước sâu đậm mà ai càng biết anh nhiều càng thấy rõ. Thực vậy, anh là người độc đáo mà người Đức gọi là ein original. Cách nói chuyện của anh bình thường, tuy sắc bén và tượng hình khi anh nghiêm trang, lúc anh đùa cợt thì câu chuyện có đầy những chữ lạ lùng về chiêm tinh, phân tâm và TTH, chưa kể những chữ tắt và các chữ ngộ nghĩnh khác.
+ Hành tinh nào quản trị giấc mơ? Viola hỏi, nàng chú ý về mặt chiêm tinh của câu hỏi.
– Neptune, Hải vương tinh, David trả lời, nó cũng ảnh hưởng ma túy và huyền học (mysticism)
– Cái phối hợp lạ lùng, tôi bình luận, tôi không thấy làm sao những điều này có liên kết với nhau.
– Neptune, anh giải thích, có liên quan với thế giới ảo ảnh và nghệ thuật. Cả phim ảnh và nghệ thuật có liên hệ chặt chẽ với ảo ảnh, như ai cũng có thể thấy nếu suy nghĩ về điều này một chút. Khi Greta Garbo xuất hiện trên màn ảnh cho ta thấy, trong khoảng thời gian ấy cô làm ta lú lẫn mà tin rằng ta thực sự thấy cô bằng xương bằng thịt. Khi hoạ sĩ vẽ tranh phong cảnh, họ tạo nên một ảo ảnh là ta đang thực sự thấy phong cảnh ấy.
– Còn ma túy? tôi hỏi.
– Ma túy cũng tạo nên ảo giác. Ai nghiện thuốc lại không chịu trả bất cứ giá nào để có được giấc mơ do ma túy mang lại?
– Đúng rồi. Tôi đồng ý. Nhưng còn huyền học thì sao?
– Nhà thần bí phải đi qua những cảnh giới ảo ảnh mới đi tới cõi Thực Tại. Mà ngay cả Thực Tại theo nghĩa triết lý lại là ảo ảnh theo quan điểm ở cõi trần – nên nhìn từ góc cạnh nào thì huyền học cũng liên hệ với ảo ảnh bằng hình thức này hay kia, tuy đương nhiên là chân lý huyền bí tối hậu không phải là ảo ảnh.
–Giải thích tuyệt hết sức, Viola khen, nhưng sao đi nữa, thấy lạ là cùng một ảnh hưởng có thể làm mình hoặc thành nhà thần bí hoặc người nghiện ngập.
– A, nhưng đừng quên, David kêu to, luôn luôn hăng hái muốn trình bầy đề tài ruột của anh có chứa bao bí ẩn đối với óc phàm, là ảnh hưởng của hành tinh chỉ tạo nên khuynh hướng phản ứng với chuyện này hay kia; còn cá nhân phản ứng nhiều hay ít và theo chiều hướng nào tùy thuộc vào trình độ tiến hóa và những lực hành tinh khác tác động lên họ.
– Có phải Neptune là một trong những hành tinh được gọi là ẩn? Viola hỏi thêm, tôi nhớ có đọc đâu đó như vậy.
– Cả Neptune và Uranus khi xưa được xem là hành tinh ẩn.
– Khác biệt giữa hành tinh ẩn và lộ là gì? tôi hỏi, đại khái thôi.
– Hành tinh hiển lộ là những hành tinh có liên lạc trực tiếp về tâm linh và ở cõi trung giới với địa cầu; chúng là cái hướng dẫn và theo dõi địa cầu về luân lý và thể chất – anh nên nhớ rằng tất cả những hành tinh này đều do những đấng hết sức cao cả quản trị, có quyền hạn nhiều hơn mình tưởng tượng...
Coi này, anh tiếp tục và nhấn mạnh, trong lúc lơ đãng mà khéo léo đặt cân bằng lọ tiêu ở đầu mũi dao, Saturn, Jupiter, Mercury và Venus thuộc về loại này, tôi muốn nói là chúng ảnh hưởng nhân loại như là trọn khối, trong khi đó Uranus và Neptune, tức các hành tinh ẩn hay là mật, chỉ có thể ảnh hưởng những thể cao hơn của người tiến hóa hơn cả, và điều này chỉ mới thay đổi lúc gần đây. Theo các nhà chiêm tinh Ấn Độ, sự việc thay đổi từ ngày trăng tròn tháng giêng 1910 – nói cho chính xác là từ lúc đức Thái Dương Thượng Đế có chứng đạo (initiation) mức vũ trụ ....... kể từ lúc ấy (1910) Neptune và Uranus trở thành các hành tinh hiển lộ, theo nghĩa chúng, hay nói đúng ra là các lực phát xuất từ các hành tinh này được xếp đặt để tạo nên những đường từ lực mới bên trong thái dương hệ.
Những đường lực này đặc biệt tụ vào địa cầu của chúng ta; và một trong những kết quả là các lời tiên tri dựa trên cách tính trước kia nay không còn đúng nữa, vì cách tính đó không kể tới ảnh hưởng của Neptune và Uranus trong cuộc sống thường ngày, và Jupiter, luôn luôn được xem là hành tinh tốt lành nhiều uy lực nhất, vẫn được xem là cho ảnh hưởng hành tinh mạnh mẽ nhất trong tương lai. Ngay cả hội Theosophia cũng bị lầm với giả định này, và tưởng rằng nghi lễ, một trong những điều mà Jupiter quản trị, sẽ đóng vai trò nổi bật trong hoạt động của hội. Dầu vậy, hội thấy là đáp ứng về loại nghi lễ mà hội làm, không đúng như mong đợi. ..
Ngôi Nhà của Chân Sư ....
... Chúng ta đang ở trong thời mạt pháp, ngài bắt đầu, anh bạn chiêm tinh gia của con có thể giải thích nhiều điều, nếu con chịu hỏi.
– Té ra thầy có biết David Anrias, tôi ngạc nhiên hỏi.
– Thầy có chú ý đến anh, ngài trả lời, mỉm cười.
– Thế tại sao anh ta không thấy thầy?
– Làm sao con biết là anh không thấy?
– Chà, anh chàng không hề nói gì hết.
– Có người giữ được bí mật... giọng ngài có vẻ chế diễu nhẹ nhàng, điều mà như con biết, là điều sơ đẳng A, B, C trong huyền bí học..
(Nguồn: David Anrias: Chiêm Tinh gia và Huyền Bí gia - Chương VII)
+ Các Kinh các Bồ Tát và Hiền Thánh vấn Phật - Vấn minh - Hỏi Phật
+ Phầm Bồ Tát Vấn Minh (Kinh Hoa Nghiêm): Giảng nói nhiều điều lấy ví dụ về các tánh hạnh của các Đại - Tứ đại;
a/ ...Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát: 'Phật-tử! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác?
Những là: Đến đường lành nẻo dữ, căn thân có đủ có thiếu, thọ sanh đồng và khác, đẹp-đẽ cùng xấu-xí, nào vui nào khổ, nghiệp không biết tâm, mà tâm cũng chẳng biết nghiệp, thọ không rõ báo mà báo cũng chẳng rõ thọ, tâm chẳng biết thọ mà thọ cũng không biết tâm, nhơn không biết duyên mà duyên cũng chẳng biết nhơn, trí chẳng biết cảnh mà cảnh cũng chẳng biết trí. Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp:
* Các đại và các Pháp đều hoạt động theo quy luật tự nhiên, chúng mà chẳng biết nhau;
b/ Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu?
* Con người cùng thân xác Tứ đại, nhưng do Tiền nhân hậu quả nên có số phận khác nhau;
c/ Chỗ giác-ngộ của Đức Như-Lai chỉ là một pháp duy-nhứt, sao lại bảo là vô-lượng-pháp, hiện vô-lượng cõi, hóa vô-lượng-chúng, diễn vô-lượng âm, thị vô-lượng thân, biết vô-lượng tâm, hiện vô-lượng thần-thông, có thể chấn động khắp vô-lượng thế-giới, thị-hiện vô-lượng sự thù-thắng trang-nghiêm, hiển-.....
* Tất cả pháp là MỘT - Khi biểu lộ vô lượng, như Đất mọc muôn loài cây cỏ, hay muôn loài tu hội sống trên Đất mà Đất chẳng phân biệt; Như Nước muôn ngọn Sóng trào; Như Gió nhiều luồn lay chuyển muôn thứ; Như mây sấm, mưa khắp nơi nơi; Mặt Nhật Nguyệt có 1, chiếu sáng khắp
d/ Như-Lai phước-điền đồng một không sai khác, sao lại thấy chúng-sanh bố-thí được của quả-báo chẳng đồng?
Những là: Nhiều loại sắc, nhiều loại thân, nhiều loại căn, nhiều loại nhà, nhiều loại chủ, nhiều loại quyến thuộc, nhiều loại quan-chức, nhiều loại công-đức, nhiều loại trí-huệ. Nhưng đức Phật đối với họ, tâm Phật thường bình-đẳng, không có quan-niệm riêng khác
* Như Đất 1 vị, không thân sơ, mọi loài ở riêng khác; Như Nước 1 vị, đồ đựng sai khác;
e/ Phật-giáo là một, chúng-sanh được thấy biết, cớ sao không liền đều dứt trừ tất cả phiền-não hệ-phược mà được xuất-ly? Nhưng nơi chúng-sanh, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, năm uẩn, dục, sắc, vô-sắc, ba cõi, vô-minh, tham-ái đều không sai khác. Như thế thời Phật-giáo, đối với chúng-sanh, hoặc có lợi ích, hoặc không có lợi ích?
* Tu giải đãi ví như Lửa ít mà đốt ướt chóng tắt; Cọ cây lấy lửa mãi không thành lửa; Lửa to nước ít sao dập được; .....
g/ Nếu có chúng-sanh thọ-trì Chánh-pháp thời đều có thể dứt trừ tất cả phiền-não?
Nhưng cớ sao có người thọ-trì chánh-pháp lại tùy thế-lực của tham, sân, si, mạn, tùy thế-lực của phú, phẩn, hận, tật, xan, cuống, siểm ... xoay chuyển không rời nơi tâm. Người hay thọ-trì pháp, cớ sao lại ở trong tâm hành khởi các phiền-não? Đây nói về người Đa văn Giác ngộ mà chẳng tu hành...
* Như người không ăn chịu đói; Người giỏi Dược phương, chẳng trị nổi bệnh mình nếu chẳng tu đạo dưỡng sanh; Người điếc ca hát, người nghe mình không; Mù họa hình tượng, người thấy mình không;
h/ Trong phật-pháp, trí-huệ là trên tất cả, cớ sao với các chúng-sanh, đức Phật hoặc ca ngợi sự bố-thí, sự trì-giới, hoặc ca ngợi sự nhẫn-nhục, sự tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, từ-bi, hỉ xả ... , mà chẳng chỉ dùng một pháp để được giải-thoát, thành vô-lượng chánh-đẳng chánh-giác?
* Phật tùy thuyết: Tánh phận đều chẳng đồng; Tùy chỗ họ đáng thọ; Theo đó mà thuyết pháp; Vì kẻ tham, khuyên thí; Vì người lỗi, khen giới; Nhiều sân, thời khuyên nhẫn; Giải-đãi, thời khuyên siêng; Loạn tâm phải tu-định; Ngu-si trau trí-huệ; Bất-nhơn phải từ-mẫn; Giận-hại khuyên rèn bi; Lo rầu thời ngợi hỉ; Chấp trước lời khen xả; Tuần tự tu như vậy; Lần đủ các phật-pháp; Như trước xây nền móng - Rồi sau tạo nhà cửa - Thí và giới cũng vậy - Là gốc hạnh Bồ-Tát. .... (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm BT Vấn Minh)
+ Tánh không biết nhau: Tâm Nghiệp không biết - Các đại không biết - Giác quan không biết nhau - Ngũ uẩn không biết nhau - Các thức không biết nhau ...
... Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát: 'Phật-tử! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác? Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp:
Các pháp không tác dụng
Cũng không có thể tánh
Vì thế nên các pháp
Đều chẳng biết được nhau.
Ví như nước trong sông
Các dòng đua nhau chảy
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại cũng như đống lửa
Đồng thời phát ngọn to
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại như gió lớn thổi
Xao động các cảnh vật
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại như các địa-giới
Xây vần nương tựa nhau
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân
Tâm-ý sáu tình-căn
Do dây thường lưu-chuyển
Nhưng vẫn không năng-chuyển.
Pháp-tánh vốn vô-sanh
Thị hiện mà có sanh
Trong đây không năng hiện
Cũng không vật sở-hiện.
Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân
Tâm-ý sáu tình-căn
Tất cả rỗng vô-tánh
Vọng phân-biệt mà có.
Cứ đúng lý quan-sát
Tất cả đều vô-tánh
Pháp-nhãn bất-tư-nghì
Đây là thấy chơn thật.
Hoặc vọng hay chẳng vọng
Hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt
Thế-gian cùng xuất-thế
Chỉ là giả ngôn-thuyết. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm BT Vấn Minh)
+ Nghi thức sám hối và nghi thức trì tụng (Mẫu)
a/ Nghi Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh
(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô-lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám hối, sám hối tức là làm cho ba nghiệp thanh tịnh)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Chư Phật (1 lạy)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp (1 lạy)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
(Quỳ tay cầm hương cúng-dường phát nguyện)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng-dường tất cả Phật
Tôn Pháp, các Bồ-Tát,
Vô-biên chúng Thanh-văn
Và cả thảy Thánh-hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô-biên cõi,
Khắp xông các chúng-sanh
Đều phát lòng bồ-đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
(Cầm hương lạy 1 lạy)
(Đứng chắp tay xướng) :
Sắc thân Như-Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô-tận
Trí huệ Phật cũng thế,
Tất cả pháp thường-trú
Cho nên con về nương.
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần-sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Quy-y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng-sanh
Đồng sanh nước An-Lạc.
Án phạ nhựt ra vật (7 lần)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Thường-tịch quang tịnh-độ
A-Di-Đà Như-Lai
Pháp-thân mầu thanh-tịnh
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Thật báo trang-nghiêm độ
A-Di-Đà Như-Lai
Thân tướng hải vi-trần
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Phương-tiện thánh cư độ
A-Di-Đà Như-Lai
Thân trang-nghiêm giải-thoát
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
A-Di-Đà Như-Lai
Thân căn giới đại-thừa
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
A-Di-Đà Như-Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày y-chánh
Khắp pháp-giới Tôn-Pháp (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Quan-Thế-Âm Bồ-Tát
Thân tử-kim muôn ức
Khắp pháp-giới Bồ-Tát (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Đại-Thế-Chí Bồ-Tát
Thân trí sáng vô-biên
Khắp pháp-giới Bồ-Tát (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Thân hai nghiêm : Phước, trí
Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)
(Đứng chắp tay nguyện) :
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng-sanh 'trong pháp-giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng (1) 'nên qui mạng (2) sám-hối (3).
(1 lạy, quỳ chắp tay sám hối) :
Chí tâm sám-hối :
Đệ tử _____ và chúng-sanh trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô-minh che đăy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối-tăm, chẳng thấy chẳng nghe chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6), trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. -- Kinh rằng : 'Đức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải-thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ nay mới chừa bỏ ăn-năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Đà Thế-Tôn mà phát lồ (7) sám-hối, làm cho đệ-tử cùng pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo thanh-tịnh.
Đệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu-tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-độ, khắp với chúng-sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Đà Phật thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân an-lành niệm chánh vững-vàng, xem nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Đà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật đạo.
Đệ-tử sám-hối phát-nguyện rồi quy-mạng đảnh-lễ : Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Đà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-bảo. (1 lạy)
* Lạy xong - Tiếp Nghi-thức tụng kinh như sau
Bài Tán Lư Hương
Lư hương vừa bén, chiên-đàn khói thơm
Ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI
Án Lam (7 lần)
CHƠN NGÔN TịNH KHẨU NGHIỆP
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta-bà-ha (3 lần)
CHƠN NGÔN TịNH BA NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ ham (3 lần)
CHƠN, NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lậy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bản-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật-pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như-Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
Xin xem ký bản nguồn: Nghi thức sám hối và trì tụng - Kinh Hoa Kinh
+ Sơ đồ tâm: SƠ ĐỒ CHỨC NĂNG CỦA TÂM THỨC
Như biểu diễn trong sơ đồ, tâm trí con người bao gồm tám chức năng sau đây:
1/ Nhãn thức (nhìn) là chức năng cảm biết của mắt: nhìn thấy (ánh sáng, mầu sắc).
2/ Nhĩ thức (nghe) là chức năng cảm biết của tai: nghe thấy (âm thanh).
3/ Tỉ thức (ngửi) là chức năng cảm biết của mũi: ngửi thấy (mùi).
4/ Thiệt thức (nếm) là chức năng cảm biết của lưỡi: nếm thấy (vị).
5/ Thân thức (sờ chạm) là chức năng cảm biết của thể xác: sờ chạm thấy (gợn).
6/ Ý thức (nghĩ tính) là chức năng biết suy nghĩ, tính toán (mang tính vị kỉ chủ động).
7/ Mạt-na (tiềm thức) là kênh lọc, có chức năng thu gom tạm thời dữ kiện, chọn lựa và thúc
giục hành động (mang tính vị kỉ kín đáo), rồi đưa ra dùng hoặc đưa vào tàng thức.
8/ A-lay-ia (tàng thức) đóng vai trò kho chính (lâu dài), có chức năng lưu giữ các kinh nghiệm tri giác và cảm giác của con người.


Nguồn: Tâm trạng và sơ đồ chức năng của Tâm
Xem thêm Tooltip: Cấu tạo Tâm
+ Bản chất của Tâm thức tự nhiên:
NHỮNG TRÌNH ĐỘ CỦA TÂM THỨC
NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA NHỮNG TÂM THỨC CHÍNH VÀ CÁC NHÂN TỐ TINH THẦN
NHỮNG SỰ PHÂN BIỆT XA HƠN
BẢN CHẤT TỰ NHIÊN CỦA TÂM THỨC
Bây giờ, đối với nhận thức hay tỉnh thức, có một hiện tượng được định nghĩa trong những dạng thức của hoạt động tinh thần: hoạt động tinh thần của sự hiểu biết hay tỉnh thức đối với việc gì đó. Những đặc trưng xác định của nó là (1) rõ ràng, (2) tỉnh thức, tỉnh thức về việc gì đó hay nhận thức về việc gì đó, và (3) kinh nghiệm việc gì đó. Trong kinh nghiệm việc gì đó, có những cảm xúc khác nhau, tích cực hay tiêu cực; nhưng, tuy thế, bản chất của hành vi tinh thần tự nó là trung tính. Cho dù một hành vi tinh thần là hữu ích hay tai hại tùy thuộc vào loại nhân tố tinh thần mà nó thật sự là [và không trên bản chất tự nhiên của nó như hành vi tinh thần].
Thí dụ, sân hận không là một bộ phận của bản chất tự nhiên của tâm thức: nhưng đúng hơn, sân hận tùy thuộc vào những nguyên nhân và điều kiện [nhằm để nó sinh khởi. Bản chất tự nhiên của việc gì đó, trái lại, không gián đoạn từng cơn và không tùy thuộc vào các nguyên nhân và điều kiện nhằm để sinh khởi và hiện diện]. Những nhân tố tinh thần nào đó, rồi thì [chẳng hạn như sân hận], được sản sinh căn cứ trên các nguyên nhân và điều kiện và chỉ trở thành ưu thế lúc ấy.
Khi sân hận được phát triển hoàn toàn, lúc ấy thật khó khăn để phân biệt sân hận với tự tâm thức hay hành vi tinh thần. Tuy thế, qua thực tập, chúng ta có thể nhất tâm để nhìn vào sự sân hận ấy khi nó phát triển, và chúng ta có thể quán sát nó sinh khởi và dừng lại. Tự hành động ấy, của việc quán sát, có khả năng để làm giảm thiểu năng lực của sân hận. Do vậy, khi một thể trạng hay nhân tố tinh thần nào đó sinh khởi, nó có thể bị ảnh hưởng.
Đó là một ít về bản chất tự nhiên của tâm thức.
MỐI QUAN HỆ GIỮ CẢM XÚC VÀ THÂN THỂ
Một vấn đề hấp dẫn khác nữa mà tôi muốn hướng dẫn cho việc nghiên cứu thêm sau đây. Qua sự thay đổi của những yếu tố nào đó của thân thể vật lý, một số cảm xúc nào đó có thể sinh khởi. Sự phát triển một thái độ tinh thần cũng có thể ảnh hưởng những sự thay đổi nào đó trong thân thể. Lấy thí dụ, sân hận và thù oán. Khi sân hệ xảy ra, sự tuần hoàn máu trong một bộ phận nào đó của não bộ là lớn mạnh hơn; trái lại một bộ phận khác của não bộ trở nên năng động hơn với từ bi. Cho nên, trong trình độ vi tế, chúng ta cần khảo sát với những gì đến trước: một sự thay đổi trong não bộ đem đến một cảm xúc, hay một cảm xúc mang đến một sự thay đổi trong não bộ. Điều này cần nghiên cứu xa hơn.
Thí dụ, có những thay đổi trong tế bào thần kinh. Bây giờ điều này hơi vi tế, nhưng khi chúng ta có một tích lũy những thay đổi ở trình độ vi tế, sau đó chúng ta thấy sự thay đổi ở trình độ thô. Khi chúng ta sợ hãi, thí dụ thế, nhiều máu tràn đến chân vì thế chúng ta chạy; khi sân hận đến, nhiều máu chạy đến tay vì thế chúng ta đánh. Vậy nên, chúng ta có thể thấy từ những thí dụ đó rằng mối quan hệ giữa các cảm xúc và thân thể thô phù thay đổi. Sự lưu chuyển của máu, thí dụ thế, là một hình thức thô mà trong ấy sự thay đổi biểu hiện, nhưng ở tại trình độ nào mà ở đấy có sự nối kết này giữa những thay đổi trong tinh thần và những sự thay đổi trong thân thể?
Mật tông Đạo Phật và Ấn Độ giáo nói về một trình độ vi tế của năng lượng: hành vi của tâm thức hay tinh thần chuyển động trong ấy. Nó được nói như một loại "gió bên trong (nội phong) và điều ấy phải muốn nói đến điều gì đấy như năng lượng đã làm cho sự nối kết giữa trình độ thân thể thô và hành vi tinh thần. Đây là điều gì đó chung nhất giữa những phân tích của Ấn Độ giáo và Phật Giáo. Cho nên đó là vấn đề thật sự cho các nhà khoa học khám phá: Điều gì là sự trung gian hay cơ cấu cho mối liên kết cho những thế giới tinh thần và vật lý?
Trong những truyền thống cổ truyền Ấn Độ, cả Phật Giáo và không Phật Giáo, có điều gì đấy gọi là một "sự tỉnh thức tiếp xúc nội tại". [Phật Giáo định nghĩa nó, nhân tố tinh thần mà trong sự tiếp xúc với đối tượng nhận thức, phân biệt rằng đối tượng này là vui, khổ, hay trung tính, và vì thế phục vụ như nền tảng cho việc kinh nghiệm nó với một cảm giác hạnh phúc, khổ não, hay trung tính]. Căn cứ trên sự tỉnh thức tiếp xúc nội tại này điều kiện đạt được, nhận thức thân thể sinh khởi và và đấy là điều kiện tức thời trước đấy cho nhận thức tinh thần của khổ đau hay vui sướng. (Nguồn: Bản chất của Tâm thức tự nhiên - Đại lai Lạt Ma)
+ Những nguy hiểm trong tập thở tâm linh:
Phong trào yoga đang phát triển mạnh ở Việt Nam với các hướng dẫn thực hành thở. Xin trích đoạn những lời của bà A.A.Bailey:
... Đôi lời khuyến cáo về việc thực hành các bài tập [221] thở, trừ những người trước đã qua nhiều năm tham thiền đúng cách và thanh lọc các hạ thể. Khi hành giả còn thiếu kinh nghiệm và chưa thanh khiết, thì việc thực hành các bài tập thở sẽ thực sự rất nguy hiểm. Chúng tôi không thể nhấn mạnh điều này nhiều hơn. Hiện nay có nhiều trường dạy cách tập thở, và nhiều người biểu diễn cách tập thở như một phương tiện phát triển tinh thần. Tập thở không chút gì liên quan đến sự phát triển tinh thần. Tuy nhiên, tập thở lại liên quan nhiều đến việc phát triển thần thông loại thấp, và việc tập thở dẫn đến nhiều khó khăn và nguy hiểm. Ví dụ như hành giả có thể có thần nhãn hoặc thần nhĩ qua việc thực hành một số bài tập thở. Thế nhưng khi không thực sự hiểu được quá trình dùng trí tuệ để kiểm soát đúng cách cái “bản tính tâm thông hay thay đổi” này, thì hành giả đã chỉ thành công trong việc tự đẩy mình bước vào những lĩnh vực mới của hiện tượng. Y phát triển những quan năng mà y hoàn toàn không thể kiểm soát, và rất thường khi nhận thấy rằng y không thể nào tắt được những âm thanh và những cảnh tượng mà y đã học cách ghi nhận. Y vô phương trốn tránh việc tiếp xúc với cả hai cấp hồng trần và tâm thông, bị giằng xé theo hai chiều hướng, và không còn được an ổn. Bình thường y vẫn nghe thấy các âm thanh và những quang cảnh ở cõi trần, và chúng tự nhiên tác động vào các giác quan của y. Tuy nhiên, khi thế giới tâm thông – với những âm thanh và cảnh tượng riêng – cũng tác động thì y không còn tự bảo vệ được. Y không thể nào nhắm mắt và thoát ra khỏi những khung cảnh tâm thông bất hảo.
Cách đây không lâu, một Tiến sĩ Thần học là mục sư của một nhà thờ lớn viết thư cho tôi biết rằng ông đã áp dụng [222] những bài tập hơi thở, với ý muốn cải thiện sức khoẻ, do một người thầy đến thành phố ông chỉ dạy. Kết quả của sự thiếu hiểu biết với ý tốt này là ông đã mở một khả năng tâm thông là nội nhĩ. Trong bức thư gửi cho tôi ông viết “Khi đang dùng máy đánh chữ để viết thư cho bà, tôi nghe đủ loại tiếng nói, những lời và âm thanh không thuộc về cõi trần. Tôi không thể nào làm cho chúng im lặng, nên tôi sợ bị loạn trí. Xin bà vui lòng cho tôi biết cách nào để có thể tắt chúng được không?” Trong mười năm qua, hàng mấy trăm người đến gặp tôi yêu cầu giúp đỡ, vì hậu quả của việc thiếu đắn đo phân biện khi làm theo lời khuyên của những ông thầy dạy luyện hơi thở. Họ ở trong tình trạng thật tuyệt vọng, và thường với điều kiện tâm thần nghiêm trọng. Chúng tôi có thể giúp được một số người. Một vài người trong họ chúng tôi không thể giúp gì được và rốt cuộc phải vào bệnh viện tâm thần để chữa chứng loạn trí, hoặc phải vào viện điều dưỡng do tình trạng mất thăng bằng. Nhiều kinh nghiệm về các trường hợp kể trên khiến tôi phải đưa ra lời cảnh báo này vì đa số những trường hợp khó khăn về tâm thần mất kiểm soát đều có nguyên nhân là các bài tập hơi thở.
Trong giáo huấn cổ xưa của Đông phương, hành giả chỉ được phép kiểm soát hơi thở sau khi đã thực hiện được đến mức nào đó trong đời sống ba phương tiện đầu của “các phương tiện hợp nhất”. Những “phương tiện” vừa kể gồm có : (i)- Phương tiện thứ nhất là năm giới: Tính vô hại, chân thực với cả chúng sinh, không trộm cắp, không ham muốn, không tham lam. (ii)- Phương tiện thứ hai là năm qui tắc : Thân tâm thanh khiết, vui với số phận, tinh tấn, thấu hiểu tinh thần, và sùng kính Thượng Đế Nội tâm. (iii)- Phương tiện thứ ba là sự thăng bằng đúng thực. Khi tư tưởng, lời nói và hành vi của hành giả [223] đã trở nên vô hại, khi y bất vị kỷ, và hiểu được ý nghĩa của sự thăng bằng – về mặt tình cảm và tư thế của xác thân – thì bấy giờ y có thể an toàn thực hành các bài tập thở, với sự hướng dẫn thích hợp. Dù vậy y cũng sẽ chỉ thành công trong việc thống nhất các năng lượng sống trong cơ thể, và trở thành người có thần thông hữu thức; thế nhưng điều này cũng có chỗ dùng với mục đích hữu ích, nếu y xem mình là một nhà nghiên cứu thực nghiệm.
Vì không theo đúng những bước đầu cần thiết nói trên mà nhiều nhà khảo cứu tài năng đã gặp rắc rối, khó khăn. Một người còn sống xúc cảm và yếu đuối mà thực hành các bài tập hơi thở để phát triển nhanh hơn thì đó là điều nguy hiểm, và bất cứ người thầy nào tìm cách truyền dạy các bài tập này cho những nhóm đông học viên, như người ta vẫn thường làm, tức là đang tạo ra những rắc rối, khó khăn cho chính mình và những người theo mình. Thời xưa, chỉ thỉnh thoảng các huấn sư mới chọn được một người để giáo huấn theo lối này. Bấy giờ còn có một cuộc rèn luyện kèm theo để hành giả có thể giao tiếp với linh hồn đến mức nào đó, nhờ thế mà linh hồn có thể hướng dẫn những năng lượng đã được hơi thở khơi dậy để xúc tiến các mục tiêu của linh hồn và công việc phụng sự thế gian.
Thế nên, chúng ta sẽ không làm gì nhiều hơn là giữ cho hơi thở êm nhẹ và điều hoà, rồi hoàn toàn rút tư tưởng ra khỏi thân xác và bắt đầu việc tập trung. [Từ trí tuệ đến trực giác tr.221-223 – A.A.Bailey]
- Ở đây, tôi không có ý định đưa ra bất cứ bài tập thở nào mà các đệ tử hoặc người tầm đạo có thể sử dụng—hoặc có thể hơn là lạm dụng. Trách nhiệm đầu tiên của họ là phải ý thức được các xung lực bên trong chính họ có thể kích thích các luân xa hoạt động, và như thế tạo ra các điều kiện và các diễn biến trên trần gian. Khi người đệ tử đã thiết lập các điều này một cách vững chắc và rõ ràng trong tâm trí của mình thì bấy giờ không gì có thể ngăn chận chúng lộ diện vào đúng thời điểm. Nhưng những diễn biến này phải tuân theo một tiến trình tụ sinh và xuất hiện có trật tự.
Các huynh đệ thân mến, các bài tập thở khi không được tư tưởng định hướng, hoặc không là kết quả của việc đạt đến và duy trì trụ điểm, chỉ có hiệu quả sinh lý thuần túy. Một cách đều đặn, trong khi thực hiện việc hít vào và thở ra, người đạo sinh phải duy trì việc suy nghĩ tích cực sao cho hơi thở khi được đưa ra được kiểm soát và thấm nhuần với một ý tưởng nào đó. Đây chính là điểm mà người tầm đạo bậc trung thường thất bại. Thông thường người tầm đạo quá chú tâm vào tiến trình điều khiển hơi thở và quá bận tâm mong mỏi có được một vài kết quả phi thường đến nỗi mục đích sống động của phương pháp thở bị quên đi. Mục đích đó là mang năng lượng và đưa thêm phẩm tính vào sự sống của các luân xa thông qua phương tiện của một tư tưởng được trình bày và phóng xuất ra, để thể hiện một ý tưởng (idea) nào đó được cảm nhận và xác định.
* Mời xem thêm bài viết tổng hợp các giáo lý giảng về tu thiền, trong đó có tham thiền tập thở tâm linh có nhiều nguy hiểm nếu tu không đúng thứ tự bài bản. Mời xem: Tổng hợp những nguy hiểm trong tu thiền
+ Phân loại cách gọi linh hồn người chết
Vong linh - người chết thông thường, cách gọi phổ biến - cũng là ma, quỷ
Hương linh - linh hồn phá thai, chết uổng - Bất đắc kỳ tử ....
Anh linh - người lính ...
Chân linh - phật tử đã quy y chân chính tu hành
Giác linh - đại đức giác ngộ thành tựu tu hành (Sư thầy chùa Khai Nguyên khai thị)
* Văn - Tư - Tu: Thứ tự trong tu hành không thể đảo ngược, để đảo bảo có sự TƯƠNG ỨNG trong Tâm - Ngoài Thân, cũng là ứng câu "Người tụ theo nhóm, người thiện thì tụ hội với người Thiện, người ác thì gặp và tụ hội với ác". Vậy nên, cần lưu ý thứ tự tu hành nếu muốn tu thành tựu bất cứ pháp môn nào, cụ thể:
1- Người thiện mới có thể tu: Điều kiện tiên quyết để thực hành các pháp tu hành phát triển trí tuệ và hướng đến giải thoát, đó là cần phải là Thiện nam tử - Thiện nữ nhân như trong kinh Phật thường dậy.
+ Người thiện lành mới có thể tu hành thành tựu, do vì thì nghiệp chướng tham sân si nhẹ nên bộc lộ ra thân tâm khỏe mạnh, ít bệnh, hành vi thiện lành, lời nói bình hòa rễ nghe, hợp đạo, tướng mạo cân đối hài hòa thanh tú, do đã từng trải qua nhiều kiếp tu hành đạo làm người quân tử..... Người thiện thì mới có cơ hội gặp Pháp chánh đạo để học, gặp được Thiện tri thức hướng đạo.
+ Người bất thiện thì không thể tu hành thành tựu, do vì nghiệp chướng tham sân si sâu nặng nên bộc lộ ra thân tâm nhiều bệnh, bệnh nặng, sức khỏe yếu, hành vi bất lương, lời nói khó nghe, rễ thường nóng giận, tà tri tà kiến, tướng mạo mất cân đối hài hòa, xấu xí, âm khí nhiều, hung dữ ..... Người bất thiện thì thường gặp và theo học Pháp và thầy ngoại đạo, lắm tà tri tà kiến, thật khó mà có thể cầu gặp được Thiện tri thức hướng đạo.
2- Chữ Văn: Vặn là học hỏi. Những đệ tử của Bụt gọi là thanh văn (sravaka), là người nghe giáo lý để tu học. . Khi nghe giảng dạy về giáo lý, khi đọc Kinh, khi pháp đàm, ta thực tập văn học. Vặn học tức là học nghe. Học nghe, ta phải có thái độ cởi mở, phải thao thức muốn hiểu, muốn thực hành, như thế mới gọi là văn học. Còn nếu nghe để đàm luận, nghe chỉ để phê phán và chỉ trích, nghe để chứa chấp kiến thức rồi khoe khoang, đó chưa phải là văn học.
Người thiện lành thì cần chăm chỉ đọc và nghe giảng nhiều sách kinh điển của Thánh hiền, giúp cho trong tâm tích tập nhiều kiến thức chánh đạo, đây gọi là người TRONG TÂM đã có cái cần Giác ngộ nhanh. Đây là hành vi tương ứng với câu "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học" là một trong tứ hoằng thệ nguyện của người muốn tu hành có thành tựu. Cần phải là người đa văn trước, sau đó mới đến bước tìm cầu thiện tri thức chỉ dạy để nhanh Giác ngộ, tiền đề để tu đạo thành tựu chân thật.
3- Chữ Tư: Tư là suy gẫm, tư duy, quán chiếu những điều mình nghe. Ta nghe một điều gì, dù điều đó từ một vị đạo sư nổi tiếng nói ra ta cũng phải tư, tức là phải thẩm xét giá trị ứng dụng của những điều đó. Ta không mù quáng nghe theo vô điều kiện. Sau khi nghe rồi, phải tư. Trong khi đang nghe, không tư, nghe là nghe mà thôi. Nghe xong rồi lúc đó mới quán chiếu, mới suy tư (reflecting). Tư là đem kinh nghiệm, đem trí tuệ, đem khổ đau của mình ra để mà xét nghiệm. Xem thử những điều mình nghe có thể trả lời được những nỗi đau khổ, những thắc mắc, những thao thức của đời mình hay không, như thế gọi là tư học.
Tư cũng hiểu là Tư vấn - Cần một vị Thầy dẫn đạo. Muốn nhanh Giác ngộ, chánh lầm lạc vào ma đạo tà tri tà kiến thì người khôn ngoan cần phải tìm và làm đệ tử bậc Thiện Trí thức để được chỉ dạy. Khi trong Tâm đã có kiến thức, thì bậc Thiện tri thức mới có thể giúp ta khai ngộ đạo được.
4- Chữ Tu: Nghe giống như gieo hạt giống vào đất. Thực tập là tưới tẩm cho hạt giống có thể nẩy mầm. Thực tập là tu, giai đoạn thứ ba gọi là tu học. Nếu không đem ra thực tập thì việc nghe không có lợi ích nào cả.
Thánh hiền dậy, nếu chỉ học Giác ngộ thôi thì không khác gì người thông hiểu tất cả các món ăn bầy trong mẫm cỗ, và họ chỉ nhìn ngó thì KHÔNG thể no bụng được, cũng KHÔNG thể thẩm thấu được mùi vị của từng món ăn được. Vậy nên học thì phải hành, thật hành để có thể thâm nhập hiểu thấu Diệu nghĩa trong kinh văn nói, mới gọi là người chân thật thành tựu. Người có thể tu một kiếp được "Đại ngộ đạo" chẳng qua là kết quả tu hành hàng trăm kiếp sống rồi, khi đủ nhân duyên tụ hội, một câu khai ngộ khiến họ chân thật đắc đạo là có, như trong Kinh Phật có nói....
Nhờ quá trình văn, tư và tu mà lời nói và hành động của ta mỗi lúc mỗi tương ứng. Ví dụ một người giảng giải rất hay về đạo làm người quân tử/ năm giới, nhưng vẫn chưa thực tập năm giới một cách vững chãi. Nhờ quá trình văn, tư và tu nên sự thực tập năm giới càng ngày càng vững; và lời nói của ta đi đôi với hành động, ngôn hành tương ưng. Nói theo Vương Dương Minh là tri hành hợp nhất.
=> Tu đúng NHƯ PHÁP TU HÀNH rất quan trọng, cho nên có câu "Sai một ly đi ngàn dặm". Tại sao nhân loại vẫn mãi chẳng tiến bộ trên con đường giải thoát luân hồi, là vì "NGƯỜI TỤ THEO NHÓM", một khi đã xa vào nhóm ngoại đạo, tà đạo thì rất khó thoát ra, vì hết kiếp này đến kiếp khác họ cứ tái sanh lại tụ hội một nhóm, đây cũng là cửa ải mà bất cứ ai muốn tiến bước trên đường tu Chánh đạo đều cần phải Giác ngộ và tu trí tuệ phân biện để khôn khéo, chịu đựng nhẫn lại mọi chướng ngại để vượt thoát ra khỏi lực lứu kéo, hấp dẫn của nhóm. Nếu không họ cứ mãi hết kiếp này đến kiếp khác luẩn quẩn trong cấp độ tiến hóa của nhóm, ví như cứ học mãi "Cấp II" mà chẳng thể tiến lên học "Cấp III" vậy. (Nguồn tham khảo: Văn Tư Tu - Ts Thích Nhất Hạnh)
+ Pháp đoán giải thiên cơ - Dụng cải mệnh như ý - Quyết chiến thắng thiên mệnh - Thành tựu đạo người quân tử - Hướng đến Đạo giải thoát luân hồi sinh tử.
+ Tu Tâm đúng pháp: Thánh hiền dậy, tu hành cần nhất nhất có sự tương ứng trong tâm ngoài thân. Tâm tu trước, Thân hành sau mới mong không phát sinh bệnh họa nơi Thân. Điều kiện tiên quyết cần có là học hiểu giáo lý, tu làm người Thiện lành, sau đó mới tu các pháp tu nâng cao mong có thành tựu đạo quả. Ví như:
- Tu trừ tâm tham ăn: Giác ngộ giúp Tâm tự ít ham muốn, Tâm tham lam đã giảm nhiều do hiếu biết ăn đúng dưỡng sinh, ăn chay chỉ có tốt không xấu. Sau đó thực hành từ từ, giảm từ ăn nhiều thành ăn ít, lắng nghe cơ thể, nếu Tâm còn thấy đói mà chỉ dùng ý chí nhẫn chịu kéo dài thì Thân sẽ rễ suy nhược, phát sinh bệnh nặng. Vậy nên, tu đúng và có thành tựu thì thân thể điều hòa, Tâm không thấy đói cồn cào, không phải nhẫn lại chịu đựng.
- Tu Thiền định đúng: Người Thiện lành thì Tâm tham sân si kêu mạn nghi ít phát khởi vọng tưởng làm chướng ngại, Thân thể điều hòa ... Họ rễ dàng vượt qua sự nóng lạnh của thời tiết chứ không phải mới tu lại tham muốn thành tựu nhanh, Dụng ý chí nhẫn chịu cái rét run cầm cập => Thân thể sẽ phát sinh bệnh. Hoặc Dụng ý chí nín nhịn hơi thở cho rễ nhanh vào được định, nhập định như thế làm cho tuần hoàn máu kém lưu thông, thiếu hụt ô xy, chân tay tê bì ... lâu ngày rễ sinh bệnh, nguy hiểm hơn thì tẩu hỏa nhập ma. Vậy nên, tu đúng là tu hành kiên trì, bắt đầu từ ngồi thiền mỗi ngày 5 phút, tăng nên sau nhiều năm mới tăng đến vài giờ, vài ngày ... Thiền định cần có vị Thiện tri thức dẫn đạo mới mong chánh được Họa hoạn rất nhiều nguy hiểm trong quá trình tu hành.
- Trên đây là 2 ví dụ, trong việc tu hành đều cần sự đều đặn, từ từ tiệm tiến, giúp tăng tiến liên tục nhưng bền vững lâu dài, chánh phát sinh bệnh nạn do tu sai, tu không có vị Thiện tri thức dẫn đạo.
+ Tâm Ðược Tu Tập
1. - Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói. Và tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Kẻ phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm kẻ phàm phu ít nghe, không tu tập được.
2. Tâm này, là sáng chói. Và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm bậc Thánh đệ tử nghe nhiều có được tu tập.
3. Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, vị Tỷ-kheo phát từ tâm; vị ấy, được gọi là vị Tỷ-kheo trú Thiền tịnh không có trống không, làm theo lời dạy bậc Ðạo Sư, là người làm theo giáo giới, ăn đồ ăn khất thực của xứ, không có uổng phí. Còn nói gì những người làm cho sung mãn từ tâm ấy.
4-5. Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, vị Tỷ-kheo tu tập từ tâm, tác ý từ tâm; vị ấy, được gọi là vị Tỷ-kheo trú Thiền tịnh không có trống không, làm theo ..... làm cho sung mãn từ tâm ấy.
6. Phàm những pháp nào, này các Tỷ-kheo, là bất thiện, thuộc thành phần bất thiện, đứng về phía bất thiện, tất cả các pháp ấy đều được ý đi trước. Ý khởi trước các pháp ấy. Các pháp bất thiện theo sau.
7. Phàm những pháp nào, này các Tỷ-kheo, là thiện, thuộc thành phần thiện, đứng về phía thiện, tất cả các pháp ấy đều được ý đi trước. Ý khởi trước các pháp ấy. Các pháp thiện theo sau.
8. Ta không thấy một pháp nào khác, do pháp ấy, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như phóng dật. Với người phóng dật, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.
9. Ta không thấy .... do pháp ấy, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận, như không phóng dật. Với người không phóng dật, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận.
10. Ta không thấy ... do pháp ấy, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận, như biếng nhác. Với người biếng nhác, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Trang 11)
+ Bài viết về nôi dưỡng vẻ đẹp Thân Tâm: Tám điều Phật dạy về Dưỡng Tâm
+ Phong thủy cát hung - Lời dạy đáng nhớ: Nguyên tắc cần lượng sức mình - Hợp với phúc mình, tùy cơ duyên mà chơi cây, trồng cây cho phù hợp, việc gì quá cũng không tốt.
+ Cây trồng cát hung: Dân gian có câu "Thần cây đa - Ma cây gạo", đây là đúc kết đúng, phù hợp với Phật pháp. Thần Quỷ cũng có thiện ác. Cây có Thần thiện thì ít gây hung họa cho người trồng, cho nhà ở, cơ quan. Nhưng với cây có ác thần, ác quỷ thì họ sẽ gây ra nhiều hoạn nạn cho chủ nhân, gia đình, cơ quan. Những đại ác quỷ thần đến các Sư thầy tu hành tinh tấn cũng còn muốn lánh xa, là vì dù bản thân không ngại, nhưng lo cho chúng đệ tử sẽ bí ác quye thần gây họa hại không lường. Vậy nên, người thường nên cẩn thận và lánh xa là vậy.
Cây có sinh khí tốt nên trồng như vạn tuế, Thiên tuế, cây Tùng, cây Bách ... thì quỷ thần ác lại thường không nương láu ở cây này, họ thường nương láu ở những cây có nhiều âm khí - Cây trồng lâu năm.
+ Ví dụ: Bệnh viện xin chuyển cây cổ thụ, nhiều đời Lãnh đạo cứ khởi tâm muốn đánh chuyển, muốn bán là cơ quan sảy ra họa hoạn ..., sau khi xin chuyển lên chùa, sư thầy đồng ý, chỉ dẫn hành sự đúng pháp thì mọi sự an ổn; Hay một cơ quan to được tặng 2 cây cảnh rất có giá trị, từ khi mang cây về nhiều truyện lục đục kiện tụng, họa tai trong cơ quan sảy ra ... mời sư thầy xuống xem thì cây có "ác quỷ" nương láu, muốn chuyển lên chùa thầy cũng không nhận, sư thầy khuyên lên chuyển bỏ ra đồi núi bỏ, ai lấy thì tùy ... (Nguồn: Clip ST Thích Đạo Thịnh - Cây có Thần Quỷ dữ)
+ Đoạn ác tu thiện: Bắt đầu đoạn từ trong tâm thì mới thật sự có hiệu quả. Thật sự phát tâm đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, nhưng phải hiểu cho rõ ràng tiêu chuẩn của thiện ác. Trong Cảm Ứng Thiên, ba câu nói này chính là ba thiện căn. Phật nói cho chúng ta biết, tiêu chuẩn đơn giản nhất của thiện ác là ngũ giới thập thiện, nói từ trên sự thì mỗi một điều chúng ta phải thật sự làm được. Thập thiện nghiệp đạo, chữ đạo đó chính là con đường hạnh phúc. Chúng ta muốn cầu phước, phước có từ đâu vậy? Phước từ thiện mà có. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ, không tham, không sân, không si, bạn phải làm thật mới được. Nói từ trên lý, phàm là vì bản thân, vì cá nhân, vì gia đình thì cái ý niệm này là ý niệm ác; vì xã hội, vì nhân dân, vì chúng sanh, cái niệm này là niệm thiện. Đem lý và sự kết hợp lại, chúng ta phát tâm vì xã hội, vì nhân dân, vì chúng sanh mà tu học thập thiện nghiệp đạo thì đây là chân thiện. Vì bản thân ta, vì gia đình mình, vì đoàn thể nhỏ của ta mà tu thập thiện nghiệp thì không chuyển nổi nghiệp, nói cách khác, tuy không làm được tiêu tai, chuyển đổi tai nạn, nhưng cá nhân có thể được phước. Bởi vì cái phước báo đó của bạn quá nhỏ nên không thắng nổi nghiệp lực của bạn. Trong Kinh Đại Thừa thường nói, chúng sanh tạo nghiệp lực tham sân si, sự to lớn của nghiệp có thể sánh với núi Tu Di, sâu như biển lớn. Chúng ta tu được một chút ngũ giới thập thiện liền có thể tránh được, không có đạo lý này. Cho nên, nhất định lý luận với sự tướng phải kết hợp thành một thể mới tạo nên sức mạnh to lớn. Sức mạnh này có thể tiêu nghiệp chướng, có thể thay đổi hoàn cảnh sống của chúng ta.
Tâm lượng của bạn càng lớn thì phước báo của bạn sẽ càng lớn. Ngạn ngữ Trung Quốc thường nói “lượng lớn phước lớn” là vô cùng có đạo lý. Người tâm lượng nhỏ thì có phước báo gì chứ? Nhất định phải mở rộng tâm lượng. Phật Bồ-tát có phước báo lớn, bởi vì tâm lượng của các Ngài lớn, trong Kinh thường nói là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. Phước báo lớn cho nên tai nạn như thế nào họ cũng không có. Cho nên người có tâm lượng nhỏ, mặc dù tu phước, nếu muốn tránh được tai nạn này cũng rất khó khăn. Thế nhưng tóm lại, tu vẫn tốt hơn là không tu. Đây là điều có thể khẳng định. (Nguồn: Trích PS Tịnh Không giảng)
+ Hồi đầu tu thiện không bao giờ là muộn cả: Liên Trì Đại Sư nói, việc ác lúc trước không thể ngăn ngại việc thiện lúc sau. Vậy nên, người dù cả đời sống ác, nhưng lúc lâm chung họ hồi đầu tu thiện vẫn còn kịp, người như thế chúng ta đều nên trợ duyên giúp họ tu thiện một niệm cuối cùng là niệm A Di Đà Phật cực kỳ quan trọng, nếu họ dứt khóa buông xả vạn duyên, một lòng nhất tâm muốn vãng sanh Tây phương cực lạc thì "Một niệm A Di Đà Phật" cuối cùng vẫn có thể vãng sanh được. Đây được hiểu như lời Phật dậy, ví như một căn phòng tối tăm mù mịt, chỉ cần có ngọn đèn thắp sáng nên thì bóng tối ngàn năm cũng tan biến. Ví như, vua A Dục, cả đời làm ác, lúc chết hồi đầu vẫn còn kịp.
Người hồi đầu tu hành cũng thế, ngay sau khi bạn quyết đoạn ác tu thiện, từ ngày bạn thật hành đoạn ác tu thiện thì xem như bạn đang là người thiện rồi nếu không vi phạm giới luật Phật dậy. Nếu đã dứt khoát đoạn ác tu thiện thì không nên nghĩ về quá khứ sống ác nữa. (Nguồn: Theo lời giảng của PS Tịnh Không)
+ Không sợ niệm khởi - Chỉ sợ giác chậm: ... Ý niệm/ Vọng tưởng/ Vọng tâm là tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay, có khi không khống chế được. Hiện tượng này không thể trách quý vị, bởi quý vị là phàm phu, không phải thánh nhân, sức mạnh tập khí nghiệp này vô cùng lớn mạnh, thường khởi hiện hành. Ý niệm này vừa khởi, chính là ý niệm sát đạo dâm vọng, ý niệm vừa khởi lên, niệm thứ hai là A Di Đà Phật, tức là đem niệm A Di Đà Phật thay thế vào, đây gọi là biết niệm Phật. Niệm khiến diệt trừ các tập khí ác nghiệp của chúng ta, từng giờ từng phút phải cảnh giác cao độ. Ý niệm bất thiện khởi lên, A Di Đà Phật cũng lập tức khởi lên, thay thế vào ý niệm bất thiện. Đây gọi là biết niệm, gọi là niệm Phật chơn chánh, niệm Phật có lợi ích thật sự. Niệm Phật như vậy năm ba năm, sức mạnh niệm Phật đã lớn mạnh, trong lúc niệm Phật không còn có ý niệm này khởi lên, lúc này gọi là công phu thành phiến. Vậy thì chúc mừng quý vị, niệm đến công phu thành phiến, đây là công phu rất nhỏ, nhưng chắc chắn được sanh Tịnh độ, sanh vào cõi phàm thánh đồng cư ... (Nguồn: PS Tịnh Không - Tịnh Độ ... 256)
+ Phong thủy: Theo Phật pháp, mỗi người khi sinh ra đời đều mang theo Nghiệp báo về hai khía cạnh Chánh báo là Thân xác và Y báo là hoàn cảnh cư trú, trong đó có nhà cửa và Phong thủy khu nhà đất ở. Phàm phu thì bị Cảnh chuyển, tức là bị hoàn cảnh cư trú ảnh hưởng đến tâm tính của họ, tức là bị phong thủy tốt xấu chi phối thành ra có cát hung họa phúc, nên không thể không xem trọng. Người cực thiện, hàng Thánh nhân thì có thể chuyển cảnh xấu thành tốt - Là cảnh tùy tâm chuyển.
Thánh hiền dạy, Phong thủy là có, nên người xưa nói "Đất phước ở đất phước - Đất phước người phước ở" rất có đạo lý, là vì tất cả đều không ngoài Nhân nào thì Quả đó. Người nhiều phúc báo thì sinh vào gia đình phúc dày để hướng phước, cũng là được ở ngôi nhà, khu đất vượng tốt về phong thủy.
Đức Khổng tủ có nói "Tâm chưa thiện - Phong thủy vô ích" cũng là ý này. Vậy nên, phàm phu khi làm nhà cần đào bỏ đất mùn rác hôi hám và các loại sương cốt cầm thú, tân nền móng bằng đất cát sạch cũng là Phong thủy tốt. Cũng cần thường vệ sinh, bố trí ngôi nhà thoáng đãng sạch sẽ, ánh sáng phù hợp âm dương để giảm thiểu tác hại của trường Khí xấu của hoàn cảnh tri phối, gây ra hung họa cho con người và môi trường thì cũng là cải mệnh. Tất nhiên nếu có điều kiện thì bố trí phong thủy phù hợp Âm dương - Ngũ hành và quy luật vận hành vũ trụ cũng góp phần giúp Khí Chất hài hòa. Tất nhiên, không gì bằng tu hành để thanh tịnh thân Tâm thì chuyển được hoàn cảnh cư chú tốt nhất, bển vững lâu dài, không mất tiền của thuê Thầy Phong thủy mà thường vẫn bất an.
Tâm an, không lo âu sầu muội lo sợ phong thủy tốt xấu cũng đã là tốt rồi, vì nếu cứ suốt ngày lo sợ phong thủy ngôi nhà xấu thì đã làm Mệnh số xấu thêm rất nhiều rồi, theo đó họa nhẹ thành nặng, vậy lo âu để làm gì khi mà Mệnh mình, phước mình chỉ có vậy?
+ Xem Phong thủy: Phong thủy có thật không? Có. Người hiện đại nêu ra hai chữ “phong thủy”, cho là rất thần bí, nhưng kỳ thực hai chữ này lại rất bình thường. Hai chữ này có thể được diễn giải chính là “hoàn cảnh cư trú cùng với sự tu dưỡng của chính mình”, tâm tình đều có quan hệ. Mỗi người một ý thích, không tương đồng, người thích nước mà buộc lên núi ở, thì phong thủy của người đó không tốt, hoặc ngược lại, người thích núi bị buộc sống cạnh nước, phong thủy cũng không tốt. Vậy phong thủy tốt là hoàn cảnh mà chúng ta ở đó, cảm thấy vừa lòng, thoải mái.
Không nên bị mắc lừa mà cho rằng tôi sống nơi này không vừa ý, có rất nhiều bất trắc xảy đến. Bất trắc đó chính là nghiệp báo liên hệ rất ít với hoàn cảnh cư trú. Dù ít nhưng hoàn cảnh cư trú cũng thường dẫn đến phiền não. Một gian phòng bài trí tao nhã tạo cảm giác thoải mái cho người vừa bước vào. Gian phòng bừa bộn, dơ bẩn làm cho người bước vào cảm thấy không vui. Những việc này có thể thay đổi, không cần người khác, lại càng không cần mời thầy địa lý đến để bố trí lại.
Thân mạng chúng ta bị người khác xếp đặt, chính mình không thể làm chủ, thử nghĩ xem đáng thương đến chừng nào. Người trí biết làm chủ chính mình. .... Phong thủy tùy người mà thay đổi, sự thật này ít người thông hiểu. ....
Đôi khi thầy xem phong thủy cũng có câu nói qua loa thất trách: “đất phước người phước ở”. Họ xem phong thủy tốt, nhưng sau đó, chúng ta lại gặp điều không may, khi ấy họ dẫn câu trên để phủi trách nhiệm, cho rằng đất phước mà chúng ta không có phước. Vì vậy phải thật thấu hiểu, hà tất phải đi xem phong thủy. Chúng ta chỉ cần chuyên tu phước huệ. Có phước, không luận đến nơi nào, phong thủy sẽ tùy theo ta mà chuyển. Nhà Phật nói “cảnh tùy tâm chuyển” cũng vì đạo lý này. Tâm thiện, hoàn cảnh cư trú không tốt cũng sẽ dần dần biến tốt. Ngược lại, tâm bất thiện, hành vi bất thiện thì dù cư trú nơi phong thủy thật tốt, chúng ta vẫn gặp điều xấu. Vì vậy hãy giữ tâm tốt, hành việc tốt, làm người tốt để được hanh thông trong cuộc đời. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Giảng về Phong Thủy: Thông thoáng - Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên là Phong thủy tốt (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ KINH CŨ, RÁCH PHẢI TIÊU HỦY NHƯ THẾ NÀO ĐỂ KHÔNG BỊ PHẠM LỖI.
Hãy nên để ở chỗ thanh tịnh trong nhà, dùng một cái nồi lớn hoặc một cái chậu sắt Tây to, phía dưới lót giấy thiếc, đặt kinh lên trên, phía trên lại phủ giấy thiếc để khỏi bị bay lung tung. Chờ khi lửa tắt, thu lấy tro ấy chứa trong miếng vải mới, bên trong lại bỏ thêm cát sạch, hoặc đá sạch, ngói sạch, bỏ nơi chỗ sâu trong sông hay biển, để khỏi mắc lỗi.
Nếu chẳng bỏ thêm cát đá bên trong, tro sẽ nổi lên không chìm, lại trôi tấp vào bờ, rốt cuộc bị ô uế.Đốt kinh mà dụng tâm như vậy ắt có công đức, ắt chẳng bị tội khiên. Nếu không, tôi chẳng dám nói!"
ẤN QUANG ĐẠI SƯ.
+ Tương ứng Tâm - Phúc: Sách Tích phúc cải mệnh nói "Người bị số mệnh trói buộc là kẻ phàm phu bình thường do tâm thường vọng tưởng, duy người cực ác hay cực thiện có thể vượt thoát khỏi dàng buộc của âm dương khí số - Số mệnh không thể trói buộc họ ..., Thiền sư Vân Cốc nói, Thánh hiền xưa nay dạy đạo lý “Mệnh do tự mình tạo, phước do chính mình tìm. Ta làm ác tự nhiên bị tổn phước; Ta tu thiện tự nhiên được phước báo". Trong kinh Phật nói: Muốn cầu phú quý được phú quý, muốn cầu con trai con gái được con trai con gái, muốn cầu trường thọ được trường thọ.
Chỉ cần tu tạo việc lành, thì số mệnh không sao trói buộc được chúng ta ..., Mạnh Từ nói: Bảo rằng cầu mà có thể được, là chỉ những gì ở trong lòng ta có thể làm được. Nếu không phải là những gì ở trong lòng, thì làm sao có thể nhất định cầu được? Hiểu đúng lời dậy này là:
(i)- Phàm phu - Người không tu, sống thuận theo tâm vọng tưởng, không đoạn ác tu thiện thì do số phận an bài, trong mệnh có thì không cầu vẫn có, Mệnh (Tâm địa/ Phúc báo) không có làm sao có thể cầu được. Không có phước mà lại muốn cầu là tâm tham lam muốn cầu, sẽ bất chấp đạo lý mà cầu, như thế chỉ làm hao tổn phước, cái thứ chiếm được cũng vẫn mất khỏi tay - Đây là đạo lý Nhân Quả - Cầu không có đạo lý thì vô ích.
(ii)- Với người cực thiện - Họ tu tạo tích lũy nhiều phúc báu thì hoàn toàn có thể cầu những thứ trong Mệnh không có như công danh phúc quý con cái ...
Thiền sư Vân Cốc nhắc lời Lục Tổ Huệ Năng nói: Tất cả các loại phước điền đều quyết định trong tâm chúng ta. Phước không lìa tâm, ngoài tâm không có phước để cầu. Cho nên trồng phước hay gieo họa, đều do nơi tâm chúng ta. Chỉ cần từ tâm mình đi cầu phước, không có gì mà không cảm ứng ra. Nếu biết từ tâm mình mà cầu, thì không những cầu được nhân nghĩa đạo đức trong lòng, mà công danh phú quý bên ngoài cũng cầu được. Đó gọi là trong ngoài đều được. Nói cách khác, dùng cách gieo trồng ruộng phước để cầu, thì Cầu phú quý, được phú quý; cầu trường thọ, được trường thọ; Cầu gái trai, được gái trai. Điều gì nguyện ước tất xong ngay; điều gì nguyện ước tất xong ngay. Chỉ cần làm việc thiện, cầu ngay tại tâm mình, tâm chính là ruộng phước, đó đạo lý nguyện cầu; tâm chính là ruộng phước, đó đạo lý nguyện cầu!
... Khi nghe Viên Liều Phàm nói mình ít phúc là do không Đoạn ác tu thiện ... Vân Cốc thiền sư bảo: “Ông như vậy không những không có được công danh, mà nhiều thứ khác cũng không có được. Nên biết có phước hay không phước, đều do tâm ta tạo. Người có trí tuệ biết rằng đó là tự mình làm, tự mình nhận lấy kết quả. Người không hiểu biết, lại đổ thừa cho vận mệnh.
Ví dụ như trên thế gian có người giàu sang, sản nghiệp ngàn lượng vàng, đó là họ có phước báo ngàn lạng vàng. Người có sản nghiệp trăm lạng vàng, đó là họ có phước báo trăm lạng vàng. Còn người nghèo cùng chết đói, là họ có quả báo chết đói. Ví dụ như người lành tích đức, trời sẽ cho họ huởng phần phước báo tương ứng; kẻ ác tạo tội, trời sẽ bắt họ chịu tai họa tương ứng. Nói trời, là chỉ thiên lý, tức luật nhân quả tự nhiên, mà không phải có ai ban phước hay giáng họa.”
Tiếp theo là Vân Cốc thiền sư mượn cái thấy của người thế tục để khuyên cha tích đức hành thiện: “Còn việc sinh con trai, giống như chúng ta gieo hạt vậy. Nhân tốt sẽ gặt quả tốt, nhân xấu sẽ có quả xấu. Một người tích chứa công đức được một trăm đời, thì có con cháu trong một trăm đời gìn giữ phước báo của họ. Một người tích chứa công đức được mười đời, thì có con cháu trong mười đời gìn giữ phước báo của họ. Tích chứa công đức được hai - ba đời, thì có con cháu trong hai ba đời giữ gìn phước báo của họ. Còn người chỉ huởng phước trong một đời, đến đời sau lại tuyệt hậu, đó là vì công đức tích chứa chỉ bấy nhiêu. Song tội nghiệp của người đó có lẽ lại không ít!
Hãy coi tất cả những việc trước kia như hôm qua đã chết đi; còn những việc về sau như hôm nay mới sinh ra. Biết sống trong hiện tại. Làm được việc này là ông đã có một sinh mệnh mới. Đó là sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức. Thân huyết nhục của chúng ta còn có khí số nhất định; song còn sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức không bị số mệnh trói buộc, có thể cảm đến thiên lý.
Thiên Thái Giáp trong Kinh thư nói: Trời giáng xuống tai họa còn có thể tránh; tự mình gây ra tai họa thì không thể tránh, ắt phải chịu khổ.
Kinh thi cũng nói: Người ta phải thường xét nghĩ đến hành vi của mình có hợp với đạo trời hay không? Nếu hợp đạo trời, thì phước báo không cầu cũng tự nhiên đến. Cho nên phước hay họa đều là do mình.
Kinh Thư nói: Trời giáng họa tránh được; Mình gây hoạ, khó tránh. Kinh thi nói: Thường phản tỉnh, xét lại mình, hợp hay trái với đạo trời. Gặp phước hay gặp họa, tất cả là do ta. ... Tuy là bảo số trời định sẵn, song vẫn có thể cải đổi. Ông chỉ cần mở rộng lòng đạo đức nhân nghĩa sẵn có, gắng sức làm lành, tích chứa âm đức. Đó là ông tự mình tạo ra phước báo cho mình, người khác muốn cướp giật cũng không được, làm sao mà không huởng được phước?
Kinh Dịch cũng vì những người giữ lòng nhân đức mà tính trước nên đi hướng nào sẽ kiết tường, tránh được những việc hung hiểm, những người hung hiểm, những chổ hung hiểm. Nếu nói vận mệnh nhất định không thể thay đổi, thì làm sao có thể đến chỗ kiết tường, tránh nơi hung hiểm? Chương mở đầu của Kinh Dịch đã nói: Gia đình nào hành thiện, ắt sẽ dư nhiều phước báo, để lại cho con cháu. Đạo lý này ông thực sự có tin không? - TS Vân Cốc hỏi Viên Liễu Phàm.
Ông tin và về quyết tu hành "Đoạn ác tu thiện", đối trước Phật sám hối nghiệp chướng, viết bài thệ nguyện làm 3000 việc thiện ... Thiền sư còn dạy phải trì chú Chuẩn Đề, nhờ sức gia trì của chư Phật
để giúp nguyện ước sớm thành tựu.....
Vân Cốc dạy: Người ta sống trên đời, việc hệ trọng nhất là sống và chết. Nếu có thể xem đoản mệnh và trường thọ không khác, thì tất cả thuận cảnh, nghịch cảnh, giàu sang nghèo hèn, đều bao quát trong đó.
Mạnh Tử nói đến cái học về lập mệnh chỉ bàn đến đoản mệnh và trường thọ, mà không nói đến giàu và nghèo, thành đạt và khốn cùng, cũng chính vì lý do này.
Vân Cốc thiền sư nói tiếp: “... Ông còn động tâm. Khi ông trì chú Chuẩn Đề không cần dụng tâm ghi nhớ, hay đếm bao nhiêu biến, cứ niệm liên tục, không cho gián đoạn. Niệm đến lúc cực kỳ thuần thục, tự nhiên miệng niệm mà tâm không cảm thấy niệm. Đó gọi là niệm mà không niệm. Khi không niệm, trong tâm vẫn tự nhiên niệm. Đó gọi là không niệm mà niệm. Niệm chú đạt đến trình độ đó, thì cả ba: người, chú và niệm đều hợp thành một khối, không còn tạp niệm xen vào, như vậy không chú nào mà chẳng linh nghiệm. Song công phu này, phải kinh qua thực hành, mới lãnh hội được....
Năm thứ 2 sau khi tham kiến Vân Cốc thiền sư, cha đến bộ Lễ thi cử. Khổng tiên sinh đoán số cha sẽ đậu hạng ba, không ngờ lại đậu được hạng nhất. ... Khổng tiên sinh không nói cha sẽ đậu cử nhân, song trong kỳ thi Hương mùa thu, cha lại thi đậu cử nhân...Vân Cốc thiền sư bảo: “Vận mệnh có thể thay đổi”. Lời nói này đến nay đã được chứng nghiệm, khiến cha càng thêm tin tuởng ...
Vân Cốc thiền sư lại bảo: “Mạnh Tử có câu “Tu thân để đợi đó”, là bảo: Tự mình phải luôn luôn tu dưỡng đức hạnh, không nên làm ác gây tội dù là mảy may. Còn như vận mệnh có cải đổi được hay không, đó là tùy thuộc việc tích đức nhiều ít, hợp hay không hợp đạo trời.
Nói đến chữ “tu thân”, là bảo sửa đổi những sai lầm, tội ác của chúng ta, như uống thuốc trị bệnh. Còn bảo “đợi”, là chỉ phải đợi đến công phu tu thân sâu dày, phước báo vun đắp đầy đủ, tội nghiệp tương ứng tiêu trừ, thì vận mệnh sẽ tự nhiên chuyển đổi, trở nên tốt đẹp. Không nên có tư tuởng mong muốn những gì vượt quá phận mình, để cho vọng tâm, dục tuởng làm mờ ám tâm trí, mà phải giữ tâm bình thường, buông xuống mọi vọng niệm sinh diệt.
Đến trình độ này, đã đạt đến cảnh giới tâm như như bất động. Công phu này là cái học chân chánh mà thế gian thọ dụng”.(Nguồn: Link Fai tại: dươngvecuclac)
+ Câu Hỏi 1: Ma ở trong tâm, làm thế nào để tâm Phật thắng được tâm ma? Phật thường ở trong tâm thiện. Nếu có người làm ác, phải làm gì để họ theo thiện bỏ ác?
Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo đã giải thích cho chúng ta vấn đề này. Phật cùng ma là một, không phải hai. Giác ngộ rồi ma liền thành Phật; mê hoặc rồi, Phật biến thành ma. Cho nên, một niệm giác ngộ thì Phật ở tại tâm, một niệm vừa mê, thì ma ở tại tâm. Phật dạy bảo chúng ta phải thường giác ngộ. Một niệm vì chính mình, tự tư tự lợi, chính là ma, tâm này chính là tâm ma. Thay đổi lại ý niệm, vì xã hội, vì chúng sinh, tâm này chính là tâm Phật. Do đó làm thế nào đem cái ý niệm tự tư tự lợi chuyển đổi thành lợi ích xã hội, lợi ích chúng sinh. Đây là mấu chốt vô cùng quan trọng. Người có thể thay đổi được ý niệm, đương nhiên họ có thể đoạn ác hướng thiện.
Câu Hỏi 6: Lưu thông buôn bán tượng Phật có bị coi là làm thân Phật ra máu không?
Mua bán tượng Phật hoàn toàn không có lỗi lầm. Làm thân Phật ra máu là phá hoại tượng Phật một cách cố ý. Hành động phá hoại tượng Phật một cách vô ý là lỗi, lỗi không cẩn thận, không phải tội .(Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Phát tâm trong tu hành: Phát tâm rất không dễ dàng gì phát, thế nhưng phát tâm là quan trọng không gì hơn được, không phát tâm không thể thành tựu .... Phát tâm bồ đề là quan trọng. Sau khi phát tâm bạn nhất định có thể thương yêu chúng sanh. Tâm Bồ đề chính là Tứ Hoằng Thệ Nguyện, chân thật có thể giúp đỡ tất cả chúng sanh. Cái hoằng nguyện này: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ - Phiền lão vô lượng thệ nguyện đoạn - Pháp môn vô lượng thệ nguyện học - Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành. Câu “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, cái “Độ” này chính là giúp đỡ, hiệp trợ.
Muốn giúp đỡ chúng sanh thì chính mình phải có năng lực, phải có đức hạnh, cho nên cần thiết phải đoạn phiền não. Phiền não không đoạn thì trí tuệ không khai mở. Trí huệ là sẵn có, không phải từ bên ngoài mà đến. Trong phẩm Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm, Phật nói rất rõ ràng: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai; do vì vọng tưởng, chấp trước mà không thể chứng đắc”. Vọng tưởng là vô minh, chấp trước là kiến tư, trần sa phiền não. Cho nên chỉ cần đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đoạn nhất, trí tuệ đức tướng trong tự tánh liền hiện tiền.
Trí tuệ không phải từ bên ngoài đến. Do đó, tu học của Phật pháp là tu cái gì? Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô số tông phái phương pháp không giống nhau, lối đi không giống nhau, nguyên lý nguyên tắc là một, đều là tu thiền định. Nhân giới được định, nhân định khai huệ. Cái huệ này là trí tuệ của tự tánh vốn sẵn đủ. (Nguồn: Tịnh nghiệp tam phước - tập 4 - PS Tịnh Không)
+ Kinh dịch - Phàm Thánh đều học thông: ... Cùng lý tận tánh: Đây là một câu được trích ra từ Kinh Dịch. “Cùng lý tận tánh để thấu đạt vận mạng”. Quốc sư Thanh Lương là một người rất có công phu nghiên cứu Kinh Dịch. Bài tựa của kinh này (Kinh Hoa Nghiêm) văn từ rất súc tích, đa phần được trích từ Kinh Dịch. Cùng lý – cùng ở đây nghĩa là không còn gì nữa, lý là diệu lý, chính là đã thấu tột cái lý huyền diệu rồi, lại không còn một cái huyền diệu nào có thể sánh với nó được nữa. Tận tánh – Tận cũng là sạch hết, không còn gì nữa, tánh cũng tận đến cực điểm. Thế nào gọi là tận tánh? Thấu tánh người, tỏ tánh mình và cho đến tánh của vạn vật......
“Di Luân” cũng là một từ được trích từ Kinh Dịch. Trong Kinh Dịch nói “Thay đổi để cho hợp với quy luật của trời đất, cho nên mới có thể phát triển đạo của trời đất” (Dịch dữ thiên địa chuẩn, cố năng di luân thiên địa chi đạo). Đây chính là ý muốn nói Thánh nhơn tạo ra “Sự thay đổi (Dịch)” cho phù hợp với quy luật của tạo hóa. Cho nên đạo lý này là “Di Luân”. Di Luân cũng có nghĩa là “bao la trùm khắp”. Trùm khắp thì không chừa chỗ nào, không có chỗ nào không tới; bao la nghĩa là bao la vạn hữu, tất cả sum la vạn tượng đều được bao bọc ở trong đó. Cho nên nói là Di Luân.......
Hỗn hư không vi thể tánh: Phật giống như hư không, cho nên nói: “Nếu người muốn biết cảnh giới Phật, phải tịnh hóa ý mình như hư không”. Nếu như quý vị muốn biết được cảnh giới chư Phật thì phải tịnh hóa ý mình rỗng rang như hư không. Hỗn là hỗn dung, là dung hội, quán thông, làm cho hợp lại thành một với hư không. Thể tánh được dung hợp như hư không. Mà hư không vốn không có tướng mạo, không có bờ mé, ranh giới. Thể tánh của Phật giống như hư không, cho nên nói “thâu tóm hư không làm thể tánh”.(Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT T.Hóa giảng)
+ Trích Kinh dịch trong Kinh Phật: Hôm nay là một ngày rất quan trọng, là ngày đầu tiên khai đàn giảng Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm....Vì bài tựa nầy bao hàm toàn bộ đạo lý trong Kinh Hoa Nghiêm, cho nên sau khi nghe giảng lời tựa nầy rồi, quý vị sẽ hiểu rõ được ý nghĩa đại cương của Kinh Hoa Nghiêm.
Trước khi giảng lời tựa, tôi muốn nói một chút về vị Pháp sư/ Quốc sư Thanh Lương viết bài tựa - Pháp sư Trừng Quán - Bồ tát Hoa Nghiêm viết.... thời nhà Đường....
Pháp sư có 40 cái răng; người thường thì chỉ có 32 - 34 - 36 hoặc 38 cái. Đức Phật có 40 cái răng, và ngài Trừng Quán cũng vậy.....
Học vấn của Quốc sư rất uyên bác, Ngài đã đọc qua rất nhiều sách, tất cả sách cho người xuất gia, người tại gia, sách Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Ngài cũng đã nghiên cứu tường tận về Kinh Dịch.
Bài tựa này do Bồ tát Hoa Nghiêm viết ra, đương nhiên rất hay, cho nên trước khi giảng Kinh Hoa Nghiêm, đầu tiên phải giảng lời tựa nầy.
Chim bay trên trời, dao chém xuống nước ... không để lại dấu vết (Theo nhục nhãn). Xét theo Nhãn thông, Nước thấu qua gió => Trong nước có một lằn gió, dao chém vẫn để lại dấu vết 24 giờ sau ... nên gọi là Đại dụng/ Dụng đại ...
Động tịnh nhất nguyên: Đây là Thể Đại. Căn nguyên của Động cũng chính là đây. Cội gốc của Tịnh cũng xuất phát từ điểm này. Bản thể này hoàn toàn không có một cái gì gọi là động, cái gì gọi là tịnh. Hễ có động tĩnh thì sẽ có biến đổi, nghĩa là động thì tất biến mà tôi vừa nói. Giống như 64 quẻ Bát Quái[1] trong “Kinh Dịch”, quý vị lắc nó thế nào nếu nó không động thì đó chính là quái gốc, nếu nó động thì sẽ biến thành quái phụ. Nhưng bản thể của sự động tĩnh này là một. Cội gốc của Động chính là Tịnh và ngược lại cũng thế, hai cái này tuy hai mà là một, vì nó vốn từ một nguồn vậy.... Bản thể nó giống như một người mẹ nọ sinh ra hai đứa con. Một đứa gọi là A Động, đứa kia gọi là A Tịnh. A Động gọi mẹ là mẹ, A Tịnh cũng gọi mẹ là mẹ. Cho nên nói đây là sinh ra từ một thể. Trong “Thanh Tĩnh Kinh”- Lão Tử nói:
“Luận về Đạo có thanh có trọc, có động có tĩnh. Trời trong đất đục, trời động đất tĩnh. Nam trong nữ đục, nam động nữ tịnh. Hạ xuống gốc chảy về ngọn mà sinh vạn vật. Trong là nguồn của đục, động là gốc của tĩnh. Con người khéo giữ lòng thanh tĩnh thì trời đất đều quay về.”
“Trong là nguồn của đục”. Lão Tử không nói trong đục là một nguồn, mà nói, trong là nguồn của đục. Động là nền tảng của tịnh, nên nói con người khéo giữ lòng thanh tĩnh thì trời đất đều quay về. Cho dù chúng ta động tịnh hay trong đục, nay tôi nói “Động tịnh nhất nguyên (động tịnh một nguồn)”, động đến cực điểm thì nó phải tịnh, tịnh đến cực điểm thì nó lại phải động; cũng vậy trong đến cực điểm thì nó thành đục, đục đến cùng tột thì nó lại trong. Cho nên không có một sự phân biệt nào vì tất cả đều xuất phát từ một nguồn gốc..... Đây chính là thể của Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Nghĩa là Thể Đại vậy. Vì thể của nó rộng lớn nên bao trùm cả sự Động Tịnh... (Nguồn: Giảng lời tựa Kinh Hoa Nghiêm - HT T.Hóa)
+ Quẻ khôn: Đạo đức theo Kinh dịch
Ðây là quẻ thứ hai trong Kinh Dịch. Quẻ Khôn là quẻ nói về hình tượng của đất. Ðất thì rộng rãi, sâu dày. Người quân tử nhìn đó mà bắt chước, để tâm lượng và đạo đức cũng như đất: rộng rãi sâu dày. Ðất thì nuôi dưỡng mọi hạt giống, trưởng dưỡng cây cỏ, đem lại lợi ích cho muôn vật. Người quân tử nhìn đó nên bắt chước tính đất: trưởng dưỡng, lợi lạc kẻ khác. Nói về rộng rãi thì chẳng có gì bằng lòng đại bi. Nói về sâu dày thì chẳng gì hơn lòng nhân. Tu theo quẻ Khôn thì mình cần nuôi dưỡng lòng đại bi nhân từ, lúc nào cũng sẵn sàng giúp người, thành tựu người. Ðối xử với kẻ khác, bậc quân tử chỉ dùng đạo đức, mong sao có thể thật sự giúp ích cho người; chẳng dùng thủ đoạn, tính toán vị kỷ, chẳng hời hợt trên đầu môi chót lưỡi để vừa lòng người. Do lòng từ bi, bậc quân tử lúc nào cũng ôn hòa nhu thuận, không để ý nghĩ lời nói ác ôn giận dữ, thâm độc đố kỵ, hại người tổn đức, có cơ hội khơi dậy. Tu đạo Càn là tu trí huệ, tu đạo Khôn là tu đức hạnh, từ bi nhân hậu vậy. (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
+ Quẻ Càn: Ðây là quẻ thứ nhất trong 64 quẻ của Kinh Dịch. Ðức Càn là đức thuần dương, hết sức cương quyết mạnh mẽ. Người có thân tu theo đạo Càn thì hành động không làm ác, không làm trái nhân nghĩa, ngược luân thường. Miệng không nói lời hủy báng, phá hoại kẻ khác hay dối trá, hiển độc, giả dối. Tâm không chút mờ ám, vẩn đục bởi tư lợi ích kỷ, hay nhỏ hẹp ganh ghét. Tâm người theo đạo Càn thì lúc nào cũng quang minh, chính đại, khoan dung độ lượng. Không bao giờ để cho hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng phá hoại lý tưởng và chí hướng bên trong. (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
+ Quẻ Truân: Người quân tử sắp đặt, sửa sang. Ví dụ, khi biết trước thời thế suy vi, nạn dói rét sắp đến, người quân tử lo tích lũy lương thực, củi lửa phòng thân .... (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
Xem thêm trích đoạn: Lời tựa Kinh Hoa Nghiêm liên quan đến Kinh dịch
+ Các cấp độ thấy nghe hay biết của các hạng người phàm phu, thánh nhân hàng thanh văn, duyên giác, Bồ tát và đức Phật:
-Phàm phu thuần vô minh: Cái thấy nghe hay biết của vạn sự đang sảy ra và chấp vào đó, do đó họ sân giận hận thù, theo đó ứng sử theo bản năng sinh tồn, bất kể là hại mình hại người, họ sống ác mà không biết mình ác, cũng đủ khôn ngoan thông minh để chọn cách ứng sử lợi mình hại người => Phiền lão khổ đau phát sinh theo xúc cảm thuần túy.
-Phàm phu vô minh ích kỷ: Họ thấy biết với chút trí tuệ hiểu biết phân biệt ích kỷ hẹp hòi khi đối người tiếp vật, họ cũng chấp chặt vào đó, cũng sân giận hận thù, nhưng họ dụng trí tuệ và khả năng nhẫn chịu, để phân tích đánh giá trạng huống, rồi tìm chọn cách ứng sử lợi mình hại người càng nhiều càng tốt, họ khéo chuyển tâm sân hận thành thù oán (Dư âm của sân hận), theo đó họ dụng bất kể phương tiện độc ác, phi pháp nào để thỏa mãn sự thù oán của họ, mà không hề quan tâm tới sự khổ đau, khổ đau cùng tột của kẻ khác sẽ phải gánh chịu, họ cũng luôn tìm cách ẩn dấu kín sự xấu xa ác độc của mình mà phàm phu vô minh thường không rễ biết là họ là người sống rất bất thiện, sân hận - tham lam dâm dục như sói - cọp. Ích kỷ si ám nhu Sư tử. Kiêu mạn nghi ngờ như rắn độc vậy.
-Phàm phu có trí tuệ phân biện
-Phàm phu
.... PS TỊNH KHÔNG: Ở vùng ngoại ô xa xôi xứ Cảng Thơm (Hongkong), có một cõi Tịnh Độ được bao bọc bởi một quẩn thể núi non, nơi đó đang hiện diện một bậc cao tăng đại đức đã tám mươi chín tuổi, Ngài là một bậc lãnh tụ tôn giáo thế giới - lão pháp sư thượng Tịnh hạ Không. Ngoài việc tiếp kiến các vị khách đến từ các nơi trên thế giới, mỗi ngày Ngài đều dành ra bốn tiếng đồng hồ để giảng kinh dạy học nơi phòng thu, xưa nay chưa từng gián đoạn. Nội dung dạy học là kinh “Vô Lượng Thọ”. Một bộ kinh tối trọng yếu của tông Tịnh Độ. Đến năm nay đã trải qua mười bốn lần tuyên giảng. Tuy là kinh Phật, nhưng kinh giáo mà Lão pháp sư giảng có thể viên dung vạn pháp, bao trùm hết tất cả, người lấy trọng tâm là tam giáo Nho Thích Đạo trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, thông qua vệ tinh và mạng internet để truyền bá khắp thế giới.........(Nguồn: dẫn từ tuyên giảng “Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú” của PS Tịnh Không)
* Pháp sư Tịnh không trả lởi rất nhiều câu hỏi hay, mời xem trong sách TUYỂN CHỌN HỌC PHẬT VẤN ĐÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
+ Tòa nhà Thiện kiến trên cõi trời: Trên đỉnh núi Tu-di sơn vương có thành của cõi trời Tam thập tam.
- Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có cung điện Đế Thích, dọc ngang một ngàn do-tuần; tường vách cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến, vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
- “Phía Đông ngôi nhà Thiện kiến có vườn rừng tên là Thô sáp, ngang rộng độ một ngàn do-tuần; ...
- “Phía Nam cung điện Thiện kiến có khu vườn tên là Họa lạc, ngang rộng một ngàn do-tuần; ....
- “Phía Tây ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Tạp, ngang rộng một ngàn do-tuần,....
- “Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Đại hỷ, ngang rộng một ngàn do-tuần, ...
- “Ở quãng giữa vườn Thô sáp và vườn Họa nhạc có ao Nan-đà, ngang rộng một trăm do-tuần; ...
- “Giữa hai khu vườn Tạp và khu vườn Đại hỷ có cây tên là Trú độ, chu vi độ bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, ...
- “Ngoài ra các cung điện khác của Đao-lợi thiên, ngang rộng một ngàn do-tuần, ...
- “Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có hai đường cấp dẫn đến cung điện Đế Thích. Phía Đông ngôi nhà Thiện kiến có hai đường cấp dẫn đến khu vườn Thô sáp; lại có hai đường cấp dẫn đến vườn Họa lạc; lại có đường cấp dẫn đến trong khu vườn Tạp; lại có đường cấp dẫn đến khu vườn Đại hỷ;....
...“Lúc này, Thích-đề-hoàn Nhân mặc vào thân mình những đồ trang sức quý báu cùng anh lạc, ngồi trên đầu thứ nhất của Y-la-bát Long vương, kế đó, hai bên mỗi đầu còn có mười sáu vị Thiên vương ở trên đỉnh đầu Long vương này, theo thứ tự mà ngồi. ... Tùy theo công đức mà những người theo hầu được thụ hưởng sự hầu hạ ... chẳng đồng nhau....
“Lúc vào trong vườn Thô giáp, thì thân thể trở nên thô nhám. Lúc vào vườn Họa lạc, thì thân thể tự nhiên có những sắc màu như vẽ dùng để vui đùa. Lúc vào vườn Tạp, ngày 8 - 14 - 25 của mỗi tháng, ngoại trừ người nữ A-tu-luân, các thể nữ được thả tự do để cùng các Thiên tử ở trong vườn này cùng du hí hỗn tạp với nhau, cho nên gọi là vườn Tạp. Lúc vào vườn Đại hỷ, thì có thể vui đùa một cách hoan hỷ, cho nên gọi là Đại hỷ. ...
Lúc ở trên ngôi nhà Thiện pháp này mà tư duy về pháp vi diệu, nên gọi là nhà Thiện pháp. ...(Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Các pháp cõi trời - Chúng sinh cõi trời:
“Cõi Trời có 10 loại pháp: đó là: một, bay đi không hạn số; hai, bay đến không hạn số; ba, đi vô ngại; bốn, đến vô ngại; năm, thân Trời không có da, xương, gân, mạch, máu, thịt; sáu, thân không có việc đại, tiểu tiện bất tịnh; bảy, thân không mệt nhọc; tám, Thiên nữ không sinh đẻ; chín, mắt Trời không nháy; mười, thân tùy thuộc vào màu sắc của ý mình, như thích xanh thì hiện xanh, thích vàng thì vàng, đỏ, trắng và các màu khác tùy theo ý mình mà hiện...
“Con người có bảy màu sắc, đó là: có người màu lửa, có người màu xanh, có người màu vàng, có người màu đỏ, có người màu đen, có người màu trắng. Chư Thiên, A-tu-luân cũng có bảy màu sắc như vậy.
“Các Tỳ-kheo, ánh sáng của con đom đóm không bằng đèn, nến; ánh sáng của đèn, nến không bằng bó đuốc; ánh sáng của bó đuốc không bằng đống lửa; ánh sáng của đống lửa không bằng ánh sáng của sắc thân, y phục, anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương; ánh sáng của Tứ thiên vương không bằng ánh sáng của Tam thập tam thiên => không bằng ánh sáng của Diệm-ma thiên => không bằng ánh sáng của Đâu-suất thiên => không bằng ánh sáng của Hóa tự tại thiên => không bằng ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên => Phạm-ca-di thiên; ...... => không bằng ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên => không bằng ánh sáng của Phật. Từ ánh sáng của con đom đóm đến ánh sáng của Phật, mà kết hợp những thứ ánh sáng như vậy lại, thì cũng không bằng ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Cho nên, các Tỳ-kheo! Muốn tìm cầu ánh sáng, thì phải tu hành cầu ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế....
“Thân người ở cõi Diêm-phù-đề cao ba khuỷu tay rưỡi; y dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người ở Cù-da-ni, ... Từ chư Thiên trở lên, mỗi nơi tùy theo thân hình của họ mà mặc y phục.
“Tuổi thọ của người Diêm-phù-đề là một trăm năm, ít ai vượt qua khỏi; mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của người Câu-da-ni là hai trăm năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. .... Tuổi thọ của ngạ quỷ là bảy vạn năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. ... Tuổi thọ của A-tu-luân (A Tu La) là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Tứ thiên vương là năm trăm năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Đao-lợi thiên là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. ...... Tuổi thọ của Hữu tưởng vô tưởng thiên là tám vạn bốn ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Trong giới hạn ấy, được gọi là chúng sanh; trong giới hạn ấy được gọi là tuổi thọ; trong giới hạn ấy được gọi là thế giới; trong giới hạn ấy là sự luân chuyển của tập hợp uẩn, xứ, giới, qua lại trong các cõi, sanh, già, bệnh, chết.” (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Phẩm Đao Lơi Thiên - Phẩm 8 - Kinh Thế Ký - Kinh Trường A Hàm
Phật bảo Tỳ-kheo: “Trên đỉnh Tu-di sơn vương có thành của trời Tam thập tam. Thành dọc ngang rộng tám vạn do-tuần; có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Thành cao một trăm do-tuần, phần trên rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cao sáu mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần. Cách nhau năm trăm do-tuần là có một cái cửa; tại mỗi cửa này có năm trăm quỷ thần giữ gìn bảo vệ trời Tam thập tam. Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bạc thì cửa vàng. cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót bi thương, cũng lại như vậy.
“Trong thành lớn này lại có thành nhỏ, dọc ngang rộng sáu vạn do-tuần. Thành có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Thành có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu.
“Về bảy lớp thành này: thành có bốn cửa, cửa có lan can. Trên bảy lớp thành đều có đền đài, ....
“Trong thành Thiện kiến này có Thiện pháp đường, dọc ngang một trăm do-tuần; có bảy lớp lan can, bảy lớp .... dưới những trụ cột của ngôi nhà này là nơi đặt ngự tòa của Thiên đế, ... có mười sáu chỗ ngồi.
“Pháp đường này có bốn cửa; chung quanh là lan can bằng bảy thứ báu. ....
“Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có cung điện Đế Thích, dọc ngang một ngàn do-tuần; tường vách .....
“Phía Đông ngôi nhà Thiện kiến có vườn rừng tên là Thô sáp, ngang rộng độ một ngàn do-tuần; tường vách ....
“Phía Nam cung điện Thiện kiến có khu vườn tên là Họa lạc , ngang rộng ......
“Phía Tây ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Tạp, ngang rộng một ngàn do-tuần, bờ tường.....
“Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Đại hỷ, ngang rộng một ngàn do-tuần, bờ tường ....
“Ở quãng giữa vườn Thô sáp và vườn Họa nhạc có ao Nan-đà, ngang rộng một trăm do-tuần; nước của nó lắng trong, ....
+ “Cõi Trời có 10 loại pháp: đó là: một, bay đi không hạn số; hai, bay đến không hạn số; ba, đi vô ngại; bốn, đến vô ngại; năm, thân Trời không có da, xương, gân, mạch, máu, thịt; sáu, thân không có việc đại, tiểu tiện bất tịnh; bảy, thân không mệt nhọc; tám, Thiên nữ không sinh đẻ; chín, mắt Trời không nháy; mười, thân tùy thuộc vào màu sắc của ý mình, như thích xanh thì hiện xanh, thích vàng thì vàng, đỏ, trắng và các màu khác tùy theo ý mình mà hiện...
“Con người có bảy màu sắc, đó là: có người màu lửa, có người màu xanh, có người màu vàng, có người màu đỏ, có người màu đen, có người màu trắng. Chư Thiên, A-tu-luân cũng có bảy màu sắc như vậy.
“Các Tỳ-kheo, ánh sáng của con đom đóm không bằng đèn, nến; ánh sáng của đèn, nến không bằng bó đuốc; ánh sáng của bó đuốc không bằng đống lửa; ánh sáng của đống lửa không bằng ánh sáng của sắc thân, y phục, anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương; ..... => không bằng ánh sáng của Phật. Từ ánh sáng của con đom đóm đến ánh sáng của Phật, mà kết hợp những thứ ánh sáng như vậy lại, thì cũng không bằng ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Cho nên, các Tỳ-kheo! Muốn tìm cầu ánh sáng, thì phải tu hành cầu ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế....
“Thân người ở cõi Diêm-phù-đề cao ba khuỷu tay rưỡi; y dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người ở Cù-da-ni, ... Từ chư Thiên trở lên, mỗi nơi tùy theo thân hình của họ mà mặc y phục.
“Tuổi thọ của người Diêm-phù-đề là một trăm năm, ít ai vượt qua khỏi; mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của người Câu-da-ni là hai trăm năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. .... Tuổi thọ của ngạ quỷ là bảy vạn năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. ... Tuổi thọ của A-tu-luân (A Tu La) là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Tứ thiên vương là năm trăm năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Đao-lợi thiên là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. ...... Tuổi thọ của Hữu tưởng vô tưởng thiên là tám vạn bốn ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Trong giới hạn ấy, được gọi là chúng sanh; trong giới hạn ấy được gọi là tuổi thọ; trong giới hạn ấy được gọi là thế giới; trong giới hạn ấy là sự luân chuyển của tập hợp uẩn, xứ, giới, qua lại trong các cõi, sanh, già, bệnh, chết.”
+ Hôn nhân chúng sinh các cõi: “Người cõi Diêm-phù-đề có sự mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Người Câu-da-ni và người Phất-vu-đãi, cũng có mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng.... Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên cho đến Tha hóa tự tại thiên cũng có hôn nhân và có giá thú giữa người nam và người nữ. Chư Thiên từ đây trở lên không còn có nam và nữ.
“Người cõi Diêm-phù-đề, vì giữa nam và nữ giao hội nhau, thân và thân xúc chạm nhau, nên sanh ra âm dương. ... Đâu-suất thiên thì cầm tay nhau mà thành âm dương. Hóa tự tại thiên thì nhìn kỹ nhau mà thành âm dương. Tha hóa tự tại thiên thì láy mắt nhìn nhau mà thành âm dương. Chư Thiên từ đây trở lên thì không còn dâm dục nữa.
+ Chết và tái sanh các cõi: “Nếu có chúng sanh nào, với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, thức người đời diệt mất; thức nê-lê bắt đầu sinh ra. Nhân thức nên có danh sắc. Nhân danh sắc nên có sáu nhập. ..... chúng sanh các cõi khác chết và tái sanh ...
+ Hình dạng cơ thể, tướng mạo chúng sinh khi chết, đầu thai các cõi đọa lạc hay chư thiên ......
+ Ba ngày trai mỗi tháng: Mùng 8 - 14 - 30 âm lịch, vì Thần linh đi tuần ghi chép thiện ác chúng sinh .....
Phật bảo Tỳ-kheo:
+ Qủy thần đâu đâu cũng có: Phật bảo Tỳ-kheo: “Tất cả chỗ ở như nhà cửa của mọi người đều có quỷ thần, mọi đường sá, mọi ngã tư, hàng thịt, chợ búa, cùng bãi tha ma ... , không có chỗ nào là không có cả. Qủy thần đều có tên theo chỗ nương náu. Như nếu nương vào người thì gọi là người; Quỷ thần Thôn - Thành - Đất - Nước - Núi - Sông ...”
“Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không có chỗ nào là không có. Tất cả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu khi nào họ chết thì quỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên người này sẽ chết ngay.”
* Quỷ thần chướng ngại khác nhau: Người bị quỷ thần quấy nhiễu, chướng ngại nhiều ít khác nhau là do Nghiệp thiện ác quyết định, theo đó người nghiệp ác nhiều thì cả 100 hay 1.000 người mới có một vị Thần cai quản. Còn người có phước nhiều thì cả 100 hay 1.000 thần bảo vệ, ví như vua chúa, quan lại ... có quân đội, công an bảo vệ ...
* “Người cõi Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Câu-da-ni, đó là: một, dõng mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo nghiệp hành; hai, dõng mãnh, nhớ dai, siêng tu phạm hạnh; ba, vì dõng mãnh, nhớ dai, nên Phật ra đời ở cõi này. ....
“Chúng sanh cõi Dục có 12 loại; Chúng sanh cõi Sắc có 22 loại; Chúng sanh cõi Vô sắc có 4 loại, đó là: .......
* Xưa kia Địa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong đất không có nước, lửa và gió. Ta liền đến bảo rằng: Ngươi chớ nảy sanh ý niệm này là trong đất không có nước, lửa và gió. Vì sao? Vì trong đất có nước, lửa và gió, chỉ vì yếu tố đất nhiều nên lấy đất mà gọi tên.”... Trong Nước - Lửa - Gió cũng đều có đủ 3 thành phần kia, vì chúng ít nên gọi Tên theo các Đại chiếm tỷ lệ nhiều nhất.
* Thầy tướng đoán Thiên thời / Mây trời mưa gió sai trong 5 trường hợp ......... (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Giáo dục thanh thiếu niên:
Tại Vạn Phật Thánh Thành đã có thành lập trường Tiểu-học Dục Lương, trường Trung-học Bồi Ðức và trường Ðại-học Pháp Giới, tất cả đều miễn học phí. ....
Cũng tại năm ấy, năm 18 tuổi, tôi cũng có đọc sách về tướng mạo, sách bốc quái, hay sách về bát-tự, sách về toán mạng v.v.. Ðối với sách thuốc, sách bốc quái, sách tinh tướng, tuy tôi không tinh thông lắm, nhưng cũng hiểu được nghĩa lý của nó. Bất quá tôi không muốn làm nghề đó mà thôi, bởi vì tôi không muốn làm tiền và luôn luôn nghĩ rằng: “Phú quý hoa gian lộ, công danh ngọa thượng sương,” tất cả đều vô thường (phú quý như đóa hoa bên đường, công danh như giọt sương trên ngói).......
... các trường đều miễn học phí. Có người nghi ngờ, hỏi rằng phải chăng như vậy là quá ngu si? Phải chăng tôi không biết giá trị của đồng tiền. Ðúng là ngu si cực điểm, tôi chấp nhận lời bình luận như vậy. Song tôi lại nghĩ rằng giáo dục để đào tạo nhân tài là niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời.
Bây giờ nói đến trường Tiểu-học Dục Lương: tông chỉ là dạy dỗ học sinh để thành bậc nhân tài ưu tú, giáo dục chúng trở thành người công dân lương thiện, và thành những con em hiếu thảo,... trong một trăm điều thiện thì đạo hiếu là hàng đầu.
... Trường Tiểu-học Dục Lương thì chú trọng đến đạo hiếu: Trường Trung-học Bồi-Ðức đề xướng việc tu phước tu huệ, thì chú trọng đến trung và hiếu: trung với quốc gia, hiếu thảo với cha mẹ.
Muốn làm người công dân lương thiện, biết thương yêu tổ quốc thì cần phải có nhân cách mới có thể chịu mọi thử thách, không bó tay đầu hàng trước hoàn cảnh. ... "Nhà nghèo thì mới nhận ra con hiếu, nước loạn thì mới xuất hiện bậc tôi trung". Những kẻ có nhân cách cao thượng, những kẻ có chí nguyện vĩ đại, những kẻ có lòng kiên nhẫn không gì lay chuyển, những kẻ có tài năng làm nên sự nghiệp lớn lao: đó là mục tiêu đào tạo của trường Trung-học Bồi Ðức.
... tiếp theo thì có thể lên học trường Ðại-học Pháp Giới, để thành bậc nhân tài xuất chúng. Hy vọng các em .... tương lai có thể thành kẻ anh dũng đầu đội trời chân đạp đất. .... .... (Ngày 19/ 9/ 1983)
Rèn Luyện Nhân Cách Cao Thượng.....
Bây giờ là thời gian để các em học tập: ở trong lớp thì các em trau giồi kiến thức và kỷ năng, ở ngoài lớp thì các em rèn luyện đạo đức và nhân cách. Khi có kiến thức phong phú và nhân cách được kiện toàn thì sau này .... đừng sợ thất bại vì thất bại là mẹ thành công.....
...Nền tảng về nhân cách lại còn trọng yếu hơn nền tảng về học vấn nữa. Người có học vấn mà không có nhân cách thì sau này chỉ làm hại cho quốc gia, gây loạn lạc cho nhân loại. ....
.... Các em phải biết rằng: nói nhiều lời thì sẽ sai lầm, và rằng "bệnh là do miệng mà vào, họa là từ lời nói mà ra". ...
Ðức Mạnh Tử dạy chúng ta ba tiêu chuẩn để rèn luyện nhân cách. Ngài nói rằng:
1) Lúc mình giàu có phú quí, thì phải giữ qui củ, không được dâm loạn,
2) Lúc mình nghèo hèn thì đừng thay đổi chí khí tức là không bị hoàn cảnh làm cho thay đổi chí hướng,
3) Lúc mình bị thế lực chèn ép thì không khuất phục, không đầu hàng, tức là không bị lợi lộc, vật chất làm cho mất hết danh tiết. .....(Ngày 4/ 9 / 1982)
Lầu Cao Vạn Trượng Ðều Từ Dưới Ðất Xây Lên ......
Trẻ thơ giống như miếng vải tinh khiết, nhuộm màu xanh thì ra xanh, nhuộm màu vàng thì ra vàng. Các em tùy theo hoàn cảnh giáo dục mà biến chuyển, cho nên người đời nói rằng: gần mực thì đen gần đèn thì sáng. Các em chịu sự huân tập nhuộm màu của hoàn cảnh. Sách Tam Tự Kinh có nói rằng:
.... Có nghĩa rằng con người lúc ban sơ thì tánh tình vốn thuần thiện. .... do đó lúc còn nhỏ mà không giáo dục thì tánh tình sẽ thay đổi.......
Các thầy cô giáo viên của trường đại, trung, và tiểu học! .... Ðây là công tác thần thánh......
Hãy Học Cho Giỏi Mới Trọn Vẹn Ðạo Hiếu
Quán Âm Thất kỳ này có nhiều học sinh tới tham _gia. Các em phải hiểu rõ đạo lý hiếu thảo với cha mẹ., .....
... đây là trường học của Phật giáo, chuyên môn giáo dục, dạy dỗ bậc hiền tài, .... núi sách vở có đường, con đường ấy là siêng năng; biển học vấn thì vô bờ bến, nhưng phải lấy sự gian khổ làm thuyền, thì có thể vượt qua được.
Các em phải có tinh thần nhẫn khổ nại lao, không nề hà gian nan, chẳng nên làm biếng ..... các em chớ coi những sách hoạt họa vô ích........
Trên đất nước vô cùng sung sướng này, .... Các em phải lấy 6 tiêu chuẩn: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không dối trá. ... Ðược như vậy thì thế giới này sẽ trở thành chốn đại đồng.
Trẻ Em Là Rường Cột của Nước Nhà ........ (Ngày 20 / 8 / 1983)
..... Ðầu tiên các em phải đôn phẩm lập đức. Ðôn tức là đôn hậu. Phẩm là phẩm cách,....
Các em giờ đây giống như những cây non ... phải chú ý chặt bớt đi những cành nhánh vô dụng, ... tương lai thành một cây to lớn vĩ đại, .....
Thế nào là lập đức? Lập có nghĩa là kiến lập, thành lập. Ðức là đức hạnh, nghĩa là kiến lập đức hạnh cho chính mình, ....
Ðồng Tính Luyến Ái – Chính Là Tự Ðào Mồ Chôn Mình
.... Ở trên đời chuyện gì cũng tương đối, có âm thì có dương, có trời thì có đất, có ngày thì có đêm, có lạnh thì có nóng, có nam thì phải có nữ, đó là lẽ tự nhiên. ....
.... Người có bệnh đồng tính luyến ái thì gần như là mắc phải bệnh nan y, tức là bệnh AIDS, hiện nay chưa có phương pháp nào để chữa trị......
.... Tiền Bạc Có Thể Hại Ðến Thân Mạng
..... Khi tiền bạc chất chứa nhiều rồi, thì sẽ có hại đến thân mạng. .... Bởi vì có quá nhiều tiền nên bị người khác giết chết. .... khi chết đi một đồng cũng chẳng đem theo được. ..... (Ngày 22 / 9 / 1983)
.... Các em là các vị chủ nhân tương lai của đất nước. .... Tương lai, các em sẽ là những nhân tài có thể hoằng pháp và có được khả năng biện tài vô ngại.....
..... Khổng Tử – Nhà Ðại Giáo Dục
.... Cuối đời, Ngài san định năm cuốn: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu, tức là Ngũ-kinh.
Khổng Tử có ba ngàn học sinh. Ngài thông suốt lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, gọi là lục nghệ. .....
... Mọi sự việc trên đời đều có liên hệ tương quan, cũng giống như bên Trung Hoa, ba đạo Nho, Phật, Lão, đều hỗ trợ lẫn nhau. Nho-giáo thì như ở trình độ sơ đẳng, tức là tiểu học, Ðạo-giáo thì như là trình độ trung học, còn Phật-giáo thì như là trình độ đại học. .....
Nho giáo thuyết giảng đạo lý làm người, thí dụ như rèn luyện nhân cách cho lương hảo. Ðạo giáo một nửa thì chú trọng rèn luyện nhân cách đạo đức, còn một nửa thì chú trọng đến việc tu hành xuất thế. .... Phật giáo là tu pháp xuất thế, phải chăng là ly khai pháp thế gian, tạo ra một Phật pháp riêng biệt? Không phải đâu. Chỉ cần phải nhận thức pháp thế gian một cách rõ ràng, không bị nó làm mê muội, đó chính là Phật pháp.
.... Căn bản của Phật giáo, để phát khởi tâm tín ngưỡng thì chính là Nho giáo, do đó cần phải đọc sách, hiểu rõ nghĩa lý, .... Người học Phật Pháp cần phải thông suốt đạo lý nầy. .(Ngày 25 / 9 / 1983). (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Đồng cốt trị bệnh - Quỷ thần trị bệnh:
Vạn Sóng Nổi Lên Muốn Ðoạt Hồn: Lúc trẻ tôi chuyên môn trị bệnh cho người ta. Hễ có người bệnh là tôi nhất định phải trị cho lành mạnh, hầu giải quyết nổi đau đớn của họ. Bởi vậy tôi đã đắc tội với rất nhiều thiên ma ngoại đạo và ngưu quỷ xà thần. Bọn chúng đều có đại thần thông và đợi chờ cơ hội tấn công, hễ quý vị mở cửa là chúng xông vào công kích ngay, gọi là: “Khai môn” tức là tự mở cửa để yêu ma hay phi tinh nhập vào người mình – (Kinh Lăng Nghiêm, đoạn nói về Ngũ Ấm Ma). Hoặc giả là chúng xông vào đoạt khiếu, đuổi linh hồn quý vị đi mất, rồi bám trụ vào thân thể quý vị để nói những chuyện lếu láo, xằng bậy. Lúc bấy giờ, tôi đã đắc tội với rất nhiều yêu ma quỷ quái, vì tôi đã thâu nhận một chú đệ tử nhỏ. Pháp danh của chú là Quả Quốc, ý nói quả vị của chú nhất định là sẽ sanh về Cực Lạc Quốc. Chú bé nầy theo tôi xuất gia là cũng có nhân duyên.
.... Chú bé nầy lúc lên năm tuổi đã có thể trị bệnh cho người. Ai giúp nó làm được như thế? Thì là hồ ly tinh và xà tinh. Kiếp trước thằng bé là thầy đồng cốt trị bệnh. Các loại ngưu quỷ xà thần nầy đã tìm đến lúc thằng bé năm tuổi, chúng khiến cho nó có được bản lãnh trị bệnh. Có những bệnh thằng bé trị lành, song có những bệnh, nó trị không khỏi. ...
Khi lên mười hai, mười ba tuổi, chính nó cũng bị bệnh. Bệnh gì vậy? Bệnh bao tử, nhưng tự nó cũng không trị được bệnh nầy. Một ngày kia, nó nằm mộng thấy một vị Hòa Thượng mập đến nhà và nói với nó: “Nếu con muốn hết bệnh thì phải đến chùa Tam Duyên, ở Hợp Nhĩ Tân, xin xuất gia và bái Pháp sư An Từ làm thầy. Như vậy con sẽ hết bệnh ngay.” Nằm mộng liên tiếp ba lần đều giống y như thế, thành thử chú bé mới tin. Chú bé ở cách xa chùa tôi hơn cả ngàn dặm. Lúc bấy giờ, Nhật Bản vừa mới đầu hàng, vậy mà một mình chú đi đến Hợp Nhĩ Tân. Trên đường đi, chú thấy có một số vũ khí của quân Nhật sau khi đầu hàng vẫn còn bỏ lại trong kho nhà binh. Chú bèn đến đó nhặt lấy hai quả lựu đạn, rồi vừa đi vừa nghịch ngợm lựu đạn. Ðến tối, chú ngủ ngoài trời. Lúc đó có cả chục con chó sói đến bao vây chú và tấn công bốn phía. Chú bé chẳng hề sợ hải mà bảo chúng: “Các bạn thân! Các bạn đã đến rồi, vậy để ta cho các bạn ăn đỡ vài quả trứng nhé!” Ðám chó sói đâu có muốn ăn trứng (lựu đạn), thế là chúng bỏ chạy mất.
.... Tôi thấy thằng bé còn có thể đào tạo được, cho nên cho nó ở lại. Quả nhiên, sau khi xuất gia, nó cũng hết bệnh.
Trải qua hơn nửa năm, chú bé thật đắc được ngũ nhãn lục thông, thật là cái gì nó cũng thấy được. Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông chú đều có cả. Tôi đưa chú đi khắp nơi để chữa bệnh cho người. ... hỏi cậu bé, Sư Phụ của Thầy có thần thông hay không? .... Chú chớp chớp mắt, rồi nói trong không trung: Ðại khái là không có! Lạ quá, khi nói xong câu đó, thần thông của chú cũng không còn. Không còn thần thông nữa thì cũng chẳng sao, nhưng bọn quyến thuộc của ngưu quỷ xà thần lại nhập vào, khiến chú trở thành ma dựa ma khí như trước. Thấy thế nên tôi nghĩ: “Há có chuyện như vậy à! Chú bé đã theo tôi xuất gia, bọn quỷ bây còn dám đến đây quấy rầy ư!” Thế là tôi và chúng nó đấu pháp. Ðấu đến hai mươi mốt ngày, trong thời gian nầy, tôi không ăn, cũng không ngủ. Ðấu đến cuối cùng, tôi hàng phục được bọn yêu ma đó. Hàng phục chúng rồi, tôi nghĩ là sẽ không có chuyện gì xảy ra nữa.
.... Ngày nọ,... Khi trú ngụ ở đấy, các quái vật dưới nước bèn tìm cơ hội nhận chìm tôi. Trên trời thì mưa xuống, dưới thì nước giếng tự dâng cao lên ba trượng. .... Lần đó có hơn ba mươi người chết chìm, và hơn tám trăm căn nhà bị cuốn trôi. Nhưng ngôi nhà bằng bờ rào, phên tre mà tôi đang trú ngụ, tuy nó không ngăn nổi gió mưa, nhưng trong sân nước chỉ cao một hai trượng, trong khi bên ngoài thì nước cao mười trượng, Tôi cũng nói thật với quý vị là bốn chú đệ tử nhỏ của tôi đều có ngũ nhãn lục thông, cho nên khi thấy mưa lớn như thế, chúng tôi bèn “kiết giới,” vì vậy nước lũ không vào được. ..... Lần thứ hai kinh nghiệm về nước ngập, là khi tôi từ Thiên Tân đáp thuyền đến Thượng Hải. ... chiếc thuyền cứ quay vòng vòng một chỗ trên vùng biển đen kịnh, không lui tới gì được. Bởi vậy thuyền phải dừng lại ở đó hơn mười ngày.
Trên thuyền có mười bốn vị xuất gia mà gạo, mì đều bị ăn hết sạch nên mọi người gần như chết đói. Lúc ấy tôi cũng không niệm chú gì. Những gì trong bụng, thậm chí đến nước mật vàng, tôi cũng mửa ra hết. Tôi nằm dài trên boong tàu thầm nghĩ: “Con sanh ra là muốn hiến thân cho Phật giáo, nếu như Phật giáo không cần con, vậy một mình con sẽ nhảy xuống biển, chứ đừng liên lụy đến những người nầy. Nếu như Phật giáo hãy còn cần dùng đến con, con hy vọng đức Bồ Tát Quán Âm hiển linh, khiến thuyền nầy bình yên đến Thượng Hải.” Tôi nghĩ nếu sau năm phút, như quả gió không dừng thì tôi sẽ nhảy xuống biển. Tôi vừa nói xong, gió liền lặng, mưa cũng dừng, cuối cùng thuyền đến Thượng Hải bình an.
.... Ðó là tai họa mà tôi đã gây ra, cho nên sau khi đến Hồng Kông, tôi cũng không dám xen vào những chuyện của người khác. Nhưng nếu tình cờ ngẫu nhiên gặp phải, tôi cũng còn xen vào chút chút.
Ðến Hoa Kỳ thì tôi treo bảng miễn chiến. Thiên ma ngoại đạo mà có đến khiêu chiến, tôi cũng khấu đầu đảnh lễ và sám hối. Chúng thấy bây giờ tôi đã không còn chút bản lãnh gì và tôi cũng chuẩn bị cho chúng đến lấy mạng mình bất cứ lúc nào. Tôi ở Vạn Phật Thánh Thành đã mười năm, nay thoái vị về hưu, nếu chúng lại muốn đến tìm tôi thì cũng không sao. Hơn nữa tôi cũng chẳng có chuyện gì để làm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng 1 / 7 / 1986)
+ Trị bệnh nghiệp chướng - Quỷ thần gây ra
- Ngũ Quỷ Phá Nhà
“Quỷ vô thường” không phải chỉ vỏn vẹn có một loại, mà có ít nhất đến năm loại là: Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen (Thanh, Hoàng, Hồng, Bạch, Hắc). Căn cứ theo lý luận đông y: ngũ hành phối hợp với ngũ tạng trong thân thể con người và cũng tương ứng với ngũ sắc năm màu, ngũ quý năm mùa và ngũ phương năm hướng. Dưới đây là phần sơ lược, nếu giảng giải tỉ mỉ về lý lẽ của nó thì vô cùng vô tận.
1) - Can - mộc - đông - xuân - thanh.
2) - Tâm - hỏa - nam - hạ - xích.
3) - Phế - kim - tây - thu - bạch.
4) - Tỳ - thổ - trung - trường hạ - hoàng.
5) - Thận - thủy - bắc - đông - hắc.
Ngũ hành có cái lý lẽ là “tương sanh tương khắc.” Mà năm loại quỷ vô thường cũng dựa theo cái lý ngũ hành tương khắc, và có thể làm cho ngũ tạng của chúng ta phát sanh nhiều thứ tật bệnh liên quan với nhau.
1) - Hắc Quỷ vô thường - Ví như người có bệnh thận. Và thận thuộc thủy có sắc đen. Bởi thủy khắc hỏa cho nên nó ảnh hưởng cả tim cũng sanh bệnh.
2) - Hoàng Quỷ vô thường - Tỳ thuộc thổ, sắc vàng. Tỳ có bệnh do thổ khắc thủy, do đó nó lần lượt ảnh hưởng đến thận.
3) - Thanh Quỷ vô thường - Can (gan) thuộc mộc, sắc xanh. Gan có bệnh do mộc khắc thổ, tiếp đến là nó sẽ
làm ảnh hưởng khiến cho tỳ cũng bị bệnh.
4) - Bạch Quỷ vô thường - Phế (phổi) thuộc kim, sắc trắng. Kim khắc mộc nên phổi bị bệnh, khiến ảnh hưởng đến gan cũng có bệnh.
5) - Hồng Quỷ vô thường - Tim thuộc hỏa, sắc đỏ. Tim có bệnh do hỏa khắc kim. Cho nên khi tim có bệnh, nó cũng có thể ảnh hưởng đến công năng của phổi.
Như vậy, ngũ hành tương khắc, mà các chứng bệnh của ngũ tạng cũng là tùy theo ác tánh tuần hoàn của quy luật nhất định mà sanh ra.
Một con quỷ vô thường có thể chiêu tập lại thành năm con quỷ vô thường. Như vậy cũng đủ thấy mạng người là vô thường, chỉ trong khoảng thở ra hít vào. Con người có thể chết đi, con người cũng có thể sống trở lại. Năm tên quỷ vô thường nầy có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sinh lý và tâm lý của con người. Nhưng bọn chúng không phải tự nhiên mà đến. Không phải là chuyện một sớm một chiều. Mà do trong khoảng thời gian con người từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành, họ đã tích lũy từng chút từng chút một, đến nỗi cuối cùng gây ra tình trạng không thể nào thâu thập được nữa. Nghiên cứu về căn nguyên, tất cả các thứ bệnh tật quỷ quái, cho đến cả sanh tử cũng đều là từ “vô minh” mà ra.
Nếu phá trừ được vô minh, thời tất cả các bệnh, tất cả các quỷ vô thường cũng sẽ không còn. Vô minh chính là cội gốc của tất cả tội ác, phiền não, bệnh khổ cho đến cả sanh tử. Con người nên học cách mở mang trí huệ. Khi có trí huệ rồi, chúng ta sẽ vận chuyển được ngũ hành, đem các đạo lý “tương khắc” biến thành “tương sanh,” như có thể làm cho: kim sanh thủy, thủy sanh mộc, mộc sanh hỏa, hỏa sanh thổ, thổ sanh kim. “Tương sanh” tức là cùng giúp đỡ dẫn dắt lẫn nhau, có thể biến hóa dao mác thành ra ngọc lụa.
Bởi vậy, chúng ta nhất định phải phá trừ vô minh để sanh trí huệ. Có trí huệ tức là chúng ta sẽ phá trừ được tất cả các chấp trước. Vì sao con người có chấp trước? Bởi vì vô minh tác quái đấy. Vô minh là đầu mối của tội ác và tai họa. Cho nên, người tu hành nhất định phải phá trừ vô minh. Một khi vấn đề căn bản đã bị diệt trừ, các vấn đề khác sẽ nhân đó mà được giải quyết một cách dễ dàng. Cho nên nói:
Chỉ lấy gốc, chớ lo ngọn,
Như gương trong sạch chứa bảo trăng,
Đã hiểu được ngọc như ý nầy,
Lợi mình, lợi người mãi không hết.
Bệnh hoạn là do nghiệp chướng và quỷ thần đang tác quái. .... Do bởi bản thân của bệnh nhân có nghiệp chướng, cho nên mới có nhiều loài quỷ quái đi theo đòi nợ và gây rắc rối cho người bệnh. Do đó, tùy theo tình hình của chứng bệnh, nếu đơn thuần chỉ trông cậy vào thuốc men để trị liệu thì chưa đủ đâu. Mà người bệnh còn phải hiểu rõ về cái nhân duyên nghiệp chướng của bản thân mình. Thêm vào những bài linh chú Phật Pháp, như vậy trị bệnh sẽ được hiệu quả hơn, cho nên “thuốc đến là bệnh trừ,” có linh nghiệm liền. Bởi vậy, thời xưa có những vị thầy thuốc được danh dự là “thần y” như Hoa Đà đời Đông Hán, Tôn Tư Mạc đời Đường. Về đức độ trị bệnh của họ thì không thể nghĩ bàn. Những vị đó đều tin Phật, chẳng qua trên y án trị liệu không có ghi chép lại mà thôi.
Có số bệnh nhân được bác sĩ trị liệu có kết quả. Song, như Bác sĩ đã đánh lui được con quỷ gây bệnh, nhưng con quỷ nầy sẽ đi tìm con quỷ khác đến giúp đỡ, rồi chúng trở lại tấn công vào hang huyệt khác của người bệnh. Bọn quỷ cũng thường có hành động tập thể theo từng đoàn, từng đám với nhau.
Trung Hoa có câu thành ngữ: “Bệnh nhập cao hoang,” bệnh đã vào tim, cho biết là bịnh tình trầm trọng, không thể cứu chữa được..... Do đó người đời sau nhân câu chuyện nầy, lập nên thành ngữ “Bệnh Nhập Cao Hoang” để hình dung về chứng bệnh nan y, không thể nào cứu chữa được.
Ở trên thế gian, có cả trăm ngàn bệnh tật kỳ quái, ... bệnh nan y khó trị đã khiến cho cả đám bác sĩ cũng phải bó tay. ...
Khi tôi vừa mới xuất gia, tôi vẫn thường hay trị bệnh cho người ta. Nhưng tôi không có viết toa thuốc cho bệnh nhân, tôi cũng không có dùng thủ thuật mổ xẻ hoặc châm cứu gì cả. Tôi chỉ dựa vào tấm lòng chân thành của tôi để niệm những bài linh chú Phật giáo mà thôi. Tâm chí chân thành đó là cứu người. Lúc bấy giờ, tôi đã không biết gì đến chuyện phải cứu quỷ, cứu ma. Trong tâm tôi chỉ có tư tưởng cứu người, vì thế tôi đã làm bọn quỷ không vui lòng. Bởi vì khi quý vị chữa bệnh cho người, bọn ma quỷ nghĩ rằng quý vị muốn chống đối chúng, thế là chúng giận lây đến người chữa trị.
Khi tôi còn ở Đông Bắc, có vô số loài sơn yêu thủy quái kéo đến từ bốn phương tám hướng, ngày đêm sáu thời chúng đều theo dõi tôi và chờ cơ hội để báo thù. Nếu có chút sơ hở là chúng thừa cơ xông vào. Quả thật là tôi không thể nào đề phòng được, cho nên thường bị thiệt hại. Hoặc chỉ mình tôi bị thua thiệt, hoặc là khiến cho những người chung quanh tôi cũng bị thiệt thòi lây. Đa số người ở đó hoàn toàn đâu biết gì về tình cảnh bên trong. Có lần nước phát dâng ngập ở làng Đông Tỉnh, chỉ vỏn vẹn trong bốn giờ đồng hồ mà đã dìm chết ba mươi người, và cuốn trôi hơn tám trăm nóc nhà. Trận hồng thủy đó kéo đến rất nhanh, người đứng trên giường lò (chỗ ngủ phía trên nắp lò sưởi) cũng bị chết chìm. Số nạn nhân bị thiệt thòi đó cũng là tại tôi. Bọn yêu ma quỷ quái muốn dâng nước cho ngập lụt vốn để dìm chết tôi, nhưng rốt cuộc tôi không bị chết chìm, mà làm liên lụy đến rất nhiều người. Cho mãi đến ngày nay, đối với sự việc đó, tôi vẫn cứ khắc khoải trong lòng và cảm thấy rất có lỗi với những người đã mất. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng 26 / 7 / 1987)
73. HAI PHÁP
1) Hai pháp: danh và sắc; si và ái; hữu kiến và vô kiến; không biết tàm và không biết quí.
2) Hai pháp tàm và quí; tận trí và vô sanh trí.
3) Hai nhân duyên sanh ra ái dục: sắc tịnh diệu và không tư duy.
4) Hai nhân duyên sanh nơi sân nhuế: thù ghét và không tư duy.
5) Hai nhân duyên sanh nơi tà kiến: nghe từ người khác và tà tư duy.
6) Hai nhân duyên sanh nơi chánh kiến: nghe từ người khác và chánh tư duy.
7) Hai nhân duyên giải thoát: giải thoát hữu học và giải thoát vô học.
8) Hai nhân duyên về giới: hữu vi giới và vô vi giới.
(Trường A Hàm, Kinh Chúng Tập, số 9)
76. HAI PHÁP TĂNG NHẤT
1) Thế nào là hai thành pháp? Biết tàm và biết quí.
2) Thế nào là hai tu pháp? Chỉ và quán.
3) Thế nào là hai giác pháp? Danh và sắc.
4) Thế nào là hai diệt pháp? Vô minh và ái.
5) Thế nào là hai thối pháp? Hủy giới và phá kiến.
6) Thế nào là hai tăng pháp? Có giới và có kiến.
7) Thế nào là hai nan giải pháp? Có nhân duyên khiến chúng sanh sanh cáu bẩn và có nhân duyên khiến chúng sanh đắc tịnh.
8) Thế nào là hai sanh pháp? Tận trí và vô sanh trí.
9) Thế nào là hai tri pháp? Thị xứ và phi xứ.
10) Thế nào là hai chứng pháp? Minh và giải thoát.
(Trường A Hàm, Kinh Tăng Nhất, số 11) (Nguồn: TH Lời Phật dậy - Kinh Trường A Hàm):
109. MƯỜI PHÁP TĂNG NHẤT
1) Mười cứu pháp: 1. Tỳ-kheo đầy đủ 250 giới, đầy đủ oai nghi, thấy lỗi nhỏ nhặt sanh tâm lo sợ lớn, chân chánh học giới, tâm không nghiêng lệch. 2. Có được thiện tri thức. 3. Ngôn ngữ trung chánh, nhẫn nhịn được nhiều điều. 4. Ưa cầu thiện pháp, phân bố không tiếc lẫn. 5. Các đồng phạm hạnh có việc phải làm liền đến giúp đỡ không lấy làm mệt nhọc, làm được những việc khó làm và cũng dạy người khác làm. 6. Nghe nhiều; nghe xong thì ghi nhớ không hề quên 7. Tinh tấn, diệt trừ bất thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp. 8. Thường tự chuyên niệm, không có tưởng khác, nhớ những hành vi thiện từ trước như thấy trước mắt. 9. Trí tuệ thành tựu, quán sự sanh diệt của các pháp, bằng pháp luật Hiền Thánh mà đoạn trừ gốc khổ. 10. Vui với sự nhàn cư, chuyên niệm tư duy, ở trung gian thiền, không có đùa giỡn.
2) Mười chánh hành: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, chánh tri.
3) Mười giác pháp: Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân nhập, sắc, thanh, hương, vị, xúc nhập.
4) Mười tà hạnh: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định, tà giải thoát, tà trí.
5) Mười thoái pháp: Thân có sát, đạo, dâm, khẩu có hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, ý có tham lam, tật đố, tà kiến.
6) Mười tăng pháp: Thân không sát, đạo, dâm; khẩu không hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt; ý không tham lam, tật đố, tà kiến.
7) Mười nan giải pháp: 1. Tỳ-kheo trừ diệt năm chi. 2. thành tựu sáu chi. 3. xả một chi. 4. y trên bốn. 5. diệt dị đế. 6. thắng diệu cầu. 7. không trược tưởng. 8. thân hành đã lập. 9. tâm giải thoát. 10. tuệ giải thoát.
8) Mười sanh pháp:
Nếu Tỳ-kheo tự mình đã có được tín tâm rồi lại nói cho người khác, và cũng khen ngợi những người có được tín tâm.
Tự mình đã trì giới rồi lại nói cho người khác, và cũng khen ngợi những người trì giới.
iii. Tự mình thiểu dục rồi lại nói cho người khác, và cũng khen ngợi những người thiểu dục.
iv. Tự mình tri túc rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người tri túc.
Tự mình ưa nhàn tĩnh rồi lại nói cho người khác, và cũng khen ngợi những người ưa nhàn tĩnh.
vi. Tự mình đa văn rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người đa văn.
Tự mình tinh tấn rồi lại nói cho người khác, và cũng khen ngợi những người tinh tấn.
viii. Tự mình chuyên niệm rồi lại nói cho người khác, và cũng khen ngợi những người chuyên niệm.
ix. Tự mình đắc thiền định rồi lại nói cho người khác, và cũng khen ngợi những người đắc thiền định.
Tự mình đắc trí tuệ rồi lại nói cho người khác, và cũng khen ngợi những người đắc trí tuệ.
9) Mười tri pháp: Người chánh kiến có thể diệt trừ tà kiến. Và cũng diệt trừ sạch những gì là vô số ác duyên tà kiến mà khởi lên. Và cũng thành tựu những gì là vô số thiện nhân chánh kiến mà sanh khởi. Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, chánh trí. Người có chánh trí có thể diệt trừ tà trí, và vô số ác nhân tà trí sanh khởi cũng hoàn toàn bị diệt tận. Và vô số thiện pháp, nhân chánh trí sanh khởi, thảy đều được thành tựu.
10) Mười vô học pháp: Vô học chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, chánh trí.
Các Tỳ-kheo, đó là trăm pháp như thật không hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực.
(Trường A Hàm, Kinh Tăng Nhất, số 11) (Nguồn các nạn Tam tai: TH Lời Phật dậy - Kinh A Hàm):
117. NĂM PHÁP
1) Như Lai nói năm chánh pháp, tức là năm nhập: mắt, sắc; tai, tiếng; mũi, hương; lưỡi, vị; thân, xúc.
2) Năm thọ ấm: sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.
3) Năm cái: tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, trạo cử cái, nghi cái.
4) Năm hạ phần kết: thân kiến, giới đạo, nghi, tham dục và sân nhuế.
5) Năm thuận thượng phần kết: sắc ái, vô sắc ái, vô minh, mạn, trạo hối.
6) Năm căn: tín, tấn, niệm, định, huệ.
7) Năm lực: tín, tấn, niệm, định, huệ.
8) Năm diệt tận chi: 1. Tỳ-kheo tin Phật, Như Lai, Chí chân, Đẳng chánh giác, mười hiệu thành tựu. 2. Tỳ-kheo không bịnh, thân thường an ổn. 3. Chất trực, không dua xiểm. Được như thế thì Như Lai chỉ bày con đường đi đến Niết-bàn. 4. Tự chuyên tâm không để thác loạn. Những điều đã tụng đọc từ trước ghi nhớ không quên. 5. Khéo quán sát sự sinh và diệt của các pháp bằng sự thực hiện của Hiền Thánh mà diệt tận gốc rễ của khổ.
9) Năm sự phát ngôn: phát phi thời, phát hư dối, phát phi nghĩa, phát hư ngôn, phát không từ tâm.
10) Năm thiện phát: phát đúng thời, phát sự thật, phát có nghĩa, phát lời nói hòa, phát khởi từ tâm.
11) Năm sự tật đố: tật đố về trú xứ, tật đố về thí chủ, tật đố về lợi dưỡng, tật đố về sắc, tật đố về pháp.
12) Năm thú hướng giải thoát: tưởng về thân bất tịnh, tưởng về thức ăn bất tịnh, tưởng hết thảy các hành vô thường, tưởng hết thảy thế gian không đáng vui, tưởng về sự chết.
13) Năm xuất ly giới: 1. Tỳ-kheo đối với dục không hoan hỷ, bất động, cũng không thân cận, mà chỉ niệm sự thoát ly, hoan hỷ nơi sự viễn ly, thân cận không giải đãi, tâm mềm mại, xuất ly, ly dục. Vị ấy đối với các lậu triền do nhân dục mà khởi, cũng dứt sạch, xả ly diệt trừ mà được giải thoát. Đó gọi là dục thoát ly. 2. Sân nhuế xuất ly, 3. Tật đố xuất ly, 4. Sắc xuất ly, 5. Thân kiến xuất ly cũng vậy.
14) Năm hỷ giải thoát nhập. Nếu Tỳ-kheo tinh cần không biếng nhác, ưa ở nơi nhàn tĩnh, chuyên niệm nhất tâm, chưa giải thoát thì được giải thoát, chưa an thì được an. Những gì là năm? 1. Ở đây Tỳ-kheo nghe Như Lai thuyết pháp, hoặc nghe đồng phạm hạnh thuyết pháp, hoặc nghe sư trưởng thuyết pháp, tư duy, quán sát, phân biệt pháp nghĩa, tâm đắc hoan hỷ. Sau khi được hoan hỷ thì được pháp ái, sau khi được pháp ái thân tâm an ổn, sau khi thân tâm an ổn thì chứng đắc thiền định. Đắc thiền định rồi, đắc như thật kiến. 2. Ở đây, Tỳ-kheo sau khi nghe pháp hoan hỷ. 3. Thọ trì đọc tụng cũng lại hoan hỷ. 4. Thuyết cho người khác cũng lại hoan hỷ. 5. Tư duy phân biệt cũng lại hoan hỷ, ở nơi pháp mà đắc định cũng như vậy.
15) Năm hạng người: trung bát-niết-bàn, sanh bát-niết-bàn, vô hành bát-niết-bàn, hữu hành bát-niết-bàn, thượng lưu sắc cứu cánh.
Các Tỳ-kheo, đó là năm chánh pháp đã được Như Lai giảng dạy. Chúng ta hãy cùng kiết tập để ngăn ngừa sự tranh cãi, khiến cho phạm hạnh tồn tại lâu dài làm lợi ích cho số đông cho chư thiên và nhân loại được an lạc. (Trường A Hàm, Kinh Chúng Tập, số 9)
119. NĂM PHÁP TĂNG NHẤT
1) Thế nào là năm thành pháp? Đó là năm diệt tận chi: 1. Tin Phật Như Lai, Chí chân, mười hiệu thành tựu 2. Không bệnh, thân thường an ổn 3. Chất trực, không dua xiểm, hướng thẳng đến con đường dẫn đến Niết-bàn của Như Lai. 4. Chuyên tâm không tán loạn, đọc tụng cũng không quên lãng 5. Khéo léo quán sát sự sinh diệt của pháp, bằng thực hành của Hiền Thánh mà diệt tận gốc rễ khổ.
2) Năm tu pháp? Đó là năm căn: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, và tuệ căn.
3) Năm giác pháp? Đó là năm thọ ấm: sắc thọ ấm, thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm.
4) Năm diệt pháp? Đó là năm cái: tham dục cái, sân nhuế cái, thụy miên cái, trạo hối cái, và nghi cái.
5) Năm thối pháp? Đó là năm tâm ngại kết: 1. Tỳ-kheo nghi Phật. Nghi Phật rồi thì không thân cận. Không thân cận rồi thì không cung kính. Đó là tâm ngại kết thứ nhất. 2-4. ... Đó là bốn tâm ngại kết.
5. Lại nữa, Tỳ-kheo đối với người đồng phạm hạnh sanh tâm ác hại, tâm không hỷ lạc, mắng chửi bằng những lời thô lỗ. Đó là tâm ngại kết thứ năm.
6) Năm tăng pháp? Đó là năm gốc rễ của hỷ: 1. Vui vẻ, 2. Niệm, 3. Khinh an, 4. Lạc, 5. Định.
7) Năm nan giải pháp? Đó là năm giải thoát xứ, nếu Tỳ-kheo tinh cần không biếng nhác, ưa chỗ nhàn tĩnh, chuyên niệm nhất tâm, chưa giải thì được giải, chưa diệt tận thì được diệt tận, chưa an thì được an. ....
8) Năm sanh pháp? Đó là năm trí định của Hiền Thánh: 1. Tu tam-muội là, nay an lạc về sau cũng an lạc, sanh nội ngoại trí. 2. Là Hiền Thánh vô ái, sanh nội ngoại trí. 3. Là định mà chư Phật và các Hiền Thánh tu hành, sanh nội ngoại trí. 4. Là êm dịu, tịch diệt tướng, độc nhất không gì sánh ngang, sanh nội ngoại trí. 5. Đối với tam-muội nhứt tâm nhập, nhứt tâm khởi, sanh nội ngoại trí.
9) Năm tri pháp? Đó là năm xuất yếu giới: 1. Tỳ-kheo đối với dục không lạc, không niệm tưởng, cũng không thân cận, mà chỉ niệm tưởng sự xuất yếu, hoan lạc nơi sự viễn ly, thân cận không biếng nhác, tâm vị ấy nhu nhuyến, xuất yếu, ly dục. Lậu khởi do bởi dục cũng bị diệt tận mà đắc giải thoát. Đó là dục xuất yếu. 2. Sân nhuế xuất yếu. 3. Tật đố xuất yếu. 4. Sắc xuất yếu. 5. Thân kiến xuất yếu cũng giống như vậy.
10) Năm chứng pháp? Đó là năm tụ vô học: tụ vô học giới, tụ vô học định, tụ vô học tuệ, tụ vô học giải thoát, tụ vô học giải thoát tri kiến.
Các Tỳ-kheo, đó là năm mươi pháp, như thật, không hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực.
(Trường A Hàm, Kinh Tăng Nhất, số 11) (Nguồn các nạn Tam tai: TH Lời Phật dậy - Kinh A Hàm):
+ Đại chủng vị tứ giới:
Tên gọi: Địa, thủy, hỏa, phong
Năng thành trì đẳng nghiệp (Dụng),
Kiên, thấp, noãn, động tính (Thể) .
* Dịch nghĩa: Đại chủng là bốn giới: đất, nước, lửa, gió; có khả năng thành tựu các nghiệp trì, nhiếp, thục, trưởng. Tính chất của chúng là cứng, ẩm, nóng, động
Đại có ba nghĩa Thể - Tướng - Dụng:
1. Thể đại: Bốn đại này phổ biến khắp các sắc, không vật nào không do chúng tạo thành, nên thể của chúng rất bao quát.
2. Tướng đại: Đất rộng, núi cao là tướng địa đại tăng thạnh; sông ngòi, biển cả là tướng thủy đại tăng thạnh; gió to, bảo lốc là tướng phong đại tăng thạnh; lò lửa phừng phừng là tướng hỏa đại tăng thạnh. Bốn đại tăng thạnh như vậy là hành tướng của bốn đại.
3. Dụng đại: Địa đại có khả năng nâng đỡ, duy trì mọi vật; thủy đại có khả năng thấm dính, làm nổi thuyền bè; hỏa đại có khả năng nấu chín, đốt cháy cây cỏ; phong đại có khả năng tăng trưởng hoặc quật ngã cây cối. Đó là tác dụng đại.
Sở dĩ trên mà nói tướng của địa đại là vì đất tăng thạnh, tướng thủy đại vì nước tăng thạnh. Vì 4 đại đó châu biến cùng nhau, chứ nó không nằm tách riêng ra, chan hòa cùng nhau, nếu như sự cứng rắn mà nhiều hơn 3 thứ kia thì nó trở thành địa đại, cái tướng của địa đại. Nếu sự thấm ướt nó nhiều hơn gọi là thủy đại,... phong đại, .. thành hỏa đại.
* Như hư không phổ biến khắp nơi, tuy có thể là đại, nhưng không gọi là chủng.
* Giới: Trì giữ. Bốn đại chủng có khả năng giữ gìn tự thể và các sở tạo sắc của chúng, gọi là bốn giới
Chẳng hạn như nhà triết học Anaximander - Sinh khí nó nuôi dưỡng con người, nuôi dưỡng nhân loại, nuôi dưỡng vũ trụ. Nếu không có sinh khí thì vũ trụ không thành, và con người không thành, cho nên lấy khí làm căn nguyên của vũ trụ, làm bản chất nguyên sơ của vũ trụ. [Kinh Thập Nhất Thiết Xứ dạy: ... dạy cho họ biết xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại. Lục đại đó nó biến thành lý thuyết chủ yếu của Mật tông; Sáu Đại - Chỉ có 4 đại lay động: Nếu như các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tính viên mãn cùng khắp, vốn không lay động; thì nên biết kiến đại cùng với hư không vô biên chẳng dao động và 4 thứ vốn lay động là địa, thủy, hỏa, phong, gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng, vốn không sinh không diệt. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q. 2; 3- HT Tuyên Hóa)]
..... Tính chất của cực vi thế nào?
Mỗi cực vi đều có đủ bốn tính chất là cứng, ướt, nóng, động (cố thể, dịch thể, nhiệt lực, động lực hay khí thể).
- Tính cứng rắn có tác dụng bảo trì mọi vật.
- Tính thấp ướt có tác dụng gom dính mọi vật.
- Tính ấm nóng có tác dụng thành thục mọi vật.
- Tính chuyển động có tác dụng làm tăng trưởng mọi vật.
Hình thức biểu hiện của bốn tính ấy gọi là bốn đại: đất, nước, lửa, gió. Cực vi có sẵn bốn tính chất và bốn tác dụng như thế nên có thể cấu thành vũ trụ vạn hữu, tùy theo sự phối hợp không đồng đều về phần lượng giữa bốn tính chất cực vi mà cấu thành mọi vật sai khác.
Nếu tính cứng nhiều hơn ba tính kia thì sẽ thành những vật cứng rắn như vàng, đá… Như vậy, vũ trụ vạn vật, núi sông thế giới đều do cực vi tạo thành.......
..... Như vậy, từ giữa trống không, do nghiệp lực của chúng sinh làm duyên tăng thượng nổi lên phong luân, rồi thủy luân, rồi kim [Địa] luân. Đó là sự cấu thành tuần tự của địa cầu này vậy. ....
Thời định - Báo định. VD: Cuối năm này thi mãn khóa phải không? Vậy thời có định không? Định rõ ràng. Vậy thi mãn khoá ai sẽ đậu? Có người đậu chắc chắn. Vậy là báo định thời định. Nếu như cuối năm này thi chắc chắn ra trường nhưng có anh chưa biết có đậu hay không đậu. Vậy là thời định nhưng báo bất định. Rõ ràng như vậy đó....
Thời định - Báo bất định. Tuy đã tạo nghiệp, thời gian trả nghiệp đã đến nhưng Quả báo chưa biết kết quả ra sao => Báo bất định... (Nguồn: Câu xá luận - Ngài Thế Thân)
+ Đọc kinh trì chú nhiệm mầu - Mỗi biến đều Phát quang minh
Đọc kinh với tâm thanh tịnh, tức là tâm từ bi, tâm bình đẳng, tâm chân thành, cung kính, khiêm tốn, tâm không tạp loạn - Không khởi vọng tưởng lúc đọc tụng kinh chú thì sẽ có hiệu quả vi riệu nhiệm mầu. Rất cần học thuộc lòng và chú tâm mãnh liệt vào câu đọc tụng sao cho khi đọc KHÔNG cần khởi nghĩ nhớ câu kinh chú thì mới mong có cảm ứng nhiệm mầu. Nếu chỉ khởi nghĩ, khởi vọng đan sen vào quá trình đọc tụng thì sẽ không có cảm ứng, đây là điều khó, rất khó nhưng cần quyết chí tu trì.
Mỗi biến, thậm chí mỗi câu niệm đọc kinh chú thanh tịnh đều có thể phát quang như tia chớp chói sáng. Được như thế thì đọc tụng chắc chắn có cảm ứng, bệnhgì cũng khỏi.
Thế nên, thường thì khi gặp truyện do người thân gần mình thương quý bị bệnh nạn sinh tử, khi đó chúng ta thường phát tâm dõng mãnh hết lòng thành kính vì họ tu trì, nên rễ có được tâm chuyên nhất, từ đó mà rễ có cảm ứng nhiệm mầu không thể nghĩ bàn. Đây là lợi ích của việc vì người thân, người bệnh mà phát tâm đọc tụng kinh chú rất lớn, hồi hướng công đức lành cho họ thì người thân được 1/7 công đức, người trực tiếp thọ trì đọc tụng được hưởng 6/7 công đức, rất thù thắng. (PS Tịnh Không giảng kinh Địa Tạng, HT Tuyên Hóa giảng kinh Chú Đại Bi)
Xem thêm: Lợi ích thọ trì kinh Địa Tạng - Tiêu trừ nghiệp chướng
Xem thêm: Lợi ích đọc tụng kinh chú - Phát triển trí tuệ thông minh
+ Nhận cúng dường: Cúng dường là nói đến người xuất gia tu hành trong chùa hoặc cúng dường Tam Bảo. Còn với người phàm phu, tu tại gia thì gọi là nhận bố thí. Phá giới, phạm giới trong chủ đề này cũng chỉ nói về người xuất gia.
Làm Phật sự nhận cúng dường: Thánh hiền thường giảng, người xuất gia trong chùa tu chánh pháp Phật thì khác người tại gia ở chỗ, các Ngài đi làm Phật sự tại gia theo lời thỉnh cầu giúp đỡ thì thường không nhận Phong bì tiền, tài sản ... cúng dường ngay sau khi xong việc, vì như thế khác nào đi làm lấy công. Các Ngài có thể chỉ nhận cúng dường ăn uống chay tịnh rồi về. Còn Phật tử nếu muốn cúng dường thì tới chùa cúng dường vào hòm công đức hoặc cúng dường vào tài khoản nhà chùa, hoặc khi nhà chùa có việc xây sửa chùa, làm tượng, đúc chuông, in ấn kinh pháp ... chủ động đến cúng dường thì đây gọi là cúng dường đúng Pháp, nhà sư cũng là làm Phật sự đúng pháp Phật dậy. (Tóm lược lời khai thị của Hiền Thánh)
+ Cúng dường: ... Lễ Trai Tăng này là mời khách cho Lục Tổ, vì Lục Tổ là người xuất gia, không thể mời khách đến ăn cơm. Người tại gia nên cúng dường cho người xuất gia, mà không phải người xuất gia cúng dường người tại gia..... (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ NGŨ CHÚ CỦA NGŨ PHƯƠNG PHẬT
Có năm đoạn chú mà tôi đã nói qua, đó là:
- Chr Two Ni
- E Jya La
- Mi Li Ju
- Bwo Li Dan La Ye
- Ning Jye Li.
Biểu hiện cho năm phương, năm bộ và năm vị Phật. Đấy là “ngũ đại tâm chú”. Quý vị không nên xem thường. Tâm chú ấy là của chư Phật trong năm phương, nó có công năng hủy diệt mọi chú trớ của các loài ma quỷ (Nguồn: Giảng kinh Thủ LN 7 - HT Tuyên Hóa)
+ Ngũ Chú của ngũ phương Phật (Phiên âm Việt):
Bưng núi cầm chùy khắp hư không
Ðông phương Kim Cang trấn ma quân
Tám vạn bốn ngàn thường ủng hộ
Hay khiến người hành nhập đại định.
Giảng giải: ‘’Tất Ðà Nễ, A Ca Ra, Mật Rị Trụ, Bát Rị Ðát Ra Gia, Nảnh Yết Rị.’’
Năm câu Chú này gọi là "năm đại tâm Chú", là năm tâm Chú của Phật ở năm phương.
Năm tâm Chú này chuyên phá chú thuật của thiên ma ngoại đạo. Bất cứ chúng có yêu chú tà pháp gì, khi bạn tụng năm đại tâm Chú này thì yêu thuật tà pháp của chúng đều bị phá sạch. Không những phá yêu ma quỷ quái ở nhân gian, mà còn phá thiên ma ngoại đạo ở trên trời. Khi bạn gặp thiên ma ngoại đạo mà tụng năm đại tâm Chú này thì chúng không thể não loạn tâm của bạn. Bất cứ chúng có pháp thuật gì cũng đều không linh nghiệm. Cho nên năm đại tâm Chú này vô cùng quan trọng trong Chú Lăng Nghiêm, vô cùng linh cảm, không thể nghĩ bàn. Mật Lị Trụ dịch là "Kim Cang" là một trong 108 Kim Cang. Ðây thuộc về phương đông Kim Cang Bộ, là tâm Chú của Kim Cang Bộ, cho nên nói:
‘’Bưng núi cầm chùy khắp hư không.’’ Tám vạn bốn ngàn Kim Cang Bồ Tát này bưng núi cầm chùy khắp cõi hư không.
‘’Ðông phương Kim Cang trấn ma quân.’’ Kim Cang Bộ thuộc phương đông, trấn phục tất cả thiên ma ngoại đạo, thì tu hành dễ dàng thanh tịnh, dễ dụng công tu hành. Cho nên tu hành phải nội công ngoại đức, bên trong thì phải có công, bên ngoài phải bồi đức, phải tài bồi đức hạnh.
‘’Tám vạn bốn ngàn thường ủng hộ.’’ Tám vạn Kim Cang Tạng Bồ Tát thường ủng hộ bạn.
‘’Hay khiến người hành nhập đại định.’’ Năng khiến người tu hành đắc được Lăng Nghiêm đại định, thường thường sinh trí huệ chân chánh. .....
‘’Năm đại tâm Chú diệu vô cùng’’ từ ‘’Tất Ðà Nễ đến Nảnh Yết Rị‘’, năm đại tâm Chú này ảo diệu vô cùng, dù có nói nhiều cũng không hết được.
Hỏi cách dụng Tâm Chú: Chúng ta phải niệm toàn bộ Chú Lăng Nghiêm hay là năm đại tâm Chú này ?
Ðáp : Chú Lăng Nghiêm là Chú rất dài, nhưng mỗi một câu Chú, đều có diệu dụng và oai lực của nó.
Nếu bạn biết diệu dụng và oai lực của nó, thì khi cảnh giới đến, có thể niệm mấy câu này là đủ. Nếu bạn niệm từ đầu đến cuối, thì thời gian phải dài. Năm đại tâm Chú này hay phá tan Ma La võng, phá chú thuật của Ma vương. La võng tức là chỉ phù và chú thuật, khiến cho trong tâm của bạn mê mất chánh niệm.
Như ở Nam Dương, Thái Lan, đều có độc trùng, bùa ngải các thứ tà thuật. Nếu dùng năm đại tâm Chú này thì sẽ phá được. Như trong Kinh Lăng Nghiêm, ngoại đạo Ma Ðăng Già dùng chú Phạm Thiên, cũng có sức lực không thể nghĩ bàn, đó là tà pháp, chú thuật thuộc về tự tư tự lợi, chẳng phải đại công vô tư, cho nên phá được nó. Nếu là đại công vô tư, không có chút tâm ích kỷ lợi mình, thì chẳng ai phá được, vì thuộc về chánh. .....
Do đó bất cứ tu pháp gì, đều phải chú trọng về đức hạnh, chú trọng về đạo đức căn bản mới có thể xử dụng pháp này (Ngũ Chú), mới có oai lực, mới an toàn. Không có đạo đức thì không nên dùng, bất cứ chú gì cũng thế.
Năm đại tâm Chú này là tôn quý nhất, là Chú hữu dụng nhất trong Phật giáo. Bất cứ là Chú của thiên ma, Chú của ngoại đạo, Chú của quỷ thần, Chú của yêu
quái, Chú của bàng môn tả đạo đều phá hết được. Tức là Chú hay phá tất cả không thể phá. Chú phá thiên ma ngoại đạo chứ chẳng phải có tâm muốn đối địch
với chúng, mà là giống như đánh thái cực quyền, dùng lực nhu phá giải lực cang. Bất cứ Chú gì, dùng tâm Chú này đều hóa giải được hết, nhưng đừng tổn
hại đối với đối phương.
Năm đại tâm Chú này, tại sao gọi là tâm Chú ? Tức là từ trong tâm từ bi chảy ra. Dùng Chú này phải dùng tâm từ bi hỷ xả, nhiếp thọ tất cả chúng sinh, chứ chẳng phải nói, tôi niệm Chú này là muốn đánh bạn chết, giết bạn, hoặc là tiêu diệt bạn, mà là oai lực của Chú hóa giải hết Chú thuật khác cũng như băng đá gặp mặt trời, thì tự nhiên biến thành nước. Bổn lai Chú của bàng môn ngoại đạo đều vì tâm sân hận chi trì, bạn niệm Chú Lăng Nghiêm này, thì sẽ hóa thành cát tường, diệu là diệu chỗ này. Chứ chẳng phải bạn niệm Chú này, thì đối phương thế nào chịu cũng không được, mà là Chú Lăng Nghiêm phá giải hết oai lực của Chú khác, chứ không hại người. Oai lực của Chú là từ trong tâm của chư Phật, Bồ Tát và người tụng Chú chảy ra một thứ tâm từ bi cho nên hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo. ......
+ TÂM CHÚ LĂNG NGHIÊM
Hỏi: Tâm Chú của Chú Lăng Nghiêm là gì? Ðáp:
-Tâm Chú dài là : Ðát điệt tha. Án, A na lệ. Tỳ xá đề. Bệ ra. Bạt xà ra. Ðà rị. Bàn đà bàn đà nể. Bạt xà ra bàng ni phấn. Hổ hồng đô lô ung phấn. Ta bà ha.
-Tâm Chú ngắn là : Tát đát đa bát đát la. .... (Nguồn: Google - Drive - HT Tuyên Hóa Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Thiên chúa - Thiên Chủ: .... Do công đức này sở cảm, sau khi chết được sinh lên cõi trời Ðao Lợi, do thiện nghiệp sở cảm được làm Thiên chủ, tức là phần đông thường nói là chân thần.
Chung quanh trời Ðao Lợi, đông tây nam bắc mỗi hướng có tám cõi trời cộng thành ba mươi hai với chính giữa cộng thành ba mươi ba ! Thiên chủ cõi trời
Tam Thập Tam là tiền thân của người nữ ấy, tức cũng là chân thần, thượng đế, chủ tể vạn vật mà Gia Tô Giáo, Thiên Chúa Giáo sùng bái. Vì y làm Thiên chủ cõi trời và cai quản nhân gian.
Nhân Ðà La này là Trời Ðế Thích, một danh hiệu trong 108 danh hiệu. Trong Kinh Di Ðà xưng là Thích Ðề Hoàn Nhân. ... Thiên Chúa Giáo đồ nghe đoạn này rồi, sẽ nói chúng ta tin Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa này. Vậy Thiên Chúa nào ? Nếu không phải là Thiên Chúa này, chẳng lẽ có hai Thiên Chúa, tôi đây có một Thiên Chúa, bạn đó cũng có một Thiên Chúa, trong đó có một Thiên Chúa thật, một Thiên Chúa giả ! Cứu kính cái nào là thật ? Bạn muốn bạn là Thiên Chúa thật, tôi muốn tôi là thật Thiên Chúa..... Thiên Chúa thật hay giả không cần bình luận. ...
Cho nên Thiên Chúa, chân thần, thật ra là Nhân Ðà La, Nhân Ðà La là Chúa, Chúa tức là Chúa, còn có gì thật với giả.
‘’Chân thật thí quyền đại Bồ Tát‘’, Thiên Chúa cũng hành Bồ Tát đạo. Y là Phật Pháp chân thật lại hành quyền pháp, dạy bạn tin Thiên Chúa, tin Gia Tô, tin thần thổ địa, tin Ngọc Hoàng. Ðây chỉ là đến dẫn dụ bạn hướng từng bước từng bước đi trên đại lộ, đây gọi là chân thật thí quyền, vì chân thật, trước hết cho
bạn một phương pháp quyền xảo phương tiện, dạy bạn tu hành, đây là đại Bồ Tát. Thiên Chúa trong quá khứ cũng đã từng tích thiện tu phước hành bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, lục độ.
‘’Thích Phạm Thánh chúng đều kính trọng‘’, hết thảy chư Thiên, Đại Phạm Thiên Vương, đều rất khách sáo đối với Thiên Chúa. Mọi người đừng tin Thiên Chúa liền mê Thiên Chúa, tin Phật liền mê Phật, vì Thiên Chúa, vì Phật mà tranh chấp kiện tụng. .....
.... Bồ Tát là muốn tu hành Bồ Tát đạo lợi ích kẻ khác, ngoại đạo cũng muốn đi trên con đường chánh. Thiên Chúa Giáo và Gia Tô Giáo đều nhận rằng giáo của mình không sai, có thể sinh về nước Chúa. Vì trí huệ của họ chỉ nhiều như thế, chỉ biết có nước Chúa, không biết có những thế giới còn diệu hơn nước Chúa, trí lực của họ không đạt đến được, đây là vấn đề trình độ. Học sinh tiểu học, không thể so sánh với học sinh đại học, cũng không thể so sánh với học sinh trung học. Về phương diện khác là vấn đề nghiệp. Quá khứ nghiệp tạo ra khiến họ chỉ hiểu được nhiều như thế thôi. Cứu kính họ đều muốn khai ngộ, bất quá có ngộ sớm và ngộ trễ, mê ngộ có chậm trễ mà thôi. Tu Bồ Tát đạo thì đắc được giác ngộ sớm một chút. Tu pháp ngoại đạo thì chậm một chút. Nhanh chậm chỉ là vấn đề thời gian, chứ chẳng phải có tốt và không tốt, kết quả đều là đắc quả bồ đề.(Tr 280) (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - Google Drive)
+ Đấng Thượng Đế Vạn Năng: Các thuật ngữ tương ứng gồm Thiên chủ - Thiên chúa - Đấng Chúa trời vạn năng .... mà phương tây vẫn tôn thờ, trong Phật pháp thì Ngài chỉ là Thần hộ pháp mà thôi. Mời đọc lời giảng của HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng, (xem phút thứ 50 đến 60). Lời giảng chi tiết rất hay và sâu sắc.
+ Các sách trích dẫn Thiếu Niên Bảo Thân
Thứ tự kinh sách Đại tạng được trích dẫn:
Kinh Hoa Nghiêm,
|
Kinh Pháp Hoa,
|
Kinh Bát Nhã,
|
Kinh Bảo Tích,
|
Kinh Lăng Nghiêm,
|
Kinh Viên Giác,
|
Kinh Niết Bàn,
|
Kinh Phật Bản Hạnh,
|
Kinh Mật Nghiêm,
|
Kinh A Hàm,
|
Kinh Pháp Cú Dụ,
|
Kinh Quá Khứ Nhân Quả,
|
Kinh Phạm Võng,
|
Kinh Tạp Thí Dụ,
|
Kinh Thiền Bí Yếu,
|
Kinh Phổ Diệu,
|
Kinh Xuất Diệu,
|
Kinh Uy Đức Đà La Ni,
|
Kinh Duy Ma,
|
Kinh Tam Giới,
|
Kinh Bát Sư,
|
Kinh Xử Thai,
|
Kinh Ma Da,
|
Kinh Tu Hạnh Đạo Địa,
|
Kinh Tăng Hộ,
|
Kinh Ưu Điền Vương,
|
Kinh Đề Vị,
|
Kinh Nguyệt Thượng Nữ,
|
Kinh Ma Đặng Nữ,
|
Kinh Nghiệp Báo
Sai Biệt,
|
Kinh Liên Hoa
Diện,
|
Kinh Ni Kiền Tử,
|
Kinh Tạo Tượng,
|
Kinh Thất Phật Diệt
Tội,
|
Kinh Thiền Yếu
Ha Dục,
|
Kinh Đại A Di Đà,
|
Kinh Ưu Bà Tắc
Giới,
|
Kinh Tứ Thập Nhị
Chương,
|
Kinh Nhật Minh
Bồ Tát,
|
Kinh Hiền Ngu
Nhân Duyên,
|
Kinh Khởi Thế
Nhân Bản,
|
Kinh Lâu Thán
Chính Pháp,
|
Kinh Thập Nhị
Nhân Duyên,
|
Kinh Chánh Pháp
Niệm Xứ,
|
Kinh Quán Phật
Tam Muội,
|
Kinh Phật Bát Nê
Hoàn,
|
Kinh Giới
Hương,
|
Đức
|
Luận Du Già,
|
Luận Trí Độ,
|
Luận Câu Xá,
|
Thích Ca Phổ,
|
Quán Kinh Sớ Sao,
|
Hiển Mật Viên Thông,
|
Chuẩn Đề Tịnh Nghiệp,
|
Pháp Uyển Châu Lâm,
|
Tịnh Độ Văn,
|
Chánh Ngoa Tập,
|
Pháp Hỉ Chí,
|
Trúc Song Tam Bút,
|
Hiện Quả Tuỳ Lục,
|
Kê Cổ Lược.
|
|
|
|
|
|
|
Thứ tự sách Nho được trích dẫn: (phụ thêm sách Đạo giáo)
Kinh Dịch,
|
Kinh Thư,
|
Tứ Thư,
|
Lễ Kí,
|
Tả Truyện,
|
Liệt Tử,
|
Trang Tử,
|
Chu Thư Dị
Kí,
|
Sử Kí Chánh
Nghĩa,
|
Tiền Hán Thư,
|
Hậu Hán Thư,
|
Hoài Nam Tử,
|
Tấn Thư,
|
Tống Thư,
|
Nam Tề Thư,
|
Lương Thư,
|
Trần Thư,
|
Nguỵ Thư,
|
Bắc Tề Thư,
|
Chu Thư,
|
Tề Thư,
|
Nam Sử,
|
Bắc Sử,
|
Đường Thư,
|
Tống Sử,
|
Nguyên Sử,
|
Văn Hiến
Thông Khảo,
|
Bắc Sơn Lục,
|
Quảng Nhân Phẩm,
|
Quảng Nhân Lục,
|
Địch Cát Lục,
|
Ý Hạnh Lục,
|
Tri Phi Tập,
|
Đường Thị
Phổ,
|
Tiết Nghĩa
Truyện,
|
Trương Tử Ngữ Lục,
|
Hoàng Minh
Thông Kỷ,
|
Trịnh Cảnh Trọng Tập,
|
Mao Lộc Môn Tập,
|
La Trạng Nguyên Truyện,
|
Tam Giáo Bình Tâm Luận,
|
Dục Hải Thần
Chung,
|
Giới Dâm
Vựng thuyết,
|
Khoa Danh Khuyến Giới Lục,
|
Mạo Hiến Phó Kỉ Sự,
|
Bất Khả Bất
Khả Lục,
|
Tục Bút Thừa,
|
Văn Xương
Hoá Thư,
|
Văn Xương Bảo Huấn,
|
Cảm Khoa Giải Ứng Tập
|
|
Cảm Ứng Thiên Thuyết Định,
|
Cảm Ứng Thiên Quảng Sớ,
|
Cảm Ứng Thiên Đồ Thuyết,
|
Cảm Ứng Thiên Thược Chú.
|
|
|
+ Khoa học: Hiểu theo nghĩa rộng thì bao gồm khoa học thế gian và xuất thế gian
- Pháp Thế gian: Cũng gọi là khoa học công truyền, là những vấn đề hiện tượng, có thể chứng minh
- Pháp xuất thế gian: Cũng gọi là khoa học bí truyền, là những vẫn đề không thể chứng minh, nhưng không thể không công nhận, ví như hình thành Thái dương hệ, mặt trời do đâu mà có??? Hiểu và chấp nhận như vậy thì Dịch học Đông phương, Minh triết thiêng liêng hay Phật pháp đều là khoa học
+ Cam lộ đầy sân: Cam lộ là loại nước thuốc bất tử, chỉ trên trời mới có. Cam lộ có thể làm cho người ta no ấm, không ăn cơm cũng không đói. Người ta không ăn cơm sẽ đói. Tại sao lại đói? Vì không có cam lộ để nuôi dưỡng nên cảm thấy đói, không có tinh thần làm việc. Cam lộ có thể khiến người được no ấm, được trong sạch mát mẻ. Cho nên ngạ quỷ một khi được Cam lộ rưới lên đầu, tức khắc được tiêu trừ tội nghiệp. Cam lộ đầy sân biểu thị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dùng pháp cam lộ để cứu độ chúng sanh. Vì cứu độ tất cả chúng sanh nên cửa cam lộ mở ra thì ngạ quỷ tiến vào sẽ được no ấm. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Nước Cam Lồ: .... Ngồi thiền thì uốn đầu lưỡi lên hàm trên, nếu có nhiều nước dãi thì nuốt vào. Đây là "Nước cam lồ". Vì sao? Vì ngồi thiền, ngồi lâu rồi nước dãi là vị ngọt. Tuy không đồng như đường, hoặc như mật, nhưng cũng là một vị ngọt đàm đạm. Người thường uống thức nước cam lồ này, thì thường không ăn cơm cũng không đói, không uống nước cũng không khát, cho đến đi không biết đi, đứng không biết đứng, ngồi không biết ngồi, nằm không biết nằm, công phu đã đả thành một khối, thời khắc đều ở trong định..... (Nguồn: Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr41; 127; 139 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ 96. CHÍN HẠNG NGƯỜI QUA LẠI [Pháp biết người - Người tài trí biết]
Thế gian này có chín hạng người qua lại.
1) Đoán biết ý nghĩ của người
2) Nghe rồi mới biết
3) Xem tướng sau đó mới biết
4) Quán sát nghĩa lý sau đó mới biết
5) Biết vị nếm sau đó mới biết
6) Biết nghĩa biết vị nếm sau đó mới biết
7) Không biết nghĩa không biết vị
8) Học ở sức thần túc tư duy
9) Nghĩa được nhận rất ít.
Nay Tỳ-kheo Chu-lợi-bàn-đặc chỉ tập thần túc, chứ không học pháp khác. Tỳ-kheo này thường dùng thần túc thuyết pháp cho người.
Tỳ-kheo A-nan của Ta xem tướng mà đoán biết ý nghĩ của người, biết Như Lai cần cái này, không cần cái này; cũng biết Như Lai sẽ nói việc này, bảo xa lìa việc này. Tất cả đều biết rõ ràng. Như nay, không có ai vượt lên trên Tỳ-kheo A-nan về việc xem rộng các nghĩa kinh không đâu không khắp.
Tỳ-kheo Chu-lợi-bàn-đặc này có thể hóa một thân thành nhiều thân, rồi hiệp trở lại thành một. Tỳ-kheo này ngày sau sẽ diệt độ ở giữa hư không. Ta không thấy người nào khác diệt độ như Tỳ-kheo A-nan và Tỳ-kheo Chu-lợi-bàn-đặc này.
Thần túc là chỉ Tứ thần túc/ Tứ như ý túc gồm: 1. Dục thần túc, sự tập trung ý chí mạnh mẽ; 2. Tinh tấn thần túc, nghị lực mạnh mẽ; 3. Tâm thần túc, sự chú tâm; 4. Trạch pháp thần túc, chú tâm vào sự tra xét, tìm tòi. (Nguồn: Tăng Nhất A Hàm, Chín Pháp, 44. Phẩm Chín Chúng Sanh Cư, Kinh số 7)
+ Nợ mạng tìm cách trả nợ mạng sớm:
Thích Ca Như Lai thuyết pháp trong bốn mươi chín năm ...Tất cả phàm thánh, thế gian, xuất thế gian, đều không vượt ngoài hai chữ nhân quả. Nhân tức là nhân duyên. Quả tức là quả báo.
Ví như trồng lúa, lấy hạt lúa làm nhân, rồi nhờ ánh sáng, gió mưa làm duyên. Khi hạt lúa chín mùi thì gặt hái lúa, tức là quả. Nếu không nhân duyên, quyết chẳng thể kết quả. Sở dĩ thành thánh hiền, vì các Ngài minh nhân thức quả. Minh tức là liễu giải được nghĩa. Thức tức là hiểu rõ được nghĩa. Phàm phu sợ quả. Bồ Tát sợ nhân. Phàm phu chỉ sợ quả ác, mà nào biết đến quả ác phát khởi từ nhân xấu. Bình thường, tự ý làm những việc hàm hồ ngu xuẩn; mưu đồ hưởng sung sướng trong nhất thời, mà quên rằng sung sướng vốn là nhân khổ.
Bồ Tát chẳng như thế. Bình thường, nhất cử nhất động, hộ trì thân tâm cẩn trọng, và luôn lấy việc giữ giới làm đầu, nên chẳng gieo nhân xấu, thì làm sao quả ác đến? Bị quả ác trói buộc, do vì đã trồng nhân xấu bao đời xa xưa. Trước kia đã từng trồng nhân nào, thì ngày nay khó mà trốn chạy quả báo đó. Khi cảm thọ quả báo, phải an nhiên lãnh thọ, chẳng nên lui sụt sợ hãi. Đấy mới gọi là minh nhân thức quả.
Ví như pháp sư An Thế Cao thuở xưa, nhờ bao kiếp tu trì, nên được thọ sanh làm thái tử nước An Tức. Khi ấy, Thái Tử xả bỏ năm dục, xuất gia tu đạo, đắc được túc mạng thông, biết đời trước đã từng thiếu nợ mạng người. Chủ nhân lúc ấy đang ở tại nước Tàu. Do đó, Ngài đi thuyền qua Tàu. Đến Lạc Dương, Ngài đi qua một cánh đồng hoang vắng. Bỗng nhiên, từ đâu chạy đến, một thiếu niên tay cầm thanh kiếm, xa thấy Ngài, nổi giận đùng đùng, hung khí đằng đằng. Khi chạy tới, chưa kịp nói lời gì, liền vung kiếm chém Ngài. Sau khi chết, thần thức của Ngài vẫn trở lại đầu thai làm Thái Tử nước An Tức. Lúc trưởng thành, cũng phát tâm xuất gia, vẫn đạt được túc mạng thông, và biết đời này lại phải đền thêm một mạng người nữa. Chủ nhân vẫn ở tại Lạc Dương. Vì vậy, Ngài đi qua Tàu một lần nữa, rồi đến thẳng nhà người vừa giết mình trong đời tiền kiếp. Đến nơi, Ngài xin tá túc qua đêm. Được tiếp đãi cơm nước xong, Ngài hỏi chủ nhân:
- Ông có nhận ra tôi không?
Chủ nhân đáp:
- Không.
- Tôi là vị tăng mà ông đã giết tại một cánh đồng vắng, vào ngày ấy, tháng ấy, năm ấy.
Chủ nhân kinh hoàng sợ sệt, vì việc này không có người thứ ba nào biết đến. Ông nghĩ rằng vị tăng này chắc là hồn ma thuở xưa, nay trở lại đòi mạng. Do đó, ông ta vụt muốn bỏ chạy. Ngài bảo:
- Chớ sợ! Tôi chẳng phải là quỷ ma đến đòi mạng đâu! Ngày mai, tôi cũng sẽ bị người khác giết chết, để đền sanh mạng trong đời tiền kiếp. Vì thế tôi mới đến đây. Nhờ ông làm nhân chứng, chuyển lời di chúc của tôi lại cho quan quân địa phương, bảo rằng tự tôi đến đây để đền mạng, chớ trị tội kẻ giết lầm tôi.
Nói xong, Ngài liền đi ngủ. Hôm sau, Ngài đi ra đường phố, gặp một người nông phu, đang gánh củi. Lúc Ngài đi gần tới ông ta, đột nhiên gánh củi ở phía trước rớt xuống đất, nên cây đòn gánh vụt đánh bật trở lại đằng sau, đập trúng vào đầu Ngài, khiến Ngài chết ngay lập tức. Người nông dân bị dẫn đến quan trường xét xử. Chất vấn xong, quan tuyên bố là ông nông dân phạm tội cố sát. Ông chủ nhân giết Ngài đời trước, thấy lời Ngài dặn dò đêm hôm qua thật rất tương hợp với sự tình, nên trần thuật và trình di chúc của Ngài lên quan xét xử. Quan nghe xong, tin tưởng nhân quả chẳng sai chạy, nên tha tội ngộ sát cho ông nông dân. Khi bị đòn gánh đánh chết, thần hồn Ngài vẫn bay trở lại, đầu thai làm Thái Tử nước An Tức. Lớn lên, cũng xuất gia tu hành, tức là pháp sư An Thế Cao.
Tuy là thánh hiền, nhưng chẳng lầm nhân quả. Đã từng trồng nhân xấu thì phải cảm thọ quả ác. Nếu hiểu rõ nghĩa này, thì những cảnh thuận nghịch, vui buồn, khổ nhọc, sung sướng, cùng mọi cảnh giới hằng ngày, đều do nhân xưa tạo ra. Ngay nơi những cảnh giới này, chớ sanh tâm vọng tưởng thương ghét oán trách, thì tự nhiên sẽ xả bỏ được tất cả, khiến chuyên tâm vào đạo. Những thói quen tật xấu, vô minh, cống cao ngã mạn, đều không thể làm chướng ngại, thì tự nhiên dễ dàng nhập đạo. (Nguồn: HT Hư Vân giảng - V)
+ Đề mục thiền định: VI- Nhóm tiếp theo là phân tích tứ đại
Với đề mục thiền này, bạn có thể lấy các bộ phận trong cơ thể như tóc, lông, móng, răng, da v.v… để thấy các yếu tố tứ đại. Có 32 thành phần trong cơ thể, trong đó có hai mươi thành phần thuộc yếu tố đất, mười hai thành phần thuộc yếu tố nước. Trước tiên bạn phải hiểu tứ đại là gì, sau đó bạn cố gắng hiểu những bộ phận nào trong cơ thể có những đặc tính của đất, của nước v.v… Chẳng hạn như bạn có cảm giác về sự cứng thì bạn có thể kết luận đây là yếu tố đất. Khi bạn cảm thấy sự dính hút hay ướt thì bạn có thể kết luận đây là yếu tố nước v.v… Do đó hãy cố gắng thấy các yếu tố này bất kỳ nơi nào trong cơ thể......
Vì hiểu rõ được tứ đại là điều không phải dễ dàng, rất khó khăn để hiểu rõ được tứ đại do những đặc tính này thật là thâm sâu nên định tâm không đủ mạnh để đạt đến các tầng thiền.
Trên đây là bốn mươi đề mục Thiền Định. Nếu muốn thì bạn có thể thực hành một hoặc một số trong những đề mục này. (Nguồn: Thiền Định Về Tứ Đại Và Mầu Sắc - Thiền Minh Sát)
+ Hiểu về các Đại:
I- Định nghĩa: Bốn Đại, sáu Đại, mười hai Xứ và mười tám Giới
1)- Bốn Đại: Bốn Đại là bốn yếu tố cơ bản hình thành nên thể chất (thân vật lý) của con người, bao gồm: chất khoáng (Pathavi - đất), chất lỏng (€po - nước), nhiệt độ (Tejo - sức nóng) và hơi khí (Vàyo - gió). Chúng ta thường gọi một cách hình tượng về thân tứ đại là đất, nước, gió, lửa.
2)- Sáu Đại: Sáu Đại là sáu yếu tố cơ bản hình thành nên con người toàn diện với ba thành tố đặc thù là: thể chất vật lý (gồm bốn Đại) cộng với ý thức (thuộc tâm lý) và không gian.
3)- Mười hai Xứ: Mười hai Xứ là cơ sở giao tiếp giữa con người với thế giới thực tại khách quan, bao gồm sáu nội xứ (thuộc về tự thân) và sáu ngoại xứ (thuộc về ngoại cảnh). Sáu nội xứ là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức. Sáu ngoại xứ là: hình thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, sự tiếp xúc và các sự vật hiện tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
4)- Mười tám Giới: Mười tám Giới là cơ sở giao tiếp toàn diện của con người với thế giới thực tại khách quan, bao gồm: sáu nội xứ, sáu ngoại xứ và sáu tình thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức).
II- Phân tích bốn Đại qua thể chất vật lý của con người
Bốn Đại là nói tóm tắt về cơ thể con người. Bốn Đại này do nhân duyên hợp thành, chúng không có gì là bền chắc. Con người từ khi sinh ra được nuôi dưỡng bởi các loại thức ăn (thực tố) và dưỡng khí, và tiếp tục sinh trưởng theo thời gian. Trong suốt quá trình sống của một đời người, thân thể vật lý này không ngừng thay đổi qua các chu kỳ sinh thành, tồn tại, biến đổi và phân hủy (chết). Cái mà chúng ta gọi là sự chết (sự ngưng hoạt động và phân hủy hay thọ mạng chấm dứt), thực chất chỉ là sự tan rã của bốn Đại).
Cơ thể của con người hình thành là do sự hội tụ của bốn Đại. Trong bốn Đại, nếu tiếp tục phân tích, chúng ta sẽ có thêm bốn nhóm vật chất như sau:
1. Yếu tố đất: gồm có: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, phân, mỡ, não, ghèn.
2. Yếu tố nước: gồm có: mật, đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, nước mắt, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu.
3. Yếu tố gió: gồm có: hơi thở (sự hô hấp) và khí.
4. Yếu tố lửa: gồm có: nhiệt độ hay sức nóng do sự vận hành của cơ thể phát ra.
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, cơ thể con người gồm có 36 thứ bất tịnh và được chia thành ba nhóm:
1. Nhóm một: gồm có 12 thứ ngoài thân: tóc, lông, móng, răng, ghèn, nước mắt, nước mũi, nước miếng, phân, nước tiểu và mồ hôi.
2. Nhóm hai: gồm có 12 thứ trong thân: da, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, lớp mỡ da, mỡ óc, màng bọc gân, thịt.
3. Nhóm ba: gồm có 12 thứ nằm sâu trong thân: gan, mật, ruột, dạ dày, lá lách, thận, tim, phổi, bàng quang, mề phân, đàm đỏ và đàm trắng.
Mục đích của sự phân tích cụ thể như trên là nhằm giúp chúng ta nhìn thấy rõ ràng, chính xác về thân tướng bất tịnh của con người để hướng tâm đến trạng thái xả ly, không chấp thủ (1)
Chúng ta có sáu căn và sáu trần. Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
- Sắc: gồm có màu sắc, hình thể, vật thể, hiện tượng, sự vật. Sắc còn được chia thành hai phần đó là: biểu sắc (hình tượng, sự vật...), vô biểu sắc (năng lượng vô hình..., năng lượng tâm thức [mental energy] cũng được xem là một loại sắc).
- Thanh: gồm tiếng nói, tiếng động, âm thanh, âm nhạc...
- Hương: hương khí, hương thơm...
- Vị: mùi vị như chua, chát, cay, ngọt, mặn, đắng, the, lờ lợ...
- Xúc: sự giao thoa giữa căn và trần, giữa vật này với vật khác...
- Pháp: tất cả thế giới sự vật hiện tượng tâm lý và vật lý nói chung.. (Nguồn: Bốn Đại, Sáu Đại, Mười Hai Xứ, Và Mười Tám Giới)
+ Bồ tát mười phương - Bồ Tát các phương
Tên của các Ngài là: Bồ Tát Pháp Huệ. Bồ Tát Nhất Thiết Huệ. Bồ Tát Thắng Huệ. Bồ Tát Công Đức Huệ. Bồ Tát Tinh Tấn Huệ. Bồ Tát Thiện Huệ. Bồ Tát Trí Huệ. Bồ Tát Chân Thật Huệ. Bồ Tát Vô Thượng Huệ. Bồ Tát Kiên Cố Huệ.
Lúc Phật nói pháp tại điện Diệu Thắng thì có mười vị đại Bồ Tát đến đạo tràng, tùy hỷ công đức, khen ngợi công đức của Phật, trợ giúp Phật hoằng dương Phật pháp. Ðây là danh hiệu mười vị đại Bồ Tát trong mười phương:
1). Phương đông là Bồ Tát Pháp Huệ. Ngài minh bạch Phật pháp, khai mở đại trí huệ.
2). Phương nam là Bồ Tát Nhất Thiết Huệ. Ngài thấu hiểu tất cả Phật pháp, chứng được nhất thiết trí huệ.
3). Phương tây là Bồ Tát Thắng Huệ. Ngài có trí huệ thù thắng.
4). Phương bắc là Bồ Tát Công Ðức Huệ. Ngài có đủ thứ công đức mà được chân thật trí huệ.
5). Phương đông bắc là Bồ Tát tinh tấn huệ. Ngài chuyên tu pháp môn tinh tấn, đắc được đại trí huệ.
6). Phương đông nam là Bồ Tát Thiện Huệ. Ngài chuyên làm việc thiện mà khai mở trí huệ.
7). Phương tây nam là Bồ Tát Trí Huệ. Ngài chuyên tu pháp môn Bát Nhã mà đắc đại trí huệ.
8). Phương tây bắc là Bồ Tát Chân Thật Huệ. Ngài được trí huệ từ sự tu giới luật, chẳng nói dối mà đắc được trí huệ chân thật.
9). Phương dưới là Bồ Tát Vô Thuợng Huệ. Trí huệ của Ngài vô thượng, chẳng ai cao hơn Ngài.
10). Phương trên là Bồ Tát Kiên Cố Huệ. Trí huệ của Ngài kiên cố như kim cang vừa quang minh, vừa sắc bén. (Nguồn: Bồ Tát mười phương - Kinh Hoa Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bồ Tát phương dưới: Địa Tạng Bồ tát cũng là Bồ Tát phương dưới (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Không chấp trước tượng Phật - Chấp trước tướng tốt đẹp của Phật
Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Huệ ở phương nam, nương đại oai thần lực gia trì của đức Phật, quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của mười phương chúng sinh, dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật.
Giả sử trăm ngàn kiếp
Thường thấy đức Như Lai
Chẳng nương nghĩa chân thật
Mà quán bậc Cứu Thế.
Nếu như trong trăm ngàn kiếp, luôn luôn thấy được Phật, song chẳng y chiếu nghĩa chân thật (lìa tướng) để quán sát Phật, thì thường chấp chặt vào ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của Phật, cho rằng đó là mặt mày chân thật của Phật.
Người đó trụ các tướng
Tăng thêm lưới si hoặc
Trói chặt ngục sinh tử
Mù tối chẳng thấy Phật.
Tuy nhiên người đó thấy Phật, song trụ vào các tướng, chẳng biết rằng tướng là không, thì chỉ tăng thêm lưới si hoặc, mà bị dây thừng sinh tử trói chặt, vĩnh viễn thoát chẳng khỏi sáu nẻo luân hồi. Nhốt ở trong lao ngục sinh tử, thì cũng như người mù tối, vĩnh viễn chẳng thấy được mặt mày chân thật của Phật.
Chúng ta nên phá tan chấp trước, đừng chấp trước có, cũng đừng chấp trước không. Chấp có, chấp không, thì rơi vào hai bên. Chấp có thì thủ lấy các tướng, chấp không thì rơi vào không (chẳng có gì hết). Không, có, chẳng chấp trước, tức là trung đạo.
Người chân chánh học Phật pháp thì phải lìa tướng, lìa tướng tức là bồ đề. Nếu không thể lìa tướng, mà chấp trước tướng, thì chỉ là ngày càng ngu si, không thể khai mở trí huệ. Khai mở trí huệ thì thấy Phật, chẳng khai mở trí huệ thì ngu si, ngu si thì thấy quỷ. Người học Phật pháp, nên càng học càng thông minh, không thể càng học càng hồ đồ.
Hiện tại là thời kỳ đả thiền thất, mọi người phải có tâm nhẫn nại, phải luyện tâm kim cang bất hoại, ví như sắt, trải qua rèn luyện rồi thì mới thành thép. Thép chế thành đao kiếm thì mới sắc bén. Chúng ta cũng phải trải qua một phen rèn luyện, thì mới thành Thánh Hiền. Bậc Thánh Hiền thì chẳng có tập khí mao bệnh, tất cả đều thanh tịnh. Ðả thiền thất tức là trừ tập khí, khử mao bệnh. Ði hương, chạy hương, ngồi hương, tức là rèn luyện thân tâm, khiến cho thanh tịnh. Khi đến được cảnh giới, trong chẳng biết có tâm, ngoài chẳng biết có thân, xa chẳng biết có vật, thì tất cả hết thảy đều buông xả hết. Nếu buông xả được, thì tự nhiên sẽ thành Phật. Tại sao chúng ta không khai ngộ ? Vì chẳng buông xả được thân tâm. Cho rằng túi da hôi thối là người bạn tốt, thì nhất định sẽ bảo hộ nó, thương tiếc nó, chẳng cho nó chịu thiệt thòi. Khát một chút cũng không được, đói một chút cũng không được, lạnh một chút, nóng một chút đều không xong. Tóm lại, luôn lúc nào cũng chiếu cứ nó, xem nó là bảo bối. Song, tuy nhiên bạn thương mến nó, lo cho nó, nhưng đến lúc lâm chung, thì nó một chút cũng chẳng trợ giúp bạn, suôi tay mà đi. Lúc đó, chỉ có bạn một mình đi thọ quả báo. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm Q.16 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kinh Diên Mạng Địa Tạng BT: Như vậy tôi nghe..... Đức Phật bảo Đế Thích: “Có một vị Bồ Tát tên là Diên/Duyên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát .........
Đức Phật bảo Đế Thích: “Ở đời vị lai, nếu có chúng sinh thọ trì Kinh này, cung kính, cúng dường vị Bồ Tát đó thì bên trong một trăm do tuần không có các tai vạ, mộng ác, tướng ác, các điều chẳng tốt lành.
Hàng Võng Lượng, Quỷ Thần, Cưu Bàn Đồ vĩnh viễn chẳng được dịp thuận tiện để hãm hại; Thiên Cẩu, Thổ Công, Đại Tuế Thần Cung, Sơn Thần, Mộc Thần, Giang Hải Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Cầm Ngạ Thần, Trủng Thần, Xà Thần, Chú Trớ Thần, Linh Thần, Lộ Thần, Táo Trạch Thần… nếu nghe Kinh này, tên của vị Bồ Tát [Janitam Ksitigarbha Bodhisattva] đó, sẽ nôn ra khí tà, tự ngộ bổn Không [sunyata], mau chứng Bồ Đề”...... Bài lễ:
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Người nữ sinh dễ, tâm an ổn
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Đầy đủ thân căn, ý tự tại
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Mọi bệnh đều trừ, Thể bền chắc
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Thọ mệnh lâu dài, nguyện thành tựu
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Thông minh, Trí Tuệ giữ Giới Cấm
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Tài bảo dư thừa, giúp nghèo túng
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Mọi người yêu kính, không sợ hãi
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Lúa gạo được mùa, dân an vui
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Thần minh gia hộ, trừ tai nạn
Nam mô Diên Mệnh Địa Tạng Tôn, Chứng Đại Bồ Đề, thành Phật Đạo
Chân Ngôn:
“Án, ha ha ha, vĩ sa ma duệ, sa bà hạ”/
Oṃ Ha ha ha Vismaye Svāhā
Tán:
Địa Tạng Đại Sĩ
Thề Nguyện rộng sâu
Ngọc sáng soi chiếu
Phá thành Thiết Vi
Gậy vàng chấn U Minh
Mưa hoa tuôn thơm phức
Đại Địa bày xuân tươi (dương xuân)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (xưng 3 lần)
Hồi hướng: Nay Công phu đọc tụng kinh Phật nói Kinh Diên Mệnh Địa Tạng Bồ tát con xin hồi hướng cho: ...... (Nguồn: Kinh Diên Mạng Địa Tạng BT)
+ Xét đánh ai - Ở đâu đều có nguyên nhân:
"SÉT ĐÁNH AI, Ở ĐÂU, THỜI GIAN, TẠI VỊ TRÍ NÀO, TẤT CẢ ĐỀU CÓ NGUYÊN NHÂN CẢ, KHÔNG CÓ CHUYỆN THẦN SÉT ĐÁNH NHẦM"
Trên đầu 3 thước có thần linh, lúc nào cũng giám sát việc làm của chúng ta, chúng ta làm việc gì, khởi lên ý niệm gì, tất cả đều được ghi chép lại, 1 việc nhỏ nhất cũng không thiếu. Đó là thật, không phải giả.
Trên vai mỗi người đều có 2 vị Thần, một vị là nữ tên là Đồng Sanh chuyên ghi lại việc ác của chúng ta, vị còn lại là nam tên là Đồng Danh chuyên ghi chép việc thiện của chúng ta, 2 vị này còn gọi là Thiện Ác Đồng Tử.
Giống như ở mỗi ngọn Núi thì có Thần Núi cai quản, ở Sông thì có Thần Sông, rồi thần ao hồ, đầm lầy, thần gia súc, thần cây, thần cỏ, thần hư không, thần gió .... nhiều vô số. Ngay cả Sấm Sét cũng có Thần Sét cai quản, cho nên Sét đánh ai, ở đâu, thời gian, tại vị trí nào, tất cả đều có nguyên nhân cả, không có chuyện Thần Sét đánh nhầm, và đặc biệt là không có bất cứ chuyện gì trên thế gian này là ngẫu nhiên cả. Hết thảy đều có nhân quả của nó.
Trong khu vực đất nhà mình thì sẽ có các vị Quỷ Thần khu vực đó cai quản, giống như trên trần gian gọi là công an xã, trưởng thôn... Hằng ngày giám sát việc làm của quý vị, tuy nhiên người thế gian ghi chép còn có xót việc này thiếu việc kia, còn các vị Quỷ Thần ghi chép thì 1 việc nhỏ cũng không thiếu xót.
Số lượng quỷ thần ghi chép tội lỗi của người thế gian thì nhiều vô số, hằng hà sa số, không thể tính đếm được, chúng ta nghĩ rằng việc làm của mình, ý niệm của mình chưa nói ra thì không ai biết ư? Đó là tự lừa mình dối người.
Đúng là người khác sẽ không biết ta suy nghĩ gì trong đầu nhưng chỉ cần ý niệm của ta khởi lên thì tận hư không biến pháp giới, không ai mà chẳng biết. Quý vị không thể không biết điều này. (Hoà Thượng Tịnh Không giảng).
Nam Mô A Di Đà Phật. Hoan nghênh chia sẻ
+ Thuốc củ ráy và lá đu đủ thải độc chữa bệnh:
Thuốc gì cũng cần đông tây y và tâm linh kết hợp. Tâm linh là bên trong, rất quan trọng, vì gốc của bệnh là từ tâm. Nếu không tu tâm dưỡng tính, ăn chay giữ giới thì hiệu quả thuốc đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt bệnh oan gia nghiệp chướng càng cần tu hành tinh tấn, làm lành lánh giữ, bố thí cúng dường tu phúc tích đức, đọc tụng kinh sám hối nghiệp chướng, hồi hướng cho oan gia trái chủ thì căn bản chỉ cần Định số chưa hết thì rễ lành bệnh, dù là bệnh nan y ung thư, bởi thế nên mới nói Phật pháp nhiệm mầu, chữa lành mọi bệnh trên thế gian, lòng cung và tin tưởng tuyệt đối vào tam bảo, Phật Bồ Tát gia trì trị bệnh cũng rất quan trọng, chỉ có lợi chứ không chút hại nào cả.
Còn định số đã hết thì phải chịu thôi, phúc hết thì mệnh hết, ai ai cũng phải chết cả. Đã có sinh thì phải có tử, trị bệnh khỏi là chữa trị các bệnh do nghiệp xấu ác dẫn đến chết yểu - Tức chết chưa hết số thì hoàn toàn có thể nương vào Tam bảo.
Tìm hiểu về củ ráy/ củ bạc hà: Xem bài viết thaoduocgiaphat
Xem thêm chi tiết các Clip hướng dẫn của thầy Thích Đạo Thịnh - Chùa Khai Nguyên - Sơn Tây - Hà Nội: Xem Clip 1 và Xem Clip 2
Xem Clip phát thuốc củ ráy và lá đu đủ, hướng dẫn sử dụng trị bệnh miễn phí: Xem Clip tại đây
Người uống thuốc đã khỏi bệnh, có thể tham khảo: Xem Clip tại đây
+ Kinh văn về sức khỏe - Bệnh nạn - Y học và Đông y với Dịch học - Minh triết - Phật pháp
-Kinh Phật: Ngoài những ghi chép về Đức Phật và Kỳ Bà, nhiều kinh điển như Kinh Phật Chuân Đoán, Kinh Đại Y Vương Phật, Kinh Liệu Trĩ Bệnh, Kinh Tâm Bệnh Phiến Loạn Bởi Phi Thiền Định, Kinh Trị Bệnh Nha, Kinh Đà La Ni Chữa Bá Bệnh, Kinh Đà La Ni Chữa Bệnh Từng Mùa, Kinh Kim Quang Minh, Luật Ngũ Mục, Luật Tứ Mục, Luật Thập Tụng, và Đại Tập, chứa đựng nhiều tài liệu tham khảo khác với kiến thức của Đức Phật về y học. (Nguồn: Phật giáo với sức khỏe thân tâm và Y học)
-Tâm lý học nội môn, sách Minh triết mới
+ Xúc giác: Chúng ta phải ghi nhớ rằng giác quan này là giác quan rất quan trọng, vượt trên các giác quan khác trong Thái dương hệ thứ hai này - tức Thái dương hệ của tâm thức cảm dục tuệ giác.( Tâm thức cảm dục tuệ giác là thuật ngữ được dùng cho tâm thức cơ bản trong Thái dương hệ chúng ta. Nó được tiêu biểu bằng sự cảm xúc (emotion), bằng sự nhạy cảm (by feeling), cảm giác, mà sau rốt phải được biến đổi thành trực giác, tri giác tâm linh (spiritual perception) và hợp nhất.)
Mỗi một trong các giác quan này, sau khi đạt đến một trình độ nào đó, bắt đầu tổng hợp với các giác quan khác bằng một cách hầu như không thể biết được nơi bắt đầu và nơi kết thúc. Xúc giác là sự nhận thức bằng cách tiếp xúc qua sự luyện tập của trí tuệ theo ba cách :
- Dưới hình thức nhận thức (recognition)
- Dưới hình thức trí nhớ (memory)
- Dưới hình thức tiên đoán (anticipation)
Mỗi một trong năm giác quan này, khi kết hợp với trí tuệ sẽ phát triển ở bên trong chủ thể một ý niệm biểu hiện cho quá khứ, hiện tại và tương lai....
Các cảm giác được khơi dậy bằng các đối tượng của các giác quan (10 giác quan chia 2 loại cơ quan cảm giác và hành động)...LVLCK, 194)
+ Chức năng các giác quan:
Nhưng sớm hay muộn và trong ba cõi thấp, mỗi giác quan trên mỗi cõi được dùng để truyền đạt cho Linh Hồn một khía cạnh/ trạng thái nào đó của phi ngã, và bằng sự trợ giúp của trí tuệ, bấy giờ Chủ Thể Suy Tưởng có thể hiệu chỉnh mối liên giao của mình vào đó.
Thính giác đem lại cho y một ý tưởng về phương hướng tương đối và giúp cho một người xác định vị trí mình trong cơ tiến hoá và định hướng cho chính mình.
Xúc giác đem lại cho y một ý tưởng về số lượng tương đối và cho phép y xác định giá trị tương đối có liên quan đến các thể khác bên ngoài chính y.
Thị giác đem lại cho y ý tưởng về sự cân xứng và cho phép y hiệu chỉnh cử động của y so với cử động của các kẻ khác.
Vị giác đem lại cho y ý tưởng về giá trị, cho phép y xác định trên đó những gì đối với y có vẻ tốt nhất.
Khứu giác mang lại cho y ý tưởng về tính chất nội tại cho phép y tìm thấy những gì hấp dẫn y như thể cùng tính chất hoặc bản thể như chính y.
Trong tất cả các định nghĩa này, cần phải nhớ rằng toàn bộ vấn đề về giác quan là tiết lộ phi ngã và nhờ đó cho phép Bản ngã phân biện giữa thực và hư (1). (LVLCK, 194)
+ Các nhóm giác quan - Tương ứng ba ngôi:
Ba giác quan chính này (tôi tạm mô tả như thế) kết hợp nhau rất rõ ràng, mỗi giác quan với một trong Ba Ngôi Thượng Đế:
Thính giác - Nhận thức được ngôn từ tứ phân, hoạt động của vật chất, Thượng Đế Ngôi Ba.
Xúc giác - Nhận thức được Đấng Kiến Tạo Hình Hài thất phân, tụ tập lại các hình hài, sự tiếp cận và quan hệ hỗ tương của chúng, Thượng Đế Ngôi Hai. Định luật Thu Hút giữa Ngã với phi ngã bắt đầu tác động.
Thị giác - Nhận ra được tính chất toàn thể, tổng hợp của tất cả, hiểu được Đấng Duy Nhất trong Muôn Loài, Thượng đế Ngôi Một. Định Luật Tổng Hợp, đang tác động giữa mọi hình hài mà bản ngã đang chiếm hữu và nhận ra được tính duy nhất cốt yếu của mọi biểu lộ nhờ vào thị giác.
Về phần vị giác và khứu giác, chúng ta có thể gọi chúng là các giác quan thứ yếu, vì chúng được kết hợp chặt chẽ với giác quan trọng yếu là xúc giác.
Giác quan thứ hai này và mối liên hệ của nó với Thái dương hệ thứ 2 nên được thận trọng nghiền ngẫm. Đó là giác quan có ưu thế liên hệ chặt chẽ nhất với Thượng Đế Ngôi Hai. Điều này đưa ra một gợi ý rất có giá trị nếu được xem xét một cách thích đáng. Thật là hữu ích mà nghiên cứu các phần mở rộng của cõi trần có liên quan với các cõi khác và xem chúng ta được đưa đến đâu. Đó là khả năng cho phép chúng ta đạt đến bản thể nhờ việc nhận ra lớp vỏ che phủ. Nó giúp cho Chủ Thể Suy Tưởng vận dụng quan năng đó một cách đầy đủ để đặt chính mình liên quan chặt chẽ với bản thể của mọi bản ngã ở mọi trình độ và do đó để trợ giúp trong sự tiến hoá thích hợp của lớp vỏ và để phụng sự một cách linh hoạt. ... Trong sự liên hệ này, chúng ta cũng sẽ nghiên cứu giá trị của xúc giác được các nhà chữa trị cho nhân loại (những kẻ đang đi theo con đường của Bồ Tát “1”)....
Chứng minh và hiệu quả của Định Luật Hút và Đẩy khi được họ vận dụng như thế....... Ở đây có tàng ẩn toàn bộ bí nhiệm của Thái dương hệ biểu lộ này và nơi đây sẽ được chứng minh sự gia tăng rung động bằng xúc giác. Tĩnh tại, chuyển động, nhịp nhàng là các tính chất biểu lộ bởi phi ngã. Nhịp nhàng, thăng bằng và rung động ổn cố được đạt đến bằng chính khả năng tiếp xúc hay cảm nhận này ..... (LVLCK, 197)
+ Vị giác. Y nếm rồi cuối cùng phân biện, vì vị giác là giác quan trọng yếu bắt đầu có ảnh hưởng trong tiến trình phân biện vốn xảy ra vào lúc mà bản chất hư huyễn của vật chất dần dần được nhận ra. Sự phân biện là diễn biến có tính cách giáo dục mà chính Bản Ngã lệ thuộc vào trong lúc mở trực giác - loại quan năng mà nhờ đó Bản Ngã nhận ra được bản thể riêng của nó ở trong và dưới mọi hình thể. Sự phân biện liên quan đến nhị nguyên tính của bản chất, Bản Ngã và phi ngã, và là phương tiện phân biệt của chúng trong tiến trình trừu xuất; trực giác liên hệ đến sự hợp nhất và là khả năng của Bản Ngã để tiếp xúc với các Bản Ngã khác, và không phải là một quan năng mà nhờ đó phi ngã được tiếp xúc. Do đó, ít có được trực giác vào lúc này, do bởi sự biệt ngã hoá mạnh mẽ của Chân ngã và sự đánh đồng của Chân ngã với hình hài - một sự đánh đồng cần thiết vào thời điểm đặc biệt này. Vì vị giác trên các cõi cao được phát triển, nó đưa đến một trong các dị biệt tế nhị hơn bao giờ, mà cho đến nay điều đó sau rốt, qua hình hài, đưa đến đúng tâm của bản chất con người. (LVLCK, 201)
+ Khứu giác là quan năng nhận thức bén nhạy mà sau rốt đưa con người về lại cội nguồn của mình, tức cõi nguyên hình ( ), cõi này mới là chỗ ở đích thực của con người. Một nhận thức về sự dị biệt được bồi đắp đã tạo nên một bất mãn thiêng liêng trong tâm của kẻ hành hương ở viễn xứ; đứa con đi hoang ( ) rút ra được các so sánh; y đã phát triển bốn giác quan khác và y vận dụng được chúng. Bây giờ đến quan năng nhận thức rung động đối với rung động quen thuộc (home vibration) nếu có thể diễn tả được như thế. Đó là đối phần tâm linh (spiritual counterpart) của loại giác quan, mà ở thú vật, bồ câu và các loại chim khác, giác quan đó hướng dẫn chúng trở về đúng địa điểm quen thuộc mà nơi đó chúng đã đến lúc đầu. Đó là việc hiểu được rung động của Bản Ngã và việc quay về nhanh chóng nhờ loại bản năng đưa đến cội nguồn ban đầu.
Việc nghiên cứu đề tài này khơi dậy nhận thức về sự bao la của lãnh vực tư tưởng liên hệ - tức lãnh vực phát triển tiến hoá toàn bộ của con người. Tuy nhiên, tất cả những gì có được ở đây cũng như ở nơi khác là vạch ra đường lối tư tưởng cho việc cân nhắc cẩn thận và nhấn mạnh một vài ý tưởng có thể dùng như các tư tưởng căn bản cho hoạt động trí tuệ trong tương lai của thế hệ ngay trước mắt. Các sự kiện sau đây cũng phải được ghi nhớ khi nghiên cứu về vật chất :
a. Đó là các giác quan đã được bàn đến trong đoạn này của quyển Luận Về Lửa Càn Khôn vì chúng có liên hệ đến hình hài vật chất. Nó đúng ra, 5 giác quan, theo như chúng ta biết, là các phương tiện tiếp xúc được thiết lập bởi Chủ Thể Suy Tưởng (đã an trú vào thể dĩ thái của y) và tìm được biểu lộ của chúng trong hình hài vật chất ở các trung tâm thần kinh, các tế bào não, các trung khu thần kinh (ganglia) và đám rối (plexus) mà khoa học ngoại môn nhận biết được.
b. Đó là các giác quan dùng cho tất cả các mục đích biểu lộ hiện nay, điểm tập trung của chúng ở trên cõi cảm dục và do đó chủ yếu là ở dưới tác động kích thích của đan điền - điểm tập trung lớn đó ở trung tâm cơ thể vốn là tác nhân kích thích đối với hầu hết gia đình nhân loại vào lúc này.
c. Vì lẽ tam giác cao bắt đầu phát huy tác dụng và sự an trụ tiến tới các bí huyệt cao, nên các giác quan bắt đầu làm cho chính chúng được cảm nhận ở trên cõi trí và con người bắt đầu có tri giác trên cõi đó. Trong cơ thể con người, chúng ta có một phản ảnh đáng chú ý về sự chuyển đổi sự an trụ từ Phàm ngã đến Chân ngã hay là vào tận linh hồn thể trong cách phân chia hiện có giữa cõi thượng trí và cõi hạ trí và đường phân chia của cách mô giữa phần trên và phần dưới của cơ thể. Dưới cách mô, chúng ta có 4 trung tâm lực thấp :
1 Đan điền
2 Lá lách
3 Cơ quan sinh sản
4 Đáy xương sống
Phía trên là 3 trung tâm lực cao:
1 Tim
2 Cổ họng
3 Đầu
Trong tiểu thiên địa, chúng ta có 4 thể thấp, (tứ hạ thể) tách biệt với Ba Thể Cao (Tam Thượng Thể) theo cùng một cách thức và sự tương đồng này cần được suy ngẫm. Do đó, bằng sự thận trọng trong tư tưởng, chúng ta có thể tạo nên tác động phản xạ của các trung tâm lực và các giác quan theo quan điểm các cõi khác nhau, nên nhớ rằng khi các trung tâm lực được khơi hoạt, tiến trình diễn ra theo ba giai đoạn :
Thứ nhất: Giai đoạn khơi hoạt trên cõi trần và các trung tâm lực từ từ tăng gia hoạt động, cho đến khi đạt đến con đường Đệ tử Dự bị. Giai đoạn này diễn ra song song bằng việc tăng thêm sự hữu dụng của các giác quan và việc vận dụng thường xuyên các giác quan để nhận ra Chân ngã và các lớp vỏ của nó.
Thứ nhì. Giai đoạn thức tỉnh trên cõi cảm dục và hoạt động từ từ tăng lên của các trung tâm lực, cho đến khi đạt được Điểm Đạo thứ nhất. Điều này diễn ra song song bằng việc vận dụng các giác quan vô cùng bén nhạy cho các mục đích phân biệt giữa Ngã với phi ngã.
Thứ ba. Giai đoạn thức tỉnh trên cõi trí và sự tăng gia hoạt động dần dần của các trung tâm lực và các giác quan. Hiệu quả trong cả hai trường hợp đều đưa đến việc đồng nhất hoá của Bản Ngã với bản thể riêng của nó trong mọi nhóm và thải bỏ các lớp vỏ và các hình hài.
Sự phát triển này diễn ra song song trên hai cõi cao đồng thời cũng ở trong cõi thấp và vì các giác quan thuộc thể cảm dục bắt đầu hoạt động hoàn hảo, các trung tâm lực tương ứng trên cõi Bồ đề bắt đầu hoạt động cho đến khi sự tương tác về rung động giữa cả hai trở nên hoàn hảo, mãnh lực của Tam Thượng Thể có thể được cảm nhận một cách rõ rệt trong phàm ngã xuyên qua thể cảm dục.
Lần nữa, các xoáy lực tương ứng trên cõi Niết Bàn bắt đầu rung động một cách linh hoạt vì các trung tâm lực thuộc thể trí trở nên có chiều đo thứ tư, cho đến khi chúng ta có sự hoạt động của luồng hoả kỳ diệu hiện ra trên ba cõi giới.
Theo quan điểm về luồng hoả (1), tạm thời không xét về hào quang và màu sắc của nó; sự phát triển tiến hoá cũng đánh dấu bằng một tiến trình cũng rõ ràng như thế. (LVLCK, 202)
+ THƯỢNG ĐẾ
Cha – Tinh Thần …….. Mẹ – Vật Chất
tạo ra
Đấng Con hay Thái Dương Thượng Đế, Chân ngã
Thượng Đế hữu thức đang tiến hoá qua Mặt Trời và 7 hành tinh thánh thiện, mỗi hành tinh biểu hiện một Nguyên khí vũ trụ, trong 6 biến phân bằng phương pháp:
a. Mở rộng, kích thích rung động, tương tác từ điện hay định luật hút và đẩy.
b. Luỹ tiến theo chu kỳ, lặp lại sự quay, nối kết với sự tiến lên theo hình xoắn ốc, và đang phát triển :
- Đặc tính bác ái – minh triết, qua việc sử dụng hình hài bằng trí tuệ linh hoạt.
- Ngã thức đầy đủ,
- Một Thái dương hệ hoàn hảo, hay hình hài, thích ứng cho các nhu cầu của tinh thần nội tại.
Nơi đây một bảng biểu tương đồng có thể được thực hiện, để chứng minh sự tương đồng của diễn trình, trong trường hợp của một Hành Tinh Thượng Đế và một con người. Nếu chúng ta hỏi tại sao 10 hệ thống và trong 10 hành tinh được thực hiện (gồm 7 thánh thiện và 3 ẩn tàng) bởi vì 7 hành tinh thánh thiện sau rốt nhập thành 3 và sau cùng 3 thành 1.
Tương tự, cũng như 7 Cung năng lượng đang biểu lộ, gồm 4 cung thứ yếu và 3 cung chính yếu. ba cung chính yếu thuộc về Cung III, một trong ba cung năng lượng gốc (LVLCK, 236)
+ Đấng Cao Cả này mà chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế, không mang ý nghĩa như Thượng Đế nhân hình (personal God) của Cơ Đốc giáo, vị Thượng Đế sau này chính là con người không hơn không kém, đã phát triển thành một Đấng có huyền năng khủng khiếp, và lệ thuộc vào các đức tính cùng là tật xấu của chính con người. Thái Dương Thượng Đế vượt lên trên con người, vì Ngài là toàn thể mọi cuộc tiến hoá trong toàn bộ Thái dương hệ, kể cả con người, đó là một cuộc tiến hoá nằm ở điểm giữa có liên quan với các cuộc tiến hoá khác. Về một phương diện, Ngài được sắp vào số các Đấng vượt trên con người, và trong thiên kiếp (kalpa) vừa qua, Ngài đã đạt được và vượt quá trình độ của con người hiện giờ; (LVLCK, 241)
I. BA BIỂU LỘ CỦA MANAS ( )
1. Lửa của trí, xét về phương diện vũ trụ.
2. Lửa của trí, xét về phương diện Thái dương hệ.
3. Lửa của trí, liên quan với con người.
Nói cách khác, những gì mà chúng ta đang nỗ lực để làm là nghiên cứu Thể Trí trong một Thái Dương Thượng Đế, một Hành Tinh Thượng Đế và trong Tiểu Thiên Địa. Mỗi một trong ba đoạn chính này có thể được bàn đến với bốn đề mục thứ yếu có thể được diễn tả như sau:
a. Cội nguồn của trí trong vũ trụ, Thái dương hệ và trong tiểu thiên địa.
b. Vị trí của trí trong cơ tiến hóa ở cả ba trường hợp.
c. Trình độ phát triển hiện nay của trí ở một trong ba nhóm.
d. Tương lai của trí hay của sự khai mở của Trí.
Khi chúng ta đề cập đến các điểm này, chúng ta sẽ có một ý tưởng rõ ràng hơn về mục tiêu và vị trí của lửa trí tuệ (fire of the intelligence) và sẽ có thể hiểu một cách chính xác công việc liên hệ có tính cách tổng hợp của lửa.
tâm mà dựa vào đó phần tinh thần và phần vật chất của con người được làm cho xoay chuyển”.
“Hạ trí chỉ là một tia của thượng trí được đưa vào đền thờ nhục thề (the fleshly tabernacle) để soi sáng cho bản thể của nó và đem lại cho nó tư tưởng, ước vọng và trí nhớ”.
“Chính vì manas là điểm chuyển hướng (turning point) trong chu kỳ mà H.P.B. đã xét nó dưới hai khía cạnh – cao và thấp – phần cao là phần đạt hơn và có kinh nghiệm hơn đối với đỉnh cao Tinh thần, còn phần thấp, phần chính của 3 thể thấp, tam giác đưa tới sự biểu hiện (embodiment). Do đó, Manas là nơi tranh chấp của các mãnh lực nằm trong tiểu thiên địa… Giai đoạn tiến hóa mà chúng ta đạt đến chính là khởi điểm của cuộc tranh chấp lớn lao hơn”.
Vài Tư Tưởng về Kinh Gita (Some Thoughts on the Gita). (LVLCK, 309)
+ Thuật ngữ tam giới - Ba cõi giới: Dục giới - Sắc giới - Vô sắc giới
Ba thế giới
S: triloka, traidhātuka; Hán Việt: Tam giới (三 界), Tam hữu (三 有);
Ba thế giới của → Vòng sinh tử, là nơi mà loài → Hữu tình tái sinh trong → Lục đạo (s: gati), có thể hiểu là Vũ trụ quan của đạo Phật. Ba thế giới bao gồm:
1. Dục giới (欲 界; s, p: kāmaloka, kāmadhātu), có → Ái dục về giới tính và những ái dục khác.
Trong dục giới có những loại Hữu tình sau:
1.1.→ Ngạ quỉ (餓 鬼; preta)
1.2.→ Ðịa ngục (地 獄; naraka);
1.3. Loài người (人 世; nāra)
1.4. Súc sinh (畜 生; paśu)
1.5. → A-tu-la (阿 修 羅; āsura)
1.6. Sáu cõi → Thiên (天; deva):
1.6.1. → Tứ thiên vương (四 天 王; cāturmahārājikadeva);
1.6.2. Ðao lị (忉 利) hay Tam thập tam thiên (三 十 三 天; s: trāyastriṃśa-deva);
1.6.3. Dạ-ma (夜 摩; s: yāmadeva) hoặc Tu-dạma thiên (須 夜 摩 天; s: suyāmadeva);
1.6.4. → Ðâu-suất thiên (兜 率 天; s: tuṣita);
1.6.5. Hoá lạc thiên (化 樂 天; s: nirmāṇaratideva);
1.6.6. Tha hoá tự tại thiên (他 化 自 在 天; s: paranirmitavaśavarti-deva);
2. Sắc giới (色 界; s: rūpaloka, rūpadhātu): các vị ở đây thuộc nam tính nhưng đã chấm dứt mọi dục tính, ăn uống, nhưng còn có khoái lạc. Ðây là thế giới của các thiên nhân trong cõi → Thiền (s: dhyāna). Hành giả tu tập thiền định có thể tái sinh trong cõi sắc.
Sắc giới gồm bốn cõi, mỗi cõi lại được chia làm nhiều cõi thiên khác nhau:
2.1. Sơ thiền thiên (初 禪 天) với ba cõi thiên sau:
2.1.1. Phạm thân thiên (梵 身 天; s: brahmakāyika);
2.1.2. Phạm phụ thiên (梵 輔 天; s: brahmapurohita);
2.1.3. Ðại phạm thiên (大 梵 天; s: mahābrahmā).
Có hệ thống ghi thêm cõi thiên thứ tư của Sơ thiền thiên là Phạm chúng thiên (梵 眾 天; s: brahmaparśadya).
2.2. Nhị thiền thiên (二 禪 天) với ba cõi sau:
2.2.1. Thiểu quang thiên (少 光 天; parīttābha);
2.2.2. Vô lượng quang thiên (無 量 光 天; apramāṇābha);
2.2.3. Cực quang tịnh thiên (極 光 淨 天; abhāsvara, cựu dịch là Quang âm thiên; 光 音 天).
2.3 Tam thiền thiên (三 禪 天) bao gồm:
2.3.1. Thiểu tịnh thiên (少 淨 天; parīttaśubha);
2.3.2. Vô lượng tịnh thiên (無 量 淨 天; apramāṇaśubha);
2.3.3. Biến tịnh thiên (遍 淨 天; śubhakṛtsna).
2.4. Tứ thiền thiên (四 禪 天) gồm có:
2.4.1. Vô vân thiên (無 雲 天; anabhraka);
2.4.2. Phúc sinh thiên (福 生 天; puṇyaprasava);
2.4.3. Quảng quả thiên (廣 果 天; bṛhatphala);
2.4.4. Vô tưởng thiên (無 想 天; avṛha);
2.4.5. Vô phiền thiên (無 煩 天; atapa);
2.4.6. Vô nhiệt thiên (無 熱 天; sudṛśa);
2.4.7. Thiện kiến thiên (善 見 天; sudarśana);
2.4.8. Sắc cứu kính thiên (色 究 竟 天; akaniṣṭha);
2.4.9. Hoà âm thiên (和 音 天; aghaniṣṭha);
2.4.10. Ðại tự tại thiên (大 自 在 天; mahāmaheśvara).
Có sách xếp 2.4.4.- 2.4.9. dưới tên Tịnh phạm thiên (淨 梵 天), không thuộc về Tứ thiền thiên.
3. Vô sắc giới (無 色 界; arūpaloka, arūpadhātu): thế giới này được tạo dựng thuần tuý bằng tâm thức và gồm → Bốn xứ (arūpasamādhi). Vô sắc giới gồm:
3.1. Không vô biên xứ (空 無 邊 處; ākāśanantyāyatana);
3.2. Thức vô biên xứ (識 無 邊 處; vijñānanantyāyatana);
3.3. Vô sở hữu xứ (無 所 有 處; ākiṃcanyāyatana);
3.4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ (非 想 非 非 想 處; naivasaṃjñā-nāsaṃjñāyatana)
Hành giả tu học → Tứ thiền bát định có thể tái sinh vào bốn xứ này.
+ Ba thời Phật
Hán Việt: Tam thế Phật (三 世 佛);
Chỉ Phật quá khứ, hiện tại và vị lai, đó là các vị Ca-diếp (s: kāśyapa), → Thích-ca Mâu-ni (s: śākyamuni) và → Di-lặc (s: maitreya). Có khi tranh tượng trình bày Phật → Nhiên Ðăng (s: dīpaṅkara) là Phật quá khứ.
Hạ địa
下 地; C: xiàdì; J: geji;
1. Cảnh giới hiện hữu bên dưới đối tượng của thế giới khách quan được nhận biết bởi hành giả (s: adhara-svābhūmi);
2. Trong sự phân chia các cõi trong tam giới thành 9 bậc (cửu địa 九 地), hạ địa chính là ba cõi thấp cuối cùng;
3. Giai vị thấp nhất trong Bồ Tát → Thập địa.
+ Tam giới
三 界; C: sānjiè; J: sangai; S: triloka;
Ba cõi hiện hữu trong Vòng sinh tử:
1. Dục giới (欲 界), nơi chúng sinh chỉ đắm say vào những khoái lạc thân thể;
2. Sắc giới (色 界), nơi chúng sinh đã vượt khỏi những khoái lạc thân thể nêu trên, nhưng vẫn còn cảm nhận thân sắc vi tế. Đây là cõi của Tứ thiền thiên (四 禪 天);
3. Vô sắc giới (無 色 界), là cõi tối cao của → Luân hồi, chúng sinh đã thoát khỏi sự tồn tại vật chất, hoàn toàn không có sắc tướng. Đây là cõi của Tứ vô sắc định (四 無 色 定).
Theo → A-tì-đạt-ma Câu-xá luận của → Thế Thân, Tam giới nêu trên còn được phân thành nhiều cõi khác nhau. Dục giới bao gồm 20 cõi. Gồm có: → Tứ đại châu (四 大 洲), Bát nhiệt địa ngục (八 熱 地 獄), và sáu cõi trời của Dục giới – Lục dục thiên (六 欲 天).
Ngoài Lục dục thiên ra còn có 17 cõi trời của Sắc giới – Sắc giới thập thất thiên (色 界 十 七 天). Bên trên Sắc giới là Vô sắc giới, nơi vật chất, sắc tướng không còn tồn tại. → Ba thế giới. (Nguồn: Từ điển Phật học - thuvienhoasen)
+ ĐỌC KINH TO RÕ ĐỂ CHÚNG SANH VÔ HÌNH ĐƯỢC NGHE
Sau khi thọ trì thì đọc tụng. Vừa rồi tôi mới nói bạn đọc tụng một biến chính là nhận được chư Phật Như Lai quán đảnh một lần, đó là tự lợi. Đọc tụng tốt nhất phải ra tiếng.
Công đức đọc ra tiếng lớn hơn nhiều so với đọc không ra tiếng, vì đọc để người khác nghe, nhất là người chưa tiếp xúc Phật pháp. Đọc kinh phải đọc từng chữ rõ ràng, cường điệu âm thanh vui tai, phải làm cho người nghe sanh tâm hoan hỉ, nghe rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Sau khi nghe họ sẽ giác ngộ.
Có một số đồng tu tâm tính nóng vội, đọc kinh rất nhanh, chỉ cần nửa giờ có thể đọc xong một bộ kinh Vô Lượng Thọ. Khi tỉ mỉ lắng nghe, chỉ thấy loắng nhoắng, một chữ cũng không thể nghe được. Đọc kinh từ đầu đến cuối hết nửa giờ đồng hồ, một chữ không nghe được rõ ràng, thì loại đọc tụng này chỉ là tự lợi, không thể lợi tha. Nên biết đọc kinh là lợi tha, còn tự lợi là nhắc nhở chính mình không quên giáo huấn của Phật, phải y giáo phụng hành. Đọc rõ ràng tường tận để người khác nghe.
Nếu bạn nói “chung quanh tôi không có người nào nên không cần đọc to”, tuy không có người nhưng có quỷ thần, có chúng sanh mà mắt thịt chúng ta không thể nhìn thấy, ngày nay chúng ta gọi là chúng sanh vô hình, đông hơn rất nhiều lần so với chúng sanh mà mắt thường chúng ta nhìn thấy. Bạn đọc kinh, họ nghe xong có được thọ dụng. Quỷ thần học Phật, quỷ thần hộ pháp, thiên hạ liền thái bình. Động loạn xã hội chúng ta xảy ra cũng sau khi quỷ thần loạn trước. Khi quỷ thần loạn rồi, chúng ta muốn xã hội an định cũng là việc vô cùng khó. Nếu muốn xã hội an định, trước tiên phải làm cho quỷ thần an định. Muốn quỷ thần an định thì phương pháp tốt nhất chính là đọc kinh.
Cho nên trong đọc tụng, ý nghĩa quan trọng là phải độ những chúng sanh vô hình này, làm tăng thượng duyên nghe pháp cho họ. “Vì người diễn nói”, đối tượng này đã rõ ràng, đây là đối với người, những chúng sanh hữu tình. Còn đọc tụng là đối với chúng sanh vô tình.
(Trích KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC - Phần 34)
I- Chuyển động trong vũ trụ bao la:
Dù là các chu kỳ chuyển động của các dải thiên hà, các thái dương hệ, cho đến các hành tinh thuộc thái dương hệ đều quanh mặt trời trung tâm. Ngay cả chuyển động tự quay của chính các hành tinh cũng tuân theo quy tắc nghịch chiều kim đồng hồ. Đây cũng là chiều tiến hóa vật chất của vũ trụ.
Vật chất/ Sắc tướng trong vũ trụ chuyển động không ngừng, luôn tiến lê phía trước, được Minh triết thiêng liêng mô tả là sự chuyển động tròn có hình xoáy trôn ốc (Tương tự như ta vắt nước cái khăn vải). Chuyển động này chỉ có trong vũ trụ.
II- Quy luật chuyển động Âm Dương:
Khẩu quyết dịch học có câu: Đạo trời quay trái [Quay nghịch chiều kim đồng hồ] - Đạo đất quay phải [Quay thuận chiều kim đồng hồ].
1- Tiên thiên vũ trụ - Theo Dịch học: Theo Dịch học, chiều chuyển động của Trời thì đạo "Trời quay trái", tức là quay từ đông sang tây - Gọi là chiều thuận (Ngược chiều kim đồng hồ).
a/ Ở trời: Sự chuyển động các các Hành tinh quanh Mặt trời (Cũng như chính cả Thái dương hệ quanh Mặt trời trung ương) có hình tròn nghịch chiều kim đồng hồ, theo chu kỳ và tuần hoàn liên tục.
2- Quy luật Trời thuận - Đất nghịch trong Dịch học (Có thể chưa chính xác - Chỉ tham khảo):
a/ Với các Hành tinh: Các Hành tinh Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ ... đều quay ngược chiều kim đồng hồ.
b/ Trong bát quái Tiên thiên - Chuyển động âm dương khi vũ trụ biểu lộ:
+ Bốn quẻ đơn thuộc Trời - Dương - Sếp thuận theo chiều quay của các Hành tinh [Càn - Đoài - Ly - Chấn] - Nghịch chiểu kim đồng hồ.
+ Bốn quẻ đơn thuộc Đất - Âm - Sếp Nghịch chiều quay của các Hành tinh [Tốn - Khảm - Cấn - Khôn] - Thuận chiểu kim đồng hồ.
c/ Trong ngũ hành âm dương: Thiên Can và Địa Chi ngũ hành là kết quả phân dã biểu lộ của 5 Hành tinh phân âm dương mà có, gồm:
+ Thiên Can - Khí - Dương - Vật chất vi tế - Chất hơi: Giáp Ất thuộc Mộc tinh - Bính Đinh thuộc Hỏa tinh - Canh Tân thuộc Kim tinh - Nhâm Quý thuộc Thủy tinh. Thiên Can là kết quả của Khí Tứ đại biểu lộ thành ngũ hành, bao gồm Tứ hành tương ứng với Tứ đại là Kim - Mộc - Thủy - Hỏa (Trong đó Kim nhiếp thuộc Thổ/ Địa đại), tương ứng Tứ phương. Còn hành Thổ biểu tượng cho điểm trung tâm - Tương ứng Địa cầu so với Thái dương hệ. Theo đó mà có thêm hành Thổ làm thành Ngũ hành trong Dịch học là Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
- Khí Tứ đại/ Ngũ hành phân thân - Chính là nguồn cội vi vật chất, 10 Thiên Can, 12 Địa Chi và 5 Hành tinh, do đó, giữa chúng có sự tương ứng và tương đồng năng lượng Tứ đại, Ngũ hành. Theo đó mà Dịch học có sự quy nạp các Thiên Can là "Khí Mộc = Giáp - ất; Khí Hỏa = Binh - Đinh; Khí Thổ = Mậu - Kỷ; Khí Kim = Canh - Tân; Khí Thủy = Nhâm - Quý;".
Quy nạp Địa chi là:
- Giữa các Thiên Can, Địa Chi tương tác hòa hợp thì lại tạo thành vật chất ngũ hành, do đó nó tương đồng với vật chất của 5 Hành tinh là "Giáp hợp Kỷ = Thổ tinh; Ất hợp Canh = Kim tinh; Bính hợp tân = Thủy tinh; Đinh hợp Nhâm = Mộc tinh; Mậu hợp Quý = Hỏa tinh".
- Địa chi tương tác hợp hóa cũng tạo thành vật chất ngũ hành, quy nạp tương ứng với các Hành tinh là "Tý và Sửa thuộc Thổ tinh - Dần và Hợp thuộc Mộc tinh - Mão và Tuất thuộc Hỏa tinh - Thìn và Dậu thuộc Kim tinh - Tị và Thân thuộc Thủy tinh". Còn Ngọ và Mùi quy nạp về thuộc Mặt trời và mặt trăng (Có sự phân biệt: Hỏa tinh là Lửa phát xạ/ Linh động - Cõi 5; 6 khác hẳn với Linh hỏa - Lửa Mặt trời - Cõi 2).
* Trong đó Khí: Tứ đại/ Ngũ hành là Dương, trong Dương có phân Thiên Can là Âm - Dương.
* Trong đó Hình: Các Hành tinh và Địa Chi là âm, trong âm cũng chia âm - dương. Hành tinh là Dương - Địa Chi là Âm
+ Thuận Nghịch trong Dịch học với Dự đoán Thiên cơ - Mệnh Tứ trụ:
b/ Sếp quy luật theo thời gian với địa cầu: Trong dịch học nói, "Dịch là đọc ngược". Dịch là xem đoán thiên cơ, đoán giải quá khứ, hiện tại và tương lai của con người sống trên địa cầu, lấy địa cầu làm trung tâm nên chuyển động các hành tinh nhìn từ trái đất là đang "Quay thuận chiều kim đồng hồ - Tức nghịch vời chiều thuận của Trời".
Do đó, trong dịch học và dự đoán thiên cơ, các tiêu trí đo quy luật thời gian thì với chu kỳ các năm (thuộc chu kỳ hành tinh quay xung quanh mặt trời) thì sếp thuận với trời (Ngược chiều kim đồng hồ).
Với trái đất: Các chu kỳ năm, vận năm, đại vận .... đều sếp thuận chiều của Trời, ví dụ các Cung hoàng đạo, các Can Chi thuộc vòng Giáp tý, các tiêu trí ghi năm trong một chu kỳ 12 năm (Theo Mộc tinh) ... đều sếp thuận theo Trời.
c- Đoán giải thiên cơ của nhân loại - Con người sống trên địa cầu: Các tiêu trí trong một năm, chỉ cho quy luật thời gian trong năm thì thuộc trái đất thì sếp nghịch với chiều của Trời (Là thuận chiều kim đồng hồ). Theo đó:
Với nhân loại: Nguyên tắc là sếp các đơn vị biểu diễn quy luật thời gian là nghịch chiều thuận của Trời (Thuận chiều kim đồng hồ), ví như các năm, các tháng trong năm, giờ trong ngày, mùa tiết trong năm ....
d- Tiểu Thiên địa: Là nói đến con người là một Tiểu Thiên Địa, có sự tương ứng các Thể năng lượng (bảy nguyên khí) với Đại Thiên Địa.
+ Hành đạo Bồ tát. Mình là Bồ tát
Hỏi: Kính thưa lão Pháp sư, Ngài thường nói: “Trước tiên phải độ mình rồi mới có thể độ người, chỉ có Bồ Tát thật sự mới có thể độ người”. Lại nói, “Vừa chuyển đổi ý niệm, chỉ cần vì chúng sanh thì chính là Bồ Tát”, ở đây phải chăng có sự mâu thuẫn?
Hòa Thượng Tịnh Không trả lời: Nghi hoặc của bạn không sai, đúng là có nghi hoặc như thế. Tuy nhiên phải hiểu rằng “Trước tiên phải độ chính mình rồi sau mới độ người khác”, đây là việc của Bồ Tát. Không có năng lực độ chính mình mà đi độ người khác cũng là sự nghiệp của Bồ Tát. Hai loại người này đều là Bồ Tát, nhưng bên trong có sự khác biệt. Không thể độ mình mà đi độ người thì chưa đáng tin cậy, bạn cho rằng đó là độ người nhưng thật sự có phải là độ người hay không? Bạn độ họ đi đến đâu? Trong mười pháp giới bạn độ họ đến pháp giới nào? Nếu như độ họ vào cõi ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh thì đó cũng là độ, không phải là không độ. “Độ” nghĩa là giúp đỡ, bạn giúp họ đến pháp giới nào? Cho nên, chính mình phải độ mình trước, bản thân bạn nhận biết đường đi, bạn biết phương hướng rồi thì bạn sẽ không dẫn dắt chúng sanh đi sai đường. Vì sao vậy? Bạn là người từng trải, việc này sẽ không sai. Bạn chưa độ được mình, cũng không phải là người từng trải, con đường phía trước như thế nào bạn không biết! Không biết đường mà tùy tiện chỉ đường thì đây là việc làm nguy hiểm.
Tuy nhiên, trong Tịnh Tông (Tịnh Độ) có một phương tiện. Tịnh Tông là chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, việc này chắc chắn là chính xác. Tuy chưa độ được mình nhưng người này đi khuyên người khác thì nhất định là không sai, chư Phật Như Lai đã chỉ như vậy thì làm sao mà sai được. Chỉ có con đường này là chính xác, bản thân mình tuy chưa được độ nhưng có thể độ người. Còn 84.000 pháp môn khác thì không hề dễ dàng, không đơn giản. Nếu bản thân bạn chưa được độ thì nhất định không thể độ người. Pháp môn Tịnh Độ (pháp môn Niệm Phật) thì mình chưa được độ vẫn có thể độ người, việc này chúng ta cần phải phân biệt rõ. Giới thiệu cho mọi người về A Di Đà Phật, giới thiệu một cách nhiệt tình, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì người này là Bồ Tát. Bản thân Bồ Tát có thể vãng sanh hay không? Chưa chắc! Có rất nhiều Bồ Tát không thể vãng sanh. Bồ Tát trên danh nghĩa, Bồ Tát hữu danh vô thực thì không thể vãng sanh. Bản thân họ không thể vãng sanh nhưng họ khuyên người, nếu người đó thật sự chịu tin thì người đó vãng sanh. Nếu họ khuyên rất nhiều người, khuyên được mấy mươi người, mấy trăm người đều vãng sanh, tuy bản thân họ chưa được vãng sanh cũng không sao, đến lúc họ mạng chung thì những người bạn đã vãng sanh đến thế giới Cực Lạc nhất định sẽ nói với A Di Đà Phật: “Chúng con có thể đến thế giới Cực Lạc đều nhờ người này khuyên chúng con”. Họ kéo A Di Đà Phật: “Chúng ta hãy đi tiếp dẫn người này vãng sanh”. Các bạn nghĩ xem có được hay không? Có thể được! Chỉ cần đến lúc đó họ nhìn thấy A Di Đà Phật, thật sự muốn đi thì họ sẽ đi. Nếu gặp A Di Đà Phật mà họ không muốn đi thì không có cách nào. Cho nên Đại Từ Bồ Tát nói rất hay: “Khuyên hai người niệm Phật [vãng sanh] thì còn hơn chúng ta tinh tấn”, khuyên được mười mấy người thì phước báo của bạn rất lớn. Đây là sự thật, bạn đã tu được đại phước báo. Bạn có thể khuyên mấy trăm người, mấy ngàn người thì bạn là Bồ Tát thật. Bạn có thể khuyên hơn một vạn người niệm Phật thì bạn chính là hóa thân của A Di Đà Phật. Đây là Đại Từ Bồ Tát nói, khuyến khích chúng ta đem pháp môn Tịnh Tông giới thiệu phổ biến cho mọi người. Bạn đã hiểu rõ lý của những việc này rồi thì nghi hoặc của bạn sẽ được giải trừ. (Nguồn: Tuyển Chọn Học Phật Vấn Đáp với PS Tịnh Không)
+ Tái sinh chủ động - Có kế hoạch: .... Một nhóm khoa học gia sẽ luân hồi trên cõi trần trong 75 năm tới (quyển sách này được xuất bản lần đầu năm 1925 – ND), họ sẽ là phương tiện cho việc tiết lộ 3 chân lý sắp tới có liên quan tới hiện tượng điện. Một công thức cho chân lý liên hệ đến khía cạnh biểu lộ này được chuẩn bị bởi các điểm đạo đồ thuộc cung 5 vào lúc chấm dứt thế kỷ qua, là một phần của sự cố gắng theo thông lệ của Thánh Đoàn để xúc tiến sự tiến hóa vào lúc cuối mỗi chu kỳ 100 năm. Một vài phần (2/5) của công thức đó đã được giải ra qua sự thành tựu của những người như Edison, và những người có tham gia vào loại nỗ lực của ông ta, và qua công việc của những kẻ chăm lo đến vấn đề chất radium và hoạt động phóng xạ. Ba phần nữa của cùng công thức sắp xuất hiện, và sẽ biểu hiện cho tất cả những gì có thể hoặc là an toàn cho con người, để biết những gì có liên quan tới sự biểu lộ về điện ở cõi trần trong phụ chủng thứ năm.
Tất cả những gì mà chúng ta xem xét ở đây bao gồm thời gian sắp đến của phụ chủng mới. Giống dân này sẽ tóm lược và mang lại một kết luận tạm thời cho nỗ lực trí tuệ của căn chủng thứ 5 có sự tăng trưởng trí tuệ, và sẽ tạo nên các kết quả có ý nghĩa kỳ diệu. Trong phụ chủng thứ 6, việc phát triển thể trí sẽ không được nhấn mạnh nhiều lắm, vì đó sẽ là việc sử dụng trí cụ thể và khả năng được đòi hỏi của nó vì sự phát triển của các mãnh lực của tư tưởng trừu tượng. Có lẽ có quá nhiều điều quan trọng được ràng buộc với sự phát biểu của một số văn sĩ huyền bí học rằng phụ chủng thứ 6 sẽ có được trực giác. Trực giác sẽ được khơi hoạt và sẽ nổi bật hơn hiện giờ, song đặc điểm nổi bật sẽ là khả năng của các đơn vị của phụ chủng thứ 6 để suy nghĩ bằng các thuật ngữ trừu tượng và sử dụng trí trừu tượng. Chức năng của những người này sẽ là hoàn thiện (có thể là xa xăm trong cuộc tuần hoàn này) giác tuyến ( ) tập thể hay là khoen nối giữa thể trí với thể bồ đề.
Nhịp cầu này sẽ có bản chất hữu dụng trong căn chủng thứ 6, nơi căn chủng này trực giác sẽ lộ ra các dấu vết thực sự và tổng quát của sự hiện tồn. Trong căn chủng này, các nhóm người chỉ biểu lộ các dấu hiệu rải rác của trực giác thực sự, tạo nên nhịp cầu cần thiết trong các bản ngã riêng rẽ của họ. Trong căn chủng thứ 6, các nhóm nhỏ sẽ có được trực giác.
Ở đây, không cần phải nói nhiều hơn về ảnh hưởng của Cung 7 trên các con của nhân loại. Nhiều điều sau này sẽ trở thành hữu ích, nhưng cũng đủ gợi ý để tạo thành nền tảng cho việc suy đoán hữu dụng.
b. Động vật, con người và các Cung. Bây giờ chúng ta sẽ chọn 2 điểm và nghiên cứu hiệu quả của mãnh lực sắp đến trên giới động vật và giới nhân loại. .... (Nguồn: Luận về lửa càn khôn - Tr457)
+ Các loại Kamas - Nhân nghiệp:
c. Các loại karma. Ở đây chúng ta có thể kể ra các loại karma khác nhau, dù cho chúng ta không có thì giờ bàn rộng về đề tài. Chính một quyển sách với kích thước to lớn cũng không thể chứa đủ tất cả những gì có thể được nói đến. Chúng ta nên nhớ rằng NGHIỆP QUẢ được đặt trên Thực thể có linh hồn (ensouling entity) qua trung gian của vật chất hay của chính chất liệu nguyên thủy (vốn đã bị nhuốm màu bởi nghiệp quả) và rằng vật chất hay chất liệu này là chất liệu sáng suốt làm bằng tinh hoa của thiên thần.
Karma vũ trụ. Được đặt trên Thái Dương Thượng Đế từ bên ngoài thái dương hệ.
Karma của thái dương hệ, trang trải bởi Thượng Đế với các hiệu quả đã phát động trong các Thiên kiếp (Kalpa) trước, và đang ảnh hưởng vào loại Cơ thể hiện tại của Ngài.
Karma hành tinh. Karma riêng biệt của một Hành Tinh Thượng Đế, nó cũng khác với nghiệp quả của một Hành Tinh Thượng Đế khác, dưới hình thức là karma của các thành viên khác nhau của gia đình nhân loại.
Karma của một dãy hành tinh, có liên kết với kinh nghiệm sống của Đấng Cao Cả đang đem lại sinh khí cho một dãy hành tinh và là một trung tâm lực trong cơ thể của Hành Tinh Thượng Đế, theo cùng một ý nghĩa như một Hành Tinh Thượng Đế trong hành tinh hệ của Ngài là một trung tâm lực trong cơ thể của Thái Dương Thượng Đế.
Karma của bầu hành tinh – vận mệnh cá biệt của một Thực Thể Thông Linh, vốn là một trung tâm lực trong cơ thể của Sự Sống có linh hồn của một dãy hành tinh.
5 sự sống đã được kể trên, do nghiệp quả tác động, tất cả là các Quang Tinh Quân (Lords of Light) của vũ trụ và thái dương, các Ngài đã đạt được sự thông tuệ và đã trải qua giới nhân loại cách đây nhiều kalpas (một kalpa tương đương với 4.320 triệu năm trần thế - ND)
Karma của cõi giới. Karma này được trộn lẫn chặt chẽ với karma của Hành Tinh Thượng Đế và của Raja-Lord một cách không thể tách ra được, và tùy thuộc vào sự tương tác giữa 2 đối cực này, - trạng thái nam và nữ của Đấng Lưỡng Tính Thiêng Liêng.
Karma của một cõi phụ, hay là vận mệnh của một số thực thể thứ yếu đang biểu lộ qua các cõi này.
Trong 2 loại karma này, chúng ta có sự việc mà người ta có thể gọi là “Karma của Thánh Đoàn”, và điều đó xảy ra từ lúc biểu lộ của thái dương hệ. Đó là kết quả thuộc quá khứ của thái dương hệ này chớ không phải là hiệu quả xuất phát trong các thái dương hệ trước.
Nghiệp quả của các giới trong thiên nhiên, theo như chúng ta biết chúng trên hành tinh chúng ta :
a. Giới khoáng chất
b. Giới thực vật.
c. Giới động vật
Tất nhiên đây là karma của các Nguyệt Tinh Quân (lunar Lords), các Ngài đem lại sinh khí cho các giới này, và các Ngài đang thể hiện mục đích của các Ngài qua các giới đó. Do đó, chúng ta phải chú ý rằng chúng ta đã đề cập đến karma vũ trụ, thái dương hệ và nguyệt cầu. Trong loại karma sau cùng này có tàng ẩn bí nhiệm vĩ đại của Nguyệt cầu và vị trí của nguyệt cầu trong hệ thống hành tinh. Karma của huyền giai nhân loại (1)......
a. Karma thế gian (7 căn chủng).
b. Karma của giống dân hay là vận mệnh và mục tiêu của mỗi căn chủng.
Tất cả các loại karma này đều trộn lẫn nhau và liên kết cách nào mà con người không thể hiểu được, và không thể gỡ ra được; ngay đến các vị adepts cũng không thể gỡ rối được cái bí ẩn vượt ngoài cái bí ẩn của các nhóm liên kết với chúng, trong khi đó vị Chohan ở các trình độ cao hơn hành xử với Karma của các nhóm lớn hơn (vốn là các tập hợp của các nhóm nhỏ hơn).
5 điểm cốt yếu của karma này được chia thành 2 nhóm theo kinh Mahabharata :
1. Hành động hiện tại của con người (gồm có 4 điểm cốt yếu đầu) và
2. Kết quả của hành động đã qua của y (kết quả này tạo thành điều cốt yếu thứ 5).
Đồng thời, phải chú ý rằng kết quả của cuộc sống con người không phải là công việc của một ngày hay ngay cả một chu kỳ. Đó là tập hợp các hành động đã phạm phải trong vô số kiếp sống trước kia.
c. Karma của phụ chủng, vì mỗi phụ chủng đều có karma riêng cần thanh toán.
d. Karma quốc gia.
e. Karma gia đình.
f. Karma cá nhân.
Tất cả các loại karma này đều trộn lẫn nhau và liên kết cách nào mà con người không thể hiểu được, và không thể gỡ ra được; ngay đến các vị adepts cũng không thể gỡ rối được cái bí ẩn vượt ngoài cái bí ẩn của các nhóm liên kết với chúng, trong khi đó vị Chohan ở các trình độ cao hơn hành xử với Karma của các nhóm lớn hơn (vốn là các tập hợp của các nhóm nhỏ hơn).
Tất cả các đẳng cấp thiên thần nhỏ, “Đạo quân âm thanh” trên mỗi cõi giới, các vị xây dựng và vô số các tinh linh bé hơn, hoạt động một cách hữu thức, đang được hướng dẫn và điều khiển bởi các linh từ và linh âm. Bằng cách này, các rung động được tạo ra trong bản thể (essence) của các cõi do bởi các Đấng Kiến Tạo hữu thức.(Nguồn: Luận về lửa càn không, Tr 470)
+ a. Tiến trình chuyển hóa. Chuyển hóa là một vấn đề mà từ các kỷ nguyên trước đã từng làm bận tâm các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học và các nhà luyện kim đan. Năng lực đổi thay, qua việc dùng nhiệt, dĩ nhiên được nhận thức một cách tổng quát, nhưng chìa khóa đưa đến bí nhiệm hay cái bí ẩn của công thức có phương pháp được bảo vệ thận trọng khỏi những kẻ tìm kiếm, và chỉ được tiết lộ dần dần sau cuộc điểm đạo thứ 2. Vấn đề kỳ diệu đến nỗi chỉ có thể nêu ra bằng những nét khái quát rộng lớn làm cách nào mà việc đó có thể tiếp cận được. ...Trí óc nhà khoa học đang tìm kiếm một dung môi chung, dung môi này sẽ đưa vật chất thành chất liệu nguyên thủy (primordial substance), giải phóng năng lượng và như vậy lộ ra diễn trình tiến hóa, và giúp cho kẻ tìm tòi tự kiến tạo (từ nền tảng nguyên thủy) các dạng thức mong muốn. Trí óc của nhà luyện đan đang tìm kiếm Hòn Đá Tạo Vàng (Philosopher’s Stone), mà tác nhân chuyển hóa có hiệu quả sẽ đưa tới sự khai mở, và mãnh lực đặt để ý chí của nhà hóa học lên các sức mạnh hành khí (elemental forces) sẽ tác động trong, bởi và qua vật chất. Tín đồ, nhất là theo Cơ Đốc giáo, nhận thức được tính chất tâm linh của năng lực chuyển hóa này, và các thánh thư thường có nói đến việc linh hồn chịu thử thách 7 lần trong lửa. Tất cả các nhà khảo cứu và sưu tầm đang nhận thức được một chân lý vĩ đại từ khía cạnh thu hẹp của riêng họ, và cái tổng thể không nằm ở chỗ này hay chỗ khác, mà là trong toàn thể.
Khi xác định sự chuyển hóa như được hiểu về mặt huyền linh, chúng ta có thể diễn tả như sau : Chuyển hóa là đoạn đường băng qua từ trạng thái hiện tồn này đến trạng thái khác qua cơ nguyên/ lực gây tác dụng là lửa. Sự hiểu biết đúng đắn về điều này được dựa trên 4 định đề (postulates) chính yếu. Các định đề này phải được diễn đạt bằng các thuật ngữ của Cổ Luận (Old Commentary), bộ sách này diễn đạt nhiều đến nỗi nó lộ ra cho những ai lưu tâm tìm kiếm, nhưng vẫn là bí hiểm với những kẻ không sẵn sàng, hay đối với những kẻ lạm dụng sự hiểu biết vào các mục tiêu vị kỷ.
Các phát biểu này như sau:
I. Kẻ nào chuyển di sự sống của Từ Phụ cho 3 sự sống thấp hơn, kẻ ấy đã tìm được lực gây tác dụng của lửa (agency of fire), ẩn giấu trong tâm của Từ Mẫu. Kẻ ấy hoạt động với các Hỏa Thiên Thần (Agnichaitans) đang che giấu, đốt cháy và như thế tạo ra sự ẩm ướt cần thiết.
II. Kẻ nào chuyển di sự sống ra khỏi 3 sự sống thấp kém vào trong sự sống sẵn có thứ 4, kẻ ấy đã tìm thấy lực gây tác dụng của lửa ẩn giấu trong tâm của Brahma. Kẻ ấy hoạt động với các sức mạnh của các hỏa thần Agnishvattas, vốn xuất phát, phối hợp và như vậy tạo ra hơi ấm cần thiết.
III. Kẻ nào chuyển di sự sống vào trong sự sống tập hợp thứ 5, kẻ ấy đã tìm thấy sức mạnh của lửa ẩn tàng trong tâm của Vishnu. Kẻ ấy hoạt động với các lực của hỏa thần Agnisuryans đang bừng cháy, đang giải phóng tinh lực (essence) và như vậy tạo ra sự chói lọi cần thiết.
IV. Sự ẩm ướt đầu tiên, chậm chạp và bao bọc tất cả; sau đó sưởi ấm với hơi ấm ngày càng tăng và cường độ mãnh liệt; kế đó, sức mạnh ép xuống, dồn lại và tập trung. Như vậy, sự tỏa chiếu được tạo ra; rỉ ra như thế đó; biến đổi như thế đó; thay đổi hình hài như thế đó. Cuối cùng là sự giải thoát, tinh hoa dễ bay hơi bốc ra và gom góp cặn bã trở lại chất liệu nguyên thủy (primordial stuff).
Kẻ nào nghiềm ngẫm các công thức này và kẻ nào suy gẫm dựa vào phương pháp và diễn trình được gợi ra, kẻ ấy sẽ nhận được một ý niệm tổng quát về diễn trình tiến hóa của sự chuyển hóa, vốn sẽ có giá trị đối với y hơn là các công thức mà theo đó các thiên thần chuyển hóa các khoáng chất khác nhau. (Nguồn: Luận về lửa càn khôn, tr 476)
+ Nguyên tử: ... Sự chuyển hóa liên hệ đến sự sống của nguyên tử và được che giấu trong sự am hiểu về các định luật đang chế ngự tính phóng xạ. Thật là lý thú khi ghi nhận xem khoa học diễn tả “tính phóng xạ” (“radioactivity”) ra sao, chúng ta có quan niệm đông phương về Vishnu-Brahma, hay là các Tia của Linh Quang đang rung động qua vật chất. Do đó, sự diễn dịch thường được chấp nhận về thuật ngữ “nguyên tử” phải được nới rộng từ sự diễn dịch của nguyên tử hóa học để bao gồm:
a. Mọi nguyên tử hay là khối cầu trên cõi trần.
b. Mọi nguyên tử hay là khối cầu trên cõi cảm dục và cõi hạ trí.
c. Con người đang lâm phàm trong thể xác.
d. Thể nguyên nhân của con người trên cõi riêng của nó.
e. Tất cả các cõi dưới hình thức các lãnh vực đã thực thể hóa.
f. Tất cả các hành tinh, các dãy và bầu bên trong thái dương hệ.
g. Tất cả các Chân Thần trên cõi riêng của chúng, dù là các Chân Thần nhân loại hay các Hành Tinh Thượng Đế.
h. Vòng giới hạn thái dương, tập hợp tất cả các nguyên tử thứ yếu.
Trong mọi nguyên tử này, vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, tiểu thiên địa hay đại thiên địa, sự sống trung ương tương ứng với điện tích dương của điện lực đã được khoa học tiên đoán, cho dù đó là sự sống của một Thực Thể Thông Linh vũ trụ như là một Thái Dương Thượng Đế hoặc là sự sống hành khí nhỏ bé trong một nguyên tử vật chất. Các nguyên tử nhỏ đang xoay quanh trung tâm dương của chúng, và hiện nay chúng được khoa học gọi là âm điện tử, là trạng thái âm và điều này không những đúng với nguyên tử trên cõi trần, mà còn đối với các nguyên tử con người nữa, được duy trì đối với điểm thu hút trung ương của chúng, tức một Hành Tinh Thượng Đế, hay là các dạng thức nguyên tử mà trong tập hợp của chúng hợp thành Thái dương hệ đã được nhận thức.
Mọi hình hài được kiến tạo theo một cách thức tương tự như nhau và chỉ có sự dị biệt – như sách giáo khoa giảng dạy – trong sự sắp xếp và số của các âm điện tử ( ).
Chính âm điện tử sau rốt sẽ được xem như là một sự sống hành khí vô cùng bé nhỏ (an elemental, tiny life).
Điểm thứ 2 mà hiện nay tôi đang tìm cách trình bày là: bức xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình hoàn thành. Sự chuyển hóa vốn là sự phóng thích của tinh chất (liberation of the essence) để cho nó có thể tìm thấy một trung tâm mới, tiến trình có thể được nhận thức như là tính phóng xạ hiểu về mặt kỹ thuật, và được áp dụng cho tất cả các thể của nguyên tử mà không có sự ngoại trừ nào cả.
Chỉ mới gần đây khoa học mới biết đến chất radium (một thí dụ về tiến trình biến tố) chỉ là khuyết điểm của khoa học. Khi điều này được hiểu rõ hơn, người ta sẽ thấy rằng mọi bức xạ, như là từ lực (magnetism) hay là sự phóng phát tâm linh (psychic exhalation), chỉ là tiến trình chuyển hóa tiến hành trên một mức độ rộng lớn. Ở đây, điểm cần phải hiểu rõ là tiến trình chuyển hóa khi có hiệu quả là kết quả ở ngoài mặt của các ngoại yếu tố. Về phương diện căn bản, đó là kết quả của hạt nhân dương bên trong của mãnh lực hay là sự sống đang đạt tới một tốc độ rung động khủng khiếp đến đổi sau rốt, nó sẽ tung rải các electrons hay các điểm âm (negative points) đang tạo thành vùng ảnh hưởng của nó, và tung rải chúng đến một khoảng cách mà Định Luật Đẩy đang thống ngự. Lúc bấy giờ, chúng không còn bị thu hút đến trung tâm nguyên thủy của chúng mà tìm kiếm một trung tâm khác. Khối cầu nguyên tử (atomic sphere), tôi tạm diễn tả như thế, tan biến đi, các âm điện tử tiến vào dưới Định Luật Đẩy, tinh hoa trung ương thoát ra và tìm kiếm một khối cầu mới, hiểu theo phương diện huyền linh.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng tất cả những gì bên trong thái dương hệ đều là lưỡng nguyên (dual) và có cả hai mặt âm và dương trong chính nó: dương đối với hình thức riêng của nó, còn âm đối với lĩnh vực lớn hơn. Do đó mọi nguyên tử đều dương lẫn âm - chính một âm điện tử cũng là một nguyên tử.
Do đó tiến trình biến tố có hai phần, và cần có một giai đoạn sơ bộ áp dụng các yếu tố bên ngoài, một sự kích hoạt (a fanning), chăm sóc và phát triển hạt nhân dương bên trong, một giai đoạn triển khai hay bảo dưỡng có phương pháp lửa bên trong, và một sự tăng gia điện thế. Kế tiếp là giai đoạn thứ hai, khi đó các yếu tố bên ngoài không được kể đến nhiều như thế, khi đó trung tâm năng lượng bên trong của nguyên tử có thể bị bỏ lại để làm công tác riêng của nó. Các yếu tố này có thể được áp dụng đồng đều cho mọi nguyên tử; đối với các nguyên tử khoáng chất đang lôi cuốn sự lưu tâm của các nhà luyện kim đan nhiều như thế, đối với nguyên tử, mệnh danh là con người, kẻ đang theo đuổi cùng một diễn trình tổng quát vốn bị chi phối bởi cùng các định luật; và đối với các nguyên tử lớn hơn, như là một Hành Tinh Thượng Đế hay Thái Dương Thượng Đế.
Diễn tiến có thể được kê ra như sau :
1. Cuộc sống khoác lấy hình hài nguyên thủy.
2. Hình hài tùy thuộc vào nhiệt bên ngoài.
3. Nhiệt, khi tác động trên hình hài, sẽ tạo nên sự phát tiết (exudation) và yếu tố ẩm ướt chợt đến.
4. Sự ẩm ướt và nhiệt thực hiện chức năng của chúng trong sự hợp nhất.
5. Các sinh linh hành khí hướng về mọi sinh linh thứ yếu.
6. Các thiên thần hợp tác theo qui luật, trật tự và âm thanh.
7. Nội nhiệt của nguyên tử tăng gia.
8. Nhiệt của nguyên tử tăng lên một cách nhanh chóng và vượt quá ngoại nhiệt của môi trường chung quanh nó.
9. Nguyên tử phát xạ.
10. Bức tường gần như hình cầu của nguyên tử sau rốt sụp đổ xuống.
11. Các âm điện tử hay các đơn vị âm tìm kiếm một trung tâm mới.
12. Sự sống trung ương thoát ra để hòa nhập với đối cực của nó, chính nó trở thành cực âm và tìm kiếm cực dương.
13. Đây là theo ý nghĩa huyền linh, ánh sáng tạm thời tắt đi, cho đến khi nó hiện trở lại và bừng lên.
Ở đây không thể đưa ra giải thích chi tiết hơn, vả lại cũng không thích hợp.
Do đó, điều hiển nhiên là, theo quan điểm của mỗi giới trong thiên nhiên, nên giúp vào tiến trình chuyển hóa của tất cả các nguyên tử thứ yếu. Điều này diễn ra như thế, cho dù chính nó không được nhận biết; chỉ khi nào giới nhân loại đã đạt đến điều đó, thì một thực thể, một cách hữu thức và một cách sáng suốt, có thể thực hiện hai việc :
Thứ 1. Giúp vào sự chuyển hóa trung tâm nguyên tử dương của riêng nó từ giới nhân loại đến giới tinh thần.
Thứ 2. Tham dự vào việc chuyển hóa.
a. Từ các hình thể khoáng chất thấp kém đến các hình thể cao hơn.
b. Từ các hình thức khoáng chất đến các hình thức thực vật,
c. Từ các hình thức thực vật đến hình thức động vật.
d. Từ các hình thức động vật đến con người hay là xảy ra sự thoát kiếp thú một cách hữu thức và dứt khoát.
Cho đến nay không làm được điều đó do bởi sự nguy hiểm của việc truyền đạt kiến thức cần thiết. (Nguồn: Luận về lửa càn khôn, Tr 478)
+ Kiến tạo hình hài - Sắc tướng - Thể xác: ... Điều này phải được xem xét kỹ liên quan với mọi hình hài vì nó nắm giữ chìa khóa cho nhiều bí ẩn.
Trong vấn đề chuyển di sự sống từ hình hài đến hình hài này, chúng ta đã thấy công việc diễn tiến theo qui tắc và trật tự như thế nào và đạt được hiệu quả nhờ sự hợp tác của các devas trong trường hợp thứ nhất, và việc áp đặt các tác nhân bên ngoài vào nguyên tử hoặc hình hài có liên hệ, và trong chỗ thứ 2 (liên quan đến giai đoạn quan trọng nhất và kéo dài nhất của cách hành động), qua phản ứng tiếp theo sau trong chính nguyên tử, nó tạo ra một sự tăng gia của trung tâm dương đang bùng cháy và sự thoát ra sau đó (qua phóng xạ) của tinh chất dễ bay hơi.
Ở tất cả các giai đoạn khác nhau, các hỏa tinh linh hoàn thành được phần việc của chúng nhờ sự trợ giúp của các hỏa thiên thần, các thần này là các tác nhân kiểm soát. Điều này diễn ra như thế trên mọi cõi giới có liên hệ trước tiên với chúng ta trong ba cõi thấp – các nhóm devas khác nhau bắt đầu tác động tùy theo bản chất của hình hài có liên hệ, và cõi mà trên đó xảy ra sự chuyển hóa. Lửa điện chuyển từ nguyên tử này đến nguyên tử khác đúng theo thiên luật, và “lửa do ma sát” đáp ứng, vốn là lửa tiềm tàng của nguyên tử, hay là trạng thái âm của nó; tiến trình được xúc tiến qua trung gian của lửa thái dương và nơi đây chứa bí ẩn của sự chuyển hóa và khía cạnh bí hiểm nhất của nó. Lửa do ma sát, điện âm của chất liệu nguyên thủy, trong một thời gian đã là vấn đề chú tâm của khoa học công truyền, và sự tìm tòi về bản chất của điện dương trở nên khả hữu qua sự khám phá ra chất radium (một chất phóng xạ tự nhiên, mạnh hơn cả uranium, ND).......
Yếu tố chính của lửa thái dương trong công cuộc chuyển hóa sẽ bắt đầu được hiểu rõ qua sự khảo cứu các hỏa thiên thần và các hỏa tinh linh, chúng vốn là lửa và trong chính chúng (một cách chính yếu và xuyên qua bức xạ từ linh hoạt), nhiệt bên ngoài hay rung động đang tạo ra:
Mãnh lực đang tác động trên vách hình cầu của nguyên tử.
Sự đáp ứng bên trong nguyên tử đang tạo ra bức xạ hay là sự thoát ra của tinh chất không ổn định (volatile essence).
Nói về mặt vũ trụ và xem thái dương hệ như chính là một nguyên tử của vũ trụ, chúng ta thấy rằng: “Các abstraction hay các entities ẩn trong hình hài chính là “lửa điện”. Chất liệu của vật chất đang nằm trong vòng giới hạn được xem như là một tổng thể đồng nhất, là “lửa do ma sát”.
Các hỏa thiên thần từ cõi trí vũ trụ (trong đó Agni và Indra là các tác nhân tiêu biểu cùng với một vị mà danh xưng không được nêu ra) là các tác nhân bên ngoài, chính các Ngài mang lại sự chuyển hóa của vũ trụ.
Ba điều nói trên đây có thể được áp dụng cho một hệ hành tinh, một dãy hay cũng cho một bầu hành tinh, luôn luôn nhớ rằng trong mối liên hệ với con người, lửa vốn là trạng thái thứ ba của con người xuất phát từ trí tuệ của thái dương hệ. (LVLCK, tr 492)
+ Câu châm-ngôn huyền bí: “Quyết chí (nguyện, to will), hiểu biết (tri, to know), dũng cảm (cảm, to dare) và im lặng (mặc, to be silent)”, có một ý nghĩa đặc biệt cho đến nay không được tiết lộ và Tôi chỉ có thể gợi ý về nó mà thôi. Những ai trong các bạn có được tri thức bên trong thì sẽ hiểu được ngay.
- Quyết chí (nguyện). Những lời này liên quan đến sự thành tựu cuối cùng, khi, bằng một tác động của ý chí được kết hợp của linh hồn và của phàm-nhân, sự hợp nhất và sự nhận thức được xảy ra. Nó liên quan đến bí huyệt ở đáy cột sống.
- Hiểu biết (tri). Những lời này liên quan đến bí huyệt Ấn Đường, tức là bí huyệt giữa hai lông mày. Một ẩn ý nằm trong các chữ “Mong cho Mẹ biết được Cha”. Nó có liên quan đến cuộc phối ngẫu (marriage) trên các cõi Trời.
- Dũng cảm (cảm). Những lời này cung cấp manh mối cho sự tuân phục của phàm nhân, và có một mối liên quan mật thiết với huyệt đan điền, nơi tiếp nhận và phân phối vĩ đại của dục vọng và của các mãnh lực cảm dục, và cũng là trung tâm chính của hoạt động chuyển-hóa.
- Im lặng (mặc). Cụm từ này liên quan đến sự chuyển-hóa của năng lượng sáng tạo thấp thành sự sống sáng tạo cao hơn.
* Bí-huyệt xương cùng phải lại rơi vào im lặng.
Kế đó, đối với vị đệ-tử, các bí huyệt sau đây sẽ được thấy là hết sức quan trọng:
1. Bí huyệt ấn đường, qua đó phàm nhân đã được thanh luyện tự biểu lộ chính mình.
2. Bí huyệt ở đáy xương sống, vốn là bí huyệt mà qua đó sự kiểm soát hoàn toàn và đầy đủ cùng với sự phối kết được đạt đến, thông qua việc khơi hoạt tác dụng thanh lọc của lửa.
3. Bí huyệt xương cùng, trong đó mãnh lực cơ bản của thái-dương-hệ riêng biệt của chúng ta, tức lực hấp dẫn của hình hài đối với hình hài, được chuyển hóa, và lực hấp dẫn của linh hồn thay thế cho hoạt động tạo tác sinh sản của vật chất (productive creative material activity).
4. Bí huyệt đan điền (solar plexus centre), nằm ở trung tâm của cơ thể và là cơ quan của thể cảm dục và của thông linh thuật (psychism) bậc thấp, tập hợp tất cả các mãnh lực hạ đẳng lại với nhau và tái định hướng chúng dưới sự thúc đẩy của linh hồn vào kho lưu trữ cao hơn của chúng.
Tôi hiểu rằng giáo lý được đưa ra ở đây vừa sâu xa vừa khó hiểu, nhưng giáo lý đó cần thiết cho số ít, và con số những người đó sẽ tăng lên theo thời gian.
Tôi đưa ra bảy bí quyết (keys) cho mỗi phương pháp của các cung. Các bí quyết này có thể được nghiên cứu liên quan đến các bảng ở trên và liên kết với bốn từ ngữ mà chúng ta đã đang xem xét. Chúng ta phải nhớ rằng:
- “Nguyện” (“To Will”) là đặc quyền của Tinh Thần,
- “Tri” (“To Know”) là chức năng của Linh Hồn,
- “Cảm” (“To Dare”) là nhiệm vụ của phàm-ngã,
- còn “Mặc” (“To Be Silent”) là thiên chức cuối cùng hay số phận của khía cạnh vật chất, của bản chất động vật trong sự tương tác của nó với linh hồn. (LVHLT, 288)
* Xem thêm về Thần chú quyền năng trong Thư về tham thiền huyền môn, tr 177;
+ Sáng tạo hình tư tưởng sử dụng cho một mục đích rồi hủy diệt/ làm tan dã chúng:
d/ Do đó, trong mọi việc kiến tạo tư tưởng thuộc đẳng cấp cao, con người có nhiều điều cần làm có thể liệt kê như sau:
Thứ nhất, thanh lọc các dục vọng thấp kém của họ sao cho họ có thể thấy một cách minh bạch theo ý nghĩa huyền linh. Không một ai có được cái nhìn sáng suốt nếu người đó bị ám ảnh với các nhu cầu, các hoạt động và các lợi lộc của riêng mình, và không biết đến những gì cao siêu và thuộc hoạt động tập thể. Cái nhìn sáng suốt này đem lại một năng lực, ngay cả nếu lúc đầu không hiểu biết, đọc được các tiên thiên ký ảnh (akashic records), và nhờ thế xác định được điểm khởi đầu cho các xung lực tư tưởng mới mẻ đang đi đến, một năng lực để bỏ qua tư lợi trong lợi ích tập thể, nhờ thế hợp tác với thiên cơ, và một năng lực giúp cho y bắt đầu biết đến chủ điểm của nhân loại, đồng thời cũng biết đến “tiếng kêu của nhân loại”.
Kế đến, đạt được cách kiềm chế thể trí. Điều này có liên quan đến một vài sự việc quan trọng: Hiểu rõ về bản chất của thể trí và bộ óc qua sự định trí, hiểu rõ về mối liên hệ vốn hiện hữu giữa bộ óc xác thịt với Con Người, tức Chủ Thể Suy Tưởng thực sự trên cõi trần, một khả năng được phát triển từ từ một khi thể trí được đưa vào sự kiểm soát nhờ định trí, đến thiền định theo ý nghĩa huyền linh, và như vậy mang lại qua thiên cơ từ các phân cảnh cao, xác định được phần đóng góp của cá nhân trong thiên cơ, và kế đó hợp tác trong công việc của một nhóm các Đấng Nirmanakayas riêng biệt. Điều này được nối tiếp bằng việc xem xét các luật về năng lượng. Con người tìm ra cách tạo nên một hình tư tưởng có tính chất và sắc độ đặc biệt, để kích hoạt nó với sự sống riêng của mình, và thế là có được – trên các phân cảnh trí tuệ - một sáng tạo nhỏ, đứa con của ý chí mà y có thể sử dụng như một sứ giả, hoặc là như một phương tiện để biểu lộ một ý tưởng. Các đạo sinh sẽ hành động có hiệu quả khi xem xét các điểm này một cách thận trọng, nếu họ tìm cách trở thành những người hành động (operators) có ý thức.
Sau cùng, nhờ tạo được một hình tư tưởng, việc kế tiếp mà kẻ phụng sự nhân loại phải học là làm cách nào đưa hình tư tưởng đó vào nhiệm vụ của nó, bất luận nhiệm vụ đó có thể là gì, duy trì nó bằng năng lượng sinh động của chính mình dưới hình thức đúng của nó, giữ cho nó rung động theo mức độ riêng của nó, và sau rốt hủy diệt nó khi nó đã làm tròn nhiệm vụ. Một người bậc trung thường là nạn nhân của các hình tư tưởng của chính mình. Y tạo ra chúng, nhưng không đủ mạnh để đưa chúng ra đảm đương công việc của chúng, cũng không có đủ hiểu biết để đánh tan chúng khi cần. Điều này đã mang lại đám sương mù dày đặc xoáy vòng có các dạng thức bán hình hài (half-formed), linh-hoạt một nửa (semi-vitalised) mà 85% nhân loại bị bao vây trong đó.
Trong công việc của mình với vai trò kẻ tạo ra tư tưởng, con người đã lộ ra các đặc điểm của Thượng Đế, vị Đại Kiến Trúc Sư hay là Đấng Tạo Lập vũ trụ. Con người đã đi song song với công việc của Ngài như Kẻ nhận ý tưởng.
Kẻ khoác (clothes) vật chất cho ý tưởng.
Kẻ đem năng lượng cho ý tưởng, và như thế giúp cho hình hài duy trì đường nét của nó và thi hành nhiệm vụ của nó.
Kẻ – trong thời gian và không gian – nhờ ham muốn và ưa thích, điều khiển hình tư tưởng đó, liên tục đưa sinh lực cho nó, cho đến khi mục tiêu được đạt tới.
Kẻ mà, khi mục tiêu ưa thích đã hoàn thành, sẽ hủy diệt hoặc làm tan rã hình tư tưởng bằng cách rút năng lượng của mình ra (theo huyền linh học là “sự chú ý bị thu hồi” hay là “mắt không còn đặt vào nữa”), để cho các sự sống thứ yếu (sự sống đã tạo ra hình hài ưa thích) tan biến và trở về kho chứa chung của thần chất.
Thế nên, trong mọi công trình sáng tạo bằng chất trí, con người cũng được xem như là Tam Vị Nhất Thể (Trinity) đang hoạt động; con người là kẻ sáng tạo, bảo tồn và là kẻ hủy diệt. (LVLCK, tr 957)
+ Giáo lý của đức Di Lặc Bồ Tát: .... buổi giảng Pháp của Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma hôm nay.....
Ông cũng đề cập rằng một số năm trước, các Phật tử Nga đã thỉnh cầu Đức Ngài giới thiệu về những luận thuyết mà họ có thể dịch sang tiếng Nga. Trong số đó có những tác phẩm của Ngài Di Lặc, và ba trong số đó hiện đã được dịch. Đó là:
1) Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Tiếng Sanskrit là Mahayana-Sutra-Alankara; tiếng Tây Tạng là Dodhe Gyen;
2) Pháp Tánh Phân Biệt Luận - Tiếng Sanskrit là Dharma-Dharmara- Vibhanga; tiếng Tây Tạng là Cho Dang Chonyi Nambar Jepa;
3) Trung Biên Phân Biệt Luận - Tiếng Sanskrit là Madhayanta-Vibhanga, tiếng Tây Tạng là U-tha Nam Jed.
* (Có thuyết cho rằng, chính Bồ tát Di Lặc là người khởi xướng hệ phái Duy thức của Đại thừa. Một số học giả cho rằng, vị này chính là Maitreyanatha (sa.maitreyanâtha), thầy truyền giáo lý Duy thức cho Vô Trước (sa.asaga). Truyền thống Phật giáo Tây Tạng cho rằng, Ngài là tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc (Từ Thị) ngũ luận:
1. Đại thừa tối thượng luận hoặc Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận (sa.mahâyânottaratantra).
2. Pháp tính phân biệt luận (sa.dharmadharmatâvibanga).
3. Trung biên phân biệt luận (sa.madhyântavibhâga-úâstra).
4. Hiện quán trang nghiêm luận (sa.abhisamayâlankâra).
5. Đại thừa kinh trang nghiêm luận (sa.mahâyânasutralankâra). Nguồn: Phật Di Lặc)
Telo Rinpoché bày tỏ sự vui mừng và biết ơn rằng Đức Ngài đã hứa khả thuyết giảng về Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận trong dịp này.
“Hôm nay, tôi sẽ đọc từ ‘Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận’. Trong số năm luận thuyết của Đức Di Lặc thì, ‘Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận’ và ‘Hiện Quán Trang Nghiêm Luận’ là quan trọng nhất. Tôi đã thuộc lòng ‘Hiện Quán Trang Nghiêm Luận’ khi còn bé và tụng lại những gì mà tôi đã học được trước mặt Gia sư của tôi - Ling Rinpoché. Vào thời điểm đó, tôi không hiểu ý nghĩa của luận thuyết ấy, nhưng qua một thời gian, khi tôi hiểu được bản văn đó, cũng như cuốn ‘Nhập Trung Quán Luận’ của Ngài Pháp Xứng, tôi đã khám phá ra rằng đó là những cuốn sách tuyệt với như thế nào. ‘Hiện Quán Trang Nghiêm Luận’ nêu lên các giai đoạn của Đạo lộ, trong khi ‘Nhập Trung Quán Luận’ trình bày về tính không như nó đã được dạy trong kinh điển.”..... (Nguồn: Giáo lý của đức Di Lặc Bồ Tát)
+ Tâm thụ động - Tâm giao động - Tâm năng động - Tâm bất nhị - Tâm không hai
Nhân loại có ba vấn đề mà từ trước đến nay, và cả từ nay đến mai sau, vẫn còn là vấn đề chưa bao giờ có thể đến hồi kết thúc. Đó là vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên, quan hệ giữa con người - con người, và quan hệ tự thân của con người.
Hóa ra con người khổ không phải vì tính thụ động (passivity) mà lại vì tính năng động (activity). Chẳng phải trong Kinh Thánh đã miêu tả cuộc đời hạnh phúc vô tư lự, hoàn toàn thụ động của Adam và Eve khi còn ở tại vườn Eden như vậy sao? Nhưng khi đã bị con rắn mê hoặc, ăn phải quả cấm của “cây trí thức” (Knowledge Tree), sinh ra hiểu biết thì “khổ” cũng bắt đầu từ đấy. Tri thức hay ý thức là tiền đề về “tính năng động” của con người. Con vật không có ý thức cho nên nó chỉ có thể thích nghi, thụ động với hoàn cảnh; con người có ý thức cho nên con người có thể tác động trở lại đối với hoàn cảnh, không chỉ thích nghi mà còn thay đổi hoàn cảnh. Trong quá trình thay đổi hoàn cảnh con người đồng thời thay đổi cả chính mình. “Tính năng động” gọi là “thực tiễn” (pratique) này mở đường cho khoa học phát triển, mở đường cho nhân loại tiến tới chân trời được gọi là văn minh. Nhưng “văn minh” hay “tính năng động” quá đà lại không ngần ngại đẩy con người đến tình trạng “văn minh dã man”. Khoa học kỹ thuật đang biến Rô-bốt thành con người có thông minh nhưng lại đang biến con người thành Rô-bốt thụ động chỉ biết suy nghĩ và hành động theo cái đã được cài đặt.
Khá khen thay, cách đây những hơn 2.500 năm, Lão Tử cũng đã nhìn thấy tính hai mặt của cái gọi là “năng động”, của cái gọi là “văn minh” của nhân loại. Cũng như Kinh Thánh xem “quả cây tri thức” là loại cấm, Lão Tử ở phương Đông xa xôi này cũng kịch liệt phủ nhận cái gọi là “tri thức”, “trí tuệ”: “Trí tuệ xuất hiện, sinh ra vô vàn điều giả dối”
Khổng Tử tách “tính thụ động” và “tính năng động” ra làm đôi, nhưng cuối cùng rồi cũng phải đặt “tính năng động” dưới tầm kiểm soát của “tính thụ động”. Lão Tử thống nhất “tính năng động” và “tính thụ động” ở “tính thụ động” không phải để “thụ động” mà để biến cái “thụ động” thành cái “chủ động”. Dẫu sao yếu tố biện chứng của Đạo gia cũng vượt trội hơn Nho gia nhiều; trong khi Nho gia thường hay bị cột chặt bởi tư duy siêu hình.....
Lão Tử cho rằng “tính năng động” của con người chỉ có thể tìm thấy trong tự nhiên chứ không phải trong xã hội. “Hữu vi” của xã hội không thể sánh kịp với “vô vi” của tự nhiên. “Vô vi” là không làm, là thụ động, nhưng “vô vi nhi vô bất vi”, nghĩa là “không làm” nhưng không phải là “không làm”, mà làm bằng cách không làm. “Vô vi” không phải là biểu hiện của tiêu cực mà chính là sự thống nhất giữa “tính thụ động” và “tính năng động” trên cơ sở của “tính thụ động”. Cho nên “biểu hiện của Đạo là mềm mỏng, là thụ động, hướng vận động của Đạo là quay về với tự nhiên”. Quay về với tự nhiên là quay về với “tính thụ động”, quay về với “tính thụ động” là quay về với bản tính của con người. Bản tính là cái vốn có, là tự nhiên, không thiện cũng không ác. Tự nhiên làm gì có thiện, ác. Thiện, ác chỉ là sản phẩm năng động, chủ quan của con người. Đạo đức và trí tuệ là hậu quả tai hại nhất của “tính năng động”. Cho nên: “Người có đạo đức chân chính thì cần gì phải nói đến đạo đức, kẻ vô đạo đức thì mới hay nói đạo đức”.(Nguồn: Thụ động và năng động)
+ SO SÁNH QUYỀN NĂNG THẦN THÔNG
Quyền năng thấp | Quyền năng cao
Thuộc Phàm Ngã | Thuộc Chân Ngã
Liên hệ với | Liên hệ với
Thần Kinh Giao Cảm Thần Kinh Não Tuỷ
Trí tuệ chưa phát triển.| T.Tuệ đã phát triển
Thể vía & thể trí | Thể vía & thể trí
chưa hoàn hảo Đã hoàn hảo
Không cần | Cần thanh lọc
thanh lọc các thể các thể
Không liên hệ | Cần phát triển
đến đạo đức đạo đức
Chỉ có trong 1 đời | Trường tồn
Lúc có lúc không | Kiểm soát tùy ý
Thuộc các giống | Thuộc các giống
dân III, đầu IV dân V và VI
Hatha Yoga | Raja Yoga
Làm u mê con ngựa | Huấn luyện con
Ngựa & tập cỡi
Nguồn: Thông thiên học
- Xem thêm: Tổng hợp về Quyền Năng và So Sánh Thần Thông
+ Trì giới - Sám hối có công đức có thể hóa giải - Tiêu trừ nghiệp chướng:
... Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám.
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng.
3. Loại thứ 3: Tiêu trừ nghiệp chướng.
Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Tuy họ nghiêm trì giới luật rất thanh tịnh, thật là hiếm có, được mọi người rất khen ngợi. Thế nhưng họ còn phiền não. Tức là họ còn thấy người này phá giới, người kia không trì giới. Họ còn có những phân biệt này, nếu còn có những phân biệt này thì công đức trì giới của họ bị phá hoại thì họ làm sao được định. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại trong đàn Kinh có nói “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” tức là người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Người thế gian đã phạm nhiều lỗi lầm, nếu như họ thật không thấy thì họ trở thành mất chứng ngu đần sao? vậy cái gì gọi là không thấy nghĩa là thấy như không thấy, tuyệt không để trong tâm.....(Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối nghiệp chướng)
+ Các Loại Sám Hối - Các cách sám hối.
Đệ tử chúng con, lễ chư Phật rồi, thứ lại sám hối. Kinh Diệt Tội nói: “Nếu chăm sám hối, diệt được tội nghiệp. Tại sao chỉ nói quán tâm lý trí, mới hay diệt nghiệp?”
Trong kinh giải thích hai cách sám hối: một là tâm mê, theo sự sám hối. Nghĩa là, đối trước tượng Phật, hành đạo lễ bái, tỏ bày sám hối, mong diệt tội chướng; hai là tâm sáng, theo Lý sám hối, nghĩa là quán sát thân tâm, cắt đứt phiền não, Năng Sở gây nghiệp, có nặng có nhẹ. Nếu là nghiệp nhẹ, theo Sự sám hối, có thể diệt hết, còn nếu nghiệp nặng, có thể chuyển được, biến nặng thành nhẹ. Nghĩa là lẽ ra nghiệp nặng, phải đọa ba đường, nhưng chuyển thành nhẹ, được sinh cõi người. Cho nên biết rằng, theo Sự sám hối, chuyển nặng thành nhẹ, nghiệp không thể hết là vì kiếp trước, gây nghiệp quá nặng, tâm thiện lại ít, sau ắt chịu báo.
Nay nói về Lý, không một vật gì, mình có thể được, nếu hiểu như thế, muôn pháp đều không, thân cần trong sạch, tâm không mê hoặc, không tạo ác nghiệp, nên không chịu báo, hăng hái tu hành, đạo nghiệp càng tăng. Như thế mới là phát tâm Bồ đề, rốt ráo cùng cực. Vì thế cho nên, những người có trí, nếu muốn tu tâm, muốn diệt tội nặng ba đường, phải học quán sát, theo Lý mà làm, mới mong mãi mãi xa lìa nẻo ác, đạt đến quả Phật.
Nhiếp luận nói ràng, nếu muốn lìa khổ, phải diệt vô minh, vô minh diệt rồi, thì hành cũng diệt, nếu hành đã diệt, thân tâm yên vui. Nếu hành lại sinh, tu đạo không rõ, thiện nghiệp chẳng thành, ác tâm càng mạnh. Bởi thế cho nên, bậc Tu Đà Hoàn không gây hoặc nghiệp, bậc A Na Hàm không chịu nghiệp báo, sinh nơi hạ giới. Lại nữa Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói rằng, nếu người có đủ mọi nghiệp ở nơi Dục giới, nhưng đã được quả A Na Hàm, thì chuyển được nghiệp kiếp sau mà chịu ngay ở đời hiện tại. La Hán cũng vậy. Vì thế nên biết, quán sát theo Lý mới thật sám hối.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thẩy nghiệp chướng đều do vọng tưởng, nếu muốn sám hối, hãy ngồi tĩnh tâm quán sát thực tướng”. Bởi thế chúng con, theo trong Kinh nói, trăm nghìn muôn kiếp, tạo nghiệp lâu dài, quán sát được một, đều tiêu diệt hết. Nếu các Phật tử, biết tính chúng sinh là tính niết bàn, thì những người ấy cùng cực giải thoát. Xét đến ngọn nguồn, nghiệp do điên đảo mà có, do vọng tưởng mà sinh, nhưng tâm tưởng ấy, cũng như luồng gió giữa chốn hư không, chẳng nơi nương tựa. Vì thế nên biết thiện hay là ác, đều do tâm tạo, khi chưa hiểu lý, mờ mịt không biết, nên mới gây nghiệp, đến sau rõ lý, tất cả tội trước, thẩy đều tiêu diệt. Lúc ấy mới biết, chẳng có tội gì để mà trừ diệt, chẳng có nghiệp gì để mà tạo tác, không còn chịu báo, cũng không luân chuyển.
Trong khi quán Lý, nên phải nghĩ rằng, tất cả nghiệp ác, vốn nó vắng lặng, cũng như Phật tính, đồng với chân như. Nhưng vì vô minh, ngăn ngại che lấp, nên không thể thấy, bởi vậy mới thường trước Phật, Bồ Tát, phạm trai phá giới, gây nên các tội thập ác, ngũ nghịch. Ví như trước Đạo Tràng này, tôn thờ tượng Phật, lễ bái cúng dàng, chợt có người mù, vì không trông thấy, bèn đứng trước Phật gây mọi nghiệp ác. Những người sáng mắt, thấy thế thương xót, mới bảo họ rằng, đây là Đạo Tràng, có thờ tượng Phật, tại sao đứng đây công khai tạo nghiệp? Người mù nghe rồi, xấu hổ sợ hãi, hối không kịp nữa. Liền ngay lúc đó, đứng trước đại chúng, cầu xin sám hối, bảo đại chúng rằng, vì tôi mù lòa, không thấy ánh sáng, không biết có Phật, tuy có chính nhân, nhưng không chính kiến. Nay nhờ thiện hữu chỉ bảo mới biết, xấu hổ sợ hãi, đã gây nên nghiệp, không thể nói hết.
Hiện tiền đại chúng, hãy đối trước Phật, cầu xin sám hối. Nguyện cầu chư Phật, thương xót tiếp thụ, diệt mọi tội cấu. Như người mù kia, nhờ người chỉ bảo, mới biết lỗi lầm, ăn năn sám hối. Chúng ta cũng vậy, lúc gây nên tội, thường đối trước Phật, vì không chính kiến, không thấy không biết. Ngày nay giác ngộ, biết rõ chư Phật, không ngoài tự tính, ba đạt chiếu suốt, năm mắt tròn sáng, trời đất hư không, những nơi tối tăm, bất luận xa gần, trong ngoài soi khắp, như ngọc minh châu, đặt trên bàn tay, tùy cơ ứng dụng, hóa độ quần sinh, đều lên bờ Giác. Lại biết tội duyên không có tội tính, đều do vọng tưởng, chịu mọi khổ não.
Kinh Duy Ma nói: “Tâm nhơ nên chúng sinh nhơ, tâm sạch thì cõi Phật sạch”. Vọng tưởng là nhơ, không vọng là sạch; vọng tưởng là địa ngục, tâm sạch là cõi Phật. Tội tính không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Tâm cũng không trong, không ngoài, không khoảng giữa, tâm đã như thế thì tội cũng vậy. Định tâm mà xem, tìm hiểu lý do, sẽ biết tự tính, thắp đuốc trí tuệ, diệt tan vô minh. Từ trước đến nay, gây bao tội ác, cũng như nhà tối; sám trừ vọng niệm, hiểu rõ chính nhân, đem đuốc trí tuệ, chiếu vào nhà tối. Lúc đó mới biết, từ kiếp vô thủy, đều bởi vô minh, ngăn che mê hoặc, không thấy chính quả, tạo các tội ác, như ở nhà tối, không thấy ánh sáng. Nay muốn sám trừ, phát nguyện tu hành, mở lòng đại thừa, sám tối nhỏ nhiệm, như ánh mặt trời, đánh tan băng tuyết, cũng như đau lâu, nay gặp lương y, như người ngu dại, gặp được minh sư. Nay đối trước Phật, khẩn cầu sám hối, hết thẩy tội chướng, nguyện đều tiêu diệt.
Cho nên kinh nói: tạo tội tuy nhiều không bằng làm thiện, chỉ một chút thôi, có thể diệt được tất cả tội chướng. Vì thế nên biết, tội không tự tính, do nhân duyên sinh, theo nhân duyên diệt; hễ gặp duyên ác, vô minh phát khởi, hễ gặp duyên thiện, đạo nghiệp tăng thêm, tội báo sai khác, duyên nghiệp nặng nhẹ, nay nên kiên quyết, không tạo tác nữa. Hiện tiền đại chúng, phải rõ bản nghiệp, đã biết cái nhân sám hối, mau trồng cái quả Bồ Đề, chịu tội muôn kiếp nghìn đời, sám hối một lúc tiêu hết. Nay hiểu được tâm, do lý mà sinh, rõ biết Phật lý, không ngoài tự tính. Tâm trước tuy gây tội nặng, niệm sau hiểu lý tiêu tan, vọng cảnh không sinh, nghiệp duyên cắt đứt.
Trong kinh Phật nói, tâm trước làm ác, ví như áng mây, che khuất mặt trời, tâm sau làm thiện, ví như mặt trời, đánh tan sương móc. Kinh Diệt tội nói: “Ví như chiếc áo, cả năm nhơ bẩn, có thể giặt dũ, một ngày sạch hết,” trong trăm nghìn kiếp, tạo mọi nghiệp ác, nay phải sám hối, nguyện nhờ sức Phật, sức Pháp, sức Tăng, chư Bồ Tát, cùng giúp thần lực, từ bi tiếp thụ, tấm lòng chí thành, giãi bầy sám hối, của lũ chúng con. Nguyện trong khoảnh khắc, diệt hết tội chướng, trăm nghìn muôn kiếp con đã gây nên. Hiện tại đại chúng, dốc một lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ của cả thế gian. ...(Nguồn: Kinh Mục Liên Sám Pháp)
+ CÁC TRƯƠNG PHÁI HÀNH TINH (LVLCK, 1178-1181)
1. Uranus (Thiên Vương Tinh) – Trường Phái Huyền Thuật cấp đẳng thứ mười. Đôi khi được gọi là “hành tinh có thần lực tím” và các đạo sinh tốt nghiệp (graduates) của trường phái này sử dụng được quyền năng của prana dĩ thái vũ trụ.
2. Địa Cầu. Trường Phái Đáp Ứng Từ Điển. Một danh xưng khác được dành cho các đệ tử của Phái này là “Các tốt nghiệp viên của nỗ lực đau khổ” hay là “các phán quan giữa các đối cực”.
Thêm một ẩn ngôn nữa được chọn liên quan đến hai tên gọi nêu trên, đó là các tốt nghiệp viên (graduates) của Trường Phái đó được cho là trải qua cuộc khảo sát trên cõi phụ thứ ba của cõi cảm dục.
3. Vulcan (Hỏa vương cầu). Trường Phái Hỏa Thạch (Fiery Stones). Có một liên hệ kỳ lạ giữa các người đã vượt qua các phòng của nó và giới khoáng thạch. Các đơn vị con người trên hành tinh hệ địa cầu được gọi theo cách nói huyền bí là “các hòn đá sống” (“the living stones”); trên Vulcan chúng được gọi là “các hỏa thạch”.
4. Jupiter (Mộc tinh). Trường Phái các Nhà Huyền Thuật Từ Tâm (Beneficent Magicians). Hành tinh này đôi khi được gọi theo cách nói của các trường phái là “Học Viện của các đơn vị Lực Tứ Phân” vì các thành viên của nó vận dụng bốn loại thần lực trong công tác huyền thuật kiến tạo. Một tên gọi khác được dành cho các phòng của nó là “Dinh Thự Trù Phú” vì các tốt nghiệp viên của nó hoạt động với Luật Cung Ứng và thường được gọi là “Người Gieo Trồng”.
5. Mercury (Thủy Tinh). Các đệ tử trong trường phái hành tinh này được gọi là “Các Con của Đạo Tâm” hay là “Các Điểm của Sự Sống Màu Vàng”. Họ có liên hệ chặt chẽ với Hệ Địa Cầu chúng ta, và Cổ Luận có nói đến điều này bằng các lời:
“Các điểm lửa vàng hòa nhập và pha trộn với cây có bốn lá có màu lục dịu, và thay đổi màu của nó theo một sắc thái vàng của mùa thu. Cây bốn lá qua dòng lưu nhập mới và mát mẻ trở thành 1179 cây có bảy lá và ba đóa hoa trắng”.
6. Venus (Kim Tinh). Trường Phái này có năm cấp rõ rệt. Hành tinh hệ này có liên quan chặt chẽ với hành tinh hệ chúng ta, nhưng Đức Hành Tinh Thượng Đế của nó ở trong một nhóm tiến hóa nhiều, theo ý nghĩa vũ trụ, hơn là Hành Tinh Thượng Đế chúng ta. Hầu hết các giáo huấn viên thuộc Thánh Đoàn của hệ thống đó đến từ cõi vũ trụ thứ năm và là một nhóm đặc biệt gồm các Manasadevas thuộc đẳng cấp rất cao. Mỗi một trong các Ngài được mô tả trong các thư khố của Thánh Đoàn chúng ta như là nắm giữ một đinh ba có lửa (trident of fire) được gắn bằng năm viên ngọc lục bảo (green emeralds).
7. Mars (Hỏa Tinh). Trường Phái dành cho các Chiến Sĩ, hay là các đẳng cấp mở rộng cho các chiến sĩ. Bốn trong số các trường phái hành tinh này chịu trách nhiệm cho năng lượng tuôn chảy qua các nhân vật tiêu biểu nhất của bốn giai cấp và điều này không những chỉ ở Ấn Độ mà còn ở mọi phần trên thế giới. Các huấn sư của trường phái này được nói đến như là “Các tốt nghiệp viên của Lửa đỏ hồng” và thường được mô tả như là khoác trong các áo choàng đỏ, và quyền trượng bằng gỗ mun. Các Ngài làm việc dưới Ngôi Một Thượng Đế và huấn luyện những ai làm việc theo các đường lối của Đấng Hủy Diệt.
8. Neptune (Hải Vương Tinh). Chính trường phái này liên quan đến sự phát triển và bảo dưỡng của yếu tố dục vọng và các vị tốt nghiệp của nó được gọi là “Con của Vishnu”. Biểu tượng của các Ngài là chiếc áo choàng với chiếc thuyền buồm được vẽ quả tim, ý nghĩa của nó sẽ hiện rõ với người biết quan sát.
Không được phép nói đến các trường phái hành tinh khác, cũng như việc đó không ích lợi gì. Thêm vài sự kiện có thể được đạo sinh có suy tư xác định, đó là kẻ đã chỉnh hợp được với Ego của y và có giao tiếp với nhóm Chân Ngã của y. Giáo huấn được đưa ra về hệ địa cầu của chúng ta trong Phòng Minh Triết đã được bàn đến trong nhiều kinh sách huyền môn như “Điểm Đạo, Nhân Loại và Thái Dương”, nên không cần bàn thêm ở đây.
Vài khía cạnh của định luật này được nêu ra ở đây.
+ Chướng duyên chướng ngại trong tu hành: CÀNG ĐẾN GẦN CỬA ẢI QUAN TRỌNG, CÀNG GẶP NHIỀU CHƯỚNG DUYÊN NGHIÊM TRỌNG, CHÚNG TA PHẢI DÙNG NHỮNG CHƯỚNG DUYÊN ẤY ĐỂ KHẢO NGHIỆM CHÍNH MÌNH.
Nói đến tu đạo, tu hành, chướng duyên rất nhiều. Bao nhiêu người tu hành chúng ta vừa phát tâm, giống như người chạy đua, nhớm chân từ mức xuất phát, có người vọt lên dẫn đầu, có người tụt lại đằng sau, có người bị loại. Do nguyên nhân nào? Quá nhiều chướng duyên chướng ngại mình.
Có người chướng ngại ta, có sự chướng ngại ta, có vật chướng ngại ta, lại còn có oán thân trái chủ chướng ngại ta, hữu hình, vô hình rất nhiều. Đó là chướng duyên.
Ai có thể vượt khỏi tầng chướng duyên ấy? Ai có thể thành tựu được?
Chẳng có gì khác cả! Một dạ hướng về đạo!
NGÀY NGÀY đọc kinh, ngày ngày nghiên cứu giáo pháp, không biếng nhác một ngày nào, tất cả chướng duyên chẳng cần quan tâm đến, CỐT SAO TÂM TA nơi đạo, hạnh ta nơi đạo. Tự mình chú ý quán sát, tư duy, nếu tâm hạnh mình chẳng rời khỏi đạo, chẳng trái nghịch sự giáo huấn của Phật, tất cả hết thảy chướng duyên chẳng quan tâm đến là được rồi!
NGÀN VẠN PHẦN chẳng được dùng tinh thần lẫn thời gian để NGHIÊN CỨU CÁCH đối phó chướng ngại. NẾU làm như vậy, chướng ngại CÀNG LỚN.
Chẳng hạn như người ta hủy báng mình, quý vị muốn tìm cách trả đũa, chẳng phải tự mình chuốc phiền đó ư? Lúc ấy, sẽ như thế nào? Một khi CÓ Ý NIỆM ẤY, tâm quý vị ĐÃ TRÁI NGHỊCH đạo nghĩa, Phật chẳng dạy chúng ta trả đũa! Đức Phật dạy chúng ta phương pháp nào? Mặc Tẫn. Mặc Tẫn nghĩa là gì? Hoàn toàn không đếm xỉa đến, anh hủy báng cứ việc hủy báng, tôi đi đường tôi. Giống như anh đấm tôi, tôi không phản kháng, cái đấm đó như không. Người ta hủy báng, mình liền trả đũa. A! Vậy thì đôi bên đập lộn. BỊ CHỬI không trả miếng, BỊ ĐÁNH không đập lại, ĐỂ TÂM nơi đạo, HẠNH DỐC nơi đạo, dũng mãnh, tinh tấn, nói thật ra, VIỆC ĐÓ khó lắm! NGƯỜI TẦM THƯỜNG chẳng thể nhẫn ĐƯỢC. KHÓ NHẪN mà nhẫn được, KHÓ HÀNH mà hành được THÌ MỚI ĐI SUÔNG SẺ trên đường Bồ Đề được!
CÀNG ĐẾN GẦN cửa ải quan trọng, CÀNG GẶP nhiều chướng duyên nghiêm trọng, chúng ta PHẢI DÙNG những chướng duyên ấy để KHẢO NGHIỆM chính mình. Hiện tại, chúng ta đã đạt đến mức độ công phu ấy thì phải vượt được cuộc khảo thí ấy. Bởi vậy, chướng duyên chẳng có gì là xấu.
Trong kinh giáo, đức Phật thường dạy chúng ta: THẾ GIAN, XUẤT THẾ GIAN CHẲNG CÓ GÌ LÀ ĐÚNG HAY SAI TUYỆT ĐỐI CẢ.
Cát - hung, họa - phước do đâu?
Nói thật ra, đều do một niệm của chính mình. Một niệm của chính mình “chánh” sẽ hóa hung thành cát, chuyển họa thành phước, có gì không tốt đâu? Công phu tu hành của quý vị hữu dụng, khởi tác dụng. Nếu quý vị CHẲNG THỂ nhẫn, có một niệm sân hận, có một niệm báo thù, SẼ BỊ thoái chuyển một mức rất lớn, quý vị BỊ ĐÀO THẢI khỏi đường Bồ Đề. Người như vậy chẳng phải chỉ là chín mươi chín phần trăm đâu nhé, không phải vậy! Chỉ sợ là trong một ngàn người, trong một vạn người, người thực sự có thể đột phá chỉ là một phần vạn; nói thật ra còn chưa được một phần vạn nữa cơ đấy! Quý vị nghĩ xem: Người học Phật nếu thực sự là một phần vạn [có thể đột phá được] mà người học Phật chẳng ít, có đến trăm vạn, ngàn vạn; nếu là một phần vạn, thì người thực sự có thành tựu cũng được vài trăm, cũng có thể cả ngàn người, [nhưng trên thực tế] đâu có được như vậy! Do đó, quý vị mới hiểu chuyện này rất khó, phải hàng phục phiền não tập khí của chính mình.
Chúng tôi hết sức may mắn, nếu quý vị hỏi vì sao chúng tôi có thể hàng phục được phiền não tập khí ư?
Chẳng có gì khác cả, NGÀY NGÀY đọc kinh, ngày ngày giảng kinh, ngày ngày nghiên cứu, TOÀN BỘ tinh thần tâm lực đều đặt nơi kinh giáo. DO VẬY không có tinh thần, không có thời gian ĐỂ QUAN TÂM đến gì khác, thực sự là như vậy. Chẳng những không có thời gian quan tâm đến thứ gì khác, mà cũng chẳng có tinh thần. Rất nhiều đồng tu viết thư cho tôi, tôi không có thời gian đọc. Bởi thế, tôi hay khuyên mọi người đừng gởi thư cho tôi, tôi thực sự chẳng muốn xem.Vô tình giở sách cũ thấy thư kẹp trong đó, bì thư chưa xé, mở ra xem, đại khái là bảy tám năm trước, quên bẵng luôn!
Bởi vậy, tôi hy vọng mọi người đọc kinh, niệm Phật. NẾU CÓ VẤN ĐỀ thì niệm Phật nhiều, đọc kinh nhiều SẼ TỰ NHIÊN hiểu ra. VIỆC TỐT BẬC NHẤT trong pháp thế gian lẫn xuất thế gian là đọc kinh, niệm Phật, vì người khác diễn nói, trong kinh, đức Thế Tôn gọi là “đọc tụng thọ trì, vì người diễn nói”. Đấy chính là việc tốt lành bậc nhất, thiện hạnh bậc nhất, thuần tịnh thuần thiện trong các pháp thế gian và xuất thế gian. Pháp thế gian và xuất thế gian đều CHẲNG NHIỄM TRƯỚC, đấy mới thực sự là ĐẠI TỰ TẠI. Dẫu chẳng đạt được tự tại, nhất định đạt được tiểu tự tại.
Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tu hành chẳng có chướng ngại, ở bên ấy không có chướng duyên. Do vậy, đức Thế Tôn mới giới thiệu cho chúng ta biết “kỳ quốc chúng sanh” (chúng sanh trong cõi ấy), chúng sanh cõi ấy đều là những người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, họ chẳng có các sự khổ, “đản thọ chư lạc” (chỉ hưởng các sự vui). Những niềm vui trong các sự vui ấy rất nhiều, chỉ nêu lên hai điều: Một là chẳng thoái chuyển, hai là không có chướng ngại, “cố danh Cực Lạc” (nên gọi là Cực Lạc).
Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, phần 5
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không - Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Úc Châu - Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa (Facebook Nguyễn Thị Hằng)
+ Tiến trình tu đúng:
Trong bộ « Phật học Tự điển » của cụ Đoàn Trung Còn, có nêu lên chuỗi liên kết từ việc giữ giới cho đến Niết bàn như sau :
1. Có trì giới, mới có trật tự.
2. Có trật tự, mới có sự không bất bình.
3. Không bất bình, mới có vừa ý.
4. Có vừa ý, mới có hỷ lạc.
5. Có hỷ lạc, mới có thanh tịnh.
6. Có thanh tịnh, mới có an tâm.
7. Có an tâm, mới có định, (sự thăng bằng và tĩnh lặng của tâm thức).
8. Có định, mới có huệ, (trí tuệ).
9. Có huệ, mới có chán năm trần, (sắc, thinh, hương, vị, xúc).
10. Có chán năm trần, mới có lìa thọ cảm.
11. Có lìa thọ cảm, mới có dứt tội lỗi (không gây ra nghiệp).
12. Có dứt tội lỗi mới có giải thoát.
13. Có giải thoát, mới chứng Niết bàn.
Như thế, ta thấy rõ giữ giới một cách đơn giản cũng đã là một hành vi chuẩn bị cho Niết bàn. (Nguồn: Thuvienhoasen)
+ Tu không sen tạp là thế nào: “ĐỌC KINH MÀ THÊM TRÌ CHÚ - VẬY CÓ PHẢI LÀ XEN TẠP KHÔNG?”
“Đây chính là thắc mắc của rất nhiều bạn khi mới bước chân vào Đạo. Chúng ta phải biết rằng đọc Kinh thêm trì Chú là thuộc về nghi thức tụng Kinh.
Trong nghi thức tụng Kinh, đầu tiên là Nguyện Hương, rồi đến Tán Thán Phật, Nhất Tâm Đảnh Lễ, Chú Đại Bi, Cử Tán, Bài Văn Phát Nguyện, Bài Kệ Khai Kinh, rồi mới bắt đầu vào phần chánh Kinh.
Do đó, nếu nói rằng đọc Kinh mà trì thêm Chú là xen tạp, thì trong nghi thức tụng Kinh, ngoài phần chánh Kinh ra, thì tất cả đều là xen tạp hết. Cho nên, đọc Kinh mà trì thêm Chú không thể gọi là xen tạp được !
Chúng ta tu học, tùy vào từng giai đoạn tu hành của mình mà uyển chuyển áp dụng lời của Thầy Tổ vào quá trình tu học, để đạt được thành tựu cao nhất. Cả quá trình tu học của chúng ta từ lúc sơ phát tâm cho đến thành tựu Niệm Phật Tam Muội, được chia làm 3 giai đoạn:
1. Giai đoạn trao dồi thiện tâm:
Là giai đoạn gột rửa tâm hồn. Ở giai đoạn này chúng ta dùng mọi phương tiện để giải trừ tất cả tập khí xấu ác của bao đời trước, giúp tâm trở nên trong sạch thiện lành, để đảm bảo không sa chân vào ác đạo.
2. Giai đoạn rèn tâm giải thoát:
Đây là giai đoạn xả ly thế gian, dứt trừ ái dục.
3. Giai đoạn chuyên tu giải thoát, thành tựu Niệm Phật Tam Muội:
Là giai đoạn cuối cùng của con đường Tịnh Độ. Ở giai đoạn này, chúng ta phải buông bỏ hoàn toàn các duyên bên ngoài, chỉ chuyên tâm niệm Phật không gián đoạn.
Chúng ta thấy được tuy là tu Niệm Phật, nhưng mỗi một giai đoạn đều có cách hành trì khác nhau.
Ở gia đoạn đầu và giai đoạn thứ 2 thì bên cạnh việc niệm Phật, chúng ta cần dùng mọi phương tiện như đọc Kinh, trì Chú, sám hối, lạy Phật, suy tư, đọc các loại sách nói về Tịnh Độ, làm phước thiện, phóng sanh... để gột rửa những chủng tử xấu ác trong tâm, trưởng dưỡng tâm thiện lành, dứt trừ các ái nhiễm.
Nhưng cũng cần phải phân rõ đâu là chính, đâu là phụ. Niệm Phật là chính, còn các phương tiện trợ duyên khác chỉ là phụ mà thôi!
Nhưng đến giai đoạn thứ 3 thì không cần các phương tiện trợ duyên nữa. Vì lúc này tâm đã hoàn toàn thiện lành, các chủng tử xấu ác được đẩy lùi, hạnh xả ly đã làm được viên mãn.
Cho nên, ở giai đoạn này chúng ta cần phải nhất tâm nhất ý vào câu A Di Đà Phật niệm không gián đoạn để thành tựu Niệm Phật Tam Muội, chứng toàn thể bản tánh Di Đà, đây là cảnh giới cao nhất của pháp môn Niệm Phật.
Vì thế chúng ta phải hiểu rằng Thầy Tổ thường hay khuyên chúng ta:
“Niệm Phật kỵ nhất là xen tạp, đọc Kinh là xen tạp, trì chú là xen tạp, ngay cả làm pháp hội cũng là xen tạp". Đây là dành cho những người niệm Phật công phu đã thuần thục, đang bước vào giai đoạn thành tựu Niệm Phật Tam Muội. (Nguồn: Đọc kinh, trì chú, niệm Phật có bị sen tạp - PS Tịnh Không)
+ Cát tường tối thượng: IV- HẠNH PHÚC
+ Sự Việc Cát Tường - Hộ Chú Cát Tường: ... Cho con biết điều gì Là Cát Tường tối thượng?” Phật dậy:
1. “Không gần kẻ ngu si. Biết kết thân người trí. Tôn kính phải tùy khi dành cho người xứng đáng. Là Cát Tường tối thượng.
2. Cư trú nơi thích hợp. Tích đức khéo giữ gìn. Biết chọn riêng cho mình. Con đường đi chính đáng. Là Cát Tường tối thượng.
3. Sở học cần sâu rộng. Thủ công khéo tay nghề. Luật lề được huấn luyện. Nói chuyện thạo kỹ năng. Là Cát Tường tối thượng.
4. Phụ mẫu luôn hiếu đễ, thê, tử phải chăm coi. Không phiền rối lôi thôi. Trong việc làm sinh sống. Là Cát Tường tối thượng.
5. Hành sự tâm quảng đại. Chính trực giữ lòng chân. Tương trợ với tương lân. Lỗi người không trách cứ. Là Cát Tường tối thượng.
6. Không làm điều quấy trái. Tránh sử dụng chất say. Cẩn trọng khéo giác hay. Trong hành vi thiện pháp. Là Cát Tường tối thượng.
7. Khiêm cung và kính trọng. Biết chấp nhận hài lòng. Ơn nhận khắc ghi công. Tùy thời nghe giảng Pháp. Là Cát Tường tối thượng.
8. Tính tình luôn kham nhẫn. Nhu thuận biết nghe vâng. Gặp thánh nhân thích gần. Tùy thời đàm luận Pháp. Là Cát Tường tối thượng.
9. Thực hành trong phạm hạnh. Sống cuộc sống thánh nhân. Tứ Đế liễu nghĩa chân. Niết Bàn tâm chứng ngộ. Là Cát Tường tối thượng.
10. Tâm đối cảnh thế gian. Không mảy may chao đảo. Không dấy lên phiền não. Vô nhiễm và bình an. Là Cát Tường tối thượng.
=> Đạt được những điều này. Mọi nơi không chướng ngại. Trải khắp nẻo hành trình. Bình yên không sự cố. (Nguồn: Kinh hạnh Phúc hay Hộ Chú Cát Tường)
+ Pháp hạnh phúc giảng giải:
Phàm người muốn được hạnh phúc thì phải thực hành 38 pháp, phân 3 cấp độ là:
1. Từ hạnh phúc thứ nhất tới thứ pháp thứ 18, để tạo nên một đời sống hạnh phúc giữa nhân quần, xã hội...
2. Từ pháp thứ 19 tới pháp thứ 30 là để dạy tâm cho được vững chắc, trong sạch - không để cho tâm bị tiền tài, danh vọng làm cho lung lay, hoen bẩn.
3. Từ pháp 31 tới pháp 38 là để dứt phiền não, nhập Niết-bàn, là nơi an vui, hạnh phúc tuyệt đối.
Các bực tại gia cư sĩ và các hàng xuất gia hành trì các pháp hạnh phúc ấy tùy theo trình độ tinh tấn của mỗi hạng, từ các bực căn cơ thấp kém cho tới bực phước duyên tròn đầy. Nói một thể khác thì, 38 hạnh phúc này dạy cho người Phật tử chơn chính - phương pháp tìm kiếm và an lập được hạnh phúc tương đối ở trên đời; sau đó có thể hành trì, tu tập thêm cho đến nơi giải thoát hoàn toàn, thọ hưởng hạnh phúc siêu thế! ..... (Nguồn: Giảng giải về Pháp Hạnh Phúc)
+ Kiến tư phiền lão
- Kiến hoặc: Đối cảnh khởi tham ái
- Tư hoặc: Mê lý khởi phân biệt
Bồ tát Quán Thế Âm thành tựu tu "Chân Không Quán" đã phá trừ hắc ám của kiến hoặc, Tư hoặc. Tu "Thanh Tịnh Quán" phá trừ hắc ám Trần xa hoặc, chứng được đức Giải thoát. Tu "Trí Huệ Quán" phá trừ hắc ám Vô minh hoặc, chứng được đức Pháp thân => BT Quán Thế Âm tu thành tựu ba Quán viên mãn đủ Tam Đức Bí Tạng - Bát Nhã Đức, Giải Thoát Đức, Pháp Thân Đức. Ba Quán đoạn chứng được ba Đức, đoạn trừ hắc ám Kiến Tư2 - Trần Xa - Vô Minh, cho nên nói nói là "Trời huệ phá tối tăm" (Huệ chính là Quán, Quán chính là Huệ). Ngài hay phục tam tai là Thủy tai - Hỏa tai - Phong tai hủy diệt Thế giới Ta Bà......(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng phẩm Phổ môn - Kinh Pháp Hoa)
+ Tham hướng thượng - Hướng hạ khác nhau
- Tham dục khiến ta chìm đắm trong luôn hồi sinh tử khổ đau
- Tham tu thiền là hướng thượng, hướng đến giải thoát luân hồi khổ đau (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người có phúc: Đức Phật dạy.
Hãy biết ơn là mình có phúc, nếu có 9 dấu hiệu sau đây:
1, Sinh ra được làm thân người, đầy đủ 6 căn: là PHÚC.
2, Gặp được Phật Pháp, biết tu tập thực hành theo chân lý của Phật: là PHÚC.
3, Được sống trong quốc gia hòa bình: là PHÚC.
4, Còn Cha Mẹ để phụng dưỡng, và báo hiếu: là PHÚC.
5, Dù giàu hay nghèo, có nhà riêng hay ở trọ, nhưng vẫn có nơi trú mưa, trú nắng ngày đêm: là PHÚC.
6, Người tại gia, Ông Bà, Cha Mẹ, dạy con cháu được điều lành, hiểu rõ tội và Phước: là PHÚC.
7, Các bậc xuất gia tu hành, thực hành lời Phật dạy, làm gương lành cho thế gian: là PHÚC của chúng sinh.
8, Được gần gũi các bậc hiền trí, các bạn đồng tu, được nhìn thấy biểu tượng các bậc từ bi giác ngộ: là vô lượng Phước báu trong cõi thế gian này.
9, Mỗi buổi sáng thức giấc, mở mắt nhìn thấy ánh nắng mặt trời, biết mình vẫn còn thở, thấy người thân, mọi người xung quanh vẫn đủ đầy: là PHÚC. (Nguồn: Sưu tầm)
* Biểu lộ của Phúc báo lớn tiền kiếp đã tu được:
Đức Phật nói: Nếu 1 người có 5 dấu hiệu này là phước báu, muôn đời hưởng phúc
- Hiếu thảo với cha mẹ là thiện nghiệp lớn nhất trên đời và sẽ mang lại may mắn cho chính chúng ta.
- Sống tử tế với người khác
- Khiêm tốn
- Từ bi và nhân ái
- Một thái độ lạc quan và tích cực (Nguồn: Biểu lộ có phúc lớn)
* Đức Phật dạy rằng vạn vật đều từ tâm mà ra. Muốn có phúc báo, con người cần tu tâm dưỡng tính, gieo nhân phúc, làm điều thiện. Có 10 dấu hiệu cho thấy bạn là người có phúc báo lớn do tích đức từ tiền kiếp hoặc hiện tại, bạn có được bao nhiêu đức tính trong đó? Nội dung bài Pháp
1. Người có phúc báo thì lúc khó khăn luôn có lối thoát
2. Người có phúc báo thường đem lại điều may mắn cho người khác
3. Người có phúc báo luôn tai qua nạn khỏi
4. Người có phúc báo có nhiều bạn bè quý mến
5. Người có phúc báo thì làm gì cũng thành công
6. Người có phúc báo thì có được người vợ hay chồng lý tưởng
7. Người có phúc báo thì con cái ngoan ngoãn, giỏi giang
8. Người có phúc báo thì có ngoại hình đẹp đẽ
9. Người có phúc báo thì ít khi ốm đau
10. Người có phúc báo là người tin vào nhân quả (Nguồn: Dấu hiệu tiền kiếp tu tích phúc báo lớn)
+ Giầu nghèo bởi Mạng/ Số mệnh:
Trên hội Linh Sơn, Tôn giả A Nan .... thưa rằng: “Kính bạch Thế Tôn! ....
Phật bảo A Nan cùng bốn chúng: “Lành thay! Lành thay! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ. Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại. Cho nên, tất cả chúng sinh trước tiên hiếu kính cha mẹ, kế đến phải tôn kính, quý trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba không nên sát sinh hại mạng mà hay phóng sinh giúp người cứu vật, thứ tư vì lòng từ bi thương xót chúng sinh mà ăn chay, bố thí, làm lành để gieo trồng phước đức cho hiện tại và mai sau”. Phật nói kệ nhân quả :
Giàu sang đều bởi mạng
Đời trước có tu nhân
Ai một lòng tôn kính
Mà thọ trì kinh này
Đời đời sống hạnh phúc
Hưởng phước báu an vui.
Này thiện nam tín nữ
Kinh Nhân Quả ba đời
Là giáo lý nền tảng
Giúp mọi người giác ngộ.
1. Đời nay làm quan do nhân gì?
Kiếp trước biết bố thí cúng dường,
Trang nghiêm tượng Phật bằng vàng ròng.
2.Đời nay hưởng phước sang giàu
Quan quyền thế lực muôn người kính tin.
3. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì?
Kiếp trước bắc cầu làm đường đi.
4. Mặc đồ tốt đẹp do nhân gì?
Đời trước cúng áo giúp Tăng Ni.
5. Dư ăn, dư mặc do nhân gì?
Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống.
6. Ăn mặc thiếu thốn do nhân gì?
Kiếp trước bỏn xẻn không chia sẻ.
7. Lầu cao nhà lớn do nhân gì?
Xưa kia cúng gạo giúp chùa chiền.
8. Phước lộc đầy đủ do nhân gì?
Xưa công quả xây chùa cúng Phật .
9. Tướng mạo xinh đẹp do nhân gì?
Đời trước hoa tươi cúng dường Phật.
10. Thông minh trí tuệ do nhân gì?
Kiếp trước thường đọc tụng kinh Phật.
11. Người thấy vui mừng do nhân gì?
Xưa kết duyên lành cùng đại chúng.
12. Chồng vợ bền lâu do nhân gì?
Đời trước một lòng sống thủy chung.
13. Cha mẹ song toàn do nhân gì?
Đời trước giúp đỡ người cô độc.
14. Không cha mất mẹ do nhân gì?
Kiếp trước là người săn bắt thú.
15. Con cháu đông nhiều do nhân gì?
Đời trước phóng sinh muôn loài vật.
16. Nuôi con không được do nhân gì?
Xưa phá tổ chim ăn trứng con.
17. Đời nay không con do nhân gì?
Kiếp trước hại người sống cô đơn.
18. Đời nay sống lâu do nhân gì?
Kiếp trước không giết hại người vật.
19. Đời nay mạng yểu do nhân gì?
Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh.
20. Đời nay không vợ do nhân gì?
Kiếp trước chia rẽ vợ chồng người.
21. Đời nay ở góa do nhân gì?
Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng.
22. Làm thân tôi tớ do nhân gì?
Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa.
23. Đời nay mắt sáng do nhân gì?
Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật.
24. Đời nay đui mù do nhân gì?
Kiếp trước chỉ đường người lạc lối.
25. Môi miệng sứt thiếu do nhân gì?
Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật.
26. Đời nay câm điếc do nhân gì?
Xưa từng ác khẩu mắng mẹ cha.
27. Đời nay lưng gù do nhân gì?
Kiếp trước cười chê người lễ Phật.
28. Tay chân tật nguyền do nhân gì?
Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người.
29. Làm thân trâu ngựa do nhân gì?
Xưa thiếu nợ người không chịu trả.
30. Đọa làm heo chó do nhân gì?
Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người.
31. Đời nay nhiều bệnh do nhân gì?
Xưa làm khổ người hại chúng sinh.
32. Đời nay không bệnh do nhân gì?
Xưa giúp thuốc men cứu nhân loại.
33. Hằng bị lao tù do nhân gì?
Kiếp trước làm ác hãm hại người.
34. Đời nay chết đói do nhân gì?
Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột
35. Bị thuốc độc chết do nhân gì?
Kiếp trước giăng lưới giết hại cá.
36. Nổi trôi cơ khổ do nhân gì?
Ác tâm lấn hiếp mưu hại người.
37. Đời nay lùn bé do nhân gì?
Kiếp trước khinh người khi xem kinh.
38. Nay thường thổ huyết do nhân gì?
Xưa rượu thịt uống ăn bê bối.
39. Đời nay ngu điếc do nhân gì?
Kiếp trước khinh thường người tụng kinh.
40. Ghẻ lác phong điên do nhân gì?
Xông hơi thịt cá trước bàn Phật.
41. Thân có mùi hôi do nhân gì?
Xưa bán hương thơm trọn dối gian.
42. Đời nay chết treo do nhân gì?
Kiếp trước đem dây săn bẫy thú.
43. Cô đơn cô độc do nhân gì?
Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người.
44. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì?
Cân non-già-thiếu lòng gian xảo.
45. Rắn cắn cọp ăn do nhân gì?
Kiếp trước giết hại tạo oan gia.
Muôn việc tốt xấu do mình tạo
Thọ khổ địa ngục oán trách ai?
Kiếp trước gây nhân nay hưởng quả
Đời nầy gieo phước hưởng về sau
Nếu ai hủy báng kinh Nhân Quả
Kiếp sau đọa lạc mất thân người
Kẻ nào thọ trì kinh Nhân Quả.
Chư Phật, Bồ tát đều chứng minh
Kẻ nào biên chép kinh Nhân Quả
Giúp người đọc tụng cùng hiểu biết
Nếu người giảng nói kinh Nhân Quả
Đời đời kiếp kiếp được thông minh
Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Quả
Đời sau người thấy sinh cung kính
Người nào ấn tống kinh Nhân Quả
Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương.
Nếu như nhân quả không cảm ứng
Do đâu Mục Liên cứu được mẹ?
Người nào tin sâu kinh Nhân Quả
Không còn bị đọa ba đường dữ.
Muốn biết nhân đời trước
Xem sự hưởng đời nay
Muốn biết quả đời sau
Xem việc làm hiện tại.
+ NHÂN QUẢ LÀ CHÂN LÝ SỐNG (Nguồn: Giảng giải Kinh Nhân Quả)
+ Bồ Tát tu hành thành Phật:
..... Cho nên, một pháp môn thì dễ dàng được định, định có thể khai huệ, huệ có thể trừ phiền não, việc tu học mới có thể thành tựu. Sự thù thắng của pháp môn Tịnh Độ không có bất kỳ pháp môn nào sánh bằng. Thế Tôn dạy trong rất nhiều kinh điển, phàm phu từ lúc mới phát tâm tu hành mãi đến thành Phật, cần bao nhiêu thời gian? Ai cũng biết là ba đại A Tăng kỳ kiếp, nhưng người chân thật nghe hiểu được không nhiều. Ba đại A tăng kỳ kiếp bắt đầu tính từ lúc nào? Tính từ khi mới phát tâm. Ngày nay chúng ta tu hành có tính không? Không tính! Vì chúng ta chưa phát tâm, khởi tâm động niệm vẫn là tự tư tự lợi, chưa phát tâm. Phát tâm là phát tâm Bồ Đề! Khi tâm Bồ Đề vừa phát là đạt quả vị viên giáo sơ trụ Bồ Tát.
A La Hán, Bích Chi Phật còn chưa phát tâm Bồ Đề. Quyền giáo Bồ Tát, bốn giáo của tông Thiên Thai dạy chúng ta, Phật của Tạng giáo, Phật Bồ Tát của thông giáo còn chưa phát tâm Bồ Đề. Vậy tâm Bồ đề đích thực được phát bởi hạng người nào? Đó là viên giáo sơ trụ Bồ Tát. Phát tâm Bồ Đề mới vượt qua mười pháp giới, đến pháp giới nhất chân. Từ đó cho thấy, ba đại A Tăng Kỳ kiếp chỉ viên giáo sơ trụ Bồ Tát là đối tượng chính. Họ sơ phát tâm, cho nên sơ trụ gọi là phát tâm trụ. Đọc kinh Hoa Nghiêm phải nên đọc đến phát tâm trụ. Bồ Tát sơ trụ đến quả vị Phật, tổng cộng bốn mươi hai cấp bậc, qua ba đại A Tăng Kỳ Kiếp mới có thể hoàn thành. Điều này đức Phật nói rất rõ ràng.
- A tăng Kỳ Kiếp thứ nhất là hoàn thành ba mươi cấp bậc: thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, còn gọi là Tam hiền.
- A tăng kỳ kiếp thứ hai là tu bảy cấp bậc: từ sơ địa đến thất địa.
- A tăng kỳ kiếp thứ ba là tu ba cấp bậc: Bát địa, Cửu địa, Thập địa
Tu hành chứng quả không dễ dàng. Những gì chúng ta đã tu ngày nay không tính. Nếu tính từ phàm phu trong lục đạo, mười pháp giới thì thời gian tu hành tổng cộng là vô lượng kiếp như kinh Hoa Nghiêm đã nói, làm sao có thể nói chỉ cần ba A tăng kỳ kiếp? cho dù tu vô lượng vô biên pháp môn cũng không ngoại lệ. Hiểu rõ hết những điều này, chúng ta mới nhận thấy sự thù thắng của Tịnh Độ, mới biết mình trong đời này gặp được pháp môn Tịnh Độ là rất hy hữu, quí báu vô cùng...... (Nguồn: Tứ Hoằng Thệ Nguyện - HT Tịnh Không)
+ Mục tiêu sống ..., mục tiêu phục vụ trong một nghề nghiệp tương lai, năng lực sinh kế .... phát triển tâm linh ...? Tiền tài, tiền bạc, Công ty - Doanh nghiệp (Trang 14 - Đức Đại Lai Lạt Ma Giải đáp)
+ HỎI: Mục tiêu của sự sống của tôi là gì và đặc biệt hơn, mục tiêu sự sống của tôi được phục vụ tốt nhất trong dạng thức của một nghề nghiệp tương lai và năng lực của tôi liên hệ với sinh kế của tôi với sự phát triển tâm linh của tôi như thế nào? Thí dụ, ngay bây giờ, tôi làm trong một công ty Hoa Kỳ, trong thương nghiệp, và tạo nên một cuộc sống tuyệt vời nhưng cảm thấy không đầy đủ và vướng mắc thế nào đấy. Tôi biết đây là sáng tạo của riêng tôi, có phải trở thành nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc y tá cho người sắp chết sẽ phù hợp hơn với tôi trong cuộc sống này hay không? Điều này có nghĩa là trở lại trường học và kiếm được ít tiền hơn. Nói tóm lại, bước tiếp theo của tôi là gì trong việc nhận ra, và tiến tới, kiếp sống tới của tôi?
+ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA ĐÁP: Tôi cảm kích câu hỏi chân thành của bạn. Rất tốt. Tôi nghĩ một cách căn bản như tôi đề cập trước đây, có những giá trị bên ngoài, giá trị vật chất, và những giá trị tinh thần hay giá trị bên trong. Tôi nghĩ chúng tôi nên tiến tới những giá trị nội tại. Cho nên tôi hoàn toàn đồng ý. Việc phụng sự, những giáo viên, y tá, đây là điều gì đó giúp đở, phục vụ một cách trực tiếp. Những thứ này thông thường tôi gọi là những hành động từ bi. Tuyệt vời. Nhưng nếu mọi người liên hệ trong việc điều dưỡng hay giảng dạy, thế thì tiền bạc sẽ đến từ đâu?
Chúng ta nên có những thương gia. Chúng ta nên có những người cộng tác trong các công ty. Và tôi nghĩ những người kinh nghiệm, thông tuệ là rất cần thiết trong lãnh vực này. Bằng khác đi, thế giới công ty sẽ sụp đổ. Cho nên xã hội con người cần những con người đa dạng và chuyên nghiệp. Nhưng ở đây, mọi hành động của con người, cho dù tiêu cực hay tích cực, cuối cùng tùy thuộc vào động cơ.
Làm ra tiền, không phải từ động cơ vị kỷ hay sự không hài lòng về lối sống xa hoa của ta, nhưng mà cũng nghĩ về thế giới và những người nghèo. Có rất nhiều người nghèo đói ở Phi châu. Nhiều người đang đối diện với nạn đói. Cùng là những con người. Cùng là nhân loại. Họ cũng có quyền để tồn tại. Không chỉ tồn tại mà hạnh phúc. Chúng ta cần tiền. Thế thì câu hỏi là chúng ta sử dụng tiền như thế nào.
Chỉ có một lối sống cá nhân xa hoa thì tôi nghĩ là sai đạo đức. Nhưng chúng ta cũng cần tiền. Và để tiêu dùng một cách thông tuệ. Khoảng cách này giữa giàu và nghèo là rất, rất tệ. Ở đây, bây giờ những người tỉ phú đang gia tăng. Người nghèo vẫn nghèo, đôi khi lại nghèo hơn. Điều đó là đáng xấu hổ, là tệ hại. Do thế, chúng ta cần tiền để giảm thiểu khoảng cách này, và cung cấp dụng cụ và chuyên môn qua giáo dục. Rồi thì những vùng nghèo hơn, thay vì chán chường và giận dữ, hoạt động cần mẫn cho giáo dục, cho huấn nghệ, căn cứ trên sự tự tin. Chúng ta là những con người giống nhau, chăm sóc nhau, chúng ta phải làm việc cần mẫn, và chúng ta phải rèn luyện. Cho nên tôi nghĩ chúng ta cần tiền. Tôi nghĩ chúng ta làm việc. Tiến hành với động cơ chân thành và một viễn cảnh toàn cầu. Tôi nghĩ điều đó là có thể. Đó là việc làm từ bi yêu thương. Việc làm tích cực. Rất tốt. Mời xem chi tiết...Tại đây
+ Các pháp hữu vi: Âm dương tương tác - Đồng dị chủng tương tác - Đồng chủng tương tác - Đồng tánh tương tác ... Minh triết - Phật pháp
+ PHÁP HỮU VI - Âm Dương Dị Đồng: Phật dậy A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện thành thế giới hữu vi. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; Những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
- Bản thể của hiện tượng là Như Lai Tạng thì bao trùm khắp 10 phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắp mà biến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong tiến trình bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Nói cách khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến hiện thành ra thế giới hữu vi.
- Phẩm Tính Âm Dương Đối Chọi: Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có 3 trường hợp về tánh đồng và dị:
1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì việc kéo rất dễ dàng.
- Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội - Làm giảm bớt, hao tổn sức mạnh. Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn.
2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống thì khắc nhau (Tương khắc, đẩy nhau) và Dị tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau (Tương hợp, hút nhau). Thí dụ hai người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương thì nó sẽ hút lại.
3) Đồng chủng tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại thì phụ cho nhau nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay.
- Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật cũ mất đi để hình thành sự vật mới nối tiếp.
- Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện chớp, có đó rồi mất đó.
+ Duyên sanh hội hợp thành các pháp hữu vi - Không thật có, mà như huyễn, như sương chớp bào ảnh ..... :
Theo Kinh Lăng Nghiêm, nếu ta bỏ một nắm đất vào chậu nước trong, thì công năng vốn có của đất và nước sẽ bị mất đi.
Vậy công năng vốn có của đất (thổ) là gì? Là "lưu ngại" (lưu giữ, ngăn ngại)! Ðất (thổ) có tánh gây chướng ngại cho nên con người có thể đi lại trên đất. Nếu không có đất, chúng ta sẽ bị rơi vào biển cả, bởi bên dưới đất là nước, nước có thể cuốn trôi đất. Bên dưới nước lại là lửa; cho nên có lúc núi lửa bộc phát là do tác dụng của một sự biến hóa. Nếu nói rằng bên dưới nước là lửa, vậy lửa này không bị nước dập tắt sao? Vì lửa cháy quá dữ dội nên nước không dập tắt nổi! Muốn hiểu thấu đạo lý này thì quý vị phải nghiên cứu Phật Pháp thâm sâu hơn nữa mới được.
Kinh Lăng Nghiêm cũng có chép: "Thổ thất lưu ngại, thủy vong thanh khiết." (Khi nước và đất trộn lẫn, thì đất mất tánh lưu ngại, nước mất tánh thanh khiết.)
Bởi nước bị vẩn đục, mất đi sự thanh khiết, cho nên gọi là "trược." Cõi "Ngũ Trược ác thế" này ví như vũng bùn dơ bẩn - một hỗn hợp của nước và đất. Ðây là một thế giới không thanh tịnh bởi có sự hiện hữu của năm thứ ô trược:
1) Kiếp Trược. "Kiếp" là danh từ chỉ thời gian. Thời gian thì ô trược bởi chúng ta không thể phân định một cách rõ ràng là khi nào, thời điểm nào. Trước kia có người hỏi tôi, thế nào gọi là thời gian? Thật ra, không có cái gọi là "thời gian," không thể nào định rõ được thời gian. Ðó là Kiếp Trược.
2) Kiến Trược. Quý vị nghĩ xem, chúng ta có thể phân biệt cái "thấy" của mình một cách rõ ràng hay không? Tất nhiên là không thể được! Chúng ta có thể phân ranh giới cho cái"thấy" của mỗi người hay không? Cũng không được! Bởi nếu quý vị nói rằng đây là cái "thấy" của quý vị, kia là cái"thấy" của tôi; thế thì quý vị lấy gì làm ranh giới để phân biệt giữa cái "thấy" của quý vị và cái "thấy" của riêng tôi? Chính vì cái "thấy" ấy là một hỗn hợp lộn xộn, không có ranh giới, không thể phân định rõ ràng, nên gọi là Kiến Trược.
3) Phiền Não Trược. Mọi người đều có phiền não - quý vị có phiền não, tôi cũng có phiền não - phiền não của chúng ta trộn lẫn, xen lộn với nhau, không cách nào phân định cho rõ được.
Có người nói: "Tôi thừa biết rằng phiền não của tôi là của tôi, phiền não của Thầy tức là của Thầy - của ai cứ nấy!" Nếu nói như thế thì tại sao quý vị lại có thể gây phiền não cho tôi được? Nếu quả thật phiền não là của tôi thì đáng lẽ không cần quý vị gây ra mới phải; còn nếu đó đích thật là của quý vị, thì tất nhiên cũng không cần tôi gây ra, không cần tôi làm cho quý vị sanh phiền não mới đúng chứ?! Như vậy, xét ra thì phiền não cũng không có ranh giới rõ rệt và cũng là một hỗn hợp ô trược, bất tịnh.
4) Chúng Sanh Trược. Có những chúng sanh đời này mang thân người, song biết đâu chừng đời sau lại phải đầu thai làm chó, làm mèo, làm chuột, hoặc làm côn trùng bò lung tung khắp nơi... - không có gì là nhất định cả. Như thế thì làm sao quý vị có thể phân biệt một cách rõ ràng được? Chúng sanh với chúng sanh cùng nhau hợp tác để mở một "đại công ty," cũng không phân biệt nhau được rõ ràng. Trong "đại công ty" này, nếu không phải mình bị người ta đem bán, thì cũng là người ta bị mình đem bán - tất cả đều có quan hệ qua lại với nhau. Như thế không phải là "trược" sao? Vậy, đó gọi là Chúng Sanh Trược.
5) Mạng Trược. Vận mạng của chúng ta cũng là hỗn trược, bất tịnh.
Mặc dù năm thứ ô trược này rất phức tạp, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn có thể ở trong đời ác Ngũ Trược - một thế giới xấu xa nhất - mà hiện sức Ðại Trí Huệ và Thần Thông không thể nghĩ bàn. "Không thể nghĩ bàn" tức là vô cùng vi diệu, chúng ta không tài nào nghĩ ra hoặc mường tượng ra được. Thứ gì mà vi diệu, không thể nghĩ bàn như thế? Ðó chính là năng lực từ Ðại Trí Huệ và Ðại Thần Thông của Ðức Phật. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P1- HT Tuyên Hóa giảng)
Xem nguồn: PHẬT DẠY VỀ TƯỚNG TƯƠNG TỤC
+ Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương I - HT Tuyên Hóa giảng giải
+ Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II - HT Tuyên Hóa giảng giải
+ Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III - HT Tuyên Hóa giảng giải
+ PHẬT DẬY VỀ VIÊN THÔNG CỦA BẢY ĐẠI: Kinh Thủ LN - Q.5 - HT Tuyên Hóa giảng giải
+ PHẬT GIẢNG VỀ TỨ ĐẠI HÒA HỢP - TÁNH CÁC ĐẠI: Kinh Thủ LN - Q.3 - HT Tuyên Hóa giảng
+ Chữ thuần thục đồng nghĩa chín muồi:
Ví dụ đã thuần thục: Cơ duyên đến lúc thuần thục - Nhân duyên đã chín muồi - Thời cơ đã chín muồi - Cơ duyên thuần thục - Nhân duyên thuần thục
Ví dụ chưa thuần thục: Ví như trẻ mới sinh chưa thể biết lẫy - Biết bò - Biết đi - Biết tự ăn - Tự mặc áo ..... mà phải chời Thân Tâm phát triển chín muồi; Trẻ mới lớn chưa thể phát dục vì cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh; Như hoa mới chớp nở; Sự việc mới manh nha; Như mây đen ùn ùn kéo tới chưa phải là mưa, cũng chưa chắc đã mưa; Nhân lành tu hành chưa tới/ Họ không tin nghe giáo pháp chánh .......
Giả như bác sỹ chỉ khi người đã phát bệnh bác sỹ mới có thể chữa - Bệnh chưa phát sao bảo họ chữa bệnh, thường chẳng mấy ai nghe ...
+ Thổ Tinh: Trái đất và Thổ tinh truyền dẫn Cung 3(GQ1- CT con người)
+ Cấu trúc, kỷ luật, tập trung, nghiêm trọng, tách rời, phân cách. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Giống như Sao Mộc, có nhiều liên kết với Sao Thổ, một số đó là: tách rời, cứng nhắc, trưởng thành, trí tuệ, trách nhiệm, thất vọng, ức chế, cô lập, tách rời, thất bại, chết chóc, khô khan, và nặng nề. - Tôi xem sao Thổ như là một động lực để loại bỏ sự thừa thải, và bất cứ điều gì phù phiếm, trong khi bảo vệ những gì là cần thiết. Sao Thổ có xu hướng loại bỏ sự lãng phí và đôi khi ngay cả những niềm vui đơn giản và tập trung sự chú ý của chúng ta về trách nhiệm của chúng ta. Hầu như tất cả các liên kết truyền thống của sao Thổ đều có thể được xem như những biểu hiện hay hậu quả của sự tập trung của Thổ tinh vào những gì là cần thiết. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Kiểu mẫu tương tác năng lượng cần nghiên cứu kỹ: Một hiểu biết về các ảnh hưởng gây cản trở hoặc kích thích này có thể dễ dàng hiểu được bởi người nào có thể hiểu được bản chất của các hoạt động của hành tinh Saturn (Thổ Tinh).
Đây là hành tinh hiện chi phối trước tiên mức tiến hóa nơi mà sự chọn lựa chắc chắn xảy ra, nơi mà sự bác bỏ cơ hội hoặc chấp nhận cơ hội đó có thể được đảm đương một cách sáng suốt, và việc gánh vác trách nhiệm cá nhân trở nên một sự kiện được nhận biết trong một kiếp sống có hoạch định và có nền nếp. Điểm này trong diễn trình tiến hóa nhân loại được nói đến trong Cổ Luận bằng các câu tượng trưng sau đây: ..... (CTHNM, 28)
+ Sao Thổ (♄): Giống như Sao Mộc, có nhiều liên kết với Sao Thổ, một số đó là: tách rời, cứng nhắc, trưởng thành, trí tuệ, trách nhiệm, thất vọng, ức chế, cô lập, tách rời, thất bại, chết chóc, khô khan, và nặng nề.
Tôi xem sao Thổ như là một động lực để loại bỏ sự thừa thải, và bất cứ điều gì phù phiếm, trong khi bảo vệ những gì là cần thiết. Sao Thổ có xu hướng loại bỏ sự lãng phí và đôi khi ngay cả những niềm vui đơn giản và tập trung sự chú ý của chúng ta về trách nhiệm của chúng ta. Hầu như tất cả các liên kết truyền thống của sao Thổ đều có thể được xem như những biểu hiện hay hậu quả của sự tập trung của Thổ tinh vào những gì là cần thiết.
Dưới đây là một số ví dụ khác nhau về cách Thổ tinh có thể được diễn giải như sau:
1. Thuỷ tinh tạo góc hợp cứng với Sao Thổ: người tìm cách khám phá các nguyên tắc cơ bản. Người đó cảm thấy bối rối bởi rất nhiều dữ kiện và số liệu không trực tiếp giải quyết các vấn đề cơ bản. Khoa học thu hút con người bởi vì họ thích tìm ra nguyên lý cơ bản đằng sau sự vật.
2. Sao Kim trong trong lá số của một người lục hợp, tam hợp, hoặc trong hài âm bậc 9 của Thổ tinh trong lá số người khác là một khía cạnh tuyệt vời trong các mối quan hệ lâu dài bởi vì nó làm cho người ta phải chịu trách nhiệm với nhau và thực hiện nghĩa vụ của mình với nhau. Nếu là góc hợp cứng, họ cũng có trách nhiệm với nhau, nhưng mối quan hệ có thể trở nên “nặng nề”, tập trung quá nhiều vào trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau.
3. Sao Hỏa tạo góc hợp với Sao Thổ làm cho người đó trở thành một nhân viên xuất sắc bởi vì người đó làm việc chăm chỉ để hoàn thành trách nhiệm của mình và sẵn sàng làm “công việc bẩn thỉu” nếu cần thiết. Nói cách khác, anh ta sẽ làm bất cứ điều gì được yêu cầu. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Hành Tinh Saturn - Thổ tinh (Trích dẫn trong Giáo Lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Saturn, cha của Các Thần (Gods), đã được thay đổi từ Kỳ Gian Vĩnh Cửu (Eternal Duration) thành giai đoạn có giới hạn”. (GLBN I, 451)
2. “Jehovah được đồng nhất hoá với Saturn và Vulcan”. (GLBN I, 632).
3. “Theo thời gian hành tinh Saturn trở nên bị phê phán bởi những người tôn thờ các Thần khác.” (GLBN I, 631)
4. “Saturn được liên kết với Lemuria”. (GLBN II, 812)
5. “ Venus, Jupiter và Saturn có thể được xem xét theo quan điểm của thời hiện tại như các hiện thể của ba nguyên khí chính hay siêu nguyên khí. Mercury, Địa Cầu và Mars được liên kết chặt chẽ đối với ba hành tinh này trừ một bí mật ẩn giấu nằm ở đây”. (LVLCK, 299)
6. “Venus, Địa Cầu và Saturn hợp thành một tam giác rất đáng chú ý vào lúc này.
a/ Đó là sự sinh động ẩn bên dưới.
b/ Đó là làm tăng năng lực rung động của các trung tâm hành tinh và cá nhân.” (LVLCK 181 – 182)
7. “Trong một lúc nào đó, Thái Dương Thượng Đế chuyển sự chú tâm của Ngài sang Địa Cầu và sang Saturn, trong khi Uranus đang được kích thích.” (LVLCK, 357)
8. “Huyền linh học phải thắng trước khi kỷ nguyên hiện tại đạt đến… Thất bộ có ba phần của Saturn của chu kỳ Tây phương của Âu Châu – trước khi kết thúc của thế kỷ 21. A.D” (GLBN III, 23)
9. “Một trong các Thiên Thần có ảnh hưởng nhất trong số bảy Thiên Thần sáng tạo của huyền giai thứ ba là Saturn, vị thần chủ trí của hành tinh và Thượng Đế của người Hebrews… tên là Jehovah… ngày thứ bảy hay Sabbath, Saturday tức là ngày của Saturn được dành cho Ngài.” (GLBN III, 115)
10. “Dấu hiệu của việc tái lâm của Messiah (Đấng Cứu Thế) là sự kết hợp của Jupiter và Saturn trong Cung Pisces (Song Ngư).” (GLBN III, 152)
11. “Saturn được gọi là Rồng Sự Sống (Dragon of Life).” (GLBN III, 195)
12. “Saturn, Shivah và Jehovah là một.” (GLBN III, 195)
13. “Saturn là hành tinh hệ tổng hợp cho bốn hành tinh vốn biểu hiện cho trí tuệ thuần khiết và đơn giản, và là cách giải quyết chính cho bốn hành tinh nhỏ và sau rốt cho tất cả Bảy.” (LVLCK, 370)
14. “Sirius có ảnh hưởng đến toàn bộ thái dương hệ chúng ta, xuyên qua ba hành tinh hệ tổng hợp là Uranus, Neptune và Saturn”. (LVLCK 378)
15. “Saturn là trọng tâm cho sự truyền đạt của trí tuệ vũ trụ cho toàn bộ bảy hành tinh hệ của chúng ta.” (LVLCK, 378)
16. “Về mặt nội môn, hành tinh hệ Saturn được xem như hấp thu “các lửa do ma sát” của không gian thái dương hệ.” (LVLCK, 1154)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem thêm: Tổng hợp về Thổ tinh/ Sao thổ
+ Đạo hiếu thân tôn sư:
- Hiếu thân: Hiếu dưỡng ca mẹ: Xem Hiếu dưỡng cha mẹ
- Kính trọng thày tổ: Thày là người dạy mình dù chỉ một chữ. Tổ là bậc hiền thánh như chư Phật, Bồ tát, Thánh hiền, Thiện tri thức đã giải thoaát luân hồi sinh tử. Tăng đoàn Phật giáo là đại diện cho chư Phật, Bồ tát nên phàm phu thấy thì cung kính đảnh lễ. Thấy tượng Phật, Bồ tát cũng vậy, hàng ngày nên cung kính đảnh lễ và phát nguyện học theo đức hạnh của các Ngài để có 32 tướng tốt và 60 vẻ đẹp hoàn mỹ. (Xem thêm: Hành báo ân)
+ Tâm tưởng - Đức Phật dạy: .... Vậy nên chúng sinh, tâm nhớ thức ăn ngon thì trong miệng nước chảy ra; tâm nhớ người trước đó, hoặc thương, hoặc giận thì trong mắt lệ tràn; tham cầu của báu thì trong tâm phát ra ái tiên, cả mình đều trơn sáng; tâm dính vào việc dâm dục thì hai căn nam nữ, tự nhiên dịch khí rỉ ra.
+ Suy tưởng thế nào, trở thành thế ấy (As a man thinketh, so is he): Như chúng ta biết, năng lượng theo sau tư tưởng và bị nhuốm sắc thái của tính chất tư tưởng đó. Con người chuyển con mắt chỉ trích và kinh tởm lên phàm ngã mình và khi làm thế, lại nuôi dưỡng chính các điều mà y lên án (deplore), và như thế, hoàn lại cho chính mình những cái càng không thích hợp hơn nữa cho công việc mà y muốn thay đổi. Đó là một vòng nỗ lực lẩn quẩn và cần phải bị xóa đi bằng một nhận thức đầy đủ về cái chân lý chứa trong các lời: “Con người nghĩ tưởng như thế nào thì y trở thành thế ấy”. Khi con người nghiền ngẫm mãi (dwell) về bản chất của linh hồn toàn tri của mình thì y trở nên giống với linh hồn đó. Tư tưởng của y được tập trung trong linh hồn thức và y trở thành linh hồn đó đang biểu lộ qua trung gian của phàm ngã. (LVHLT, 306)
+ Các Hạng chúng sanh: ... đức Phật nói: Này các Tỷ-kheo, sau khi biết được lời Phạm thiên yêu cầu (Phật hãy Thuyết pháp), vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước.
Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:... (Nguồn: 26.Kinh Thánh cầu)
+ Chúng sanh - Chúng sinh
... Hạt giống chủng tử được phân ra làm hai loại là: Chủng tử hữu tình và chủng tử vô tình.
Chủng tử hữu tình có thể sanh ra bốn loại động vật như: thai, noãn, thấp, hóa.
Chủng tử vô tình sẽ sanh ra thảo mộc thực vật và các loại khoáng chất như sắt, đá.
Chúng sanh hữu tình là loài có tình có tánh.
Chúng sanh vô tình là loài không có tình nhưng có tánh, gọi là: “Hữu tình vô tình, đồng viên chủng trí.”
Tánh của hữu tình và vô tình thì tương thông với nhau, vì chúng vốn là một. Vô tình là tạm thời vô tình, nếu chúng có thể phản bổn hoàn nguyên trở lại bản thể, chúng cũng sẽ biến thành hữu tình. Nhưng việc nầy không phải dễ dàng vậy đâu, vì chúng phải trải qua một thời gian rất lâu mới có cơ hội phản bổn hoàn nguyên được. Cơ hội đó giống như một hạt bụi rất nhỏ trong ba ngàn đại thiên thế giới đấy. Vả lại cho dù chúng nó có chuyển thành chúng sanh hữu tình đi nữa, chúng cũng đều là loài động vật hạ cấp như con lăng quăng, con trùng, con kiến mà thôi.
Chúng ta tuy là loài hữu tình, nhưng chỉ là tạm thời chứ không phải vĩnh viễn. Nếu như chúng ta không làm người tốt thì linh tánh sẽ biến hóa suy tàn, rồi hóa thành loài thực vật vô tình. Do đó, các cây cổ thụ đều có quỷ thần trú ngụ ở bên trong. Tại sao? Bởi vì cổ thụ và quỷ thần có sự gắn bó tương thông với nhau. Người và quỷ thần cũng gắn bó tương thông với nhau, không có gì ngăn cách. Người tu hành phải hiểu rõ đạo lý nầy, đừng nên đọa lạc làm loài thực vật. Thực vật tuy có tánh, nhưng chúng không dễ gì biến thành loài hữu tình.
Hỡi các em học sinh! Mọi người đều có thể phản bổn hoàn nguyên, đều có thể thành Phật, chỉ cần các em sớm phát Bồ Đề tâm và cố gắng dụng công tu hành; nếu không, đến khi các em bị đọa lạc vào loại vô tình, biến thành loài thực vật rồi mà muốn tu hành thì khó lắm đấy. Lúc đó các em có hối hận cũng đã quá muộn màng!
Giảng ngày 6 tháng 3 năm 1984 (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị- Mục 26)
+ Lục đạo luân hồi: Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép: "Dương tử vi nhân, nhân tử vi dương." (Dê chết trở làm người, người chết trở làm dê.) (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng - Vô Lượng Thọ Phật)
+ Chúng Sinh Hữu Tình: Nếu chỉ nói hết thảy chúng sanh, Tứ Thánh pháp giới ngoài sáu nẻo cũng là chúng sanh, cũng thuộc về chúng sanh hữu tình; nhưng khi thêm chữ "chưa giải thoát‟ bèn chuyên chỉ chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi
* Trí huệ là quán sát minh liễu, định lực là chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc, phải đến cảnh giới này thì con người mới không tạo nghiệp => Mới mong Tu hành giải thoát (Trích: KINH ĐỊA TẠNG Tập 10- PS TỊNH KHÔNG.)
+ Chúng sanh: Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sánh: "Chúng" có nghĩa là nhiều; "sanh" tức là sinh ra. Bởi do năm nhân tố—Sắc (hình sắc), Thọ (cảm thọ), Tưởng (suy nghĩ), Hành (hành vi), Thức (ý thức)—buộc ràng mà tạo thành thân thể, và do tác động của nhân duyên cảnh giới mà sinh ra, nên gọi là "chúng sanh." (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tình cảm với chúng sinh: .... Đức Phật dạy chúng ta, không những hữu tình chúng sanh, chúng ta có thể giao lưu với chúng, tất cả động vật ta đều có thể giao lưu với chúng. Loài thực vật vô tình nó cũng hiểu! Cây cỏ hoa lá hiểu, chúng ta yêu nó, nó yêu chúng ta, nên cây cối xanh tươi. Hoa nở rất đẹp, đặc biệt thơm, trái cây cũng ăn rất ngon. Quý vị phải yêu thương chúng mới được, tâm yêu thương. Thật sự yêu chúng, chăm sóc chúng, quan hoài chúng. Dùng tâm hoan hỷ đối với chúng, ta sẽ nhận được sự hồi báo tốt đẹp. Đức Phật không dạy, chúng ta làm sao biết được, thấu rõ được?...... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng Tịnh Độ ... T.14)
+ Số mệnh và Phong thủy: Số mệnh là có - Vận mạng là có:
.... Một vấn đề rất nhiều vị đồng tu quan tâm, đó là vấn đề xã hội. Nhiều người thường đi xem tướng, đoán mạng. Việc này có nên không? Đáp án của chúng tôi là không nên.
Chúng ta cần hiểu rõ chân tướng sự lý này để biết được nó là thật hay giả. Mạng có hay không? Có! Mạng từ đâu ra? Là trong đời quá khứ chúng ta đã tạo tác nghiệp thiện ác mà hình thành. .... Kinh Phật cũng nói rất rõ ràng “tự làm tự chịu”. Người chân thật thông hiểu sự lý này dù gặp tai nạn to lớn đến đâu, họ cũng sẽ không oán trời trách người. Dù hành thiện cả đời, tận trung báo quốc, nhưng cuối cùng lại gặp nhiều bất hạnh, họ cũng hiểu rằng “sự thọ nhận đời này là do đời trước tạo” nên hoan hỉ vui mừng mà tiếp nhận. Nhân quả thông qua nhiều đời, không chỉ một đời. Đời này làm, đời này nhận gọi là “hiện báo”; đời này làm đời sau nhận Phật pháp gọi là “sinh báo”; đời này làm, nhiều đời sau nhận gọi là “hậu báo”. Thời gian của hậu báo có lúc rất lâu dài. Cho nên Phật pháp thừa nhận, mỗi chúng sinh đều có vận mạng, nhưng không gọi là “túc mạng”
Cũng chính vì vận mạng có thể tùy thời thay đổi, vậy làm sao để thay đổi. Nếu đã giác ngộ, chúng ta nhất định phải đoạn ác tu thiện để làm cho vận mạng được tốt hơn. Bằng không, mỗi ngày vẫn giữ tâm hại người lợi mình, tạo tác tội nghiệp, quả báo sẽ ngày càng xấu đi, vận mạng cũng xấu theo. Cho nên vận mạng có một biến số. Người ta đi đoán mạng, xem tướng đều có thể xem được rất chuẩn là vì, vận mạng tuy là biến số nhưng mức độ thay đổi không lớn, cự ly tiêu chuẩn lên xuống không đáng kể, do đó chúng ta xem được tương đối chuẩn. Nếu người đó hành đại thiện hay đại ác, biến số dao động quá lớn, sẽ không đoán được. Vậy phải làm thế nào để thay đổi vận mạng? Hành thiện lánh dữ.
- Phong thủy có thật không?
Có. Người hiện đại nêu ra hai chữ “phong thủy”,... chính là “hoàn cảnh cư trú cùng với sự tu dưỡng của chính mình”, tâm tình đều có quan hệ. Mỗi người một ý thích, không tương đồng, người thích nước mà buộc lên núi ở, thì phong thủy của người đó không tốt, hoặc ngược lại, người thích núi bị buộc sống cạnh nước, phong thủy cũng không tốt. Vậy phong thủy tốt là hoàn cảnh mà chúng ta ở đó, cảm thấy vừa lòng, thoải mái.
Không nên bị mắc lừa mà cho rằng tôi sống nơi này không vừa ý, có rất nhiều bất trắc xảy đến. Bất trắc đó chính là nghiệp báo liên hệ rất ít với hoàn cảnh cư trú. Dù ít nhưng hoàn cảnh cư trú cũng thường dẫn đến phiền não. Một gian phòng bài trí tao nhã tạo cảm giác thoải mái cho người vừa bước vào. Gian phòng bừa bộn, dơ bẩn làm cho người bước vào cảm thấy không vui. Vậy thảy có được gọi là phong thủy? Những việc này có thể thay đổi, không cần người khác, lại càng không cần mời thầy địa lý đến để bố trí lại.
Thân mạng chúng ta bị người khác xếp đặt, chính mình không thể làm chủ, thử nghĩ xem đáng thương đến chừng nào. Người trí biết làm chủ chính mình. Trong bữa ăn, chúng tôi trân trọng nhưng sẽ cảm thấy không thoải mái khi được ai đó gắp thức ăn cho mình. Được gắp thức ăn, chúng tôi đã bị trói trong sự xếp đặt, bảo gì ăn nấy, không thể tùy theo sở thích của mình. Tâm lý này khá phổ biến. Chúng tôi thường khuyên người đừng gắp thức ăn, chúng tôi không chịu sự xếp đặt của người khác, có vẻ rất khó nghe. Nhưng nghe rồi liền giác ngộ, liền thông suốt. Chúng ta thích món gì thì khi ăn mới đạt tự tại. Tương tự hoàn cảnh sinh hoạt của mình cũng không nên nghe người khác xếp đặt. Chúng ta tự chọn lựa, cân nhắc, đắn đo, như thế mới được gọi là hiểu phong thủy.
Phong thủy tùy người mà thay đổi, sự thật này ít người thông hiểu. Anh A ở đây thì phong thủy rất tốt, gặp nhiều thuận lợi, gia đình mỹ mãn, sự nghiệp thăng hoa, nhưng anh B đến ở thì chưa chắc, thậm chí có thể gặp nhiều tai nạn. Trung Quốc có câu “bát tự bất nhất dạng”. Vì vậy, điều tiên quyết là sự phối hợp với tu dưỡng của cá nhân. Thói quen sinh hoạt, tâm lý cá nhân, hoàn cảnh vật chất cùng đời sống tinh thần được phối hợp tốt đẹp, đó chính là phong thủy tốt. Đạo lý vốn như vậy, người hiểu rõ đạo lý sẽ không chịu sự xếp đặt của người khác, chính mình hoàn toàn tự chủ bản thân.
Đôi khi thầy xem phong thủy cũng có câu nói qua loa thất trách: “đất phước người phước ở”. Họ xem phong thủy tốt, nhưng sau đó, chúng ta lại gặp điều không may, khi ấy họ dẫn câu trên để phủi trách nhiệm, cho rằng đất phước mà chúng ta không có phước. Vì vậy phải thật thấu hiểu, hà tất phải đi xem phong thủy. Chúng ta chỉ cần chuyên tu phước huệ. Có phước, không luận đến nơi nào, phong thủy sẽ tùy theo ta mà chuyển. Nhà Phật nói “cảnh tùy tâm chuyển” cũng vì đạo lý này. Tâm thiện, hoàn cảnh cư trú không tốt cũng sẽ dần dần biến tốt. Ngược lại, tâm bất thiện, hành vi bất thiện thì dù cư trú nơi phong thủy thật tốt, chúng ta vẫn gặp điều xấu. Vì vậy hãy giữ tâm tốt, hành việc tốt, làm người tốt để được hanh thông trong cuộc đời. (Nguồn: HT Tịnh Không giảng về giáo dục)
+ Tại sao không nên xem phong thủy - Bói toán:
Bịnh do miệng mà vào, họa cũng do miệng mà ra.
Ðây là câu danh ngôn rất chí lý; quý-vị nói gì cũng phải suy nghĩ ba lần rồi mới nói, để tránh nói những điều sai với nhân quả. Lời nói ra rồi thì không những mình phải chịu trách nhiệm đối với pháp luật, mà còn chịu báo ứng đối với luật nhân quả nữa.
Phật-giáo là tôn giáo đề xướng tinh thần "VÔ NGÃ" cho nên KHÔNG chấp nhận chuyện bói toán, coi tử vi, phong thủy, hay coi tướng số. Những chuyện đó đều đi ngược lại với Phật-pháp, cho nên mình phải cấm chỉ chuyện phổ biến nó. Nếu như quý-vị tin vào những thứ tà pháp đó thì tự nhiên chấp nhận cái "NGÃ" của mình tồn tại, tất cả là vì mình. Hễ có cái của mình, thì mình luôn luôn tìm cách vì mình mà tính toán, vì mình mà chẳng vì người khác; như vậy thì không còn gì là Phật-pháp nữa.
Phật-pháp thì dạy con người không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Còn phong thủy thì dạy người ta tranh, dạy người ta cầu, ích kỷ, dạy họ tự lợi, dạy họ nói láo. Thậm chí còn nói láo rằng trong một trăm ngày thì có thể đại phát tài, có thể làm quan. Người có lòng tham thì liền tin lời của y. Thật ra đại tài chưa phát mà tiểu tài đã hao đi, vì phải đem tiền đi trả lễ cho ông thầy bói rồi. Bói như vậy chẳng khác nào bảo người đó đi cướp tiền ngân hàng để lập tức được phát tài, không cần một trăm ngày cũng đã phát rồi.
Lại nữa, nếu ông thầy bói biết chỗ nào có phong thủy tốt có thể phát tài, có thể thăng quan tiến chức thì tại sao bản thân y không dùng mà nói cho người khác biết? Thật là vô lý! Hy vọng những người thông minh như quý-vị đừng nên mê tín bị những kẻ đó lừa bịp.
Y học, bói toán, tinh văn, tướng số, y bốc tinh tướng ở trong Phật-giáo là một trong năm nghề người tu đạo không nên làm. Y tức là bác sĩ trị bệnh cho người khác (người tại gia làm bác sĩ được, song kẻ xuất gia không làm). Bói toán biết chuyện tốt xấu kiết hung. Tinh tức là tinh văn coi tinh tú biết được chuyện tốt xấu kiết hung. Tướng tức là tướng mạo, coi biết được mệnh vận thuận hay nghịch. Ðó là những điều mê tín. Mình phải biết rằng đạo lý "Nhân định thắng thiên" con người có thể thắng được trời.
Người xuất gia tu đạo, sinh tử là chuyện không sợ, hà huống là những chuyện nhỏ nhặt này? Những thứ đó có gì mà phải lấy làm lạ. Người xuất gia là người siêu xuất ra số mạng.
Vượt ra khỏi tam giới,
Không ở trong ngũ hành.
Nếu tính tướng mạng, phong thủy, đó là những thứ mà những kẻ thế tục mới tin. Mình phải hiểu rằng vận mệnh con người đều do nghiệp lực chiêu cảm mà sinh ra. Mình đừng để tập khí dắt dẫn, đừng để vật dục làm mê mờ; cần phải tự sáng tạo vận mạng cho chính mình, phải làm chủ tể vận mạng. Cứ làm nhiều công đức thì sẽ cải tạo vận mạng của mình. Khi gặp nạn tự nhiên sẽ hóa thành kiết tường. Rằng:
Cứ làm việc tốt,
Ðừng hỏi chuyện tương lai.
Tánh mệnh của mình là do mình tạo, không phải do trời.
Chính ông Diêm-la-vương cũng không thể nào khống chế, không làm gì mình được. Tại sao vậy? Bởi vì mình đã ra ngoài cõi Tam-giới rồi..........
Lão Tử từng nói hai câu như sau:
Thiên hạ biết đẹp là đẹp, ắt đã có cái xấu rồi.
Biết việc lành là lành, hẳn đã có cái không lành rồi .........(Nguồn: Ðả Thiền Thất Phải Khắc Kỳ Thủ Chứng - HT Tuyên Hóa)
+ Quy tắc căn bản của âm dương: Dương là động - Chủ động. Âm chủ về tịnh - Bị động. Nguyên lý chung là tất cả đều Động
I- Năng lượng âm dương phát tác: Tất cả các loại khí chất dù là loài vô tình hay loài hữu tình đều luông trong trạng thái Động và biến đổi không ngừng nghỉ. Sự hoạt động đều tuân theo quy luật năng lượng âm dương vận hành, thường không thể trái nghịch. Thuận là bền vừng, cát tường, biến hóa hài hòa bình thường. Trái nghịch là không bền vững, ẩn hung họa biến hóa bất thường, cụ thể:
1. Năng lượng - Vô sắc tướng - Loài vô tình: Ở Thiên là Khí thế gian; ở Đất thành Hình, vật chất đậm đặc có thể cầm nắm.
+ Năng lượng âm: Bị động - Kết tập - Hướng xuống dưới - Hướng nội - Thu hút năng lượng vào mình - Hoạt động trong nội tâm
+ Năng lượng dương: Chủ Động - Khởi sinh - Hướng nên trên - Hướng ngoại - Phóng phát năng lượng ra ngoài - Hoạt động ngoài xã hội
2- Về khí ngũ hành: Nơi Hư không thù có Tứ đại. Ở Không gian nơi Địa cầu có Khí Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, đều phân âm dương chia ra Khí và Hình (Mầu đỏ là dương).
+ Hành Khí Âm Dương - Khí Thế gian: Có 10 Thiên can Giáp - Ất - Bính - Đinh - Mậu - Kỷ - Canh - Tân - Nhâm - Quý
+ Thành Hình Âm Dương - Khí Thế gian: Có 12 Địa chi Tý - Sửa - Dần - Mão - Thìn - Tị - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi
2. Năng lượng - Có sắc tướng - Loài vô tình
+ Năng lượng vật chất âm: Hành Thổ - Kim và hành Thủy
+ Năng lượng vật chất dương: Hành Hỏa và hành Mộc
II- Dụng của năng lượng âm dương:
1. Huyền học: Hoạt động theo Âm Dương
+ Thần bí gia hoạt động qua các Cung Bác ái, Điều hòa và Sùng tín, hay là con đường của Cung 2, Cung 4 và Cung 6.
+ Huyền bí gia hoạt động qua Cung Quyền lực, Cung Hoạt động và Cung Định luật Nghi thức, hay là Cung 1, Cung 3 và Cung 7.
* Cả hai đều gặp gỡ và hòa hợp nhau bằng sự phát triển trí tuệ, hay là qua Cung 5, Cung Kiến thức Cụ thể (là một phần nhỏ của nguồn thông tuệ vũ trụ). Trên cung thứ 5 này nhà thần bí trở thành huyền bí gia và sau đó hoạt động với tất cả các cung. (TVTTHM, 148)
+ Chùa thuê người làm: Có đệ tử hỏi HT Tuyên Hóa, trong Vạn Phật Thánh Thành có trường Tiểu học, Trung học, không đủ Giảng viên phụng sự cúng dường sức lao động giảng dạy, thiếu giảng viên có được thuê Giáo viên về giảng có trả lương không? Ngày dạy, được chứ, nhưng những người Phụng sự vô kỷ không nhân lương phải là Sếp, những người hưởng lương là nhân viên phải tuân lệnh Sếp.
+ Tu cần có trí tuệ: Kẻ tu hành phải có con mắt trạch pháp ("Trạch Pháp nhãn" hay "Dharma-selecting vision"), mới có thể chọn lựa thứ gì là chánh pháp, thứ gì là tà pháp. Chánh pháp là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Ðây là sáu đại tông chỉ, người tu Ðạo noi theo sẽ có được chánh tri và chánh kiến. Ngược lại, tà pháp chính là tranh, tham, cầu, ích kỷ, tự lợi, nói dối. Nếu có sáu thứ đó thì sẽ có tà tri tà kiến.
Ðây là điểm then chốt, là đường phân ranh giữa hai phía, hướng tới phía trước là Chánh pháp, về phía sau là tà pháp. Chúng ta phải nhận cho rõ điểm này. Giả như không có tà tri tà kiến thì chỉ cần giữ định lực kiên cố, ma vương sẽ không có cách gì quấy phá ta, không thể làm cho tâm ta lay động. Có câu rằng:
"Phật đến giết Phật, ma đến giết ma".
Câu này là nghĩa thế nào?
Ðây chỉ là lời khuyên ta không nên quá chấp vào cảnh giới.
Thấy Phật đến mà cũng không tiếp nhận hình ảnh này, huống chi là thấy ma! Tuy rằng trong nhiều trường hợp các cảnh giới đó là những tin báo trước, rất linh ứng, nhưng chúng ta cũng không nên tin vào.
Ðiều mà chúng ta cần tin tưởng chính là sáu đại tông chỉ, chẳng tranh, chẳng tham, chẳng cầu, chẳng ích kỷ, chẳng tự lợi, chẳng nói dối.
Ðó chính là lưỡi gươm chém ma, cái chầy hàng phục ma vậy. ..... Ðây mới chính là mục tiêu của hành giả trên con đường tu Ðạo. (Nguồn: Khai thị - HT Tuyên Hoá Q.5)
+ CHỌN PHÁP TU VỚI CÔNG ĐỨC TU CÁC CĂN: Mỗi người mỗi khí chất, theo đó mỗi người có điểm mạnh yếu khác nhau, cần chọn điểm mạnh, ít trở ngại nhất để tu
Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10= 1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới.
Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng:
1. Xét về nhãn căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về mắt chỉ được 800 công đức.
2. Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có 1200 công đức.
3. Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có thở ra và hít vào. Điểm giao tiếp giữa hít và thở gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.
4. Xét về thiệt căn thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gian và xuất thế gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.
5. Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.
6. Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian mười phương ba đời, thánh phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức.
=> A Nan! Ông muốn ngược dòng sinh tử hãy xét 6 căn ông hiện thọ dụng. Cái nào hợp, cái nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên thông, căn nào không viên thông. Nếu khai ngộ được một căn viên thông thì đảo ngược tất cả dòng nghiệp vô thỉ. Đối với hiệu quả tu hành, bấy giờ một ngày bằng một kiếp.
Tôi nay đã chỉ rõ cho ông: Sáu căn, căn nào cũng trong sáng và đều có số lượng công năng. Tùy ông chọn lựa. Thích hợp căn nào tôi sẽ hướng dẫn cho ông để ngày thêm tăng tiến.
Mười phương Như Lai, căn, trần, thức, 18 giới đều là công cụ để viên mãn Vô thượng Bồ-Đề. Căn cơ trí tuệ còn non nớt, ông cần đi sâu tu tập một căn. Một căn thanh tịnh thì sáu căn đồng thời được tháo mở hoàn toàn thanh thoát.
Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)
+ Kiểm tra nghiệp chướng - Chọn pháp tu: ... Trong Kinh Chiêm Sát, Bồ Tát Địa Tạng đặc biệt nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là người nghiệp nặng, như tôi (PS Định Hoằng) thuộc người nghiệp nặng, không biết ở dưới tòa có ai hơn tôi chút nào chăng? Người nghiệp nặng thì như thế nào? Bồ Tát Địa Tạng khuyên chúng ta, không thể lập tức tu định tuệ, nên y theo Sám Pháp để được thanh tịnh trước; Trong Kinh văn nói: mới bắt đầu học, nên phát tâm tu học kiên định Vô tướng trí tuệ; Như chúng ta hiện nay, muốn thâm nhập một môn Kinh Vô Lượng Thọ, cầu niệm Phật tam muội, thậm chí cầu Lý nhất tâm bất loạn, đây chính là cầu tu tập thiền định!
... Ý này chính là nói, lúc nãy quý vị dùng bánh xe thứ nhất, nếu bói đến chính mình trong mười nghiệp có trọng nghiệp, dùng bánh xe thứ hai để kiểm nghiệm bánh xe thứ nhất, nếu là mầu đen lớn lại tương ưng, đó chính là ác nghiệp rất nặng, vậy quý vị tốt nhất không nên lập tức gấp gáp thâm nhập một môn, có thể có chướng ngại, quý vị phải tiêu nghiệp trước.
Đây là Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở chúng ta, Ngài nói: “sở dĩ giả hà” tại sao như vậy? Người này tập khí, ác tâm đời trước rất mãnh liệt sắc bén, nên đời này phải tạo nhiều ác nghiệp, hủy phạm cấm giới, nên phạm tội rất nặng, nếu không sám hối khiến cho thanh tịnh mà tu thiền định trí tuệ, nên có nhiều chướng ngại, không có lợi ích; Hoặc thất tâm toán loạn, hoặc ngoại tà não loạn, hoặc nạp thọ tà pháp, tăng trưởng ác kiến, đây đều thuộc bị tẩu hỏa nhập ma, nên phải tu Pháp sám hối trước
Nếu không, quý vị tu tinh tấn, vì tập khí ác nghiệp của quý vị rất nặng, ác tâm rất mãnh liệt, sẽ như thế nào? Rất dễ phạm trọng giới, mà còn thất tâm sai trái, như phát thần kinh; Bệnh thần kinh, quả thực có hạng người này, đang tu như vậy tự nhiên nhẩy lầu, đây là do mắc bệnh thần kinh, hoặc tà ma bên ngoài nhiễu loạn, chính mình tiếp nhận tà pháp, tin lời những tà pháp đó, làm tăng trưởng tà kiến không thể quay đầu. Hạng người này tốt nhất khoan tu tinh tấn, phải tu Pháp sám hối trước, tinh tấn sám hối, được thân khẩu ý Thanh tịnh Luân tướng, sau đó mới tu Pháp môn của mình, như vậy sẽ không có vấn đề. (Xem Trang 64; và Clip phút 49)
+ Quy lệ Tùng lâm: Tùng lâm là nơi tâm linh, các Đình Chùa .. Quy lệ là quy định thông lệ phổ biến các Tùng lâm ở Trung quốc.
+ Tiêu chuẩn người trụ trì: HỎI: Chúng ta lấy tiêu chuẩn gì để tuyển chọn vị Trụ Trì?
ĐÁP: Điều kiện thứ nhất phải là người không có tánh nóng, đối đãi với người thì hài hòa, đi đâu cũng có duyên lành với người, cũng như không dùng quyền lợi để áp bức bất cứ ai, và làm việc với tác phong dân chủ, hầu khiến cho mọi người cung kính. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị Q.3)
+ Các Chùa quản lý an ninh trật tự và lễ tân ra sao:
HỎI: Có vị khách Tăng tới ngủ qua đêm, chúng con nên tiếp đãi như thế nào?
HÒA THƯỢNG: Theo quy lệ bình thường của Tùng Lâm ở Trung Quốc: như đối với người ngoài tới, bất kể là vị đó từ đâu đến, bất luận là ai đi nữa, khi mang theo hành lý thì phải để ở ngoài nhà khách, rồi vào HỎI chỗ ở. Dù có bận gì đi nữa thì nội trong ngày đó cũng phải có hai người mở các hành lý đó ra để khám xét. Qua ngày thứ hai thì không được khám xét hành lý nữa. Hành lý của mình mang theo phải để nơi mà mình có thể thấy được để đề phòng chuyện “Quán Âm nghìn tay”, tức là tay bới móc ăn cắp, còn gọi là côn đồ băng đảng ra tay rất mau. Quý vị không có ở Tùng Lâm qua nên không biết đó thôi!
ĐỆ TỬ: Cây thông giáng sinh bị trộm lấy mất rồi... Ngày 6 tháng 10 năm 1993, hôm thứ ba, thùng phước sương ở chánh điện đã bị trộm. Đến ngày 14 lại có ba chàng thanh niên trẻ muốn lấy trộm tượng Phật ở Diên Sanh Đường...
HÒA THƯỢNG: Ở các Tùng Lâm đều phải có người đi tuần tra, cả Vạn Phật đây phải có hai người đi tuần tra. Rồi tuyên bố với đại chúng về việc đi tuần tra là vào giờ ăn trưa, bên ngoài lúc nào cũng phải có hai người.
Nếu ai phát hiện có người hay xe nào khả nghi là phải chủ động đến HỎI han về lý do họ đến đây, và họ có đến đăng ký ở văn phòng tiếp tân, hoặc làm thủ tục ở lại qua đêm rồi chưa? Và xe của họ phải có giấy phép thông hành hợp lệ.
HỎI: Có ngôi chùa nước ngoài đối diện với chùa chi nhánh nọ của mình, vì chỗ đậu xe quá hẹp, họ định mượn phòng dưới hầm của chúng ta làm lớp học, vậy có được không?
HÒA THƯỢNG: Nếu chiêu tập lại một số cao bồi băng đảng thì làm sao đây?
GẬY KIM CANG HÉT - Quyển 3 - Hòa Thượng Tuyên Hóa - Vấn Đáp Ký Lục. Đường links: https://www.dharmasite.net/.../Gay-Kim-Cang-Het_Quyen-3...
+ HỎI: Trí óc con nít bị suy nhược là tại làm sao?
ĐÁP: Đa số y học đối với lý luận về vấn đề này đều là như gãi ngứa trên giày. Nguyên nhân căn bản thật sự là do nam nữ không giữ quy củ; nhất là thanh niên nam nữ hút sách, dùng chất ma túy hay thuốc mê gây ảo giác, (hoặc là thuốc vui mau hoặc là thuốc vui chậm). Tự bản thân thì hồ đồ điên đảo, cho nên sanh ra con cái toàn là không có trí huệ. Bác sĩ mà còn chưa biết được nhân tố căn bản là từ đâu ra. Do đó hiện nay có rất nhiều trẻ con trí óc bị suy nhược, bị bệnh thần kinh, tàn tật; thiếu nhi bị tê liệt.
Bản thân cha mẹ không bình thường, đương nhiên sanh ra con cái cũng không bình thường. Nhân không chánh thì quả sẽ không chánh. Nhân nào quả nấy là vậy. Sự tình rõ ràng bày ra trước mắt, nhưng người ta vẫn cứ như bịt tại để trộm chuông, chứ không chịu thừa nhận. Đối với vấn đề của bản thân lại không biết tí gì, mà cứ hướng ra ngoài truy tìm. Họ nói năng lung tung, giống như ruồi nhặng lăng xăng lao vào bên Đông, nhào vào bên Tây. Rốt cuộc làm gì tự mình cũng không biết, rồi cứ ở đó mà làm càn.
+ HỎI: Tại sao có người không sợ nhân quả?
ĐÁP: Vì họ bị loài phi tinh bám vào thân. Phi tinh là hồ ly tinh, xà tinh, mãng tinh, hoàng thử lang tinh. Những loại ngưu quỷ xà thần này đều là phi tinh. Một khi thấy ai có mùi ngông cuồng là chúng nó bám ngay vào thân để giúp cho người đó.
Thí dụ như Lư Thắng Ngạn là con ma nhỏ bị quỷ nhập thân. Lâm Vân bị loại rùa tinh (ô quy tinh) đi theo, chuyên môn lừa gạt tiền tài, sắc đẹp. Nếu y hành dâm với người nữ thì người nữ ấy dần dần sẽ làm rùa và trở thành quyến thuộc của hắn. Ở Hoa Kỳ thì có Jim Jones và Rajneesh. Cho nên yêu ma quỷ quái đều muốn lân la tạo mối quan hệ và lợi dụng con người, nhằm để tăng gia thêm thế lực của chúng. (Nguồn: links: https://www.dharmasite.net/.../Gay-Kim-Cang-Het_Quyen-3...)
+ Diệu pháp chữa Bách Bệnh - Bí quyết mạnh khỏe và trường thọ:
a/ Nguyên nhân của bệnh tật gồm ba loại: (1)- Bệnh về thể chất sinh lý; (2)- Bệnh do oan nghiệp, chính là oan gia trái chủ theo thân; (3)- Bệnh nghiệp chướng [Không thuộc về thể chất sinh lý, cũng không thuộc về oan nghiệp, mà vì chính mình đã tạo ra quá nhiều ác nghiệp];
b/ Mười pháp chỉ quán bệnh:
1. Tín, “tin rằng phương pháp này có thể trị bệnh”
2. Dụng, “thời thời thường vận dụng”
3. Học tập và vận dụng lời giáo huấn một cách chuyên cần và linh hoạt
4. Tỉ mỉ tư duy học tập như pháp, không được trái nghịch
5. Biết được nguyên nhân sanh bệnh là do đâu
6. Phương pháp tiện nghi phù hợp nhất.
7. Hành trì lâu dài, dù chưa hiệu quả cũng không được bỏ dở.
8. Khéo gạn lọc hợp lý [Pháp lý xưa không đổi, nay tùy duyên mà chọn dùng]
9. Khéo biết những duyên bất đồng phải trì hộ chứ không xúc phạm
10. Được lợi không khoe khoang, bị tổn không nghi báng [Quan trọng].
c/ Thái Thượng Thuyết Bách Bệnh: Sách Thái Thượng Lão Quân Thuyết Bách Bệnh Sùng Bách Dược nói về trăm loại bệnh và căn nguyên của trăm bệnh. Sùng Bách Dược, “sùng” nghĩa là tôn sùng, nếu tuân theo những phương pháp này mà tu học thì có thể giúp bạn chẳng sinh trăm bệnh. Nguyên tắc của trăm bệnh - Trị bệnh:
1. Thứ nhất, “mừng, giận thất thường là một loại bệnh” - “Thể nhược (Chân thành), tính nhu là một loại thuốc”
2. Thứ hai, “thấy lợi quên nghĩa là một loại bệnh” - "Hành khoan, tâm hòa là một loại thuốc"
3. hứ ba, “háo sắc tổn đức là một loại bệnh” - “Lễ phép, lịch sự là một loại thuốc”
4. Thứ tư, “tâm có yêu ghét thiên vị là một loại bệnh" - “Có quy luật, điều độ là một loại thuốc”
5. Thứ năm, “oán giận, mong người chết là một loại bệnh” - “Gần Thiện trí, xa nữ sắc là một loại thuốc”
6. Thứ sáu, “phóng túng tham dục còn che đậy lỗi là một loại bệnh” - “Trừ khử dục tâm là một loại thuốc”
7. Thứ bảy, “khen mình chê người là một loại bệnh” - “Nhường nhịn giữ đạo nghĩa là một loại thuốc”
8. Thứ tám, “tự ý sửa đổi lời dạy của người xưa là một loại bệnh” - “Không lấy thứ không phải của mình là một loại thuốc”
Lão tổ tiên đã định ra những điều gì vậy? Là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức.
Thuốc thứ chín, “tuy họ đáng ghét mà mình vẫn yêu thương là một loại thuốc” (Nguồn: PS Tịnh Không giảng Sách Diệu pháp chữa bách bệnh)
+ Diễn giải thêm sách Thái Thượng Lão Quân: Chúng ta thấy Thái Thượng Lão Quân của Đạo Giáo đã nói tới một trăm thứ bệnh và một trăm món thuốc:
Thứ nhất là “hỷ nộ vô thường là một bệnh”... Phàm là người ngã bệnh thì là không bình thường, đúng mực, chẳng thể khống chế tâm tình. ... con gái bà ta hai mươi tám tuổi qua đời, để lại hai đứa con thơ. Nửa năm trước khi bà qua đời bèn hỷ nộ vô thường; trước kia, bà ta chẳng như vậy. Do vậy bèn nói đây là điềm báo bệnh tật nẩy sanh, tỏ lộ tâm tình đặc biệt nóng nảy, bộp chộp. Nếu chúng ta có tình hình ấy, cần phải đi khám sức khỏe. Người học Phật phải nên bình lặng, nên niệm Phật hiệu cho nhiều, lạy Phật cho nhiều hòng tiêu nghiệp chướng.
Thứ hai, “quên nghĩa hám lợi là một bệnh”, lợi là thứ con người hiện thời ắt phải tranh giành. ... là bậc đại phú trưởng giả, cất một tòa biệt thự lộng lẫy, từng ở nơi đó một ngày. ... Bình thường có ba người đầy tớ trông nom tòa biệt thự, quét dọn sạch sẽ, ba người ấy hưởng phước ở đó, sống nhiều năm ở đó. Quý vị thấy: Suốt đời ông ta chỉ ở một hôm, quyền sở hữu tài sản thuộc về ông ta, nhưng quý vị thấy ông ta chẳng có cách nào hưởng phước! Ba người hầu có quyền sử dụng, họ hưởng phước, đó là do mạng vận đã định. Chuyện như vậy có thể thấy khắp mọi nơi trên cả thế giới...... Tôi tin tưởng còn có những người suốt cả một đời cũng chưa ở một ngày, sao mà khổ thế? ....
Thứ ba, “Háo sắc, hoại đức là một bệnh”, bệnh này hết sức phổ biến trong xã hội hiện thời. ... “Họa phước không có cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”. ... Trong xã hội hiện thời, quan hệ nam nữ rất hỗn loạn, mỗi ngày có bao nhiêu kẻ phá thai? Phá thai là sát nhân. Luật nhân quả thường cảnh tỉnh chúng ta, đó là chuyện thật! Thiếu mạng phải đền mạng, thiếu nợ phải đền tiền. .... Có người thông linh thấy theo sau cô ta là một bầy tiểu quỷ; vì thế, bản thân cô ta khổ chẳng thể nói nổi, thân thể hết sức tệ, bệnh tật rất nhiều. Bệnh tật là gì vậy? Bệnh tật là do oán thân trái chủ gây rối cô ta. ...
Thứ tư, “Chuyên tâm yêu thương mê mệt là một bệnh”, nay chúng ta gọi là “sủng ái”. Quý vị sủng ái một ai thì người ta thường nói là “thiên vị”. Nếu trong một gia đình, quý vị yêu thương một ai đó quá lẽ, kẻ khác có phục hay không? Khiến cho người khác ganh tỵ, thậm chí khiến cho kẻ khác báo thù, phiền não liền xảy đến. Vì thế, chuyện này rất đáng sợ.
Thứ năm, “Thù ghét, mong cho kẻ khác chết đi là một bệnh”. Oán hận kẻ ấy, không ưa, mong cho kẻ ấy chết ngay lập tức. Điều này thuộc loại oán hận, thuộc loại nguyền rủa, tự nhiên kết thù chuốc oán. ......
Thứ sáu, “Tham dục phóng túng, ẩn giấu lỗi lầm là một bệnh”, tham dục đã là lầm lỗi, lại còn phóng túng thì còn gì để nói nữa? Tham lam không bờ bến, càng bị hãm sâu hơn. Có lỗi phải sám hối, phải sửa đổi, không thể che giấu.... Che giấu lỗi lầm chẳng cho người khác biết, đó là bệnh.....
Thứ bảy, “Chê người, khen mình là một bệnh”, chuyện này cũng thường nẩy sanh. ... Đối với người khác phải tán thán, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ kính chư Phật, tán thán Như Lai”. ...
Thứ tám, Điều tiếp theo, “tự tiện thay đổi là một bệnh”, vấn đề này cũng hết sức nghiêm trọng! Cổ thánh tiên hiền đã lập ra quy củ, chính chúng ta sửa đổi, có phải gánh trách nhiệm nhân quả hay không? Khẳng định phải chịu. Cổ thánh tiên hiền đã lập ra những phép tắc ấy, thường được các tôn giáo hiện thời gọi là “chân lý”, không thể thay đổi! ... Đặc biệt là những vị làm phụ mẫu tuổi trẻ, chẳng có kinh nghiệm dạy dỗ trẻ thơ, tâm mong con trở thành kẻ tài năng quá mạnh, hy vọng con mình có thể vượt trỗi kẻ khác, thứ gì cũng biết, thứ gì cũng học, đứa bé ấy rất đáng thương, chẳng thể chịu đựng nổi, học hành rất đau khổ. ....
Lại xem Ngài nói về thuốc chữa, đối với điều đầu tiên, Ngài nói:
“Thể nhược, tánh nhu là một loại thuốc”, ... “Nhược” là đối diện với cái gì mạnh mẽ, nếu chúng ta biểu hiện rất kiên cường sẽ không tốt, ... tánh tình phải mềm mỏng.... “Thể nhược” nghĩa là chất trực, đãi người, tiếp vật phải mềm mỏng. Chất trực là chân thành, phải có thành ý đối với người khác. ... Chớ nên dùng ngôn ngữ cứng cỏi, đụng chạm, ra lệnh, khiến người ta nghe rất ngứa tai! ... “tâm phục, khẩu phục”, sẽ thành công!
“Hành vi phải khoan dung, tâm hòa hoãn là một loại thuốc”. .... Tu thân, dưỡng tánh, thân tâm khỏe mạnh, gia đình hòa thuận, sự nghiệp thuận lợi. ... “Hành” phải khoan, tức là khoan hậu, “hành” là hành vi, phải khoan hồng, độ lượng, tâm phải hòa hài, đó gọi là “hòa bình”. Bình đẳng thì mới hòa, bình là nhân, hòa là quả. ...
“Động tĩnh hữu lễ là một loại thuốc”. Lễ hết sức trọng yếu. Có lễ, người khác tôn kính, kính mến quý vị, thật sự đạt được lợi ích, người được lợi là chính mình.
“Gần đức, xa rời sắc là một loại thuốc”, thân cận người có đức hạnh, tránh xa sắc. Nam đối với nữ phải xa cách một chút, nữ đối với nam cũng phải xa cách một chút, đó là Thuốc.
“Trừ khử dục tâm là một loại thuốc”. Dục là dục vọng. Mọi người đều có dục vọng. Nếu chẳng có dục vọng, quý vị chẳng sanh trong nhân gian. ... Đối với dục thì nên như thế nào? Càng nhạt bớt càng tốt.....
“Lúc phân chia bèn nhường nhịn hòng tăng trưởng đạo nghĩa là một loại thuốc”, hay lắm! Đặc biệt là đối với tài vật, khi phân chia tài vật, hãy nên lùi bước, nhượng bộ, chẳng cần phải tranh giành. .....
“Chẳng lấy thứ gì phi phận là một loại thuốc”, “phi phận” là gì? Thứ gì chẳng nên lấy thì quyết định chớ nên lấy. Tiền tài phi phận cũng gọi là “tiền tài bất nghĩa”. Nếu quý vị tham lam những thứ ấy thì sẽ gặp tai nạn, trước mắt chẳng thấy tai nạn, nhưng đã gieo gốc họa. ... Đợi đến khi quý vị hưởng hết phước, tai nạn liền hiện tiền. Nói thật ra, ai nấy đều có oán thân trái chủ, oán thân trái chủ do đâu mà có? Kết từ trong đời quá khứ, nay chúng ta chẳng nhớ, họ chẳng bỏ đi, cứ theo sau ta. .....
Câu tiếp theo là “tuy ghét nhưng vẫn thương yêu là một loại thuốc”. Tuy ghét kẻ ấy, chán ngán họ, nhưng vẫn yêu thương kẻ ấy, đó là tâm từ bi, tâm thương xót. ... Do vậy, người thật sự nhân từ, trông thấy không đành lòng, vẫn thương xót họ, giúp đỡ họ, chăm sóc họ, đó là đức hạnh. ....Thiên sách ấy (Thái Thượng Lão Quân Thuyết Bách Bệnh) có thể nói là bổ sung cho Cảm Ứng Thiên, khiến cho Cảm Ứng Thiên càng viên mãn, chúng ta tu học sẽ được lợi ích chân thật. .... (Nguồn: HT Tịnh Không giảng Tịnh độ ...., T 124)
+ Huyền thoại về Thái Thượng Lão Quân và Lão Tử: Tôi thấy kinh này rất quan trọng về phương diện giáo lý Cao Đài: Phần trên từ câu: «Tiên thiên khí hóa…» đến câu: «Pháp siêu quần thánh» chứng minh Thái Thượng đạo quân, hay Thái Thượng Lão Quân chính là Thượng Đế. Nếu không phải Thượng Đế sao dám nói là:
- Vô vi có trước Ngôi Thái cực.
- Hữu thủy, siêu xuất quần chân?
Nếu không phải là Thượng Đế, thì sao tự xưng là:
- Một khí Nguyên thủy,
- Diệu hóa Tam Thanh.
- Đức của mình hoán chuyển được hư linh,
- Pháp của mình vượt trội muôn thần vạn thánh.
Nếu không phải Thượng Đế, sao lại nói được:
- Nhất thân mà hóa ra được thành muôn ức,
- Biến hóa diệu huyền.
Theo các sách cổ, ta dễ dàng đi đến kết luận: Thái Thượng Lão Quân là Nguyên Thủy Thiên Tôn, là Lão quân, là Tiên Thiên nhất khí. (Nguồn: Lão Tử và con đường huyền nhiệm Tâm linh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ)
+ Sách Thái Thượng Lão Quân Thuyết Bách Bệnh Sùng Bách Dược: Chưa tìm được sách nguyên bản
+ Chúng sinh cõi Diêm Phù Đề cang cường, khó dạy - Thường lấy Tam ác đạo làm nhà:
Bấy giờ, Thiên Tử Diêm La chiêm lễ Ðức Thế Tôn và ngoái nhìn Bồ Tát Ðịa Tạng, rồi bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét Bồ Tát Ðịa Tạng ở trong sáu đường dùng trăm ngàn phương chước để cứu độ những chúng sanh mắc phải tội khổ, chẳng từ mệt nhọc. Vị Ðại Bồ Tát này có những sự thần thông bất khả tư nghì như thế, nhưng chư chúng sanh vừa được thoát khỏi tội báo, chẳng bao lâu lại phải đọa vào ác đạo nữa.
“Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đã có thần lực bất khả tư nghì như thế, cớ sao hàng chúng sanh chẳng chịu nương về thiện đạo để được giải thoát mãi mãi? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy rõ việc đó cho chúng con.”
Ðức Phật bảo Thiên Tử Diêm La: “Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề tánh tình cang cường, khó điều khó phục. Ðại Bồ Tát đây trong trăm ngàn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó, làm cho họ sớm được giải thoát.
“Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường đại ác, Bồ Tát dùng sức phương tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, làm cho họ hiểu được các việc đời trước. Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng, vừa ra khỏi lại trở vào, làm nhọc cho Bồ Tát phải trải qua nhiều số kiếp để độ thoát.
“Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào đường hiểm; trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp. Người mê muội đó ở trong đường hiểm chỉ chừng giây lát là sẽ gặp các thứ độc.”
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Thiên Tử Diêm La: “Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề tánh tình cang cường, khó điều khó phục.” Chúng sanh ở Nam Thiệm Bộ Châu tánh tình đều rất ương ngạnh bướng bỉnh, chứ không được nhu hòa hiền dịu, cho nên rất khó điều phục, khó uốn nắn. Do đó, muốn dạy dỗ, khiến cho họ chịu tuân theo quy củ phép tắc hoặc giữ gìn giới luật, là một việc không dễ dàng chút nào!
Hiện nay có nhiều người nói rằng việc tuân thủ quy củ là không hay, không tốt; vì sao họ nói như thế? Bởi vì bản thân họ không muốn tuân giữ quy củ, nên họ mới “xướng” lên như vậy. Kỳ thật, không có khuôn tròn và thước vuông thì không thể nào vẽ được hình tròn, ô vuông; cũng vậy, con người nếu không có quy luật phép tắc thì chẳng thể nào thành mẫu mực được!
Ở phần trước, Quỷ Vương và Thiên Tử Diêm La thắc mắc rằng Bồ Tát Ðịa Tạng đã có sức thần thông lớn lao đến thế, cớ sao chúng sanh không nghe theo lời khuyên răn, dạy bảo của Ngài; thậm chí có kẻ đã được ra khỏi ác đạo rồi nhưng sau đó lại bị đọa vào ác đạo lần nữa. Cho nên, bây giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích rằng: “Ðại Bồ Tát đây trong trăm ngàn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó, làm cho họ sớm được giải thoát.” Trải qua thời gian lâu dài có đến trăm ngàn vạn kiếp, Ðại Bồ Tát Ðịa Tạng cứ hết lần này sang lần khác, lần nọ đến lần kia mải miết cứu độ chúng sanh—cứu xong một lần này rồi lại cứu lần nữa. Hạng chúng sanh như thế đã sớm được Bồ Tát Ðịa Tạng giúp cho giải thoát từ lâu lắm rồi!
“Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường đại ác, Bồ Tát dùng sức phương tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, làm cho họ hiểu được các việc đời trước.” Những chúng sanh có ác nghiệp tội báo, thậm chí do khởi hoặc, tạo nghiệp mà thọ báo, thì sẽ bị đọa vào đường đại ác. “Ðường đại ác” tức là ba ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bồ Tát Ðịa Tạng dùng vô số pháp môn phương tiện, cùng sức phương tiện, để trừ sạch nguyên nhân căn bản của sự gây tạo nghiệp tội của các chúng sanh ấy, tức là nhổ bật gốc rễ của nhân duyên “khởi hoặc, tạo nghiệp,” khiến cho họ trở nên giác ngộ, hiểu rõ việc đời trước của mình.
“Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng.” “Kết” tức là dồn lại, kết dính lại với nhau. Nghiệp từ đời trước liên kết với nghiệp của đời này, nghiệp của đời này lại dây dưa liên lụy tới đời sau—đời đời kiếp kiếp, các nghiệp báo này nối kết nhau liên miên không dứt, giống như sợi dây kết liền thành một mối vậy; nên gọi là “kết ác tập nặng.” Những “ác tập” (thói quen xấu ác) này là những gì? Có mười tập khí xấu ác gọi là Thập Ác Tập:
1) Dâm dục. Thói xấu thứ nhất là dâm dục. Tất cả chúng sanh đều như nhau—ai nấy đều có lòng dâm dục. Ðây là mối phiền toái thứ nhất, cũng là điều rất khó đoạn trừ. Việc đoạn dứt dâm dục còn khó hơn lên trời nữa! Do đó, nếu chúng ta điều phục được lòng dâm dục—tức là người nữ thấy người nam thì không khởi tâm ham muốn, và người nam thấy người nữ thì chẳng sanh lòng tà vạy—thì gọi là “hàng hổ” hoặc “phục hổ,” tức là đã đánh thắng loài cọp dữ, khiến chúng phải đầu hàng quy phục. Lại thêm, nếu chúng ta cũng không còn phiền não, thì có thể nói rằng chúng ta đã hàng phục được cả loài rồng rồi vậy. Phiền não vô minh thì giống như con rồng vậy—rồng có khả năng biến hóa vô cùng, không thể đoán trước được lúc nào nó sẽ thình lình xuất hiện.
Vậy, việc phải làm trước nhất là đoạn trừ lòng dâm dục. Qua sự việc này có thể thấy được quý vị có công phu tu hành, có đạo đức, có thật sự dụng công hay không. Quý vị có thể tự thử nghiệm chính mình, tự tìm hiểu chính mình. Nếu quý vị đã đoạn trừ được dâm tâm rồi tức là quý vị có công phu tu tập; lòng dâm chưa dứt thì quý vị vẫn còn lậu thoát. Cho nên, tu “vô lậu” tức là dứt bỏ lòng dâm dục—còn dâm tâm là còn “hữu lậu,” hết dâm tâm mới là “vô lậu.”
2) Tham. Ác tập thứ hai là tham lam. Vì sao có lòng dâm dục? Chính là vì có lòng tham—ham muốn cảm giác, khao khát thỏa mãn dục niệm của chính mình.
3) Mạn. “Mạn” tức là kiêu mạn, và đây là thói xấu thứ ba. Thế nào gọi là “kiêu mạn”? Bản thân mình vốn chưa hẳn là thông minh hơn người, nhưng lúc nào cũng cho rằng mình thông minh xuất chúng, khinh thường tất cả những người khác, đến đâu cũng muốn mình là “số một”; đó chính là lòng kiêu mạn đang tác quái!
4) Sân. Ðây là thói xấu thứ tư. Kẻ mang lòng sân hận thì đối với bất cứ ai cũng sanh tâm oán ghét, lúc nào cũng hằn học: “Mày không tốt với tao, tao phải tìm cách giết mày để báo thù!”
5) Trá. Ác tập thứ năm là “trá,” tức là xảo trá, lường gạt, làm những việc giả dối hư ngụy.
6) Cuống. “Cuống” tức là nói dối, vọng ngữ. “Trá” tức là bản thân vốn là người xấu, song bề ngoài lại làm ra vẻ người tốt, khéo che đậy khiến kẻ khác không nhận ra được. Còn “cuống” tức là nói dối, bịp bợm, nói sai sự thật, bất cứ chuyện gì cũng nói dối một cách trơn tru, trót lọt được cả.
7) Oán. “Oán” tức là việc gì cũng oán trách người khác; rõ ràng là mình sai, là lỗi của mình, nhưng lại đổ lỗi cho người khác: “Nếu hắn không bảo tôi làm như thế thì tôi đâu có làm. Chuyện này không thể trách tôi được. Ðó là lỗi của hắn. Hắn mới là người có lỗi.” Cho nên, kẻ ôm lòng hờn oán thì bất cứ tội lỗi gì cũng trút lên đầu lên cổ người khác cả!
8) Tà kiến. Ðây là thói xấu thứ tám. “Tà kiến” tức là tà tri tà kiến, cái nhìn sai lầm hoặc sự hiểu biết lệch lạc, dẫn dắt con người đi vào con đường bất chánh, tà vạy.
9) Uổng. “Uổng” có nghĩa là cong vạy, không ngay thẳng.
10) Tụng. Ác tập thứ mười là tố tụng, tức là thích kiện cáo, tranh cãi hơn thua. Có những kẻ vốn sai quấy, có lỗi, thế mà lại muốn kiện cáo, thưa với quan tòa là lỗi của người khác, rồi buộc đối phương phải bồi thường tiền bạc cho mình. Nói tóm lại, bản thân mình vốn là vô lý mà lại vu khống, tìm cách làm cho người khác bị hàm oan, đó gọi là “tụng.”
Mười thói quen xấu hay Mười Ác Tập này trong Kinh Lăng Nghiêm (quyển tám) gọi là Mười Tập Nhân, tức là mười nguyên nhân tập khí xấu dẫn đến các quả báo khổ sở trong sáu đường (Lục Giao Báo). Chính vì chúng sanh tiêm nhiễm mười tập khí này nên nói là “kết ác tập nặng.”
“Vừa ra khỏi lại trở vào.” Chính vì ác nghiệp của Mười Tập Nhân mà chúng sanh gây ra vô số tội lỗi, nên mới vừa thoát khỏi ba ác đạo chưa được bao lâu thì liền bị đọa về lại. Ðời này được ra khỏi ba ác đạo thì đời sau lại trở vào lần nữa; đợi đến đời sau nữa được ra khỏi ba nẻo ác rồi thì đời kế sau đó nữa cũng quay về lại—đó gọi là “vừa ra khỏi lại trở vào” vậy. Chúng sanh cứ lẩn quẩn như vậy, được thoát ra rồi lại trở vào, “làm nhọc cho Bồ Tát phải trải qua nhiều số kiếp để độ thoát.” Các chúng sanh như thế làm cho Bồ Tát Ðịa Tạng vô cùng vất vả, phải nhọc nhằn lo việc cứu độ trong rất nhiều kiếp.
“Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào đường hiểm; trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ Dạ-xoa.” Ðến đây, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa ra một tỷ dụ. Ðức Phật ví dụ rằng có một người bị lạc đường, tìm không ra nhà của mình; người đó vì không thông thạo đường sá nên lạc bước vào một con đường đầy dẫy những sự nguy hiểm—trong con đường ấy có rất nhiều quỷ Dạ-xoa đang rình rập. “Dạ-xoa” ở đây là dụ cho mối “nghi” trong Ngũ Ðộn Sử. “Nghi” tức là không có lòng tin, việc gì cũng hoài nghi, ngờ vực cả.
“Cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.” Trong con đường ấy, ngoài quỷ Dạ-xoa ra còn có cả cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp cũng đang rình chờ nữa. “Cọp” là dụ cho lòng tham, tham lam như cọp. Do đó, điều phục được lòng dâm dục tức là thuần phục được cọp; điều phục không nổi lòng dâm dục tức là chưa hàng phục được cọp vậy.
“Sói” là dụ cho cái gì? Ðó là dụ cho lòng sân hận. Loài sói rất lợi hại; lòng sân hận và loài lang sói thì đều đáng sợ như nhau.
“Sư tử” là dụ cho sự ngu si.
“Rắn độc, bò cạp” là dụ cho tánh kiêu mạn.
“Tham, sân, si, mạn, nghi,” gọi chung là Ngũ Ðộn Sử.
“Người mê muội đó ở trong đường hiểm chỉ chừng giây lát là sẽ gặp các thứ độc.” Hạng người mê muội thì chẳng mấy chốc sẽ bị Ngũ Ðộn Sử—tham, sân si, mạn, nghi—tác hại, khiến họ tạo ra nhiều nghiệp tội, phải đọa vào ba đường ác. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người ở đâu - Quỷ ở đó: ... Trong kinh đức Phật đã nói với chúng ta rất nhiều, chúng ta phải hiểu rõ. Chúng ta phải coi trọng tế lễ của nhà Nho, quỷ thần có thể yên ổn, đối với sự trị loạn trên thế gian chúng ta có liên quan mật thiết. Nếu làm cho những quỷ thần này không thể yên ổn, một khi họ làm loạn lên thì sẽ ảnh hưởng đến xã hội chúng ta, có rất nhiều tai biến vô duyên, vô cớ sẽ sanh khởi, chúng ta nói vô duyên, vô cớ [nhưng thật ra là do] quỷ thần làm loạn, không thể không hiểu đạo lý này. (Nguồn: Người và Quỷ_PS Tịnh Không)
+ Người và Quỷ: PS Tịnh Không giảng về Người và Quỷ cùng ở lẫn cùng không gian - Khác cảnh giới. Người tu hành còn gặp quỷ thần là người chưa có công phu thành tựu thật sự. Người ác thì bị quỷ thần chướng ngại nhiều, người thiện thì ít hoặc không có, do khí trường dương khí họ mạnh (Như ban ngày), quỷ thần xấu lánh xa. Thường nửa đêm quỷ ra đường hoạt động rất náo nhiệt. ... Khi tu đọc tụng kinh chú có thành tựu, gặp quỷ thần thiện gặp bạn tu, có thể họ cung kính cúng dường mùi hương thơm phảng phất, dù bạn không thắp hương - Người tu không nên dính mắc thì là cảnh giới tốt, nếu dính mắc thì rễ gặp ma chướng (Nguồn: Xem Clip)
+ Vua Diêm La - Diêm La Vương cai quản loài quỷ
Giảng: Có những vị vua Diêm La đến từ các thế giới khác như mặt trăng, các vì tinh tú ...; và cũng có những vị đến từ các núi Thiết Vi của những nơi khác.
Nói tóm lại, ở đâu có con người thì ở đó có vua Diêm La, nơi nào không có con người thì nơi ấy không có vua Diêm La - Không có loài quỷ - Không có Phật.
Trên thế giới này con người chi phối mọi thứ, tạo dựng ra mọi thứ, có nhu cầu về mọi thứ và sử dụng mọi thứ—tất cả đều do con người mà ra....
Thế thì, con người là do cái gì tạo thành? Con người là do “tâm” tạo thành! Tâm không chỉ tạo ra con người mà còn có thể tạo ra mọi thứ—thiên đường, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ...; vì thế mà nói rằng mười Pháp Giới đều do tâm tạo thành. Song, tâm tạo ra mười Pháp Giới thì tâm cũng có thể hủy diệt mười Pháp Giới[1]!
Kinh Hoa Nghiêm có chép: Tất cả đều do cái “tâm” này tạo thành! Trong tâm của chúng ta có rất nhiều tạp niệm—những tạp niệm này thì nhiều như sóng nước và được biểu hiện nơi sơn hà đại địa trên thế giới. ....
Phàm hễ nơi nào có con người thì nơi đó cũng sẽ có quỷ, có Phật, và do đó, có sự hiện diện của các vua Diêm La.... Các vua Diêm La cùng quyến thuộc của họ khen ngợi đại oai thần lực, trí huệ bất khả tư nghì, cảnh giới bất khả tư nghì của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quỷ thần đâu cũng có - Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tất cả chỗ ở như nhà cửa của mọi người, tất cả mọi đường sá, mọi ngã tư, hàng thịt, chợ búa, cùng bãi tha ma đều có quỷ thần, không có chỗ nào là không có cả. Phàm các loài quỷ thần đều tùy thuộc vào chỗ nương náu mà có tên. Như nếu nương vào người thì gọi là người; nương vào thôn thì gọi là thôn; nương vào thành thì gọi là thành; nương vào nước thì gọi là nước; nương vào đất thì gọi là đất; nương vào núi thì gọi là núi, nương vào sông thì gọi là sông.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không có chỗ nào là không có.
Tất cả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu khi nào họ chết thì quỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên người này sẽ chết ngay.”
... Nhưng tại sao người hiện nay lại có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu? Là do: Người thế gian hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, những người như vậy, thì trong trăm hay ngàn mới có một thần theo bảo hộ thôi. Giống như đàn bò, đàn dê, trong trăm hay ngàn con cũng chỉ có một người chăn giữ. Nếu có người nào tu hành pháp thiện, chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, chỉ một người như vậy, thì cũng có trăm ngàn thần bảo hộ rồi. Giống như quốc vương, đại thần của quốc vương có trăm ngàn người hộ vệ một người; Vì nhân duyên này cho nên, người thế gian có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu. (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ 7. Bát Nhã - Phật Tánh
Bát Nhã là Phật Tánh, Phật Tánh là Bát Nhã. Nói Đại Bát Nhã là nói Đại Phật Tánh. Nói Đại Phật Tánh tức là nói Đại Bát Nhã. Danh tự tuy không đồng, nhưng ý nghĩa lại giống nhau. Tại sao nói thế? Bởi vì Bát Nhã là trí tuệ, mà trí tuệ là đại giác ngộ. Nếu quý vị có thể đạt được đại giác ngộ, tức là quý vị có trí tuệ. Nếu quý vị không được đại giác ngộ, tức quý vị không có trí tuệ. Đại giác ngộ là đại Phật tánh. Phật là tiếng Phạn, dịch ra là giác, là tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Cho nên nói Phật Tánh là Bát Nhã. Bát Nhã có ba loại là: Văn Tự Bát nhã, Quán Chiếu Bát Nhã và Thật Tướng Bát Nhã. Tôi nay giải thích sơ lược như sau:
1. Văn Tự Bát Nhã: Đây không phải là loại văn tự Bát Nhã được giảng dạy trong các trường học thế gian, mà là Văn Tự Bát Nhã xuất thế gian, khiến cho quý vị phát tâm Bồ Đề, tu đạo Bồ Đề, đắc quả Bồ Đề và cũng tức là Văn Tự Bát Nhã trong kinh điển.
2. Quán Chiếu Bát Nhã: Từ Văn Tự Bát Nhã sẽ sanh khởi Quán Chiếu Bát Nhã. Ví như khi quý vị đọc kinh văn, đối với bốn chữ “Như thị ngã văn” (tôi nghe như vầy) bèn thắc mắc rằng: “Như Thị” là gì ? “Ngã văn” là gì? Thế là quý vị sanh tâm quán chiếu, xem xét rõ ràng. Sau khi đọc “Như thị ngã văn,” quý vị bèn lấy lời văn để tìm nghĩa, tìm ý tứ trong đấy. Đó gọi là Quán Chiếu Bát Nhã.
3. Thật Tướng Bát Nhã: Tức là khi đã có Quán Chiếu Bát Nhã, quý vị sẽ biết được “Như thị” nầy là bổn thể của Pháp và “Ngã văn” nghĩa là “Tôi nghe được đạo lý bổn thể của Pháp.” Đây là do quý vị quán chiếu mà đạt được Thật Tướng và nhận biết Pháp thể là Như thị, Pháp thể là bổn không. Bổn không tức là Thật Tướng Bát Nhã.
Những ai đã rõ ba loại Bát Nhã nầy cũng sẽ biết được Tam Nhân Phật Tánh. Tam Nhân Phật Tánh là Duyên Nhân Phật Tánh, Liễu Nhân Phật Tánh và Chánh Nhân Phật Tánh.
1. Văn Tự Bát Nhã là Duyên Nhân Phật Tánh. Dùng văn tự làm trợ duyên, giúp quý vị biết được ba loại Phật Tánh nầy và cũng biết được Phật Tánh là Bát Nhã, mà Bát Nhã tức là Phật Tánh. Do nhân đó, quý vị sẽ khai triển công đức và thiện căn để đạt được Thật Tướng.
2. Quán Chiếu Bát Nhã là Liễu Nhân Phật Tánh. Ví như ngọn đèn chiếu sáng căn phòng để quý vị thấy biết được trong phòng đang có những vật gì. Chẳng hạn như trong phòng có bộ kinh Hoa Nghiêm, có tượng Phật, có bàn thờ Phật, lại có danh hiệu của tám mươi tám vị Phật, quý vị đều thấy biết hết tất cả. Đó là nhờ ngọn đèn tỏa chiếu, làm cho tất cả mọi vật đều được tỏ rõ. Bởi vậy chúng ta nên dùng đèn như vậy để chiếu sáng căn phòng nội tâm của chính mình. Khi có sức mạnh quán chiếu, là bắt đầu phát sanh ra công năng của Liễu Nhân Phật Tánh. Nếu quý vị không có sức mạnh của Quán Chiếu Bát Nhã, quý vị sẽ không biết rõ được Liễu Nhân Phật Tánh. Quý vị cũng không biết được căn phòng nội tâm của quý vị là: Có Phật, có Bồ Tát đang giáo hóa chúng sanh; Có bậc Duyên Giác đang tu hành theo pháp Thập Nhị Nhân Duyên; Có Thanh Văn đang tu pháp Tứ Đế; Có vô lượng chư Thiên đang thọ nhận sự thù thắng diệu lạc; Có vô lượng chúng sanh đang điên đảo; Có vô lượng A Tu La đang đấu tranh; Có vô lượng súc sanh đang trong cảnh sanh tử luân hồi, sanh ra rồi chết, chết rồi lại sanh ra; Có vô lượng ngạ quỷ đang ăn trộm thức ăn; Có vô lượng chúng sanh ở địa ngục đang chịu cực hình trong núi đao, chảo dầu. Tất cả những cảnh giới nầy đều không tách rời tâm quý vị, đều cùng tương thông với tâm quý vị. Địa ngục có mười tám địa ngục lớn, lại có năm trăm địa ngục nhỏ. Quý vị muốn đến địa ngục nào thì tùy quý vị. Nếu có sức mạnh Quán Chiếu Bát Nhã, quý vị sẽ hiểu rõ nhân duyên của Mười Pháp Giới. Một khi đã minh bạch rõ ràng rồi, đương nhiên là chúng ta nên lựa việc thiện mà làm, còn việc bất thiện thì phải bỏ. Được như vậy chúng ta mới không bị đọa xuống địa ngục.
3. Thật Tướng Bát Nhã là Chánh Nhân Phật Tánh, cũng tức là Phật Tánh của đệ nhất nghĩa không, Do quán chiếu mà chúng ta đạt được Chánh Nhân và chứng Thật Tướng.
Làm thế nào để chúng ta có thể sanh về cảnh giới Phật? Phật là giác, tức là giác ngộ. Người có thể giác ngộ tức là Phật, người không thể giác ngộ là chúng sanh. Cho nên nói: “Một niệm giác là một niệm Phật, niệm niệm giác là niệm niệm Phật. Một niệm mê là một niệm chúng sanh, niệm niệm mê là niệm niệm chúng sanh. Thời thời giác là thời thời Phật, thời thời mê là thời thời chúng sanh.” Quý vị mà biết được việc làm của mình là điên đảo, thì đó là Phật. Còn như quý vị không biết những việc làm của mình là điên đảo, thì đó là chúng sanh. Cho nên nói sự giới hạn của Phật và chúng sanh là giữa giác và mê. Muốn làm Phật hay làm chúng sanh là tùy theo sự lựa chọn của quý vị.
1. Làm thế nào để được sanh vào cảnh giới Bồ Tát? Nói đơn giản là người nào thường nghĩ đến sự lợi ích của chúng sanh thì người đó là Bồ Tát, còn người thường nghĩ đến lợi ích cho riêng mình thì là ma quỷ. Bồ Tát chỉ có biết đến người khác mà không biết đến mình. Trong khi ma quỷ chỉ biết có mình mà không biết đến người khác. Hai thành phần nầy rất là trái ngược nhau. Bồ Tát biết có chúng sanh để độ, nhưng chưa đến giai đoạn không có chúng sanh để độ. Khi đến cảnh giới Phật rồi là không còn chúng sanh để độ. Vì sao? Bởi tất cả chúng sanh đã được độ hết, và không còn chúng sanh nào để độ nữa. Tức là có mà cũng không có tướng chúng sanh, vì Phật không chấp đến hình tướng. Đó gọi là quét tất cả pháp, rời tất cả tướng. Quét tất cả pháp, giống như dùng chổi quét sạch hết pháp trần tục. Rời tất cả tướng là không còn tướng gì nữa. Nếu quý vị tu theo pháp Lục Độ Vạn Hạnh, quý vị sẽ sanh vào cảnh giới Bồ Tát.
2. Làm sao để được sanh vào cảnh giới Duyên Giác? Là quý vị quán Thập Nhị Nhân Duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức; cho đến sanh duyên lão, tử. Vô minh đứng hàng đầu trong mười hai pháp Nhân Duyên. Vô minh từ đâu đến? Là từ ba độc tham sân si mà đến. Có vô minh thời có hành. Có hành thời có thức v.v... Nếu như chúng ta có thể tìm được cội rễ của vô minh và cắt đứt hết vô minh, thì sanh tử sẽ không còn. Làm thế nào để cắt đứt nó đây? Là chúng ta cần phải tu tam vô lậu học: Giới, Định, Huệ. Có như thế mới cắt đứt được cội rễ của ba độc và đem vô minh biến thành trí huệ. Khi có trí huệ rồi, chúng ta sẽ hiểu thế nào là thiện, thế nào là ác. Như vậy tâm chúng ta sẽ được quang minh, xán lạn và thanh tịnh. Một khi vô minh đã bị phá trừ thì Pháp thân sẽ xuất hiện, đó tức là Phật Bích Chi.
3. Làm thế nào để được sanh vào cảnh giới Thanh Văn? Quý vị nên tu pháp Tứ Đế, tức là tìm căn nguyên của sự khổ đau. Căn gốc của đau khổ là từ bên trong của cái thấy, cái suy nghĩ lầm lẫn, tức là kiến hoặc và tư hoặc. Bởi vậy chúng ta phải dùng Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo để tiêu diệt hai cái “hoặc” đó. Kiến hoặc có tám mươi tám phẩm, tư hoặc có tám mươi mốt phẩm. Khi nào tiêu diệt hết hai cái hoặc đó của tam giới rồi, chúng ta mới có thể chứng được tứ quả A La Hán, tức là bất sanh, bất diệt. Trên đây là bốn pháp giới thuộc về cõi Thánh.
4. Làm thế nào để được sanh lên cõi trời? Quý vị nên tu pháp Ngũ giới và Thập thiện, là tu thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý. Thập thiện là: Thân làm ba điều lành: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng có bốn điều lành là: không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không ác khẩu, không lưỡng thiệt. Ý có ba điều lành là: không tham, không sân, không si. Ai có được những công đức nầy mới được sanh lên cõi trời. Nhưng họ chỉ được sanh vào cõi trời Địa Cư Thiên, tức là Trời Tứ Thiên Vương và Trời Đao Lợi chứ không thể sanh đến Không Cư Thiên, là những cõi như Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa, Trời Tha Hóa Tự Tại. Trừ phi những người có công phu tu thiền định, họ mới có thể từng bước thăng tiến cao hơn. Từ mười tám cõi Trời Sắc Giới, sanh lên đến Trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng của Vô Sắc Giới thì đó là cõi trời tối cao của hai mươi tám cõi trời trong Tam giới. Như nếu tiếp tục tinh tấn tu tập thiền định, họ sẽ vượt ra khỏi Tam giới, thoát ly phần đoạn sanh tử và chứng đắc quả vị A La Hán.
5. Làm thế nào để được sanh vào cõi người? Nếu quý vị có thể chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tức là đừng làm các việc ác, nên làm các việc lành thì quý vị sẽ không bị mất thân người. Người nào kiếp trước tu hành đầy đủ cả phước lẫn huệ thì sẽ được sanh vào nhà phú quý, mọi việc đều thuận lợi, thêm mạnh khỏe, lại sống lâu và được tướng hảo trang nghiêm. Còn nếu những ai kiếp trước không tu phước huệ thì sẽ sanh vào cảnh bần cùng, cả đời lận đận, nhiều bệnh tật, chết yểu, tướng mạo lại xấu xí. Đó đều là do luật nhân quả, là định luật bất biến, không thay đổi. Làm lành thì được phước báo, làm ác thì bị ác báo. Có người bởi kiếp trước không tu, cho nên đời nay phải chịu khổ, nếu như họ lại không tu thì đời sau còn không được như đời nay. Nếu như họ phát nguyện tu hành, nhất định kiếp sau của họ sẽ tốt hơn kiếp nầy. Có người nhân vì kiếp trước tu hành, cho nên kiếp nầy họ gặp mọi việc đều thuận lợi. Như quả kiếp nầy họ lại tu hành tiếp, nhất định kiếp sau của họ còn tốt hơn, thuận lợi hơn kiếp nầy. Nếu họ không tu hành, nhất định kiếp sau của họ tuyệt đối không bằng kiếp nầy. Đạo lý nầy rất đơn giản, ai ai cũng có thể hiểu rõ được. Đời sau gặp thuận hay nghịch cảnh, hoàn toàn đều do quý vị tự quyết định. Phật, Bồ Tát có muốn giúp, giúp cũng không nổi việc nầy đâu.
6. Làm thế nào để không bị sanh vào bốn cõi ác thú? Nếu quý vị không còn tâm đấu tranh, quý vị sẽ đoạn tuyệt được sự ra vào cảnh giới A-tu-la. Nếu quý vị không tham thì sẽ đoạn tuyệt sự qua lại với cảnh giới súc sanh. Nếu quý vị không sân hận thì sẽ đoạn tuyệt sự tới lui với cảnh giới ngạ quỷ. Nếu quý vị không si, quý vị sẽ đoạn tuyệt không ra vào cảnh giới địa ngục. Trên đây là sáu pháp giới của cõi phàm.
Mười pháp giới là mười con đường do chính quý vị tự lựa chọn. Gieo nhân nào thì gặt quả đó, chỉ là xem quý vị có trí huệ Bát Nhã hay không!
Người có trí huệ Bát Nhã, là người biết tạo các việc lành và tiêu trừ các ác nghiệp. Người không có trí huệ bát nhã, là người sẽ gieo nhiều việc ác và làm tiêu mất hạt giống thiện nghiệp. Ai ai cũng có trí huệ Bát Nhã, chỉ xem quý vị có biết dùng nó hay không mà thôi. Nếu quý vị biết vận dụng Bát Nhã nầy, nó sẽ chiếu sáng khắp cả pháp giới. Nếu như không biết vận dụng trí huệ Bát Nhã, quý vị sẽ không thể nào nhận biết rằng: xưa nay mười pháp giới vốn sẵn có ở trong tâm ta. Giảng ngày 17/ 10/ 1980 (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị-Q6)
+ Các Tự Tánh không chết theo xác thân: Đức Phật bảo ngài A Nan: Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh, truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển. Chưa từng khai ngộ bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu. Giảng giải:
Khi sự hiện hữu của thân xác đến tận cùng, khi thân thể tàn tạ và chết đi, thì mạng quang của quý vị dời chuyển; nhưng tánh giác, tánh nghe của quan niệm thì không biến hoại. Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh. Do đâu mà các chúng sinh chưa được thành Phật? Vì sao họ không hiểu đạo? Chỉ vì họ truy đuổi theo sắc thanh từ vô lượng vô biên kiếp trong quá khứ cho đến ngày nay. Họ đuổi theo sắc trần và thanh trần rồi dính mắc với chúng. Họ truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển, mãi mãi, và họ Chưa từng khai ngộ. Họ nhận lầm vọng rồi cho là chân và bị xoay chuyển theo các trần cảnh nầy. Họ quá dính mắc với những cái vọng và chẳng nhận ra cái gì chân, thế nên bây giờ họ chẳng biết bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu. Họ không hiểu được đạo lý này, vốn rất vi diệu, chân thật và thường trụ.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4, Chương V)
+ Hỏi Cõi tái sinh sau khi chết: Sử dụng Chiêm Sát Nhân Quả Báo Ứng - Hỏi Bồ Tát Địa Tạng qua Mộc Luân sẽ biết người chết đi về cõi lành dữ.
+ Tại sao không có Cõi giới Ma: Có người hỏi: Vì sao ma không phải là một Pháp Giới?
Trả lời: Ma thì giống như bọn thổ phỉ hay là du kích, lúc nào cũng lưu lạc trong bốn phương, không có xứ sở nhất định, cũng không có người cai quản. Kẻ cướp là loài người nhưng không phải người nào cũng là kẻ cướp, cho nên không nói Pháp Giới của loài cướp. Ðạo lý này giải thích loài ma cũng tương tự như vậy.
Trên trời cũng có ma, trong A Tu La cũng có ma. Thành phần thiện thì thuộc một pháp giới, thành phần không thiện thì thuộc về ma giới; vì ma biến khắp cả Lục Phàm Pháp Giới, thậm chí nó có thể biến hóa, xâm nhiễm, phá phách Tứ Thánh Pháp Giới.
Phật hay ma đều là do một niệm sai biệt mà ra. Phật thì có tâm từ bi, ma thì có tâm tranh thắng. Giống như Ðề Bà Ðạt Ða là người có tâm thắng phụ rất mạnh, lúc nào cũng muốn cùng Phật đấu tranh, song Phật thì không tranh với ông ta. Ðề Bà Ðạt Ða cũng có Phật tánh, bất quá y lỡ bước lầm đường, lạc lối quá sâu, không thể quay đầu lại, nên mới rơi vào ma giới. Theo tinh thần Ðại Thừa, Phật vì giáo hóa loài ma cho nên cũng thị hiện thân ma để giáo hóa loài ma. Ma thì biến khắp Lục Phàm Pháp Giới, nên không cần thiết phải lập thêm một pháp giới. Tuy biến khắp các pháp giới, nhưng đó là thứ giả, hư ngụy, không thật. Giống như ở đời có kẻ tự mình chiếm hòn núi, tự mình xưng Vương; giặc cướp cũng mạo xưng là quân đội, nhưng đi tới đâu là phóng hỏa giết người tới đó. Ma cũng tương tự như vậy! (HT Tuyên Hóa khai thị Q.2 ngày 2/10/1982)
+ Người Chết đột ngột: Những kẻ “bất đắc kỳ tử” tốt bụng và trong sạch (khi bị chết đột ngột sẽ giống như –ND) ngủ trong Akasa (chất dĩ thái không gian, v..v..-ND) không biết gì đến tình trạng thay đổi của họ. Những kẻ rất hung ác và không thanh tịnh (impure), phải chịu mọi hành hạ (tortures) của một loại ác mộng kinh khiếp. Đa số kẻ bất đắc kỳ tử – không thật tốt mà cũng không thật xấu, các nạn nhân của tai nạn hoặc bạo hành (kể cả kẻ bị ám sát) – thì có một số ở trạng thái ngủ, một số khác trở thành các loại quỉ trong Thiên Nhiên (Nature pisachas) – xem mục từ “Quỉ” –ND), trong khi đó một thiểu số có thể trở thành nạn nhân cho hạng đồng cốt, và rút ra một tập hợp các uẩn (Skandhas) mới nơi đồng tử nào thu hút chúng. Số này có thể không nhiều, số phận của chúng có thể là đau buồn nhất. (Thư của Ch. S. 239)
+ Đời Sống sau khi chết: Cho đến nay, ít có người tiến hóa đủ để sau khi chết, thấy mình có được một hiện thể phần lớn làm bằng chất trí (mental substance). Chỉ có các đệ tử và các vị đạo đồ, tức là những người hầu như sống trong thể trí, sau khi chết, tức khắc thấy mình ở trên cõi trí. Đa số con người đều thấy mình ở cõi cảm dục, khoác lấy lớp vỏ (shell) bằng chất cảm dục (astral matter) và phải chịu một giai đoạn thải bỏ (olimination) bên trong vùng ảo giác (illusory area) của cõi cảm dục.(CTNM, 486)
+ Xem Chết về cõi nào: Trong kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ, đức Phật bảo: Ngài chỉ dẫn cách nhìn người sắp lâm chung để biết cõi tương ứng người đó sẽ vào đó.
+ Xem thêm Người sau khi chết tái sanh cõi nào: Mười pháp giới
+ CÁCH NHẬN BIẾT NGƯỜI SẮP LÂM CHUNG SẼ SANH VỀ CẢNH GIỚI NÀO ?
Trong kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ, đức Phật bảo:
– Nếu người sắp lâm chung, dự biết thời khắc, chánh niệm rõ ràng, tắm gội mặc áo, an lành qua đời, ánh sáng chiếu thân, thấy tướng hảo Phật, các điềm lành đều hiện ra, biết chắc người này quyết định vãng sanh Tịnh Độ.
– Nếu người niệm Phật trì giới không có tâm tinh tấn, lúc sắp mạng chung không có tướng lành, không có tướng ác. Địa phủ không thâu, An Dưỡng chẳng nhận, như ngủ mà đi. Người này lòng nghi ngờ chưa đoạn dứt nên sanh về Nghi Thành(*), thọ hưởng vui vẻ trong năm trăm năm, tu Tín, Nguyện thêm mới được về Tịnh Độ.
– Nếu người khởi tâm thương xót, chánh niệm hiện tiền, đối với tài sản, vợ con tâm không luyến ái, đôi mắt trong sáng, ngẩng mặt mỉm cười, nghĩ tưởng thiên cung sẽ đến rước ta, tai nghe thiên nhạc, mắt thấy đồng tử cõi trời. Lúc bỏ báo thân này, nhất định sanh về Thiên giới.
– Nếu người sanh tâm nhu nhuyến, khởi tâm phước đức, thân không bệnh hoạn, nghĩ nhớ cha mẹ vợ con, đối với việc thiện ác tâm không lầm lẫn, tâm tư ngay thẳng, di chúc gia tài từ biệt mà đi. Người này nhất định sanh về cõi người.
– Nếu người giận dữ mà nhìn quyến thuộc, đưa tay nắm bắt hư không, tiểu tiện không hay, thân thường hôi thối, hai mắt đỏ hoe, thường nằm úp mặt, co về bên trái, toàn thân đau nhức.
Hoặc thấy tướng ác, miệng không nói được, rên rỉ kêu gào, oan trái hiện ra, tâm thức tán loạn, mê hoặc điên đảo, toàn thân lạnh buốt, bàn tay nắm chặt, thân cứng như đá. Người này lúc mạng chung nhất định sanh về cõi Địa ngục.
– Nếu người hay liếm môi, thân nóng như lửa, thường lo đói khát, ưa nói về ăn uống, miệng há không ngậm lại, tham luyến tài sản, mạng sống dây dưa khó dứt, chết không nhắm mắt. Người này nhất định vào đường Ngạ quỷ.
– Nếu người thân mang bệnh nặng như ở trong mây mù, tâm hồn mê man tán loạn, sợ nghe danh hiệu Phật, ưa thích ăn mùi vị máu thịt, không chịu nghe lời khuyên bảo, ái luyến vợ con, tay chân co quắp, toàn thân xuất mồ hôi, nói lời thô ác, thường nuốt nước miếng. Tướng ấy hiện ra, nhất định đi vào đường súc sanh.
Chú thích: (*) Nghi Thành:
Nơi sanh về của các hành giả tu các công đức bằng tâm nghi hoặc trong các cõi Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà. Hành giả dù được vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc, nhưng vẫn còn chưa hiểu thật tướng, nên đức Phật mới đáp ứng căn cơ của họ mà thị hiện cõi hóa sanh, đó là Nghi Thành. Nam Mô A Di Đà Phật ! Đại Sư Ưu Đàm !
+ Đời Sống sau khi chết: Cho đến nay, ít có người tiến hóa đủ để sau khi chết, thấy mình có được một hiện thể phần lớn làm bằng chất trí (mental substance). Chỉ có các đệ tử và các vị đạo đồ, tức là những người hầu như sống trong thể trí, sau khi chết, tức khắc thấy mình ở trên cõi trí. Đa số con người đều thấy mình ở cõi cảm dục, khoác lấy lớp vỏ (shell) bằng chất cảm dục (astral matter) và phải chịu một giai đoạn thải bỏ (olimination) bên trong vùng ảo giác (illusory area) của cõi cảm dục. (CTNM, 486)
+ Các Tự Tánh không chết theo xác thân: Đức Phật bảo ngài A Nan: Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh, truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển. Chưa từng khai ngộ bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu. Giảng giải:
Khi sự hiện hữu của thân xác đến tận cùng, khi thân thể tàn tạ và chết đi, thì mạng quang của quý vị dời chuyển; nhưng tánh giác, tánh nghe của quan niệm thì không biến hoại. Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh. Do đâu mà các chúng sinh chưa được thành Phật? Vì sao họ không hiểu đạo? Chỉ vì họ truy đuổi theo sắc thanh từ vô lượng vô biên kiếp trong quá khứ cho đến ngày nay. Họ đuổi theo sắc trần và thanh trần rồi dính mắc với chúng. Họ truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển, mãi mãi, và họ Chưa từng khai ngộ. Họ nhận lầm vọng rồi cho là chân và bị xoay chuyển theo các trần cảnh nầy. Họ quá dính mắc với những cái vọng và chẳng nhận ra cái gì chân, thế nên bây giờ họ chẳng biết bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu. Họ không hiểu được đạo lý này, vốn rất vi diệu, chân thật và thường trụ.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4, Chương V)
+ Các loại Ma chướng - Ma sự - Ma cảnh - Cảnh ma hay Cảnh giới khác hiện đến trong tu thiền:
+ Tại Sao Có Cảnh Giới Ma:
Người tu đạo nhất định phải hiểu rõ đạo lý này một cách đúng đắn, mới không đến nổi phải sa hầm sập hố. Tại sao xuất hiện cảnh giới ma?
Chính vì quý vị tu hành, quý vị siêng năng, nó mới có. Nếu quý vị không siêng năng, thì quý vị muốn tìm cảnh giới ma này cũng chẳng cách nào tìm được, nó không thèm đoái hoài gì đến quý vị. Tại sao thế? Bởi quý vị là kẻ nghèo, dù nó có đến cũng chẳng được ích lợi gì. Bây giờ quý vị tu hành, tu đến có được bảo bối -- vì quý vị có bảo bối trong tay, cho nên nó mới tìm đến để cướp lấy bảo bối của quý vị.
Vậy khi nó đến, quý vị phải làm sao? Quý vị phải như như bất động, tỏ rõ sáng suốt; đừng nên chấp tướng, đừng khởi bất kỳ một tâm chấp trước nào, cũng không nên nghĩ: “À! Cảnh giới này thật tuyệt! Hãy xuất hiện lại lần nữa đi!” Đừng hoan nghênh nó, cũng đừng ruồng rẫy nó, cứ giống như không có chuyện gì vậy, vì đây không phải cảnh giới của sự chứng quả; nếu quý vị không mống khởi ý tưởng chứng quả này thì không sao, còn giả như tự cho mình đã chứng thánh, nói rằng: “A! bây giờ ta đã siêu xuất rồi, ngay cả vi trùng sán trong thân ta, ta cũng lôi ra được”. Với quan niệm này tức cho rằng mình đã đắc thần thông tự tại, vậy là sai lầm rồi! Quý vị chỉ cần dấy một niệm cống cao ngã mạn thì ma liền xuất hiện, nó bám theo tâm cống cao này mà chui vào trong tâm quý vị. Nó chui vào tâm quý vị rồi thế nào? Nó sẽ chi phối làm cho quý vị bị chao đảo, không đạt được định lực.
Cho nên người tu đạo, quý vị nhất định phải hiểu đạo lý này một cách đúng đắn, mới không đến nỗi phải sa hầm sụp hố, mới không đến nỗi phải lạc bước lầm đường. Nếu quý vị không hiểu Phật Pháp thì dễ dàng bước vào đường sai lầm. Quý vị không có công phu, thì chẳng thành vấn đề; nhưng khi có công phu rồi thì ma vương giờ giờ khắc khắc đều đến rình rập quý vị, thừa dịp sơ hở của quý vị để quấy nhiễu.(Nguồn: Mục Tai sao có cảnh giới Ma - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngồi Thiền Gặp Ma Chướng: Quý vị ngồi Thiền tới một trình độ kha khá thì sẽ có ma tới thử thách xem Ðạo - lực của quý vị ra sao. Có khi chúng hóa hiện làm kẻ nam hay người nữ với dáng mạo đẹp đẽ để dụ dỗ-nếu không động tâm thì quý vị vượt qua được thử thách, nếu động tâm thì quý vị sẽ đọa lạc. Ðây là điều vô cùng quan trọng, quý vị hãy nhớ cho kỹ! Hễ sẩy chân lỡ bước là ôm hận ngàn đời! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng về Ái Dục)
+ Ma Cảnh trong Tham thiền- HT Tuyên Hóa dạy: Còn có các vọng tưởng tham muốn thấy Phật, thấy hoa thì đó là giả. Nghĩ tưởng thấy gì thì con sẽ thấy cái đó, nhưng cũng là giả. Chủ yếu là ở một niệm trước chưa sanh mà thấy cảnh giới thì đó mới là thật, mới là có ý nghĩa, nhưng có lúc nó lại vẫn là thuộc về huyễn hóa. Tham thiền thì tốt nhất là không nên có cảnh giới, cái gì cũng không có, vì chỉ là không. Cũng đừng kinh sợ, hay vui thích. Vì sợ hoặc thích đều là có thể bị ma nhập, như trong kinh Lăng Nghiêm có nói về 50 loại ngũ ấm ma. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 402 )
+ Dụng Tâm với Ma Cảnh: Tâm người tu nếu có Bồ Đề Tâm/ Tâm đại từ bi, tình thương vô lượng vô biên thì sẽ không cùng rung động với Tâm ma, Tâm ma có tình yêu (Năng lượng thu vào, muốn chiếm hữu, ích kỷ... mà không phải tình thương vô kỷ), là Tâm lượng nhỏ hơn Tâm Đại Từ Bi rất nhiều, do đó cảnh giới Ma chướng khó hiện tiền, có hiện tiền cũng không vui thích làm phiền người tu, vì Tâm không tương ứng (Clip 07- Thầy Hằng Trường giảng về Tay Ấn Pháp của Thần Chú Đại Bi - Phút 37)
- "Tôi là vô lượng quang minh": Lúc bác ngồi thiền là nhắm mắt lại, cảnh giới tới thì mình để cho nó đi. Lúc nào mình cũng nói "Tôi là vô lượng quang minh", mình đứng đó và nhìn ra, thấy tất cả mọi chuyện nhưng không động đậy. Tất cả cảnh giới trồi lên rồi sẽ lắng đi. Đó là phương thức rất quan trọng. Khi ngồi thiền là mình chuẩn bị tâm lý, mình ngồi đó và không động đậy. (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Phật dậy Ma Chướng trên Đường Tu Tập (Nguồn-Trang 128): ... Quí thầy là hàng hữu học Thanh-văn, Duyên- giác,... vẫn còn một việc mà quí thầy chưa biết, là những ma sự phức tạp có thể gặp phải trong lúc tu tập thiền định. Nếu cảnh ma hiện ra mà không nhận biết, thì việc tẩy trừ tâm cấu nhiễm sẽ không làm đúng cách, lại còn rơi vào tà kiến. Hoặc là ma ngũ ấm nơi chính mình, hoặc là thiên ma, hoặc là các loại quỉ thần, li mị, những thứ ấy hiện khởi mà trong tâm nếu không biết rõ ràng, thì chắc chắn sẽ nhận giặc làm con. Mặt khác, trong lúc tu tập, mới được chút ít đã cho là đầy đủ. Như tì kheo Vô Văn, vừa được định Tứ-thiền bèn nói dối là chứng Thánh quả. Đến khi phước báo chư thiên hết rồi, tướng suy hiện ra, lại hủy báng rằng: "Đã chứng quả A-la-hán mà còn thọ thân sau!", liền bị đọa xuống địa ngục A-tì. Vậy giờ đây quí thầy hãy lắng nghe cho kĩ, Như Lai sẽ vì quí thầy mà phân biệt rành rẽ:
- Những loài thiên ma, quỉ thần kia đều có được 5 thứ thần thông (chỉ trừ lậu tận thông là không có). Vì vậy, khi ở trong định thì quỉ thần, thiên ma, vọng lượng, yêu tinh, đến quấy phá. .. Chúng quấy phá được chăng, chính là do người chủ năm ấm ở trong tâm quí thầy; người chủ nếu mất chánh niệm thì khách mới được dịp quấy phá.
- Lúc đang nhập định, nếu trí tuệ sáng tỏ, không chút mê lầm, thì các ma chướng kia không làm gì được. Năm ấm tiêu tan, nhập vào kho tàng ánh sáng, thì bọn tà ma kia đều phải chịu phận tối tăm. Lấy trí tuệ sáng suốt để phá trừ u tối, ánh sáng đi tới đâu thì bóng tối tự tiêu mất tới đó. Như thế thì yêu ma làm sao dám ở lại để quấy nhiễu người tu thiền định?
- Nếu bị năm ấm mê hoặc, không thấy rõ cảnh ma, thì, này A Nan, ngay chính thầy là con của ma, và kết quả tu tập cũng chỉ trở thành ma quân mà thôi! Như cô Ma Đăng Già, sức hãy còn yếu ớt, nhưng chỉ dùng một câu chú mà bắt thầy phải phá luật nghi của Phật, trong tám muôn hạnh chỉ phá một giới; may mà tâm thầy còn thanh tịnh nên chưa bị chìm đắm. Còn bọn ma 5 ấm đây, chúng muốn phá hoại pháp thân huệ mạng của thầy, như ông quan tể tướng, một hôm phạm tội, nhà cửa gia sản liền bị tịch biên, long đong phiêu bạt, không ai thương xót cứu giúp được.
- Tu Tâm định: Cảnh giới thiện hiện tiền, nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt - Chớ coi là đã Chứng quả Thánh mà rơi vào tà kiến (nguồn-Tr 130)
- Với tâm định trên, bấy giờ, hành giả bỗng nghe tiếng nói pháp ở trên không, hoặc nghe khắp mười phương đồng diễn bày diệu nghĩa bí mật; đó gọi là tinh thần hồn phách đắp đổi khi lìa khi hợp. Hành giả không bám chặt - Chớ coi là đã Chứng quả Thánh mà rơi vào tà kiến (nguồn-Tr 130)
* Còn nhiều cảnh bị Ma chướng cần đọc kỹ (Xem từ trang 130 đến 159); Xem thêm: Chi tiết về Ma chướng
+ Cảnh Ma Chướng Khi Tham Thiền nhập định: Người nào căn lành mỏng ít, bị các tà ma ngoại đạo, hoặc quỷ thần làm não loạn, trong khi tham thiền, chúng hiện các hình tướng ghê sợ, hoặc hiện kẻ trai người gái xinh đẹp v.v... => Thì phải quán Duy tâm (Do Tâm Dụng công khi tham thiền mà có), lúc bấy giờ các ma này tiêu diệt, không còn làm gì nữa được.
Ví dụ: Hoặc chúng hiện hình chư Thiên, Bồ Tát, Phật, cũng đủ các tướng tốt; hoặc nói thần chú, nói pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ; hoặc nói pháp bình đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, không oán, không thân, không nhơn, không quả, rốt ráo trống không vắng lặng, gọi đó là Niết bàn. Hoặc chúng làm cho hành giả biết được đời trước của mình (túc mạng thông) hoặc biết những việc quá khứ vị lai, biết đặng tâm người (tha tâm thông) biện tài vô ngại. Chúng làm cho hành giả tham luyến danh lợi ở thế gian v.v...
- Hoặc ma làm cho hành giả tánh không chừng đỗi, hay giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bịnh, hoặc nhiều thương xót, tâm hay giải đãi; hoặc có khi rất tinh tấn, có lúc lại bê tha hoặc sinh tâm nghi ngờ không tin, và nhiều lo nghĩ; hoặc bỏ pháp tu căn bản, trở lại tu các tạp hạnh; hoặc đắm nhiễm các việc triền phược ở thế gian; hoặc làm cho hành giả đặng chút ít phần tương tợ như các pháp tam muội, song đó là cảnh bị chứng của ngoại đạo, không phải thật tam muội;
- Hoặc làm cho hành giả ở trong Định, từ một ngày hoặc đến bảy ngày, tự nhiên đặng món ăn thơm ngon, thân tâm vui thích, không biết đói khát; khiến cho hành giả rất ưa thích. Hoặc làm cho hành giả ăn không chừng đỗi, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi luôn.
=> Khi gặp các cảnh ma như vậy
- Hành giả phải đừng quyến luyến, nhiễm trước và đừng sanh tâm vui mừng hay lo buồn, mà phải luôn luôn quán Duy tâm; nghĩa là quán do dụng công tu thiền, nên tâm hiện ra các cảnh như vậy, chứ không có gì lạ và cũng không phải chứng chi cả. Kinh Lăng nghiêm, Phật nói: "... Nếu hành giả không chấp mình được Thiền hay chứng Thánh thì tốt, còn chấp mình Thiền hay chứng Thánh thì đoạ vào tà đạo". Phải dụng tâm như thế thì các cảnh ma kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu hành giả vui mừng, cho mình được Thiền hay chứng Đạo v.v... thì bị ma ám ảnh nhiễu hại; vì các việc ma là hiện thân của sự tham luyến vui buồn chấp thủ.
- Hành giả phải thường dùng trí huệ quán sát, siêng năng giữ gìn Chánh niệm, không nên chấp thủ, chớ để cho tâm mình đoạ vào lưới tà. Phải như thế hành giả mới xa lìa được các ma chướng. (Nguồn: Chi tiết về Ma chướng)
+ Tu thiền - Trong khi nhập định thấy cảnh giới thiện lành ứng hiện mà hành giả không bám chặt vào cảnh thiện lành, không cho mình là đã chứng bậc Thánh - Ngược lại là tà kiến, Ma chướng gồm:
- Trong Định Thấy Phật - Hoa sen: Cũng ở trong tâm định này, lắng trong thấu suốt, ánh sáng từ bên trong hiển hiện, chợt thấy mọi vật trong khắp mười phương đều biến thành màu vàng kim, tất cả các loài đều hóa thành chư Phật; lại thấy đức Phật Tì Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, có hàng ngàn đức Phật vây quanh; trăm ức quốc độ cùng với hoa sen cùng lúc xuất hiện. Ấy gọi là tâm thức linh ngộ; nhưng đó chỉ là sự huân tập do từng được nghe kinh pháp từ bao đời, bây giờ tâm sáng phát ra chiếu soi khắp các thế giới; chỉ tạm nói là như thế, chứ không phải đã chứng bậc thánh. (nguồn-Tr 130)
- Đức Phật dậy - Này A Nan! Mười cảnh tượng Ma Chướng như thế thường hiện ra trong lúc thiền định, đều do hành giả đối với sắc ấm chưa thấu triệt lí tánh, chỉ biết dùng thiền quán dồn nén vọng tưởng, nên hiện ra các việc đó. Chúng sinh mê muội, không tự xét tự lượng, gặp những cảnh tượng ấy thì nhầm lẫn không biết rõ, cho mình đã chứng quả thánh, thành ra mắc tội đại vọng ngữ, phải đọa địa ngục Vô-gián! Sau khi Như Lai diệt độ, quí thầy nên y theo lời dạy này, tuyên bày nghĩa lí cho chúng sinh trong đời mạt pháp; không để cho thiên ma có dịp quấy phá; đó là cách giữ gìn chánh pháp, che chở cho người tu hành thành đạo Vô-thượng. Còn nhiều trường hợp bị Ma chướng cần đọc kỹ (Xem từ trang 137 đến 159)
+ Xem thêm: Tooltip với thuật ngữ "Chứng đắc" cũng có nhiều nội dung tương tự thuật ngữ "Cảnh giới hiện" ,,,
+ Chòm Sao hay Tinh Tòa (CTHNM, 35; 37)
+ 12 Chòm sao/ Tinh tòa Hoàng Đạo: Xem như biểu hiện của trạng thái NL Linh hồn, được khảo cứu qua Tâm thức và phát triểnlinh hồn (Ý chí Bác Ái) (CTHNM, 37)
+ Ba chòm sao: Đại Hùng (Great Bear), từ Pleiades (Tua Rua) và từ Sirius (Ngưu Lang), chúng chi phối rộng, nhưng ngày nay vẫn tiềm tàng hơn là biểu lộ ; Riêng chòm Tua Rua có 7 năng lượng ảnh hưởng lên xác thân. (CTHNM, 470).
+ Ba nhóm tam giác - Truyền năng lượng của 3 Chòm Sao:
Đại Hùng Tinh --- Pleiades --- Sirius
Leo ........ Capricorn ..... Pisces
Các sao này truyền năng lượng xuyên qua
Saturn ...... Mercury .......... Uranus
Đi đến các trung tâm lực sau
Trung T lực đầu ... Trung T lực ..... Trung lực
của hành tinh ..... ấn đường HT .... Tim H.Tinh.
Từ đó đi đến
TT lực đầu..... Trung T lực ....... Trung T lực
của đệ tử .... ấn đường đệ tử .... tim của đệ tử.
và sau rốt kiểm soát
Đáy X.Sống .... Bí H cổ họng .... H. Đan điền
- Hai nhóm năng lượng chi phối trái đất:
(i)- Bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh là cội nguồn xuất phát của 7 cung của thái dương hệ chúng ta. Mỗi một trong 7 năng lượng này được truyền vào Thái Dương hệ chúng ta qua 3 chòm sao (Hoàng Đạo) và các Hành tinh chi phối chúng. (Xem Bảng tổng hợp Minh triết mới)
(ii)- 12 Chòm sao hòa lẫn năng lượng Cung => Tạo ra lưỡng nguyên chi phối cuộc sống hành tinh. (Nguồn: CTHNM, 477-478)
+ 12 chòm sao: Các đạo sinh cũng sẽ thành công khi nhớ rằng 12 chòm sao đang tạo ra hoàng đạo đặc biệt của chúng ta chính là các nơi nhận nhiều luồng năng lượng đến với chúng từ nhiều cội nguồn. Chúng hòa lẫn và pha trộn với năng lượng của bất luận chòm sao đặc biệt nào và – chuyển hóa và “thanh luyện về mặt huyền linh” – sau rốt tìm ra con đường của chúng đi vào thái dương hệ chúng ta. (CTHNM, 18)
+ Tinh tòa gồm hai hay nhiều Thái Dương Hệ hay chuỗi Mặt Trời với các hành tinh (planet) đi kèm theo các Mặt Trời. Các Thái Dương Hệ này được giữ chung với nhau như một tổng thể cố kết do sự tương hệ mạnh mẽ của các thái dương, mà sự liên hệ từ lực được quân bình đến nỗi, nói về mặt huyền linh, “Các mặt trời cùng tiến bước trong phạm vi năng lực của nhau”. Các mặt trời duy trì các khoảng cách tương đối với nhau và truyền sinh lực cho các hành tinh của mình, nhưng đồng thời cũng duy trì một sự đồng đều về sự quân bình và về ảnh hưởng. Trong vài trường hợp hiếm có, sự quân bình này bị xáo trộn và có việc tăng hay giãm ảnh hưởng và năng lực thu Hút. (TLHNM I, 152)
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh Hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
- 12 Hành tinh đang chi phối 12 Cung Hoàng đạo, có liên quan trước tiên đến biểu lộ ở cõi trần của con người, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã (CTHNM, 63)
Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo
Xem: Bảy Cung; Cung H.Đạo; Lá số Chiêm tinh; Biểu đồ cung; Khẩu hiệu P.Ngã và L.Hồn
Xem: Tổng hợp về chòm sao
Xem: Tổng hợp về 7 Cung đến Thái Dương hệ - Địa cầu và Nhân loại
+ Vòng Hoàng đạo (Hoàng đới, Zodiac): Là con đường tưởng tượng của Mặt Trời trong bầu trời. (Ngoại môn-như ảo tưởng), nhưng các chòm sao lại có thực, và các luồng năng lượng đang qua lại, trộn lẫn, đan bện khắp không gian thì không phải là ảo tưởng chút nào mà rõ ràng là biểu hiện cho các mối liên hệ vĩnh cửu. Chính việc dùng sai các năng lượng khác nhau đã tạo ra ảo tưởng. (CTHNM, 62);
Xem nguồn + Có 2 zodiacs, vốn khá riêng biệt và khác biệt:
- Vòng Thiên thể: Thiên văn & CTH phương Đông dùng, dựa trên vị trí thực tế của các ngôi sao, và được cố định trên bầu trời.
- Vòng Chí tuyến: CTH phương Tây liên kết với điểm xuân phân, và điểm này di chuyển theo sự thay đổi từ từ của trục Trái đất qua thời gian dài. Nó thích hợp nhất cho con người ở mức độ tiến hóa hiện tại, nó tạo thành một phần của ảo ảnh vĩ đại mà con người đang phải chịu. Xem nguồn; Xem thêm:
+ Tóm tắt lịch sử Hoàng đạo: Có 3 quyển sách mà 3 loại người nghiên cứu và học hỏi trong đó: (i)- Sách về sự sống - Các Điểm đạo đồ - 12 Chòm sao; (ii)- Sách Minh triết - Các Đệ tử - 12 Hành tinh; (iii)- Sách về hình hài hay biểu lộ - Nhân loại - 12 Huyền giai sáng tạo + Tương tác Vòng Hoàng đạo với nhân loại: (i)- Tiểu Hoàng đạo: Vị trí các Hành tinh trong Vòng H.Đạo chi phối sự sống và ảnh hưởng đến Nhân loại trung bình trở xuống; (ii) Nhân loại thông minh bậc trung và người chí nguyện, dự bị đệ tử thì đáp ứng sáng suốt các Hành tinh đang ảnh hưởng Phàm ngã, Cung Thái dương, cung mệnh; (iii)- Đệ tử, điểm đạo đồ thì đáp ứng tất cả + Năng lượng 3 Chòm sao chính (CTHNM, 40)
Vòng lớn của hoàng đạo (Great round of the zodiac): Đại hoàn của hoàng đạo (một chu kỳ độ chừng 25.000 năm) trong đó mặt trời vượt qua tất cả mười hai cung (signs) của hoàng đạo.(SHLCTĐ, 269)
+ Thiên Vương Tinh: Uranus truyền dẫn Cung 7 (GQ1- CT con người)
+ Không ổn định, tự phát, bốc đồng, sáng tạo, không có kỷ luật
+ Thiên vương tinh có liên quan đến phát minh, khám phá, kích động, công nghệ, thiên tài, lệch tâm, điện, và tai nạn, trong số những thứ khác.
- Giả thuyết của tôi là Thiên vương tinh nạp năng lượng cho bất cứ cái gì nó chạm vào và làm cho nó tự do. Thiên vương tinh tìm kiếm tự do và độc lập
- Nhà chiêm tinh Stephen Arroyo chỉ ra một mặt của sao Thiên Vương mà không được chú ý nhiều: ích kỷ.
+ Hãy nhớ rằng cung 7 có liên quan nhiều đến luân xa xương cùng và luân xa đáy cột sống, nhưng khi Chân sư DK nói với bạn về luân xa xương cùng, Ngài cho Uranus là một trong những chủ tinh cai quản nó, và bạn nhớ, Uranus là hành tinh cung 7 nổi bật. Vì vậy, chúng ta phải thực sự không tham gia vào cách thức mua sắm (Ảo cảm tình dục/ Cô gái và xe đẹp) này vốn được sử dụng cho mục đích thứ yếu. (Nguồn: Chương Ảo cảm cung 7 phần 1, mục Ảo cảm về Ma thuật tình dục)
+ Hành Tinh Uranus - Thiên Vương tinh (Tham khảo trong Giáo lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Uranus được cổ nhân biết dưới tên khác.” (GLBN I, 126)
2. “Cronus (thời gian)… được tượng trưng như là Uranus bị cắt xén (mutilating Uranus)… Thời gian tuyệt đối được tạo ra để trở thành hữu hạn và có điều kiện.” (GLBN I, 450)
3. “Trong số ba tinh cầu bí ẩn hay các Tinh Tú Thiên Thần (Star Angels), Uranus… không được bao gồm.” (GLBN I, 629)
4. Uranus … nhân cách hoá mọi năng lực sáng tạo và đồng nghĩa với Cronus. (GLBN II, 281 – 282)
5. “Cổ nhân không biết tới Uranus và họ bắt buộc tính Mặt Trời trong số các hành tinh… Uranus là một tên gọi hiện đại, nhưng có một điều chắc chắn, cổ nhân đã có một hành tinh bí mật mà họ không bao giờ đặt tên. Hành tinh thứ 7 này không phải là Mặt Trời mà là Đại Tư Tế (Hierophant) thiêng liêng ẩn mật.” (GLBN III, 330)
6. “Hiện nay Uranus đang được kích hoạt.” (LVLCK 357)
7. “Là một trong ba hành tinh tổng hợp, còn Sirius có ảnh hưởng đến toàn bộ thái dương hệ chúng ta xuyên Uranus, Neptune và Saturn”. (LVLCK 378)
8. “Uranus là trú sở của “lửa điện.” (LVLCK 1154)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem: Tổng hợp về Thiên Vương tinh
+ Bạch Dương - Dương Cưu/ Aries / ♈: Hành Hỏa (Xem); Dẫn truyền (Cung 1 - Cung 7) (Xem)
- Tiên phong, độc lập, tự lực, không quan tâm với người khác, dễ bị rủi ro;Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 01, có đặc tính tương ứng: Thái độ cơ bản đối với cuộc sống. Tham gia ;
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Hoả tinh; Cung 6 (CTHNM, 80) (Hỏa tinh và Hải Vương Tinh dẫn Cung 6)
- Khẩu hiệu: Hãy để cho hình tướng được tìm kiếm lần nữa.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4_(CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi tiến tới và từ cõi trí, tôi thống trị.
+ Kim Ngưu/ Taurus: Hành Thổ (Xem); Dẫn truyền(Cung 4) (Xem)
- Cần cù, ổn định, thực tế, bảo thủ, yêu thiên nhiên; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 2, có đặc tính: Thái độ đối với tài sản, thân thể, vật dụng, người phối ngẫu, giá trị, đạo đức;
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5; (Kim Tinh truyền dẫn Cung 5)
- Khẩu hiệu: Hãy để cho sự đấu tranh không nao núng.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Vulcan; Cung 1 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi thấy, và khi mắt mở ra, tất cả là ánh sáng.
+ Song Tử/ Gemini (Song Nam - Song Sinh): Hành Không Khí (Xem); Dẫn truyền(Cung 2) (Xem) - Ánh sáng, thoáng mát, nhiều sở thích, thông minh; ;Xem nguồn - Chủ quản Nhà thứ 3, có đặc tính tương ứng: Quan tâm về môi trường sát bên. Cách hiểu và học hỏi + Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4 (CTHNM, 80);
Kim Tinh dẫn Cung 5 - Khẩu hiệu: Hãy để sự bất ổn làm công việc của nó. + Nội Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi thấy cái ngã khác của tôi và trong sự suy tàn của cái ngã đó, tôi tăng trưởng và bừng sáng.
+ Gemini là cung quan trọng nhất trong số 12 cung hoàng đạo và ảnh hưởng của nó nằm đàng sau mỗi một trong các cung đó ‒ cho đến nay ít chiêm tinh gia nhận ra. Điều này sẽ được hiểu một cách đầy đủ hơn khi tam giác hợp bởi Gemini và hai cung đối lập được nghiên cúu. Vì Cung Bác ái-Minh triết, tức Cung 2, đang tuôn đổ qua Gemini, nên hiển nhiên là chính xác biết bao khi giáo lý huyền môn dạy rằng tình thương nằm dưới toàn thể vũ trụ. Chúng ta tin chắc rằng Thượng Đế là tình thương, và cách diễn đạt này chính xác cả về ngoại môn lẫn nội môn. Tình thương ẩn bên dưới của Thượng Đế đi đến thái dương hệ chúng ta trước tiên qua Gemini, mà cùng với chòm sao Đại Hùng và Pleiades, Gemini hợp thành một tam giác vũ trụ. Nói một cách tượng trưng và theo Cổ Luận : “Trên tam giác vàng, Christ vũ trụ xuất hiện; đầu của Ngài ở trong Gemini; một chân ở trên khu vực của bảy Từ Phụ, còn chân kia được đặt vững vàng trong khu vực của bảy Từ Mẫu(hai chòm sao này đôi khi được gọi là Bảy Huynh Đệ và Bảy Tỷ Muội ‒ A.A.B). (CTHNM, 395)
+ Sư Tử - Hải Sư/ Leo: Hành Hỏa; Dẫn truyền (Cung 1 - Cung 5) (Xem)
- Tự ý thức, sáng tạo, quan trọng, tự hào hoặc nhút nhát, thành thật, trung thành, cá nhân ;
- Chủ quản Nhà thứ 5, có đặc tính tương ứng: Tính sáng tạo, trò chơi, thể thao
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Mặt Trời; Cung 2 (CTHNM, 80); (Mặt trời và Mộc tinh dẫn Cung 2)
- Khẩu hiệu: Hãy để cho các hình tướng khác tồn tại. Tôi cai trị.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Mặt Trời; Cung 2 (CTHNM,81)
- Khẩu hiệu: Tôi là Cái Đó và Cái Đó là tôi.
+ 595. SƯ TỬ LÀ ĐỆ NHẤT
Cũng như trong các loài thú, Sư tử vương là tối đệ nhất (Sư tử cũng chủ về ngu si - HT Tuyên Hóa). Ví như khi các trận cùng đấu chiến nhau thì yếu thệ là thứ nhất. Cũng như các đòn tay của lầu gác, tất cả đều y cứ trên đòn dông, thiết lập trên dông, được duy trì bởi đòn dông, đòn dông là bậc nhất vì duy trì tất cả. Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất. (Trung A Hàm, Kinh Dụ, Phẩm 11, số 141)
+ Sư tử là vua các loài thú: Trong Kinh Sala Đức Phật có dạy rằng: “Này các Tỳ kheo, ví như trong các loài bàng sanh, con sư tử – vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ”....Thật vậy, để đạt đến sự giác ngộ giải thoát thì trí tuệ được xem là tối thượng, cũng như trong Bát chánh đạo, chánh kiến được xếp đầu tiên. Bởi lẽ phải có cái nhìn và sự nhận biết một cách đúng đắn, không bị phong tục tập quán, thành kiến xã hội, dục vọng ngăn che làm sai lạc thì chúng ta mới thực hành đúng con đường chánh pháp của Đức Thế Tôn. Và trong bài Kinh Ánh sáng, Đức Phật cũng đề cập đến ánh sáng trí tuệ như sau: “Này các Tỳ kheo, có bốn loại ánh sáng "Ánh sáng mặt trăng, ánh sáng mặt trời, ánh sáng ngọn lửa và ánh sáng trí tuệ". Và này các Tỳ kheo, loại tối thượng trong bốn loại ánh sáng là ánh sáng trí tuệ” (Nguồn: Trí tuệ người xuất gia)
Xem: CTHNM - Giới thiệu về Sư Tử
+ Xử Nữ/ Virgo (Thất Nữ/ Trinh Nữ): Hành Thổ (Xem); Dẫn truyền(Cung 2 - Cung 6) (Xem) - Có phương pháp, tổ chức, cầu kỳ, chính xác, lạnh lùng, khắc nghiệt, đòi hỏi;Xem nguồn - Chủ quản Nhà thứ 6, có đặc tính tương ứng: Công việc, nỗ lực thực tế + Cung của Xử Nữ: 2,6 "Tôi Phân Biện" + Ngoại Môn/ Phàm ngã: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4 (CTHNM, 80);
(Cung của sao Thủy dẫn: Cung 4) - Sao Thủy điều khiển thể trí, là lực chiếm ưu thế ở cấp độ phàm ngã. Đáp ứng với câu châm ngôn "Hãy để vật chất thống trị " tâm trí tràn ngập những tư tưởng về tiền bạc và tài sản. - Cung 4 Điều Hòa trong Xung Đột thêm màu sắc chiến tranh và đối nghịch vào tâm trí của Xử Nữ. Bề ngoài của phàm ngã có vẻ cư xử tốt, nhưng tâm trí lại có một quan điểm hạn hẹp, khó khăn, xét nét, chỉ trích. - Mặt tích cực: thúc đẩy tính phân tích cẩn trọng và chú ý đến từng chi tiết, khuyến khích phàm ngã phấn đấu để hoàn thiện trong hình thể và đời sống của phàm ngã. - Khẩu hiệu ngoại môn: “ Hãy để vật chất thống trị .” + Nội Môn: - Chủ tinh: Mặt Trăng; Cung 4 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu/ Mantram: “Tôi là Mẹ và Con; Tôi là Thượng đế, Tôi là Vật chất.”; + Những linh hồn tiến hoá làm việc qua cung Xử Nữ là những người phụng sự thực sự, thầm lặng cống hiến cho những lý tưởng cao cả nhất, cho sự nâng cao nhân loại. Là hạt giống của Thời Đại Mới, gieo vào những người khác ánh sáng sẽ chiếu rọi khắp thế gian trong thời đại Bảo Bình. Có nhiều ở lãnh vực chữa bệnh và giáo dục, nghề nghiệp mà các Ashram Cung 2 chịu trách nhiệm. Năng lượng của Vulcan là Cung 1 rực lửa, ban tặng sức mạnh và khả năng lãnh đạo. <theo tài liệu Trường MF>
+ Thiên Bình/ Libra (Thiên Xứng): Hành Không khí/ Dẫn truyền Cung 3; Cần đối tác và bạn bè, dễ tính, đòi hỏi sự công bằng, khoan dung; Quản Nhà 7, có đặc tính tương ứng: Hợp tác và bạn bè
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5 (CTHNM, 80); Khẩu hiệu: Hãy để sự lựa chọn được thực hiện
+ Nội Môn: Chủ tinh: Thiên Vương tinh (Cung 7); Khẩu hiệu: Tôi chọn con đường dẫn giữa hai đường lực lớn
+ Chân Sư DK: Libra có liên quan chặt chẽ với Ngôi 3 của Chúa Cha và do đó nó là cung đang cai quản và là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này. Cả 3 khía cạnh thiêng liêng... biểu lộ theo 3 cách hay là qua 3 trạng thái thứ yếu,... Chính là qua việc nghiên cứu Libra mà ánh sáng đối với trạng thái thứ 3 sẽ đến. Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, dưới hình thức lập pháp, tính hợp pháp, công lý; Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục; Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ ba là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Toàn bộ tiến trình được giải thích bằng hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn (Xem thêm về Tam giác lực với Libra ở đỉnh; CTHNM, 275)
+ Nhân Mã/ Sagittarius (Xạ Thủ - Cung Thủ): Hành Hỏa (Xem); (Dẫn truyền Cung 4 - Cung 5 - Cung 6; Xem)
- Mở rộng, không đẹp, đi xa, tránh chi tiết, lạc quan; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 9, có đặc tính tương ứng: Du lịch, quan điểm rộng lớn về mọi thứ, triết học, chính trị
+ Ngoại Môn:
- Chủ tinh: Mộc Tinh; Cung 2 (CTHNM, 80); (Mặt trời và Mộc tinh dẫn Cung 2)
- Khẩu hiệu: Hãy để thực phẩm được tìm kiếm lần nữa
+ Nội Môn:
- Chủ tinh: Địa Cầu; Cung 3 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi nhìn thấy mục tiêu. Tôi đạt đến mục tiêu đó và sau đó tôi nhìn thấy mục tiêu khác.
+ Cung Nhân Mã có tương quan với những người sống động ở cõi giới thứ 6, cõi cảm dục, liên quan mật thiết với cung 6. (Ví dụ: Tất cả những điều này đã tác động mạnh lên Einstein làm ông có ý thức mạnh mẽ về chủ nghĩa duy tâm. Mặt trăng của ông được đặt trong cung Nhân Mã; Mặt trăng có liên quan nhiều đến phản ứng cảm xúc, và theo trật tự của Thánh đoàn Sáng tạo( Chiêm tinh học Nội môn, trang. 35)
+ Ma Kết/ Capricorn (Nam Dương): Hành Thổ (Xem); (Dẫn truyền Cung 1 - Cung 3 - Cung 7; Xem)
- Ma Kết (Đỉnh bánh xe, tầm cao, đỉnh núi thành đạt, nhìn thấy tất cả) tương ứng người Cha - Đối cực là Cự Giải (Đáy bánh xe, gốc rễ sự tồn tại của chúng ta) tương ứng người Mẹ
- Hệ thống, theo một kế hoạch, thực tế, khách quan, có trách nhiệm, thực tế, khô khan; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 10, có đặc tính tương ứng: Sự nghiệp, vai trò trong cuộc sống
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thổ Tinh; Cung 3 (CTHNM, 80); (Trái đất và Thổ tinh dẫn Cung 3)
- Khẩu hiệu:
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Thổ Tinh; Cung 3 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi lạc trong ánh sáng siêu nhiên, thế nhưng tôi quay lưng lại ánh sáng đó.
+ Ba cung Hoàng đạo với 3 trạng thái sự sống thiêng liêng (CTHNM, 277):
1. Taurus/ Kim Ngưu – giới động vật – định luật, luật tự nhiên.
2. Libra/ Thiên Bình – giới thực vật – tính dục (sex) – ái lực tự nhiên.
3. Capricorn/ Ma Kết – giới khoáng vật – tiền tài – biểu hiện cụ thể của Luật Cung Cầu.
+ Bảo Bình/ Aquarius (Thủy Bình): Hành Không Khí (Xem); (Dẫn truyền Cung 5; Xem)
- Thân thiện, năng động trong xã hội, thông minh, vô tư, đô thị; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 11, có đặc tính tương ứng: Tổ chức, câu lạc bộ, hoạt động xã hội
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thiên Vương Tinh; Cung 7 (CTHNM, 80); (Chiêm TH cổ điển dùng Thổ Tinh; Cung 3)
- Khẩu hiệu: Hãy để khao khát hình tướng là kẻ thống trị.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Mộc Tinh; Cung 2 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi là nước sự sống, tuôn đổ cho những người khát.
- Các năng lượng cảm dục phát xuất từ cung hoàng đạo mới mà hiện nay chúng ta đang tiến vào, cung Bảo Bình. Cung này, cung của người mang nước là một cung linh hoạt và là một cung thuộc tình cảm. Nhờ tác dụng của thần lực mạnh mẽ của nó, cung này sẽ kích thích các thể cảm dục của con người vào một tình trạng cố kết mới, vào tình huynh đệ của nhân loại, tình huynh đệ này không có mọi dị biệt về chủng tộc và quốc gia và sẽ đưa sự sống của nhân loại tiến vào tổng hợp và hợp nhất. (LVHLT, 313-314)
+ Song Ngư/ Pisces: Cung hoàng đạo đầu tiên vì nó chi phối chu kỳ chiêm tinh 25.000 năm của thế giới, Cung có ưu thế, có ảnh hưởng đến hành tinh chúng ta vào lúc biệt ngã hóa khi giới nhân loại xuất hiện. Về căn bản, cung đó có liên quan với Huyền Giai Sáng Tạo thứ 1 hay cao nhất, mà đến phiên nó có liên quan với Cung 3, Cung Thông Tuệ Linh Hoạt. Đó là sản phẩm của thái dương hệ thứ nhất. Sự phát triển của sự giác ngộ nhờ một trí tuệ được khơi hoạt là mục tiêu đầu tiên của nhân loại. (CTHNM, 47)
- Hành Thủy (Xem); (Dẫn truyền Cung 2 - Cung 6; Xem)
- Trực quan, nhạy cảm, khả năng nghệ thuật và nhân văn, toàn diện, hy sinh; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà 12, có đặc tính: Lương tâm, tội lỗi, phụng sự cộng đồng
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: * Mộc Tinh/ Jupiter; Cung 2 (CTHNM, 80);
(CTH Cổ dùng Mộc Tinh; Cung 2); (GQ1.6 dùng Hải Vương tinh; Cung 6)
- Khẩu hiệu: Hãy đi vào vật chất.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Diêm Vương Tinh; Cung 1 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi rời Nhà Cha và khi quay lại, tôi cứu rỗi.
+ Chủ Tinh/ Hành Tinh Cai quản Cung Hoàng đạo có 3 mức: Công Truyền - Bí truyền - Huyền Giai
+ Chủ tinh công truyền (Esoteric Astrology). Đức DK có danh sách các Chủ Tinh Nội Môn và Chủ tinh Huyền Giai áp dụng cho các đệ tử và điểm đạo đồ. - Là sự cộng hưởng. Những phẩm chất của dấu hiệu hoàng đạo tương tự hoặc hợp tác với những phẩm chất của một hành tinh cụ thể. Bằng cách này, những phẩm tính của dấu hiệu hoàng đạo đi vào hệ mặt trời của chúng ta thông qua môi giới của hành tinh có phẩm chất phù hợp với phẩm chất của dấu hiệu hoàng đạo đó.(Chiêm THNM 17)
+ Chủ tinh/ Hành tinh Cai quản Lá số chiêm tinh: Xem cung Mọc của bạn. Hành tinh cai quản Cung Mọc là hành tinh chủ quản/ Chủ tinh lá số của bạn. Ví dụ, nếu Xử Nữ là Cung Mọc - Thuỷ tinh quản Lá số. Nếu Nhân Mã là Cung Mọc - Sao Mộc chủ tinh lá số. Bây giờ hãy lưu ý cẩn thận hành tinh cai quản lá số của bạn (chủ tinh của lá số) ở cung nào, nhà số mấy. Vị trí của nó có ảnh hưởng lớn trong cuộc sống của bạn và nhuộm màu cá tính của bạn tới một mức độ rộng lớn. Bạn hãy chắc chắn tìm ra chủ tinh của bạn và kiểm tra vị trí của nó trong lá số của bạn. Đây là đầu mối quan trọng khi diễn giải một lá số.(Nguồn: CTH ngoại môn 4) - Ngoài ra còn Chủ tinh Cung Mặt Trời, Cung Mặt Trăng đều có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực nó cai quản.
+ Chủ Tinh Lá Số: Mỗi lá số có một hành tinh cai quản, rất dễ tìm. Đơn giản, bạn chỉ cần nhìn vào cung Mọc của bạn. Hành tinh cai quản Cung Mọc là hành tinh chủ quản lá số của bạn. Ví dụ, nếu Xử Nữ là Cung Mọc, hành tinh chủ quản lá số của bạn là Thuỷ tinh. Nếu Nhân Mã là Cung Mọc của bạn, hành tinh chủ quản lá số của bạn là sao Mộc. Bây giờ hãy lưu ý cẩn thận hành tinh cai quản lá số của bạn (chủ tinh của lá số) ở cung nào, nhà số mấy. Vị trí của nó có ảnh hưởng lớn trong cuộc sống của bạn và nhuộm màu cá tính của bạn tới một mức độ rộng lớn. Bạn hãy chắc chắn tìm ra chủ tinh của bạn và kiểm tra vị trí của nó trong lá số của bạn. Đây là đầu mối quan trọng khi diễn giải một lá số. (Xem: Diễn giải Chiêm tinh học ngoại môn 4)
Xem thêm trang Thuật ngữ: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Cung Hoàng Đạo (Trái đất làm Tâm/ Địa tâm): Có 12 phần = 30 độ = 12 Cung; Có 12 nhà (Địa bàn/ Cố định) - Ngoại môn/thuận chiều V.chất - Nhân loại hiện nay, đi từ Dương Cưu => Kim Ngưu qua Song Ngư; - Nội môn/ Tâm linh: Ngược lại, tức từ Dương Cưu ... Song Ngư qua Kim Ngưu (CTNM, 28)
+ Cực bắc - Nam: ..... Ở nơi chỉ các Cực [trục cực] thẳng góc với nhau, có các dấu hiệu chứng tỏ rằng đây không phải là lần cuối cùng chúng ở vị trí đó, mà là lần đầu tiên [-sau khi các vòng Hoàng Đạo đã được vạch ra]. Cung Nam Dương (Capricorn) được biểu diễn ở Bắc Cực; còn cung Bắc Giải (Cancer) được chia ra ở gần giữa, tại Nam Cực; đó là một điều khẳng định rằng thoạt tiên, chúng đã có mùa đông khi Mặt Trời ở cung Bắc Giải. Nhưng Cung Mãnh Sư (Lion) và cung Xử Nữ (Virgin) (1 ) chính là đặc tính chính của việc đó là một đền đài lần đầu tiên kỷ niệm rằng Cực đã ở vị trí ấy........ Vì ba lần đảo ngược (inversions) các Cực trái đất tất nhiên đã biến cải Hoàng Đạo, nên mỗi lần đổi cực là người ta phải xây dựng một Hoàng Đạo mới.... (GLBN, tr 811)
+ Các Cung Hoàng Đạo ở 3 Cấp Độ Tâm Thức (Chiêm THNM, 332)
+ Mặt Trời: Đồ hình hình tròn, ta thấy Mặt trời đi theo chiều kim đồng hồ, từ dưới phía Đông đi lên đỉnh đồ hình là đỉnh đầu - 12 giờ trưa (Xem)
+ 12 Cung HĐ dẫn truyền: BẠCH DƯƠNG (1 và 7) ; KIM NGƯU (4) ; SONG TỬ (2) ; CỰ GIẢI (3 và 7) ; HẢI SƯ hay SƯ TỬ (1 và 5) ; XỬ NỮ (2 và 6) ; THIÊN BÌNH (3) ; HỔ CÁP (4) ; NHÂN MÃ (4, 5, 6); MA KẾT (1, 3, 7); BẢO BÌNH (5); SONG NGƯ (2 và 6)
+ 12 cung chia 2 nhóm. 7 Cung có biểu tượng nhị nguyên (CTHNM, 69):
1- Bảy cung có liên quan phát triển tâm thức hành tinh trên Địa Cầu và chỉ ngẩu nhiên liên quan đến Huyền Giai Sáng Tạo 4 (Nhân loại)
2- Năm cung có liên quan việc phát triển Huyền Giai Nhân loại trong thời gian và không gian. 5 cung quyết định chính yếu: a/ Cancer. b/ Leo. c/ Scorpio. d/ Capricorn. e/ Pisces. Ứng với 5 giống dân lớn, mà giống dân hiện tại của chúng ta, chủng Aryen, là thứ năm. 5 chủng tộc này tạo ra các biểu lộ bên ngoài gọi là 5 lục địa – Châu Âu, Châu Phi, Châu Á, Châu Úc, Châu Mỹ. Đối với Đấng hành tinh, 5 lục địa này cũng như 5 tuyến nội tiết chính yếu đối với con người. Chúng được liên kết với 5 trung tâm lực (CTHNM, 482)
+ 12 Cung Hoàng đạo: Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ 12 Hành tinh đang chi phối 12 Cung Hoàng đạo, có liên quan trước tiên đến biểu lộ ở cõi trần của con người, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã (CTHNM, 63)
- Định hình số mệnh: Năng lượng của cung Hoàng Đạo mà một người được sinh ra trong đó, nó cho thấy vấn đề hiện tại của người ấy, nó xếp đặt bước đi hay nhịp độ đối với cuộc sống, tính chất của Phàm Ngã người ấy. Nó chi phối trạng thái hoạt động của cuộc đời người này trong lúc đầu thai.
Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo Xem: Cung Hoàng Đạo;
+ Bảy cung năng lượng bảy cung vũ trụ có đặc tính chuyển động, chia làm 3 nhóm đặc trưng, nổi bật:
1. Nhóm 1 - Chuyển động xô thẳng, trong đó - Cung 1 (Cung chính): Chuyển động xô thẳng mạnh mẽ, không thể cản trở, như mũi tên/ viên đạn bay - Cung 7 (Cung phụ) : Chuyển động thẳng tiến, nhưng nhịp nhàng uyển chuyển như Ngựa lướt uyển chuyển
2. Nhóm 2 - Chuyển động xoay vòng, trong đó: - Cung 2 (Cung chính): Chuyển động tròn, đều đặn, vừa mức theo một hướng - Cung 4 (Cung phụ) : Chuyển động xoay vòng tới lui - Cung 6 (Cung phụ) : Xoay tròn một chiều mạnh mẽ, tuôn tràn chủ nghĩa lý tưởng nhiệt thành, sùng tín
3. Nhóm 3: Chuyển động zích zắc, vô phương, trong đó - Cung 3 (Cung chính): Rất năng động, đa năng, có thể cuồng loạn - Cung 5 (Cung phụ) : Hoạt động có chừng mực, dừng nghỉ (Suy nghĩ), chuyển động tiếp, ngừng lại ..v.v.. Xem: Tâm lý học nội môn 2 - minhtrietmoi.org
+ Tiền Tài: Chỉ có kẻ nào không ham muốn gì hết cho riêng mình mới có thể trở thành kẻ thu nhận nguồn tài chính phong phú và là kẻ phân phối tài nguyên của vũ trụ. Trường hợp khác, khi tài sản gia tăng, chúng không đem lại điều gì ngoại trừ phiền não, lo lắng, không vừa lòng và lạm dụng. (ĐĐNLVTD, 78–79)
+ Chân Sư DK: Libra có liên quan chặt chẽ với Ngôi 3 của Chúa Cha và do đó nó là cung đang cai quản và là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này. Cả 3 khía cạnh thiêng liêng... biểu lộ theo 3 cách hay là qua 3 trạng thái thứ yếu,... Chính là qua việc nghiên cứu Libra mà ánh sáng đối với trạng thái thứ 3 sẽ đến. Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, lập pháp, tính hợp pháp, công lý; Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục; Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Nghiên cứu thật kỹ hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn ..... (CTHNM, 275)
* Xét với Libra ở đỉnh: Thiên luật, tính dục, tiền tài sẽ mang lại manh mối cho 3 cõi thấp (qua 3 cung Taurus, Libra và Capricorn)...;
1. Taurus (Kim ngưu) – giới động vật – định luật, luật tự nhiên. [Chủ quản: Kim tinh/ Venus]
2. Libra (Thiên bình) – giới thực vật – tính dục (sex) – ái lực tự nhiên. [Chủ quản: Kim tinh/ Venus]
3. Capricorn (Ma kết) – giới khoáng vật – tiền tài – biểu hiện cụ thể của Luật Cung Cầu. [Chủ quản: Thổ tinh/ Starurn]
Với Libra ở đỉnh và chiếm ưu thế, Uranus (Hiện nay, Thiên Vương tinh chủ quản ngoại môn cung Bảo Bình/ Aquarius, thay thế Thổ tinh là chủ quản ngoại môn cổ. Uranus chủ thể chi phối bí ẩn và quan trọng bậc nhất trong cung (Libra) này, vì cung năng lượng thứ 7 tác động qua hành tinh này..... Nơi đây toàn bộ bí ẩn về tiền bạc được ẩn giấu và cả sự sáng tạo và sản xuất của tiền tài. Chỉ một mình Ngôi 3 mới có liên quan tới tiến trình sáng tạo. Chính qua mối liên hệ của 3 trạng thái của biểu lộ thiêng liêng thứ ba – định luật, ái lực và năng lượng được cụ thể hóa – mà tiền tài được tạo ra (CTHNM, 277)
+ Bố thí - Tương ứng: Cho ăn là cho lực, mặc là sắc, xe là lạc, đèn là mắt; Ai cho chỗ trú xứ, Vị ấy cho tất cả, Ai giảng dạy Chánh pháp, Vị ấy cho bất tử (Tương Ưng Bộ Kinh I. 73)
+ Tài Sản hao tán và tài sản vĩnh cửu không bao giờ mất:
- Tài sản hữu hình luôn là của 5 nhà: ... Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch.
- Tài sản không bao giờ mất: Có 7 tài sản không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Gồm: Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài và tuệ tài. Bảy loại tài sản này, này Ugga, không bị lửa, nước, ... chi phối. Ai có tài sản này, người ấy là đại phú, thiên nhân giới khó thắng.
(1) Tin sâu vào Chánh pháp, Phật pháp là Tín tài, vì Tin kính Tam Bảo là mẹ sinh ra vô lượng công đức; (2) Nghiêm trì ngũ giới luật đức Phật dạy là Giới tài; (3) Vị Thánh đệ tử có xấu hổ đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là tàm tài; (4) Có sợ hãi đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là quý tài. (5) Vị Thánh đệ tử nghe nhiều, giữ gìn những gì đã nghe, đề cao đời sống phạm hạnh, đọc tụng nhiều lần, chuyên tâm quán sát, thành tựu chính kiến, gọi là văn tài; (6) Tâm từ bỏ xan tham, ưa thích xả ly, san sẻ vật bố thí, gọi là thí tài; (7) Có trí tuệ về sinh diệt, thành tựu Thánh thể nhập, đưa đến chân chính đoạn diệt khổ đau, gọi là tuệ tài. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là bảy tài sản, ai có được những tài sản này được gọi là không nghèo khổ.... A Nan, hãy dạy cho thanh niên tu bảy loại tài sản này (Nguồn: Đức Phật giảng về Tiền và tài sản)
+ Hổ Cáp/ Scorpio: (Thiên Yết/ Thần Nông/ Bọ Cạp/ Thiên Hạt):
- Hành Thủy (Xem); (Dẫn truyền Cung 4; Xem)
- Bản năng, yên tĩnh, khéo tay, trực quan, lôi cuốn, yêu súc vật; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 8. Nhà này có đặc tính tương ứng: Tiền bạc, đầu tư, kinh doanh, chia sẻ, cái chết của bạn bè hoặc bản thân
* Loài Bọ cạp: Dụ cho tánh nghi ngờ (HT Tuyên Hóa giảng kinh Địa Tạng)
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Cổ là Hỏa tinh; Cung 6 và Hiện đại là Diêm Vương Tinh; Cung 1 (CTHNM, 80);
(Anh Kiệt nói dùng cả 2, xem mối quan hệ giữa sao hỏa và diêm vương tương tự như giữa venus/ Kim tinh và trái đất) - Khẩu hiệu: Hãy để Ảo Ảnh (Maya) phát triển, và hãy để sự lừa dối cai trị.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Hỏa Tinh; Cung 6 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi là chiến binh và từ chiến trường tôi xuất hiện trong chiến thắng.
Hổ Cáp (Bọ Cạp) về Công truyền: Bất cứ điều gì liên quan với cái chết và tình dục – máu, quân sự, vũ khí, sự sinh sản. Thế giới ngầm – vệ sinh môi trường, tội phạm, thủ đoạn gian trá, huyền bí, siêu hình. Tâm lý học, chữa bệnh, phẫu thuật. Thị trường chứng khoán, đầu tư, công đoàn và chính trị, bảo hiểm. (Hổ Cáp là cung chiêm tinh của các cơ quan sinh dục - GLBN)
Hổ Cáp (Bọ Cạp) về Bí truyền: Những nghề nghiệp liên quan đến cái chết, tình dục, khoa phẫu thuật, quân đội, sự sinh sản, thế giới ngầm, vệ sinh môi trường, thủ đoạn gian trá, thị trường chứng khoán, đầu tư, công đoàn và chính trị. Hổ Cáp được liên kết với việc chữa bệnh và tâm lý học, thông qua Diêm vương tinh.
Các nghề nghiệp nội môn: nghiên cứu về sự biến đổi huyền bí của cá nhân, nhà chữa trị/nhà tâm lý theo phép chuyển hóa hoặc bí truyền, chiến đấu chống lại cái ác và vì sự thiện hảo cao cả của tập thể.
BẢNG TỔNG HỢP ĐẶC TÍNH CÁC CUNG LINH HỒN (CUNG LINH HỒN QUYẾT ĐỊNH ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP NỘI MÔN) 
+ Hành tinh Chủ Tinh các cung Hoàng đạo: Có ba mức độ cai quản trong chiêm tinh học bí truyền:
Truyền thống / công truyền: liên quan đến bên ngoài và trần gian, cái hiển nhiên; cá nhân hoặc phàm ngã.
Bí truyền: một biểu hiện tinh tế hơn của dấu hiệu hoàng đạo và hành tinh cai quản; cái gì đó bên trong, tinh tế, và liên quan đến linh hồn hoặc nhận thức có ý thức.
Huyền Giai: biểu hiện cao nhất của dấu hiệu hoàng đạo và hành tinh cai quản; ý định tinh khiết nhất của hành tinh. Biểu hiện cao nhất này là thách thức phổ quát và thành tựu cuối cùng cho tất cả mọi người.
Chiêm tinh học nội môn dạy rằng ba cấp độ cai quản “thể hiện bộ ba của mỗi dấu hiệu hoàng đạo và hành tinh, hoặc ba vòng xoắn ốc nguyên mẫu mà qua đó sự tiến hóa của con người xảy ra.” Chúng ta có thể hoặc không thể cảm nhận hay nhận ra cả ba mức độ cai quản trong cuộc sống của chúng ta. Tự kiểm tra, tự nhận thức và xu hướng tự cải thiện sẽ cần phải hiện diện để các chủ tinh bí truyền và chủ tinh Huyền Giai thực hiện công việc của chúng và tạo ra ảnh hưởng của chúng trong cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, các chủ tinh này mang đầy tiềm năng để ảnh hưởng đến tất cả mọi người ở mọi lúc. Tất cả mọi người đang phát triển; tất cả đều đã nhập thể để trải qua những niềm vui và thách thức, những khó khăn và những tự do đạt được trong gian khó để là con người. Vòng hoàng đạo, các hành tinh, và năng lượng chảy qua chúng có ý phát triển chúng ta, như mặt trời làm cây cối phát triển. Chiêm tinh học truyền thống hay ngoại môn đã luôn sử dụng các hành tinh có thể nhìn thấy được (Mercury, Venus, Mars, Jupiter, Saturn) như là các chủ tinh. Với sự khám phá ra ba hành tinh bên ngoài, chiêm tinh học hiện đại đã đánh giá lại và đã bổ sung hoặc thay thế một số hành tinh cai quản truyền thống. Ví dụ, trong hơn mười nghìn năm, Saturn đã là chủ tinh của Aquarius. Hiện nay Uranus cai quản Aquarius. Điều đó phải chăng sự cai quản của Saturn hàng ngàn năm là không chính xác? Chiêm tinh học là một khoa học, và giống như tất cả các khoa học, khi những bằng chứng mới được phát hiện và tiết lộ, nó được sử dụng và cái cũ biến mất vào hậu trường của kiến thức và tính áp dụng trong quá khứ.
Thông tin về các Chủ tinh bí truyền và Huyền Giai đã được đưa ra thông qua quyển sách Chiêm tinh học Nội môn của tác giả Alice A. Bailey và Chân sư của Bà, đức Djwal Khul, một Chân sư Tây Tạng về kỷ luật tinh thần và trí tuệ. Thông tin về các chủ tinh này được công bố vào nửa đầu thế kỷ 20 và nhiều nhà chiêm tinh đã khảo sát giá trị và sử dụng chúng trong việc hiểu biết không chỉ biểu đồ của một người mà còn về điều kiện con người và các quá trình của nó như là một tổng thể. Chúng tôi, các tác giả của cuốn sách này, chắc chắn nhìn thấy giá trị của các hành tinh chủ quản cao hơn này. Chúng tôi thấy chúng đang làm việc trong cuộc sống của khách hàng, bạn bè, và gia đình, cũng như trong cuộc sống riêng của chúng tôi. Chúng tôi cũng gợi ý rằng những người mới đến với chiêm tinh học bắt đầu đơn giản. Tìm hiểu các chủ tinh truyền thống hoặc các chủ tinh ngoại môn trước. Ảnh hưởng của chúng dễ dàng được nhìn thấy. Sau đó thêm một mức độ quan sát và ý nghĩa khác và tìm hiểu để tìm kiếm ảnh hưởng của các chủ tinh bí truyền. Cuối cùng, hãy suy ngẫm về các chủ tinh Huyền Giai trong cuộc sống của bạn và trên thế giới. .....
+ Đoạn sau đây được trích từ GLBN III, trang 455, Sơ đồ II, có tính cách gợi ý, mặc dù ở bên ngoài và sai lạc có chủ ý, vì các hành tinh thánh thiện và không thánh thiện được trộn vào nhau và nhiều hành tinh cũng bị bỏ sót.
Hành tinh Nguyên khí con người Màu sắc Ngày trong tuần
1. Mars ............ Kama-rupa .............. Đỏ ......... Thứ ba
2. Mặt Trời ..... Prana-Sự sống ......... Cam ...... Chúa nhật
3. Mercury ...... Buddhi ...................... Vàng ..... Thứ tư
4. Saturn ......... Kama-manas ........... Lục ........ Thứ bảy
5. Jupiter ......... Vỏ hào quang ......... Lam......... Thứ năm
6. Venus ......... Manas-Thượng trí .... Chàm ..... Thứ sáu
7. Mặt Trăng .. Linga Sharira ............ Tím ......... Thứ hai
Các “màn che” (“blinds”) như thế thường có và cần thiết trong giáo lý huyền môn nhưng chúng sẽ được dùng ngày càng ít đi khi nhân loại trở nên ngày càng tinh tế về tâm linh.
Đây là cách chia theo ngoại môn (Exoteric division). Các Giới của Thiên Nhiên và các Hành Tinh. Trong chu kỳ này:
1. Giới Khoáng chất – Pluto và Vulcan (Diêm Vương Tinh và Vulcan).
2. Giới thực vật – Venus và Jupiter (Kim tinh và Mộc tinh).
3. Giới động vật – Mặt Trăng và Hoả tinh (Mars).
4. Giới nhân loại – Thuỷ Tinh và Thổ tinh (Mercury và Saturn).
5. Giới linh hồn – Hải vương tinh (Neptune) và Thiên Vương tinh (Uranus).
6. Tổng hợp năm giới này – Mặt Trời.
+ Hành Tinh Thánh Thiện – Không thánh thiện và Các Cung năng lượng (CTHNM, 718)
Hành Tinh Thánh Thiện |
Cung năng lượng |
Hành Tinh Không Thánh thiện |
Cung năng lượng |
1. Vulcan |
Cung 1 |
1. Mars |
Cung 6 |
2. Mercury |
Cung 4 |
2. Địa Cầu |
Cung 3 |
3. Venus |
Cung 5 |
3. Pluto |
Cung 1 |
4. Jupiter |
Cung 2 |
4. Nguyệt Cầu (hành tinh ẩn giấu) |
Cung 4 |
5. Saturn |
Cung 3 |
5. Thái Dương (hành tinh ẩn giấu) |
Cung 2 |
6. Neptune |
Cung 6 |
|
|
7. Uranus |
Cung 7 |
|
|
.................................................. |
...................................... |
............................................................ |
....................................... |
+ Tất cả ở trên xem tại nguồn: Tổng hợp về Hành tinh - Cung hoàng đạo và chòm sao)
+ Các Cung Của Nhân Loại (EP I, 332):
Các ảnh hưởng làm cho một người là chính y, và quyết định tính chất bề ngoài của y … [các ảnh hưởng này] là cung cá nhân và cung linh hồn của riêng y, vốn tác động trên y và ảnh hưởng tâm thức của y, tìm lối vào khí cụ hình tướng của y nhờ các đơn vị năng lượng mà hình tướng đó được tạo nên.
Ngoài ra, các ảnh hưởng quyết định khác là những yếu tố thái dương, vũ trụ và môi trường vốn cũng tác động trên y.
1. Cung của chính thái dương hệ.
2. Cung của Hành Tinh Thượng Đế của hành tinh chng ta.
3. Cung của chính giới nhân loại.
4. Cung chủng tộc đặc biệt của chúng ta, cung xác định giống dân Aryan.
5. Các cung chi phối bất kỳ chu kỳ đặc biệt nào.
6. Cung quốc gia, hay ảnh hưởng cung vốn đang ảnh hưởng đặc biệt đến một quốc gia cụ thể.
7. Cung linh hồn, hay chân ngã.
8. Cung phàm ngã.
9. Các cung chi phối:
a. Thể trí.
b. Thể cảm xúc hay cảm dục.
c. Thể xác.
Các Cung chi phối các mức độ Linh Hồn, phàm ngã, thể trí, thể tình cảm và thể xác
- Linh hồn con người, hay ego được nhận thấy ở một trong 7 cung.
- Cung phàm ngã có thể ở trên bất kỳ cung nào của 7 cung.
- Cung thể trí: Bản chất trí tuệ và thể trí được chi phối bởi Cung 1, 4 và 5.
- Cung thể Cảm dục: Bản chất và hình thái tình cảm bị chi phối bởi Rays 2 và 6
- Cung Thể xác (Sinh khí / Dĩ thái và thể xác) bị chi phối bởi Rays 3 và 7.
Cung 4 và 5 - Hai cung có hiệu lực đặc biệt trong việc đưa giới nhân loại vào sự biểu lộ (EP I, 320):
- Cung bốn hay Cung của sự Hài Hòa, sự mỹ lệ và sự thống nhất, đạt được thông qua xung đột.
- Cung năm hay Cung Kiến Thức Cụ Thể, hoặc năng lực hiểu biết.
Cung thứ tư là là cung đặc biệt chi phối nhân loại ......
+ CÁCH XÁC ĐỊNH CUNG: Hãy bắt đầu với các thể thấp trước, sau đó bạn tiến vào trong đến Cung Linh hồn. Thông tin dưới đây cung cấp lời chỉ bảo, các trích dẫn và thông tin khác sẽ giúp bạn tìm thấy các cung của bạn. Một khi bạn có một biểu đồ, hãy làm việc với nó trong nhiều tháng và nhiều năm sắp tới để xác định tính chính xác của nó, qua việc tự quan sát. Các cung được đưa ra dưới đây là những cung vốn thường chi phối bản chất, mặc dù, khi một người đang trên đường Đạo, thì linh hồn có thể chọn các cung kỳ lạ hay bất thường cho các hiện thể để hoàn chỉnh bản chất.
BIỂU ĐỒ CỦA CUNG PHÀM NGÃ, GỒM 5 CUNG:
1. Trước nhất hãy tìm Cung của Thể xác-Dĩ thái
Cung này thường sẽ là Cung 3 hoặc Cung 7.
Hãy quan sát bản chất và các thói quen của bạn về mặt thể chất; hoàn thành bản danh sách kiểm tra về Cung Thể xác.
2. Tìm Cung Thể tình cảm
Cung này thường sẽ là Cung 2 hoặc Cung 6.
Cung 6 sẽ ở lợi thế; chỉ những người đang đến gần con đường đệ tử tỏ ra có thể cảm dục Cung 2.
Hãy quan sát những thể hiện cảm xúc của bạn; hoàn tất biểu đồ danh sách kiểm tra Cung của Thể tình cảm.
3. Tìm Cung Thể Trí
Cung này sẽ là một trong các cung 1, cung 4 hoặc cung 5.
Hãy quan sát các quá trình xây dựng hình tư tưởng của bạn; hoàn tất biểu đồ danh sách kiểm tra Cung của Thể Trí.
4. Tìm Cung Phàm ngã
Lĩnh vực này đã hình thành chưa? Hãy kiểm tra các đặc tính của “một phàm ngã” trong Tiết Đoạn về Sự Tiến Hóa Của Tâm Thức. Hãy hoàn tất biểu đồ danh sách kiểm tra Cung Phàm ngã. Hãy tự kiểm tra.
5. Tìm Cung Linh Hồn
Cung này có thể là bất kỳ cung nào trong bảy cung, nhưng ít có khả năng là Cung 4, vì cung này chỉ mới bắt đầu nhập thể.
+ Khi phân tích cung của một cá nhân ta cần nắm vững các nguyên tắc sau đây:
* Phân tích từ “ngoài vào trong”, nghĩa là từ các thể trọng trược nhất đến thể tinh anh nhất. Phương pháp này giống như khi chúng ta bóc tách một củ hành.
* Ngoại lệ: đối với đệ tử, điểm đạo đồ, người tiến hóa cao, các cung của hạ thể có thể nằm ngoài qui luật thông thường trên và có thể có bất kỳ cung nào.
* Khi con người tiến hóa đủ cao, đã trở thành một “phàm ngã thực thụ” thì cung phàm ngã sẽ xuất hiện. Cung phàm ngã có thể ở trên bất kỳ cung nào và khác với cung của Linh hồn.
Xem nguồn: năng lượng của 7 cung/ khóa GQ
+ Tú Diệu Lịch Kinh - Mở đầu sự phân định Tú trực (chòm sao- có tính chất thẳng đứng, dọc...)
Bài giảng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các Tiên về cát hung ngày giờ thiện ác trong Tú Diệu Kinh(quyển thượng)
Khai Phủ Nghi đồng Tam Ti đặc tiến thí Hồng Lư Khanh túc quốc công thực ấp tam thiên hộ tứ tử tặng Tư Không thụy Đại Giám.
Chính hiệu Đại Quảng Trí Đại Hưng Thiện Tự Tam Tạng Sa Môn Bất Không phụng chiếu dịch (từ tiếng Phạn sang tiếng Hán).
Đệ tử Thượng Đô Thảo Trạch Dương Cảnh Phong tu sửa chú thích.
Phẩm thứ nhất.
Trời Đất thuở mới thành lập, lấy tinh hoa của nóng với lạnh mà tạo thành Nhật Nguyệt. Ô Thố (tức ám chỉ Mặt Trời - Kim Ô, và Mặt Trăng - Ngọc Thố) đối kháng sinh thành vạn vật. Phân chia các Tú (chòm sao) thiết lập cung quản ghi chép thứ hạng của chúng.
+ Nhật quản lý dương vị, theo tinh tú đi thuận, lấy 13 Tú như Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, cho đến phân nửa của tú Hư vừa khớp với chính giữa địa phận của Tý, phân chia thành 6 cung (Hoàng Đạo) vậy.
Nhưng Nhật Nguyệt thiên tử đều lấy Ngũ Tinh làm bề tôi phụ tá.
- Ánh sáng của Nhật (Mặt Trời) chiếu sáng nóng bức dữ dội, vật loại tương cảm nên lấy con thú thuộc dương là Sư Tử làm thần của cung (Hoàng đạo) vậy.
- Ánh sáng của Nguyệt (Mặt Trăng) thì mát lành thanh lương, vật loại tương cảm nên lấy loài trùng thuộc âm là Cự Giải (con cua lớn) để làm thần của cung vậy.
Đồng thời Nhật tính thì cương nghĩa, Nguyệt tính thì nhu huệ, Nghĩa thì lấy giúp đỡ bên dưới, Huệ lấy cùng chung tôi thần mà Nhật Nguyệt cũng đều dùng các cung thần ban chia đều đặn.
+ Ngũ Tinh thì lấy nhanh cho đến chậm, chính là Thần Tinh (sao Thủy), Thái Bạch (sao Kim), Huỳnh Hoặc (sao Hỏa), Tuế (tinh - sao Mộc), Trấn (tinh - sao Thổ). Sắp xếp thành thứ tự, hành độ đi nhanh chậm rõ ràng. Phàm 12 cung, tức là triền thứ của Thất Diệu, mỗi khi trải qua đều bày tỏ họa phúc theo tai họa hay cát tường của Kinh với Vĩ (QNB chú: Kinh là ám chỉ Kinh độ tính theo chiều dọc căn cứ vào các Hằng Tinh - chính là 28 Tú hoặc 27 Tú, còn Vĩ là ám chỉ Vĩ độ tính theo chiều ngang căn cứ vào các Hành Tinh - chính là 5 sao Thủy - Kim - Hỏa - Mộc - Thổ mà được gọi là Ngũ Tinh) cho nên các cung mới có hình dạng của Thần, dùng làm tượng của cung vậy. Đồng thời mỗi một cung lại phối quản nhóm các chòm sao "9 bước" (liệt tú cửu túc - 列宿九足), mà tất cả các thứ loại tương cảm với nhau.
- Phạm vi của Nguyệt là 50 căn cứ vào Tuần, được gắn liền với Mệnh mà làm trung tâm cát hung, đại thể thuộc vào Nhật Nguyệt (ngày tháng).
- Phạm vi của Nhật là 51 căn cứ vào Tuần (QNB chú: Tuần có nghĩa là 10 ngày).
- Phạm vi của Phong tinh Thái Bạch/ Sao kim là 10 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Không tinh Tuế tinh/ Sao mộc là 9 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Nguyệt tinh Thần tú/ Sao Thủy là 8 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Hỏa tinh Huỳnh Hoặc/ Sao hỏa là 7 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Nhật tinh Thổ Tinh/ Sao thổ là 6 căn cứ vào Tuần.
Những phạm vi của các Tinh Tú ấy đều có nơi chỗ ở.
Nhật cung bên dưới có cái quý của pha lê, có chất của lửa vậy, nóng ấm soi chiếu vạn vật.
Nguyệt cung bên dưới có cái quý của lưu ly, mát lành soi chiếu vạn vật.
Nhật Nguyệt và chư Diệu, chúng sinh có nghiệp được sắp đặt ở không trung, cưỡi gió mà dừng, hướng về nửa của Tu-Di, leo lên trên Kiện-Đà-La. Vận hành ở 27 Tú và 12 cung. Sự phân chia Cung Tú nay giải thích, thêm cả Đồ Thư mà thôi.
1. Thứ nhất sao Tinh 4 bước, Trương 4 bước, Dực 1 bước, chỗ khí dương to lớn (QNB chú: Đại Dương, có lẽ ám chỉ Mặt Trời). Thần của nó như Sư Tử, cho nên tên là cung Sư Tử (QNB chú: tương ứng với cung Ngọ), chủ sự thăng quan tiến chức, được tài lộc. Nếu người ta sinh ra thuộc cung này, noi theo pháp hợp đạt được tinh thần phú quý hiếu thuận, được nắm giữ đảm nhiệm quân đội vậy.
2. Thứ hai sao Dực 3 bước, Chẩn 4 bước, Giác 2 bước, chỗ Thần Tinh (sao Thủy, Mercury). Thần của nó như cô gái, nên tên là cung Nữ (QNB chú: Xử Nữ, Thất Nữ, tương ứng với cung Tị), chủ thê thiếp và các việc của người đàn bà. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp khó mà có được tâm phúc thân tín, nhiều con cái, đủ tiền tài, chức cao cho nên hợp với việc đảm nhiệm quản lý các cung các phòng.
3. Thứ ba sao Giác 2 bước, Cang 4 bước, Đê 3 bước, chỗ sao Thái Bạch (sao Kim, Venus). Thần của nó như cái cân, nên tên là cung Xứng (QNB chú: Thiên Xứng, Thiên Bình, tương ứng với cung Thìn), chủ những việc liên quan tới của báu và kho tàng quý. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp được tâm thẳng thắn, công bình, tín nghĩa, tôn trọng, lắm tài, hợp với việc đảm nhiệm quản lý kho tàng.
4. Thứ tư sao Đê 1 bước, Phòng 4 bước, Tâm 4 bước, chỗ sao Huỳnh Hoặc (sao Hỏa, Mars). Thần của nó như con Bọ Cạp, nên tên là Bọ Cạp cung (QNB chú: Thiên Hạt cung, tương ứng với cung Mão), chủ những việc thuộc các phần thân thể, bệnh tật, tấn công, ngăn cấm. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp nhiều bệnh, bạc tướng ác tâm, đố kị, cho nên hợp với đảm nhiệm việc quản lý bệnh tật hoạn nạn.
5. Thứ năm sao Vĩ 4 bước, Cơ 4 bước, Đẩu 1 bước, chỗ Tuế Tinh (sao Mộc, Jupiter). Thần của nó như cái cung, nên tên là cung Cung (QNB chú: Nhân Mã, Cung Thủ, tương ứng với cung Dần), chủ những việc mừng vui đắc tài lộc. Nếu người nào sinh ra thuộc những cung này theo pháp hợp nhiều kế sách lắm mưu kế, hợp đảm nhiệm việc làm tướng, quân sư.
6. Thứ sáu sao Đẩu 3 bước, Nữ 4 bước, Hư 2 bước, chỗ Trấn Tinh (sao Thổ, Saturn). Thần của nó như cái cối xay cho nên gọi là cung Ma Kết (QNB chú: còn gọi là Nam Dương, tương ứng với cung Sửu), chủ về những việc đấu tranh. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp thì tâm thô khí nghịch, không coi trọng vợ con, hợp đảm nhiệm nắm quyền hình sát.
Bên trên là 6 vị tổng thuộc phần Thái Dương.
Bên dưới là 6 vị tổng thuộc phần Thái Âm.
7. Thứ bảy sao Hư 2 bước, Nguy 4 bước, Thất 3 bước, chỗ của Trấn Tinh (sao Thổ, Saturn). Thần của nó như cái lọ bình, cho nên tên là cung Bình (QNB chú: Bảo Bình, tương ứng cung Tý), chủ những việc thắng lợi, mạnh mẽ. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp nhiều học vấn, trung thực, tín nghĩa, hợp đảm nhiệm nắm giữ học quán.
8. Thứ tám sao Thất 1 bước, Bích 4 bước, Khuê 4 bước, chỗ của Tuế Tinh (sao Mộc, Jupiter). Thần của nó như con cá, cho nên tên gọi là cung Ngư (QNB chú: Song Ngư, tương ứng cung Hợi), chủ về những việc thăng quan tiến chức. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, hợp làm tướng không sai khác, có học vấn, phú quý, trung trực, hợp đảm nhiệm nắm giữ quan tướng.
9. Thứ chín sao Lâu 4 bước, Vị 4 bước, Mão 1 bước, chỗ của sao Huỳnh Hoặc (sao Hỏa, Mars). Thần của nó như con Dê, cho nên tên gọi là cung Dương (QNB chú: Dương Cưu, tương ứng với cung Tuất), chủ những việc hoàn cảnh đi lại nghề nghiệp. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp được nhiều phúc đức, trường thọ, lại hay chịu đựng nhẫn nhục, hợp đảm nhiệm quản lý việc ăn uống thưởng ngoạn.
10. Thứ mười sao Mão 3 bước, Tất 4 bước, Tư (Chủy) 2 bước, chỗ của sao Thái Bạch (sao Kim, Venus). Thần của nó như trâu bò, cho nên tên gọi là cung Ngưu (QNB chú: Kim Ngưu, tương ứng với cung Dậu), chủ những việc về các súc vật bốn chân. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp có phúc đủ bạn bè thân hữu, được trường thọ, được người yêu quý kình trọng, hợp đảm nhiệm quản lý chuồng trại.
11. Thứ mười một sao Tư (Chủy) 2 bước, Tham (Sâm) 4 bước, Tỉnh 3 bước, chỗ của Thần Tinh (sao Thủy, Mercury). Thần của nó như vợ chồng, cho nên tên gọi là cung Dâm (QNB chú: cũng gọi là Song Tử, tương ứng với cung Thân), chủ những việc về thai sản con cháu. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp lắm thê thiếp, được người yêu mến kính trọng, hợp đảm nhiệm quản lý chìa khóa nhà cửa hộ tịch.
12. Thứ mười hai sao Tỉnh 1 bước, Quỷ 4 bước, Liễu 4 bước, chỗ của Thái Âm (Mặt Trăng). Thần của nó như con cua, cho nên tên gọi là cung Giải (QNB chú: Cự Giải, tương ứng với cung Mùi), chủ những việc quan phủ khẩu thiệt thị phi. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp có ác tính, lường gạt dối trá, thông minh nhưng đoản mệnh, hợp đảm nhiệm quản lý hình ngục kiện tụng.
Thời thượng cổ phân chia tách bạch ngày Sóc Xuân Phân tháng Hai lúc tại triền xá của diệu chỗ tú Lâu. Nói rằng tình huống ngày chính (chính nhật) của các Trung Khí phân đều bằng nhau, để mà dần dần được tươi tốt hết thảy đều tăng trưởng.
Phạm Thiên (QNB chú: Brahma, Đấng sáng tạo của đạo Bà La Môn, chữ Phạm đó cũng đọc là Phạn - chỉ Ấn Độ hay những thứ thuộc về Ấn Độ thuộc về Phật giáo) vui vẻ lệnh đặt cho làm Tuế Nguyên
[Cảnh Phong viết: Đại Đường lấy Kiến Dần làm Tuế Sơ khởi đầu năm. Thiên Trúc lấy Kiến Mão làm Tuế Thủ đứng đầu năm. Như vậy quy tắc Nguyệt Lệnh của Đại Đường đều lấy Chính Nguyệt (tháng Giêng), Hai, Ba, Tư, cho đến Mười Hai. Quy tắc của Thiên Trúc toàn là căn cứ theo ngày 15 "tháng trắng" (QNB chú: một tháng 30 ngày âm lịch thì theo họ chia này nửa trắng 15 ngày gọi là Bạch Nguyệt, còn nửa 15 ngày kia gọi là Hắc Nguyệt, hai phần Trắng-Đen này đều dựa vào sự Sáng-Tối của chu kỳ Trăng), khi Thái Âm ở chỗ chòm sao nào mà lấy làm tên tháng cho nên gọi Kiến Mão là Giác Nguyệt (QNB chú: tháng Giác, tháng mà Mặt Trăng tròn ở chỗ chòm sao Giác), gọi Kiến Thìn là Đê Nguyệt (QNB chú: tháng Đê, tháng mà Mặt Trăng tròn ở chỗ tú Đê). Tức là chỉ gọi tháng theo Giác, Đê, Tâm, Cơ,... chứ không luận về Kiến Mão hay Kiến Thìn với Giêng Hai Ba Tư gì cả, cho nên hai cái đó là Đông với Tây khác nghĩa nhau (QNB chú: hai chữ Đông - Tây này là ông Cảnh Phong ám chỉ nước Đường ở Đông và nước Thiên Trúc ở phương Tây). Học giả trước tiên cần phải hiểu rõ điều này để sau còn rõ ràng những phần giải thích nữa].
QNB chú thêm: Đối với thuật ngữ "Bạch Nguyệt" và "Hắc Nguyệt" cần phải lưu ý độc giả thêm rằng, ở trong Lịch Thời Luân của Tây Tạng, vào thời đại tương ứng triều Đường thì người ta gọi 15 ngày từ ngày Không Trăng đến ngày Trăng Tròn gọi là Hắc Nguyệt, còn 15 ngày từ ngày Trăng Tròn đến ngày Không Trăng thì gọi là Bạch Nguyệt. Nhưng đến thời gian tương ứng với triều Nguyên thì họ lại đổi ngược lại nửa Trắng trước còn nửa Đen sau. Tuy vậy nhiều khi những Chùa chiền Thiền viện ở Tây Tạng vẫn căn cứ vào quy tắc "Đen trước Trắng sau" để ghi chép ngày tháng và các hoạt động tâm linh. Điều này độc giả cần phải biết để khi đọc các tài liệu có nguồn gốc Mật Tông Tây Tạng hay Ấn Độ còn biết đường mà suy lường cho rõ thời điểm.
1. Giác Nguyệt (tháng Giác) [Cảnh Phong viết: Tháng Hai của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Mão vậy (Đẩu kiến Mão vị chi Thần)]
2. Đê Nguyệt (tháng Đê) [Cảnh Phong viết: Tháng Ba của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Thìn vậy]
3. Tâm Nguyệt (tháng Tâm) [Cảnh Phong viết: Tháng Tư của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Tị vậy]
4. Cơ Nguyệt (tháng Cơ) [Cảnh Phong viết: Tháng Năm của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Ngọ vậy]
5. Nữ Nguyệt (tháng Nữ) [Cảnh Phong viết: Tháng Sáu của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Mùi vậy]
6. Thất Nguyệt (Tháng Thất) [Cảnh Phong viết: Tháng Bảy của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Thân vậy]
7. Lâu Nguyệt (Tháng Lâu) [Cảnh Phong viết: Tháng Tám của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Dậu vậy]
8. Mão Nguyệt (Tháng Mão) [Cảnh Phong viết: Tháng Chín của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí của Tuất vậy]
9. Chủy Nguyệt (Tháng Chủy) [Cảnh Phong viết: Tháng Mười của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Hợi vậy]
10. Quỷ Nguyệt (Tháng Quỷ) [Cảnh Phong viết: Tháng (mười) Một của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Tý vậy]
11. Tinh Nguyệt (Tháng Tinh) [Cảnh Phong viết: Tháng Chạp (mười hai) của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Sửu vậy]
12. Dực Nguyệt (Tháng Dực) [Cảnh Phong viết: Tháng Giêng của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Dần vậy]
Bảng tĩnh sẵn các ngày trong năm theo 27 ngôi sao của nhị thập thất tú
Tiên nhân dạy rằng:
Phàm thiên đạo Nhị Thập Thất Tú có rộng có hẹp, đều dùng 4 bước mà phân chia đều nhau, Nguyệt (mặt Trăng) đi hoặc ở thì trước sau trong kết quả dự tính giữa tự nhiên và lý thuyết có sai lệch bất đồng. Phải định Tú trực như thế nào cho phù hợp.
Bồ Tát nói:
Phàm Nguyệt tú có 3 loại Hợp pháp, loại thứ nhất Tiền Hợp, loại thứ hai Tùy Hợp, loại thứ ba Tịnh Hợp. Biết ba loại ấy thì có thể biết được Tú trực vậy.
- Nói thế nào về Tiền Hợp. Sáu tú là Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, chính là Tiền Hợp vậy.
- Nói thế nào về Tịnh Hợp. Mười hai tú là Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, chính là Tịnh Hợp.
- Nói thế nào về Tùy Hợp. Chín tú là Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, chính là Tùy Hợp.
Phàm, Tú (chòm sao) ở chỗ trước Nguyệt còn Nguyệt ở sau Tú thì chính là Tiền Hợp.
Nguyệt ở chỗ trước Tú còn Tú ở chỗ sau Nguyệt, như nghé con theo mẹ chính là Tùy Hợp.
Tú với Nguyệt cùng đi thì chính là Tịnh Hợp.
[Cảnh Phong viết: Hễ là phép của Thiên tượng, thì phía Tây là trước (tiền) còn phía Đông là sau (hậu), như Nguyệt ở phía Đông của Tú còn Tú ở phía Tây của Nguyệt thì tức là Tú ở chỗ trước Nguyệt còn Nguyệt ở chỗ sau Tú. Ngoài ra cứ phỏng theo đó].
Ca tụng viết:
Lục Tú vị đáo danh Tiền Hợp
Thập Nhị Tú Nguyệt tả hữu Hợp
Cửu Tú như độc tùy tùng mẫu
Khuê Tú trực ứng đương tri nhĩ.
(Sáu chòm sao mà chưa đến nơi thì tên gọi là Tiền Hợp
Mười Hai chòm sao là Hợp ở hai bên trái phải
Chín chòm sao như nghé đi theo trâu mẹ
Tú Khuê trực ứng với việc biết chỗ bắt đầu).
[Tân diễn giải như bên dưới. (Nguồn: Tú Diệu Lịch Kinh - cohoc.net)
+ Các Cung trong dự đoán số mệnh Tứ trụ - Tử vi - Chiêm tinh
1, Giải đoán cung Mệnh: Các bước phía trên (phần A, B ) đã nói rất nhiều đến những lý luận để giải đoán cung Mệnh, đồng thời những phần tính lý chung của các sao cũng hầu hết đều dùng cung Mệnh làm đại diện để mô tả tính chất của chúng....
2, Giải đoán cung Bào (Huynh đệ cung): Mối quan hệ của đương số với anh chị em trong gia đình, tình cảm có hòa hợp hay là xung khắc, có tương trợ - đoàn viên gần gũi hay phải chia lìa phân tán, khái lược về nhiều hay ít, thành đạt hay không, yểu chiết hay không, bào (cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha),… Cần xem cung Phúc cát hung để xét tăng giảm...
3, Giải đoán cung Phối (Phu Thê cung): Mối quan hệ của đương số với vợ/chồng của mình, tình duyên thuận lợi hay trắc trở, đến mau hay hay muộn, tình cảm nồng thắm hay lạnh nhạt, có được hạnh phúc hay hình khắc,… Khái lược về một số nét chính của người phối ngẫu của đương số như là người gần hay người xa tới mức dị tộc (ngoại quốc), có được thành công và tương trợ cho sự thành công của đương số sau khi kết phối hay chăng,… cung có tác động mạnh mẽ đến cuộc đời của đương số ... Ngoài ra, các Âm Dương gia còn chủ trương rằng “cô Âm bất sinh, cô Dương bất trưởng”, vợ chồng chính là cặp Âm Dương, chỉ khi kết phối và hòa hợp thì mới phát triển thịnh vượng được.
4, Luận giải cung Tử Tức: Mối quan hệ của đương số với con cái của mình, tình cảm có gắn bó thâm sâu hay không, có lạnh nhạt thờ ơ hay không, con cái có hiếu thuận với cha mẹ (tức vợ chồng đương số) hay không… cung Tử Tức cũng cho biết những thông tin để có thể dự đoán đương số có con hay không, con cái đầy đàn có trai có gái hay là hiếm muộn hay là tuyệt tự, có con trai nhiều hơn hay con gái nhiều hơn, có con dị bào hay không,…
Đối với Nữ mệnh thì Tử Tức là cường cung đã đành, đối với Nam mệnh thì Tử Tức được liệt vào số các cung nhược nhưng không nên coi nhẹ ...
5, Luận giải cung Tài Bạch: Chữ Tài nghĩa là tiền bạc, của cải, chữ Bạch nghĩa là lụa là gấm vóc, cung quan trọng vào hàng bậc nhất trên lá số, bởi vì ngoài chức năng mà nó đảm nhiệm về phương diện cung chức thì cung Tài Bạch nằm ở vị trí tam hợp vĩnh viễn với cung Mệnh nên những sao tọa thủ ở trong cung Tài Bạch có ảnh hưởng rất mạnh suốt cả cuộc đời con người ta thông qua sự hợp chiếu vào cung Mệnh. Cho ta biết hình thức thụ hưởng của cải của người ta là thuộc dạng nào, thông qua lương lậu bổng lộc, qua kinh doanh buôn bán, qua sản xuất trồng trọt, hay được thừa hưởng gia tài từ người khác… được dạy rằng, xem về giàu nghèo của đương số cần phải chú trọng xem đồng thời đến các cung Phúc Đức, Mệnh Thân và Điền Trạch.
6, Luận giải cung Tật Ách: Cho biết tổng quát khái lược về sức khỏe, bao gồm cả các Bệnh mà đương số dễ mắc phải, các Tật có thể sẽ có (ví dụ tật nói ngọng, nói lắp,… hoặc cái tính kiêu ngạo, hoặc hay nói tục chửi bậy, cũng được coi là tật xấu,.. tính táy máy tắt mắt, thích là liền nhặt lấy mang về chơi, chẳng hỏi han mượn chủ nhân gì cả => cái tật ăn cắp vặt,… là thuần túy về tật chứ không coi là bệnh), các khiếm khuyết trên cơ thể vừa thuộc Bệnh vừa thuộc Tật mà thông qua các Tai Ách (hoặc do bẩm sinh) mà đương số có thể bị như điếc, lác, mù, què,… Cung Tật Ách cũng cho biết khái lược về một số điểm thuộc tính cách của đương số (ví dụ như thích ăn diện, thích khoe khoang,…).
7, Luận Giải cung Thiên Di: Mối quan hệ của đương số với môi trường xã hội bên ngoài, từ việc đi lại lành dữ ra sao, cho đến những sự giao tiếp đối ngoại cùng người được quý trọng nâng đỡ, hay dèm pha dị nghị như thế nào,…
8, Luận giải cung Nô Bộc: Mối quan hệ của đương số đối với bạn bè, đồng nghiệp, những người trợ thủ giúp việc (đôi khi ứng vào cấp trên – thường là ứng với các sao quý nhân).
9, Luận giải cung Quan Lộc: Mối quan hệ của đương số đối với sự thành bại trong công danh sự nghiệp, công việc có được thuận lợi hay không, mức độ thăng tiến đến vị trí cỡ nào, có uy quyền ổn định hay thăng trầm, có bị truất giáng chuyển đổi gì không, khả năng chuyên môn (tức trình độ, tay nghề) là cao hay thấp, có phù hợp với đương số hay không,… gồm 2 phần Quan (sự nghiệp, công việc) và Lộc (tước lộc, bổng lộc đạt được từ công việc)...
10, Luận Giải cung Điền Trạch: Mối quan hệ của đương số đối với tài sản vật chất, nhà cửa đất đai, ruộng đồng vườn tược,... Chữ “Điền” là ruộng, vườn, “Trạch” là nhà. Còn phản ánh cả mối quan hệ về nơi ở, nơi cư trú mà đương số không sở hữu, ví dụ như nhà đi thuê, chỗ tạm trú trong một thời hạn nào đó.
11, Luận Giải cung Phúc Đức: Cung mang khái niệm trừu tượng nhất, cung quan trọng bậc nhất trên lá số, vì ảnh hưởng của Phúc Đức có thể chi phối tới hầu hết các cung chức còn lại ...
12, Luận Giải cung Phụ Mẫu: Mối quan hệ của đương số đối với cha mẹ của mình, tình cảm có hòa hợp tốt đẹp hay không, bối cảnh của gia đình, địa vị thành tựu của cha mẹ ra sao,… từ đó biết được xuất thân của đương số ở giai tầng nào trong xã hội, sự trợ giúp của cha mẹ đối với đương số, gián tiếp ước lượng suy đoán được thọ yểu của cha mẹ đương số. Còn được gọi là Tướng Mạo cung,...(Nguồn: Bài viết của Quách Ngọc Bội)
+ Trong Chiêm tinh còn có ba cung quan trọng nhất là: Cung Mặt trăng - Cung mặt trời - Cung mọc
+ Chân Sư DK: Libra có liên quan chặt chẽ với Ngôi 3 của Chúa Cha và do đó nó là cung đang cai quản và là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này.
Cả 3 khía cạnh thiêng liêng... biểu lộ theo 3 cách hay là qua 3 trạng thái thứ yếu,... Chính là qua việc nghiên cứu Libra mà ánh sáng đối với trạng thái thứ 3 sẽ đến.
Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, lập pháp, tính hợp pháp, công lý;
Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân/ Cung Thiên Bình/ Libra), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục;
Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Nghiên cứu thật kỹ hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn (Xem thêm về Tam giác lực với Libra ở đỉnh; CTHNM, 275)
+ Ngôi 3 - Chúa Thánh Thần - Đấng Sáng Tạo: Thiên luật, tính dục, tiền tài sẽ mang lại manh mối cho 3 cõi thấp (qua 3 cung Taurus, Libra và Capricorn)...;
1. Taurus – giới động vật – định luật, luật tự nhiên.
2. Libra – giới thực vật – tính dục (sex) – ái lực tự nhiên.
3. Capricorn – giới khoáng vật – tiền tài – biểu hiện cụ thể của Luật Cung Cầu. Với Libra ở đỉnh và chiếm ưu thế, Uranus là chủ thể chi phối bí ẩn và quan trọng bậc nhất trong cung này, vì cung năng lượng thứ 7 tác động qua hành tinh này..... Nơi đây toàn bộ bí ẩn về tiền bạc được ẩn giấu và cả sự sáng tạo và sản xuất của tiền tài. Chỉ một mình Ngôi 3 mới có liên quan tới tiến trình sáng tạo. Chính qua mối liên hệ của 3 trạng thái của biểu lộ thiêng liêng thứ ba – định luật, ái lực và năng lượng được cụ thể hóa – mà tiền tài được tạo ra (CTHNM, 277)
+ Cõi hồng trần (Physical plane/objective plane – CTNM, 1, cảnh giới hồng trần): Gồm 7 phân cảnh (cõi phụ) từ thấp (thứ bảy) lên cao (thứ nhất):
1/ Phân cảnh 1 … Phân cảnh vi tử (Atomic subplane) … Vật chất vi tử (Atomic matter).
2/ Phân cảnh 2 … Phân cảnh á vi tử (sub–atomic) … Chất ether II (Dĩ thái II).
3/ Phân cảnh 3 … Phân cảnh siêu dĩ thái (super etheric) … Chất ether III.
4/ Phân cảnh 4 … Phân cảnh dĩ thái thứ nhất … Chất ether IV.
5/ Phân cảnh 5 … Phân cảnh chất hơi (gaseous subplane) … Chất hơi (gas).
6/ Phân cảnh 6 … Chất lỏng (liquids).
7/ Phân cảnh 7 … Chất đặc (solids). (LVLCK, 94 và ASCLH, 323)
+ Cõi Hồng trần: Để hiểu được sự Cấu tạo của Con người, chúng ta bắt đầu với cảnh giới thấp nhất, là cõi thứ bảy, hoặc cõi hồng trần và thấy rằng nó được chia làm hai phần: Môi trường hồng trần thô trược mà con người có thể xác của mình trong đó, và cõi dĩ thái, bao gồm năng lượng/chất liệu tinh tế hơn cung cấp sinh lực cho thể xác (MQ tổng hợp, tr 80)
+ Cõi hồng trần là cõi của kinh nghiệm thiết thực ở trong và xuyên qua vật chất. Đó là cõi của sự thể hiện ra ngoài (externalization), và tùy theo tình trạng và mức độ phát triển của con người nội tâm mà hình thức bên ngoài và các hoạt động của nó cũng sẽ như thế. Cõi hồng trần là cõi của kinh nghiệm thiết thực ở trong và xuyên qua vật chất. Đó là cõi của sự thể hiện ra ngoài (externalization), và tùy theo tình trạng và mức độ phát triển của con người nội tâm mà hình thức bên ngoài và các hoạt động của nó cũng sẽ như thế đó (LVHLT, 226)
+ Cõi hồng trần vũ trụ. Đây là lực (ngoài và trong) của chính thái dương hệ và của không gian bao quanh. Nó có thể được xem như các lực của prana, tuôn đổ qua thể dĩ thái của Thượng Đế (bốn cõi phụ cao của chúng ta) vốn là dương so với ba cõi thấp hơn, đang thấm nhuần ba cõi thấp này (một phản ảnh trong vật chất, hay là trong trạng thái Brahma, của sự hợp nhất của Phụ-Mẫu) và tạo ra biểu lộ cụ thể thuần túy. Điều này giải thích tại sao thể xác có sự kiềm chế như thế trong các giai đoạn dài của sự tiến hóa của con người, vì mãnh lực thuộc loại năng lượng này tất nhiên được cảm nhận mạnh hơn nhiều so với các lực khác. Chính mãnh lực thiên thần, và vật chất, vốn rất gần gũi với chúng ta cũng như lừa dối chúng ta một cách mạnh mẽ. Ở đây có tàng ẩn bí mật của ảo lực (maya), và cũng ở đây được thấy bí ẩn của ảo tưởng (illusion). Đối với con người, nơi đây chứa giai đoạn lớn thứ nhất của trận chiến cho ngã thức đầy đủ, và cho việc huyền đồng (identification) với phương diện-Chúa (God-aspect), chớ không phải với phương diện-vật chất. Ở đây ẩn tàng lý do huyền linh giải thích tại sao con người được gọi bằng tên của cha chớ không phải tên của mẹ của y. Khi con người đã chi phối được các tinh hoa thiên thần của cõi trần, thì y kiểm soát kế tiếp các tinh hoa thiên thần của cõi cảm dục và chi phối các tinh hoa cõi trí. Nhờ đạt được điều này trong bản thể riêng của mình, bấy giờ y có thể an toàn trở thành một nhà huyền thuật và tiếp xúc, kiểm soát và hoạt động với các devas có liên quan đến các kế hoạch của Hành Tinh Thượng Đế. Khi nhận ra ba loại thần lực này, con người sẽ tìm được chìa khóa đưa đến cái bí ẩn về các trung tâm lực của mình. (TCF/ LVLCK. 625)
+ Các Cõi và Tâm Thức
1. Cõi hồng trần … Bhu … Thế giới trần tục – Hồng trần thức
2. Cõi cảm dục … Antariksa … Thế giới xúc cảm – Cảm dục thức
3. Cõi trí … Mahendra …Thế giới của trí tuệ và linh hồn – Trí tuệ thức
4. Cõi Bồ Đề …Mahar Prajapatya …Thế giới Christ - Trực giác thức hay Tâm thức Christ–Tập thể thức
5. Cõi Niết bàn … Jana … Thế giới tinh thần – Hành Tinh thức –Thế giới của Ngôi Ba
6. Cõi Chân Thần … Tapas … Thế giới thiêng liêng –Thiên thức –Thế giới của Ngôi Hai
7. Cõi Thượng Đế … Tatya … Thế giới của nguyên nhân phát sinh –Tuyệt đối thức–Thế giới của Ngôi Một (ASCLH, 298)
Xem: Tổng hợp chi tiết về tâm thức
+ Các Cõi và Ý thức
1. Thượng đế ....Ý thức T.Đế/ Trời ... Thượng Đế
2. Chân Thần ... Ý thức Chân Thần .... Chirist
3. Atma .... Ý thức Tinh thần .... Chân Sư
4. Bồ Đề ......... Ý thức trực giác .... La Hán
5.1 Thượng trí ...Ý thức Linh hồn...N. Thông minh
5.2. Hạ trí ...... Arya/ trí sinh động ... Người tiến bộ
6. Cảm dục .... Atlantis/ Tình cảm ... Tình cảm
7. Hồng trần...Lemuria/ Bản năng vật chất ... Chưa T.Hóa
Theo GQ1 - Cấu tạo con người
Xem: Các trình độ Tâm Thức khác nhau
Xem: Tổng hợp chi tiết về tâm thức
+ Tinh tú quang (Astral light, cảm dục quang): Là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi cảm dục. (LVLCK, 43)
+ Tinh Tú Quang—Astral Light (Thầy Hiệu trưởng trả lời - Anh Kiệt dịch). Câu hỏi: Khi bà HBP nói về tinh tú quang (astral light), nó có nghĩa gì?
Trả lời: đó là một điều thú vị vì bà nói rằng con người đã nhầm lẫn cõi dĩ thái với cõi cảm dục, vì cõi dĩ thái thực sự sáng chói, tỏa sáng như những ngôi sao, còn Chân sư DK mô tả về thể cảm dục như xám đục, che dấu và không chói sáng như các tinh tú chút nào. Do đó, đã có một sự nhầm lẫn trong huyền bí học, và khi bà HPB nói về tinh tú quang, bà có ý nói về cõi dĩ thái hơn. Sau này, nó đã phát triển thành ý tưởng liên quan với cõi cảm dục. Tôi nghĩ đó là một chủ đề cần nghiên cứu kỹ (Thầy HT).
Tuy nhiên , điều thú vị là những yếu tố của kí ức liên quan đến cảm dục liên quan đến việc ăn chay nghiêm ngặt trong 10 năm. Điều thực sự đáng chú ý ở đây là Sao Kim là hành tinh liên quan đến việc làm trong sáng cõi cảm dục, và Sao Kim cũng là hành tinh có liên quan đặc biệt đến giới thực vật, chứ không liên quan đến giới động vật, ngoại trừ cuối cùng liên quan đến trí năng trong giới động vật. Do đó, khi chúng ta tuân theo phương pháp huấn luyện của sao Kim, chúng ta có thể bắt đầu phát hiện các yếu tố kí ức được tìm thấy trên cõi cảm dục hay cõi trung giới, và điều đó đòi hỏi phải ăn chay nghiêm ngặt 10 năm trước khi có thể làm bất cứ điều gì. Vì vậy, chúng ta đang đề cập đến một công việc khá nghiêm ngặt ở đây nếu chúng ta thực sự muốn thấy rõ ràng bằng cách sử dụng một số quan năng cao siêu mà hiện nay chúng ta chưa thể đạt đến với bất kỳ độ tin cậy nào.
Chúng ta hãy thừa nhận rằng Chân sư DK có một quan điểm rất bao quát, rộng lớn, vì Ngài đã làm chủ mười tám máy cõi phụ thấp, còn chúng ta thì không. Do đó, chúng ta chỉ đang bước xuyên qua chúng, con đường tế vi, ảo tưởng, dễ lạc lối, dễ nhầm lẫn, nhưng chúng ta hỏi đường, liên tục hỏi đường. Hỏi đường nghĩa là liên tục hỏi nhau, hỏi Chân sư, và nhất là hỏi linh hồn của chúng ta những câu hỏi sẽ dẫn chúng ta đến sự mặc khải, vì một câu hỏi đúng sẽ mở ra cánh cửa. Vì vậy, chúng ta hãy đặt câu hỏi và không cần phải lo lắng liệu câu hỏi đó thông minh hay không. Bạn chỉ cần đặt câu hỏi và cuối cùng mọi thứ sẽ mở ra ngày càng nhiều. Đó là những gì tôi cố gắng làm và bạn nên làm.
+ Kinh Hiển Vô Biên Phật Độ Công Đức
Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, Đức Bạc-già-phạm[1] an trụ tại rừng Nhàn Tịch Pháp, nước Ma-kiệt-đà[2]. Bấy giờ Ngài đang ngồi nơi tòa sư tử trên đài sen hồng bằng bồ-đề kim cang vi diệu bền chắc có vật báu trang hoàng. Lại có số đại Bồ-tát nhiều như hạt bụi nhỏ trong mười bất khả thuyết câu-chi na-dữu-đa trăm nghìn cõi Phật và vô lượng trời, người, a-tố-lạc[3]… vây quanh.
Bấy giờ, trong hội có đại bồ-tát Bất Khả Tư Nghị Quang Vương nương oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính thưa:
– Bạch đức Thế Tôn! Các cõi nước của chư Phật, thời gian và sự trang nghiêm có hơn kém chăng?
Đức Phật dạy:
Này thiện nam! Một kiếp ở thế giới Sách-ha[4] của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang. Một kiếp ở thế giới Cực Lạc chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Ca-sa Tràng của Đức Phật Kim Cang Kiên Cố Hoan Hỉ. Một kiếp ở thế giới Ca-sa Tràng chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Bất Thoái Luân Âm của Đức Phật Cực Diệu Viên Mãn Hồng Liên Phu Thân. Một kiếp ở thế giới Bất Thoái Luân Âm chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Tuyệt Trần của Đức Phật Pháp Tràng. Một kiếp ở thế giới Tuyệt Trần chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Minh Đăng của Đức Phật Sư Tử. Một kiếp ở thế giới Minh Đăng chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Diệu Quang của Đức Phật Biến Chiếu. Một kiếp ở thế giới Diệu Quang chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Nan Siêu của Đức Phật Thân Phóng Pháp Quang. Một kiếp ở thế giới Nan Siêu chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Trang Nghiêm của Đức Phật Nhất Thiết Thần Thông Tuệ Quang Vương. Một kiếp ở thế giới Trang Nghiêm chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Kính Luân của Đức Phật Nguyệt Giác.
Thiện nam tử! Cứ như vậy dần dần tăng cho đến thế giới sau cùng trong số lượng thế giới nhiều như hạt bụi nhỏ trong mười bất khả thuyết câu-chi na-dữu-đa trăm nghìn cõi Phật. Một kiếp của cõi Phật trong thế giới sau cùng này chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Liên Hoa Đức của Đức Phật Hiền Đức. Ở thế giới ấy, các chúng Bồ-tát tu tập hạnh nguyện thù thắng của bồ-tát Phổ Hiền.
Thiện nam tử! Giống như ngày đêm của các thế giới tăng dần, thì thân tướng, thọ mạng của chư Phật và thế giới của Bồ-tát trang nghiêm cũng đều như vậy. Do phúc đức của chúng hữu tình[5] tăng dần, nên nếu có người nam người nữ nào nghe được pháp môn Hiển thị vô biên Phật độ công đức này mà vui vẻ kính tin, thụ trì đọc tụng, tư duy đúng nghĩa lí, giảng thuyết cho mọi người nghe, thì khi sắp mạng chung, vô lượng chư Phật khắp mười phương đều hiện trước mặt người ấy, an ủi khen ngợi, giúp người ấy tăng trưởng vô lượng thiện căn, tùy nguyện vãng sinh vào cõi nước thanh tịnh của chư Phật, cho đến chứng đắc Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Sinh ra đời nào cũng thường nhớ đến túc mệnh[6], tu hạnh Bồ-tát, chóng được viên mãn.
Nghe Đức Bạc-già-phạm nói kinh này xong, đại bồ-tát Bất Khả Tư Nghị Quang Vương, trời, người, a-tố-lạc… và toàn chúng hội đều vui vẻ tin nhận, cung kính hành trì.
Nguồn: Kinh Hiển Vô Biên Phật Độ Công Đức
Xem thêm: Thế Giới Cực Lạc/ Cõi Nước Cực Lạc - Đức Phật Hiệu VÔ LƯỢNG THỌ
+ Kinh Hiển Vô Biên Phật Độ Công Đức
Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, Đức Bạc-già-phạm[1] an trụ tại rừng Nhàn Tịch Pháp, nước Ma-kiệt-đà[2]. Bấy giờ Ngài đang ngồi nơi tòa sư tử trên đài sen hồng bằng bồ-đề kim cang vi diệu bền chắc có vật báu trang hoàng. Lại có số đại Bồ-tát nhiều như hạt bụi nhỏ trong mười bất khả thuyết câu-chi na-dữu-đa trăm nghìn cõi Phật và vô lượng trời, người, a-tố-lạc[3]… vây quanh.
Bấy giờ, trong hội có đại bồ-tát Bất Khả Tư Nghị Quang Vương nương oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính thưa: Bạch đức Thế Tôn! Các cõi nước của chư Phật, thời gian và sự trang nghiêm có hơn kém chăng?
Đức Phật dạy:
Này thiện nam! Một kiếp ở thế giới Sách-ha[4] của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang. Một kiếp ở thế giới Cực Lạc chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Ca-sa Tràng của Đức Phật Kim Cang Kiên Cố Hoan Hỉ. Một kiếp ở thế giới Ca-sa Tràng chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Bất Thoái Luân Âm của Đức Phật Cực Diệu Viên Mãn Hồng Liên Phu Thân. Một kiếp ở thế giới Bất Thoái Luân Âm chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Tuyệt Trần của Đức Phật Pháp Tràng. Một kiếp ở thế giới Tuyệt Trần chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Minh Đăng của Đức Phật Sư Tử. Một kiếp ở thế giới Minh Đăng chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Diệu Quang của Đức Phật Biến Chiếu. Một kiếp ở thế giới Diệu Quang chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Nan Siêu của Đức Phật Thân Phóng Pháp Quang. Một kiếp ở thế giới Nan Siêu chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Trang Nghiêm của Đức Phật Nhất Thiết Thần Thông Tuệ Quang Vương. Một kiếp ở thế giới Trang Nghiêm chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Kính Luân của Đức Phật Nguyệt Giác.
Thiện nam tử! Cứ như vậy dần dần tăng cho đến thế giới sau cùng trong số lượng thế giới nhiều như hạt bụi nhỏ trong mười bất khả thuyết câu-chi na-dữu-đa trăm nghìn cõi Phật. Một kiếp của cõi Phật trong thế giới sau cùng này chỉ bằng một ngày một đêm ở thế giới Liên Hoa Đức của Đức Phật Hiền Đức. Ở thế giới ấy, các chúng Bồ-tát tu tập hạnh nguyện thù thắng của bồ-tát Phổ Hiền.
Thiện nam tử! Giống như ngày đêm của các thế giới tăng dần, thì thân tướng, thọ mạng của chư Phật và thế giới của Bồ-tát trang nghiêm cũng đều như vậy. Do phúc đức của chúng hữu tình[5] tăng dần, nên nếu có người nam người nữ nào nghe được pháp môn Hiển thị vô biên Phật độ công đức này mà vui vẻ kính tin, thụ trì đọc tụng, tư duy đúng nghĩa lí, giảng thuyết cho mọi người nghe, thì khi sắp mạng chung, vô lượng chư Phật khắp mười phương đều hiện trước mặt người ấy, an ủi khen ngợi, giúp người ấy tăng trưởng vô lượng thiện căn, tùy nguyện vãng sinh vào cõi nước thanh tịnh của chư Phật, cho đến chứng đắc Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Sinh ra đời nào cũng thường nhớ đến túc mệnh[6], tu hạnh Bồ-tát, chóng được viên mãn.
Nghe Đức Bạc-già-phạm nói kinh này xong, đại bồ-tát Bất Khả Tư Nghị Quang Vương, trời, người, a-tố-lạc… và toàn chúng hội đều vui vẻ tin nhận, cung kính hành trì.
Đường Huyền Trang dịch. Bản Việt dịch của Thích Bửu Hà. Nguồn: Xem Kinh tại đây
+ Mai mối trong hôn nhân: Đến khi Khổng Tử san định lại Lục thư: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. Từ đó đến nay có người làm môi giới, mà công việc của họ là chọn người nam người nữ nào hợp nhau. Nếu họ cùng thích hợp tuổi tác, hình dáng, tính tình, họ sẽ giới thiệu “Người phụ nữ trẻ đó rất có đức hạnh.”, “Cậu học trò kia rất thông minh.” Khi lời giới thiệu được công nhận, tức mọi việc hôn nhân xem như được tiến hành. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ Hôn nhân chúng sinh các cõi:
“Người cõi Diêm-phù-đề có sự mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Người Câu-da-ni và người Phất-vu-đãi, cũng có mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Người Uất-đan-viết, thì không có vấn đề hôn nhân, không có sự lấy chồng, lấy vợ của con trai và con gái. Loài rồng và Kim sí điểu cùng A-tu-luân (A Tu La), thì cũng có hôn nhân, có giá thú giữa con trai và con gái. Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên cho đến Tha hóa tự tại thiên cũng có hôn nhân và có giá thú giữa người nam và người nữ. Chư Thiên từ đây trở lên không còn có nam và nữ.
“Người cõi Diêm-phù-đề, vì giữa nam và nữ giao hội nhau, thân và thân xúc chạm nhau, nên sanh ra âm dương. Những người Câu-da-ni, người Phất-vu-đãi, người Uất-đan-viết cũng dùng thân với thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Các loài rồng, Kim sí điểu cũng dùng thân với thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Loài A-tu-luân thì thân với thân gần gũi nhau phát sanh khí mà trở thành âm dương. Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên thì cũng lại như vậy. Diệm-ma thiên, thì gần gũi nhau mà thành âm dương. Đâu-suất thiên thì cầm tay nhau mà thành âm dương. Hóa tự tại thiên thì nhìn kỹ nhau mà thành âm dương. Tha hóa tự tại thiên thì láy mắt nhìn nhau mà thành âm dương. Chư Thiên từ đây trở lên thì không còn dâm dục nữa. (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Các loại Ma: Phiền lão ma - Tử ma - Thiên ma - Ngũ ấm ma
Ngũ ấm ma: Sắc - Thọ - Tưởng - hành - Thức là ngũ ấm ma sanh phiền lão, có từ lúc mạng sanh ra đã có rồi, là nghiệp đời quá khứ mang đến
Phiền lão ma: Là Thất tình ngũ dục (nhà Phật gọi là Kiến tư - Trần sa - Vô minh phiền lão), cũng là từ tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay của bản thân khởi hiện thành.
Thiên ma: Cám dỗ ở ngoài thân, do ngũ dục và bên trong phiền lão, tâm tham ... khởi lên, cấu kết nhau hợp thành.
Tử ma: Chướng ngại khi cái chết đến, tuổi thọ hết.(Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
* Ma Ngũ ấm nghiêm trọng nhất trong các loại ma: Sắc là Thân xác. Cõi Thiên không có thân, còn Thọ Tưởng Hành Thức - Do Si mê mà có. Dùng Pháp niệm Phật có thể hàng phục các loại ma. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Các loại Ma
* Hòa Thượng giảng “Năm Mươi Ngũ Ấm Ma” trong Kinh Lăng Nghiêm vào năm 1968 tại Phật Giáo Giảng Đường, San Francisco. Năm 1988, tại Vô Ngôn Đường, Vạn Phật Thánh Thành, quý Thầy Cô cùng các vị Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di bắt đầu hiệu đính lại bản dịch (Anh ngữ) dưới sự chủ trì của Hòa Thượng; khi hiệu đính, Hòa Thượng có giảng giải thêm cho một số chỗ trong kinh văn, đồng thời trả lời những nghi vấn của đệ tử. Những đoạn giảng thêm và vấn đáp gồm có 42 đoạn, dài ngắn khác nhau, được kết tập lại dưới mục Notes hay Ghi Chú cho quyển “Ngũ Ấm Ma Thiển Thích”. Khi hiệu đính đến cảnh giới Tưởng Ấm Ma thứ nhất, chỗ Kinh văn: “Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kỳ tiện, phi tinh phụ nhân, khẩu thuyết kinh pháp” (Khi ấy thiên ma chờ được cơ hội thuận tiện, cho tinh thần gá vào người khác, dùng miệng người đó giải thuyết kinh pháp).
Hòa Thượng giảng thêm cũng như trả lời thắc mắc. Đó là “Ghi Chú #14” dưới đây”:
Vấn đề này quí vị đừng nên hiểu một cách cứng nhắc, lời kinh dạy ra sao, đều chỉ là một cách diễn đạt để người nghe hiểu, chứ không nhất định phải là như vậy. Quí vị cần phải biết rằng ở đây không phải chỉ có năm mươi loại, mà đến năm trăm loại, năm ngàn loại, năm vạn loại, nhiều không nói hết được. Năm mươi hiện tượng ấm ma này là một cách nói tổng quát. Quí vị cũng đừng nên suy tưởng nó cao thâm huyền diệu ra sao, mà hãy xem như là lời nói chuyện của một người bình thường, không nên gắng sức chia chẻ chi li.
Tôi giảng kinh đều gọi là ‘thiển thích’ (giải thích sơ lược), tôi không ‘thâm thích’ (giải thích thâm sâu)....
Ma có nhập vào người tu hay không, chúng chướng ngại thế nào. Mời đọc chi tiết lời giảng. (Nguồn: Mời xem tại đây)
+ Các Loài Ngạ Quỷ: Chúng có rất nhiều loại, nguồn thực để sống cũng khác nhau ... (Nguồn: Xem chi tiết tại đây).
+ Đức Phật dậy về 32 loại Ngạ Quỷ: Quỷ dù có lạ lùng mấy, thì cũng do biệt nghiệp xấu từ tâm tạo nên. Tâm tạo thiên hình vạn trạng, nên quả lành, dữ cũng theo đó mà kết. Ta sẽ kể sơ tên và ác nghiệp của chúng quỷ, có rất nhiều loại: 1. Quỷ kiêu mạn, ác hạnh (Quỷ kiêu căng); 2. Khinh tăng - Gạt cúng thịt; 3. Hung ác - Bất kính Tam bảo, quyến thân; 4. Phóng túng - Chế nhạo tu sĩ; 5. Tham lam bỏn sẻn ác độc; 6. Tà kiến, hung dữ, phá chùa; 7. Ác khẩu, chửi rủa, thâm thọc; 8. Tham lam xấc ác, bạc nghĩa; 9. Sân hận, ngã mạn, ác hạnh; 10. Ác khẩu, lăng mạ người đức hạnh; 11. Phúc tội lưỡng ban (Quỷ si mê); 12. Tu dối, gạt tín đồ; .....
+ Các loại Quỷ: Bây giờ mọi người đang để tâm nghiên cứu chú Lăng Nghiêm, mới biết là quỷ cũng có đủ hình đủ dạng, muôn ngàn loài khác nhau. Chúng nó đều là do cảm quả mà thọ báo, tùy theo loài mà hiện. Trong chú Lăng Nghiêm có nêu danh nhiều vị vua của quỷ thần, trong đó có quỷ dạ xoa (nhanh lẹ), quỷ la sát (kinh sợ), quỷ thủ hồn, quỷ thủ thi, quỷ tỳ xá xá (hớp tinh khí), quỷ cưu bàn trà (làm người tê liệt, còn gọi là bóng đè, ma đè), quỷ đại thân, quỷ điên, quỷ xú (thối), quỷ phú đan na (có mùi hôi độc), quỷ nhiệt, quỷ hàn, quỷ ảnh, quỷ âm nhạc... Ngoài ra còn có quỷ ăn hoa, quỷ ăn nhau sanh sản, quỷ ăn thai, quỷ ăn hài nhi, quỷ ăn mỡ, quỷ ăn đèn, quỷ ăn ngũ cốc... Sự biến hóa của chúng, quả là vô cùng vô tận, vô lượng vô biên.
Trước đây khi chưa nghe chú Lăng Nghiêm, chúng ta đâu biết có nhiều loại quỷ như thế. Nhưng sau khi chúng ta nghe rồi, mới biết là quỷ cũng có rất nhiều chủng loại. Đương nhiên quỷ so với người thì chúng nó đông hơn nhiều. Người tạo nghiệp tội thì bị đọa xuống cảnh giới quỷ, không thể tự mình thoát ra được ..... mời xem: HT Tuyên Hóa Khai thị 6
+ Các loại ma chướng ngại tu: Trong kinh Thủ Lăng nghiêm, Đức Thế Tôn nói: “Ông sẽ bị quấy nhiễu bởi một loại ma từ ngũ ấm của ông, hoặc là ma từ cõi trờì, hoặc mắc quỷ, thần, hoặc gặp ly, mỵ. Nếu tâm không sáng suốt, ông sẽ nhận lầm kẻ giặc là con.”
Giải thích về sự quấy nhiễu này HT. Tuyên Hoá nói: Tại sao thiên ma từ trên trời đến để quấy rầy ông? Vì ông, người tu hành, đã tu tới chỗ có định lực. Ông có một tí định lực không có gì quan trọng, nhưng cung điện của ma vương bị rúng động giống như bị động đất vậy. Vì ma vương cũng có thần thông, nên khi cung điện của nó bị rúng động , nó liền quan sát: A! Tại sao cung điện của ta lại vô duyên vô cớ rung rinh, tan vỡ thế nầy? Nó khám phá ra trên thế gian có người sắp sửa thành tựu đạo nghiệp; định lực của người tu đó khiến cho cung điện của nó đỗ vỡ. Thiên ma mới suy nghĩ: Mày muốn phá diệt tao hả? Tao sẽ phá hủy định của mày trước! Cho nên, nó đến phá hoại định lực của người tu hành. (Nguồn: Hiểu về Thiên Ma Ba Tuần)
+ Mời xem trang: Tóm lược tổng hợp các loại Ma Quỷ
+ Tâm Tánh Chúng Sinh: Trích Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là thanh tịnh pháp thân?
Thế Tôn nói: Thanh tịnh pháp thân ấy là chơn tánh thanh tịnh. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân, xưa nay thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh, tại chỗ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân. Nếu không tu hành thì không thể ngộ được bản lai diện mục. Nếu người muốn được giác ngộ mà không cầu thầy chứng minh cho, nhận giả làm thiệt, lâu ngày sẽ thành tà ma ngoại đạo, thành yêu thành quái, phỉnh gạt chúng sanh. Hiện đời sẽ bị pháp luật nhà vua hành phạt, chết rồi đọa vào ác đạo, một khi mất thân người muôn kiếp khó khục hồi được.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Các Cõi Trời - Các Tầng trời
Trời Tam Thiền gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc, ở cõi trời này chẳng cần hoan hỷ cảnh giới nữa, cảnh giới thuần túy rất vi diệu khoái lạc. Trời Tam Thiền này có ba cõi trời :
1. Trời Thiểu Tịnh: Thiên chúng ở cõi trời này đã thoát khỏi tâm vui mừng, đắc được khoái lạc tịch tĩnh vi diệu. Sự khoái lạc này là từ nội tâm sinh ra, chẳng phải từ ngoại cảnh mà có.
2. Trời Vô Lượng Tịnh: Thiên chúng ở cõi trời này, thân tâm đắc được khinh an như hư không, là cõi trời khoái lạc nhất (người tu đạo không nên ở cõi trời này, vì quá khoái lạc mà quên tu hành, rất dễ đọa lạc).
3. Trời Biến Tịnh: Thiên chúng ở cõi trời này, đắc được thuần chân thanh tịnh diệu lạc, tiêu diệt tất cả tâm hoan hỷ. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - T1)
* Có rất nhiều cõi trời, mỗi cõi có chúng sinh tương ứng. Mời xem Kinh Hoa Nghiêm, Kinh THủ Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa và nhiều Kinh khác.
+ Thời gian trên trời - Thời gian các cõi trời
Nay lược giới thiệu về thời gian, thọ mạng, thân cao, trọng lượng y phục, của sáu cõi trời thuộc về dục giới.
- Thời gian trên trời:
Tại nhân gian năm mươi năm, thì bằng một ngày một đêm, ở cõi trời Tứ Thiên Vương.
Tại nhân gian một trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Đao Lợi.
Tại nhân gian hai trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Dạ Ma.
Tại nhân gian bốn trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Đâu Suất.
Tại nhân gian tám trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Hóa Lạc.
Tại nhân gian một ngàn sáu trăm năm, thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
- Thọ mạng của chư Thiên:
Thọ mạng của Tứ Thiên Vương là năm trăm tuổi.
Thọ Mạng của chư thiên trời Đao Lợi là một ngàn tuổi.
Thọ mạng của chư thiên trời Dạ Ma là hai ngàn tuổi.
Thọ mạng của chư thiên trời Đâu Suất là bốn ngàn tuổi.
Thọ mạng của chư thiên trời Hóa Lạc là tám ngàn tuổi.
Thọ mạng của chư thiên trời Tha Hóa Tự Tại là một vạn sáu ngàn tuổi.
- Thân của chư thiên: Thân của Tứ Thiên Vương cao nửa dặm. Thân của chư thiên trời Đao Lợi cao một dặm. Thân của chư thiên trời Dạ Ma cao một dặm rưỡi. Thân của chư thiên trời Đâu Suất cao hai dặm. Thân của chư thiên trời Hóa Lạc cao hai dặm rưỡi. Thân của chư thiên trời Tha Hóa Tự Tại cao ba dặm.
- Trọng lượng y phục của các cõi trời : Y phục của trời Tứ Thiên Vương nặng hai mươi lạng. Y phục của trời Đao Lợi sáu lạng. Y phục của trời Dạ Ma ba lạng. Y phục của trời Đâu Suất một lạng rưỡi. Y phục của trời Hóa Lạc một lạng. Y phục của trời Tha Hóa Tự Tại nửa lạng.
- Thân cao và thọ mạng của chư thiên sắc giới mười tám cõi trời: Trời thứ nhất là Trời Phạm Chúng, thân cao nửa tiểu do tuần (20 dặm), tuổi thọ nửa tiểu kiếp (tám vạn ba ngàn chín trăm chín mươi tuổi). Trời thứ hai là trời Phạm Phụ, thân cao một tiểu do tuần, thọ mạng một tiểu kiếp. Trời thứ ba trời Đại Phạm, thân cao một do tuần rưỡi, thọ mạng một kiếp rưỡi. Các cõi trời còn lại lấy đây làm tiêu chuẩn.
Vô sắc giới bốn cõi trời, chư Thiên cõi này chẳng có thân thể, chỉ có tư tưởng, nhưng có thọ mạng: Trời thứ nhất: Trời Không Vô Biên Xứ, thọ mạng hai vạn đại kiếp, còn ba cõi trời còn lại là bốn vạn đại kiếp, tám vạn đại kiếp và mười sáu vạn đại kiếp. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm-T1)
+ Thời gian cõi nhân gian và Địa ngục A tỳ: Kỳ kiếp hiện tại của chúng ta gọi là Hiền Kiếp; Bởi vì trong thời kỳ này có rất nhiều bậc Thánh Hiền—thánh nhân, hiền nhân—xuất hiện ở thế gian. Kỳ Hiền Kiếp có một ngàn (1.000) đức Phật xuất thế, trong đó, Phật Thích Ca Mâu Ni là đức Phật thứ tư; như vậy là còn chín trăm chín mươi sáu (996) đức Phật nữa sẽ xuất thế. Sau khi có một đức Phật xuất thế, phải qua một thời kỳ rất lâu rất dài mới lại có một đức Phật nữa xuất thế; do đó nếu phải đợi cho đến khi chín trăm chín mươi sáu đức Phật đều xuất thế và diệt độ cả, thì thời gian chờ đợi dài biết chừng nào! Vậy mà trải qua suốt kỳ kiếp dài đăng đẳng đó, những kẻ mắc tội báo khinh chê phá hoại Phật Pháp vẫn còn phải thọ tội ở địa ngục A Tỳ.
Quý vị nên biết rằng một ngày một đêm của thế giới chúng ta đang sống thì lâu bằng sáu mươi (60) tiểu kiếp ở địa ngục A Tỳ. Lại nữa, năm mươi (50) năm ở nhân gian thì đối với cõi trời Tứ Thiên Vương chỉ là một ngày một đêm; và một trăm (100) năm ở nhân gian chỉ bằng một ngày một đêm ở cung trời Ðao Lợi. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sinh các cõi: Phật bảo Tỳ-kheo:
“Chúng sanh cõi Dục có 12 loại: “1. Địa ngục./ “2. Súc sanh./“3. Ngạ quỷ./“4. Người./“5. A-tu-luân./“6. Tứ thiên vương./“7. Đao-lợi thiên./“8. Diệm-ma thiên./“9. Đâu-suất thiên./“10. Hóa tự tại thiên./“11. Tha hóa tự tại thiên./“12. Ma thiên.
“Chúng sanh cõi Sắc có 22 loại: “1. Phạm thân thiên./“2. Phạm phụ thiên./“3. Phạm chúng thiên./“4. Đại Phạm thiên./“5. Quang thiên./“6. Thiểu quang thiên./“7. Vô lượng quang thiên./“8. Quang âm thiên./“9. Tịnh thiên./“10. Thiểu tịnh thiên./“11. Vô lượng tịnh thiên./“12. Biến tịnh thiên./“13. Nghiêm sức thiên./“14. Tiểu nghiêm sức thiên./“15. Vô lượng nghiêm sức thiên./“16. Nghiêm thắng quả thật thiên./“17. Vô tưởng thiên./“18. Vô phiền thiên./“19. Vô nhiệt thiên./“20. Thiện kiến thiên./“21. Đại Thiện kiến thiên./“22. A-ca-nị-trá thiên.
“Chúng sanh cõi Vô sắc có 4 loại: “1. Không trí thiên./“2. Thức trí thiên./“3. Vô sở hữu trí thiên./“4. Hữu tưởng vô tưởng trí thiên.”
- Phật bảo Tỳ-kheo “Có bốn loại Đại Thiên thần, đó là: “1. Địa thần. / “2. Thủy thần./ “3. Phong thần. / “4. Hỏa thần. (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Mười hai chúng chư thiên thuộc dục giới và sắc giới.
Tại dục giới có bảy chúng: 1. Nguyệt Thiên Tử./2. Nhật Thiên Tử./3. Tam Thập Tam Thiên Vương./4. Tu Dạ Ma Thiên Vương./5. Đâu Xuất Thiên Vương./6. Hóa Lạc Thiên Vương./7. Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương
Tại Sắc giới có năm chúng: 1. Đại Phạm Thiên Vương./2. Quang Âm Thiên Vương ./3. Biến Tịnh Thiên Vương./4. Quảng Quả Thiên Vương./5. Đại Tự Tại Thiên Vương. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm-T1)
+ Trời Tứ Thiền gọi là Xả Niệm Thanh Tịnh Địa. Ở cõi trời này chẳng có hoan hỷ khoái lạc, chỉ có thọ bình đẳng không thể hình dung. Cõi trời này phân làm ba cõi trời :
1. Trời Thiểu Quảng còn gọi là trời Phước Sinh, chúng sinh cõi trời này chẳng còn hỷ lạc (vui thích), chỉ có tinh thần tồn tại.
2. Trời Vô Lượng Quảng, còn gọi là trời Phước Thọ, vì phước báu của cõi trời này đáng ưa nhất. Chúng sinh cõi trời này xả bỏ hỷ lạc, tu phước đức cầu thăng lên trời.
3. Trời Quảng Quả, chúng sinh cõi trời này siêng tu thiền định, tu thiền hữu lậu thì sinh về trời Vô Tưởng (ngoại đạo) ; tu thiền vô lậu thì sinh về trời Ngũ Bất Hoàn ( A La Hán và Bồ Tát ở). (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - T1-HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ma Ba Tuần - Ma Vương: Cũng gọi là Người ác. Ma Ba Tuần còn gọi là Ma Vương, là Thiên Chủ của Ma cung. Vị trí của Ma cung thuộc cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, là nơi cao nhất trong sáu từng trời Dục giới. Sáu từng trời này, theo thứ tự từ thấp lên cao là: 1. Trời Tứ Thiên Vương. 2. Trời Tam Thập Tam Thiên. 3. Trời Dạ Ma Thiên. 4. Trời Đâu Suất Thiên. 5. Trời Hóa Lạc Thiên. 6. Trời Tha Hóa Tự Tại Thiên.
Như vậy Cung điện của Thiên Ma Ba Tuần là một vùng lâu các vạn phần trang nghiêm xinh đẹp, nằm phía bên trên của trời Tha Hóa Tự Tại. Theo Phật Học Tinh Yếu: “Chư thiên ma Ba Tuần thuộc cõi trời Tha Hóa. Thân cao ba dặm, áo nặng nửa thù. Thân quang thường có ánh sáng rực rỡ. Tuổi thọ của Ma Ba Tuần là 16.000 tuổi, một ngày đêm nơi đây bằng 1600 năm cõi người.” (HT Tuyên Hóa giảng trong Kinh Thủ LN - Q.6). Xem thêm: HT Tuyên Hóa giảng
+ Ma: Thiên Ma - Ngoại đạo: Thường phá hại Phật đạo. Kinh Phạm võng quyển thượng (Đại 24, 1002 hạ) nói: Thiên ma ngoại đạo, xem nhau như cha mẹ. Thiên ma và ngoại đạo đều là kẻ thù của chân lý:
- Thiên Ma
1) Một trong tứ ma trên cõi trời thứ sáu, thường che lấp hay cản trở chơn lý Phật giáo
2) Danh từ nầy tiêu biểu cho những người lý tưởng luôn tìm cách quấy phá Đạo Phật
3) Sát Giả: Thường làm những chuyện phóng dật hại thân.
4) Ba Tuần: Còn gọi là Ác Ái (là loại ma vương xuất hiện trong thời Phật còn tại thế). Ma của tầng trời thứ sáu. (Mārapapiman (S) - Tên Ma vương thời Phật tại thế)
5) Ba Ty Dạ: Papiyan (skt) - Một loại ma vương đặc biệt hồi Phật còn tại thế.
- Các loài: Deva-putra-māra (S) Thiên tử ma, Tha hóa Tự tại Thiên tử ma, Ma vương và quyến thuộc ở tầng thứ 6 cõi Dục, chuyên làm chướng ngại thiện pháp, ghét thanh hiền, gây não loạn không cho thành tựu thiện căn xuất thế. Thiên ma là ngoại ma duy nhất trong Tứ ma. (Xem nguồn)
+ 5) Chư thiên ma: Đây là loại ma quán duy nhất từ bên ngoài còn bốn loại ma kể trên đều là nội ma cả. Chư thiên ma nầy thì không đáng ngại bằng các nội ma ở trong tâm, do đó Đức Phật lại dạy rằng:”Dù chiến thắng vạn quân ở chiến trường không bằng chiến thắng chính mình, vì đó là chiến thắng cao thượng nhất”. Những chư thiên ma nầy xuất phát từ những vị Trời, những vị quỷ thần trong cãnh giới A-tu-là, dạ xoa. Đôi khi chúng phá phách, và cũng đôi khi chúng phục tòng. Chỉ có nhũng bậc tu hành ở những nơi thanh vắng, hoặc người kém đức có thể bị chúng đe dọa, nhưng đối với những bậc đức độ cao dầy, với ý chí sắt đá không những không khiếp nhược trước bọn ma quỷ này mà họ còn đem lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình để hóa độ chúng trở về với chánh đạo. (Nguồn: Đức Phật Tu Hành - Thành Đạo)
+ Ma Ba Tuần: ... Đây là nói về ma vương Ba Tuần, thật sự thần thông, đạo lực của ông ta cũng rất lớn. Khi Thế Tôn mới tu hành, ông ta đến cản trở. Định lực, trí huệ, đạo lực của Thế Tôn hơn hẳn ông ta. Ở trước mặt Thế Tôn, ông phô bày nhiều kiểu uy hiếp dụ dỗ, giở mọi mánh khóe, nhưng Thế Tôn vẫn như như bất động, ở trong tất cả cảnh giới, thật sự làm được, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, ma ấy không có biện pháp nào.
Thế Tôn thành Phật rồi, ma Ba Tuần cũng đến hộ pháp, đã có lần ông ta đến thưa với Thế Tôn, ông ta nói: tôi vẫn muốn phá hoại pháp của ông, Thế Tôn trả lời, Phật pháp là chánh pháp, ngươi không có năng lực để phá hoại, Ba Tuần nói: đợi đến thời kỳ mạt pháp của ông, pháp vận của ông sẽ tư từ suy yếu, tôi khiến cho con cháu của tôi, ma con ma cháu, đều xuất gia khoác áo cà sa của ông, đến phá hoại Phật pháp của ông, Phật Thích Ca Mâu Ni nghe thế rơi lệ, không nói câu nào, lời nói của ông ta, là thời đại hiện nay, thật đúng như vậy.
Ở đây chúng tôi có cúng bài vị của ma vương, bài vị ma vương Ba Tuần, ông ta đã từng đến tìm tôi, chất vấn tôi không thông báo ông ta, vì sao tùy ý xâm phạm đạo tràng của ông ta. Tôi nói, tôi không xâm phạm. Sau này đột nhiên tôi nghĩ đến, ngày nay internet, ti vi là đạo tràng của ông ta, chúng ta cũng có 1 cái ti vi, cũng có internet, đây là xâm phạm đạo tràng của ông ta. Thực là ma dùng phương pháp này, dạy hư lòng người trên toàn thế giới rồi, đây là ma vương lộng quyền. (Nguồn: HT Tịnh Không giảng)
+ Chuyển kiếp tái sanh cần nhân duyên đặc biệt:
"Cho nên, Phổ Quảng, khinh chê sự cúng dường của người khác mà còn mắc phải tội báo như thế, huống là tự sanh ác kiến hủy diệt!"
Lược giảng:
... Khinh chê và hủy báng những người cúng dường Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thì phải nhận lãnh những ác báo: phải trải qua 1.000 đày đọa ở chốn địa ngục, 1.000 đường ngạ quỷ, 1.000 chốn súc sanh, sau đó mới được đầu thai làm người mà lại là người bần cùng hạ tiện và các căn không toàn vẹn.
... Ðây là luật pháp của địa ngục do chính Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên nói. Tuy nhiên, trong đó vẫn có sự ngoại lệ đối với những nhân duyên đặc biệt ...
Ví dụ: Trong lúc đang mang thân ngạ quỷ thì kẻ ấy phát tâm từ bi, tự nguyện trợ giúp những người đang tu Ðạo, hoặc thấy người khác lạy Phật, lạy Bồ Tát thì kẻ ấy cũng tùy hỷ phát tâm lễ bái theo và hoan hỷ bảo vệ người tu Ðạo; như vậy là trong thời gian thọ tội, kẻ ấy đã lập được công đức thiện lành, nhờ đó kẻ ấy có thể được đi đầu thai làm súc sanh hoặc làm người. Hoặc là có người mang thân súc sanh mà được gần gũi Phật pháp, cũng sanh tín tâm, tội chướng cũng giảm dần, có thể được thác sanh làm người sớm hơn!
Lúc Hư Vân Lão Hòa Thượng ở Vân Nam (Trung Hoa), có một con gà được mang đến thả nuôi trong chùa, và hằng ngày nó thường lẽo đẽo đi theo những người tu hành ở đó. Khi chư Tăng lên chánh điện niệm Phật thì nó cũng đi theo, và cùng mọi người nhiễu Phật, niệm Phật. Như thế được ba năm thì có một hôm con gà đó đến đứng trước tượng Phật mà vãng sanh. Ðây là một trong những trường hợp nhân duyên đặc biệt vậy.
Nếu trong lúc thọ thân làm người bần cùng hạ tiện, biết nhân nào quả đấy, kẻ ấy biết dũng mãnh tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, ăn chay niệm Phật hoặc chăm chỉ tu Ðạo, thậm chí xuất gia làm Tỳ Kheo, thì kẻ ấy sẽ không phải đọa vào ác đạo lại nữa.
Nói tóm lại, nếu gặp trường hợp có nhân duyên đặc biệt - Biết tu hành tinh tấn thì ác thọ, Phật Pháp rất linh động, uyển chuyển và rất hữu lý.
Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện (Kinh Hoa Nghiêm) có nói rằng, nếu quý vị biết ăn năn hối cải thì bao nhiêu tội chướng cũng đều có thể tiêu diệt, vì vậy mới có câu:
“Trước Phật lễ bái, tội diệt vô số.” tội chướng dù nhiều như cát sông Hằng cũng đều được tiêu tan, không còn nữa.
“Buông xả một đồng, phước tăng vô lượng”: Trước Tam Bảo xả bỏ tiền của, dốc lòng bố thí, có bao nhiêu thì hoan hỷ bố thí bấy nhiêu, thì phước báo của quý vị sẽ vô lượng vô biên; song cần phải dốc hết chân tâm, đem lòng chí thành mà cúng dường mới được...
"Huống là tự sanh ác kiến hủy diệt!" Khinh chê người khác cúng dường mà còn phải bị quả báo đọa lạc trong ba đường ác suốt mấy ngàn kiếp, thế thì nếu chính mình nảy sanh ác kiến hủy diệt Tam Bảo, phá hoại Tam Bảo, tội ấy hẳn càng lớn, càng nặng biết bao nhiêu! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các loài tái sanh chuyển kiếp: (1-44. Một Pháp)
1. Ví như trong cõi Jambudipa (Diêm-phủ-đề) này, số ít là các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các vùng đất khả ái, các hồ ao khả ái, còn nhiều hơn là các chỗ đất cao đất thấp, các con sông khó lội qua, các khu vực râm rạp những gậy gộc, gai góc, các núi non lởm chởm. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít là các loài hữu tình sanh trên đất liền. Và số nhiều là các loài hữu tình sanh ở trong nước.
2. ...Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít là các loài hữu tình được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn là các loài hữu tình được tái sanh ra ngoài loài Người.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít ... được tái sanh ở các quốc độ trung ương. Và nhiều hơn ... ở quốc độ biên địa, giữa các loài man rợ không biết nhận thức.
3. ... số ít là các chúng sanh có trí tuệ, nhanh trí, không điếc, không câm, có khả năng suy xét ý nghĩa của những lời khéo thuyết hay vụng thuyết. Và nhiều hơn là các chúng sanh có ác trí tuệ, châm trí, điếc và câm. không có khả năng suy xét ý nghĩa của những lời khéo thuyết hay vụng thuyết.
4. ... số ít đầy đủ cặp mắt trí tuệ của bậc Thánh. Và nhiều hơn bị chìm đắm trong vô minh si ám.
5. ... số ít được thấy Như Lai. Và nhiều hơn không được thấy Như Lai.
6. ... số ít được nghe pháp luật do Như Lai thuyết giảng. Và nhiều hơn không được nghe pháp luật do Như Lai thuyết giảng.
7. ... số ít sau khi nghe, thọ trì pháp. Và nhiều hơn sau khi nghe không thọ trì pháp.
8. ... số ít quán sát ý nghĩa các pháp chúng học thuộc lòng. Và nhiều hơn không quán sát ý nghĩa các pháp chúng học thuộc lòng.
9. ... số ít sau khi hiểu được ý nghĩa, sau khi hiểu được pháp, thực hành đúng theo pháp và tùy pháp. Và nhiều hơn sau khi hiểu được ý nghĩa, sau khi hiểu được pháp, không thực ..
10. ...số ít được khích động bởi những vấn đề đáng được khích động, Và nhiều hơn không được khích động bởi những vấn đề đáng được khích động.
11. ... số ít sau khi được khích động, như lý tinh tấn. Và nhiều hơn sau khi được khích động, không như lý tinh tấn.
12. ... số ít sau khi từ bỏ pháp sở duyên, được định, được nhất tâm. Và nhiều hơn sau khi từ bỏ pháp sở duyên, không được định, không được nhất tâm.
13. ... số ít được đồ ăn tối thắng, được vị ăn tối thắng. Và nhiều hơn không được đồ ăn tối thắng, vị ăn tối thắng, chỉ nuôi sống với các áo và đồ ăn lượm lặt.
14. ... số ít đã dược vị ngọt của mục đích, vị ngọt của pháp, vị ngọt của giải thoát. Và nhiều hơn không được vị ngọt của mục đích...,
15-17. ... trong cõi Diêm-phủ-đề này, số ít là các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các vùng đất khả ái, các hồ ao khả ái. Và nhiều hơn là các chỗ đất cao đất thấp, các con sông khó lội qua, các khu vực rậm rạp những gậy gộc gai góc, các núi non lởm chởm.
... số ít sau khi chết từ loài Người được tái sanh trong loài Người. Và nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục... ở các loại bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
18-20. ... số ít sau khi chết từ loài Người được tái sanh giữa chư Thiên. Còn nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục... .
21-23. ... số ít sau khi chết từ chư Thiên được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
24-26. ... số ít sau khi chết từ chư Thiên được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
27-29. ... số ít sau khi chết từ địa ngục, được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn bị tái sanh ở cõi địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
30-32. ...số ít sau khi chết từ cõi địa ngục, được sanh lên chư Thiên. Và nhiều hơn bị tái sanh ở cõi địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
33-35. ... số ít sau khi chết từ loài bàng sanh bị tái sanh giữa loài Người, Và nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
36-38. ... số ít sau khi chết từ các loài bàng sanh được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn được tái sanh ở cõi địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
39-41. ... số ít sau khi chết ở cõi ngạ quỷ được tái sanh giữa các loài Người. Và nhiều hơn bị tái sanh ở cõi địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ..
42-44. ....số ít sau khi chết ở cõi ngạ quỷ được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn bị tái sanh ở cõi địa ngục... ở các loài bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.(Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một - Một Pháp)
+ Tâm tán loạn: Đối với người tu Tịnh độ, hóa giải xung đột vô cùng quan trọng. Trong các kinh điển, Thế Tôn đã giới thiệu thế giới Cực lạc là thế giới hòa bình, bình đẳng, nơi các bậc thượng thiện tụ hội. Nếu tâm không bình đẳng, giờ phút nào cũng mang nỗi oán hận, nhất định sẽ chướng ngại việc vãng sinh. Người vãng sinh tâm phải thanh tịnh, các tổ sư vẫn thường nói “Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, hay nói cách khác, tâm không thanh tịnh, thì bất luận người đó dụng công thế nào, có niệm hàng vạn danh hiệu đức Phật cũng không thể vãng sinh: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn - Đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Do đây biết tu hành muốn đắc thành tựu là ai ai cũng phải tu Tâm thanh tịnh bình đẳng ...
Theo Phật pháp, mỗi người đời đời kiếp kiếp đều có chủng tử oán hận trong A lại da thức. Người người cùng ở với nhau, luôn cảm thấy không vừa mắt, điều này ai cũng có thể kiểm nghiệm, bất luận thấy người nào, việc gì cũng đều không vừa lòng, đều thấy không vui. Đó là oán hận tích lũy từ vô lượng kiếp, nếu đồng thời bộc phát ra, thế giới này sẽ bị hủy diệt như các tôn giáo phương Tây từng dự đoán. Ngày tàn chính là toàn thế giới bị hủy diệt, trở lại từ đầu....
* Hóa giải xung đột gia đình: Hiện tượng không hòa thuận trong gia đình rất phổ biến, vợ chồng bất hòa, xung đột thường xảy ra. Nguyên nhân do đâu? Do quan niệm mình đúng, người khác không đúng; cả hai đều nhìn thấy không đúng của đối phương thì làm sao có thể hòa thuận. Trước khi kết hôn, chúng ta thường nhìn người yêu với con mắt lý tưởng hóa, mọi thứ thuộc về người đó đều đẹp, đều vừa mắt, nhờ vậy mới có thể đi đến kết hôn. Đó là trạng thái tâm lý trước hôn nhân. Tuy nhiên, nếu vĩnh viễn nghĩ đối phương là đúng, là tốt, khi có mâu thuẫn, chúng ta giành phần sai về mình, cam kết sửa đổi thì gia hòa vạn sự hưng. Ghi nhớ cái tốt của người mới có thể hòa thuận, có thể hóa giải xung đột, và thực sự xúc tiến an định hòa bình. Gia đình là tế bào của xã hội, là tổ chức cơ bản nhất. Nhà nhà hòa thuận thì xã hội hòa thuận, đất nước giàu mạnh. Mọi người đều phản tỉnh, đều biết khuyết điểm ở chính mình. Nói người khác sai chính là sai lầm to lớn. Ngày nay, đa số chúng ta phạm phải sai lầm này. Người khác làm gì có sai lầm, đạo lý này hiếm người hiểu được, chỉ có Phật Bồ tát hiểu. Vì sao nói người khác đều không có lỗi? Vì sai ở ngay chính chúng ta.....(Nguồn: Hóa giải lòng oán hận - PS Tịnh Không)
+ 608. TÂM BỊ PHÂN RẢI
Thế nào là tâm Tỳ-kheo hướng ra bên ngoài, bị phân rải, tán loạn?
Với con mắt, Tỳ-kheo con mắt thấy sắc, thức ăn tướng của sắc, thức đắm trước vị lạc của tướng của sắc, thức bị trói buộc bởi vị lạc của tướng của sắc; vị ấy bị vị ngọt của sắc tướng cột chặt tâm nên hướng ra ngoài, bị phân rải, tán loạn. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; với ý vị ấy nhận thức pháp, thức chạy theo pháp tướng, thức đắm trước vị lạc của pháp tướng, thức bị trói buộc bởi vị lạc của pháp tướng, vị ấy bị vị của vị ngọt của pháp tướng cột chặt tâm nên hướng ra bên ngoài, bị phân rải, tán loạn. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, Phẩm 13, số 164)
+ Chín Pháp giới Chúng sanh đều điên đảo
Ðiên đảo nghĩa là gì? Ðó là thấy khổ cho là vui, cho phải là trái, cho vô thường là thường tồn. Còn có nghĩa như trường hợp tâm tư bất định, trong đầu thì loạn tưởng, thấy việc nghĩa chẳng làm, thấy lợi thì chạy theo. Nói tóm lại, không phân biện trắng đen, không rõ điều chân giả, đều gọi là điên đảo.
Câu nói: "Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo" chính là định luật của nhân quả. Ðầu tiên là sự mê hoặc, khởi tâm sai lầm rồi theo đó tạo nghiệp. Tạo xong nghiệp thì nhận kết quả - quả báo, đó là lẽ tự nhiên. Quả báo là chẳng thể nghĩ bàn, mà chúng sanh tạo nghiệp cũng là điều chẳng thể nghĩ bàn. Lúc đầu tiên sanh ra mê hoặc, cũng là điều chẳng thể nghĩ bàn. Lý do là các loại sự vật, tất cả đều chẳng thể nghĩ bàn, do đó khiến cho chúng sanh thảy đều quay cuồng, bối rối, không biết đâu là đầu mối, như thế nào là thích đáng.
Từ pháp giới của a-tu-la mà nhìn về chư thiên thì họ không hiểu biết gì nhiều, nhưng nhìn về thế gian nhân loại thì họ biết một cách tường tận. A-tu-la thấy loài người điên đảo, trôi nổi trong sanh tử mà không biết khổ, lấy khổ làm vui, tham luyến không muốn bỏ, trông thật đáng thương.
Tại pháp giới của loài người, thì không ai biết được cảnh giới của a-tu-la ra sao, cũng không biết gì về đời sống của chư thiên, hay pháp giới của các bậc thuộc hàng Tứ thánh, nhưng đối với pháp giới của loài thú thì lại biết rõ rệt. Họ thấy súc sanh quá hồ đồ, điên đảo, không biết sự việc gì khác ngoài các vọng tưởng về ăn và dục.
Súc sanh nhìn về quỷ đói thì nhận thấy quỷ đói điên đảo, chúng vì miếng ăn mà khổ não, nhưng tới khi ăn thì đồ ăn là lửa, chúng không nuốt được.
Tại pháp giới quỷ đói nhìn sang pháp giới địa ngục thì thấy chúng sanh ở địa ngục điên đảo. Chúng sanh ở đây đã tạo ác nghiệp phải thọ ác báo, mà lại không biết sửa đổi, cải ác ra thiện.
Tại pháp giới địa ngục thì chúng sanh hoàn toàn không hiểu biết gì, sống trong mê, chết cũng trong mê, chỉ biết riêng lấy mình, không biết tới ai khác. Ðịa ngục là biển khổ mênh mông, không còn có đường nào sáng sủa......
Tại pháp giới địa ngục, mỗi ngày có hàng vạn chúng sanh được sanh ra rồi chết đi, trăm ngàn sự điên đảo, khổ sở không thể nói hết. Tại sao vậy? Ở đây ác nghiệp ngập trời nên chúng sanh phải đền tội. Trong cảnh vạn phần điên đảo không có được nửa phần không điên đảo, do đó lìa khỏi được pháp giới này thật là khó khăn vô kể.......
Tại pháp giới của loài người trong vạn phần điên đảo, thản hoặc có mười phần hay năm mươi phần, tối đa không quá một trăm phần, là không điên đảo. Trong lúc không điên đảo, người ta làm việc công đức, hoặc lạy Phật, hoặc niệm Phật. Khi điên đảo thì vọng tưởng lăng xăng, ham danh đoạt lợi, đấu tranh kiên cố. Tại sao trong vạn phần điên đảo lại chỉ có trăm phần không điên đảo? Ðại khái như khi lạy Phật chẳng hạn, lúc đó không điên đảo. Nhưng có những lúc thân đương lạy Bồ-tát mà tâm lại cầu Bồ-tát gia hộ, mong Bồ-tát ban cho trúng số, phù hộ cho được bình an; thậm chí, có kẻ chẳng chịu học hành mà cũng cầu Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ cho đỗ trạng nguyên, đó chính là điên đảo......
Quý vị phải nghiên cứu kỹ đi! Tại sao chúng ta ở thế giới này chưa thanh toán được phiền não, mà vẫn còn ở nơi hỗn tạp đợi chết? Kẻ xuất gia không ra vẻ người xuất gia, tại gia thì không chịu tu hành! Còn chờ đợi tới thời điểm nào nữa mới chịu tu? Ðời này là ngũ trược ác thế, lưu luyến sanh tử có ích lợi gì?
Quý vị! Hãy tha thiết vấn đề sanh tử, hãy mau phát tâm Bồ-đề, đừng tạo thêm những chuyện điên đảo nữa. Quay đầu lại đi! Ráng lên, "biển khổ không bờ, quay đầu là bến." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Âm nhiều Dương ít - Âm thịnh Dương suy: Bản chất hình thành, hoạt động sinh hóa của Thái dương hệ cõi Diêm Phù Đề này là Cõi Tham dục - Âm nhiều dương ít, Âm thịnh Dương suy là bản chất cố hữu vốn có của vạn sự, vạn vật. Đây cũng là động lực để cơ tiến hóa vận hành, dù trải qua muôn thời gian vô số kiếp. Trong Phật pháp, chúng sinh luân hồi sáu cõi là bắt buộc theo Nghiệp báo. Quy luật chúng sinh Chết và Tái sanh luân chuyển trong sáu cõi đại khái thông thường theo thứ tự (Không nhất định là theo thứ tự này, mà tất cả là tùy theo nghiệp phước nào đến trước hoặc Dụng tâm thời điểm tắt hơi thở sẽ quyết định nơi tái sanh lành dữ), ví dụ như sau:
Từ cõi khác bị đọa Cõi Địa ngục => Tái sanh Cõi ngạ quỷ => Tái sanh Cõi súc sinh => Tái sanh Cõi người. Từ đây chia làm 2 trường hợp
a/ Người tu tích phước thiện sâu dày - Nghiệp ác mỏng => Từ người, sau khi mạng chung tái sanh vào Cõi A tu la hoặc chư thiên các cõi trời
b/ Người tu tích phước thiện mỏng - Nghiệp ác sâu dày => Từ người, sau khi mạng chung tái sanh vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh
* Cụ thể mời đọc Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật nói về các loại Chết - Tái sanh của từng loài chúng sinh như loài Thú - Loài ngạ quỷ - Loài súc sinh - Loài người - Chư thiên, tất cả tùy theo nghiệp tánh mà chuyển sinh vào loài vẫn mang nặng phẩm tánh tương ứng với tánh khí của đời sống tiền kiếp đó. Ví dụ, loài Quỷ độc hại thì tái sanh làm loài rắn, rết ... có độc; Loài Quỷ dâm dục tái sanh làm loài Chim mầu sắc sặc sỡ, chim bồ câu .....
1-44 Một Pháp - Kinh Phật dạy:
1. Ví như trong cõi Jambudipa (Diêm-phủ-đề) này, số ít là các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các vùng đất khả ái, các hồ ao khả ái, còn nhiều hơn là các chỗ đất cao đất thấp, các con sông khó lội qua, các khu vực râm rạp những gậy gộc, gai góc, các núi non lởm chởm. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít là các loài hữu tình sanh trên đất liền. Và số nhiều là các loài hữu tình sanh ở trong nước.
2. ...Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít là các loài hữu tình được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn là các loài hữu tình được tái sanh ra ngoài loài Người.
số ít là các loài hữu tình ấy được tái sanh ở các quốc độ trung ương. Và nhiều hơn các loài hữu tình phải tái sanh ở quốc độ biên địa, giữa các loài man rợ không biết nhận thức.
3. ... số ít là các chúng sanh có trí tuệ, nhanh trí, không điếc, không câm, có khả năng suy xét ý nghĩa của những lời khéo thuyết hay vụng thuyết. Và nhiều hơn là các chúng sanh có ác trí tuệ, chậm trí, điếc và câm. không có khả năng suy xét ý nghĩa của những lời khéo thuyết hay vụng thuyết.
4. ... số ít là các chúng sanh đầy đủ cặp mắt trí tuệ của bậc Thánh. Và nhiều hơn là các chúng sanh bị chìm đắm trong vô minh si ám.
5. ... số ít là các chúng sanh được thấy Như Lai. Và nhiều hơn là các chúng sanh không được thấy Như Lai.
6. ... số ít là các chúng sanh được nghe pháp luật do Như Lai thuyết giảng. Và nhiều hơn là các chúng sanh không được nghe pháp luật do Như Lai thuyết giảng.
7. ... số ít là các chúng sanh, sau khi nghe, thọ trì pháp. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi nghe không thọ trì pháp.
8. ... số ít là các chúng sanh quán sát ý nghĩa các pháp chúng học thuộc lòng. Và nhiều hơn là các chúng sanh không quán sát ý nghĩa các pháp chúng học thuộc lòng.
9. ... số ít là các chúng sanh, sau khi hiểu được ý nghĩa, sau khi hiểu được pháp, thực hành đúng theo pháp và tùy pháp. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi hiểu được ý nghĩa, sau khi hiểu được pháp, không thực hành đúng theo pháp và tùy pháp.
10. ... số ít là các chúng sanh được khích động bởi những vấn đề đáng được khích động, Và nhiều hơn là các chúng sanh không được khích động bởi những vấn đề đáng được khích động.
11. ... số ít là các chúng sanh, sau khi được khích động, như lý tinh tấn. Và nhiều hơn các chúng sanh, sau khi được khích động, không như lý tinh tấn.
12. ... số ít là các chúng sanh, sau khi từ bỏ pháp sở duyên, được định, được nhất tâm. Và nhiều hơn các chúng sanh, sau khi từ bỏ pháp sở duyên, không được định, không được nhất tâm.
13. ... số ít là các chúng sanh được đồ ăn tối thắng, được vị ăn tối thắng. Và nhiều hơn, là các chúng sanh không được đồ ăn tối thắng, không được vị ăn tối thắng, chỉ nuôi sống với các áo và đồ ăn lượm lặt.
14. ... số ít là các chúng sanh đã được vị ngọt của mục đích, vị ngọt của pháp, vị ngọt của giải thoát. Và nhiều hơn là các chúng sanh không được vị ngọt của mục đích, vị ngọt của pháp, vị ngọt của giải thoát,..... Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
15-17. ... trong cõi Diêm-phủ-đề này, số ít là các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các vùng đất khả ái, các hồ ao khả ái. Và nhiều hơn là các chỗ đất cao đất thấp, các con sông khó lội qua, các khu vực rậm rạp những gậy gộc gai góc, các núi non lởm chởm.
số ít là chúng sanh sau khi chết từ loài Người được tái sanh trong loài Người. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ loài Người, bị tái sanh ở địa ngục... ở các loại bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
18-20. ... số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ loài Người được tái sanh giữa chư Thiên. Còn nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ loài Người bị tái sanh ở địa ngục... bị tái sanh ở loài bàng sanh... bị tái sanh ở cõi ngạ quỷ.
21-23. ... số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ chư Thiên được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ chư Thiên bị tái sanh ở địa ngục... ở các loại bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
24-26. ... số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ chư Thiên được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ chư Thiên bị tái sanh ở địa ngục... ở các loại bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
27-29. ... số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ địa ngục, được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ cõi địa ngục bị tái sanh ở cõi địa ngục... ở các loài bảng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
30-32. ... số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ cõi địa ngục, được sanh lên chư Thiên. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ cõi địa ngục bị tái sanh ở cõi địa ngục... ở các loài bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
33-35. ... số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ loài bàng sanh bị tái sanh giữa loài Người, Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ các loài bàng sanh bị tái sanh ở địa ngục... ở các loài bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
36-38. ... số ít là các chúng sanh, sau khi chết từ các loài bàng sanh được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết từ các loài bàng sanh được tái sanh ở cõi địa ngục... ở các loài bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
39-41. ... số ít là các chúng sanh, sau khi chết ở cõi ngạ quỷ được tái sanh giữa các loài Người. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết ở cõi ngạ quỷ bị tái sanh ở cõi địa ngục... ở các loài bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
42-44. số ít là các chúng sanh, sau khi chết ở cõi ngạ quỷ được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn là các chúng sanh, sau khi chết, ở cõi ngạ quỷ bị tái sanh ở cõi địa ngục... ở các loài bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một Pháp)
+ Chết và tái sinh: Đức Phật dậy ... “Người cõi Diêm-phù-đề, vì giữa nam và nữ giao hội nhau, thân và thân xúc chạm nhau, nên sanh ra âm dương. Những người Câu-da-ni, người Phất-vu-đãi, người Uất-đan-viết ; Các loài rồng, Kim sí điểu thân xúc chạm nhau cũng sanh ra âm dương. Loài A-tu-luân ... Tha hóa tự tại thiên thì láy mắt nhìn nhau mà thành âm dương. Chư Thiên từ đây trở lên thì không còn dâm dục nữa.
- Nếu có chúng sanh nào, với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, thức người đời diệt mất; thức nê-lê bắt đầu sinh ra. Nhân thức nên có danh sắc. Nhân danh sắc nên có sáu nhập.
- Hoặc có chúng sanh .... bị đọa vào trong loài súc sanh; sau đó thức người đời bị diệt; thức súc sanh bắt đầu sinh ra; ... có sáu nhập.
- Hoặc có chúng sanh ....sẽ đọa vào trong ngạ quỷ; sau đó thức người đời bị diệt, thức ngạ quỷ bắt đầu sinh ra; .... có sáu nhập.
- Hoặc có chúng sanh ..., sẽ được sinh vào trong cõi người; sau đó thức đời trước diệt, thức loài người bắt đầu sinh ra; ... có sáu nhập.
- Hoặc có chúng sanh .... sẽ sinh về cõi Tứ thiên vương; sau đó thức đời trước diệt; thức loài trời Tứ thiên vương bắt đầu sinh ra; ... có sáu nhập.
* Hình dáng tướng mạo
“Lúc bắt đầu sinh ở cõi Trời, hình dạng cũng giống hệt như con nít chừng hai, ba tuổi của cõi người này, tự nhiên hóa hiện, ngồi trên đầu gối Trời. Vị Trời ấy liền nói: Đây là con ta. Do quả báo của hành vi, nên tự nhiên mà có nhận thức; liền tự nghĩ rằng: Ta do đã làm những gì, mà nay ta sinh ra nơi này? Rồi tự nhớ lại: Đời trước ta ở nhân gian, .... Thức ăn, nếu phước báo nhiều thì thức ăn màu trắng. Phước báo vừa - màu xanh. Phước báo ít - màu đỏ. ... Khi đứa trẻ ăn xong, khát thì tự nhiên có đồ quý đựng đầy nước cam lồ. Nếu là người có nhiều phước báo thì nước này có màu trắng; Phước báo vừa vừa - màu xanh; Phước báo ít - màu đỏ. ....
“Hoặc có chúng sanh ... sinh về cõi Đao-lợi thiên; sau đó thức đời trước diệt; thức kia bắt đầu sinh ra; nhân thức này nên có danh sắc, nhân danh sắc nên có sáu nhập....
“Hoặc có chúng sanh ... sinh về cõi Diệm-ma thiên; kẻ mới bắt đầu sinh của cõi trời kia, giống như đứa trẻ ba, bốn tuổi ở cõi Diêm-phù-đề này.
“Hoặc có chúng sanh ... sinh về cõi Đâu-suất thiên; kẻ mới sinh ở cõi Trời này, giống như đứa trẻ bốn, năm tuổi ở thế gian này.
“Hoặc có chúng sanh ... . sinh về cõi Hóa tự tại thiên; kẻ mới sinh ở cõi trời này, giống như đứa trẻ năm, sáu tuổi ở thế gian này.
“Hoặc có chúng sanh ... sinh về cõi Tha hóa tự tại thiên; kẻ mới sinh ở cõi Trời này, giống như đứa trẻ sáu, bảy tuổi ở thế gian này.”... (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Bảy nguyên khí (LVLCK, 264): Cũng chú ý chức năng của các Thượng Đế trong việc ban cấp cho con người các nguyên khí của y, biểu lộ (objectivity) vốn cần đến sự hiện hữu của cả ba. Trong lúc biểu lộ, chúng ta có thể xem các nguyên khí như sau (GLBN I, 308):
Nguyên khí 1 …. Phạm vi biểu lộ, Chân thần noãn (monadic egg).
Nguyên khí 2 ….. Atma …… Ý chí
Nguyên khí 3 ….. Buddhi ….. Lý trí thuần tuý, minh triết
Nguyên khí 4 …. Manas ….. Trí thuần tuý, thượng trí
Nguyên khí 5 ….. Manas ….. Hạ trí (lower mind)
Nguyên khí 6 …. Trí cảm (Kama-manas)
Nguyên khí 7 ….. Cảm giác thuần tuý hay xúc cảm
Đây là các nguyên khí đối với tiểu thiên địa coi như đã vượt trên tất cả các thể hồng trần và như thế bảng biểu này hoàn toàn có liên hệ với sự sống bên trong hay là sự phát triển của tâm hay linh hồn .
Điều này phải được ghi nhớ kỹ, nếu không sẽ có sự lầm lẫn. Trong bảng liệt kê trên, chúng ta đã bàn đến nơi đây về khía cạnh chưa biểu lộ chớ không phải đến sắc tướng. Do đó, chúng ta đã xem xét :
a. Tính chất biểu lộ thất phân …… hình hài vật chất.
b. Tính chất chưa biểu lộ thất phân …… tiến hoá tâm linh.
c. Tính chất tâm linh thất phân …… sự sống của Thực Thể .
Chúng ta cũng sẽ ghi nhận rằng trong bảng biểu trên về sự sống tâm linh của Chân Thần, chúng ta xem nó là năm phần. Điều này rất cần trong cuộc tiến hoá có 5 phần này, nhưng 2 nguyên khí còn lại có thể được xem như :
7. Thể dĩ thái ………….....….. 1. Thể sinh lực (vital body).
6. Sinh khí thể (Prana) …......... 2. Sinh lực (vital force).
5. Cảm dục thể (kama manas).. 3. Trí dục vọng (desire mind).
1 Liệt kê các nguyên khí. GLBN II, 627, 631.
Nguyên khí 1…….. Nhục thân. Sthula sharira.
Nguyên khí 2 ….… Thể dĩ thái. Linga sharira.
Nguyên khí 3 …….. Prana. Năng lượng sinh động
Nguyên khí 4 …… Kama rupa. Năng lượng của dục vọng.
GLBN I, 136. (Đây là 4 nguyên khí thấp).
Nguyên khí 5 … Manas Năng lượng của tư tưởng Nguyên Khí giữa GLBN II, 83, 84, 332, 669.
Nguyên khí 6…. Buddhi. Năng lượng bác ái. GLBN II, 649, 676
Nguyên khí 7…. Atma. Nguyên khí tổng hợp GLBN I, 357, 201
Xem GLBN III, 201, chú thích
a. Buddhi là hiện thể đối với Atma
b. Manas là hiện thể đối với buddhi.
c. Kamarupa là hiện thể đối với manas. GLBN II, 131
d. Thể dĩ thái là hiện thể đối với prana.
Cũng nên nhớ :
Rằng thể xác (physical body) không phải là một nguyên khí GLBN II, 652, III, 652.
Rằng Linh thể (Atma) không phải là một nguyên khí. GLBN III, 62, 63, 293.
(Các liệt kê khác, dị biệt ở một số đặc điểm sẽ thấy trong : GLBN I, 177, 181, 685. II, 669. III, 476, 560. Cái sau vẫn còn nội môn).
4. Hạ trí (lower mind)……... 4. Trí cụ thể (concret mind).
3. Thượng trí (Manas)………5. Thượng trí hay trí trừu tượng
2. Tuệ giác thể (Buddhi) ….. 6. Minh triết, mãnh lực Christ, trực giác.
1. Linh thể (Atma) ................ 7. Ý chí tinh thần
Đây là bảng liệt kê thấp nhất cho kẻ ít tiến hoá hiện giờ.
+ Nguyên khí - Principle: Có một số dịch giả dịch sách Chân Sư là Nguyên Lý, điều này không hợp lý.
– Các lớp vỏ (sheaths) và các hiện thể (vehicles) chỉ là các thể biểu lộ (bodies of manifestation) của vị đệ tử trên các cõi (planes) khác nhau của Thái Dương Hệ, và các lớp vỏ này phải thể hiện (express) cho cái nguyên khí vốn là đặc điểm hay tính chất nằm dưới mỗi cõi. Thí dụ 7 nguyên khí có liên quan tới con người là:
1. Prana .... Năng lượng... Thể .... Cõi (sinh khí)... sinh động ... dĩ thái hồng trần
2. Kama .... Dục vọng, ..... Thể ... Cõi cảm giác ...cảm dục ... cảm dục
3. Manas ........ Trí ............ Thể ... Cõi trí thấp ... cụ thể ......... hạ trí
4. Manas ........ Trí ............. Thể... Cõi trí cao ... trừu tượng ... Chân Ngã
5. Buddhi ....... Trực .......... Thể.... Cõi giác ..... trực giác ..... Bồ Đề
6. Atma ....... Ý chí .... .... Linh thể ... Cõi tinh thần
Niết bàn và cái tương ứng với “nguyên khí bất biến vô giới hạn” (boundless immutable principle” trong đại vũ trụ (macrocosm) tức là Chân Thần (trên cõi riêng của Chân Thần) tạo thành nguyên khí thứ 7 (seventh principle). Có những cách khác để liệt kê các nguyên khí vì Subba Rao đúng ở một phương diện khi ông ấy cho rằng chỉ có 5 nguyên khí. Hai cái cao nhất, tức Atma và sự sống Chân Thần (life monadic) không phải là nguyên khí chút nào. (ASCLH, 74)
+ Một phương pháp hóa giải nghiệp xấu ác toàn diện nhiệm mầu:
Hôm nay tôi xin truyền cho quý vị một yếu quyết. Ðó là yếu quyết để áp dụng trong giờ phút thật khẩn cấp. Gặp những trường hợp đó chúng ta phải giữ bình tĩnh, đừng hốt hoảng, chuyện sống chết hãy tạm gác một bên, một lòng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì chắc chắn sự hiểm nguy sẽ hóa thành tốt lành, thoát khỏi ách nạn.
Trong giây phút khẩn trương, chúng ta hãy nghĩ rằng: “Ðàng nào cũng chết, vậy trước khi chết ta hãy dốc lòng niệm Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, biết đâu đó là niềm hy vọng.” Hành động như thế, tức là từ hiểm nguy mà gặp may mắn....
Từ các hoạn nạn đột ngột sảy đến, cho đến các ác duyên như bệnh ác, người ác, oán tặc giặc giã ... có thể chết đến nơi, cái chết khó chánh nhưng nếu nhất tâm niệm Ngài Quán Âm thì chắc chắn được cứu. (Nguồn: Xem hướng dẫn của HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA TẠI ĐÂY)
+ Hóa giải nghiệp xấu - Tai nạn:
- Sống đúng luân thường đạo lý - Thuận theo tự nhiên: Đời sống của ta được vô cùng sung sướng, ta cảm thấy mình là người vui sướng nhất thế gian, người hạnh phúc nhất, người mỹ mãn nhất. Ta không có thứ khác, ta hoàn toàn tuân thủ quy luật của đại tự nhiên, nhất quyết không chống lại quy luật của đại tự nhiên. => Quy luật của đại tự nhiên là chí thiện, chí thiện có thể hóa giải tất cả tai nạn. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
+ Hoá Giải Bệnh: Cho dù tai nạn hiện tiền chúng ta cũng không lo sợ, chúng ta cũng không có bất cứ lo lắng nào, dùng cái tâm bình thường để đối diện, việc này rất cần thiết. Không khiếp không sợ, mãi mãi giữ gìn tâm an định, bình lặng thì bạn mới có trí tuệ, có trí tuệ thì bạn mới có thể hóa giải vấn đề, khi bạn loạn lên, thì phiền phức liền đến.
Thí dụ: Một người bệnh ung thư, bệnh ung thư cùng bệnh cảm mạo không có gì khác nhau, việc nhỏ như nhau, người bị bệnh ung thư chết rất nhiều, đều là do sợ mà chết, các vị phải hiểu được cái đạo lí này,
Nếu như họ bị cái bệnh này, bác sĩ tuyên bố với họ, anh chỉ có thể sống được 1 tháng đến 2 tháng, họ nghe rồi thì thế nào? Họ nghe rồi không hề để ý, cũng không còn nghĩ đến bệnh, cũng không muốn đi bác sĩ, thành thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm qua 1 tháng thì không hề gì, khi đi kiểm tra lại thì không bệnh gì cả. Do nguyên nhân gì? Chuyển đổi được ý niệm, đây chính là dùng tâm để khống chế. Bạn không nên nghĩ đến nó, bạn càng nghĩ thì càng phiền phức, nếu bạn không nghĩ sự tồn tại của nó, cũng không nghĩ nó tốt cũng không nghĩ nó xấu, cả thảy đều không nên nghĩ, vậy thì nó không có bất cứ tác dụng gì.
Bạn xem, đem cái ý niệm này chuyển đổi, chuyển thành A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là ý niệm tốt nhất, quên hết đi ý niệm xấu nhất, căn bản là không để ý đến nó, rất nhanh để chuyển đổi tế bào bệnh tật trở lại bình thường, là dùng ý niệm, việc làm này có đạo lý, có lý luận để làm căn cứ, có rất nhiều kì tích đã chứng minh cho chúng ta thấy, việc này không phải là giả. Cho nên ý niệm là chủ tể tất cả, nếu bạn chân thật hiểu thông rồi, tường tận rồi, thì bạn có thể giữ gìn được thanh xuân dài lâu. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Một cách Hóa giải mọi họa tai bệnh nạn và quỉ thần quấy nhiều bằng Phật Pháp nhiệm mầu: Dùng các loại Thần chú trong Phật giáo, tuy nhiên yêu cầu người hóa giải cần sửa đổi tâm tính, ăn chay trì giới để đạt được Tâm thanh tịnh nhất định thì mới nói đến linh nghiệm, cảm ứng nhiệm mầu được (Xem: Giới thiệu Phương pháp Cải mệnh nhiệm mầu)
+ Hóa giải tai nạn: Các thiên tai nhân học, thủy tai, phong tai, hỏa tai, chiến tranh cho đến tai nạn tầu xe, lở đất.... khiến vô số người chết. Những tai nạn như thế phát sinh đều từ tâm con người tạo thành nhưng nhân loại không ai chịu nhận lỗi nơi mình. Nguyên nhân là do sát sinh ăn thịt. Cho nên biện pháp để cải biến hóa giải tai nạn không phí sức, tốn tiền đó là ăn chay, phóng sinh. Như vậy các tai nạn, chiến tranh trên thế giới sẽ tiêu diệt trong vô hình. Tai nạn đều do sát sinh ăn thịt kết thành oán khí , đầy khắp vũ trụ mới hình thành đủ thứ tai nạn như thế. Ăn thịt thì nóng giận, hận thù hừng hực lửa cháy, sinh tâm sân hận không có lòng từ bi. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 338 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chân Không trong Phật giáo: Trích đoạn Đức Phật giảng về Như Lai Tạng là Không - là Bất không - là Không và Bất không, HT Tuyên Hóa giảng:
Do đó đều chẳng phải là các pháp thế gian và xuất thế gian. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng.
Giảng giải:
Đó là những gì đã được nói ở đoạn văn trên. Đó chính là không Như Lai tạng. Do đó đều chẳng phải là các pháp thế gian và xuất thế gian. Như Lai tạng là không. Trong đó chẳng có pháp nào. Điều nầy được gọi là:
Tảo nhất thiết pháp 掃 一 切 法
Ly nhất thiết tướng. 離一 切 相.
Sự vắng bặt tất cả các pháp chính là chân không. Chân không có thể xuất sinh diệu hữu.
“Thế gian” là chỉ cho sáu cõi giới của hàng phàm phu. “Xuất thế gian” chỉ cho cảnh giới của bốn quả vị của bậc Thánh. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng. Mặt khác, các hiện tượng thế gian và xuất thế gian vốn chỉ là Như Lai tạng–vốn là minh là diệu. Nó vốn là diệu tâm, vắng lặng mà thường chiếu soi, chiếu soi mà thường rỗng lặng. Kinh văn trong đoạn nầy nói rằng Như Lai tạng là ‘không’, đoạn kinh văn: sau sẽ nói tất cả các pháp đều ‘là’ Như Lai tạng, là nguyên minh tâm diệu.
Chân Không khác Hư Không: ... Thật tướng tức là chân không và cũng tức là diệu hữu. Quý vị cho rằng chân không là hư không chăng? Không phải. Vì trong chân không xuất sinh diệu hữu. Diệu hữu chắc chắn không phải là sự hiện hữu (thông thường). Chân không chẳng phải là hư không, và diệu hữu không phải lúc nào cũng hiện hữu. Vì nó không thực có, nên được gọi là diệu hữu. Thật tướng cũng có đạo lý y như vậy. Nếu quý vị thông đạt được nghĩa nầy, thông suốt được việc nhỏ thì thông suốt được hết mọi việc.(Nguồn: Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch II)
- ... Nhưng hoàn toàn không nghe hư không hoại diệt. Sao vậy? Vì hư không chẳng phải là pháp có thể tạo tác. Do đó trước sau trọn không hoại diệt.
(Hư không chẳng có bắt đầu và kết thúc, là vô thủy vô chung). Giảng giải:
Hư không là cái không thể tạo tác hoặc do người làm ra được. Hư không vốn là trong đó không có một thứ gì cả; nên gọi là hư không. Bất cứ thứ gì nếu được tạo tác thì không phải là hư không. Và, do vì trong đó không có một thứ gì, nên nó không hoại diệt. Hư không luôn luôn là như thế...... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q4 - Chương IV)
+ Nơi chân không xuất sanh ra diệu hữu, cùng đại dụng:
Liễu biệt là thức uẩn. Phân biệt đầy đủ năm ấm. Năm ấm là sắc thọ tưởng hành thức.
"Cảnh hoa thủy nguyệt liễu trần ai, (hoa gương trăng nước tuyệt bụi trần)".
Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giống như hoa hiện trong gương, như trăng hiện trên mặt nước. Tuyệt bụi trần tức là không còn một vết ô nhiễm bụi trần. Nói lên ý nghĩa là năm uẩn đều không.
"Không nhi bất không minh đại dụng, (không mà chẳng không rõ đại dụng)".
Chư vị phải hiểu rõ năm uẩn đều không. Lúc không hiểu rõ năm uẩn là không thì có nhiều phiền não, vọng tưởng. Hiểu rõ được thì chuyển thức thành trí. Khi ấy đắc đại diệu dụng phi thường. Hiểu rõ diệu dụng này tức thấy mà như chưa thấy thì an lạc sung sướng.
"Kiến do vị kiến lạc khoái tai, (thấy như chưa thấy, vui vô vàn)".
Nơi chân không xuất sanh ra diệu hữu, cùng đại dụng. Khi ấy chư vị thấy rõ mà cũng đồng như chưa thấy. Không bị cảnh giới chuyển. Có thế, chư vị mới đắc được an lạc chân chánh. Vì vậy nói rằng vui vẻ vô vàn. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thuyết Chân Không:
"Thận vật ngoại cầu trì trung đạo, (chớ tìm cầu ngoài, trì trung đạo)".
Chư vị chẳng nên hướng ngoại tìm cầu. Tự trong thân tâm đã có đầy đủ.
" Phóng hạ nhiễm duyên tức lai như, (xả bỏ duyên nhiễm tức Lai Như)".
Sao gọi là duyên nhiễm ? Nhiễm tức là nhiễm ô. Duyên tức là nhân duyên. Chư vị phải nên phóng xả. Sao gọi là duyên nhiễm ? Duyên tức là tâm tham, sân, si, giết hại, uống rượu, dùng nha phiến. Chư vị phải xa rời duyên nhiễm thì đồng vào nhà Như Lai. Lai Như tức là từ nay cho đến ngày thành Phật không xa. Khi thành Phật thì gọi là Như Lai. Chúng ta chưa thành Phật nên gọi là Lai Như. Lai thì năng Như. Không lai thì không như. Lai đến nơi nào ? Lai đến nơi thành Phật. Những duyên nhiễm này phải nên xả bỏ hết thì mới là Lai Như. Như nghĩa là mọi việc đều hợp lý, không có việc gì chướng ngại. Nếu mọi việc còn chướng ngại thì không gọi là Lai Như.
Không này chính là chân không. Sắc cũng là diệu hữu. Diệu hữu phi hữu cũng là chân không. Chân không này xuất sanh từ đâu ? Xuất sanh từ nhất như, cũng từ sắc pháp phát khởi ra. Nơi nào cũng có sắc pháp. Từ hư không cũng hiện ra sắc pháp, nên nói sắc không khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, cũng là thuyết chân không mà chẳng phải không, diệu hữu mà chẳng phải hữu. Tại nơi chẳng không chẳng có, chư vị nên hiểu kỹ. Đấy là chân chánh hiểu rõ Phật pháp. Giống như bên trên bàn về mộng. Chư vị mộng đến mộng lui mà không biết. Mộng rồi tỉnh, tỉnh rồi mộng cũng thế. Vì vậy chúng ta sanh ra như thế nào, chết đi ra sao, vẫn không biết. Trong cái không biết mà hiểu rõ đó là giác ngộ. Do đó, bảo rằng sắc tức là cội nguồn của chân không. Hiểu rõ chân lý không tức là sắc thì dòng vọng tưởng khô cạn. Vọng tưởng đoạn hết, không còn nữa. Vì thế, chúng ta phải hiểu rõ đạo lý không và sắc, và cũng phải lãnh hội đạo lý phi không, phi sắc. Ngài Lục Tổ nói : "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy, cái gì là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh ?"
Không nghĩ thiện là không phải không, không nghĩ ác, cũng là không phải sắc. Nơi chẳng phải sắc, chẳng phải không đó, chư vị hãy nghiên cứu kỹ, đó chính là giác ngộ được cảnh giới vừa là không mà vừa là sắc. Do đó, chư vị phải hiểu rõ sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Trong chân không có chân sắc; trong chân sắc có chân không, tức là tại sắc pháp cũng có bổn thể của chân không, và tại pháp không cũng là sắc. Như núi là sắc pháp. Chư vị san bằng thì thành không. Trước lúc san bằng núi thì có không chăng ? Cũng tại chỗ đó. Khi có không rồi thì sắc còn hay mất ? Sắc cũng còn nơi đó. Hãy xem coi chỗ nào là không ? Sắc cũng tại nơi đó. Không cùng sắc là một như băng với nước. Sao không biến thành sắc ? Như trời lạnh thì nước biến thành đá. Sao sắc biến thành không ? Trời nóng khiến nước đá tan thành không. Lại có thể nói rằng trong không trung, nhiều hạt bụi hợp lại thành một sắc tướng, nhân duyên tán thì biến thành không. Thế nên, không cũng là sắc, sắc cũng là không. Bảo rằng hạt bụi đó không thể chuyển hóa, cũng là một ví dụ, lại không bảo hạt bụi là nước đá được. Sợ chư vị chưa hiểu rõ nên lấy ví dụ nước đá và nước lỏng. Chư vị đừng hiểu lầm là hạt bụi và không biến thành nước và nước đá. Chư vị hãy suy nghĩ, giống như đầu đặt lên đầu, lại biến thành chấp trước. Gốc vốn không chấp trước. Tôi không có phương cách khiến chư vị hiểu rõ đạo lý sắc không chẳng khác. Từ từ thì chư vị sẽ tham ngộ đạo lý này hoặc sẽ minh bạch rõ ràng......
Chân không bát nhã chính là diệu hữu - Diệu hữu phi hữu chính là chân không:
Trong không chẳng có sắc. Đó là bàn tiếp về đoạn văn ở trên. Bên trên, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Vì chân không chẳng có sắc thọ tưởng hành thức. Bổn thể của thọ tưởng hành thức vốn là không. Sáu căn, mắt tai mũi lưõi thân ý cũng không có. Sáu trần, sắc thanh hương vị xúc pháp chẳng có luôn. Sáu thức, thức của mắt tai mũi lưỡi thân ý đều là không. Tâm kinh này đàm luận về lý không tức chân không bát nhã. Chân không bát nhã chính là diệu hữu. Diệu hữu phi hữu tức là chân không. Do đó bảo rằng chân không không ngăn ngại diệu hữu, diệu hữu không ngăn ngại chân không, chân không là diệu hữu, diệu hữu cũng là chân không. Vì thế, bên trên kinh cũng nói rằng sắc không khác không, không chẳng khác sắc. (Nguồn: Bát nhã ba la mật đa Tâm Kinh-1-HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tánh thấy - Mười biểu hiện của nó: Đức Phật giảng về Cái thấy và Tánh thấy
Đức Phật bảo A-nan có gì khác nhau giữa màu tối đen mà người mù thấy được và màu tối đen mà người sáng mắt nhìn thấy khi họ ở trong phòng tối?
Giảng:
Bóng tối mà người sáng mắt thấy được trong phòng tối không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn đuốc có gì khác với bóng tối mà người mù thấy được chăng? Nếu một người mù và một người sáng mắt cùng ở trong một căn phòng tối, hai màu tối đen mà hai người nhìn thấy có khác nhau chăng?
Việt dịch:
Bạch Thế tôn, đúng vậy. Hai màu tối đen, một do người ở trong phòng tối thấy và một do người mù thấy được không có gì khác nhau.
Giảng:
Hai màu tối đen ấy đều giống nhau.
Đức Phật đáp: Đúng vậy!
Kinh văn:
112. A-nan! Nhược vô nhãn nhơn toàn kiến tiền hắc, hốt đắc nhãn quang, hoàn ư tiền trần, kiến chủng chủng sắc, danh nhãn kiến giả. Bỉ ám trung nhân, toàn kiến tiền hắc, hốt hoạch đăng quang, diệc ư tiền trần, kiến chủng chủng sắc, ưng danh đăng kiến.
Việt dịch:
A-nan, nếu người mù chỉ thấy được màu tối đen khi bỗng dưng được sáng mắt lại, thấy được đủ loại sắc tướng, ông gọi đó là do mắt thấy. Và khi người ở trong phòng tối kia, chỉ thấy phía trước hoàn toàn tối đen, bỗng dưng thấy được mọi vật nhờ có đèn sáng, lẽ ra nên gọi đèn thấy là đúng hơn.
Giảng:
Đức Phật bảo A-nan: A-nan nếu người mù chỉ thấy được màu tối đen, khi bỗng dưng được sáng mắt lại, thấy được đủ loại sắc tướng…
Ông nói chẳng có gì khác nhau giữa hai thứ màu tối đen. Nhưng sẽ là gì nếu người mù trong ví dụ này bỗng dưng được sáng mắt lại, mắt họ thấy được đủ vật tượng ở khắp mọi nơi?
Ông gọi đó là do mắt thấy
Đó là ý kiến của ông, nhưng còn trường hợp khi người ở trong phòng tối kia thấy được mọi vật nhờ có đèn sáng thì sao? Người sáng mắt ở trong phòng tối cũng chỉ thấy được một màu đen tối, nhưng một khi bật đèn sáng lên thì người ấy vẫn có thể thấy được tất cả mọi thứ. Theo luận điểm của ông, lẽ ra ông nên nói đèn thấy là đúng hơn.
Tại sao Đức Phật nói như vậy? Người ở trong phòng tối thì không thể thấy, nhưng khi đèn sáng lên thì họ có thể thấy được. Người mù thì không thể thấy được nhưng nếu họ được sáng mắt trở lại thì họ vẫn có thể thấy được. Nếu khi người mù kia chợt sáng mắt lại rồi khi người ở trong phòng tối kia thấy được nhờ đèn sáng thì lẽ ra nên gọi là cái thấy ấy là đèn. Đức Phật hỏi: Có đúng vậy không?
Kinh văn- Việt dịch:
Nếu cái thấy do đèn thì đèn đã có được cái thấy, nên chẳng gọi là đèn; và nếu là đèn thấy thì quan hệ gì đến ông?
Giảng:
Nếu cái thấy từ đèn thì đèn đã có được cái thấy, nên chẳng gọi là đèn. Và nếu là đèn thấy thì quan hệ gì đến ông?
Nếu thực sự đèn có thể nhìn thấy và quan sát được thì chẳng có việc gì quan hệ đến ông cả.
Kinh văn:
114. Thế nên phải biết, đèn làm hiển lộ các vật thể. Còn cái thấ́y đó là do ở mắt, chứ không phải đèn. Khi mắt nhận rõ các vật thể thì tánh thấy đó chính là tâm, chẳng phải là mắt.
Giảng:
Đèn làm cho hình dáng các vật thể hiển hiện rõ ràng nhưng nhờ mắt mới nhận ra được các vật thể ấy. Cùng một biểu tượng như vậy, khi mắt nhận rõ các vật thể, thì tánh thấy đó chính là tâm, chẳng phải là mắt.
1. Chúng ta đang nghiên cứu nghĩa thứ nhất trong 10 biểu hiện của tánh thấy mà Đức Phật đã mười lần khai thị tánh thấy, bảy lần gạn hỏi về tâm. Đây là lần thứ nhất. Đức Phật chỉ bày tánh thấy là do tâm, không phải từ mắt.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần chánh văn)
+ Tánh thấy là chủ Hư không - là Chân tâm: Trích ... Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không, lay động là trần. Do lay động mà có nghĩa là trầ̀n.
HT Tuyên Hóa giảng: Vô minh, phiền não nhiều vô số như những hạt bụi trần đang lay động. Nhưng hư không thì không lay động. Hư không biểu thị cho tánh thấy của ta, vốn luôn luôn không lay động. Tánh thấy đó là người chủ chân thực, là chân tâm thường trụ của chúng ta, vốn chẳng đến, chẳng đi.
Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không, trong suốt và lặng lẽ, không lay động, đó được gọi là hư không.
Lay động là trần, do lay động mà có tên gọi là trần. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần chánh văn - Mục 119)
+ Tánh thấy có đủ bốn nhân duyên: Ngài A-nan lại nghi tiếp: “Đã chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, cớ gì Thế Tôn thường chỉ dạy các Tỷ-kheo là tánh thấy có đủ bốn nhân duyên: Nhân hư không, nhân ánh sáng, nhân tâm và nhân mắt?”.
Nhân hư không, là từ vật tới mắt phải có khoảng cách vừa đủ mới thấy. Xa quá hay cận quá… đều không thể thấy.
Nhân ánh sáng, là phải có duyên ánh sáng thì mới thấy được vật, tối quá thì không thể thấy.
Nhân tâm, là muốn nói đến 4 thức: Nhãn thức, thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám. Khi mắt thấy được trần cảnh thì lúc ấy có đầy đủ 4 thức đó hoạt động.
Nhân mắt, như mắt phải sáng mới có thể thấy, mù thì không thể thấy.
Hỏi như vậy vì ngài A-nan vẫn chưa phân định được cái thấy và tánh của cái thấy. Tánh cái thấy thì không (không tướng), không phải tự nhiên cũng không do nhân duyên mà thành. Còn cái thấy là do ba thứ căn - trần - thức duyên hợp mà thành. Tánh, không phải là tướng mà tánh thì không lìa tướng. Như Phật đã nói: “Lìa tất cả tướng mà tức tất cả pháp”. Cho nên, Phật trả lời: “Này A-nan! Đó là ta nói các tướng nhân duyên trong thế gian, không phải nói đến Đệ nhất nghĩa đế”. Đệ nhất nghĩa đế, chỉ cho tánh của cái thấy, chính là Phật tánh. (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên - Tự nhiên)
+ Các uẩn đều không - Ngũ uẩn đều không - Năm uẩn đều không là bàn về Tánh không - Chữ Không trong phật giáo:
Chư vị phải cẩn thận, đừng để thời gian trôi mất, ngày đêm luống qua vô ích. Hiện tại phải tu hành đắc được pháp bát nhã thậm thâm, chân lý cao thượng.
"Yểu yểu minh minh thông hưu tức, (mờ mờ ảo ảo thông tin tức)".
Mờ mờ ảo ảo, nói nghe nhưng thực không nghe, nói thấy nhưng thực không thấy.
"Hoảng hoảng hốt hốt kiến bổn tôn, (vội vội vàng vàng thấy bổn tôn)".
Hiện nay, chư vị phải được tin tức mờ mờ ảo ảo, vội vội vàng vàng thấy bổn chân. Lại như không có hình tướng mà nói thấy hình tướng. Thấy bổn tôn tức là thấy rõ tự tánh của chính mình.
Soi thấy năm uẩn đều không.
"Ba quang phổ chiếu thấu ba tài
Nhất quy hợp xứ lại nhất lai
Thấy sắc tức không thọ nạp thế
Vọng tưởng chuyển lưu, tan hạnh nghiệp
Thức vẫn phân biệt đủ năm âm
Gương hoa trăng nước tuyệt trần ai
Không mà chẳng không rõ đại dụng
Thấy như chưa thấy vui vô vàn".
"Tam quang phổ chiếu thấu tam tài, (ba quang phổ chiếu thấu ba tài)".
Ba quang là mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao. Phổ chiếu tức là phổ biến chiếu sáng. Ba tài là trời, đất, người. Ba quang là văn tự bát nhã quang, quán chiếu bát nhã quang, thật tướng bát nhã quang. Thật tướng bát nhã quang tức là thậm thâm bát nhã quang. Soi thấy năm uẩn đều không. Dùng ba quang chiếu thấu ba tài, tức chiếu khắp trời, đất, người.
"Nhất quy hợp xứ lại nhất lai".
Nhất quy hợp xứ tức tự tánh của mình. 'Nhất' là nói tự tánh. 'Hợp xứ' cũng là chỗ của tự tánh. Xưa nay muôn pháp đều quy về một. Một quy về hợp xứ. Ngài Thần Quang có nói bài kệ :
"Muôn pháp quy về một
Một quy về hợp nhất
Thần Quang vốn chẳng sớm biết Đạt Ma
Vếch tai núi quỳ nghe Ngài dạy chín năm
Chỉ cầu thoát khỏi Diêm La".
Vì sao thế ? Tâm chúng ta cũng chính là tánh. Một khi quay về liền hợp xứ. Hợp tức là tương hợp. Tương hợp với gì ? Cùng tương hợp với Phật tánh. Chư vị cùng Phật tánh tương hợp, rồi trở về cội gốc, lại xuất sanh diệu dụng. Diệu dụng này chính giúp thành tựu Phật quả, gọi là trở về nhất lai, cũng là ông Phật của chư vị.
"Thấy sắc tức không thọ nạp thế".
Thấy sắc tức không, nghĩa là thấy được sắc mà sắc vốn là không. Sao nói sắc vốn không ? Phàm phu chúng ta đều chấp trước sắc này. Chấp vào sắc gì ? Tổng thể của sắc. Sắc pháp tuy có nhiều loại, mà tổng thể của sắc chính là thân thể chúng ta, gọi là sắc thân. Sao sắc thân lại là không? "Thật sự thân này có mà !"
Chư vị biết mặc đồ, ăn uống, ngủ nghỉ, sao chẳng biết không ? Nếu chư vị hiểu rõ sắc thân này được hình thành như thế nào thì chư vị sẽ hiểu rõ tánh không của nó. Vì vậy nên giảng về chân không tích pháp, cũng là pháp phân tích. Thân này là tổng tướng của sắc. Đất nước gió lửa là biệt tướng (tướng riêng) của sắc. Thân thể của chúng ta do đất nước gió lửa hợp thành. Xương cốt thịt thà chính là đất. Nước mắt, nước mũi, máu, tiểu tiện, mồ hôi, là nước. Thân thể được ấm áp là nhờ có lửa. Vận động hô hấp nhờ thân thể có gió. Bốn đại hòa hợp thì thân thể còn. Chúng phân tán thì thân thể mất. Đất trở về đất đá. Nước trở về nước. Gió trở về gió. Lửa trở về lửa. Mỗi đại đều trở về cội gốc, nên không thật có. Vì thế, mọi người chấp trước vào thân thể, tự cho là có, thật là sai lầm. Sao thân thể không phải là mình ? Thân thể không phải là mình. Mình là gì ? Có thể giữ gìn thân thể, có thể thấy, nghe, ngửi, biết, nhận thức bằng tri giác. Tri giác này cũng là mình. Thân thể là gì ? "Thân thể chính là mình, mình là thân thể".
Không thể cho rằng thân thể chính là mình được, vì thân thể chỉ giống như nhà ở. Chư vị không thể cho rằng nhà mình ở chính là mình. Chư vị gọi nhà ở chính là mình thì sợ rằng người ngoài cười cho. Nhưng nói thân thể chính là mình thì không ai cười cả. Sao không ai cười chư vị ? Vì ai cũng cho rằng thân thể chính là mình, tức là chấp nhà ở chính là mình. Thấy, nghe, ngữi, nếm, giác, biết đều là Phật tánh. Phật tánh cũng chính là tự tánh của chư vị. Thân thể bất quá chỉ do nhân duyên hòa hợp. Nhân duyên ly biệt thì thân thể phân tán. Thế nên, chư vị đừng cho rằng thân thể chính là mình. Mình ở trong nhà, những việc bên ngoài không thể biết. Thế nên đừng chấp trước nhà ở chính là mình.
Bàn về sắc, chư vị hãy phân tích rõ, nó cũng là không. Do từ không mà biến thành sắc pháp. Đất nước gió lửa hợp thành thân thể mà có người lại nói rằng thượng đế tạo ra người. Dùng gì để tạo ra ? Cũng dùng đất nước gió lửa mà tạo thành. Chúng ta cũng có thể dùng một chút đất, nước, gió, lửa để tạo ra thân người. Ai ai cũng đều tạo ra người khác được. Con người do nhân duyên hòa hợp tạo thành. Nhân duyên biệt ly thì thân thể phân tán. Thế nên đừng gọi thân thể là mình. Sắc tức là không. Chư vị nếu hiểu rõ sắc tức là không thì không chấp trước thân thể là mình. Tất cả vật dụng thuộc về mình, mình đều bảo tồn, phụ trợ. Đó là làm nô lệ cho thân mình. Tâm của chư vị chính là tánh tri giác. Chư vị phải hiểu rõ thân thể là sắc pháp, là giả hợp, đừng nên chấp trước. Nếu không chấp trước thân thể tức là phá được sắc uẩn. Khi phá được sắc uẩn rồi thì nó biến thành không.
Thọ nạp như thế. Thọ uẩn cũng giống như sắc uẩn, là không thật có.
"Vọng tưởng quyện lưu hạnh nghiệp an bài, (vọng tưởng chuyển lưu, nghiệp an bài)".
Vọng tưởng là tưởng uẩn. Quyện lưu tức là hành uẩn. Hành nghiệp an bài là hành uẩn được an bài cùng hành nghiệp.
"Thức nãi liễu biệt ngũ âm cụ, (thức cũng liễu biệt đủ năm ấm)".
Liễu biệt là thức uẩn. Phân biệt đầy đủ năm ấm. Năm ấm là sắc thọ tưởng hành thức.
"Cảnh hoa thủy nguyệt liễu trần ai, (hoa gương trăng nước tuyệt bụi trần)".
Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giống như hoa hiện trong gương, như trăng hiện trên mặt nước. Tuyệt bụi trần tức là không còn một vết ô nhiễm bụi trần. Nói lên ý nghĩa là năm uẩn đều không.
"Không nhi bất không minh đại dụng, (không mà chẳng không rõ đại dụng)".
Chư vị phải hiểu rõ năm uẩn đều không. Lúc không hiểu rõ năm uẩn là không thì có nhiều phiền não, vọng tưởng. Hiểu rõ được thì chuyển thức thành trí. Khi ấy đắc đại diệu dụng phi thường. Hiểu rõ diệu dụng này tức thấy mà như chưa thấy thì an lạc sung sướng.
"Kiến do vị kiến lạc khoái tai, (thấy như chưa thấy, vui vô vàn)".
Nơi chân không xuất sanh ra diệu hữu, cùng đại dụng. Khi ấy chư vị thấy rõ mà cũng đồng như chưa thấy. Không bị cảnh giới chuyển. Có thế, chư vị mới đắc được an lạc chân chánh. Vì vậy nói rằng vui vẻ vô vàn. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các uẩn/ Ngũ ấm đều không: Theo Thập nhị duyên sinh, bắt đầu là Vô minh, do Vô minh mà có Hành. Hành là duyên khiến Thức hiện hành, từ đó có Danh sắc, Lục nhập... Danh sắc/ Thân Tâm tức là ngũ ấm. Gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm thứ này che đậy chân tánh nên nói là ngũ ấm.
Có Sắc thân thì có sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó là sáu cửa nhận tiếp trần cảnh đưa vào thức thứ 8, nên gọi là Lục nhập. Có Lục nhập thì có sáu trần, gọi là Thập nhị xứ. Có sáu căn sáu trần thì có sáu thức, gọi là Thập bát giới. Tất cả đều từ Vô minh mà có. Vô minh là duyên khiến chân thể thanh tịnh hiện khởi các thứ. (Nguồn: Chẳng phải nhân - Chẳng phải duyên)
+ Kinh Hoa Nghiêm: Chúng ta nghiên cứu mà cho đến thấu rõ Kinh Hoa Nghiêm, thì chính là “ngay nơi tâm phàm mà thấy được tâm Phật”. Quý vị lại có thể tu hành y theo phương pháp của Kinh Hoa Nghiêm dạy, thì chính là “nương theo bổn trí để cầu Phật trí”, đạt được trí huệ Phật. Quý vị không đọc Kinh Hoa Nghiêm, không biết được sự tôn quý thật sự của Phật; Kinh Hoa Nghiêm chính là kho báu lớn nhất của Phật, mọi thứ trân bảo đều nằm trong đó! Cho nên người nghe Kinh Hoa Nghiêm thì sẽ biết được chỗ mầu nhiệm của Phật Pháp. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT T.Hóa giảng)
+ Kinh Hoa Nghiêm: Pháp đại thừa chân thật. Rất tuyệt vời. Ở đây có đường dẫn tới fai với nội dung chỉ tóm tắt sơ lược đề mục Kinh để tiện tra cứu. Kính xin mời quí vị tìm đọc Kinh văn gốc HT Tuyên Hóa giảng giải.
GIỚI THIỆU
Mở đề Kinh Hoa Nghiêm ................................................13
Dẫn nhập..........................................................................18
Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm Thứ Nhất ..........................28
Giới thiệu sơ lược về bảy nơi, chín hội, ba mươi chín phẩm. Bộ Kinh nầy gồm có 45 phẩm Kinh văn, nhưng chỉ dịch ra được 39 phẩm, gồm 80 quyển.
Hội thứ nhất thì nói về "tin nhân quả".
Từ hội thứ hai đến hội thứ sáu thì nói về "sai biệt nhân quả".
Hội thứ bảy thì nói "bình đẳng nhân quả".
Hội thứ tám thì nói "thành hạnh nhân quả".
Hội thứ chín thì nói "chứng nhập nhân quả".
Hội thứ nhất có 11 quyển là : Cử quả hoan lạc sinh tín phần. Từ hội thứ hai đến hội thứ bảy cộng lại có 41 quyển là : Tu nhân khế quả sinh giải phần. Hội thứ tám có 7 quyển là : Thác pháp tiến tu thành hạnh phần. Hội thứ chín có 21 quyển là : Y nhân chứng nhập thành đức phần.
Hội thứ nhất tại Bồ Đề Đạo Tràng Hội nầy nói sáu phẩm :
1. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm.
2. Phẩm Như Lai Hiện Tướng.
3. Phẩm Phổ Hiền Tam Muội.
4. Phẩm Thế Giới Thành Tựu.
5. Phẩm Thế Giới Hoa Tạng.
6. Phẩm Tỳ Lô Giá Na.
Hội thứ nhì ở tại Điện Phổ Quang Minh.
Hội nầy nói sáu phẩm :
7. Phẩm Danh Hiệu Như Lai.
8. Phẩm Bốn Thánh Đế.
9. Phẩm Quang Minh Giác.
10. Phẩm Bồ Tát Vấn Minh.
11. Phẩm Tịnh Hạnh.
12. Phẩm Hiền Thủ.
Trên đây là mười hai phẩm diệu pháp nói ở tại nhân gian.
Hội thứ ba ở tại Điện Diệu Thắng trên cung trời Đao Lợi.
Hội nầy cũng nói sáu phẩm.
13. Phẩm Thăng Lên Đỉnh Tu Di.
14. Phẩm Kệ Tán Tu Di.
15. Phẩm Thập Trụ.
16. Phẩm Phạm Hạnh.
17. Phẩm Công Đức Ban Đầu Phát Tâm.
18. Phẩm Minh Pháp.
Hội thứ tư ở tại Điện Bảo Trang Nghiêm, cung trời Dạ Ma.
Hội nầy nói bốn phẩm.
19. Phẩm Thăng Lên Trời Dạ Ma.
20. Phẩm Kệ Tán Dạ Ma.
21. Phẩm Thập Hạnh.
22. PhẩmThập Vô Tận Tạng.
Hội thứ năm ở tại Điện Nhất Thiết Diệu Bảo Trang Nghiêm, cung trời Đâu Suất.
Hội nầy nói ba phẩm.
23. Phẩm Thăng Lên Trời Đâu Suất.
24. Phẩm Kệ Tán Đâu Suất.
25. Phẩm Thập Hồi Hướng.
Hội thứ sáu ở tại Điện Ma Ni Bảo Tạng, cung trời Tha Hoá Tự Tại.
Hội nầy chỉ nói một phẩm.
26. Phẩm Thập Địa.
Trên đây là mười bốn phẩm diệu pháp nói ở trên Thiên cung.
Hội thứ bảy ở tại Điện Phổ Quang Minh.
Hội nầy nói mười một phẩm :
27. Phẩm Thập Định.
28. Phẩm Thập Thông.
29. Phẩm Thập Nhẫn.
30. Phẩm A Tăng Kỳ.
31. Phẩm Thọ Lượng.
32. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ.
33. Phẩm Thập Thân Tướng Hải.
34. Phẩm Tuỳ Hảo Quang Minh.
35. Phẩm Hạnh Phổ Hiền.
36. Phẩm Như Lai Xuất Hiện.
Hội thứ tám tại Điện Phổ Quang Minh. Hội nầy chỉ nói một phẩm
38. Phẩm Lìa Thế Gian.
Hội thứ chín ở tại Rừng Thệ Đa.
Hội nầy chỉ nói một phẩm:
39. Phẩm Vào Pháp Giới.
Giải thích chúng Bát bộ Tứ Vương (tám bộ chúng, bốn ông vua hộ đời), Bát bộ tức là :
1. A Tu La Vương.
2. Ca Lâu La Vương.
3. Khẩn Na La Vương.
4. Ma Hầu La Già Vương.
5. Dạ Xoa Vương.
6. Long Vương.
7. Cưu Bàn Trà Vương.
8. Càn Thát Bà Vương.
Tứ Vương tức là :
1. Phương bắc Đa Văn Thiên Vương.
2. Phương tây Quảng Mục Thiên Vương.
3. Phương nam Tăng Trưởng Thiên Vương.
4. Phương đông Trì Quốc Thiên Vương.
Mỗi vị thống lãnh hai bộ chúng.
Mười hai chúng chư thiên thuộc dục giới và sắc giới. Tại dục giới có bảy chúng :
1. Nguyệt Thiên Tử.
2. Nhật Thiên Tử.
3. Tam Thập Tam Thiên Vương.
4. Tu Dạ Ma Thiên Vương.
5. Đâu Xuất Thiên Vương.
6. Hóa Lạc Thiên Vương.
7. Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương.
Tại Sắc giới có năm chúng :
1. Đại Phạm Thiên Vương.
2. Quang Âm Thiên Vương .
3. Biến Tịnh Thiên Vương.
4. Quảng Quả Thiên Vương.
5. Đại Tự Tại Thiên Vương.
+ Trang nguồn đầy đủ các tập: Tất cả 25 tập Kinh Hoa Nghiêm
+ Pháp môn Hư Không Ấn - Pháp Hư không
... Đức Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm ấy cùng chư Bồ Tát Đều lên ngồi tòa sư tử vọt ở hư không cao bằng tám mươi ức cây Đa la, Phật vì chư Bồ Tát nói pháp môn hư không ấn.
Sao gọi là pháp môn hư không ấn?
Như tất cả pháp lấy hư không làm môn vì không có trụ xứ vậy, môn vô trụ xứ của tất cả pháp vì không có hình tướng vậy, môn vô hình tướng của tất cả pháp vì quá các hành xứ vậy, môn vô hành xứ của tất cả pháp vì trong ngoài thanh tịnh vậy, môn thanh tịnh của tất cả pháp vì tánh nó không ô nhiễm vậy, môn vô nhiễm của tất cả pháp vì tự tánh tịch tĩnh vậy, môn tịch tĩnh của tất cả pháp vì vốn không có tâm ý thức vậy, môn vốn không của tất cả pháp vì rời lìa vật và chẳng phải vật vậy, môn không có vật của tất cả pháp vì không có giáo tướng vậy, môn không có giáo tướng của tất cả pháp vì không có hình Đoạn vậy, môn không có hình Đoạn của tất cả pháp vì rời lìa nhơn duyên cảnh giới vậy, môn không có nhơn duyên cảnh giới của tất cả pháp vì tướng tịch diệt vậy, môn tịch diệt của tất cả pháp vì rời lìa hai tướng vậy, môn vô nhị của tất cả pháp vì xả biệt dị vậy, môn không có dị biệt của tất cả pháp vì nhập vào nhứt tướng vậy, môn nhứt tướng của tất cả pháp vì tự tướng thanh tịnh vậy, môn tự tướng thanh tịnh của tất cả pháp vì quá tam thế vậy, môn quá tam thế của tất cả pháp vì chẳng rời bình Đẳng vậy, môn chẳng rời bình Đẳng của tất cả pháp vì tướng ảo hóa chẳng phải tướng vậy, môn ảo hóa tướng của tất cả pháp vì thể chẳng thiệt vậy, môn không có thể của tất cả pháp vì không có tác tướng vậy, môn vô tác của tất cả pháp vì thân tâm xa lìa vậy, môn viễn ly của tất cả pháp vì lìa tướng lìa vô tướng vậy, môn vô tướng của tất cả pháp vì tướng bất Động vậy, môn tướng bất Động của tất cả pháp vì không có chỗ y dựa vậy, môn không có y xứ của tất cả pháp vì an trụ vô tế vậy, môn không có tế hạn của tất cả pháp vì không có ổ hang vậy, môn không có ổ hang của tất cả pháp vì không có ngã không có ngã sở vậy, môn không có ngã ngã sở của tất cả pháp vì không có chủ vậy, môn vô chủ của tất cả pháp vì tánh vô ngã vậy, môn vô ngã của tất cả pháp vì nội thanh tịnh vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! -Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai vì chư Bồ Tát mà nói rộng pháp môn hư không ấn như vậy. Lúc Đức Như Lai ấy nói pháp có vô lượng a tăng kỳ chư Bồ Tát hiểu biết các pháp tánh cùng hư không bình Đẳng, ở trong các pháp Được vô sanh nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất ! ở quốc Độ Đai Trang Nghiêm ấy, chỗ Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm có một Đại Bồ Tát tên là Hư Không Tạng dùng Đại trang nghiêm Để tự trang nghiêm, nơi các nguyện bất khả tư nghị là tối thắng hơn cả, Được oai Đức trong tất cả công Đức, Được vô ngại tri kiến bất khả tư nghị, dùng Bồ Tát công Đức Để tự trang nghiêm, dùng các tướng hảo Để trang nghiêm thân mình, tùy chúng sanh Đáng Được Độ dùng thiện thuyết pháp trang nghiêm miệng mình, dùng bất thối Định trang nghiêm tâm mình, dùng các tổng trì trang nghiêm niệm, nhập vào các pháp vi tế trang nghiêm ý, thuận quán pháp tánh trang nghiêm tinh tiến, dùng kiên cố thệ trang nghiêm chí thuần, dùng quyết Định xong trang nghiêm việc Được làm, từ nhứt Địa Đến nhứt Địa trang nghiêm cứu cánh, xả các sở hữu trang nghiêm bố thí, dùng tâm thanh tịnh lời nói lành trang nghiêm giới, với các chúng sanh tâm không chướng ngại trang nghiêm nhẫn nhục, các sự việc Đều trọn Đủ trang nghiêm tinh tiến, nhập Định du hí thần thông trang nghiêm thiền, khéo biết phiền não tập khí trang nghiêm Bát Nhã, vì cứu hộ chúng sanh trang nghiêm từ tâm, chẳng bỏ rời các chúng sanh trang nghiêm lòng bi, tâm không do dự trang nghiêm nơi hỷ, rời lìa các ghét thương trang nghiêm nơi xả, du hí các thiền Định trang nghiêm thần thông, Được tay vô tận bửu trang nghiêm công Đức, phân biệt rõ tâm hành các chúng sanh trang nghiêm trí, dạy chúng sanh những pháp lành trang nghiêm nơi giác, Được huệ sáng sạch trang nghiêm huệ minh, Được Đúng nghĩa pháp và từ trang nghiêm biện tài, phá ma và ngoại Đạo trang nghiêm những vô úy, Được Phật vô lượng công Đức Để tự trang nghiêm, thường dùng các lỗ lông thuyết pháp Để trang nghiêm nơi pháp, thấy pháp minh của chư Phật Để trang nghiêm tự minh, hay soi sáng các Phật quốc Độ Để trang nghiêm quang minh, lời nói không có lỗi lầm Đễ trang nghiêm sở thuyết, thần thông theo chỗ thích nói Để trang nghiêm giáo thọ, thần thông Đến rốt ráo bốn thần túc Để trang nghiêm biến hóa, thần thông nhập vào chỗ bí mật của Phật Để trang nghiêm chư Như Lai, thần thông tự giác ngộ chánh trí Để trang nghiêm pháp tự tại, như thuyết mà làm không gì có thể phá hoại Được Để trang nghiêm tất cả thiện pháp kiên cố.
Nầy Xá Lợi Phất ! Hư Không Tạng Đại Bồ Tát ấy thành tựu vô lượng công Đúc như vậy, nay cùng mười hai ức Đại Bồ Tát Đồng phát ý muốn Đến thế giới Ta Bà nầy lễ lạy ta cúng dường cung kính vây quanh, cũng vì kinh Đại Phổ Tập nầy mà phân biệt ít phần pháp môn, lại cũng vì chư Bồ Tát từ mười phương Đến hội sanh Đại pháp minh, lại vì tăng ích khai phap Đại thừa, lại vì thọ trì Như Lai pháp, lại vì vô lượng chúng sanh phát sanh thiện căn, lại vì dùng thiện pháp Điều phục các ma và ngoại Đạo, lại vì thị hiện Bồ Tát du hí thần thông vậy.
Hư Không Tạng Đại Bồ Tát ấy muốn Đến Đây nên trước có thoại ứng như vậy ‘’ .
Lúc -Đức Thế Tôn nói sự ấy rồi, Hư Không Tạng Bồ Tát cùng mười hai ức Đại Bồ Tát cung kính vây quanh Đồng Đến chỗ Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai bạch rằng : ‘’ Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng tôi muốn Đến Ta Bà thế giới lễ bái cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni ‘’.
-Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Phật nói : ‘’Các ông muốn qua Đó thì tùy ý, nên phải biết thời ‘’.
Kinh văn rất dài, mời xem trực tiếp Kinh văn tại nguồn: Phẩm Hư Không Tạng Bồ Tát
+ Kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Vấn Phật. Mời xem nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật
+ Thần Chú hàng Phục Ma tử và Ma thần trong Kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Vấn Phật
Lúc ấy ma vương Ba Tuần nghĩ rằng :
Đức Thế Tôn Đại từ vì thương xót tôi mà nói cho tôi về pháp Bồ Đề tâm. Nay tôi nên ở chỗ Đức Như Lai vun trồng chút ít căn lành.
Nghĩ xong, ma vương Ba Tuần hóa ra tám vạn bốn ngàn lọng báu rất Đẹp lạ với vô lượng hoa hương anh lạc hương bột hương xoa, rồi bảo quyến thuộc mình rằng : ” Chư Phật Thế Tôn xuất thế rất khó, các người nên Đồng Đến chỗ Đức Thế Tôn Để cúng dường «. Trong Thiên ma quyến thuộc có tám vạn bốn ngàn chúng cùng ma vương Ba Tuần Đem Đồ cúng như lọng báu hoa hương dâng lên Đức Phật và Đồng phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
Ngoài ra cón có các Thiên ma quyến thuộc chẳng có tín tâm chẳng phát tâm Bồ Đề, họ hiện hình tướng cười chê luận bàn về ma vương Ba Tuần rằng :» Thật là hi hữu cho Ba Tuần có thể ở trước Sa Môn Cù Đàm trá hiện tướng Đốc tín như vậy, coi Cù Đàm như người chí thân. Hoặc là Ba Tuần muốn ở nơi Sa Môn Cù Đàm học chú thuật nên nay ở trước mặt Cù Đàm ca ngợi chăng ? «.
Trong chúng ấy có ma tử Xử Diện và các ma tử Đều không có tín tâm Đều nói rằng :`` Giả sử Sa Môn Cù Đàm dùng các phương thuật hồi chuyển ma vương, chúng ta sẽ lập các phương tiện làm cho kinh Điển như vậy chẳng lưu bố Được, dầu có lưu bố cũng làm cho ít người hộ trợ , cũng làm cho ít người tín thọ phụng hành bị nhiều người khinh tiện, thường lạc ở Địa phương biên Địa chẳng cho tuyên truyền tại trung tâm các nước, chúng ta sẽ khiến các chúng sanh bần cùng không oai Đức Được nghe và thường bị người có oai Đức hào phú chẳng tin chê trách «.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Hư Không Tạng Bồ Tát : “Nầy Đại Sĩ! Ông có nghe các ma tử nói lời ác ấy chăng ?”.
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : “Bạch Đức Thế Tôn! Tôi có nghe”
Đức Phật nói : “Nầy Hư KHông Tạng; Vì vậy mà ông nên hộ trợ an ủi kinh Đìển thậm thâm vi diệu như vậy vì Để hàng phục các ma thần”.
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn; Mười phưong chư Phật Đều Đã hộ trì kinh Điển như vậy. Chúng tôi cũng nên an ủi thọ trì”. Thần chú:
A bạt Đê, bạt Đê, tỳ bạt Đê, bà hê Đa nâu tán Đề, Đầu lâu Đà la ni, niết già Đa niết già Đa ni, xa mế bát già Đa ni, mê la dục Đê, già lâu na niết nựu Đề, tát giá bạt Đê, phù Đa lặc sai, Đạt ma niết chiết Đê, Đạt ma lặc sai, úc cưu ly, thi cưu ly, hưu lâu hưu lâu hưu lâu Đức ca ly, Đa bà bà Đế Đê, thi la nâu bà Đế Đê, a xoa dạ niết thế trì, chỉ xa bà ca lợi thí, phật Đà yết Đề mị Đê, Đạt ma huất kỳ la nê, tăng già nâu kìm mế, a nâu Đầu lệ.
Chẳng thể tế Độ Được
Quyến thuộc ma hư hoại
Nếu ai phạm kinh nầy
Không có các Đao trượng
Thuận chỗ lành mình làm
Là chỗ làm chư Thánh
Những câu lành và tốt
Thuận với dòng giải thoát
Phá các luận ngoại Đạo
Hàng phục các chúng ma
Tứ Thiên Vương thường hộ
Và cùng Thiên Đế Thích
Phạm Thiên Vương thế chủ
Hàng chư Thiên phụng Phật
Người hộ trì Bồ Đề
Chư Thiên thần như vậy
Thường phải nên ủng hộ
Hàng phục các chúng ma
Vì lợi ích chúng sanh
Mà thọ trì chánh pháp
Hộ trì thuyết pháp sư
Đều phải nên ủng hộ
Hư Không Tạng Bồ Tát nói chú ấy rồi, tức thì nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường và cả Đại Thiên thế giới chấn Động sáu cách.
Lúc các ma tử thấy trên không có năm trăm Mật Tích Lực Sĩ cầm chày kim cương chói sáng như lửa rất Đáng sợ.
Chư Mật Tích xướng lên rằng: « Nếu có ma tử và ma thần nào nghe chú ấy mà không phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, chúng ta sẽ Đập bể Đầu họ thành bảy phần.
Chư ma tử và các quyến thuộc kinh sợ run rẩy lông trên thân Đều dựng Đứng, liền chắp tay lễ Đức Phật mà bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi nay phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Lành thay Thế Tôn mong cứu chúng tôi khỏi sự kinh hoàng nầy Để Được an vui vô úy «.
Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan rằng :`` Trước Đây các ma tử nầy có nói rằng : Chúng ta ở Đời sau nơi kinh Điển nầy sẽ làm trở ngại. Ắt sẽ xứng với bổn thệ ấy mà làm trở ngại. Kinh Điển như Đây chỉ sẽ do Phật thần lực và chư Bồ Tát thọ trì mà sẽ Được lưu bố trong Đời, nhưng không có Được nhiều người thọ trì phân biệt giải thuyết.
Nầy A Nan! Ông có thấy các ma tử vì muốn thoát khỏi sự kinh sợ mà phát tâm Vô thượng Bồ Đề chăng ?».
Tôn Giả A Nan bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn; Tôi Đã thấy «.
Đức Phật nói : « Nầy A Nan ¡ Lời nói phát tâm ấy sẽ làm nhơn rời lìa ma sự cho các ma tử, vì họ chẳng thật tâm phát tâm Vô thượng Bồ Đề vậy.
Nầy A Nan; Đời vị lai sẽ có Phật xuất thế hiệu là Vô Cấu Tướng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, ma vương Ba Tuần nầy ở chỗ Đức Phật ấy sẽ bất thối chuyển phát tâm Vô thượng Bồ Đề . Đức Phật Vô Cấu Tướng biết Ba Tuần thâm tâm thành tựu nên sẽ thọ ký Vô thượng Bồ Đề cho. Lúc vị lai ấy, vẫn làm ma vương thâm tâm kính tin nơi chánh pháp Như Lai.
Như lúc Phật Di Lặc xuất thế, có ma vương tên là Đạo Sư thâm tâm kính tin Phật, Pháp và Thánh chúng. Năm trăm ma tử nầy cũng sẽ ở lúc Đó sanh trong hàng ma, họ sẽ ở chỗ Phật Di Lặc, vì Bồ Đề mà vun trồng các căn lành, cho Đến lúc Ba Tuần thành Phật sẽ thọ ký Vô thượng Bồ Đề cho họ.
Nầy A Nan; Ma vương Ba Tuần nay dầu phát tâm Vô thượng Bồ Đề mà vẫn do dự bất Định chút ít. Dầu vậy ông ấy sẽ lần lần thành tựu vô lượng công Đức làm bực Thế Tôn như Phật hiện nay «.
+ Công đức Thọ trì và các Thần chú hộ trì bảo vệ người giảng Kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Vấn Phật.
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Đức Phật :``Bạch Đức Thế Tôn! Có thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì Đọc tụng kinh Điển nầy thì Được bao nhiêu phước ?».
Đức Phật nói :`` Nầy Hư Không Tạng! Ví như cả mười phương mỗi phương Đều có mười Đại Thiên thế giới, Đem nghiền nhỏ tất cả Đại Thiên thế giới ấy thành vi trần họp chung thành một Đống. Giả sử có người thành tựu thần túc vô lượng oai Đức thọ mạng lâu dài, người nầy mang Đống vi trần ấy Đi phương Đông quá số thế giới bằng số Đống vi trần ấy mới bỏ rơi xuống một vi trần. Cứ như vậy Đi qua phương Đông mãi Đến bỏ rơi hết số vi trần ấy, nhưng các thế giới vẫn chẳng hết. Như Đi qua phương Đông bỏ rơi vi trần, Đi qua chín phương kia bỏ rơi hết số vi trần cũng như vậy, nhưng các thế giới cũng chẳng hết.
Nầy Hư Không Tạng! Các thế giới như vậy chừng có nhiều chăng ?».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Số thế giới ấy rất nhiều rất nhiều vô lượng vô biên chẳng thể Đếm biết Được”.
Đức Phật nói : «Nầy Đại Sĩ! Các thế giới ấy hoặc có dính vi trần hay không dính vi trần Đều Đem họp cả lại làm một thành cao rộng bằng nhau, trong thành chứa Đầy hột Đình lịch. Số hột Đình lịch nầy có thể Đếm biết Được chăng ?».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng :`` Bạch Đức Thế Tôn! Giả sử dùng thí dụ còn chẳng rỏ Được huống là có thể Đếm biết, chỉ trừ Đức Như Lai, không ai có thể Đếm biết Được».
Đức Phật nói : «Nầy Đại Sĩ! Đúng như vậy, Đúng như vậy, như lời ông nói, chỉ có Như Lai biết Được số hột Đình lịch ấy. Nầy Đại Sĩ! Nếu như có người thành tựu thần túc vô lượng oai Đức có thể dùng miệng thổi những hột Đình lịch ấy rải tan mười phương, một hột Đình lịch rơi xuống một thế giới, trong chẳng quá một hột. Nầy Đại Sĩ ! Theo ý ông nghĩ thế nào ? Những thế giới Được hột Đình lịch rơi xuống ấy chừng có nhiều không ?».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Những thế giới ấy chẳng phải tâm lực có thể phân biệt Được. Giả sử có phân biệt khiến tâm người phải mê loạn».
Đức Phật nói : «Nầy Đại Sĩ! Nay Phật bảo với ông, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn hành Bồ Tát Đạo, ngày ngày Đem vô lượng trân bửu Đầy cả những thế giới ấy Để bố thí không hề thôi nghỉ cũng chẳng làm việc khác.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì Đọc tụng thơ tả kinh Điển thậm thâm nầy, chẳng cầu lợi dưỡng, vì Bồ Đề mà diễn nói cho người, nhẫn Đến chỉ làm cho một người sau khi nghe rồi khuyên ở nơi Vô thượng Bồ Đề nhẫn Đến phát một niệm lành, vì muốn khiến chánh pháp Được còn lâu ở thế gian vậy. Công Đức của người nầy hơn người bố thí kia cả trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn vạn lần, nhẫn Đến chẳng phải toán số thí dụ biết Được. Huống là có thể khiến người nghe pháp nầy an trụ nơi Vô thượng Bồ Đề. Tại sao, vì có thể diễn nói vô lượng thiện căn thành tựu chư Bồ Tát như vậy Để hộ trì chánh pháp.
Nầy Đại Sĩ! Phật chẳng thấy Bồ Tát còn có pháp nào khác có thể hơn chánh hạnh kiên cố nhiếp các thiện pháp giáo hóa chúng sanh nầy».
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, Như Lai bất khả tư nghị, Đại pháp của Như Lai cũng bất khả tư nghị. Như Đại pháp của Như Lai bất khả tư nghị, người thọ trì kinh Điển nầy Được công Đức cũng bất khả tư nghị.
Ngưỡng mong Đức Như Lai hộ trì kinh nầy vì Đời dương lai khiến các thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì chánh pháp tay Được kinh nầy ôm ở trong lòng chẳng rời lìa. Nếu là người Đáng lìa khỏi sanh tử thì chẳng từ người khác nghe pháp mà tự nhiên Được khai ngộ Bồ Đề. Ngộ Bồ Đề rồi lại rộng vì người mà diễn nói».
Đức Phật nói :`` Nầy Đại Sĩ! Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ Đó, Phật sẽ vì hộ kinh Điển nầy mà nói chương cú triệu thỉnh Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương các vị Thần Thiên. Do vì Được chương cú nầy triệu thỉnh nên chư Thiên chư Thần ấy sẽ ủng hộ các thuyết Pháp sư thọ trì kinh nầy lúc diễn nói kinh Điển thậm thâm khó Được Đời tin ấy, làm cho không ai làm trở ngại Được. Đó là hoặc bị quốc vương Đại thần Đuổi ra khỏi nước, hoặc bị bịnh nặng, hoặc lúc Đấu tranh nổi lên, hoặc quốc Độ có tật dịch. Lúc các sự tai nạn ấy phát khởi do sức thần chú làm cho liền tiêu diệt chẳng trở ngại Được. Những gì là thần chú chương cú ? Liền nói chú rằng :
Đầu Đầu lệ, Đề Đề lệ , Đà dạ ki Đế, Đà dạ la già la, ni Đế Đề, tỳ bà tri, xa mế, xa di Đa tỳ, mục xí, chiên Đế Đê, ni kỳ noa nễ, a nâu Đa lệ, minh da la ni, bà ki tư, bát tha thâu Đà ni, bát Đà nâu chỉ, bát Đà tán Đề, bát nhã mâu lệ, a bà cứu lệ, phù Đà lặc sai, luật na tát chi, Đa bà tát chi, Đa bà bát Đê .
Tùy Phật ý, thuận Pháp tánh, cung kính Tăng, thế chủ tín hộ thế Tứ Vương vì các Phật tử thọ trì chú nầy hộ trì người thuyết pháp» .
Lúc ấy Tứ Thiên Vương liền Đứng dậy chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn; Chúng tôi sẽ hộ trì các Phật tử thọ trì kinh nầy. Liền nói chú rằng :
Thủ tì, thủ bà bát Đê, thủ Đề Đế, mục Đa ủng, Đà lê ủng, Đà la ni, phả Đam mế, a kỳ ủng khiếp ti, a mục xí, Đà la ni Đà ủng, tẩu thủ sái hê na, tì Đề tì Đà lại tán Đề, tam mế, bà dạ mế, ma lại di, ba phiến Đa Đề, hưu hưu, hê hê, khưu lâu khưu lâu lệ.
Lúc Tứ Đại Thiên Vương nói chú bất khả phạm ấy rồi, Thiên Đế Thích liền Đứng dậy tâm tịnh vui vẻ chắp tay hướng lên Phật mà nói kệ rằng :
Lúc Đời mạt Đói kém
Các Đại Sĩ lớn rộng
Thọ trì nói kinh nầy
Tôi sẽ hầu hạ họ.
Nói kệ xong, Thiên Đế Thích liền nói chú rằng :
Di Đê, thủ tì, ma ha di Đê, Đạt ma di Đê, thiên Đa già lệ, ma di Đê, tát giá di Đê, na Đề mế, a nâu Đa lệ, a nâu Đầu ủng, a nâu lặc sai, tát bà tát Đỏa a nâu già hê, a na nâu Đa ti, tu ký Đê, a tỳ lô Đề, a tỳ già hê, phù Đề bồ xá mế, nhị ly, yết tha ni Đê, nê Đề la ni, a na tha bà sai Đế, mế Đê, mế Đê xà gia tư, tu sa la.
Các Ngài khởi thiền lạc
Đến hộ người trì pháp
Các thế giới Thế Tôn
Thảy Đều Đồng thọ trì.
Phạm Tự Tại Thiên Vương Đứng dậy khen Thích Phạm Hộ Thế chư Thiên rằng : « Lành thay, lành thay; Các Ngài bèn có thể vì hộ chánh pháp, vì trì pháp, vì người thuyết pháp mà phát Đại trang nghiêm. Các Ngài Đúng là phải nên như vậy rất Được tiện nghi tùy theo pháp luật của Như Lai trụ thế lâu hay mau, trong thời gian ấy sẽ có người hiểu biết chánh hành pháp hành. Trong bao nhiêu thời gian ấy hàng chư Thiên và thế nhơn sẽ rất hưng thạnh cung Điện nhà cửa dẫy Đầy. Sau khi chánh pháp nầy diệt, hàng chư Thiên và thế nhơn trở lại giảm ít, cung Điện nhà cửa trống hoang».
Đức Phật nói với Di Lặc Bồ Tát rằng : « Nầy Di Lặc! Ông thọ trì kinh Điển thậm thâm nầy Đọc tụng biên chép rộng vì người mà diễn nói.
Nầy Di Lặc! Nay Phật Đem kinh Điển thậm thâm như Đây phó thác ông Để Đại pháp nầy còn lâu ở thế gian, Để hàng phục các chúng ma, Để lợi ích tất cả chúng sanh, Để tất cả ngoại Đạo chẳng Được tiện lợi, Để dạy bảo chư Bồ Tát gần kề kinh nầy chẳng xa rời, vì muốn khiến Phật pháp Đại minh còn lâu ở thế gian mà chẳng suy diệt vậy, vì khiến giống Phật Pháp Tăng chẳng Đoạn tuyệt vậy».
Di Lặc Bồ Tát liền bạch Phật rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Lúc Đức Như Lai còn tại thế và sau khi diệt Độ, tôi sẽ thường thọ trì kinh Điển thậm thâm nầy rộng tuyên lưu bố. Tại sao, vì người thọ trì pháp nầy thì là thọ trì chánh pháp của tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, chớ chẳng phải chỉ thọ trì chánh pháp của một Đức Phật.
Bạch Đức Thế Tôn! Tôi cũng vì tự hộ pháp của mình vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thường cùng Đại chúng chư Thiên câu hội ở Đâu Suất Thiên cung thường vì họ mà rộng diễn nói kinh Điển thậm thâm nầy. Tôi còn sẽ làm cho người thọ trì Đọc tụng kinh nầy tay họ Được kinh nầy ôm giữ trong lòng chẳng rời quyển kinh.
Bạch Đức Thế Tôn! Đời mạt thế sau, nếu lúc pháp muốn diệt, có ai thọ trì kinh nầy rồi vì người mà diễn nói, nên biết Đó là do oai thần của Di Lặc kiến lập vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Trong lúc ấy dầu có nhiều ma sự nhiễu loạn hành nhơn, các người thuyết pháp vì dựa nơi phiền não ma nên bị ma nhiếp trì mà chẳng thích kinh nầy chẳng siêng tu tập tranh cạnh thị phi lẫn nhau, chúng tôi sẽ Đồng siêng làm phương tiện khiến người thuyết pháp ưa thích kinh nầy thường siêng tu tập Đọc tụng thông thuộc rộng vì người mà diễn nói».
Đức Phật nói : « Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Ông có thể vì hộ trì chánh pháp mà làm sư tử hống. Chẳng phải chỉ hôm nay ông ở trước ta làm sư tử hống, mà ông cũng ở trước vô lượng a tăng kỳ chư Phật quá khứ làm sư tử hống hộ trì chánh pháp».
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : « Nầy A Nan! Ông có thọ trì kinh nầy chăng?».
Tôn giả A Nan bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn! Do thần lực của Phật nên tôi Đã thọ trì».
Đức Phật nói : « Nầy A Nan! Ông thường nên vì hàng tứ chúng mà rộng phân biệt giải nói kinh nầy. Nếu có người trước Đã vun trồng thiện căn thích pháp thù thắng, những người như vậy Được nghe kinh nầy rồi có thể tin hiểu thọ trì Đọc tụng rộng diễn nói cho mọi người. Người ấy sẽ Được vô lượng vô biên bất khả tư nghị khối Đại công Đức».
Tôn giả A Nan bạch rằng : « Bạch Đức Thế Tôn! Sẽ gọi tên kinh nầy là gì và phải phụng trì thế nào ?».
Đức Phật nói : «Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Khuyến Phát Chư Bồ Tát Trang Nghiêm Bồ Đề. Phải phụng trì như vậy».
Lúc ấy Công Đức Trang Nghiêm Bồ Tát ở trong Đại chúng Đứng dậy gối hữu chấm Đất chắp tay hướng lên Phật bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, Đức Như Lai vì ủng hộ chánh pháp và người thuyết pháp nên khéo có thể tán thán kinh nầy như vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Hàng tân học Bồ Tát vì Bồ dề nên vun trồng thiện căn, Đem các thứ hoa hương, anh lạc, hương bột, hương xoa siêng cúng dường Phật mà chẳng thọ trì kinh nầy, người ấy có thành tựu Đệ nhứt cúng dường mà cúng dường Như Lai chăng ?».
Đức Phật nói : « Nầy thiện nam tử! Chẳng thành Đệ nhứt cúng dường Như Lai, cũng chẳng thể dùng nhơn duyên ấy Để Được vô lượng công Đức. Chẳng bằng thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì kinh nầy công Đức rất nhiều». (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ Vô vi nghĩa là "Không chấp vào Danh, buông xả dục vọng", không phụ thuộc, không bị ảnh hưởng, không vì nhân duyên mà sinh ra, đối nghĩa với vô vi là Hữu vi, cũng thường được hiểu là "Không làm". Trong Phật giáo nguyên thuỷ thì chỉ có Niết-bàn được xếp vào hạng vô vi, tất cả các Pháp còn lại đều là hữu vi. Quan niệm này được lưu lại trong Thượng toạ bộ và Ðộc Tử bộ.
Ðại chúng bộ chấp nhận 9 pháp vô vi. Hai cách Diệt độ 1 và 2
1. Được đạt bằng sự phân tích phân biệt, gọi là Trạch diệt, tương ưng với Niết-bàn
2. Được đạt không qua sự phân tích, phân biệt (phi trạch), được gọi là Phi trạch diệt, liên hệ đến những lậu hoặc (ô nhiễm) mà một A-la-hán không còn vướng mắc.
3. Ðược xếp vào vô vi pháp nữa là Hư không
4. Không vô biên xứ
5. Thức vô biên xứ
6. Vô sở hữu xứ, tức là cái »không có gì«
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ
8. Nội dung của thuyết Mười hai nhân duyên
9. Bát chính đạo
+ Vô Vi: Đạo Lão giáo có nghĩa đen là “không làm,” “không gắng sức,” “không gượng ép,” hay không miễn cưỡng tạo tác. Nó không ám chỉ sự bất động hay lười biếng. Chúng ta chỉ không nên gắng sức vì những việc không chân thật, làm cho chúng ta hóa mù đến nỗi không thấy được tự tánh (Nguồn: Giải thức vô vi theo Phật học và Lão giáo)
+ Sat (Thực hữu, Tối hữu, Bản thể): Chúa Cha, Shiva, Thượng Đế Ngôi Một, Vô Hiện (Unmanifest), Bản thể (Existence). (LVLCK, 94)
– Sat là cái bất di bất dịch (the immutable), hiện tại vĩnh cửu, cái bất biến (changeless) và là Cội Nguồn vĩnh hằng, từ đó và qua đó, vạn vật diễn tiến. (GLBN IV, 16)
– Sat là cái bất di bất dịch (the immutable), cái Căn cội hằng hữu, bất biến và vĩnh cửu (the ever–present, changeless and eternal Root), từ đó và xuyên qua đó, vạn vật phát triển (proceeds). Nhưng nó còn vượt xa mãnh lực tiềm tàng trong hột giống đang thúc đẩy tiến trình phát triển, hay là những gì mà ngày nay được gọi là sự tiến hóa. Nó là cái hằng biến dịch (the ever becoming), dù là cái không bao giờ biểu lộ (the never manifesting). Sat được sinh ra từ Asat và Asat được tạo ra bởi Sat – chuyển động miên viễn trong một vòng tròn đích thực (a circle truly); tuy nhiên, đó cũng chính là vòng tròn có thể được làm cho vuông lại chỉ vào cuộc Điểm đạo Tối Cao, ở ngưởng của Đại Niết Bàn. (GLBN IV, 16)
+ Hiện tại vĩnh cửu/ Vĩnh hằng (Eternal Now): Tổng hợp của Quá Khứ, Hiện tại và Tương lai. (ĐĐTKNM–II, 186)
+ Không gian vĩnh hằng: Chân Sư thoát khỏi các giới hạn của thời gian, mặc dù không thoát được các giới hạn của không gian, bởi vì không gian là một Thực Thể vĩnh hằng (eternal Entity) (CVĐĐ, 437)
+ Hư Không bất hoại: Trích đoạn Đức Phật giảng về Hư Không cho Đại chúng và A Nan
Nhưng hoàn toàn không nghe hư không hoại diệt. Sao vậy? Vì hư không chẳng phải là pháp có thể tạo tác. Do đó trước sau trọn không hoại diệt.
HT Tuyên Hóa giảng giải: Hư không là cái không thể tạo tác hoặc do người làm ra được. Hư không vốn là trong đó không có một thứ gì cả; nên gọi là hư không. Bất cứ thứ gì nếu được tạo tác thì không phải là hư không. Và, do vì trong đó không có một thứ gì, nên nó không hoại diệt. Hư không luôn luôn là như thế. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN- Q4 - Chương IV)
+ Chân không bất biến: Trong không gian vũ trụ này thì chỗ nào cũng có 7 Đại là địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại (nhận thức tư duy, phân biệt). Các Đại ở Thái Cực/ Nhất Nguyên/ Như Lai Tạng thì Tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau, vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến). Khi biến hiện thì thành vạn vật. (Nguồn: Chương thứ bảy - Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ Chữ không - Quán không - Con đường vào đạo - Siêu phàm nhập thánh - Bốn câu kệ đức Phật thường giảng nói. Pháp tu giải thoát cho các hàng thừa.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Trong Kinh Kim Cang đức Phật thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v... giảng nói cho người khác nghe thì phước đức ấy còn hơn là phước đức đem bảy báu chất đầy Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên dưới hư không ra bố thí, lại hơn phước ngày đầu, ngày giữa, ngày sau nhẩn đến trăm nghìn kiếp đem thân mạng như số cát sông Hằng mà bố thí. Chẳng biết thế nào là bốn câu kệ?
Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.
Tại sao? Chúng sanh thường mê không giác ngộ cho nên nhiều kiếp đọa lạc. Chư Phật thường giác ngộ chẳng mê cho nên thành Phật đạo. Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật, công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ: là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp.
Sao gọi là không thân? Vì thân này do cha mẹ sanh ra đầy đủ khí huyết của cha mẹ, chín khiếu thường chảy những vật không sạch, bốn đại giả hiệp, sau rồi cũng tan rã; nhưngười trai lành gái tín tin có trí huệ biết thân này là giả, thì khi chưa chết tưởng như thân này đã chết, mượn thân giả này mà học Phật tu hành, gọi là Sắc không, câu kệ thứ nhất.
Thường quán sát tâm của mình chẳng sanh chẳng diệt, chí thánh chí linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay biết được chân tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng tưởng kéo dắt, chỉ nương chân tánh làm chủ, gọi là ngộ Tâm không, câu kệ thứ hai.
Lại quán sát tánh của mình thường lặng yên không lay động, nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là ngộ Tánh không, câu kệ thứ ba.
Lại quán sát đức Như lai giảng nói kinh pháp đều phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào cửa pháp, như nước rửa bụi, như bịnh gặp thuốc, nay chứng được tâm không, pháp không, như bịnh mạnh thì thuốc không dùng nữa, gọi là ngộ Pháp không, câu kệ thứ tư.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh. Tại sao?
Nếu ngộ đặng ý câu kệ thứ nhất, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Dự lưu Tu đà hoàn;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ hai, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Nhứt lai Tư đà hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ ba, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất lai A na hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ tư, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Vô sanh A la hán.
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.
Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật trước Phật sau cũng đồng một thể, đều tại mỗi người tự mình minh tâm kiến tánh mà thành công đắc quả, vì Phật tánh người sẵn có, nếu không y theo Phật mà tu hành thì chẳng đặng thành Phật.
Tại vì sao? Vì chưa có công đức gì ở trong Phật pháp. Nếu muốn cầu đặng bậc Phật, phải y theo mười điều dưới đây:
1.- Phải dùng trai giới làm nền tảng đi đến bậc Phật.
2.- Tìm minh sư chỉ dạy công phu.
3.- Phải biết tâm tánh rốt ráo tỏ rõ.
4.- Phải làm các phuớc lành giúp cho gốc đạo được sung túc.
5.- Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày mỗi thêm lớn.
6.- Rõ nhân quả việc làm đừng có vọng động.
7.- Trừ tà ma xa lìa ngoại đạo.
8.- Phải thông chơn lý chớ chấp hữu vi.
9.- Phải tinh tấn theo đức hạnh Phật.
10.- Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt.
Nếu đủ mười điều công đức này thì mau đặng thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi! Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều chúng sanh căn trí thấp kém, tâm ý mê say, trí tính mờ tối, tuy có trì trai giữ giới đều không trí huệ, cái tâm ngu mê cống cao ngã mạn, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ tâm mình để cầu thầy học hỏi những pháp chân chánh, khư khư chấp trước, nhận giả làm thiệt,hoặc chấp trước kinh sách văn tự, hoặc chấp trước tụng trì cho nhiều số, hoặc học được hai câu nói của Phật thì cho là hoàn toàn. Chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, căn lành tu ít mà muốn quả to, thiệt người ngu mê không hiểu ý Phật, tự mình điên cuồng tự dối mình, tuy có nhân lành mà khó tránh họa dữ. Tại sao? Hột giống không chắc, khó mà kết trái Bồ đề, một khi mất thân người, muôn kiếp khó phục hồi đặng. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang luận)
+ Tu ngộ Pháp không:
IV- Đạo đế. Diệt tức là phải chứng đắc. Đạo là phải nên tu hành. Chữ đạo dùng chữ tẩu (đi), tức là chư vị phải đi, phải hành. Nói đến đạo là phải tu hành. Nếu không tu hành thì có lợi ích chi. .... Cho đến đức hạnh, đức là phải làm, không làm thì sao có đức?
... Tu hành là việc quan trọng nhất trên thế gian. Chư vị muốn chấm dứt sanh tử không ... Nếu muốn chấm dứt sanh tử thì đầu tiên phải tu hành. ... Nếu không tu hành thì không thể chấm dứt sanh tử được .... phải tự chính mình tu đạo, không thể bảo người khác tu giùm mình. Không thể chỉ nói tu hành mà cắt đứt được sanh tử. Chư vị phải thật sự tạo đức, tự tu, tự lo lắng những việc quan trọng của mình. Trên chữ "tự" có một đường ngang, để dùng chi ? Mọi người trên thế gian đều chỉ có một lần sanh ra. Bắt đầu từ đâu ?
* Bắt đầu từ một. Có một thì sau này mới có hai. Có hai rồi lại có ba, có bốn, có năm, cho đến vô số trăm ngàn, muôn vạn v.v..., đều từ một mà phát xuất ra. Vì vậy, một là vô số, vô số là một. Nếu không có một thì không có vô số. Nếu không có vô số thì không có một. Vì tôi biết rằng con số trong toán học bắt đầu bằng số một.
Một là vô số, vô số là nhiều. Hiện tại, chúng ta không phải một cũng không phải nhiều, không phải nhiều cũng không phải một. Tại sao biến đổi như thế ? Thật ra cũng không có biến đổi thành số một. Số một này cũng tượng trưng cho một vòng tròn, tiếng Anh là số không. Số không bao hàm xum la vạn tượng. Chân không và diệu hữu đều nằm trong số không. Số không này phát xuất từ đâu ? Nó là biến tướng của số một hay chữ nhất. Chữ nhất này vẽ cong thành một vòng tròn, uốn thẳng lại thành chữ nhất. Số không hay vòng tròn là bổn thể của chữ nhất, lại là bổn thể của tất cả vạn vật trên thế gian, cũng là tạng đại quang minh, tánh Như Lai tạng, và Phật tánh. Phật tánh cũng là chữ nhất và chữ o. Chữ o cũng đại biểu cho tất cả sanh sanh hóa hóa ở trên thế gian, tức chân không diệu hữu, diệu hữu và chân không. Chữ o này không có điểm khởi đầu, cũng không có điểm cuối. Nếu phá chữ không này thì nó liền biến thành chữ nhất (gạch ngang). Gạch ngang (chữ nhất) là gì ? Tức là vô minh. Có một gạch ngang ( — ) tức là có một phần vô minh. Khi không có gạch ngang thì đó là một vòng tròn ( Ο ). Khi vòng tròn đó không phá được thì đó là tánh tạng Như Lai. Chữ nhất ( — ) là bắt nguồn của sự vô minh, nên bảo rằng một là nhiều, nhiều là một. Một điểm phiền não xuất sanh vô số phiền não. Vô số phiền não xuất sanh từ một điểm phiền não. Tại sao chư vị lại tạo bao việc vụng dại ? Chỉ vì một điểm vô minh. Tạo bao việc vụng dại tức là tạo bao nghiệp tội, mà phiền não cũng từ đó phát sanh ra. Vì thế, chư vị nếu muốn tu đạo thì phải uốn nắn chữ nhất ( — ) thành chữ o, tức vòng tròn ( Ο ), phản bổn hoàn nguyên (xoay về cội gốc). Lúc đó, chư vị có thể xoay về tạng tánh Như Lai, đạt đến chân không diệu hữu.
Một chữ nhất có hai điểm. Hai điểm này là một âm và một dương. Kinh Dịch giảng một âm một dương chính là Đạo. Thiếu âm thiếu dương gọi là Bịnh. Thuần âm là quỷ. Thuần dương là thần, nên gọi thiếu âm, thiếu dương là bịnh.
Lại phân tích rõ hai điểm đó. Từ vô minh phát sanh ra kiến hoặc và tư hoặc, nên gọi hai điểm đó là kiến hoặc và tư hoặc. Có kiến hoặc và tư hoặc rồi thì phát sanh ra vô lượng vô số hoặc. Bao phiền não đều từ chữ nhất này khởi lên. Nếu muốn xoay về cội gốc thì phải uốn nắn chữ nhất này thành chữ o. ... Chư vị phải tin tưởng pháp này thì mới khôi phục lại trí huệ vốn có sẵn, xoay về lại cội gốc, đạt đến tánh tạng đại quang minh, cũng là đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quán sắc trí, thành sở hữu trí....
... Chúng ta vừa bàn ở trên về một âm một dương. Một âm một dương là chữ "nhân (người)". ...
Hai điểm chính là từ trên trời, có thể nói là mặt trời và mặt trăng. Một điểm là mặt trời; một điểm là mặt trăng.
* "Thị đạo ưng tu ngộ pháp không, (là đạo nên tu ngộ pháp không)".
Chư vị phải dùng mắt trí huệ để tu đạo. Người ngu si không thể tu đạo này. Xoay về cội gốc tức là uốn chữ nhất (gạch ngang), thành chữ o (vòng tròn). Chữ Ο này chính là tạng tánh Như Lai, là tạng đại quang minh, là Phật tánh của chúng ta. ... Chư vị chạy mãi trong sáu đường luân hồi thì chữ o (vòng tròn) liền biến mất. ... Có tu đạo thì mới ngộ nhân không pháp không, nhân pháp đều không, không còn chấp trước, nên bảo rằng khổ tập diệt đạo đều không.
Ba lần chuyển bánh xe pháp tứ đế, bên trên tôi đã giảng rõ rồi. Chuyển vận bánh luân tức là xoay qua chuyển lại pháp môn tứ đế.
bảy phần giác, tám chánh đạo, ý niệm cần tu: Bảy giác tức là bảy phần giác chi, cũng gọi là bảy phần bồ đề. Tám chánh tức là tám chánh đạo. Bao trùm hết bảy giác chi, tám chánh đạo, năm căn, năm lực, bốn như ý túc, bốn chánh cần, hợp lại thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Bảy phần bồ đề là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, niệm, định giác phần. Tu hành y chiếu theo bảy phương pháp.
1. Sao gọi là trạch pháp giác phần ? Trạch tức là tuyển trạch. ... tức là phải có trạch pháp nhãn (con mắt chọn lựa pháp), thì chư vị mới biết gì là pháp, gì là không phải pháp, gì là pháp thiện, gì là pháp ác, biết pháp trắng pháp đen, phải có sức chọn lựa tuyển trạch như thế. Không nên lấy đúng làm sai, lấy đen làm trắng, lấy lành làm ác. Nếu làm như thế thì không phải là trạch pháp giác phần. Sau khi chọn lựa, tuyển trạch xong, thì phải y theo pháp mà tu hành.
2. Y pháp tu hành tức phải tinh tấn, nên giác phần thứ hai là tinh tấn. Chánh tinh tấn tức là hoặc ngồi thiền, trì chú, học giáo điển, trì giới luật, tu nhẫn nhục, tất cả pháp đó đều phải tinh tấn. ... Có tinh tấn giác phần tức là ngày đêm sáng tối sáu thời đều hằng tinh tấn. Sáng ba thời, tối ba thời đều tinh tấn không nghỉ ngơi.
3. Sau khi tinh tấn được rồi thì có thiền duyệt (vui trong thiền định). Thiền duyệt tức là hỷ giác phần. Ví như, khi ngồi thiền, công phu ngồi đến một giờ thì tự cảm giác an lạc, tự tại, vừa ý vô cùng; ... gọi là hỷ giác phần.
4. Trừ giác phần- Lại nữa, khi ngồi thiền, đạt đến cảnh giới khinh an thì tâm rất là an lạc. Nhưng cảnh giới này có lúc thì sanh khởi giống như trên, có lúc thì dễ dàng sanh tẩu hỏa nhập ma. Tại sao tẩu hỏa nhập ma ? Khi sanh tâm chấp trước, tức truy cầu nắm giữ cảnh giới vừa thấy, thì ma vương liền nhập vào tâm. Nếu chư vị không chấp trước, thì ma vương không có cách nào để nhập vào. Chư vị nếu chấp vào cảnh giới nào thì ma liền hiện ra cảnh giới đó. Làm thế nào để giải ? Lúc đó phải dùng trừ giác phần. Trừ tức là thẩm tra, dọ xét các ác giác quán. Phải tẩy trừ các ác giác quán, còn chánh giác quán thì phải bảo tồn.
5. Khi chư vị trừ bỏ chấp trước thì là xả giác phần. Xả này tức là xả bỏ vọng tưởng chấp trước. Nếu không thể xả bỏ vọng tưởng chấp trước thì không đắc được tam muội và đạt đến bảy phần bồ đề.
6. Niệm giác phần - Sau khi xả được vọng tưởng chấp trước thì bảo tồn được niệm tinh tấn, mà đã bàn ở bên trên. Chớ để quên mất, niệm này đeo đuổi niệm kia (niệm huyền tại huyền), niệm niệm không quên, tu tinh tấn.
7. Định giác phần - Tu tinh tấn thì sau này đắc được định giác phần, tức thuộc bảy bồ đề phần hay bảy giác phần.
+ Tám chánh đạo.
1. Thứ nhất là chánh kiến. Kiến tức là ý kiến. Nơi ý niệm có một kiến (thấy). ... Nếu không có chánh kiến thì dễ dàng lạc vào đường tà. .... Phật pháp là chân chánh, phải nên học. Đó là chánh kiến...
2. Nếu có chánh kiến rồi thì có chánh tư duy. Có kiến giải rồi thì phải có suy nghĩ; suy nghĩ việc này việc nọ là đúng hay không đúng. Học Phật pháp là một công việc tối thượng nhất trên thế gian. Không sai trái tức là chánh tư duy. Tà tư duy nghĩa là khi học Phật pháp cho rằng không có lợi ích chi....
3. Có chánh tư duy thì kế tiếp là có chánh ngữ. Chánh ngữ tức là lời nói nào cũng đều chính xác, không nói lời say sưa, cáu tiết, không dẫn người lạc vào đường tà. Nói lời chân chánh, chánh xác, khiến ai ai cũng đều vui thích lắng nghe, vui thích làm theo.
4. Có chánh ngữ rồi thì có chánh nghiệp, tức tự tìm, hành nghề chân chánh. Ai ai cũng biết rõ nghề nghiệp chân chánh là gì, chớ nên làm những nghề nghiệp phạm pháp.
5. Thứ năm là chánh mạng. Có chánh nghiệp thì sanh mạng chân chánh.
6. Thứ sáu là chánh tinh tấn. Tạo chánh nghiệp thì phải nên tinh tấn. Chớ nên tinh tấn tạo những nghiệp bất chánh.
7. Thứ bảy là chánh niệm.
8. Thứ tám là chánh định.
Đó là tám chánh đạo.
Bốn như ý túc tức là dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, tư duy như ý túc.
Bốn niệm xứ tức là thân, thọ, tâm, pháp. Quán thân bất tịnh. Quán thọ là khổ. Quán tâm vô thường. Quán pháp vô ngã. Bốn chánh cần là điều lành chưa sanh khiến cho sanh khởi, điều lành đã sanh khiến cho tăng trưởng. Đó là giảng về phương diện điều lành. Những điều ác chưa khiến cho không sanh khởi. Những điều ác đã sanh khởi khiến cho chúng đoạn diệt. Đó là nói về phương diện điều ác.
Năm căn là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Năm căn này phát sinh ra năm lực. Tín có tín lực. Tấn có tấn lực. Niệm có niệm lực. Định có định lực. Huệ có huệ lực.
* Cộng năm căn năm lực lại thành mười. Bốn niệm xứ, bốn như ý túc, bảy phần bồ đề, tám chánh đạo cộng chung là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
"Nhất đản quán thông thành thánh quả, (một lần quán thông thành thánh quả)".
Chư vị tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thì một ngày nào đó sẽ đột nhiên quán thông, minh bạch, hiểu rõ. Lúc ấy, chư vị chứng được quả thánh.
"Thiên chân hữu dư nãi hoá thành, (lệch chân hữu dư nãi hóa thành)".
Chư vị chớ nghiêng trụ tại niết bàn hữu dư, thiên chân hữu dư, niết bàn chính là hóa thành, nghĩa là thành này do biến hóa mà có, không phải là thật. Đạt đến thiên chân hữu dư niết bàn, tức là không phải niết bàn cứu cánh, nên phải còn tu thêm nữa. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian: Thấy như không thấy - Nghe như không nghe
Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Tuy họ nghiêm trì giới luật rất thanh tịnh, thật là hiếm có, được mọi người rất khen ngợi. Thế nhưng họ còn phiền não. Họ có phiền não gì? Tức là họ còn thấy người này phá giới, người kia không trì giới. Họ còn có những phân biệt này, nếu còn có những phân biệt này thì công đức trì giới của họ bị phá hoại thì họ làm sao được định. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại trong đàn Kinh có nói “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” tức là người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Người thế gian đã phạm nhiều lỗi lầm, nếu như họ thật không thấy thì họ trở thành mất chứng ngu đần sao? vậy cái gì gọi là không thấy nghĩa là thấy như không thấy, tuyệt không để trong tâm. Ý nghĩa không thấy là như vậy. Người có tu hành thì thông minh hơn người không tu hành thì làm sao trở thành người mất chứng ngu đần. Không có chuyện như vậy. Thấy nhưng không thấy tức không để trong tâm nên gọi là không thấy lỗi của thế gian. Lục Tổ Huệ Năng lại nói rất rõ ràng “ nhược kiến tha nhân phi, tự phi khước thị tả” , nếu bạn nhìn thấy lỗi của người khác, bạn đem lỗi của người khác để trong tâm của bạn, lại thường nói người khác có lỗi lầm này, có lỗi lầm kia thì đại sư nói “tự phi khước thị tả” tả là rơi xuống tức là bạn đã đọa lạc, đã rơi xuống. Trong văn tự Trung Quốc bên hữu là thăng lên, bên tả là rơi xuống. Chúng tôi lên khán đài là bên hữu đi lên, rồi bên tả là bước xuống. Cho nên tả là rơi xuống đó là ý nghĩa này. Lại nói “tha phi ngã bât phi, ngã phi tự hữu hóa” tức là họ quấy ta không quấy. Ngã bất phi là ta không quấy. Nếu ta cũng theo họ quấy dù mình có nghiêm trì giới luật mà hãy còn phê bình người khác, khinh thường người khác, nói lỗi của người khác thì tự ta có lỗi. Lục tổ dạy rất hay. Ngài thật sự nhắc nhở cho chúng ta, tự chúng ta tu hành, muốn thành tựu công đức thì phải biết sám hối nghiệp chướng. Nếu không hiểu rõ cái đạo lý này thì bạn làm sao biết thực hành.
Lịch sử Phật Giáo vào đời nhà Đường, vị tổ khai sáng lục Tông, đó là Lục Sư Đạo Tuyên ở núi Trung Nam. Ngài là vị cao tăng. Vào thời đó mọi người rất tôn kính Ngài, khen ngời Ngài mãi cho đến ngày nay khi nhắc đến Lục Sư Đạo Tuyên không ai không sanh lòng tôn kính. Ngài trì giới rất tin nghiêm, thanh tịnh, cảm được thiên thần cúng dường. một ngày ăn một bữa. Ngài chỉ ăn ngọ một bữa do thiên thần cúng dường cho Ngài. Ngài không cần ôm bình bát đi khất thực, phước báo của Ngài rất lớn. Có một ngày nọ Đại Sư Khuy Cơ đi ngang qua núi Trung Nam ... thì thuận tiện ghé thăm Lục Sư Đạo Tuyên. Lục Sư Đạo Tuyên nghe nói Đại Sư Khuy Cơ - Khi Ngài xuất gia gọi là Pháp Sư Tam Sa...., đối với giới luật thì Ngài không có nghiêm trì cho nên đại sư Lục Tuyên cho rằng đại sư Khuy Cơ chỉ giỏi về học vấn, có biện tài nhưng còn giới luật thì còn kém lắm. Ngày hôm đó Ngài muốn biểu diễn cho Đại Sư Khuy Cơ xem - Vào giữa trưa thì có thiên thần sẽ mang thức ăn đến cúng dường cho ta. ... Ngày hôm đó thiên thần thiên nhơn không đem thức ăn đến cúng dường thì đại sư rất thất vọng.... Đến ngày hôm sau thì giữa trưa thiên nhơn đến cúng dường, Lục Sư Đạo Tuyên liền trách cứ thiên nhơn: “Hôm qua làm sao ông không đến ? vị thiên Nhơn trả lời : “ hôm qua có vị đại thừa Bồ Tát lên núi, toàn trên núi đều là thiên thần hộ pháp bảo vệ nên tôi không vào được”. Lục Sư Đạo Tuyên sau khi nghe câu nói này trên thân đều toát ra mồ hôi cảm thấy rất hổ thẹn vô cùng mới biết tâm ý của mình đã nghĩ sai, tự mình có tội nghiệp. Đoạn công án này có thể làm chú giải cho mấy câu của đại sư Huệ Năng khai thị. Chúng ta nhìn thấy lỗi của người khác là tự bạn nghĩ rằng họ có lỗi lầm. Họ có thật sự lỗi có lầm hay không? Không hẳn vậy, người khác thấy khuyết điểm lỗi lầm của đại sư Khuy Cơ nhưng thiên Nhơn nhìn thấy thì khác. Bạn tu đó là giới luật của tiểu thừa, thiên nhơn tôn kính bạn. Nhưng bạn còn kém xa bậc Đại Thừa Bồ Tát. Mỗi ngày thiên nhơn đem thức ăn đến cúng dường cho bạn nhưng thiên nhơn không thể đến gần bậc Bồ Tát, bậc đại thừa Bồ Tát vì có thần hộ pháp bảo vệ nên không vào được là khác nhau ở chổ này. Những lý và sự này chúng ta đều phải biết, đều phải hiểu rõ cái đạo lý này thì mới tiêu trừ tội nghiệp.... (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Các lợi ích người thọ trì Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
“Năm là y phục, vật thực đầy đủ.” Điều lợi ích thứ năm là không bao giờ bị thiếu thốn về cơm ăn áo mặc. Người đời chỉ vì ba bữa ăn mà làm lụng vất vả, chịu cực chịu khổ. Bởi sợ bị chết đói, chết lạnh, nên lúc nào họ cũng nghĩ đến việc kiếm thêm tiền. Trước kia, lúc chưa có tiền, thì ao ước có được mười ngàn đồng; song đến khi được toại nguyện, có được mười ngàn đồng trong tay rồi thì lại cảm thấy như thế vẫn còn chưa đủ. Bấy giờ lại nghĩ nếu mình có được một trăm ngàn đồng thì sẽ chẳng phải làm lụng gì nữa. Thế rồi, đến khi có được một trăm ngàn đồng, nghĩ tới học phí của con cái thì thấy không đủ, muốn sắm chiếc xe hơi thì thấy chẳng còn được bao nhiêu, mà tính tậu chiếc du thuyền thì lại thiếu trước hụt sau. Càng mơ ước những thứ to lớn hơn, như muốn mua chiếc máy bay chẳng hạn, thì một trăm ngàn đồng cũng chẳng thấm vào đâu! Và thế là lại phải lo kiếm tiền! Kiếm tiền! Phải kiếm cho được một triệu đồng. Đến khi có được một triệu đồng trong tay, những tưởng là phen này có thể làm chủ một chiếc máy bay, thì máy bay lại lên giá!
Ban đầu thì chỉ cần chín trăm chín chục ngàn là có thể mua được một chiếc máy bay, bây giờ giá cả leo thang, tăng vọt lên đắt gấp mười lần, tới chín triệu chín trăm ngàn một chiếc, lại mua không nổi nữa! Cho nên, cứ chạy theo không kịp, càng đeo đuổi thì lại càng cách xa. Đó đều là do lòng tham tác oai tác quái! Trước kia thì chỉ ao ước có được một triệu đồng là thấy đủ rồi, nhất định sẽ về hưu; song đến khi có được một triệu rồi thì lại “lùi mà chưa dứt”—vẫn chưa “tri túc,” vẫn không thấy đủ!
Vậy, điều lợi ích thứ năm là nếu quý vị có thể trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, tụng Kinh Địa Tạng, lễ bái cúng dường Bồ Tát Địa Tạng, thì quý vị sẽ được y phục, vật thực dồi dào, luôn luôn dư dả. Bấy giờ, quý vị chỉ muốn mua một chiếc máy bay, song tiền kiếm được lại nhiều đến nỗi mua hai chiếc cũng còn dư, kỳ diệu như thế đấy!
Có người nói: “Như thế thì tôi cũng mau mau niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng!” Dùng lòng tham lam, muốn mua hai chiếc máy bay để niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, thì e rằng sẽ không linh nghiệm, vì tham vọng quá lớn! Chúng ta chỉ nên hết lòng trì niệm, có được cảm ứng hay không thì cũng chẳng nên so đo, tính toán.
Có người lại nói: “Giảng kinh theo cách của Sư Phụ lại làm cho con bị hố nữa rồi!” Bị hố thì sao? Mà không bị hố thì sao? Cho nên, con người nếu biết đủ thì thường được an vui, biết nhẫn nhục thì luôn được yên ổn (tri túc thường lạc, năng nhẫn tắc an).
“Bảy là xa lìa các tai nạn về nước và lửa.” Quý vị trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thì sẽ không gặp nạn nước, cũng chẳng mắc nạn lửa—vào nước không bị chìm, vào lửa không bị cháy. Thậm chí quý vị có bị té xuống biển, thì tự nhiên sẽ được gặp chỗ cạn, tấp vào bờ bình yên; và nếu bị lửa thiêu đốt thì tự nhiên sẽ có người đến cứu giúp.
“Tám là không bị tai ách trộm cướp.” Tại sao quý vị bị trộm, bị cướp? Đó là do khi trước quý vị đã bất chấp đạo lý, cưỡng đoạt tài sản của người khác làm của riêng mình. Bởi xưa kia đã từng lừa gạt người khác cho nên đời nay phải bị người ta cướp đoạt tài sản, phải trả nợ. Vì thế, chúng ta bị trộm cắp, cướp đoạt đều là có “tiền nhân hậu quả,” chẳng có gì là kỳ lạ cả. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ thì gặp bất cứ cảnh giới nào đều phải nhận ra nhân quả của nó; hễ nhận chân được nhân quả của vấn đề thì sẽ chấm dứt được sự tuần hoàn lẩn quẩn.
“Chín là người khác thấy đều cung kính.” Nếu quý vị thường cung kính niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng, thì những người khác khi gặp quý vị đều cảm thấy có thiện duyên với quý vị và đều tỏ ra kính trọng quý vị. Người ta trông thấy quý vị mà như gặp được người thân đã tám đời nay, có cảm giác thân thiết gần gũi như được về nhà vậy. Cảm giác ấy lại giống như kẻ sống ở hải ngoại đã lâu không có người quen, nay được gặp lại bạn cũ, trong lòng vô cùng hoan hỷ, mừng mừng tủi tủi, vừa khóc vừa cười! Khóc là vì bồi hồi xúc động được gặp lại người thân quen; còn cười ư? Bởi nghĩ rằng phen này quả thật có được sự an ủi, che chở rồi!
Tát cả có 28 lợi ích nhiệm mầu, mời xem tại (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Không gian là một thực thể và toàn bộ “vòm trời” (như nó được gọi một cách thi vị) là cái bề ngoài hiện tượng (phenomenal appearance) của thực thể đó. Bạn nên để ý rằng Tôi không nói bề ngoài vật chất (material appearance) mà nói bề ngoài hiện tượng. Việc suy đoán về bản chất, lịch sử và tung tích / chân tướng (identity) của thực thể đó là vô dụng và không có giá trị. Ý tưởng mơ hồ nào đó, cung cấp sự giống nhau dù cho khi vượt quá các đặc điểm, có thể trở thành có lợi, nếu bạn cố gắng suy tưởng về gia đình nhân loại, tức giới thứ tư trong thiên nhiên, dưới hình thức một thực thể, khi tạo thành một đơn vị đơn độc, tự biểu lộ qua biết bao dạng thức biến cải của con người. Với tư cách một cá nhân, bạn là một phần nguyên vẹn của nhân loại, tuy thế bạn sống cuộc sống riêng của chính bạn, bạn phản ứng lại với các ấn tượng của chính bạn, bạn đáp ứng với các ảnh hưởng và các tác động bên ngoài, và đến lượt bạn, bạn phóng xuất ra các ảnh hưởng, đưa ra một hình thức phóng phát cá tính nào đó và lộ ra một hoặc nhiều đặc tính nào đó. Bằng cách ấy và ở một phạm vi nào đó, bạn tạo ảnh hưởng lên chung quanh bạn và những người mà bạn tiếp xúc. Tuy nhiên, suốt thời gian đó bạn vẫn là một phần của một thực thể hiện tượng (phenomenal entity) mà chúng ta gán cho tên gọi là nhân loại. Bây giờ, nới rộng ý tưởng này đến một thực thể hiện tượng vĩ đại hơn, tức là một thái dương hệ. Chính thực thể này là một phần nguyên vẹn của một Sự Sống còn vĩ đại hơn đang tự biểu lộ qua bảy thái dương hệ, mà thái dương hệ của chúng ta là một. Giá mà bạn có thể hiểu được ý tưởng này, một minh họa mơ hồ về một chân lý vĩ đại đang nằm dưới chân lý huyền bí sẽ xuất hiện trong tâm thức của bạn. Chính sự sống và ảnh hưởng, các bức xạ (radiations) và các phóng phát (emanations) của thực thể này, và ảnh hưởng hợp nhất của chúng trên sự sống hành tinh chúng ta, các giới trong thiên nhiên và các nền văn minh đang khai mở của nhân loại, mà chúng ta sẽ phải xem xét một cách vắn tắt.
Đề tài quá rộng lớn đến nỗi Tôi đã đối mặt với khó khăn của phương pháp hữu hiệu nhất để nhờ đó mà vận dụng nó. Tôi lựa chọn sự ngắn gọn, việc giải trình chính xác các sự kiện (các sự kiện đối với những ai trong chúng ta đang hoạt động ở khía cạnh nội môn của sự sống, nhưng chúng phải hữu lý chỉ ở các giả thuyết đối với bạn) đồng thời tránh đi vào chi tiết và bàn thảo tỉ mỉ. Chúng ta sẽ cố gắng hoạt động từ cái phổ quát đến cái đặc thù, và từ khái quát đến cụ thể, nhưng trọng điểm của chúng ta sẽ luôn luôn ở trên cái phổ quát và khái quát, chứ không dựa vào cái đặc thù và cụ thể. Nó sẽ dựa vào những ai trong các bạn vốn là các nhà nghiên cứu chiêm tinh học để áp dụng đúng chân lý cho cái đặc thù.
Chắc chắn là về điều này, chiêm tinh học hiện đại đã đi lạc đường. Nó đã đảo ngược phương pháp chân thực và đúng đắn và đã nhấn mạnh vào cái đặc thù và riêng biệt; dựa vào lá số cá nhân và mệnh số cá biệt, và đã không nhấn mạnh vào các năng lượng vĩ đại và Cội Nguồn các năng lượng đó. Các cội nguồn này đều chịu trách nhiệm tối hậu cho sự biểu lộ của cái đặc thù. Lập trường và cách trình bày chân lý này phải được thay đổi.
Do đó, trong chiêm tinh học huyền bí, chúng ta bàn đến Sự Sống và Các Sự Sống đang làm linh hoạt (inform) “các điểm ánh sáng” bên trong Sự Sống vũ trụ (universal Life). ...... Còn dài, mời xem sách Chiêm tinh học nội môn, trang 15./.
+ Người thường không nên hiến xác:
Hỏi: ... con xin hỏi, một người muốn hiến xác hoặc hiến các bộ phận cơ thể cho y học hiện đại thì có nên hay không? có tối kỵ không? ...
Đáp: Khi chết hiến xác và hiến các bộ phận trong người cho người khác, hay hiến cho ngành y học có thêm mấy món đồ để họ thực tập, nghiên cứu. Điều này chứng tỏ người cho có tâm từ bi lớn, có hạnh bố thí cao. Tuy nhiên, đối với người Niệm Phật quyết lòng Vãng Sanh thành đạo thì cần phải cẩn thận về chuyện này.
Người tự nguyện hiến xác thường bị bác sĩ mổ xác lấy các bộ phận trong cơ thể khi vừa mới tắt hơi, chứ không để lâu được. Theo pháp Hộ Niệm, người vừa tắt hơi, bị chạm vào thân xác quá sớm là điều tối kỵ, có thể khiến họ bị đọa lạc xuống các cảnh giới vô cùng xấu trong ba đường ác. Vừa mới tắt hơi là giai đoạn thần thức như đang ở giữa ngã tư đường, giữa chết và sống, giữa thiện và ác, giữa đọa lạc và giải thoát. Tinh thần của người chết rất hoang mang, sợ hãi, buồn thảm, hoàn toàn không ổn định. Trong khoảng thời gian 8 giờ, nếu người sống vô ý tạo thêm sự xáo trộn, ồn náo, hỗn loạn như khóc than, ôm nắm, chạm đến thân xác, bỏ vào phòng lạnh để ướp xác... làm cho họ đau đớn, chẳng khác gì như bị hành hạ, bị tra tấn. Thật là tội nghiệp cho người chết! Đụng chạm bình thường mà còn thảm thương như vậy, huống chi là mổ xác, banh thân họ ra, cắt từng miếng thịt, lấy từng bộ phận......
Chính vì thế, xin hết sức cân nhắc và thận trọng.....
Khi ra đi, trong kinh Phật nói:
• Một ý niệm sân giận chiêu cảm vào đường ĐỊA NGỤC.
• Một ý niệm tham lam chiêu cảm vào đường NGẠ QUỶ.
• Một ý niệm ngu si đầu thai vào đường SÚC SANH.
.... Bố thí thì được phước, nhưng trước mắt bị đại họa. Thật là một cuộc trao đổi đại lỗ vốn! ....
.... Còn nếu là phàm phu, thì khuyên rằng, hãy cẩn thận bảo vệ lấy tương lai của mình, chính mình phải thành đạo trước mới cứu độ được chúng sanh. Tệ gì đi nữa, thì hạ phẩm hạ sanh phải nắm vững trước đã, rồi tính gì tính. Đó mới là sáng suốt vậy. Chứ còn quyết định thiếu cẩn thận, coi chừng bị liệt vào cái nạn: "Từ bi đa họa hại" đó! (Nguồn: HT. Tịnh Không Khai Thị)
+ Phật phương Nam:
3. Vị Phật thứ ba là Bảo Sanh Phật/ Bảo Sinh Phật ở phương Nam. Ngài là tập hợp của tất cả Phước, Đức, Tài, Bảo và có thể sanh ra vạn pháp. Thân của vị Phật này có màu vàng và Ngài ngự trên một cái đài được làm bằng tám con ngựa vua lớn (bát đại mã vương). Ngài có thể chuyển hóa thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí và có thể điều phục được tất cả chúng sanh kiêu mạn. Trong Chú Lăng Nghiêm, thì đó chính là Bảo Sanh Bộ, biểu thị cho Chú Chư Thiên Vương và thuộc loại Tăng Ích Pháp, có thể làm tăng trưởng giới, định, huệ của chúng ta chứ không phải làm tăng ích danh văn lợi dưỡng. (Nguồn: Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật Bảo Sanh (Phạn văn: रत्नसम्भव, Ratna-sambhava). Trong Ngũ Phương Phật thì vị Phật này là Như Lai ở Phương Nam, đại biểu cho Phật Tỳ Lô Giá Na “bình đẳng tánh trí”, cũng là đại biểu cho đức vi diệu của Phật Pháp, và cũng chỉ cho sự tăng lợi ích vô lượng phúc đức, trân bảo. Nên gọi là: “Bảo Sanh”. Thân của vị Phật này có sắc vàng” và Ngài ngự trên một cái đài được làm bằng tám con ngựa vua lớn (bát đại mã vương). Ngài có thể chuyển hóa thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí và có thể điều phục được tất cả chúng sanh kiêu mạn. Trong Chú Lăng Nghiêm, thì đó chính là Bảo Sanh Bộ, biểu thị cho Chú Chư Thiên Vương và thuộc loại Tăng Ích Pháp, có thể làm tăng trưởng giới, định, huệ của chúng ta chứ không phải làm tăng tánh tham danh lợi dưỡng của chúng ta.
Bảo Vương Phật bộ chủ ma ni
Bồ Tát Hư Không quyến thuộc hội,
Phương nam thuộc về lửa Bính Ðinh
Lửa đỏ ánh hồng chiếu Khảm Ly.
Giảng giải :
Nam Mô Ma Ni Câu Ra Da. Ma Ni thuộc về "Bảo" (quý giá), Bảo Bộ là phương nam, phương nam Bảo Sanh bộ.
“Bảo Vương Phật bộ chủ ma ni.’’ Phật Bảo Sanh la bộ chủ Bảo Bộ.
“Bồ Tát Hư Không quyến thuộc hội.’’ Ngài và Bồ Tát Hư Không Tạng và Bồ Tát Ba La Mật cùng đại chúng ở cùng một nơi.
‘’Phương nam vi tri lửa Bính Ðinh.’’ Phương nam là vị trí cua Bính Ðinh hỏa, thuộc về lửa.
Cho nên ‘’Lửa đỏ hồng quang chiếu Khảm Ly.’’ Tuy nhiên tại phương nam nên quang minh mầu đỏ rất mãnh liệt, chiếu Khảm, Khảm là phương bắc, Ly là phương nam. Khảm là phương bắc thuộc thủy, Ly là phương nam thuộc hỏa. Từ phương nam chiếu đến phương bắc hỗ tương chiếu sáng cho nên pháp quang của Bảo Bộ có thể chiếu khắp pháp giới. (Nguồn: Phật Bảo Sanh - HT Tuyên Hóa)
+ Năng sở có nghĩa là: (能所) Từ gọi chung Năng và Sở. Chủ thể của 1 động tác gọi là Năng; khách thể (đối tượng) của động tác ấy gọi là Sở. Chẳng hạn như mắt hay thấy vật, gọi là Năng kiến, còn vật do mắt thấy thì gọi là Sở kiến. Cũng thế, người bị nương tựa gọi là Sở y, người nương tựa vào kẻ khác gọi là Năng y. Người tu hành gọi là Năng hành, pháp môn được tu hành gọi là Sở hành. Người qui y gọi là Năng qui, chỗ qui y gọi là Sở qui; người giáo hóa gọi là Năng hóa, người được giáo hóa gọi là Sở hóa; chủ thể nhận thức gọi là Năng duyên, đối tượng bị nhận thức gọi là Sở duyên. Ngôn ngữ, văn chương, giáo pháp... biểu thị ý nghĩa, gọi là Năng thuyên, ý nghĩa được biểu thị gọi là Sở thuyên v.v... Tóm lại, Năng và Sở có đủ mối quan hệ tương tức không tách rời nhau giữa thể và dụng, nhân và quả, vì thế gọi là Năng sở nhất thể. [Nguồn: Từ điển Phật học].
+ Vô minh sinh Năng sở hình thành Hư không và các đại: ... Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới.... có kim luân giữ gìn cõi nước ...có hỏa đại..... có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh.
Ngoài tứ đại còn có không đại, kiến đại và thức đại. Vì không đại là phản ánh của chơn không. Kiến đại là chỗ lưu lộ của chân như, thuộc năm hiện lượng. Nó chính là phần Năng kiến nói trong luận Khởi Tín, là phần Kiến tinh nói trong kinh Lăng Nghiêm. Thức đại là để biết do đâu có sự phân biệt cảnh.... (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên hay tự nhiên)
+ Năng Sở: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật dạy, từ cái Tánh giác bất biến - Bất nhị biến thành năng sở sinh ra có tứ đại:
- 5. Lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sự thật thực tại, sự kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo hay không bị tạo), [ví dụ tứ đại: Địa, thủy, hỏa, phong là không bị tạo, mà khi địa, thủy, hỏa, phong kết hợp lại thành cái thân thể của ta là cái bị tạo. Hay tứ đại gọi là năng tạo, mà nó nhờ có tứ đại tạo thành sắc, hương, vị, xúc, thì sắc, hương, vị, xúc ấy gọi là tứ đại sở tạo; còn tứ đại còn lại là tứ đại năng tạo. Năng tạo hay sở tạo gì cũng đều là pháp hết, tâm và vật, ý thể và hiện tượng. Tâm và vật, tâm cũng là pháp, vật cũng là pháp, ý thể cũng là pháp, mà hiện tượng cũng là pháp.]
..... Phái duy thực trong A-tỳ-đạt-ma (chữ pháp) được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ 5. Nói một cách khác như ta gọi Phật pháp, trong khi ta gọi Phật pháp thì nên hiểu rằng nó gồm có 2 mặt: một mặt gọi là giáo pháp và một mặt gọi là lý pháp. Giáo pháp là lời dạy của đức Phật, còn lý pháp là cái ý nghĩa của lời dạy đó, ý nghĩa mà đức Phật nhắm tới. Giáo pháp ví dụ như ngón tay chỉ mặt trăng, còn lý pháp ví như mặt trăng. Giáo pháp là cái đức Phật nói ra, còn lý pháp là một thực tại. Đó là một cái chân lý do đức Phật phát minh, chứ Phật không sinh ra nó. Ví dụ như pháp duyên khởi tính thì Phật không sinh ra nó. “Duyên khởi tính” thì dù Phật có thành Phật hay không thành Phật, duyên khởi tính của vạn pháp cũng là duyên khởi tính của vạn pháp. Cái đó thuộc lý pháp hay gọi là chứng pháp, bởi cái đó ta phải chứng. Còn giáo pháp là cái để ta chứng cái lý pháp đó. Vì vậy, nếu không chứng được lý pháp thì chỉ kẹt vào nơi ngôn từ mà thôi, hiểu và dừng lại ở ngôn từ, ngang nơi ngôn từ và đứng lại đó chứ không thể chứng được. Cũng y như hành giả chỉ thấy ngón tay, ngang nơi ngón tay mà thôi, chứ không thể thấy được mặt trăng. Cho nên hai phạm trù đó phải đi đôi với nhau.] (Nguồn: Câu Xá Luận - HT Thích Thiện Siêu)
+ Xem thêm giảng giải về Năng Sở: Tánh Giác vốn không hai. Khi thấy có ngã, có nhân, thì mới thấy có tự có tha, có năng có sở. Khi thấy vô ngã, vô nhân, vô năng, vô sở thì tất cả đều là sự vận hành của Pháp, không có tự có tha nữa. Tất cả đều là sự mầu nhiệm của Pháp chứ không có tự lực, tha lực nào cả. Điều này con không thể hiểu mà chỉ có thể chứng ngộ thôi. (Nguồn: Giảng về năng sở)
+ Sinh Hư không: Đức Phật nói ...Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới xuất hiện. Các đại cũng thế, nếu chúng sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì các đại này sẽ dần dần xuất hiện. (Kinh Thủ LN - Phú Lâu La hỏi Phật)
+ Thảo mộc - Cây cỏ
Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhơn duyên khéo Được thắng trí phương tiện rời lìa các kiến chấp nhị biên ?
Bồ Tát biết tất cả duyên sanh pháp nhiếp thuộc về cái khác : Thuộc nhơn, thuộc duyên, thuộc hòa hiệp và thuộc sở do . Các pháp ấy Đều từ cảnh giới duyên sanh Đều riêng có sở nhơn Đều riêng có sở y, các pháp mỗi mỗi Đều tự minh không có tâm không có tướng sai khác .
Như bên ngoài các cỏ cây lùm rừng Đều không có các căn không có ghi nhớ không có hay biết, vì y dựa các Đại chủng bèn Được tăng trưởng, mỗi mỗi Đều không có tướng sai khác . Các pháp bên trong cũng như vậy, y dựa gây tạo các nghiệp tăng trưởng tất cả các pháp, không có các tướng ngã nhơn chúng sanhthọ mạng, cũng không có tác giả thọ giả . Các pháp lúc sanh không có gì là năng sanh, lúc diệt không có gì là năng diệt . (Nguồn: Xem tại đây)
+ X. Saptaparna - Cây Có Bảy Lá
+ Chit (Tối Linh thức): Chúa Thánh Thần, Brahma, Thượng Đế Ngôi Ba, Minh triết sáng tạo, Thông Tuệ. (LVLCK, 94)
I- THEO DỊCH HỌC ĐÔNG PHƯƠNG - ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH BÁT QUÁI
II- THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Định Đề 1 - Nhị Nguyên hay Âm Dương (LVHLT, 21):
- Tinh Thần ....... Vật Chất Sự Sống
- Sắc Tướng Cha ...... Mẹ
- Dương/ Tích Cực .... Âm/ Tiêu Cực
- Bóng Tối ..... Ánh Sáng
+ Ion âm và dương: Các ion âm và dương mà nhà khoa học nói tới, có bản chất là dĩ thái, và do đó, thuộc về cõi trần. Các hạt nhỏ không thấy được này của vật chất chỉ có thể được dò ra nhờ các hiệu quả của chúng và nhờ sự can thiệp vào các hoạt động của chúng, vốn là các hạt chuyển động nhanh, có liên quan với nhau và đồng thời, chính bản thân chúng bị tác động bởi một yếu tố kềm chế quan trọng hơn đang giữ cho chúng chuyển động như thế. (CTNM, 369–370)
+ Tứ đại thì lay động - Hình thành vật chất: Tất cả vật chất trong vũ trụ đều do bốn tính chất (Tứ đại: Đất nước gió lửa) này hòa hợp theo những tỷ lệ khác nhau mà tạo thành. Thân thể con người cũng không phải ngoại lệ, nên được gọi là thân tứ đại. Vì thân tứ đại là cội nguồn của mọi sự tham dục, khổ não nên người tu tập nên quán xét nó như là con rắn độc (tứ đại độc xà).(Nguồn: Định nghĩa tứ đại)
III - THEO PHẬT GIÁO
+ Hình thành Thái Dương Hệ - Quy luật Thành Trụ Hoại Không: .... Thật vậy, trong bài kinh “Khởi Thế Nhân Bổn”, bài kinh giải thích về sự hình thành thế giới và con người, Đấng A La Hán, Thế Gian Giải đã mô tả rất cụ thể:
“11. Này Vàsettha, lúc bấy giờ, vạn vật trở thành một thế giới toàn nước đen sẫm, một màu đen khiến mắt phải mù. Mặt trăng, mặt trời không hiện ra; sao và chòm sao không hiện ra; không có ngày đêm; không có tháng và nửa tháng; không có năm và thời tiết; không có đàn bà, đàn ông. Các loài hữu tình chỉ được xem là loài hữu tình mà thôi.
Này Vàsettha, đối với các loài hữu tình ấy, sau một thời gian rất lâu, vị đất tan ra trong nước. Như bọt nổi lên trên mặt cháo sữa nóng đang nguội dần, cũng vậy đất hiện ra. Ðất này có màu sắc, có hương và có vị. Màu sắc của đất giống như đề hồ hay thuần túy như tô, vị của đất như mật ong thuần tịnh” (Kinh số 27, Trường bộ 2 = [So.51.11] (1)). (Xem: Vũ trụ theo Phật giáo - P2)
+ Các Đại Ở Hư Không Có Thể Hòa đồng: Phật bảo - Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau... Mặt trời soi sáng, Cái Sáng không phải mặt trời, cũng không phải hư không nhưng không nằm ngoài Mặt trời và Hư không; - Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng: Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn: “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong…cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.
- Phật dậy: Trong bản tánh minh diệu của Như Lai Tạng, ông cần phát minh hư không thì có hư không hiện ra. Ví như một dòng nước in bóng mặt trăng. Hai người cùng trông thấy bóng mặt trăng in đáy nước. Rồi người đi về Đông, người đi về Tây cả hai đều thấy có mặt trăng theo mình mà không có chuẩn đích cho mặt trăng cố định. Trước sự kiện đó không nên gạn hỏi : Mặt trăng là một, sao có thể đi theo hai hướng khác nhau? Cũng không được hỏi: Mặt trăng đã thành hai, sao trước kia hiện ra có một? => Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậy mà Như Lai dạy: "Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh không chơn sắc…” Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình. (Nguồn: Xem mục Giác không sinh mê ...)
+ Âm Dương Dị Đồng: Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”
HT Tuyên Hóa giảng giải:
Đoạn kinh văn nầy mở đầu cho phần cực kỳ quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Vì nội dung đoạn kinh này sẽ giải thích tại sao con người trở thành người.....
Ông chẳng thường nghe Như Lai giảng bày, tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu hay sao? ....
Khác với cái khác kia, nhân cái khác đó mà lập cái đồng. Đã phát minh cái đồng cái khác rồi, nhân đó lại lập cái không đồng không khác.
Giảng giải:
Dị bỉ sở dị: Chữ dị trước là hoạt tự, mang tính linh động, có nghĩa là bất đồng, không giống. Chữ dị sau là thật tự, mang nghĩa thật, tức là cảnh giới của dị tướng. Có nghĩa là đối với cái khác bất đồng thì tức thời thành ra tướng của cảnh giới.
Nhân dị lập đồng: Nhân đối với cảnh giới của dị tướng, lại lập nên tướng đồng của hư không, tức là nương nơi năng kiến mà vọng sinh có hư không và thế giới.
Đồng dị phát minh: Hư không là tướng đồng, thế giới là tướng dị, một đồng một dị cùng nhau phát minh, thành ra có chúng sinh giới.
Nhân thử phục lập vô đồng vô dị: Cảnh giới của chúng sinh vốn không giống nhau, hình mạo của chúng sinh đều khác nhau nên gọi bất đồng......
.....Tám vạn bốn ngàn trần lao chính là tám vạn bốn ngàn phiền não. Từ những điều kiện khác nhau vừa bàn đến, phiền não sinh khởi. Cùng với phiền não là sự sinh khởi của núi sông đất liền.
Nổi lên thì thành thế giới, lắng đọng thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi.
Phần nầy giải thích tướng trạng thứ 6 của lục thô, đó là nghiệp hệ khổ tướng. Nổi lên thì thành thế giới. Khởi là lưu xuất ra–là chuyển dịch, là động. Lắng đọng thì thành hư không. Lắng đọng là tĩnh–không chuyển dịch. Hư không là đồng, thế giới là dị....
.... Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mê muội, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Nên có phong luân nắm giữ thế giới....
.... Nhân hư không mà có sự lay động, phát minh ra tánh cứng, thành ra có ngăn ngại. Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng. Thế nên có kim luân để bảo trì quốc độ.....
..... Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ biết cái lay động thì khiến cho phong đại phát ra. Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, nên có ánh sáng của lửa (hoả đại) làm tính biến hoá.....
..... Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt. Nên có thủy luân trùm khắp mười phương cõi giới. .....
.....Lửa thì bốc lên, nước thì sa xuống; giao xen nhau, phát ra thành tánh cứng. Chỗ ướt thành biển lớn, chỗ khô thành gò nổi. .......
...... Do nghĩa ấy, nên trong biển lớn kia, thường phát ra ánh lửa; trong đất liền kia, sông ngòi thường chảy.
Thế nước kém thế lửa thì kết thành núi cao. Thế nên khi đập đá núi thì nháng tia lửa, khi nấu thì chảy ra nước.
Thế đất kém thế nước, vươn ra thành cỏ cây. Thế nên rừng cây bị đốt thì thành đất, vắt đất ra thì thành nước. .......
Vọng tưởng giao xen phát sinh, lần lượt làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên đó mà thế giới tương tục.... (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Âm Dương Dị Đồng - Lê Sỹ Minh Tùng giảng: Phật dậy A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện thành thế giới hữu vi. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; Những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
- Bản thể của hiện tượng là Như Lai Tạng thì bao trùm khắp 10 phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắp mà biến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong tiến trình bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Nói cách khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến hiện thành ra thế giới hữu vi.
- Phẩm Tính Âm Dương Đối Chọi: Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có 3 trường hợp về tánh đồng và dị:
1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì việc kéo rất dễ dàng.
- Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội - Làm giảm bớt, hao tổn sức mạnh. Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn.
2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống/ Tánh thì khắc nhau (Tương khắc, đẩy nhau) và Dị tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau (Tương hợp, hút nhau). Thí dụ hai người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương thì nó sẽ hút lại.
3) Đồng chủng/ Loài tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại thì phụ cho nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay.
- Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật củ mất đi để hình thành sự vật mới nối tiếp.
- Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện chớp, có đó rồi mất đó. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Ch 7)
PHẬT DẠY VỀ TƯỚNG TƯƠNG TỤC
I- Thế Giới Tương Tục - Phật bảo rằng:
-Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động. Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì. Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn. Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó, trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau. Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào.
II- Chúng Sinh Tương Tục:
Lại nữa, Phú Lâu Na! “Vọng minh” không phải là cái khác lạ. Do vì chúng sinh dùng cái kiến minh tri để minh tánh giác mà có sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh, tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sáu vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”. Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì hấp dẫn lúc hợp lúc ly, khi tình khi tưởng. Tánh thấy “năng minh” có thì đương nhiên có sắc sở minh hiển hiện. Chủ thế đối tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy.........
III- Nghiệp Quả Tương Tục - Phật bảo :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục......
GIÁC KHÔNG SINH MÊ THẤT ĐẠI DUNG ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ TRỞ NGẠI
I- Giác không sinh mê:
- Phú Lâu Na! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng rồng. Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại cũng như gỗ đã đốt thành tro, tro không thể hoàn nguyên thành gỗ được.
- Phú Lâu Na! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp mắc các hiện tượng hữu vi.
=> Và cũng không có việc Như Lai sanh lậu hoặc trở lại.
II- Chỉ Các Đại Có Thể Dung Nhau
- Phật bảo: Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau. (Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục)
(Nguồn: Xem mục Dùng Phật nhãn nhìn lên ....)
+ CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH. Nguồn gốc con Số 12 = 3 x 4
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)
* Mời đọc các trích đoạn đức Phật giảng về Thế giới chúng sinh tương tục - HT Tuyên Hóa giảng, Nhân Trắc Học tổng hợp trong bài viết: Thế giới chúng sinh tương tục - Vòng luân hồi
Nguồn: Tất cả nội dung trên đều ở trang nguồn: Xem mục Chương 7 - Phật thuyết các Đại vốn không ngăn ngại ...
Nguồn: Phần 1: Phân biệt các Giới: Đại chủng bốn giới - Tứ đại: Đất nước Gió Lửa
+ Mahendra : Thế giới của trí tuệ và linh hồn, tương ứng với cõi trí (X. Cõi và trạng thái tâm thức). (ASCLH, 298)
+ Mahomet: X. Hồi giáo.
+ Pleroma : Tức là linh hồn thế giới (universal soul). (LVLCK, 685)
+ Thế giới linh hồn (World of souls): Thế giới linh hồn ở trên các phân cảnh thượng trí (Highermental levels).(TLHNM II, 116)
Tatya : Thế giới của nguyên nhân phát xuất. Thế giới của Ngôi Một, tương ứng với Cõi Tối Đại Niết Bàn. (X. Cõi và trạng thái tâm thức). (ASCLH, 298)
+ Thế giới bên trong (Subjective world): Tức là cảm dục giới (astral world). (LVLCK, 1130)
+ Thế giới biểu tượng (world of symbols): Là thế giới của sự sống Phàm ngã, của thế giới hiện tượng, vì giai đoạn đó bao gồm ba cõi tiến hóa của nhân loại.(CVĐĐ, 286)
Thế giới của ảo cảm (World of glamour): Thế giới của cõi cảm dục và của các xúc cảm.(SHLCTĐ, 359)
Thế giới của ảo tưởng (World of illusion): Thế giới của cõi trí. (SHLCTĐ, 359)
+ Thế giới của giác quan: (world of the senses). Thế giới của giác quan tức là vũ trụ ngoại tại (external universe). (GLTNVT , 36)
Thế giới hậu quả (world of effects):
- Phàm Ngã là hình ảnh (reflection) của Chân Ngã trong thế giới hậu quả. (ASCLH, 163)
– Thế giới hậu quả tức là Kama loka. (PGNM, 84)
Thế giới hiện tồn (World of being): Thế giới hiện tồn tức là thế giới của linh hồn. (TLHNM–I, 161)
Thế giới hiện tượng (World of phenomena): Là ba cõi tiến hóa của nhân loại (three worlds of human evolution). (GDTKNM, 60)
Thế giới liễu nghĩa (World of significance):
- Là thế giới của Tam Thượng Thể Tinh Thần mà con người chỉ giao tiếp được một cách hoàn toàn tự do sau lần điểm đạo 3. (CVĐĐ, 286)
– Thế giới liễu nghĩa, thế giới của thực tại và của chân lý cơ bản. (CVĐĐ, 303)
+ Thế giới nguyên hình (World of pattern, Cõi nguyên hình): Thế giới nguyên hình ở bên dưới mọi hoạt động của Đại Hồn (Over–soul) và các linh hồn cá biệt (individual souls). Đừng quên rằng, thuật ngữ “individual souls” chỉ là một cách diễn đạt có giới hạn do cái trí chia rẽ dùng để chỉ các trạng thái của thực tại duy nhất. (TLHNM II, 55)
+ Thế giới nguyên hình (Archetypal world): Thế giới nguyên hình không phải là thế giới khi nó đã hiện hữu trong trí của Hành Tinh Thượng Đế mà là kiểu mẫu đầu tiên (first model) được tạo ra.(MTNX, 349)
Thế giới nguyên nhân (World of causes): Vị đệ tử điểm đạo (đạo đồ, initiate) sống trong thế giới nguyên nhân, vì hiển nhiên, đây là thế giới của điểm đạo (world of initiation). (ĐĐTKNM–II, 446)
Thế giới noãn (Mundane egg): Noãn hào quang của Thượng Đế (The logoic auric egg). (LVLCK, 1040)
+ Thực tượng (Noumena, tiếng Hy Lạp) Bản chất cốt yếu đích thực của Thực Thể (Being) được xem như tách biệt với các đối tượng dễ gây nhầm lẫn (illusive objects) của giác quan.(CKMTTL, 272)
+ Thế giới thực tượng: (Noumenal world): vốn là cội nguồn và nguyên nhân của các thế giới hiện tượng. (GLASTTĐ, 231)
+ Thế giới ý nghĩa (World of meaning): Là thế giới mà trong đó linh hồn sinh hoạt và hành động có chủ đích và hiểu biết. (CVĐĐ, 286)
+ Mục đích của hai cuộc điểm đạo đầu là cho phép vị đạo đồ sống trong thế giới ý nghĩa; mục đích của bốn cuộc điểm đạo kế tiếp – lên đến và kể cả cuộc điểm đạo thứ sáu, cuộc điểm đạo Quyết Định – là cho phép vị đạo đồ sống trong thế giới liễu nghĩa (world of significances). (ĐĐTKNM–II, 420)
Thế giới ý tưởng (World of ideas, Thế giới ý niệm):
Thế giới ý tưởng xuất phát từ các Thực Thể Tinh Thần cao siêu, từ các Đấng Tinh Thần (Spiritual Lives). (ASCLH, 165)
Thế giới ý niệm ở trên các phân cảnh trực giác (intuitional levels) của tâm thức. (SHLCTĐ, 29)
+ Tổng Quan Thế Giới (World View) Cõi phụ cao nhất của cõi trí được gọi là Tổng Quan Thế Giới. (CKDCLH, 177)
+ Lục đạo luân hồi: Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép: "Dương tử vi nhân, nhân tử vi dương." (Dê chết trở làm người, người chết trở làm dê.) (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
II- LUÂN HỒI THEO PHẬT GIÁO:
A- Thế giới tương tục: Vọng tưởng giao xen phát sinh, lần lượt làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên đó mà thế giới tương tục.
B- Chúng sinh tương tục: Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau. Các loài thọ nghiệp báo cũng theo nhau lên xuống. Do nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục.
C- Nghiệp Quả Tương Tục - Trích đoạn Phật bảo Phú Lâu Na :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na! Sở dĩ có 3 thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm....(Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục...)
+ Nghiệp quả tương tục: Trích Đức Phật giảng cho ngài Phú Lâu Na:
Chính ba thứ sát đạo dâm là căn bản. Do nhân duyên đó, nghiệp quả tương tục. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)
+ Giảng về Luân Hồi Sinh Tử: Trích Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật giảng: ... Lời chỉ dạy nầy là phần rất rất quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Nó liên quan với một điểm then chốt: vấn đề luân hồi sinh tử. Nếu quý vị hiểu được chương nầy, thì quý vị có thể nhanh chóng chấm dứt luân hồi sinh tử. Nếu quý vị chưa thể hiểu được, thì phải có gấp đôi nỗ lực và tinh tấn trong việc tu học ... Đức Phật bảo A Nan:
Hay thay, A-nan! Ông muốn biết câu sinh vô minh là đầu mối khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông chứ không phải là cái gì khác. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
* Mời đọc các trích đoạn đức Phật giảng về Thế giới chúng sinh tương tục - HT Tuyên Hóa giảng, Nhân Trắc Học tổng hợp trong bài viết: Thế giới chúng sinh tương tục - Vòng luân hồi
Xem chi tiết tại trang: Tổng hợp về Luân hồi - Chết và Tái sinh
+ Trình tự và các Pháp tu khởi đầu không thể thiếu giành cho người mới bước vào con đường tu đạo - Phật pháp: Các Kinh Phật người tu phải tu học và thấu hiểu, thực hành thành tựu trước tiên (Không thể thiếu). Học để hiểu nhân quả luân hồi => Tin sâu nhân quả luân hồi là khởi đầu tu đúng chánh pháp.
+ Không thể có hai vị Phật cùng lúc xuất hiện: Chỉ có một người duy nhất xuất hiện trong đời đem lại lợi ích và hạnh phúc cho nhiều người, đem lại lợi ích cho chư thiên và nhân loại. Đó chính là Như Lai, bậc Toàn Giác.Thật không thể có hai bậc Toàn Giác xuất hiện đồng thời trên cùng một hệ thống thế giới (TĂNG CHI BỘ KINH_đoạn 170-174).
+ Những Lời Phật dậy: Được tập hợp theo các chủ đề / Thuật ngữ từ các Kinh Phật, rất rễ đọc và thuận tiện nghiên cứu. Mời xem tại Lời Phật Dậy trong Kinh Trung A Hàm
+ Những lời Phật dậy trong Kinh A Hàm gồm kinh Trường A Hàm - Trung A Hàm. Kinh rất dài và hơn 800 tiêu đề, đủ loại kiến thức. Mời xem Danh mục tiêu đề Kinh A Hàm;
* Mời xem Kinh A Hàm với bản đầy đủ nội dung: Mời xem Kinh A Hàm
+ Vài bộ Kinh Phật dậy người tại gia và người mới xuất gia cần phải học đầu tiên và không thể thiếu:
- Mời xem: Kinh Thiện ác nhân quả;
- Mời xem: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng;
- Mời xem: Kinh Ngũ Bách Vấn
- Mời xem: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt
- Mời xem: Kinh Bại Vong
- Mời xem: Những Lời Phật dậy người tại gia
- Mời xem: Sách mười bốn điều Phật dậy xem tại đây
- Mời xem: Bốn điều Phật Không Thể Làm
+ Tóm lược Sách: Ảo Cảm một Vấn Đề của Thế Giới - Glamour a World Problem (ACMVĐCTG/ GWP)
+ Sinh Vô Minh: Trích đoạn ngài A Nan hỏi Phật:
-... Xin nguyện Đức dại từ thương xót kẻ chìm đắm. Nay ngay nơi nơi thân tâm, xin chỉ cho chúng con thế nào là nút buộc, do đâu mà mở ra. Cũng khiến cho chúng sinh khổ não trong đời vị lai thoát khỏi luân hồi, không rơi vào ba cõi. (Lời chỉ dạy nầy là phần rất rất quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Nó liên quan với một điểm then chốt: vấn đề luân hồi sinh tử. Nếu quý vị hiểu được chương nầy, thì quý vị có thể nhanh chóng chấm dứt luân hồi sinh tử. Nếu quý vị chưa thể hiểu được, thì phải có gấp đôi nỗ lực và tinh tấn trong việc tu học _HT Tuyên Hóa)
- Hay thay, A-nan! Ông muốn biết câu sinh vô minh là đầu mối khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông chứ không phải là cái gì khác.
Giảng giải: “A-nan! Ông rất thông minh, vì ông muốn biết câu sinh vô minh. Ông muốn nhận biết những đạo lý chân thật về vô minh vốn đã có trong ông từ khi vừa mới sanh ra.” Đó cũng chính là nói đến “câu sanh vô minh.” Nó chính là đầu mối khiến ông phải luân hồi sinh tử trong sáu nẻo luân hồi, bập bềnh lên xuống, vừa sinh ra ở đây lại chết đi ở chỗ kia, rồi lại sinh ra, rồi lại chết đi ở một nơi khác. Trong đời nầy có thể sinh làm người Tây phương, nhưng đời sau lại sinh làm người Trung Hoa, rồi đời sau là người Nhật Bản, rồi trong đời khác là người Ấn Độ, và đời sau nữa là người Ấn Độ; đời sau nữa là người Phi Châu. Ai là tác nhân để đưa quý vị ra đời như vậy? Ai có thể biết để báo cho người khác rằng mình sẽ là người Nhật Bản trong đời sau? Ai có thể nói cho người khác rằng mình sẽ là người Trung Hoa? Ai có thể biết để báo cho người khác rằng mình sẽ là người Đông phương hay Tây phương, hay là người miền Bắc hoặc miền Nam? Chẳng có gì khác ngoài câu sinh vô minh của quý vị làm được việc ấy. Vì có vô minh, nên người ta khởi lên si mê, và do có si mê nên tạo ra nghiệp. Do tạo nghiệp nên phải chịu quả báo. Chẳng hạn, “Trong đời nầy tôi phải đi Phi Châu. Có rất nhiều kim cương ở đó. Ở Bờ biển vàng (Gold Coast) có nhiều của cải hơn ở Mỹ. Ở đó vẫn chưa ai khai quật, tôi sẽ đến đó để đầu tư, tôi sẽ giàu có, phải không? Tôi sẽ là người giàu có nhất thế giới.” Từ suy nghĩ hư vọng đó mà quý vị tạo nên chuyến đi hư vọng và chấm dứt ở Phi Châu, để phát triển Bờ biển vàng và tìm kiếm kim cương. Những ai thích Châu Mỹ sẽ đi đến Châu Mỹ, Những ai thích Châu Úc sẽ đến Châu Úc, những ai thích Châu Âu sẽ đến Châu Âu, những ai thích Châu Á sẽ đến Châu Á. Đó là tuỳ vào quý vị. Bất ký quý vị tạo nghiệp gì, quý vị phải nhận lãnh quả báo ấy. Quý vị đến đó với tư cách là con người và một khi đã đến nơi rồi thì quý vị không còn biết điều gì đã xảy ra. Và thế là quý vị không biết là sắp đến mình sẽ hướng đến điều gì. Giấc mộng làm giàu đã tiêu tan, nhưng quý vị vẫn chưa thức tỉnh. Thật là đáng thương xót, phải không? Giấc mộng làm giàu không bao giờ chấm dứt, đến lúc sắp chết, việc tìm kiếm kim cương chưa xong, nhưng mạng sống đã kiệt cùng.
Nó chính là sáu căn của ông chứ không phải là cái gì khác. Cội gốc của luân hồi sinh tử trở nên kết thắt lại thành nút mà từ đó quý vị không thể nào thóat ra được. Đó là cái gì? Chẳng gì khác hơn chính là trò lừa dối của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của quý vị. Sáu cái nầy khiến cho quý vị phải sinh ra và chết đi. Quý vị có biết điều ấy không? Chẳng có ai khác chịu trách nhiệm cả. Điều gì khiến cho chúng ta phải điên đảo, sinh liên tục sinh rồi tử tiếp nối tử, đơn giản chính là sáu căn của mình.
Sao vậy? Mắt thấy sắc trần rồi bị xoay chuyển bởi chúng. Tai nghe âm thanh rồi truy tìm theo chúng. Mũi ngửi mùi hương rồi quyến luyến theo đó. Lưỡi nếm hương vị ngon rồi tham đắm vào đó. Thân thích xúc chạm rồi theo đuổi vật mà nó tiếp xúc. Tâm thức thích thú với pháp trần và truy đuổi theo đó. Hãy nói cho tôi biết, có bao nhiêu thứ mà quý vị hoàn toàn có? Rất nhiều. Đi theo sau sáu căn, quý vị trở nên bị phân thành sáu phần. Quý vị giống như một công ty có sáu doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp chiếm dụng một khoản tiền nhỏ cho đến khi công ty bị vỡ nợ. Thế nên công ty phải chết non. Phá sản. Sụp đổ, tiêu tan. Với số vốn nhỏ vừa mới bị mất, quý vị bối rối không biết mình sẽ đi đâu để mở công ty khác. Thế là quý vị đi khắp nơi để mở công ty mới. Và ở nơi mới quý vị lại làm một việc như xưa. Sáu ông chủ trong các doanh nghiệp mới của họ mong rằng họ sẽ làm được việc tốt đẹp, nhưng rút cục họ không làm được, và công việc lại kết thúc. Đó là nơi phát sinh vấn đề luân hồi sinh tử. Trước đây trong kinh điển, Đức Phật đã khuyên răn, “Các ông chỉ cần không theo.” Quý vị không nên theo tâm phân biệt. Quý vị không nên theo đuổi hoạt động của sáu căn, sáu trần, sáu thức. Không đi theo chúng, Quay hướng vào bờ.
Khổ hải mang mang
Quay đầu là bờ.
Quay đầu lại là thấy bờ bến giác ngộ. Nếu quý vị không quay đầu, thì càng bối rối, quý vị càng dấn sâu vào mê muội. Dấn vào mê muội càng sâu, quý vị càng nhiều bối rối. Quý vị mắc nợ rất nhiều người, và tài khoản của quý vị không bao giờ quân bình. Nay quý vị đã nhận ra sáu căn, không nên nhận giặc làm con. Đừng xoay quanh trục sáu căn ấy nữa. Hãy quay trở lại. Hãy trở về. Về đâu? Về giảng đường để nghe Phật pháp.
- Ông cũng muốn biết Vô thượng bồ-đề khiến ông mau được giải thoát an lạc vắng lặng diệu thường, đó cũng chính là sáu căn của ông, chẳng phải gì khác.
- Đức Phật bảo A-nan: “Căn và trần đồng một gốc, trói và mở chẳng phải là hai. Bản tính của thức là hư vọng, như hoa đốm giữa hư không.”
- A-nan, nhân nơi trần mà phát ra cái biết (của căn), nhân các căn mà có tướng (của trần). Tướng (phần sở kiến) và kiến (phần năng kiến) đều không có tự tính, như bó lau gác vào nhau.
- Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến, đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác?
Giảng:
Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến. Các ông lập nên một tri kiến khác trên cái tri kiến vốn đã là hư vọng. Đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Ông đã nhận ra rằng tri kiến của mình vốn là không có tự thể, thế nên ông không khởi một niệm tưởng nào căn cứ trên tri kiến ấy. Ngay trong tri kiến ấy mà không khởi một niệm tưởng phân biệt nào chính là tương ưng với Đạo. Đó chính là niết-bàn vô lậu chân tịnh. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác? Trong chỗ vắng bặt tri kiến, làm sao còn dung chứa một thứ gì khác? Nơi ấy chính là bản nguyên thanh tịnh pháp giới. Tại sao ông lại muốn đưa thêm một thứ gì nữa vào trong đó? Tại sao lại chồng thêm tri kiến lên trên tri kiến? Nguyên lý nầy cũng như trong đoạn kinh trước đã nói, “Bản giác vốn là diệu minh, nhưng hư vọng nên thành minh giác.”
.... Thế nên, các pháp hữu vi sinh khởi từ chân không (true emptiness). Nhưng bản chất của các pháp hữu vi là không (śūnya).
Vì duyên sanh, nên chúng như huyễn. Các pháp hữu vi sinh khởi khi hội đủ nhân duyên. Nhưng, khi nhân duyên sinh khởi, thì chúng cũng sẽ diệt. Thế nên, bản thể của các pháp là không (śūnya). Đó là lý do tại sao nói rằng các pháp như huyễn.
Vì các pháp là vô vi, nên chẳng sinh chẳng diệt. Quý vị cho rằng thể tánh các pháp hữu vi là không, thế thì các pháp vô vi thì sao? Thể tánh của chúng có phải là không chăng? Đúng vậy. Chúng không sinh không diệt.
... Trong chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể, mê muội phát sinh thành vô minh.
* Nguồn thuật ngữ Sinh Vô minh và Sinh Tướng Vô minh xem: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Quỉ La Sát - Rakshasas: Còn gọi là Yêu ma, yêu quỷ, yêu tinh
+ Quỷ La sát: Thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Quỷ La-sát là loài quỷ ăn tinh khí của người, và đều là phái nữ, chuyên môn ăn tinh khí người ta. Nếu thuyền bị gió bão trôi giạt vào nước quỷ La-sát, chỉ cần trên thuyền có một người phát tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì tất cả người trên thuyền, cho đến trăm ngàn vạn ức chúng sanh, đều được thoát nạn La-sát. Do nhân duyên đó mà tên vị Bồ-tát này là Quán Thế Âm.......
+ Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ mà nhìn người huống lại làm hại đặng. Giả sử lại có người, hoặc có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thảy đều đứt rả, liền được giải thoát.
HT Tuyên Hóa giảng: Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên. Sao gọi là cõi nước tam thiên đại thiên? Nhân vì ba ngàn (thiên) nên gọi là cõi nước tam thiên đại thiên. Thế giới chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn: Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Ðông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. “Một” đây là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu. Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới. Vì có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới.
Nếu trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy cả quỷ Dạ-xoa cùng La-sát. Quỷ Dạ-xoa bao gồm: Phi hành dạ-xoa, Ðịa hành dạ-xoa và Không hành dạ-xoa. Quỷ Dạ-xoa chạy rất nhanh, hỏa tiễn bây giờ cũng chạy không kịp tốc độ của nó, vì thế nó còn có tên là Tốc tật quỷ hay Tiệp tật quỷ. La-sát là quỷ ăn tinh khí, nó chuyên môn ăn tinh khí của người. Muốn đến hại người. Loại quỷ Dạ-xoa, La-sát này chuyên môn hại người, đến đâu cũng tìm cách quấy rầy người. Như quý vị muốn phát tâm Bồ-đề, chúng nhất định không bao giờ thích, cố ý gây rắc rối cho quý vị, nghĩ ra mọi cách ngăn cản khiến quý vị không thể tu hành được rồi thối thất đạo tâm. Từ trước quý vị đã phát tâm Bồ-đề một cách mạnh mẽ, nhưng nó lại lẻn vào thân tâm quý vị làm cho quý vị tự nhiên khởi lên vọng tưởng: “Tu hành làm chi! Học Phật-pháp để làm gì! Thôi đừng nên học Phật-pháp nữa! Ði chỗ khác chơi, mọi việc đều tự do theo ý mình, thích nhảy đầm thì nhảy, thích nghe âm nhạc thì nghe. Còn học Phật ư! Cái này không được làm, cái kia không được làm, có biết bao cái không được làm! Lại không được xem hát, không được uống rượu, không được hút thuốc nữa, cả khối việc phải kiêng cử! Phật-pháp quả là càng học càng rắc rối!”. Ai có ý nghĩ đó tức là bị quỷ Dạ-xoa, La-sát đến xúi bẫy đó. Có người muốn xuất gia. Nó xui vị ấy nghĩ: “A, xuất gia cực lắm! Cả ngày làm việc quần quật, lại ăn không ngon, mặc không đẹp, cực khổ quá mức! Ði tu để làm gì?” Nghĩ thế rồi thối tâm đi. Lại có vị muốn làm Tỳ-kheo-ni, quỷ Dạ-xoa, La-sát sẽ đến giục vị ấy nghĩ: “Ối chào! Nên đi lấy chồng đi! Lấy chồng mỗi ngày có chồng bầu bạn, vừa lòng thích ý hơn.” Làm cho quý vị đừng phát tâm Bồ-đề nữa, chính là công việc của quỷ Dạ-xoa La-sát đấy. Chúng chuyên môn làm tổn hại đạo tâm Bồ-đề, phá hoại việc tu hành của người. Vì thế nói: “Muốn đến hại người.”
Nghe người xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho dù có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, La-sát muốn đến làm hại, gây phiền phức cho người. Nhưng một khi chúng nghe quý vị niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát” thì những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ để nhìn. Một khi quý vị niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên hào quang tỏa sáng, bọn quỷ ấy muốn nhìn quý vị cũng không nhìn thấy được. Vì chúng thấy quý vị có ánh sáng chói lòa như đèn điện, mở mắt không ra. Cho nên nói là: Còn không thể lấy mắt dữ tợn để nhìn. Huống lại làm hại đặng. Cả đến mắt cũng không thể mở thì làm sao gia hại được? Tự nhiên nó phải chạy xa thôi. Vì thế quý vị phải luôn luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ được Ngài bảo hộ cho.
Giả sử lại có người, là giả sử còn có một người. Hoặc có tội hoặc không tội. Không luận là có tội hay không. Bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân mình. Người có tội tất nhiên bị chính phủ bắt giữ, bị còng tay, chân mang gông. Người “có tội” là chỉ người phạm tội; còn người “không tội” là chỉ người bị oan uổng, bị vu cáo, bản thân không phạm phải tội lỗi mà bị chính phủ bắt giữ cầm tù trong ngục, tay mang còng, chân mang gông. Gông cùm xiềng xích là những hình cụ xử phạt mà tội nhân phải mang, nó dùng để trói buộc người. Nếu xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu ngay lúc đó người ấy có thể xưng niệm “Nam-mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.” Thì thảy đều đứt lìa. Những thứ hình cụ gông cùm xiềng xích này bèn tự nhiên bị gãy đứt. Liền được giải thoát. Tức thời được giải thoát ngay vì còng tự động đứt, gông tự nhiên mở.
Nói tóm lại, bất cứ hình cụ nào đang ở trên thân đều tự nhiên rơi xuống. Việc này tôi đã chứng kiến rất nhiều. Có lần đó, tôi ở chùa Nam Hoa, vào thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, tôi gặp một vị Sư bị quân Nhật bắt giam vào ngục, tay chân đều bị xiềng xích cả. Vị Sư ấy ở trong ngục suốt ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm miên mật không dứt. Vào một buổi chiều, bỗng nhiên những gông cùm trên thân Sư đều bị gãy đứt, cửa ngục cũng tự động mở ra nên trốn thoát được.
Hóa giải nạn: Quỷ thần - La sát - Rồng độc - Quỹ dữ - Ác thú
Hoặc gặp ác La-sát
Rồng độc các quỷ dữ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Thảy đều không dám hại.
Hoặc là quý vị đến nơi núi hoang rừng vắng, chỗ không có bóng người, và gặp phải quỷ La-sát, rồng độc, hay các loài quỷ khác. Quỷ La sát hung dữ phi thường, giống như người Dao ở Trung Hoa chuyên môn ăn thịt người vậy.
Rồng độc cũng có thể hại người. Chúng thường chiếm cứ một vùng, hoặc trong ao hồ, hoặc ở sông lớn, hễ có người đi qua chỗ ở của chúng thì bị chúng phun nọc độc, trúng vào phải chết. Có thứ rồng độc lớn, thậm chí hớp một hơi có thể khiến cả thuyền và người đều chạy tuốt vào bụng, thật là lợi hại!
Còn quỷ, thì chẳng phải chỉ có một thứ mà có rất nhiều, như Ða tài quỷ, Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ v.v...
"Ða tài quỷ" như là các vị Thổ địa, Thành hoàng. Họ tuy đều là quỷ, nhưng là thủ lãnh của quỷ, cũng như Quỷ vương vậy.
"Thiểu tài quỷ" là quỷ nghèo, dù cho có tiền cũng có rất ít.
"Vô tài quỷ" thì thực sự là không có tiền của chi cả.
Vậy thì, quỷ mà còn dùng tiền sao? Thật ra quỷ không cần dùng tiền, nhưng do tập quán xấu cho nên bọn Ða tài quỷ khi cai quản những quỷ khác cũng tham ô. Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ cũng giống như người ta vậy, suốt ngày từ sáng tới tối đều mong muốn có thêm được tí tiền. Tuy không cần dùng tiền, nhưng vì bọn họ chấp trước thành thói quen, thành một thứ mê muội, cho nên mới ưa thích tiền. Tiền họ dùng là tiền giấy, ở Trung Hoa người ta thường đốt giấy tiền cho quỷ chính là muốn mua chuộc, lấy lòng bọn quỷ.
Nếu quý vị gặp những quỷ La-sát, rồng độc hoặc các thứ quỷ thần ấy, quý vị có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì những ác quỷ ấy tự nhiên trốn mất. Tại sao thế? Tại vì khi quý vị niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, trong miệng có phát ra ánh sáng, tất cả những loài quỷ đều sợ ánh sáng nên không thể làm hại quý vị được.
Hoặc ác thú vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Ðều vội vàng bỏ chạy.
Ác thú tức là lang sói, hổ, beo, những dã thú này chuyên môn ăn thịt người. Ở các núi của nước Mỹ không có hổ, nhưng ở Trung Hoa và Ấn Ðộ thì hổ rất nhiều. Lúc nhỏ, có lần tôi đi vào trong núi, đi 5, 6 ngày trời vào chỗ không có người ở, có gặp những ác thú ấy. Nhưng tôi rất lấy làm lạ là không biết tại sao chúng không ăn thịt tôi. Răng của ác thú bén nhọn như dao, móng vuốt cứng chắc như móc sắt. Ðương khi quý vị gặp những ác thú vây quanh như thế mà biết niệm ngay Bồ-tát Quán Thế Âm, thì bọn chúng chẳng những không dám làm hại quý vị mà còn bỏ chạy tức khắc. Tại sao lại bỏ chạy? Vì Bồ-tát Quán Thế Âm có sức cảm ứng linh thiêng (linh cảm) khiến cho bọn chúng một khi nhìn thấy quý vị, tự nhiên sanh lòng sợ hãi, lật đật trốn chạy xa.
Ngoan xà và phúc yết
Khí độc xông mịt mù
Nhờ sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi.
Ngoan xà là một thứ rắn độc, phần lớn màu đen. Phúc, ở Trung Hoa gọi là Diên xà (rắn mối), thường thấy ở trên diềm mái nhà. Thứ rắn này rất nhiều ở Thái Lan, thường xuất hiện vào buổi tối và ré lên, cũng không sợ người. Nó có bốn chân nhỏ, thường chạy tới chạy lui ở trên mái nhà.
Phúc xà là loại rắn rất độc. Yết tức là bò cạp, nếu ai bị nó đốt thì có thể trúng độc lập tức chết ngay. Bọn chúng đều có khí độc xông mịt mù, thật là độc dữ vô cùng! Thậm chí làm cho người mất mạng như chơi. Dù gặp phải những loại rắn độc như thế, nếu bọn chúng nghe tiếng quý vị niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát" thì sẽ đều tự động chạy trốn mất, không dám tác oai, tác quái nữa.
Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Phước báu phân Đẳng cấp Súc sinh - Ngạ quỷ - Thành Hoàng: Tu có phước báu, ... Bất luận ở đường nào, cái phước này theo quý vị, quý vị chắc chắn sẽ đạt được, vì thế đây gọi là phước báo. Phước báo của đường súc sinh, đây là cái mà chúng ta bình thường dễ dàng nhìn thấy nhất, thú cưng, thú cưng mà người ta nuôi có phước báo, người trong nhà đó đều hầu hạ chúng, đều yêu thích chúng, đúng là hưởng phước báo của chúng. Hơn nữa, có loại súc sinh rất thông minh, chúng hiểu được ý của người, có thể quan sát ngôn ngữ sắc mặt, đó là gì? Đó là pháp thí trước đây của chúng, chúng có thông minh trí tuệ, sức khoẻ trường thọ, quý vị xem ba loại phước báo chúng đều có. Đường ngạ quỷ cũng có, đường ngạ quỷ có phước có tuệ, trong quỷ đạo đi làm quỷ vương, trong quỷ đạo cũng có địa vị, giống như Thành Hoàng. Thành Hoàng bình thường, giống như huyện thị trưởng, Đô Thành Hoàng thì giống như tỉnh trưởng. Phía trên còn có Tổng giám Thành Hoàng, phạm vi mà họ cai quản rất rộng, có lúc quản những mấy tỉnh, còn có quản lý một khu vực, khu vực đó nếu như là một quốc gia nhỏ, thì họ quản lý rất nhiều quốc gia. Vì thế họ có phân chia cấp bậc, phước báo có khác nhau. Người tu phước, công đức dễ bị mất đi, phước báo không bị mất đi, bất luận quý vị đến đường nào cũng vẫn có phước báo. Rơi xuống địa ngục cũng có phước báo, trong địa ngục có phước báo thì chịu khổ nhẹ hơn một chút, họ phải chịu khổ, chỉ là nhẹ hơn người khác một chút, người không có phước báo, chịu khổ nhiều một chút. Quả thực khổ báo có khác nhau. Đây là “quả báo truy tuỳ, tương tùng bất xả, tuỳ kỳ nghiệp nhân, cảm đắc thiện ác chi báo”, đây đều nói về lục đạo. (Nguồn: Thiện ác biến hóa - HT Tịnh Không giảng)
+ Một cõi Phật - Tam thiên Đại thiên thế giới: 58. ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI
Này các Tỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về việc trời đất thành, hoại và quốc độ mà chúng sanh ở chăng?
Như trong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốn thiên hạ, tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới như vậy.
Trong ngàn thế giới có một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di; có bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốn ngàn chim cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác bốn ngàn đường ác lớn, bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn, ngàn Diêm-la vương, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời Đao-lợi, ngàn trời Diệm-ma, ngàn trời Đâu-suất, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn trời Phạm; đó là tiểu thiên thế giới.
Như một tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là một trung thiên thế giới.
Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới như vậy là một tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi thế giới thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật. (Trường A Hàm, Kinh Châu Diêm Phù Đề, số 30)
+ Tam thiên đại thiên thế giới
Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên. Sao gọi là cõi nước tam thiên đại thiên? Nhân vì ba ngàn (thiên) nên gọi là cõi nước tam thiên đại thiên thế giới.
Một Thế giới: Chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn: Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Ðông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. “Một” đây là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu.
=> Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới;
Một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới;
Một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới.
=> Vì có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tam thiên đại thiên thế giới: Chuyển luân thánh vương là người trị vì bốn châu thiên hạ: Đông thắng thân châu, Tây ngưu hoá châu, Nam thiêm bộ châu và Bắc-câu-lư châu. Một thế giới hệ bao gồm bốn đại châu nầy, một mặt trời, một mặt trăng và núi Tu-di. Một ngàn tiểu thiên thế giới hệ là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới được gọi là một đại thiên thế giới. Đây là ý nghĩa của Tam thiên đại thiên thế giới. Một vị Chuyển luân thánh vương cai trị một tiểu thiên thế giới. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tâm trong ngoài chẳng trụ - Bên trong không thân tâm, ngoài không thế giới. Tâm không phải là ngoan không: Trong không chấp thân tâm - Ngoài không chấp thế giới là đúng Pháp.
.... Chư Thiện tri thức! Tâm mình trong ngoài chẳng trụ, lui tới tự do, bỏ đặng lòng chấp trước, suốt thông không trở ngại, tu trọn các hạnh ấy, thì đối với kinh Bát nhã vốn không có chỗ nào sai khác.
Giảng:
Tu Bát nhã hạnh, cần phải không trụ bên trong, không trụ bên ngoài, bên trong không thân tâm, ngoài không thế giới. Nhưng cũng không phải là ngoan không, mà là bên trong không chấp thân tâm, bên ngoài không chấp thế giới. Nếu quý vị không chấp trong ngoài thì có thể đến đi tự do, biết từ đâu đến và đi về đâu. Lai có thể nói là trở về, trở về thân tâm của quý vị; Khứ là đi đến pháp giới. Tuy có đến có đi, nhưng quý vị không nên chấp trước vào cái đến cái đi này, vì thế gọi là tự do. Nếu quý vị chấp trước lai khưù, thì không còn tự do, có sự chướng ngại. Đến đi tự do, cũng có thể nói tâm của quý vị đến đi tự do, tánh của quý vị đến đi tự do, cũng có thể nói là sanh tử tự do. Tôi muốn sống thì sống, tôi muốn chết mới chết, đó mới là tự do. Nếu tôi không muốn sống thì chết, nhưng đó không phải là tự sát, vì mình đã biết mình chết như thế nào, ngồi ở đó cũng như nhập vào thiền định, như thế mà ra đi, đó không phải tự do là gì? Nếu không tự do thì ra đi không được. Tại sao Tam Tổ tay nắm cành cây mà viên tịch nhập Niết Bàn? Chính vì Ngài sanh tử tự do, đó cũng chính là đến đi tự do. Nếu tôi muốn sống thì vĩnh viễn bất tử không chết, muốn chết thì lập tức ra đi. Đến đi trong lúc nói cười, liền có thể vãng sanh.
Giống như Pháp sư Đạo Sanh, phần đông mọi người đều phản đối khi Ngài giảng Kinh Niết Bàn, vì Ngài chủ trương xiển-đề (icchantikas) cũng có Phật tánh. Lúc đó mọi người đều cho rằng tư tưởng của Ngài là sai lầm, mọi người đều "mặc tẩn" (1) Ngài. Cho nên Ngài phát nguyện nói: "Nếu tôi giảng kinh khế hợp Phật pháp, Phật tâm, thì sau này tôi ngồi trên pháp tòa thuyết pháp mà vãng sanh. Nếu giảng không hợp Phật tâm, thì lời nguyện này không được cảm ứng." Ngài ở núi Hổ Khâu giảng kinh cho đá nghe mà đá cũng phải gật đầu, tiếp nhận đạo lý của Ngài giảng là chính xác. Cho nên nói: "Sanh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu (Pháp sư Đạo Sanh thuyết pháp, đá cứng cũng phải gật đầu)." Sau này lúc Ngài giảng kinh, đang giảng đến chỗ sâu sắc mầu nhiệm bèn trên pháp tòa vãng sanh. Quý vị thấy có tuyệt diệu không?
Có người nói:
–Bạch Pháp sư, nay Ngài giảng kinh rất hạp ý con, con không muốn chấp trước, không muốn giữ gìn quy cũ. Ngài nếu muốn mọi người giữ gìn quy luật chính là chấp trước.
Nghĩ như vậy là sai rồi, nói trừ chấp trước, là muốn quý vị trừ đi tâm chấp trước, bỏ đi những việc không đúng. Những việc đúng chẳng thể không chấp trước. Giống như giữ gìn quy luật thì mới có thể thành Phật, cho nên nói: Thị đạo tất tiến, phi đạo tất thối, không phù hợp đạo thì không nên chấp trước, hợp với đạo thì cần nên trì tụng không quên. Trì tụng có thể là chấp trước, nhưng trì tụng Kinh Kim Cang lại là tu hành.
Nếu tôi có tật xấu mà không muốn sửa đổi, cũng không muốn người biết, đó mới chính là chấp trước. Nếu tôi có tật xấu, người bên cạnh biết tôi cũng không màng, người khác khuyên cũng không đếm xỉa đến, đây không phải là không chấp trước mà là tà tri tà kiến. Nếu có loại tà tri tà kiến như thế, càng tu càng rời Phật pháp càng xa.
Nếu quý vị có thể rời bỏ chấp trước, thì có thể thông đạt vô ngại, không còn chướng ngại, nếu tu hành như thế, thì khế hợp với đạo lý Kinh Kim Cang, Bát nhã trí huệ hiện tiền, bằng không thì không phù hợp diệu lý Bát nhã. (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Diệu dụng và Công đức năm căn:
ĐỨC PHẬT CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH.
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới.
Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng:
1. Xét về nhãn căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về mắt chỉ được 800 công đức.
2. Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có 1200 công đức.
3. Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có thở ra và hít vào. Điểm giao tiếp giữa hít và thở gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.
4. Xét về thiệt căn thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gian và xuất thế gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.
5. Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.
6. Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian mười phương ba đời, thánh phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức.
=> A Nan! Ông muốn ngược dòng sinh tử hãy xét 6 căn ông hiện thọ dụng. Cái nào hợp, cái nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên thông, căn nào không viên thông. Nếu khai ngộ được một căn viên thông thì đảo ngược tất cả dòng nghiệp vô thỉ. Đối với hiệu quả tu hành, bấy giờ một ngày bằng một kiếp.
Tôi nay đã chỉ rõ cho ông: Sáu căn, căn nào cũng trong sáng và đều có số lượng công năng. Tùy ông chọn lựa. Thích hợp căn nào tôi sẽ hướng dẫn cho ông để ngày thêm tăng tiến.
Mười phương Như Lai, căn, trần, thức, 18 giới đều là công cụ để viên mãn Vô thượng Bồ-Đề. Căn cơ trí tuệ còn non nớt, ông cần đi sâu tu tập một căn. Một căn thanh tịnh thì sáu căn đồng thời được tháo mở hoàn toàn thanh thoát.
Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)
+ Thế giới báo - Quy nạp Âm Dương:
- Thế giới Y báo - Muôn vật vô tình: Gồm núi sông đất liền, vạn sự vật nhân tạo, các hành tinh, thiên hà ... cho đến muôn cõi thế giới tuân theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không.
- Thế giới Chánh báo - Các loài hữu tình: Thân người, sự sống muôn loài có tình tuân theo quy luật Sinh - Lão - Bệnh - Tử; (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 2)
+ Tương ứng khí hình: Đại Sư Huyền Trang dạy, "Rồng đất không thể làm mưa, nhưng muốn cầu mưa thì cần có rồng đất". Phàm Tăng (Người xuất gia không giữ giới) tuy họ không thể ban phúc, nhưng muốn cầu phúc thì cần có tâm cung kính họ.
+ Duyên khởi các giác quan - Các giác quan tương tác:
IV. Thế Giới (S.ii,73)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) ... Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về sự tập khởi và sự đoạn diệt của thế giới. Hãy nghe...
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thế giới tập khởi?
4) Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ họp, nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do duyên ái nên có thủ. Do duyên thủ nên có hữu. Do duyên hữu nên có sanh. Do duyên sanh, nên có già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Đây là thế giới tập khởi/ / Sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn
5) Do duyên lỗ tai và các tiếng...
6) Do duyên lỗ mũi và các hương...
7) Do duyên lưỡi và các vị...
8) Do duyên thân và các xúc...
9) Do duyên ý với các pháp, ý thức khởi lên. Do ba cái tụ họp nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ... Do duyên sanh nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, đây là sự tập khởi của thế giới/ / Sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thế giới đoạn diệt?
11) Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ họp nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt... Đây là sự đoạn diệt toàn bộ khổ uẩn này. Đây là thế giới đoạn diệt/ Sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn
12) Do duyên lỗ tai và các tiếng...
13) Do duyên lỗ mũi và các hương...
14) Do duyên lưỡi và các vị...
15) Do duyên thân và các xúc...
16) Do duyên ý và các pháp, ý thức sanh khởi. Do ba cái tụ họp nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt... Đây là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
17) Này các Tỷ-kheo, đây là thế giới đoạn diệt/ Sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ưng nhân duyên)
GIÁC KHÔNG SINH MÊ THẤT ĐẠI DUNG ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ TRỞ NGẠI
I- Giác không sinh mê:
- Phú Lâu Na! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng rồng. Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại cũng như gỗ đã đốt thành tro, tro không thể hoàn nguyên thành gỗ được.
- Phú Lâu Na! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp mắc các hiện tượng hữu vi.
=> Và cũng không có việc Như Lai sanh lậu hoặc trở lại.
II- Chỉ Các Đại Có Thể Dung Nhau
- Phật bảo: Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau.
- Phú Lâu Na! Ví như hư không, không thể của nó vốn không phải hình tướng, nhưng nó không chống đối các tướng phát huy trong nó. Phú Lâu Na! Bầu hư không vô cực kia, hễ mặt trời soi thì sáng, mây ùn thì tối, gió lay thì động, trời tạnh thì trong, hơi đọng thì đục, bụi nổi thì mù, nước lặng thì lóng lánh. Phú Lâu Na! Ông hiểu thế nào? Các tướng hữu vi sai khác dường ấy. Vậy nó nhân những cái đã có kia mà tự sinh hay nhân hư không mà có? Phú Lâu Na! Nếu bảo rằng do những cái kia tự sanh, vậy khi mặt trời soi, mặt trời sáng thì mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không lại còn thấy mặt trời tròn? Nếu bảo rằng hư không sáng thì hư không tự soi lấy, cớ sao giữa lúc đêm mây mù không có ánh sáng soi? Vậy nên biết rằng : Cái sáng không phải mặt trời, không phải hư không, nhưng không ngoài hư không và mặt trời.
=> - Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng : Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn : “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong…cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.
=> Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậy mà Như Lai dạy : ”Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh không chơn sắc…” Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình.
=> Tất cả vạn pháp trong thế gian hay tứ đại nói riêng đều là pháp giới tánh, đều là bản tánh chân như trong Như Lai Tạng. Mà đã là pháp giới tánh thì bao trùm khắp cả thì làm sao lại không dung được nhau.
=>>>Thật tánh của tất cả sắc, thủy, hỏa, phong là không nên trong chơn không các đại dung nạp nhau rất tự tại. Nhưng một khi nhân duyên xuất hiện thì từ trong chơn không mà diệu hữu một cách nhiệm mầu để biến thành sắc, thủy, hỏa, phong. Chơn không, pháp giới tánh thì lúc nào cũng bản nhiên thanh tịnh, nhưng pháp giới tánh duyên khởi trùng trùng vô cùng vô tận. Mỗi khi có tâm niệm thì pháp giới tánh cũng duyên theo tâm niệm ấy mà thay đổi. Nếu chúng sinh tâm niệm nước thì pháp giới tánh duyên ra thành nước. Nếu bây giờ chúng sinh tâm niệm về gió thì pháp giới tánh duyên ra thành gió. Nếu tâm niệm tất cả thì pháp giới tánh duyên ra tất cả đầy đủ đất, nước, gió, lửa. Trong hư không thì không thấy gì cả, mà thật ra cũng chính cái hư không này ngầm chứa đầy đủ các đại.
- Thí dụ như trong cái bầu trời này, nơi nào cũng có lửa, nơi nào cũng có gió, nơi nào cũng có nước, nơi nào cũng có sắc. Chúng dung nạp, nương tựa vào nhau và chỉ xuất hiện khi nào chúng sinh có tâm niệm cần đến nó mà thôi. Hiện tượng này là bất biến tùy duyên. Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới xuất hiện. Các đại cũng thế, nếu chúng sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì các đại này sẽ dần dần xuất hiện.
CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” (KHÔNG LÀ) VÀ “TỨC” (TỨC LÀ) CHỈ VỀ TRÁI VỚI GIÁC TÁNH, HỢP VỚI TRẦN TƯỚNG
- Phật bảo: Phú Lâu Na! Do nhận thức đánh giá của ông về Sắc Không của Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng theo cái nhận thức của ông mà có Sắc Không khắp cùng pháp giới. Vậy nên ông thấy gió thì động, hư không thì tịnh, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Ông và tất cả chúng sinh mê lầm, sống trái với giác tánh mình mà hợp với trần tướng cho nên sanh khởi cái nhận thức trần lao. Do đó có các tướng thế gian đối tượng.
CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỚI NHƯ LAI TẠNG
- Phật bảo: Phú Lâu Na! Như Lai sử dụng tánh giác diệu minh không sai lầm nhận thức, không đánh giá điên đảo. Như Lai Tạng là tánh giác diệu minh khắp trùm pháp giới. Vậy nên đối với Như Lai: Một là tất cả, tất cả là một. Trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, ngồi tại đạo tràng bất động mà như ở khắp mười phương. Một thân mà trùm cả hư không vô tận, đầu một mảy lông mà hiển hiện ra vô vàn cõi Phật. Ngồi trong vi trần bé bỏng mà vận chuyển đại pháp luân, diệt hết nhận thức sai lầm trần tướng, sống hợp với giác tánh cho nên Như Lai nhìn đâu cũng là tánh chơn như sáng suốt nhiệm mầu.
CHỈ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” (KHÔNG LÀ) TẤT CẢ
- Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.
CHỈ NHƯ LAI TẠNG “TỨC” (LÀ) TẤT CẢ
Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh cho đến là lão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.
THỂ VÀ DỤNG: TÙY DUYÊN BẤT BIẾN - BẤT BIẾN TÙY DUYÊN (Nguồn: Xem mục Dùng Phật nhãn nhìn lên ....)
Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục
+ CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH. Nguồn gốc con Số 12 = 3 x 4
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)
Nguồn Tất cả nội dung trên đều ở trang (Nguồn: Xem mục Chương 7 - Phật thuyết các Đại vốn không ngăn ngại ...)
Nguồn: Phần 1: Phân biệt các Giới: Đại chủng bốn giới - Tứ đại: Đất nước Gió Lửa
+ Các Tướng hữu vi: Sông núi, đất liền và thế giới chúng sinh xuất hiện từ Tánh giác thanh tịnh do Sinh vô minh ...
Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài Phú-lâu-na hỏi Phật rằng: “Nếu tất cả các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới… trong thế gian đều là Bản nhiên thanh tịnh Như Lai tạng, cớ sao bỗng sinh ra núi, sông, đất liền và các tướng hữu vi thứ lớp dời đổi?”. Phật đã thứ lớp trả lời. Từ việc hỏi ngài Phú-lâu-na về Tánh bản nhiên thanh tịnh vốn là minh hay vô minh, cho đến việc xuất hiện thế giới. Ngài Phú-lâu-na trả lời Tánh bản nhiên thanh tịnh vốn là minh. Vì nếu không phải minh thì trong quá trình hoàn diệt, ngài không thể chứng nghiệm được cái minh ấy. Do minh đã thành đối tượng được chứng biết, nên kinh gọi là Sở minh. Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới. Nhân hư không mà sinh ra dao động kiên cố cái sáng mà thành có ngăn ngại. Các loại kim bảo kia đều do minh giác lập ra tánh cứng chắc, nên có kim luân giữ gìn cõi nước. Phong đại và kim bảo cọ xát mà có lửa sáng làm thành tính biến hóa… Nơi Sở minh, tự yêu thích cái sáng suốt của tánh minh, dòng yêu thích làm thành chủng tử, ấy là nguyên nhân có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh. Đại sư Hàm Thị nói: “Bốn đại chỉ là tâm. Tùy thế lực của tâm mà có nặng nhẹ. Sân hận nhiều, yêu thích ít nên ứng hiện ra ngoài có núi cao. Đập đá thì tóe lửa, nấu thì chảy ra nước. Yêu thích nặng, cố chấp nhẹ nên ngoài ứng hiện ra cỏ cây…”. Quá trình này được ví dụ mắt nhặm mà thấy hoa đốm hiện ra trong hư không, hoặc như ngủ rồi mộng mà thấy mọi thứ, không thứ nào có chất thật như hiện nay đa số vẫn lầm. Mọi thứ đều là biến hiện của thức..... (Nguồn: Chẳng phải nhân - Chẳng phải duyên)
+ Ngũ Trược: Có hai loại giải thích cần phân biệt
Sự giải thích về ngũ trược mà tôi có lần đã nói ở trước là hoàn toàn khác với ở đoạn nầy. Đoạn kinh trước là nói về ngũ trược trong phạm trù thế giới, còn ở đây ngũ trược được giải thích trong phạm trù thân thể của mình. Thực vậy, cái hỗn trược bên ngoài sở dĩ có là do ngũ trược bên trong. Vì vậy nên quý vị nên tịnh hoá các ngũ trược cụ thể hữu hình, thì các ngũ trược bên ngoài sẽ được tiêu trừ. Như vậy có hai loại
a- Ngũ trược trong phạm trù thế giới.
b- Ngũ trược trong Thân Thể Con Người (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.IV)
a- Ngũ trược trong thân thể con người:
+ Ngũ trược trong giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
Thế nào là vẩn đục? A-nan, ví như nước trong, vốn sẵn là thanh khiết. Lại như các thứ bụi đất tro cát, vốn là chất ngăn ngại. Hai thể chất ấy vốn đã như vậy, không hợp nhau được. Như có người thế gian lấy bụi đất kia ném vào nước trong, Trạng thái khuấy trộn đó gọi là vẩn đục. Năm lớp vẩn đục của ông cũng giống như vậy.
A-nan, ông thấy hư không khắp cả mười phương thế giới, mà chẳng thấy phân ra hư không và tánh thấy. (Tuy vậy) có hư không mà không có thực thể, có tánh thấy mà không có tánh biết. Hai bên đã đan dệt với nhau mà thành. Đây là lớp thứ nhất, gọi là ‘kiếp trược.’
Thân ông hiện bám lấy tứ đại làm tự thể, nên cái thấy nghe hay biết bị ngăn ngại. Trở lại làm cho các thứ đất nước lửa gió thành ra có cái hay biết. Các thứ đó đan dệt nhau, hư dối mà thành. Đây là lớp thứ hai gọi là kiến trược.
Lại nữa, trong tâm ông do sự nhớ biết học tập mà tánh phát ra thấy biết. Dung nạp sáu trần, rời tiền trần thì không có tướng, rời cái biết thì không có tánh. Những điều đó đan dệt nhau, hư dối mà thành. Đây là lớp thứ ba gọi là phiền não trược.
Lại nữa, tâm ông sớm chiều sanh diệt không ngừng. Cái thấy biết thì cứ muốn lưu mãi ở thế gian, mà nghiệp báo chuyển vần luôn luôn đổi dời từ cõi nầy đến cõi khác. Những điều đó đan dệt nhau, hư dối mà thành. Đây là lớp thứ tư gọi là chúng sinh trược.
Cái thấy nghe của ông vốn chẳng phải là tánh nào khác, do các trần cách trở nên bỗng nhiên trở thành khác. Tánh thì vẫn biết nhau, nhưng trong phần dụng thì trái nghịch nhau. Cái đồng cái khác mất hẳn chuẩn đích, cùng đan dệt nhau, hư dối mà thành. Đây là lớp thứ năm, gọi là mạng trược. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.IV)
+ Ngũ trược trong giảng Kinh A Di Đà:
1. Kiếp trược (Trược thứ 5 do Trược 4 Đại làm thành ): Ðó là thời gian ô trược. Sự ô trược thời gian do đâu mà có? Thời gian ấy, bốn trược kia càng ngày càng thêm, càng ngày càng dữ dội và lấy sự gia tăng của bốn trược kia làm bản thể của nó. Phải có sự giúp đỡ của bốn trược: Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược mới có thể biến thành Kiếp trược được. Cho nên Kiếp trược lấy sự gia tăng của bốn trược kia làm bản thể hừng hực mãi không ngừng làm tướng của nó, như lửa càng cháy càng bùng lên là tướng của nó.
2. Kiến trược: lấy năm lợi sử làm bản thể của nó. Năm lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ và Giới cấm thủ. Kiến trược này lấy sự hiểu biết lầm lạc về sáu giác tri làm tướng, xưa nay là đạo lý đúng thật nhưng nó lại tưởng là thiên lệch thành ra tà tri tà kiến, ấy gọi là biết lầm về sáu giác tri.
3. Phiền não trược: lấy năm độn sử làm bản thể của nó. Năm độn sử là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, lấy phiền não bức bách làm tướng.
4. Chúng sanh trược: Thứ trược này lấy ba duyên hòa hợp làm tự thể. Ba duyên là duyên cha, duyên mẹ và nghiệp duyên của chính mình. Lấy sự luân hồi không dứt làm tướng, có ba duyên hòa hợp rồi mới luân hồi không dứt, lặn đầu này trồi đầu kia, đời này họ Trương, đời sau họ Lý, hoặc đời này làm Tỳ-kheo-ni, đời sau làm Tỳ-kheo, rồi đời sau nữa làm Tỳ-kheo-ni nữa. Sau Tỳ-kheo-ni lại làm Tỳ-kheo nữa, thật là kỳ diệu biết bao! Như thế chuyển tới chuyển lui luân hồi không dứt.
5. Mạng trược: Mạng là sức nóng, hơi thở và thức. Lại có thuyết là tuổi thọ, sức nóng và thức làm thể, lấy sự rút mất tuổi thọ làm tướng. Từ nhỏ tới lớn, từ lớn tới già, từ già tới chết, đó là tướng của mạng.
Trên đây là Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược mà Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ở trong đời ác ngũ trược chứng được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nói cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni chính mình đã biết rõ, nói thứ pháp này là pháp rất ít người có thể tin được. Này Xá-lợi-phất, nên biết rằng; Này Xá-lợi-phất! Ông nên biết rằng: Ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó. Ta ở trong đời ác ngũ trược chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nói cho tất cả thế gian nghe thứ Phật pháp rất khó tin này. Thật là việc hết sức khó khăn. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế, nhưng tôi (lời của Hòa Thượng) lại nói là rất dễ dàng. Tại sao thế? Chỉ cần niệm một câu Nam mô A Di Ðà Phật, cho nên rất là dễ dàng, đã không tốn tiền lại không tốn sức, tốn thời gian, vì thế tôi nói pháp môn này là một pháp môn dễ dàng quá sức. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh A Di Đà)
b- Ngũ trược trong phạm trù Thế giới: ... Kinh Lăng Nghiêm cũng có chép: "Thổ thất lưu ngại, thủy vong thanh khiết." (Khi nước và đất trộn lẫn, thì đất mất tánh lưu ngại, nước mất tánh thanh khiết.)
Bởi nước bị vẩn đục, mất đi sự thanh khiết, cho nên gọi là "trược." Cõi "Ngũ Trược ác thế" này ví như vũng bùn dơ bẩn - một hỗn hợp của nước và đất. Ðây là một thế giới không thanh tịnh bởi có sự hiện hữu của năm thứ ô trược:
1) Kiếp Trược. "Kiếp" là danh từ chỉ thời gian. Thời gian thì ô trược bởi chúng ta không thể phân định một cách rõ ràng là khi nào, thời điểm nào. Trước kia có người hỏi tôi, thế nào gọi là thời gian? Thật ra, không có cái gọi là "thời gian," không thể nào định rõ được thời gian. Ðó là Kiếp Trược.
2) Kiến Trược. Quý vị nghĩ xem, chúng ta có thể phân biệt cái "thấy" của mình một cách rõ ràng hay không? Tất nhiên là không thể được! Chúng ta có thể phân ranh giới cho cái"thấy" của mỗi người hay không? Cũng không được! Bởi nếu quý vị nói rằng đây là cái "thấy" của quý vị, kia là cái"thấy" của tôi; thế thì quý vị lấy gì làm ranh giới để phân biệt giữa cái "thấy" của quý vị và cái "thấy" của riêng tôi? Chính vì cái "thấy" ấy là một hỗn hợp lộn xộn, không có ranh giới, không thể phân định rõ ràng, nên gọi là Kiến Trược.
3) Phiền Não Trược. Mọi người đều có phiền não - quý vị có phiền não, tôi cũng có phiền não - phiền não của chúng ta trộn lẫn, xen lộn với nhau, không cách nào phân định cho rõ được.
Có người nói: "Tôi thừa biết rằng phiền não của tôi là của tôi, phiền não của Thầy tức là của Thầy - của ai cứ nấy!" Nếu nói như thế thì tại sao quý vị lại có thể gây phiền não cho tôi được? Nếu quả thật phiền não là của tôi thì đáng lẽ không cần quý vị gây ra mới phải; còn nếu đó đích thật là của quý vị, thì tất nhiên cũng không cần tôi gây ra, không cần tôi làm cho quý vị sanh phiền não mới đúng chứ?! Như vậy, xét ra thì phiền não cũng không có ranh giới rõ rệt và cũng là một hỗn hợp ô trược, bất tịnh.
4) Chúng Sanh Trược. Có những chúng sanh đời này mang thân người, song biết đâu chừng đời sau lại phải đầu thai làm chó, làm mèo, làm chuột, hoặc làm côn trùng bò lung tung khắp nơi... - không có gì là nhất định cả. Như thế thì làm sao quý vị có thể phân biệt một cách rõ ràng được? Chúng sanh với chúng sanh cùng nhau hợp tác để mở một "đại công ty," cũng không phân biệt nhau được rõ ràng. Trong "đại công ty" này, nếu không phải mình bị người ta đem bán, thì cũng là người ta bị mình đem bán - tất cả đều có quan hệ qua lại với nhau. Như thế không phải là "trược" sao? Vậy, đó gọi là Chúng Sanh Trược.
5) Mạng Trược. Vận mạng của chúng ta cũng là hỗn trược, bất tịnh.
Mặc dù năm thứ ô trược này rất phức tạp, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn có thể ở trong đời ác Ngũ Trược - một thế giới xấu xa nhất - mà hiện sức Ðại Trí Huệ và Thần Thông không thể nghĩ bàn. "Không thể nghĩ bàn" tức là vô cùng vi diệu, chúng ta không tài nào nghĩ ra hoặc mường tượng ra được. Thứ gì mà vi diệu, không thể nghĩ bàn như thế? Ðó chính là năng lực từ Ðại Trí Huệ và Ðại Thần Thông của Ðức Phật. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P1- HT Tuyên Hóa giảng)
Thế giới vô hình: Bác sĩ Bandyo nhìn toàn thể mọi người, rồi thản nhiên:
Nhờ khai mở Thần nhãn, tôi biết chung quanh chúng ta có một thế giới vô hình, rộng lớn và có những sinh vật khác sinh sống. Sở dĩ tôi gọi là vô hình vì mắt thường không thể nhìn thấy được, nhưng một ngày nào đó, khoa học sẽ chứng minh được thế giới này. Các sinh vật vô hình thường được chúng ta gọi bằng danh từ như Ma, Quỷ, Tinh linh (entities), v…v…
Vì không có một kiến thức rõ rệt về các sinh vật này, chúng ta đã gán ghép cho chúng nhiều điều không đúng. Thật ra, các sinh vật này cũng có thứ xấu, thứ tốt, cũng như loài người vậy. Một trong các sinh vật này hợp tác chặt chẽ với đức Mẹ trong các công việc của ngài. Danh từ đứng đắn nhất có lẽ là Thiên thần (Deva). Có nhiều loại Thiên thần, mỗi loại phụ trách một công việc riêng. Vì lý do nghề nghiệp, tôi thường tiếp xúc với các Thiên thần chăm lo sức khoẻ. Tôi xin thuật lại thế giới này cho các bạn… Các thiên thần lo về sức khoẻ thường liên lạc chặt chẽ với những người có trách nhiệm trong việc chăm sóc, chữa bệnh. Điển hình là các bác sĩ, ý tá. Một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, làm việc để giúp đỡ người khác, luôn luôn được một vị thiên thần hộ mạng. Vị này thường theo dõi, bao trùm chung quanh y sĩ bằng một hào quang sáng rõ và tác động vào trực giác ông này khi điều trị bệnh nhân. Vị thiên thần trấn tĩnh y sĩ và không ngớt phóng ra các hào quang mịn màng như tơ để chuyển sinh khí đến người bệnh. Công việc của vị thiên thần hình như dung hoà, pha trộn các sinh lực vô hình trong cõi siêu nhiên và sử dụng tư tưởng biến nó thành các sợi tơ ánh sáng tuôn trào vào bệnh nhân.
Một bác sĩ tận tâm sẽ có các rung động cộng hưởng với ảnh hưởng này một cách vô hình, tự nhiên thu hút các từ điện tinh vi này vào mình, để nó toát ra ở mười đầu ngón tay, và có thể hàn gắn vết thương một cách dễ dàng, mầu nhiệm. Người ta không thể giải thích tại sao một bác sĩ này lại giỏi hơn một bác sĩ kia, mặc dù họ cùng hấp thụ một nền giáo dục như nhau ? Và một bác sĩ giỏi, ta gọi là bác sĩ “mát tay”, nhưng thật ra đó là do tư tưởng vị y sĩ thanh cao, rung động với các luồng thần lực vũ trụ và trở thành một trung tâm vận hà các sinh lực này đến bệnh nhân. Mặc dù y học tự hào đã chữa được nhiều thứ bệnh, nhưng thực ra trên địa hạt siêu hình còn nhiều vấn đề mà y học phải bó tay. Một bác sĩ có thể ví như một công cụ của thượng đế cứu giúp chúng sinh; nhưng nếu viên y sĩ không ý thức điều này mà làm các hành động bất nhân thì y sẽ chịu các hậu quả rất nặng. Lẽ dĩ nhiên, ân phước dồi dào không thể đến với ông, và vì thế các ảnh hưởng bất hảo sẽ kéo đến ảnh hưởng đến đời sống, chức nghiệp, khả năng của vị này. Nhờ có Thần nhãn, tôi thấy các bác sĩ chuyên phá thai chẳng hạn, lúc nào quanh ông ta cũng có các oan hồn bu kín. Một bác sĩ bất cẩn cũng thế, ông đã lạm dụng quyền năng thượng đế ban cho, làm thương tổn đến bệnh nhân thì chắc chắn sẽ gặp những điều vô cùng bất hạnh. Từ ngàn xưa, người ta đã biết điều này, nên mới đặt ra lời thề của Hippocrates, đến nay không mấy ai để ý đến chi tiết này. Họ hành nghề như tất cả những nghề nghiệp thông thường khác, không ý thức chức vụ thiêng liêng của mình. Là một bác sĩ chuyên về giải phẩu, tôi có thể lấy kinh nghiệm của mình ra nói : trong cuộc giải phẩu, mạng sống của bệnh nhân hoàn toàn nằm trong tay viên y sĩ, và các thiên thần hộ mạng. Một sơ ý, bất cẩn cũng có thể gây những hậu quả đáng tiếc.
Do đó, việc hành nghề y sĩ là một bổn phận, chức vụ thiêng liêng, đòi hỏi một lương tâm, một lòng bác ái và hy sinh lớn lao chứ không thể coi như một nghề nghiệp kiếm sống thông thường.
- Xin ông nói thêm về thế giới thiên thần, ông đã thấy những gì ?
- Vì nghề nghiệp, tôi thường quan sát các hoạt động của thiên thần trong bệnh viện, thí dụ như phòng hộ sinh, nơi các sản phụ chờ giây phút lâm bồn.
Nơi đây có một không khí bình an, mát mẻ do các thiên thần tạo ra để chào đón linh hồn nhập thế. Đối với cõi vô hình, giờ phút này có tính cách vô cùng trang nghiêm, như một cuộc lễ. Vị thiên thần bao trùm y sĩ, y tá trong hào quang và không ngớt di chuyển sinh khí đến người mẹ để giúp bà trong lúc đau đớn. Mọi nghi thức diễn ra thật chính xác, rõ ràng cho đến khi đứa bé lọt lòng. Khi linh hồn tái sinh, nó có cảm giác bỡ ngỡ như người mê mới tỉnh, linh hồn thấy ngộp thở, tối tăm, nặng nề. Nó cần được trấn an nên khi tiếng khóc chào đời vừa phát ra thì trong cõi vô hình, một ảnh hưởng thanh thoát cũng rung động vào tâm thức đứa bé khiến nó bình tĩnh hơn. Vị thiên thần trông coi buổi lễ có một khuôn mặt uy nghi, tâm thức vị này luôn luôn liên kết chặt chẽ với trái tim đức Mẹ. Một niềm ưu ái đối với sản phụ toả ra từ khuôn mặt của vị thiên thần, và chuyển cho sản phụ dưới hình thức một ân huệ để tán dương chức vụ sinh sản cao cả của bà. Lúc đó, tâm thức sản phụ được nâng lên cao hào với ân phước đức Mẹ …
Bác sĩ Bandyo ngưng nói một lúc, rồi thong thả tiếp :
- Các ông đều thuộc phái nam, nên không thể hiểu tâm trạng người mẹ lúc sinh con. Dù hoàn cảnh có khó khăn, đau đớn thế nào, khi vừa nghe con khóc, tất cả người mẹ nào cũng thấy sung sướng vô biên vì khi đó tâm thức họ đang hoà hợp với ân phước đức Mẹ. Trong tim họ đang phản chiếu sự hiện diện linh động của ngài, chói ngời lòng bác ái, thương yêu vô tả. Vào giờ phút đó, chính vị thiên thần trông coi buổi lễ cũng nhận được một luồng hào quang. Trong ánh sáng đó, người ta thấy một cái gì vinh quang, tươi đẹp, một nguồn an lạc tuyệt vời, tuôn trào đến sản phụ và hài nhi. Khi đó vị thiên thần hộ mạng bắt đầu làm công việc giúp đỡ đứa bé, giúp nó điều hoà sự sống đang bị xáo trộn. Ngài phát ra các từ điện bao quanh đứa nhỏ, giống như các bọt xà phòng để bảo vệ nó chống lại sự ồn ào bên ngoài. Nhờ đó, đứa bé sẽ thiếp đi trong giây lát, lúc đó vị thiên thần chú tâm điều hoà tâm thức đứa nhỏ để nó thích hợp với hoàn cảnh mới.
Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Hãy trở lại vấn đề các thiên thần, họ còn ảnh hưởng gì đến đời sống con người nữa không ?
- Các thiên thần ít khi nào can thiệp vào đời sống con người. Thật ra, họ vô cùng bận rộn với các sinh hoạt riêng biệt. Thế giới của họ cấu tạo bằng các
nguyên tử thanh, nhẹ, có sức rung động rất nhanh, nên họ không thích dính dáng vào thế giới hữu hình, vốn có những rung động thô kệch. Điều này có
thể ví như các ông đang sống ở một nơi mát mẻ, sạch sẽ, không lý nào lại chui vào chỗ hôi hám, nóng bức làm gì. (Nguồn: Sách hành trình về phương đông)
+ Đức Phật Dược Sư (tiếng Phạn भैषज्यगुरु, Bhaiṣajyaguru), danh hiệu đầy đủ là: Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, là giáo chủ của Thế Giới Tịnh Lưu Ly o phương Đông. Trong Kinh Hoa Nghiêm có đặc biệt đề cập đến: "Một niệm sân hận nổi lên, thì ngàn vạn cửa chướng ngại mở ra”, cần có tâm không sân hận thì lúc đối diện nghịch cảnh mới không khởi tâm gây hại.
Đức Phật A Súc Bệ từ buổi sơ khai trong quá trình tu tập ở nhân địa đã lập lời nguyện là cho dù có đối mặt với bất cứ vấn đề gì, Ngài đều sẽ không bao giờ sanh lòng sân hận hay thù ghét ai cả. Và kết quả là Ngài đã tạo dựng được cõi Tịnh Độ này và không bao giờ thối chuyển.
Thân của Phật A Súc Bệ có sắc xanh, Ngài ngự ở phương Đông và ngồi trên một cái đài làm bằng tám con voi chúa lớn (bát đại tượng vương). Đức Phật này có thể trừ khử được sân độc - độc tố của sự tức giận - và có thể chuyển hóa thức thứ tám thành Đại Viên Kính Trí. Trong Ngũ Bộ của Chú Lăng Nghiêm, thì ở phía Đông là Kim Cang Bộ. Chú Kim Cang Vương là sử dụng chiết phục pháp, tức là dùng phương pháp thuần hóa và chế ngự. Việc ưu tiên hàng đầu và tối quan trọng của những người tu hành là hàng phục và kiềm chế được phiền não hiện hành của chính mình, chứ không phải đi chiết phục người khác.
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật . Ngài làm thế nào để tiêu tai tăng thọ ? Chúng ta niệm Ngài thì cuối cùng chúng ta sẽ được tiêu tai tăng thọ hay Phật Dược Sư tiêu tai tăng thọ ? Ðây chứng minh là chúng ta niệm thì chúng ta sẽ được tiêu tai tăng thọ, vậy là chúng ta niệm để muốn tiêu tai tăng thọ, thì đó là một thứ tâm tham, lại có một thứ tâm mong cầu cho mình, lại chấp trước tướng, phàm có hình tướng thì đều là hư vọng, phải hiển xuất tướng ở bên trong. Vậy chúng ta niệm Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, hy vọng chính mình tiêu tai tăng thọ, đây tức là tâm tham và tâm ích kỷ. Quý vị thấy nói như vậy có đúng không ? Vậy tiêu tai tăng thọ này là ai ? Cũng không phải Phật Dược Sư tiêu tai tăng thọ, cũng không phải chính chúng ta tiêu tai tăng thọ. Chính chúng ta không có tai nan, thi tiêu tai gì ? Tăng thọ gì ? Cũng chẳng phải nói, tôi không niệm Phật Dược Sư, thì bây giờ tôi sẽ chết, cần phải tăng thọ, cần phải tiêu tai, đây thật là mê tín. Vậy chúng ta tiêu tai tăng thọ cho ai ? Cho tất cả chúng sanh có tai nạn, thậm chí cho những chúng sanh sắp mạng chung. Chúng ta niệm tiêu tai tăng thọ Dược Sư Phật để hồi hướng cho họ. Ðây chính là nghĩa rộng, không phải là nghĩa hẹp. Quý vị nghĩ xem có phải không? Cho nên chúng ta niệm Phật, nhất cử nhất động tu hành, đều phải hiểu được lý luận chân chánh, đừng mù quáng chay theo như thế, người ta nói thi nói theo, họ nói như thế này, thì tôi cũng nói như thế này, họ nói như thế kia, thi tôi cũng nói như thế kia, giống như ngọn cỏ, gió thổi hướng nào thì ngả theo hướng đó. Chúng ta học Phật phải có trí huệ chân chánh, trí huệ chân chánh không phải la chỉ nói và cũng không phải là nhìn thấy mọi người không đúng, phải chú trọng lý luận, nghiên cứu lý luận rõ ràng. Chúng ta niệm Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật là vì tất cả chúng sanh có tai nạn, vi mạng sống chúng sanh gần kết thúc để niệm, đó mới là lợi ích chúng sanh, mới là hành Bồ Tát Đạo. (Nguồn: Ngũ phương Phật - Vạn Phật Thánh Thành)
+ Phật phương Đông: Vị Phật thứ hai ở phương Đông là A Súc Bệ Phật, cũng còn gọi là Bất Động Phật, Vô Sân Khuể Phật, Vô Nộ Phật, hoặc Bất Động Như Lai. Trong Kinh Hoa Nghiêm có đặc biệt đề cập rằng:
“Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai.”
(Khi một niệm tức giận dấy lên,
thì trăm vạn cửa chướng ngại sẽ mở ra.)
Chỉ với cái tâm không sân hận thì người ta mới có thể không khởi lên ý niệm ám hại người khác khi phải đối đầu với nghịch cảnh.
Đức Phật A Súc Bệ từ buổi sơ khai trong quá trình tu tập ở nhân địa đã lập lời nguyện rằng: Cho dù có đối mặt với bất cứ vấn đề gì, Ngài đều sẽ không bao giờ sanh lòng sân hận hay thù ghét ai cả. Và kết quả là Ngài đã tạo dựng được cõi tịnh độ này và không bao giờ thối chuyển.
Thân của Phật A Súc Bệ có sắc xanh, Ngài ngự ở phương Đông và ngồi trên một cái đài làm bằng tám con voi chúa lớn (bát đại tượng vương). Đức Phật này có thể trừ khử được sân độc–độc tố của sự tức giận–và có thể chuyển hóa thức thứ tám thành Đại Viên Kính Trí. Cư sĩ Duy Ma Cật vốn đến từ thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông. Trong Ngũ Bộ của Chú Lăng Nghiêm, thì ở phía Đông là Kim Cang Bộ. Kim Cang Vương Chú là sử dụng chiết phục pháp, tức là dùng phương pháp thuần hóa và chế ngự. Việc ưu tiên hàng đầu và tối quan trọng của những người tu hành là hàng phục và kiềm chế được phiền não hiện hành của chính mình, chứ không phải đi chiết phục người khác. (Nguồn: Phật Dược Sư - HT Tuyên Hóa)
+ Phải quán cả thật giả - Quán trời đất:
Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Quán trời đất, nghĩ là chẳng phải thường; quán thế giới, nghĩ là chẳng phải thường; quán linh-giác tức là Bồ-đề; hiểu được như thế thời đắc Đạo rất chóng vậy."
Lược giảng:
Trong chương thứ mười chín này, Đức Phật dạy chúng ta nên quán tưởng đạo lý "nhất thiết duy tâm tạo (tất cả đều do tâm)," đồng thời cần phải gạt bỏ mọi sự giả dối, chỉ giữ gìn chân thật. Trời thì ở trên bao trùm lấy chúng ta, đất thì ở dưới nâng đỡ chúng ta. Đối với kẻ phàm phu thì trời và đất đều "thường trụ, bất hoại." Thật ra, trời và đất cũng có sự "thay cũ đổi mới," chứ không phải là hằng thường, bất biến.
Đức Phật dạy: "Quán trời đất, nghĩ là chẳng phải thường." Quán sát trời và đất, quý vị sẽ thấy rằng trong trời đất có khi lạnh, khi nóng - lạnh đến, nóng đi - và có sự tuần hoàn của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Trên mặt đất thì có núi, có sông; và cả núi lẫn sông cũng đều hỗ tương biến thiên, dời đổi, chứ không phải là cố định. Những hiện tượng ấy nói lên pháp sanh diệt, chứ không phải pháp bất sanh diệt trong tâm. Do đó, Đức Phật dạy chúng ta hãy nên nghĩ tới sự vô thường của trời và đất.
"Quán thế giới, nghĩ là chẳng phải thường." "Thế" có nghĩa là "thiên lưu," tức là biến thiên, đổi dời. "Giới" có nghĩa là "phương vị," tức là phương hướng và vị trí. Thế và giới - thời gian và nơi chốn - cũng có sanh có diệt, và cũng không phải là thường trụ, bất hoại. Cho nên, Đức Phật dạy chúng ta hãy nghĩ đến sự vô thường của thế giới.
"Quán linh-giác là Bồ-đề." Quý vị hãy quán tưởng cái linh tánh giác ngộ, sáng láng - linh minh giác tánh - của chính mình là tánh Bồ-đề.
"Hiểu được như thế thời đắc Đạo rất chóng vậy." Nếu quý vị có thể nghiên cứu như thế, nhận thức được như thế, biết rõ được như thế, thì sẽ đắc Đạo rất nhanh. Vì quý vị hiểu được đạo lý này nên quý vị sẽ đắc đạo. Nếu không lãnh hội được đạo lý này thì chẳng thể nào đắc Đạo được! (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
185. VÌ SAO CÓ SÔNG NGÒI?
Vì mặt trời mặt trăng có độ nóng. Do độ nóng này mà có nung đốt. Do có nung đốt nên có mồ hôi. Do mồ hôi mà thành sông ngòi. Do đó thế gian có sông ngòi. (Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
187. VÌ SAO MẶT TRĂNG CÓ BÓNG ĐEN?
Do bóng cây Diêm phù in vào trong mặt trăng, nên mặt trăng có bóng. (Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
188. VÌ SAO MẶT TRĂNG KHUYẾT?
Vì duyên gì mà cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít? Có ba nhân duyên nên cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít:
Mặt trăng phát xuất từ phương góc.
Trong cung điện mặt trăng có các đại thần đều mặc y phục màu xanh, theo thứ tự mà lên, trú xứ cũng trở thành xanh, cho nên mặt trăng bị tổn giảm.
Cung điện mặt trời có sáu mươi tia sáng, tia sáng này chiếu vào cung điện mặt trăng, ánh chiếu khiến cho không hiện, do đó nơi có ánh chiếu, nơi ấy của mặt trăng bị tổn giảm. (Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
189. VÌ SAO MẶT TRĂNG TRÒN DẦN?
Lại nữa, vì duyên gì mà ánh sáng cung điện mặt trăng đầy dần? Có ba nhân duyên khiến cho ánh sáng mặt trăng đầy dần:
Mặt trăng hướng về phương vị chánh cho nên ánh sáng mặt trăng đầy.
Các thần cung điện mặt trăng hết thảy đều mặt y phục màu xanh, và Thiên tử mặt Trăng vào ngày rằm ngồi vào giữa, cùng nhau hưởng lạc, ánh sáng chiếu khắp, lấn át ánh sáng chư thiên, nên ánh sáng đầy khắp. Giống như bó đuốc lớn được đốt lên trong đám đèn đuốc, sẽ át hẳn ánh sáng các ngọn đèn. Thiên tử mặt trăng cũng lại như vậy. Vào ngày rằm, ở giữa chúng chư thiên, át hẳn tất cả các ánh sáng khác, chỉ có ánh sáng của ông độc chiếu, cũng như vậy.
Thiên tử mặt trời tuy đã có 60 tia sáng chiếu soi cung điện mặt trăng, nhưng trong vào ngày rằm, thiên tử mặt trăng cũng có thể dùng ánh sáng chiếu nghịch lại, khiến cho nó không thể che khuất được. (Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
190. VÌ SAO MẶT TRỜI NÓNG?
Vì duyên gì nên ánh sáng mặt trời nóng bức? Có mười nhân duyên:
1) Ngoài núi Tu-di có núi Khư-đà-la cao bốn vạn hai nghìn do-tuần, rộng bốn vạn hai nghìn do-tuần, biên núi không ước lượng được; núi được tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
2) Bên ngoài núi Khư-đà-la có núi Y-sa-đà cao hai vạn một nghìn do-tuần, rộng cũng hai vạn một nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi ánh sáng chiếu đến núi này, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
3) Bên ngoài núi Y-sa-đà có núi Thọ-đề-đà-la, bên trên cao một vạn hai nghìn do-tuần, rộng một vạn hai nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
4) Ở ngoài cách núi Thọ-đề-đa-la không xa có núi gọi là Thiện kiến, cao sáu nghìn do-tuần, rộng sáu nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt.
5) Ở ngoài núi Thiện kiến có núi Mã tự cao ba nghìn do-tuần, ngang rộng cũng ba nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt.
6) Ở ngoài cách núi Mã tự không xa có núi Ni-di-đà-la, cao một nghìn hai trăm do-tuần, rộng một nghìn hai trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt.
7) Ở ngoài cách núi Ni-di-đà-la không xa có núi Điều phục, cao sáu trăm do-tuần, rộng cũng sáu trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi áng sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt.
8) Ở ngoài núi Điều phục có núi Kim cương luân, cao ba trăm do-tuần, rộng ba trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát ra nhiệt.
9) Bên trên một vạn do-tuần có cung điện Trời gọi là Tinh tú, tạo thành bởi lưu ly. Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào nó, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
10) Ánh sáng cung điện mặt trời chiếu xuống đại địa, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
(Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
+ Nguồn các mục trên: TH Lời Phật dậy - Kinh Trường A Hàm
Nhãn thông vũ trụ (cosmic sight): Loại nhãn thông này có bản chất không thể hình dung được (inconceivable) đối với con người và tiêu biểu cho nhận thức của các Đấng đang biểu lộ xuyên qua một hệ thống hành tinh trong một Thái Dương Hệ giống như con người biểu lộ xuyên qua các thể của mình. (ASCLH, 69–70)
+ Thái Dương Thượng Đế - Một Đấng Vũ Trụ Vĩ Đại, Ngài lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian là một Thái Dương Hệ. Tức Thái dương hệ là biểu lộ của năng lượng và sự sống của Thái Dương Thượng Đế (LVLCK, 29).
- Thái Dương Thượng Đế tức là Đại vũ trụ. (LVLCK, 69)
- Một Thái Dương Thượng Đế có hiện thể là bảy hệ thống hành tinh, có không gian là ba cõi vũ trụ. (LVLCK, 293)
+ Đấng Cao Cả này mà chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế, không mang ý nghĩa như Thượng Đế nhân hình (personal God) của Cơ Đốc giáo, vị Thượng Đế sau này chính là con người không hơn không kém, đã phát triển thành một Đấng có huyền năng khủng khiếp, và lệ thuộc vào các đức tính cùng là tật xấu của chính con người. Thái Dương Thượng Đế vượt lên trên con người, vì Ngài là toàn thể mọi cuộc tiến hoá trong toàn bộ Thái dương hệ, kể cả con người, đó là một cuộc tiến hoá nằm ở điểm giữa có liên quan với các cuộc tiến hoá khác. Về một phương diện, Ngài được sắp vào số các Đấng vượt trên con người, và trong thiên kiếp (kalpa) vừa qua, Ngài đã đạt được và vượt quá trình độ của con người hiện giờ; (LVLCK, 241)
+ I. Đức Thái dương Thượng đế (The Solar Logos)
Đấng chủ quản thái dưong hệ của chúng ta là đức Thái dương Thượng đế (Solar Logos), đấng cao cả nhất mà con người trong thái dưong hệ này có thể hình dung được. Ngài là đấng bao gồm tất cả các thiên thần, nhân loại và mọi giới loài trong vòng biểu lộ giới hạn của Ngài. Tất cả sống, hiện hữu, và chuyển động trong Ngài như câu thuật ngữ huyền linh học hay dùng là “In Him we live, move, and have our being”. Đức DK gọi Ngài là the Grand Heavenly Man hay The Grand Man of the Heaven, đấng Thiên Nhân vĩ đại. Sau đây là đoạn trích dịch trong A Treatise on Cosmic Fire nói về Ngài:
[1] Đức Thái Dương Thượng Đế, đấng Thiên Nhân Vĩ đại, cũng có hình thể hình cầu.
[1] Vòng giới hạn của Ngài bao gồm toàn thể chu vi của Thái dương hệ và tất cả trong phạm vi ảnh hưởng của Mặt Trời.
[2] Mặt Trời giữ một vị trí tương tự như hạt nhân của sự sống ở tâm nguyên tử. Hình cầu này bao gồm trong chu vi của nó 7 dãy hành tinh cùng với 3 dãy tổng hợp, tạo thành số 10 của sự hiển lộ của Thượng Đế.
[3] Mặt Trời là thể hồng trần của Thái Dương Thượng Đế, là thể biểu lộ của Ngài, và sự sống của Ngài quét qua 7 hệ thống tiến hoá theo chu kỳ trong cùng ý nghĩa như sự sống của một Hành Tinh Thượng Đế quét 7 lần xung quanh hệ thống 7 dãy hành tinh của Ngài. (Trong quyển Cosmic Fire, Ngài / Đức D.K xem mặt trời tương ứng với luân xa đáy cột sống trong con người).
[4] Mỗi dãy giữ một vị trí tương tự như một bầu trong một dãy hành tinh. Các bạn hãy lưu ý vẻ đẹp trong sự tương đồng này, tuy nhiên vẫn thiếu sự tương đồng trong chi tiết. [5] (GLBN I, 136).
Thêm vào đó, nếu đức DK nói rằng sự sống của một Hành Tinh Thượng Đế quét 7 lần xung quanh hệ thống 7 dãy hành tinh của Ngài thì điều đó hàm ý rằng bảy dãy hành tinh của một hệ hành tinh tồn tại đồng thời nhau, chứ không phải nối tiếp nhau trong thời gian như Thông Thiên Học giảng dạy.
[5] Ngài nói rằng giữa dãy hành tinh, hệ hành tinh, thái dương hệ … có một sự tương đồng. Điều này tạo nên vẻ đẹp của toàn thể. Câu cách ngôn huyền bí thường được nhắc đến là “As above, so below”, “trên sao, dưới vậy” … và đó là cách mà con người có thể học hỏi về những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên Ngài cũng lưu ý tuy có sự tương đồng, nhưng đó là sự tương đồng trong những nết chính yếu, chứ chúng ta không nên tìm kiếm sự tương đồng trong toàn bộ các chi tiết. (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 8 - Thông Thiên Học)
Một Thái Dương Thượng Đế chứa đựng trong chính Ngài tất cả các nhóm của mỗi loài, từ hồn nhóm giáng hạ tiến hoá, đến các nhóm Chân ngã trên cõi trí như là các nguyên tử trong thể biểu lộ của Ngài. [6] Ngài có 7 nhóm chính yếu hay 7 Thiên Nhân (Heavenly Men) như là các trung tâm lực của cơ thể Ngài. [7] Các vị này toả ảnh hưởng đến khắp nơi thuộc phạm vi Thượng Đế và các Ngài biểu hiện trong chính các Ngài tất cả các sự sống nhỏ bé hơn, các nhóm thứ yếu, con người và thiên thần, các tế bào, các nguyên tử và phân tử. [8]
Nhìn từ cõi vũ trụ, phạm vi của Thượng Đế có thể được hình dung như một quả cầu lửa đang rung động với ánh sáng huy hoàng, chứa bên trong vòng ảnh hưởng của nó các bầu hành tinh cũng rung động giống như các quả cầu lửa [9]. Đấng Đại Thiên Nhân rung động tới một mức độ ngày càng tăng đều đặn, toàn thể Thái dương hệ nhuốm một màu sắc nào đó, màu của sự sống của Thượng Đế, tức là Cung Thiêng Liêng Duy Nhất; [10] và Thái dương hệ xoay tròn theo một mức độ nào đó vốn là chìa khoá của đại kiếp (great kalpa) hay chu kỳ thái dương (solar cycle), và xoay vòng chung quanh cực thái dương trung ương của nó. [11] Đức DK cho rằng thái dưong hệ quay tròn quanh trục trung ương của nó (central pole). Từ thiên văn học chúng ta biết rằng:
– Mặt trời quay quanh trục của nó một vòng mất 27 ngày
– Toàn thể thái dưong hệ quay quanh trục của nó mất 100.000 năm.
Đức DK nói rằng thái dương hệ của chúng ta hợp cùng với sáu thái dương hệ khác tạo thành một hệ thống lớn hơn, là biểu lộ của đấng cao cả hơn nữa mà Ngài gọi là đấng Thượng Đế Vũ Trụ (Cosmic Logos). Mỗi vị Thái dương Thượng đế lại là một Trung tâm lực trong cơ thể của đức Thượng Đế Vũ Trụ này. (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 9 - Thông Thiên Học)
+ Thượng Đế Tam Phân (LVLCK, 64)
Cha ............... Con ............... Mẹ
Tinh thần ...... Linh hồn ......... Xác thân
Sự Sống ...... Tâm thức........ Sắc tướng
Chân Thần ... Chân ngã ........ Phàm ngã
Linh ngã ...... Thượng ngã ..... Phàm ngã
Tinh thần ...... Biệt ngã…........ Phàm ngã
Điểm .......... Tam nguyên…... Tứ nguyên
Chân thần-T.Dương T.Thần- Nguyệt Tinh Quân
+ Theo Ấn Giáo: (1) Shiva, Ngôi Hủy Diệt và (2) Vishnu, Ngôi Bảo Tồn (Duy trì); (3) Brahma, Ngôi Sáng Tạo, (GLBN III, 313);
+ Thượng Đế tự tam phân 3 Ngôi: Cha - Con - Thánh Thần (CTHNM, 631);
Diễn giải thêm ba ngôi:
- Ngôi Một: Cội Nguồn của Vạn Hữu; (Vô Ngã, Vô hiện, có trước vũ trụ biểu lộ)
- Ngôi Hai (xuất phát từ Ngôi 1): Biểu lộ ra 2 trạng thái là Sự sống và Sắc tướng, Lưỡng nguyên nguyên thủy, tạo thành 2 cực của Thiên Nhiên, mạng lưới vũ trụ được tạo ra giữa 2 cực đó:
Sự sống – Sắc Tướng,
Tinh thần – Vật chất,
Dương – Âm,
Chủ động – Thụ động,
Phụ – Mẫu của các thế giới.
- Ngôi Ba (xuất phát từ Ngôi 2) Toàn Linh Trí, trong đó có tồn tại mọi nghi hình kiểu mẫu, cội nguồn của vạn vật, nguồn mạch của mọi năng lượng tạo hình, kho tàng lưu trữ mọi nguyên hình. (MTNX,45–46)
+ Vũ trụ của chúng ta với hằng hà sa số thiên hà là biểu hiện của Sự Sống đó (Ba Ngôi)
Xem: Tổng hợp các tương ứng của vũ trụ và con người
Xem thêm: Cấu tạo con người 2;
Xem: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ
+ Tiến hóa trong vũ trụ (Evolution in the Universe):
Thực thể Hiện thể Trung tâm lực Không gian Thời gian
Đấng Khôn Lường .. …7 chòm sao .......... Vũ trụ Th. Đế ... 5 cảnh giới (The Unknown)
vũ trụ Một V.trụ Th.Đế ... 7 Th.Dương ............ Thái Dương ..... 4 cảnh giới (A cosmic Logos)
Hệ Thượng Đế vũ trụ Một TDTh.Đế ........ 7 Hành tinh ............ HànhTinh ......... 3 cảnh giới …… Chu (A solar Logos) hệ Thượng Đế vũ trụ kỳ 3 TDH Một HTTh.Đế ........ 7 dãy hành ............ Các Chohans ... 2 cảnh giới ……. Chu (A Heavenly Man) tinh và các nhóm vũ trụ kỳ 1 TDH Một con người ....... 7 trung tâm ............ Một nguyên ...... 1 cảnh giới ……. Chu lực dĩ thái khí vũ trụ kỳ 1 hành (Principle) tinh hệ
Xem chi tiết tại Nguồn: (LVLCK, 293);
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
+ Tinh Tòa Thượng Đế (The Unknown) Tinh Tòa Thượng Đế có hiện thể là bảy tinh tòa, có không gian là năm cõi vũ trụ; có trung tâm lực là Vũ Trụ Thượng Đế. (LVLCK, 293)
+ Toàn Linh thức (Universal soul, linh hồn vũ trụ):
- Toàn linh thức hay là tâm thức của Thượng Đế, Đấng khai sinh ra vũ trụ của chúng ta. (TLHNM I, 57)
- Toàn linh thức tức là Pleroma. (LVLCK, 685)
- Toàn linh thức tức là Atma. (LVLCK, 137)
Vi tử vũ trụ (Cosmic atom): Thái Dương Hệ của chúng ta chỉ là một vi tử vũ trụ. (ĐĐTKNM, 764)
Vũ trụ hiện tượng (Phenomenal universe) tức là vũ trụ hữu hình (visible universe) (GLBN I, 71)
Vũ trụ thức (cosmic consciousness): Xem ra cũng có phần nào khôn ngoan ở đây khi phản bác lại việc dùng từ ngữ “vũ trụ thức”, lý do là không đúng và sai lệch, vì ngay cả vị Thánh sư (Adept) cao cấp nhất (chú ý cẩn thận từ ngữ này) cũng chỉ có được tâm thức thuộc thái dương hệ (solar consciousness) và không có giao tiếp gì với những gì ở ngoài Thái Dương Hệ của chúng ta. Các vị Hành Tinh Thượng Đế (Bảy Tinh Quân trước Thánh Tòa) và các Nghiệp Quả Tinh Quân (“Tứ Luân” – four wheels của Ezekiel) mới có được nhận thức vượt ngoài nhận thức của Thái Dương Hệ chúng ta. Các Đấng ở cấp đẳng thấp hơn có thể cảm nhận được điều đó dưới hình thức một tiềm năng nhưng các Ngài chưa có được một chút kinh nghiệm nào. (ASCLH, 377)
Vũ trụ Đại Phạm Thiên (Cosmic Parabrahman): X. Tiến hóa của một Thái Dương Thượng Đế.
+ Phân biệt cõi giới vũ trụ và Cõi giới Thái dương
1. Bảy Cõi Giới Vũ Trụ của Hệ Thống Vũ Trụ
- Biểu đồ bên phải mô tả Bảy cõi giới vũ trụ của Hệ thống vũ trụ mà chúng ta là một phần trong đó.
- Biểu đồ bên trái mô tả bảy cõi phụ ở dưới đáy 1/7 của Hệ Vũ Trụ - Cõi Hồng Trần Vũ Trụ, là cõi thấp nhất của Bảy cõi Hệ thống Vũ trụ.
2. Cõi Hồng Trần Vũ Trụ: Bảy cõi Thái dương hay Hệ thống Thái dương.
* Lưu ý: có sự đánh máy nhầm 2 cõi III và IV là Cõi Tinh Thần và Cõi Trực Giác
CÁC CÕI GIỚI - THE PLANES
Cõi Hồng Trần
|
Các Cõi Giới Hệ Thống
|
Các Cõi Giới Vũ Trụ
|
1. Cõi giới nguyên tử
|
Cõi Thiêng Liêng. Adi.
|
Cõi giới nguyên tử
|
Dĩ thái thứ 1
|
Vật chất khởi nguyên
|
Dĩ thái thứ 1
|
2. Hạ nguyên tử
|
Chân Thần. Anupadaka
|
Hạ nguyên tử
|
|
The Akasha
|
Dĩ thái thứ 2
|
|
(Tiên Thiên Ký Ảnh)
|
|
3.Siêu dĩ thái
|
Tinh Thần. Dĩ Thái Atma
|
Dĩ thái thứ 3
|
|
CÕI GIỚI CỦA SỰ HỢP NHẤT HAY ĐẠI ĐỒNG
|
4. Dĩ Thái
|
Trực Giác. Dĩ Thái Bồ Đề
|
Dĩ Thái Vũ Trụ thứ 4
|
|
BA CÕI GIỚI THẤP HƠN
|
5. Khí
|
Tinh Thần. Lửa
|
Chất dĩ thái phụ dạng khí
|
6. Lỏng
|
Astral. Cảm dục
|
Chất Lỏng
|
7. Chất Đặc
|
Cõi hồng trần
|
Chất Đặc
|
* Bảy Cõi Giới Vũ trụ (Từ Trên xuống): (I) Cõi Linh Thiêng Vũ Trụ - (II) Cõi Chân Thần Vũ Trụ - (III) Cõi Tinh Thần Vũ Trụ - (IV) Cõi Bồ Đề Vũ Trụ - (V) Cõi Trí Tuệ Vũ Trụ - (VI) Cõi Cảm Dục Vũ Trụ - (VII) CÕI HỒNG TRẦN VŨ TRỤ/ Cõi Thấp Nhất Của Hệ Thống Vũ Trụ.
* Các Cõi Giới Vũ Trụ: Có thể hiểu là chỉ dùng chung cho tất cả các vũ trụ hình thành từ các Cõi Giới Vũ Trụ/ Hệ Thống Gốc? (TCF - Luận về lửa vũ trụ, Tr 118)
+ BẢY CẢNH GIỚI THÁI DƯƠNG HỆ CHÚNG TA
- Chúng ta luôn chỉ đang xét bảy cảnh giới của cõi thứ 7/ Thấp nhất/ Cõi Hồng Trần Vũ Trụ của Bảy Cõi Giới của Vũ trụ thuộc Hệ thống vũ trụ
+ Một phần bảy của Cõi Thứ Bảy— One seventh of the Seventh (ĐĐTNLVTDH/ IHS 3-4)
Bảy cảnh giới Biểu hiện Thiêng liêng, hay bảy cảnh giới chính của Thái dương hệ chúng ta chỉ là bảy cõi phụ của cảnh [4] giới vũ trụ thấp nhất. Tương tự như vậy, Bảy Cung mà chúng ta rất thường nghe nói, đang rất quan tâm và thấy còn quá nhiều bí ẩn, cũng chỉ là bảy phụ cung của Cung vũ trụ duy nhất. Chính 12 Huyền giai sáng tạo cũng chỉ là các chi nhánh phụ thuộc của Huyền giai vũ trụ duy nhất, tạo thành chỉ một hợp âm trong bản đại hoà tấu vũ trụ. Khi hợp âm vũ trụ này, mà trong đó chúng ta chỉ là một phần rất nhỏ, ngân vang trong sự hoàn thiện tổng hợp, thì chừng đó và chỉ chừng đó chúng ta mới hiểu được các lời trong Thánh thư Job: “Những ngôi sao mai cùng hoà ca.” Hiện nay, sự bất hoà vẫn còn vang rền và sự xung khắc vẫn còn nổi lên từ nhiều thái dương hệ, nhưng qua những chu kỳ lâu dài một sự hài hoà sẽ tuần tự kết thành, rồi sẽ đến ngày mà (nếu chúng ta có thể dùng thời gian để nói về các chu kỳ vĩnh cửu) âm thanh của vũ trụ hoàn thiện sẽ vang dội đến tận những ranh giới ngoài cùng của các chòm sao xa xôi nhất. Bấy giờ người ta sẽ biết được bí nhiệm của “ca khúc phối ngẫu thiêng liêng.” (NguồnP: MF-QUI)
+ Hãy nhớ rằng bảy cõi của chúng ta chỉ là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ. Quá trình phát triển tính nhạy cảm trong sự tiến hóa thất phân này được diễn ra nhằm giúp cho bậc điểm đạo đồ có thể hoạt động trên cõi cảm dục vũ trụ, khi họ thu về hay rút về sau những lần điểm đạo cao hơn. Ngãi rút khỏi tất cả đời sống hành tinh của chúng ta. (TLNM/ EH 449)
+ Bảy cõi/ Cảnh giới Vũ trụ gồm: Thượng Đế - Chân Thần - Atma - Bồ Đề - Trí Tuệ - Cảm Dục - Hồng Trần (Mỗi Cõi chia làm 7 Phân cảnh giới phụ);
Tương ứng 7 Trạng thái: Thượng Đế - Đức Christ - Chân Sư - La Hán - Điểm Đạo Đồ/ Đẹ Tử/ Người chí nguyện - Tiến hóa không ngoan - Xúc Cảm trung bình - Người Sơ khai, chưa tiến hóa; Mỗi Trạng thái tương ứng mức Tâm thức tiến hóa riêng;
- Hiện tại, con người trung bình hoạt động trên 3 cấp bậc của phàm ngã (hồng trần, trung giới, hạ trí), bao gồm 18 nấc thang hay 18 phân cảnh thấp nhất ( 7 phân cảnh giới hồng trần, 7 phân cảnh giới cảm dục, và 4 phân cảnh giới hạ trí).
- Số 7 rất quan trọng; Khi Đấng Tuyệt đối hay Sự Sống Duy nhất biểu lộ, Ngài có 7 cấp bậc hay cảnh giới vũ trụ vĩ đại, là bảy thế giới tâm thức mà Ngài hoạt động trong đó (bảy cấp bậc, hay bảy bước, 7 vòng tròn đồng tâm. Dù xem theo cách nào đi nữa, các cảnh giới không thật sự đúng như vậy mà thật ra xuyên thấu vào nhau. Điều này cũng đúng cho một vũ trụ, một con người; một nguyên tử) (Xem Nguồn)
+ Cõi Cao Thấp hiểu cho đúng: Các bạn cũng lưu ý, khi thể hiện trên hình vẽ hai chiều các cảnh giới được vẽ thứ tự từ cao xuống thấp, cõi trên cùng gọi là cõi cao nhất và cõi hồng trần là cõi thấp nhất. Sự thực thì các cảnh giới xuyên thấu vào nhau, các cõi gọi là “cao” xuyên thấu vào bên trong cõi trọng trược hơn. Chúng ta có thể hình dung điều này phần nào qua một ví dụ ở cõi hồng trần: chất lỏng xuyên thấu qua chất đặc, chất khí lại xuyên thấu qua chất lỏng và đặc. Trên nữa thì chất dĩ thái thứ tư xuyên thấu qua cả ba vật chất đặc, lỏng và khí. Như vậy, do thói quen, chúng ta gọi là cõi giới cao, chứ đúng thực ra phải gọi là cõi giới bên trong (inner plane) hay nội giới. Ông C.W. Leadbeater nói rằng cõi tình cảm hay cõi trung giới xuyên thấu qua cõi trần, và chu vi của nó lớn hơn trái đất rất nhiều. Đường biên của cõi Trung giới của Trái đất chúng ta vươn gần đến mặt trăng.(Nguồn: Các Cảnh giới Thái Dương hệ)
* Ví dụ về yếu tố hoạt động(TTHM, 38):
Ở cõi phụ thứ 3 của cõi trí, các Chân nhân được phân thành nhiều nhóm - tùy theo cung và trình độ tiến hóa. Ở cõi phụ thứ 2, các nhóm hòa hợp lẫn nhau và từ 49 nhóm trở thành 42 nhóm (bằng cách sáp nhập). Tiến trình tổng hợp tóm lược: 
Xem Thuật ngữ: Tổng hợp kiến thức về Các Cõi Giới
* Thái Dương Thượng Đế
- Một Đấng Vũ Trụ Vĩ Đại, Ngài lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian là một Thái Dương Hệ. Tức Thái dương hệ là biểu lộ của năng lượng và sự sống của Thái Dương Thượng Đế.
- Thái Dương hệ này là xác thể hay sắc tướng của Đấng Vũ Trụ và chính Đấng này tam phân.
- Thái Dương hệ tam phân có 3 trạng thái, hay là (theo như Thần học Cơ Đốc giáo) là 3 Ngôi.
a. LỬA ĐIỆN hay TINH THẦN - Ngôi 1: Chúa Cha, Sự Sống. Ý chí. Thiên Ý. Năng lượng dương
b. LỬA THÁI DƯƠNG hay LINH HỒN - Ngôi 2: Chúa Con. Tâm Thức. Bác Ái Minh Triết. Năng lượng thăng bằng.
c. LỬA DO MA SÁT hay Xác Thể hay Vật Chất - Ngôi 3: Chúa Thánh Thần. Sắc tướng. Thông tuệ hoạt động. Năng lượng âm.
- Mỗi Ngôi lại biểu lộ tam phân, do đó tạo ra
a. 9 tiềm lực hay Phân thân.
b. 9 Sephiroth.
c. 9 nguyên nhân Điểm Đạo.
Các Ngôi này, với toàn thể biểu lộ hay Tổng Thể, tạo ra 10 của biểu lộ hoàn hảo hay Con Người hoàn thiện.
- Ba trạng thái của Tổng Thể này hiện diện trong mỗi sắc tướng.
a. Thái dương hệ tam phân, biểu lộ qua ba Ngôi nói trên.
b. Một con người cũng tam phân, biểu lộ thành Tinh Thần, Linh Hồn và Xác thể, hay Chân Thần, Chân Ngã và Phàm Ngã.
c. Nguyên tử của nhà khoa học cũng tam phân, được tạo thành bằng một nhân dương, các âm điện tử và toàn thể sự biểu lộ bên ngoài kết quả của sự liên lạc của hai thành phần kia. - Nguồn: LVLCK, 30
I- Cung "Nguyên Thuỷ/ Cung Gốc Vũ Trụ" là Cung và là phân thân trực tiếp của Tứ Linh Diệu. (Giáo Lý Bí Nhiệm I, 115, 116)
+ Tứ Linh Diệu Của Đại Vũ Trụ là:
1. Nhất Nguyên: Cha - Mahadeva - Thượng Đế Ngôi Một - Ý chí Tinh thần
2. Nhị nguyên: Con - Vishnu - Thượng Đế Ngôi Hai - Bác ái Minh triết
3. Tam Nguyên: Mẹ - Brahma - Thượng Đế Ngôi Ba - Trí tuệ Hoạt động
* Tứ Linh diệu: Biểu lộ hợp nhất của cả ba - Đại vũ trụ (TCF/ LVLVT, 118)
+ Tứ Linh Diệu Của Đại Thiên Địa là: Nhất Nguyên (Unity)
a/ Cha … Mahadeva … Thượng Đế Ngôi Một … Ý chí–Tinh thần (1st Logos) Nhị Nguyên (Duality)
b/ Con … Vishnu … … Thượng Đế Ngôi Hai ….. Bác ái–Minh triết (2nd Logos) Tam nguyên (Trinity)
c/ Mẹ … Brahma … Thượng Đế Ngôi Ba ……. Hoạt động–Trí tuệ (3rd Logos) Tứ Linh Diệu
* Biểu lộ kết hợp (united manifestation) của bộ ba (the three) – Đại Thiên Địa (Macrocosm) (TCF/ LVLCK, 41)
+ Tứ Linh Diệu: Đến lượt mình, con người trở thành một “Tứ Linh Diệu” – Tinh thần và bộ ba biểu lộ (spirit and the three of manifestation). (LVHLT, 75)
+ Tứ linh diệu (Tetraktys): Bộ Ba, được chiếu rọi bởi ánh sáng của Đấng Duy nhất là ba Ngôi của Tam hạ thể (lower Triad), tức thể hạ trí, thể cảm dục và thể xác. Ba thể này cùng với Đấng Soi sáng (Illuminator) tạo thành “Bốn” được nói đến và như thế hiển nhiên trở thành Tứ linh diệu của tiểu thiên địa. (LVLCK, 1000)
II- Tứ nguyên biểu lộ và 7 Đấng Kiến Tạo xuất phát từ Mẹ . (GLBN, 402)
a/ 7 Đấng Kiến Tạo là Trí Tinh Quân, các con sinh ra từ Trí của Brahma, Ngôi Ba. (GLBN III, 540)
b/ Các Ngài biểu lộ để phát triển Ngôi Hai. (GLBN I, 108)
c/ Phương pháp của các Ngài là biểu lộ ra ngoại cảnh.
3. Năng lượng được khơi hoạt lại phóng vào không gian.
a/ Chúng là sự tổng hợp còn ẩn giấu (GLBN I, 362)
b/ Chúng là toàn thể mọi biểu lộ (GLBN I, 470)
c/ Chúng là tiền vũ trụ (GLBN I, 152, 470)
Tinh quân
+ Thượng Đế không biến phân, một Thực Thể Thông Linh Vũ Trụ (LVLCK, 81).
+ Thượng Đế, với biểu lộ 3 Ngôi: a. Tinh Quân Ý Chí Quyền Năng vũ trụ. b. Tinh Quân Bác Ái và Minh Triết vũ trụ. c. Tinh Quân Trí Tuệ Hoạt Động vũ trụ.
- Ba Tinh Quân hay Hỏa Tinh Quân Vũ trụ: Các Thực Thể Thông Linh vũ trụ này là Lửa, trong nguyên thể chính yếu của Ngài. Mỗi vị biểu lộ dưới hình thức lửa theo 3 cách. 3. Thượng Đế 3 ngôi, khi biểu lộ thất phân, nghĩa là 7 vị Hành Tinh Thượng Đế;(LVLCK, 81)
+ Hỏa Tinh Quân - Agni - Hỏa Chơn Linh: Cai quản khắp các hoả tinh linh và hoả thiên thần trên 3 cõi tiến hoá nhân loại là hồng trần, cảm dục và hạ trí, và thống ngự chúng không những trên địa cầu này mà còn trên 3 cõi giới trong mọi phần của Thái dương hệ.
+ Hỏa Tinh Quân Vũ Trụ: Hỏa Tinh Quân - Ngài là 1 trong số 7 Huynh Đệ, mỗi vị tượng trưng cho một trong 7 nguyên khí hay chính các vị là 7 trung tâm lực trong cơ thể của Hoả Tinh Quân vũ trụ mà bà Blavatsky gọi là “Fohat”. Ngài là Đấng Thông Tuệ linh hoạt của lửa, là cơ bản của các lửa bên trong của Thái dương hệ. Mỗi một trong số các Đấng này thống ngự trên mỗi cõi và 3 vị Huynh Trưởng (luôn luôn là 3 vị hiển lộ và sau đó là 7 vị, các Ngài rốt cuộc sẽ phối hợp thành 3 nguyên thuỷ) ngự trị trên cõi 1, 3, và 5 hay là trên cõi Tối Đại Niết Bàn (adi), cõi Niết Bàn (atma) (1) và cõi trí (manas). Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng các Ngài là lửa được xét trong trạng thái thứ 3, tức lửa của vật chất. Bảy đấng này hợp thành tinh hoa của Tinh Quân vũ trụ - Fohat (LVLCK, 85)
+ Cơ Thể Hành Tinh Thượng Đế: Cũng thế (Như 7 Hỏa Tinh Quân hợp thành cơ thể của Hỏa Tinh Quân Vũ trụ), theo cùng nghĩa như là 7 vị Chohans (Một Tinh Quân hay Chân Sư/ Master) với các nhóm môn đồ gắn bó của các Ngài, hợp thành bản thể hay các trung tâm lực trong cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế. Đến phiên các Đấng này (Bảy Hành Tinh Thượng Đế) lại hợp thành bản thể của Thái Dương Thượng Đế (LVLCK, 87)
Xem: Tổng hợp về Hỏa Tinh Quân - Fohat - Năng Lượng
+ Năng lượng (Energy) Đại hay Tiểu vũ trụ: - Tất cả các lực đang tuôn đổ vào hình hài cá biệt từ bất cứ phương hướng và cội nguồn nào. Các tên gọi sutratma, life thread hay silver cord (ngân quang tuyến) thường được dùng để chỉ các năng lượng chính yếu này.(GDTKNM, 143)
- Chúng ta dùng để chỉ hơi thở thiêng liêng hay sự sống. (LVHLT, 152)
- Là lưu chất của sự sống chu lưu khắp cơ thể của Thượng Đế, và làm linh hoạt ngay cả vi tử nhỏ nhất trong tổng thể này. (LVHLT, 364)
+ 10 nguồn tương tác đến nhân loại: Các Cội Nguồn xa xăm, đi vào sự sống hành tinh chúng ta và tạo ra các hiệu quả nhất định lên trên con người cá biệt và nhân loại nói chung, tổng là 10 nguồn: 1. Tinh tòa Đại Hùng (Great Bear, Gấu Lớn). 2. Thất Tỉ Muội (Seven Sisters) của tinh tòa Pleiades. 3. Sirus, the Dog Star (Sao Thiên Cẩu). 4. Bảy thái dương hệ mà thái dương hệ chúng ta là một 5. Bảy hành tinh thánh thiện (Không có địa cầu). 6. Năm hành tinh không thánh thiện hay các hành tinh “ẩn tàng”. 7. Bảy trung tâm hành tinh. 8. Bảy trung tâm lực trong thể dĩ thái con người. 9. Mười hai chòm sao của hoàng đạo, cộng với phát xạ từ chính địa cầu (CTHNM, 22)
+ N.Lượng vòng hoàng đạo, của thái dương hệ và của hành tinh, tác động dưới hình thức lực kích thích hay cản trở tùy theo loại dẫn thể hay khí thể mà chúng tác động vào; bản chất của các dẫn thể này và năng lực của chúng để thu hút, đáp ứng, loại bỏ, tiếp nhận và chuyển hóa đều hoàn toàn tùy thuộc vào mức tiến hóa đã đạt được và cũng tùy thuộc vào tình hình chung của hành tinh và tâm lý đang có trong gia đình nhân loại ở bất cứ thời kỳ đã chọn nào. Nguồn: Chiêm TH nội môn 8
+ Bảy cung NL, mỗi cung có đặc tính chuyển động: Cung 1; 7 - Thẳng; Cung 2; 4; 6 - Xoay vòng; Cung 3; 5 - Zíc zắc, ngừng nghỉ ( Nguồn )
+ Fohat: Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa— Matter and ether are synonymous terms (TCF- Luận về lửa vũ trụ, Tr 118)
Bảy cõi giới chính thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất.
+ Fohat: Là Vũ trụ năng - Năng lượng thiêng liêng - Tư tưởng thiêng liêng hay Năng lượng khi đã biểu lộ trên bất cứ cõi vũ trụ nào. Đó là tác dụng hỗ tương giữa tinh thần và vật chất. 7 biến phân của Fohat là (LVLCK, 59) :
1. Cõi Sự.S thiêng….. Adi……...... Bể lửa
2. Cõi Chân Thần.…Anupadaka.…. Akasha
3. Cõi Tinh thần ..…..Atma…….... Aether
4. Cõi trực giác ...…Bồ đề…… Phong (Air)
5. Cõi Trí tuệ …… ..Trí tuệ…….. Hoả
6. Cõi dục vọng ….Cảm dục…Tinh tú quang
7. Cõi trọng trược.... Hồng trần… Dĩ thái
+ Mô tả khác của 7 biến phân (LVLCK, 43)
1. Cõi Thiêng liêng...Tối Đại Niết Bàn... Bể lửa
2. Cõi Chân Thần- Đại Niết Bàn- Tiên Thiên khí
3. Cõi Tinh Thần ......Niết Bàn ....Hậu thiên khí
4. Cõi Trực Giác … Bồ Đề ........ Không khí
5. Cõi trí …….. Trí tuệ ... ........... Lửa
6. Cõi dục vọng ...Cảm dục... Cảm dục quang
7. Cõi trọng trược...Hồng trần... Dĩ thái (Ether)
Xem: TH Hỏa Tinh Quân - Fohat - Năng Lượng
+ Thể, các thể: Các thể của con người hay các hiện thể biểu lộ được tạo thành bằng các đơn vị năng lượng. Chúng ta gọi các đơn vị năng lượng này là các nguyên tử và các đơn vị nguyên tử này được giữ lại với nhau dưới hình thức thể bằng mãnh lực cố kết của các năng lượng còn mạnh mẽ hơn. Các thể chính là bộ máy đáp ứng. (CTNM, 36).
+ Thể năng lượng: Dùng để chỉ một hình thể có khả năng hoạt động độc lập trong cõi hữu hình và vô hình. (KCVTT, 128)
+ Thể năng lượng (Energy body): Thể năng lượng tức thể dĩ thái. (GDTKNM, 36)
Xem: Năng lượng - Các Lực tuôn đổ vào Hình hài;
Xem: Năng lượng Trí tuệ – Các Cung (1-7) Thể Trí
Xem: TH về Hỏa Tinh Quân - Fohat - Năng Lượng
+ Dĩ thái - Tứ đại: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là phong, hỏa, thủy, địa. (LVLCK, 43)
Dương ..... Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
* Tập trung năng lượng vào các ý tưởng chưa được thực hiện; Có thể là người mơ mộng không thực tế; Khả năng buông xả; Thân thiện nhất trong tất cả các yếu tố; Có thể đánh giá quá cao các khả năng trí tuệ; Cần phải có khoảng cách và tính khách quan để khám phá chính mình.
+ Phong (Air; Không khí): Là biến phân (differentiation) của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi trực giác, cõi Bồ Đề. (LVLCK, 43)
+ Các Dấu hiệu Không khí: Song Tử, Thiên Bình, và Bảo Bình; (Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Giao tiếp. Thông minh. Thích làm việc về mặt tinh thần. Nắm bắt ý tưởng nhanh chóng. Có thể nói hoặc viết hiệu quả. Có quan điểm hợp lý. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ Không khí (Air): Không khí chỉ là chất dĩ thái phức tạp và đã biến phân. (GLBN II, 258)
+ Không Khí hay Không Gian: Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Phật dậy về các Đại và Tứ Đại tương tác)
+ 522. PHONG GIỚI - Thế nào là phong giới? nội phong giới và ngoại phong giới - Đức Phật dậy
Nội phong giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Đó là gió đi lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang, gió co thắt lại, gió như dao cắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, được chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội phong giới.
Ngoại phong giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Nguồn: mục 522- (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ Phong thần - Thần gió: Tối thắng dũng mãnh đại phong thần - Nhà xập cây ngã rất kinh người ... Sân hận chiêu cảm tự trầm luân.
Giảng giải: Tối Thắng là tên của vị phong thần (thần gió). Vị thần này khí lực rất lớn, thường thường muốn tranh thắng, rất mãnh liệt, làm việc rất nhanh. Gió có nhiều loại như gió mát, gió ấm, gió này chẳng hại người, lúc thái bình thịnh thế, khi thì mưa, khi thì gió, thời tiết khí hậu điều hòa.
... Chủ thần gió, có thế lực rất lớn, ra oai rất là lợi hại, nhà cửa phòng ốc đều thổi ngã xập, cây cối trốc gốc, khí lực rất mãnh liệt, cho nên nói : ‘’Tối thắng dũng mãnh đại phong thần.’’ Ai có nóng giận tức là thần gió này trợ giúp. Cho nên nói: ‘’Nhà xập cây ngã rất kinh người.’’
‘’Tam Thiền đều sợ tai nạn này.’’ Lửa thiêu đốt đến cõi trời Sơ Thiền, Nước tràn ngập đến cõi trời Nhị Thiền, Gió thổi tan cõi trời Tam Thiền.
... Nạn gió này làm thế nào mà chiêu lại? ‘’Sân hận cảm chiêu tự trầm luân.’’ Vì làm người thì sự nóng giận quá lớn, tuy nhiên tu phước được sinh về cõi trời, nhưng phải thọ thứ quả báo nạn gió này. Gốc sân hận mà không đoạn trừ thì kết quả phải thọ quả báo nạn gió đó. (Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Phân biệt Phong đại [Gió] với Phong luân - Thành lập khí thế gian nơi Địa cầu:
Phong luân ở dưới cùng,
Bề trên là thủy luân.
Phần nước ở dưới sâu tám ức,
Phần còn lại ngưng kết thành vàng
Thủy luân và kim luân [ Có đường kính mười hai ức - Ba ngàn bốn trăm năm mươi; Chu vi gấp ba lần.]
Giảng: Phong luân - Thể của nó thuộc chất rắn. Giả sử như có một đại Nặc-kiện-na (mahānagna) dùng kim cương ném vào nó thì kim cương sẽ bị vỡ tan mà phong luân vẫn không tổn hoại gì.
Vàng, bạc, các chất báu và đất được cấu tạo như vậy đã kết tụ lại nhờ các thứ gió do nghiệp lực tạo ra; và chúng đã tạo thành núi cũng như các đại châu. (Nguồn: Câu Xá luận - BT Thế Thân)
+ HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CON SỐ - BỘ SỐ HAY NHÓM CÁC SỐ ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG NHÂN LOẠI VÀ DỰ ĐOÁN THIÊN CƠ
I- Ý NGHĨA BỘ SỐ THEO MINH TRIẾT MỚI VỚI NHÂN LOẠI TIẾN HÓA TRONG KHÔNG - THỜI GIAN
+ Bộ số trong Không - Thời gian: ..... Năm bí huyệt với 48 ánh hoa của chúng do đó được tổng hợp thành hoa sen có 2 cánh hoa, và khi đó chúng ta có 48 cộng với 2 bằng 50, con số của phàm-ngã hoàn thiện, vì 5 là con số của người và 10 là con số của sự hoàn hảo. Cũng về mặt biểu tượng, nếu tổng số của 48 cánh hoa của 5 bí huyệt được thêm vào 96 cánh hoa của bí huyệt giữa hai lông mày, số 144 hiện ra. Con số này có nghĩa công việc được hoàn thành của 12 Huyền Giai sáng tạo, 12 lần 12 và do đó tập hợp linh hồn chủ quan và thể xác khách quan trong sự hợp nhất và sự nhất-quán hoàn hảo. Đây là viên mãn. Số 144 cộng với các con số này, tức số 1000 (số cánh hoa trong hoa sen của bí huyệt đầu), và bạn có số của những người được cứu trong Sách Khải Huyền (Book of Revelations), 144.000 người có thể đứng trước mặt Thượng Đế, vì ba con số không (000 − ciphers) được tìm thấy ngụ ý cho phàm-ngã. Khi con người đã hoàn thành nơi y công việc vĩ đại, khi số 144.000 được xem như tượng trưng cho mức độ thành tựu của y, bấy giờ y có thể đứng trước Thượng Đế − bấy giờ không chỉ trước khi Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục (Angel of the Presence) mà là trước chính Bản Lai Diện Mục (Presence Itself). (LVHLT, 200)
+ Số 3: Bản chất là 3 x 3 = 9. Như vậy 9 có bản chất cấp 3 (LVLCK, 1165). Cũng theo LVLCK, Ba cung gốc tự phân thân, mỗi cung làm 3 loại năng lượng => Có 3 nhóm, mỗi nhóm có 9 năng lượng;
+ Bộ số 666 - 777 - 888: Không hề có sự cố định về thời gian tạm ngưng, đó chỉ là vấn đề nhu cầu của linh hồn mà thôi; (VLH, 199)
+ Người ta cho rằng bí nhiệm ẩn tàng trong 777 lần luân hồi. Con số này đem lại cơ hội cho nhiều suy gẫm. Cần nói rõ rằng đó không phải là con số chu kỳ luân hồi mà con người phải vượt qua nhưng nó nắm giữ chìa khóa cho 3 chu kỳ chính đã nói trước (chu kỳ của Chân Thần, chu kỳ của Chân Ngã, và chu kỳ của Phàm ngã –ND). Trước tiên, con số này áp dụng cho Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống hành tinh chúng ta chứ không phải cho các hành tinh hệ khác. Mỗi Đức Hành Tinh Thượng Đế có con số của Ngài, còn con số của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta ẩn giấu trong 3 con số nói trên, cũng như 666 và 888 nắm giữ cái huyền bí được che giấu của hai Đức Hành Tinh Thượng Đế khác. Số 777 này cũng là số chuyển hóa, vốn là công việc căn bản của tất cả các Hành.
II- Ý NGHĨA BỘ SỐ THEO PHẬT GIÁO VỚI NHÂN LOẠI TIẾN HÓA TRONG KHÔNG - THỜI GIAN
Bắt đầu từ một. Có một thì sau này mới có hai. Có hai rồi lại có ba, có bốn, có năm, cho đến vô số trăm ngàn, muôn vạn v.v..., đều từ một mà phát xuất ra. Vì vậy, một là vô số, vô số là một. Nếu không có một thì không có vô số. Nếu không có vô số thì không có một. Vì tôi biết rằng con số trong toán học bắt đầu bằng số một. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
III- Ý NGHĨA BỘ SỐ THEO DỊCH HỌC VỚI NHÂN LOẠI TIẾN HÓA TRONG KHÔNG - THỜI GIAN
Xem thêm sự biểu lộ vũ trụ qua con số và phân thân: Hư Không - Thái cực - lương nghi
+ 5. Linh hồn của vũ trụ − với mục đích làm sáng tỏ – có thể biến phân, hay đúng hơn là (do các giới hạn của hình hài mà linh hồn phải hoạt động qua đó) có khả năng nhận biết ở các mức độ rung động khác nhau và các giai đoạn phát triển khác nhau. Do đó bản chất linh hồn trong vũ trụ biểu lộ trong một vài trạng thái hiểu biết lớn lao với nhiều điều kiện chuyển tiếp, mà đa số các trạng thái có thể được liệt kê như sau:
a/ Tâm thức (consciousness), hay trạng thái hiểu biết trong chính vật chất, do bởi sự kiện là Mẹ-Vật Chất đã được làm cho phong phú bởi Cha-Tinh Thần và như thế sự sống và vật chất được mang lại với nhau. Loại tâm thức này liên quan tới nguyên tử, phân tử và tế bào mà mọi hình hài được tạo nên từ đó. Theo đó, hình tướng của thái-dương-hệ, của một hành tinh và của tất cả những gì được tìm thấy ở trên hoặc ở trong một hành tinh được tạo nên.
b/ Tâm thức cảm thụ thông minh (Intelligent sentient consciousness), tức là tâm thức được biểu lộ (evidenced) trong giới khoáng chất và giới thực vật. Chính tâm thức này chịu trách nhiệm đối với tính chất, hình dạng (shape) và sắc thái (colouring) của hình hài thực vật và hình hài khoáng chất, và đối với các bản chất đặc thù của chúng nữa.
c/ Tâm thức động vật (Animal consciousness), việc ý thức về sự đáp ứng của linh hồn của mọi hình hài trong giới động vật, tạo ra các sự khác nhau của chúng, tức là loài và bản tính của chúng.
d/ Tâm thức con người hay ngã thức (Human conscious- ness or self-consciousness) mà sự phát triển của sự sống, sắc tướng và ý thức trong ba giới kia đã từ từ hướng đến đó. Thuật ngữ này liên quan đến tâm thức cá nhân của con người; và trong các giai đoạn ban đầu thiên về thú tính hơn là thiên tính, do bởi sự khống chế của thể xác động vật (animal body) với các bản năng và các khuynh hướng của nó. H.P.B. định nghĩa con người một cách chính xác là: “một con vật (an animal) cộng với một Thượng Đế”. Về sau nó mới có tính người nhiều hơn, không thuần túy con vật, cũng không hoàn toàn thiêng liêng, mà dao động giữa hai mức độ, do đó làm cho giới nhân loại thành bãi chiến trường lớn giữa các cặp đối ứng, giữa sự thôi thúc hay sự lôi kéo của tinh thần, và sự cám dỗ của vật chất hay mẹ-thiên nhiên (mother-nature), và giữa cái gọi là phàm ngã với con người tâm linh.
e/ Tập thể thức (group consciousness), vốn là tâm thức của các tổng thể vĩ đại, mà con người đạt tới qua sự phát triển, trước tiên là tâm thức cá nhân của y, tức là toàn bộ các kiếp sống của các bản chất động vật, tình cảm và trí tuệ của y, cộng với tia sáng thiêng liêng ngự trong hình hài mà các bản chất đó tạo ra. Rồi đến ý thức về nhóm của y, như được định rõ cho y trong nhóm các đệ tử, hoạt động dưới quyền một Đức Thầy nào đó, đại diện cho Thánh Đoàn đối với y. Thánh Đoàn (Hierarchy) có thể được định nghĩa như là tổng thể những người con của nhân loại không còn bị tập trung vào ngã thức đã biệt ngã hóa nữa (individualised selfconsciousness), mà các Ngài đã nhập vào một sự nhận thức rộng lớn hơn, tức là nhận thức về sự sống tập thể của hành tinh. Có nhiều giai đoạn trong nhận thức này, tăng lên đủ mức độ, từ nhận thức tập thể nhỏ bé của đệ tử dự bị, lên đến nhận thức tập thể đã hoàn tất của sự sống mà trong Ngài mọi hình tướng đều hiện tồn, tức tâm thức của Hành Tinh Thượng Đế, “vị Tinh Quân trước Thiên Tòa”, Đấng đang biểu lộ qua hình tướng của một hành tinh, giống như con người biểu lộ qua hình hài của mình trong giới nhân loại.
- Do đó linh hồn có thể được xem như khả năng tri giác hợp nhất (unified sentiency) và ý thức tương đối của những gì ẩn sau hình hài của một hành tinh và của một thái-dươnghệ. Những cái sau này (hành tinh và thái dương hệ) là toàn bộ của mọi hình hài, hữu cơ hoặc vô cơ (organic or inorganic, có tổ chức hoặc không tổ chức) như người theo thuyết duy vật phân biệt chúng. Mặc dù linh hồn tạo thành một tổng thể lớn, tuy thế nó vẫn bị giới hạn trong sự biểu lộ của nó, bởi bản thể và tính chất của hình tướng mà nó ngự trong đó, và do đó, có những hình hài có tính đáp ứng cao với linh hồn và biểu hiện cho linh hồn, còn các hình hài khác – do sự trọng trược của chúng và tính chất của các nguyên tử mà chúng được tạo thành từ đó – lại không thể nhận biết các trạng thái cao siêu của linh hồn, hoặc không thể diễn đạt nhiều hơn so với mức rung động thấp của nó, âm điệu hoặc sắc thái của nó. Cái vô cùng nhỏ được nhận biết, cái vô cùng lớn được thừa nhận; nhưng cho đến nay nó vẫn còn là một khái niệm, cho đến lúc mà tâm thức con người có tính bao gồm (inclusive), cũng như tính có chọn lọc (exclusive). Khái niệm này sẽ được hiểu rõ khi trạng thái thứ hai được tiếp xúc và con người hiểu được bản chất của linh hồn. Cũng cần phải nhớ rằng cũng như tam bộ căn bản của sự biểu lộ được thể hiện một cách tượng trưng trong con người dưới hình thức chỉ số năng lượng (năng lượng vật chất), hệ thần kinh và khối lượng cơ thể (body mass) của y, cũng thế, linh hồn cũng có thể được biết như là một tam bộ, tức là các tương ứng cao của tam bộ thấp.
Trước hết, có một điều có thể được gọi là ý chí tinh thần (spiritual will), − đó là một phần (quota) của ý chí đại đồng (universal will) mà bất cứ một linh hồn nào cũng có thể biểu hiện, và thích hợp với mục tiêu của việc khiến cho con người tâm linh (spiritual man, chân nhân) hợp tác theo kế hoạch và mục tiêu của sự sống vĩ đại mà trong đó chân nhân đang hiện hữu. Cũng có tính chất thứ hai của linh hồn là bác ái tinh thần (spiritual love), tức là tính chất của tập thể thức, của tính bao gồm, của tình trạng trung gian, của sự thu hút và của sự hợp nhất. Đây là đặc tính cao nhất của linh hồn, vì chỉ linh hồn mới có nó như là nhân tố năng động. Tinh thần hay Chân Thần trước tiên là biểu hiện của ý chí, với bác ái và sự thông tuệ như là các nguyên khí phụ, còn bản thể con người, tức phàm ngã, được phân biệt trước tiên bằng sự thông tuệ, nhưng linh hồn, một cách rất đặc biệt, có tính chất bác ái vốn cũng thể hiện dưới hình thức minh triết khi sự thông tuệ của phàm ngã được hòa nhập với bác ái của linh hồn.
Bảng sau đây có thể giúp làm cho ý tưởng rõ ràng hơn. (LVHLT, 38-40)
Chân Thần ........ Ý Chí ............. Mục Tiêu
Ngôi Một ....... Ý Chí, giúp cho Chân Thần tham dự vào mục (1st Aspect) tiêu đại đồng (universal purpose).
Ngôi Hai ........ Bác Ái, năng lượng được tuôn đổ vào linh (2nd Aspect) hồn, làm cho linh hồn có bản chất riêng biệt.
Ngôi Ba .......... Sự Thông Tuệ, được truyền qua linh hồn và (3rd Aspect) được đưa vào biểu lộ qua trung gian xác thân.
Linh Hồn .......... Bác Ái .......... Phương Pháp
Ngôi Một .... Ý Chí, tạm thời chưa hoạt động nhưng tự
biểu hiện qua trạng thái trí tuệ của phàm ngã và qua Kundalini, luồng hỏa này khi được đánh thức đúng đắn, sẽ làm cho các cuộc điểm đạo cuối cùng có thể đi vào tâm thức của Chân Thần.
Ngôi Hai .... Bác Ái, thần lực chủ đạo của sự sống linh hồn; qua việc sở hữu này và loại năng lượng này, linh hồn có thể đồng cảm với mọi linh hồn. Qua thể tình cảm, linh hồn có thể tiếp xúc với mọi linh hồn động vật hay mọi linh hồn dưới nhân loại (animal or subhuman souls); qua hoạt động của linh hồn trên cõi riêng của nó, linh hồn có thể tiếp xúc với các linh hồn của tất cả những người đang thiền định; và qua nguyên khí bồ đề, linh hồn có thể tiếp xúc với trạng thái thứ hai của Chân Thần.
Ngôi Ba .... Tri thức. Trạng thái này được đưa vào tiếp xúc với sự thông tuệ của mọi tế bào trong cơ cấu tam phân của cơ thể.
Nhờ nghiên cứu kỹ đoạn nói trên, sự việc trở nên rõ ràng là bằng cách nào linh hồn hoạt động như là tác nhân trung gian giữa Chân Thần với phàm ngã.
Phàm ngã che giấu trong chính nó, như cái hộp che giấu viên ngọc, điểm ánh sáng đó của linh hồn mà chúng ta gọi là ánh sáng trong đầu. Điểm này nằm bên trong não bộ, và chỉ được khám phá và sau đó được sử dụng khi trạng thái cao nhất của phàm ngã, tức thể trí, được phát triển và hoạt động.
Kế đó sự hợp nhất với linh hồn được thực hiện và linh hồn hoạt động qua bản chất phàm ngã.
+ Các định luật của vũ trụ (Cosmic Laws) chỉ là các cách biểu hiện, các xung lực của sự sống và đường lối hiện tồn hay hoạt động của Đấng mà trong Ngài chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn. Sau rốt, không có việc né tránh các định luật này, và không có việc khước từ chúng vì chúng ta mãi mãi hoạt động theo chúng, và chúng chi phối, kềm chế (theo quan điểm của Hiện Tại Vĩnh Hằng) tất cả những gì xảy ra trong thời gian và không gian. Các định luật đều có tính chất huyền linh và cơ bản. (CVĐĐ, 25)
a/ Nguyên Lý Cơ Bản II. Có một nguyên lý cơ bản được gọi là Định Luật Tuần Hoàn
1. Định Luật này chi phối tất cả các biểu hiện, dù đó là biểu hiện của một Thái Dương Thượng Đế thông qua trung gian một thái dương hệ [Trang 6], hay là biểu hiện của con người thông qua trung gian một hình thể. Tương tự, Định luật này cũng điều khiển tất cả các vương quốc trong tự nhiên.
+ Có Ba Định Luật Vũ Trụ được kết nối với Định luật này (6)
a. Định luật Tiết Kiệm ..... định luật thống trị vật chất, phương diện thứ ba.
b. Định Luật Hấp Dẫn… định luật thống trị linh hồn, phương diện thứ hai.
c. Định Luật Tổng Hợp.... định luật thống trị tinh thần, hay phương diện thứ nhất.
b/ Nguyên Lý Cơ Bản II - Nhưng Dịch thuật khác về ĐL Hấp dẫn (LVLCK, 219):
+ Có ba định luật căn bản vũ trụ, thuộc về hệ thống vĩ đại hơn (đã được tất cả các nhà thiên văn học nhận biết), mà chúng ta là một phần trong đó, và 7 định luật có sẵn trong Thái Dương Hệ. Bảy Định luật này có thể xem như là phụ, mặc dù theo quan điểm nhân loại, chúng xuất hiện như là những định luật chính, 3 Đ.Luật đó gồm:
1– Định luật Tổng hợp (Law of Synthesis): Đó là định luật chứng minh sự kiện rằng tất cả mọi vật – trừu tượng và cụ thể – hiện hữu như là một; đó là định luật chi phối hình tư tưởng của Đấng Duy Nhất (One) trong số các Vũ trụ Thượng Đế (Cosmic Logoi) mà Thái Dương Hệ của chúng ta lẫn trung tâm vĩ đại của chúng ta là một phần trong tâm thức của Ngài.
2– Định luật Hút và Đẩy/ ĐL Hấp dẫn (Law of Attraction and Repulsion): Về căn bản, định luật này diễn tả lực hút cần có để giữ cho Thái Dương Hệ chúng ta không thay đổi đối với Thái Dương Hệ Sirius, giữ cho hành tinh chúng ta quay chung quanh mặt trời của chúng ta, giữ cho các hệ thống nhỏ của chất liệu phân tử và nguyên tử luân lưu quanh một trung tâm trong hành tinh, và giữ cho vật chất của mọi thể ở cõi trần và vật chất của các thể tinh anh phối kết quanh trung tâm tiểu vũ trụ của chúng.
3– Định luật Tiết Kiệm (Law of Economy): Định luật này điều chỉnh tất cả những gì liên quan đến sự tiến hóa vật chất và tinh thần của vũ trụ cho có lợi nhất và với việc tiêu phí thần lực ít nhất.
* Bốn Định luật phụ của Định Luật Tiết Kiệm hay Vật Chất là:
42.3.1- Định luật Rung Động (Law of Vibration):
Liên quan với chủ âm hay mức độ (measure) của vật chất của mỗi cõi. Nhờ biết được định luật này mà vật chất của bất cứ cõi nào trong bảy biến phân của nó cũng có thể được kiểm soát.
42.3.2- Định luật Thích Nghi (Law of Adaption):
Là định luật chi phối chuyển động quay của bất cứ nguyên tử nào trên mọi cõi và cõi phụ.
42.3.3- Định luật Đẩy (Law of Repulsion):
Chi phối mối liên hệ giữa các nguyên tử, nó tạo ra kết quả trong việc không bám vào nhau của các nguyên tử và trong việc chúng hoàn toàn tách rời khỏi nhau; định luật này cũng giữ cho các nguyên tử quay ở các điểm cố định từ các bầu hay hình cầu của đối cực.
42.3.4- Định luật Ma Sát (Law of Friction):
Chi phối trạng thái nhiệt của bất cứ nguyên tử nào, sự phát xạ (radiation) của một nguyên tử và hiệu quả của việc phát xạ đó trên bất cứ nguyên tử nào khác.
II- Bảy Định luật Thái Dương Hệ, đều có tương quan với 7 cõi, là (LVLCK, 574–596):
a. Định Luật Rung Động.
b. Định Luật Gắn Kết.
c. Định Luật Tan Rã.
d. Định Luật về Kiểm Soát Từ điển.
e. Định Luật về Sự Cố Định.
f. Định Luật về Bác Ái.
g. Định Luật về Hy Sinh và Chết.
* 3. Có bảy Định Luật hệ thống, thống trị sự biểu hiện của Đấng Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. (6) (MF-QU1-Môn học 110)
III- Các Định Luật Khác: Xem tại đây
+ Tóm lược Sách Luận về Lửa Vũ Trụ (LVLVT) hay Luận Về Lửa Càn Khôn (LVLCK) - Treatise on Cosmic Fire (TCF), thuộc bộ Luận Về Bảy/ 7 Cung.
- Luận Về Lửa Càn Khôn (TCF): Bộ “Luận Về Lửa Càn Khôn” chủ yếu đề cập đến thái dương-hệ, và chỉ bàn về các khía cạnh và các tương ứng của con người ở mức độ mà chúng biểu hiện mối quan hệ của thành phần đối với tổng thể, và của đơn vị đối với toàn thể. Đề cập 15 quy luật và ý nghĩa vũ trụ của chúng (Mô tả các Thái dương thiên thần, ánh sáng, chư thiên, các mãnh lực, các hỏa thần, lửa, nước, con người phụng sự liên quan việc Tham thiền và hoạt động huyền thuật); (LVHLT, trang mở đầu)
+ Luận về huyền linh thuật: Nói về 15 Qui Luật về Huyền Thuật có trong Luận Về Lửa Càn Khôn. Tôi sẽ dẫn giải về chúng, không đề cập đến ý nghĩa vũ trụ - Các tương ứng và các tương đồng về thái dương hay về điều gì khác. Nhưng áp dụng chúng vào công việc của người tìm đạo, và đưa ra các gợi ý thực hành đối với việc phát triển tốt hơn sự tiếp xúc với linh hồn và sự biểu lộ của linh hồn. Nguồn: Luận Về Huyền Linh Thuật, 17
Xem Tóm lược sách luận về lửa càn không
Xem thêm: Các bảng TH theo sách Luận về lửa càn khôn
+ Chữ "Đạo": Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.... Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu.
Lão Tử giảng về chữ Đạo và chữ Đức của Pháp Thế gian và Xuất thế gian
Lão tử nghiên cứu thiên văn học, lại nghiên cứu địa lý học, đối với nhân văn ông cũng nghiên cứu, do đó ông viết ra bộ kinh gọi là Thanh Tịnh Kinh. Kinh văn như sau :
Ðại đạo vô hình, sinh dục thiên địa: Vũ trụ lớn rộng như vậy, nhưng lại do đạo mà sanh ra. Nếu không có đạo, thì trời đất, trăng sao v.v.. đều không có, tất cả chỉ là một cái thể hỗn độn. Bởi có đạo nên mới có trời, đất, vạn vật, rồi có tiên, Phật, thánh nhân.
Ðại đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt: Ðại đạo thì không có tình cảm, đối trước vạn vật thì bình đẳng; không giống như con người, hành động trong tình cảm, có nhân tình, có ái tình. (Có người nói: "Như vậy là giống như cây cỏ bất nhân hay sao?" Không phải vậy. Ðó là hiện tượng vượt pháp thế gian.)
Mặt trời là tinh hoa của yếu tố dương, mặt trăng là tinh hoa của âm, cả hai đều vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo, do đó mới có bốn mùa là xuân, hạ, thu, đông, chi tiết hơn thì phân ra thành hai mươi bốn tiết, bẩy mươi hai hậu. Tiết và hậu đều phát sinh từ sự vận hành của mặt trăng và mặt trời vậy.
Ðại đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật: Ðại đạo không có tên, nhưng hết thẩy vạn vật đều từ trong đại đạo mà sanh ra và lớn lên. Cảnh giới này, càng nghiên cứu càng thấy nó ảo diệu vô cùng.