QUÂN TỬ TẠO MỆNH: ĐOÁN GIẢI THIÊN CƠ - CHIẾN THẮNG THIÊN MỆNH - NIỀM HY VỌNG VINH QUANG

CÁC DỊCH VỤ TƯ VẤN CÁ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP
KHẨU HIỂU:
TÌM CÁT TRÁNH HUNG - CẢI MỆNH NHƯ Ý - NGŨ PHÚC LÂM MÔN

+ XEM SỐ MỆNH VÀ TV PHÁP CẢI MỆNH CÁT TƯỜNG - VUN BỒI HY VỌNG: Xem tại đây

+ MỞ LỚP HỌC DỰ ĐOÁN TỨ TRỤ VÀ QUẺ DỊCH THƯỜNG XUYÊN: Xem tại đây

+ PHÁP TU PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ TOÀN DIỆN - THÀNH BẬC THIÊN TÀI. Xem tại đây

+ NHẬN TƯ VẤN THIẾT KẾ THEO PHONG THỦY VĂN PHÒNG VÀ NHÀ Ở HỢP MỆNH VẬN.

+ MỞ LỚP TU "THIỀN TRÀ" VÀ TU THIỀN LẬP HẠNH GIÚP XA LÌA TÀ DỤC THƯỜNG XUYÊN

+ HỘI QUÁN CAFE PHONG THỦY: HỎI - ĐÁP VỀ BỒI CÁT TRÁNH HUNG - GIẦU CÓ AN KHANG - XA LÌA TÀ DỤC - PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ .... 

* Dịch vụ và Hỏi - Đáp tại số 301 Minh Khai, tầng 4 tòa nhà TTTM Thanh Ngọc, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh: Xem tại đây

* TƯ VẤN MIỄN PHÍ vào Sáng thứ bảy hàng tuần, kính xin liên hệ trước để chúng tôi tiếp đón quý khách được chu đáo!

 Kính chúc quí vị luôn bình an, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý - Niềm hy vọng vinh quang!

+ Kính xin mời đọc kỹ: Hướng dẫn Dịch vụ

Các Nhóm Hạng người - Căn tánh - Đẳng cấp con người

TỔNG HỢP
CÁC LOẠI CĂN TÁNH - HẠNG VÀ NHÓM NGƯỜI

I- CÁC LOẠI CĂN TÁNH

1- Người hạ căn

2- người trung căn

3- người Thượng căn

II - CÁC TOOLTIP

1- Tooltip: Người thú - Người chưa phát triển

+ Người thú: Vào thời kỳ xa xăm cách nay 21 triệu năm, khi con người vừa mới có hình người và khi họ có liên quan chặt chẽ với giới động vật - Danh xưng là “người thú”.(CTNM, 226)

2. Người thú: (EPII 203-4)

Những linh hồn vốn chỉ ý thức sự sống ở cõi trần và sự cảm giác ... chậm chạp, trì trệ, không nói được, bị bối rối bởi môi trường của họ ... đang ngủ về mặt tình cảm, và hoàn toàn không thức tỉnh về trí tuệ ... Họ có thể đào bới và khuân vác, dưới sự chỉ đạo; họ ăn, ngủ và sinh sản, theo bản năng tự nhiên của thể xác động vật. (GQ1.1, trích dẫn EPII,22)

+ Người Lemuria - Người có ham muốn thú vật – Những linh hồn còn trẻ thơ (EPII 24)

Trong các giai đoạn đầu ... "tâm thức Lemurian" là đặc điểm của người sống theo giác quan, khía cạnh rời rạc đó của linh hồn đang cư trú và thấm nhuần hình dạng con người ... bất kỳ tâm thức con người thật sự nào có thể hiện diện, đều là trì trệ, còn phôi thai và không có tổ chức; nó không có thể trí như chúng ta hiểu về điều đó, và chỉ được nhận ra bởi một sự đồng nhất hóa hoàn toàn với thể xác và các hoạt động của nó. Đây là giai đoạn của các phản ứng bất động chậm chạp đối với sự khổ đau, niềm vui, sự đau đớn, đối với sự thôi thúc và sự thỏa mãn ham muốn ... Hết kiếp này sang kiếp khác trôi qua, và từ từ năng lực đồng nhất hóa hữu thức gia tăng, với sự ham muốn ngày càng tăng cho một phạm vi lớn hơn của những sự thỏa mãn; linh hồn nội tại và sinh động trở nên ngày càng ẩn sâu hơn, là tù nhân của bản chất hình tướng. - (EP II 204-5)

Các linh hồn đang bắt đầu tích hợp và sống động về mặt tình cảm và thông linh ... bản chất động vật thức tỉnh và bản chất dục vọng đang trở nên phát triển ... được nhận thấy trong tất cả các giống dân đến một mức độ nhỏ, một số trong số người da đen. . tương đối trẻ con ... những linh hồn trẻ thơ... có khí cụ trí tuệ và một số có thể được huấn luyện để sử dụng nó, (nhưng) sự chú trọng của đời sống hoàn toàn dựa trên hoạt động thể chất khi nó được thúc đẩy bởi ham muốn thuộc loại nào đó để thỏa mãn... Những linh hồn này đều là những tương ứng hiện đại đối với các nền văn hóa Lemuria cổ. - (EP II 24) Toàn bộ các mãnh lực của sự sống tập trung vào thể xác, và các ham muốn được biểu lộ khi đó là những ham muốn vật chất; đồng thời có một xu hướng đang phát triển hướng tới những ham muốn tinh tế hơn, đó là do thể cảm dục gợi lên.(GQ1.1,Các trích dẫn EPII,22)

2- Tooltip: Căn tánh chậm lụt - Người ngu - Người độn căn - Người hạ căn

+ Chúng sinh ngu si bị chướng che nên phải luân hồi sinh tử khổ đau
Chúng sinh ngu si bị chướng che
Mù tối thường ở trong sinh tử
Như Lai mở bày đạo thanh tịnh
Giải thoát này của Tu Di Âm.

‘’ Chúng sinh ngu si bị chuớng che.’’ Chúng sinh là do chúng duyên giả hợp mà sinh. Chúng sinh thông minh thì đi trên con đường chánh, chúng sinh ngu si thì đi theo con đường tà. Người ngu si, vì họ mà nói chánh pháp thì họ không tin. Tại sao ? Vì họ ngu si ! Tại sao ngu si ? Vì không tin Phật pháp, cho nên càng ngày càng ngu si. Phải học Phật pháp thì càng ngày càng thông minh. Người thông minh thì chẳng có nghiệp chướng che đậy, kẻ ngu si thì có nghiệp chướng che đậy.
Che đậy là gì ? Tức là bị một vật che đậy, chẳng được giải thoát. Giống như La Hầu La con của Đức Phật. La Hầu La dịch là "che đậy". Vì nghiệp chướng quá nặng, ở trong thai mẹ sáu năm mới sinh ra, tại sao ? Vì trong quá khứ, La Hầu La là một đứa trẻ nghịch ngợm. Một ngày nọ, thấy một con chuột chạy vào hang động, La Hầu La lấy đá lấp hang động sáu ngày, tạo ra ác nghiệp này, do đó mới thọ quả báo che đậy ở trong thai mẹ sáu năm.
Có thuyết nói rằng : Đức Phật Thích Ca lúc mười bảy tuổi, thì kết hôn với Gia Du Đà La. Kết hôn rồi, Gia Du Đà La muốn có con, đức Phật dùng tay chỉ vào bụng thì phu nhân thọ thai. Đức Phật xuất gia rồi, tu hành ở trong núi Tuyết sáu năm, La Hầu La mới sinh ra. Lúc đó hoàng tộc Thích Ca nói Gia Du Đà La không giữ đạo làm vợ. Không có chồng mà sinh con ? Bèn dùng lửa để thiêu sống Gia Du Đà La, để bảo tồn danh dự dòng họ Thích Ca, Gia Du Đà La vì muốn chứng minh sự thanh bạch của mình mới phát thệ rằng :’’ Nếu tôi giữ đạo làm vợ, thì lửa đỏ biến thành hoa sen, nếu tôi không giữ đạo làm vợ thì lửa sẽ thiêu hủy thân của tôi, không một lời oán trách.’’ Nói xong bồng con là La Hầu La, nhảy vào trong đống lửa cháy dữ dội, quả nhiên lửa biến thành hoa sen màu đỏ, do đó ‘’ Hoa sen trong lửa,’’ là để chứng minh quyết thực không phải là không giữ quy cụ.
‘’ Mù tối thường ở trong sinh tử.’’ Người mù tối thì vừa điếc vừa câm. Nghĩa là sinh thì hồ đồ mà đến, chết thì hồ đồ mà đi, luôn luôn ở trong biển sinh tử, vĩnh viễn không được giải thoát.
‘’ Như Lai mở bày đạo thanh tịnh.’’ Vì người mù tối, không biết đạo lý sinh tử, luôn luôn sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Cho nên Phật từ bi thương xót chúng sinh, hướng dẫn chỉ dạy họ tu đạo thanh tịnh. Đạo thanh tịnh là gì ? Tức là chẳng có tư tưởng ô nhiễm. Tóm lại, tức là chẳng có quan hệ tình dục nam nữ. Ai ai cũng đoạn dục khử ái, thì thức thứ tám tuy nhiên có hạt giống, nhưng chẳng có duyên với cha mẹ thì cũng chẳng sinh ra. Cho nên đoạn dục khử ái, là phương pháp cơ bản giải quyết vấn đề sinh tử, chẳng có gì là huyền diệu. Ai ai cũng biết nhưng chẳng làm được. Tại sao ? Vì ngu si che đậy. Vua Đường Thái Tông có nói câu này : ‘’ Xuất gia mới là việc đại trượng phu.’’ Xuất gia thật là như thế, ném vứt năm dục lên chín từng mây, thứ nhất là không tham tài, thứ hai là không cưới vợ, thứ ba là không cầu danh, thứ tư là không ăn thịt, thứ năm là không ngủ nhiều. Tại sao phải khổ như thế ? Là vì muốn chấm dứt sinh tử, cầu tự tại, cầu giải thoát.
‘’ Giải thoát này của Tu Di Âm.’’ Vị Tu Di Âm Thiên Vương đắc được cảnh giới môn giải thoát này. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1)

+ Chúng sinh ‘’ Ngu si kiến trược rất đáng sợ.’’ Ngu si tức là mạng trược. Vì sao ? Vì vận mạng người ngu si là ô trược, sinh ra thì chẳng thông minh, đều có mối quan hệ với nhau.
Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
1. Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
2. Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Đều rơi vào hai bên.
3. Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
4. Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
5. Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành. Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1)

+ Nhận diện kẻ Ngu Si và người Trí_Ðức Phật dạy:
- Kẻ ngu có thể được nhận biết qua ba điều, bằng cách cư xử của nó trong hành động, lời nói và tư tưởng;
- Cũng vậy người trí cũng được biết qua ba điều, qua cách ứng xử của người đó trong hành động, lời nói và tư tưởng (Tăng Chi Bộ Kinh_đoạn 3)
* Trên đời nầy có ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật (Tăng Chi Bộ Kinh_đoạn 28)

+ Kệ về người ngu si:
Hoa đẹp sáng sáng đều xinh tươi,
Trăng sáng ngại gì mỗi đêm tròn,
Ðại địa có suối đều thành rượu,
Rừng già không cây chẳng lay tiền.

Người ham thích hoa sanh tâm ngu si nói: “Tôi muốn đóa hoa này mãi mãi xinh tươi, chẳng tàn phai; sáng sáng đều đẹp như thế này.”
Người tham trăng tròn thì nói: Tối hôm qua trăng tròn thật đẹp, nếu trăng mỗi đêm đều tròn như thế cả thì tốt biết bao!
Như thế không phải là ngu si sao? Trăng có tròn có khuyết, hoa có nở có tàn. Hoa nở thì phải có lúc hoa tàn, trăng tròn thì phải có lúc trăng khuyết, đó là luật tuần hoàn của trời đất.
Người thích uống rượu lại nghĩ: “Mỗi ngày tôi đều đi mua rượu, mà whisky hoặc brandy thì rất đắt. Nếu tất cả ao nước trên trái đất này đều biến thành ao rượu, để khi nào tôi thèm rượu thì chỉ việc đến ao múc lên uống, thật tiện lợi biết bao!”
Còn kẻ tham tiền thì mơ mộng: “Mình bây giờ phải đi làm kiếm tiền, thật là quá sức vất vả. Ước gì tất cả cây cối đều biến thành ‘cây tiền,’ trên cây kết toàn những đĩnh vàng đĩnh bạc và tiền đô-la, để khi mình cần tiền thì chỉ việc hái xuống tiêu xài, thật tiện lợi biết bao!”
Những ước muốn không thể thực hiện được ấy đều là những ảo tưởng ngu si
Như có người không có đi học, thậm chí cũng chưa học tiểu học-trung học thì khỏi nói rồi-nhưng lại muốn được một học vị Tiến sĩ ở đại học.

Lại còn có những người, không làm ruộng bao giờ, song đến vụ mùa lại muốn thu hoạch như thiên hạ! Ðó đều là ngu si!
Thậm chí có người không mua vé số mà lại mong trúng lô độc đắc, quả là một ý tưởng quá ngu si!
Thế nhưng, đa số người đời đều mắc phải chứng bịnh vọng tưởngkhông làm mà muốn có ăn.”
Vậy thì phải làm sao? Có thứ bịnh này thì cần phải sửa đổi đi mới được.

Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai điều mong cầu, đó là đại bi. Ngài lại làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh, khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui, đó là Ðại từ. Vì nhân duyên đại từ đại bi, nên Ngài nói phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn này. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa)

+ Phẩm Người Ngu - Chương hai pháp. Đức Phật dậy:
1. Có hai loại người:
Người ngu: Người có phạm tội nhưng không thấy
có phạm tội, và người không chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình.
Người có trí: Người có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình.
2. Có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai: Người độc ác với tâm đầy sân hận, và người có lòng tin với tà kiến.
3. Có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết.
4. Có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai có nói, có thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai không nói, không thuyết.
5. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh đã được giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩ là kinh cần phải giải nghĩa.
6. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh cần phải giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩ là kinh đã được giải nghĩa.
7. Với người có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: địa ngục hay bàng sanh.
Với người không có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ
đợi: chư Thiên hay loài Người.
8. Với người có tà kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: địa ngục hay loại bàng sanh.
Với người có chánh kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: chư Thiên hay loài Người.
Người theo ác giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: địa ngục hay loài bàng sanh.
Người đầy đủ thiện
giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: chư Thiên và loài Người.
9. Do quán thấy hai lợi ích: Thấy tự mình hiện tại lạc trú, và có lòng thương tưởng đến những chúng sanh về sau. Do quán thấy hai lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nên Ta đi đến các ngôi rừng hẻo lánh, các trú xứ xa vắng.
10. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, thuộc thành phần minh: Chỉ và Quán.
+ Chỉ được
tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận.
+ Quán được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập.
Tuệ được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận.
Bị tham làm uế nhiễm, này các
Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát.
Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập.
=> Do vậy, do ly
tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)

+ Người ngu - Chương ba pháp. Đức Phật dậy
...1.- Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi, người ngu có nguy hiểm, người trí không có nguy hiểm: người ngu có tai họa, người trí không có tai họa. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi đến với người trí, không có nguy hiểm đến với người trí, không có tai họa đến với người trí.
3.- Đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ẩn tích của người ngu: Kẻ ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác => Nên các người hiền trí biết được: “Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân”.
Đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người hiền trí: Người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện => Nên các người hiền trí biết được: “Người này là người hiền trí, là bậc chân nhân”. (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)

2- Tooltip: Người ngu tối - Căn tánh chậm chạp - Trí tuệ chưa phát triển nên Tu tín nguyện và giữ giới:
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?

Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà tín tâm bền chặc chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.
Kinh này Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vì chúng sinh có căn tánh chậm lụt, ngu tối, trí nhớ kém hay người mới phát tâm tu hành mà hỏi Phật, được Phật dậy rất nhiều điều để răn dậy chúng ta tu hành sao cho có thành tựu phù hợp với căn cơ, tránh bị sa vào ác đạo mà bị đọa lạc Tam ác đạo không biết ngày ra  (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)

+ Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa ngu si.
Trước đã nói về tham và sân, bây giờ nói về si. Tham sân si được gọi là ba độc. Ba độc này làm hại Phật tánh của chúng ta hôn mê như say ngủ. Tại sao chúng ta chưa giác ngộ? Cả đời sống say chết mộng? Ðó là bởi ba độc này. Tham là tham dục. Xưa nay tham dục này tác hại rất lớn đối với tự tánh, nhưng có một số người lại cho nó là một thứ hưởng thụ tối cao, cho nên đã gây ra biết bao hành vi điên đảo, đem tự tánh của mình vùi chôn dưới lớp trần cấu. Thứ trần cấu này càng ngày càng nhiều, vì thế mà ánh sáng Phật tánh của quý vị không hiển lộ được. Ðó là sự tệ hại của tham độc. Tác hại của sân độc cũng rất lớn không kém gì tham độc.
Còn thế nào là si độc? Si là ngu si. Ngu si mà chẳng biết mình ngu si, đó là ngu si đấy. Có kẻ cho mình là người rất thông minh, có trí huệ; nhưng trên thực tế, nếu quý vị hỏi anh ta: "Anh từ đâu đến đây? Tương lai anh sẽ về đâu?" thì anh ta không biết. Ðến không biết mình từ đâu đến, đi không biết mình đi về đâu, quý vị thử nghĩ xem người như thế có phải là thông minh không? Nhưng chính anh ta lại không thừa nhận mình là người ngu si. Ấy là:
Việc nhỏ lợi danh người người thích,
Việc lớn sanh tử chẳng ai lo.
Trên thế gian này, việc tìm cầu danh lợi tuy là nhỏ, nhưng người ta suốt ngày quần quật bôn ba, thậm chí hại bạn, giết người, phóng hỏa đều là vì lợi cả. Nếu không vì "lợi" cũng vì "danh"! Trên thế gian này, số quốc gia cùng con người không đếm kể hết, song tựu trung lại có hai hạng người: Một là cầu danh, hai là cầu lợi. Danh lợi nó chi phối, làm điên điên đảo đảo biết bao nhiêu người vẫn chưa giác ngộ được. Từ khi sanh ra đến lúc chết, đều ở trong tình trạng bon chen, giành giật, có người ham làm quan, có người ham phát tài, có người ham được con cái, cho đến những ham muốn nghiêng về khoái lạc. Khát vọng một đời, chờ đợi mọi thứ khoái lạc, nhưng mà chưa hưởng thụ được bao nhiêu rồi phải chết. Chết rồi đi về đâu cũng không biết! Lúc sống đều tự cho mình là phi thường, cảm thấy chính mình thật là không ai bằng.
-"Ta là người có trí huệ thông minh nhất. Lúc còn đi học, ta mỗi năm đều được hạng nhất, bất cứ làm việc gì ta cũng đều dẫn đầu, trên người một bậc."
Tự cho mình là thông minh khác thường, mà kỳ thật cả bản lai diện mục của mình cũng không nhận biết! Sự thông minh như thế đều là giả cả, đó là thứ "thông minh giả." Người thật sự có thông minh thì không cảm thấy chính mình có trí huệ. Vậy thì thấy mình là ngu si sao? Cũng không tự thấy mình là ngu si, lại càng không tự thấy mình có trí huệ. Tuy rằng, ngoài mặt xem ra cũng cùng một thân thể hình trạng như mọi người, nhưng mà những tư tưởng quan niệm của họ thật thấu suốt rõ ràng. Rõ ràng là thế nào? Thấu suốt rõ ràng rằng tất cả đều như huyễn như hóa. Biết rằng tất cả mọi thứ đều là giả, họ không tham đắm vinh hoa phú quý trong mộng, ham giành sắc đẹp, tranh nhân ngã, tranh thị phi, tranh đứng đầu, tranh danh đoạt lợi, mà hiểu rõ tất cả đều là vô thường. Vì thế Kinh Kim Cang nói:
"Tất cả pháp hữu vi
Như chiêm bao, bóng nước,
Như điện chớp, mù sương,
Hãy quán cho thật tường."
Tất cả pháp hữu vi như chiêm bao, bóng nước. Pháp hữu vi là gì? Tất cả những gì có hình tướng, có thể nhìn thấy, đều là pháp hữu vi. Nó giống như chiêm bao, bọt nước. Bọt nước trong biển cả, quý vị cho là thật hay giả? Nói là thật, thì sao nó lại hóa ra không có? Nói là giả, thì sao lại có cái bọt nước? Tuy có bọt nước, nhưng không phải thật tại, không có thể tánh chơn thật. Bóng, cũng là hư ảo. Lại giống như mù sương; sáng sớm có mù sương, nhưng khi mặt trời mọc lên nó lại tan biến hết. Ðiện, cũng là có; nhưng lửa điện, lửa đá chớp mắt tan đi, cũng không phải là chơn thật. Nếu có thể quán tưởng tất cả sự vật như thế thì còn có gì phải chấp trước? Không có chấp trước mới là thật hiểu rõ. Bấy giờ, quý vị sẽ không tưởng Ðông tưởng Tây, càng không tưởng Nam tưởng Bắc, tất cả vọng tưởng trần lao đều bị vất bỏ. Bỏ hết những vọng tưởng trần lao rồi, lúc ấy quý vị không muốn thành Phật cũng không được, muốn không có trí huệ cũng không được, sẽ tự nhiên có thôi.
Cho nên đương lúc tự mình không có trí huệ, không nên cho là mình có trí huệ. Trí huệ không phải tìm cầu ở bên ngoài mà có. Không nên sanh tâm kiêu ngạo, cho là:
-"Giữa mọi người, ta là kẻ thông minh nhất, đẹp đẽ nhất, kiệt xuất đối với mọi người, siêu quần bạt tụy, trên tất cả."
Nếu quý vị có tư tưởng này là quý vị còn chấp tướng. "Tướng" vốn là cái đãy da hôi, nó như là chiêm bao, bóng nước. Quý vị suốt ngày cho nó ăn ngon mặc đẹp, hết lòng cho nó hưởng thụ. Nhưng đến lúc nó bỏ đi, nó cũng không thèm để ý tới quý vị. Có người lại chăm chút cho đãy da hôi này, vừa hút thuốc, vừa uống rượu, vừa ăn thịt, suốt ngày lo lấp cái hố sâu không đáy này, lấp rồi lại chảy, chảy rồi lại lấp, lấp mãi vẫn không đầy. Nhưng người ta cứ bỏ cũ thay mới, mới cũ thay nhau, vì bản thân mà bận rộn, vất vả.
Tại sao mỗi ngày ăn một bữa cơm? Tại vì sợ phiền phức cho nên ăn ít một chút để bớt đi phiền rộn. Có một số người cho rằng ăn ngon là cách hưởng thụ tốt nhất, tôi lại cho rằng đó là việc phiền rộn nhất. Giải thích như thế nào đây? Nếu ăn nhiều vào thì bụng sẽ khó chịu. Ăn ít vào, lại sanh ra tâm tham:
-"Ðồ ăn ngon như thế này, nên ăn nhiều một ít!"
Nếu đồ ăn không ngon thì không thể sanh tâm tham. Bao tử cũng không bị khổ sở. Cho nên đó đều là những việc phiền phức. Tại sao người ta lại có những phiền phức này? Tại vì mình quá ngu si mới tham hưởng thụ, cầu giàu sang, cầu danh lợi, cầu vui sướng, các thứ ấy thảy đều là điên đảo cả. Quý vị tham cái này cái nọ, thì kết quả sẽ ra sao? Kết cuộc rồi cũng phải chết thôi. Ðến lúc chết, không đem theo được tí gì. Ðó không phải là ngu si sao? Ngu si như thế thì phải làm sao? Theo phương pháp của Kinh Pháp Hoa dạy: "Thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm." Sự ngu si của quý vị sẽ mất đi và trí huệ sẽ hiện lên. Ai có thể biết mình ngu si? Ðó mới là nhận thức đúng đắn về mình. Ðã có trí huệ, mới biết mình là ngu si. Nếu quý vị tự mình không có trí huệ thì rốt cuộc không thể biết tự mình là ngu si đâu, càng nghĩ càng xa thôi. Chính mình vốn là ngu si, mà tự cho là rất thông minh thì há không phải là trên ngu si lại thêm ngu si hay sao? Trước là một kẻ ngu si còn chưa đủ, lại muốn biến thành kẻ ngu si gấp đôi. Hiện tại chúng ta nếu muốn mình không ngu si thì phải thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðó là một phương pháp hay nhất, linh diệu nhất. Tuyệt đối bảo đảm mầu nhiệm không thể nói được.
Nói về ngu si và trí huệ, thì thế nào là ngu si? Thế nào là trí huệ? Tôi sẽ nói một đạo lý mà quý vị sẽ không tin đâu, đó là
-"Ngu si chính là trí huệ, trí huệ chính là ngu si."
Tại sao nói thế? Ở Tâm Kinh có câu: "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc." Cảnh giới này nói lên chơn sắc từ chơn không mà sanh, chơn không từ chơn sắc mà có, cho nên hai mà không hai. Ngu si và trí huệ cũng cùng một đạo lý ấy. Khi quý vị biết dùng thì đó là trí huệ, nếu không biết dùng thì đó là ngu si. Ngu si và trí huệ không phải là hai mà phải xem quý vị có biết dùng hay không! Nếu quý vị biết dùng thì ngu si cũng biến thành trí huệ; nếu không biết dùng thì trí huệ biến thành ngu si. Nếu thấu triệt được đạo lý này thì quý vị sẽ không còn điên đảo nữa. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Người ngu tối - Độn căn tu hành được không?
Người độn căn vì họ mà thuyết pháp, nói một lần họ không hiểu, nói hai lần họ cũng không hiểu, càng nói càng hồ đồ, càng hồ đồ càng phải hỏi. Giống như đệ tử của đức Phật, Tôn giả Châu Lợi Bàn Đà, vị này là người tối tăm ngu nhất của đức Phật, về sau vị này thành tựu biện tài vô ngại, là nghĩa trì đệ nhất. Có thể thấy tu hành thì không sợ ngu độn, chỉ sợ không chịu phát tâm. Nếu chịu phát tâm thì dù hạ ngu cũng đắc được thượng trí.
Người lợi căn, nghe được một thứ đạo lý thì hiểu rõ tất cả đạo lý khác. Vị Nhan Hồi nghe một biết mười. Đề Bà Đạt Đa là đệ tử của Phật, là người thông minh nhất, tuy nhiên có trí huệ, nhưng thông minh ngược lại bị thông minh lầm lẫn, kết quả đọa vào địa ngục.
Lợi và độn là người bình thường, khốn khó mà học là người thông minh, khốn khó mà không học là người ngu si. Thánh nhân là sinh ra mà biết, hiền nhân thì học mà biết; chúng ta là người bình thường thì phải học Phật pháp.
Có người sinh ra tâm từ bi rất lớn, có người sinh ra tâm từ bi rất nhỏ. Có người sinh ra tâm tham lam rất lớn, có người sinh ra tâm tham lam rất ít. Chúng sinh có đủ thứ căn tính khác nhau. Vị Thiên Vương này biết được dục vọng của chúng sinh. Loại chúng sinh nào hoan hỷ pháp gì, thì vị này thuyết pháp đó.
Ví như gặp chúng sinh tham lam thì nói pháp bố thí cho họ nghe, nói bố thí có công đức gì ?
Gặp chúng sinh phạm giới, thì nói pháp trì giới cho họ nghe, nói sự lợi ích về sự trì giới.
Gặp người nhiều sân hận, thì nói pháp nhẫn nhục, dạy họ học theo Bồ Tát Di Lặc, mở miệng thường cười, nhẫn việc thiên hạ không thể nhẫn.
Gặp chúng sinh lười biếng giải đãi thì nói pháp tinh tấn cho họ nghe, phải siêng tu khổ hạnh, mới mong thành tựu.
Do đó trồng trọt một phần thì thu hoạch một phần. Nhất là tu hành, công phu tu một ngày thì có công đức một ngày, cho nên tu hành thì không lãng phí thời gian, hy vọng mọi người đầu sào trăm trượng càng tiến tới một bước. Gặp chúng sinh tán loạn không có định lực, thì nói pháp thiền định tham thoại đầu như thế nào ? (tinh thần tập trung, nghĩ "Niệm Phật là ai" ?)
Gặp chúng sinh ngu si thì nói pháp trí huệ, khiến cho họ khai mở trí huệ, đắc được cảnh giới thật tướng Bát Nhã. Đó là Lục độ căn bản của pháp đại thừa.
Nói tỉ mỉ về căn tính của chúng sinh, thì có tám vạn bốn ngàn, Phật pháp có bốn vạn tám ngàn pháp môn, chuyên đối trị bệnh của chúng sinh. Pháp môn có cao thấp, môn nào cũng đệ nhất ; pháp môn nào đối cơ là đệ nhất, ngoài ra các pháp môn kia là đệ nhị.
Người hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh đạo tâm, người không hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh tâm thối lui, cho nên khi thuyết pháp, thì phải quán sát căn tính của đối phương, là lợi căn hay độn căn ?
Đối với người lợi căn, thì giảng về đạo lý chân không diệu hữu trung đạo đệ nhất nghĩa, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa đại thừa.
Đối với người độn căn, thì nói pháp nhân duyên sinh diệt, hoặc pháp nhân quả báo ứng, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa tiểu thừa.
Tôn giả Xá Lợi Phất có hai vị đệ tử tu hành nhiều năm mà chẳng thành tựu. Xá Lợi Phất hỏi đức Phật là lý do gì ? Đức Phật hỏi : ‘’ Vị đó trước khi xuất gia làm nghề
? ‘’
Xá Lợi Phất đáp: ‘’ Một là thợ bạc, một là xem mộ.’’ Đức Phật nói : ‘’ Nên dạy vị Tỳ kheo thợ bạc tu pháp sổ tức (đếm hơi thở), dạy vị Tỳ kheo xem mộ tu pháp quán xương trắng, như vậy thì có thể thành tựu.’’
Tôn giả Xá Lợi Phất trở về dạy tu theo như thế, không lâu hai vị đều chứng quả. Đó là theo căn tính thích ứng với họ mà thí giáo.
Theo bệnh cho thuốc: Chúng sinh đều có bệnh phiền não, bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh ngu si, vô minh .v.v. Thậm chí có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh. Phật pháp là thuốc thần, người thuyết pháp là bác sĩ. Bác sĩ trước hết phải xem bệnh gì ? Sau đó dùng thuốc thích đáng để điều trị. Bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy mới hy vọng thuốc công hiệu chữa lành bệnh. Do đó :
"Thuốc không hay dở, lành bệnh là thuốc hay; Pháp không cao thấp, hợp cơ là pháp diệu".
Gặp chúng sinh căn lành thành thục, thì dạy họ xuất gia tu đạo. Gặp chúng sinh không có căn lành, thì dạy họ trồng căn lành tu phước đức. Gặp chúng sinh đã trồng căn lành, thì dạy họ phương pháp làm tăng trưởng căn lành.
Tóm lại, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục. Đã thành thục khiến cho giải thoát. Cho nên vì chúng sinh thuyết pháp đoạn trừ tâm nghi của họ, mà sinh ra tâm tin, đắc được môn giải thoát không chướng ngại. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)

3- Tooltip: Người thượng căn - Người thiện căn - Người lợi căn ....

+ Người hạ căn - Căn tánh chậm chạp - Căn tánh chậm lụt - Người tiểu căn - Người độn căn - Người thượng căn
Người tiểu căn
nghe pháp Đốn giáo nầy ắt là điên đảo
. Cũng như loài cỏ cây gốc rễ nhỏ yếu, nếu bị một trận mưa to, chắc đều ngã rạp, không thể lớn lên được. Nguyên người tiểu căn có trí Bát nhã cũng như người đại trí, không có chỗ gì khác. Nhưng bởi cớ sao họ nghe pháp, mà tâm chẳng mở mang tỏ sáng? Vì bởi nghiệp chướng của tà kiến còn nặng, cái gốc rễ của sự phiền não còn thâm sâu. Cũng như một đám mây lớn che ám mặt trời, nếu chẳng được luồng gió thổi, thì ánh sáng mặt trời không hiện ra được.
Cái trí Bát nhã vốn không lớn nhỏ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi. Lòng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành tìm Phật mà chưa tỏ sáng Bổn tánh của mình, tức là người tiểu căn. Hiểu rõ pháp Đốn giáo tu hành mà không chấp bề ngoài, trong tâm mình thường khởi chánh kiến, những sự phiền não trần lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm mình tức là thấy tánh.......(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Người lợi căn: Trong số các chúng sanh đó, "hoặc có kẻ có lợi căn, nghe thấy liền tín thọ." Kẻ có "lợi căn" tức là người có thiện căn sâu dầy, thông minh lanh lợi, rất có trí huệ. Những chúng sanh có lợi căn khi nghe được giáo pháp của Phật thì liền mau mắn tin nhận. 
"Hoặc có kẻ có thiện quả, phải ân cần khuyên bảo mới thành tựu." Lại có hạng người mà trong đời trước đã từng làm một vài việc thiện, có gieo trồng thiện quả, thì Phật cũng phải ân cần khuyên bảo thêm để họ được nhanh chóng thành tựu Phật Ðạo, và không phải chỉ khuyên bảo một lần mà là rất nhiều lần. "Ân cần khuyên bảo" không có nghĩa là chỉ khuyên bảo một lần rồi thôi. Khi chúng ta có lòng muốn cứu vớt, độ thoát một người nào đó, thì phải nhớ rằng chưa chắc chỉ khuyên bảo một lần mà "độ" được người ấy ngay. Khuyên một lần mà chưa "độ" được thì phải khuyên thêm lần nữa; nếu thêm lần này mà vẫn chưa "độ" được, thì chúng ta lại phải cố gắng thêm nhiều lần nữa. Nếu những người đó ở xa thì quý vị nên viết thư nhắc nhở, kể chuyện Phật Pháp cho họ biết; còn nếu ở gần thì thỉnh thoảng nên gặp gỡ, tiếp xúc với họ để giảng Phật Pháp cho họ nghe.
Lại nữa, hễ đã phát tâm muốn "độ người" thì chớ để cho mình bị "người độ"! Thế nào gọi là bị "người độ"? Thí dụ, ban đầu là quý vị muốn độ họ, muốn làm cho họ tin Phật, nhưng rốt cuộc thì quý vị lại bị lung lạc và bị lôi kéo vào tôn giáo của họ! Thâm tâm mình vốn muốn "độ người," làm cho họ tin Phật, ngờ đâu lại bị họ làm cho mình chuyển đổi tín tâm, thay đổi tín ngưỡng—như thế là mình bị "người độ" vậy. Muốn "độ người" thì bản thân mình cần phải có Ðịnh Lực; sở dĩ mình bị "người độ" chính là vì mình không có Ðịnh Lực.
"Ân cần khuyên bảo" ngụ ý là thường xuyên nhắc nhở, sốt sắng khuyên lơn. Ví dụ quý vị suy nghĩ: "Người bạn này đối xử với mình quá tử tế, mình phải độ anh ấy, khiến anh ấy tin theo Phật mới được! Lại còn ông chú bà bác kia nữa, họ đều là những người tốt bụng, mình cũng nên độ họ, làm cho họ thích học Phật Pháp!" Do đó quý vị "ân cần khuyên bảo" họ. Không phải chỉ khuyên một lần mà là kiên nhẫn khuyên lơn rất nhiều lần, lần này mình khuyên giải mà họ chưa hiểu rõ thì cố gắng thêm lần nữa, rồi cứ lần này sang lần khác như thế, dứt khoát không chịu bỏ cuộc. Nói tóm lại, quý vị phát tâm độ người thì phải độ cho tới nơi tới chốn, độ được họ phát tâm tin Phật và cho tới khi họ thành Phật—như thế, sứ mạng mới hoàn tất, thệ nguyện mới viên mãn!
"Hoặc có kẻ ám độn, phải giáo hóa thời lâu mới quay về."
"Ám độn" tức là ngu si, căn tánh mê muội, không có trí huệ. Ðối với hạng chúng sanh ám độn, si mê thì cần phải có thời gian lâu dài để giáo hóa, chứ không thể một sớm một chiều mà được ngay đâu. "Ân cần khuyên bảo" thì tính theo số lần; còn "thời lâu" là thuộc vấn đề thời gian. Nếu trong một ngày mà mình chưa độ được họ, thì phải kiên trì cho dù là hai ngày, ba ngày, năm ngày, hoặc một tháng, hai tháng, ba tháng, năm tháng, hoặc một năm, hai năm, ba năm, năm năm...—quý vị phải nuôi trong lòng một chí nguyện bền bỉ, lâu dài, và giáo hóa họ với cái tâm trường cửu, nhất quyết làm cho họ thành tâm tin tưởng đạo Phật. Ðây gọi là "cửu hóa phương quy"—phải trải qua một sự giáo hóa lâu dài họ mới có thể quay về, quy y Tam Bảo. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)

III- CÁC CĂN TÁNH TU HÀNH

1- Tooltip: Kiến giải kẻ phàm phu - Phàm phu tu hành:

+ Kiến giải của kẻ phàm phu:
Đức Phật dậy: Kẻ phàm phu không được nghe chánh pháp, không gặp bậc chơn trí thức, không biết Thánh pháp, không điều ngự Thánh pháp, không biết như thật về pháp, không có chánh tư duy nên suy nghĩ thế này:

‘Ta có đời quá khứ? Ta không có đời quá khứ? Do nhân duyên gì ta có đời quá khứ? Đời quá khứ ta như thế nào? Ta có đời vị lai? Ta không có đời vị lai? Do nhân duyên gì ta có đời vị lai? Ta có đời vị lai như thế nào?’ Người ấy hoài nghi về mình rằng: Thân ta là gì, nó là thế nào? Nay chúng sanh này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu? Trước kia do nhân gì mà có, và sẽ do nhân gì mà có?’ Người kia khởi tư duy không chánh như vậy rồi, trong sáu tà kiến, một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật có thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật không có thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là phi thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Chính thần ngã ấy có thể thấy, có thể biết, có thể hành động, có thể sai khiến hành động, có thể đứng dậy, có thể sai khiến đứng dậy, sanh vào nơi này, nơi kia, thọ lãnh thiện báo, ác báo; quyết không từ đâu đến, quyết không phải đã có, quyết không phải sẽ có’. Đó là tệ lậu của kiến; bị kiến lay động, bị kết sử của kiến buộc chặt. Kẻ phàm phu ngu si vì thế mà phải chịu cái khổ của sanh, lão, bệnh, tử.
Đa văn Thánh đệ tử được nghe Thánh pháp, gặp bậc chơn tri thức, được chế ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật, biết như thật về Khổ, biết Khổ tập, biết Khổ diệt và biết như thật Khổ diệt đạo. Biết như thật như thế rồi, ba kết tận trừ. Khi ba kết là thân kiến, giới thủ, và nghi đã trừ hết, chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa lạc ác pháp, chắc chắn thăng tiến đến chánh giác, thọ sanh tối đa bảy đời trong thiên thượng và nhân gian. Sau bảy lần qua lại liền chứng đắc Khổ đế. Nếu không có tri kiến thì phát sanh phiền não, ưu sầu, có tri kiến thì không phát sanh phiền não, ưu sầu. (Nguồn: Lời Phật dậy - Trung A Hàm)

2- Tooltip: Hàng thượng căn và hàng hạ căn tu hành

+ Tu lòng tin và sự hiểu biết về Cảnh giới Nhất Thật Tướng của Tâm
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:

– Này thiện nam tử! Trên đây là lược nói ý nghĩa cảnh giới của Nhất Thật Tướng, nếu muốn nương vào cảnh giới Nhất Thật Tướng, để tu lòng tin và sự hiểu biết (28), thì hãy nên học tập hai đường lối quán chiếu. Thế nào là hai?
– Một là quán các Pháp đều Duy tâm Duy thức.
– Hai là quán Thật tướng Chân như.

Về cách học quán Duy tâm Duy thức thì: Trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, tùy thân, khẩu, ý có sự móng niệm, đều phải quán xét, biết những niệm khởi chỉ là do tâm, cho đến bất cứ cảnh giới gì, nếu tâm trú vào sự nhớ nghĩ, thì phải xét biết và buông
xả, chớ để cho tâm rơi vào tình trạng vô ký (29), hoặc vin theo duyên mà không tự kiểm soát. Trong mỗi mỗi niệm đều nên quán sát, tùy ý niệm nào mà tâm duyên đến, lập tức thâu nhiếp trở lại, không để cho tâm theo đuổi những ý niệm đó. Làm sao cho tâm tự biết, nội tâm của mình tự sinh tưởng niệm, chẳng phải tất cả cảnh giới có tưởng niệm, có phân biệt. Nghĩa là nội tâm tự sinh các quan niệm như: hay dở, tốt xấu, phải quấy, được mất, suy lợi, có không v.v…tóm lại là vô lượng ý tưởng. Song, tất cả cảnh giới chưa từng có tưởng, chưa từng có khởi phân biệt, nên biết tất cả cảnh giới, tự nó không có tư tưởng phân biệt, tức là tự nó chẳng phải hay dở, chẳng phải tốt xấu, cho đến chẳng phải có, chẳng phải không, lìa tất cả tướng. Cứ như vậy quán sát, biết tất cả Pháp chỉ duy tâm tưởng mà sinh. Nếu như lìa tâm, thì không có tướng bất cứ một Pháp nào có thể tự thấy có sự sai biệt. Thường nên như vậy mà khắc ghi và giữ gìn nội tâm, biết rằng chỉ có vọng niệm, không có cảnh giới chân thật. Sự quán sát này cần phải đều đặn, chớ cho bỏ dở. Đây gọi là sự tu học duy tâm, duy thức quán.
Nếu tâm bị vô ký, chẳng biết tự tâm đang nghĩ gì, đó chính là có cảnh giới ở trước, chẳng gọi là duy tâm thức quán.
Vả lại, gìn giữ và khắc ghi nội tâm, ắt biết được, tưởng tham, tưởng sân, tưởng si, tưởng tà kiến. Biết thiện, biết bất thiện, biết vô ký, biết tâm lao lư nghĩ đến các sự khổ v.v… Nếu khi tịnh tọa, tùy đối tượng bị duyên của tâm mà mỗi niệm xét biết sự sinh diệt của duy tâm, ví như dòng nước trôi chảy, hay ánh lửa tiếp nối của ngọn đèn, không lúc nào tạm thời dừng lại. Từ đó sẽ được chính định vắng lặng các sắc. Được tam muội này rồi, kế đến học tập đức tin về quán tâm của Pháp Xa Ma Tha (30) và đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na (31).
Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Xa Ma Tha nghĩa là: Tư duy về tướng chẳng thể thấy của nội tâm. Tướng này tròn đầy, bất động, không đến, không đi, bản tính chẳng sinh, chẳng diệt, vì lìa phân biệt vậy. Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na nghĩa là: Xét biết những tư tưởng, nhận biết các sắc bên trong bên ngoài, đều theo tâm mà sinh, theo tâm mà diệt, cả đến tư tưởng nhận thức về sắc thân Phật cũng vậy, đều tùy tâm sinh, tùy tâm mà diệt, như huyễn như hóa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, chúng chẳng phải tâm, cũng chẳng lìa tâm, không phải đến, không phải chẳng đến, không phải đi, không phải chẳng đi, không phải sinh, không phải bất sinh, không phải tác động, không phải chẳng tác động.
Đại Bồ Tát Địa Tạng, bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Này thiện nam tử! Nếu luôn luôn dùng đức tin, tu tập hai Pháp quán tâm như vậy, mau được ngộ ra đạo lý nhất thừa. Nên biết, quán Pháp duy tâm duy thức như vậy, gọi là ngưỡng cửa trí tuệ cao tột hơn hết. Ngưỡng cửa này có thể khiến cho tâm của hành giả mạnh mẽ bén nhạy và thêm lớn sức tin hiểu, nhanh chóng vào nghĩa không của Đại thừa, và phát được tâm Vô thượng Đại Bồ Đề.
Trên đây là nói về Pháp quán Duy tâm Duy thức.  

Nếu muốn học tập Pháp quán Thật tướng Chân như thì: Hành giả tư duy về tính của tâm vốn không sinh, không diệt, không trụ vào cái thấy nghe hiểu biết, lìa hẳn tất cả những tưởng phân biệt, lần lần có thể vượt qua tướng cảnh giới của các định không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Được tương tự với không tam muội, thì tướng phân biệt thô của Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng hiện ra trước từ đó mà tiến tu thêm, sẽ làm bậc thiện tri thức, với lòng từ bi quảng đại. Vì khéo bảo nhiệm và trưởng dưỡng, cho nên lìa các chướng ngại, siêng tu chẳng bỏ phế lần lượt có thể vào tam muội vắng lặng của tâm. Được Tam muội đó rồi, lại liền có thể nhập Nhất hạnh Tam muội, nhập Nhất hạnh Tam muội rồi, thấy vô số đức Phật và phát những tâm hạnh sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn, trụ vào bậc Kiên Tín (32).
Trên đây là đường lối của hai Pháp quán Xa Ma Tha và Tỳ Bát Xá Na, chắc chắn được sự tin hiểu, có thể quyết định thú hướng Bồ Đề, tùy chỗ tu học các Tam muội Thiền định và sự nghiệp thế gian, nhưng không bị đắm trước, cho đến có thể tu khắp tất cả thiện căn của Pháp phần Bồ Đề, đối với sự sống chết không bị khiếp sợ, không thích Nhị thừa. Bởi nương vào phương tiện hay khéo, vô cùng vi diệu và khả năng tu tập bằng hai đường lối quán tâm này, có thể làm chỗ sở y cho các thứ trí tuệ và các hạnh căn bản vậy.

Lại nữa, tu học sự tin hiểu như trên gồm có hai hạng người. Thế nào là hai? Một là hạng căn tính lanh lợi. Hai là hạng căn tính chậm lụt.
Hạng căn tính lanh lợi: Người này trước đó đã biết: Tất cả các cảnh giới bên ngoài, duy tâm tạo ra, hư dối chẳng thật, như mộng, như huyễn, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa, năm món cái nhẹ mỏng, tâm tán loạn cũng ít. Hạng người nói trên, nên học tập ngay Pháp quán Thật tướng Chân như.
Hạng người căn tính chậm lụt: Hạng này trước đó chưa thể biết tất cả các cảnh giới bên ngoài, đều chỉ là tâm, vì hư dối không thật. Tình thức nhiễm mắc của họ dày đặc, năm món cái nhiều phen nổi lên, tâm khó điều phục, thì trước hết phải nên học Pháp quán duy tâm thức. Nếu người nào, tuy học sự tin hiểu như vậy, nhưng chủng tử thiện căn còn mỏng, chưa thể tiến lên, các phiền não xấu ác chẳng bị bẻ dẹp lần lần, và tâm những người ấy nghi ngờ khiếp nhược, sợ đọa vào ba đường ác, hoặc sinh vào chỗ tám nạn (33), sợ chẳng thường được gặp đức Phật, chư vị Bồ Tát, các bậc Thánh nhân, chẳng được cúng dường nghe nhận chính Pháp, sợ hạnh Bồ Đề khó thể thành tựu… Có các thứ nghi sợ và những chướng ngại như thế v.v…thì nên trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, thường xuyên tụng niệm danh hiệu của Ta, Địa Tạng Bồ Tát. Nếu được nhất tâm thì căn lành sẽ thêm lớn và ý chí người ấy dõng mãnh lanh lợi. Lại thêm quán Pháp thân của Ta, và Pháp thân của tất cả các đức Phật, với tự thân của mình thể tính đều bình đẳng, không hai không khác, chẳng sinh chẳng diệt, có đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, công đức tràn đầy. Đó là điều đáng nên nương tựa. ....(Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)