QUÂN TỬ TẠO MỆNH: ĐOÁN GIẢI THIÊN CƠ - CHIẾN THẮNG THIÊN MỆNH - NIỀM HY VỌNG VINH QUANG

CÁC DỊCH VỤ TƯ VẤN CÁ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP
KHẨU HIỂU:
TÌM CÁT TRÁNH HUNG - CẢI MỆNH NHƯ Ý - NGŨ PHÚC LÂM MÔN

+ XEM SỐ MỆNH VÀ TV PHÁP CẢI MỆNH CÁT TƯỜNG - VUN BỒI HY VỌNG: Xem tại đây

+ MỞ LỚP HỌC DỰ ĐOÁN TỨ TRỤ VÀ QUẺ DỊCH THƯỜNG XUYÊN: Xem tại đây

+ PHÁP TU PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ TOÀN DIỆN - THÀNH BẬC THIÊN TÀI. Xem tại đây

+ NHẬN TƯ VẤN THIẾT KẾ THEO PHONG THỦY VĂN PHÒNG VÀ NHÀ Ở HỢP MỆNH VẬN.

+ MỞ LỚP TU "THIỀN TRÀ" VÀ TU THIỀN LẬP HẠNH GIÚP XA LÌA TÀ DỤC THƯỜNG XUYÊN

+ HỘI QUÁN CAFE PHONG THỦY: HỎI - ĐÁP VỀ BỒI CÁT TRÁNH HUNG - GIẦU CÓ AN KHANG - XA LÌA TÀ DỤC - PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ .... 

* Dịch vụ và Hỏi - Đáp tại số 301 Minh Khai, tầng 4 tòa nhà TTTM Thanh Ngọc, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh: Xem tại đây

* TƯ VẤN MIỄN PHÍ vào Sáng thứ bảy hàng tuần, kính xin liên hệ trước để chúng tôi tiếp đón quý khách được chu đáo!

 Kính chúc quí vị luôn bình an, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý - Niềm hy vọng vinh quang!

+ Kính xin mời đọc kỹ: Hướng dẫn Dịch vụ

Văn Thù Chiêm Bốc Pháp [Tâm linh]

VĂN THÙ CHIÊM BỐC PHÁP
(Giành cho người ăn chay, giữ ngũ giới, hành Thập thiện và Bát chánh đạo)
(Kết quả dự đoán phụ thuộc vào Tâm của hành giả)

 I. PHÉP QUÁN NGÀI VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

Phép tu mật thừa Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đặc biệt thân thể Ngài có nhiều loại màu sắc khác nhau như: Bạch Văn Thù (thân Ngài màu trắng), Hoàng Văn Thù (thân Ngài màu vàng), Hắc Văn Thù (thân Ngài màu đen), Hồng Văn Thù (thân Ngài màu hồng). Pháp tu trong cuốn sách nầy lấy Ngài Văn Thù có thân màu vàng (Hoàng Văn Thù) để tu tập.

Cách quán tưởng của pháp nầy:
c) Quán chính mình hóa thành ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
d) Cũng có thể quán Ðức Văn Thù Bồ Tát đối diện với mình.

Phép quán đầu gọi là “Tự Sanh”, phép quán sau gọi là “Ðối Sanh.” Chúng tôi không thảo luận về “Tự Sanh” ở đây bởi vì phương pháp tu hành pháp môn nầy đòi hỏi phải có trình độ căn bản về Mật Tông. Người đã tu qua căn bản Mật Tông rồi thì không thể dùng bút mực để hướng dẫn được. Cho nên chỉ bàn đến “Ðối Sanh” để độc giả tiện tu tập mà thôi.
Trong lúc tu tập nên quán Không, tức là tinh thần không để ý vào một chỗ nào cả kể cả chung quanh mình, chỉ chú tâm vào hoàn cảnh trước mặt mà quán thành hư không. Trong hư không, ngang tầm nhìn trước mình có một Hoa sen màu xanh ngàn cánh, trên Hoa sen có một mặt trăng tròn màu trắng. Trên mặt trăng có một chữ tự chủng của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Chữ nầy đọc âm “Ði” (Dhi). Quán tưởng chữ tự chủng nầy màu vàng nhưng không phải là màu vàng chanh(vàng nhạt), tốt nhất là màu vàng cam.
Quán tưởng chữ tự chủng Dhi đang phóng ra ánh sáng hóa thành ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, thân thể Ngài cao chừng hai thước, Bồ Tát có một mặt, hai tay, thân màu vàng (như màu của tự chủng). Trên đầu ngài đội mũ Ngũ Phật, thân thể trang nghiêm với những tràng hoa, cánh tay đeo vòng, cườm tay đeo xuyến, chân đeo vòng. Ngài đeo 3 xâu chuỗi: xâu thứ nhất vòng quanh cổ, xâu thứ nhì vòng quanh đến ngực, xâu thứ 3 vòng quanh đến rốn. Bồ Tát ngồi kiết già trên mặt trăng, sau lưng có mặt trời màu hồng. Ngài mặc quần thao, lưng đeo đai màu, hiện thân một đồng tử khoảng 16 tuổi. Tay phải Bồ Tát cầm kiếm, đầu mũi kiếm phóng ra ngọn lửa trí tuệ, tay trái cầm một đóa hoa sen xanh ( thanh liên hoa), trên hoa có một quyển kinh Bát Nhã. “Bát Nhã” tức là Trí Tuệ. Chính giữa vùng tim Bồ Tát phóng ra một tia sáng màu vàng chiếu thẳng đến vùng ngực của người tu tập và nơi đây cũng có ánh sáng màu vàng đang quay tròn.
Như trên đã trình bày từng bước một đề quán tưởng, việc nầy cũng không khó khăn lắm, chỉ chuyên tập một thời gian có thể có được một vầng ánh sáng của Bồ Tát. Ðiều quan trọng nhất là nên đem ánh sáng từ tâm luân của Bồ Tát phóng ra để quán tưởng thành ánh sáng thật trong sáng, càng sáng càng tốt. Trong lúc ban đầu quán tưởng có một chút tiến bộ nên trì thần chú của Ngài Văn Thù như sau:

Om Ah Ra Pa Tsa Na Dhi

Âm Hán Việt:

Ông A Na Ba Tra Nả Ðích

Trong câu chú 5 chữ “A Na Ba Tra Nả” đại biểu cho 5 vị Phật khác nhau. Chữ Ðích như đã nói ở trên là chữ “Dhi”, chữ tự chủng của Ngài Văn Thù. Sau đây sẽ tường thuật thêm.
Niệm câu chú của Bồ Tát càng nhiều càng tốt. Trong lúc niệm hãy quán tưởng “Ðối Sanh” tâm luân của Bồ Tát phóng ra ánh sáng màu vàng rất mạnh, tùy theo âm của chú mà bánh xe quay từ từ, ánh sáng màu vàng cũng quay theo.
Ðó là cách thực tập quán tưởng cùng với cách niệm chú (khoảng 21 lần, tốt nhất niệm đủ một chuỗi) là có thể bắt đầu tiên đoán. Sau đó phải tiếp tục niệm chú và luyện tập quán tưởng thường xuyên không nên chểnh mảng.

II. PHÉP TIÊN ÐOÁN

Trong lúc tiên đoán, trưóc hết phải quán tưởng đối sanh với tâm luân của Ngài Bồ Tát Văn Thù, phóng ra ánh sáng màu vàng thật rõ ràng. Lúc nầy chấp tay và tụng niệm bài văn cầu xin dưới đây:

Ðại Trí Diệu Cát Tường đồng tử
Trí nhãn tam thời vô chướng ngại
Quy y Tam Bảo tam căn bản
Tâm hữu nghi hoặc cầu khai thị

Chữ tam thời trong bài tụng trên là quá khứ, hiện tại, và tương lai. Vì có khả năng vô ngại nên quan sát được 3 thời, biết được nhân qủa thành bại của sự vật. Do đó mà nói ra được những lời dự đoán trước.
Tam Bảo là Phật Pháp Tăng. Mật Tông Tây Tạng, chữ Tăng không những chỉ các vị xuất gia mà còn chỉ cho tất cả những người tu hành theo Phật Pháp.
Tam căn bản là Căn bản thượng sư, Căn bản bổn tông, và Căn bản không hạnh. Theo kinh Mật Tông, người được Thượng Sư truyền pháp Quán đảnh tuy không có Tam căn bản, mà chỉ có quy y Tam Bảo cũng được.
Theo phép tiên đoán truyền thống của Mật Tông Tây Tạng, những dụng cụ để tiên đoán là hột súc sắc. Hột gồm có 6 mặt khắc 6 chữ của thần chú như sau:

1 = Ah, 2 = Ra, 3 = Pa, 4 = Tsa, 5 = Na, 6 = Dhi.
Vị trí của 6 chữ cũng giống như hột súc sắc thông thường. Chữ trên mặt 1 và mặt 6 đối điện nhau, mặt 2 và mặt 5 đối nhau, mặt 3 và 4 đối nhau.
Trong khi tụng niệm những câu cầu xin, hai lòng bàn tay chấp lại, quán tường ngay tâm luân Bồ Tát phóng ra ánh sáng chiếu đến hột súc sắc. Nếu như lắc hột bằng một hộp đựng hột thì sau khi niệm tụng xong dùng tay cầm hột bỏ vào hộp. Nếu không có hộp thì hai tay bụm lại tự nhiên; rồi bỏ hột vào 2 lòng bàn tay, sau đó niệm chú 21 biến, quán tưởng luồng ánh sáng màu vàng từ tâm luân nơi Bồ Tát chiếu thẳng đến hột. Trong khi niệm chú, tâm nghĩ đến sự việc cần tiên đoán, sự việc nầy chỉ hạn định một vấn đề mà thôi. Ví dụ: hỏi bệnh, thì quý vị có thể hỏi bệnh tình biến chuyển tốt hay xấu. Thầy thuốc có đúng chuyên khoa không, phương pháp trị liệu có thích hợp không (ví dụ: có nên nghe theo lời dặn của thầy thuốc không? ..) Nhưng không đem vấn đề đã hỏi để hỏi lại một lần nữa, mà chỉ đem vấn đề khác để xin tiên đoán mà thôi. Sau khi niệm chú của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát xong, trong tâm phải nghĩ ngay đến vấn đế muốn hỏi và tiếp tục tụng chú Nhân Duyên sau đây:

Om Yea Dar Ma
Heh Too Pra Bah Wah
Ta Tha Ga Toe
Ha Ya Wa Tet
Tay Ken Cha Yo
Nec Ro Da
Eh Wam Wa Dee
Ma Ha Shra Ma Na
So Ha

Chú nầy có thể chuyển thành bài tụng Hán Việt như sau:

Chư Pháp nhân duyên sanh
Pháp diệc nhân duyên diệt Thị chư Pháp nhân duyên Phật Đại Sa Môn thuyết.

Ý nghĩa của bài tụng: nói về tất cả các pháp (sự vật và hiện tượng), tất cả đều do nhân duyên sanh, duyên đủ thì sanh, duyên hết thì diệt, nên gọi là duyên khởi. Ví dụ như trồng cây, có ánh sáng mặt trời, mưa, sương mù thì sẽ nẩy mầm, nở hoa. Ánh sáng, mặt trời, mưa, móc là duyên. Nếu không có ánh sáng, mưa, móc gọi là duyên không đủ, do đó mà ta có thể quyết định là không có hoa nở. Tất cả những điều chúng ta muốn hỏi kỳ thực đều như vậy cả, đều nằm trong vòng nhân duyên của hiện tượng và sự vật mà thôi.
Tụng niệm xong, là nghĩ ngay đến vấn đề muốn hỏi, lắc hộp đựng hột, chí tâm ý để phát sanh ra một ý niệm ngưng nghĩ, lập tức ngừng lại và xem hột súc sắc đang ở chữ gì trong câu chú. Nếu không dùng hộp lắc hột, có thể với lòng thành buông thả hột xuống cũng có được một chữ của chú.
Xong một lần rồi, có thể làm tiếp lần thứ hai, lần nầy không nên tụng chú và tụng bài văn lại, mà chỉ quán tưởng ánh sáng vàng nơi tâm luân của Bồ Tát phóng ra chiếu thẳng vào hột súc sắc.
Sau khi xong 2 lần xin quẻ, hãy tìm lời giải đoán đúng theo số và tên quẻ đã xin. Nếu không có hột súc sắc đúng với bộ sách nầy, có thể dùng hột thường cũng được. Nên dùng hột mới và so sánh số của hột nầy với số thứ tự chữ của câu chú mà biết số quẻ.
Ghi chú của người dịch: Nên nhớ một quẻ phải có 2 số hoặc 2 chữ và mỗi một số hay chữ phải xin 1 lần.
Tiến trình xin một quẻ có 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 là xin số và chữ đầu của quẻ:
4. Tụng bài văn Cầu xin đồng thời bỏ hột vào hộp lắc.
5. Tụng chú của Ngài Văn Thù đồng thời lắc hột.
6. Tụng bài văn Nhân duyên để biết số và chữ đầu của quẻ.
Giai đoạn 2 là xin số và chữ thứ nhì của quẻ:
7. Không tụng chú và bài tụng lại.
8. Chỉ quán tưởng và làm những động tác như trên.

Dùng Các Dụng Cụ Khác Để Tiên Đoán

Ngoài các phương pháp tiên đoán theo truyền thống như dùng hột súc sắc còn có thể dùng nhiều cách khác để thay thế. Như đã trình bày ở phần trước, ngài Ðôn Châu Ninh Ba Xa (Dudjom Rinpoche) đã dùng chuỗi hột để tiên đoán. tức là một lòng quán tưởng Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát phóng quang chiếu đến chuối hột, trong tâm trí tưởng đến vấn đề muốn hỏi, sau đó dùng đầu chuỗi hột tức là nơi bình Cam lồ làm trung tâm điểm thuận tay nắm lấy một đoạn chuỗi hột, xong hướng về phía đầu chuổi (phía có bình Cam lồ đếm từng đoạn, 6 hột cho mỗi đoạn, khi gần đến đầu chuỗi xem số thừa còn lại nhiều hay ít, nếu như thừa một hột tức là quẻ chữ Ah, thừa 2 hột là quẻ chữ Ra. Cứ như vậy mà tìm các chữ khác. Nếu như số lượng qua 2 lần tức là qua 2 chữ của câu chú là có được một quẻ. Còn có nhiều phương pháp khác như dùng gạo con cờ, hoặc tờ giấy v.v…để xin quẻ theo cách trên.

III - NGUYÊN TẮC TIÊN ĐOÁN
A. Nguyên tắc tiên đoán
Dùng bản phép tiên đoán phải biết một số nguyên tắc như sau:
1) Mỗi quẻ (tức lắc hột hai lần) nhưng chỉ hỏi một vấn đề.
2) Đối với vấn đề trọng đại, có thể kiểm tra lại quẻ nghĩa là sau khi xin được một quẻ rồi lại quán tưởng vấn đề cũ muốn hỏi để xin một quẻ nữa.
a. Nếu như xin 2 lần mà được 2 quẻ giống nhau thì câu trả lời là rất chắc chắn.
b. Nếu như 2 chữ chú của 2 quẻ bị đảo ngược với nhau, ví dụ như quẻ thứ nhất đựơc Ah-Ra, quẻ thứ nhì là Ra-Ah, như vậy là lời giải chưa chính xác. Nên quán tưởng trì chú lại một lần nữa, sau đó mới tiến hành xem quẻ lại.
c. Nếu như 2 quẻ khác nhau, lời giải đoán cũng không giống nhau. Chắc chắn lời giải đoán của quẻ thứ nhất là không chính xác, cho nên phải quán và xin quẻ lại.
3) Một số vấn đề cần phải phân biệt cả hai phía được tiên đoán như thưa kiện nhau, quí vị trước tiên phải xin hỏi cho chính mình có thể thắng được không. Sau đó mới xin hỏi cho đối phương có thắng hay không. Phải tham cứu cả hai quẻ thật rỏ ràng, thông thường thì lời giải là chính xác. Nếu cả hai phía đều bị bại cả, thì thuộc loại cả hai bên đều được hòa giải.
4) Vấn đề liên hệ với nhau cà dính líu đến nhiều người có thể nên quán tưởng diện mạo từng người một khi họ đến xin tiên đoán. Ví dụ: Như sự liên quan đến một nhóm người cuả một công ty, giả như sự kiện dính líu đến 3 nhân viên trong công ty đó, thì có thể chia làm 3 lần xin quẻ cho mỗi người riêng biệt để biết được thái độ từng người, xem ai có lợi cho mình và ai gây trở ngại cho mình.
5) Đối với các vấn đề: pham pháp, những việc không hợp lý… thì không nên tiên đoán. Ví dụ: Lấy của công có thành công không?
6) Vấn đề thuộc về cờ bạc, ăn chơi…không nên tiên đoán. Ví dụ: không thể tiên đoán về đua ngựa, đánh chim, các loại được, thua, thắng, bại…
7) Những vấn đề cần phải tiên đoán hai lần theo thời gian như: đi du lịch, nếu xin được quẻ không tốt, thì một tháng sau có thể xin lại. Còn như việc buôn bán, nếu xin được quẻ không tốt thì có thể xin lại vấn đề phát triển tiếp theo như thế nào.
8) Phàm khi tiên đoán thì tâm trí phải an bình, không nên nghĩ trước lời dự trong trí, lời giải nầy ắt rằng không chính xác.
9) Trong khi xin quẻ lại, tốt nhất là phải nghỉ ngơi một chút, sau đó niệm chú ngài Văn Thù Sư Lợi, chờ cho tâm trí bình thản, tâm nghĩ đến tốt hay khaông tốt phải giảm thiểu tối đa, khi đó mới bắt đầu xin quẻ.
10) Không được khởi tâm nhớ đến sự thù hận cũ nếu có, lòng trả thù không được dấy lên khi xin quẻ. Nên biết rằng tất cả mọi sự kiện đều liên quan đến nghiệp lực, vì thế mà bất luận tốt hay xấu, tâm khí đều phải bình lặng để có được biện pháp suy nghĩ riêng biệt. Nếu còn sanh chấp trưóc chắc chắn việc xin quẻ để tiên đoán sẽ không chính xác.
B. Phương Pháp Suy Đoán
Sau khi xin được một quẻ, có thể tìm lời giải quẻ ấy trong 36 quẻ ở sách nầy. Phương pháp tìm kiếm rất đơn giản. Ví dụ: xin được quẻ Ah Ah, tức có thể tra theo chữ, cũng có thể tìm theo số 1-1. Lại như xin được quẻ Na Pa, tức có thể tìm theo số 5-3…
Mỗi một lời giải của quẻ, đầu tiên cho thấy biểu tượng của quẻ, như là loại “Vô vân tình không” nghĩa là “Trời trong mây tạnh” Nhờ vào biểu tượng của quẻ nầy mà có thể đoán được sự lành, dử, tốt,xấu.
Mỗi một biểu tượng của quẻ trong sách đều có ghi thêm lời giải thích, làm sáng tỏ ý nghĩa của biểu tượng. Người tiên đoán phải lưu tâm vấn đề nầy bởi vì có khi cho những thí dụ theo ý riêng của mình sẽ bị sai lạc với lời lý giải của quẻ trong sách. Chẳng hạn như quẻ “Vô vân tình không”, một số người giải rằng: trong sáng, sáng sủa. Nhưng theo lời giải thích trong sách nầy là “Tánh Không”, đây là một danh từ Phật học, người viết cũng đã vấp phải trường hợp nầy, nên tùy theo loại văn mà giải thích để đọc giả tiện lý giải.
Sau khi có biểu tượng của quẻ rồi, sẽ thấy một tín hiệu rất đơn giản, tín hiệu nầy là một loại cương lĩnh để suy đoán một quẻ. Có khi một số tín hiệu lại có liên quan đến Mật tông, một số người không dể gì lý giải nổi. Ví dụ: quẻ “Long Thần đích vĩ”, nghĩa là “Đuôi của loại Long Thần”, người không biết thì nói rất khó mà hiểu được ngụ ý của nó. Người viết cũng đã cho lời giải thích rõ ràng.
Sau tín hiệu là các tiết mục để tiên đoán. Toàn bộ cuốn sách nầy đã biên soạn theo hoàn cảnh xã hội của Tây Tạng cho nên có nhiều điều không thích hợp với xã hội người Hán hiện đại. Ví dụ như chăn trâu giữ dê, tu phép lợi hại, những điều nầy rất ít liên quan đến chúng ta, cho nên người viết đã sửa chữa lại để thích hợp với đọc giả. Sự sửa chữa đã ghi ở trước, người viết cũng đã tu học xong 3 buổi “Hoàng Văn Thù pháp” và đã tu một khóa Thượng Sư pháp. Trong lúc tu pháp, thắp một loại hương đen trước bàn Hộ Pháp, tro hương đã kết thành một khối, đây là điềm rất tốt có thể tượng trưng cho phương pháp tiên đoán của cuốn sách nầy là đủ để truyền bá rộng rải ra ngoài và lưu truyền mãi mãi. Nói thực ra, nếu như vì lợi ích riêng tư người viết sẽ không sửa đổi những điều cần thiết trong cuốn sách nầy, thà rằng để vậy dành cho người chuyên dùng lại dễ kiếm lợi hơn. Nay chỉ vì sự thích hợp trong vấn đề truyền bá Mật Tông tại Trung quốc cho người thế tục, nếu có người thấm nhuần được pháp Mật thừa nầy mà được lợi ích, vậy là đã tiến được một bước về nhận thức mật pháp, tu trì mật pháp, những điều đó đã đưa đến mục đích là sửa đổi lại cuốn sách nầy.
Sau khi hiệu đính, sắp xếp chi tiết các mục giải đoán gồm có 12 loại được giải thích rõ ràng như sau:
1. Gia Trạch: Liên quan tới sự hưng thịnh của gia đình, bao gồm sự thay đổi, tăng giảm, hao tổn về sản nghiệp, gia tộc đến con người được bình an không, nhất là sự bình an của chính người đoán, đôi khi cũng bao gồm cả việc thêm, bớt số người trong gia đình.
2. Tài Phú: Sự giàu có hay hao tổn cá nhân, buôn bán có thịnh vượng không. Tuy nhiên loại nấy chỉ cho biết một loại, nếu có một mục đích đặt biệt như muốn buôn bán một loại hàng nào đó mà cần bàn thảo xem thử có thành công hay không, thì nên tham khảo lời giải đoán của mục “Mưu Vọng” hoặc “Thỉnh Thác”.
3. Mưu Vọng: Liên quan đến sự nghiệp, mục đích và nguyện vọng của sự nên làm hay không nên làm, được như ý hay không như ý. Ví dụ: Di dân có được tốt không? tức thuộc phương diện tiến hành hay ngưng lại (thuộc sự mong mong muốn ), hay là thi nhập học cũng thuộc vào loại nầy.
4. Nhân Sự: Chủ yếu là liên quan đến sự nghiệp, sự giàu có của những người có quan hệ, ngoài ra liên quan đến người khác thì tham khảo mục “Thỉnh Thác” nghĩa là hỏi chuyện người khác.
5. Cừu Oán: Chỉ ra cho bạn mọi mặt để bạn có thể đạt được đối với người đối nghịch, bao gồm cả sự tai tiếng tốt, xấu.
6. Hành Nhân: Tiên đoán người khách đi có được bình an không, khi nào thì trở về...
7. Tật Bệnh: Liên quan đến tình trạng sức khõe, tốt nhất là tự mình xin quẻ, hoặc trực tiếp nhờ người khác xin giúp, nếu như nhờ người khác thay mình để xin quẻ thì mức độ chính xác có sự sai khác. Như người đang lâm trọng bệnh, nên nhờ người thân thuộc trực hệ xin quẻ giúp (con, cháu...)
8. Ma Sùng: Đây là một mục có màu sắc tôn giáo, nhũng ai đang gặp sự bất lợi hoăc bệnh tật liên miên, nên xin tiên đoán về mục nầy để xem thử có phải là bị ma quỷ quấy nhiễu hay không. Mục nầy cũng bao gồm cả nhà ở, sở làm việc, có phong thủy (địa lý) không thích hợp. Tuy nhiên cần phải chú ý là khi hỏi về mục nầy thì đừng hỏi về mục khác. Còn nếu có hỏi về các mục khác thì không chịu ảnh hưởng bởi mục nầy. Ví dụ: Hỏi bệnh thì không nên xem lời giải thích mục nầy vì rất dể dàng lầm lẫn giữa bệnh hữu hình và bệnh do Ma Sùng gây nên.
9. Thất Vật (Mất Đồ): Xin quẻ để biết vật bị mất có tìm lại được không, tìm lại ở đâu.
10. Thỉnh Thác (Xin Giúp Đỡ): Cùng với người khác bàn luận, xem thử có đạt được mục đích của mình không, có được ngưòi ủng hộ giúp đỡ không.
11. Hôn Nhân: Bao gồm tình huống những người đã có gia đình và nguyện vọng của những người chưa lập gia đình.
12. Kỳ Tha (Những chuyện khác): Mục nầy chỉ nói ra có tính cách suy đoán, những sự việc không có đề cập trong 11 tiết mục trên.

C. Ý Nghĩa Của 6 Chữ Chú
Ah-Ra-Pa-Tsa-Na-Dhi, đây là 6 chữ chú, ngoài sự lập thành mỗi quẻ 2 chữ và giải thích lời đoán còn có ý nghĩa riêng của mỗi chử mà trong lúc giải đoán cần phải tham khảo.

1. Ý nghĩa căn bản:
AH: Chấm dứt tất cả mọi tai ách, tăng ích, tiêu trừ 4 loại lực lượng. Vì vậy mà chữ nầy có thể nói là có một đặc tính riêng. Chính vì lý do nầy nên riêng lẻ chữ nầy đã cho một nghĩa có tính cách phổ biến, cho nên không được rõ ràng lắm.
RA: Nghĩa là hàng phục. Nếu chữ nầy đứng đầu trong một quẻ thì biểu thị tự mình có đủ sức để hàng phục đối phương (làm cho đối phương theo mình). Nếu chữ nầy là chữ thứ hai của quẻ, biểu thị chính mình sẽ nhượng bộ đối phương.
PA: Nghĩa là chấm dứt tai họa. Do đó thuộc loại hòa bình, bất động. Nếu là chữ đầu trong quẻ cho thấy tai họa của chính mìnhsẽ được qua khỏi, nếu là chữ thứ nhì biểu thị đối phương bất động. Do đó giả như thay người để xin hỏi bệnh. Xin được chữ PA đứng thứ hai trong quẻ, điều nầy cho thấy tật bệnh sẽ kéo dài triền miên (vì bất động nên đưa đến triền miên).
TSA: Nghĩa là rối loạn và phá hoại. Chữ nầy đi cùng với chữ RA đều thuộc về phạm vi “Hàng Phục” nhưng mức độ động, tỉnh lại khác nhau. Nếu là chữ đầu của quẻ cho thấy chính mình tâm trí bất an, có nguy cơ đến sự nghiệp… Nếu là chữ thứ nhì biểu thị đối phương bị nguy hiểm, và cũng có thể biểu thị đối phương bất hợp tác, đều thuộc loại phá hoại.
NA: Nghĩa là tăng ích. Nếu là chữ đầu quẻ cho thấy chính mình tăng ích, như lợi ích được tăng thêm, hay được thắng lợi trong các vụ tranh chấp… Nếu là chữ thứ nhì thì lợi ích thuộc về phía đối phương.
DHI: Nghĩa là ái kính. Nếu là chữ đầu của quẻ cho thấy mình được người khác tôn kính, trọng vọng, nhân duyên tốt…. Nếu là chữ thứ nhì biểu thị đối phương so với mình có nhân duyên hơn, nên dựa vào họ.

2. Lục Trần:
AH: Hư không - Là Tánh Không của nhà Phật.
RA: Lửa - Đốt, động lực, khô khan.
PA: Nưóc- Lạnh, phản tỉnh, ẩm thấp.
TSA: Gió - Loạn, động, không khí.
NA: Đất – Cứng cỏi, sinh đẻ.
DHI: Hiểu biết - Sức mạnh siêu nhiên, thần, quỷ.

3. Lục Căn:
AH: Tai – Tin đồn, truyền thuyết
RA: Mắt – Quan sát, mục kích, nhìn thấy
PA: Lưỡi - Khẩu thiệt, thị phi
TSA: Thân – Va chạm, tiếp xúc
NA: Mũi – Va chạm, tiếp xúc gián tiếp
DHI: Ý – Suy nghĩ, lo lắng

4. Lục Thức
AH: Thính giác – Nhĩ thức
RA: Thị giác - Nhãn thức
PA: Vị giác - Thiệt thức
TSA: Xúc giác- Thân thức
NA: Khứu giác - Tỷ thức DHI: Tư duy – Ý thức

5. Phương Vị (Vị Trí)
AH: Bao quát cả 5 phương (ngũ phương)
RA: Phương tây
PA: Phương nam
TSA: Phương bắc
NA: Phương đông DHI: Trung ương

6. Phật Bộ
AH: Phật bộ trung ương, Tỳ Lô Giá Na Phật
RA: Liên hoa bộ phương tây, A Di Đà Phật
PA: Bảo bộ phương nam, Bảo Sanh Phật
TSA: Sự nghiệp bộ phương bắc, Bất Không Thành Tựu Phật
NA: Kim cang bộ phương đông, Bất Động Phật
DHI: Phẫn nộ tôn trung ương, Đại Oai Đức Kim Cang

7. Màu Sắc
AH: Bao gồm tất cả các màu sắc như ánh sáng cầu vồng
RA: Màu hồng đỏ PA: Màu vàng
TSA: Màu lục
NA: Màu trắng DHI: Màu lam

8. Khí Quan (Nội Tạng)
AH: Phổi, khí quản, hệ thống hô hấp, đại trường (ruột già)
RA: Tim, hệ thống tuần hoàn, tiểu trường (ruột non)
PA: Thận, hệ thống tiết niệu, bộ phận sinh dục
TSA: Gan
NA: Tỳ, mật, vị (bao tử)
DHI: Tinh (đàn ông), noãn (đàn bà)

9. Hình Thể
AH: Hình thể không cố định
RA: Hình tam giác
PA: Hình tròn
TSA: Hình bầu dục
NA: Hình vuông, hình chử nhật
DHI: Hình thể do các hình khác ghép lại

10. Tam Giới
AH: Thiên giới (trời)
RA: Nhơn giới (người)
PA: Địa giới (đất)
TSA: Nhơn giới (người)
NA: Địa giới (đất)
DHI: Thiên giới (đặc biệt chỉ thế giới A-Tu-La)

11. Giới Tính
AH: Gồm cả hai tính: âm và dương
RA: Dương tính
PA: Âm tính
TSA: Dương tính
NA: Âm tính
DHI: Trung tính (những vật không phân biệt được âm hay dương hoặc nam hay nữ

12. Trí Tuệ
AH: Pháp giới thể tánh trí
RA: Diệu quan sát trí
PA: Bình đẳng tánh trí
TSA: Thành sở tác trí
NA: Đại viên cảnh trí DHI: Kim cang trí.

Người làm công việc tiên đoán, ngoài các lời giải của quẻ ra, phải thường xuyên tham khảo ý nghĩa của các chữ chú, thường thường phải hiểu rỏ ràng chi tíết thật tỉ mỉ của một điểm. Ví dụ như thái độ của đối tượng mà mình đang giao thiệp như thế nào, người ấy là nam hay nữ. Lại như trong trường hợp hội nghị, người đó mặc áo màu gì, có ủng hộ hay giúp đỡ về sự việc gì. Tất cả những chi tiết thuộc loại nầy nên để ý và nên biết rõ ràng. Lời giải đoán thường hay làm cho người ta giật mình, kinh sợ. Do đó phải nghiên cứu, học tập phương pháp tiên đoán trong cuốn sách nầy kỹ lưỡng không nên lơ đãng bỏ sót những biểu nghĩa của chữ chú.

IV PHẦN TIÊN ĐOÁN

A. Biểu tượng của 36 quẻ:
Ah -Ah (1-1): Vô vân tình không (Trời quang mây tạnh)
Ah- Ra (1-2): Đại nhật quang huy (Mặt tròi chói lọi)
Ah-Pa (1-3): Nguyệt cam lồ quang (Ánh trăng êm dịu)
Ah-Tsa (1-4): Minh tinh thiểm diệu (Ánh sao lấp lánh)
Ah-Na: (1-5): Hoàng kim đại địa ( Vàng có khắp nơi)
Ah-Dhi
(1-6): Kim cang thanh âm (Âm thanh kim cang)
Ra-Ah (2-1): Minh đăng (Đèn sáng)
Ra-Ra (2-2): Thiêm du (Thêm dầu)
Ra-Pa (2-3): Tử ma (Ma chết)
Ra-Tsa (2-4): Vương quyền (Quyền vua)
Ra-Na (2-5): Khô thọ (Cây khô)
Ra-Dhi
(2-6): Cát môn (Cửa tốt)
Pa-Ah (3-1): Cam lồ bình (Bình cam lồ)
Pa-Ra (3-2): Tử thủy đường (Nước tù trong ao đầm)
Pa-Pa (3-3): Cam lồ hãi (Biển cam lồ)
Pa-Tsa (3-4): Tai nạn ma (Ma tai nạn)
Pa-na (3-5): Kim liên hoa (Bông sen vàng)
Pa-Dhi (3-6): Cam lồ dược (Thuốc cam lồ)

Tsa-Ah (4-1): Cát tường bạch tán (Dù trắng rất đẹp)
Tsa-Ra (4-2): Đại hỏa diệm binh (Binh lữa qui mô)
Tsa-Pa (4-3): Không hư tâm trí (Tâm trí hư không)
Tsa-Tsa (4-4): Thăng dương thanh vọng (Âm thanh vang lên)
Tsa-Na: (4-5): Tụ hội quần ma (Ma quỷ hội hợp)
Tsa-Dhi
(4-6): Như ý bảo thọ (Cây quý như ý)
Na-Ah (5-1): Kim sơn (Núi vàng)
Na-Ra (5-2): Thiên ma (Ma trời)
Na-Pa (5-3): Bảo bình (Bình quý)
Na-Tsa (5-4): Sa khưu (Đụn cát)
Na-Na (5-5): Kim ốc (Nhà vàng)
Na-Dhi
(5-6): Bảo tàng (Kho báu)
Dhi-Ah (6-1): Diệu cát tường (Tên ngài Văn Thù)
Dhi-Ra (6-2): Như ý kết (Kết tụ những điều như ý)
Dhi-Pa (6-3): Mẫu kim ngư (Cá vàng mẹ)
Dhi-Tsa (6-4): Bạch pháp loa (Vỏ ố pháp trắng)
Dhi-Na (6-5): Kim luân bảo (Bánh xe vàng)
Dhi-Dhi (6-6): Thắng lợi tràng (Cờ thắng lợi)

B. Lời Giải 36 Quẻ

Đảnh lễ thập phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Đảnh lễ Cam Lộ Đại Hãi, Mật Thừa Pháp,
Đảnh lễ Hộ Trì Mật Pháp chư Thánh Chúng, Đảnh lễ Đại Trí Diệu Cát Tường Nhụ Đồng.

1. Quẻ 1: Ah-Ah (1-1)

Biểu tượng: Vô vân tình không (Trời quang mây tạnh)

Tình không vô vân nhi trình diện, Lai vấn quái giả tu tĩnh thính.
Tình không thanh tịnh, vô ô nhiểm, Nhữ tâm thanh tịnh ưng như thị.

Tạm dịch:

Bầu trời trong xanh không gợn tí mây
Nhưng có hiện ra, người đến xin quẻ hãy tỉnh tâm lắng nghe Bầu trời trong vắt không ô nhiễm, Tâm (của bạn) cũng nên giống như vậy.

Tín Hiệu: Âm thanh của hư không tăng gấp ba lần.

Âm thanh truyền đi trong hư không, tuy nhỏ nhưng truyền đi lại lớn. Người đến xin quẻ, trong vấn đề xử sự nên giöõ bình tĩnh, nếu chỉ hơi hoảng hốt (một tí xíu) thì việc nhỏ sẽ trở thành việc lớn, khó xử lý. Nếu loại
GIẢI ĐOÁN
trừ được tâm suy hơn tính thiệt mà xử sự công bình, ắt là gặt hái được kết quả tốt, tuy
họa mà thành phúc.

1. Gia trạch: (Nhà cửa, đất đai). Cả nhà đều bình yên, của cải và sanh mạng đều vô hại. Xin được quẻ nầy chỉ chủ về gia đình vui vẻ, chứ không chủ tăng thêm người.

2. Tài phú: Tiền bạc, của cải ổn định, phát triển như thường lệ, chỉ một điều là nhìn về phía truớc không được lạc quan lắm. Nếu cầu được lợi to, chắc chắn sẽ thất bại, không nên kinh danh kiểu đầu cơ, nếu đ ược vậy thì tất cả mọi việc sẽ tự nhiên tốt đẹp. Nếu gặp có sự cạnh tranh, nên giữ tâm bình thường mà xử sự. Vì vậy mà lời giải nầy để kiểm thảo lại sự nghiệp cũ, bất lợi nhất là sự đầu cơ.

3. Mưu vọng: (Sự mong muốn). Phàm cứ tự nhiên mà xử sự, theo lẽ phải mà làm, chắc chắn là không gặp trở ngại, sẽ đạt được mục đích. Lời đoán nầy tốt nhất đối với sự tiêu tai giải nạn, vì đây là biểu tượng của bỉ cực thái lai (cực rồi lại sướng). Vì thế mà tất cả mọi điều xấu đã hỏi đều thay đổi. Nếu trong lòng còn mưu tính việc đầu cơ, chắc rằng biểu tượng của quẻ không tốt như bầu trời quang đãng thình lình có mây che, đó là chướng ngại dồn dập đến.

4. Nhân Sự: Trước mắt sự quan hệ nhân sự rất tốt, cũng dễ dàng thay đổi mau chóng, vì vậy phải biết nắm thời cơ mà xử sự. Chuẩn bị để gìn giữ cho “Hoa được tươi” phải tụng “Bát Nhã Tâm kinh” để cầu đảo sự cải tiến về nhân sự mà không có hại cho mình. Kinh nầy nói về trí hụê Bát Nhả tức Tánh Không, làm cho con người nên biết dụng tâm bình thường (sẵn có) mà xử sự. Trí hụê Tự Tánh đó có khả năng thay đổi mọi tình huống đối đãi; nó không nịnh bợ, không sợ sệt cho nên người biết dụng nó chắc chắn sẽ có kết quả tốt đẹp.

5. Cừu Oán: Nên dùng tâm bình thường mà xử sự đối đãi với người, chắc là không có thù oán, thị phi cũng đều dứt, có sự kiện tụng cũng nên hòa giải.

6. Hành Nhơn: (Người khách) Người khách bình an, trên đường đi vui vẻ. Người khách sẽ đi đến nơi đúng hẹn, tin tức sẽ đến đúng kỳ.

7. Tật Bịnh: Người bị bịnh sẽ hồi phục. Chú ý đến phương pháp trị liệu, không nên giải phẫu lớn (đại phẫu)

8. Ma Sùng: Không có ma, không có sùng, không có quỷ, cũng không có thần theo quấy phá. Phong thủy thì theo thiên nhiên đã sắp đặt, thường mở cửa để cho ánh nắng mặt trời chiếu vào nhà buổi sáng rất tốt. Không nên bày biện quá nhiều thứ trong nhà.

9. Thất Vật: (Mất đồ) Đồ vật bị mất ở một nơi không xa lắm, có thể tìm lại được. Nếu không biết được chỗ đang để đồ bị mất thì không cách gì tìm lại được.

10. Thỉnh Thác: (xin giúp đỡ) Có nhờ giúp đỡ, người ta cũng đồng ý, nhưng cũng mất thời gian khá lâu, chớ người ta không giúp liền được. Nếu người ta không đồng ý giúp đỡ thì thôi, để ngày khác đến xin giúp đỡ lại.

11. Hôn Nhân: Người chưa lập gia đình, duyên đến tự nhiên thành vợ chồng. Người đã có gia đình rồi, thì không còn cách nào để thay lòng đổi dạ nữa. Nếu như người phối ngẫu của mình ngoại tình, cứ theo lẽ bình thường mà giải quyết, hoặc xử sự một cách tự nhiên, kết cuộc sẽ tốt.

12. Kỳ Tha: (Những chuyện khác) Trời quang mây tạnh là đại biểu cho Tánh Không, tức mọi pháp đều không có bản chất thật. Tất cả mọi sự, mọi việc trên đời đều do nhân duyên hội hợp. Hiểu được lý nầy thì thành, bại, thạnh, suy, được, mất cũng chẳng nên bận tâm thương tiếc. Lòng tham cầu nay không còn, tâm xảo quyệt cũng chẳng có, nếu như cứ tự nhiên như thế mà xử sự với người, chắc chắn sẽ chuyển họa thành phúc, duy trì được sự an lạc. Muốn cầu lợi thì phải làm tiêu tan việc hung xấu. Nếu cứ tích cực tìm cầu thì cơ hội thành và bại mỗi thứ một nửa.
Hành giả Mật Tông phải niệm nhiều “Bách Tự Minh” hướng về ngài Kim Cang Tát Đỏa mà cầu nguyện. Phật giáo đồ phải niệm nhiều “Bát Nhã Tâm Kinh” hoặc “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh”.
Như ý nghĩa lời giải đoán trong quẻ nầy là “Được Đại Vô Úy” (Tâm không sợ sệt). Vì thế người xin quẻ cứ yên tâm mà làm việc không cần suy tính được, thua.

2. Quẻ 2: Ah-Ra (1-2)

Biểu tượng: Đại nhật quang huy (Mặt trời chói lọi)

Đại Nhật Như Lai quang huy hiệu, Nhứt thiết ám khí tận quang minh.
Vấn giả ưu sầu đô tán tận,
Tồn tâm quang minh tức mãn nguyện.

Tạm dịch:

Đức Đại Nhật Như Lai đến trong hào quang rực rỡ, Đã đẩy lùi tất cả sự tối tăm mịt mù.
Những lo âu, buồn bã của người đến xin quẻ đều tan biến, Những điều bận tâm sẽ được sáng tỏ và mãn nguyện.

Tín Hiệu: Một nơi sạch sẽ không dính bụi trần .

Ngài Đại Nhật Như Lai là báo thân Phật, được tôn xưng là Đại Nhật biểu thị Phật pháp như ánh sáng mặt trời chiếu khắp mọi nơi phá tan hết tất cả bóng tối, có khả năng tiêu trừ vô minh của chúng sanh trong lục đạo. Vì vậy mà người đến xin quẻ phải giữ tâm thanh tịnh, trong sáng ngay thẳng, ắt được tốt đẹp. Tất cả những điều hung dữ đều tan biến, tất cả những điều tốt lành sẽ thành tựu. Nhưng nếu có ý tưởng mờ ám hoặc có hành vi không đứng đắn, chắc chắn là tự mình chuốc lấy tai họa. Vì ánh sáng rực rỡ của mặt trời phá tan bóng tối không kể mình hay người. Vậy nếu mình mờ ám thì ánh sáng mặt trời cũng phá luôn.

GIẢI ĐOÁN

1. Gia Trạch: Mọi việc không tốt đều tan biến, mọi người đều bình an. Nếu có người đàn bà lớn tuổi nhưng chưa có con, sẽ có tin vui là sẽ được sanh con trai.

2. Tài Phú: Nên làm nhiều việc thiện, tài sản sẽ tăng thêm. Trước đây vì gặp nhiều trở lực nên sự giàu có không đạt được như ý, còn nay thì trở ngại đã giảm dần, nên bỏ cũ theo mới để có thể khai triển kế hoạch mới.

3. Mưu Vọng: Dường như có một mạng lưới phiền não vây quanh mình, vì trước đây mọi sự việc đều không thuận lợi. Nếu bạn cắt được mạng lưới nầy, mọi việc sẽ chuyển xấu thành tốt. Lưới phiền não nầy bao gồm cả tâm lý và hiện thực, bạn có khả năng cắt đứt cả hai loại nầy. Trong khi quan hệ với người không tốt, bạn có khả năng chuyển họ thành người tốt.

4. Nhân Sự: Cách thích hợp nhất để biến thù thành bạn là anh nên thành thật. Đối phương nhất định sẽ hài lòng và anh sẽ có thêm người giúp đỡ. Có một vật giống như thủy tinh hay loại đá quí hoặc có màu đỏ mà ánh sáng của nó lấp lánh có thể giúp cải thiện được sự quan hệ với người khác. Bạn có thể mang hay đeo vật nầy theo mình hoặc dùng để làm quà tặng.

5. Cừu Oán: Không có cừu oán quấy nhiễu. Không có chuyện thị phi hay kiện tụng.

6. Hành Nhân (khách): Khách của bạn bình an. Tin tức sẽ đến. Không lâu nữa bạn sẽ có được tin tức chính xác của khách, tin tức tốt.

7. Tật Bệnh: Tật bệnh sẽ thuyên giảm nếu có, nhất là bệnh truyền nhiễm. Nếu cần nên giải phẫu. Bệnh mãn tính cũng dễ trở lại.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng quấy nhiễu. Phong thủy được cải thiện một cách tự nhiên. Nên chặt hết những cây cối và thu dọn những đồ vật nào che khuất ánh sáng mặt trời.

9. Thất Vật: Vật bị mật ở hướng tây nam đến mà tìm. Sẽ có người cho bạn biết tin tức về đồ vật bị mất.

10. Thỉnh Thác: Nếu có nhờ cậy người giúp đở sẽ được như ý. Trước đây người mà bạn nhờ không đồng ý giúp bạn, nay thì họ sẽ đồng ý.

11. Hôn Nhân: Người chưa lập gia đình sẽ gặp được ý trung nhân. Tốt nhất nên giải qưyết hết những khó khăn, trở ngại trên con đường tình yêu đến hôn nhân. Người đã có gia đình rồi thì vui hưởng hạnh phúc vợ chồng,

12. Kỳ Tha: Quẻ nầy lợi cho tất cả những điều muốn hỏi, đặc biệt tốy cho việc giải quyết mọi khó khăn, phá trừ mọi trở ngại. Duy có các câu hỏi về đất đai, nhà cửa cùng với các vật khác như các loại bàn ghế…là hơi xấu. Cho nên nếu người xin quẻ là hành giả Mật Tông phải tụng nhiều chú Văn Thù và cúng dường loại đèn dầu chất béo và cờ cầu đảo. Người theo đạo Phật nói chung nên tụng Bát Nhã Tâm Kinh để cầu xin. Làm được vậy thì lợi cho việc tiêu tai giải nạn.

3. Quẻ 3: Ah- Pa (1-3)

Biểu Tượng: Nguyệt Cam Lồ Quang (Ánh sáng trăng ngọt ngào, êm dịu)

Nguyệt sắc thâm lương như cam lộ, Tẩy địch trần tâm qui bình tĩnh.
Lai chiêm vấn giả tác thiện hành, Tức năng an hưởng chư phước báo.

Tạm dịch:

Màu trăng tươi mát như nước cam lồ,
Tẩy sạch hết bụi dơ trong lòng để quay về sự bình lặng, trong trắng.
Người đến xin quẻ phải làm việc thiện, Tức có thể an hưởng tất cả phước báo.

Tín Hiệu: Nguyện lực không trở ngại.

Gia trì lực của chư Phật và Bồ Tát thực ra là nguyện lực của chúng sanh. Có nguyện lực trong sáng và có tín tâm thì có được lực gia trì. Khi chúng sanh phát nguyện tuy thanh tịnh, trong sáng nhưng gặp một chướng ngại gì đó thì rất dể dàng trở thành bất tịnh. Tham, sân, và si là ba thứ độc chướng ngại một khi chúng sinh khởi.
Ánh sáng trăng trong mát, ngọt ngào có khả năng diệt trừ được ba độc gây khổ đau nầy, khiến cho nguyện lực chuyển thành thanh tịnh, do đó mà không có chuớng ngại. Vì vậy mà người đã có phát nguyện bất tịnh nên tỉnh ngộ tìm hiểu ý nghĩa của Tánh Không, lý Duyên Khởi…nhờ đó mà có thể nhận được gia trì lực của chư Phật và Bồ Tát. Như thế thì nguyện lực sẽ được viên mãn và hưởng được mọi phước báo.

GIẢI ĐOÁN

1. Gia Trạch: Nếu tu được pháp Mộc Dục (tắm rửa), pháp Trừ Chướng Ngại, ắt trong nhà tăng thêm người. Người tu phép Mộc Dục, trong lúc tắm gội hãy quán tưởng công dụng của nước để tắm rửa nầy sẽ được chư Phật, Bồ Tát phóng hào quang thanh tịnh đến. Người chưa tu Mật Pháp, trong khi quán tưởng phải tụng “Chú Văn Thù Bồ Tát” tức “ Om Ah Ra Pa Tsa Na Dhi” 21 biến.

Người tu phép Trừ Chướng Ngại nên lấy Kim Cang Tát Đỏa làm Bổn Tôn là tốt nhất, tuy nhiên tu các bổn tôn khác cũng được. Nếu người chưa tu Mật Pháp, chỉ cần chấp hai tay hướng về chư Phật và Bồ Tát mà cầu nguyện, sám hối tất cả những ác nghiệp đã tạo từ nhiều kiếp trước đến nay, rồi quán tưởng được sức gia trì của chư Phật và Bồ Tát từ ánh sáng cam lồ đang phóng ra.

Nhà cửa, người trong gia đình đều được bình an. Các chướng ngại và các loại khẩu thiệt đều được tiêu trừ. Nếu có người đang có thai sẽ sanh con gái.

2. Tài Phú: Tiêu trừ được chướng ngại và của cải, tài sản sẽ tăng. Việc nầy nên làm từ từ, không nên hành động gấp. Nếu có sự cạnh tranh thì sức cạnh tranh của đối phương sẽ tự nhiên biến mất.

3. Mưu Vọng: Đạt được mục đích, không gặp một trở ngại nào. Chướng ngại đã có thì tự nhiên bị tiêu trừ. Nếu có ý đồ dùng bạo lực để can thiệp hoặc hành động quá khích, ắt là bất lợi rỏ là tự tìm lấy rắc rối.

4. Nhân Sự: Cứ quan hệ với người thuận theo tự nhiên thì mọi sự tốt đẹp. Nếu như sự quan hệ trở nên xấu đi, dùng hoa màu trắng, nước sạch, thực phẩm màu trắng dâng cúng lên chư Phật và Bồ Tát. Không nên dùng quyền lực và tài lực mà gây ảnh hưởng người khác, hoặc có ý đồ buộc người khác phải giúp đỡ mình.

5. Cừu Oán: Chẳng có cừu oán. Kiện tụng đều được giải.

6. Hành Nhơn (Người Khách): Khách và tin khách sẽ đến ngay.

7. Tật Bệnh: Các bịnh cảm mạo và bịnh tiêu hóa sẽ thuyên giảm ngay. Không nên giải phẫu. Sẽ gặp được thầy thuốc giỏi.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng hay quỷ thần quấy nhiễu.

9. Thất Vật: Nếu nhờ một người đàn bà đi về hướng Nam hoặc hướng Bắc để tìm vật bị mất thì có thể tìm lại được. Người đàn bà sẽ mang đến tin vui.

10. Thỉnh Thác: Đi nhờ cậy giúp đỡ đều được như ý, nhất là nhờ phụ nữ. Khi đi nhờ vả nên có thái độ ôn hòa, không nên gây áp lực với họ.

11. Hôn Nhân: Người chưa lập gia đình sẽ gặp người tâm đầu, ý hợp. Người đã có gia đình rồi, hạnh phúc vợ chồng rất tốt. Nếu như người xin quẻ gặp sự khó khăn của một người thứ ba, thì nên thẳng thắng mà giải quyết với họ.

12. Kỳ Tha: Nói chung, quẻ nầy khuyên ta không nên dùng bạo lực hoặc thủ đoạn để giải quyết vấn đề. Nếu có phụ nữ dính líu vào, hay có trung gian giới thiệu sự việc thì có thể thành công, kết quả như ý. Nếu có điều kiện bất lợi, nên tìm một vị Lạt-Ma để xin phép Gia Trì Cam Lồ, thì có thể giảm thiểu sự mất mát hoặc giảm nhẹ hình phạt.

Nếu là tín đồ Mật Tông nên hành trì Bạch Độ Mẫu mà cầu nguyện, cũng có thể cúng bái Long Thần, hành nghi Mộc Dục ( tắm rửa), tu pháp Trừ Chướng, hoặc tu pháp Thượng Sư.

Phật giáo đồ chỉ cần đảnh lễ đức Phật Bảo Sanh. Ý nghĩa chung của quẻ là “Mây Lành Kết Tụ”.

4. Quẻ 4: Ah Tsa (1-4)

Biểu Tượng: Minh tinh thiểm diệu (Sao sáng lấp lánh)

Không tế minh quang cực minh lượng, Lai chiêm vấn giả hoạch cát tường. Duy tu hằng tâm dử nại tâm,
Thử cầu thương tốt nan thành biện.

Tạm dịch:

Trên trời ánh sao vằng vặc, Người xin quẻ được cát tường.
Chỉ nên giữ Tâm bình thường, nhẩn nại, Những điều cầu mà vội vàng thì khó thành tựu.

Tín hiệu: Viên mãn tụ hội, vô hữu tán ly (tập trung đầy đủ không phân tán)

Tín hiệu nầy cho thấy mọi sự đều viên mãn, những điều chưa đạt được sẽ được, những điều đã đạt được thì không bị mất. Đây là một quẻ tốt.

Tuy nhiên sự hợp tan của sự vật đều do sự quyết định của nguyên lý Nhân-Duyên. Cho nên người xin quẻ không nên lo lắng, sốt ruột. Nếu cẩn thận và chú ý hơn thì thiện nhân sẽ đưa đến thiện qủa. Vì quẻ nầy cho biết dựa vào tha lực và những điều kiện khách quan, nhưng đa phần thì dựa vào tự lực và những nỗ lực chủ quan. Vì vậy nên bình tĩnh chờ đợi thời cơ chín muồi.

GIẢI ĐOÁN

1. Gia trạch: Nếu thắp hương và treo cờ cầu đảo để cầu nguyện thì tình hình gia trạch sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Có thể tránh được những sự cải cọ, khẩu thiệt; đồng thời bịnh tật cũng được tiêu trừ. Nếu trong gia đình có người mang thai sẽ sanh con gái.

Ghi chú: Cờ cầu đảo là một lá cờ nhỏ 5 màu (ngũ sắc) gồm các màu: hồng, lam, lục, trắng, và vàng. Trên lá cờ có ghi bài văn cầu đảo, kết thành xâu treo trước nhà.

2. Tài phú: Tài sản tăng thêm. Sẽ nhận được tặng vật như đồ gỗ, gia súc, vải, tơ màu lục. Thời cơ đã đến

3. Mưu vọng: Đối với việc đi xa như buôn bán, du lịch rất tốt và vui vẻ. Nếu tính toán làm ăn những việc có tính cách tĩnh ắt bị trở ngại vì quẻ nầy chủ về động, do đó mà không nên tĩnh (thụ động hay chờ ngưòi làm dùm cho mình.)

4. Nhân sự: Có tin tức tốt đến. Có thêm thư từ và giấy tờ báo tin tốt đến, nhờ vào những văn kiện và thư tín nầy mà có được sự giúp đỡ lớn lao. Chung chung mà nói thì quan hệ việc đời tốt, nhưng nên ở thế chủ động, không nên nhờ cậy người khác.

5. Cừu oán: Không có cừu oán, kiện tụng, hay thị phi.

6. Hành nhân: Khách và tin tức sẽ đến, khách phương xa trên đường đi rất vui vẻ.

7. Tật bịnh: Có bịnh về khí, tinh thần rối loạn bất an. Tuy nhiên không phải là bịnh nặng, nghỉ ngơi sẽ khỏe mạnh trở lại. Nên cúng Tổ Tiên. Có thể giải phẫu. Quẻ định là bình an. Bệnh mạn tính nên đề phòng bệnh gan.

8. Ma sùng : Không có loại ma hay thần nào quấy nhiễu mà chỉ do chính bản thân mình có tâm tình bất an. Do lòng nghi ngờ sinh ra quỷ ám tự thân. Vì thế cần thiết phải ổn định lại tinh thần mình.

Về phong thủy, ở hướng Đông bị khuyết điểm, hoặc có cây chắn, cột cờ, hay trụ đèn … không thích nghi với phướng. Có thể treo cờ cầu đảo màu hồng hoặc hóa giải bằng chú “Luân Vương”.

Ghi chú: Mật Tông có đủ các loại Chú Luân. In các loại chú của Bổn Tôn lên vải làm cờ kỳ đảo hoặc nhương giải.

9. Thất vật: Đồ vật bị mất, tuy bị người mang đi, nếu mau chóng đi tìm lại thì vật sẽ trở về nguyên chủ. Hãy tìm vật bị mất ở hướng Bắc hay hướng Đông.

10. Thỉnh thác: Nếu có chuyện cần phải nhờ người giúp đỡ đều được thỏa mãn. Nếu có tánh hách dịch thì nên bỏ đi, nếu không sẽ bị thất bại.

11. Hôn nhân: Đối với người chưa lập gia đình, nếu nắm chủ động thì được mãn nguyện. Còn đối với người đã có gia đình thì tình vợ chồng rất tốt đẹp. Nếu có người thứ ba xen vào, chỉ một thời gian ngắn cũng xa nhau.

12. Kỳ tha: Những thứ đã hỏi đều được thành công, duy có một đều là người hỏi có liên quan đến việc dưới nước, nên có một ít trở ngại như không nên đi xa bằng thuyền, tàu thủy…

Tín đồ Mật Tông nên tu Lục Độ Mẫu Pháp (Green Tara) treo nhiều cờ cầu đảo Hộ Pháp. Tín đồ Phật Giáo chỉ cần tụng kinh Phật Bổn Sanh đồng thời hướng về đức Bổn Sư Thích Ca mà cầu nguyện.

Ý nghĩa chung là: Sức gió mạnh thêm, cho nên người xin quẻ nên động không nên tĩnh.

5. Quẻ 5: Ah-Na (1-5)

Biểu Tượng: Hoàng Kim Đại Địa (Đất Vàng)

Mãn địa hoàng kim,
Quái tượng khả hỷ. Lai chiếm thử quái, Duy bất nghi động.

Tạm dịch:

Vàng khắp cả mọi nơi, Biểu tượng quẻ nầy là tốt, vui. Đến xin được quẻ nầy, Thì không nên động.

Tín Hiệu: Quái ý nan sai, đáp án vị định
(Ý của quẻ khó đoán, lời giải chưa chắc chắn)

Quẻ nầy chỉ lợi cho người xin có tính cách lâu dài, sự việc có tính cách cố định, không nên, không nên xem những việc có tính cách tạm thời, ngắn hạn, và có tính lưu động. Vì đất là vàng, chỉ có lợi cho đất, nên làm việc tĩnh hơn là làm việc động. Người xin quẻ phải nên nắm được ý nầy tức là đã nắm được yếu chỉ thành công vậy.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Nhân khẩu ổn định, nhà cửa đẹp đẽ, vui hòa. Không có tăng thêm người, di chuyển đi nơi khác không lợi.

2. Tài Phú: Tài sản, tiền bạc được ổn định. Giữ ngành nghề cũ là tốt. Sáng tạo cái mới, biến cải, hay khếch trương thì bất lợi. Bất lợi nhất là mở cái gì mới để làm ăn chung với người khác. Không nên đầu cơ. Nên giữ nguyên chỗ những tài sản đã có.

3. Mưu Vọng: Đã có mục đích cố định rồi, nên lập kế hoạch dài hạn là tốt. Nếu nắm giữ không chắc chắn, ắt kế hoạch sẽ dễ dàng thất bại. Nếu gặp khó khăn, phải mất thời gian để giải quyết.

4. Nhân Sự: Lâu dài mà nói, quan hệ nhân sự tốt nhưng phải mất thời gian để tạo dựng. Nếu thời gian quá ngắn thì thiếu mất sự giúp đỡ. Nên tu pháp Kính Ái có thể cải thiện. Không nên lạm dụng tiền bạc, vật chất mà giao tế.

5. Cừu Oán: Không có cừu oán gây rối, nhưng rất dể sinh ra hiểu lầm, thị phi, kiện tụng liên miên. Tạm thời khó mà giải quyết được, nên tu Pháp Hàng Phục, Tiêu Trừ hiểu lầm, hoặc dùng nước Cam Lồ mà tắm.

6. Người Khách: Khách bình an nhưng có trở ngại. Tin tức sẽ đến sau.

7. Tật Bịnh: Chủ về bịnh viêm, bị đau khí quản. Bịnh tuy không nặng nhưng cứ kéo dài khó thuyên giảm. Nên treo cờ cầu đảo nhiều mặt (Đa diện) và Ma Ni Chuyển, nhờ gió thổi mà cờ chuyển động tung bay.

Ghi chú: Ma Ni Chuyển là một loại pháp khí của Mật Tông, hình ống tròn, nên trong có để bài chú như chú Lục Tự Đại Minh của ngài Quan Thế Âm. Tín đồ vừa tụng chú nầy vừa chuyển động Ma Ni Chuyển, nên tăng gia sức trì chú, cũng có thể treo trước nhà như cái phong linh.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng cũng như không có quỷ thần trấn yểm, nhưng phong thủy không được tốt. Vị trí nhà, đất, nước nơi chỗ hiện đang ở không thích thích hợp, nên cho điều chỉnh lại như là đổi phương hướng của cửa lớn, vị trí đặt giường nằm cũng có thể treo Chú Luân mà nhương giải (xua đuổi)

9. Thất Vật: Do người ở trong nhà tìm lại đuợc, hoặc tìm vật mất ở hướng Đông. Nên tìm ngay vật bị mất, nếu chậm trễ khó có thể tìm được.

10. Thỉnh Thác: Nhờ cậy là phí thời gian, nhưng cuối cùng sẽ có được sự giúp đỡ. Đối với việc nhờ vả không nên quá hi vọng.

11. Hôn Nhân: Người chưa lập gia đình phải mất thời gian để tìm kiếm người vừa ý. Người đã có gia đình, sự quan hệ vợ chồng ổn định, nhưng người phối ngẫu lại thiếu đời sống vợ chồng.

12. Kỳ Tha: Hãy hành động cấp tốc thì có thể dễ dàng giải quyết. Nếu bỏ phí thời gian làm chậm trễ ắt dễ mất cơ hội. Đối với loại tin tức thì chủ về chậm trễ. Du lịch có sự buồn bực. Có thể đến trước tượng những Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Bảo Sanh mà cầu xin. Nói chung ý nghĩa của quẻ là bám trụ chắc chắn, cơ sở sẽ được ổn định. Cho nên phải tĩnh chớ không được động.

6. Quẻ 6: Ah-Dhi (1-6)

Biểu Tượng: Kim Cang Thanh Âm (Âm thanh kim cang)

Đắc văn Kim Cang thanh âm, Chiêm giả sanh đại hỷ duyệt. Nhứt thiết tiêu tức cát tường, Văn giả tâm hoa nộ phóng.

Tạm dịch:

Nghe được âm thanh Kim Cang, Người xin quẻ sanh lòng vui vẻ. Tất cả tin tức đều tốt, Người nghe vui mừng hớn hở.

Tín hiệu: Tự Bổn Tôn tâm, tăng ích lợi cho trí tuệ.
(Tự tâm của Bổn Tôn là tăng ích lợi cho trí tuệ)

Bổn Tôn là Tâm Bồ Đề có cả hai Đại Bi và Đại Trí. Vì lòng Đại Bi mà phát nguyện độ chúng sanh; vì Đại trí mà biết được tất cả các Pháp đều là Không. Do Tâm Bồ Đề của Bổn Tôn mà đã khai phá được trí huệ của riêng mình, thật là một quẻ tốt. Người xin được quẻ nầy nên học Kinh, Luận Phật Giáokhoa học hay nghệ thuật thì đều thành đạt. Tốt nhất là theo ngành kiến trúc.

GIẢI ĐOÁN

1. Gia Trạch: Nhân khẩu bình an, không có tai nạn, vui vẻ hoàn toàn. Có thể tăng thêm người, nếu có người có thai sẽ sinh con trai. Chẳng hạn như tu theo Nghi quỹ Trường Thọ Phật Mẫu, hay treo chú Quán Âm Thập Nhứt Diện.

2. Taì Phú: Tài sản tăng dần rất thuận lợi. Không nên đầu cơ tích trử. Có cơ hội để mở thêm dịch vụ mới, nên hợp tác với người khác. Trong lúc làm ăn phát đạt, phải lưu ý bảo vệ, duy trì tình trạng phát triển. Quẻ nầy ứng cho người phái nữ thì rất tốt, nếu phái nam xin được quẻ nầy tốt hơn hết là nên hợp tác với phái nữ.

3. Mưu Vọng: Tất cả mọi sự tính toán, ước mơ đều được mãn nguyện.

4. Nhân Sự: Mọi sự quan hệ đều được như ý và vui vẻ. Nên dựa vào lực lượng phụ nữ.

5. Oán Thù: Nhờ có các ngài Hộ Pháp bảo vệ nên thù oán không nổi lên được. Nên tụng chú Đại Bi.

6. Người Khách: Tin tức của khách sẽ đến ngay, trên đường đi thuận lợi và vui vẻ.

7. Bệnh: Bịnh tình thuyên giảm khá tốt. Nên tụng chú Đại Bi. Có thể giải phẫu. Nên uống thuốc thang tốt hơn thuốc hoàn (thuốc viên).

8. Ma Sùng: Không có ma sùng hay quỷ thần quấy phá. Phong thủy đều tốt nhưng trong người cảm thấy không thỏa mãn, đều là vì ảnh hưởng tâm lý. Nên tu pháp Thanh Tịnh Tự Tâm của Bổn Tôn.

9. Thất Vật: Nên treo vòng hoa màu đỏ, hoặc phủ một tấm vải điều (tượng trưng cho điềm vui) để tìm kiếm, hoặc đến nơi chổ gần nước mà tìm. Cũng có thể thuê người tìm, nhưng người ấy phải thuộc ngành chuyên môn như thám tử tư chẳng hạn. Những đồ phụ tùng còn để nguyên ở chỗ gần đó, hãy để ý mà tìm kiếm.

10. Thỉnh Thác: Nếu có nhờ cậy ai cũng đều được y sở nguyện. Có trở ngại thì phải hành pháp Trừ Chướng. Tốt nhất là nhờ phái nữ.

11. Hôn Nhân: Chắc chắn hôn nhân sẽ được mỹ mãn. Phu thê hòa thuận, nhất là sự hợp tác của vợ con cùng chồng để lo sự nghiệp.

12. Kỳ Tha: Mọi sự đều được như ý, nếu có phụ nữ tham dự thì sẽ thấy thuận lợi cát tường.

Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Quán Âm, hoặc Văn Thù Sư Lợi, Kim Cang Thủ, đồng thời tu Không Hành Mẫu Pháp.

Tín đồ Phật giáo nên thờ cúng Quan Âm và treo chú Quan Âm (Om Ma Ni Phát Mê Hồng)

Ý Chung: Thuận ý và gia tăng trí huệ.

Quẻ nầy động tĩnh đều được. Nhất là nên làm ăn ở gần nước vì có quan hệ đến nước.

7. Quẻ 7: Ra- Ah (2-1)

Biểu Tượng: Minh Đăng (Đèn sáng)

Nhược minh đăng chi phá hắc ám, Nhữ tâm phá ám ứng như thị. Túng hữu sầu muộn chư khổ não, Phật pháp như đăng vi chiếu lộ.

Tạm dịch:

Nếu ánh sáng đèn phá tan được bóng tối, Tâm bạn cũng nên như vậy để phá những u ám. Đừng có buồn rầu khổ não,
Phật pháp như ngọn đèn soi đường.

Tín Hiệu: Minh đăng chiếu lộ, vô hữu phong xuy.
(Đèn sáng soi đường, không có gió thổi)

Con người đã sinh ra trong cõi Ta-Bà thế giới nầy được gọi là ngũ trược ác thế. Cái ác nầy đã làm cho gió nghiệp thổi lên, gây nên biết bao nhiêu khổ não rối loạn. Người mê muội đang trong khổ não nếu không hiểu được lý Không Tánh hay Duyên Khởi thì sẽ sanh tâm tranh giành mà tạo nên vô số ác nghiệp, như vậy kết quả khổ não lại tăng thêm.

Phật pháp như ngọn đèn sáng không làm cho gió nghiệp thổi lên mà còn chuyển biến được nghiệp lực, khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui. Người xin đuợc quẻ nầy chắc chắn sẽ hết ưu sầu. Nếu vì Phật pháp mà làm nhiều việc lợi ích cho chúng sanh hữu tình ắt được kiết tường.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Năm nay vận khí hanh thông, người trong gia đình bình yên. Trong nhà lại có thêm người, mua được nhà mới. Nếu trong nhà có ngườì có thai sẽ sanh con trai.

2. Tài Phú: Tài sản tăng lên. Hãy bỏ hết sầu muộn. Về sự nghiệp, nên sửa đổi lại phương kế để được tăng trưởng lợi ích. Vì thế mà nên canh tân không nên thủ cựu (nên bỏ cũ chọn mới).

3. Mưu Vọng: Hãy mạnh dạn tiến hành công việc tự nhiên sẽ như ý. Người trong cảnh nguy khốn có cơ duyên được sự giúp đở thì theo đây mà thay đổi tình trạng hiện tại trước mắt. Cơ duyên chỉ đến một lần đừng bỏ mất cơ hội. Vì thế mà người xin được quẻ nầy phải nắm chắc thời cơ. Nên tu hành phép Trừ Chướng. Quẻ nầy chủ về tự mình đổi mới, kẻ khác chỉ giúp cho cơ hội, còn mình phải cố gắng, nỗ lực mới có thể thành công.

4. Nhân Sự: Trước mắt mọi quan hệ nhân sự đều tốt. Quẻ nầy tốt cho người phái nam hỏi việc. Tuy nhiên cả hai phái đều có thể có sự giúp đỡ, nhưng nếu phái nữ xin được quẻ nầy thì sự giúp đở sẽ bị yếu hơn.

5. Cừu Oán: Dù rằng có nghe được những tin tức không có lợi, nhưng trên thực tế thù oán sẽ không làm hại được bạn. Những việc bị kiện tụng sẽ không thành và sự thị phi sẽ dễ dàng chấm dứt. Nên hành trì pháp Trừ Chướng.

6. Người Khách: Sẽ biết được tin của khách, người ấy bình an, tin tức sẽ đến sau.

7. Tật Bịnh: Nên đề phòng tật bịnh vì bịnh tình sẽ trở nên trầm trọng, nhất là bịnh tim và các loại bịnh về hệ thống tuần hoàn. Bịnh sẽ kéo dài khó thuyên giảm. Không nên làm đại giải phẩu e có chuyện xảy ra bất ngờ ngoài ý muốn. Nên tụng chú Đại Bi. Còn những bịnh khác như thuộc về ruột già và ruột non dể dàng được hồi phục.

8. Ma Sùng: Không có quỷ thần hay Ma sùng quấy rối. Những rắc rối trước mắt không do quỷ thần hoặc Ma sùng gây nên, mà chỉ do những hành vi nghiệp lực trong quá khứ, cho nên cũng không có hại. Người xin quẻ nầy phải nên thành tâm sám hối rồi dùng nước Cam Lồ mà tắm.

Phong thủy tốt, nên chú ý sự chiếu sáng của mặt trời. Có một cái hẻm kẹt tối tăm, nên sửa sang lạì để có được ánh sáng chiếu vào, và nên treo những bài chú lên.

9. Thất Vật: Đồ vật mất ở hướng Tây Nam. Theo phương ấy mà đi tìm. Sẽ có người đến báo cho biết về tin tức của vật bị mất.

10. Thỉnh Thác: Nếu có thể cứ thẳng thắng, thành thật nói lên mục đích của mình, tự nhiên người ta sẽ thông cảm và giúp đỡ cho. Đừng hy vọng rằng người ta sẽ giúp cho kế hoạch rỏ ràng và đầy đủ, ngược lại người ta chỉ đứng bên cạnh nói giúp mà thôi, nhưng sự giúp đở đó sẽ dẩn đến thành công.

11. Hôn Nhân: Chủ động trong việc đi tìm người yêu. Người đã lập gia đình rồi nên nhượng bộ người phối ngẫu. Trong lúc có đệ tam nhân (người thứ ba) nên chủ động hẹn người ấy để giải quyết,

12. Kỳ Tha: Các việc làm không bị chướng ngại và oan trái. Nên nắm phần chủ động. Nếu ở thế bị động sẽ không tốt.
Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Cu Lô Cu Li (Kurukulli) hoặc dùng pháp màu hồng của Bổn Tộn mà cầu đảo. Tín đồ Phật gìáo nên hướng về Phật A Di Đà mà cầu nguyện. Cũng có thể dùng hoa màu hồng đỏ mà cúng dường lên ngài Quan Âm.
Nói chung ý nghĩa là “Tự cầu đa phước”, do đó mà đừng ỷ lại vào người khác.

8. Quẻ 8: Ra-Ra (2-2)

Biểu Tượng: Thiêm Du (Thêm dầu)

Hướng Phật tiền đăng thiêm tô du, Quyền thế tài phú giai thiêm gia.
Mã đầu Kim Cang đàn thành hiển, Chiêm giả chư pháp giai mãn nguyện.

Tạm dịch:

Hướng về cây đèn trước bàn Phật mà đổ thêm dầu, Uy quyền, tài sản đều được tăng thêm.
Đàn Mã Đầu Kim Cang xuất hiện,
Người xin quẻ các pháp đều được mãn nguyện.

Tín Hiệu: Ngọn đèn của nguyện vọng lại được rót thêm dầu.
Những người Tây Tạng theo Phật giáo khi cúng dường tên chư thần, hay cầu đảo phát nguyện đều theo tập quán là rót thêm dầu vào cây đèn dầu. Mỗi lần thêm nếu khô thì tính đến cả kí lô. Làm như vậy là để Chư Phật và Bồ Tát gia trì. Người cầu sự gia trì phải giữ tâm thanh tịnh và những điều phát nguyện cũng phải thanh tịnh. Cứ nên thành tâm biểu lộ xin sám hối hết tất cả tội chướng từ xưa đến nay, say mới có thể được sự gia trì. Quẻ nầy xin Mã Đầu Kim Cang là hóa hiện của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát trong thân tướng dữ dằn, có sẵn Tâm Đại Bi, vì thế mà ngưòi xin quẻ có được phước lành đầy đủ.

GIẢI ĐOÁN

1. Gia trạch: Phước trạch trong gia đình tăng thêm, thêm người, nếu có thai sẽ sanh con trai. Người xin khí sắc tốt, dung mạo rực rỡ.

2. Tài Phú: Có thể san bằng những trở ngại để tăng gia tài sản. Nên tu pháp Mã Đầu Kim Cang. Dùng Cờ Kỳ Đảo màu lục, cũng có thể dùng bài chú Quan Âm. Tiến hành kế hoạch mói là thích nghi, người có chút tính mạo hiểm cũng không hại gì, nhất là đối với những đồvật khô cằn thiên nhiên loại thượng phẩm màu đỏ đều trúng lời.

3. Mưu Vọng: Tin tức chính xác sẽ đến, mục tiêu đã xác định sẽ mau chóng được mãn nguyện hãy hướng về Không Hành Mẫu mà cầu nguyện, những công việc đang tiến hành cứ phát triển, còn có thể có phát triển các mục tiêu khác. Cũng có thể hướng về ngài Quan Thế Âm mà cầu nguyện.

4. Nhân Sự: Giao dịch với người tốt, tình bạn vui vẽ. Nếu chủ động tiếp xúc, chắc chắn cải thiện được những sự quan hệ không tốt. Nếu muốn hóa giải sự thù địch, tốt nhất là đốt lửa cúng để cầu đảo. Cũng có thể tu pháp Trừ Chướng và pháp Mộc Dục ắt tự nhiên chuyển thù hóa bạn.

5. Cừu Oán: Không có cừu oán và sự nhiểu hại vì người xin quẻ nầy được người có sức mạnh ủng hộ. Nếu công kích người đối nghịch thì không bao lâu sẽ có tin tức đưa đến, bạn có thể phát động sự công kích từ hướng Đông và hướng Trung ương thì người đối nghịch sẽ bị thua một trận tơi bời và bạn sẽ đại thắng. Có thưa kiện cũng được thắng.

6. Người Khách: Không bao lâu nữa khách sẽ đến. Khách đang trên đường đi vui vẻ. Tin tức sẽ đến ngay.

7. Tật Bịnh: Nếu mắc bịnh tim, bịnh về máu huyết, hay bịnh truyền nhiễm … nên đốt lửa để cúng hoặc tụng chú Đại Bi để cầu nguyện thì bịnh tình sẽ thuyên giảm. Còn các bịnh khác không lâu sẽ hồi phục. Tìm thầy thuốc, nên đi về hướng Đông. Nên giải phẫu.

8. Ma Sùng: Tuy không có Ma sùng khuấy phá, nhưng vì người xin quẻ nầy bị áp lực của công việc đè nặng, do đó trên mặt tâm lý giống như là có ma quỷ quấy nhiễu. Nên tu pháp Tỉnh Mịch Tôn, trì chú Lục Tự Đại Minh và chú Đại Bi.
Phong thủy tốt. Nên chú ý đến căn phòng chính giữa nhà, không được để đồ lộn xộn thiếu ngăn nắp. Khi nào dọn dẹp tề chỉnh rồi thì cảm thấy tinh thần sảng khoái. Có thể treo bài chú gần bức tường ở giữa nhà.

9. Thất Vật: Nên theo hướng Tây hoặc Nam mà tìm vật bị mất. Hãy treo hoa hoặc vải màu đỏ để có được tin tức.

10. Thỉnh Thác: Phàm có nhờ cậy người khác, tức thì xong ngay. Nhờ cậy phụ nữ ắt có chút trở ngại, nhưng không có hại nhiều.

11. Hôn Nhân: Lương duyên do trời định, người thứ ba tự nhiên không còn nữa.

12. Kỳ Tha: Nói chung những điều xin hỏi đều tốt cả. Duy những điều đã hỏi nếu liên quan với nước và đất là không tốt. Những việc nầy như nước trong ao bị khô cạn dần, ban đầu không thấy, nhưng lâu ngày sẽ thấy không có lợi.

Người theo Mật Tông nên tu pháp Mã Đầu Kim Cang hoặc tụng chú Đại Bi. Phật giáo tín đồ có thể lễ bái đức Quan Thế Âm.

Ý nghĩa chung: Sự vui vẻ được giữ gìn và tăng lên liên tục. Nên tiệm tiến (tiến dần dần). Không nên cấp tiến (tiến nhanh). Nên giữ mục đích lâu dài, không nên đặt mục tiêu ngắn hạn và tạm thời.

9. Quẻ 9: Ra-Pa (2-3)

Biểu Tượng: Tử Ma ( Ma của sự chết)

Tử ma giáng lâm chủ thất bại, Hiệp như tinh hỏa tao thủy tiễn. Nhứt thiết chiêm vấn giai vô thành, Sở lợi giả duy chủ phá hoại.

Tạm dịch:

Ma của sự chết hiện xuống chủ về thất bại,
Gặp nhau như một tia lửa nhỏ gặp giọt nước bắn tóe lên. Tất cả mọi đều xin hỏi đều không thành, Những điều lợi chỉ là phá hoại.

Tín Hiệu: Đồ sát tử vong dử phá hoại
(Giết hại, chết chóc và phá hoại)

Tử thần của Mật Tông Tây Tạng có nhiệm vụ gìn giữ thành đàn ở ngoài cửa hướng Nam. Phương Nam là cửa của đức Phật Bảo Sanh, chủ về sự giàu có và của cải báu vật. Ngoài tài bảo ra còn có Tử Thần nữa. Đàn thành nầy được sắp xếp với nhiều ý nghĩa thâm diệu. Trung Quốc có câu ngạn ngữ: “Nhơn vi tài tử, điểu vi thực vong” nghĩa là con người chết vì tiền của, chim chóc chết vì ăn uống. Câu nầy cho thấy mọi loài đều có tâm lý tương đồng như thế (Chết vì ngũ dục!)

GIẢI ĐOÁN

1. Gia Trạch: Gia trạch không được yên ổn, nhiều thị phi cãi cọ. Người trong nhà hay bị tử vong, hoặc gặp đại nạn như trọng bịnh, thất nghiệp, các loại thường là phá tài, hao tán. Nên dọn dẹp, lau chùi sạch sẽ, gọn gàng bàn Phật, sắp xếp lại Kinh điển và cầu nguyện. Hãy hành trì nghi pháp “Phóng Đa Mã ” để kỳ đảo. Nên làm nghi thức tắm nước Cam Lồ, hoặc treo chú ngay trước đối diện cửa chính.

2. Tài Phú: Buôn bán thất bại, mất mát tiền của, người đầu cơ lại càng thất bại mau chóng. Không nên khai triển kế hoạch mới. Đánh bạc thua và mắc nợ nhiều. Nếu đi buôn bán làm ăn xa, phải tụng Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn hoặc chú Đại Bi.

3. Mưu Vọng: Có tính toán thì có sự trở ngại. Nếu cứ miễn cưỡng mà làm, chắc chắn công việc sẽ bị hư hỏng. Không bằng có kế hoạch lâu dài, tạm thời không tiếp xúc thì tốt hơn. Trở ngại là do người đàn bà gây ra hoặc vì sự chủ ý của người đàn bà mà gây nên sự hiểu lầm.

4. Nhân Sự: Không có một ai giúp đỡ cả. Cầu đảo thì sanh trở ngại, không có lợi khi giao thiệp với đàn bà. Muốn yêu cầu giúp đỡ lại sanh ra thị phi, giúp đỡ lại hóa thành trở lực, tự mình lại rơi vào khốn cảnh.

5. Cừu Oán: Những kẻ thù oán đang rình mò chung quanh. Hãy mau mau tụng chú Đại Bi và phép Trừ Chướng. Quyết không được đi về hướng Nam và hướng Bắc. Nếu không nghe lời khuyên nầy tức sẽ gặp những kẻ thù oán ám hại. Kiện tụng không lợi, thị phi thêm nhiều.

6. Người Khách: Người khách trên đường đi không được yên ổn, hành trình gặp trở ngại, thời gian chờ tin sẽ không đến. Nên tu pháp Đại bạch Tán Cái mà cầu đảo.

7. Tật Bịnh: Bịnh nhân hết sức nguy hiểm. Người bịnh bị lạnh hay có nước trong cơ thể, khó có hy vọng thuyên giảm. Người bịnh nên phát tâm tu hành; tụng chú để cầu nguyện, nhất nên tu ngay phép Hộ Pháp để cầu đảobảo vệ.

Không được đi về hướng Nam hay hướng Bắc để mời thầy thuốc. Nếu có giải phẩu sẽ để lại di chứng sau nầy.

8. Ma Sùng: Làm cho thức uống không được tinh khiết, sạch sẽ để làm hại. Ăn nhầm các loại thực phẩm như xanh đậm, màu đen, hình tròn sẽ làm cho con người phải tôn sùng họ.

Hoặc tiếp nhận những đồ vật, tài vật, đồ trang sức của một góa phụ mà trúng “Tà”. Hoặc để lộn xộn áo quần của mình với áo quần của người bịnh mà bị lây bịnh. Hoặc tự mình thất hứa mà bị ma sùng, vì thất hứa nên bị quỷ thần trách phạt. Nên đến chổ gần bờ nước, hướng về Long Thần mà cầu đảo. Hoặc tu Phổ Ba Kim Cang pháp mà cầu xin. Phong thủy không tốt, có thủy quái, thuộc loại hồn ma quấy phá.

9. Thất Vật: Bị mất đồ rất khó tìm lại. Vật mất ở phương Nam hoặc phương Bắc. Có thể tìm được tung tích vật bị mất, nhưng cũng khó tìm lại được.

10. Thỉnh Thác: Phàm có ý nhờ cậy người thì dễ dàng bị làm sai ý định, do đó mà trở ngại lại gia tăng, không được như ý nguyện. Nếu ỷ thế mà lăng mạ người khác, chỉ nhận lấy thù oán mà thôi.

11. Hôn Nhân: Nhân duyên không tốt. Bất hòa với người phối ngẫu, thường ngày cứ cãi cọ hơn thua nhau. Người thứ ba đã biến khách thành chủ.

12. Kỳ Tha: Nói chung, sự việc xin trong quẻ nầy là trở ngại và thất bại, chỉ gặp toàn việc hung xấu. Nhưng đối với những việc như săn bắn, chế thuốc độc, phá nhà cũ… những công việc có tính cách phá hoại thì đều được thành tựu.

Ghi Chú: Chế thuốc độc như quẻ đề cập là dùng để chữa bịnh chớ không phải để hại người.

Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Phổ Ba Kim Cang, hoặc cúng dường Độ Mẫu, tụng chú Đại Bi hoặc chú Thập Nhứt Diện Quan Âm. Tín đồ Phật giáo có thể hướng về Bồ Tát Quán ÂmBồ Tát Địa Tạng mà cầu nguyện. Tụng chú Đại Bi và treo Chú Thập Nhứt Diện Quan Âm. Nói chung ý nghĩa là: Chỉ nên phá hoại, không nên kiến thiết. Nghĩa là có lợi cho công việc xấu, chớ không có lợi cho công việc tốt.

10. Quẻ 10: Ra-Tsa (2-4)

Biểu Tượng: Vương Quyền (Quyền lực của vua)

Phong thừa hỏa thế, Hỏa trượng phong uy. Quyền lực tăng trưởng, Bất giả cầu nhơn.

Tạm dịch:

Sức gió nhờ vào lửa cháy,
Lửa lại nhờ gió thổi mà bốc dữ dội hơn. Quyền lực lớn mạnh, Không muốn cầu đảongười.

Tín Hiệu: Sư, hổ hống thanh, oai trấn sơn ngục.
(Tiếng rống của sư tử và cọp oai nghi trấn giữ cả vùng sơn lâm.)

Bà Diêm Mạn ĐứcGia Minh, vị thần đại phá hoại đã nói: “Ai vào được cung điện của ta, ta sẽ trao quyền cho người ấy.” Quẻ nầy hợp với ý đó. Người xin quẻ tự nhiên quyền thế tăng thêm, danh tiếng và tài sản tự tăng lên như lửa cháy rừng. Lại thêm gió thổi làm cho lửa cháy mãnh liệt, khiến con người không dám chữa.

Người xin được quẻ nầy nên biết tất cả đều vô thường, vì thế nên giữ một mức độ vừa đủ, không nên ỷ thế lăng mạ người khác, như vậy thì được mọi người yêu kính.

GIẢI ĐOÁN

1. Gia Trạch: Vì quyền lực được tăng thêm cho nên không có ai dám hại cả. Nhân khẩu bình thường, vận nhà phát đạt, tăng thêm người, có thai sẽ sanh con trai.

2. Tài Phú: Tài sản cũng theo quyền lực mà tăng trưởng, có lợi cho việc cạnh tranh để cầu tài. Hảy để cho người được tự do tùy tiện một chút, không nên bóp nghẹt toàn diện. Đề phòng người chung quanh xâm lấn.

3. Mưu Vọng: Nếu có tính tính toán, mong ước đều được toại ý. Tuy nhiên có một số việc nhỏ không vừa lòng, nhưng có thể giải quyết một cách thuận lợi. Kết cuộc đều như nguyện. Nên tu pháp Tịch Tỉnh, Ái Kính, làm cho người ta phải tôn kính.

4. Nhân Sự: Nhờ ảnh hưởng qưyền thế mà quan hệ người và việc đều được tốt đẹp. Phụ nữ sẽ mang đến một chút buồn bực. Chú ý nên để cho người ta một lối thoát, có chỗ xoay xở, đừng nên ỷ mạnh mà hiếp ngưòi.

5. Cừu Oán: Không có người chú ý sanh sự. Người xin quẻ có thể ra oai để trấn áp cừu thù trên mọi mặt. Nên nhờ sự trợ giúp của một số sức mạnh khác, theo đó mà xoay chuyển từ tù thành bạn. Hãy đề phóng người trong nhà và những người thân cận vói mình. Nên cần phải giải hòa để tránh hậu hoạn nếu đã kết oán thù với người ngoài. Nếu có sự kiện tụng thì được thắng.

6. Người Khách: Trên lộ trình đã có được lợi ích. Khách sẽ đến và mang theo lợi ích. Tin tốt sẽ đến.

7. Tật Bịnh: Bịnh tình tuy có phần nặng, nhưng không nguy hiểm đến tánh mạng. Hãy cúng dường Hộ Pháp để xin gia trì cho người bịnh. Nên treo cờ cầu đảo hoặc Chú Luân. Nên giải phẫu.

8. Ma Sùng: Nhờ sự bảo vệ của Hộ Pháp, nên ma sùng không giám quấy nhiễu. Phong thủy tốt. Người xin quẻ nầy tuy có cúng dường Hộ Pháp, nhưng chưa đầy đủ, nên cúng dường thêm mới được cát tường.

9. Thất Vật: Nhờ vào ảnh hưởng của thế lực và phước đức, nên vật mất sẽ được hoàn trả lại nguyên chủ.

10. Thỉnh Thác: Hướng về Bổn Tôn mà cầu đảo thì sẽ thành công. Không nên nhờ cậy phụ nữ. Không nên uy hiếp người mà nên mà nên chủ động tiếp xúc tất sẽ thành công.

11. Hôn Nhân: Nhờ sức mạnh mà được thành công. Người đã có gia đình, có sự bất hòa với người hôn phối. Nếu có đệ tam nhân thì họ tự động ra đi.

12 Kỳ Tha: Vì sức mạnh được tăng thêm nên tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết. Tất cả mọi điều đã hỏi đều được mãn nguyện. Chỉ có những việc liên quan đến “nưóc” như cầu mưa chẳng hạn đều không được như ý.

Tín đồ Mật Tông phải tu pháp “Liên Hoa Sanh Đại Sĩ”, hoặc “Phục Kim Sí Điểu”, “Đại Hắc Thiên”... Tóm lại ý nghĩa của quẻ là “Sức mạnh tăng trưởng, tất cả đều được như ý”. Đây là một quẻ tốt.

11. Quẻ 11 : Ra Na (2-5)

Biểu Tượng: Khô Thụ (Cây Khô)

Như thụ vô thủy, Bất năng sinh hỏa. Cầu chiêm vấn giả, Nhứt sự vô thành.

Tạm dịch:

Như cây không tưới nước, Cây không kết trái được.
Người xin được quẻ nầy, Một việc cũng chẳng thành.

Tín hiệu: Tâm vi vật nhiễu, Do thị khổ sanh.
(Tâm bị vật chất gây rối loạn,
Do đó mà khổ sanh ra.)
Sứ giả ngưởi được mùi hương của Ma La tức Càn Thát Bà nói: “Do Tâm của con người thường chịu sự hướng dẫn của vật chất, vì vậy mà sự tham muốn của họ bất tận. Sự khổ não do đây mà sinh ra.
Người học Phật, nếu tâm họ thay đổi vì vật chất tức là đã làm cho Quỷ ngưởi ngưởi mùi hương cười chê rồi. Phải nên lấy tâm chuyển vật, sau đó mới làm chủ được mọi hiện tượng. Vì thế nên có câu: “Nhứt thiết duy Tâm tạo” tức là mọi sự vật (Pháp) đều do Tâm mà tạm có. Do đó mà mà phải thấy rõ Tánh Không của lý Duyên Khởi, rồi mới dùng Tâm chuyển vật. Như người đã hiểu được Tánh Không thì không bao giờ suy tính hơn thiệt, cảm thấy khổ não và gây thêm khổ não. Người xin được quẻ nầy cũng nên như vậy, phải thể hội được lý nghiệp lực và nhân duyên.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Nhìn bên ngoài có vẻ yên ổn, nhưng tương lai không mấy lạc quan. Người trong gia đình có bịnh mà không tìm ra bịnh. Người có thai nên đề phòng hư thai.

2.Tài Phú: Có những chuyện ưu sầu không thấy được, nên kiểm tra đề phòng. Đầu cơ tích trữ sẽ thất bại. Phải điều chỉnh lại kế hoạch. Cũng phải cố gắng hoạt động mạnh thêm sự nghiệp cũ.

3. Mưu Vọng: Như ngọn lửa bốc cháy hừng hực, tuy nhiên cũng bị dập tắt. Vì thế mà những công việc đã tính toán mong mõi dường như phấn khởi, nhưng phải đề phòng bất ngờ bị nguội lạnh. Những khó khăn cũng có cơ hội giải quyết, nhưng phát sinh thêm trở ngại mới.

4. Nhân Sự: Khó có thể có người giúp đỡ, ngay cả những kẻ đã mang ơn cũng không đến, hay là chỉ giúp một chút rồi cũng ngưng tay. Nhờ đàn bà giúp đỡ thì hiệu quả không tốt mấy, nhưng việc việc nầy cũng dễ gây ra tranh cãi, kết cuộc không được như ý.

5.Cừu Oán: Sự thù hận rất ít không tác hại lắm. Kiện tụng nên hòa giải. Những tin đồn có tính cách nhạo báng không nên làm sáng tỏ vấn đề, vì càng “tỏ” thì càng “đậm đen” mà thôi.

6. Hành Nhơn: Khách mệt mỏi không yên, tâm tình buồn bực. Người cũng như tin tức đều chậm trễ. Đi du lịch đề phòng mất đồ.

7. Tật Bịnh: Có bịnh về gan và nật, nhưng trị lành. Người già trị bịnh liên quan đến cơ thể, nên nghỉ ngơi mà trị liệu. Người xin quẻ nầy chủ về trúng độc, ảnh hưởng đến tiêu hóa và huyết phần. Nếu được phụ nữ giới thiệu thầy thuốc thì tốt hơn. Không nên giải phẫu.

8. Ma Sùng: Do tổ tiên hay hương linh những người bà con gây nên, tuy nhiên không có hại, nên cầu siêu cho vong linh. Không có sự liên quan với địa thần. Nên tế tự, nếu không sẽ bất lợi cho sức khỏe. Phong thủy không tốt, nên tế địa thần. Nên sửa đổi lại đường thông nhau giữa các phòng và vị trí của các phòng. Nên treo chú luân.

9. Thất Vật: Rất khó tìm lại được vật đã bị trộm.

10. Thỉnh Thác: Vì mình bị ảnh hưởng người khác do đó mà sự nhờ cậy là ảo mộng, cho nên yêu cầu giúp đỡ là không thực tế.

11. Hôn Nhân: Quan hệ nguội lạnh dần. Sự thương yêu không thành công. Tình cảm của người phối ngẫu không thể hiểu được. Có người thứ ba xâm nhập vào.

12. Kỳ Tha: Tất cả những điều đã xin đều không tốt, nhất là thuộc về hạnh phúc và vận tốt. Những việc có tính cách kiến thiết đều không được tốt đẹp. Nếu chuyển kế hoạch lại một thời gian, làm công tác chuẩn bị thật tốt hoặc nên bàn thảơ lại kế hoạch.

Tín đồ Mật Tông nên tu trì phép “Trừ Chướng” và phép “Thượng Sư”. Tín đồ Phật giáo thì nên cầu nguyện Phổ Hiền Bồ Tát. Tụng nhiều chú Đại Bi. Tóm lại ý nghĩa là: Hư Không chẳng thật. Có cũng như mộng ảo. Cho nên hãy phản tỉnh những điều đã xin có phải là thực tế không.

12. Quẻ 12: Ra Dhi (2-6)

Biểu Tượng: Cát Môn ( Cửa Tốt)

Nam môn Hộ Pháp khai thành môn, Thử môn tức thị cát tường môn. Lai chiêm vấn giả khai trí nhản, Hữu nhơn vị nhữ hiến kế mưu.

Tạm dịch:

Hộ pháp ở cửa Nam đã mở cửa thành, Cửa nầy là cửa tốt lành.
Người đến xin quẻ sẽ được mở con mắt trí huệ, Có người vì bạn mà hiến mưu kế.

Tín hiệu: Hô triệu Tây Phương Nữ Thần như hô lương nữ (Mời gọi vị Nữ Thần ở hướng Tây như mời gọi một người bạn.)

Đức Phật A Di Đà ở phương Tây, Mật Tông Tây Tạng tên xưng là Liên Hoa Bộ. Ngài A
Di Đà còn có tên là Vô Lượng Thọ, có tất cả 5 chị em Hộ Pháp. Người xin quẻ nầy được 5 vị Nữ Thần Hộ Pháp gia trì, cho nên chủ về tốt đẹp. Tuy có gia trì lực, nhưng nên dựa vào thanh tịnh nguyện tâm mới có thể gặt hái được, vì thế người xin quẻ nầy nên phản tỉnh để những điều cầu nguyện của mình được thanh tịnh. Nếu như những lời nguyện không thanh tịnh, ắt là không được như ý.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Gia vận được tốt đẹp, tương lai cát tường, trong nhà thêm người, có thể sanh con trai. Không lâu sẽ di chuyển đến nhà mới.

2. Tài Phú: Tài sản của cải ngày càng tăng. Nên theo kế hoạch mới, sự nghiệp cũ nên đổi mới, nên cùng người hợp tác. Nên đầu tư có tính cách dài hạn.

3. Mưu Vọng: Nên nghe theo lời khuyến cáo của những người bạn tốt, tức mọi việc đều dễ thành công. Nếu cứ độc đoán mà làm một mình thì sẽ sanh trở ngại. Đối với tất cả mọi việc đều nên phản tỉnh như mình soi gương để quan sát dung nhan mình để phát hiện đưọc ngay một vết nhơ liền tắm rửa ngay. Nếu được như vậy thì có thể sửa đổi được những khuyết điểm, mọi sự sẽ tốt đẹp.

4. Nhân Sự: Nên kết bạn với những người có trí huệ. Những người bạn có tài mà không có trí huệ đều thuộc loại bạn xấu.

5. Cừu Oán: Không có thù oán làm hại. Có thể nhờ người ta điều giải, hóa thù làm bạn.

6. Hành Nhơn: Trên đường đi bình an, lại hưởng thụ nữa. Muốn đi xa nên có bạn đồng hành, tin tức của khách sẽ đến ngay, khách bình an. Tiếng hay sẽ đến, nhất là có lợi trong việc tiến cử, giới thiệu, có văn thư chắc chắn, không những tới tức thì mà còn có hiệu lực nữa.

7. Tật Bịnh: Bịnh trạng không nghiêm trọng, nhưng bị kéo dài. Nên cúng chư thần Liên Hoa Bộ, vì người bịnh mà kỳ đảo.
Ghi Chú: Ngài A Di Đà, Quan Âm và Đại Thế Chí đều là chư Phật và Bồ Tát thuộc Liên Hoa Bộ.

8. Ma Sùng: Không có Ma Sùng quấy phá. Phong thủy tốt, chỉ nên để ý đến việc thoáng gió.

9. Thất Vật: Tìm vật mất ở hướng Nam hoặc hướng Tây, tức có thể tìm lại được. Nhờ người khác thay mình tìm giúp, sẽ có tin tức.

10. Thỉnh Thác: Tất cả những điều muốn nhờ cậy điều được như nguyện. Xin người giúp đỡ thế lực, của cải không bằng cầu người giúp trí tuệ.

11. Hôn Nhân: Trời tác hợp tức thành công. Tình cảm người người phối ngẫu tốt đẹp. Nếu có người thứ ba cũng phải ra đi. Nên cùng nghười khác điều đình.

12. Kỳ Tha: Tất cả những đã hỏi đều tốt. Nếu có việc không hợp lý, lợi mình hại người, nên quay đầu lại ngay (nên ngưng làm ngay); theo kế hoạch mới ắt được kiết tường, nếu không sẽ nghiêng về thất bại. Có người trợ lực, giúp đỡ chắc chắn mục đích không những đạt được mà còn có tiến triển, có thể khai triển thêm những tính toán mới.

Tín đồ Mật Tông nên hướng về Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, Hồng Diệm Mạn Đức Ca kỳ đảo, nên cúng dường nhiều đèn dầu. Tín đồ Phật giáo hướng về Quan Thế Âm Bồ Tát mà kỳ đảo và tụng chú Lục Tự Đại Minh.

Ý nghĩa tóm tắt: Một lời của bạn tốt hơn cả ngàn vạn lời người khác. Vì vậy người xin được quẻ nên cùng bạn tốt tham dự kế hoạch là tốt nhất.

13. Quẻ 13 Pa Ah (3-1)

Biểu Tượng : Cam lồ bình (Bình cam lồ)

Chiêm giả chiêm đắc Cam lồ bình,
Do thị đắc thường Cam lồ vị,
Tịch tỉnh chư pháp giai thành tựu, Nhất thiết độc pháp bất sanh khởi.

Tạm dịch:

Người xin được quẻ Cam lồ bình, nhờ đó mà nếm được vị của nước Cam Lồ. Bình lặng tất cả các pháp đều thành tựu. Hết thảy pháp độc đều không phát sinh được.

Tín hiệu: Ẩm Cam lồ đắc trường sanh
(Uống được nước Cam lồ sẽ sống lâu)
Tu trì pháp Mật Tông Tây Tạng, quan trọng nhất là quán tưởng đều lấy Tánh Không làm căn bản. Thông qua quán tưởng tường bước có thể chứng ngộ được Tánh Không. Cam lồ cũng giống như vậy, không phải không quán tưởng mà thành, trong đó tuy có thêm Cam lồ hoàn của Thượng Sư, nhưng thực tế tác dụng chẳng phải ở trong viên Cam lồ với rất nhiều thành phần, mà do thông qua quán tưởng, tưởng đến Cam lồ cùng theo chư Phật mà chảy ra có khả năng trừ hết vô số chướng ngại nơi sắc thân chúng ta, bao gồm từ trước đến nay biết bao nhiêu là nghiệp tội cùng với oan gia trái chủ… Mà nên biết Cam lồ cũng không có tự Tánh, tức nên thưởng thức Cam lồ trong Tánh Không, sau dó mới được pháp ích. Nói rằng được sống lâu …chỉ là theo thế tục mà nói, chứ ý nghĩa của quẻ nầy không chỉ như thế mà quan trọng nhất là có thể được pháp ích.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Bên ngoài thấy là hưng thịnh, nhưng bên trong thì không đáng kể. Nên treo những bài chú dọc theo các đường đi trong nhà giữa hai bức vách. Có thêm người trong nhà nhưng cũng có mất người. Lạc thành nhà mới, cần nên sửa chữa lại.

2. Tài Phú: Thực tế thu nhập không đúng như sự ước tính khá cao của người ngoài. Chỉ nên áp dụng kế hoạch làm ăn lâu dài, không nên ngắn hạn, tạm thời, và đầu cơ. Nên duy trì cái cũ mà đổi thành mới, cũng được như ý.

3. Mưu Vọng: Những gì mong muốn đều được toại ý, không gặp chướng ngại. Nếu tâm nguyện Thượng Sư đầy đủ, thì những gì đã cầu đảo đều thấy thuận lợi. Nếu có đại nguyện, hãy hướng về Thượng Sư Bổn Tôn mà kỳ đảo.

4. Nhân Sự: Có nhiều sự giúp đỡ để đắc đạo. Những bạn thân có đề xuất những kế hoạch khá hòan hảo.

5. Cừu Oán: Không có cừu oán, vì người ta tâm tính rất ôn hòa nên không có chuyện sanh sự. Nên tu pháp Kính Ái để cầu xin, rất dễ dàng để hóa địch thành bạn.

6. Hành Nhơn: Khách sẽ đến bình an ngay. Trên đường đi vì trẻ nhỏ bị rắc rối vì thế mà có một chút trở ngại nên đến trễ. Tin tức sẽ đến và đều tốt cả.

7. Tật Bịnh: Áp dụng vừa y học vừa cầu đảo để trị liệu đều khiến cho bịnh nhân dễ dàng phục hồi. Nếu có tiểu giải phẫu thì tốt, còn đại giải phẫu thì không nên. Đề phòng cơ quan hô hấp bị bịnh. Người đang bịnh nặng hãy hướng về đức Phật Dược Sư để cầu giải.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng quấy phá. Phong thủy tốt, tuy có những góc xó tối tăm nên bắt đèn để có ánh sáng.

9. Thất Vật: Vật bị mất ở tại phía Nam, theo hướng đó mà tìm. Vật đó dấu tại một nơi gần nước, tìm sẽ thấy.

10. Thỉnh Thác: Nhờ cậy được như ý, nhưng người được yêu cầu dốc toàn lực để giúp đỡ. Có một số sự việc được giúp đỡ đã đưa đến kết quả không tốt, tuy nhiên sự thực việc nầy cũng đã nằm trong dự định của người xin quẻ. Cho nên cũng không có hại.

11. Hôn Nhân: Hôn nhân có thể thành tựu, nhưng lâu ngày lại cảm thấy vô duyên. Hôn nhân sẽ không bị gẫy đổ. Đối với người thứ ba nên chịu đựng họ.

12. Kỳ Tha: Chung chung mà nói, tất cả những điều cầu đảo đều được mãn nguyện, nhưng chưa được hoàn toàn mà thôi. Nếu những điều đã hỏi có liên quan đến vũ lực và độc vật, sẽ bị thất bại. Nếu xin được quẻ nầy, những điều toan tính đều có nhiều khó khăn, phải nên bố thí cầu phước. Tín đồ Mật Tông nên cầu Đại Nhật Như Lai. Tín đồ Phật giáo cầu Phật Dược Sư.
Tóm lược ý nghĩa: Trong sự phẳng lặng có hàm chứa cái nguy hiểm, vì thế bên ngoài tuy thấy ổn định, thực ra nên đề phòngđể đối phó. Nên xem xét lại kế hoạch, có thể được như ý. Nếu hay làm theo ý mình thì sẽ gặp rắc rối.

14. Quẻ 14: Pa Ra (3-2)

Biểu Tượng: Tử thủy đường (Ao nước tù không có mạch)

Hoạt thuỷ nguyên đầu nhược cánh vô, Trì đường điểm đích tiện can khô. Chiêm đắc thử tượng chủ hao tán, Nhật hữu sở giảm đồ tân lao.

Tạm dịch:

Nước chảy mà đầu nguồn lại không có, Trong ao một tí cũng không còn.
Người xin được quẻ nầy chủ về hao tán, Ngày ngày càng ít xuống chỉ cực khổ vất vả.

Tín hiệu: Sa nhạn kiến thành bảo
(Xây thành trên bải cát)

Toàn thể bộ hạ của Ma La đang tập hợp lại, họ đang bàn cãi để xây dựng một bức thành trên một bải cát ngoài bờ biển. Muốn xây được thành phải dùng đến những tảng đá lớn, nhưng đều vô ích, bởi vì nền móng của thành không kiên cố.
Bất luận pháp Thế Gian hay là pháp Xuất Thế Gian đều phải có cơ sở. Xuất Thế Gian pháp lấy Bồ Đề Tâm làm căn bản, tức là lấy Trí Huệ Bát Nhã mà tu hành Đại Bi Tâm.Nếu không có tâm Bồ Đề thì tất cả những pháp tu trì đều trở thành nguyên nhân của luân hồi. Rốt cuộc học Phật cũng chẳng thành tựu. Đối với pháp Thế Gian (văn chương, thi phú, khoa học, kỹ thuật, bói toán…) thì phải trọng căn cơ (có khiếu, sự thông minh, và thể chất) như mọi người đều biết. Người xin được quẻ nầy nên đề phòng sự vất vả uổng công vô ích.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Nhìn đến nay dều bình yên nhưng thực ra đã có nguy cơ nằm sẵn. Người xin quẻ nầy nên tích nhiều công đức. Người có thai nên đề phòng hư thai.

2. Tài Phú: Không thấy giảm sút, ngày ngày có hao. Không nên hỏi về lập thêm sự nghiệp mới. Chi bằng trước hết chỉnh đốn lại sự nghiệp cũ là tốt nhất. Đầu cơ sẽ thất bại.

3. Mưu Vọng: Cầu người giúp đỡ không hề được ích lợi gì cả. Nên tự mình nỗ lực mà làm. Có lời hứa giúp nhưng thực ra chẳng đến. Nếu người nữ cầu người nam thì dễ dàng được sự trợ giúp, tuy nhiên sự giúp ích cũng chẳng bao nhiêu.

4. Nhân Sự: Có người giúp đỡ kết quả có cũng như không.

5. Cừu Oán:Thù oán thì rất lớn, ngoài những mưu tính ra, tạm thời không có bị tổn hại. Nên hóa giải từ từ, làm cho kẻ thù phải cảm phục và kính nể bạn. Điều nầy khiến kẻ thù phải sợ lòng tốt của bạn. Nên đề phòng sự cãi cọ, thị phi tăng thêm… Kiện tụng nên hòa giải.

6. Hành Nhân: Trên đường đi gặp nhiều khó khăn cuối cùng cũng không thiệt hại to lớn lắm. Người khách giống như là một thương binh sẽ đến đúng kỳ hẹn. Tin tức đến ngay. Chưa chắc đã giống như những điều tốt mà mình đã tưởng tượng.

7. Tật Bịnh: Phòng những bịnh không tìm ra được, nên khám bịnh tổng quát. Tim, thận bất giao, dể dàng bị mất ngủ, rốt cuộc thân tâm mệt mỏi.

8. Ma Sùng: Có lấy được một gói đồ của người khác bỏ quên, bị người ta yểm, nên đã bất an. Có một con quỷ mặc áo hồng ở hướng Tây của nhà. Nên lập phép cầu đảo ngay, như tu pháp Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, Kim Cang Tát Đỏa, cũng có thể tụng chú Đại Bi và treo Chú Luân của ngài Thập Nhứt Diện Quan Âm ( ngài Quan Âm có 11 mặt).

Phong thủy không được tốt, hai hướng Đông và Tây đều nên sửa lại.

9. Thất Vật: Đồ vật bị mất đã hư hỏng, tìm lại cũng vô ích. Nếu mất tiền bạc, người ta đã tiêu mất rồi, không nên truy tìm.

10. Thỉnh Thác: Phàm có nhờ cậy thì tợ như được thỏa mãn, thực chất chẳng có chút ích lợi nào.

11. Hôn Nhân: Người có gia đình hay chưa có đều có chất chứa một nỗi buồn man mác. Có người thứ ba xuất hiện.

12. Kỳ Tha: Xin được quẻ nầy, tuy là khuyên không nên tiến hành nghiệp vụ mới, ngoài điều đó ra, các điều khác nếu bỏ cũ thay mới đều tốt. Có lợi về di chuyển, đổi chỗ, xin chức mới, hoặc thay đổi thời gian công tác.

Tín đồ Mật Tông nên bố thí các thầy Lạt Ma, cúng dường Thượng Sư. Tín đồ Phật giáo nên cúng dường trai tăng, tu pháp Cam Lồ, pháp Mộc Dục…

Tóm tắt ý nghĩa: Những ngày sung sướng dần dần giảm xuống, vì thế nên xét lại các việc trước mắt, xem thử lo lắng thầm kín nằm ở đâu để lo cải thiện lại.

15. Quẻ 15: Pa Pa (3-3)

Biểu Tượng: Cam Lồ Hải (Biển Cam Lồ)

Chiếm đắc Cam lồ hải, Nhứt thiết giai tăng trưởng.

Hoan lạc như hải dương, Hà huống thị cam lồ.
Tạm dịch:

Xin được quẻ cam lồ hải nầy, Tất cả mọi sự đều được tăng trưởng. Vui sướng như biển cả, Huống gì là cam lồ.

Tín Hiệu: Hạ thiên hà thủy trưởng
(Mùa hè nước sông dâng cao)
Tín hiệu của quẻ nầy đúng như lời dạy của ngài Tối Thắng Phật Đảnh Luân Vương: “Nước sông khi mùa hè đến lại dâng lên.”

Ghi chú: Nước sông ở Ấn Độ bắt nguồn từ Tuyết Sơn (Hy Mã Lạp Sơn) khi mùa hè đến tuyết trên núi tan ra làm cho nước song dâng cao lên. Ở Trung Quốc mùa xuân băng mới tan, nước song lại dâng lên trong những ngày xuân, thời gian nầy không cần phải vét bùn.
Nước có ở đầu nguồn thì tự nhiên sẽ dâng lên, đây là cái tốt của quẻ nầy, quan trọng và chính yếu là tại đầu nguồn.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Hiện trạng tốt, lần lần sẽ hưng vượng, nhân khẩu thêm, có trai sanh con gái. Có niềm vui rất là tuyệt diệu.

2. Tài Phú: Giống như là cỏ trong vườn vào mùa xuân, không thấy sự tăng trưởng nhưng mỗi ngày lại lớn thêm. Sự nghiệp củ hưng long, nghiệp vụ mới rất tốt. Không nên cầu phát tài quá mạnh.

3. Mưu Vọng: Nếu có cầu mưu đều được toại ý. Nên áp dụng kế hoạch có tính cách dài hạn. Tất cả những điều kiện khách quan đối với người xin đều có lợi.

4. Nhân Sự: Sự giúp đỡ, ủng hộ là một nguồn không dứt, nhất là sự giúp đỡ của phái nữ.

5. Cừu Oán: Sự thù hằn mới không có, sự thù hằn cũ cũng không có. Thị phi không khởi. Kiện tụng có thể giải quyết được.

6. Hành Nhơn: Người đến thăm đến đúng kỳ hạn, tin tức đến ngay và là tin tốt. Khách thì vui vẻ trên đường đi.

Ghi Chú:
(1) Sự ước đoán thêm của người dịch, còn thủy đại chỉ là phần nước trong cơ thể.

7. Tật Bịnh: Như bị bịnh cảm lạnh, sẽ được lành, như bịnh thuộc về thủy đại tức thuộc về hệ thống nước trong cơ thể (hoặc là bệnh thận vì thận thuộc thủy ) thì lâu bình phục (1).

8. Ma Sùng: Ma sùng, quỷ thần không quấy nhiễu nổi người xin quẻ nầy, phải phòng sự quấy nhiễu của người nhà. Phong thủy rất tốt. Quét vôi (sơn) trang trí lại thì tốt hơn nữa.

9. Thất Vật:Nên tìm vật bị mất tại hướng Nam hoặc hướng Bắc, có thể tìm được. Không những tìm lại được vật bị mất mà còn có tin vui bất ngờ nữa.

10. Thỉnh Thác: Có nhờ cậy sẽ thấy vui vẻ, hài hòa nên chẳng phí công sức. Nhờ có một người phụ nữ xoay chuyển tình hình nên thấy hài hòa. Đi đường thấy người áo trắng sẽ mang lại tin vui.

11. Hôn Nhân: Cảm tình từ từ tăng dần, chỉ đề phòng bị đứt giữa đường. Người phối ngẫu bề ngoài thì tốt. Hãy đề phòng người thứ ba mờ ám bên trong xâm nhập.

12. Kỳ Tha: Xin được quẻ này những điều muốn hỏi đều tốt cả. Những sự việc liên quan tới nước đều có lợi, nhưng những gì liên quan đến lữa thì không tốt. Tín đồ Mật Tông nên quét dọn bàn Phật, bài biện sắm sửa lễ phẩm để cúng tế Long Vương, hoặc hành pháp Cam Lồ Thủy. Tín đồ Phật giáo nên hướng về Phật mà sám hối tội lỗi.
Tóm lược ý nghĩa: “Tẩy sạch ô uế để được sáng ngợi nét mới.” Vì vậy mà bỏ cũ lập mới là rất có lợi vậy.


16. Quẻ 16: Pa Tsa (3-4)

Biểu Tượng: Tai Nạn Ma (Ma Tai Nạn)

Chiêm đắc tai nạn ma xuất hiện,
Hiệp như đại địa bị thủy yêm.
Nhứt thiết hoan lạc giai phá hoại, Tốc hướng Bổn Tôn nhương tai khiên.

Tạm dịch:

Đã xin được quẻ “Ma Tai Nạn” xuất hiện, Như là khắp nợi đều bị nước tràn ngập.
Tất cả những niềm hân hoan đều tan biến,
Hảy mau mau hướng về Bổn Tôn xin xua đuổi những tai họa và tội khiên.

Tín Hiệu: Độc long giảo vĩ,
Hãi thủy phiên đằng
( Rồng độc vẩy đuôi, nước biển dậy sóng)
Quỷ ác Dạ Xoa trấn giữ tại ngoài cửa ở phương Bắc đã nói: “Long Thần đã vẩy đuôi để khủng bố, làm cho nước biển dậy sóngvà vẩn đục.” Trong kinh Phật, Rồng là một bộ trong Thiên Long Bát Bộ, sau khi đã tự quy y Phật đã trở thành những vị hộ trì Phật Pháp. Tuy nhiên Rồng vẩn còn nhớ tới lòng ác độc và thù oán, không giử giới luật, làm xằng làm bậy. Điều nầy cũng giống như lòng người, có lúc cũng không tự khống chế mình được, tuy đã thọ giới nhưng thường phạm giới. Biển (Tâm) lặng đã trở thành dậy sóng, nước biển trong xanh đã trở nên vẩn đục. Ba độc Tham, Sân, Si đã khiến người phạm giới (nguyên nhân của sanh tử, luân hồi), cho nên thường xuyên trừ Ba Độc thì Ác Nghiệp Vương tự nhiên tiêu mất.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Có khó khăn trở ngại, có khẩu thiệt, thị phi, bất hòa. Gia đình có nguy hiểm như người nhà phát bệnh, thuộc loại cãi cọ thị phi đưa đến như nước xoáy liên quan đến con người. Có thai bất an.

2. Tài Phú: Đề phòng phá tài, gây ra cãi cọ. Nên tu pháp Thanh Tịnh Mộc Dục. Quyết không được hợp tác với người khác

3. Mưu Vọng: Nếu có toan tính đều bị phá rối, khiến cho thân tâm bất an. Không bằng giữ nguyên tình trạng củ cũng lợi như sáng tạo cái mới.

4. Nhân Sự: Bề ngoài có vẻ là tốt, trên thực tế sự quan hệ với người như gió thổi tung bụi lên, cho nên không giữ được lâu và cũng không được tốt, lại gây thêm nhiều khó khăn.

5. Cừu Oán: Có nhiều chuyện thị phi, kiện tụng triền miên. Có thù oán, đặc biệt là hai hướng Đông và Bắc, đi về hai hướng nầy rất dễ bị ám hại. Quyết tâm cẩn thận, có thể có người quay mũi giáo để đâm lại mình, ân đã trở thành oán, rất dễ bị người khác thưa kiện. Nên tu pháp Cam Lồ Thủy để cầu giải.

6. Hành Nhơn: Trên đường đi dễ bị té ngã gây thương tích. Khách bị mất đồ, bị tổn thất và gặp khó khăn. Tin lành không đến mà tin xấu lại đến ngay.

7. Tật Bịnh: Trong 5 đại thì phong đại và không đại bị bịnh. Không tốt cho việc đi lại. Bệnh tình khó thuyên giảm nên cúng Đa Mã, tu pháp Trừ Chướng, Độ Mẫu, phóng sanh…Nên cầu đảo, tụng chú Đại Bi. Trước giường của bệnh nhân treo bài chú Thập Nhất Diện Quan Âm.

8. Ma Sùng: Bị Tinh Linh của rừng rậm quấy phá, ma sùng ở trong đồ gỗ, tượng gỗ, và trên các vật màu xanh lục. Cũng có thể có người yểm trấn bỏ bùa ngăn cản. Do ma sùng quấy phá nên có lúc người xin quẻ lại đến một nơi nào đó đánh phá lung tung rất dễ làm người khác bị thương, hoặc do hiểu lầm mà đánh lẫn nhau. Phong thủy không tốt, phòng ốc ở hướng Đông và hướng Bắc nên sửa đổi lại, có thể treo những bài chú và cúng để cầu nguyện.

9. Thất Vật: Đồ vật mất đã lọt vào tay của người phá hoại, nên khó tìm lại được.

10. Thỉnh Thác: Tâm bạn đã loạn, nên khó đạt được mục đích nhờ cậy, chỉ nghĩ đến gặp mặt người ta là đã khó rồi huống chi là thốt lời xin giúp đỡ. Có người phá hoại gây trở ngại, nên không thành công.

11. Hôn Nhân: Người chưa kết hôn thì khó mà được gia đình bằng lòng. Người phối ngẫu thể xác thì hòa hiệp nhưng tâm hồn thì xa cách. Có người thứ ba phá rối, rất khó đuổi ra. Nên tu pháp Trừ Chướng.

12. Kỳ Tha: Các điều đã xin đều không được tốt. Tất cả mọi sự việc trong lòng đều buồn bực. Chỉ có hỏi về việc ác thì thành công (tạo thêm ác nghiệp!) như xúi dục vợ chồng người khác ly tán, làm cho người ta tự động xa lánh bạn…. Nhưng làm việc ác thì sẽ nhận lãnh quả ác, chỉ có thêm thù oán nguy hại. Cho nên hãy đổi lòng dạ không tốt của mình thì tự nhiên sẽ được tốt đẹp.

Tín đồ Mật Tông nên làm sạch sẽ bàn Phật, sắp xếp lại kinh sách, tu pháp Tiêu tai, Kính Ái, Cúng Dường, và treo các bài chú. Tín đồ Phật giáo, nên cúng dường tháp Phật và miếu vũ.

Tóm tắt ý nghĩa: Trong lòng nóng như dầu đun sôi. Vì vậy mà người xin quẻ hãy tạm thời buông bỏ tất cả mọi hoài bảo mà tu để kết phước, kết thiện duyên. Không nên hành động vội vã.

17. Quẻ 17: Pa Na (3-5)

Biểu Tượng: Kim Liên Hoa (Hoa Sen Vàng)

Đắc kiến kim liên hoa khai phóng, Chiêm giả vạn sự giai như ý.
Hữu như quả nhân phát lục nha, Bất tu canh chủng định phong thu.


Tạm dịch:

Nhìn thấy được hoa sen vàng nở, Người xin quẻ vạn sự được như ý.
Như một hạt nhân mọc mầm xanh,
Không cần cày cấy mà gặt hái được mùa.

Tín hiệu: Mạn Đà La hoa, đắc cam lồ vũ.
(Hoa Mạn Đà La đưọc mưa Cam Lồ)

Trong Minh (*) Phi của ngài Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có nói: “Trong đàn thành,
hoa Thiên Mạn Đà La được mưa Cam Lồ, nên hoa đã nở rất nhiều và rất đẹp.” Ghi Chú:
*: Chữ Minh Phi ở đây là vua trí tuệ, chữ Phi được phát âm theo giống cái (Theo tự điển Phật Học) = Biệt danh của Đà Ka Ni
Trong lúc Phật thuyết pháp, Thiên Nữ đã rải hoa Thiên Mạn Đà La để cúng dường. Loại hoa cúng Phật nầy vốn đã tốt lành. Nay lại thấy loại hoa cát tường nầy được thấm ướt mưa cam Lồ, tự nó có thể tăng bội phần tốt lành nữa. Lại nữa, trước khi đức Phật Thích Ca thành đạo, trong một đời đã bỏ ra 7 đồng tiền mua một đóa hoa sen vàng cúng dường lên đức Phật Nhiên Đăng, nhờ công đức nầy mà được thọ ký thành Phật. Vì vậy mà người xin quẻ nầy nên cúng dường, làm việc Phật sự, thì được mọi sự đều toại ý.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Gia trạch bình an, cát tường như ý, tăng thêm người, có thai sanh được con gái. Nữ nhi chủ về sang quí. Phụ nữ được nhiều điều vui vẻ.

2.Tài Phú: Tài sản của cải tăng thêm, đều được toại ý, chỉ tự mình mà nên sự nghiệp, tạo nên sự nghiệp mới không tốn sức bao nhiêu, chỉ do con người mà thành sự nghiệp.

3. Mưu Vọng: Phàm có tính toán và ưóc mơ, càng ít tính toán càng tốt, thật là quá đỗi vui mừng, không nghĩ đến mà có duyên cơ nầy.

4. Nhân Sự: Sự quan hệ với người khác càng đến càng tốt. Đã trở thành một nhân vật trung tâm của sự xả giao. Rất nhiều sự quan hệ về công việc đều đã mang lại kết quả lợi ích. Nhất là cần sự giúp đỡ của phụ nữ. Nếu như hướng về Hoàng Tài Thần mà cầu đảo tài sản của cải sẽ được tăng lên.

5. Cừu Oán: Không có thù oán với ai, chuyện thị phi đã chấm dứt, thưa kiện đều có lợi.

6. Hành Nhân: Trên đường đi có một chút trở ngại, nhưng an toàn, vui vẻ. Người khách bình an, chỉ hơi đến trể một chút. Tin tốt sẽ đến chậm một xíu.

7. Tật Bệnh: Tật bệnh sẽ dần dần thuyên giảm, đừng có lo ngại.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng quấy nhiễu. Vì người xin quẻ thường hay cúng dường Tam Bảo, cũng thường giúp đỡ bạn bè, nhờ phước đức nầy mà không bị ma sùng. Phong thủy tốt, nhưng dời chỗ ở mới thì tốt hơn.

9. Thất Vật: Vật bị mất sẽ tìm lại được. Hiện tại thì chưa tìm lạí được, một ít lâu sau khi không để ý thì tự nhiên thấy lại.

10. Thỉnh Thác: Phàm có nhờ cậy sẽ chậm một thời gian rồi cũng báo cho biết là như nguyện, nên nhờ cậy một người phụ nữ.

11. Hôn Nhân: Người chưa có gia đình tức sẽ gặp được lương duyên, tuy có trì hoãn một thời gian. Phối ngẫu với người mình có cảm tình càng lâu thì càng chắc chắn. Có người thứ ba xen vào, nhưng rồi họ cũng ra đi. Hôn nhân của bạn giống như: Sau cơn mưa thì trời lại sáng.

12. Kỳ Tha: Những điều đả xin đều tốt. Theo như tình trạng hiện tại thấy như là không tốt, nhưng sự việc có cơ hội sẽ chuyển qua tốt. Vì thế mà tương lai sẽ rất tốt đẹp. Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Tịch Tịnh Tôn. Còn tín đồ Phật giáo nên hướng về Tứ Thiên Vương mà kỳ đảo.

Tóm lược ý nghĩa: Phước trạch càng tăng, vì vậy mà người xin quẻ không được gấp gáp, cứ mặc kệ cho sự phát triển tự nhiên.

18. Quẻ 18: Pa-Dhi (3-6)

Biểu Tượng: Cam Lồ Dược (Thuốc Cam Lồ)

Như dược Cam Lồ liệu bá bịnh, Nhứt thiết phiền não giai tiêu giải.
Lai vấn quái giả đắc thử chiêm, Cát tường vân tập biến hoàng kim.

Tạm dịch:

Như thuốc Cam Lồ trị được trăm bịnh, Tất cả phiền não đều tiêu trừ. Người đến xin quẻ được quẻ nầy, Mây lành tụ lại biến thành vàng.

Tín Hiệu: Ư Nam phương, hoạch cát tường.
(Được tốt lành ở tại hướng Nam)

Trong Ngũ Phương Phật, phương Nam là Bảo Sanh Phật., chủ về tăng ích, tiền tài, của cải. Người xin được quẻ nầy chủ về được giàu có ở phương Nam, vậy nên 100 sự tính toán và mơ ước đều được như nguyện. Trong thành đàn, người giữ cửa Bắc là Cam Lồ Minh Vương, Cam Lồ cũng như thuốc, có khả năng trị liệu tất cả các loại phiền não trong ngũ trược ác thế nầy như tham, sân, si, mạn, đố… Năm trược và ba độc không khởi lên, thì tự nhiên công đức sẽ tăng trưởng. Nhưng công hiệu của thuốc Cam Lồ vốn không chỉ trị phiền não trong Tâm, mà thực ra còn tăng trưởng Trí Huệ Xuất Thế Gian nữa.

GIẢI ĐOÁN:

1.Gia Trạch: Mọi người bình an, gia đình vui vẻ, sang năm sẽ tăng nhơn khẩu.

2. Tài Phú: Tình trạng hiện tại thực ra không có gì sai trái, tương lai rất đẹp đẽ. Hướng về phía Nam để cầu tài sẽ được toại ý.

3. Mưu Vọng: Tất cả kế hoạch đều mãn nguyện, lợi nhất là ở hướng Nam. Phàm có tâm nguyện lâu ngày tự nó thành công. Có nhiều đường giúp đỡ (có nhiều cách giải quyết rất thù thắng) không cần vội vã, nhưng cần phải giải trừ phiền não, tự nhiên sẽ cát tường.

4. Nhân Sự: Có nhân duyên rất tốt, được sự giúp sức, cả hai bên đều có lợi. Không nên có lòng muốn lợi tư riêng, nếu có sẽ gây oán thù.

5. Cừu Oán: Nếu có cừu thù thì cũng không có hại. Người mà đố kỵ bạn sau cùng sẽ trở thành bạn bè của bạn. Có kiện tụng cũng sẽ xoay chuyển tình hình và bạn sẽ thắng được.

6. Hành Nhơn: Trên đường đi bình yên, nếu đi về hướng Nam sẽ có tin vui bất ngờ, còn nếu đi về hướng Bắc tấc kéo dài thêm thời gian. Khách đến đúng kỳ. Tin tức sẽ đến và là tin tốt.

7. Tật Bệnh: Theo lời dẩn của thầy thuốc, bệnh sẽ thuyên giảm. Tuy là bệnh nặng nhưng dần dần sẽ phục hồi.

8. Ma Sùng: Đến nay không có ma sùng. Có người trấn yểm mê hoặc như bà đồng, bà cổt, nhưng tất cả ma thuật đó đều bị tiêu trừ. Phong thủy tự nhiên biến thành tốt. Cảnh vật trong cũng như ngoài trong sự vô tình, vô ý đã cải biến thành tốt.

9. Thất Vật: Đi về hướng Nam hoặc Bắc mà tìm đồ bị mất nhất định là tìm lại được, nhưng phải làm ngay, chậm thì vật sẽ mất luôn.

10. Thỉnh Thác: Nếu có nhờ cậy, người ta hơi do dự một chút, nhưng rồi cũng đồng ý, sau khi đồng ý người ta sẽ hết sức giúp đỡ.

11. Hôn Nhân: Nếu trì hoãn thì làm cho gia đình vui vẻ, không cần phải lo lắng. Người phốí ngẫu vui đẹp dù có rạn nứt thì cũng nối lại. Người thứ ba sẽ tự động cáo lui. Sau cơn mưa trời lại sáng.

12. Kỳ tha: Mọi điều muốn hỏi có thể nói chung là thành công. Lợi nhất là trong bại lại thắng, xoay chuyển được thế cuộc. Nếu khuyên đươc người khác từ bỏ ý niệm xấu, những người ấy sẽ thành người tốt, mà còn được lợi ích ngoài ý muốn. Nếu phụ họa vớí người ta làm việc bậy, không những không thành công mà còn gắng lấy tai họa nữa. Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Bảo Sanh Bộ, cũng có thể hướng về Liên Hoa Sanh Đại Sĩ mà cầu xin. Tín đồ Phật Giáo có thể hướng về Phật Bảo Sanh mà cầu xin.

Tóm tắt ý nghĩa : Tiêu tai, giải nạn để được tốt lành. Vì thế mà người xin được quẻ nầy từ trong nghịch cảnh mà cũng chẳng lưu tâm.

19. Quẻ 19: Tsa Ah (4-1)

Biểu Tượng: Cát tường bạch tán (Chiếc lọng tán cát tường)

Đại Bạch Tán Cái diêu diêu, Thị vi cát tường chi triệu. Chư ban tai ách giải tán,
Chiêm giả phước đức gia thiêu.

Tạm dịch:

Lọng Phật lớn trắng xoay che bóng,
Điềm tốt lành đang phóng chiếu ra
Mọi điều tai ách tiêu ma
Người xin được quẻ phước nhà thêm tăng.

Tín hiệu: Mãn viên tiên hoa, cập thời nhi khai.
(Hoa tươi nở đúng khắp vườn)

Chiếc lọng lớn màu trắng che đức Phật Mẫu. Ngài đã dùng lọng nầy để che bóng và bảo vệ chúng sanh khỏi nạn đao, binh nước, lửa. Do đó người xin được quẻ nầy, có cùng một bó hoa rực rở, là một quẻ thật tốt. Tất cả nguyên nhân phát sinh ra mọi tai ách đều là cộng nghiệp của tập thể hay tư nghiệp của mỗi cá nhân. Người thâm tín Phật lý phải thành tâm sám hối những tội lỗi của mình từ thời vô thỉ đến giờ, thì mới có thể chuyển đổi các trọng nghiệp thành quả báo nhẹ hơn và có thể tiêu mất. Nếu chỉ dựa vào tha lực mà không sám hối, thì chắc chắn những tai ách, quả báo đã thuần thục phải xảy đến. Nếu có được một nhân tốt đã trồng từ trước thì chung cuộc sẽ có cơ hội nẩy mầm, nở hoa, và kết trái. Người xin được quẻ nầy may mắn nhận được ý nầy.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Gia trạch bình yên. Không có chuyện thị phi khẩu thiệt. Người lâu năm muốn có con nhưng chưa có con, có hy vọng có thai. Nếu có thai sẽ sinh con trai.

2. Tài Phú: Tài sản tăng thêm. Tất cả mọi trở ngại đều biến mất. Nghiệp vụ cũ thay đổi thành tốt, lại còn lập thêm công việc mới.

3. Mưu Vọng: Mãn nguyện. Sẽ có tin tức tốt. Một đôi khi quyết định của bạn không có kết quả vì người ta không thực hiện những lời họ đã hứa với bạn. Lời hứa đó như bóng chim trên bầu trời, không tung tích. Cho nên chủ động không bằng bị động, nhưng nên chủ động trong việc giải quyết những hiểu lầm.

4. Nhân Sự: Nên xét lại sự quan hệ nhân sự trong quá khứ, để tăng thêm phần cải thiện, sau đó sự nghiệp của mình mới được người khác giúp đỡ. Có thể hướng về Hoàng Tài Thần mà cầu đảo, chắc chắn rằng dễ dàng được người giúp đỡ hơn.

5. Cừu Oán: Không nên sợ hãi, cừu oán không thể hảm hại được. Không có thưa sự thưa kiện.

6. Hành Nhơn: Khách sẽ đến liền, trên đường đi vui vẻ, không gặp trở ngại.

7. Tật Bệnh: Bệnh nhân sẽ phục hồi nhanh chóng. Nếu có giải phẫu cũng không gặp nguy hiểm.

8. Ma Sùng: Những trở ngại khó khăn của người xin quẻ không phải do ma sùng gây nên, mà hoàn toàn do tâm lý. Vì vậy mà không nên nghi thần, nghi quỹ về việc nầy. Phong thủy tốt, nên quét dọn thật sạch sẽ chỗ ở, đặc biệt là phải chú ý quét bụi đóng trên các quyển Kinh.

9. Thất Vật: Đồ đã mất có cơ hội tìm lại được. Đôi khi lại là người trong nhà là thủ phạm.

10. Thỉnh Thác: Nhờ cậy sẽ gặp trở ngại, người ta nhận lời giúp đỡ, nhưng chỉ là lời hư, như hoa trong gương, trăng dưới nước. Cho nên nhờ người không bằng mình tự làm lấy.

11. Hôn Nhân: Giải quyết hết những trở ngại mới đẹp lòng người nhà. Có sự hiểu lầm với người phối ngẫu. Nên treo một bài chú trong phòng ngủ. Cần phải có thời gian mới tách người thứ ba ra được.

12. Kỳ Tha: Nói chung quẻ nầy chủ vế tiêu tai giải nạn, vì thế tự lực thắng tha lực, bị động hơn chủ động. Nghĩa là cứ để tự nhiên có lợi hơn là tính toán, cầu mưu tích cực. Người xin quẻ nên hiểu ý nầy.

Tín đồ Mật Tông nên tu pháp tiêu tai. Còn tín đồ Phật giáo nên hướng về đức Quan Thế Âm mà cầu đảo.

Tóm lược ý nghĩa: Đã quyết dịnh chọn con đường mình đi thì cứ bình yên mà đến. Vì vậy người được quẻ nầy cứ từ từ hành động theo chương trình đã sắp đặt, không nên tiến hành vội vã (Dục tốc bất đạt).

20. Quẻ 20: Tsa Ra (4-2)

Biểu Tượng: Đại hỏa diệm binh (Binh lửa qui mô)

Binh khí năng sanh đại hỏa diệm, Sự nghiệp thành công bất đải ngôn. Thử nãi dũng cảm chi thù báo, Chiêm giả tu thiện hội thử ý.

Tạm dịch:

Vũ khí thường phát sinh ra ngọn lửa lớn, Sự nghiệp thàng công không cần phải nói. Đây là phần thưởng cho sự dũng cảm, Người xin được quẻ nên hiểu rõ ý nầy.

Tín Hiệu: Hàng địch tồi ma, tức khả thành công.
(Làm cho địch hang phục, đẩy lui được ma tức là thành công)

Xin được quẻ Thành Đàn của ngài Diêm Mạn Đức Ca. Ngài Diêm Mạn Đức là Phẫn Nộ Tôn, thống lảnh tất cả Phẫn Nộ quyến thuộc. Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã hóa thân thành Phẩn Nộ, có khả năng trừ diệt ma oán, lại có thể giải quyết hết tất cả mọi sự khó khăn hiểu lầm. Bổn Tôn nổi giận nói: “Đánh bại địch nhân, đẩy lùi các ma.”

Có hai loại Bổn Tôn trong Mật Tông: Một loại là Tịch Tĩnh Tôn, còn loại thứ hai là Phẫn Nộ Tôn. Kỳ thực ra Phẫn Nộ Tôn là hóa thân của Tịch Tĩnh Tôn, cũng đại biểu cho sức mạnh đẩy lùi các chướng ngại. Mật Tông gọi là Ma, đó cũng chỉ là chướng ngại mà thôi. Trừ được chướng ngại tức là tự thành công rồi (hàng phục được ma ).

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Thị phi khẩu thiệt từ từ được tiêu trừ. Hướng về Hộ Pháp mà cầu đảo tức tăng thêm phước trạch. Đã lâu năm chưa có con, sẽ có một con trai.

2. Tài Phú: Tài sản tiền của tăng thêm đột ngột vì chướng ngại đã không còn nữa. Trong sự cạnh tranh thì gặt được thắng lợi. Lấy yếu để thắng mạnh.

3. Mưu Vọng: Mưu cầu khắp nơi nhưng không được như ý. Lợi nhất là mưu tính việc chủ về sức mạnh như làm đối thủ phải đầu hàng chịu thua, giải quyết các vấn đề hiểu lầm. Nên tu pháp hàng phục sẽ có được sự trợ giúp.

4. Nhân Sự: Nhờ những điều mình có sẳn cộng thêm sự giúp đỡ của người như là bằng vào thanh danh của chính mình cũng như sức mạnh của các vị nhân sĩ sống trong khu vực của mình (thì mọi khó khăn sẽ giải quyết được dễ dàng). Đối với đàn bà gặp một ít trở ngại nhưng cũng dễ giải quyết.

5. Cừu Oán: Có thể trấn áp được mọi sự thù nghịch, cừu oán trở thành giúp đỡ. Kiện tụng được thắng. Cãi cọ thì hữu lý.

6. Hành Nhân: Khách bình an, tin tức sẽ đến. Trên đường đi gặp một ít trở ngại, nếu như vậy thì cũng được phước. Tin tức thư từ sẽ đến, không cần nôn nóng.

7. Tật Bệnh: Tật bệnh sẽ nhanh chóng phục hồi. Giải phẫu rất tốt, không nên do dự.

8. Ma Sùng: Người xin quẻ có ý chí và sức mạnh nên ma sùng không thể hại được. Nên mở lòng từ bi đối với họ, chắc chắn ma sùng sẽ trở thành kẻ giúp đỡ.

Phong thủy dù xấu, tạm thời cũng không có ảnh hưởng. Nên sắp xếp lại bàn Phật, lau sạch tượng phật và kinh sách, cũng như treo các bài chú.

9. Thất Vật: Vật đã mất tìm lại được dễ dàng. Đồ vật bị mất đã lọt vào tay người, cũng có thể nhờ sức mạnh mà lấy lại được.

10. Thỉnh Thác: Nếu có thể nhờ cậy tức có thể thành công. Có gặp một chút trở ngại, nhưng tự nó biến mất. Nên tu pháp Trừ Chướng. Sau khi dùng sức mạnh để làm người ta qui phục rồi, nên lấy lòng từ bi mà giúp đỡ họ.

11. Hôn Nhân: Người chưa có gia đình thì hôn sự sẽ thành công. Người phối ngẫu có tính hay cãi một chút, nhưng cũng không có hại lắm. Nếu có người thứ ba họ sẽ tự động ra đi.

12. Kỳ Tha: Quẻ nầy biểu tượng dùng sức mạnh để làm người ta qui phục. Do đó mà nói chung là chủ về phá trừ chướng ngại, giải quyết hiểu lầm đạt được thành công.

Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Diêm Mạn Đức Ca. Tín đồ Phật giáo hướng về ngài Thập Nhứt Diện Quan Âm để kỳ đảo, sức mạnh sẽ tăng lên.

Tóm tắt ý nghĩa: Hàng phục đưọc người ta rất có lợi. Muốn được thành công sự việc nầy, người xin quẻ phải bỏ công sức của mình ra. Nhất là lấy lòng từ bi mà đối xử với những người đã qui phục. Nên dành cho họ một chỗ trống để xoay xở, chớ không nên bịt kín lối thoát.

Quẻ 21: Tsa Pa (4-3)

Biểu tượng: Không hư tâm trí (Tâm trí trống không)

Hữu như phong tuyền ư không cốc, Thanh âm tuy hưởng khước không hư. Chiêm giả ký đắc như thị chiêm, Tâm trí không hư diệc nhược thị.

Tạm dịch:

Như có gió thổi xoáy vào trong hang trống, Âm thanh tuy vang lên nhưng vẫn là hư không. Người xin quẻ nầy đã được như thế đó, Tâm trí trống không cũng như vậy.

Tín Hiệu: Phong quyện bạch chỉ, thùy năng tróc trì?
(Gíó cuốn tờ giấy trắng, có ai chụp lại được không?)

Sứ giả của Đại Ma La đi tuần du tất cả đô thị và thôn ấp của thế giới yêu tinh. Trong lúc tuần du về phía Tây Bắc đã nói rằng: “Thật là rất khó để chụp lại một tờ giấy trắng đã bị gió thổi bay tung và cuốn đi. Ai có thể chụp lại được?” Vì vậy nên tin tức trong quẻ nầy không tốt. Những điều mong cầu đều như bắt gió. Tất cả những sự đã mưu tính tại sao lại thất bại, e rằng trong lòng của người xin quẻ không có chủ động, chẳng có một ý định nào, thật khó mà thành công. Lại có thể vì căn bản chưa đủ, nhưng lại làm việc không tưởng (không thực tế) như xây lâu đài giữa không trung là một điều khó thực hiện.

Nhà Phật nói về Tánh Không, còn gọi bản chất của sự vật là không thật, chứ không nói Tâm Trí là hư không, trống rổng. Người xin quẻ nên rõ điều nầy.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Người trong nhà bất an, ồn ào cãi cọ rất bực bội. Người trong gia đình hoặc sinh ra ly tán, hoặc bị tổn thương, hoặc sinh bịnh tật. Tất cả đều không tốt. Hãy mau mau cầu đảo hóa giải. Nên tụng nhiều chú Đại Bi.

2. Tài Phú: Có mưu tính thì cũng không có ý, mất tiền tốn của. Hãy gấp rút chỉnh đốn lại kế hoạch. Chưa tính toán suy nghĩ kỹ lưỡng, nhất định không khai triển kế hoạch mới, tức làm cho sự việc đã định rồ sẽ bị thay đổi. Cho nên phải suy nghĩ thật kỹ rồi hãy làm sau. Không đuợc đầu cơ. Tiền tài vào trong tay mình, và cũng do mình mà tiền tài chạy ra.

3. Mưu Vọng: Không vì những việc nhỏ nhen mà mất quá nhiều tâm trí, không nên; phải biết mọi sự việc khi đến thì tự nhiên nó đến. Nếu nhờ người khác, chi bằng không nhờ, trái lại mọi việc đã tính toán đều được hữu ích. Tâm tư chưa định được, thì cũng mờ mịt như bắt gió.

4. Nhân Sự: Đem sự việc của mình mà giao phó cho người khác làm, kết quả cũng hư hỏng. Nên chỉ dẫn thật rõ ràng, sau đó người ta mới có thể thực hiện được. Nếu trong lòng mình do dự, chẳng bằng đem sự việc ấy mà bỏ đi. Phụ nữ làm việc nầy đều hư hỏng.

5. Cừu Oán: Người mang ơn mình lại trở thành kẻ thù. Nếu có thể gặp đối phương mặt đối mặt để khai thông những bế tắc thù oán, chắc chắn không có hại lớn. Tốn tiền để khỏi tai nạn, bạn có thể giúp đỡ cho người thù hận bạn, họ đối xử với bạn tốt ngay và bạn sẽ có lợi. Có kiện tụng nên hòa, có cãi cọ thì nên giải thích.

6. Hành Nhân: Trên đường đi tuy không gặp khó khăn lớn, nhưng cũng khó đạt được mục đích. Người đi trở về với tay không, tin tức sẽ đến nhưng vô ích.

7. Tật Bệnh: Chủ về bệnh nhiễm gió lạnh, hoặc thuộc bệnh khí đại. Trong thân thể ngũ đại không đều hòa: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, và Không đại. Bởi vì sự quan hệ với người khác không tốt, nên chi tinh thần bực nhọc, tâm trí bất an, tách rời bọn họ tức được tự tại.

Không kể tinh thần hay thể xác bệnh hoạn, đều phải nên điều dưởng từ từ, không có cách gì để phục hồi ngay được. Có giải phẫu cũng vô ích.

8. Ma Sùng: Tuy không có hại lớn, nhưng cũng nên cầu đảo, có thể tu pháp Thanh Tịnh Mộc Dục., hoặc Trừ Chướng. Thần quỷ đều thuộc về âm tánh, vì thế nên tế cúng nữ Bổn Tôn. Phong thủy không tốt, thiếu ánh sáng mặt trời chiếu đến. Nên treo các bài chú nơi chổ thiếu ánh sáng.

9. Thất Vật: Vật mất rồi khó tìm lại được. Tìm kiếm chỉ phí tâm lực mà thôi.

10. Thỉnh Thác: Nếu có đi nhờ cậy đều khó vừa ý. Công việc nhờ cậy mà có mục tiêu bất minh thì bạn tốt cũng khó giúp đỡ.

11. Hôn Nhân: Theo đuổi cũng giống như bắt gió. Người phối ngẫu có tâm bệnh, mỗi người mong nhớ tự thất bóng mình. Có người thứ ba xen vào, rất khó tách ra.

12. Kỳ Tha: Nếu có chủ trương, người khác cũng chẳng nghe theo. Tất cả mọi hy vọng đều lạc vào hư không. Do hai điều trên mà người xin quẻ nên kiểm thảo lại kế hoạch của mình, nếu thấy rằng chính xác tức hạ quyểt tâm tiến hành. Trong tiến trình phải luôn kiểm thảo, xem xét lại. Nên tích lũy công đức, đọc tụng kinh luận để cầu tâm khí an bình. Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Bổn Tôn. Còn tín đồ Phật giáo nên tìm hiểu và học về Tánh Không. Nên tụng Bát Nhã Tâm Kinh.

Tóm tắt ý nghĩa: Lòng nát tan từng mảnh, vì thế mà tinh thần bấn loạn, vật chất tốn hao.

22. Quẻ 22: Tsa Tsa (4-4)

Biểu Tượng: Thăng dương danh vọng
(Danh tiếng vang lừng)

Thắng lợi cổ thanh hưởng, Thanh vọng định thăng dương. Chiêm giả đắc thử quái, Kim sí điểu phi tường.

Tạm dịch:

Thắng lợi tiếng trống vang xa, Thanh danh nhất định lẩy lừng.
Người xin được quẻ nầy, Chim Kim Sí Điểu bay xa.

Tín hiệu: Chinh phục thập phương, kỳ phiêu sơn điên.
(Chinh phục hết thảy 10 phương, cờ bay phất phới trên đỉnh núi)

Quân Trà Lợi Minh Vương nói: “Thời giờ đã đến, hãy chinh phục khắp 10 phương, phất cờ xí và cắm trên đỉnh núi.” Quẻ nầy chủ về danh tiếng vang lừng của người xin quẻ, tên tuổi vang vội xa gần như con của chim Kim Sí Điểu đã chiến thắng rồng ác, đang rong chơi trên bầu trời. Danh vọng đã cao, công việc cũng dễ thành công, vì thế quẻ nầy chủ về sự nghiệp thành công, vì thế quẻ nầy chủ về sự nghiệp thành công, danh lợi song thu. Tuy nhiên, bạo phát cũng dễ bạo tàn, tức thì Kim Luân Vương liền chinh phục khắp nợi, cho nên sự nghiệp đó cũng khó để lại cho muôn đời sau. Vì thế mà người xin được quẻ nầy hãy dành một ít cho người khác, không nên chiếm hết toàn bộ lợi ích về tay mình, hãy ban cho người một chút ân huệ, ắt là phước đức sẽ đến. Nếu thường làm việc công đức, hoằng dương Phật Pháp thì điều tốt lành sẽ đến.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Hiện trạng không có gì sai trái, tương lai lại tốt đẹp hơn, tăng nhơn khẩu, người có thai sanh con trai. Con trai đó không đến nổi nghịch ngợm, bướng bỉnh. Khi vận nhà của mình đang lên, hãy để tâm săn sóc kẻ dưới.

2. Tài Phú: Tài sản tiền của sẽ tăng thêm. Không nên ỷ thế mà lăng mạ người khác, nếu làm việc trên thì hậu quả về sau bị ảnh hưởng không ít, trước mắt tuy có được nhiều lợi, nhưng cái được chẳng thể bù được cái mất. Cũng không nên dùng sức mạnh để đấu với người, vì thâu hoạch kết quả rất ít.

3. Mưu Vọng: Phàm có tính toán thì được tốt, nên thành thật ở tốt với mọi người để thu phục họ như thế là tự giúp mình rồi. Nếu dùng uy lực để áp bức hay dụ dỗ, chắc chắn chỉ gặt hái được việc nhỏ, việc lớn không thành ví như cvông việc đã xong được 9 phần chỉ còn 1 phần nữa mà không hoàn tất được. Đôi khi người đàn bà cũng gây sự hiểu lầm.

4. Nhân Sự: Quan hệ nhân sự tốt, tuy có người khác giúp đỡ cũng được tốt.

5. Cừu Oán: Kẻ thù tuy muốn gây cản trở, nhưng cũng thất bại, kiện tụng được thắng, không có thị phi.

6. Hành Nhân: Trên đường đi vui vẻ, hết sức vui mừng, khách sẽ đến ngay, lại có mang tin tức tốt. Tất cả tin tức đều tốt.

7. Tật Bệnh: Nguyên nhân là Phong đại không điều hoà, nên cũng không có trở ngại lớn, trị liệu sẽ hồi phục dần dần, không cần giải phẩu.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng quấy phá, nhưng trong nhà có một người nữ thường thấy những điều quái dị. Lý do gây nên việc nầy hoàn toàn do tâm lý tác dụng. Phong thủy tốt, chỉ cần quét vôi (sơn) lại mới một lược là xong, chẳng cần làm thêm gì nữa.

9. Thất Vật: Hãy mau mau đi tìm vật bị mất ở hướng Đông Bắc, thì có thể tìm lại được.

10. Thỉnh Thác: Có nhờ cậy thì được như ý, nhưng đối xử với kẻ dưới lịch sự một chút thì người dưới sẽ tận tâm tận lực giúp mình.

11. Hôn Nhân: Trời tác hợp, nhân duyên sẽ thành tựu. Không có hiềm khích gì với người phối ngẫu. Vợ chồng hoà hiệp, nghe lời nhau. Có người thứ ba cũng không đủ để gây nên tai họa. Hãy tu pháp Cam Lồ Thủy.

12. Kỳ Tha: Ngoài sự liên quan đến đất và nước (Địa đại và Phong đại) ra không hề có một trở ngại nào cả, không cần hao hơi tốn sức mà cũng thành công. Tuy nhiên những công việc liên quan đến Địa đại và Thủy đại tức có gặp trở ngại, nên tìm sự giúp đỡ để giải quyết.

Tín đồ Mật Tông nên tu pháp hộ pháp. Tín đồ Phật giáo nên hướng về đức Thích Ca mà sám hối cầu xin.

Tóm tắt ý nghĩa: Thành công tức thì lại còn có thanh danh. Quẻ nầy thật đúng là “Danh lợi song thu”. Thật là một quẻ tốt.

23. Quẻ 23: Tsa Na (4-5)

Biểu Tượng: Tụ hội quần Ma (Quần Ma tập trung)

Đại Ma La tụ hội, Phàm sự giai bất tường. Chiêm giả phùng thử quái, Mộc đoạn tại trung ương.

Tạm dịch:

Thế giới Ma đang tập hợp lại, Tất cả mọi sự đều không tốt.
Người xin được quẻ nầy, Như cây bị chặt tại giữa thân.

Tín hiệu: Cây cỏ bị cắt ngay chính giữa thân.

Người giữ cửa Đông ngoài Thành Đàn Thế Giới đã lớn tiếng gào thét: “Hãy dùng lưỡi liềm mà cắt sạch tất cả các loại cây cối.” Tín hiệu nầy cho biết công việc sẽ thất bại giữa đường, giai đoạn giữa không hoàn tất được. Người xin được quẻ nầy thật là không tốt. Tuy nhiên cũng có nhiều sự việc, Ma do Tâm sanh ra, như hành giả của Mật Tông tu trì Mật pháp, tự nhiên cảm thấy chán nản, nữa đường bỏ tu. Như thế gọi là “Trung Đoạn Ma”, đó cũng do tâm Ma (Tâm) mà thôi. Người xin được quẻ nầy, phải có thành tâm quyết chí, cắt nhưng không bỏ (Tổn hữu dư, bổ bất túc) thì mọi sự việc có thể thay đổi, không nên nản lòng thối chí.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Hiện trạng không được tốt đẹp, cãi cọ phiền não, sanh nhiều khẩu thiệt, hoặc có bệnh nặng đến nỗi tử vong….Đề phòng xẩy thai hoặc sanh non.

2. Tài Phú: Bị thiếu thốn khó khăn, tạm thời chưa có cơ hội thay đổi. Nên tu pháp trừ chướng. Cũng phải nên tính trước tình huống bị thất nghiệp. Đầu cơ là đại bất lợi, thời cơ sẽ mang đến lầm lẫm, sai trái.

3. Mưu Vọng: Tính toán và ước mong đều bất lợi, kế hoạch sẽ đổ vỡ nửa đường.

4. Nhân Sự: Tuy có bạn tốt nhưng họ không thể giúp đỡ được.

5. Cừu Oán: Ở trong thành hoặc hướng Đông của thành, có cừu thù quấy phá, có thể tập kích rất mạnh, nên chú ý hết sức cẩn thận. Kiện cáo bất lợi, khó mà biện minh nổi oan cho mình.

6. Hành Nhơn: Trên đường đi gặp nhiều trở ngại, chi bằng không đến. Khách bị trở ngại và chậm trễ, sau nầy người ta mới hối hận về chuyến đi nầy. Tin tức không đến được.

7. Tật Bệnh: Bệnh nhân bị bịnh đàm có phần nghiêm trọng, giống như loại trúng gió. Chủ về bệnh thuộc hệ thống hô hấp, đưa đến tình trạng khó thở. Thử đổi bác sĩ, nhưng không được mời bác sĩ ở giữa thành phố hoặc phía Đông thành phố vì rất bất lợi. Giải phẫu cũng không giúp ích được gì. Nên hướng về 7 đức Phật Dược Sư mà cầu đảo và trì tụng chú Đại Bi.

8. Ma Sùng: Vì có Địa Thần xâm quấy. Người trấn yểm đã làm một gói đồ màu vàng, một gói đồ hình vuông, hoặc một ngội nhà nhỏ hình vuông. Người đó đã bỏ những món đồ đó vào rồi, nên mình phải nhanh chóng hóa giải ngay. Vật mà người ta bỏ cho cho mình do một người đồng cốt đứng van vái rồi, và qua tay một người đàn bà để đưa đến bỏ ở nhà mình. Người xin quẻ nầy đã ở tại một nơi trước đây mà chưa có người ở, phong thủy quá xấu, nên dời đi nơi khác là tốt nhất. Tạm thời có thể treo chú Quán Âm Thập Nhất Diện đối dịện với cửa ngõ hay cổng vào để hóa giải.

9. Thất Vật: Tiền bạc đã vào tay kẻ vô loại (vô luân thường, đạo lý) tiêu xài. Nếu là đồ vật đã lọt vào tay kẻ tham lam, cả hai tiền bạc và đồ vật bị mất đều không thể tìm hay lấy lại được.

10. Thỉnh Thác: Người được yêu cầu giúp đỡ đã buộc mình phải làm đủ các loại kiến nghị, đến nổi yêu cầu phải quan tâm săn sóc họ vô thời hạn, rồi kết quả chung cuộc cũng chẳng như ý. Người được yêu cầu giúp đỡ đầu tiên là có ý thành thật, nhưng vì bị xúi dục nên giúp đỡ nữa chừng đành nghỉ luôn.

11. Hôn Nhân: Lời thề non hẹn biển cũng trở thành không có. Người phối ngẫu cũng rất dễ xa nhau. Có người thứ ba vào phá. Tình cảm của người thứ ba nầy tuy có nhưng cũng không giữ được làm bền.

12. Kỳ Tha: Ngoài việc trừ tà ác ra đều rất khó thành công. Chỉ có làm việc ác là thành công nhưng cuối cùng lại nhận quả xấu. Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Phóng Đa mã, hiến Mạn Đạt, cúng dường Thượng Sư, đồng thời tu pháp Thanh Tịnh Mộc Dục, pháp Trừ Chướng. Còn tín đồ Phật giáo nên hành nghi thức Sám Hối.

Tóm lược ý nghĩa: “Trên đầu bị hòn núi đè nặng” cho nên tất cả mọi sự việc đều phải tạm hoãn tiến hành để tiêu trừ áp lực.

24. Quẻ 24: Tsa Dhi (4-6)

Biểu Tượng: Như Ý bảo thọ (Cây quý Như Ý)

Chiêm đắc Như Ý bảo thọ, Trị đương vạn sự như ý.
Hung sự diệc năng giải tán, Chiêm giả cát tường vô lượng.

Tạm dịch:

Xin được quẻ cây quý Như Ý, Tự nhiên vạn sự đều được như ý.
Mọi chuyện hung dữ đều tan biến,
Người xin được quẻ nầy có cát tường không kể xiết.
Tín hiệu: Khai thành bố công, vạn sự hanh thông.
(Công khai thành thật, mọi việc đều hanh thông.)

Người giữ cửa hướng Đông của Thành Đàn nói rằng: “Bạn đã tiến vào được cung điện vận may.” Vì vậy mà quẻ nầy thật là thuộc vận may, đến lúc vui mừng quá đỗi. Cây quí như cây Như Ý sanh ở trên trời (Thiên giới), nếu có sự cầu xin, cây đó liền có thể ra trái Như Ý. Có thể sanh ra người trời. Tất cả là đại phước báo do cây công đức sanh ra, nên người xin quẻ nầy cũng phải vun trồng công đức, thì sau mới hưởng được quả tốt lành.
Quẻ nầy khuyên rằng nên thành thật khai báo. Nếu người làm ác mà xin được quẻ nầy thì phải thành thật thú nhận tội lỗi và sám hối thì sẽ chuyển họa thành phúc, còn làm trái lại là không tốt. Như vậy nhất định là không nên làm xằng làm bậy thì khỏi phải rắc rối về sau.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Nhà cửa bình yên đầy phước trạch. Mọi sự đều được viên mãn, có điềm vui tăng thêm người. Người có thai bình an. Nếu có sinh non cũng không có hại. Nếu có thể cảm hóa được người trong nhà thì thật là một điều phước đức cho gia đình.

2. Tài Phú: Không nên dùng sức mạnh để giành giật, nước đến đâu thì mương đến đó. Lập nghiệp vụ mới ắt có lợi, không nên cạnh tranh mang tánh xấu ác. Của cải, tiền bạc sẽ dần dần nhnư mầm nẩy mùa xuân, thời cơ đã đến lúc chín muồi.

3. Mưu Vọng: Tất cả mọi toan tính đều được cát tường, chỉ thời gian ngắn tức được thành tựu. Những công việc mà người khác bỏ, bạn cứ nhận lấy mà làm, nhất định thành công không cần do dự.

4. Nhân Sự: Sự hợp tác với nhau lâu dài, ta và người được hòa khí, phát tài, người khác quê hương sẽ đem đến vận khí tốt. Chư Thần bảo vệ, gặp được cơ duyên, vì thế mà cùng với người ta bàn bạc tức gây được sự chú ý hoặc được sự giúp đở đặc biệt.

5. Cừu Oán: Hãy mở rộng lòng mình thì không có một ai là cừu oán cả. Mọi sự cừu oán đều theo tâm hòa giải của bạn mà chuyển biến. Nên tu pháp Cam Lồ Mộc Dục, chuyện thị phi dễ chấm dứt. Kiện tụng có thể thắng (được minh oan).

6. Hành Nhân: Đang đi thì gặp được người bạn tốt, trên đường đi rất vui vẻ. Khách đến ngay lại có mang theo tin tốt.

7. Tật Bệnh: Cứ theo lời dặn của thầy thuốc tức dễ thuyên giảm. Nếu có giải phẫu thì cũng không có trở ngại. Duy chỉ hệ thống sinh đẻ bị bệnh nên có phần khó lành, nên nghỉ ngơi để lấy thời gian mà trị liệu.

8. Ma Sùng: Muôn điều lành vân tập lại, nên 100 thứ xấu cũng chẳng hại được. Phong thủy tốt, nếu cửa chính và đường đi đối xứng nhau thì tốt.

9. Thất vật: Nên tìm đồ vật đã mất tại hướng Đông hoặc hướng Bắc.
10. Thỉnh Thác: Kế hoạch đang làm có phần hơi chậm, nhưng một khi tiến hành chắc chắn được sự trợ giúp trên nhiều phương diện. Phàm có nhờ cậy đều được vui vẻ.

11. Hôn Nhân: Người chưa lập gia đình chắc chắn lập được gia đình. Người đã có gia đình thì được tốt đẹp, không có hiềm khích nhau. Không có người thứ ba xen vào.

12. Kỳ Tha: Mọi sự đều như ý, tốt đẹp. Nếu có tính toán đi làm ăn xa, thì cơ sự có thể hơi bị kéo dài, điều nầy cũng không trở ngại vì kết cuộc rồi cũng như ý muốn. Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Tứ Tý Đại Hắc Thiên. Tín đồ Phật giáo nên hướng về ngài Bảo Sanh Như Lai mà cầu đảo.

Ý nghĩa chung: Mang tin tức tốt đẹp và vui vẻ lên đỉnh núi.

25. Quẻ 25: Na-Ah (5-1)

Biểu tượng: Kim Sơn (Núi Vàng)

Hoàng kim vi sơn tại nhản tiền, Bất đán phong nhiêu thả kiên ổn. Chiêm giả năng đắc thủ quái tượng, Đinh thị tiền sanh hữu túc nhân.

Tạm dịch:

Vàng đã tạo nên một hòn núi trước mắt, Không những vô số mà còn vững chắc nữa.
Người xin được quẻ nầy cũng được như biểu tượng của quẻ, Nhất định kiếp trước đó đã có đủ nhân duyên.


Tín Hiệu: Bất biến chi cát tường tấn hiệu.
(Tín hiệu tốt không đổi thay)

Tín hiệu tốt lành không thay đổi, nghĩa là được điềm tốt lành đến một cách chắc chắn. So sánh những vận may đã đến với những điều ước muốn thì quá nhiều. Người xin được quẻ nầy đã có đủ thiện nghiệp để hưởng phước báo. Nhà Phật rất coi trọng nhân quả. Tất cả nhân quả căn bản đều do nghiệp lực, nhưng để tạo ra kết quả nghiệp lực cũng có vô số trợ duyên. Như trồng hoa thì phải bón phân, tưới nước, săn sóc, tỉa nhánh, bắt sâu… Do đó muốn có kết quả được mỹ mãn, cũng phải tạo trùng trùng thiện duyên tương trợ. Người được quẻ nầy đừng say sưa mãn nguyện mà nên làm việc thiện, chắc chắn sẽ đạt những điều tốt đẹp lâu bền. Nếu như một khi mà ác nghiệp sanh quả, tức thì các điều tốt lành không còn tồn tại lâu bền nữa.


GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Gia trạch hưng long không suy sụp, tăng thêm nhân khẩu. Người có thai bình an.
2. Tài Phú: Tiền của tài sản tiếp tục tăng thêm. Sự nghiệp ổn định, có thể phát triển thêm sự nghiệp mới. Nên mở văn phòng địa ốc có thể thâu lợi.

3. Mưu vọng: Phàm có tính toán làm ăn đều được kết quả tốt đẹp, và được chắc chắn lâu bền. Chuyện lớn chắc có chậm trễ một chút, nhưng kết cuộc so với dự tính thì rất tốt.

4. Nhân Sự: Có một người bạn lớn tuổi sẽ tăng phần giúp đỡ. Sự giúp đỡ sẽ nối tiếp nhau không dứt.

5. Cừu Oán: Vì người xin quẻ có sức mạnh nên kẻ thù không thể làm hại đưọc. Chuyện thị phi cũng dễ chấm dứt. Kiện tụng cũng được thắng.

6. Hành Nhân: Trên đường đi gặp chuyện phiền phức như mất đồ, lỡ chuyện… Khách tuy chậm nhưng đến được, tin tức sẽ đến sau, chờ không lâu.

7. Tật Bịnh: Không tai họa, chẳng bịnh hoạn.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng nào đến quấy phá cả. Phong thủy tốt, không cần thay đổi, sửa sang lại là tốt, nên dùng các màu sắc tươi sáng để sửa sang. Nên treo chú luân và cờ cầu đảo.

9. Thất Vật: Đồ vật mất chưa lọt vào tay người khác.

10. Thỉnh Thác: Kế hoạch trước mắt phàm đi nhờ cậy người ta giúp đỡ đều sinh chướng ngại về người, hoặc trả lời chậm, nhưng một khi đã tiến hành kế hoạch, tức thì thuận lợi. Những việc đã xin giúp đỡ đều được thàng công.

11. Hôn nhân: Lương duyên do trời tác hợp, nên tình yêu keo sơn. Người phối ngẫu tình cảm rất hòa mỹ. Không có người thứ ba phá rối.

12. Kỳ Tha: Tất cả những điều đã hỏi đều được tốt đẹp. Duy chỉ việc hỏi đường đi làm ăn, buôn bán ở xa, chắc có chuyện trì trệ, nhưng cũng chẳng cần vội vã, cuối cùng cũng sẽ thành.
Tín đồ Mật Tông có thể tu pháp Liên Hoa Bộ, hoặc pháp Mẫu Tục Phẫn Nộ Tôn. Cũng có thể cúng dường Hoàng Tài Thần và Đa Văn Thiên Vương. Tín đồ Phật Giáo hướng về ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát để sám hối và kỳ đảo.

Tóm lược ý nghĩa: Đứng thật vững chắc chẳng lay động. Vì thế mà quẻ nầy nên Tĩnh chớ nên Động. Giữ sự nghiệp cũ tốt hơn là kế hoạch mới. Tất cả mọi sự việc đều đã có cơ sở tốt lành và ổn định.

26. Quẻ 26: Na-Ra (5-2)

Biểu tượng: Thiên Ma (Ma Trời)

Ma La Thiên Ma dĩ xuất hiện,
Sở chiêm giai kiến bất cát tường.
Hiệp như hỏa thiêu tân phòng xá, Chiêm giả nan miễn tân ưu tiễn.

Tạm dịch:

Ma La và Thiên Ma đã xuất hiện, Những điều xin hỏi đều không tốt.
Giống như ngọn lửa đốt cháy ngôi nhà mới, Tâm người xin quẻ khó tránh khỏi nổi ưu phiền.

Tín Hiệu: Hy vọng chi hỏa, phần thiêu tự thân.
(Ngọn lửa hy vọng, đốt cháy chính mình)

Trong lúc tuần du ở cửa Tây ngoại thành đàn (Mạn Đà La) Ma Lừa Dối đã nói rằng: “Ngọn lửa hy vọng một khi đã cháy lên tức kết quả đã trái ngược là tự đốt cháy chính bản thân mình.” Vì vậy mà tín hiệu của quẻ nầy không tốt. Ý của quẻ nói rằng: “Con người khi có bất cứ sự mong cầu nào đều đưa đến kết quả trái ngược là sợ hãi và ưu phiền.”

Nhà Phật từ trước đến nay đã nói rằng Vô Minh là gốc rễ dẩn đến luân hồi. Gọi là Vô Minh là vì sự chấp trước về Ta và Người (Ngả, Nhân) hay Ta và Pháp (Ngả, Pháp). Niềm hy vọng đều do sự chấp trước của Tự Ngã mà sinh ra. Vì thế mà ngọn lửa hy vọng có thể đốt cháy tự thân. Người xin được quẻ nầy cũng chưa nếm được vị của đạo lý Không nên có trở ngại cho việc phản tỉnh bản thân mình. Một niềm hy vọng, một sự mong muốn không chỉ cầu một việc tư lợi cho chính mình mà còn cầu cho được những sự tốt lành nữa.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Nhà cửa không yên, sanh nhiều chướng ngại. Chuyện thị phi khẩu thiệt đãphát sanh nhiều do các sự hiểu lầm dẫn đến. Càng muốn thêm người lại càng khó có.

2. Tài Phú: Rất dể dàng đưa đến tổn thất, nhất là đầu cơ. Sự nghiệp cũ vốn đả không yên, lập nghiệp vụ mới lại không dễ dàng. Hãy cẩn thận! Nghiệp vụ có nhiều trở ngại lớn, chủ về cạnh tranh có tánh xấu ác.

3. Mưu vọng: Tất cả mọi sự tính toán, mong cầu mờ mịt như bắt bóng. Có một nam nhân sẽ đem đến nhiều rắc rối, nhưng lại có thể góp được ý tốt.

4. Nhân Sự: Bạn bè cũng giống như đám tro tàn của gấm, lụa vừa đốt xong, rất là mềm yếu. Nên tụng chú Đại Bi để cầu nguyện..

5. Cừu Oán: Cừu oán sẽ tăng phần phá hoại nhất là tại hướng Tây Nam, phải hết sức cẩn thận. Chuyện thị phi có thể tăng nhiều thêm. Kiện tụng sẽ bị thất bại. Nên tụng chú Đại Bi để cầu nguyện.

6. Hành Nhân: Trên đường đi gặp nguy hiểm, tiền bạc và tánh mạng khó bảo toàn. Người khách đang ở trong vùng nguy hiểm, tin tức đã bị thất lạc.

7. Tật Bịnh: Chủ về bịnh đàm, nhiệt, và máu huyết. Bịnh tình ngày càng trầm trọng. Có thể thử đổi thầy thuốc xem sao. Nên tụng chú Đại Bi và treo chú luân của ngài Quán Âm Thập Nhất Diện. Không nên giải phẫu.

8. Ma Sùng: Những vật mà người ta làm cho mình phải kinh sợ đó là những vật có hình tam giác, vật màu đỏ, hoặc là những gói đồ có máu và thịt từ hướng Tây đem đến để hại bạn. Nếu bạn đốt những tạp vật hoặc rác rến ở nhà bếp trong đó có những vật lạ xâm hại bạn sẽ dẫn đến nguy hiểm cho bạn. Phong thuỷ bất lợi, đổi chỗ ở là tốt. Tạm thời có thể treo chú Quán Âm Thập Nhất Diện ở hướng Đông.

9. Thất Vật: Vô phương tìm lại vật đã mất. Không nên phí công.

10. Thỉnh Thác: Do vì chướng ngại đến quá nhiều, nên có nhờ cậy cũng không có kết quả. Sau khi được sự trả lời thì mình lại ân hận. Chỉ nói chơi một lời, mọi việc tốt đều hỏng.

11. Hôn nhân: Người mình yêu không phải là người tốt, không bằng tìm lại đối tượng khác. Người yêu đó, dung mạo thì được, nhưng lòng dạ lại xa cách. Người thứ ba đang chiếm hết ưu thế.

12. Kỳ Tha: Tất cả mọi việc xin hỏi đều không tốt. Muốn làm việc hư hỏng lại trở nên thành công. Nên phải cẩn thận để ý về hậu quả, nhất định chịu đựng sẽ bất lợi, sẽ bị luật pháp trừng trị.

Nên tu pháp Trừ Chướng. Ngoài pháp nầy ra không còn một pháp nào nữa hết. Nếu không biết tự tu pháp nầy thì cũng không được tìm người tu thế cho mình. Cho nên chỉ có cách là đến trước bàn Phật thành tâm sám hối vô lượng tội khiên, đồng thời tụng chú Đại Bi 100 biến. Tóm tắt ý nghĩa: Đau khổ làm cho người sinh phiền não. Vì vậy mà người xin quẻ nên biết về nghiệp lực và nhân quả, phải tích đức và làm việc thiện để bù đắp lại.

27. Quẻ 27: Na-Pa (5-3)

Biểu tượng: Bảo Bình (Bình Báo)

Bảo bình mãn tải định phong thu, Thử tượng hựu dang như ý ngưu. Chiêm giả đắc ngưu vi canh khẩn, Bất lao khí lực bội thu thành.

Tạm dịch:

Bình báu chứa đầy những loại định thu vào, Biểu tượng nầy lại có tên là Con Trâu Như Ý. Người xin quẻ được con trâu khai khẩn cày bừa, Chẳng tốn công sức mà kết quả lại bội thu.

Tín Hiệu: Ký đắc kim bình, hựu đắc Cam Lồ.
(Đã được bình vàng, lại được nước Cam Lồ)

Ngài Bạch Văn Thù Sư Lợi dạy rằng: “Được Bình Báu bằng vàng chứa đầy nước Cam Lồ, mười phần tốt đẹp.” Trong biểu tượng của quẻ nầy nói về bình báu là một trong 8 biểu tượng cát tường của Mật Tông Tây Tạng. Thông thường dùng Bảo Bình để đựng đồ ăn như các loại lúa mạch.
Cho đến cả Con Trâu Như Ý cũng là thuộc loại thần vật trong truyền thuyết dùng để cày đất. Người cày có thể được thỏa mản tất cả những điều như ý nguyện. Như nay trong Bảo Bình đã đựng đầy nước Cam Lồ, đương nhiên là điều kiết tường.

Ngài bạch Văn Thù có khả năng hóa giải tai nạn, vì thế mà quẻ nầy làm tiêu trừ tai ách, là một điềm tốt thu hoạch được sự thành công gấp đôi. Trở ngại từ trước không còn nữa, nên từ nay trở đi mọi sự mưu tính đều không phí mất sức lực nữa.


GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Trong gia đình vui vẻ, sau cơn mưa trời lại sáng. Người đã lâu chưa có con, nay có tin vui sẽ sanh được một cháu gái.

2. Tài Phú: Nghiệp vụ từ đây sẽ rất thuận lợi và hanh thông, tài sản cũng từ đây mà tích tụ lại. Những tổn thất trong quá khứ nhất định sẽ được bù đắp lại. Có thể hợp tác với người để tiến hành kế hoạch mới.

3. Mưu vọng: Trong lòng sinh vui vẻ, không còn những điều bất lợi nữa. Những tính toán trước đây còn có những sự trở ngại, nay thì thuận lợi hoàn toàn. Đàn bà xin được quẻ nầy thì tốt.

4. Nhân Sự: Trở lực nay đã biến thành trợ lực. Chỉ cần mở miệng tức thời thành tựu.

5. Cừu Oán: Không có cừu oán, cũng chẳng bị trộm cướp. Trước đây thì gặp chuyện thị phi rắc rối, những điều đó đã tan thành mây khói.

6. Hành Nhân: Trên đường đi có chút trở ngại nhưng cũng vui vẻ nhiều. Khách đến trễ một chút cũng chỉ vì vui thích, cao hứng. Tin lành sẽ tới.

7. Tật Bịnh: Bệnh nhân từ từ hồi phục. Không cần giải phẫu, không cần đổi bác sĩ.

8. Ma Sùng: Tuy có yêu tinh yểm trấn, nhưng không có hiệu quả. Phong thủy nếu có thể sửa đổi thì tốt hơn. Hãy chú ý đến một vật hình tròn ở hướng Nam hoặc hướng Bắc.

9. Thất Vật: Đối với chổ ở thì ngay ở giữa hoặc phía Đông mà tìm. Đối với địa điểm đối với vật bị mất thì về hướng Nam.

10. Thỉnh Thác: Đối với người được yêu cầu giúp đỡ, nếu họ không tận lực, họ sẽ ân hận. Một lần yêu cầu thì không thành, lần thứ nhì tức được toại nguyện. Nên yêu cầu người vợ vì bà có ảnh hưởng với người chồng.

11. Hôn nhân: Chớ vì những chuyện nhỏ không vừa ý trước mắt mà thối lui. Người yêu còn giữ kẽ chưa thân mật nhưng cảm tình đã phát triển. Người thứ ba sẽ tự động rút lui.

12. Kỳ Tha: Tất cả mọi điều xin trong quẻ đều được tốt lành như ý. Nếu được tiếp nhận pháp Quán Đảnh của Tài Thần càng tốt đẹp hơn.

Tín đồ Mật Tông có thể tu phép “Tượng Vương Kim Cang” hoặc tu “Hộ Pháp Bí mật Cúng Dường” Tín đồ Phật Giáo hướng về ngài Tỳ Lô Giá Na Phật mà cầu đảo, hoặc tụng chú Văn Thù Sư Lợi.

Tóm tắt ý nghĩa: Đất tốt sẽ mọc lên cây Như Ý lớn, vì thế người xin quẻ nầy sẽ được tâm nguyện.

28. Quẻ 28: Na-Tsa (5-4)

Biểu tượng: Sa Khưu (Đụn cát)

Sa khưu trình hiện chẩm phàn đăng, Tâm nguyện do như phong quyện trần. Chiêm giả nhược nhiên đắc thử quái, Đồ lao không tưởng uổng lao tâm.

Tạm dịch:

Đụn cát xuất hiện làm sao mà trèo lên?
Những gì mà tâm đã nguyện giống như gió cuốn bụi trần.
Người xin nếu tự nhiên mà được quẻ nầy,
Đã phí công vào chuyện không tưởng lại còn phải lao tâm.

Tín Hiệu: Kim ốc di vi bình địa.
(Nhà vàng đã sang bằng thành bình địa)

Sứ giả của Ma-La ở hướng Đông Bắc nói rằng: “Ngôi nhà bằng vàng sẽ dần dần bị san bằng và trở về với cát bụi. Vì thế mà quẻ nầy biểu tượng cho sự thất bại. Hãy nhìn lại những sự việc rất thàng công từ trước đến nay có khi cuối cùng lại tan nát thất bại. Vì thế người chiếm được quẻ nầy nên cẩn thận, để tâm theo việc, không nên chủ quan mà khoe khoang. Từ xưa đến nay các hành động đều vô thường, cho nên người đã thành công cũng có thể chỉ một ý nghĩ thoáng qua mà trở nên thất bại, vì không tự chế được một xử sự nhỏ, chung cuộc có thể thành đại nạn. Người xin quẻ nên hiểu ý nầy. Nếu còn giữ cái cũ, hoặc những điều ước muốn, mong cầu đã tiêu tan, hãy chờ thời cơ thì vô sự, nhưng sự nghiệp cũ cũng chẳng sợ hãi lắm.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Gia đạo dần dần đi xuống, chuyện thị phi ngày ngày phát sinh. Có tổn hao nhân khẩu.

2. Tài Phú: Của cải tài sản ngày càng hao mòn. Nếu trong lòng vẫn thủ cựu, phải kiểm thảo những khuyết điểm, khắc phục những việc làm thiếu suy nghĩ để đổi mới. Như thế mới có thể giử được những điều may mắn. Nhất định không nên đầu cơ, cũng như đừng mạo hiểm mà đầu tư.

3. Mưu vọng: Nửa đường làm ăn gặp một sự biến đổi to lớn cuối cùng những sự tính toán không thành. Đừng bao giờ có ý định dốc hết túi đánh ván bài cuối cùng.

4. Nhân Sự: Không nên dựa vào những quan hệ mới, còn những quan hệ cũ thì hoàn toàn bất lực. Đừng tin vào những lời mà người ta vui miệng nói lung tung.

5. Cừu Oán: Có kẻ thù oán xen vào để lấy bớt lợi ích và tài sản. Chuyện thị phi tự nhiên gia tăng. Chuyện kiện tụng đột nhiên trở nên phức tạp, thậm chí đến chỗ thua kiện. Nên tu pháp Cam Lồ Mộc Dục.

6. Hành Nhân: Trên đường đi vẫn bình an, rất đáng tiếc là sau khi đến đuợc mọi sự đều không được như ý. Khách sẽ đến ngay, cũng đáng tiếc là đã mang đến đau thương, phiền muộn. Tin tức sẽ đến ngay nhưng chỉ là tin xấu.

7. Tật Bịnh: Bịnh nhẹ không có hại lắm, có thể bình phục nhanh. Nếu có giải phẫu phải suy nghĩ cẩn thận.

8. Ma Sùng: Tuy không có ma sùng lớn, nhưng cũng đủ để làm cho thân tâm khốn khổ. Đã từng gây ra những vioệc bất thiện nên khiến cho ma sùng phát sinh, nên lập tức sám hối để cầu xin. Nên tu pháp Cam Lồ Mộc Dục. Phong thủy không tốt. Bạn đã từng sửa lại những điểm sai ở đây, nhưng những sửa sang nầy đã làm hư phong thủy

9. Thất Vật: Vật bị mất để càng lâu càng khó tìm lại.

10. Thỉnh Thác: Nhờ cậy ngay thì được như ý, nhưng trên thực tế cũng vô ích mà thôi. Phàm có nhờ cậy, đều có khó khăn. Người ta không thương bạn đâu!

11. Hôn nhân: Có thành công trong việc đi tìm cũng chẳng làm đẹp lòng gia đình. Người phối ngẫu đã biến đổi sự nhớ thương và đã đổi lòng. Người thứ ba không ngừng nghỉ thắt chặt sự thân mật.

12. Kỳ Tha: Những điều đã hỏi đều không có kết cuộc. Chỉ những công việc có tính cách phá hoại có thể nói là thành công. Tín đồ Mật Tông nên hướng về ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ mà cầu nguyện thật nhiều. Cũng nên tụng Kinh Mai Tàng Kim Tử để tiêu trừ tai chướng. Tín đồ Phật Giáo nên hướng về Bảo Sanh Phật mà kỳ đảo. Có thể thành tâm tụng chú Đại Bi.

Tóm tắt ý nghĩa: “Núi lở tan tành thành cát bụi.” Vì thế mà biểu tượng tợ như không có gì là xấu nhưng thực chất đã nhìn thấy những hao tổn không thấy nằm chờ sẵn bên trong. Người xin quẻ nên hiểu ý nầy.

29. Quẻ 29: Na-Na (5-5)

Biểu tượng: Kim Ốc (Tòa lâu đài bằng vàng)

Kim ốc xuất hiện ư quái tượng , Phàm sự quảng đại thả cát tường. Chiêm giả sở vấn giai ổn cố, Hạnh vận tiền trình vô hạn lượng.

Tạm dịch:

Tòa lâu đài bằng vàng xuất hiện, Tất cả mọi sự đều rất tốt đẹp.
Những điều xin hỏi đều bền chắc và ổn định, Tương lai vận may không hạn định.

Tín Hiệu: Hoàng kim địa thượng, kiến thất bảo lâu. (Trên mặt đất bằng vàng, xây lầu bảy báu.)

Đa-Văn Thiên Vương nói rằng: “Trên mặt đất bằng vàng xây lầu bảy báu, làm cho nhười ta phải kinh ngạc và vui vẻ.” Lấy vàng thay đất thì nền móng rất chắc chắn, vì vậy quẻ nầy chủ về ổn định và rộng lớn. Người xin được quẻ nầy, những điều đã cầu đảo chắc chắn sẽ tốt đẹp trong tương lai. Tuy nhiên lấy vàng thay đất, xây lầu bảy báu thực ra là diển tả cảnh giới Tịnh Độ. Nhà Phật nói về Tịnh Độ không phải chỉ vàng ròng sáng chói, mà chỉ để so sánh với thế giới ngũ trược ác thế nầy: đất nầy dơ bẩn (do Tâm chúng sanh nhơ bẩn), đất Phật thanh tịnh (do Tâm Phật thanh tịnh). Vì thế mà nói có vô lượng của báu trang nghiêm. Nếu Tâm chúng sanh thanh tịnh thì Tâm tức là Tịnh Độ. Do đó người xin quẻ phải hiểu ý trên. Tâm không còn nhiễm độc, biết được sự tiến thối, lại có thể biết được công đức của Niết Bàn, ắt là tự phát sinh điều tốt lành.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Thời vận gia trạch đang lên, tương lai rạng rỡ, tăng thêm người, có thai sẽ sanh con gái.

2. Tài Phú: Hiện tại rất tốt, tài nguyên không dứt, có thể phát triển tốt trong tương lai, giữ cũ tạo mới đều tốt cả. Cùng người hợp tác phát triển càng nhanh.

3. Mưu vọng: Do cơ sở đã ổn định, cho nên những mưu tính đều được kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên cũng có sự chậm trễ kéo dài đó là điều không thể tránh khỏi.

Nên cúng tế Thổ Thần và Tài Thần chắc chắn sẽ được mãn nguyện.

4. Nhân Sự: Sự quan hệ với người phát triển nhanh chóng, các nguồn giúp đỡ các nơi đều đưa đến. Đây là một biểu tượng thật vui mừng. Đặc biệt là chủ về sự giúp đỡ của đàn bà.

5. Cừu Oán: Chung quanh không có cừu oán và nhòm ngó, cứ yên tâm không có thị phi hay kiện tụng. Chỉ có một chút hiểu lầm, chỉ cần một lời để thông cảm là xong.

6. Hành Nhân: Khách đã bị chậm lại vì lạc đường, trên đường đi bình an vui vẻ, không cần lo lắng. Khách sẽ đến ngay. Đi ra khỏi cửa là đã bình an, nhưng có một chút không vừa ý như việc lạc đường. Mục đích sẽ đạt được. Tin tức tốt sẽ đến.

7. Tật Bịnh: Tuy bị trọng bịnh nhưng không nguy hại đến tính mạng. Giải phẫu kết quả sẽ tốt. Không nên thay đổi bác sĩ.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng, cũng chẳng có đồng cốt, mà chỉ cần nghỉ ngơi một thời gian rồi làm việc lại. Sau thời gian nghỉ ngơi sẽ khỏe khoắn. Phong thủy tương đối tốt, chỉ có một chút là âm thịnh dương suy (Xem phần Kỳ Tha để chuyển hóa)

9. Thất Vật: Đồ bị mất đang còn để tại chỗ chưa di chuyển, nếu quá lâu không tìm lại thì vật mất sẽ lọt vào tay kẻ khác.

10. Thỉnh Thác: Phàm có tham khảo, nhờ cậy nên làm ngay, nếu không thì công việc sẽ kéo dài chậm chạp. Nên nhờ cậy người đàn bà.

11. Hôn nhân: Người chưa lập gia đình thì có quá nhiều đối tượng, vì thế khó lòng chọn lựa hay quyết định. Việc tình duyên cần nên lựa chọn người có đức độ hơn là sắc đẹp. Còn người đã có gia đình rồi chớ nên thay lòng sanh thêm tà ý nếu không thì ba năm sau sẽ nhận sự đau khổ.

12. Kỳ Tha: Công việc ổn định. Quẻ nầy rất tốt. Nếu hỏi về những việc có tính biến động như các loại đi đây đó, thay đổi nghề nghiệp, chức vụ… chắc chắn sẽ bị trở ngại và chậm trễ. Quẻ nầy chỉ lợi cho việc xây dựng không lợi về việc phá hoại. Tín đồ Mật Tông nên cầu Tài Thần Phật Mẫu, và nên chôn dấu một Bảo Bình ở hướng đông của nhà ở thì sẽ được lợi ích. Tín đồ Phật Giáo nên hướng về ngài Địa Tạng Bồ Tát mà cầu nguyện.

Tóm tắt ý nghĩa: “Để vật báu nầy chồng lên vật báu kia.” Thật là một quẻ tốt và phát triển ổn định. Quẻ nầy nghiên Tịnh không nên Động.

30. Quẻ 30: Na-Dhi (5-6)

Biểu tượng: Bảo Tạng (Kho Báu)

Tây môn thủ hộ cáo hỷ tấn , Bảo tang dĩ khai quân hoạch thủ. Tùng thử vận trình tắc hanh thông, Phóng tâm tiền hành định như ý.

Tạm dịch:

Người giữ cửa Tây báo tin vui,
Kho báu đã mở cửa mà bạn đang nắm giữ.
Nhờ đây mà thời vận được hanh thông,
Cứ yên tâm tiến hành công việc, sẽ được như ý.

Tín Hiệu: Do nhũ đắc lạc, tự hải thái châu.
(Do sữa mà có bơ, nhờ biển mà lượm được ngọc.)

Vị giữ cửa Tây của Mạn Đà La nói: “Cửa Đông của kho báu đã mở ra.” Ý câu nầy muốn nói nhờ sửa bò mà làm được bơ như trong đại dương mà tìm được ngọc quí. Theo Mật Tông Tây Tạng, Bảo Tàng còn có nghĩa riêng là “Tạng báu của Pháp”. Tạng nầy có nhiều Pháp như đá núi động rừng (Sơn nham lâm động), chờ sẳn người có duyên cầu học, nghiên cứu. Đó là “Nham truyền”. Nếu có một số đại đức đối với Mật Pháp đã đặc biệt thành tựu, do tâm ý mà Mật Pháp được nói ra ắt được gọi là “Ý truyền.” Do đó mà mở kho báulàm cho Tài và Pháp, hai loại nầy có ý vị. Người xin được quẻ nầy nên bố thí, tốt nhất là Tài thí và Pháp thí. Thường bố thí tất gặp nhiều may mắn.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Gia trạch ổn định và bình an, tương lai tốt đẹp. Gia đình tăng thêm người. Trong nhà nếu có người có thai thì sẽ sanh con trai.

2. Tài Phú: Hiện tại nghiệp vụ phát triển thuận lợi. Thuận buồm xuôi gió, không có chuyện bất lợi. Mở thêm nghiệp vụ mới ắt gặp trở ngại. Nhưng trước sau đều khắc phục được, sau tiến trình nầy thì được nhiều may mắn vô kể.

3. Mưu vọng: Căn bản được ổn định, mưu vọng tự nhiên thành. Trong vòng một năm so với nhiều người đã có ý kiến khác, nên kiên nhẫn để giải thích cho họ, tức sẽ có nhiều người sẽ giúp đỡ.

4. Nhân Sự: Quan hệ nhân sự tốt, nhưng cần phải gia tăng thêm sự giải thích để thông cảm. Một khi đã giải thích thì mình nói đều gì người ta cũng nghe theo.

5. Cừu Oán: Hiện chưa có oán thù, nhưng về sau sẽ có người đố kỵ. Nên đề phòng sự ám hại. Chuyện thị phi tạm thời không có, tuy nhiên sự kiện thưa bất lợi.

6. Hành Nhân: Đi du lịch thuận lợi vui vẻ. Người khách sẽ đến, tuy trên đường đi có gặp trở ngại nhỏ, nhưng chưa đủ để gây ra tai họa. Tin tức sẽ đến, không cần nôn nóng.

7. Tật Bịnh: Mọi tật bệnh đều được phục hồi mau chóng. Có thể nghe theo lời bác sĩ mà giải phẫu.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng quấy nhiễu. Nhưng nên cúng Địa Thần.

Phong thủy không tệ lắm, nhưng nên treo chú luân thì tốt hơn.

9. Thất Vật: Nên tìm đồ vật mất ở gần chỗ đã mất thì có thể tìm lại được.

10. Thỉnh Thác: Lâu dài mà nói, nhờ cậy có thể thành công. Nếu có mục đích muốn kết bạn với những người hiểu biết có sức lực giúp đỡ, nên mất một thời gian giao tế. Chớ không thể nhờ cậy ngay liền được.

11. Hôn nhân: Ra công tìm kiếm thì sẽ có duyên đẹp. Đối với người phối ngẫu nên tha thứ cho nhau. Có người thứ ba nên cần phải dành thời gian mà nói chuyện để hóa giải.

12. Kỳ Tha: Tất cả mọi chuyện đã hỏi đều dể thành công. Nếu hỏi về tài phú tất hướng về tài thần mà cầu đảo. Những sự liên hệ đến đất (đại địa) thì tương lai rất rực rỡ. Tín đồ Mật Tông có thể hướng về Hoàng Tài Thần, Đa Văn Thiên Vương mà kỳ đảo, ngoài ra cũng nên tu pháp Địa Thần cúng dường. Tín đồ Phật Giáo nên hướng về ngài Địa Tạng Bồ Tát mà cầu nguyện.

Tóm tắt ý nghĩa: “Đất bằng dựng lên lầu cao.” Đây là do nền móng vững chắc biểu thị sự thuận lợi và phát triển. Vì vậy mà người xin được quẻ nầy trước hết phải lo kiểm tra lại phần cơ sở có vững chắc không, sau đó mới tính chuyện phát triển .

31. Quẻ 31: Dhi Ah (6-1)

Biểu tượng: Diệu Cát Tường (Ngài Văn Thù)

Diệu Cát Tường Đồng Tử gia tỷ , Như châu bảo đắc nhập thử trung. Chiêm vấn giả ký đắc thử tượng, Tự nhiên sự sự tận hưng long.

Tạm dịch:

Diệu Cát Tường Đồng Tử đả che chở cho bạn, Như viên ngọc quí lọt vào tay.
Người xin được quẻ nầy, Mọi sự tự nhiên được hưng thịnh.

Tín Hiệu: Bổn giác trí khai, giác tánh tự lai.
(Bổn tánh đã giác ngộ, trí huệ đã khai mở thì giác tánh tự đến)

Đại Lạc Thần Kỳ của Tâm đã nói: “Một khi mà Trí Bổn giác thanh tịnh mở ra tức tự có thể thành tựu. Nhà Phật đã nói về Tánh Giác còn gọi là Tánh Không đó là sự chứng ngộ rất cần thiết cho người tu. Chứng ngộ được cảnh giới nầy cũng giống như cá gặp nước, lạnh nóng tự tri, không thể nói được vì cảnh giới nầy vượt ngoài ngôn ngữ. Đã ngộ nhập được Tánh Không tức đắc được Bổn Giác Trí. Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Diệu Cát Tường Đồng Tử) được gọi là Đại Trí. Trí huệ đó cũng là trí Bát Nhã còn gọi là Tánh Không. Vì vậy mà Ngài cầm pháp khí gồm cây kiếm lửa trí huệ và một quyển Kinh Bát Nhã trên hoa sen để làm biểu tượng. Người xin được quẻ nầy cũng như được Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử hiện thân thuyết pháp cho, khi đã được đại trí rồi thì tự nhiên thành tựu. Tuy nhiên quẻ nầy cũng không lấy trí huệ của thế gian làm chủ, nên người xin được quẻ nầy cũng không nên đắm đuối quá đáng trong thế gian pháp vậy.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Thời vận gia trạch tốt, yên bình và không chướng ngại. Trong nhà tăng thêm người. Có thai sẽ sanh con trai.

2. Tài Phú: Tài sản tăng thêm hoàn toàn như ý, cầu tài thuận lợi, không có chướng ngại.

3. Mưu vọng: Mọi sự mong cầu, tính toán đều không có gì trở ngại, vì là một người có sức mạnh nên không bị bắt nạt, lừa bịp; do đó cũng không nên tự tâm phát lòng nghi ngờ. Nếu chuyên cần tu Mật Pháp, tức tất cả mọi việc sẽ dễ dàng thành công.

4. Nhân Sự: Quan hệ về nhân sự không ngừng gia tăng.

5. Cừu Oán: Những người cừu oán bạn sẽ quay lại tôn kính bạn, không cần phải lý lẻ cãi cọ, chuyện thị phi sẽ tự nhiên chấm dứt. Kiện tụng có thể được giải hòa.

6. Hành Nhân: Trên đường đi bình yên và lại an nhàn thoải mái. Khách đến đúng hẹn. Chẳng bao lâu tin tức sẽ đến.

7. Tật Bịnh: Bịnh nhân nên nghỉ ngơi để mau hồi phục. Không cần giải phẫu.

8. Ma Sùng: Không cần lo lắng. Không có ma sùng quấy nhiễu. Tương lai cũng không có ma sùng sanh sự cho nên không có sự xâm hại nào.

Phong thủy tốt, có một chút việc cần sửa đổi lại là thỏa mãn.

9. Thất Vật: Đồ vật mất dễ tìm lại, tự nó sẽ trở lại không cần lo buồn.

10. Thỉnh Thác: Phàm có nhờ cậy đều được như ý.

11. Hôn nhân: Trời ban cho nhân duyên nên không có chuyện bất lợi. Người yêu tình cảm rất tốt. Không có người thứ ba phá rối.

12. Kỳ Tha: Tất cả mục đích đều được thành tựu.

Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Liên Hoa Sanh Đại Sĩ và pháp Ngài Văn Thù.

Tín đồ Phật Giáo nên hướng về Văn Thù mà cầu nguyện.

Tóm tắt ý nghĩa: “Vị đã thống trị 36 thành” Vì vậy mà cả thế gian và xuất thế gian, trí tuệ đều được như nguyện.


32. Quẻ 32: Dhi Ra (6-2)

Biểu tượng: Như Ý Kết (Nút Như Ý)

Vô tận Như Ý kết, Chiêm giả tâm an lạc.
Như nhơn chí hoa phố, Mãn nhãn xuân quang tại.

Tạm dịch:

Gút Như Ý vô tận,
Người xin quẻ tâm an lạc.
Như người đến vườn hoa,
Ánh sáng mùa xuân hoa ngợp mắt.

Tín Hiệu: Mãn nhãn phong quang, thỉnh quân nhập mục. (Quang cảnh ngợp mắt, mời bạn nhìn xem)

Nút Như Ý còn gọi là Gút Vô Tận vì tượng trưng cho sự tốt lành nên cũng gọi là cát tường vô tận. Cũng giống như dưới ánh sáng xuân ngợp mắt, nhìn xem không cùng, mênh mông bát ngát. Người xin được quẻ nầy có thể nói là sự mong ước thành tựu một cách lộng lẩy mê hồn. Vì thế mà quẻ nầy lợi về sự hoàn thành tất cả mọi kỳ vọng cũng như ý muốn nói về con đường phía trước đầy tươi sáng. Những việc mong muốn đều lấy những việc trước mắt làm cơ sở, không thể nào không làm mà thành tựu được. Lại còn gọi là Cát Tường Vô Tận là chỉ về sự tốt lành mà nói. Nếu làm việc không tốt thì người xin quẻ phải chịu sự bất tường. Ở Tây Tạng xin quẻ để chế thuốc độc, dùng để sát trùng hoặc trị bệnh hoặc đi săn, đều không lấy quẻ nầy là quẻ tốt. Do vậy cứ theo phương pháp loại suy mà luận ra ý quẻ nầy.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Nhìn bên ngoài có vẽ bực bội, nhưng thực tế thì ồn ào nhộn nhịp. Nhân khẩu cứ tiếp tục tăng thêm, gia đạo cũng theo đó mà được đầy đủ. Có thai sanh được con trai.

2. Tài Phú: Tuy không thấy được sự đại phát, nhưng thấy được sự tiến bộ dần dần. Không cần tính toán kế hoạch mới, sự nghiệp củ cũng đã tốt lành rồi.

3. Mưu vọng: Do mục đích đúng đắn nên không có sự bất lợi. Nếu cầu sự việc được hài hòa và cát tường , tất được mãn nguyện. Nếu không thì khó tránh được sự chậm trể và chướng ngại sẽ phát sanh.

4. Nhân Sự: Sự quan hệ giao tế được tốt đẹp mỹ mãn. Một lần nói chuyện lâu dài với người ta , có thể mang lại nhiều kết quả lợi ích. Tất cả mọi người xem bạn như là hạt nhân của phạm vi phát triển công việc, do đó sự giao tế, quan hệ nhân sự đã tăng trưởng.

5. Cừu Oán: Không có cừu oán. Cuộc sống yên ổn như mặt hồ thu. Có những chuyện thị phi nhỏ nhặt không cần quan tâm. Không có chuyện kiện tụng.

6. Hành Nhân: Trên đường đi chơi an nhàn thoải mái, cũng có dừng chân một chút. Tin lành sẽ đến.

7. Tật Bịnh: Sẽ mau mạnh không cần lo lắng. Hãy nghe theo lời chỉ dẩn của bác sĩ là tốt nhất.

8. Ma Sùng: Tâm của bạn thanh tịnh, ma sùng tự nhiên sẽ không sanh. Nhưng nếu bạn có ác tâm, tức ma sùng sẽ khởi dậy. Phong thủy bình thường, nhưng có sức mạnh lâu dài.

9. Thất Vật: Phải đi tìm đồ vật bị mất ngay lập tức.

10. Thỉnh Thác: Nếu có nhờ cậy ai giúp đỡ đều được thuận lợi. Nếu còn nuôi ác ý trong việc nhờ cậy đối với người tuy là có thuận lợi nhưng rối cũng đưa đến tai họa.

11. Hôn nhân: Lương duyên đẹp đôi tự nhiên thành tựu. Tình cảm của người yêu càng lâu càng bền vững. Không nên nghi ngờ thần, quỷ, không có người thứ ba quấy phá.

12. Kỳ Tha: Nói chung quẻ nầy chỉ lợi cho việc làm thiện chứ không có lợi cho việc làm xấu, ác như sát sanh để cúng tế… Những việc làm tốt mới có thể duy trì được sự nghiệp liên tục. Tín đồ Mật Tông nên tu pháp Liên Hoa Sanh Đại sĩ hay Kim Cang Tát Đỏa. Tín đồ Phật Giáo nên hướng về Văn Thù hay Quan Thế Âm Bồ Tát mà cầu nguyện.

Tóm tắt ý nghĩa: “Nguyện vọng sung mãn trong tình hữu nghị.” Do đó phải nên hiểu quẻ nầy chỉ lợi cho hòa hợp không có lợi cho giải tán. Lợi cho việc thiện, không lợi cho việc ác.

33. Quẻ 33: Dhi Pa (6-3)

Biểu tượng: Mẫu Kim Ngư (Cá Mẹ Vàng)

Mẫu Kim Ngư chiêm đắc tại thủy, Bát thích thích sung mãn sanh khí. Đới lai hảo vận thủy sanh cơ, Chiêm giả phùng chi thật cát lợi.

Tạm dịch:

Nhìn được cá mẹ vàng dưới nước,
Làm cho nước bắn tung tóe ra đầy sức sống.
Đem lại vận tốt và nhựa sống,
Người xin đưọc quẻ nầy tật là tốt đẹp và lợi lạc.

Tín Hiệu: Cam lồ mộc dục, phước huệ câu tăng.
(Tắm nước Cam Lồ, phước huệ đều tăng.)

Cõi Tịnh Độ của Phật gồm có ao bảy báu, nước tám công đức, thực ra dó là nước Cam Lồ. Thường tắm nước ấy tự nhiên sanh ra mọi sự tốt lành, phước đức trí huệ đồng thời tăng trưởng.
Vì vậy nguời xin được quẻ nầy, sức sống dạt dào như cá vàng lướt sóng ra biển để sanh cá con đông đúc. Thật là vận may đến nên với hai bàn tay trắng đã làm nên đại nghiệp. Gặt hái được điều nầy là đã có nhân trước về phước huệ tăng trưởng rồi. Phước, huệ hai thứ nầy: Phước là phước báo của thế gian. Huệ là trí tuệ xuất thế gian. Cả hai thứ đồng thời tăng trưởng, chắc chắn sự nghiệp phải thành công. Cho nên người xin quẻ hãy dựa vào Phật Pháp mà tu trì để chứng ngộ được Tánh Không, nhờ đó mà được pháp Cam Lồ Vị.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Trong nhà xương thạnh, của cải và nhân khẩu một đường đi lên. Người có thai lại chủ về sanh con gái.

2. Tài Phú: Của cải tăng gia thuận lợi, không có trở ngại. Cá vàng ra biển, theo điềm nầy mà tạo ra tình thế mới; của cải tự nhiên theo đó mà đến.

3. Mưu vọng: Mưu vọng thành công. Thật là điều vui mừng hết sức.

4. Nhân Sự: Giao tế nhân sự tăng lên dần dần, sự quan hệ với người ta càng ngày càng rộng lớn. Phái nữ sẽ mang đến sự giúp đở to lớn nhất.

5. Cừu Oán: Kẻ thù oán không có cơ hội để hại bạn được. Chuyện thị phi dù có cũng chẳng hại gì.

6. Hành Nhân: Trên đường đi rất vui vẻ, không có trở ngại. Khách sẽ đến ngay. Tin tốt đến chậm.

7. Tật Bịnh: Bịnh nhân được cho biết là sẽ hồi phục.

8. Ma Sùng: Ma do Tâm mình sanh. Tinh thần cởi mở Tâm Ma tư nó biến mất. Tụng Kinh nhiều, chuyên cần tu Mật Pháp thì không những không có Ma mà còn có thể giúp cho mọi điều cầu mong đều được thành đạt. Phong thủy tốt, làm thêm sẽ sinh ra tai họa. Chỉ nên treo Chú Luân ở những nơi tối tăm âm u.

9. Thất Vật: Vật bị mất đang ở nguyên chỗ cũ, rất dễ tìm, không cần sốt ruột.

10. Thỉnh Thác: Thời cơ đã đến, nếu nhờ cậy thì sẽ có kết quả, nhờ một giúp mười, hết sức vui vẻ.

11. Hôn nhân: Lương duyên sẽ mau thành tựu. Người phối ngẫu hòa nhã và đẹp.

12. Kỳ Tha: Những điều đã hỏi đều được thuận lợi hài hòa, đạt được thành công. Tốt nhất là việc hỏi thăm về y dược.

Tín đồ Phật Giáo Mật Tông nên Đốt Lửa Cúng, tu pháp Di Lạc Bồ Tát, tự nhiện mọi sự cát tường đều tăng trưởng. Tín đồ Phật Giáo nên hướng về ngài Di Lạc Bồ Tát mà sám hối kỳ nguyện.

Tóm tắt ý nghĩa: “Có động cơ và tâm nguyện đều được thành tựu.” Vì thế mà quẻ nầy chủ về tương lai tươi sáng, do sự phát triển nhỏ từ từ thuận lợi cát tường, cuối cùng đều được mãn nguyện và thành tựu vượt quá mức mong muốn.

34. Quẻ 34: Dhi Tsa (6-4)

Biểu tượng: Bạch Pháp Loa (Tù Và Trắng)

Bạch pháp loa thanh vận du trường, Bạch pháp loa thanh âm hưởng lượng. Chiêm giả hỷ đắc thử quái pháp, Định nhiên như ý thả cát tường.


Tạm dịch:

Thanh vận của tù và trắng vang rất xa, Âm thanh của tù và trắng rất trong.
Người xin rất vui được quẻ pháp nầy.
Mọi ý định tự nhiên được tốt đẹp.

Tín Hiệu: Vinh dự như mỹ diệu nhạc âm.
(Vinh dự như âm thanh của nhạc điệu tuyệt vời)

Tù và ( pháp loa) là một loại pháp khí của Mật Tông. Ở miếu của các vị Lạt Ma sớm tối đều thổi tù và. Quan trọng nhất là lúc cử hành nghi lễ cũng có thổi tù và, vì tù và được thổi lên một tiếng là có nghi thuyết pháp của một vị Đại Đức hoặc vị đó đang tu trì Mật Pháp. Trong Mật Đàn Bát Cúng, một trong tám thứ cúng dường là Pháp loa đại biểu cho nhạc khí. Nhìn một cách đúng đắn về pháp loa so với các loại khác như linh, trống thì quan trọng hơn. Pháp nhạc của Mật Tông đều có tác dụng làm trang nghiêm cho nghi thức. Pháp loa là một loại pháp khí trang nghiêm nhất trong các loại. Vì vậy quẻ nầy lấy âm thanh của pháp loa làm biểu tượng vinh dự của người xin quẻ được tăng trưởng. Trong ngôn ngữ và hành động đều lấy vinh dự làm đầu. Có như vậy thì tự hái được sự tốt lành.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Hiện tượng không xấu, ảnh hưởng dược tốt và đem lại sự vui vẻ. Nhân khẩu tăng thêm, gia đạo tốt. Có thai sinh con trai, mang lại cho gia tộc thanh danh và vinh dự.

2. Tài Phú: Có cơ duyên đến, những tính toán về kinh doanh được đạt lợi. Có một số tin tức chính xác sẽ đến có lợi về tài nguyên. Không nên đầu cơ là điều tốt nhất.

3. Mưu vọng: Mưu vọng có thể như nguyện, sẽ có tin tức tốt. Những công việc đã tính toán cùng với giọng nói và âm nhạc đều có quan hệ với nhau, đặc biệt rất tốt , cũng có lợi về biện luận nữa.

4. Nhân Sự: Sự quan hệ nhân sự đúng, cũng nên giải thích rỏ ràng với tất cả tấm lòng cởi mở của mình với mọi người để thuyết phục được đối phương.

Bạn chỉ cần nói rõ lý do về những đề nghị của bạn tức thì được mọi phía ủng hộ.

5. Cừu Oán: Không có kẽ thù muốn hại. Những thù oán cũ đã tiêu tan hết rồi. Tất cả chủ trương sẽ phụ giúp bạn. Chỉ cần bạn thốt một lời là tất cả chuyện thị phi đều tan biến. Kiện tụng được thắng.

6. Hành Nhân: Trên đường đi có kết giao được người bạn tốt. Khách sẽ mang tin vui đến, thông tin sẽ đến ngay, tin tức đều vui.

7. Tật Bịnh: Đối với thân thể chẳng có sự tổn hại nào lớn cả, tuy nhiên tinh thần chịu đựng mọi điều khó khăn. Nên tụng kinh và tu các Pháp để ôn định tinh thần. Trì tụng chú Đại Bi cũng được. Nếu xả bỏ hết tất cả những chuyện khúc mắc trong lòng, vạn sự nhứt định sẽ cát tường.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng, quỷ thần, hay đồng cốt xen vào quấy phá. Phong thủy tốt nhưng màu sắc không được ổn.

9. Thất Vật: Sẽ có tin tức xác thực đến, không cần phải lo lắng hay nôn nóng.

10. Thỉnh Thác: Phàm có nhờ cậy chỉ nên cùng đối phương mà trình bày lợi hại, tức có thể được đối phương giúp đở. Đạo lý cùng tranh luận càng sáng tỏ. Sự nhờ cậy được đáp lại.

11. Hôn nhân: Bạn là người có sức hấp dẫn nên hãy tự tin. Người yêu rất thích thú vì cùng một ý chí và cùng một đường đi. Nếu có người thứ ba xen vào tình yêu thì cũng nên thuyết phục khiến họ tự tách ra.

12. Kỳ Tha: Những điều đã hỏi đều được như ý

Tín đồ Phật Giáo Mật Tông nên tụng: “Tứ Tý Đại Hắc Thiên Pháp”. Tín đồ Phật giáo có thể hướng về Phổ Hiền Bồ Tát mà cầu nguyện.

Tóm tắt ý nghĩa: “Tin vui càng đến càng nhiều, thanh danh càng đến càng tốt” Vì thế quẻ nầy nghiêng về danh và lợi. Nhưng cầu danh thì tốt hơn cầu lợi, tuy nhiên cầu lợi cũng không tệ lắm. Nhưng trên thực tế thì “Tiên danh hậu lợi” tức là trước có danh sau mới đạt lợi.

35. Quẻ 35: Dhi Na (6-5)

Biểu tượng: Kim Luân Bảo (Ngôi Báu Của Ngài Kim Luân)

Kim Luân Vương thống trị bát phương, Phổ thiên chi hạ giai vương thổ.
Trị hạ bách tánh tâm thành phục.
Chiêm giả đắc thử tài thế tăng.

Tạm dịch:

Vua Kim Luân thống trị tám phương, Trên trời dưới đất đều của Người.
Cai trị trăm họ đều đem lòng thành qui phục,
Người xin được quẻ nầy, tiền tài thế lực đều gia tăng.

Tín Hiệu: Bất phí xung hôi lực, khai đắc đại bảo tang.
(Không tốn một chút hơi sức mà mở được kho báu)

Thời cổ đại nước Ấn Độ có rất nhiều vương quốc nên sanh ra sự tranh giành. Các vương quốc chinh phục lẫn nhau. Người thống nhất nước Ấn Độ gọi là Kim Luân Vương (vua Kim Luân). Tuy nhiên vua Kim Luân thống trị chỉ trọng đạo đức chớ không trọng sức mạnh. Chỉ có người có đức mới có thể khiến cho dân trăm họ vui vẽ mà thành thật khâm phục. Người xin được quẻ nầy đức cả lực đều quan trọng cả vì thế mà được lợi ích, cũng giống như không tốn một chút sức nào mà mở được kho báu đó là điềm chỉ đưa tay ra là được. Người xin quẻ phải lưu ý, nếu chỉ trọng tài thế mà không trọng đức nghiệp ắt giống như vua Kim Luân không có đức, chinh chiến không ngừng, dù cho thắng thế đi nữa thì dân chúng cũng lầm than.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Gia đạo xương long, hạnh phúc yên ổn, ngày ngày đều tốt cả. Nhân khẩu tăng tiếng tăm gia đình ngày càng lên. Có thai sức khỏe bình an, sinh nam hay nữ theo ý nguyện.

2. Tài Phú: Như nước thủy triều dâng trong mùa xuân, tài sản tự nhiên tăng lên. Trong quá khứ cơ sở đả bị xuống, nhưng nay nghiệp vụ lại dần dần tăng lên phát đạt thịnh vượng.

3. Mưu vọng: Lâu dài mà nói, sự phát triển được ổn định, cơ sở đặt xuống là tốt rồi, do đó danh lợi đều như ý. Các sự việc đã tính toán thuộc về những cái dẫn đầu trong trào lưu mới thì rất dễ thành công mà lợi ích lại lâu dài, sự nghiệp to lớn. Lấy đức để cảm hóa người hơn là lấy thế mà thu phục người.

4. Nhân Sự: Được nhiều sự giúp đỡ, quan hệ giao tế càng ngày càng tốt. Sự liên hệ với người ta càng ngày càng rộng. Đừng theo những kẻ a-dua, nịnh bợ.

5. Cừu Oán: Tất cả mọi sự thù oán đều bị bạn khống chế, vì vậy nên dùng ân huệ để cảm hóa địch thành bạn. Chuyện thị phi trở lại đem về những lợi ích. Không có chuyện kiện tụng khẩu thiệt.

6. Hành Nhân: Người ra đi không những hưởng thụ mà còn lợi lạc. Người ấy sẽ hoàn thành nhiệm vụ và trở lại. Tin mừng sẽ đến, lợi lạc sẽ vượt quá mức dự định.

7. Tật Bịnh: Vì quỷ thần không được vui nên bịnh nhân có bịnh kéo dài. Nhưng không lo ngại lắm, hơi chậm nhưng sẽ bình phục. Có thể hành pháp Thanh Tịnh Mộc Dục.

8. Ma Sùng: Con người mà thời vận đang chuyển thì trăm tà cũng không xâm nhập được. Quỷ thần đã bị ếm nên cũng khó làm hại, hãy kỳ đảo Bổn Tôn, hoặc cúng tế Thủy thần hoặc Long Tộc hay Địa thần tức tốt. Phong thủy hiện tại không có trở ngại lớn, những chổ mới sửa lại có một chút không ổn, như là có một góc đối xứng với một hình vuông chẳng hạn, nên tu sửa lại là tốt.

9. Thất Vật: Dành thời giờ thêm vào việc tìm kiếm thì có thể tìm được..

10. Thỉnh Thác: Nhờ cậy thì có sự trễ nải, nhưng tương lai rất mỹ mãn. Tất cả các vị anh hung đều luôn luôn kính cẩn lắng nghe những điều Ngài căn dặn. Đáng tiếc họ đã chủ trương bất nhất, do đó mà lại bỏ lỡ thời cơ.

11. Hôn nhân: Hôn nhân do trời tác hợp, đừng nên lo lắng, người yêu sẽ sống đến trăm năm.

12. Kỳ Tha: Lâu dài mà nói, mọi sự sẽ thành công.

Tín đồ Phật Giáo Mật Tông nên tụng Đại Oai Đức Kim Cang hay pháp Vô Năng Thắng Kim Cang, chắc rằng quyền lực tự nhiên tăng trưởng. Tu pháp Trí Huệ Đại Hắc Thiên ắt có lợi lạc và danh vọng đều tăng thêm. Tín đồ Phật giáo có thể hướng về Tỳ Lô Giá Na Phật mà cầu nguyện.

Tóm tắt ý nghĩa: “Bước lên bản tòa” Vì quẻ nầy chủ về tài phú và quyền thế tăng trưởng nên người xin quẻ phải làm việc ân đức tự nhiên sẽ được cát tường như ý.

36. Quẻ 36: Dhi Dhi (6-6)

Biểu tượng: Thắng Lợi Tràng (Cờ Thắng Lợi)

Cao cử thắng lợi tràng, Thắng lợi thập bát phương. Chiêm giả đắc thử tượng, Khả dị quái trung vương.

Tạm dịch:

Hảy phất ngọn cờ thắng lợi, Chiến thắng cả tám phương. Người xin quẻ được biểu tượng nầy, Có thể gọi là quẻ vua trong các quẻ.

Tín Hiệu: Y thiếp cụ lực Như Ý Vương.
(Hãy dựa vào sức mạnh của vua Như Ý)

Đây là một tín hiệu tốt đẹp, gọi người xin được quẻ là người đả được sự che chở của Vua Như Ý bằng mọi sức mạnh. Phàm được dựa vào vị vua nầy, mọi sự đều như ý. Vua lại có nhiều sức mạnh nên đủ để ngăn chận tất cả những điều bất lợi xâm đến. Vì thế người xin được quẻ nầy có thể gọi là vận may, chủ về người có sức mạnh đem hết lực đó để ủng hộ. Kết cục mọi sự mong cầu tính toán đều đựợc thành công như ý. Trong lúc phất ngọn cờ chiến thắng lại không được say sưa mãn nguyện, mà nên hiểu rằng đây là phước báo ở đời trước, cho nên trong đời nay cần phải làm thêm việc thiện, tích tụ thêm phước đức và công đức để làm tư lương cho đời nầy và đời sau để cho các pháp thế gian và xuất thế gian đều được mãn nguyện. Dhi là tự chủng của ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử, liền được hai thứ biểu tượng cho phước huệ đều tăng.

GIẢI ĐOÁN:

1. Gia Trạch: Vận trình của gia trạch kiên cố, rắn chắc như kim cương, không có tai họa, bịnh hoạn cũng không có thị phi khẩu thiệt. Nhơn khẩu tăng dần, vận nhà thịnh vượng. Có thai sức khỏe bình an, sinh nam hay nữ theo ý nguyện.

2. Tài Phú: Tài sản không bị tiêu hao, cũng không bị thất bại. Tài đến có chỗ, không cầu nhiều tài cũng tự đến. Không được đầu cơ.

3. Mưu vọng: Mười phần mỹ mãn, chỉ tính một phần cũng được mười phần. Phàm có mong cầu tính toán đều được vui vẻ vô cùng. Nên hướng về Bồ Tát hoặc Hộ Pháp mà cầu nguyện chẳng hạn như ngài Văn Thù.

4. Nhân Sự: Quan hệ nhân sự càng phát triển càng tốt, giúp đỡ càng ngày càng nhiều. Người xin được quẻ nầy như có được viên ngọc quí Ma Ni trong tay, cho nên không có việc gì mà không mãn nguyện. Được người giúp đỡ vui mừng quá sức.

5. Cừu Oán: Không có một ai thù oán cả, cũng chẳng có thị phi kiện tụng.

6. Hành Nhân: Ra đi trên đường thoải mái, vui vẻ. Khách sẽ đến bình an, tin vui sẽ đến.

7. Tật Bịnh: Có bịnh nhẹ, cần nghe theo lời bác sĩ là sẽ hồi phục. Nếu bịnh nặng lâu ngày, sẽ có người tự nhiên đến để giới thiệu bác sĩ giỏi.

8. Ma Sùng: Không có ma sùng xâm quấy, cũng chẳng có Thần nhiễu phá, hoàn toàn bình an vô sự. Phong thủy tốt, không nên sửa đổi cũng không nên mở rộng thêm.

9. Thất Vật: Bạn tốt đã có chủ ý, mau mau đi tìm lại. Có người có sức mạnh xuất hiện can dự vào, nên vật sẽ trở về nguyên chủ.

10. Thỉnh Thác: Phàm có nhờ cậy đều thuận lợi, tất cả mọi việc đều thành công, hướng về người có sức mà nhờ cậy, chỉ yêu cầu là được, khiến bạn phải vui và nể sợ.

11. Hôn nhân: Người chưa lập gia đình đi tìm thì chắc chắn thành công. Người có gia đình rồi, vị phối ngẫu tuy tuy thấy tướng bình thường nhưng là người chung thủy. Người thứ ba không gây ra ảnh hưởng nào cả.

12. Kỳ Tha: Nói chung những điều đã hỏi đều được thành tựu, vì thế mà người xin quẻ cứ bằng vào tâm nguyện mà làm tức là đạt được. Tuy nhiên nên tích đức hành thiện để có thể duy trì được sự đầy đủ an lành. Tín đồ Phật Giáo Mật Tông nên tu pháp Phổ Ba Kim Cang, Hỷ Kim Cang, Mật Tập Kim Cang, Kim Cang Trì…ắt được cát tường. Cũng nên trì tụng Văn Thù Chơn Thật Danh Kinh hoặc Văn Thù Căn bản Chú. Tín đồ Phật giáo có thể hướng về Ngũ Phương Phật mà cầu đảo.

Tóm tắt ý nghĩa: “Phất cao bảy ngọn cờ thắng lợi” Vì vậy người xin quẻ mọi việc đều được thắng lợi như ý.

Diệu Cát Tường Chiêm Bốc Pháp Đến Đây Là Hết.

B- PHÁP TU PHỤ LỤC:

1. Phép Tu Nước Cam Lồ
Để trước mặt một chén nước sạch, đốt hương tốt cúng dường tượng Phật, cúng dường Thập Nhứt Diện Quan Âm và các bài chú là tốt nhất. Trên bàn Phật đơm hoa quả và vật cúng.
Tĩnh Tâm kỳ đảo:
Tay trái: Bưng chén, ngón tay cái và ngón tay trỏ bấm hai đầu ngón lại với nhau thành vòng tròn, còn lại ba ngón kia duỗi thẳng ra, lòng bàn tay giữ chặt khu chén. (Bảo Thủ ấn)
Tay phải: Ngón tay trỏ và ngón tay giữa duỗi thẳng, còn lại ba ngón kia bấm đầu với nhau. Trong lúc niệm chú trên dưới vẩy hai ngón tay trỏ và giữa. (Cam Lồ ấn)
Niệm chú: Om Ah Mi Ri Ta Hung Ra Ta
Trì chú 21 biến, trong lúc trì chú quán tưởng đức Phật phóng ánh sáng trắng đến chén nước để gia trì cho nước thanh tịnh..
Nước Cam Lồ nầy có thể dùng để tẩy uế, pha nước trà, hoặc hòa vào trong bồn nước để tắm, hay dùng để lau mặt, mình cho bệnh nhân.
Nếu dùng chú Đại Bi để gia trì vào chén nước theo nghi lễ trên cũng tốt.

2. Phép Trừ Chướng
Những vị tín đồ của Mật Tông có thể lấy ngài Kim Cang Tát Đỏa làm vị bổn tôn, niệm
“Bách Tự Minh Chú” 21 biến. Quán tưởng Bổn Tôn trên đỉnh đầu của mình, hai ngón cái của Ngài chảy ra nước Cam Lồ màu trắng nhập vào đảng môn và chảy khắp thân thể của mình, thế là tự thân của mình chảy ra các loại máu mủ, chất dơ, cặn bã …bài tiết ra lỗ chân lông mà ra ngoài, rồi thấm sâu vào lòng đất, biến thành màu đỏ và được loại “Ma Ngưu “ nuốt vào.
Trong lúc thu kết, hãy quán tưởng hang ở dưới đất đóng cửa, không thấy được “Hồng Ngưu”. Ngài Kim Cang Tát Đỏa đã biến thành ánh sáng dung nhập vào tâm luân của chính mình, ánh sáng màu trắng cháy hừng hực.
Người chưa từng tu qua Mật Tông, có thể niệm chú “Đại Bi”, hướng về ngài Thập Nhất Diện Quan Âm mà cầu nguyện, và sám hối tội nghiệpcủa bản thân từ vô luợng kiếp đến nay. Đồng thời quán tưởng ngài Quan Thế Âm phóng ra ánh sáng màu trắng chiếu thẳng tới thân mình, làm cho tự thân mình được thanh tịnh.

3. Pháp Mộc Dục
Hãy quán tưởng ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát phóng quang chiếu thẳng đến nước tắm khiến cho nước ấy thanh tịnh, đồng thời tụng chú Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:
Om Ah Ra Pa Tsa Na Dhi
Hoặc tu “Đại Bi Chú Thủy” (Tham khảo Quật Trước trong “Thuyết Quan Thế Âm Bồ Tát dử Đại Bi chú ») về phương pháp tu chú Thủy nầy, xong đem nước đổ vào bồn tắm mà tắm. Trong lúc tắm, hãy quán tưởng nước sạch nầy đã mang đi hết tất cả những nghiệp chướng trên thân thể mình. Cũng có thể dùng nức nầy để lau thân thể, hoặc rửa mặt cho người bị bệnh ma, quán tưởng những bệnh ma đều bị tịnh thủy trừ sạch.

4. Diệu Cát Tường Chiệm Bốc Pháp Nghi Quỹ
Nghi thức xin quẻ:
Đảnh lễ Diệu Cát Tường Đồng Tử
(Chấp tay niệm ba biến)

1. Tán: (Trước hết là chấp tay, sau đó niệm một biến, tay lắc hột 1 lần)
Đaị Trí Diệu Cát Tường Đồng Tử, Trí nhản tam thời vô chướng ngại. Quy y Tam bảo tam căn bản,
Tâm hữu nghi hoặc sở khai thị

2. Tụng Văn Thù căn bản chú
Om Ah Ra Pa Tsa Na Dhi (21 biến)
Trong lúc niệm hãy quán tưởng Diệu Cát Tường Đồng Tử, tức Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cao khoảng 2 thước ngồi giữa không trung đối diện với mình. Ngài có 1 đầu, 2 tay. Tay phải cầm kiếm, mũi kiếm phóng ra ngọn lửa trí tuệ. Tay trái cầm một cành hoa sen xanh, cọng hoa sen tựa vào vai trái và hướng lên trên. Đóa hoa nầy màu xanh nở bên lỗ tai trái của Ngài. Trên đóa hoa có một cuốn kinh Bát Nhả. Tướng của Bổn Tôn giống như một thiếu niên 16 tuổi, đầu đội mũ ngũ Phật, suốt thân thể có đeo những tràng hạt châu trang nghiêm, hai chân ngồi kiết già phu tọa, toàn thân màu vàng, ngay giữa ngực cũng có một bài chú, từ bài chú đó phóng ra ánh sáng màu vàng chiếu thẳng chiếu thẳng đến hột súc sắc. Niệm chú xong (21 biến), cầm hột thuận tay bỏ vào hộp và lắc hột.

3. Vứa lắc hột vừa đọc bài chú Nhân Duyên:
Om yeadharma hetu pra-bhawa
Hetunte khen ta thagato haya watet
Te khen tsayo nirodha ewam wadi
Maha shramana soha
Phát âm:
Om/yea dar ma/ Heh too/Pra bah wah/heh tun tay/Ken/Ta t’a ga toe/Ha ya/Wa tet/tay ken/cha yo/Nee ro da/Eh vam/Wa dee/ ma ha/ Shra ma na/So ha.
Dich nghĩa:
Chư pháp nhân duyên sanh,Pháp diệt nhân duyên diệt. Thị chư pháp nhân duyên,Phật đại sa môn thuyết.
Trong lúc tụng bài chú Nhân Duyên chấp tay tiếp tục quán tưởng Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử đang ngồi trong hư không ngay trước mặt mình và phóng ra ánh sáng mau vàng từ giữa ngực Ngài, chiếu thẳng đến hột súc sắc. Tụng xong bưng hộp lên nghĩ đến vấn đề muốn hỏi, lắc hộp đựng hột súc sắc, lắc lâu hay mau là tùy theo tâm ý mình mà định. Lắc xong một lần, nếu muốn xin quẻ lại một lần nữa thì lắc lại thêm một lần nữa. Trong lúc lắc, đương nhiên quán tưởng ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử đang phóng ra ánh sáng màu vàng từ ngực chiếu thẳng đến hột và nghĩ đến vấn đề muốn hỏi như lần trước.

4. Sau khi lắc hột xong:
Chấp tay niệm 1 lần: Cát Tường Hoàn Mãn. Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nghi thức đã trình bày trên đối với người đã được pháp Văn Thù Quán Đảnh từ Mật Tông (thí dụ như Mật Tông Tây Tạng) có thể quán tưởng tự thân biến thành Diệu Cát Tường Đồng Tử tuyên thuyết bài kệ Nhân Duyên nói trên.
Nghi thức đã trình bày đây rất đơn giản, hy vọng độc giả sẽ làm đầy đủ để đạt được mục đích lợi sanh. Nếu thường ngày thường trì tụng Văn thù Tâm chú nầy và quán tưởng đều đặn thì chắc chắn sẽ thành tựu. Trong khi đọc lời giải thích các quẻ, nên đồng thời lý giải một số pháp nghi, do đó mà có thể nhập vào Phật Đạo (thông suốt nhân quả). Đây là mục đích chính của việc biên chép quyển sách chiêm bốc pháp nầy. Chỉ hy vọng độc giả không dùng quyển sách nầy để mưu lợi, nều không có thể mất hết những gì đã đạt được từ trước.
Kính chúc quí vị độc giả vạn sự cát tường viên mãn.

5. Thập Nhất Diện Quan Âm

Nội dung chi tiết và nhiều nội dung khác xin xem chi tiết tại nguồn: Văn Thù Chiêm Bốc Pháp

+ Ba-la-mật cũng là mật hạnh, đại hạnh của Bồ tát. Nếu dùng bố thí độ xan tham, trì giới độ phá giới.... thì còn hạn chế trong việc đối trị; ở đây, lục độ với tinh thần Ba-la-mật có sự hài hòa giữa trí tuệ, từ bi và hùng lực. Bằng trí tuệ, Bồ tát thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do mê muội không nhận ra, nên mãi tạo nghiệp và trầm luân trong sanh tử. Vì thế, Bồ tát phát khởi lòng từ bi, nguyện độ tận chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Có từ bi, các Ngài có đủ hùng lực, thi thiết mọi phương tiện quyền xảo tùy căn cơ giáo hóa chúng sinh, dù bao nghịch cảnh vẫn không thối chí.
Ba-la-mật còn có nghĩa là cứu cánh, rốt ráo. Mục đích cuối cùng của đời tu, cũng như bản hoài của chư Phật đối với tất cả chúng sanh, là nhận ra và hằng sống với bản tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Đó là Phật tánh, chân tâm, bản lai diện mục... Nhận ra bản tâm là chánh nhân thành Phật, hằng sống trọn vẹn với bản tâm là viên mãn Phật quả.

1. Bố thí Ba-la-mật
Hiểu theo sự, bố thí là chia sẻ, ban cho, cung cấp; gồm 3 loại: tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí là bố thí tài sản vật chất (ngoại tài) hoặc công lao, thân mạng của chính mình (nội tài). Pháp thí là dùng lời khuyên răn về đạo đức làm người, khiến ngưới bỏ ác hướng thiện, hoặc dùng chánh pháp hướng dẫn người tu hành để được giác ngộ giải thoát. Tài thí giúp người đỡ phần khốn khó về thân trong một thời gian nhất định; trong khi tóm lược một pháp yếu, con người có thể áp dụng suốt đời tu, nên pháp thí có thể mang đến sự bình ổn nội tâm trong thời gian lâu dài. Người bố thí tài chỉ có một khả năng nào đó để đáp ứng một phần nhu cầu của người nhận; còn người giảng được một đoạn kinh hay, thì dù số người nghe đông bao nhiêu cũng đều có phần lợi lạc. Lại nữa, tài thí chỉ có giá trị nhất thời, trong lúc pháp thí giúp vĩnh thoát sinh tử nên giá trị vô hạn. Như vậy, so với tài thí thì pháp thí thù thắng hơn rất nhiều, nhưng người bố thí phải có trình độ về đạo học và biết cách thu phục nhân tâm.
Vô úy thí là giúp người bớt sợ hãi bằng lời nói hay việc làm. Từ những điều sợ hãi nhỏ nhặt như sợ côn trùng, sợ bóng đen... Đến những nỗi khiếp đảm đối với thiên tai, chiến tranh, bịnh tật, chết chóc... những lời an ủi động viên hoặc hành động bảo bọc vỗ về sẽ làm con người cảm thấy bình an hơn. Thậm chí lúc sắp lâm chung, nếu được nghe kinh kệ, nghe niệm hồng danh chư Phật hoặc được hướng dẫn về những điều cần làm khi bước qua bên kia cửa tử, người sắp mất có thể yên tâm ra đi với một cận tử nghiệp thiện lành.
Hiểu theo lý, bố thí nghĩa là buông xả. Kinh Kim-Cang, Đức Phật dạy: “Bồ tát đối với pháp không nên có chỗ trụ mà làm việc bố thí... Nếu Bồ tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ bàn”. Khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi duyên mà tâm không dính mắc, không khởi niệm phân biệt phê phán, làm tất cả việc vì người khác mà không trụ tướng, đó là hoàn toàn buông xả phù hợp với ý nghĩa sâu xa của bố thí Ba-la-mật.
Như thế, bố thí Ba-la-mật vừa làm lợi cho mình vừa có ích cho người. Đối với người, đây là một nghệ thuật sống, giúp người bớt khốn khổ, bớt sợ hãi lo âu, đem đến niềm an ủi, sự ấm áp của tình người. Không chỉ có tài sản mới bố thí được, mà một lời nói hay, một việc làm nhỏ, một nụ cười vui… phát xuất từ tâm chân thành thiết tha đều mang nhiều lợi lạc. Mọi công đức đều xuất phát từ tâm ý, tâm càng thanh tịnh, càng bớt ngã chấp thì kết quả của việc làm càng lớn lao. Đối với mình, càng bố thí ta càng giảm được lòng tham, càng có niềm vui khi việc làm có ích cho cộng đồng. Tiến thêm một bước, thực hiện hạnh buông xả, ta có thể tự tại an nhiên trước mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc sống. Hình ảnh các thiền sư “đói đến thì ăn, mệt ngủ khò” và khi hết duyên, ngồi kiết già thị tịch trước các môn đệ, là những hình ảnh sáng ngời của sự tự tại đối với sinh và tử. (Nguồn: Lục độ Ba la mật)

+ Thể trí tuệ tiến hóa - Tu xa lìa trí phân biệt chấp trước: Như chúng ta biết, tiểu thừa sơ quả Tu Đà Hoàn, đại thừa sơ tín vị Bồ Tát, trong sáu loại thần thông họ phục hồi được hai loại, phục hồi được thiên nhãn và thiên nhĩ, không có chướng ngại nữa. Nghĩa là tầng không gian bị phá một chút, cái chúng ta không nhìn thấy họ nhìn thấy, có thể nhìn thấy thiên đàng, có thể nhìn thấy địa ngục, họ có thiên nhãn. Nhị quả lại phục hồi được hai loại, nhị quả Tư Đà Hàm, có tha tâm thôngtrong tâm người khác khởi tâm động niệm họ đều biết; có túc mạng thông, túc mạng thông là bản thân, đời đời kiếp kiếp trước nữa của bản thân đều nhìn thấy. Mặc dù không thể nhìn thấy xa xôi, đại khái khoảng mười mấy đời trước, mười mấy đời trước không có vấn đề gì, có thể nhìn thấy. Hiện nay dùng thuật thôi miên cũng được, có thể khiến cho một người phục hồi trí nhớ, họ có thể nhìn thấy đời trước của họ, một đời trước, hai đời, ba đời, có lẽ khoảng mười mấy đời là dễ dàng nhìn thấy. Thôi miên sâu hơn cũng có thể nhìn thấy chuyện của mấy chục đời trước, đại khái tương đương cảnh giới của Tư Đà Hàm. Tam quả Tư Đà Hàm, thần thông thứ năm xuất hiện, gọi là thần túc thông. Thần thông này xuất hiện rất hiếm có, họ có thể biến hoá, ngài có thể phân thân, họ có thể phi hành; trong thực tế không phải là phi hành, họ nghĩ đến một nơi, vừa nghĩ là thân thể của họ đã đến nơi đó rồi. Vì vậy không cần dùng đến phương tiện giao thông, quý vị nói muốn đến Mỹ, ý niệm vừa mới khởi lên, thân thể đã ở Mỹ rồi. Đây là cái gì? Không gian không có nữa, khoảng cách cũng không có, tuỳ theo ý niệm, đúng như trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “đương xứ xuất sanh, tuỳ xứ diệt tận”. Vì vậy người có khả năng này, quý vị vừa nghĩ đến họ, họ đã xuất hiện trước mắt quý vị rồi, nghĩ đến họ thì họ đến, vì sao vậy? Vì cảm ứng, thông tin của quý vị họ lập tức nhận được, họ lập tức hiện thân trước quý vị. Những điều này đều là thật, đều không phải là giả.

Tứ quả A La Hán, lục thần thông xuất hiện viên mãn rồi, A La Hán được lậu tận thông, phiền não dứt, kiến tư phiền não không có nữa, nhưng mà tập khí kiến tư vẫn còn. Phiền não đúng là không còn nữa, tập khí còn, phải dứt bỏ tập khí, sẽ thăng một cấp- Bích Chi Phật, cũng gọi là Duyên Giác, Bích Chi Phật, nâng lên Bích Chi Phật. Cho nên Bích Chi Phật, kiến tư phiền não và tập khí của kiến tư phiền não đều không có, nhưng mà có phân biệt, không có chấp trước, có phân biệt. Có phân biệt, tâm không bình đẳng, tâm thanh tịnh, không bình đẳng. Khi nào đoạn tận phân biệt, ngài thăng cấp, thăng lên đến vị trí của Bồ Tát. Bồ Tát không có phân biệt, có tập khí phân biệt, đoạn tận tập khí phân biệt, Bồ Tát đã thành Phật rồi. Vì thế Phật trong thập pháp giới, chúng ta biết, ngài đối với hai loại dưới đây, phân biệt, chấp trước, bao gồm tập khí, tất cả đều không có, đều đoạn hết rồi. Vì vậy tâm của Phật thanh tịnh bình đẳng, phía sau không có giác, chỉ có thanh tịnh bình đẳng, không có giác, vì sao vậy? Vì chưa đoạn vọng tưởng. Vọng tưởng là khởi tâm động niệm, cái này gọi là vô minh, vô thỉ vô minh chưa đoạn. Vô thỉ vô minh đoạn rồi, ngài đúng là thành Phật, không phải tương tợ tức Phật trong thập pháp giới, ngài từ tương tợ đã biến thành thật, chân Phật. Lúc này chuyển bát thức thành tứ trí, thập pháp giới không còn nữa, ngài sanh đến nhất chân pháp giới, tức là cõi thật báo. Trong cõi thật báo có tập khí, tập khí vô thỉ vô minh không dễ đoạn trừ. Tập khí vô thỉ vô minh thật sự đoạn rồi, công đức sẽ viên mãn. Ngài chứng quả vị diệu giác cứu cánh.

Vô thỉ vô minh khó đoạn, vì vậy đức Thế Tôn nói nó có 41 đẳng cấp, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác. Bốn mươi mốt vị này vì sao mà có? Tập khí dày mỏng có khác nhau, tập khí dày ở phía dưới, thập khí mỏng sẽ ở phía trên. Vì vậy đẳng giác chính là mỏng nhất. Đây gọi là 41 phẩm tập khí, phẩm cuối cùng đoạn được rồi họ sẽ nhập Diệu giác vị. Nhập Diệu giác chúng ta sẽ biết, cõi thật báo không thấy nữa, ngài đi đến đâu? Ngài đến Thường tịch quang. Đến Thường tịch quang quý vị sẽ không tìm thấy, khoa học và triết học ngày nay của chúng ta, đều không có cách gì tìm đựơc; trong cõi thật báo có lẽ còn có cách tìm thấy, đến Thường tịch quang không có cách gì. Nhưng chúng ta nghĩ đến lượng tử lực học đối với Thập pháp giới, Phật Bồ Tát trong Thập pháp giới chắc chắn họ có thể tìm thấy, bởi vì các ngài chưa chuyển thức thành trí, chưa lìa a lại da, lượng tử lực học đã quan sát được a lại da rồi. Nhưng những vị Bồ Tát này mặc dù không phải chân Phật, thần thông cũng quảng đại. Thế gian này của chúng ta, cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới không có ai có thể so sánh được với họ, so với A La Hán cũng không thể sánh được, nói gì đến Phật Bồ Tát trong tứ thánh pháp giới. (Nguồn: Thiện ác biến hóa - HT Tịnh Không giảng)

+ Tóm lược Sách Luận về Lửa Vũ Trụ (LVLVT) hay Luận Về Lửa Càn Khôn (LVLCK) - Treatise on Cosmic Fire (TCF), thuộc bộ Luận Về Bảy/ 7 Cung.

- Luận Về Lửa Càn Khôn (TCF): Bộ “Luận Về Lửa Càn Khôn” chủ yếu đề cập đến thái dương-hệ, và chỉ bàn về các khía cạnh và các tương ứng của con người ở mức độ mà chúng biểu hiện mối quan hệ của thành phần đối với tổng thể, và của đơn vị đối với toàn thể. Đề cập 15 quy luật và ý nghĩa vũ trụ của chúng (Mô tả các Thái dương thiên thần, ánh sáng, chư thiên, các mãnh lực, các hỏa thần, lửa, nước, con người phụng sự liên quan việc Tham thiền và hoạt động huyền thuật); (LVHLT, trang mở đầu)

+ Luận về huyền linh thuật: Nói về 15 Qui Luật về Huyền Thuật có trong Luận Về Lửa Càn Khôn. Tôi sẽ dẫn giải về chúng, không đề cập đến ý nghĩa vũ trụ - Các tương ứng và các tương đồng về thái dương hay về điều gì khác. Nhưng áp dụng chúng vào công việc của người tìm đạo, và đưa ra các gợi ý thực hành đối với việc phát triển tốt hơn sự tiếp xúc với linh hồn và sự biểu lộ của linh hồn. Nguồn: Luận Về Huyền Linh Thuật, 17

Xem Tóm lược sách luận về lửa càn không

Xem thêm: Các bảng TH theo sách Luận về lửa càn khôn

1. Bí huyệt đầu (Head centre) ... Não, tuyến tùng quả và tuyến yên
2. Bí huyệt ở họng (throat) ... Thanh quản, dây thanh âm, khẩu cái và tuyến giáp.
3. Bí huyệt tim (heart) ... Màng bao tim, tâm thất, tâm nhĩ, ảnh hưởng tới lá lách. (ASCLH, 310)
– Các bí huyệt có ba chức năng chính:
1/ Đem sinh lực (vitalise) cho thể xác.
2/ Mang lại sự phát triển ngã thức trong con người.
3/ Truyền chuyển năng lượng tâm linh và đưa toàn bộ con người vào trạng thái hiện tồn tâm linh. (LVHLT, 285)

+ Chữa trị bằng bức xạ: Trong cách chữa trị bằng bức xạ, tiến trình chữa trị thì đơn giản và an toàn hơn, vì người chữa trị chỉ quy tụ năng lượng (power) vào chính mình rồi phóng rải (radiate) năng lượng đó vào bệnh nhân dưới dạng một luồng năng lượng tỏa chiếu tuôn ra đều đặn. Dòng năng lượng này phải được hướng đến bí huyệt gần chỗ bị bệnh nhất. (CTNM, 101)

+ Tham thiền lúc bình minh: Việc tham thiền muộn trong ngày, khi các xúc cảm (emotions) đã bị xáo trộn, và khi chúng ở trạng thái hoạt động đầy đủ, thì không có hiệu quả bao nhiêu. Thời gian tĩnh lặng có được sau giấc ngủ là thời gian thích hợp để tham thiền có hiệu quả. Lúc đó, thể cảm dục, tức bản chất xúc cảm, trở nên yên tĩnh hơn nhiều sau khi thể này đã chìm vào cái hối hả rộn rịp (bustle) của cõi đời. Có một mãnh lực (influence) tốt lành sẽ tuôn tràn ra từ giờ phút bình minh yên tĩnh đó, mãnh lực này sẽ bảo vệ suốt cả ngày, còn các tình cảm, nhờ đã lắng dịu và tĩnh lặng, sẽ dễ tuân theo (amenable to) sự kềm chế hơn. (KCVTT, 302–303)

Xem: Tham thiền huyền môn theo Raja yoga (GQ-MF)
Xem: TH về các P.Pháp và con đường Tham Thiền
Xem: Tổng hợp Huyền học - Huyền Bí Học - Huyên Linh học và Huyền Linh Thuật

+ DỤC VỌNG CỦA CON NGƯỜI CÓ 5 ĐỘC: THAM - SÂN - SI - MẠN - NGHI VÀ ÁI DỤC NẶNG LỀ KHÔNG THỂ TU GIẢI THOÁT
Cần phân biệt hiểu cho đúng lời Phật dậy:
Hỏi: Nếu con người không “tham” thì xã hội làm sao tiến bộ? Không “si” thì làm sao có hằng tâm2? Không “sân” thì làm sao có sức bi phẫn?
Ðáp: Bạn đừng lầm lẫn nhé! Chấn-tác có nghĩa là làm cho tốt hơn, chứ không phải là tham lam. Ðó là sự nỗ lực làm việcchẳng có chút vọng tham, vọng cầu. Si là gì? Si tức là làm những việc ngu si như cờ bạc, chơi xổ số, đánh lô-tô, v.v… Sân tức là nổi giận. Tất cả đều là những hành vi ngu si. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp)
+ PS Tịnh Không giảng nghĩa: Trong kinh luận duy thức nói: Tứ đại phiền não thường tương tùy, nên cơ bản của Mạt na chính là tứ đại phiền não.
- Vọng Tâm: Đầu tiên là Từ Ngã kiến, Mạt na là ngã chấp, ngã kiến. Chấp trước một phần kiến phần của A lại da, kiến phần của A lại da là vô lượng vô biên vô tận vô số, nó chỉ chấp trước một phần, xem phần này là tâm của mình. Đây là vọng tâm, là gốc của phiền não.
- Ngã Ái
- Từ Vọng tâm (Ngã chấp + Ngã kiến) dấy khởi lên Ngã ái. Quý vị xem có Cái ta - Ngã kiến, liền sinh ra ngã ái (ngã ái là tham). Ngã si là ngu si. Ngã mạn, mạn là sân nhuế. Kiến ái si mạn, bốn đại phiền não này thường tương tùy không gián đoạn. Nếu như đoạn tận bốn đại phiền não này, không còn nữa, chuyển Mạt na thành bình đẳng tánh trí, đây chính là pháp thân Bồ Tát. Pháp thân Bồ Tát chuyển bát thức thành tứ trí, siêu việt mười pháp giới, không ở trong mười pháp giới nữa. Chúng ta biết, nên chuyển như thế nào? Buông bỏ bốn đại phiền não này, phá thân kiến, là trí tuệ chân thật!
+ Đốn bỏ dụng vọng:
Đức Phật nhấn mạnh thêm phải đón bỏ rừng dục vọng như tham ái, sân hận và si mê. Do rừng dục vọng mà phát sinh sợ sệt. Hãy đốn ngã cả hai thứ rừng, rừng cây to và rừng cây nhỏ của dục vọng. Ở đây, cây to là những dục vọng lớn, có nhiều mặt năng lực và cây nhỏ là những dục vọng nhỏ, ít năng lực hơn. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)

+ Tham lam - Theo Minh triết mới: Điều này có liên quan đến tội hám lợi, mà theo nghĩa đen là ăn cắp trên cõi hạ trí. Tội tham lam có thể đưa tới bất kỳ tội lỗi nào trên cõi trần và rất mạnh mẽ. Nó liên quan tới trí lực (mental force) và là một thuật ngữ phổ cập bao hàm các ước muốn mãnh liệt mà vị trí của chúng không những ở nơi thể cảm dục mà còn ở trong thể hạ trí nữa. Thánh Paul đã đưa ra giới không tham lam khi nói rằng: “Trong bất cứ tình huống nào, ta vẫn học cách toại nguyện (content)”. Cần phải đạt được trạng thái đó trước khi thể trí được tịch lặng đến mức mà mọi sự việc của linh hồn có thể thấu nhập được.(ASCLH, 186).

+ 1. THAM LAM - ĐỐI TRỊ= GIỮ GIỚI TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ:
+ “Tham” là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu.
+ Đối trị Tâm tham: Nếu có tâm tham thời phải “tu tâm” ngay, phải tập tính “thiểu dục tri túc”. Thiểu dục là muốn ít, tri túc là biết đủ. Người thiểu dục, tri túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn vì biết đủ với những thứ mình đã có. Bỏ dần lòng tham đi để đạt tới được “vô tham”. Vô tham là không tham lam.
- Ngũ trần Dục Lạc: Ở đời, có 5 món dục lạc muốn nhất là: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. “Ngũ trần dục lạc” ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Tham tiền thời phải đày đọa thân sống, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính để chiếm đoạt và khi mất thì lại đau khổ. Đối với sắc đẹp nên quán thân là bất tịnh, tham sắc thì nhiều khi lại lao vào những mưu chước tồi tệ để thỏa lòng dục vọng. Tham danh vọng, quyền tước thì phải vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí. Tham ăn uống cao lương mỹ vị thì bị nhiều bệnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham ngủ nghỉ thì trí não hóa đần độn. Ngũ trần dục lạc đó chính là những nguyên nhân ràng buộc kiếp người vào vòng sinh tử, luân hồi, sa đọa.
2. SÂN HẬN - ĐỐI TRỊ = ĐỊNH TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ
+ “Sân” là cơn giận, lòng giận dữ, nóng nảy, thù hận khi không vừa lòng, không được thỏa thích như ý muốn. Bất bình vì bị xúc phạm, nhân đó làm những chuyện sai trái. Sau cơn giận thời giữ lại lòng oán ghét tìm dịp mà trả thù.
- Sở dĩ sân sinh khởi là do lòng yêu thích “cái ta” hay thích “cái của ta”. Nếu người ta mắng nhiếc, chê bai kẻ nào khác thời ta không thấy giận, nhưng nếu ai chửi bới hoặc khiển trách ta hay người thân của ta, hoặc làm tổn hại tài sản của ta lập tức ta cảm thấy khó chịu ngay. Khi khó chịu tăng dần thời sẽ trở thành nóng giận. Nhưng nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian như Đức Phật đã từng đưa nhận xét:
+ Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.” Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”
=> Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người nào không nổi sân, thì tâm không khổ não, tâm không tranh giành, tâm nhu hòa ngay thẳng, tâm từ bi như Phật, thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sinh, thân tướng trang nghiêm được chúng sinh tôn kính và vì có đức nhẫn nhục nên sẽ được mau sinh lên cõi Phạm Thiên.
+ Nóng giận - Tạo ra độc tố: Giáo sư Elma giảng dạy tại đại học Stanford, Mỹ từng làm một thí nghiệm nổi tiếng. Ông thu thập hơi thở của người tức giận, bi thương, phiền não thở ra rồi dẫn vào một cái chai có đựng nước thuốc. Ông phát hiện màu sắc của nước ở trong chai này có sự thay đổi. Hơi thở của người tức giận làm cho nước chuyển thành màu tím, của người bi thương khiến nước chuyển thành màu xám. Sau đó ông đổ nước này lên những con chuột, một khoảng thời gian thì chúng run rẩy và chết. Thực nghiệm này chứng minh rằng, khi tức giận cơ thể sẽ sản sinh ra độc tố. (Nguồn: Tại đây)
+ Nóng giận - Hận Thù: Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau

HỎI: Ngài có thể nói với chúng tôi vấn đề ngài vượt thắng thù oán và sợ hãi như thế nào? Và ngài có thể đưa ra một ánh sáng của thiền nào đó không?
ĐÁP: Có nhiều mức độ của thù oán và nó có thể được diễn tả như một cảm nhận xấu đối với người tạo ra rắc rối, kẻ thù, hay bạn bè. Nhưng sân hận là một bộ phận cảm xúc của chúng ta, vốn mọc lên như một cơ cấu phòng vệ trong một con người khi người ấy chạm trán với những hoàn cảnh tiêu cực hay nguy hiểm. Nói một cách sinh học, các cảm xúc như sân hận, khát vọng, và dính mắc là cần thiết cho sự tồn tại.
=> Thù oán có thể được diễn tả như dư âm của sân hận vốn duy trì và day dứt trong một thời gian dài.
Tôi không có thù oán, nhưng nếu tôi thấy điều gì đó sai trái, tôi trở nên sân hận giận hờn. Sau khủng hoảng ở Tây Tạng vào ngày 10 tháng Ba năm 2008, tôi cảm thấy những cảm xúc giống như mà tôi đã cảm nhận vào ngày 10 tháng Ba năm 1959, khi tôi mất tự do – bất lực, bất lực, và băn khoăn. Tuy thế, những cảm xúc hiện hữu khác, khi sau khủng hoảng 2008, tôi đã quán tưởng những cán bộ Trung Cộng và tôi đã hoán đổi sự sợ hãi và sân hận của họ cho sự nhẫn nhục và từ bi của tôi. Rõ ràng, nó không giải quyết bất cứ vấn nạn nào, nhưng nó giúp tôi trong việc duy trì sự an bình tinh thần của tôi.
Ta có thể cầu nguyện để tiêu trừ thù oán. Theo tâm lý học Phật giáo, việc đối phó với các cảm giác tiêu cực là quan trọng. Thù oán vốn sắp khởi lên phải được đối phó ngay lúc đầu. Sự kích thích hoạt động như một chất xúc tác cho sân hận phát triển thành thù oán. Vào lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng sân hận không phải là một giải pháp nhưng chỉ giúp làm tàn phá niềm hạnh phúc. Điều đó giúp cho việc giảm thiểu các tư tưởng khó chịu hình thành trong tâm thức.
Điều kiện của thân thể cũng liên quan, như một thân thể yếu đuối có thể làm nghiêm trọng sự tiêu cực, nhưng một thân thể khỏe mạnh sẽ đưa đến kết quả trong một tâm tư mạnh mẽ vốn sẽ không bị quấy rầy một cách dễ dàng. Qua sự thực hành, chúng ta cần nghiên cứu để tách rời chính ta khỏi sân hận, vốn sẽ làm cho ta nhìn vào sân hận một cách hợp lý và cuối cùng đánh bại nó một cách hoàn toàn. Nếu sân hận lan tỏa khắp tâm tư, thì nó trở thành khó khăn để loại trừ.
=> Tâm lý Phật giáo và tâm lý học Ấn Độ giáo có những yếu tố như thiền chỉ và thiền quán giải thích những phương pháp để tìm cách giải quyết vấn nạn này của tâm thức.
Khi tôi đi ngang qua những thị trấn của Ấn Độ, tôi thấy những đền thờ như Shiva lingam, Ganesh – tôi tự hỏi tại sao không xây dựng những phòng ốc nơi mà các tín đồ có thể ngồi và thảo luận các kinh điển hơn là những đền thờ chỉ như một ngôi nhà cho một bức tượng đơn độc của một bổn tôn mà thôi? Tôi thường nói với những người Tây Tạng đừng tạo dựng thêm các tượng Phật nữa. Tôi là một Phật tử nhưng tôi biết rằng tượng Phật sẽ không bao giờ nói; nhưng tốt hơn là in thêm kinh sách vốn có thể chứng tỏ lợi lạc hơn thêm. Những kinh điển đã tồn tại hơn ba nghìn năm qua, nhưng điều thiếu vắng là sự học hỏi chúng. Nhiều người Ấn Độ là những tín đồ rất ngoan hiền, nhưng họ không chú ý đến việc học hỏi các kinh điển. (Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
3. SI MÊ - NGU SI - VÔ MINH ĐỐI TRỊ= TUỆ TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ
+ “Si” là si mê, vô minh, ngu tối. Người vô minh không sáng suốt, không suy xét hiểu biết đúng lẽ phải, đúng sự thật để phán đoán việc hay dở, tốt xấu, lợi hại v.v… nên mới làm những điều nhiễm ô tội lỗi, có hại cho mình và người. Si, vô minh theo thế tục gọi là “dại” hay “ngu”. Vô minh che lấp tâm trí, làm cho con người không còn nhìn thấy được những chất bợn nhơ đang gậm nhấm từ bên trong con người khiến các thói hư tật xấu ấy sẽ tăng dần và cuối cùng đưa con người vào con đường tội lỗi triền miên. Đức Phật dạy rằng vô minh là điều ô trược tệ hại nhất. Hãy dứt bỏ vô minh để trở thành người trong sạch
- Hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên bạch với Đức Phật rằng họ không thể thuyết phục được ông thầy của họ trước kia đến gặp Đức Phật và nghe giáo pháp vì vị này còn quá luyến ái tín đồ riêng. Nhân dịp này Đức Phật giải thích sự khác biệt giữa người suy luận chân chính với người suy luận sai lầm và hậu quả dĩ nhiên của mỗi lối suy luận:
+ (Pháp Cú 11)
Những gì không thật, hão huyền
Lại cho là thật và tin vô bờ,
Những gì chân thật lại ngờ
Lại cho không thật, chỉ là giả thôi,
Nghĩ suy lầm lạc mất rồi
Thấy sao chân thật rạng nơi pháp mầu.
+ (Pháp Cú 12)
Biết đây là thật để tin
Biết kia không thật, hão huyền mà thôi
Nghĩ suy theo đúng đường rồi
Thấy ngay chân thật rạng nơi pháp mầu.
+ Lợi ích của không si mê: Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người không si mê, thì thành tựu được các pháp công đức sau đây: được ý vui chân thiện và bạn chân thiện; tin nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác; chỉ quy y Phật; tâm ngay thẳng, có chính kiến; sinh lên cõi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác; hưởng phúc huệ; không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp và khỏi bị nạn dữ v.v…
IV- TAM ĐỘC + ÁI DỤC = NGUỒN GỐC KHỔ ĐAU
+ 4. ÁI DỤC:
+ PS Tịnh Không: Ái là Tham, Dục là danh từ chung để chỉ “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ”.(Nguồn: Tham - Sân - Si Và Ái dục)
+ Đức Phật dạy Ái dục gồm: Người tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài vật xuất vốn và lời lãi, tạo tác những nghiệp có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước, đó gọi là tập. Người kia biết ái tập Khổ tập Thánh đế này. Thời quá khứ là khổ Thánh đế; thời vị lai và hiện tại là Khổ Thánh đế. Đó là điều chắc thật không hư đối, không xa rời sự thật, cũng chẳng phải điên đảo, được thẩm sát một cách chắc thật. Những gì hợp với sự chắc thật như vậy, là sở hữu của Thánh, được nhận thức bởi Thánh, được thấu suốt bởi Thánh, được thấy bởi Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân chánh của bậc Thánh. Do đó nói là Khổ Thánh đế. Nguồn: mục 119 Chân thật ...
+ Đức Phật giảng rằng, "Tam độc" sở dĩ như vậy là do những khuynh hướng, các thói quen của họ đã có từ nhiều kiếp trong quá khứ. Khi Đại đức A Nan bạch hỏi rõ lý do, Đức Phật giải thích thêm rằng đó là do 4 nguồn cội “tham, sân, si, và ái dục”:
+ Định nghĩa Ái dục: Tức sự tham ái. Đồng nghĩa với ái trước, ái nhiễm, ái chấp - Ái chấp là hưởng thụ tình ái. Ấn Độ có Ái dục kinh, là sách chỉ nam về tính ái có tiếng trên thế giới, nhân sĩ thượng lưu cũng nhờ sách chỉ nam này mà có được sự chỉ dẫn về sinh hoạt tính ái. Tính dục là một loại bản năng của con người chỉ đứng sau thực dục.
- (I) Nghĩa của Ái Dục: Luyến ái và dục vọng, hoặc tình thương yêu gia đình
- (II) Thuật ngữ Ái Dục - Những lời Phật dạy về trong Kinh Pháp Cú:
6) Những người có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ dong ruổi theo dục cảnh chẳng chút ngại ngùng, bởi vậy người đã có tâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi dạt hoài
12) Luyến ái vợ con: Đối với người trí, sự trói buộc bằng dây gai, bằng cây, bằng sắt chưa phải kiên cố, chỉ có lòng luyến ái vợ con tài sản mới thật sự là sự trói buộc chắc bền
+ Khát ái. Thô kệch hay vi tế, luôn là nguyên nhân chủ yếu những bất hạnh lớn trong đời. Ái dục làm ta bám víu vào đời sống với mọi hình thức và do đó dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi.
(Pháp Cú 251)
Lửa nào có thể sánh ngang
Lửa tham dục nọ dữ dằn vô biên,
Không còn cố chấp nào bền
Bằng tâm sân hận nổi lên cấp kỳ,
Lưới nào trói buộc dầm dề
So ra với lưới ngu si buộc ràng,
Sông nào chìm đắm cho bằng
Dòng sông ái dục cuốn phăng bao người. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng tam độc “tham, sân, si” là những nguyên nhân gây ra bất hạnh và phiền não, ưu tư cho con người. Tham, sân, si có thể được tìm thấy một cách dễ dàng nơi hành động, ngôn ngữ, và ý nghĩ của chính mình cũng như của kẻ khác. Kinh nghiệm cho ta biết bất cứ ở đâu hay lúc nào, nếu tham sân si có mặt và ngự trị thì cuộc sống riêng hay chung đều trở nên xấu xa đau khổ. Tham sân si là sản phẩm của con người và xã hội và chính chúng là nguyên nhân làm hư hại cuộc sống an lành của loài người giống như bông tre nở từ cây tre và là biểu tượng suy tàn của cây tre, nghĩa là khi tre trổ bông là lúc tre tàn lụi.
+ Không luyến ái: Đức Phật khuyên các thầy “Thực hành tâm không luyến ái vì khi nào còn rừng rậm tham, sân, si thời các thầy còn chịu đau khổ.
- Đốn bỏ dụng vọng: Đức Phật nhấn mạnh thêm phải đón bỏ rừng dục vọng như tham ái, sân hận và si mê. Do rừng dục vọng mà phát sinh sợ sệt. Hãy đốn ngã cả hai thứ rừng, rừng cây to và rừng cây nhỏ của dục vọng. Ở đây, cây to là những dục vọng lớn, có nhiều mặt năng lực và cây nhỏ là những dục vọng nhỏ, ít năng lực hơn.

+ Đối trị Dục vọng = Giới Định Tuệ: “Tham, Sân, Si” là nguyên nhân của cuộc sống đau khổ, cần phải tiêu diệt, Đức Phật cũng nói cho chúng ta biết còn có 3 pháp nữa là “Vô tham, Vô sân, Vô si” là những yếu tố tâm lý cần nên phát triển để xây dựng cuộc sống an lành. Muốn phát triển ba pháp thiện này chúng ta phải tu dưỡng theo chánh đạo gồm “Giới, Định và Tuệ”.

+ Lợi ích của tham thiền: Tham thiền tạo ra được 4 điều:
1.   Giúp cho hành giả tiếp xúc được với Chân Ngã và chỉnh hợp được ba hạ thể.
2.   Đưa hành giả đến trạng thái quân bình, không thụ cảm và tiêu cực hay tích cực, mà ở điểm thăng bằng. Tạo cơ hội cho Chân Ngã, và sau đó là Chân Sư, khuấy động sự quân bình đó và điều chỉnh sự rung động trầm lặng này đến một âm điệu (note) cao hơn trước, khiến cho tâm thức rung động với mức độ mới mẻ và cao siêu hơn, và xoay chuyển vào phạm vi của Tinh thần tam phân. Bằng tham thiền liên tục, toàn thể điểm thăng bằng này ngày càng được nâng cao cho đến khi điểm thu hút thấp trong sự dao động và điều chỉnh không phải ở thể xác, không chạm đến thể cảm dục, không tiếp xúc với thể trí (ngay cả linh hồn thể nữa), mà kể từ đó, con người được an trụ vào tâm thức tinh thần.
3. Tạo thăng bằng cho các rung động thấp trên các phân cảnh thuộc cõi tình cảm và cõi trí. Thiền làm phàm ngã chỉnh hợp với rung động của phân cảnh thứ 3 ở mỗi một trong ba cõi thấp cho đến khi các phân cảnh ba đó được chế ngự. Kế đó, làm cho phàm ngã rung động đồng bộ với rung động của các phân cảnh thứ 2 của ba cõi thấp.
4. Giúp chuyển sự an trụ từ một trong các vi tử thường tồn của phàm ngã vào vi tử tương ứng trong Tam Thượng Thể tinh thần.(TVTTHL,10–11)
- Ba lợi ích:
1. Cho biết thực nghĩa bên trong của màu sắc bên ngoài.
2. Xác định những phẩm tính mà các màu sắc này che giấu. [228]
3. Tạo sự chuyển hóa cần thiết của các màu, từ Phàm nhân đến Tam nguyên, và về sau từ Tam nguyên đến Chân thần.(TTHM, 227)
Xem: Tham thiền huyền môn theo Raja yoga (GQ-MF)
Xem: TH về các P.Pháp và con đường Tham Thiền
Xem: Tổng hợp Huyền học - Huyền Bí Học - Huyên Linh học và Huyền Linh Thuật

+ Diệt trừ - Hóa giải chướng ngại tu: Có rất nhiều chướng ngại đối với người tu hành: Xin liệt kê, tậm sếp từ thấp đến cao mà trong Kinh văn Thánh nhân giảng. Căn bản có 2 nhóm là Tự mình tu/ Thân tâm mình và Ngoại cảnh/ Trần cảnh tác động. Tự mình có 2 loại là Danh và Sắc hay Thân và Tâm hành giả, trong đó tâm ý là gốc, là chủ, thân xác là gọn, là khách. Chủ thanh tịnh thì khách khác thanh tịnh. Đối cảnh Khách trần không bám chấp, giữ tâm thanh tịnh sẽ đưa hành giả đến thành tựu viên mãn trong tu hành, là giải thoát Niết Bàn:
Vô Minh:
+ Chẳng còn ngăn ngại/ Chướng ngại - HT Tuyên Hóa giảng:
Trong không thấy thân tâm,
Ngoài chẳng có thế giới.
Nếu núi Thái sơn sụp đổ trước mắt,
Cũng xin đừng ngạc nhiên.
Có nghĩa là bất luận tai họa lớn lao nào có xảy ra, dù nhà quý vị sụp đổ, cũng mặc chúng. Nếu quý vị chẳng bận tâm đến nó, thì dù nó có sập, nó sẽ chẳng làm hại đến quý vị. Vì sao quý vị bị sự việc làm hại đến mình? Vì quý vị không buông bỏ được chúng. Quý vị bị vướng bận bởi chúng. Quý vị sợ hãi, nên quý vị bị hại. Nếu quý vị chẳng sợ hãi điều gì, nếu quý vị có được sự tỉnh táo, thì dù có ở đâu cũng chẳng hề hấn gì. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)

+ Nên dứt năm pháp, nên tu tập bảy pháp sao cho viên mãn:
- Một là tham dục; hai là nóng giận; ba là hôn trầm say ngủ; bốn lao chao, hối hận; năm là ngờ vực. Năm thứ cái chướng này phải nên trừ dứt. Tức những thứ lớp che đậy, làm lu mờ mất Chân Tâm thường hằng vi diệu giác minh thanh tịnh bao trùm. Đây là do Chấp ngã mà ra, nên cần phải Diệt trừ ngã chấp/ Buông xuống vạn duyên là khởi đầu cần phải có, nếu không thì chỉ là tu giả, chẳng thể thành tựu. (Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm)

+ Xa Lìa Chướng Ngại - Xa Lìa Gai Nhọn - Loại Bỏ Chướng Ngại: Phật dạy Bồ-tát sáu phép Ba La Mật, trong đó nhẫn nhục là quan trọng nhất. Nhẫn nhục chính là có lòng nhẫn nại, việc tốt cũng không phải là dễ dàng thành tựu, làm gì có được phước báo lớn như vậy? Cổ đức nói: "Việc tốt nhiều giày vò", giày vò là chướng ngại. Khi bạn muốn làm một việc tốt, chướng ngại đến trùng trùng, bạn phải dùng trí tuệ để ứng phó những chướng ngại này. Con đường này đi không thông, vẫn còn con đường kia; con đường kia không thông vẫn còn con đường nọ, luôn sẽ có con đường đi được thông, không thể nói không có đường để đi. Chướng ngại là nhất định không thể tránh khỏi, phải biết được cách né tránh, phải biết chờ đợi thời tiết nhân duyên. Ở ngay trong chướng ngại học tập thành tựu hậu đắc trí của chính mình, sau đó chúng ta mới ở trong tất cả cảnh giới, thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên (Hoàn cảnh nhân sự), liền có năng lực ứng biến khéo léo, nhà Phật thường nói "phương tiện khéo léo", chúng ta liền có năng lực này. Hoàn cảnh nhân sự tốt, hoàn cảnh nhân sự xấu, đối với chúng ta đều là nơi chốn học tập, chỉ cần bạn chịu dụng tâm học tập, không thể không khai trí tuệ. Người thiện là thiện tri thức của ta, người ác cũng là thiện tri thức của ta, sau đó bạn mới có thể thể hội đến được, mới có thể tường tận chư Phật Bồ-tát vĩnh viễn sống ở trong thế giới cảm ân. Không chỉ tất cả nhân sự là lão sư, tất cả vạn vật cũng là lão sư, thế gian này, hiện tại chúng ta gọi là động vật, thực vật, khoáng vật, hiện tượng tự nhiên, từng li từng tí đều đang khai phát trí tuệ Bát Nhã của chúng ta. Chỉ cần chính mình xả bỏ “tham-sân-si-mạn”, xả bỏ tự tư tự lợi, xả bỏ thành kiến, học tập khiêm tốn, thì thành tựu vô thượng Bồ-đề không cần phải ba A Tăng Kỳ kiếp. Trên kinh Phật nói tu hành chứng quả, phải thời gian dài như vậy, gian nan như vậy, nguyên nhân là gì? Chúng sanh không khéo học, không biết học, cho nên mới cần thời gian dài như vậy. Nếu như biết học thì không cần thời gian dài đến như vậy. Biết học,tiền phương tiện chính là điều kiện thứ nhất phải hiếu học, ưa thích học, chịu học, sau đó ở nơi lão sư, ở nơi thiện tri thức, bạn sẽ có được rất nhiều giáo huấn quý báo, bạn liền sẽ học được, như vậy mới có thể thành tựu. Trên kệ khai kinh nói "trăm ngàn muôn kiếp nan tao ngộ". Chúng ta nhất định trân trọng nhân duyên này, toàn lực dụng công, cố gắng học tập, thời gian ngắn sẽ thành tựu thù thắng không gì bằng.

Chướng ngại giữa người và người cũng là do ít qua lại với nhau, ít giao lưu với nhau, thế là sanh ra hiểu lầm. Do hiểu lầm mà khởi lên nghi ngại, như vậy mới tạo thành bất hòa, tạo thành đối địch, phát triển trở thành cạnh tranh, đấu tranh. Truy cứu nguyên nhân ban đầu là do không thông, cho nên người với người phải câu thông với nhau mật thiết. Tại vì sao bạn bè cả đời chơi với nhau tốt như vậy? Vì thường hay qua lại, khi có thời gian liền thăm hỏi lẫn nhau, nói chuyện, nói đến mọi chuyện thì thông suốt, liền biến thành bạn tốt. Oan gia đối đầu, tại vì sao oan kết càng kết càng sâu? Không qua lại, không qua lại thì dò xét lẫn nhau, càng dò xét càng sai. Đây là nói rõ người với người phải câu thông, giữa gia đình với gia đình phải câu thông. Hiện tại chúng ta có kém khuyết, giữa người với người có sự ngăn cách, giữa nhà với nhà, đôi bên hàng xóm không hề qua lại, vậy thì làm sao được? (Nguồn: Kinh Thập thiện - Tập 31_ PS Tịnh Không giảng)

+ Ngũ giới theo Phật dậy
1. Giới sát: Không sát sinh
2. Giới đạo: Không trộm cướp
3. Giới dâm: Không tà dâm
4. Giới vọng: Không nói dối hay sai sự thật
5. Giới Không uống diệu: Uống riệu say thành người loạn tâm trí - Trí tuệ mê mờ, ngu tối. Biến con người thành con thú giữ.

+ Ngũ giới - Minh Triết mới (ASCLH, 184):
1. Vô tổn hại (harmlessness).
2. Chân thật (truth).
3. Không trộm cắp (abstention from theft).
4. Tiết dục (abstention from incontinence).
5. Không tham lợi (abstention from avarice).

+ Theo Ngũ thường nhà nho/ Dịch học
1. Nhân: Không gây tổn hại; Không sát sanh hại vật; Bảo vệ sự sống muôn loài; Tâm Từ Bi; Đạo hiếu
2. Nghĩa: Không tham lợi; Trung thành; Tâm Hỷ Xả
3. Lễ: Kính trọng, Lễ phép, Lễ lạy; Ca ngợi, tán thán Tam Bảo Phật Pháp Tăng; Tin sâu Nhân quả - Luân hồi;
4. Trí: Xóa bỏ vô minh - Không còn mê tín dị đoan vì đã có đủ trí tuệ phân biện cát hung, tốt sấu, quan trọng và không quan trọng, lên làm và không nên làm; Hiểu rõ về Nhân nào thì quả đấy.
5. Tín: Sống chân thật - Không nói dối;

+ Theo Lục đại tông chỉ cung tương tự Ngũ giới
1. Không tranh, tức là không sát sinh.
2. Không tham, tức là không trộm cắp.
3. Không cầu, tức là không dâm dục.
4. Không ích kỷ, tức là Không nói giối.
5. Không tư lợi, tức là không uống rượu./. (Nguồn: Xem Tại đây)

Xem thêm: Giữ Ngũ giới - HT Tuyên Hóa
Xem thêm: Giữ ngũ giới

+ Vô tổn hại (harmlessness): X. Bất tổn hại.

+ Điều này bao gồm các hành động ở cõi trần của một người, vì các hành động đó có liên quan đến mọi hình hài của biểu hiện thiêng liêng và đặc biệt có liên quan đến bản chất sức mạnh (force nature) hay là năng lượng mà người đó biểu hiện qua các hoạt động ở cõi trần của mình. Y không gây đau khổ hay làm tổn thương bất cứ ai. (ASCLH, 184–185)

+ Bất tổn hại là tác nhân chính yếu (major agent) đối với việc làm cho cân bằng (offsetting) nghiệp quả. (CTNM, 295)

+ Do đó, bạn có thể thấy lý do tại sao tôi rất nhấn mạnh vào việc cần có đức tính không gây tổn hại nơi tất cả các bạn vì đó là phương pháp khoa học (một cách tuyệt diệu, và nói về mặt huyền môn) để tẩy sạch con người và để thanh lọc các bí huyệt. Việc thực hành đức vô tổn hại sẽ làm thông suốt các vận hà bị tắt nghẽn và để cho các năng lượng cao siêu tiến nhập vào.(CTNM, 40)

+ Thực hành đức vô tổn hại để chận đứng việc tạo nhân và để ngăn chận bất cứ cách diễn biến thêm nào của tình trạng bất hạnh (nhất là do bệnh tật –ND). (CTNM, 296)

+ Các tình trạng từ lực có hại, như là kết quả của việc vận dụng sai lầm các sức mạnh của con người, là các nguyên nhân của tà lực trong thế gian xung quanh chúng ta, bao gồm cả ba giới dưới nhân loại. Với tư cách các cá nhân, làm thế nào chúng ta có thể thay đổi việc này? Bằng việc phát triển trong chính chúng ta đức tính Vô Tổn Hại (Harmlessness). Vì vậy, hãy nghiên cứu chính bạn theo khía cạnh này. Nghiên cứu cách cư xử, các lời nói và các tư tưởng hằng ngày của bạn để làm cho chúng hoàn toàn vô hại. Hãy làm cho bạn suy nghĩ những tư tưởng về chính bạn và về những người khác sẽ mang tính xây dựng và tích cực, và như thế các hiệu quả của chúng sẽ không gây tổn hại. Hãy nghiên cứu ảnh hưởng về mặt cảm xúc của bạn trên người khác sao cho bạn không thể gây tổn thương một huynh đệ của bạn do bởi một tính khí (mood), một sự ngã lòng (depression), và một phản ứng cảm xúc nào. Hãy nhớ rằng, trong mối liên kết này, khát vọng tinh thần và sự nhiệt tình mãnh liệt, bị đặt sai chỗ hoặc bị hướng dẫn sai, có thể rất dễ dàng gây tổn hại cho một huynh hữu, vì vậy không những chỉ nhìn vào các xu hướng sai lầm của bạn, mà còn nhìn vào việc sử dụng các đức tính của bạn.

+ Nếu sự vô tổn hại là nguyên tắc cơ bản (keynote) của kiếp sống của bạn, bạn sẽ hành động để tạo ra các tình trạng hài hòa đúng đắn trong phàm ngã của bạn, nhiều hơn bất kỳ số lượng giới luật theo các đường lối khác. Sự thanh tẩy mạnh mẽ được mang lại bởi nỗ lực không gây tổn-hại sẽ tiến triển rất nhiều để loại bỏ các trạng thái ý thức sai trái. Do đó, hãy chăm lo cho nó và đưa ý tưởng này vào việc kiểm điểm ban tối của bạn.

* Xem ĐỨC VÔ TỔN HẠI _ Chân Sư DK (LVHLT, 101)

Tôi muốn thúc giục mỗi người đang đọc các trang này tạo ra một khởi đầu mới trong đời sống tâm linh. Tôi muốn nói với người đọc, hãy quên tất cả những thành tựu trong quá khứ, thể hiện sự nhiệt tình, và tập trung vào Thiên Cơ (Plan).

Vì vậy, vào lúc này, Tôi nói với bạn rằng, Tôi – là một đệ tử lớn tuổi và có lẽ có kinh nghiệm hơn, và là người phụng sự trong vườn nho vĩ đại của Đức Chúa – thực hành đức tính vô-tổn-hại với niềm vui thích và sự hiểu biết, vì đó là (nếu thực sự được thực hiện) tác nhân hủy diệt mọi sự hạn chế. Tính gây tổn hại dựa trên sự ích kỷ, và dựa vào một thái độ tập trung vào bản ngã (ego-centric attitude). Đó là sự biểu hiện của các lực được tập trung cho sự tự thúc ép, sự tự cao, và sự tự-mãn. Tính vô tổn hại là cách biểu lộ sự sống của người nhận ra mình ở khắp mọi nơi, y sống một cách hữu thức với tư cách một linh hồn, mà bản chất của linh hồn là bác ái, phương pháp của linh hồn là tính bao gồm, và đối với người đó, mọi hình tướng đều giống nhau ở chỗ chúng che giấu ánh sáng, và chỉ là các ngoại hiện (externalizations) của Thượng Đế Vô Hạn duy nhất (the one Infinite Being). Hãy để Tôi nhắc nhở bạn rằng sự nhận thức này sẽ biểu hiện trong một sự hiểu biết thực sự về một nhu cầu của tình huynh đệ, tách ra khỏi tình cảm và động cơ cá nhân. Nó sẽ dẫn đến sự im lặng của ngôn ngữ, vốn nảy sinh từ việc không liên quan gì đến bản ngã riêng biệt. Nó sẽ tạo ra đáp ứng tức thời đối với nhu cầu đích thật, đặc trưng cho các Đấng Cao Cả (Great Ones), các Ngài (bỏ qua vẻ bề ngoài) nhìn thấy nguyên nhân bên trong vốn tạo ra các tình trạng được nhận thấy trong đời sống bên ngoài, và vì vậy, từ mức độ minh-triết đó, các Ngài có thể cung cấp sự giúp đỡ và hướng dẫn thực sự. Tính Vô Tổn Hại mang lại trong đời sống sự thận trọng trong phán đoán, dè dặt trong lời nói, khả năng kiềm chế hành động bốc đồng, và sự thể hiện một tinh thần không chỉ trích. Vì vậy, con kênh thông suốt có thể được cung cấp cho các mãnh lực của tình thương đích thực, và cho các năng lượng tinh thần vốn dường như truyền sinh khí cho phàm ngã, do đó dẫn đến sự hành động chân chính.

Cho nên, hãy để cho đức tính vô tổn hại, trở thành chủ âm (keynote) của kiếp sống của bạn. Việc hồi tưởng (review) buổi tối nên được xúc tiến hoàn toàn theo đường lối này; hãy chia công việc hồi tưởng làm ba phần và xem xét:

1. Tính Vô Tổn Hại trong tư tưởng. Việc này chủ yếu sẽ dẫn đến việc kiểm soát lời nói.
2. Tính Vô Tổn Hại trong phản ứng tình cảm. Điều này sẽ dẫn đến việc trở thành một vận hà cho khía cạnh bác ái của linh hồn.
3. Tính Vô Tổn Hại trong hành động. Điều này sẽ tạo ra sự tự tin, khéo léo trong hành động và việc giải phóng ý chí sáng tạo.
Ba phần này tiến gần đến chủ đề cần được nghiên cứu do các ảnh hưởng của chúng lên chính bản ngã và sự phát triển của một người, và do ảnh hưởng của chúng lên những người mà người đó tiếp xúc, và lên những người cùng cộng tác xung quanh của người đó. (LVHLT, 103)

+ Người tìm đạo phải sống một cách vô tổn hại (harmlessly) trong tư tưởng (thought), lời nói (word) và hành động (deed). Bằng cách này, mỗi người trong các bạn sẽ cung ứng một vận hà tinh khiết, sẽ trở thành một tiền đồn cho tâm thức của Chân Sư và cung ứng một trung tâm năng lượng mà qua đó tình huynh đệ có thể tác động. (LVHLT, 354)

+ Không gây tổn hại vốn là đặc tính nổi bật của moi người con của Thượng Đế. Không gây tổn hại nghĩa là không nói lời nào có thể làm tổn thương kẻ khác, không nghĩ đến bất cứ ý tưởng nào có thể gây đau khổ (poison) hoặc tạo ra hiểu lầm, không làm một hành động nào có thể gây thương tổn (hurt), dù là tối thiểu cho huynh đệ mình – đây là đức tính quan trọng nhất (main virtue) sẽ giúp cho đạo sinh huyền môn (esoteric student) bước một cách an toàn trên con đường phát triển khó khăn. (SHLCTĐ, 20)

+ Không Gây Tổn Hại - Không Sát Sanh: Đối với tất cả chúng sanh, bạn không còn ý nghĩ sát hại nữa, chúng sanh sẽ nhìn thấy bạn giống như bạn bè vậy, vì biết bạn sẽ không hại chúng. Bạn có thể yêu thương và có thể giúp đỡ chúng, chúng sẽ gần gũi bạn. Ngược lại, chúng sẽ chúng đều hoảng sợ, bỏ chạy - Do Tâm ta là bất thiện/ Người có sát khí rất nặng => Chúng bỏ chạy, chạy thoát thân. Giúp chúng sinh thoát khổ đau chết chóc - Đây là bố thí vô úy - Được sức khỏe, trường thọ, Chúng sinh hoan hỷ gần gũi;

Điều thứ hai: Bạn không nhẫn tâm làm tổn hại chúng sanh, bạn chắc chắn có tâm thương yêu, không những đối với động vật mà đối với thực vật và tất cả mọi sinh vật đều khởi tâm yêu thương chân thành...kể cả cây cỏ. Đây là pháp ly não, trưởng dưỡng tâm từ bi của mình, rèn luyện sức nhẫn nhục của mình, phải có tâm nhẫn nại (Nguồn: Tập 16 - Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)

+ Đức Phật dậy: Này Long Vương! Nếu xa lìa sát sinh thì liền được thành tựu 10 pháp xa lìa phiền não:
Một là, đối với các chúng sinh ban cho sự không sợ hãi.
Hai là, thường khởi tâm từ rộng lớn đối với chúng sinh.
Ba là, dứt hẳn tập khí giận dữ.
Bốn là, thân thể thường không bệnh tật.
Năm là, mạng sống lâu dài.
Sáu là, thường được loài phi nhân bảo vệ.
Bảy là, thường không có mộng ác, ngủ hay thức đều yên vui.
Tám là, diệt trừ thù oán trói buộc, các thù oán tự giải tỏa.
Chín là, không sợ hãi về đường ác.
Mười là, khi chết được sinh lên cõi Trời.
Đó là mười pháp. Nếu đem hồi hướng lên quả vị Bồ Đề Vô Thượng thì sau khi thành Phật, sẽ được mạng sống tự tại theo tâm của Phật. (Nguồn: Kinh thập thiện)

Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành: Nếu quý vị lấy sáu đại tông chỉ nầy làm cơ sở, và rèn luyện thân tâm, tức quý vị sẽ được tự do sanh tử.
(Ghép gọn 6 đại tông chỉ còn 5 => Tương ứng ngũ giới ) 

1 - Không tranh: Không tranh là kể cả không nổi nóng. Một chút nóng giận cũng không được. Với ai mình cũng không phát cáu. Không nổi nóng thời phiền muộn vô minh cũng sẽ giảm bớt đi. Phiền não dứt rồi thì trí huệ sẽ phát sanh, và chúng ta cư xử với mọi người bằng tấm lòng từ bi.
* Không tranh với bất cứ người nào. Tự giữ những gì mình nên có, và không nên có những thứ mình không cần. Tuyệt đối là không nổi nóng.

+ Ngũ giới: 1 - Không Tranh: Nếu không tranh sẽ không dẫn đến sát sanh. Sát sanh là do tâm tranh hiện lên tác quái. Khi tranh thì chỉ muốn mình thắng, đối phương thua, dù có chết hại vô số.
2 - Không tham: Không tham tài cũng không tham sắc; không tham danh cũng không tham lợi, cái gì mình cũng không tham muốn. Mà hãy nên: Anh cần cái gì thì tôi sẽ cho anh cái ấy.
* Bất luận những gì về vật chất, hễ mình có đủ dùng là được rồi, và cái gì cũng không tham. Đồ vật của tôi, nếu anh cần thì tôi sẽ cho anh. Chúng ta đừng nên keo tham tiếc của.

+ Ngũ giới: 2 - Không Tham: Không tham thì sẽ không trộm cắp. Tại sao lại đi ăn cắp đồ của người khác? Là bởi mình có tâm tham lam. Nếu bạn không có tâm tham lam, thì có kẻ tặng, bạn cũng không lấy. Lòng tham mà trừ thì nhất định không phạm tội ăn cắp.
3 - Không cầu: Không truy cầu bên ngoài, những thứ không nên có thì mình tuyệt đối không cần đến.
* Không tìm cầu những thứ bên ngoài, gọi là: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao,” người không tìm cầu tức là người có nhân cách cao thượng. Phàm người có nhân cách là người thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ. Người nào không tham tài, không tham sắc, không tham danh, không tham ăn, không tham ngủ thì tâm người ấy sẽ được nhiều an lạc và lòng họ cũng không cảm thấy lo sợ gì cả.

+ Ngũ giới: 3 - Không Truy Cầu: Không truy cầu thì sẽ không khởi ý niệm dâm dục. Dâm dục là do mình có mong cầu. Con gái mong con trai, con trai mong cầu bạn gái, đó là thứ truy cầu kẻ đối phương. Không những chỉ cầu thôi mà còn truy, theo đuổi nữa, giống như cái khoan, cứ nhắm về phía trước mà khoan. Nếu không có sở cầu, thì làm sao còn ý niệm tà dâm? Một chàng trai tuấn tú, một cô gái xinh xắn bất quá chỉ là hai bị thịt hôi hám mà thôi. Tại sao tham luyến chứ? Nếu không có sở cầu thì mình không sao phạm giới dâm này.
4 - Không tự tư, ích kỷ: Nguyên nhân chúng ta không thể thành Phật và bị đọa xuống tam ác đạo cũng là vì tự tư ích kỷ. Nếu chúng ta không có lòng ích kỷ, thời bất kỳ tội nghiệp gì cũng không có.
* Bất cứ vật gì thuộc về công cộng để mọi người thuận tiện dùng, chúng ta không được cất dấu cho riêng mình. Quý vị có thể bố thí, tức là quý vị không có lòng tự tư, ích kỷ, gọi là: “Xem tất cả người già như cha mẹ ta, thương tất cả trẻ thơ như thương con em mình.” Đó là sự biểu hiện của người không có lòng tự tư ích kỷ. Sự thành lập các trường đại học, trung học, tiểu học và viện dưỡng lão tại Vạn Phật Thánh Thành vốn cũng từ tư tưởng đó.

+ Ngũ giới: 4 - Không ích Kỷ (Không vọng ngữ): Không ích kỷ sẽ giúp mình chẳng nói láo - Không nói vọng ngữ. Người ta nói dối vì sợ mất đi lợi ích riêng mình, nên tâm ích kỷ mới tác quái. Rồi mình mới đi lừa người khác, nói lời dối trá, muốn người khác không biết được bộ mặt thật của mình.
5 - Không tự lợi: Chúng ta không nên vì lợi ích cá nhân mà bất chấp thủ đoạn để làm lắm chuyện phi pháp, hoặc làm những việc tổn hại đến kẻ khác.
* Là xả mình vì người. Việc gì có lợi thì ta nhường cho người khác làm. Trái lại, việc gì không lợi thì để lại mình làm. Tuyệt không bao giờ có tham đồ về danh văn lợi dưỡng, mua danh câu tiếng, vì đó là những tư tưởng tự tư, tự lợi.

+ Ngũ giới: 5 - Không Tư Lợi: Không tư lợi sẽ giúp mình không phạm tửu giới. Con người vì sao uống rượu? Là vì muốn hưởng thụ, muốn thân thể mình sung sướng. Nhưng sung sướng làm tâm mình mê loạn khủng hoảng; cứ tưởng rằng đã trở thành thần tiên, tiêu dao trên trời vậy. Khi đã say rượu thì lại chửi rủa người khác, muốn làm gì thì làm, tăng trưởng thêm lòng dâm dục. Có người muốn đem rượu lại trợ cho huyết khí được lưu thông sảng khoái. Nhưng uống rồi thì mọi sự đều quên hết. Cũng đồng một loại với hút thuốc phiện, xì ke, ma túy. Ðó đều do tâm tự lợi hoành hành; cho nên mới đi uống rượu.
6 - Không vọng ngữ: Tức là nói thật. Chúng ta tuyệt không dối gạt kẻ khác, hay nói những lời nghe như thiệt nhưng lại là giả. 
* Miệng có bốn tội ác là: vọng ngữ, ỷ ngữ, ác khẩu và lưỡng thiệt. Người mà phạm một trong các tội ác nầy, tương lai sẽ bị đọa địa ngục bạt thiệt cắt lưỡi. Vọng ngữ là một trong Năm Giới. Người học Phật Pháp, nhất định nên nghiêm giữ Năm Giới. Vọng ngữ là gì? Là nói lời giả dối, gọi là: Thấy - nói không thấy; không thấy - nói thấy; nghe - nói không nghe, không nghe - nói nghe; không hiểu - nói hiểu, hiểu - nói không hiểu; biết - nói không biết, không biết - nói biết. Đó tức là vọng ngữ.

* HT Tuyên Hóa giảng, trong năm điều trên đã bao hàm Không Vọng Ngữ, vì muốn nhấn mạnh nên tách ra để cảnh báo lời nói vọng ngữ "Chưa chứng đạo nói đã chứng - Chứng đạo nói chưa chứng ...) (Nguồn: Xem tại đây)

Như vậy, Lục Ðại Tông-chỉ chính là Ngũ-giới. Tại sao không nói Ngũ-giới? Là vì danh từ Ngũ-giới nghe quen rồi, nên khi nghe không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu thì người ta thường nói: "Tôi biết rồi, bạn nói mãi lời nầy làm chi?" Bởi vậy nên đổi thành: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối. Những danh từ này ai ai cũng nghe qua, cũng đã biết rồi. Nhưng rất ít người thật sự thực hành chúng, vậy tôi lại nhắc lại rằng:

Tôi cũng vì hai thầy Tam Bộ Nhất Bái, đi ba bước lạy một lạy mà nói Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành. Nhưng cho đến hôm nay, dù họ đã ngừng Tam Bộ Nhất Bái rồi mà họ vẫn chưa thực hành được bao nhiêu. Tại Vạn Phật Thành, tất cả mọi người đều nói về Lục Đại Tông Chỉ nầy. Ai có thể thực hành theo một cách đầy đủ thì người đó sẽ ra khỏi tam giới, sẽ thành Phật. Nếu tự mình không thể thực hành theo, mình cũng không nên oán trách người khác đã không giúp đỡ mình. Chỗ hiểu biết của tôi là ở Lục Đại Tông Chỉ nầy. Bất luận làm việc gì, nếu quý vị có thể giữ đúng theo Lục Đại Tông Chỉ thì quý vị sẽ không tạo nghiệp đâu. Đó là điều kiện tối cơ bản để thành Phật. Nếu chúng ta có thể làm được thì thế giới sẽ được thái bình. Khi người và người không có sự tranh giành với nhau, thế giới nầy làm sao mà không hòa bình cho được. Giữa người và người không có sự tham lam, như tôi không muốn những gì của quý vị, cũng chẳng tham các tài vật không chánh đáng, tức lúc đó mọi người sẽ cùng nhau chung sống trong hòa bình. Một khi mọi người đều không tham, không cầu, không tranh, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ, thì thế giới tự nhiên sẽ hòa bình và vĩnh viễn sẽ không có sự phân tranh. Quý vị là những người học Phật, trước tiên hãy nên nhận thức rõ ràng về những điều kiện cơ bản nầy. Như vậy đối với việc học Phật, quý vị mới được nhiều lợi ích lớn lao.
Giảng ngày 13 tháng 6 năm 1987 (Nguồn: Giảng về lục đại tông chỉ - HT Tuyên Hóa)

+ Đại công vô tư: Nghĩa cạn cợt là không ích kỷ, không tự lợi, không có dục niệm ham muốn, đã thoát được những mối quan hệ ngũ dục "Tài, sắc, danh, thực, thùy" và không tham, không ái..... (HT Tuyên Hóa Khai thị)

+ Lục đại tông chỉ: (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 121 - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Lục đại tông chỉ tức cũng tương ứng ngũ giới: Xem tại đây

+ Mâu thuẫn phát sinh theo Quy luật thời gian: ..... Các nhà nghiên cứu các sách của Tôi và bộ Giáo Lý Bí Nhiệm phải nhớ rằng bất cứ các mâu thuẩn nào có thể xuất hiện đều chỉ là mâu thuẩn trong Thời Gian, và rằng khi yếu tố này được hiểu một cách thích đáng và nhà nghiên cứu biết chu kỳ đặc biệt nào mà tài liệu sẽ được áp dụng thì các thiếu chính xác bề ngoài này sẽ biến mất......(Trích tác phẩm: Luận về 7 cung - Tập III - Chiêm tinh học; Chương III - Phần Khoa học về tam Giác lực, trang sách in 554/513)

+ Ba Thập Giá ( 3 Thể Thức; 3 Phẩm tính; 3 Tam nguyên; 3 Phương Thức): Dựa trên bộ ba ý chí, ham muốn và hoạt động (ý chí hoặc động lực, mong muốn hoặc ham muốn, hoạt động hoặc khả năng thích ứng); (Xem: Chiêm THNM - Thể Thức, Phẩm tính)
+ Ba Thập Giá: Khả Biến/ Chung/ Khả chuyển - Cố Định - Cơ Bản/ Chủ yếu/ Chính yếu/ Cốt lõi (Xem: GQ2.1 - Giới thiệu chiêm tinh)
 + Ba Phương Thức: Mô tả cách thức chúng ta hoạt động, phẩm chất vật lý của các Cung. – Chúng thiết lập các trục và thập giá (chữ thập) trong lá số – – Các vấn đề được thực thi qua góc hợp đối nghịch và vuông góc (góc hợp cứng) – – Tất cả chúng ta đều có 12 cung, một số cung được nhấn mạnh hơn các cung khác
1. Các Cung Khả biến có tính thích nghi, linh hoạt, và phục vụ (Song TửXử NữNhân Mã và Song Ngư) – Nhưng cũng có thể quá bất nhất – Về mặt nội môn chúng giúp phát triển sự sống sắc tướng thông qua kinh nghiệm
2. Các Cung Cố định có tính vững vàng, bướng bỉnh, và quyết (Kim NgưuSư TửHổ Cáp và Bảo Bình) – Nhưng cũng có thể quá cứng nhắc – Về mặt bí truyền chúng phát triển linh hồn thông qua khủng hoảng và thử thách
3. Các Cung Chủ yếu/ Chính: Có tính mạnh mẽ, khởi xướng, và quan trọng (Bạch DươngCự GiảiThiên Bình và Ma Kết) – Nhưng có thể thiếu sự kiên trì – Về mặt bí truyền chúng thể hiện hoạt động có định hướng, được kiểm soát bởi linh hồn
+ Ba Thập Giá của vòng Hoàng đạo phản ánh Tam Nguyên được các tôn giáo công nhận ( Shiva, Vishnu, Brahma), được xem qua các khía cạnh của cuộc sống, diễn dịch thành sinh (ý chí), có, cho, giữ, phát triển (mong muốn), và làm (hoạt động) (Nguồn: Chiêm THNM 17);
+ Ba Thập Giá: Theo Tâm thức phát triển từ thấp đến cao của 12 Cung Hoàng Đạo qua các Kỳ công là: (Khả Biến - Cố Định - Cơ Bản); Xem: GQ2.1-Giới thiệu Chiêm TH);
- Ba Thập giá đều là các dòng năng lượng bắt chéo nhau (CTHNM, 290)
- Mỗi Thấp giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (CTHNM, 380)
- Hành tinh quan trọng ứng thập giá: TG Cố định - Saturn;  TG Biến đổi - Mercury   TG Cơ bản - Jupiter (CTHNM, 396)
Xem thêm: Tổng hợp về Ba Thập Giá;     (Xem nguồn)  và   CTHNM 4;
Xem thêm: Chiêm THNM 17)

+ d) Phương thức học giỏi: “Ba Trong, Ba trên”
Vùng cạnh Thôn Ngài, có một học sinh họ Đường mười bốn tuổi, thân thể yếu ớt, thường hay bệnh hoạn, lại rất ngu độn, học chi rồi cũng quên hết. Tuy cha mẹ, Thầy cô giáo bao lần đốc thúc nghiêm khắc dạy dỗ nhưng chẳng được kết quả gì. Chính bản thân em cũng phiền não về sự ngu si của mình.
Khi ấy, em thường nghe người trong Thôn kể về sự tích của Ngài, nên có ý định đến xem vị cao Tăng này có thể giúp được em không? Ngày nọ, em hẹn với mười lăm bạn đồng học đến lạy Ngài, cầu xin Quy y và khẩn cầu Ngài từ bi chỉ dạy làm thế nào khai mở trí tuệ, thuộc bài dễ dàng, và nhớ dai hơn?
Ngài bảo chúng:
- Muốn học giỏi, phải theo phương pháp Ba trong, ba trên. Ba trong là khi học bài phải đặt vào ba chỗ:
1) trong tâm,
2) trong miệng,
3) trong mắt.
Tức là dùng mắt xem bài, dùng miệng đọc bài, và dùng tâm để tư duy bài học.
Ba trên nghĩa là phải học luôn luôn:
1) trên đường,
2) trên gối,
3) trên cầu vệ sinh.
Lúc đi trên đường thường nên suy gẩm, nhớ lại bài học mà thầy cô vừa dạy, về nhà, lúc lên giường, trước khi nhắm mắt ngủ, phải đọc qua một lần những bài vừa học ở Trường, và lúc ngồi trên cầu vệ sinh đừng để uổng phí thời giờ nghĩ viễn vong mà nên chuyên tâm, nhớ lại những gì mình học vừa qua.
- Khi học bài phải để hết cả tâm trí vào bài vở và chỉ thấy có quyển sách thôi, nếu có ai thổi kèn bên tai các con, các con cũng không nghe. Nếu có những màu sắc sáng chói, lộng lẫy chiếu trước mắt, các con cũng không thấy. Các con nếu cứ thế mà chuyên tâm nhất ý, thì không việc gì mà không đạt được, huống chi nói về việc học thuộc bài?
Bọn học trò nghe qua hiểu rõ, và ghi khắc lời dạy vào lòng. Sau khi trở về, chúng y theo lời dạy của Ngài, quả nhiên trí tuệ khai sáng. Từ học sinh bình thường, chúng trở thành xuất sắc, thông minh. Cha mẹ và Thầy Cô giáo của các em đều không khỏi kinh ngạc. Chuyện truyền ra xa, học sinh từ khắp nơi không ngừng tìm đến Ngài xin Quy y và cầu Ngài dạy dỗ.(Nguồn: Tiểu sử HT Tuyên Hóa - Mục 17)

+ Đọc Kinh Chú phát triển trí tuệ:
Tụng kinh được lợi ích gì ? "Tụng kinh không được lợi ích gì cả, chỉ mất thời gian, tốn sức thôi. Tụng bộ kinh này từ đầu cho đến cuối tốn khí lực, thời gian, tinh thần. Sao lại cho là có ích lợi ?"
Này chư vị cư sĩ ! Đừng để tâm vô minh che lấp. Chư vị đừng tìm cầu lợi ích. Càng tìm cầu thì càng không chân thật. Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng (nếu còn có tướng thì đều là hư giả cả). Nếu có hình có tướng mà chư vị có thể thấy được thì không phải là lợi ích chân thật. Tại sao lại không thấy được ích lợi ? Chư vị tụng kinh một lần thì tự tánh được rửa sạch một lần. Như khi chư vị tụng kinh Kim Cang, tụng qua một lần thì hiểu rõ ý nghĩa của kinh đôi chút. Tụng hai lần thì hiểu thêm nữa. Tụng ba lần thì lại càng hiểu rõ thêm. Tụng kinh khiến trí huệ tự tánh càng gia tăng. Nhưng khi trí huệ gia tăng thì chư vị không thể thấy, chỉ tự cảm giác thôi. Thế nên, lợi ích của sự tụng kinh không thể nói hết được.
Thế nên, tụng kinh tức là hộ giúp cho tự tánh mình. Hộ giúp việc gì ? Tức là hộ giúp khai mở trí huệ. Tụng kinh Kim Cang thì trí huệ được khai mở. Tụng tâm kinh cũng khai được trí huệ. Thế nên, chư vị bảo tụng kinh không có lợi ích nhưng kỳ thật sự lợi ích này rất lớn. Chư vị không thể thấy được lợi ích thì mới chân thật là lợi ích. Nếu chư vị thấy được lợi ích thì đó chỉ thấy ngoài da thôi. Đó là ý nghĩa của sự tụng kinh. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Sách Dịch học: Ta biết rút lại mà xem Phân-Sao ở Nguyên-Hội, mà sớm cái nấm, con ve sầu làm Vật đó, đã thực xem thấy vậy, cái lớn thời lại lấy 500 năm, 8000 năm để đương với số 2 của Xuân Thu bốn mùa, thời năm rộng mà lớn vậy. Trang tử ngụ ý vào lời nói, thời là lược số lẽ của Dịch, còn Thiệu ta nói thẳng, đây là phép của Dịch. Ngoại thị phần nhiều sùng Trang, kẻ sùng Trang lòng đi chơi tiêu diêu, còn kẻ tôn Thiệu ta thời Đạo biết hòa dục, lời nói không cứ nhỏ to mà đều chuẩn ở Đạo. Ở họ Trình, lời nói muôn vật yên lặng xem, cùng với Ta xem Vật cùng Thú, lấy sự xem Vật ở Hoàng cực, xem âm dương tiêu trưởng chuẩn ở Dịch. Xem trị loạn xưa nay, chuẩn ở sách Xuân Thu. Xem suốt lịch số đạo, đức, công, lực, chuẩn ở sách Kinh Thư. Còn luật, lữ, thanh, âm, xướng, họa thì đều chuẩn ở sách Kinh Thi. Gồm 4 kinh mà hợp làm 12 quyển, trong đó lấy kinh Thế minh Đạo làm tông chỉ tính học. (Nguồn: Hoàng Cực Kinh Thế - Thiệu Khang Tiết)

+ Phật Pháp: Phật pháp là pháp giải thoát lìa thế gian. Pháp lìa thế gian là pháp không đi ngược lại với cái biết, nhưng phải dựa trên cái biết và vượt trên mọi cái biết bằng một chánh pháp.
- Là Pháp lìa ngã vượt ra khỏi Nhân, Ngã, Thiện, Ác, Sanh, Tử. (vô ngã vô nhân, phi thiện ác, liểu sanh tử). Và dĩ nhiên dựa vào thế gian để chế ngự bằng pháp lìa ngã, sống với thế gian mà không hoà nhập với thế gian. (Nguồn)

+ Pháp Thế Gian và Xuất Thế Gian: Nhà Phật thường nói: “Phật pháp ở thế gian không phá hoại pháp thế gian”- Thế gian pháp với Pháp xuất thế đều không chướng ngại nhau; (Nguồn Kinh Thập thiện - Tập 37 - PS Tịnh Không giảng)

* Phật pháp là thế gian pháp, cũng là pháp xuất thế. Pháp xuất thế không rời pháp thế gian. Pháp Bảo Đàn Kinh có nói "Phật pháp tại thế gian - Không lìa thế gian giác - Lìa thế gian cầu bồ đề - Ví như tìm sừng thỏ". Cho nên ở thế gian có người tại gia, người xuất gia ... (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Việc nghiên cứu về 7 cung khiến cho tính nhị nguyên của con người được giải quyết, với sự thông tuệ lớn lao hơn (EP 119/120)
Khi bản chất thực sự của bảy cung được hiểu biết, và khi tác động của chúng lên nhân loại trong việc thể hiện bảy loại người cũng được thông hiểu, bấy giờ chúng ta sẽ tiếp cận chủ đề về tính nhị nguyên của con người với trí thông tuệ lớn lao hơn. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn bản chất của các mãnh lực vốn cấu thành hết cái này đến cái khác trong những nhị nguyên này. Đây là khoa học bí truyền thực sự.
Khoa học về bảy tính chất, hay cung, và ảnh hưởng của chúng trên vô số hình tướng mà chúng uốn nắn và tiếp sinh lực, là cách tiếp cận mới sẽ đến, cùng với phương pháp đúng đắn về việc đào tạo và phát triển gia đình nhân loại.
- Khoa học công truyền hiện đại biết nhiều về hình tướng bên ngoài, hay khía cạnh vật chất, và bản chất điện của nó.
- Khoa học bí truyền biết nhiều về bản chất của các năng lượng và những tính chất chủ quan vốn nhuốm màu và quy định hình tướng.
* Khi hai kiến thức này được mang lại với nhau một cách thông minh, chúng ta sẽ phát triển một khoa tâm lý chân thật hơn và chính xác hơn, và một khoa học mới về văn hóa nhân loại. Lúc bấy giờ, công việc của con người đang hợp nhất – con người, là thực thể tâm linh, và con người, là linh hồn điều khiển – sẽ tiến nhanh về phía trước. Một kiến thức về các cung cùng với các khuynh hướng và năng lượng của chúng sẽ mang nhiều sự giác ngộ cho những người phụng sự trong lĩnh vực của những khoa học khác nhau …(Trích tài liệu tóm lược Tâm lý học nội môn - Khóa GQ - Trường MF)

+ Liệu những kiến thức khoa học của phương Tây về sắc tướng, và minh triết phương Đông được tích lũy và thừa hưởng về bản chất của Linh Hồn có thể được kết hợp lại cùng với nhau một cách thông minh để cho biểu đạt hoàn hảo của Linh Hồn có thể được tạo ra qua trung gian của cơ chế đó? Liệu vật chất có thể tiến lên hướng đến tâm trí và Linh Hồn và Tinh Thần - hãy gọi nó bằng tên nào bạn muốn - và liệu Tinh Thần có thể, hỗ trợ sự thúc giục tiến lên đó, hoàn thiện phương tiện mà thông qua đó nó thể hiện, và vì thế chiếu sáng rạng rỡ hơn? (SAM, 29)

+ Nghiên cứu học hỏi: Có ba nhóm sáchba loại người nghiên cứu và học hỏi trong đó (CTHNM 17):
1. Sách về Sự Sống – Các Điểm Đạo Đồ ‒ 12 chòm sao.
2. Sách về Minh Triết – Các Đệ Tử ‒ 12 hành tinh.
3. Sách về Hình Hài hay về Sự Biểu Lộ ‒ Nhân Loại 12 Huyền Giai Sáng Tạo (12 Creative Hierarchies).
+ Nghiên cứu kiến thức huyền môn, các bạn cần nhớ 2 điều:
1- Các bạn phải kiểm soát (Chế ngự) các sức mạnh tinh linh: Sau này, sẽ có tiết lộ các nghi thức và nghi lễ, để chúng ta có thể dùng tiếp xúc với nhiều loại tinh linh khác nhau và chế ngự chúng. Cung Nghi lễ giáng lâm trong thời đại hiện nay giúp thực hiện dễ dàng hơn.
- Các tinh linh của lửa, các thủy tinh và các tinh linh thấp kém hơn đều có thể được chế ngự qua các nghi thức. Nghi thức này gồm ba loại:
a- Nghi thức bảo vệ, để các bạn tự hộ thân.
b- Nghi thức kêu gọi, để kêu gọi các tinh linh và làm chúng xuất hiện. [176]
c- Nghi thức kiểm soát và điều khiển các tinh linh, khi đã triệu tập chúng lại.
2- Các bạn phải hợp tác với các thiên thần: Đối với các vị thiên thần thì các bạn sử dụng trạng thái minh triết hay bác ái, trạng thái thứ hai của Thượng Đế, là phương diện kiến tạo. Nhờ tình thương và ước vọng mạnh mẽ mà các bạn có thể đạt đến họ, và bước đầu (vì các bạn cũng đang ở trên con đường tiến hóa thăng thượng như họ) là tiếp xúc với họ. Bởi vì trong tương lai các bạn và họ phải cộng tác để hướng dẫn các mãnh lực tinh linh và để trợ giúp nhân loại. Thật không an toàn chút nào cho nhân loại, những con người khờ dại đáng thương, khi họ tìm cách tiếp xúc với các mãnh lực tiến hóa giáng hạ mà chưa được nối kết với các thiên thần nhờ sự tinh khiết trong đức hạnh và sự cao thượng của tâm hồn. (CTHNM, 175)

+ Thắng Nghĩa: Đức Phật muốn xiễn dương một chân lý mới mà các vị A la hán chưa thấu suốt. Thắng nghĩa còn được hiễu là liễu nghĩa. Dựa theo Thành Duy Thức luận, tất cả lời Phật dạy đều là thắng nghĩa, tuy nhiên trong các thắng nghĩa cũng có cao có thấp và được chia ra làm 4 loại :
1) Thế gian thắng nghĩa là phân tích ra 5 uẩn, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới, 7 đại
2) Đạo lý thắng nghĩa dạy về Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
3) Chứng đắc thắng nghĩa dạy về Nhị Không Chân Như nghĩa là phá trừ chấp ngã chấp pháp mà chứng được chân như.
4) Thắng nghĩa thắng nghĩa dạy về Nhất chân pháp giới tức là Đệ nhất nghĩa đế mà Đức Phật đang chỉ dạy trong đoạn kinh này. (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)

+ Các Pháp: Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật:
- Thế nào gọi là Phật thuyết hết thảy các phápPhật tùy cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi?
Phật đáp:
- Phật theo căn tính của chúng sinh và tùy thời cơ mà thuyết các pháp.
Sau này các đệ tử kết tập pháp tạng sẽ chia ra từng bộ loại một.
Khi Phật thành đạo, vì các đệ tử mà nói ra giới luật, có giới khinh giới trọng, hữu tàn và vô tàn, kết tập thành Luật Tạng.
Khi Như Lai nói về nhân quả, tội phúc, các món ràng buộc, phiền não và các nghiệp thân, khẩu, ý thì kết thành Luận Tạng.
Như Lai vì trời, người, tùy thời có thuyết pháp để khuyên họ tu tập, nói ra bộ Tăng Nhất A Hàm.
Sau lại vì những chúng sinh thông minh, nói các pháp cao sâu, gọi là Trung A Hàm, để cho những người có lợi căn theo đó mà tu tập.
Sau nữa, nói các phép tọa thiền cho những người tu thiền định học tập, nên mới thành bộ Tạp A Hàm.
Sau hết, vì phá trừ tà kiến, ngoại đạo mà nói ra bộ Trường A Hàm.
Tất cả bốn loại đó, sau kết tập thành Kinh Tạng. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân - Phẩm Ưu Ba Ly thứ tám)

+ Tương ứng của chu kỳ sinh vượng: Rất quan trọng, quyết định thành bại của công việc
I- Với con người: Với Vượng Suy - Cát hung về Tài sản, tổn hại bên ngoài dễ dàng phòng bị, tổn hại bên trong thì khó. Nếu như oan gia trái chủ đầu thai đến trong nhà bạn, làm con cái của bạn, trễ hơn một đời là làm cháu của bạn(là phá gia chi tử), thì không thể phòng bị. Hiện tại bạn đầy đủ tiền của, vẫn chưa tán gia là nhân duyên phước đức của bạn, thông thường người thế gian chúng ta gọi là "hiện tại bạn đang may mắn". Khi bạn đang hưng vượng, những oan gia trái chủ này ở bên cạnh bạn không dám động, thế nhưng vận mạng cũng sẽ suy, không thể nào giữ được mãi mãi hưng vương, đến lúc suy thì phải làm sao? Không cần nói là người thế gian, ngay Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không ngoại lệ.
II- Với Phật pháp: Thời Mạt Phát - Phật Pháp Cũng Bị Phá Hoại. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có oan gia trái chủ, oan gia đầu hiệu là Ma Vương Ba Tuần. Khi Phật pháp đang thạnh nhất, Ma Ba Tuần đến hộ pháp cho Thích Ca Mâu Ni Phật, họ ở nơi đó chờ cơ hội. Ba Tuần đã từng nói với Thế Tôn, họ luôn là muốn tìm phương pháp để hủy diệt Phật pháp. Phật nói với họ, tất cả pháp mà Phật nói ra là pháp thuần chánh, là từ trong tự tánh mà lưu xuất ra, bất cứ sức mạnh nào đều không thể hoại Phật pháp. Ba Tuần nói:" Ta đợi đến thời kỳ mạt pháp của Thế Tôn ", chánh pháp họ không thể phá hoại, tượng pháp họ cũng không thể phá hoại, đến thời kỳ mạt pháp, họ nói: "Ta sẽ cho Ma tử, Ma tôn của ta, để con cháu của ta thảy đều xuất gia, khoát lên mình Ca-sa, hiện tướng tỳ kheo để phá hoại Phật pháp”. Thích Ca Mâu Ni Phật nghe câu nói này rồi không nói câu nào, rơi nước mắt. Trong kinh điển có ghi chép: "Chỉ có trùng sư tử, mới ăn được thịt sư tử". Phật pháp như vậy, thế pháp cũng như vậy, làm thế nào có thể bảo toàn? Đời đời kiếp kiếp tích lũy công đức mới có thể bảo toàn, thời đại nào bỏ đi đức hạnh, đi con đường tranh lợi phóng túng thì thời đại đó hủy diệt.
III- Với Thế giới: 

Xem thêm: Tổng hợp về chu kỳ

+ Bảo kinh thủ. 42 Thủ nhãn Ấn pháp Chú đại Bi
Đa văn đệ nhất thuộc A Nan

Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí tuệ thao thao như dũng tuyền.
Phiên dịch
Nghe nhiều bậc nhất chính A Nan
Học rộng nhớ hay Khổng Nhan Uyên
Đọc tụng đại thừa sâu bát nhã
Như dòng suối cuộn trí mông mênh. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)

+ Mai mối trong hôn nhân: Đến khi Khổng Tử san định lại Lục thư: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. Từ đó đến nay có người làm môi giới, mà công việc của họ là chọn người nam người nữ nào hợp nhau. Nếu họ cùng thích hợp tuổi tác, hình dáng, tính tình, họ sẽ giới thiệu “Người phụ nữ trẻ đó rất có đức hạnh.”, “Cậu học trò kia rất thông minh.” Khi lời giới thiệu được công nhận, tức mọi việc hôn nhân xem như được tiến hành. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)

 

+ Phật chia người vợ ra thành 7 loại:
1. Bất cứ người vợ nào có tâm hiểm độc, hai lòng, không sống chung thủy, một dâm nữ ham muốn thú vui xác thịt với người khác, bỏ rơi chồng mình, quan hệ mờ ám với người đàn ông khác chỉ vì choáng ngợp trước sự giàu có hay vẻ ngoại hình, luôn khinh bỉ chồng, tính tình hiếu chiến.
Người vợ này không lắng nghe chồng, không trung thành, không biết giữ gìn tài sản cho chồng, khinh khi ông chồng. Đây gọi là làm vợ như kẻ sát nhân. Hạng vợ xấu ác - Đê tiện.
2. Người vợ không chung sức vun vén chăm sóc kinh tế gia đình, lại hay tiêu sài hoang phí của cải tài vật, dù là ít do chồng làm ăn kiếm được, không vâng lời và không trung thành với chồng. Đây là làm vợ như kẻ ăn trộm. Hạng vợ xấu ác.
3. Người vợ ỷ lại, lười biếng, không lời từ ái, không chút nhu hòa, phát ngôn thô tháo, thích lấn lướt chồng, không muốn làm gì hết, lại tham ăn, thô bạo, thích nói lời ác, vợ thường hành xử độc đoán, tàn nhẫn, đàn áp, hống hách, cứng đầu, không trung thành, không gìn giữ tài sản của chồng. Nói ra những lời cay đắng, những câu tàn nhẫn, những lời khó chịu, và thô lỗ, Người đàn bà mà bắt nạt người đã cấp dưỡng cho mình. Đây là làm Vợ như một chủ nhân - Vợ Độc Đoán. Hạng vợ xấu xa.
4. Người vợ có lòng thương yêu, lo lắng, chở che, giúp chồng hết mực; có cách giữ gìn, làm giàu tài sản của chồng tạo ra, thường trìu mến, thân ái bảo vệ chồng như mẹ bảo vệ và chăm con đứa con trai. Quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của chồng, trung thành, hết lòng vì chồng. Đây là làm vợ như mẹ. Hạng vợ cát tường.
5. Người vợ thùy mị, đoan trang, khiêm tốn, nhún nhường, hiểu và thuận phục đối với chồng mình như với anh ruột trong một gia đình, kính trọng chồng, như em gái đối với anh cả, sống thuận theo ý chồng. Vợ xem chồng như người anh lớn của mình. Bảo vệ tài sản và trung thành với chồng. Ðó là làm vợ như em út. Hạng vợ cát tường.
6. Người vợ hiểu biết, thông cảm, niềm nở, vui vẻ, hòa thuận với chồng như thể hội ngộ một người bạn bè từ lâu mới gặp, sung sướng khi thấy chồng, như gặp người bạn cũ sau bao năm xa cách, người có đạo đức, sống thanh tịnh. Người vợ này khiêm hạ, dễ bảo, trung thành và biết bảo vệ tài sản của chồng. Ðó là làm vợ như bạn bè. Hạng vợ cát tường.
7. Người vợ tính tình mềm mỏng, không chút nóng nảy, không giận, hờn dỗi; dù khi bị chồng đối xử không đẹp vẫn khéo nhường nhịn, không hề lỗ mãng, lớn tiếng chửi lại; biết tùy thuận chồng, khéo léo khuyên răn, thuyết phục chồng mình, thường vẫn bình tĩnh, chịu đựng mọi hành vi của chồng với lòng từ mẫn, tâm không biết giận. Không than phiền, chịu đựng những thiếu sót của chồng, nếu có, một cách âm thầm, dễ bảo, khiêm hạ, trung thành và bảo vệ tài sản của chồng. Là Vợ Tận Tụy - Như người phục vụ/ Người hầu. Hạng vợ cát tường nhất.

Đức Phật nói: Ta đã nói đến ba bà vợ sau đây: bà vợ giống như "Kẻ Giết Người", Bà vợ giống như "Người Ăn Trộm", và bà vợ giống như "Người Chủ nhân/ Độc Tài", Khi ba bà vợ nầy chết đi, họ sẽ bị đọa vào cõi địa ngục sâu thẳm, và tăm tối.
Nhưng ngược lại, bốn bà vợ sau đây: bà vợ giống như "Bà Mẹ", bà vợ giống như "Cô Em Gái", bà vợ giống như "Người Bạn", Và bà vợ giống như "Người Hầu Hạ", bởi vì họ luôn luôn sống vững vàng, trong vòng đạo đức, nên bốn bà vợ nầy khi chết đi, họ sẽ được tái sinh vào cõi trời. (
Nguồn: Về bảy loại vợ; hoặc  Bảy loại vợ - Kinh Tăng Tri Bộ)

+ Bốn loại sống chung (KinhTăng chi I):
- Đê tiện nam sống chung với đê tiện nữ.
- Đê tiện nam sống chung với Thiện nữ.
- Thiện nam sống chung với đê tiện nữ.
- Thiện nam sống chung với Thiện nữ” (Nguồn: Kinh Thiện Sanh - Đạo Làm Người - Vợ Chồng)

+ Kết duyên lành - Kết ác duyên:
2. Ái ngữ : Tức là lời nói thái độ giống như cha mẹ nói với con cái, không những nhu hòa mà còn từ bi, đối với chúng sinh cũng lại như thế, khiến cho chúng sinh có hảo cảm. Do đó :
‘’ Lời hay nửa câu ấm suốt ba mùa Đông.’’
Lời nói là biểu đạt sự cảm tình. Biết dùng người thì kết duyên lành khắp nơi, không biết dùng người thì kết duyên ác kháp nơi. Cho nên người tu đạo phải rộng kết duyên lành.
Có câu chyện như vầy, lúc Đức Phật còn tại thế, Đức Phật và hai vị Tôn giả Ca Diếp và A Nan đi đến xứ nọ thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Gặp lúc mùa hạ thời tiết nóng bức, mồ hôi chảy nhễ nhại, bèn đến nghỉ dưới gốc cây. Lúc bấy giờ Đức Phật thấy một phụ nữ đến giếng gánh nước bèn sai Tôn giả A Nan đi xin nước. A Nan dến bên giếng, người thiếu phu nổi giận, không những không cho nước, mà còn mắng chửi Tôn giả A Nan. Tôn giả A Nan im lặng cúi đầu trở về chỗ Phật. Phật sai Tôn giả Ca Diếp đến xin nước, Tôn giả Ca Diếp đến bên giếng, người phụ nữ cười hỏi : ‘’ Thầy đến đây làm gì ? ‘’ Tôn giả Ca Diếp nói rõ ý của mình đến, thì người phụ nữ này múc đầy hai bầu nước, một bầu cúng dường Phật, một bầu cúng dường ngài Ca Diếp. Tôn giả A Nan thấy như vậy, trong tâm nghi vấn, bèn hỏi Phật là nhân duyên gì ? Phật bèn nói ra một đoạn nhân duyên trong vô lượng kiếp. Lúc đó người phụ nữ này là con chuột, vì quan hệ nghiệp chướng, chuột bị xe cáng chết ở giữa đường, thân thể đã hôi thối. Tôn giả A Nan là một vị Tỳ kheo đi ngang qua, ngửi thấy mùi chuột thối muốn mửa ra, tâm nghĩ lão chuột đáng chết, rồi bịt mũi đi qua. Đằng xa cũng có một Tỳ kheo đi đến, đó là tiền thân Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả phát tâm từ bi, thấy chuột chết thật đáng thương xót, mới mai táng xác chuột dưới đất, rồi vì nó mà niệm bảy lần Chú Vãng Sinh, cho nên nó mới có duyên sinh làm người. Đó là nhân quả kết duyên lành hoặc kết duyên ác. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)

+ TRÌ TỤNG - TRÌ CHÚ - TRÌ NIỆM CHÚ
+ Thọ Trì: Thọ Là Nhận lấy, vui thích và cung kính nhận lấy. Trì: Là gìn giữ duy trì, y theo mà làm với Tâm chân thành, cung kính với tín tâm không chút nghi ngờ.
+ Trì tụng Chú Đại Bi: Trì là không dùng miệng lưỡi đọc, nhẩm - Lưỡi không động gọi là Trì. Thực hành Trì Chú hiệu nghiệm hơn nhiều là đọc tụng bằng miệng lưỡi. Xem (Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi - Phút 30 Clip)
+ Khi trì chú, niệm Phật thì nhất định là nên quán tưởng phải không (Câu Hỏi 246) ?
Đáp: Nếu quý vị quán tưởng thì có thể bớt được một chút vọng tưởng. Không quán tưởng thì vọng tưởng nhiều thêm một chút.
- Chữa Bệnh Nhiệm mầu: Câu Hỏi 15: Ông nội con bị bệnh nặng, thỉnh Hòa Thượng… chữa. Đáp: Chỉ có Bồ Tát Quán Thế Âm mới có thể sửa đổi được bộ sổ sanh tử mà thôi.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Trì tụng Mật Chú: Mật Chú có nhiều quyền lực trong việc chữa trị bệnh tật khi tụng bằng tâm chân thành, tập trung sâu sắc, và ý định chính đáng. Chú Đại Bi và Chú Phật Dược là hai ví dụ như vậy. Khi tụng, mỗi Mật Chú tạo ra số lượng công đức to tát và có tác dụng chữa bệnh và biến đổi tuyệt vời (Nguồn: Phật giáo với y học)
+ Tụng Chú không thành tiếng: HT Tuyên Hóa giảng giải về Tụng Chú không phát ra tiếng - Niệm trong Tâm Trí:
Trích đoạn trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật dạy A Nan về Tánh nghe và tiếng chuông: ..... Khi tiếng chuông hết ngân và Đức Phật hỏi như vậy, La-hầu-la biết việc mình phải làm tiếp theo; ông rất là thông minh. La-hầu-la nổi tiếng là người tu tập mật hạnh. Mọi người không biết là ông ta đang tu tập. Không ai biết hằng ngày ông thực hành công phu. Ông ta công phu như thế nào? Ông ta có thể nhập định vào mọi lúc, mọi nơi. Khi vào phòng tắm, ông ta cũng nhập định. Khi ăn, ông vẫn ăn nhưng ông đang ở trong định. Tâm ông không để vào thức ăn. Không ai biết được chuyện đó, thể nên ông được xem là người mật hạnh đệ nhất. Hãy lấy việc tụng Chú Thủ-lăng-nghiêm làm ví dụ, không ai thấy La-hầu-la trì tụng chú, nhưng ông ta có thể tụng thuộc lòng. Không ai biết ông học lúc nào, nhưng ông tụng làu làu. Vì La-hầu-la là đệ nhất tu tập mật hạnh,.........(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4, Chương V)
+ Tụng Trì Đúng Pháp - Y Pháp Thọ Trì: Kinh Văn Nghĩa: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thì lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên mình, như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát dạy tiếp: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp... ” Thứ “pháp” mà Quán Thế Âm Bồ-tát nói đến ở đây là pháp gì? Đó là pháp “Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn”—pháp môn Bốn Mươi Hai Bàn Tay! Quý vị phải biết rằng: Hiện tại tôi giảng Kinh Đại Bi bởi vì quý vị cần phải hiểu rõ mọi chỉ dẫn để có thể tu tập cho đúng pháp.
“Y pháp thọ trì” tức là tu tập và hành trì đúng theo những gì đã dạy trong pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, và đó không phải chỉ tụng làu làu một mách từ “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da. Nam Mô A Lị Da...” cho đến hết bài Chú Đại Bi là đủ. Không phải đơn thuần như thế! Cho nên, đối với pháp môn này, quý vị cần phải được “chân truyền,” tức là phải được chính thức và thật sự truyền dạy một cách đúng đắn thì mới được; bằng không, nếu không được chân truyền, mà chỉ toàn là nói suông và xem kinh nghĩa thôi, thì chẳng thể nào hiểu nổi! (Nguồn: Giảng Chú Đại Bi_HT Tuyên Hóa)
+ Trì Chú trước tiên phải theo Cánh tâm thành ý: Học Chú thì trước tiên cần phải chánh tâm, thành ý; tâm không chánh thì học chú gì cũng thành tà. Tâm chánh, học Chú mới có cảm ứng. Chánh tâm cũng chưa đủ, cần phải thành ý. "Thành" tức là lúc nào mình cũng hết sức chuyên chú, chuyên tâm, không xao lãng, không làm những chuyện cẩu thả, tắc trách. Ðược vậy thì mới có cảm ứng.
Nếu không "chánh tâm, thành ý," nếu trong lòng đầy dẫy tư tưởng sai lầm, làm hại kẻ khác, tức là mình làm chuyện của ma. Pháp của ma vương là hại người, không lợi ích cho ai cả.
Nếu thật sự muốn tu hành thì trong bất cứ trường hợp nào cũng không được làm hại kẻ khác. Phải nuôi tâm làm lợi chúng sinh; không được học Chú để hàng phục ma quỷ hoặc đi đấu với người khác.
Người theo Phật Giáo không có kẻ thù, không tìm người để trả thù. Ðối với kẻ cố ý hại mình, mình phải nhẫn nại, tu hạnh Nhẫn Nhục Ba-la-mật; không sinh tâm báo thù. Ðó là chỗ cao siêu, là ưu điểm của Phật Giáo mà các tôn giáo khác thiếu sót.
Tôn chỉ hết sức trọng yếu của Phật Giáo là: Nếu bạn là ma quỷ thì tôi tuyệt đối không làm tổn hại bạn, không sinh lòng đối kháng, mà ngược lại, sẽ tìm cách để nhiếp thọ bạn. Ðây là giáo nghĩa đặc biệt nhất của đạo Phật. Ðối với chúng sinh luôn phát tâm từ bi, không làm hại kẻ khác.
"Tụng trì, mặc niệm, thiểu ý ngôn." Câu chú "Yin two na" (Nhân đa la) dịch nghĩa là tụng trì, hoặc là mặc niệm, hoặc thiểu ý ngôn; tức là mình không cần nói nhiều, cũng không vọng tưởng nhiều, chuyên tâm thì linh, tán loạn thì không cảm ứng.
Thế nào là chuyên nhất? Tức là luôn luôn đừng sinh tâm làm hại chúng sinh. Nếu có tâm làm hại kẻ khác thì tương lai sẽ gặp chuyện hết sức nguy hiểm; bởi vì: "Ða hành bất nghĩa tất tự tệ." (Nếu luôn làm chuyện bất nghĩa, thì mình sẽ tự tiêu diệt mình.)
Mình hại kẻ khác tức là mình đã hại chính mình. Mình giết cha người, thì có kẻ chắc chắc sẽ giết cha mình; mình giết anh người thì sẽ có kẻ giết anh mình; đó là luật nhân quả. Là Phật tử thì cần phải làm lành lánh dữ. Nếu không tạo nhân ác, thì sẽ tránh được quả ác trong tương lai.
Khổng Tử nói rằng: "Ngôn tất trung tín, Hành tất đốc kính, Tuy man mạch chi bang, hành hỹ." (Lời nói chân thật, Hành động chắc thật, cung kính, thì dù ở nơi nguy hiểm cũng vẫn được an toàn.). Xem nguồn: Trì chú theo Chánh pháp và Thành ý.
+ Trì niệm mật chú: HT Tuyên Hóa giảng giải về Tụng Chú không phát ra tiếng - Niệm trong Tâm Trí:
Trích đoạn trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật dạy A Nan về Tánh nghe và tiếng chuông: ..... Khi tiếng chuông hết ngân và Đức Phật hỏi như vậy, La-hầu-la biết việc mình phải làm tiếp theo; ông rất là thông minh. La-hầu-la nổi tiếng là người tu tập mật hạnh. Mọi người không biết là ông ta đang tu tập. Không ai biết hằng ngày ông thực hành công phu. Ông ta công phu như thế nào? Ông ta có thể nhập định vào mọi lúc, mọi nơi. Khi vào phòng tắm, ông ta cũng nhập định. Khi ăn, ông vẫn ăn nhưng ông đang ở trong định. Tâm ông không để vào thức ăn. Không ai biết được chuyện đó, thể nên ông được xem là người mật hạnh đệ nhất. Hãy lấy việc tụng Chú Thủ-lăng-nghiêm làm ví dụ, không ai thấy La-hầu-la trì tụng chú, nhưng ông ta có thể tụng thuộc lòng. Không ai biết ông học lúc nào, nhưng ông tụng làu làu. Vì La-hầu-la là đệ nhất tu tập mật hạnh,.........(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ NL - Q.4, Chương V)
+ Thọ trì đọc tụng: Thọ trì” là tuân thủ lời giáo huấn của Phật trong kinh điển, y giáo phụng hành. “Đọc tụng”, là mỗi ngày ôn tập lời giáo huấn ấy, không thể quên được. (Nguồn: HT Tịnh Không giảng về giáo dục)

+ Tu Thập thiện: ... Cơ sở Thập thiện Nghiệp đạo là Cảm ứng thiên, cơ sở của Cảm ứng thiên là Đệ Tử Quy; Thập Thiện Nghiệp Đạo coi như đã xong thì hai điều ở trước không có gì để nói, vì Bồ Tát Địa Tạng đã giám định cho chúng ta, nên chúng ta mới có thể an ổn, mới có tín tâm, thì ra bây giờ là lúc thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ hay các Kinh Đại Thừa, Pháp tu Đại thừa. (Trang 64 - Kinh Chiêm Sát)

+ Thập Thiện: Bạn phải hiểu được “thiện nghiệp” này là thiện nghiệp của trời người. Người có được Thập thiện này là đã xa lìa và không còn bị đọa lạc ba đường ác. Vì họ vô tham, vô sân, vô si, họ lìa tham sân si rồi. Tham sân si là nghiệp nhân của ba đường ác. Phật yêu cầu chúng ta: “Ngày, đêm thường niệm thiện pháp (chính là chỉ thập thiện), tư duy thiện pháp, quan sát thiện pháp” (PS Tịnh Không_Kinh TTNĐ)

+ Mục tiêu Kinh Thập Thiện: Ở trong phương tiện, điều quan trọng nhất là “Từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”, kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo chính là giảng giải hai câu này (Tập 13, 14 trang 14)

+ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo - Mười Nghiệp: Ðức Phật dạy, có 10 hành động từ thân, khẩu, ý, rất nhiều người đời ưa thích thực hiện:
- Ba nghiệp từ thân, một là sát hại, hai là trộm cắp, ba là ngoại tình.
- Bốn nghiệp từ miệng, một là lừa dối, hai là đâm thọc, ba là lời ác, bốn là tán gẫu.
- Ba nghiệp từ ý, một là tham ái, hai là giận dữ, ba là si mê.
* Vì mười nghiệp ác, rất nhiều chúng sanh sống trong bất hạnh, khổ đau cho mình, gây họa cho người. Đến lúc qua đời, sanh vào cõi dữ. Những người có trí thấy rõ hậu quả của các nghiệp xấu nên nỗ lực tu, tinh tấn làm phúc, chuyển hóa thân tâm.- KINH PHÂN BIỆT NGHIỆP BÁO.
+ Mười nghiệp thiện là chỗ nương tựa - Đức Phật dậy: Ví như tất cả thành ấp, xóm làng đều nương nơi mặt đất mà được đứng vững. Tất cả cỏ thuốc, cây cối, rừng rậm cũng đều nương vào đất mà được sinh trưởng.
- Mười nghiệp thiện này cũng như thế, là chỗ nương tựa vững chắc cho hàng Trời người.

Tập 6 - 7: "Tất cả Pháp từ Tâm tưởng sanh" hay Thân người khó được nhưng rễ mất; Pháp còn phải xả, huống hồ phi pháp_ Y báo tùy theo chánh báo chuyển; Tâm là tinh thần, không phải vật chất (Chân tâm và Vọng tâm) - Sắc là vật chất; Đức Phật dậy. (MỜI XEM TÓM LƯỢC Ở ĐÂY)

Nguồn - Xem đầy đủ Kinh Thập thiện - PS Tịnh Không giảng

Kinh gốc Đức Phật nói Kinh Thập Thiện: Xem tại đây

+ Quỉ La Sát - Rakshasas: Còn gọi là Yêu ma, yêu quỷ, yêu tinh
+ Quỷ La sát: Thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Quỷ La-sát là loài quỷ ăn tinh khí của người, và đều là phái nữ, chuyên môn ăn tinh khí người ta. Nếu thuyền bị gió bão trôi giạt vào nước quỷ La-sát, chỉ cần trên thuyền có một người phát tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì tất cả người trên thuyền, cho đến trăm ngàn vạn ức chúng sanh, đều được thoát nạn La-sát. Do nhân duyên đó mà tên vị Bồ-tát này là Quán Thế Âm.......
+ Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ mà nhìn người huống lại làm hại đặng. Giả sử lại có người, hoặc có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thảy đều đứt rả, liền được giải thoát.
HT Tuyên Hóa giảng: Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên. Sao gọi là cõi nước tam thiên đại thiên? Nhân vì ba ngàn (thiên) nên gọi là cõi nước tam thiên đại thiên. Thế giới chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn: Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Ðông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. “Một” đây là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu. Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới. Vì có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới.
Nếu trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy cả quỷ Dạ-xoa cùng La-sát. Quỷ Dạ-xoa bao gồm: Phi hành dạ-xoa, Ðịa hành dạ-xoa và Không hành dạ-xoa. Quỷ Dạ-xoa chạy rất nhanh, hỏa tiễn bây giờ cũng chạy không kịp tốc độ của nó, vì thế nó còn có tên là Tốc tật quỷ hay Tiệp tật quỷ. La-sát là quỷ ăn tinh khí, nó chuyên môn ăn tinh khí của người. Muốn đến hại người. Loại quỷ Dạ-xoa, La-sát này chuyên môn hại người, đến đâu cũng tìm cách quấy rầy người. Như quý vị muốn phát tâm Bồ-đề, chúng nhất định không bao giờ thích, cố ý gây rắc rối cho quý vị, nghĩ ra mọi cách ngăn cản khiến quý vị không thể tu hành được rồi thối thất đạo tâm. Từ trước quý vị đã phát tâm Bồ-đề một cách mạnh mẽ, nhưng nó lại lẻn vào thân tâm quý vị làm cho quý vị tự nhiên khởi lên vọng tưởng: “Tu hành làm chi! Học Phật-pháp để làm gì! Thôi đừng nên học Phật-pháp nữa! Ði chỗ khác chơi, mọi việc đều tự do theo ý mình, thích nhảy đầm thì nhảy, thích nghe âm nhạc thì nghe. Còn học Phật ư! Cái này không được làm, cái kia không được làm, có biết bao cái không được làm! Lại không được xem hát, không được uống rượu, không được hút thuốc nữa, cả khối việc phải kiêng cử! Phật-pháp quả là càng học càng rắc rối!”. Ai có ý nghĩ đó tức là bị quỷ Dạ-xoa, La-sát đến xúi bẫy đó. Có người muốn xuất gia. Nó xui vị ấy nghĩ: “A, xuất gia cực lắm! Cả ngày làm việc quần quật, lại ăn không ngon, mặc không đẹp, cực khổ quá mức! Ði tu để làm gì?” Nghĩ thế rồi thối tâm đi. Lại có vị muốn làm Tỳ-kheo-ni, quỷ Dạ-xoa, La-sát sẽ đến giục vị ấy nghĩ: “Ối chào! Nên đi lấy chồng đi! Lấy chồng mỗi ngày có chồng bầu bạn, vừa lòng thích ý hơn.” Làm cho quý vị đừng phát tâm Bồ-đề nữa, chính là công việc của quỷ Dạ-xoa La-sát đấy. Chúng chuyên môn làm tổn hại đạo tâm Bồ-đề, phá hoại việc tu hành của người. Vì thế nói: “Muốn đến hại người.”
Nghe người xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho dù có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, La-sát muốn đến làm hại, gây phiền phức cho người. Nhưng một khi chúng nghe quý vị niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát” thì những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ để nhìn. Một khi quý vị niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên hào quang tỏa sáng, bọn quỷ ấy muốn nhìn quý vị cũng không nhìn thấy được. Vì chúng thấy quý vị có ánh sáng chói lòa như đèn điện, mở mắt không ra. Cho nên nói là: Còn không thể lấy mắt dữ tợn để nhìn. Huống lại làm hại đặng. Cả đến mắt cũng không thể mở thì làm sao gia hại được? Tự nhiên nó phải chạy xa thôi. Vì thế quý vị phải luôn luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ được Ngài bảo hộ cho.
Giả sử lại có người, là giả sử còn có một người. Hoặc có tội hoặc không tội. Không luận là có tội hay không. Bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân mình. Người có tội tất nhiên bị chính phủ bắt giữ, bị còng tay, chân mang gông. Người “có tội” là chỉ người phạm tội; còn người “không tội” là chỉ người bị oan uổng, bị vu cáo, bản thân không phạm phải tội lỗi mà bị chính phủ bắt giữ cầm tù trong ngục, tay mang còng, chân mang gông. Gông cùm xiềng xích là những hình cụ xử phạt mà tội nhân phải mang, nó dùng để trói buộc người. Nếu xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu ngay lúc đó người ấy có thể xưng niệm “Nam-mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.” Thì thảy đều đứt lìa. Những thứ hình cụ gông cùm xiềng xích này bèn tự nhiên bị gãy đứt. Liền được giải thoát. Tức thời được giải thoát ngay vì còng tự động đứt, gông tự nhiên mở.
Nói tóm lại, bất cứ hình cụ nào đang ở trên thân đều tự nhiên rơi xuống. Việc này tôi đã chứng kiến rất nhiều. Có lần đó, tôi ở chùa Nam Hoa, vào thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, tôi gặp một vị Sư bị quân Nhật bắt giam vào ngục, tay chân đều bị xiềng xích cả. Vị Sư ấy ở trong ngục suốt ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm miên mật không dứt. Vào một buổi chiều, bỗng nhiên những gông cùm trên thân Sư đều bị gãy đứt, cửa ngục cũng tự động mở ra nên trốn thoát được.

Hóa giải nạn: Quỷ thần - La sát - Rồng độc - Quỹ dữ - Ác thú
Hoặc gặp ác La-sát
Rồng độc các quỷ dữ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Thảy đều không dám hại.

Hoặc là quý vị đến nơi núi hoang rừng vắng, chỗ không có bóng người,gặp phải quỷ La-sát, rồng độc, hay các loài quỷ khác. Quỷ La sát hung dữ phi thường, giống như người Dao ở Trung Hoa chuyên môn ăn thịt người vậy.
Rồng độc cũng có thể hại người. Chúng thường chiếm cứ một vùng, hoặc trong ao hồ, hoặc ở sông lớn, hễ có người đi qua chỗ ở của chúng thì bị chúng phun nọc độc, trúng vào phải chết. Có thứ rồng độc lớn, thậm chí hớp một hơi có thể khiến cả thuyền và người đều chạy tuốt vào bụng, thật là lợi hại!
Còn quỷ, thì chẳng phải chỉ có một thứ mà có rất nhiều, như Ða tài quỷ, Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ v.v...
"Ða tài quỷ" như là các vị Thổ địa, Thành hoàng. Họ tuy đều là quỷ, nhưng là thủ lãnh của quỷ, cũng như Quỷ vương vậy.
"Thiểu tài quỷ" là quỷ nghèo, dù cho có tiền cũng có rất ít.
"Vô tài quỷ" thì thực sự là không có tiền của chi cả.
Vậy thì, quỷ mà còn dùng tiền sao? Thật ra quỷ không cần dùng tiền, nhưng do tập quán xấu cho nên bọn Ða tài quỷ khi cai quản những quỷ khác cũng tham ô. Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ cũng giống như người ta vậy, suốt ngày từ sáng tới tối đều mong muốn có thêm được tí tiền. Tuy không cần dùng tiền, nhưng vì bọn họ chấp trước thành thói quen, thành một thứ mê muội, cho nên mới ưa thích tiền. Tiền họ dùng là tiền giấy, ở Trung Hoa người ta thường đốt giấy tiền cho quỷ chính là muốn mua chuộc, lấy lòng bọn quỷ.

Nếu quý vị gặp những quỷ La-sát, rồng độc hoặc các thứ quỷ thần ấy, quý vị có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì những ác quỷ ấy tự nhiên trốn mất. Tại sao thế? Tại vì khi quý vị niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, trong miệng có phát ra ánh sáng, tất cả những loài quỷ đều sợ ánh sáng nên không thể làm hại quý vị được.

Hoặc ác thú vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Ðều vội vàng bỏ chạy.
Ác thú tức là lang sói, hổ, beo, những dã thú này chuyên môn ăn thịt người. Ở các núi của nước Mỹ không có hổ, nhưng ở Trung Hoa và Ấn Ðộ thì hổ rất nhiều. Lúc nhỏ, có lần tôi đi vào trong núi, đi 5, 6 ngày trời vào chỗ không có người ở, có gặp những ác thú ấy. Nhưng tôi rất lấy làm lạ là không biết tại sao chúng không ăn thịt tôi. Răng của ác thú bén nhọn như dao, móng vuốt cứng chắc như móc sắt. Ðương khi quý vị gặp những ác thú vây quanh như thế mà biết niệm ngay Bồ-tát Quán Thế Âm, thì bọn chúng chẳng những không dám làm hại quý vị mà còn bỏ chạy tức khắc. Tại sao lại bỏ chạy? Vì Bồ-tát Quán Thế Âm có sức cảm ứng linh thiêng (linh cảm) khiến cho bọn chúng một khi nhìn thấy quý vị, tự nhiên sanh lòng sợ hãi, lật đật trốn chạy xa.

Ngoan xà và phúc yết
Khí độc xông mịt mù
Nhờ sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi.
Ngoan xà là một thứ rắn độc, phần lớn màu đen. Phúc, ở Trung Hoa gọi là Diên xà (rắn mối), thường thấy ở trên diềm mái nhà. Thứ rắn này rất nhiều ở Thái Lan, thường xuất hiện vào buổi tối và ré lên, cũng không sợ người. Nó có bốn chân nhỏ, thường chạy tới chạy lui ở trên mái nhà.
Phúc xà là loại rắn rất độc. Yết tức là bò cạp, nếu ai bị nó đốt thì có thể trúng độc lập tức chết ngay. Bọn chúng đều có khí độc xông mịt mù, thật là độc dữ vô cùng! Thậm chí làm cho người mất mạng như chơi. Dù gặp phải những loại rắn độc như thế, nếu bọn chúng nghe tiếng quý vị niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát" thì sẽ đều tự động chạy trốn mất, không dám tác oai, tác quái nữa.

Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)

+ Phước báu phân Đẳng cấp Súc sinh - Ngạ quỷ - Thành Hoàng: Tu có phước báu, ... Bất luận ở đường nào, cái phước này theo quý vị, quý vị chắc chắn sẽ đạt được, vì thế đây gọi là phước báo. Phước báo của đường súc sinh, đây là cái mà chúng ta bình thường dễ dàng nhìn thấy nhất, thú cưng, thú cưng mà người ta nuôi có phước báo, người trong nhà đó đều hầu hạ chúng, đều yêu thích chúng, đúng là hưởng phước báo của chúng. Hơn nữa, có loại súc sinh rất thông minh, chúng hiểu được ý của người, có thể quan sát ngôn ngữ sắc mặt, đó là gì? Đó là pháp thí trước đây của chúng, chúng có thông minh trí tuệ, sức khoẻ trường thọ, quý vị xem ba loại phước báo chúng đều có. Đường ngạ quỷ cũng có, đường ngạ quỷ có phước có tuệ, trong quỷ đạo đi làm quỷ vương, trong quỷ đạo cũng có địa vị, giống như Thành Hoàng. Thành Hoàng bình thường, giống như huyện thị trưởng, Đô Thành Hoàng thì giống như tỉnh trưởng. Phía trên còn có Tổng giám Thành Hoàng, phạm vi mà họ cai quản rất rộng, có lúc quản những mấy tỉnh, còn có quản lý một khu vực, khu vực đó nếu như là một quốc gia nhỏ, thì họ quản lý rất nhiều quốc gia. Vì thế họ có phân chia cấp bậc, phước báo có khác nhau. Người tu phước, công đức dễ bị mất đi, phước báo không bị mất đi, bất luận quý vị đến đường nào cũng vẫn có phước báo. Rơi xuống địa ngục cũng có phước báo, trong địa ngục có phước báo thì chịu khổ nhẹ hơn một chút, họ phải chịu khổ, chỉ là nhẹ hơn người khác một chút, người không có phước báo, chịu khổ nhiều một chút. Quả thực khổ báo có khác nhau. Đây là “quả báo truy tuỳ, tương tùng bất xả, tuỳ kỳ nghiệp nhân, cảm đắc thiện ác chi báo”, đây đều nói về lục đạo. (Nguồn: Thiện ác biến hóa - HT Tịnh Không giảng)

+ Tu xa lìa tà dâm - Niệm Quán Thế Âm - Quỷ ăn tinh khí chánh xa:
- Quỉ La Sát - Rakshasas: Còn gọi là Yêu ma, yêu quỷ, yêu tinh, quỷ ăn tinh khí.
- Quỷ La sát: .... Khi gặp hóa bão tố, thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Quỷ La-sát là loài quỷ ăn tinh khí của người, và đều là phái nữ, chuyên môn ăn tinh khí người ta. Nếu thuyền bị gió bão trôi giạt vào nước quỷ La-sát, chỉ cần trên thuyền có một người phát tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì tất cả người trên thuyền, cho đến trăm ngàn vạn ức chúng sanh, đều được thoát nạn La-sát. Do nhân duyên đó mà tên vị Bồ-tát này là Quán Thế Âm.... 
- .... Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ mà nhìn người huống lại làm hại đặng. Giả sử lại có người, hoặc có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thảy đều đứt rả, liền được giải thoát.
HT Tuyên Hóa giảng: Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích.... Nếu trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy cả quỷ Dạ-xoa cùng La-sát. .... La-sát là quỷ ăn tinh khí, nó chuyên môn ăn tinh khí của người. Muốn đến hại người. Loại quỷ Dạ-xoa, La-sát này chuyên môn hại người, đến đâu cũng tìm cách quấy rầy người. Như quý vị muốn phát tâm Bồ-đề, chúng nhất định không bao giờ thích, cố ý gây rắc rối cho quý vị, nghĩ ra mọi cách ngăn cản khiến quý vị không thể tu hành được rồi thối thất đạo tâm. Từ trước quý vị đã phát tâm Bồ-đề một cách mạnh mẽ, nhưng nó lại lẻn vào thân tâm quý vị làm cho quý vị tự nhiên khởi lên vọng tưởng: “Tu hành làm chi! Học Phật-pháp để làm gì! Thôi đừng nên học Phật-pháp nữa! Ði chỗ khác chơi, mọi việc đều tự do theo ý mình, thích nhảy đầm thì nhảy, thích nghe âm nhạc thì nghe. Còn học Phật ư! Cái này không được làm, cái kia không được làm, có biết bao cái không được làm! Lại không được xem hát, không được uống rượu, không được hút thuốc nữa, cả khối việc phải kiêng cử! Phật-pháp quả là càng học càng rắc rối!”. Ai có ý nghĩ đó tức là bị quỷ Dạ-xoa, La-sát đến xúi bẫy đó. Có người muốn xuất gia. Nó xui vị ấy nghĩ: “A, xuất gia cực lắm! Cả ngày làm việc quần quật, lại ăn không ngon, mặc không đẹp, cực khổ quá mức! Ði tu để làm gì?” Nghĩ thế rồi thối tâm đi. Lại có vị muốn làm Tỳ-kheo-ni, quỷ Dạ-xoa, La-sát sẽ đến giục vị ấy nghĩ: “Ối chào! Nên đi lấy chồng đi! Lấy chồng mỗi ngày có chồng bầu bạn, vừa lòng thích ý hơn.” Làm cho quý vị đừng phát tâm Bồ-đề nữa, chính là công việc của quỷ Dạ-xoa La-sát đấy. Chúng chuyên môn làm tổn hại đạo tâm Bồ-đề, phá hoại việc tu hành của người. Vì thế nói: “Muốn đến hại người.”
Nghe người xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho dù có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, La-sát muốn đến làm hại, gây phiền phức cho người. Nhưng một khi chúng nghe quý vị niệmNam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát” thì những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ để nhìn. Một khi quý vị niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên hào quang tỏa sáng, bọn quỷ ấy muốn nhìn quý vị cũng không nhìn thấy được. Vì chúng thấy quý vị có ánh sáng chói lòa như đèn điện, mở mắt không ra. Cho nên nói là: Còn không thể lấy mắt dữ tợn để nhìn. Huống lại làm hại đặng. Cả đến mắt cũng không thể mở thì làm sao gia hại được? Tự nhiên nó phải chạy xa thôi. Vì thế quý vị phải luôn luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ được Ngài bảo hộ cho.....
Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu 7 thứ nạn, giải trừ 3 thứ độc và đáp ứng 2 thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)

+ Pháp Ly dục - Diệt Ái Dục - Xa lìa Ái Dục - Xa lìa tà dâm = Niệm Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm.
... Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng ly dục.
Giả như có những chúng sanh nào, lòng đặc biệt dâm dục quá nhiều. Có người vừa học Phật vừa sanh tâm dâm dục, học Phật-pháp càng nhiều, tâm dâm dục càng phát triển mạnh. Cả ngày từ sáng đến tối khởi lên vọng tưởng dâm dục cuồn cuộn như giòng nước chảy tràn. Ðó là một thứ tư tưởng, hành vi cùng biểu hiện rất xấu xa! Vậy thì phải làm sao? Quý vị đừng buồn, cũng đừng lo! Chỉ cần thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là được. Nhưng chỉ đơn thuần tụng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm vẫn chưa đủ, mà phải đem lòng cung kính chân thành đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm thật nhiều nữa.
Ðảnh lễ Phật và Bồ-tát là một biểu hiện rất cung kính. Nhưng có một số người không biết lý lẽ này, nhất là những người ngoại đạo, nhìn thấy người ta lạy Phật rồi phê bình một cách mù quáng rằng: "Ðó đều là ngẫu tượng, là thứ gỗ khắc hay tô đắp mà thành, lạy làm chi?" Tại vì chính mình không có huệ nhãn, không thấy được cảnh giới Phật quang chiếu khắp mới sanh ra đại ngã mạn như thế, thậm chí coi mình còn hơn Phật cho nên mới nói cần gì phải lạy Phật! Ðó chính là kẻ ngu si mắc phải sai lầm quá lớn! Nếu thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì tâm dâm dục của quý vị tự nhiên lìa khỏi. Có người nói: "Thật là bậy quá! Tôi thích dâm dục mà bây giờ không có nữa, phải làm sao đây?" Nếu quý vị thích có, cũng không cần phải lo, rồi sẽ có. Nếu quý vị không thích có rồi sẽ được không có. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tham thiền - Quán tưởng diệt trừ tâm dục - Tình dục (nguồn)
- 7 quán Bất tịnh quán (Không trong sạch) khi: Cấu hợp - Sinh - Vị trí Bào Thai - Lớn bằng Máu mẹ - Sinh bẩn -  Da bọc dơ bẩn, 9 lỗ tiết bẩn - Chết thân giữa nát;
- 9 quán: Thân lúc chết - Thâm bầm lạnh lẽo - Thân thối giữa - Thối tha máu mủ - Giòi bọ - Gân và Xương - Trơ Xương trắng - Tản mạn - Đốt thành tro - PS Tịnh Không - Quán Trừ Dâm dục
+ Quán Tứ Đế: Khổ Đế (Về sự khổ) - Tập Đế (Nguồn gốc khổ) - Diệt Đế (Chấm dứt khổ) - Đạo Đế (Con đường chấm dứt khổ)
+ Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, Chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, Chánh niệm, chánh định.
+ Quán Chiếu: Đức Phật dạy có 5 đề mục chúng ta cần quán chiếu mỗi ngày: - Tuổi già //  Bệnh //  Chết //  Không thường còn //  Luật nhân quả. "Vui thay, chúng ta sống, Không bệnh, giữa ốm đau!  Giữa những người bệnh hoạn,  Ta sống, không ốm đau." (kinh PHÁP CÚ)
+ Tham thiền làm thế nào để thực hiện Đại từ bi Tâm Quán? 
a. Quán chúng sinh duyên từ: Quán sát cảnh khổ của chúng sinh ở trong cõi dục giới mà phát khởi lòng từ.
- Những kẻ bị đọa ở địa ngục hiện đang bị hành phạt, loài ngạ quỷ đói khát.
- Loài súc sanh (trâu, bò heo, gà…) bị hành hình, phân thây xẻ thịt làm thức ăn cho loài khác…
- Loài a tu la phải đấu tranh chém giết
- Chúng sanh ở cõi trời khi hết phước đức cũng phải bị đọa lạc
- Những cảnh khổ của kiếp người…
Thấy được những cảnh khổ của chúng sinh, để cho lòng từ bi phát khởi, Phật dạy ta phải xem tất cả chúng sinh như là bà con thân thuộc trong một đại gia đình. Nhân loại như đang sống trong một ngôi nhà lớn và rộng ra các loài khác cũng là thành phần của một đại gia đình, do nghiệp duyên ràng buộc, có thể họ đã là bà con quyến thuộc của ta trong kiếp trước hoặc sẽ là anh em cha mẹ ta trong những kiếp tương lai…
b. Quán Pháp duyên từ: Cao hơn một bậc, hành giả có thể quán sát thấy tất cả chúng sanh đều có chung pháp tánh cho nên nói như ngài Duy Ma Cật, “vì chúng sanh bệnh nên ta bệnh”, chúng sanh khổ nên ta khổ và vì thế ta tìm cách cứu độ chúng sanh. Ta cứu khổ nhưng không cần biết đối tượng được cứu khổ và cũng không chấp rằng ta đang cứu khổ vì ta và chúng sanh đã đồng một bản thể, đồng một pháp giới tánh.
Trong thiền định, đọc Thần Chú giúp Tâm an định, 10 Tâm của Thần Chú là chủ đề Minh sát/ Suy ngẫm. (Nguồn: Giảng Thần Chú Đại Bi với Thiền Định)

Xem: Tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
Xem: Quán Tứ Thánh Đế/ Diệu Đế/ Tứ đế và Bát chánh đạo
Xem: Kinh Quán Tưởng Thanh Tịnh Sắc Thân của Dược Vương Bồ-tát và Dược Thượng Bồ-tát
Xem: Phật dạy về quán tưởng Lìa Ái Dục

 + Thần Cây: Là Quỷ Thần sống ẩn trong thân cây và trên cây, khi cần chặt Cây cần cúng thí thông báo trước 3 ngày để họ dọn nhà đi chỗ khác rồi chặt. (Nguồn: Thần Cây - Quỷ Thần Gá Sống Ở Cây)

+ Cần chặt cây - Thần cây tu vãng sanh: ... Tháng 3 năm nay tôi ở úc Châu Âu, trong bãi đậu xe của đạo tràng có một cây to, có lẽ cũng đã trồng mấy chục năm rồi, Cây Tỳ Bà. Thần của cây thác mộng cho học trò của chúng tôi, báo họ vãng sanh rồi, đến cảm ơn tôi. Đạo tràng của chúng tôi xây dựng ở đó đã mười năm, thần cây đã nghe kinh mười năm, niệm Phật mười năm, thần vãng sanh rồi. Đây không phải là giả, vì thần cây thác mộng cho chúng tôi tất cả ba lần, đây là lần thứ ba, thần cây Tỳ Bà vãng sanh. Lần thứ nhất là mấy năm trước, chúng tôi mua nhà số 61 làm chỗ ở, do Hồ cư sĩ mua, nhà quá rách nát, chúng tôi muốn phá đi xây lại. Nhà ở Châu Âu đều xây kiểu nhà sàn, phía dưới là mấy cây cột, vì thế cột phía dưới cưa rồi, thì có thể đem cả toà nhà di dời đi nơi khác. Chúng tôi liền tặng cho thổ dân, đem nhà đó tặng cho họ, họ dùng một chiếc xe to kéo đi, chúng tôi xây dựng lại trên nền móng này. Vì xây lại nên cây trước cổng phải chặt đi, nếu không xe không thể vào được, trước cổng phải chặt 4 cây. Chúng tôi theo thông lệ, trước đó ba ngày đọc kinh, đọc chú, cúng dường, mời cây dời nhà. Kết quả là thần cây thác mộng cho các pháp sư hàng chữ Ngộ, báo cho chúng tôi, là thông báo quá muộn, họ dọn nhà rất vất vả, vội vội vàng vàng, hy vọng về sau nếu có việc này, thì thông báo cho trước 7 ngày. Trong kinh Phật nói cho chúng ta biết là ba ngày, chúng tôi theo ba ngày, họ yêu cầu 7 ngày. Nghĩ cũng đúng thôi, người Châu Âu làm việc gì cũng từ từ, vì vậy những quỷ thần của Châu Âu họ cũng rất chậm. Chúng tôi sau này nếu mua những nhà kiểu này, nếu phải phải chặt cây đều phải có thông báo trước 7 ngày. Đây là chuyện có thật, không phải là giả, đúng là ngạn ngữ thường nói trong gầm trời này, không chuyện gì không có. Giới quỷ thần, giới u minh, tương thông với cõi người, chúng ta làm việc bất thiện, đi đến đó, họ hành thiện sẽ trở lại, rồi lại đến trần gian, hoặc là lên trời, cũng có số ít vãng sanh tịnh độ, thần cây Tỳ Bà của chúng tôi vãng sanh tịnh độ, chính là một ví dụ tốt nhất.(Nguồn: Thiện ác biến hóa - HT Tịnh Không giảng)

+ Quỷ Thần sợ cây nào: Trong kinh Diệm khẩu ghi rằng "Chẳng được viết vào gốc cây của những cây như lựu, đào, liễu, vì quỷ thần hoảng sợ, chẳng ăn được vậy" (Nguồn: Kinh Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên ngạ quỷ Đà La Ni). Như vậy trong phong thủy trồng những cây này có giá trị ngăn ngừa quỷ thần_Ý này Nhân trắc học ghi.

+ Trong Giới kinh, Phật dạy người xuất gia: Vị tỳ-kheo thanh tịnh không giẫm đạp cây cỏ còn sống - Trừ khi bất đắc dĩ không có lối đi.
Trong Giới kinh kể cho ta biết, người xuất gia trước đây ở trên núi, phải dựng nhà tranh. Tiến hành việc xây dựng thì nhất định phải chặt một số cây cối. Ba ngày trước khi chặt cây, phải vì chúng tụng kinh, niệm chú, cầu phúc cho chúng, rồi thỉnh các thần cây dời nhà, những điều này người bình thường không lý giải được. Trong kinh điển Phật dạy chúng ta, cây cối cao quá thân người thì có thần cây. Hiện tại chúng ta nói với những người trẻ tuổi, họ không tin được. Thế nào là thần cây? Trong thực tế đó là những quỷ thần nương dựa trong cây ấy. Cây ấy là nhà của họ. Họ ở tại đó. Họ nương dựa vào cây cối, hoa cỏ, rồi biến thành thần hoa, thần cây. Đó là những loại chúng sinh nào? Đặc biệt là những người ưa thích cây cối, hoa cỏ. Ưa thích cây cối hoa cỏ, sau khi chết rồi vẫn còn ưa thích, không lìa bỏ được, liền hóa thành thần hoa, thần cây, là tinh linh nương dựa vào những vật thể ấy. Nếu chúng ta hủy hoại nơi cư ngụ của họ, họ sinh phiền não. Tuy rằng họ cũng phải lìa đi, thế nhưng họ phải sinh phiền não. Cho nên trước đó cần phải báo cho họ biết, trước đó phải cúng tế, tụng kinh, siêu độ, kết duyên, để họ dời nhà ra đi, họ tìm chọn một thân cây khác. Việc này tuyệt đối không phải là mê tín. Chư Phật, Bồ Tát tâm địa thanh tịnh, mắt nhìn sáng suốt. Chúng ta phàm phu nhìn không thấy được, các ngài có thể thấy được. Chúng ta không nghe được, các ngài có thể nghe được. Các ngài dạy chúng ta làm như thế, quyết định là có ý nghĩa, quyết định là có lợi ích đối với chúng ta. Đối với cây cối, hoa cỏ đều thương yêu bảo vệ thì có lý nào lại không thương yêu bảo vệ động vật! (Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 6 tháng 4 năm 2000 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 187, số hồ sơ: 19-012-0187)

+ Loại người không Thể Khuyên can.
Kinh chép: "Nói Pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ thì không thể khuyên can. Ðức Phật dạy - Có 10 trường hợp:
1. Một là tham lam che mất lương tri;
2. Hai là tham đắm sắc đẹp;
3. Ba là [Kinh in thiếu đoạn nầy] ;
4. Bốn là kẻ ngang tàn bạo ngược;
5. Năm là kẻ nhút nhát;
6. Sáu là kẻ khờ khạo lừ đừ;
7. Bảy là kẻ kiêu ngạo buông lung;
8. Tám là người ưa đấu tranh;
9. Chín là người chấp tập tục si mê;
10. Mười là kẻ tiểu nhân.
Ấy là mười trường hợp ta không thể khuyên can. Kinh chép: "Nói Pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ thì không thể khuyên can." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)

+ Những tánh khiến người ấy trở thành khó nói/ Khó góp ý/ Khó tư vấn, chỉ bảo?
(1) Chư Hiền, ở đây, vị Tỷ-kheo có ác dục bị ác dục chi phối;
(2) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo khen mình chê người, như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói.
(3) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối;
(4) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành người có hiềm hận;
(5) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp;
(6) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ;
(7) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chống đối vị đã buộc tội mình;
(8) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chỉ trích vị đã buộc tội mình;
(9) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình;
(10) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề,
để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình;
(11) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội;
(12) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và não hại;
(13) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo tật đố và xan tham;
(14) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và lường gạt;
(15) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo ngoan mê và quá mạn;
(16) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả;
Chư Hiền, như vậy được gọi là những tánh khiến trở thành khó nói. (Nguồn: 15. Kinh Tư Lượng)

Khuyên bảo lẫn nhau để dứt trừ lỗi, đó là nói có sự giúp đỡ qua lại với nhau. Trong Phật pháp, thực sự rõ biết rằng nhân quả [báo ứng] tương quan trong cả ba đời: [quá khứ, hiện tại và tương lai], cho nên việc khuyên bảo sửa lỗi là quan trọng thiết yếu hơn hết.

Chỉ khuyên can không quá 3 lần: Tập khí xấu ác rất nặng nề, trong sách Luận ngữ có nói đến. Sách Luận ngữ là do Khổng tử nói ra. “Bạn bè [khuyên can] quá nhiều lần thì thành ra xa cách.” Cho nên, hiện nay so [với thời trước] khó khăn hơn rất nhiều. Khuyên bảo sửa lỗi không được quá ba lần. [Khuyên can] ba lần trở lên thì đã thành kẻ ác rồi, tình bạn bè thành ra xa cách. Không chỉ là xa cách, mà còn kết thành oán thù. Do đó có thể biết rằng, việc khó nhất trong đời này là [hiểu được] lòng người. Đó gọi là: “Thành tựu công việc đã khó, làm người còn khó hơn.”

=> Người thực sự thấu tình đạt lý, Nho gia gọi là người quân tử, là người thực sự thông hiểu ý nghĩa [thích hợp] lòng người. Thấu tình đạt lý đến mức rốt ráo thì đó là bậc thánh nhân, trong Phật pháp chúng ta tôn xưng là Phật, Bồ Tát. Chúng ta ngày nay tội lỗi đầy mình, khởi tâm động niệm, nói năng hành động đều là bất thiện, chư Phật, Bồ Tát vì sao không đến khuyên bảo sửa lỗi cho ta? Vì sao không thể đến dạy dỗ chúng ta?

Chúng ta tự mình suy ngẫm xem, chư Phật, Bồ Tát đến dạy dỗ, liệu chúng ta có tiếp nhận hay không? Không thể tiếp nhận. [Khuyên bảo] quá ba lần liền thấy phiền toái, ghét giận, rồi cũng sẽ xem chư Phật, Bồ Tát là kẻ oan gia thù nghịch. Cho nên chư Phật, Bồ Tát vì lòng từ bi mà không đến với chúng ta. Các ngài không đến là từ bi, là bảo vệ mối quan hệ tốt, không để quan hệ tốt hiện nay với quý vị phải hóa thành xa cách. Đợi khi nào quý vị thực sự giác ngộ, thực sự muốn quay đầu, ở trong sáu đường đã chịu đựng đủ mọi khổ não, bừng lên được một ý niệm giác ngộ, một niệm quay đầu hướng thượng, khi ấy [chư Phật, Bồ Tát] sẽ đến [giúp quý vị] như những người bạn tốt. Phương thức của chư Phật, Bồ Tát là như vậy, rất đáng cho chúng ta tham khảo.

[Nếu người ta] không chịu nghe lời khuyên thẳng thắn, không chịu nghe lời hiền thiện, thì hãy tạm thời rời xa. Nhất định phải đợi khi họ muốn quay đầu hướng thiện mới quay lại tiếp cận. Như thế là ý nghĩa cảm ứng giao hòa trong đạo hết sức lớn lao. (Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 20 tháng 9 năm 1999 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 101, số hồ sơ: 19-012-0101)

+ Tu Cảm Ứng Thiên: ... Cơ sở Thập thiện Nghiệp đạo là Cảm ứng thiên, cơ sở của Cảm ứng thiên là Đệ Tử Quy; Thập Thiện Nghiệp Đạo coi như đã xong thì hai điều ở trước không có gì để nói, vì Bồ Tát Địa Tạng đã giám định cho chúng ta, nên chúng ta mới có thể an ổn, mới có tín tâm, thì ra bây giờ là lúc thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ hay các Kinh Đại Thừa, Pháp tu Đại thừa. (Trang 64 - Kinh Chiêm Sát)
+ Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên: Là một quyển sách khuyến thiện tốt nhất trong kho tàng kinh điển của Đạo gia, được Ngài Đại Sư Ấn Quang hết sức tán thán. Đại Sư Ấn Quang một đời cung kính ấn tống Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, ước khoảng có hơn ba triệu bản. Hơn nữa, Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Lão Pháp sư Tịnh Không cũng đều khích lệ người đời "khuyến đọc, khuyến hành, khuyến in, khuyến giảng".
Quyển sách này cùng với Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh là ba căn bản của Nho - Thích - Đạo, bất luận là ai cũng phải từ ba căn bản này mà học tập vun bồi cội rễ, như thế mới có thể đạt được thành tựu chân thật trong một đời.
Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên hàm nhiếp đầy đủ những lý luận về việc đón kiết, tránh hung, phước thiện, cho đến những đạo lý về mối họa dâm, lời kinh vang vọng đến thượng thiên, chấn động đại địa, hễ đọc đến tâm liền xúc động. Cái gì gọi là thiện? Cái gì gọi là ác? Người làm việc thiện sẽ được thiện báo thế nào? Kẻ làm điều ác sẽ bị ác báo ra sao? Hiểu rõ được căn nguyên rồi, nhìn người sẽ vô cùng thấu suốt. Còn có kẻ ngu không chịu làm thiện, mặc tình làm điều xấu ác, lại dùng cái tâm tự tư tự lợi xem đó là điều hiển nhiên. Ngược lại, nay ta đã biết, những kẻ tự tư tự lợi sẽ bị tổn hại lợi ích rất lớn, rước lấy đại tai ương, há còn dám không khuyến khích nhau làm điều lương thiện để mong thoát họa, gặp phước hay sao? Vì lẽ đó, đây là cuốn sách rất ích lợi cho người đời. Các vị đại Nho thời xưa đa phần đều dựa vào cuốn sách này mà tu hành.

ĐẠI SƯ ẤN QUANG KHUYÊN THỌ TRÌ THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN TRỰC GIẢNG

Tính người vốn thiện, nhưng do đối cảnh gặp duyên, không gắng lòng kiểm soát, dần dần khởi niệm chấp trước, sinh tâm yêu ghét, khởi các loại tình kiến, bản tính bị mai một đều vì những thứ như thế cả. Thế nên, thánh nhân thời xưa rủ lòng thương ban lời dạy dỗ, kỳ vọng người đời theo đó mà làm, nhằm hồi phục cái tâm vốn thiện. Lời dạy tuy có nhiều, nhưng đều không ngoài việc “cách vật trí tri, minh minh đức, chỉ ư chí thiện”........, Dưới đây xin tóm lược các chương:

CHƯƠNG 01 - Minh nghĩa:  Nhân quả như hình với bóng... (HT Tịnh Không giảng từ Tập 1 - 5)

CHƯƠNG 02 - Giám sát: Trời đất có Thần ghi tội lỗi nặng nhẹ, định thọ mạng ngắn dài, theo đó chiêu cảm họa hoạn nhiều phúc ít, sao sấu chiếu. Có Thần tam, Bắc đẩu thần quân chiếu sét, ghi chép tội lỗi quanh năm. Táo quân tấu trình bẩm báo việc trần gian. (Tập 6-11)
Câu 14- “Kỳ quá đại tiểu, hữu sổ bách sự, dục cầu trường sanh giả, tiên tu tị chi; Tóm lược: Quá thất đại tiểu, hữu kỉ bách chủng”: Tội nặng trừ 12 năm thọ mạng, tội nhẹ giảm trăm ngày; Giảng giải: (Tập11)

CHƯƠNG 03 - Tích thiện - Phước báu: Từ câu 15 đến câu 36
Tóm lược chương: Thường làm lành lánh dữ, xa lìa tà niệm. Trung thành và hiếu thảo, anh em kính nhường nhau, mình làm gương để cảm hóa người. Cứu giúp kẻ nghèo hèn cô đơn, trẻ nhỏ, lúc cấp bách. Không gây tổn hại, vui cùng với điều thiện, buồn cùng kẻ sa cơ lỡ bước, sót thương kẻ làm ác. Không xét lỗi người, không khoe khoang mình. Tu nhẫn nhục, thi ân không cầu báo đáp. Cho rồi chớ hối tiếc....
Câu 15: Đạo là gì? Ngũ giới - Thập thiện là Đạo, đây là mức thấp nhất của Đạo - Đạo làm người ai ai cũng phải có, tương ứng Tịnh Nghiệp Tam Phước. (Tập 11)

CHƯƠNG 04 - Thiện báo: Người tu tích đức hành thiện được trời Phật, Thần linh bảo hộ, không cầu mà tự đến. Tà thần ác quỷ tự lánh xa ....

CHƯƠNG 05- Chư ác:
+ Phần Thượng: Hành vi trái luân thường đạo lý
Ác là việc phi nghĩa
Trái đạo, trái lương tâm
Dùng thủ đoạn độc ác
Cho đó là tài năng.
Nhẫn tâm và tàn bạo
Mưu toan hại người hiền.
Thầm khinh khi cha mẹ
Bất kính với thầy cô
Bất trung với chức phận
Gạt gẫm người ngây ngô
Chê bai bạn đồng học........

+ CHƯƠNG 06 - Phần hạ:
Dùng tà thuật, độc dược hại người. Hành vi trái đạo bất hiếu, cướp đoạt, tham danh lợi, thủ đoạn sảo trá, đê hèn. Sống phóng dật hưởng lạc quá độ - Lộc tận nhân vong, chớ lên hưởng hết phước. Không oán trười trách người. Ngu mê nghe lời vợ, làm trái đạo mẹ cha dạy dỗ. Quân tử và Tiểu nhân khác nhau ở dụng Tâm. Trọng đạo nghĩa, giữ ngũ giới. Bố thí đúng pháp, chớ sinh tâm hối tiếc. Nên sống an phận. Dâm quá độ sinh con ngu đần, tổn âm đức. Chớ khẩu phật tâm xà. Ham mê riệu thịt khó tránh sát đạo dâm. Qủe Khiêm - Kinh dịch, sáu hào cát tường....
Khâm liệm không như lễ.
Cúng tế chẳng chí thành.
Tổ tiên dù đã khuất.
Anh linh vẫn thường quanh.

Thường tự mình thề thốt
Nguyền mình và rủa người
Dù thọ mạng chưa hết.
Ác báo sắp đến rồi.

Không bước qua giếng, bếp.
Giếng vốn có vị Thần
Bếp có ngài Táo Quân
Xin chớ có mạn khinh.

Hướng Bắc có sao Đẩu
Nơi ngự của thần linh
Chớ hướng về phương này
Khạc nhổ, đại tiểu tiện.

Tránh làm các việc sau:
Khạc nhổ hướng sao băng
Tay chỉ trỏ cầu vồng
Chỉ nhật, nguyệt, tinh tú
Chăm chú nhìn mặt trăng.

 CHƯƠNG 07 - Ác báo: Tội ác nặng nhẹ - Tư mệnh thần định đoạt, phán thọ mạng ngắn dài. Nếu chế chưa trả hết, di hại đến con cháu đời sau. Dùng thế lực ức ép đoạt của, cả gia đình chịu tội, giảm thọ.

CHƯƠNG 08- Chỉ vi (Chi ra ý nghĩa tinh thâm vi diệu): Tâm khởi niệm thiện ác chịu nhận quả báo tương ứng.

CHƯƠNG 09- Sám hối: 
Từng làm việc sai trái
Sau biết tự ăn năn
Không còn gieo nhân ác
Thiện hạnh ngày mỗi tăng.
Lâu dần việc thiện nhỏ
Sẽ chứa đầy chum to
Việc cát tường như ý
Ắt sẽ đến không lo.
Họa chuyển dần thành phúc
Từ sám hối mà ra.

CHƯƠNG 10: Giới định

Hiền nam tử, nữ nhân
Mỗi ngày miệng, mắt, thân
Đều là thiện không khác
Ba năm như một ngày
Trời sẽ ban phúc báu.

Kẻ nói, nhìn, làm ác
Trong thời gian ba năm
Một ngày tạo ba nghiệp
Trời sẽ giáng họa tai.

Rõ ràng việc họa phúc
Do chính mình gây nên
Thấu rõ đạo lý trên
Nên hành Thiên Cảm Ứng.
  Mời quí vị xem bản đầy đủ lời giảng của Ấn Quang Đại Sư: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
+ Mời đọc PS Tịnh Không giảng từ tập 1 đến tập 128: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên

+ Công Đức: Công thì phải lập, đức thì phải làm. Thế nào gọi là lập công ? Ví như, trong một trường học, có một vị thầy giáo, tận tâm tận sức đối với trường học, dạy học hết mình, và còn làm những công việc khác, đây tức là công. Đức là làm việc có lợi ích đối với tất cả mọi người, giúp người không cần đền đáp, thi ân bất cầu báo, đây tức là đức. Đức có phân ra đức lớn và đức nhỏ, chẳng phải nói làm đức phải làm lớn, còn đức nhỏ thì không làm. Thế nào gọi là đức nhỏ ? Nghĩa là đối với người khác có lợi ích rất nhỏ, cũng phải làm. Bạn làm được nhiều rồi, thì tánh đức sẽ tự nhiên lớn lên. Nếu bạn không làm, thì vĩnh viễn sẽ chẳng có đức. Do đó « Đạo thì phải hành », tu đạo là phải tu hành, chẳng phải chỉ nói suông tu đạo bằng cái miệng, suốt ngày đến tối nhớ tu đạo, mà chẳng chịu tu hành, đây gọi là « Khẩu đầu thiền » mà thôi, chẳng có ích gì. « Đức thì phải làm », đức thì phải đi làm, chẳng làm thì sẽ không có đức. Cho nên nói :
« Đạo thì phải hành, không hành sao gọi là đạo;
Đức thì phải làm, không làm sao có đức ». (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm-T25)

+ Công đức - Phước đức: .... Vi Thứ sử bạch: "Đệ tử có nghe đức Đạt Ma lúc ban sơ hóa độ Lương Võ Đế, vua hỏi rằng: ‘Trẫm trọn đời cất chùa độ tăng, đãi chay làm phước, có công đức gì?’ Đức Đạt Ma nói: ‘Thiệt không có công đức.’ Đệ tử chưa hiểu thấu lẽ ấy, xin Hòa Thượng giải cho."
Sư nói: Thiệt không có công đức. Chớ nghi lời của Thánh nhơn đời trước. Võ Đế lòng tà, không biết chánh pháp. Cất chùa độ tăng, đãi chay làm phước, ấy gọi là cầu phước. Không thể lấy phước mà kể là công đức được. Công đức ở trong Pháp thân, chớ chẳng phải ở chỗ tu phước.
Sư lại nói: Thấy tánh là công, giữ lòng bình đẳng là đức. Niệm niệm tâm không ngưng trệ, thường thấy Bổn tánh, diệu dụng chơn thật, ấy gọi là công đức. Bên trong giữ lòng khiêm hạ là công, bên ngoài hành động theo lễ là đức. Tánh mình lập ra muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm trần là đức. Muốn tìm cái công đức Pháp thân, thì phải y theo đây mà tu hành. Thế mới là thiệt có công đức..... Chư Thiện tri thức! Công đức phải thấy trong tánh mình, chớ chẳng phải tìm ở chỗ cúng dường và bố thí. Bởi vậy phước đức với công đức là khác nhau. Vua Võ Đế không biết Chơn lý, chớ chẳng phải Tổ Sư ta lầm.....còn dài, mời đọc Kinh văn gốc (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Công đức chính là tâm thanh tịnh. Nếu như dùng danh từ pháp tướng Phật pháp để nói, thì công đức chính là định tuệ. Bạn thấy trong tâm vừa nổi giận, thì định tuệ lập tức mất ngay, cho nên đốt cháy rừng công đức.
- Công đức mới có thể dứt sanh tử ra khỏi tam giới. Cái này chúng ta nhất định phải hiểu rõ, phải sáng tỏ. Công đức là rất vô cùng không dễ dàng. Ở trong tâm hơi có một chút xíu không vui thì công đức đều không có.
- Nếu như bạn sáng hôm nay mới nổi một cơn giận, thì công đức của bạn cũng chẳng qua là mấy giờ mà thôi. Mấy chục năm tu trước đây đều đốt hết, không tính, không còn nữa. Nếu như học Phật, học cả đời, đến lúc sắp mạng chung nổi cơn giận dữ, là tiêu rồi, một lần này công đức gì cũng mất hết, điều này rất đáng sợ, đây đều là sự thật, đều là sự thật.
- Cho nên Phật khuyên chúng ta tích lũy công đức, nhất định phải tu nhẫn nhục Ba-la-mật, thì công đức của bạn mới có thể tích lũy lại được. Tích lũy công đức là rất khó, rất khó, không phải ta vẻ bề ngoài không nổi giận, ở trong tâm có một chút không vui thế cũng không được. Ở trong tâm hơi có một chút không vui là công đức không còn. Công đức này khó, vô cùng, vô cùng khó tu.
+ Phước đức không bị sân hận chướng ngại. Bạn hằng ngày nổi giận, phước báo bạn tu vẫn còn đó. Phật ở trong kinh nói cho chúng ta biết, A-tu-la phước báo rất lớn. A-tu-la tu thành như thế nào vậy? Đều là ở trong cửa Phật tu phước.
- Phước đức không thể vượt qua tam giới. Nguồn: (Trích từ Kinh Kim Cang giảng ký) Hòa Thượng Tịnh Không. Xem thêm: Công đức phước đức
+ CÔNG ĐỨC KHI TU TẬP GIỮ GIỚI CỦA 6 CĂN CỦA NGƯỜI TU HÀNH
Để chỉ cho công đức của 6 căn con người tương quan trong thế giới. Tuy nhiên xét chỗ hơn kém thì công đức của sáu căn không nhất thiết đồng nhau, như sau:
1- Xét về nhãn căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về mắt chỉ được 800 công đức.
2- Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có 1200 công đức.
3- Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có thở ra và hít vào. Điểm giao tiếp giữa hít và thở gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.
4- Xét về thiệt căn thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gian và xuất thế gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.
5- Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.
6- Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian mười phương ba đời, thành phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức.
+ Giải nghĩa thêm: Thế giới tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian.
- Thế là nói về thời gian cũng có nghĩa là nói về luật nhân quả báo ứng, sinh sinh diệt của hiện tượng vạn hữu.
- Giới là nói về không gian cũng còn có nghĩa là lý nhân duyên tức là tất cả mọi cấu tạo hình thành của vạn hữu trên thế gian này là do nhân duyên hòa hợp mà có.(Nguồn - Xem mục: Chỉ rõ sự ràng buộc hay siêu thoát của thế giới chúng sinh, ở nửa cuối trang)
+ 69. GIỮ GIỚI CÓ NĂM CÔNG ĐỨC
1. Cầu gì đều được như nguyện.
2. Tài sản đã có thì thêm mãi không hao sút.
3. Ở đâu cũng được mọi người kính mến.
4. Tiếng tốt đồn khắp thiên hạ.
5. Thân hoại mệnh chung được sanh lên cõi trời. (Nguồn: mục 69- (Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)

+ Khởi tâm muốn khai ngộ thì không bao giờ ngộ
Đó là nói về người tu đạo, đừng nghĩ rằng tôi khai ngộ, tôi khai ngộ, tôi khai ngộ. Vì sao tôi chưa khai ngộ ? Làm thế nào tôi mới khai ngộ được ? Đi tới đi lui cũng chưa khai ngộ. Leo lên trèo xuống cũng chưa khai ngộ. Ngồi thiền cả một giờ vẫn chưa khai ngộ. Làm sao mới được khai ngộ ? Nếu chư vị có tâm này thì vĩnh viễn không thể khai ngộ. Tại sao ? Chư vị muốn khai ngộ tức che lấp mất tâm khai ngộ đó, tựa như ông người nước Tống muốn giúp mạ lên cao (Nhấc nhổ mạ lên). Vì vậy bảo rằng nói ăn mà không ăn, giúp mạ lên cao, rất phí công sức, không thể dụng được. Chư vị phải bình tâm tịnh khí tu hành, chân thật từng bước mà đi, đừng hỏi rằng ngày mai tôi có được khai ngộ hay không, khi nào tôi mới khai ngộ ?
Chư vị chớ giữ những tâm này, chúng chỉ là vọng tưởng. Chư vị nếu có vọng tưởng thì đã dẫm mất tâm khai ngộ rồi. Khai ngộ sợ vọng tưởng. Tại sao tâm chư vị lại run sợ ? Chính là sợ vọng tưởng, cũng là sợ khai ngộ. Chư vị muốn khai ngộ thì tim đánh bình bịch. Tim đập liên tục, tức là vô hình chung nghiệp chướng sợ hãi :"Nếu nó khai ngộ thì mình phải làm gì ?" Nghiệp chướng không thể làm gì được.(Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)

+ Mong cầu như Pháp để có sự nhiệm mầu:
Trích Kinh văn: Vì những chúng-sanh đó không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, không có tướng pháp, cũng không có tướng phi-pháp. Tại vì sao? Vì những chúng-sanh đó, nếu trong lòng chấp tướng, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả.
Nếu chấp tướng pháp, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả, và vì nếu chấp tướng phi-pháp, thời cũng chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả, vì thế cho nên, chẳng nên chấp pháp, và cũng chẳng nên chấp phi-pháp. Đức Phật dạy:
Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng tiếng tăm cầu ta,
Người ấy tu đạo tà!
Chẳng thấy được Như-Lai.
Nhiều lời dạy đáng ghi nhớ trong tu hành, mời quí vị đọc. (Nguồn: Kinh Kim Cang Bát Nhã ba La Mật)

+ Khi muốn mong cầu - Đức Phật dậy:
(VI) (176) Mong Cầu
1.- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, nếu chơn chánh mong cầu, hãy mong cầu như sau: “Mong ta sẽ được như Sàriputta, Moggallàna”.
Này các Tỷ-kheo, họ là cán cân, là đồ để đo lường các đệ tử Tỷ-kheo của ta, tức là Sàriputta, Moggallàna.
2. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni có lòng tin, nếu chơn chánh mong cầu, hãy mong cầu như sau: “Mong ta sẽ được như Khema và Tỷ-kheo-ni Uppalavannà”.
Này các Tỷ-kheo, họ là cán cân, là đồ để đo lường các đệ tử Tỷ-kheo-ni của ta, tức là Khema và Uppalavannà.
3. Này các Tỷ-kheo, nam cư sĩ có lòng tin, nếu chơn chánh mong cầu, hãy mong cầu như sau: “Mong ta sẽ được như gia chủ Citta, và Hatthaka người Alavì”.
Này các Tỷ-kheo, họ là cán cân, là đồ để đo lường các đệ tử nam cư sĩ của ta, tức là gia chủ Citta và Hatthaka người Alavì.
4. Này các Tỷ-kheo, nữ cư sĩ có lòng tin, nếu chơn chánh mong cầu, hãy mong cầu như sau: “Mong ta sẽ được như nữ cư sĩ Khujjuttarà và Velukantaki, mẹ của Nandà”.
Này các Tỷ-kheo, họ là cán cân, là đồ để đo lường các đệ tử nữ cư sĩ của ta, tức là nữ cư sĩ Khujjuttarà và Velukantaki, mẹ của Nandà.(Nguồn: Phẩm Tư Tâm Sở - Kinh Tăng Chi Bộ)

+ Mong cầu - Tìm cầu bên ngoài: ... Có lần, nhân lúc có thời giờ, tôi đã thỉnh Hòa Thượng khai thị. Ngài ngạc nhiên bảo tôi “Con cũng tìm cầu khai thị ư? Đừng có tìm kiếm bên ngoài dù là chút ít. Khi không còn mong cầu, con sẽ được giải thoát. ‘'Khi đạt đến chỗ không mong cầu, thì không còn lo lắng (*)’. Vậy là đủ!” Rồi Ngài cười và nói thêm “Ta đến đất nước này, cũng có thể nói là đến thế giới này, hy vọng có người phát bồ-đề tâm là ta đã mãn nguyện rồi". Ngày mà mỗi quý vị phát đại bồ-đề tâm cũng là quý vị đã không phụ tâm huyết bố thí của ngài rồi!. (Nguồn: Thầy Hằng Thật)

+ Sách Kinh dịch: Là đạo Của Người Quân Tử

- Ngũ Thường: Nhân - Nghĩa - lễ - Trí - Tín

- Ngũ luân: Đạo ứng sử trong và ngoài xã hội như Cha con - Anh em - Chủ tớ - Vua tôi - Thầy trò

- Ngũ Giới: Không gây tổn hại - Không trộm cắp - Không tà dâm - Chân thật - Không Tham lam

*Làm lành lánh giữ: Có được các Nhân lành này thì kiếp sau có cơ được sinh vào cõi người, tránh được ba đường ác.

+ Sự biểu hiện ra ngoại cảnh - Tức là biểu lộ (LVLCK, 158)
+ Đại dương ánh sáng (Lửa - Nhiệt - Chuyển động), biểu lộ:
* Đại Thiên Địa - Thượng Đế các ngôi:
- Ngôi 1… Lửa …….Linh hoạt - ý chí hiện tồn. Điện.
- Ngôi 2… Nhiệt….. Lưỡng nguyên - Bác ái. Thái dương
- Ngôi 3.. Chuyển động...Lửa trí tuệ. Lửa do ma sát.
* Biểu lộ nội tại Đại thiên địa.
- Thái dương ……....… Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh & ­Thuỷ tinh ... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)…….. Hoạt động hay Thông tuệ
* Biểu lộ ở Tiểu thiên địa
- Chân thần….. Lửa điện……….. Ý chí - quyền năng.
- Chân ngã…… Lửa thái dương.. Bác ái và minh triết
- Phàm ngã….. Lửa do ma sát… Hoạt động - thông tuệ.
* Đây là biểu lộ bên trong.
- Thể hạ trí………… Ý chí hay quyền năng….. Lửa
- Thể cảm dục…….. Bác ái - Minh triết ………. Nhiệt
- Thể xác………….. Hoạt động thông tuệ…….. Chuyển động
* Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Thể xác Não bộ… Chân thần…Ý chí - quyền năng. Lửa điện.
- Tim… Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương.
- Các cơ quan thấp… Phàm ngã… Hoạt động thông tuệ. Nguồn: LVLCK, 124

+ Vật chất và chất liệu (Matter and Substance): Để cho thật chính xác, để cho khỏi lẫn lộn và quan niệm lầm lạc (misconception), nên dùng thuật ngữ:
* “Vật chất” (“Matter) để chỉ tập hợp các vật (objects) có thể tri giác được, còn thuật ngữ
* “Chất liệu” (Substance”) để chỉ Thực Tướng (Noumena). (GLBN II, 42) 
+ Chất liệu nguyên thủy (Primordial Substance, Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí) còn được gọi là Chất liệu Vũ trụ, tức Vật chất (Matter).
- Vật chất, tức là Đầu (Alpha) và Cuối (Omega) của Hiện Tồn, chỉ là 2 phương diện (facets) của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất (the one Absolute Existence). (GLBN II, 39)

+ Vật chất (matter hay material): Vật chất là tinh thần (spirit) ở mức độ biểu hiện (point of expression) thấp nhất. (CTNM, 589)

+ Vật chất: Tức là Đầu (Alpha) và Cuối (Omega) của Hiện Tồn, chỉ là 2 phương diện (facets) của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất (the one Absolute Existence). (GLBN II, 39)

+ Nói về mặt nội môn, từ ngữ “vật chất” được dành để chỉ mọi hình tướng (forms) trong ba cõi thấp. (CVVTDT, 189)

+ Nên nhớ rằng, đối với nhà huyền linh học (occultist), vật chất (matter) là toàn thể các vật tồn tại (totality of existence) trong vũ trụ vốn có thể tri giác được trên bất luận cõi giới nào. (GLBN II, 238)

+ Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và
Khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)

+ Vật Chất Biểu Lộ (substance):

- Đã biểu lộ là Prakriti.

- Chưa biến phân là Mulaprakriti. (Thư của Chân Sư 379)

Prakriti (Vật chất): Danh xưng này có nguồn gốc do chức năng của nó như là nguyên nhân thuộc vật chất (material cause) của cuộc tiến hóa đầu tiên của vũ trụ. Có thể nói nó được cấu tạo bằng 2 ngữ căn: “pra” là biểu hiện (to manifest) và “krita” là khiến cho (make); có nghĩa là những gì khiến cho vũ trụ tự biểu hiện. (ĐĐTNLVTD, 222)
-  Prakriti (vật chất) bao giờ cũng bị gọi là Hão Huyền (My), Ảo tưởng (Illusion) và có số phận chịu diệt vong (is doomed to disappear) với mọi cái khác, kể cả các thần (the Gods) vào Chu Kỳ Quy Nguyên (Pralaya). (GLBN I, 299)

+ Cõi Vật Chất: Tập hợp các cõi vật chất, tức là cõi hồng trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí (lower mental plane); (GLTNVT, 104)

+ Ba loại: Sự sống nội tại Tinh hoa Thượng Đế (THTĐ) biểu lộ (LVLCK, 124)
- Lửa: Lửa Điện. Tinh thần. THTĐ Ngôi 1
- Linh hoạt- Ý chí - Nhiệt: Lửa thái dương.Tâm thức. TĐ N2 (Lưỡng nguyên)
- Chuyển động: Lửa do ma sát. Vật chất. THTĐ Ngôi 3 
+ Lửa Đại Thiên Địa - Thái Dương hệ của (TĐ) biểu lộ
- TĐN 1: .... Lửa …Điện - Ý muốn L.hoạt/ ý chí hiện tồn
- TĐN 2:…. Nhiệt….Thái dương - L.Nguyên, Bác ái giữa 2
- TĐN 3:..Chuyển động...Lửa trí tuệ..... Lửa do ma sát
+ Biểu lộ nội tại Đại Thiên Địa
- Thái dương …......…. Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh - ­Thuỷ tinh.... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)… Hoạt động hay Thông tuệ
+ Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Chân thần….Lửa điện……….. Ý chí - Quyền năng.
- Chân ngã…. Lửa thái dương...Bác ái và Minh triết
- Phàm ngã… Lửa do ma sát….Hoạt động/Thông tuệ.
+ Tiểu thiên địa - Biểu lộ bên trong
- Thể hạ trí……..Ý chí hay quyền năng….... Lửa
- Thể cảm dục...Bác ái - Minh triết ……..….Nhiệt
- Thể xác……Hoạt động thông tuệ...Chuyển động
+ Biểu lộ với Thể xác
- Não bộ……..Chân thần…Ý chí - Quyền năng. Lửa điện.
- Tim……Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương
- Cơ quan thấp…Phàm ngã… H. Động T.Tuệ. Lửa ma sát
+ Lửa trong việc biểu lộ:
- Lửa linh hoạt tức là prana (sinh khí).
- Lửa tiềm tàng tức là thân nhiệt. … Khi tiềm hỏa phàm ngã phối hợp lửa của trí tuệ/ Chân Ngã + Lửa Thiêng = Điểm đạo lần 5, hoàn tất chu kỳ lớn (LVLCK, 47)

Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn

Ý chí tất thắng (Prakamya): X. Quyền năng.

+ Tam nguyên/ Tam phân: - Tam nguyên: Là tinh thần, linh hồn và thân thể. (TLHNM II, 391)

+ Tam nguyên tinh thần của con người. - Sự sống, ý thức và hình hài. (LVHLT, 21)

+ Tam nguyên - Ba Thập Giá của vòng Hoàng đạo phản ánh Tam Nguyên được tất cả các tôn giáo công nhận, và thể hiện ba giai đoạn của cuộc sống hoặc các khía cạnh của cuộc sống. Shiva, Vishnu, Brahma là ba thể hiện của người Hindu về ý chí, mong muốn và hoạt động. Shiva đại diện cho ý chí. Ngài được cho là nhảy múa để đưa vũ trụ vào hiện hữu. Vishnu được biết đến như là Người Giữ Gìn; và Brahma là người đứng đàng sau công việc của mọi thứ trong Vũ trụ và được xem là Thần Sáng tạo. Ba Vị là 3 phương diện: Thứ nhất, thứ hai và thứ ba của Thượng đế. Trong Cơ Đốc Giáo, 3 Phương diện này là Cha, Con và Chúa Thánh Thần. Cha là ý chí thuần túy, Con muốn đem ánh sáng vào thế gian, và Đức Thánh Linh thể hiện tinh thần tích cực di chuyển trên thế giới. (Nguồn: Chiêm THNM 17)

Xem: Sơ đồ Tam nguyên Tinh thần/ Thánh đoàn và con người

+ Thượng Đế Tam Phân (LVLCK, 64)
Cha ............... Con ............... Mẹ
Tinh thần ...... Linh hồn ......... Xác thân
Sự Sống ...... Tâm thức........ Sắc tướng
Chân Thần ... Chân ngã ........ Phàm ngã
Linh ngã ...... Thượng ngã ..... Phàm ngã
Tinh thần ...... Biệt ngã…........ Phàm ngã
Điểm .......... Tam nguyên…... Tứ nguyên
Chân thần-T.Dương T.Thần- Nguyệt Tinh Quân

+ Theo Ấn Giáo: (1) Shiva, Ngôi Hủy Diệt và (2) Vishnu, Ngôi Bảo Tồn (Duy trì); (3) Brahma, Ngôi Sáng Tạo, (GLBN III, 313);
+ Thượng Đế tự tam phân 3 Ngôi: Cha - Con - Thánh Thần (CTHNM, 631);
Diễn giải thêm ba ngôi:
- Ngôi Một: Cội Nguồn của Vạn Hữu; (Vô Ngã, Vô hiện, có trước vũ trụ biểu lộ)
- Ngôi Hai (xuất phát từ Ngôi 1): Biểu lộ ra 2 trạng tháiSự sốngSắc tướng, Lưỡng nguyên nguyên thủy, tạo thành 2 cực của Thiên Nhiên, mạng lưới vũ trụ được tạo ra giữa 2 cực đó:
Sự sống – Sắc Tướng,
Tinh thần – Vật chất,
Dương – Âm,
Chủ động – Thụ động,
Phụ – Mẫu của các thế giới.
- Ngôi Ba (xuất phát từ Ngôi 2) Toàn Linh Trí, trong đó có tồn tại mọi nghi hình kiểu mẫu, cội nguồn của vạn vật, nguồn mạch của mọi năng lượng tạo hình, kho tàng lưu trữ mọi nguyên hình. (MTNX,45–46)
+ Vũ trụ của chúng ta với hằng hà sa số thiên hà là biểu hiện của Sự Sống đó (Ba Ngôi)
Xem: Tổng hợp các tương ứng của vũ trụ và con người

Xem thêm: Cấu tạo con người 2;
Xem: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ

Thượng Đế Nội Tại (God Immanent):

-Thượng Đế Nội Tại có sẵn trong mỗi con người riêng biệt, trong các nhóm và các quốc gia, trong các hình thức có tổ chức (organized forms) và trong tôn giáo, trong nhân loại nói chung và trong chính Hành Tinh Thượng Đế.(ACMVĐTG, 162)

-Bản Lai Diện Mục (Presence) tức Thượng Đế Nội Tại.

-Sự sống của Thượng Đế Nội Tại là nguồn cội của sự hoạt động, của trí tuệ, sự phát triển (growth) và tính thu hút (attractiveness) của mọi hình hài trong mọi giới của thiên nhiên. (TLHNM II, 229–230)

 

+ Tinh Tòa Thượng Đế (The Unknown) Tinh Tòa Thượng Đế có hiện thể là bảy tinh tòa, có không gian là năm cõi vũ trụ; có trung tâm lực là Vũ Trụ Thượng Đế.  (LVLCK,  293)

+ Nguyên nhân của biểu lộ: (The cause of the manifestation). Có một câu nói thời cổ diễn đạt sự thật (fact), mà Plutarch (46? – 120? Tr, T.C. – ND) đưa ra cho chúng ta bằng các lời lẽ quen thuộc: “Một ý niệm (idea) là một Thực Thể Vô Hình (a Being incorporeal), chính nó không tồn tại (which has no subsistence of itself), nhưng lại ban cấp hình dạng (figura and form) cho chất vô hình (unto shapeless matter) và nó trở thành nguyên nhân của sự biểu lộ”.(GLBN 2, 347) (ACMVĐTG,  14)

* Thái Dương Thượng Đế
- Một Đấng Vũ Trụ
Vĩ Đại, Ngài lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian là một Thái Dương Hệ. Tức Thái dương hệ là biểu lộ của năng lượng và sự sống của Thái Dương Thượng Đế.
- Thái Dương hệ này là xác thể hay sắc tướng của Đấng Vũ Trụchính Đấng này tam phân.
- Thái Dương hệ tam phân có 3 trạng thái, hay là (theo như Thần học Cơ Đốc giáo) là 3 Ngôi.
a. LỬA ĐIỆN hay TINH THẦN - Ngôi 1: Chúa Cha, Sự Sống. Ý chí. Thiên Ý. Năng lượng dương
b. LỬA THÁI DƯƠNG hay LINH HỒN - Ngôi 2: Chúa Con. Tâm Thức. Bác Ái Minh Triết. Năng lượng thăng bằng.
c. LỬA DO MA SÁT hay Xác Thể hay Vật Chất - Ngôi 3: Chúa Thánh Thần. Sắc tướng. Thông tuệ hoạt động. Năng lượng âm.
- Mỗi Ngôi lại biểu lộ tam phân, do đó tạo ra
a. 9 tiềm lực hay Phân thân.
b. 9 Sephiroth.
c. 9 nguyên nhân Điểm Đạo.
Các Ngôi này, với toàn thể biểu lộ hay Tổng Thể, tạo ra 10 của biểu lộ hoàn hảo hay Con Người hoàn thiện. 
- Ba trạng thái của Tổng Thể này hiện diện trong mỗi sắc tướng.
a. Thái dương hệ tam phân, biểu lộ qua ba Ngôi nói trên.
b. Một con người cũng tam phân, biểu lộ thành Tinh Thần, Linh Hồn và Xác thể, hay Chân Thần, Chân Ngã và Phàm Ngã.
c. Nguyên tử của nhà khoa học cũng tam phân, được tạo thành bằng một nhân dương, các âm điện tử và toàn thể sự biểu lộ bên ngoài kết quả của sự liên lạc của hai thành phần kia. - Nguồn: LVLCK, 30

7 chi chủng (branch race) hợp thành ... … Một phụ chủng.
7 phụ chủng (subrace) hợp thành .…...... Một căn chủng.
7 căn chủng (rootrace) hợp thành........... Một chu kỳ thế giới.
7 chu kỳ thế giới (world period) hợp thành..... Một cuộc tuần hoàn.
7 cuộc tuần hoàn (round) hợp thành ...... Một chu kỳ dãy.
7 chu kỳ dãy (chain period) hợp thành ….. Một hành tinh hệ.
10 hành tinh hệ (planetary scheme) hợp thành........ Một thái dương hệ (LVLCK, 62–63)

Cung 1   …….. Chưa biểu lộ
Cung 2   …….. Biểu lộ từ 1575 sau TC.
Cung 3   …….. Biểu lộ từ 1425 sau TC.
Cung 4   …….. Sẽ biểu lộ từ từ sau năm 2025 sau TC.
Cung 5   …….. Biểu lộ từ 1775 sau TC.
Cung 6 …….. Hết biểu lộ nhanh chóng. Cung này bắt đầu kết thúc năm 1625 sau TC.
Cung 7   …….. Biểu lộ từ năm 1675 sau TC. (TLHNM I, 26)

Sáng tạo (Creation): Từ ngữ sáng tạo phải được hiểu theo ý nghĩa huyền linh và có nghĩa là sự xuất hiện thành biểu lộ tích cực của một hình thức năng lượng nào đó. (LVLCK, 774)

Sáng Tạo chỉ là Ý chí tác động lên Vật chất cõi hiện tượng (phenomenal Matter), làm phát lộ ra ngoài vật chất đó Anh sáng Thiêng liêng Nguyên thủy (primodial Divine Light) và Sự sống Vĩnh cửu (Eternal Life). (GLBN III, 180)

Đấng Sáng tạo (Creator): X. Tạo Hóa, Hóa Công.

Đấng Sáng tạo (Creator): X. Tạo Hóa, Hóa Công.

+ Diệu Minh Chân Tâm: .... Như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt.
Giảng:
“Như vậy.” Tại sao Như Lai nói rằng các tướng huyễn hóa sinh khởi hư vọng? Đạo lý mà Như Lai đã giảng giải cũng giống như vậy đối với mọi phần loại khác nhau của ngũ ấm– sắc, thọ, tưởng, hành, thức–lục nhập– có nghĩa là 6 căn , mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý–từ thập nhị xứ– 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với 6 trần: sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp– cho đến thập bát giới– 6 căn, 6 trần và 6 thức phát sinh ra do khi căn và trần tiếp xúc nhau: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức. Sáu căn và 6 trần kết hợp thành 12 xứ, cùng với 6 thức tạo thành 18 giới. Các thứ sắc pháp và tâm pháp nầy, đều do nhân duyên hòa hợp mà hư vọng sinh ra, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt. Khi nhân duyên không hòa hợp thì hư vọng diệt mất. Đây là tánh của sinh diệt. Các sắc pháp và tâm pháp nầy đều chỉ biến hiện từ tâm. Nên Đức Phật bảo A-nan: “Thân tâm của ông, đều là vật biến hiện từ trong diệu minh chân tâm.” Lại nữa: “Ông không biết rằng sắc thân của ông, cho đến núi sông, hư không, đất liền đều là vật bao hàm trong diệu minh chân tâm.”(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 1)

+ Diệu Minh Chân Tâm: Thân tâm ông đều là vật hiện ra từ trong diệu minh chân tinh diệu tâm.
Giảng:
“Thân tâm ông đều là vật hiện ra từ trong diệu minh chân tinh diệu tâm.” “Thân ông” có nghĩa là thân thể ông đang mang hiện nay, và “tâm ông” có nghĩa là tâm thức của ông. Cả 2 đều là biểu hiện từ diệu minh chân tinh diệu tâm. Đó có phải là vượt lên trên và bên ngoài thức tâm mà có một diệu minh chân tâm khác hay sao?
Không phải vậy. Đó chính là thức tâm của quý vị, nó vốn ở trong diệu minh chân tâm, nhưng vì chúng sinh không biết vận dụng diệu minh chân tâm nầy, nhận lầm thức tâm làm chân tâm. Thực là sai lầm, họ đã nhận giặc làm con. Do đó khiến họ phát sinh vô số điên đảo.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q2)

+ Tánh Giác: Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung Tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “TÁNH GIÁC”.
- PHẬT TÁNH:
Đối với con người thì cái Tánh giác này là Phật tánh hay Tánh giác diệu minhChánh Nhân Phật tánh nghĩa là Tánh mầu nhiệm vốn sẵn có.
(Nguồn: Xem Mục Giác không sinh mê)

+ TÁNH GIÁC DIỆU MINH CHÂN TÂM:
Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”
Giảng giải:
Đoạn kinh văn nầy mở đầu cho phần cực kỳ quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Vì nội dung đoạn kinh này sẽ giải thích tại sao con người trở thành người
Ông có nghe Như Lai đã từng dạy : "Tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu hay không? Bạch Thế Tôn! Con đã nghe, Phú Lâu Na thưa.
- Ý ông hiểu thế nào? Tánh giác tự minh mà gọi là giác hay tánh giác không minh phải dùng tánh minh để minh tánh giác?
Ngài Phú Lâu Na bạch với Phật: Tánh giác tự minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nếu tánh giác không minh thì còn lấy gì để gọi là minh tánh giác.
Phật dạy rằng:
- Đúng vậy. Phú Lâu Na! Nếu tánh giác không tự minh thì không lấy cái gì để minh tánh giác. Và nếu tánh giác là cái sở minh thì không còn gọi là tánh giác nữa.
=> Vậy ông nên hiểu : Tánh giác vốn minh mà chúng sinh lầm tưởng phải nhờ cái minh để minh tánh giác. Sự thật tánh giác vốn không phải là cái sở minh. Nhân vì lầm tưởng mà tánh giác trở thành ra sở. Cái vọng về sở đã thành, tất cái vọng năng của ông. Nguồn gốc của vọng tưởng phát nguyên là như vậy.
+ Nguồn gốc vọng tưởng sinh ra các hiện tượng Tâm lý: Tánh giác nhất định phải là diệu minh chớ không cần nhờ vào Minh để làm sáng tỏ. Còn Vọng là minh giác nghĩa là vừa dấy động một niệm sở minh thì chính mình đã đánh mất tánh giác diệu minh rồi. Tánh giác thì bao trùm khắp pháp giới vốn không có năng minh, không có sở minh, không có năng giác, không có sở giác, nhưng vì do vọng chấp mê lầm mà mình cho rằng mình có năng giác còn đối tượng bên ngoài có sở giác. Khi có sự thiết lập của năng và sở tức là trong và ngoài thì sự phân biệt đối đãi hình thành và dĩ nhiên vọng niệm cũng phát khởi từ đây. Thí dụ như khi quán chiếu thấy tượng Phật bên ngoài tức là sở minh thì chúng ta dùng hình ảnh Đức Phật bên ngoài mà xoay lại để thấy được Phật tánh bên trong của mình tức là năng minh. Còn nếu chạy theo hình tượng Phật bên ngoài mà quên đi Phật tâm, Phật tánh thanh tịnh, bất sinh bất diệt của chính mình thì chúng ta chạy theo sở minh quên bỏ năng minh vậy.
=> Đây là nguyên nhân của phiền não khổ đau. Vì thế tánh giác vốn tự minh tự diệu, không có gì đáng gọi là sở minh. Nhưng do vọ mà giả dối lập ra sở minh và đối đãi phân biệt sinh ra cái năng minh của chúng sinh. (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác - Kinh Thủ Lăng Nghiêm)

+ Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thứcrõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Lúc bấy giờ A-nan và cả đại chúng, được sự khai thị nhiệm mầu của Đức Phật, khiến thân tâm vắng lặng, chẳng còn ngăn ngại. Trong đại chúng, mọi người đều tự nhận ra tâm mình trùm khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem một lá cây hay đồ vật trong bàn tay. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)

+ THỂ TÁNH:
Đức Phật bảo. Phú-lâu-na, ông lại hỏi rằng, tánh của đất nước lửa gió vốn là viên dung, trùm khắp pháp giới, ông nghi tại sao tánh lửatánh nước lại không xâm đoạt lẫn nhau. Ông lại nêu ra hư khôngđất liền trùm khắp pháp giới, lẽ rakhông dung hợp với nhau.
Giảng giải:
Phú-lâu-na, ông lại hỏi rằng, tánh của đất nước lửa gió vốn là viên dung, trùm khắp pháp giới. Ông bảo rằng, “Nơi nào có nước, thì nơi ấy không có lửa, và nơi nào có lửa, thì nơi ấy không có nước. Tánh của nước và lửa không dung hợp nhau.”
Quý vị nên biết rằng nước lửa và các chất khác đều có một thể tánh, tuy nhiên, chúng ta không thể nào suy lường mà biết được. Cũng như quý vị mỗi người đều có tính chất khác biệt nhau. Nước có tính chất của nước, lửa có tính chất của lửa, mắt thường của quý vị không thể nào nhìn thấy được vấn đề nầy. Khi nó đã thành lửa rồi, chúng ta mới thấy được, nhưng khi nó chưa thành lửa, tánh chất của lửa vẫn hiện hữu ở đó. Tương tự như tánh nước. Tánh nước cũng có trong khắp cả pháp giới. Vì khi có ánh sáng mặt trời, chúng ta vẫn có thể dùng kính lúp để lấy được lửa, và dưới mặt trăng chúng ta vẫn có thể lấy nước,[1] vì thể tánh của các chất nầy vẫn hiện hữu trong hư không. Quý vị thấy hư không vốn trống rỗng, nhưng thực ra nó được chất đầy bởi vô số các hiện tượng. Và hư không chính pháp giới. Tuy nhiên, Phú-lâu-na không hiểu rằng tại sao tánh của nước và lửa lại cùng lúc trùm khắp cả pháp giới.
“Phú-lâu-na, ông nghi tại sao tánh lửa và tánh nước lại không xâm đoạt lẫn nhau. Ông lại nêu ra hư không và đất liền trùm khắp pháp giới, lẽ ra nó không dung hợp với nhau. ‘Hư không là hư không,’ ông lý luận, ‘và nếu ở đó có hư không thì sẽ không có đất. Đất là vật cứng chắc, ngăn ngại, thế nên sẽ không có chút nào hư không trong đó cả. Nếu hư không trùm khắp pháp giới thì trong đó sẽ không có đất. Nếu đất trùm khắp pháp giới thì trong đó sẽ không có hư không.’” Đức Phật lập lại mối nghi của Phú-lâu-na.

+ Như Lai dùng Tánh giác diệu minh bất sinh bất diệt hiệp cùng Như Lai tạng, thì Như Lai tạng chỉ thuần là Tánh giác diệu minh, chiếu khắp cả pháp giới.
Cho nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong cái nhỏ hiện ra cái lớn, trong cái lớn hiện ra cái nhỏ.
Đạo tràng bất động cùng khắp cõi giới mười phương. Thân bao trùm cả hư không vô tận khắp mười phương. Ở trên đầu một mảy lông mà hiện ra cõi Bảo vương. Ngồi trong vi trần mà chuyển bánh xe đại pháp. Diệt trần tướng, khế hợp tánh giác, nên phát ra tánh giác chân như sáng suốt nhiệm mầu.

Quán về tánh, vốn là chân, chỉ là tánh diệu giác minh. Tánh diệu giác minh, vốn chẳng phải là lửa, là nước. Làm sao còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?
Giảng giải:
Khi quán chiếu sâu vào Tánh Như Lai tạng, thấy xưa nay vốn là chân, hoàn toàn không có một vọng tưởng nào. Trong đó duy chỉ có tánh diệu giác viên minh chân thật. Xưa nay vốn chẳng có các tướng đất nước, lửa, gió; chỉ vì trong tánh Như Lai tạng vốn có đầy đủ tất cả các pháp, đầy đủ tất cả tánh năng. Tuy đầy đủ các pháp: năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, đều có đủ tất cả công năng, nhưng đều cùng nhau tương hợp an ổn vô sự, mỗi tướng đều được an lập nơi phần vị của mình, không có sự xâm đoạt, lấn diệt lẫn nhau. Khi đã rõ rồi, thì sẽ không cần phải hỏi về chuyện các hiện tượng có dung hợp nhau trong tánh Như Lai tạng.

Tánh diệu giác minh chân thật cũng như vậy. Nếu ông phát minh hư không, thì có hư không hiện ra. Nếu ông phát minh đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ đều hiện ra. Nếu cùng phát minh các hiện tượng, thì tất cả cùng hiện ra.
Giảng giải:
"Tánh diệu giác minh chân thật"- tức là thường trú chân tâm tánh tỉnh minh thể cũng như vậy. "Nếu ông phát minh hư không, thì có hư không hiện ra. Nếu ông phát minh đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ đều hiện ra" - Nếu ông tạo ra nhân duyên khiến phát sinh một hoặc các yếu tố: đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ ấy đều được hiện ra. "Nếu cùng phát minh các hiện tượng, thì tất cả cùng hiện ra" - Nếu cùng lúc tạo ra nhân duyên khiến phát sinh tất cả, thì tất cả các đại chủng ấy đều hiện ra. Chẳng hạn, một người có thể nghĩ đến – có nghĩa là có trong mình – Lửa trong mặt trời và nước từ trong hạt châu cùng một lúc.

Thế nào là cùng hiện ra? Phú-lâu-na, như trong chỗ có nước hiện ra bóng mặt trời, có hai người cùng xem mặt trời hiện trong nước. Rồi mỗi người đi về mỗi hướng đông tây khác nhau, ắt là họ đều thấy có mặt trời theo mình. Theo hai người cùng đi, một về hướng đông, một về hướng tây, không có chuẩn đích nhất định.
Nên không thể gạn hỏi rằng, mặt trời ấy chỉ là một, tại sao khi mỗi người đi đều có mặt trời đi theo? Mặt trời đã thành hai, tại sao trước kia chỉ hiện ra một? Hư vọng quanh quẩn như vậy, chẳng có gì để làm bằng cứ.
Phú-lâu-na, ông lấy cái sắc không khuynh loát, xâm đoạt nhau trong Như Lai tạng, thì Như Lai tạng sẽ cùng theo ông làm sắc, làm không hiện khắp cả pháp giới.
Thế nên trong ấy, gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Chúng sinh mê lầm, trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian.
Giảng giải:
"Thế nên"– do vì sắc và không tương tục xâm đoạt lẫn nhau trong tánh Như Lai tạng, trong đó sinh khởi tác dụng cùng với các tướng hữu vi. Do các nguyên nhân nầy, mà sắc và không trở thành hiện hữu, tướng và dụng của nó trùm khắp cả pháp giới. "Trong ấy" - trong tánh Như Lai tạng, "gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối". Nguyên nhân là do "chúng sinh mê lầm". Ở trong chỗ vô số hiện tượng ấy, chúng sinh trở nên mê lầm. Họ không nhận ra được đạo lý về chân tâm, nên họ bị mê muội. Do vậy, nên trong chân tâm (phần chân) của tánh Như Lai tạng đã sinh khởi nên tam tế lục thô.

Như Lai dùng tánh giác diệu minh bất sinh bất diệt hiệp cùng Như Lai tạng, thì Như Lai tạng chỉ thuần là tánh giác diệu minh, chiếu khắp cả pháp giới
Cho nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong cái nhỏ hiện ra cái lớn, trong cái lớn hiện ra cái nhỏ.
Mà Như Lai tạng chính là bổn diệu viên tâm.
Giảng giải:
Còn có thể gọi tánh Như Lai tạngbổn diệu viên tâm. Vốn là vi diệu, viên mãn, thanh tịnh và trùm khắp pháp giới. Nó lớn đến nỗi không có cái gì vượt qua nó được và nhỏ đến mức trong đó chẳng có gì. Cái bổn diệu viên tâm khác với các hiện tượng kia như thế nào? Đức Phật bảo:
- Không phải là tâm, chẳng phải là không. Không phải là đất, chẳng phải là nước, chẳng phải gió, chẳng phải lửa; ... Như thế cho đến chẳng có Như Lai, chẳng phải A-la-hán, chẳng có Chánh biến tri. Chẳng có đại niết-bàn, chẳng có thường lạc ngã tịnh.
Do đó đều chẳng phải là các pháp thế gian xuất thế gian. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng.
- Tức là tâm, là không. Tức là đất nước gió lửa. Tức là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Tức là sắc thanh hương vị xúc pháp. Tức là nhãn thức giới, ..... tức trí huệ, tức lục độ. Như thế cho đến tức Như Lai, tức Ứng cúng, tức Chánh biến tri. Tức đại niết-bàn, tức thường lạc ngã tịnh .
===> Do vậy nó là cả hai pháp thế gian và xuất thế gian, Tức là Như Lai tạng diệu minh tâm nguyên.
Rời các nghĩa “tức,” “phi,” mà cũng là nghĩa “tức,” và chẳng phải nghĩa “tức.”
Làm sao chúng sinh trong ba cõi thế gian, cùng với hàng Thanh văn Duyên giác xuất thế gian, đem tâm sở tri mà suy lường Vô thượng bồ-đề của Như Lai, dùng ngôn ngữ thế gian để nhập vào tri kiến Phật?
HT Tuyên Hóa giảng về Như Lai Tạng ở trên: Giáo pháp được giảng bây giờ chính là không Như Lai tạng. Kế đến, quý vị sẽ được giải thích Như Lai tạng vốn là không và bất không. Thế nên quý vị thấy, Như Lai tạng vốn không chỉ đơn thuần là một trạng thái, mà nó có vài điều khác biệt trong nầy. Vậy nên quý vị đừng thấy rằng mình biết được vài thuật ngữ Phật pháp rồi kể rằng mình đã hiểu được tất cả. Có thể quý vị chỉ biết về Như Lai tạng, nhưng quý vị còn phải biết cách làm cho Như Lai tạng thành không; và quý vị biết được Như Lai tạng là bất không, nhưng rồi quý vị phải nhận ra được Như Lai tạng vốn vừa là không vừa là bất không. Quá rắc rối, phải không?(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)

+ Bản giác và Minh Giác: ... Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến, đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác?
Giảng:
Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến. Các ông lập nên một tri kiến khác trên cái tri kiến vốn đã là hư vọng. Đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Ông đã nhận ra rằng tri kiến của mình vốn là không có tự thể, thế nên ông không khởi một niệm tưởng nào căn cứ trên tri kiến ấy. Ngay trong tri kiến ấy mà không khởi một niệm tưởng phân biệt nào chính là tương ưng với Đạo. Đó chính là niết-bàn vô lậu chân tịnh. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác? Trong chỗ vắng bặt tri kiến, làm sao còn dung chứa một thứ gì khác? Nơi ấy chính là bản nguyên thanh tịnh pháp giới. Tại sao ông lại muốn đưa thêm một thứ gì nữa vào trong đó? Tại sao lại chồng thêm tri kiến lên trên tri kiến? Nguyên lý nầy cũng như trong đoạn kinh trước đã nói, “Bản giác vốn là diệu minh, nhưng hư vọng nên thành minh giác.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)

+ Giảng về đặc tính "Chủng tử"/ Thể - Dụng: Có 10 phẩm tính của Thể tánh của chủng tử gồm có:
Sát na diệt - Quả câu hữu - Hằng tùy chuyển - Tánh quyết định (Thiện , ác và Vô ký) - Đãi chúng duyên - Dẫn tự quả (Hạt gì Cây đó) - Tự biến cộng biến - Tương tức tương nhập - Không cũ không mới - Bất nhị (Tính liên tục nuôi trưởng dưỡng) - Không thêm không bớt.
A lại ra thức (Vô ký) bị bao phủ bởi 7 thức thấp hơn/ hạt giống Nghiệp bao gồm tham sân si vui buồn .... Ví như hương sen ướp ra nhiều loại chè khác nhau => Chè/ Thức bị ướp - Bị nhiễm (Nguồn: Xem Sư ông Nhất Hạnh giảng)

+ Xin mời quí vị đọc bài tổng hợp chuyên đề với thuật ngữ Thể Dụng vi diệu của Như Lai tạng và tánh Như lai tạng, bản giác ... : Mời xem tại đây

Tổng Quả Báo (The Dweller on the Threshold, Tổng Quả):
+ Tổng quả báo có thể được định nghĩa là toàn thể các mãnh lực của bản chất thấp như đã biểu lộ trong Phàm ngã trước khi có sự giác ngộ, tạo hứng cảm và sự điểm đạo. Vào lúc này, chính Phàm ngã cực kỳ mạnh và Tổng Quả biểu hiện cho tất cả các sức mạnh tâm thông và hạ trí mà qua bao thời kỳ, đã phát triển trong con người và được bảo dưỡng cẩn thận. Nó có thể được xem như là sức mạnh của hình hài vật chất tam phân trước khi nó cố tâm hợp tác và xã thân cho cuộc sống của linh hồn và cho việc phụng sự Thánh Đoàn, Thượng Đế và nhân loại.    – Tổng quả là tất cả những gì có nơi con người ngoại trừ Chân Ngã tâm linh cao siêu; đó là trạng thái thứ ba của thánh linh (divinity) khi được biểu hiện trong và qua con người. Sau rốt, trạng thái thứ ba này phải chịu phục tùng vào trạng thái thứ hai tức linh hồn.   (ACMVĐCTG, 90-91 - TLHNM–II, 312)
+ Tổng quả là chính nhân loại với các thói quen suy tưởng xưa cũ, lòng ích kỷ và tham lam. (SHLCTĐ, 137)
+ Trong thực tế, tổng quả/tổng quả báo là một hình tư tưởng được truyền sinh lực (a vitalised thought-form), tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ (mental force) sức mạnh cảm dục (astral force) và sinh-năng (vital energy). (ACMVĐTG,   27)

+ LINH HỒN THỨC ĐẦU THAI: Linh Hồn theo Minh Triết Thiêng Liêng. Còn Thức Đầu Thai theo Phật giáo. Cả hai đều chỉ năng lượng gốc để từ đó có con người và nhân loại trên thế gian. Về bản chất không có mấy khác biệt.
* Có một số người nói là trong đạo Phật không có quan niệm về “Linh hồn.” Vậy có đúng không?
Đáp: Có lẽ là có một số người nói như thế. Nhưng những lời nói đó đâu có thể đại diện cho cả toàn thể Phật giáo được. Từ trước tới nay, tôi chưa nghe qua đạo lý này, mà tôi cũng là một phần tử của Phật giáo vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 368)

+ Tam hồn trong con người (Three souls in man): Cần nên nhớ rằng, mọi quyền năng tâm thông là các quyền năng, năng lực và năng khiếu của Linh hồn Độc Nhất (One Soul), nhưng trong thời gian và không gian, một số trong chúng là các biểu hiện của động vật thức hay sinh hồn (animal soul), một số của nhân hồn (human soul) và một số của hồn thiêng liêng (divine soul). (TLHNM II, 559)

+ Sinh hồn (Animal soul) và Linh hồn (soul): Trong thiên nhiên, có loại thần lực (force) làm linh hoạt các giới dưới nhân loại, năng lượng phú linh hồn (ensouling energy), khi được kết hợp với năng lượng của vật chất và bản ngã (self), sẽ tạo ra mọi hình hài. Hiệu quả của việc liên kết (junction) này là đưa thêm vào trí tuệ còn phôi thai của chính vật chất một khả năng cảm thụ (sentiency) và khả năng đáp ứng tiềm tàng để tạo ra một cái gì đó nằm bên trong (subjective something) mà chúng ta gọi là sinh hồn. Sinh hồn tồn tại theo bốn mức độ hay bốn trạng thái cảm thức (sentient awareness):

1. Ý thức (consciousness) của giới khoáng vật.
2. Ý thức của giới thực vật.
3. Ý thức của giới động vật.
4. Ý thức của phàm nhân (animal form) mà chân nhân hoạt động thông qua đó, mà sau rốt chỉ là một bộ phận của nhóm trên dưới hình thức cao nhất.

Thứ đến là, có loại lực tâm thông (psychic force) vốn là kết quả của sự kết hợp của tinh thần với vật chất hữu cảm thức trong giới nhân loại, nó tạo ra một trung khu tâm thông (psychic centre) mà ta gọi là linh hồn của con người (soul of man). (LVHLT, 12)

+ Linh hồn và Nhân hồn: Cần phân biệt Linh hồn trên cõi của nó, liên quan đến mô tả trong các cõi cảm dục và trí tuệ. Đó là Nhân hồn - Linh hồn phân thân đi đầu thai.
* Phải nhớ rằng
không có cái nào trong số tên gọi này và các hoạt động này (Trên cõi cảm dục, cõi trí) liên quan đến linh hồn trên cõi riêng của nó (Chân Ngã – ND), mà chỉ có liên quan tới các nhân hồn (human souls) đang luân hồi trên cõi trần mà thôi. Điều này phải được nhấn mạnh, vì trên cõi riêng của mình, các Linh hồn của tất cả mọi người đều thoát khỏi ảo tưởng (illusion), và không linh hồn nào có thể bị hủy diệt, bị lừa dối cũng không bị lôi kéo. Đó chỉ là “những linh hồn trong ngục tù”, những linh hồn này bị lệ thuộc vào các hoạt động của các tà lực (forces of evil) và chỉ trong một kỳ hạn (LVHLT, 241)

+ Nhân hồn và hồn tinh thần: Khi hai giai đoạn của Nghệ thuật Từ Trần kết thúc, linh hồn thoát xác trở nên thoát khỏi sự kềm chế của vật chất; linh hồn này được thanh luyện (tạm thời bằng các giai đoạn hoàn trả và loại bỏ) khỏi mọi sự nhiễm trược (contamination) của vật chất. Đạt được điều này không phải qua bất cứ hoạt động nào của hồn trong hình hài (soul in form), tức nhân hồn, mà là do kết quả của hoạt động của linh hồn trên cõi riêng của nó (tức là Hồn Tinh thần trên cõi Thượng trí–ND), Hồn Tinh thần này đang tách ra một phần của chính nó mà chúng ta gọi là nhân hồn. Về cơ bản, chính công việc của hồn đang phù trì (overshadowing soul, tức là Hồn Tinh thần–ND) mới là thực hiện điều này chứ hồn trong phàm ngã (soul in personality, tức Nhân hồn–ND) không hề làm việc đó. Trong giai đoạn này, nhân hồn chỉ đáp ứng với lực kéo (pull) hay lực thu hút (attractive force) của hồn tinh thần (spiritual soul) khi hồn tinh thần – với ý định có cân nhắc – kéo nhân hồn ra khỏi các lớp vỏ giam nhốt của nó. Sau đó, khi các diễn trình tiến hóa nối tiếp và linh hồn ngày càng kềm chế phàm ngã, chính là phần hồn bên trong các lớp vỏ giam nhốt này mới sẽ tạo ra – một cách hữu thức và có chú tâm – các giai đoạn từ trần. Trong các giai đoạn trước, việc giải thoát này (release) chỉ được tạo ra với sự trợ giúp của hồn tinh thần đang phù trì (overshadowing spiritual soul). Về sau, khi con người đang sống trên cõi trần với tư cách là linh hồn (tức nhân hồn–ND)– với sự liên tục đầy đủ của ý thức – chính linh hồn (soul–tức Nhân hồn) sẽ tiến hành các tiến trình tách ra, và lúc bấy giờ sẽ (với mục tiêu có định hướng) “tiến lên chỗ mà từ đó linh hồn (nhân hồn–ND) xuất phát”. (CTNM, 409–410)

+ Con người tiến hóa: Toàn bộ tầm quan trọng của cả quá trình tiến hóa, xét cho cùng, được đặt trên sự phát triển của tâm thức: ý thức thông minh làm sinh động các hình tướng, ở mọi trình độ khác nhau. ....Tác động 1 của linh hồn, vào lúc Biệt Ngã Hóa:
- Biệt ngã hóa, điểm đạo và đồng nhất hóa, gồm toàn bộ quá trình sự nghiệp của con người, từ lúc y xuất hiện vào trong giới nhân loại cho đến khi y chuyển ra khỏi nó ở cuộc điểm đạo thứ ba, và hoạt động tự do trong giới thứ năm, giới Thần Thánh (God). Tác động của linh hồn mang lại sự tiến hóa này. (Trích TLHNM)
I. Con Người tiến hóa qua Thập Giá: Nhờ Nghiên Cứu các Thập Giá, Chiêm Tinh Gia biết ai đó đang ở đâu trên đường tiến hóa. Mỗi Thập giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (Là các biến phân ba mặt của sự sống duy nhất). Chân Sư DK (CTHNM, 379, 380)
1- Thập Giá Cơ Bản ‒ Aries, Cancer, Libra, Capricorn
a. Về con người thông thường, cá biệt.
b. Về các cội nguồn tập thể.
c. Về ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 1.
2- Thập Giá Cố Định ‒ Taurus, Leo, Scorpio và Aquarius ‒ y sẽ đi đến lý giải chính xác về các sự sống:
a/ Của các điểm đạo đồ.
b/ Của sự thu hút tập thể thành tổng hợp.
c/ Của ý nghĩa về cuộc điểm đạo thứ 3.
3- Thập Giá Khả Biến ‒ Gemini, Virgo, Sagittarius và Pisces ‒ Y có thể đi đến ý nghĩa:
a/ Của các đệ tử.
b/ Của hoạt động tập thể.
c/ Ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 2.

II. Tiến hóa qua Cung Hoàng Đạo: Chia làm 3 nhóm theo trình tự phát triển - Tiến hóa CHIỀU ĐẢO NGHỊCH:
1. Chuẩn Bị: Một trí tuệ được kiểm soát, một năng lực để ghi nhận sự khai ngộ, một khả năng để tiếp xúc với khía cạnh bất tử và nhận ra một cách trực giác giới tinh thần, giờ y sẵn sàng việc lớn lao hơn.
- Bạch Dương linh hồn khoác lấy lớp vỏ trí tuệ - Linh hồn biết tư duy.
- Kim Ngưu thế giới dục vọng và phương tiện của cảm xúc phát triển - Linh hồn hữu thức
- Song Tử, một thể năng lượng được kiến tạo, một linh hồn sống động, thể dĩ thái được tạo ra.
- Trong Cự Giải công việc giáng sinh bắt đầu, bản chất tứ phân được biểu lộ.
2. Đấu Tranh cho Thành Tựu: Từ trận chiến vĩ đại mà thông qua đó cá nhân tự ý thức xuất hiện từ đám đông trong Cự Giải. Đây là 4 Cung của khủng hoảng và của sự nỗ lực lớn lao, tất cả sự khai ngộtrực giác và năng lực linh hồn đều cần đến.
- Biết mình là cá thể, Linh hồn đạt được cá tính trong Sư Tử.
- Là đấng Christ tiềm năng, trở thành người nuôi dưỡng các ý tưởng và năng lực tiềm tàng trong Xử Nữ.
- Nỗ lực cân bằng các cặp đối nghịch, chao đảo dữ dội từ cực đoan này đến cực đoan khác trong Thiên Bình.
- Phải chịu sự tác động, kỷ luật của thế giới ảo tưởng và hình tướng, trở thành người chiến thắng ảo tưởng trong Hổ Cáp.
* 5 Kỳ Công đầu:  “Chúng ta có thể xem 5 kỳ công đầu tiên (Bạch DươngKim NgưuSong TửCự Giải, và Sư Tử) là Con Đường Dự bị, và việc giết chết con Sư Tử Nemea là đỉnh điểm của hành trình gian khó đó. Bây giờ y sẵn sàng bước vào Con đường Đệ tử, trên đó đấng Christ nội tại đang dần tiết lộ, vật chất đang dần phục vụ cho linh hồn sử dụng, và phương diện hình sắc chỉ đơn giản được xem là “mẹ của đấng Christ Hài đồng”
3. Thành Tựu: Những thành quả đạt được và các quyền năng đã được phát triển. Người chí nguyện đã thoát ra khỏi thế giới của huyễn cảm và sắc tướng, và tâm thức của y bây giờ không chịu những hạn chế của chúng:
– Y có thể là cung thủ trong Nhân Mã, đi thẳng đến mục tiêu.
– Y có thể là con dê trong Ma Kếtleo lên ngọn núi Điểm đạo.
– Y có thể là người làm việc thế gian trong Bảo Bình
– Và là Đấng Cứu Thế trong Song Ngư
Vì thế, y có thể tóm tắt trong mình tất cả những gì đạt được trong giai đoạn chuẩn bị và trong những trận chiến quyết liệt trong 4 cung của hoạt động nỗ lực; (Nguồn: Các Kỳ Công)

+ Ba cách tiến hóa (Thuận chiều và Nghịch chiều)_Chân Sư DK (CTHNM, 295):
1. Giai đoạn quá khứ xa xăm đã qua - Không xét: Sự tiến bộ của nhân loại từ Aries đến Pisces, qua Taurus.
2. Ý nghĩa thuận chiều Vật chất - Tiến Hóa Công Truyền (Ngoại Môn = Hiện Tại): Tiến bộ của con người cá biệt diễn ra ngược lại với tiến bộ của tập thể; ở giai đoạn này, cá nhân tiến theo chiều kim đồng hồ từ Aries đến Taurus, xuyên qua Pisces. Sự sống của y lúc đó và về lâu về dài hầu hết là ngược với xã hội (anti-social) theo ý nghĩa tâm linh; y trở nên ích kỷ (selfish) và duy ngã (self-centred, trụ vào bản ngã). Các cố gắng của y đều dành cho chính y, cho sự thỏa mãn của y, riêng y và các hoạt động của phàm ngã trở nên ngày càng mạnh. Đây là tình trạng hiện tại đối với quần chúng.
3. Ý nghĩa Nghịch chiều/ Đảo Ngược - Tiến Hóa Bí Truyền (Nội Môn = Tương Lai): Cùng chiều với "giai đoạn 1". Tiến bộ của con người được tái định-hướng từ Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus. Trong giai đoạn cuối cùng này, y quay trở lại cùng phương pháp được hướng dẫn, tức nhịp điệu và chừng mực của hoạt động quần chúng trước kia nhưng lần này với các thái độ được thay đổi và đang thay đổi của việc phụng sự không ích kỷ, một phàm ngã được hiến dâng cho việc phụng sự nhân loại và với một sự tái định hướng tự ý của các năng lực của y sao cho chúng được hướng đến việc tạo ra sự tổng hợp và cảm thông. Việc này sẽ là tình huống trong tương lai đối với quần chúng.
* Nhà chiêm tinh học của tương lai sẽ phải ghi nhớ cẩn thận ba cách tiến hóa này. Đó là Thiên Cơ như hiện tại chúng ta có thể nhận biết được nó.
* Ví dụ với Cung Xử Nữ: Là cung thứ 6 xét theo cách này của Hoàng đạo (chiều Nghịch/ Đảo ngược) - Cung thứ 7 nếu người ta không xét vòng đảo ngược (Chân Sư DK_CTHNM, 285)

+ Tâm Phan Duyên - Tâm Thức nhị nguyên: Con người thường dùng với Tâm thức nhị nguyên - Tâm phan duyên chứ không phải Chân Tâm, cần phân biệt Chân Tâm Tâm nhị nguyênđa số nhân loại đang sống băng tâm nhị nguyên này. Loài Người Có Căn Tánh - Bản Tánh - Tánh Người - Tâm Tánh và cả Tánh Phật trong Con Người. Xin trích đoạn ngài A Nan hỏi Đức Phật Tâm trụ ở đâu: ... Đức Phật: Con người đều do không biết hai món căn bản, nên tu tập sai lầm.
HT Tuyên Hóa giảng: ... Và do vì họ không hiểu được nên họ bị sai lầm trong khi tu tập. Kết quả thành ra mê mờ. Họ không biết làm sao hành trì cho đúng pháp chân chính. Ví dụ như ở Ấn Độ có một phái ngoại đạo chuyên thực hành pháp tu khổ hạnh bằng cách ngủ trên giường đinh. Họ cho rằng người ta sẽ được công đức nhờ dám tu tập hạnh khổ nhọc như vậy. Có công đức gì trong việc làm ấy? Dù quý vị có ngủ trên dao đi nữa, cũng vô ích mà thôi. Có một số người khác cố làm cho được những thói quen của loài bò và loài chó. Họ bắt chước y hệt cử chỉ của các loài vật này. Tại sao vậy? Đó cũng như là tình trạng nhầm lẫn mê mờ phương pháp tu hành chân chính. Họ thực hành lối tu khổ hạnh vô ích chẳng đạt được kết quả gì cả, dù họ có tu hành khổ nhọc đến đâu đi nữa.
Bây giờ Đức Phật mới đưa ra một ví dụ. Họ cũng như người nấu cát mà mong muốn thành cơm. Dù có trải qua nhiều kiếp như vi trần nhưng rốt ráo vẫn không thể đạt được những gì mong muốn.
Cát hoàn toàn chỉ biến thành cát, cát không thể biến thành thức ăn được. Những người này không hiểu được hai món căn bản nên mê mờ, nhầm lẫn trong công phu tu tập. Chung quy sẽ dẫn đến những việc tương tự như vậy. Những gì là hai món căn bản?
Một là căn bản sinh tử, từ vô thỉ, chính là tâm phan duyên mà hiện nay ông và toàn thể chúng sinh nhận làm tự tánh.
HT Tuyên Hóa giảng: "Nhận lấy tâm phan duyên này, quý vị lầm cho rằng đó chính là tự tánh. Quý vị nhận lầm tâm phàm phu làm bản tâm của mình, vậy nên làm sao mà chẳng bị luân hồi trong sinh tử?
Quý vị không nhận ra được bản tâm là gì, thay vì vậy, quý vị nhận giặc làm con, trong tương lai nó sẽ lấy sạch châu báu trong nhà cửa của quý vị. Đó chẳng gì khác hơn là vọng tưởng, nó khiến cho quý vị nghĩ rằng mình có chút thành tựu bởi đã dùng tâm phan duyên. Đây chính là sai lầm mà A-nan đã mắc phải."

Thứ hai nguyên thể thanh tịnh của bồ-đề niết-bàn từ vô thỉ. Đó chính là cái thức tinh nguyên minh của ông. Hiện nay hay sinh khởi các duyên bị ông quên mất.
HT Tuyên Hóa giảng: Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ-đề niết-bàn từ vô thỉ.
Chẳng có khởi đầu nên Đức Phật gọi là “vô thỉ”; ngay cả những gì xảy ra trước lúc khởi đầu.
Bồ-đề là tiếng Phạn (bodhi), dịch nghĩa là giác ngộ được đạo lý. Có ba nghĩa:
1. Chơn tánh bồ-đề: tức là Phật tánh mà mọi chúng sanh đều vốn có sẵn. Thông thường mọi chúng sanh đều có chơn tánh bồ-đề này.
2. Thật trí bồ-đề: tức là trí tuệ chân chính chẳng phải là tà tuệ.
3. Phương tiện bồ-đề: Tức là phương tiện của những người sau khi đã chứng đạo, họ quán sát căn cơ, nghiệp lực của chúng sinh mà có phương cách thích hợp để giáo hóa.
Ba dạng bồ-đề này có thể xem là một, phân ra gọi là ba, thực ra chỉ là một. Cả ba chính là chân tánh bồ-đề và do nơi chân tánh bồ-đề mà có được Thật trí bồ-đề và phương tiện bồ-đề.
Rốt ráo, bồ-đề do đâu mà có? Bồ-đề chẳng từ đâu mà có mà cũng chẳng đi về đâu. Mỗi người chúng ta xưa nay vốn đã từng có sẵn tánh bồ-đề trong mình rồi. Chẳng người nào có tánh bồ-đề ít hơn hay nhiều hơn người kia. Tánh bồ-đề ấy không tăng thêm không giảm bớt; không sinh ra, không mất đi chẳng thanh tịnh, chẳng dơ uế.

Có một số người học Phật có cái nhìn chưa rõ ràng, cho rằng niết-bàn chính là chết nhưng niết-bàn là còn nhấn mạnh đến cái không phải chết. Những ai vướng mắc vào quan điểm này chưa phải là người thông hiểu Phật pháp.

Giảng về: Đó chính là thức tinh nguyên minh của ông.
Chữ “nguyên” có nghĩa là cội gốc của bản thể thanh tịnh. Nghĩa là cái mà chẳng phải nhiễm ơ, chẳng phải thanh tịnh, không thêm, không bớt. Ánh sáng của nó vốn thường soi chiếu khắp nơi. Chữ “thức” ở đây không phải là tám thức, chẳng phải mạt-na hay a-lại-da thức. Nó chẳng liên quan gì đến tám thức ấy cả. Nó chính là cái tối tinh, tối diệu của thức, thể tánh của nó bản nguyên thanh tịnh, nó chỉ là tên gọi khác của bồ-đề niết-bàn. Cụm từ được dùng ở đây là nhờ vào lối văn chương bóng bẩy tránh sự lặp lại. Nó chính là khía cạnh rất tinh vi và mầu nhiệm của thức, của Phật tánh bản hữu của chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể.

Giảng về: Hiện nay hay sinh khởi các duyên mà bị ông quên mất.
Vì những nhân duyên này sinh khởi, nên quý vị phải bị đẩy đi xa, xa mãi nơi quý vị muốn trở thành, cũng giống như người càng chạy càng xa mãi nơi mình đứng. Tôi đã từng nói trước rằng A-nan càng trả lời những vấn nạn của Đức Phật thì càng đi xa dần mục tiêu cần nhắm đến đó sao?

Tất cả các duyên này đều lưu xuất từ thức tinh nguyên minh mà có, nhưng sau một thời gian dài chấp giữ các duyên này, nên dường như bỏ quên mất thức tinh nguyên minh.

Cái gì bị bỏ quên?
Chẳng cái gì cả. Thực vậy. Thức tinh nguyên minh dường như bị bỏ quên nhưng không phải như vậy. Bản thể bổn nguyên vốn thanh tịnh. Bồ-đề niết-bàn là của báu chân thực trong nhà quý vị. Cơ bản là nó ở ngay bên cạnh quý vị nhưng quý vị không biết cách sử dụng nó để làm lợi ích cho mình. Bởi vì quý vị không biết cách sử dụng của báu ấy nên nó dường như bị bỏ quên. Như thể quý vị có một viên ngọc quý vô giá mà quý vị đem cất giấu vào nơi rất kín đến nỗi sau một thời gian dài quý vị không còn nhớ mình cất giấu viên ngọc ở đâu nữa. Khi quý vị đã quên không biết nó ở đâu thì không thể biết cách sử dụng nó cho có lợi ích. Mặc dù quý vị bị khốn quẫn nhưng không thể nào sử dụng được viên ngọc và hưởng được lợi ích từ viên ngọc quý ấy. Cũng giống như thể viên ngọc không có ở trong nhà quý vị vậy. Nên quý vị phải dùng thứ gì để thay thế? Quý vị dùng vọng tưởng của quý vị, dùng tâm phan duyên của mình để thay thế. Trong khi quý vị quên mất chơn tâm của mình và một khi chơn tâm đã bị bỏ quên thì nó cũng hoàn toàn giống như bị mất. Đây chính là lý do tại sao quý vị không thể thành Phật, thay vì vậy lại bị trói buộc trong vòng sinh tử, do vì quý vị không nhận ra chơn tâm.

"Do các chúng sinh bỏ quên tánh bản minh này, tuy trọn ngày mình sử dụng nó mà chẳng tự biết, nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi".
HT Tuyên Hóa giảng: Chúng sinh sống trong thể tánh thanh tịnh, trong chân tâm thường trú hằng ngày. Bởi vì vọng tưởng vốn xuất phát từ chơn tâm, đó chính là tâm phan duyên lưu xuất từ một niệm sinh khởi từ vô thỉ. Tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là sự biểu hiện từ chân tâm và niệm khởi này theo sát quý vị từ sáng đến tối, nhưng quý vị không thể nào nhận biết được niệm ấy. Quý vị chỉ biết làm thế nào để vận dụng tâm vọng tưởng của mình mà thôi.
Chơn tâm - Phật Tánh được biểu hiện qua tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh biết (Xúc chạm), Nhạy bén linh lợi.
Đó là cách thế tự nhiên như khi tay mình cầm đồ vật. Tất cả những điều này đều là biểu hiện sự vi tế, bất khả tư nghì của chân tâm. Nhưng không ai biết được điều này. Bây giờ A-nan vẫn còn mê mờ, thế nên Đức Phật dùng rất nhiều cách ví dụ để giảng giải cho A-nan.

"Nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi".
HT Tuyên Hóa giảng: Vì chúng sinh mãi chấp cứng vào tâm phan duyên nên phải trôi lăn vào trong các cõi chẳng biết những nghiệp mình tạo ra hằng ngày. Nơi thọ sanh là nơi mà quý vị mong mỏi nhắm đến. Quý vị đi thẳng một mạch đến đó. Rồi quý vị sẽ kết thúc đời mình ở nơi đâu? ở trong các cõi. Đó là trong sáu nẻo luân hồi. Có ba cảnh giới lành là: cõi trời, a-tu-la và cõi người. Có ba cảnh giới không lành là súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Bất kỳ quý vị tạo ra nghiệp gì, thì quý vị phải nhận chịu quả báo của việc ấy. Do không nhận ra được chân tâm bổn tánh, nên chấm dứt đời mình trong sáu nẻo luân hồi, dù không muốn vào đó mà cũng vẫn phải vào.(Nguồn: mục 77- HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)

+ KHI NGƯỜI PHỤ NỮ PHÁ THAI GIẾT CON, NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ PHẢI CHỊU NGHIỆP TỘI SÁT SANH, GIẾT CON MÌNH HAY KHÔNG?
[Hỏi] Thưa Pháp Sư, con có một anh bạn nói với con: anh ấy đã bỏ 5 cháu và cũng có ra ngoài với người phụ nữ khác và đã bỏ tiếp 13 cháu, anh ấy hỏi việc này có phải do anh ấy không? Và hỏi thêm: 13 cháu đã bỏ bên ngoài đó có phải là trách nhiệm của anh ấy không? Con trả lời: tất nhiên là có rồi! Anh ấy nói: vậy liên quan đến tôi ở chỗ nào, ... anh ấy có phải chịu Nhân-Quả cho việc phá thai không ạ?
[Đáp] Tội nghiệp này là như nhau! Những anh linh nhỏ bé đó sẽ không buông tha anh ta. Lúc anh ta có vận khí, gặp vận may những anh linh nhỏ bé này sẽ không đi tìm anh ta, họ đợi đến khi anh ta qua vận may rồi, lúc mà xui rủi đến thì chúng sẽ xuất hiện. Bọn chúng sẽ đợi cơ hội để báo thù người cha này của chúng.
Người nữ mà phá thai thì người nam phải chịu tội chung. Việc giết người này quá tàn nhẫn, quá tàn nhẫn, bạn nhất định không được làm chuyện này!
....... Quả báo rất nặng nề, quả báo chính ở địa ngục. Nếu nghĩ đến cái khổ ở địa ngục thì quý vị sẽ không dám làm việc này.
Cho nên con người ta hiện nay chưa từng được nghe dạy qua những giáo dục này. .... cái xã hội này loạn mất...... lòng người đã hư hoại rồi. Làm thế nào để khôi phục lại đây? Phải nhờ vào GIÁO DỤC!... Cho nên người xưa đã có nói: "KIẾN QUỐC QUÂN DÂN, GIÁO HỌC VI TIÊN" [Quân dân lập quốc, phải lấy việc dạy học làm đầu].... (Nguồn: Xin Đừng Phá Thai Giết Con)

+ Bỏ trẻ Phá thai: Vô cùng tai hại, linh hồn thai nhi luôn luôn đi cùng người mẹ như bóng với hình, với lòng oán hận và chỉ trực chờ đến mạt vận thì sẽ trả thù, rất đáng sợ. Bởi theo Luật, khi nó đã đầu thai thì không thể trở về nơi nó xuất phát đi đầu thai, là vì cái Xác cũ nó đã chết, xác mới bị hủy hoại, cho lên nó cứ vất vưởng theo người Mẹ, rất đáng thương (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi)

+ Các lời dậy về Thai nhi: ... Mối căm hận sâu thẵm trên thế gới do sự sát sinh. Có câu "Nợ sanh mạng trả sanh mạng, nợ tiền bạc trả tiền bạc." Nếu quý vị giết cha, anh người khác; cha, anh của quý vị sẽ bị giết bởi người khác. Như thế con người cứ luân phiên tàn sát lẫn nhau không bao giờ chấm dứt. Vì giết hại quá nhiềuquả báo chín mùi trong thời gian ngắn, và vì thế có câu "Người ta trả quả ngay trong chính đời này."
Lấy ví dụ việc phá thai, là việc nghiêm trọng hơn việc cướp bóc ngoài xa lộ. Quý vị hãy suy nghĩ, bằng hành vi phá thai, quý vị đã chấm dứt một sanh mạng trước khi cơ thể đứa bé được thành hình đầy đủ! Với lòng thù hận thâm sâu nhất, những vong linh thai nhi bị hủy phá này "than trời trách người". Lòng sân hận của chúng mãnh liệt và độc hại hơn bom nguyên tử và bom khinh khí, chúng nhất định báo thù! Với tình trạng phá thai phổ biến như hiện nay, những vong linh thai nhi này hiện diện khắp nơi, nhiều hơn nhiều so với vong linh người lớn trên thế gian. Có những người không biết tại sao họ bị bệnh. Thật ra họ bị bệnh vì đã gây ra quá nhiều oán thù cừu hận. Ví dụ trong hầu hết các trường hợp, người ta bị bệnh ung thư vì đã giết hại nhiều sanh mạng. Do không thể giải được oán cừu với các chúng sanh đã bị họ giết, những người này phải mang lấy bệnh ung thư..... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Những vong linh thai nhi vô tội)

+ Phá Thai tội rất nặng - Không thể sám hối
Trong Kinh Phật Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt có đoạn nói: "Có mười loại nghiệp có thể khiến chúng sanh bị quả báo đoản mạng: 1) Tự mình làm việc giết hại; 2) khuyến khích kẻ khác làm việc giết hại... 7) hủy hoại thai tạng (tức là tự mình phá thai); 8) bảo kẻ khác hủy hoại (tức là khuyên người khác phá thai)... Mười nghiệp kể trên mang lại quả báo đoản mạng."
Ngoài ra, trong Kinh Phật Thuyết Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Tướng, Đức Phật nói: "Nếu kẻ nào cố ý phá thai và thai bị chết, kẻ đó đã phạm tội không thể sám hối được vậy."(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)

+ Vong Linh Thai Nhi do Phá Thai - Tiểu Quỷ rất khó độ: Tôi xin khuyên các vị nên thủ đạo phu thê, đừng ly dị và nên lo chăm nom con cái của mình cho đàng hoàng. Nếu gia đình đều được hòa thuận vui vẻ, thì đất nước tự nhiên sẽ thái bình. Còn một việc nữa là tôi khuyên quý vị chớ nên phá thai. Quý vị thử nghĩ xem, một sanh mạng chưa ra đời mà đã trở thành oan hồn thì chúng tiểu quỷ đó sẽ đi khắp nơi để tìm mạng sống. Quý vị nói đi, như vậy thì xã hội sẽ được an ổn sao? Cần phải có vị tu đạo hạnh và không tham tài lợi mới có thể siêu độ được chúng quỷ nhỏ này. Bọn tiểu quỷ khó chịu lắm đấy, rất khó mà trị được chúng. Tội lỗi, nghiệp báo khắp nơi như vậy, thì quý vị nói là có thể an ổn được sao? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)

+ Vong linh Thai nhi bị phá thai rất khó độ: .... Ngòai ra, tôi khẩn cầu mọi người hãy ngưng lại việc phá thai! Hãy suy nghĩ xem, nếu những chúng sinh trong bào thai chưa kịp chào đời đã trở thành những oan hồn; khắp nơi nhan nhản những hồn ma nhỏ bé phiêu bạt đòi mạng thì làm sao xã hội an lành được? Những hồn ma nhỏ bé này cần phải gặp được người có Đạo hạnh và không tham tiền thì mới được siêu độ. Rất khó đối phó với những hồn ma nhỏ bé này! Rất khó giải quyết những vấn đề này, vì vậy, với nghiệp chướng khắp nơi thì làm sao có hòa bình? 
Câu hỏi: Con được nghe rằng phá thai là sai trái trong giáo lý Phật giáo, nhưng con đã phạm tôi này trong quá khứ mà không biết đó là sai trái. Con có thể làm cái gì bây giờ để đền bù lại những điều tai hại mà con đã làm trong quá khứ?
Hòa Thượng: Không có điều tốt đẹp nào hơn là tự sửa đổi lỗi lầm của mình. Dầu cho tội của quý vị rất to lớn, đầy ngập trời, nếu quý vị thành tâm ăn năn và sửa đổi, thì các tội sẽ tiêu sạch.
Câu hỏi: Ngày nay có nhiều quảng cáo "Cúng Dường Vong Linh Thai Nhi" trên báo hàng ngày và tạp chí. Chúng con có thể cúng dường những vong linh thai nhi này hay không, hay các vong linh thai nhi này nên được siêu độ ?
Hòa Thượng: Chữ "cúng dường" không thể dùng trong ý nghĩa này được, vì vong linh thai nhi không phải là Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Nếu quý vị xem đó là cúng dường vong linh thai nhi tức là đã rơi vào tà kiến vậy. Đó phải gọi là 'siêu độ'. Siêu độ chúng sanh không giống cúng dường cho chúng sanh, bởi vì việc siêu độ giúp chúng lìa khổ được vui. Tuy nhiên, vong linh thai nhi mang mối oán hận rất lớn khó làm vơi đi được, bởi vì đó là món nợ tước đoạt sanh mạng thì phải được trả bằng cách đền lại sanh mạng. Thế nhưng, nếu các vong linh thai nhi đó gặp được những vị chân tu không tham tiền thì chúng có cơ hội được siêu độ....
Câu hỏi: Nhiều người bỏ tiền ra cúng những vong linh thai nhi, có thể nào những căm hận của các vong linh thai nhi này được đền bù hay không?
Hòa Thượng: Không.
Thỉnh một bài vị cho một vong linh thai nhi là "lo cái ngọn mà quên cái gốc", cũng chưa chắc, vì rất khó siêu độ cho những Thai nhi tiểu quỷ này....
Về vấn đề phá thai, đó là một hành động vô nhân đạo! ... Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị điều này dù quý vị có tin hay không: mặc dù thai nhi bị hủy phá chỉ là một thai nhi nhỏ bé, nhưng vong linh thai nhi này còn dữ dằn hơn cả vong linh người lớn! Ngày nay bệnh ung thư trở nên khá thông thường trong xã hội chúng ta, và căn bệnh này một phần là do sự phá thai. Vì càng có nhiều trường hợp phá thai, số vong linh thai nhi càng gia tăng, và những vong linh thai nhi này rãi độc tố khắp nơi làm người ta bất an. Chúng nghĩ rằng: "Quý vị đã giết tôi sớm như vậy, tôi không để quý vị tránh thoát tội này đâu. Tôi cũng sẽ giết quý vị !" Vì thế, chúng ta có nhiều bệnh lạ lùng và không thuốc chữa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Những vong linh thai nhi vô tội)

+ Mời đọc các câu truyện và bài giảng về nạo Phá thai tội lỗi đáng sợ: Xem tại đây

+ Ảo cảm (glamour, huyễn cảm): - Ảo cảm có liên quan đến cõi của bản chất tình cảm và dục vọng mà mọi hình hài có trú sở trong đó. Chính ảo cảm này nhuốm màu mọi cuộc sống của chúng ta và tạo ra các giá trị giả tạo, các ước muốn sai lầm, các nhu cầu được gọi là không cần thiết, các mối bận tâm, lo âu và băn khoăn; nhưng ảo cảm có từ lâu đời và bám sát vào chúng ta đến nỗi dường như chúng ta có thể làm được rất ít. (TBĐC, 118)
+ Ảo cảm chính là ảo tưởng (illusion) trên cõi cảm dục. (ACMVĐCTG, 21)
+ Ảo cảm: Từ Ảo cảm (Glamours) có thể dùng để chỉ chung ba loại (1) Illusion (ảo tưởng) là Glamour trên cõi trí, (2) Glamour trên cõi cảm dục; và Maya trên cõi etheric. Hoặc ảo cảm (Glamour) cũng có thể dùng để chỉ riêng cho glamour trên cõi cảm dục mà thôi. Ví dụ “Ham tiền, say mê vật chất” là dạng ảo cảm phổ biến nhất của con người, và các ảo cảm này dưới nhãn quang của các Đạo đồ cao cấp là dạng vật chất “rất thực”, là những hình thể có thực chất trên cõi trung giới.
Nói một cách tượng trưng, tôi muốn nói rằng thể cảm dục hành tinh (nhìn từ các cõi giới của linh hồn) bị mất hút trong đám sương mù dày đặc bao quanh. .... Tuy nhiên, khi nhìn vào thể cảm dục của hành tinh, nếu các bạn có thể làm thế, bạn sẽ không thấy được sự chiếu sáng trong suốt (Trời quang đãng thấy các vì sao sáng) như thế mà chỉ thấy một quả cầu lờ mờ dường như là hơi nước và sương mù. Lớp sương mù này dày đặc đến mức chẳng những khó thâm nhập vào mà còn cho thấy các điều kiện không thích hợp cho sự sống. Tuy nhiên, là các Chân Sư nội môn, chúng tôi vượt qua, đến và đi; và trong đám sương mù đó – nhìn thấy tất cả đều bị biến dạng và méo mó – các người con của nhân loại đang vất vả làm việc.....
Đám sương mù, tức ảo tưởng này hiện nay đang bao phủ nhân loại, phải được nhận thức như là điều có thực, rõ rệt và phải được giải quyết. Vị đệ tử hay người tìm đạo tức là kẻ đang tìm cách xua tan ảo cảm, hoặc là trong cuộc sống riêng của y hoặc là trong việc phụng sự thế gian, phải biết rằng mình đang tác động với vật chất, với việc phá vỡ các hình thể mà nó đã khoác vào, và với việc làm tan chất liệu đang bao kín tất cả bằng vật chất – chất liệu theo cùng ý nghĩa như các hình tư tưởng đều là các sự vật có thật, nhưng (và đây là một điểm quan trọng) có bản chất ít thực hơn là các hình thức ảo cảm trên cõi cảm dục. Chúng ta rất sẵn sàng ghi nhớ rằng “tư tưởng là sự vật” và tư tưởng có một đời sống sắc tướng và một mục tiêu riêng của chúng. Nhưng tư tưởng có sự tồn tại độc đáo và riêng biệt hơn, và có các đường nét xác định rõ rệt hơn. Các hình thể của ảo cảm trên cõi cảm dục thậm chí còn thực hơn, nhưng lại kém rõ rệt một cách xác định. Các hình tư tưởng đều năng động, sắc sảo, đường nét rõ ràng. Ảo cảm thì lại âm ỉ, mơ hồ và bao trùm. Con người bị đắm chìm trong ảo cảm như là trong biển cả hay là trong “biển sương mù”. Con người đương đầu hay đối mặt với các hình tư tưởng, nhưng không bị đắm chìm trong đó. Hầu như có thể nói rằng thể cảm dục của một người xuất hiện như là một phần của ảo cảm chung của thế giới; con người khó phân biệt giữa thể cảm dục riêng của mình với các ảo cảm đang tác động, chế ngự và nhận chìm y. Vấn đề của y trên cõi trí được xác định rõ ràng hơn, dù là cũng có sự khó khăn như nhau.
Ảo cảm về vật chất là nguyên nhân của mọi thống khổ hiện tại trên thế gian, vì cái mà chúng ta gọi là vấn đề kinh tế chỉ là kết quả của ảo cảm đặc biệt này. (Nguồn: Giáo lý Chân sư DK)

Xem: Các rồi loạn Trí tuệ về Chia rẽ - Tích hợp - Kích thích, Ảo ảnh, Ảo tưởng, Ảo cảm và cách chữa trị

+ Trầm cảm (Depression, chán nản, nản chí, phiền muộn, ưu tư):  Khi đề cập đến vấn đề trầm cảm là chúng ta bàn đến một điều phổ cập đến nỗi ít người thoát khỏi sự tấn công của nó. Nó giống như sương mù bao quanh con người, làm cho y không thể thấy rõ, đi không chắc chắn và không còn nhận biết Thực tại. Nó là một phần của đại ảo tưởng cảm dục, và nếu điều này được hiểu rõ, người ta sẽ thấy rõ tại sao trầm cảm xuất hiện, vì nguyên nhân của nó hoặc là ở thể cảm dục, hoặc là ở thể xác và gắn liền với tình hình thế giới hay một tình trạng cá biệt. Do đó, chúng ta hãy nghiên cứu trầm cảm ở cá nhân và xem xét các nguyên nhân của nó. Trầm cảm là do bởi:

+ Tự tử  (suicide): Này bạn, đây là các trường hợp ngoại lệ. Nhiều người tự tử có thể và thường làm được (can and generally do), nhưng đối với những người khác thì không phải như thế.
-Người tốt lành và trong sạch (thì việc tự tử làm cho họ dường như – ND) ngủ một giấc yên tĩnh đầy hạnh phúc, tràn ngập các linh ảnh hạnh phúc (happy visions) của cuộc sống hồng trần và không có ý thức gì về việc mãi mãi vượt khỏi cuộc sống đó.
-Những người không tốt cũng không xấu (thì việc tự tử làm cho họ – ND) sẽ ngủ một giấc ngủ không mộng mị, nhưng vẫn là một giấc ngủ yên tĩnh.
- Trong khi đó, kẻ độc ác thì tùy theo mức độ thô bỉ/ đê tiện của họ, họ phải chịu nỗi đau ray rứt như cơn ác mộng kéo dài nhiều năm: nhiều ý tưởng của họ trở thành các sự việc sống động; các đam mê tội lỗi của họ trở thành chất liệu thực (real subtance), và họ nhận lại trên đầu họ tất cả khổ đau mà họ đã chồng chất (heaped) lên người khác. Nếu được mô tả đủ thì thực tại và sự kiện này sẽ tiết lộ ra một Địa Ngục (Inferno) còn khủng khiếp hơn nhiều so với Địa Ngục mà Dante (nhà thơ Ý, 1265- 1321 – ND) đã từng tưởng tượng! (Thư của Chân Sư,  216)

+ Phật dậy cách giảng giải cho người tự tử nghe: Đức Phật Từ Bi Cứu Người Nghĩ Quần Khổ Sở Muốn Tự Tử. Họ Giàu Sang Nhưng Buồn Bã Không Có Lối Thoát... Khiến Họ Giác Ngộ Thấy Bình Yên An Lạc... Nói về Mạng họ thuộc về Cha Mẹ họ chứ không riêng họ. Khuyên lên nhìn vạn sự trong tự nhiên vẫn diễn tiến rất đẹp .... (Nguồn: Clip Phật giảng cho người muốn tự tử)

+ Kinh Tương Ưng gồm các mục lục

Tập I - Thiên Có Kệ

[01] Chương Một: Tương Ưng Chư Thiên
[02] Chương Hai: Tương Ưng Thiên Tử
[03] Chương Ba: Tương Ưng Kosala
[04] Chương Bốn: Tương Ưng Ác Ma
[05] Chương Năm: Tương Ưng Tỷ Kheo Ni
[06] Chương Sáu: Tương Ưng Phạm Thiên
[07] Chương Bảy: Tương Ưng Bà La Môn
[08] Chương Tám: Tương Ưng Trưởng Lão Vangisa
[09] Chương Chín: Tương Ưng Rừng
[10] Chương Mười: Tương Ưng Dạ Xoa
[11] Chương Mười Một: Tương Ưng Sakka

Tập II - Thiên Nhân Duyên

[12] Chương Một: Tương Ưng Nhân Duyên [a, b, c]
[13] Chương Hai: Tương Ưng Minh Kiến
[14] Chương Ba: Tương Ưng Giới

[15] Chương Bốn: Tương Ưng Vô Thỉ
[16] Chương Năm: Tương Ưng Kassapa
[17] Chương Sáu: Tương Ưng Lợi Ích Đắc Cung Kính
[18] Chương Bảy: Tương Ưng Rahula
[19] Chương Tám: Tương Ưng Lakkhana
[20] Chương Chín: Tương Ưng Thí Dụ
[21] Chương Mười: Tương Ưng Tỷ Kheo

Tập III - Thiên Uẩn

[22] Chương Một: Tương Ưng Uẩn [a, b, c, d, e, f, g]
[23] Chương Hai: Tương Ưng Radha
[24] Chương Ba: Tương Ưng Kiến
[25] Chương Bốn: Tương Ưng Nhập
[26] Chương Năm: Tương Ưng Sanh
[27] Chương Sáu: Tương Ưng Phiền Não
[28] Chương Bảy: Tương Ưng Sàriputta
[29] Chương Tám: Tương Ưng Loài Rồng
[30] Chương Chín: Tương Ưng Kim Xí Điểu
[31] Chương Mười: Tương Ưng Càn-Thát-Bà
[32] Chương Mười Một: Tương Ưng Thần Mây
[33] Chương Mười Hai: Tương Ưng Vacchagota
[34] Chương Mười Ba: Tương Ưng Thiền

Tập IV - Thiên Sáu Xứ

[35] Chương Một: Tương Ưng Sáu Xứ [a, b, c, d, e, f, g]
[36] Chương Hai: Tương Ưng Thọ
[37] Chương Ba: Tương Ưng Nữ Nhân
[38] Chương Bốn: Tương Ưng Jambukhàdaka
[39] Chương Năm: Tương Ưng Sàmandaka
[40] Chương Sáu: Tương Ưng Moggalàna
[41] Chương Bẩy: Tương Ưng Tâm
[42] Chương Tám: Tương Ưng Thôn Trưởng
[43] Chương Chín: Tương Ưng Vô Vi
[44] Chương Mười: Tương Ưng Không Thuyết

Tập V - Thiên Đại Phẩm
[45] Chương Một: Tương Ưng Đạo [a, b]
[46] Chương Hai: Tương Ưng Giác Chi [a, b]
[47] Chương Ba: Tương Ưng Niệm Xứ [a, b]
[48] Chương Bốn: Tương Ưng Căn [a, b]
[49] Chương Năm: Tương Ưng Chánh Cần
[50] Chương Sáu: Tương Ưng Lực
[51] Chương Bảy: Tương Ưng Như Ý Túc
[52] Chương Tám: Tương Ưng Anuruddha
[53] Chương Chín: Tương Ưng Thiền
[54] Chương Mười: Tương Ưng Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra
[55] Chương Mười Một: Tương Ưng Dự Lưu [a,b]
[56] Chương Mười Hai: Tương Ưng Sự Thật [a, b]

Nguồn: Xem Kinh Tương Ưng

+ Định luật Tương Ứng hay Tương  Đồng (Law of Correspondences or of Analogy): Là định luật để giải thích về Thái Dương Hệ và giải thích Thượng Đế cho con người.  (LVLCK, 7)

+ Qua Định Luật Tương Đồng hay tương ứng, các tiến trình vũ trụ và bản chất của các nguyên khí vũ trụ được biểu thị trong các chức năng, cấu tạo và các đặc điểm của một con người. Chúng được biểu thị nhưng không được giải thích hoặc nói gì thêm. Chúng chỉ được dùng như các biển chỉ đường, hướng cho con người đi dọc theo con đường mà trên đó y có thể tìm thấy các biển chỉ đường sau này, và ghi nhận các dấu hiệu rõ ràng hơn. (LVHLT, 19)

+ LUẬT TƯƠNG ỨNG — THE LAW OF CORRESPONDENCES
- Luật Tương Ứng hay Tương Đồng này là quy luật diễn giải của hệ thống, và giải thích về Thượng Đế cho con người. (LVLCK/ TCF, 8)
- Chúng ta phải khước từ bản thân đến sự thật là con đường duy nhất mà chúng ta có thể thấy được gợi ý cho bí ẩn về các cung, các hệ thống, và các huyền giai, nằm trong việc nghiên cứu các quy luật tương ứng hay tương đồng. Nó là một sợi chỉ mà qua đó chúng ta có thể tìm thấy đường về xuyên qua mê cung, và cung ánh sáng [Trang 7] chiếu rạng qua bóng tối của sự vô minh xung quanh.(ĐĐTNLVTDH/ IHS 6)
- Loại suy hay suy luận, sử dụng những năng lực lý trí của tâm trí bởi người nhận thức trong mối liên quan [Trang 16] đến cái không được nhận thức một cách trực tiếp. Điều này, đối với người sinh viên huyền môn, chính là ứng dụng của Luật Tương Ứng hay Tương Đồng. (ASCLH/ LOS, 16)
- Các kiểu mẫu hình học, sự tiến triển số học hay Luật Tương Ứng không bao giờ thất bại trong việc hiểu về mục đích và các kế hoạch của Thượng Đế hành tinh - đã được thiết lập trước khi các thế giới được tạo ra và tìm thấy những nguyên mẫu của chúng trên các cõi trí tuệ vũ trụ. (VCVTDT/ TEV, 90)

NHỮNG VÍ DỤ CỦA QUY LUẬT— EXAMPLES OF THE LAW

Xem các Tooltip và các Trang có chủ đề tương ứng hay tương đồng

Xem: Thống Kê Tương Ứng Số Và Thuật Ngữ

Xem: Thống Kê Tương Ứng Số

Xem: Tương Ứng Bảy Cảnh Giới Sự Sống Thái Dương

 

I- THEO MINH TRIẾT MỚI
+ 12 cung Hoàng đạo = 7 + 5:
Con ngườibiểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)

+ 12 cung hoàng đạo thuộc 2 nhóm có liên quan nhiều đến Khoa Học về các Tam Giác, gồm:
1- Bảy cung Hoàng đạo có liên quan đến việc phát triển tâm thức hành tinh trên Địa Cầu và chỉ ngẩu nhiên có liên quan đến Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, tức Huyền Giai Nhân loại.
2- Năm cung Hoàng đạo còn lại có liên quan đến việc phát triển của Huyền Giai Nhân loại trong thời giankhông gian. 5 cung quyết định chính yếu: a/ Cancer.; b/ Leo; c/ Scorpio.; d/ Capricorn.; e/ Pisces. * Năm giống dân: Năm cung Hoàng đạo tương ứng với 5 giống dân lớn, hiện tại chúng ta là chủng Aryen, là thứ năm.
* Năm lục địa: 5 chủng tộc này tạo ra các biểu lộ bên ngoài là 5 lục địa Châu Âu, Châu Phi, Châu Á, Châu Úc, Châu Mỹ.
* Năm tuyến nội tiết trong con người: Đối với Đấng hành tinh, 5 lục địa này cũng như 5 tuyến nội tiết chính yếu đối với con người. Chúng được liên kết với 5 trung tâm lực
+ Ví dụ với số 7:
  7 Cung ( 7 phẩm tính, màu sắc, âm thanh.....); 7 Hành tinh thánh thiện - 7 nhánh tri thức - 7 cấp độ tâm thức; 7 ngày/ Tuần; 7 tôi lỗi chết người; 7 Kỳ quan thế giới; 7 Luân xa; 7 Tuyến nội tiết chính ...

+ Ví dụ với số 5: 5 Hành tinh không thánh thiện;
Xem: Tổng hợp tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo với mọi mặt
Xem: Trang tổng hợp thống kê tương ưng số
Xem: Trang các Bảng tổng hợp tương ứng đối ứng
II- THEO PHẬT HỌC - Con Số 12 = 3 x 4

+ CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH. Mục Thế Giới Chúng Sinh Và Không Gian - Thời Gian
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)

I- TỔNG HỢP TƯƠNG ỨNG CÁC CON SỐ
+ Các Tương ứng số Nhân Trắc Học thống kê
- Thống kê tương ứng với số 01
- Thống kê tương ứng với số 02
- Thống kê tương ứng với số 03
- Thống kê tương ứng với số 04
- Thống kê tương ứng với số 05
- Thống kê tương ứng với số 06
- Thống kê tương ứng với số 07
- Thống kê tương ứng với số 08
- Thống kê tương ứng với số 09
- Thống kê tương ứng với số 10
- Thống kê tương ứng với số 12
- Thống kê tương ứng với các số khác

Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo
Xem: Trang tổng hợp thống kê tương ưng số
Xem: Trang tổng hợp tương ứng đối ứng

II- Theo Phật Pháp
+ Kinh Tương Ưng: Mời xem nguồn: Xem Kinh Tương Ưng
+ Các Tương Ứng Số Đức Phật dậy xem mục từ khoảng 140 - 160 tại đây

+ Phong thủy tại Tâm - Do Tâm tạo:
... Văn-thù Sư-lợi Pháp vương tử.
..Văn-thù-sư-lợi còn gọi là Mạn-thù-sư-lợi.... Vị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này khi sanh ra có mười việc cát tường, chứng tỏ rằng công đức của vị Bồ-tát này đầy đủ bậc nhất trên thế giới. Mười thứ cát tường ấy là:
1. Ánh sáng đầy nhà: Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi được sanh ra thì ở trong nhà có một thứ ánh sáng,... biểu thị ánh sáng trí huệ Bát-nhã của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi,...
2. Cam lộ đầy sân: Cam lộ là loại nước thuốc bất tử, chỉ trên trời mới có. ....
3. Ðất trồi lên bảy báu: Từ đất sanh ra bảy thứ châu báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.... Tại sao gọi là thất bảo? Tại vì hiếm có, không phải ai ai cũng có được, cho nên gọi là bảy báu vật....
4. Thần mở kho tàng ẩn giấu: Chuyển Luân Thánh vương có bảy báu, trong đó có một thứ là Tạng thần bảo, chính là vị thần cai quản kho báu. Bảy báu từ dưới đất lộ ra là bảy báu từ dưới đất trồi lên, kho báu này là của người trước chôn giấu, bây giờ vị thần giữ cửa kho khui mở ra, nên từ dưới đất lộ ra. Báu vật này cũng đều có thể dùng được.
5. Gà sanh trứng phụng: Gà vốn sanh ra gà, nhưng hiện tại, gà lại sanh ra phụng hoàng. Phụng hoàng là một thứ chim cát tường, người thấy được phụng hoàng nhất định sẽ gặp chuyện tốt lành. Ðức Khổng Tử từng nói: "Chim Phụng không đến, hà đồ không hiện ra, ta không còn muốn truyền đạo nữa." Ý ngài nói: "Chim Phụng hoàng cũng không đến, cũng không có Hà đồ lạc thư xuất hiện, ta muốn dừng lại không còn tuyên dương đạo đức nữa.
6. Heo sanh con vảy rồng: Gà sanh ra phụng còn chưa lạ lùng bằng heo sanh ra con có vảy rồng. Xưa nay, rồng sanh ra rồng, nhưng bây giờ heo sanh ra rồng, vì heo con trên mình có vảy, cho nên gọi là rồng.
7. Ngựa sanh kỳ lân: Xưa nay ngựa sanh ra ngựa, bây giờ ngựa lại sanh ra kỳ lân. Kỳ lân là một loại thú báo hiệu điềm tốt, ở Trung Hoa vào thời Ðường Nghiêu, kỳ lân, phụng hoàng rất nhiều, ai cũng có thể thấy được.... 
8. Trâu sanh bạch trạch: Trâu sanh ra một loại thú màu trắng. Bạch trạch là một loại thú ít có, đã không giống trâu, ngựa, lại không giống lừa, ấy gọi là Tứ bất tượng, là con thú hình dáng ngựa mà lại có móng trâu, sừng trâu, đó cũng là một loại thú hiện điềm lành.
9. Lúa biến thành vàng: Lúa, xưa nay có thể làm gạo, bây giờ biến thành vàng thì làm sao ăn được? Có người nói: "Có thể đem nó bán đi rồi mua rất nhiều gạo về." Ðó thật là một người thông minh. Người ấy lại hỏi: "Ai có tâm tham?". Tôi nói: "Tôi cũng có tâm tham, tham muốn mọi người mau thành Phật."
10. Voi đủ sáu ngà: Xưa nay voi chỉ có hai ngà, nhưng khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi sanh ra thì voi của nhà ngài mọc đủ sáu ngà.
Trên đây là mười việc cát tường như ý xuất hiện khi Bồ-tát Văn-thù sanh ra, đại biểu cho mười độ Ba-la-mật của hàng Thập địa Bồ-tát Ðại trí Văn-thù-sư-lợi, không giống với các vị Bô-tát khác. Nếu mình muốn quen biết với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, muốn thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thì trước tiên phải nhớ mười việc cát tường này. Tuy Bồ-tát không có tâm phân biệt, nhưng nếu mình biết được nhiều điểm của ngài thì mới gần được ngài thêm. Tại sao chúng ta phải biết càng nhiều càng tốt về cảnh giới của mỗi vị Bồ-tát? Vì có như thế mỗi vị Bồ-tát đều có thể làm thiện tri thức hoặc anh em bè bạn của chúng ta được. Trong tương lai, mỗi người chúng ta đều có thể là thiện tri thức của Bồ-tát, cho nên không nên tự mình coi thường mình.(Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phong thủy tốt: Thế gian có một số người nói: “Phong thuỷ trong thiên hạ đều bị nhà Phật chiếm hết rồi”. ... Cái vấn đề này đưa ra rất hay, cần nên nêu ra.
Tôi nói với họ: Đức Phật dạy chúng tôi không được phép xem phong thủy. Ở trong Kinh A Nan hỏi Phật việc tốt xấu, Phật đã nói ra rồi xem tướng, chấm tử vi, đoán quẻ, xem phong thủy đều là điều mà Phật cấm kị. Người xuất gia tuyệt đối không xem phong thủy. Tại sao người xuất gia chọn cái địa điểm này lại tốt như vậy? Vừa mới nói rồi! Tu hành, tu Giới - Định - Tuệ tam học, thì Chánh báo chuyển Y báo, Y báo tăng thêm Chánh báo, thúc đẩy lẫn nhau. Cho nên địa điểm này sẽ càng ngày càng đẹp, là cái đạo lý như vậy. .... (Nguồn: Phong thủy tốt nhất đời người là Tâm thiện lương_PS Tịnh Không)

+ Việc nghiên cứu về 7 cung khiến cho tính nhị nguyên của con người được giải quyết, với sự thông tuệ lớn lao hơn (EP 119/120)
- Khi bản chất thực sự của bảy cung được hiểu biết, và khi tác động của chúng lên nhân loại trong việc thể hiện bảy loại người cũng được thông hiểu, bấy giờ chúng ta sẽ tiếp cận chủ đề về tính nhị nguyên của con người với trí thông tuệ lớn lao hơn. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn bản chất của các mãnh lực vốn cấu thành hết cái này đến cái khác trong những nhị nguyên này. Đây là khoa học bí truyền thực sự.
Khoa học về bảy tính chất, hay cung, và ảnh hưởng của chúng trên vô số hình tướng mà chúng uốn nắn và tiếp sinh lực, là cách tiếp cận mới sẽ đến, cùng với phương pháp đúng đắn về việc đào tạo và phát triển gia đình nhân loại. Khoa học công truyền hiện đại biết nhiều về hình tướng bên ngoài, hay khía cạnh vật chất, và bản chất điện của nó. Khoa học bí truyền biết nhiều về bản chất của các năng lượng và những tính chất chủ quan vốn nhuốm màu và quy định hình tướng. Khi hai kiến thức này được mang lại với nhau một cách thông minh, chúng ta sẽ phát triển một khoa tâm lý chân thật hơn và chính xác hơn, và một khoa học mới về văn hóa nhân loại. Lúc bấy giờ, công việc của con người đang hợp nhất – con người, là thực thể tâm linh, và con người, là linh hồn điều khiển – sẽ tiến nhanh về phía trước. Một kiến thức về các cung cùng với các khuynh hướng và năng lượng của chúng sẽ mang nhiều sự giác ngộ cho những người phụng sự trong lĩnh vực của những khoa học khác nhau …
- Việc nghiên cứu về 7 cung sẽ làm sáng tỏ kiến thức về bản chất của con người (E PI 4-6);
(Trích từ tài liệu tóm lược Tâm lý học nội môn - Khóa GQ - MF)
Tâm lý học hiện đại, về mặt thực nghiệm và học thuật, đã làm rất nhiều để thu thập thông tin về cách thức mà con người hoạt động, điều gì là bản chất của các phản ứng của y, năng lực của bộ máy tư tưởng của y và tính chất của bộ máy thể xác của y, cách thức tư duy và tổng số các phức cảm, các rối loạn tâm thần, các rối loạn thần kinh, các bản năng, các trực giác và sự định hình trí tuệ của y, mà y chắc chắn có … Những gì tôi tìm cách làm, và sự đóng góp mà tôi muốn thực hiện cho chủ đề này, phải phù hợp với sự nhấn mạnh mà chúng ta sẽ đặt vào bản chất của nguyên khí tích hợp được tìm thấy trong tất cả các hình thức cố kết, và vào cái mà ta có thể (vì thiếu một từ hay hơn) gọi là linh hồn hay bản ngã.
Việc nghiên cứu về 7 cung sẽ đưa ra một phương pháp phân tích thực tiễn (EP I, 8)
+ Cung (ray): Một dòng thần lực (Chuyên hóa) hay 01 phân thân. Thái Dương Thượng Đế hay là Đại thiên địa, biểu lộ qua 3 cung chính yếu và 4 cung thứ yếu. Chân Thần hay tiểu thiên địa cũng biểu lộ qua 3 cung như trên (LVLCK, 90)
+ Định nghĩa Ray - Cung năng lượng: Để chỉ một thần lực hay loại năng lượng đặc biệt, với tầm quan trọng dựa vào tính chất mà thần lực đó thể hiện, chứ không dựa vào trạng thái hình hài mà thần lực đó tạo ra.(TLHNM, 316)
+ Bảy luồng năng lượng/ Thần lực của Thượng Đế; 7 nguồn sáng vĩ đại. Mỗi nguồn sáng biểu hiện cho một Thực Thể Thông Linh vũ trụ. Gồm 3 Cung trạng thái và 4 thuộc tính (ĐĐNLVTD, 224):
Cung 1: Quyền lực - Ý chí (Tinh thần): Biểu diễn qua tính khí căn bản của nhà Lãnh tụ hay Thủ lĩnh.
Cung 2: Minh triết và Bác ái (Tâm thức Bồ đề = Trực giác Tinh thần). Bậc đạo sư là điển hình của Cung này.
Cung 3: Hoạt động Sáng tạo (Thượng trí). Sự thông hiểu là chủ yếu của nó và Triết gia là Đại biểu của nó.
Cung 4: Hài hòa qua xung đột; Tâm thức làm cho chơn ngã với phàm ngã hội tụ (Là thấu kính tụ tập các Cung 5,6,7 lại). Đặc trưng nổi bật của nó là sự đẹp đẽ và hài hòa = Nghệ sĩ các loại là đại diện
Cung 5: Cung Kiến thức - Khoa học (Hạ trí thuộc phàm ngã). Nhà khoa học mẫu điển hình.
Cung 6: Sùng tín Nhất tâm = Với bản chất xúc cảm hoặc dục vọng. Người sùng tín mọi tôn giáo thuộc loại này.
Cung 7: Trật tự - Nghi lễ - Thể xác biểu diễn Quyền năng của Cung 1 đang tác động. Người vốn yêu thích hoạt động có trật tự, chính xác và đầy sự rực rỡ huy hoàng.
+ Bảy cung NL, mỗi cung có đặc tính chuyển động: Cung 1; 7 - Thẳng; Cung 2; 4; 6 - Xoay vòng; Cung 3; 5 - Zíc zắc, ngừng nghỉ ( Nguồn )
+ Bảy Cung có liên hệ chặt chẽ với 7 ngôi sao của chòm Đại Hùng Tinh (Cũng biến phân 3 và 4) và Thất Tỷ Muội và Tua Rua (CTHNM, 41)
+ Xem: Năng lượng 7 Cung;

+ Bồ tát tu và Duyên giác tu hay Đại thừa tu khác Tiểu thừa:
4. Thứ tư là thể pháp không quán: Duyên Giác/ Tiểu thừa tu thể pháp không quán
5. Thứ năm là diệu hữu không quán: Bồ Tát/ Đại thừa tu diệu hữu không quán
Chân không diệu hũu.
Lúc Bồ Tát Quán Thế Âm hành thâm bát nhã ba la, Ngài soi thấy năm uẩn đều không. Đó là đắc được công năng tu hành bát nhã ba la mật đa.
(Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -1- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đức Phật dạy Về Pháp Của Ngài “Chư Tỳ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt qua sông, không phải để nắm giữ lấy”, qua sông rồi thì phải bỏ bè (Trung Bộ Kinh 1, Kinh Ví Dụ Con Rắn, trang 305).
+ Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy: Giáo pháp của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng, là phương tiện để đạt đến chân lý, cho nên đừng lầm ngón tay là mặt trăng, chân lý không nằm trong kinh điển .....
+ Học Pháp và Tu hành: Trích Đức Phật bảo: ... Thế nên A-nan, tuy ông trải qua nhiều kiếp ghi nhớ những pháp bí mật diệu nghiêm của Như Lai (Ngài A Nan đa văn bậc nhất), cũng chẳng bằng một ngày tu pháp vô lậu, xa lìa hai cái khổ yêu ghét ở thế gian(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Ch.III)
+ Tu Bồ Tát Đạo - Pháp Đại Thừa: Trích Đức Phật bảo A Nan:
Nghĩa thứ hai, các ông chắc muốn phát tâm bồ-đề, sanh tâm đại dõng mãnh với bồ-tát thừa, quyết định rời bỏ các tướng hữu vi.
Giảng: "Quyết định rời bỏ các tướng hữu vi". Hãy dứt khoát, không do dự. Đừng dao động giữa Đại thừa và Tiểu thừa, đừng như A-nan, tâm không quyết định được. A-nan muốn phát tâm cầu Đại thừa, nhưng không thể nào bỏ được pháp nhân duyên. A-nan nói, “Đức Phật giảng pháp nhân duyên rất hay. Sao Đức Phật quyết định bác bỏ nó, thậm chí còn khuyên chúng con đừng tu pháp đó?” Khi quý vị quyết định điều gì, hãy thật kiên định. Đừng đứng mỗi chân mỗi thuyền. Trung Hoa có ngạn ngữ:
+ Mười Thứ lớp trong tu hành không thể đảo lộn khi hành Bồ Tát Đạo: 1. Bố Thí - 2. Trì giới - 3. Nhẫn nhục - 4. Tinh tấn - 5. Thiền định - 6. Trí huệ bát nhã - 7. Phương tiện - 8. Đại nguyện - 9. Đại lực - 10. Đại trí. (Những thứ lớp này cũng tương ứng với thứ tự của 10 Tay Ấn Pháp trong Chú Đại Bi. Mỗi lớp có 10 Tay Ấn, 4 lớp tương ứng 40 Tay Ấn, cộng với 2 Tay ấn 41 và 42 là 6 lớp tất cả). (Nguồn: Thầy Hằng Trương giảng Chú Đại Bi) 
+ Bồ Tát Đạo: Ai muốn tìm cầu giác ngộ, giải thoát để thành Phật rộng độ chúng sinh thì Người chỉ pháp tu hạnh Bồ-tát đạo:
- Bồ Tát là người giác ngộ, không vì lợi ích riêng tư, luôn mở rộng tấm lòng thương yêu bình đẳng đến với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ hay chia sẻ những gì mình đang có, từ vật chất cho đến tinh thần, lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui cho chính mình. Bồ Tát tu 6 pháp Ba-la-mật để diệt trừ phiền não khổ đau. 
- Bồ tát thấy rõ tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ, keo kiệt, hiểm độc là nhân nghèo khổ thiếu thốn khó khăn, cho nên Bồ-tát tu hạnh bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia để chuyển hoá lòng tham.
- Thấy người ăn không ngồi rồi, buông lung sa đọa, cống cao ngã mạn làm cho đạo đức nhân cách băng hoại thì Bồ-tát tu trì giới để khuyên mọi người không sát sinh hại vật, không gian tham trộm cướp, không tà dâm, không nói dối hại người và không dung các chất gây say nghiện như là rượu, xì ke ma tuý cho nên nói “trì giới độ phá giới”.
- Thấy người nóng giận là nhân gây thù chuốc oán, rồi dẫn đến chửi mắng, đánh đập cuối cùng giết hại, tạo ra nhiều tội lỗi mà làm cho mình và người phiền muộn khổ đau, cho nên Bồ-tát tu hạnh nhẫn, nhịn, nhường để chuyển hóa cơn giận dữ, cho nên nói “nhẫn nhục độ nóng giận”.
- Thấy người lười biếng hưởng thụ bê tha là nhân dẫn đến hao tài tốn của, hư thân mất nết, chẳng giúp ích gì được cho ai Bồ-tát tu hạnh tinh tấn chuyên cần để chuyễn hóa ăn không ngồi rồi, nhàn cư vi bất thiện.
- Thấy tâm tư lăng xăng, điên đảo, vọng tưởng là nhân dẫn đến bất an, lo sợ, Bồ-tát tu thiền định để dừng lắng mọi tâm tư vọng tưởng xấu ác có tính cách hại người vật, để sống trở lại với tâm thanh tịnh sáng suốt, cho nên nói “thiền định độ tán loạn”
- Thấy nhân ngu si là bị đọa vào ba đường xấu, nhất là các loài súc sinh Bồ-tát tu hạnh từ bi, trí tuệ để chiếu phá tối tăm, mờ mịt cho nên nói “trí tuệ độ ngu si”.
Ngoài việc biết tích lũy phước báo và siêng tu trí tuệ để cứu giúp chúng sinh, Bồ-tát còn phải tu sáu pháp Ba-la-mật để loại trừ các thói quen tật xấu, cho đến khi viên tròn quả mãn thì Bồ-tát thành Phật. (Nguồn: Nhân Quả và số phận con người)
+ Bồ Tát Đạo - Hạnh Bồ Tát: Do nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ – tát thường siêng năng làm các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề. Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ – tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự cho rằng:
“Tôi đã cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”.
Chính vì chư vị Bồ – tát không có tâm niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng, để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ được giải thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô thượng bồ - đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm. (Nguồn: Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng câu 23. Ma ha bồ đề tát đoả trong Thần Chú Đại Bi)
+ Đạo là gì - Bồ Tát đạo theo Phật giáo:
.... Đức Phật dậy: Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm Đạo ?
Bồ Tát Đại thệ trang nghiêm và thừa Đại thừa rồi xả bỏ tất cả tà Đạo. Xả bỏ tà Đạo rồi hướng Đến chánh Đạo chơn thiệt Đến Nhứt thiết trí.
Sao gọi là chánh Đạo ? Đó là chẳng bỏ thiện pháp vậy, là hành Đại nguyện chẳng thối chuyển Bồ Đề Đạo vậy, là siêng tu tinh tiến căn lành chẳng mất vậy, là hành bất phóng dật bất Động thuần chí, chẳng chìm nơi sở tác quyết có thể cứu cánh ngưỡng nắm lấy pháp trên, cầu công Đức tư lương chẳng hề cho là Đầy Đủ, cầu trí huệ tư lương trọn chẳng phế bỏ, Đây là Bồ Tát chánh Đạo vậy.
Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát Đạo ấy là Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ không Định, Ngũ thần thông, Tam phước nghiệp, Tam học, Lục ưng kính, Lục niệm, Tứ nhiếp pháp, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh Đạo phần, Tam giải thoát môn, biết Ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết Nhập phương tiện, biết Tứ Đế phương tiện, biết Nhơn duyên phương tiện, Đây gọi là Đạo. ........
Tại sao gọi Đó là xuất thế gian ư ?
Nầy Hư Không Tạng ! Ngũ thọ ấm gọi là thế gian. Bồ Tát khéo phân biệt ngũ ấm, quán nó vô thường nhẫn Đến như tánh Niết bàn rồi, biết trong Đạo ấy không có thế gian và pháp thế gian, biết Đạo ấy là vô lậu là xuất thế gian không có buộc dính, Đây gọi là xuất thế gian. Đây gọi là Bồ Tát Đạo vậy. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH.
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới.
Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng: 
1. Xét về nhãn căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về mắt chỉ được 800 công đức.
2. Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có 1200 công đức.
3. Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có thở ra và hít vào. Điểm giao tiếp giữa hít và thở gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.
4. Xét về thiệt căn thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gian và xuất thế gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.
5. Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.
6. Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian mười phương ba đời, thành phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức.
=> A Nan! Ông muốn ngược dòng sinh tử hãy xét 6 căn ông hiện thọ dụng. Cái nào hợp, cái nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên thông, căn nào không viên thông. Nếu khai ngộ được một căn viên thông thì đảo ngược tất cả dòng nghiệp vô thỉ. Đối với hiệu quả tu hành, bấy giờ một ngày bằng một kiếp.
Tôi nay đã chỉ rõ cho ông: Sáu căn, căn nào cũng trong sáng và đều có số lượng công năng. Tùy ông chọn lựa. Thích hợp căn nào tôi sẽ hướng dẫn cho ông để ngày thêm tăng tiến.
Mười phương Như Lai, căn, trần, thức, 18 giới đều là công cụ để viên mãn Vô thượng Bồ-Đề. Căn cơ trí tuệ còn non nớt, ông cần đi sâu tu tập một căn. Một căn thanh tịnh thì sáu căn đồng thời được tháo mở hoàn toàn thanh thoát.
Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)
+ DÙNG TÂM NHỊ NGUYÊN - TÂM NHÂN ĐỊA TU GIẢI THOÁT NIẾT BÀN
Trích Đức Phật dậy ngài A Nan tu Pháp Đại thừa - Giải thoát Niết Bàn trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
... Không theo cái thường, chỉ đuổi theo sanh diệt. Do vậy phải sanh mãichịu tạp nhiễm khi lưu chuyển.
Nếu trừ bỏ sanh diệt, giữ tính chân thường, tính sáng suốt chân thường hiện tiền. Các thứ căn trần, thức tâm phân biệt đều tiêu mất.
Tướng của vọng tưởng là trần, thức tình phân biệt là cấu nhiễm. Cả hai đều rời bỏ, làm sao không thành Vô thượng trí giác? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương V)

+ PHÁP TU GIẢI THOÁT NIẾT BÀN DUY NHẤT - CHƯ PHẬT MƯỜI PHƯƠNG ĐỒNG TU TẬP
... Vì thức thứ 8 là thức đầu tiên khởi niệm tưởng phân biệt. Tất cả đều bắt nguồn từ thức thứ 8. Ngũ uẩn và thức thứ 8 kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành nút buộc luân hồi sinh tử. Vì nó bắt đầu từ thức thứ 8, nên khi mở, phải bắt đầu từ sắc uẩn (2 nút). Thứ tự nầy cũng giống như khi cởi áo quần, phải cởi từ lớp ngoài trước rồi lớp trong. ... Như trong bài kệ nói:
Khi sáu nút đã được mở, thì một cũng không còn. Khi sáu căn, tức là sáu nút đã được tự tại, thì cái một cũng biến mất luôn. Điều nầy sẽ được giải thích chi tiết trong đoạn văn sau.
Nơi các căn, hãy chọn tính viên thông. Phương pháp tu tập là áp dụng nỗ lực ngay từ cửa ngõ của sáu căn. Có nghĩa là, mắt không bị xoay chuyển bởi hình sắc, tai không bị xoay chuyển bởi âm thanh, mũi không bị xoay chuyển bởi hương thơm, lưỡi không bị xoay chuyển bởi mùi vị, thân không bị xoay chuyển bởi sự xúc chạm, thức không bị xoay chuyển bởi các pháp. Quý vị chuyển hoá ngay những gì xuất hiện nơi cửa của sáu căn. Quý vị hồi quang phản chiếu, không cần phải tìm cầu bên ngoài. Chỉ cần phòng hộ thân và tâm. Hãy tự tìm cầu ở trong chính mình
Để tu tập nơi sáu căn, quý vị phải chọn một căn để dẫn đến viên thông. Đức Phật đã đặt nền móng cho phương pháp nầy. Ngài đã giảng giải về 1200 công dụng của mỗi căn và chỉ cho A-nan thấy căn nào hoàn chỉnh nhất. Chẳng hạn, nhãn căn là không hoàn chỉnh, nhưng nhĩ căn thì được. Thiệt căn và ý căn cũng là những căn hoàn chỉnh. Có những căn hoàn chỉnh và có những căn thì không. Quý vị phải chọn một căn và phát huy công phu tu tập trên căn đó. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã ngầm ý bảo rằng nhĩ căn sẽ dẫn đến viên thông. Đức Phật mong A-nan tự quyết định trong sự lựa chon; Đức Phật muốn A-nan tự mình tìm ra sự quyết định.
Tự chọn ra một căn viên thông và được vào dòng, tức thành chánh giác.
Nhập vào dòng pháp giới của bậc thánh. Nghịch với dòng sanh tử của phàm phu.
Sau khi đã vào dòng (Nhập lưu) được rồi, mới có thể thành tựu chánh đẳng chánh giác. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)

+ Mời xem trang chuyên đề về: Pháp Tu Bồ Tát Đạo/ Thánh Đạo

+ Định luật Tuần Hoàn - Law of Periodicity/ ĐL Chu Kỳ :
Lưu ý về dịch thuật:
- Law of Periodicity - Dịch là Định luật Tuần Hoàn, MFVN dịch môn học 110 - QU1, dịch từ sách LVLCK (tr 5);
- Law of Periodicity - Dịch là Định Luật Chu Kỳ - Bác Thông Thiên Học cũng dịch sách từ LVLCK (tr 5), 
- Định luật Chu Kỳ - Law of Cycles (Theo Chiêm Tinh học Nội Môn, tr 89)
- Định Luật Chu Kỳ: Trong LVLCK, tr 5–6 thì dịch Law of PeriodicityĐịnh Luật Chu Kỳ, không phải (Law of Cycles)
+ Định luật Chu Kỳ (Law of Cycles): Định luật Chu Kỳ định đoạt thủy triều, kiểm soát các biến cố trên thế gian và cũng sẽ chi phối cá nhân và như thế thiết lập các thói quen của cuộc sống có tiết điệu – một trong các động cơ chính yếu được định trước để có được sức khỏe tráng kiện. (CTNM, 89)
+ Định Luật Tuần Hoàn: Là Nguyên Lý Cơ Bản II của Vũ trụ gốc (Định Luật này luôn bao hàm định Luật Chu Kỳ) -  Xem chi tiết
- Định Luật này chi phối tất cả các biểu hiện, dù đó là biểu hiện của một Thái Dương Thượng Đế thông qua trung gian một thái dương hệ [Trang 6], hay là biểu hiện của con người thông qua trung gian một hình thể. Tương tự, Định luật này cũng điều khiển tất cả các vương quốc trong tự nhiên (LVLCK, tr 6)
- Định Luật Tuần Hoàn này nằm dưới tất cả các quá trình của tự nhiên (LOS 362)
Người ta nói rằng một sự thấu hiểu hoàn toàn về Luật Tuần Hòa sẽ đưa con người đến một bậc điểm đạo cao cấp. Luật Tuần Hoàn này là nền tảng của tất cả các quá trình trong tự nhiên và việc nghiên cứu nó sẽ dẫn con người ra khỏi thế giới của những hiệu ứng khách quan và đi vào thế giới của những nguyên nhân chủ quan. Người ta cũng nói rằng thời gian bản thân nó đơn giản chỉ là sự liên tiếp của những trạng thái tâm thức và điều này đúng với một nguyên tử, con người hay Thượng Đế.
- Định Luật Tuần Hoàn được dựa trên nhịp đập của “trái tim trung tâm” (797)
Luật Tuần Hoàn là một, nhưng vì nó dựa trên xung động ban đầu, và dựa trên nhịp đập của “trái tim trung tâm” hay “mặt trời trung tâm” của bất kỳ cơ thể nào (thái dương hệ, cơ chế hành tinh, chuỗi hành tinh, nhóm chân ngã hay đời sống chân ngã cá nhân).
- Năng lượng của Chủ Quản cung 1 vận hành qua Luật Tuần Hoàn (EP I 65)
Năng lượng của Chủ Quản cung này mang đến cái chết của một con kiến hay của một thái dương hệ, một tổ chức, một tôn giáo, hay một chính phủ, một dạng giống dân hay một hành tinh. Ý chí hay mục đích của Ngài thể hiện qua Luật Tuần Hoàn.
- Vi phạm Định Luật Tuần Hoàn là một nguyên nhân của bệnh tật (EH 90)
Tôi muốn nói đến, trước hết, với tiền đề cơ bản rằng bệnh tật và trở ngại thể chất không phải là kết quả của suy nghĩ sai lầm. Chúng có lẽ không là kết quả của bất kỳ suy nghĩ nào, hay chúng sinh ra do sự thất bại trong việc tuân theo các luật cơ bản thống trị Tâm Thức Thượng Đế. Một ví dụ thú vị của sự thất bại này là sự thật rằng con người không tuân theo Luật cơ bản về Nhịp Điệu, luật thống trị tất cả các quá trình trong tự nhiên, và con người là một phần của tự nhiên.
Sự thất bại trong việc hoạt động theo Luật Tuần Hoàn chính là gây ra khó khăn nội tại trong việc sử dụng và lạm dụng kích thích tình dục. Thay vì con người được thống trị bởi các biểu hiện theo chu kỳ của xung động tình dục, và đời sống của anh ta, vì thế, được cai quản bởi một nhịp điệu nhất định; ở thời điểm này chưa tồn tại thứ như thế, ngoại trừ trong những chu kỳ mà người phụ nữ trải qua, và những điều này ít được chú ý đến. Tuy nhiên, đàn ông, không bị thống trị bởi bất kỳ chu kỳ nào như thế, đã bị phá vỡ cũng trong nhịp điệu mà cơ thể người phụ nữ nên là trực thuộc, và điều đó - hiểu một cách đúng đắn - sẽ xác định tập quán của mối quan hệ tình dục, một cách tự nhiên cũng bao gồm cả xung động của người đàn ông nữa. Thất bại trong việc tuân theo Luật Tuần Hoàn và giáng cấp những dục vọng theo sự điều khiển mang tính chu kỳ là một trong những nguyên nhân chính của bệnh tật; và vì những luật này được đưa ra trong cõi trí, một người có thể nói một cách hợp pháp rằng sự vi phạm của họ có một cơ sở tâm trí. Điều này có thể là trường hợp nếu giống dân đang hoạt động về thể trí, nhưng nó không phải vậy. Trong thế giới hiện đại ngày nay, bắt đầu xuất hiện khắp nơi việc vi phạm những luật tinh thần này, đặc biệt là Luật Chu Kỳ, luật xác định thủy triều, điều khiển các sự kiện thế giới và cũng tác động đến cá nhân và thiết lập những thói quen nhịp điệu của đời sống - một trong những khuynh hướng thúc đẩy chính dẫn đến sức khỏe tốt.
Do phá vỡ Luật Nhịp Điệu, con người đã làm tan rã những mãnh lực mà nếu được sử dụng đúng đắn, sẽ gúp cơ thể khỏe mạnh; bởi làm thế, con người đã tạo nên nền tảng cho sự suy nhược tổng quan và những khuynh hướng hữu cơ nội tại mà chúng có khuynh hướng mở đường cho sức khỏe yếu và cho phép những vi khuẩn đi vào cơ thể, tạo ra những dạng thức bên ngoài của bệnh tật nguy hiểm. Khi nhân loại lấy lại được sự hiểu biết về việc sử dụng đúng đắn thời gian (điều đó sẽ xác định Luật Nhịp Điệu trên cõi hồng trần), và có thể xác định những chu trình đúng đắn cho những biểu hiện khác nhau của lưc sống trên cõi hồng trần, như vậy cái trước đây là thói quen bản năng sẽ trở thành sự sử dụng thông minh của tương lai. Điều này cấu thành một nền khoa học hoàn toàn mới, và nhịp điệu của các quá trình tự nhiên và việc thiết lập, như những thói quen, những chu kỳ đúng đắn cho chức năng thể chất, sẽ đem lại một kỷ nguyên mới về sức khỏe và tình trạng thể chất khỏe mạnh của toàn bộ giống dân.
2. Ba Định Luật Vũ Trụ được kết nối với Định luật này (6)
a. Định luật Tiết Kiệm ..... định luật thống trị vật chất, phương diện thứ ba.
b. Định Luật Hấp Dẫn/ Hút và Đẩy… định luật thống trị linh hồn, phương diện thứ hai.
c. Định Luật Tổng Hợp.... định luật thống trị tinh thần, hay phương diện thứ nhất.
3. Có bảy Định Luật hệ thống, thống trị sự biểu hiện của Đấng Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. (6)
4. Mỗi định luật trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ (6)
5. Mỗi luật có hiệu lực tuần hoàn (6)
Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cõi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ yên nghỉ của nó
6. Mỗi sự sống biểu hiện có ba chu kỳ vĩ đại của nó (6-7)
    Sinh ra                           Sống                           Chết.
Xuất hiện                       Phát triển                     Biến mất.
Giáng hạ tiến hoá           Tiến hóa                   Qui nguyên
Bất động                       hoạt động             Chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại       Sự sống sinh động     Sự sống nhịp nhàng.
7. Kiến thức của các chu kỳ liên quan đến kiến thức về con số, âm thanh và màu sắc (7)
8. Kiến thức toàn bộ của các chu kỳ chỉ được biết đến khi đã là một người tinh thông lão luyện hoàn thiện (7)
Tri thức trọn vẹn của bí ẩn của các chu kỳ chỉ được sở hữu bởi Chân sư hoàn thiện. (LVLCK, 39)
+ Định luật Chu Kỳ (Law of Cycles): Định luật Chu Kỳ định đoạt thủy triều, kiểm soát các biến cố trên thế gian và cũng sẽ chi phối cá nhân và như thế thiết lập các thói quen của cuộc sống có tiết điệu – một trong các động cơ chính yếu được định trước để có được sức khỏe tráng kiện. (CTHNM, 89)

+ Định đề (Postulate): Quyển “Luận về Huyền linh thuật” được căn cứ vào 4 định đề căn bản mà kẻ nghiên cứu phải chấp nhận vì nó cung cấp một giả thuyết đáng nghiên cứu và thử nghiệm, thứ tự quan trọng là:
1. Trong vũ trụ biểu lộ của chúng ta có tồn tại sự biểu hiện của một Năng lượng hay Sự sống vốn là nguyên nhân chịu trách nhiệm cho vô số hình hài sắc tướng và một huyền giai rộng lớn các thực thể có khả năng cảm thụ tạo thành toàn thể những gì hiện tồn. Định đề này thường được gọi là Vật–Hoạt–Thuyết, mặc dù thuật ngữ này chỉ làm cho rối trí.
2. Định đề này xuất phát từ định đề thứ nhất và được phát biểu như sau: Sự sống Duy Nhất, biểu lộ qua vật chất, tạo ra một yếu tố thứ ba đó là ý thức. Ý thức này, vốn dĩ là kết quả của sự hợp nhất của hai cực tinh thần và vật chất, là linh hồn của vạn vật; nó thấm nhuần mọi chất liệu hay năng lượng biểu lộ ra bên ngoài; nó nằm dưới mọi hình hài, dù cho đó là hình hài của đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là một nguyên tử, hay là hình hài của con người, một hành tinh hay một Thượng Đế. Đây là Tự Định Thuyết.
3. Được phát biểu như sau: Mục tiêu mà theo đó sự sống chiếm ngự hình hài và mục tiêu của thực thể biểu lộ là việc khai mở ý thức hay là sự thiên khải của linh hồn. Định đề này có thể được gọi là Thuyết Tiến Hóa Ánh sáng.
4. Mọi sự sống đều biểu hiện theo chu kỳ. Đây là Thuyết Tái Sinh hay Thuyết Luân Hồi, minh chứng của định luật chu kỳ.  Đó là các đại chân lý ẩn tàng tạo thành nền tảng của Minh triết Muôn đời - Sự hiện tồn của sự sống và việc phát triển của ý thức qua việc chiếm hữu hình hài theo chu kỳ.(LVHLT, 8–10)

+ Khẩu quyết: 
1. Khẩu quyết hình thành Thế giới trong Dịch học Đông phương: Thiên địa định vị - Thiên trạch thông khai - Lôi phong tương bạc - Thủy hỏa bất tương xạ
2. Âm Dương:
3. Ngũ hành:
4. Bát quái:
5. Sáu mươi Giáp tý

+ Các chu kỳ:
Thế giới: Thành trụ hoại không
Chúng sinh: Sinh lão bệnh tử

+ Các Nguyên lý gốc: 
I. Nguyên Lý Cơ Bản I. Có một Nguyên Lý Bất Biến Vô Biên; một Thực Tại Tuyệt Đối đi trước tất cả Hiện Hữu biểu lộ theo điều kiện. Nó vượt ngoài phạm vi và tầm với của bất kỳ tư duy hay sự diễn đạt nào của con người.
Vũ Trụ biểu hiện được chứa đựng bên trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một biểu tượng có hạn định của Thực Tại Tuyệt Đối đó.
Trong toàn thể Vũ Trụ được biểu hiện này, có ba phương diện phải được nhận thức (3)
1. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 1, vô ngã và không biểu lộ, có trước của cái được Biểu Hiện.
2. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 2, Tinh thần-Vật chất, Sự sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 3, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Phổ quát..
+ Kiến thức về vũ trụ gốc Tam phân – năng lượng gốc vũ trụ là chính. Từ năng lượng này, vô số Thái dương hệ hình thành, mỗi thái dương hệ có một sự sống biểu lộ, chúng ta thường gọi là Đấng Thái Dương Thượng Đế . (QU1. Ma Kết)
II- Nguyên Lý Cơ Bản II. Có một nguyên lý cơ bản được gọi là Định Luật Tuần Hoàn.
1. Định Luật Tuần Hoàn này chi phối tất cả các biểu hiện, dù đó là biểu hiện của một Thái Dương Thượng Đế thông qua trung gian một thái dương hệ [Trang 6], hay là biểu hiện của con người thông qua trung gian một hình thể. Tương tự, Định luật này cũng điều khiển tất cả các vương quốc trong tự nhiên.
2. Ba Định Luật Vũ Trụ được kết nối với Định luật này (6)
3. Có bảy Định Luật hệ thống, thống trị sự biểu hiện của Đấng Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. (6)
4. Mỗi định luật trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ (6)
5. Mỗi luật có hiệu lực tuần hoàn (6)
Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cõi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ yên nghỉ của nó
6. Mỗi sự sống biểu hiện có ba chu kỳ vĩ đại của nó (6-7)
Sinh ra - Sống - Chết.
Xuất hiện - Phát triển - Biến mất.
Giáng hạ tiến hoá - Tiến hóa - Qui nguyên
Bất động - hoạt động - chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại - Sự sống sinh động - Sự sống nhịp nhàng.
7. Kiến thức của các chu kỳ liên quan đến kiến thức về con số, âm thanh và màu sắc (7)
8. Kiến thức toàn bộ của các chu kỳ chỉ được biết đến khi đã là một người tinh thông lão luyện hoàn thiện (7)
   Tri thức trọn vẹn của bí ẩn của các chu kỳ chỉ được sở hữu bởi Chân sư hoàn thiện.
III- Nguyên Lý Cơ Bản III. Tất cả các linh hồn đều giống với Đại Hồn
1. Thượng Đế của thái dương hệ là Đại Vũ Trụ. Con người là Tiểu Vũ Trụ. (7)
2. Linh hồn là 1 phương diện của mọi dạng thức đời sống, từ một Thượng Đế (Logos) cho đến một nguyên tử. (7)
3. Mối quan hệ giữa những linh hồn và Đại Hồn là nền tảng của Tình Huynh Đệ (7)
Mối quan hệ giữa tất cả các linh hồn và Đại Hồn cấu thành nên nền tảng niềm tin khoa học của Tình Huynh Đệ. Tình Huynh Đệ là một sự thật trong tự nhiên, không phải là một lý tưởng. (Nguồn: Luận về Lửa Càn Khôn)

+ Thể - Dụng của Bồ đề Tâm: ... Ngài Lý Bính Nam nói: Một vạn (10 ngàn) người niệm Phật, thật sự có thể vãng sanh chỉ vài ba người. ...Vì không phát tâm Bồ Đề nên tâm không thanh tịnh. Bởi tâm không thanh tịnh nên còn thị phi nhân ngã, tham, sân, si, mạn, nghi. Những thứ này không tương ứng với thế giới Cực Lạc một chút nào.
... Cho dù quý vị niệm Phật siêng năng đến đâu hoặc một ngày có thể niệm đến trăm ngàn lần, nhưng tâm của quý vị không thiện, làm sao có thể lên Tây Phương ở cùng chỗ của bậc Thượng thiện nhân? Do đó phát Bồ đề tâm quan trọng hơn cả việc nhất hướng chuyên niệm là như vậy. Người thật sự phát Bồ đề tâm, khi lâm chung, một niệm hoặc mười niệm quyết định sẽ vãng sanh. Vì sao? Vì họ đã là người thượng thiện nhân rồi, đầy đủ phước đức rồi. Chỉ cần chợt khởi tâm muốn vãng sanh là được ngay. Cho nên những lời nói trong Kinh điển, chúng ta cần phải lưu ý, suy ngẫm kỷ lưỡng, tuyệt đối không nên tụng niệm một cách hàm hồ.
Đoạn văn trên chúng ta nói đến CHÂN TÂM.
CHÂN TÂMTHỂ của Bồ đề tâm, kế tiếp nói THÂM TÍNDỤNG của Bồ đề tâm.
Tự dụng đối với chi? Tình là luôn giữ tâm hiếu thiện hiếu đức( thích làm điều thiện, đức). Đối với chúng sanh thì đại từ bi. Nhân từ, hiếu thiện hiếu đức là việc làm không thể miễn cưỡng hoặc làm cho có hình thức bên ngoài. Nó phải lưu xuất một cách tự nhiên từ bên trong ra. Cho nên người phát tâm Bồ đề, mỗi khi khởi tâm động niệm đều nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng sanh phá mê khai ngộ, thoát khỏi cảnh khổ được an vui. Không hề có một niệm nghĩ đến lợi ích cho cá nhân mình. Nếu còn một niệm ích kỷ tự lợi, là còn ngã chấp nặng nề, ngã chấp là gốc rể của lục đạo luân hồi! Không bứng sạch gốc rễ này thì không có cách nào ra khỏi lục đạo. Cho nên ngay từ bây giờ, quý vị cần phải buông xả, phải nghĩ đến người khác, nghĩ đến chúng sanh, đến những người đang đau khổ, đang gặp nạn trên thế giới, tuyệt đối không nên nghĩ chuyện lợi ích cho riêng cá nhân mình nữa.
Trong suốt thời gian thuyết pháp đã qua, tôi nhiều lần nhắc nhở quý vị phải phát Bồ đề tâm. Trong Kinh điển đức Thế Tôn cũng từng lập đi lập lại không biết bao nhiêu ngàn lần. ..... Một khi quý vị phát khởi Bồ đề tâm, liền được chư Phật hộ trì. Vì tâm của chư Phật là tâm Bồ đề. (Nguồn: Khai thị niệm Phật - PS Tịnh Không)
+ Tu đạo Bồ đề: Bảy phần Bồ đề - Bảy giác/ Bảy phần giác chi:

"Thất giác bát chánh ý niệm cần, (bảy phần giác, tám chánh đạo, ý niệm cần tu)".

Bảy giác tức là bảy phần giác chi, cũng gọi bảy phần bồ đề. Tám chánh tức là tám chánh đạo. Bao trùm hết bảy giác chi, tám chánh đạo, năm căn, năm lực, bốn như ý túc, bốn chánh cần, hợp lại thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
* Bảy giác/ Bảy phần bồ đề là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, niệm, định giác phần. Tu hành y chiếu theo bảy phương pháp.
1. Sao gọi là trạch pháp giác phần ? Trạch tức là tuyển trạch. Pháp tức là phương pháp. Giác là minh bạch, hiểu rõ, cũng là giác ngộ. Đối với pháp tu hành, chư vị phải nên chọn lựa, tuyển trạch, tức là phải có trạch pháp nhãn (con mắt chọn lựa pháp), thì chư vị mới biết gì là pháp, gì là không phải pháp, gì là pháp thiện, gì là pháp ác, biết pháp trắng pháp đen, phải có sức chọn lựa tuyển trạch như thế. Không nên lấy đúng làm sai, lấy đen làm trắng, lấy lành làm ác. Nếu làm như thế thì không phải là trạch pháp giác phần. Sau khi chọn lựa, tuyển trạch xong, thì phải y theo pháp mà tu hành.
2. Y pháp tu hành tức phải tinh tấn, nên giác phần thứ hai là tinh tấn. Chư vị phải chánh tinh tấn, chớ nên tà tinh tấn. Chánh tinh tấn tức là hoặc ngồi thiền, trì chú, học giáo điển, trì giới luật, tu nhẫn nhục, tất cả pháp đó đều phải tinh tấn. Nếu không tinh tấn như hôm nay ngồi thiền, ngày mai không ngồi, hôm nay trì giới ngày mai không trì giới, hôm nay tu hạnh nhẫn nhục ngày mai lại không tu, đó không phải là tinh tấn giác phần. Có tinh tấn giác phần tức là ngày đêm sáng tối sáu thời đều hằng tinh tấn. Sáng ba thời, tối ba thời đều tinh tấn không nghỉ ngơi.

3. Sau khi tinh tấn được rồi thì có thiền duyệt (vui trong thiền định). Thiền duyệt tức là hỷ giác phần. Ví như, khi ngồi thiền, công phu ngồi đến một giờ thì tự cảm giác an lạc, tự tại, vừa ý vô cùng; hút thuốc á phiện chỉ vui thích trong chốc lát, còn khi ấy làm bất cứ việc gì chư vị đều cảm giác an lạc vui thích hết cả. Đạt đến an lạc này, gọi là hỷ giác phần.
4. Trừ giác phần- Lại nữa, khi ngồi thiền, đạt đến cảnh giới khinh an thì tâm rất là an lạc. Nhưng cảnh giới này có lúc thì sanh khởi giống như trên, có lúc thì dễ dàng sanh tẩu hỏa nhập ma. Tại sao tẩu hỏa nhập ma ? Khi sanh tâm chấp trước, tức truy cầu nắm giữ cảnh giới vừa thấy, thì ma vương liền nhập vào tâm. Nếu chư vị không chấp trước, thì ma vương không có cách nào để nhập vào. Chư vị nếu chấp vào cảnh giới nào thì ma liền hiện ra cảnh giới đó. Làm thế nào để giải ? Lúc đó phải dùng trừ giác phần. Trừ tức là thẩm tra, dọ xét các ác giác quán. Phải tẩy trừ các ác giác quán, còn chánh giác quán thì phải bảo tồn.

5. Khi chư vị trừ bỏ chấp trước thì là xả giác phần. Xả này tức là xả bỏ vọng tưởng chấp trước. Nếu không thể xả bỏ vọng tưởng chấp trước thì không đắc được tam muội và đạt đến bảy phần bồ đề.
6. Niệm giác phần - Sau khi xả được vọng tưởng chấp trước thì bảo tồn được niệm tinh tấn, mà đã bàn ở bên trên. Chớ để quên mất, niệm này đeo đuổi niệm kia (niệm huyền tại huyền), niệm niệm không quên, tu tinh tấn.
7. Định giác phần - Tu tinh tấn thì sau này đắc được định giác phần, tức thuộc bảy bồ đề phần hay bảy giác phần. 
(Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Tứ diệu đế (ASCLH, 141) ; (TLHNM–II, 155):
1. Chân lý Aryan về Khổ (Ill). Cuộc sống trong thế giới hiện tượng không thể tách khỏi đau khổ và phiền não/ Là thực trạng đau khổ của con người
2. Chân lý Aryan về việc phát sinh cái khổ  – (Tập). Nguyên nhân của đau khổ là ham muốn cuộc sống trong thế giới hiện tượng/ Là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ.
3. Chân lý Aryan về việc chấm dứt cái khổ – (Diệt). Việc diệt khổ chỉ đạt được bằng cách diệt trừ ham muốn sống trong cõi hiện tượng/ Là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau
4. Chân lý Aryan về Con đường đưa đến Diệt Khổ – (Đạo). Con đường đưa đến diệt khổ là bát chánh đạo / Là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau. (Nguồn: Tứ diệu đế)

+ Tứ diệu đế: Giảng giải rất chi tiết đầy đủ (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Tứ Diệu đế: ... 17. - “Này các đệ tử, đối với bốn chân lý thánh, nếu có chỗ nào chưa thấu đáo, thì nên thưa hỏi, Như Lai sẽ chỉ bày cho các con.” Thế Tôn khuyên nhắc ba lần như vậy, bốn chúng đều im lặng, không ai còn thắc mắc.
Lúc ấy, tôn giả A-nậu-lâu-đà bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có thể trở nên nóng, mặt trời có trở nên lạnh, nhưng Bốn Chân Lý Thánh mà Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi được. Khổ đế là thực trạng đau khổ của cuộc đời: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thù ghét mà phải gặp mặt là khổ, thương yêu mà phải chia lìa là khổ, chấp vào năm nhóm nhân thể là khổ. Diệt đế là trạng thái hết sạch mọi đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là an lạc, Niết-bàn. Đạo đế là con đường dẫn đến an lạc, là tám chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác. Bạch Thế Tôn, cả bốn chúng đều không còn thắc mắc gì về bốn chân lý cao thượng nầy nữa. (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)

+ Phật dậy người xuất gia: Dầu nói ngàn ngàn lời, nhưng không gì lợi ích, tốt hơn một câu nghĩa, nghe xong, được tịnh lạc.
"Này các Tỷ- kheo, có 10 đề tài nói chuyện này:
Câu chuyện về ít dục - biết đủ - viễn ly - về không tụ hội - về tinh tấn - về giới - về định - về tuệ - về giải thoát - về giải thoát tri kiến. Này các Tỷ-kheo, có 10 đề tài để nói chuyện này, nếu các Thầy tiếp tục nói những câu chuyện liên hệ đến 10 đề tài để nói chuyện này, thời các Thầy có thể với ánh sáng của mình đánh bạt ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, những vật có đại thần lực, có uy lực, còn nói gì của các du sĩ ngoại đạo?" ( Kinh Pháp Cú, kệ số 100, ghi lời Phật khuyên nhắc người xuất gia về ý nghĩa lợi ích của lời nói); (xem nguồn)

+ Lời nói hay ngôn ngữ giao tiếp thiện lành: Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ngươi có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm.... Chư Tỷ kheo, ở tại đây, các Ngươi cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng địa vô biên, không hận, không sân". Chư Tỷ-kheo, như vậy các Ngươi cần phải học tập.
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta.
Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy. (Nguồn: 21.Kinh ví dụ cái cưa)

+ Phát Biểu theo Đời sống nhân sinh:
- Ý kiến phát biểu: Khi nhận xét, đánh giá về một sự vật, một con người, hay một hành động thì đó được gọi là “ý kiến”. Thí dụ: Nhận xét về mọi người hay vật, các ý kiến khác nhau không dễ chứng minh được là đúng hoặc sai.
- Nói Theo Sự kiện: Là khái niệm về một sự thật và có thể chứng mình được là đúng hay sai. Thí dụ: Trong lý lịch tự khai, có thể kiểm chứng bằng các bằng chứng bằng thẩm tra hay hồ sơ đính kèm.
* Phỉ báng, nhục mạ hay vu khống: Dựng truyện, nói, phổ biến thông tin không đúng sự thật về một người có thể bị pháp luật trừng trị, ở VN đều là tội hình sự.

+ 13. Lời nói có ba loại:
</