QUÂN TỬ TẠO MỆNH: ĐOÁN GIẢI THIÊN CƠ - CHIẾN THẮNG THIÊN MỆNH - NIỀM HY VỌNG VINH QUANG

CÁC DỊCH VỤ TƯ VẤN CÁ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP
KHẨU HIỂU:
TÌM CÁT TRÁNH HUNG - CẢI MỆNH NHƯ Ý - NGŨ PHÚC LÂM MÔN

+ XEM SỐ MỆNH VÀ TV PHÁP CẢI MỆNH CÁT TƯỜNG - VUN BỒI HY VỌNG: Xem tại đây

+ MỞ LỚP HỌC DỰ ĐOÁN TỨ TRỤ VÀ QUẺ DỊCH THƯỜNG XUYÊN: Xem tại đây

+ PHÁP TU PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ TOÀN DIỆN - THÀNH BẬC THIÊN TÀI. Xem tại đây

+ NHẬN TƯ VẤN THIẾT KẾ THEO PHONG THỦY VĂN PHÒNG VÀ NHÀ Ở HỢP MỆNH VẬN.

+ MỞ LỚP TU "THIỀN TRÀ" VÀ TU THIỀN LẬP HẠNH GIÚP XA LÌA TÀ DỤC THƯỜNG XUYÊN

+ HỘI QUÁN CAFE PHONG THỦY: HỎI - ĐÁP VỀ BỒI CÁT TRÁNH HUNG - GIẦU CÓ AN KHANG - XA LÌA TÀ DỤC - PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ .... 

* Dịch vụ và Hỏi - Đáp tại số 301 Minh Khai, tầng 4 tòa nhà TTTM Thanh Ngọc, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh: Xem tại đây

* TƯ VẤN MIỄN PHÍ vào Sáng thứ bảy hàng tuần, kính xin liên hệ trước để chúng tôi tiếp đón quý khách được chu đáo!

 Kính chúc quí vị luôn bình an, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý - Niềm hy vọng vinh quang!

+ Kính xin mời đọc kỹ: Hướng dẫn Dịch vụ

Thiền Định Về Tứ Đại Và Mầu Sắc - Thiền Minh Sát

THIỀN ĐỊNH MƯỜI ĐỀ MỤC
HIỂU THẤU VỀ TỨ ĐẠI VÀ MẦU SẮC - THIỀN MINH SÁT

40 đề mục để thực hành Thiền ĐịnhBạn có thể thực hành một trong những đề mục này. Các đề mục này được chia làm nhiều nhóm.
I- Nhóm đầu tiên là kasiṇa. 
Chữ 
kasiṇa có nghĩa là một khối, một tổng thể. Có nghĩa là bạn có thể đặt tâm mình vào toàn thể của đối tượng kasiṇa. Đức Phật dạy mười kasiṇa đó là:

kasiṇa đất,
kasiṇa nước,
kasiṇa lửa,
kasiṇa gió,
kasiṇa xanh,
kasiṇa vàng,
kasiṇa đỏ,
kasiṇa trắng,
kasiṇa không gian,
kasiṇa ánh sáng.
Bốn kasiṇa đầu là bốn đại đất, nước, gió, lửa. Bốn đặc tính chính của vật chất này thường được nói đến trong Phật giáo.

*Thực hành kasiṇa đất:
Nếu muốn thực hành kasiṇa đất thì bạn phải làm một đĩa kasiṇa. Lấy đất sét có màu giống như màu mặt trời vào lúc bình minh, làm một đĩa có đường kính khoảng một gang tay và bốn ngón (độ chừng hai tấc rưỡi). Làm bề mặt của kasiṇa cho trơn láng và sạch sẽ rồi đặt trước mặt vừa tầm mắt bạn (không xa quá, không gần quá, không cao quá, không thấp quá). Để tâm vào toàn thể kasiṇa đó và niệm thầm đất, đất, đất” cả ngàn ngàn lần. Thật ra là bạn làm cho mình nhớ kỹ cái đĩa đó. Đôi khi mở mắt ra nhìn, niệm “đất, đất, đất”, đôi khi nhắm mắt lại, cố gắng nhớ hình ảnh của cái đĩa đất trong tâm.
Khi thực hành kasiṇa đất thành công thì đầu tiên bạn sẽ đạt được upacāra samādhi (Cận Định). Nếu tiếp tục thực hành thì sẽ đạt được năm tầng thiềntừ tầng thiền thứ nhất đến tầng thiền thứ năm. Tất cả mười kasiṇa đều dẫn đến kết quả tương tự như vậy. Bạn có thể chọn một trong những kasiṇa đó để đạt được định tâm hay đạt được Cận Định và các tầng thiền.

Do tinh tấn thực hành, một thời gian sau, ngay khi nhắm mắt lại bạn cũng thấy kasiṇa đất rõ ràng giống như đang mở mắt. Khi bạn có thể giữ được tướng hay hình ảnh của đĩa đất trong tâm thì bạn có thể không cần nhìn vào đĩa đất nữa mà chỉ chú tâm vào tướng hay hình ảnh của kasiṇa đất mà bạn nhớ trong tâm mình. Nếu tiếp tục chú ý vào hình ảnh hay tướng của kasiṇa trong tâm thì tướng đó càng ngày càng rõ và sắc nét hơn. 
Thoạt đầu hình ảnh hay tướng của kasiṇa xuất hiện trong tâm hoàn toàn giống như một bản sao của đĩa kasiṇa. Ví dụ trên đĩa đó có vài chỗ lồi lõm hoặc màu sắc chỗ đậm chỗ nhạt khác nhau ta đều thấy rõ. Nghĩa là tướng kasiṇa đất trong tâm giống như đúc hình ảnh của đĩa đất bên ngoài. Khi việc hành thiền của bạn tiến bộ thì tướng kasiṇa đất trở nên sắc nét hơn và những dấu vết trên tướng đó mất hẳn. Tướng của kasiṇa đất trở nên trơn láng mịn màng và rõ ràng trong suốt giống như một cái
đĩa có ánh sáng của mặt trăng hay mặt trời.

Thiền sinh tiếp tục chú tâm chánh niệm vào đề mục cho đến khi có một loại tâm khởi sinh. Loại tâm này có thể từ trước đến nay chưa bao giờ khởi sinh trong bạn, đó là tâm thiền jhāna. Khi tâm thiền xuất hiện thì trước đó định tâm của bạn rất tốt. Tâm bạn ở trên tướng của kasiṇa đất một thời gian lâu dài

Nhóm thứ hai là mười asubha tức là hành
thiền về mười loại tử thi để thấy sự dơ uế, gớm guốc
của tử thi. Khi thấy sự ô trược, ô uế, đáng nhờm
gớm của tử thi thì cũng thấy sự ô trược trong cơ thể
mình. Có mười loại tử thi dùng để hành đề mục này.

Thực tập các kasiṇa khác cũng tương tự như vậy.

- Muốn thực tập kasiṇa nước bạn có thể đổ một ít nước vào trong bình rồi nhìn vào nước đó.
- Nếu 
niệm về kasiṇa lửa thì bạn có thể đốt một đống lửa rồi nhìn lửa đó qua một lỗ tròn trên bức tường hoặc qua một lỗ trên một vật gì đó để khi bạn thấy lửa cũng có kích thước như của kasiṇa đất.

- Thiền Kasiṇa gió có hai cách. Thứ nhất là nhìn vào lá cây rung rinh do sức gió. Thứ hai là ở trong một phòng kín, mở hé cửa sổ và để gió luồn vào, cảm nhận gió tiếp xúc với cơ thể. 
- Nếu muốn thiền trên kasiṇa xanh thì làm một cái đĩa rồi sơn màu xanh lên đó hoặc vẽ màu xanh lên trên một tờ giấy rồi lấy đó làm đề mục. Các màu khác cũng tương tự như vậy. Ở Miến Điện người ta dịch chữ nīla là kasiṇa nâu nên người ta làm kasiṇa màu nâu. Còn các nước khác dịch là màu xanh nên dùng kasiṇa xanh. 
- Niệm kasiṇa không gian thì nhìn lên khoảng không trên bầu trời qua một lỗ tròn. 

- Làm tương tự cho kasiṇa ánh sáng.
Muốn thực hành kasiṇa nào thì thực hiện kasiṇa đó rồi tập trung tâm ý vào đề mục thiền cho đến khi đạt được Cận Định hay An Chỉ Định.

II- Nhóm thứ hai là mười asubha - Tử thi:
Tức là hành thiền về mười loại tử thi để thấy sự dơ uế, gớm guốc của tử thi. Khi thấy sự ô trược, ô uế, đáng nhờm gớm của tử thi thì cũng thấy sự ô trược trong cơ thể
mình. Có mười loại tử thi dùng để hành đề mục này. Ngày nay chúng ta chỉ có thể tưởng tượng các tử thi bởi vì chúng ta không thể thấy trực tiếp chúng.
Có mười loại tử thi.
1. Tử thi bị trương sình, nghĩa là tử thi trong giai đoại trương phình.
2. Tử thi bầm, nghĩa là các tử thi trong giai đoạn chuyển sang màu đen và xanh.
3. Tử thi bị mưng mủ, nghĩa là tử thi trong giai đoạn chảy nước, chảy mủ.
4. Tử thi bị chặt tay, chặt chân hay tay chân đứt lìa. Tay chân đứt lìa do kẻ thù, do bị hành quyết v.v…
5. Tử thi bị ăn, bị ăn bởi chó, chó rừng, chim v.v… 
6. Tử thi bị phân tán ra nhiều phần, bởi vì các phần của tử thi bị thú ăn vứt rải rác khắp nơi.
7. Tử thi bị cắn xé và phân tán ra nhiều miếng. Các bộ phận của tử thi bị cắn xé và vứt rải rác nhiều nơi.
8. Tử thi chỉ còn xương dính máu.
9. Tử thi bị dòi bọ đục khoét
10. Bộ xương.
Tôi nghĩ ngày nay chúng ta có thể thấy bộ xương hay ít nhất là có thể mua một bộ xương bằng nhựa để hành thiền về sự Bất Tịnh của Tử Thi. Mặc dù không phải là một bộ xương thật, nhưng tôi nghĩ bộ xương bằng nhựa cũng giúp ích cho chúng ta. Mười loại thiền quán bất tịnh giúp chúng ta dứt bỏ sự dính mắc, sự chấp trước nơi thân.

III- Nhóm kế tiếp gọi là “mười anussati”, tức mười loại tùy niệm.
1. Niệm Phật. “Niệm Phật” có nghĩa là niệm các ân đức của Đức Phật. Đức Phật có chín ân đức hay phẩm chất và các bạn có thể chọn một trong chín phẩm chất đó rồi chú tâm trên đó liên tục để phát triển tâm định.
2. Niệm Pháp”. Nghĩa là niệm các phẩm chất của Pháp.
3. Niệm Tăng. NiệmTăng có nghĩa là niệm các phẩm chất của Tăng.
4. Niệm Giới. Nghĩa là niệm sự giữ giới thanh tịnh của chính mình. Để có thể thực hành đề mục thiền này, trước tiên bạn phải giữ giới trong sạch. Sau đó quán xét sự trong sạch về giới của mình. Trong khi niệm giới có thể nói “giới của tôi trong sạch, tôi không bị phạm một giới nào”.
5. Niệm Thí. Tức là bạn có thể lấy sự bố thí cúng dường của mình làm đề mục.
6. Niệm Thiên. Thiên ở đây không có nghĩa là Chư Thiên bằng hình ảnh mà chúng ta niệm tưởng đến những đức tính tốt đẹp của chư thiên như đức tin, sự rộng lượng, trí tuệ v.v…
7. Niệm về Sự An Tịnh Tĩnh Lặng. Đó là niệm những đặc tính thanh tịnh an lạc của Niết Bàn.
8. Niệm Sự Chết. Sự sống thật bấp bênh, cái chết là điều chắc chắn.
9. Niệm Ba Mươi Hai Thể Trược để thấy sự ô uế, bất tịnh của cơ thể.
10. Niệm Hơi Thở. Niệm hơi thở là chánh niệm vào hơi thở vào hơi thở ra. Hơi thở có thể dùng làm đề mục Thiền Định hay Thiền Minh Sát tùy theo cách thức thực hành của chúng ta.

+ ..... Ở Trung Hoa và Việt Nam thì là mười ân đức. Mỗi lần niệm một (Chữ) Ân Đức Phật họ lần một hạt. Những người Việt Nam có thể niệm bằng tiếng Việt như sau:
Kính lễ Đức Như Lai Ứng Cúng nguyện trừ tham sân si. (12 hạt)
Kính lễ Đức Chánh Biến Tri nguyện trừ tham sân si. (11 hạt)
Kính lễ Đức Minh Hạnh Túc nguyện trừ tham sân si. (11 hạt)
Kính lễ Đức Thiện Thệ nguyện trừ tham sân si. (10 hột)
Kính lễ Đức Thế Gian Giải nguyện trừ tham sân si.(11 hạt)
Kính lễ Đức Vô Thượng Sĩ nguyện trừ tham sân si. (11 hạt)
Kính lễ Đức Điều Ngự Trượng Phu nguyện trừ tham sân si. (12 hạt)
Kính lễ Đức Thiên Nhân Sư nguyện trừ tham sân si. (11 hạt)
Kính lễ Đức Phật nguyện trừ tham sân si. (9 hột)
Kính lễ Đức Thế Tôn nguyện trừ tham sân si. (11 hạt)
Cứ niệm một chữ thì lần một hạt, niệm xong mười ân đức đó thì đủ 108 hạt.

IV- Nhóm tiếp theo là appanamañña (Tứ Vô Lượng Tâm).
Chữ vô lượng ở đây có nghĩa là không có giới hạn. Như vậy, tứ vô lượng tâm đều lấy chúng sinh làm đối tượng và chúng sinh được lấy làm đối tượng phải là tất cả chúng sinh không giới hạn. Đó là lý do tại sao gọi là vô lượng tâm. Khi bạn niệm một trong bốn đề mục trên thì bạn đang sống như một vị Phạm thiên.
Đầu tiên là mettā (tâm từ ái) có nghĩa là mong muốn tất cả chúng sinh đều được an lạc hạnh phúc.
Thứ hai là karuṇā (tâm bi mẫn) có nghĩa là ước muốn loại trừ, xua tan những đau khổ của chúng sinh.
Thứ ba là muditā (tâm Hoan hỷ) Hoan hỷ, hạnh phúc trước sự thành công, hạnh phúc của kẻ khác.
Thứ tư là upekkhā (tâm xả). Tâm xả là tâm cao thượng nhất trong bốn loại tâm kể trên. Khi niệm tâm xả bạn không cảm thấy có tâm từ, tâm bi và tâm hỉ. Tâm bạn ở trạng thái trung tính, không bị lay động bởi đối tượng vừa lòng hay không vừa lòng, không bị lay động trước đau khổ hay hạnh phúc. Người có tâm xả cố gắng giúp đỡ mọi người, mọi loài; nhưng biết rõ mỗi chúng sanh đều có Nghiệp riêng của họ nên mặc dù luôn luôn giúp đỡ chúng sanh, nhưng nếu chúng sanh không đủ duyên để hưởng những gì mình giúp, thì họ vẫn an nhiên tự tại.

V- Nhóm tiếp theo là quán tưởng về thực phẩm bất tịnh.
Khi bạn ăn, thực phẩm được trộn với nước miếng, đưa xuống dạ dày. Nếu bạn lấy ra khỏi miệng một miếng thức ăn đã nhai rồi thì bạn sẽ không muốn ăn lại. Như vậy, vào lúc nhai thực phẩm trở thành ô trược, nhưng vì bạn không thấy thực phẩm trong miệng nên bạn sẵn sàng nuốt xuống. Khi lấy thức ăn ra khỏi miệng, ngay cả nhìn nó bạn còn không muốn nhìn, và cũng không dám cho ai thấy. Như vậy, quán tưởng thực phẩm bất tịnh có thể phát triển bằng nhiều cách. ... Nhưng quán tưởng vừa vừa thôi chứ quán tưởng quá mức thì khi mới nhai bạn đã nhả ra rồi và không thể nào ăn được.

VI- Nhóm tiếp theo là phân tích tứ đại.
Với đề mục thiền này, bạn có thể lấy các bộ phận trong cơ thể như tóc, lông, móng, răng, da v.v… để thấy các yếu tố tứ đại. 32 thành phần trong cơ thể, trong đó có hai mươi thành phần thuộc yếu tố đất, mười hai thành phần thuộc yếu tố nước. Trước tiên bạn phải hiểu tứ đại là gì, sau đó bạn cố gắng hiểu những bộ phận nào trong cơ thể có những đặc tính của đất, của nước v.v… Chẳng hạn như bạn có cảm giác về sự cứng thì bạn có thể kết luận đây là yếu tố đất. Khi bạn cảm thấy sự dính hút hay ướt thì bạn có thể kết luận đây là yếu tố nước v.v… Do đó hãy cố gắng thấy các yếu tố này bất kỳ nơi nào trong cơ thể......
hiểu rõ được tứ đại là điều không phải dễ dàng, rất khó khăn để hiểu rõ được tứ đại do những đặc tính này thật là thâm sâu nên định tâm không đủ mạnh để đạt đến các tầng thiền.

VII- Cuối cùng là nhóm vô sắc tức là bốn tầng thiền vô sắc.
Nếu bạn không nghiên cứu, học Vi Diệu Pháp thì bạn không thể nào hiểu được thế nào là vô sắc.

Trên đây là bốn mươi đề mục Thiền Định. Nếu muốn thì bạn có thể thực hành một hoặc một số trong những đề mục này.

THIỀN MINH SÁT

Chỉ có Thiền Minh Sát mới giúp xuyên thấu vào bản chất thật sự của Vật Chất và Tâm, Giác Ngộ Tứ Diệu Đế (thấy rõ bốn sự thật cao quí).....
Mức tiến bộ của Thiền Minh Sát được phân chia thành bảy giai đoạn hay gọi là bảy giai đoạn thanh tịnh “visuddhi”. Thiền sinh sẽ tiến triển từ giai đoạn thanh tịnh này đến giai đoạn thanh tịnh khác, không bỏ qua giai đoạn nào. Thiền sinh phải đi từng bước từ giai đoạn khởi đầu cho đến giai đoạn cuối cùng.
Trong những giai đoạn hay từng mức này thiền sinh kinh nghiệm nhiều loại tuệ giác khác nhau. Nhiều loại tuệ giác khác nhau khởi sinh trong tâm thiền sinh khi thiền sinh tiến triển theo bảy giai đoạn thanh tịnh này.
+ Giai đoạn đầu tiên là Giới Tịnh. Trong tầng mức này, bạn chưa hành Thiền Minh Sát mà bạn chỉ cố gắng thanh tịnh giới. Vì giới thanh tịnh là nền móng vững chắc bạn xây dựng định và tuệ. Nếu giới không trong sạch thì không thể đạt được sự định tâm. Khi không có định tâm bạn không thể nào xuyên thấu bản chất sự vật. Do vậy, giới thanh tịnh là một bước rất quan trọng để thành công trong việc hành Thiền Minh Sát.
Ở đây, chúng ta sẽ đề cập đến giới dành cho người cư sĩ như: năm giới, tám giới …
Thiền sinh ít nhất phải giữ năm giới, nhưng nếu giữ tám giới thì đạt được nhiều phước báu hơn, lợi ích hơn vì khi giữ tám giới thiền sinh có nhiều thời gian để hành thiền. ... Vậy, bước đầu tiên Giữ Giới chẳng khác nào bước dự bị cho việc hành thiền.
+ Giai đoạn thứ hai là Tâm Tịnh. Tâm tịnh thật sự có nghĩa là định tâm. Khi có Cận Định hay đạt các tầng thiền được gọi là tâm tịnh. Nói cách khác, tâm tịnh là tâm có được Cận Định hay các tầng thiền (An chỉ định).
Một thiền sinh đạt được Cận Định và nhập vào các tầng thiền (An chỉ định) tức là người này hành Thiền Định. Một người hành Thiền Định mà đạt được Cận Định và vào các tầng thiền (An chỉ định) thì gọi là tâm tịnh. Chú Giải định nghĩa tâm tịnh là Cận Định hay An chỉ định (định trong các tầng thiền).
Đối với những người hành Thiền Định trước rồi mới qua Thiền Minh Sát, thì sau khi họ đạt Cận Định hay đạt các tầng thiền (An chỉ định), họ sẽ chuyển qua hành Thiền Minh Sát. Đây gọi là người hành Thiền Định rồi qua Thiền Minh Sát. Đối với những người không hành Thiền Định trước mà đi thẳng vào Thiền Minh Sát thì gọi là người hành Thiền Minh Sát khô.
Đối với người hành Thiền Minh Sát không qua Thiền Định trước thì tâm tịnh là Sát Na Định. Sát Na Định tương đương với Cận Định. Khi đạt đến Cận Định thì người hành thiền giữ tâm trên đề mục một cách vững vàng, và lúc bấy giờ năm chướng ngại tạm thời vắng bóng. Như vậy, Cận Định có thể chế ngự được năm chướng ngại (tham, sân, bất an hối hận, dã dượi buồn ngủ, hoài nghi) và có thể giữ tâm trên đối tượng một cách vững chắc. Tương tự như thế, Sát Na Định cũng giữ tâm trên đối tượng và chế ngự được năm chướng ngại. Do đó, Cận Định và Sát Na Định tương đương với nhau. Chỉ có một sự khác biệt giữa Cận Định và Sát Na Định là: Cận Định chỉ chú tâm trên một đề mục duy nhất trong khi Sát Na Định có thể chú tâm trên rất nhiều đề mục từng sát na một. Đề mục của Sát Na Định thay đổi và khác nhau từng sát na, nhưng đề mục của Cận Định trước sau chỉ là một.
Trong suốt thời gian hành Thiền Minh Sát, khi tâm bạn chỉ ở trên đề mục quán sát và không lang thang đi nơi khác thì lúc đó bạn đạt được Sát Na Định. Khi đạt được Sát Na Định, tâm không bị chi phối bởi phiền não, nên bạn bắt đầu thấy sự vật một cách rõ ràng. Bạn sẽ phân biệt được thế nào là Vật Chất, thế nào là Tâm. Cũng vậy, bạn sẽ thấy được ‘đặc tính’, ‘chức năng’, ‘sự biểu hiện’ hoặc nguyên nhân gần’ của đối tượng.
Như vậy, khi bạn có thể thấy đối tượng một cách rõ ràng, khi bạn có thể phân biệt được đây là Vật Chất, đây là Tâm. Khi bạn thấy đặc tính, chức năng hoặc sự biểu hiện, hay nguyên nhân gần một cách rõ ràng thì lúc đó bạn đạt được Kiến Tịnh.
Kiến Tịnh có nghĩa là khi bạn quán sát đối tượng bạn chỉ thấy đây là đối tượng và đây là tâm quán sát đối tượng. Đối tượng chỉ là đối tượng, tâm chỉ là tâm. Chỉ có các yếu tố Vật Chất và Tâm này sinh diệt mà thôi, ngoài ra chẳng có gì cả. Chẳng có gì bạn có thể gọi là linh hồn, tự ngã (attā) cả. Khi đạt đến tầng mức này bạn có thể loại trừ tà kiến, loại trừ sự hiểu lầm rằng: có một linh hồn, tự ngã attā thêm vào Vật Chất và Tâm này. Ở tầng mức này được gọi là Tuệ Phân Biệt Vật Chất và Tâm.....
Ở tầng mức này, bạn thấy được các điều kiện hay các duyên của sự vật; bởi vì có Vật Thấy thì mới có Thức Thấy, có vật để ghi nhận thì mới có tâm ghi nhận v.v… Ở tầng mức này bạn thấy rõ ràng nguyên nhân của sự vật. .....

Vậy là có mười sáu tầng tuệ liên quan đến sự thực hành Thiền Minh Sát.

Chương 12: GIÁC NGỘ
(Cứu Cánh của Con Đường Giải Thoát)

.... Theo Phật giáo, Giác Ngộ là thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Thượng (Tứ Diệu Đế) và loại trừ những phiền não trong tâm. Như vậy, ít nhất phải có hai yếu tố này trong Giác Ngộ. Một người Giác Ngộ Đạo Quả thì sẽ thấy, hiểu hay xuyên thấu Bốn Chân Lý Cao Thượng (Tứ Diệu Đế). Nghĩa là hiểu rõ Bốn Chân Lý Cao Thượng bằng kinh nghiệm của chính mình đồng thời người này phải có đủ khả
năng loại trừ phiền não. ...
Đức Phật nói: “Trong bất kỳ giáo pháp hay trong bất kỳ học thuyết nào mà không có Bát Chánh Đạo thì không thể tìm thấy các vị thánh bậc nhất, bậc nhì, bậc ba, bậc tư. Trong Tôn giáo nào, học thuyết nào có Bát Chánh Đạo thì sẽ có các vị thánh bậc nhất, bậc nhì, bậc ba, bậc tư”.

Chương 14 - VÔ NGÃ

Thuyết Vô Ngã là thuyết nòng cốt hay thuyết cốt yếu của Phật giáo. ... Trong bài Kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật tuyên bố Năm Uẩn là Vô Ngã (Đều không thật có). 

HỎI ĐÁP: 
1. Bạch Ngài, có cần phải có đầy đủ đức tin đầy đủ vào việc hành Thiền Minh Sát mới có thể hành thiền không?
Không cần phải có đức tin trọn vẹn trước khi hành thiền. Bởi vậy tôi không bao giờ bắt buộc hay khiển trách một ai về việc không có đức tin về việc hành thiền khi họ khởi đầu

2- Trong phụ chú giải Thanh Tịnh Đạo có viết: Minh sát là quán sát các đối tượng nổi bật nhất, rễ ghi nhận nhất. Đừng khởi đầu việc hành thiền bằng cách quán sát các đối tượng thật vi tế hay khó khăn. Đức Phật dạy một phương pháp thật dễ:khi đi hãy ghi nhận đi”, “khi ngồi hãy ghi nhận ngồi”.

HƯỚNG DẪN HÀNH THIỀN

A. THIỀN THA THỨ VÀ THIỀN TỪ ÁI
B. THIỀN MINH SÁT THỰC DỤNG
HƯỚNG DẪN TRÌNH PHÁP
1. Tất cả những gì diễn ra trong thời gian hành thiền đều phải được diễn tả tuần tự như sau:
a) Ðối tượng xuất hiện
b) Ghi nhận
c) Quán sát

* Trên đây chúng tôi chỉ toám lược, kính đề nghị xem chi tiết tại: Phật Pháp Cơ Bản - Tỳ Khưu Khánh Hỷ)

( Lời Nhân Trắc Học: Thực hiện điều về Vô ngã này trong tu hành, Thánh hiền thường dạy, đối tượng dụng thuyết này là người đã tu hành đắc đạo bước đầu mới nên quan tâm đến hiểu thấu và tu hành tiến đến Vô ngã. Còn chúng ta, những phàm phu chưa Đoạn ác tu thiện, chưa nghiêm giữ thập giới thì cái Ngã vẫn biểu lộ "to đùng" qua Tham Sân Si Kiêu Mạn Nghi thì sao có thể xem mình không có "Linh hồn, Phật giáo gọi là Tàng Thức" luân hồi được. Chúng ta vẫn cần phải Chấp có để tu hành diệt trừ Tam độc - Hành Thập thiện đã. Để chánh Ảo tưởng rất nguy hiểm).