+ Cát tường tối thượng: IV- HẠNH PHÚC
+ Sự Việc Cát Tường - Hộ Chú Cát Tường: ... Cho con biết điều gì Là Cát Tường tối thượng?” Phật dậy:
1. “Không gần kẻ ngu si. Biết kết thân người trí. Tôn kính phải tùy khi dành cho người xứng đáng. Là Cát Tường tối thượng.
2. Cư trú nơi thích hợp. Tích đức khéo giữ gìn. Biết chọn riêng cho mình. Con đường đi chính đáng. Là Cát Tường tối thượng.
3. Sở học cần sâu rộng. Thủ công khéo tay nghề. Luật lề được huấn luyện. Nói chuyện thạo kỹ năng. Là Cát Tường tối thượng.
4. Phụ mẫu luôn hiếu đễ, thê, tử phải chăm coi. Không phiền rối lôi thôi. Trong việc làm sinh sống. Là Cát Tường tối thượng.
5. Hành sự tâm quảng đại. Chính trực giữ lòng chân. Tương trợ với tương lân. Lỗi người không trách cứ. Là Cát Tường tối thượng.
6. Không làm điều quấy trái. Tránh sử dụng chất say. Cẩn trọng khéo giác hay. Trong hành vi thiện pháp. Là Cát Tường tối thượng.
7. Khiêm cung và kính trọng. Biết chấp nhận hài lòng. Ơn nhận khắc ghi công. Tùy thời nghe giảng Pháp. Là Cát Tường tối thượng.
8. Tính tình luôn kham nhẫn. Nhu thuận biết nghe vâng. Gặp thánh nhân thích gần. Tùy thời đàm luận Pháp. Là Cát Tường tối thượng.
9. Thực hành trong phạm hạnh. Sống cuộc sống thánh nhân. Tứ Đế liễu nghĩa chân. Niết Bàn tâm chứng ngộ. Là Cát Tường tối thượng.
10. Tâm đối cảnh thế gian. Không mảy may chao đảo. Không dấy lên phiền não. Vô nhiễm và bình an. Là Cát Tường tối thượng.
=> Đạt được những điều này. Mọi nơi không chướng ngại. Trải khắp nẻo hành trình. Bình yên không sự cố. (Nguồn: Kinh hạnh Phúc hay Hộ Chú Cát Tường)
c) Pháp thí (dharmadana) : một số kinh sách xếp Pháp thí vào hàng thứ hai trước khi nói đến Vô úy thí, nhưng cũng có kinh sách xếp vào hàng thứ ba hay thứ nhất vì tính cách đặc biệt của thể dạng Bố thí này. Pháp thí có nghĩa là hiến dâng và truyền lại cho kẻ khác Đạo Pháp, tức những lời giáo huấn của Đức Phật. Ta thường hiểu chỉ có Tăng đoàn mới đủ tư cách hiến dâng Đạo Pháp, nhưng thật ra bất cứ ai cũng có thể hiến dâng Đạo Pháp, tùy theo khả năng tu tập và hiểu biết của mình. Có thể ta không biết nhiều về Đạo Pháp nhưng ta vẫn có thể tụng một bài kinh cho người khác nghe, nghe kinh cũng có thể làm tan biến một phần nào sự sợ hãi, lời tụng chân thành của ta cũng có thể làm cho người nghe đến gần với Đạo Pháp hơn.
Trong hành vi Pháp thí, ta cũng nên cẩn thận. Tại sao phải cẩn thận ? Vì Pháp thí rất tế nhị, tùy vào trình độ của ta và của người nhận và nhất là người nhận có sẳn sàng hay không, mức độ vô minh và cái ngã của họ đang tác hại họ như thế nào ? Lời Pháp ta cầu mong hiến dâng cho họ có phù hợp với hoàn cảnh tâm thức của họ hay không ? Pháp thí phải cẩn thận là như vậy. Ngoài ra, Pháp thí còn cần đến sự chân thật và can đảm nữa, chính kinh nghiệm về những gì mà Đạo Pháp đã đem đến cho ta sẽ giúp ta can đảm để Pháp thí. Một vài người cư sĩ hay tỳ kheo dùng tài hùng biện, hoặc lối kể chuyện khôi hài và hấp dẫn để mê hoặc người nghe, lấy Đạo Pháp làm bùa án ngữ mọi sự suy luận, những hành vi như thế không phải là Pháp thí. Pháp thí cũng không phải là thủ đoạn áp đặt một đức tin, dù là đức tin nơi Phật, nhưng đúng hơn là cách giúp kẻ khác suy luận, phán đoán để họ tự tìm lấy một con đường cho họ.
Còn một khía cạnh nữa mà kinh sách ít nói đến và ít nhấn mạnh là tính cách tích cực và tầm quan trọng của việc quảng bá Đạo Pháp trong khi Đức Phật còn tại thế và cả trong những thế kỷ tiếp theo sau đó. Trong giai đoạn tiên khởi này, việc phố biến Đạo Pháp nhất thiết nhờ vào cách truyền khẩu. Người này kể lại cho người kia những lời Phật dạy, cha kể lại cho con, vợ kể lại cho chồng, thầy kể lại cho trò, Tăng đoàn tu tập với nhau, giải thích cho nhau. Ngày nay, việc học thuộc lòng kinh điển vẫn còn lưu truyền trong các tu viện của Phật giáo Tây tạng. Học thuộc và tìm hiểu những lời giảng huấn của Phật, kèm thêm những kinh nghiệm đạt được do sự tu tập của mỗi người để giảng cho nhau và chỉ cho nhau, gọi là Pháp thí. Chính nhờ Pháp thí mà Đạo Pháp đã vượt qua nhiều trăm năm không cần đến chữ viết trong giai đoạn đầu, và cũng nhờ đó đã lưu truyền cho đến ngày nay một cách vô cùng phong phú. Với những kỷ thuật hiện đại với băng dĩa và mọi phương tiện truyền thông để phổ biến, ta không có quyền làm cho Đạo Pháp nghèo nàn và mai một. Đối với chúng ta hôm nay, học hỏi Đạo Pháp để truyền lại cho nhau thật là cần thiết. Ý thức được như thế ta sẽ thán phục hơn những thế hệ Phật tử của hơn hai ngàn năm trước : có mấy người trong số họ được đi học, nhưng chỉ nhờ thành tâm, cố gắng và lòng mộ đạo của họ mà hôm nay đây, tất cả chúng ta được may mắn thừa hưởng một nền Đạo Pháp thật tuyệt vời.
Pháp thí còn có nghĩa là nên nói những gì ta học hỏi được và hiểu được một cách chân thật, nêu lên những kinh nghiệm của ta về những điều học hỏi ấy một cách kín đáo và khiêm tốn, đồng thời ta cũng sẳn sàng thú nhận những gì không biết hoặc không hiểu, tránh tất cả những thí dụ vướng mắc trong dị đoan và mê tín, nhất là luôn luôn phải dựa vào chánh Pháp và không đi ra ngoài chánh Pháp. (Nguồn: Bố thí lục ba la mật)
+ Thông hiểu (hiểu biết, understanding): Có thể định nghĩa thông hiểu là khả năng của Chủ thể Tư tưởng (thinker) vào đúng lúc, nhận được kiến thức (knowledge) để làm căn bản cho minh triết (wisdom), khiến cho chủ thể này sửa đổi những gì thuộc hình hài cho thích hợp với sự sống tinh thần, đồng thời tiếp nhận được hứng khởi chợt đến với y từ Phòng Minh triết và liên kết các hứng khởi thoạt đến này với các sự kiện của Phòng Học Tập (Hall of Learning). (ĐĐNLVTD, 12)
+ 6- Sự hiểu biết siêu nhiên - Hiểu biết Ba La Mật - Hiểu thấu:
Hiểu biết siêu nhiên là phẩm hạnh cao nhất của Lục Ba-la-mật. Năm phẩm hạnh đầu tiên của Ba-la-mật là năm đối tượng trực tiếp của việc tu tập, phẩm hạnh thứ sáu là kết quả : tức là sự hiểu biết siêu nhiên. Tiếng Phạn gọi sự hiểu biết ấy là Prajna, vần pra đứng trước có nghĩa là trên, phía trên, bên trên, vần jna có nghĩa là hiểu biết. Đối tượng của sự hiểu biết tối thượng hay Prajna là tánh Không. Chữ Prajna được dịch là Trí tuệ (hay Trí huệ), Tuệ nhãn, Tuệ giác… : trí là chiếu thấy, tuệ là hiểu rõ. Tuy nhiên vì tính cách đặc thù của chữ này trong Phật giáo nên các học giả Tây phương có chiều hướng giữ nguyên tiếng Phạn không dịch, trong các bài viết có tính cách phổ thông, chữ Prajna được dịch là Sagesse hay Wisdom…, Kinh sách gốc Hán dịch là Trí tuệ như vừa trình bày trên đây, hoặc âm thẳng từ tiếng Phạn là Bát-nhã hay Ban-nhã. Sở dĩ dài dòng như thế để thấy rằng ngôn từ chỉ có tính cách quy ước, không thể nào diễn đạt một cách trọn vẹn sự thực tuyệt đối.
Tóm lại, năm phép đầu tiên của Ba-la-mật là những phép tu tập, tu tập nhưng không nhìn thấy gì cả, giống như không có mắt, khi Bát-nhã hiển hiện tức là Tuệ nhãn chiếu rọi, tất cả năm phép ấy sẽ trở thành siêu nhiên để tiếp tục trợ lực thêm cho phẩm hạnh thứ sáu. Năm Ba-la-mật được mô tả gần giống nhau trong các kinh sách, trong khi đó Ba-la-mật thứ sáu được trình bày có phẩn khác biệt giữa các học phái. Sau đây là các cách giải thích về sự Hiểu biết siêu nhiên thường thấy :
1. Cách giải thích thứ nhất: Ba-la-mật thứ sáu gồm có ba giai đoạn hay cấp bậc như sau :
a) Sự hiểu biết khi nghe giảng (trutamayiprajna) : cố gắng ghi nhớ và tìm hiểu các chữ và ý nghĩa của những chữ ấy qua những lời giảng huấn của một vị thầy.
b) Sự hiểu biết bằng suy tư và phán xét (cintamayiprajna) : ôn lại những lời giảng huấn đã nghe, dùng suy tư, phán đoán, nhận xét để tìm hiểu thêm những gì chưa hiểu hết. Phải tận dụng sự quán xét và phân tích để tự tìm hiểu thêm một cách sâu xa trong khi thiền định.
c) Sự hiểu biết bằng thiền định (bhavanamayiprajna) : đạt được sự hiểu biết bằng thiền quán, một sự hiểu biết trong sáng và minh bạch, vượt khỏi mọi do dự và nghi ngờ, quán thấy được thực thể tuyệt đối của mọi hiện tượng.
2. Cách giải thích thứ hai: Chia Trí tuệ Ba-la-mật làm ba cấp bậc, đây là cách giải thích tìm thấy trong Giải thâm mật kinh (Samdhinirmacanasutra) :
a) Sự hiểu biết dựa vào sự thực quy ước : tức bằng ngôn từ và bằng sự hiểu biết công thức, quy ước và nhị nguyên.
b) Sự hiểu biết hướng vào sự thực tối hậu : tức sự thực tuyệt đối, tối hậu và rốt ráo của hiện thực.
c) Sư hiểu biết hướng vào sự an lành của chúng sinh : tức sự hiểu biết xuyên qua lòng tư bi vô biên, vượt lên trên mọi lý luận.
3. Cách giải thích thứ ba: Đây là cách định nghĩa thường thấy trong Phật giáo Tây tạng, cách này cũng phân chia sự hiểu biết thành ba cấp bậc khác nhau :
a) Sự hiểu biết tạm thời : dựa vào sự thực quy ước của thế giới chung quanh, hàm chứa khía cạnh duy thực của mọi hiện tượng, từ tâm thức đến đối cảnh. Đó là sự hiểu biết chung của tri thức trong lãnh vực khoa học, văn hoá, giáo dục…thuộc cảnh giới chung quanh.
b) Sự hiểu biết « thấp » : tức sự hiểu biết hướng về tính cách vô ngã của cái tôi, cái của tôi, tức là cá thể con người, nhưng không quan tâm đến tính cách vô ngã của đối cảnh.
c) Sự hiểu biết « cao » : tức sự hiểu biết tối thượng về tính cách vô ngã của cá thể con người và của tất cả mọi hiện tượng, tức mọi vật thể và biến cố. Tất cả chỉ là tánh Không.
4. Cách giải thích thứ tư: Đây là cách định nghĩa thường thấy trong thiền học, đặc biệt là trong các học phái Zen. Sự hiểu biết được phân biệt thành hai loại khác nhau :
a) Sự hiểu biết thông thường : tức sự hiểu biết vận hành trong thế giới quy ước và nhị nguyên. Đó là sự hiểu biết thu đạt được từ kinh nghiệm trực tiếp của giác cảm và sự học hỏi. Sự hiểu biết đó rất cần thiết để cảm nhận thế giới chung quanh, kể cả sự hiểu biết minh bạch về Tứ diệu đế chẳng hạn, nhưng không thể sử dụng sự hiểu biết ấy để nhận biết thực thể của hiện thực.
b) Sự hiểu biết Bát-nhã : tức sự hiểu biết có tính cách trực giác và rốt ráo, quán thấy trực tiếp tánh Không của mọi vật thể và biến cố.
Tóm lại, hầu hết các cách phân loại trên đây dù mang ít nhiều khác biệt nhưng đều đưa đến một định nghĩa giống nhau về sự hiểu biết siêu nhiên trong cấp bậc cao nhất, đó là sự hiểu biết thoát khỏi mọi lý luận nhị nguyên và quy ước. Thí dụ sau đây sẽ cho thấy tính cách nhị nguyên ảnh hưởng đến tất cả những suy luận của chúng ta : chẳng hạn như Niết bàn có thể hình dung như một thể dạng không còn vướng mắc trong nguyên lý tương liên của mọi hiện tượng, cũng không phải là một sản phẩm do nguyên nhân và điều kiện tạo tác, Niết bàn là một biểu hiện của thể dạng tự do tuyệt đối. Nhưng dù hình dung Niết bàn như thế nào đi nữa thì ta vẫn vướng mắc trong nhị nguyên, nếu không có thế giới Ta bà hay Luân hồi đối nghịch với Niết bàn, làm cơ sở chống đỡ cho sự hiện hữu của Niết bàn, thì Niết bàn cũng không có vì không có ý nghĩa gì cả, ngược lại đối với thế giới Ta bà cũng vậy. Bát nhã phải vượt lên trên Niết bàn và Ta bà. Long-chen-pa, một đại sư Tây tạng thế kỷ XIV, có đưa ra hình ảnh sau đây để giải thích khái niệm ấy : nếu một người bị xiềng bằng một sợi giây xích bằng vàng hay bằng sắt thì đâu có gì khác nhau, trong cả hai trường hợp người ấy đều vướng mắc trong cảnh xiềng xích. Vậy muốn đạt được sự hiểu biết siêu nhiên, vượt lên trên mọi quy ước, khái niệm và đối nghịch, cần phải tu tập, tu tập để quán thấy thực thể thực sự của vũ trụ. Sự quán thấy ấy mới đích thực là sự Tự do và Giải thoát.(Nguồn: Lục độ Ba La Mật)
+ Mời đọc bài viết để có phương pháp học Phật pháp hiệu quả: Hướng dẫn tu học Phật pháp như Phật dậy
+ Tình thương (Love, là Bác ái, Thuật ngữ bác Khá):
* Tình yêu: Nhân ái - Hy sinh - Tha thứ - Bao dung - Cảm thông => Bác Ái: Giác ngộ - Từ Bi - Tự tại (Người mẹ => Giác ngộ là Mẹ Quan Âm Bồ Tát)
+ Tâm từ bi: Theo hiện tại mà nói, là lòng yêu thương một chiều, như Mẹ yêu con, không có vấn vương, đòi hỏi, mưu cầu ....PS Tịnh Không.
+ Bác ái - Minh Triết: Đặc điểm của Cung 2 là sự thu hút hay hấp dẫn, từ tính. Hai khía cạnh của Cung 2 (Lưỡng tính) là
- Bác ái (Love - Tình thương biểu lộ Minh triết ở cõi cảm dục), nhấn mạnh về phương diện “Tâm, Chữa lành, Cứu Rỗi”, và khía cạnh
- Minh triết (Wisdom) nhấn mạnh phương diện “Trí”, giáo dục, chân lý thuần khiết. (Nguồn: Năng lượng 7 cung/ Khóa học GQ-MF)
+ Trạng thái Bác ái: Linh hồn tức là trạng thái Bác ái (LVHLT, 382)
+ Định luật Bác Ái: Thực ra chỉ là định luật của Thái Dương Hệ đang biểu hiện trên tất cả các cõi.
+ Ý chí Bác ái (ý muốn thương yêu): Ý chí bác ái tự biểu lộ bằng năng lực hấp thu rộng rãi các yếu tố khác nhau, tuy nhiên, vẫn đưa ra cơ hội đồng đều cho tất cả.(SHLCTĐ, 131)
+ Tình thương là biểu lộ của Minh Triết trên cõi cảm dục.(KCVTT, 244)
+ Tình thương về thực chất, là một mãnh lực hay năng lượng khách quan vì hiệu quả của nó tùy thuộc vào loại hình thức mà nó tiếp xúc và tùy thuộc vào những gì mà nó đang tác động. (SHLCTĐ, 265)
+ Tình thương không phải là xúc cảm hay tình cảm và không có liên quan gì với thương cảm (vốn là sự lệch lạc của tình thương đích thực) mà là sự quyết tâm không lay chuyển để làm những gì lợi ích nhất cho toàn thể nhân loại hay cho tập thể (nếu bạn không thể có được ý niệm rộng lớn hơn) và làm điều này với bất cứ giá nào của riêng mình và bằng cách hy sinh tối đa. (SHLCTĐ, 277)
+ Tình thương không phải là một tình cảm hay một cảm xúc, nó cũng không phải là một dục vọng hay một động cơ ích kỷ để làm điều phải trong đời sống hàng ngày. Tình thương là sự phát động một sức mạnh nó làm vận chuyển bầu thế giới, nó đưa đến sự hội, sự kết hợp sự đoàn kết, chính nó là cái động lực thúc đẩy Thượng Đế hành động, sáng tạo. Tình thương là một vật khó vun trồng, vì tính chất con người vốn ích kỷ…(Huấn thị đầu tiên của Chân Sư DK)
+ Tình thương là năng lượng và đó là một chất có thật như vật chất trọng trược. Chất đó có thể được dùng để xua đuổi mô bị bệnh và cung cấp chất thay thế lành mạnh vào chỗ của chất liệu nhiễm bệnh để chất này bị loại ra.(CTNM, 102)
+ Tình thương là biểu hiện sự sống của chính Thượng Đế, tình thương là mãnh lực kết hợp làm cho mọi vật thành tổng thể (Tôi muốn bạn suy ngẫm câu này) và tình thương là tất cả những gì hiện hữu.(CTNM, 356)
+ Tình thương là sự cảm thông tinh tế, năng lực để nhận thức những gì đã tạo ra tình trạng hiện tại và do đó, không có sự chỉ trích; nó bao hàm sự im lặng do từ tâm vốn dĩ đưa tới việc sẵn sàng hàn gắn và chỉ biểu lộ khi không có trạng thái gò bó của sự im lặng và con người không còn phải làm tĩnh lặng bản chất thấp của mình nữa và làm êm dịu tiếng nói của ý kiến riêng của mình ngõ hầu cảm thông và đạt được sự đồng nhất hóa với những gì phải được yêu thương. (SHLCTĐ, 99)
+ Tình thương của Thượng Đế: Thực ra, đó là mãnh lực thu hút bằng từ điện, đang đưa mỗi kẻ hành hương hướng về Ngôi Nhà của Từ Phụ. Chính mãnh lực này được khơi dậy (stir) trong tâm nhân loại và biểu hiện qua trung gian các Đấng Hóa Thân của thế gian, qua sự khát khao huyền bí học hiện hữu nơi mọi người, qua mọi phong trào nhắm mục tiêu tạo phúc lợi cho nhân loại, qua các khuynh hướng từ thiện và giáo dục đủ loại và (trong điều được gọi là thế giới tự nhiên) qua bản năng che chở của tình mẫu tử. (LVHLT, 321)
+ Đức Phật dạy Phật tử phải tu tập tứ vô lượng tâm:
Tâm “Từ” là (Nhân từ - Mộc/ Vui mừng khánh chúc) khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác.(Với người có duyên/ Cùng thể tánh)
Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt (Đặc biệt - Hành bố thí với người không có duyên).
Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới.
Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị.
Xả có bốn thứ:
- Xả Tài/ Thí Tài: Đem cho người ta đồ vật, của cải thời gọi là “tài xả”;
- Xả pháp/ Thí Pháp: Đem giáo pháp, giáo lý cho người thời gọi là “pháp xả”.
- Xả vô úy/ Thí vô úy: Đem đức không sợ hãi cho người thời gọi là “vô uý xả”.
- Xả phiền não: Còn tự mình xả bỏ tất cả các mối phiền não thời gọi là “phiền não xả”.
+ Bồ Tát đại diện Từ bi - Hỷ xả: Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
Xem: Tổng hợp về Bái ái - Minh Triết
Xem Tứ vô lượng tâm;
Xem: TH về Từ Bi Hỷ Xả và Tình thương Bác Ái
+ Vi tử, cách tạo lập (formation of the atom): Có ba giai đoạn tạo lập vi tử (nguyên tử):
1- Ấn định ranh giới (limit) trong đó sự sống phú linh (ensouling life) - tức Sự sống của Thượng Đế trong nguyên tử - sẽ rung động. Về mặt kỹ thuật, việc hạn chế và quy định bước sóng (wave length) của rung động được gọi là “số đo thiêng liêng” (“the divine measure”); việc này mang lại cho nguyên tử của một cõi tính chất đặc thù (pecularity) riêng cho chúng.
2- Theo “số đo thiêng liêng”, Thượng Đế vạch ra các đường (lines) để xác định hình dạng (shape) của nguyên tử, các trục tăng trưởng căn bản (fundamental axes of growth), liên hệ góc (angular relation) của các trục này, chính liên hệ này định đoạt hình dạng (form) vốn là hình dạng của nguyên tử vũ trụ tương ứng. Sự tương đồng gần nhất với các trục này là các trục của các tinh thể (crystals).
3- Do mức độ của rung động và liên hệ góc của các trục tăng trưởng với nhau, kích cở và hình dạng của bề mặt, chúng ta có thể nói là bề mặt hay vách của nguyên tử đã được ấn định.
Như vậy, trong mỗi nguyên tử, chúng ta có mức độ (measure) của sự sống phú linh của nó, các trục tăng trưởng của nó và bề mặt hay vách bao bọc của nó. (KCVTT, 15)
+ Vi tử (Atom, nguyên tử):
1- Một vi tử gồm có một hình cầu chứa trong chính nó hạt nhân sự sống.
2- Một vi tử chứa trong chính nó các phân tử đã biến phân (differentiated molecules) mà toàn bộ hợp thành chính vi tử. Thí dụ chúng ta được dạy rằng vi tử vật chất chứa trong chu vi của nó 14 ngàn triệu (14 tỷ) các vi tử nguyên hình, tuy nhiên, hàng tỷ vi tử nguyên hình biểu lộ như là một.
3- Một vi tử được phân biệt bằng hoạt động và cho thấy các tính chất của:
+ Chuyển động quay.
+ Khả năng phân biện.
+ Năng lực phát triển.
1- Chúng ta được dạy, một vi tử chứa trong chính nó ba vòng xoắn ốc chính và bảy vòng phụ, tất cả 10 vòng đang trong tiến trình được làm linh hoạt, nhưng chưa đạt đến hoạt động đầy đủ. Ở giai đoạn này chỉ có 4 vòng đang hoạt động, vòng thứ năm đang trong tiến trình phát triển.
2- Một vi tử bị chi phối bởi Định luật Tiết kiệm. đang từ từ tiến vào dưới Định luật Hút và sau rốt ở dưới Định luật Tổng hợp.
3- Vi tử có trong mọi hình hài; chính tập hợp các vi tử tạo ra hình hài.
4- Nó đáp ứng với kích thích từ ngoài:
- Kích thích điện, có ảnh hưởng tới hình hài bên ngoài của nó.
- Kích thích từ, tác động vào sự sống bên trong của nó.
Hiệu quả kết hợp của hai kích thích tạo ra sự tăng trưởng và phát triển bên trong. (LVLCK, 246–247)
* Giáo lý bí nhiệm nói về vi tử như sau:
1- Sự thông tuệ tuyệt đối làm chấn động khắp mọi vi tử – SD–I, 298.
2- Bất cứ nơi nào có một vi tử vật chất là có sự sống – SD–I, 245, 269, 279.
3- Vi tử là biểu lộ cụ thể của năng lượng vũ trụ – SD–I, 281.
4- Các sự sống vô hình tạo ra các vi tử – SD–I,132.
5- Mọi vi tử trong vũ trụ đều có tiềm năng ngã thức – SD–I, 132.
6- Vi tử và linh hồn đồng nghĩa nhau trong ngôn ngữ của đệ tử điểm đạo – SD–I, 620, 622.
7- Vi tử hoàn toàn thuộc vào địa hạt của siêu hình học – SD–I,559.
8- Mọi vi tử đều có thiên tính – SD–I, 89, 183.
9- Mọi vi tử đều chịu sự biến phân không ngừng – SD–I, 167.
10- Mục tiêu tiến hóa của vi tử là con người.
11- Ở trung tâm của mọi vi tử đều có cái mầm mống – SD–I, 87.
12- Trong mọi vi tử đều có sức nóng (heat) – SD–I, 112.
13- Mọi vi tử đều có 7 cõi hiện tồn – SD–I, 174.
14- Vi tử đều là rung động –SD–I, 694.(LVLCK, 246–247)
+ Mỗi vi tử là một điểm tập trung của lực, lực của chính vật chất, sự sống hay sức sống (vitality) của trạng thái thứ ba, sự sống của Thực thể Thông linh Vũ trụ, mà đối với Thượng Đế, Đấng này là trạng thái âm của điện. (LVLCK, 527–528)
+ Một nguyên tử (vi tử, atom) là một “sự sống”, có tâm thức là tâm thức của Thượng Đế Ngôi Ba (Third Logos). (KCVTT, 119)
+ Kiến Lập Đạo Tràng: Dùng tay Ấn Bảo loa thủ nhãn ấn pháp, tương ứng câu 27. Cu lô cu lô yết mông trong Thần Chú Đại Bi - HT Tuyên Hóa giảng:
Cu lô cu lô. Hán dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là “tác dụng trang nghiêm”, lại còn có nghĩa là “xuy loa giải giới”. Đây ta chính là Tay số 27 - Bảo loa thủ nhãn ấn pháp.
Nay chúng ta đang sống trong thời mạt pháp. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng chú Đại Bi là khế hợp với chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra không phải thế. Chú Đại Bi là gọi thay cho 42 thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng của chú Đại Bi là diệu dụng của 42 thủ nhãn ấn pháp, đó chính là toàn thể của chú Đại Bi. Nếu quí vị chỉ biết trì niệm chú Đại Bi mà không hành trì 42 thủ nhãn ấn pháp thì như người có tay mà không có chân, nên không thể đi được. Mặt khác, nếu quí vị chỉ biết hành trì 42 thủ nhãn ấn pháp mà không trì niệm chú Đại Bi thì cũng như người có chân mà không có tay, không làm gì được cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để liễu triệt chú Đại Bi, trước hết quí vị phải thông đạt 42 thủ nhãn ấn pháp rồi phải trì tụng chú Đại Bi nữa, mới được gọi là người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư Phật.
Không phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói:
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
Hiểu như thế cũng chẳng ích lợi gì cả. Cũng giống như người có thân thể nhưng chẳng có tay chân gì cả. Quí vị đã có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho chúng hoạt động phối hợp với nhau mới làm nên phước đức được.
Bảo loa thủ nhãn ấn pháp là dùng để tác pháp khi quý vị kiến lập đạo tràng, quý vị nên dùng Bảo loa ấn pháp này. Khi quý vị tác pháp này thì những âm thanh vang lên tận cõi trời, thấu tận địa ngục. Khắp cõi nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng. Bất kỳ mọi nơi nào nghe đến âm thanh này đều ở trong sự điều khiển của người trì ấn pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải tuân phục, không thể xâm hại. Đây còn gọi là sự kiết giới. ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được 42 thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
Nay chúng ta đã hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên chí thành và phát tâm kiên cố hành trì 42 thủ nhãn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng.
Yết mông là tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ, nhưng văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của Đại phạm thiên.
Yết mông là tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự”, cũng dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả mọi việc có công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc công đức cho mọi người cũng chính là tạo công đức cho chính mình. Bồ – tát thực hành hạnh tư lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho mình và giác ngộ giải thoát cho người khác.
Yết Mông: Câu chú này nói đến sự thực hành lục độ và vạn hạnh. Đó chính là Tay số 18 - Bạch Liên Hoa thủ nhãn ấn pháp. Hãy tưởng tượng quí vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng. Tay quí vị cầm cành hoa sen và miệng trì niệm chú Yết mông, yết mông...
Không những quí vị trì tụng chú mà còn hành trì mật ấn. Khi trì tụng cả hai pháp này, quí vị mới có thể tạo nên mọi công đức. Khi quí vị trì tụng chú Đại Bi, đồng thời cũng thông hiểu được cách hành trì 42 thủ nhãn ấn pháp thì quí vị mới có thể thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng bất khả tư nghì, không bao giờ nói hết được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy thì nó phải có ngần mé. Mà những điều mầu nhiệm thì không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu và kết thúc. Với sự trì niệm Yết mông, quí vị có thể thành tựu được vô lượng công đức. Trong nhiều đời sau, quí vị mãi mãi được trang nghiêm bởi hương thơm của hoa sen trắng và luôn luôn được hộ trì.
Sự vi diệu, mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Trực Tâm là Đào Tràng: Tịnh Danh Kinh dạy _Kinh Duy Ma Cật nói: “Trực tâm là đạo tràng”.
- Đạo tràng nghĩa là gì? Chư Phật Như Lai, đại đạo ở đâu thì ở đó gọi là đạo tràng, cổ thánh tiên hiền, nơi hành đạo gọi là đạo tràng. Hành đạo, sinh hoạt là hành đạo. Họ ở đâu thì nơi đó gọi là đạo tràng, không nhất định là chỉ chùa chiền am đường, không phải vậy. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Xem thêm: Đạo tràng là gì?
+ Năng sở có nghĩa là: (能所) Từ gọi chung Năng và Sở. Chủ thể của 1 động tác gọi là Năng; khách thể (đối tượng) của động tác ấy gọi là Sở. Chẳng hạn như mắt hay thấy vật, gọi là Năng kiến, còn vật do mắt thấy thì gọi là Sở kiến. Cũng thế, người bị nương tựa gọi là Sở y, người nương tựa vào kẻ khác gọi là Năng y. Người tu hành gọi là Năng hành, pháp môn được tu hành gọi là Sở hành. Người qui y gọi là Năng qui, chỗ qui y gọi là Sở qui; người giáo hóa gọi là Năng hóa, người được giáo hóa gọi là Sở hóa; chủ thể nhận thức gọi là Năng duyên, đối tượng bị nhận thức gọi là Sở duyên. Ngôn ngữ, văn chương, giáo pháp... biểu thị ý nghĩa, gọi là Năng thuyên, ý nghĩa được biểu thị gọi là Sở thuyên v.v... Tóm lại, Năng và Sở có đủ mối quan hệ tương tức không tách rời nhau giữa thể và dụng, nhân và quả, vì thế gọi là Năng sở nhất thể. [Nguồn: Từ điển Phật học].
+ Vô minh sinh Năng sở hình thành Hư không và các đại: ... Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới.... có kim luân giữ gìn cõi nước ...có hỏa đại..... có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh.
Ngoài tứ đại còn có không đại, kiến đại và thức đại. Vì không đại là phản ánh của chơn không. Kiến đại là chỗ lưu lộ của chân như, thuộc năm hiện lượng. Nó chính là phần Năng kiến nói trong luận Khởi Tín, là phần Kiến tinh nói trong kinh Lăng Nghiêm. Thức đại là để biết do đâu có sự phân biệt cảnh.... (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên hay tự nhiên)
+ Năng Sở: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật dạy, từ cái Tánh giác bất biến - Bất nhị biến thành năng sở sinh ra có tứ đại:
- 5. Lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sự thật thực tại, sự kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo hay không bị tạo), [ví dụ tứ đại: Địa, thủy, hỏa, phong là không bị tạo, mà khi địa, thủy, hỏa, phong kết hợp lại thành cái thân thể của ta là cái bị tạo. Hay tứ đại gọi là năng tạo, mà nó nhờ có tứ đại tạo thành sắc, hương, vị, xúc, thì sắc, hương, vị, xúc ấy gọi là tứ đại sở tạo; còn tứ đại còn lại là tứ đại năng tạo. Năng tạo hay sở tạo gì cũng đều là pháp hết, tâm và vật, ý thể và hiện tượng. Tâm và vật, tâm cũng là pháp, vật cũng là pháp, ý thể cũng là pháp, mà hiện tượng cũng là pháp.]
..... Phái duy thực trong A-tỳ-đạt-ma (chữ pháp) được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ 5. Nói một cách khác như ta gọi Phật pháp, trong khi ta gọi Phật pháp thì nên hiểu rằng nó gồm có 2 mặt: một mặt gọi là giáo pháp và một mặt gọi là lý pháp. Giáo pháp là lời dạy của đức Phật, còn lý pháp là cái ý nghĩa của lời dạy đó, ý nghĩa mà đức Phật nhắm tới. Giáo pháp ví dụ như ngón tay chỉ mặt trăng, còn lý pháp ví như mặt trăng. Giáo pháp là cái đức Phật nói ra, còn lý pháp là một thực tại. Đó là một cái chân lý do đức Phật phát minh, chứ Phật không sinh ra nó. Ví dụ như pháp duyên khởi tính thì Phật không sinh ra nó. “Duyên khởi tính” thì dù Phật có thành Phật hay không thành Phật, duyên khởi tính của vạn pháp cũng là duyên khởi tính của vạn pháp. Cái đó thuộc lý pháp hay gọi là chứng pháp, bởi cái đó ta phải chứng. Còn giáo pháp là cái để ta chứng cái lý pháp đó. Vì vậy, nếu không chứng được lý pháp thì chỉ kẹt vào nơi ngôn từ mà thôi, hiểu và dừng lại ở ngôn từ, ngang nơi ngôn từ và đứng lại đó chứ không thể chứng được. Cũng y như hành giả chỉ thấy ngón tay, ngang nơi ngón tay mà thôi, chứ không thể thấy được mặt trăng. Cho nên hai phạm trù đó phải đi đôi với nhau.] (Nguồn: Câu Xá Luận - HT Thích Thiện Siêu)
+ Xem thêm giảng giải về Năng Sở: Tánh Giác vốn không hai. Khi thấy có ngã, có nhân, thì mới thấy có tự có tha, có năng có sở. Khi thấy vô ngã, vô nhân, vô năng, vô sở thì tất cả đều là sự vận hành của Pháp, không có tự có tha nữa. Tất cả đều là sự mầu nhiệm của Pháp chứ không có tự lực, tha lực nào cả. Điều này con không thể hiểu mà chỉ có thể chứng ngộ thôi. (Nguồn: Giảng về năng sở)
+ Các cấp Trí tuệ: Bảy trạng thái cung này có gốc gác/ xuất phát từ ý chí, ……Chúng tự biểu hiện ở lĩnh vực liên quan đến nhân loại như (CTHNM 368):
Cung I – Vốn thúc đẩy và tạo ra sự khai mở (initiation).
Cung II – Vốn là nguyên nhân của linh thị (vision) tức là năng lực để thấy (power to see).
Cung III – Vốn đang phát triển nhận thức do giác quan (sensory perception) thành tri thức (knowledge), tri thức thành minh triết (wisdom), và minh triết thành toàn tri (omniscience).
Cung IV – Đó là ý chí giác ngộ (illumined will), nền tảng của buddhi hay là trực giác (intuition).
Cung V – Đó chính là mầm mống giải thoát của vũ trụ. Đây là một trạng thái huỷ diệt.
Cung VI – Đó là nguyên nhân của khả năng kiến tạo hình tư tưởng, liên quan tới thúc đẩy sáng tạo.
Cung VII – Vốn có thể được gọi là nguyên tắc của trật tự/ Thiên luật/ Luật pháp.
+ Ba cấp Phòng Học vũ trụ [Cung III - Trí Thông tuệ LH]
+ Con người tiến hóa: ... Trong trường hợp cuộc tiến hoá của nhân loại, một số loại mãnh lực được sản xuất, xử lý, đồng hoá và sử dụng, lúc đầu thì vô thức và cuối cùng với trí thông minh đầy đủ.
a. Trong Phòng Vô Minh, mãnh lực hay năng lượng của Cung 3 - Brahma
b. Trong Phòng Học Tập, y trở nên ý thức được, và sử dụng năng lượng của trạng thái/ Cung 2
c. Trong Phòng Minh Triết, y đến mức biết được trạng thái thứ nhất/ Cung 1
Ba bí nhiệm của thái dương hệ là:
1. Bí nhiệm về Điện. Bí nhiệm của Brahma. Bí mật của trạng thái thứ ba, ẩn tàng trong mặt trời hồng trần (Cung III)
2. Bí nhiệm của sự Phân Cực, hay là xung lực tính dục vũ trụ. Bí mật của trạng thái thứ hai, ẩn tàng trong Tâm Mặt trời, hay Mặt trời nội tại. (Cung II)
3. Bí nhiệm của Lửa, hay là động lực trung ương của thái dương hệ, bí mật của trạng thái thứ nhất, ẩn tàng trong Mặt trời Tinh thần Trung ương.(Cung I) (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)
+ Thể trí tuệ tiến hóa - Tu xa lìa trí phân biệt chấp trước: Như chúng ta biết, tiểu thừa sơ quả Tu Đà Hoàn, đại thừa sơ tín vị Bồ Tát, trong sáu loại thần thông họ phục hồi được hai loại, phục hồi được thiên nhãn và thiên nhĩ, không có chướng ngại nữa. Nghĩa là tầng không gian bị phá một chút, cái chúng ta không nhìn thấy họ nhìn thấy, có thể nhìn thấy thiên đàng, có thể nhìn thấy địa ngục, họ có thiên nhãn. Nhị quả lại phục hồi được hai loại, nhị quả Tư Đà Hàm, có tha tâm thông, trong tâm người khác khởi tâm động niệm họ đều biết; có túc mạng thông, túc mạng thông là bản thân, đời đời kiếp kiếp trước nữa của bản thân đều nhìn thấy. Mặc dù không thể nhìn thấy xa xôi, đại khái khoảng mười mấy đời trước, mười mấy đời trước không có vấn đề gì, có thể nhìn thấy. Hiện nay dùng thuật thôi miên cũng được, có thể khiến cho một người phục hồi trí nhớ, họ có thể nhìn thấy đời trước của họ, một đời trước, hai đời, ba đời, có lẽ khoảng mười mấy đời là dễ dàng nhìn thấy. Thôi miên sâu hơn cũng có thể nhìn thấy chuyện của mấy chục đời trước, đại khái tương đương cảnh giới của Tư Đà Hàm. Tam quả Tư Đà Hàm, thần thông thứ năm xuất hiện, gọi là thần túc thông. Thần thông này xuất hiện rất hiếm có, họ có thể biến hoá, ngài có thể phân thân, họ có thể phi hành; trong thực tế không phải là phi hành, họ nghĩ đến một nơi, vừa nghĩ là thân thể của họ đã đến nơi đó rồi. Vì vậy không cần dùng đến phương tiện giao thông, quý vị nói muốn đến Mỹ, ý niệm vừa mới khởi lên, thân thể đã ở Mỹ rồi. Đây là cái gì? Không gian không có nữa, khoảng cách cũng không có, tuỳ theo ý niệm, đúng như trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “đương xứ xuất sanh, tuỳ xứ diệt tận”. Vì vậy người có khả năng này, quý vị vừa nghĩ đến họ, họ đã xuất hiện trước mắt quý vị rồi, nghĩ đến họ thì họ đến, vì sao vậy? Vì cảm ứng, thông tin của quý vị họ lập tức nhận được, họ lập tức hiện thân trước quý vị. Những điều này đều là thật, đều không phải là giả.
Tứ quả A La Hán, lục thần thông xuất hiện viên mãn rồi, A La Hán được lậu tận thông, phiền não dứt, kiến tư phiền não không có nữa, nhưng mà tập khí kiến tư vẫn còn. Phiền não đúng là không còn nữa, tập khí còn, phải dứt bỏ tập khí, sẽ thăng một cấp- Bích Chi Phật, cũng gọi là Duyên Giác, Bích Chi Phật, nâng lên Bích Chi Phật. Cho nên Bích Chi Phật, kiến tư phiền não và tập khí của kiến tư phiền não đều không có, nhưng mà có phân biệt, không có chấp trước, có phân biệt. Có phân biệt, tâm không bình đẳng, tâm thanh tịnh, không bình đẳng. Khi nào đoạn tận phân biệt, ngài thăng cấp, thăng lên đến vị trí của Bồ Tát. Bồ Tát không có phân biệt, có tập khí phân biệt, đoạn tận tập khí phân biệt, Bồ Tát đã thành Phật rồi. Vì thế Phật trong thập pháp giới, chúng ta biết, ngài đối với hai loại dưới đây, phân biệt, chấp trước, bao gồm tập khí, tất cả đều không có, đều đoạn hết rồi. Vì vậy tâm của Phật thanh tịnh bình đẳng, phía sau không có giác, chỉ có thanh tịnh bình đẳng, không có giác, vì sao vậy? Vì chưa đoạn vọng tưởng. Vọng tưởng là khởi tâm động niệm, cái này gọi là vô minh, vô thỉ vô minh chưa đoạn. Vô thỉ vô minh đoạn rồi, ngài đúng là thành Phật, không phải tương tợ tức Phật trong thập pháp giới, ngài từ tương tợ đã biến thành thật, chân Phật. Lúc này chuyển bát thức thành tứ trí, thập pháp giới không còn nữa, ngài sanh đến nhất chân pháp giới, tức là cõi thật báo. Trong cõi thật báo có tập khí, tập khí vô thỉ vô minh không dễ đoạn trừ. Tập khí vô thỉ vô minh thật sự đoạn rồi, công đức sẽ viên mãn. Ngài chứng quả vị diệu giác cứu cánh.
Vô thỉ vô minh khó đoạn, vì vậy đức Thế Tôn nói nó có 41 đẳng cấp, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác. Bốn mươi mốt vị này vì sao mà có? Tập khí dày mỏng có khác nhau, tập khí dày ở phía dưới, thập khí mỏng sẽ ở phía trên. Vì vậy đẳng giác chính là mỏng nhất. Đây gọi là 41 phẩm tập khí, phẩm cuối cùng đoạn được rồi họ sẽ nhập Diệu giác vị. Nhập Diệu giác chúng ta sẽ biết, cõi thật báo không thấy nữa, ngài đi đến đâu? Ngài đến Thường tịch quang. Đến Thường tịch quang quý vị sẽ không tìm thấy, khoa học và triết học ngày nay của chúng ta, đều không có cách gì tìm đựơc; trong cõi thật báo có lẽ còn có cách tìm thấy, đến Thường tịch quang không có cách gì. Nhưng chúng ta nghĩ đến lượng tử lực học đối với Thập pháp giới, Phật Bồ Tát trong Thập pháp giới chắc chắn họ có thể tìm thấy, bởi vì các ngài chưa chuyển thức thành trí, chưa lìa a lại da, lượng tử lực học đã quan sát được a lại da rồi. Nhưng những vị Bồ Tát này mặc dù không phải chân Phật, thần thông cũng quảng đại. Thế gian này của chúng ta, cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới không có ai có thể so sánh được với họ, so với A La Hán cũng không thể sánh được, nói gì đến Phật Bồ Tát trong tứ thánh pháp giới. (Nguồn: Thiện ác biến hóa - HT Tịnh Không giảng)
+ Quốc độ Phật: Một cõi nước của một vị Phật gồm một Tam thiên đại thiên thế giới. Cõi nước của đức Phật A Di Đà cách chúng ta 10 vạn cõi nước/ Quốc độ chư Phật.(Ps Tịnh Không)
+ Đức Phật ở đâu - Phật trụ ở đâu - Phật thường trụ ở đâu sau khi nhập Niết Bàn
Thế gian Như Lai không chỗ nương
Ví như hình bóng hiện các cõi
Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi
Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.
‘’ Thế gian Như Lai không chỗ nương.’’ Phật ở trong thế gian, chẳng có xứ sở nhất định, cũng chẳng có quốc độ giáo hóa nhất định. Tại sao ? Vì tất cả cõi nước trong mười phương, đều là nơi Đức Phật giáo hóa. Trong Kinh Phạm Võng nói : ‘’ Ta đến thế giới Ta Bà này giáo hóa chúng sinh đã tám ngàn lần.’’
‘’ Ví như hình bóng hiện các cõi.’’ Tại sao nói Phật chẳng có chỗ nương ? Chẳng có cõi nước nhất định ? Vì thân của Phật giống như ánh sáng, hình bóng, hiện khắp trong tất cả cõi nước, tất cả thế giới.
‘’ Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi.’’ Bổn thể của pháp tánh rốt ráo chẳng sinh diệt. Trong Kinh Bát Nhã nói : ‘’ Không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt,’’ tức là đạo lý các pháp không tướng.
‘’ Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.’’ Đây là đạo lý thấy được của vị Tối Thắng Kiến Thiên Vương, vị này còn nhập vào trong môn giải thoát này, và tinh tấn tu hành pháp môn các pháp không tướng này. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - T1)
+ Chu kỳ thế giới (World period): - Ring (Thư của Ch, S., 160)
- Bảy căn chủng hợp thành một chu kỳ thế giới. (LVLCK, 62)
- Bảy chu kỳ thế giới tạo thành một cuộc tuần hoàn (round). (LVLCK, 63)
+ Điểm thứ nhì là những ảnh hưởng này (biểu lộ thành màu sắc khi chúng tiếp xúc với vật chất) vận chuyển theo những chu kỳ có trật tự riêng biệt. Chúng ta mô tả những chu kỳ vừa kể là sự nhập cuộc hay ra đi của một cung. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này thường có 4 cung thay đổi nhau tác động trong bất cứ thời gian nào. Nói điều này là tôi muốn các bạn ghi nhớ rằng dù tất cả các cung đều biểu hiện trong thái dương hệ, nhưng ít nhiều gì cũng có những cung đồng thời nổi bật vào những giai đoạn biểu hiện nhất định.(TTHM, 233)
+ Trong thời gian chuyển tiếp, sự pha trộn màu sắc hết sức phức tạp, nhưng cũng có tính tương trợ và giúp ích lẫn nhau. Theo hiện tại và của thời gian trong tam giới thì ảnh hưởng này hầu như rất ít ỏi, không thể đánh giá được (TTHM, 234)
+ Đại Chu Kỳ (Maha Yuga): Có 4.320.000 năm của con người. Gồm có 4 chu kỳ sau:
- Krita yuga ..… 1.728.000 năm thế tục (mortal year)
- Treta yuga ….. 1.296.000 năm thế tục.
- Dwapora yuga….. 864.000 năm thế tục.
- Kali yuga ….. 432.000 năm thế tục. (LVLCK, 39)
+ Thế Gian: Có 2 loại thế gian:
Thế gian hữu tình gồm các loại chúng sinh.
Khí thế gian gồm các hiện tượng và vật thể như núi, sông, đất liền và nhà cửa các loại.
Những vật này cùng với hư không và các loại trần cảnh đều được tạo thành bởi hai loại: y báo và chánh báo. Y báo là khí thế gian, gồm núi sông đất liền, chánh báo là các loại chúng sinh. Thế giới này đều tạo thành bởi hai loại này. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN - Q.1- Thích Nhuận Châu dịch)
+ Thế gian?
Thế nghĩa là thiên lưu, gian nghĩa là gian cách. Thế gian tức là thế giới, tức cũng là thời gian với không gian mà được tên. Ba đời là thời gian, mười phương là không gian. Thế gian phân làm ba thế gian:
- Một là hữu tình thế gian (chúng sinh thế gian).
- Hai là khí thế gian (sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc).
- Ba là trí chánh giác thế gian (giác ngộ pháp thế xuất thế gian, đầy đủ trí huệ của Như Lai).
Cho nên phải lìa hữu tình thế gian và khí thế gian, chứng nhập trí huệ chánh giác thế gian.
Thế gian có đủ thứ sự ăn uống vui chơi, tại sao phải lìa khỏi? Vì thế gian có cái vui của: Tài, sắc, danh, ăn và ngủ, năm dục, khiến cho con người sinh ra đủ thứ phiền não, làm cho con người gặp thọ quả khổ (Thọ giả), chẳng đắc được sự giải thoát, cho nên phải lìa khỏi thế gian. Làm thế nào có thể lìa khỏi thế gian? Chỉ có một phương pháp, đó là phát bồ đề tâm, tu bồ đề đạo. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm-T 19.Tr295- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thế gian: Trích đoạn Đức Phật giảng cho ngài A Nan trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trong mục giảng về CÁC ĐẠI - Tứ Đại
... Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật. Giảng:
"Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu." Nó tương ưng với tâm thức của mỗi chúng sinh và biến hiện ra thành các hiện tượng tương ưng với nghiệp mà mỗi chúng sinh đã tạo. Tánh của sắc là chơn không, tánh của không là chơn sắc. Vốn hằng thanh tịnh từ trong thể tánh và bao trùm khắp pháp giới. Hoạt dụng mầu nhiệm nầy có được là do nghiệp cảm của mỗi chúng sinh và sẽ kết thành quả báo mà mỗi người sẽ nhận được.
"Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên."
Thế gian là ai? Họ là những người tu tập theo ngoại đạo và hàng phàm phu theo pháp môn quyền thừa/ Pháp Thế Gian. Họ là những người mê mờ về tánh Như Lai tạng, vốn hằng thanh tịnh từ trong thể tánh và bao trùm khắp pháp giới. Họ không nhận ra được điều nầy. Họ cho rằng nó xuất phát từ tánh nhân duyên và tự nhiên. Đây là kiến chấp của hàng Tiểu thừa: pháp nhân duyên sinh. "Hoặc tánh tự nhiên." Dính mắc vào kiến chấp của hàng ngoại đạo là tánh tự nhiên. Làm thế nào mà họ bị lừa mị vào kiến chấp nầy? "Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường." Đó là do sự dính mắc của thức tâm phân biệt suy lường trong giáo lý Tiểu thừa, của hàng ngoại đạo và của hàng phàm phu đã tạo nên sự tính toán phân biệt. Họ chỉ tưởng tượng những cái mà không hề có, họ suy nghĩ đến những thứ mà "Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật." Đó chính là thức tâm vọng tưởng, phân biệt, suy tính–dù quý vị cho nói đó là tánh nhân duyên hay tự nhiên–cũng chỉ là ngôn từ. Chẳng có thật. Trong đó chẳng có chút nào đạo lý chân thật đáng nói cả. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Thế gian: Là chỉ cho sáu cõi giới của hàng phàm phu. “Xuất thế gian” chỉ cho cảnh giới của bốn quả vị của bậc Thánh. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng. Mặt khác, các hiện tượng thế gian và xuất thế gian vốn chỉ là Như Lai tạng–vốn là minh là diệu. Nó vốn là diệu tâm, vắng lặng mà thường chiếu soi, chiếu soi mà thường rỗng lặng. Kinh văn trong đoạn nầy nói rằng Như Lai tạng là ‘không’, đoạn kinh văn: sau sẽ nói tất cả các pháp đều ‘là’ Như Lai tạng, là nguyên minh tâm diệu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.II)
+ Thế gian - Tình và Khí: Thế gian gồm có hai: Tình thế gian và khí thế gian. Tình thế gian là thế giới của loài hữu tình, nghĩa là loài người, cầm thú và cây cỏ. Xã hội loài người hay xã hội các loài khác cũng đều do tâm thức cộng đồng từ A-lại-gia mà biểu hiện. Khí thế gian là khung cảnh của núi, sông, không khí, trái đất, tầng ozone, mặt trời, mặt trăng và các thứ tương tự. Tình thế gian và khí thế gian là sáng tạo của tâm thức. Tàng thức duy trì tất cả những cái đó. Nó biểu hiện ra và nó duy trì hai thế gian đó. Tất cả đều vận hành theo một quy luật nhịp nhàng, tất cả đều phát hiện từ A-lại-gia cả. (Nguồn: Bài 3- Thân tâm và Thế gian - Duy Biểu học)
+ Hỏa đại:
Dương Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ Hỏa: Tự tập trung và phi cá nhân; Thiếu kiên nhẫn, khuynh hướng lao vội vã vào mọi thứ; Bướng bỉnh, không nhạy cảm với người khác; Khởi xướng, bắt đầu mọi thứ; Kích động, nhiệt tình, có thể là thiếu tự chủ. - Dấu hiệu hành hỏa: Bạch Dương, Sư Tử, và Nhân Mã ; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Năng lượng. Tích cực. Nhiệt huyết. Đam mê. Cần phải thể hiện bản thân. Bốc đồng. Chủ động. Thoải mái Có khuynh hướng hướng ngoại. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não (LVHLT, 251)
+ Hành Hỏa thuần túy (nguyên khí dương chủ động) được xem như là ánh sáng và nhiệt, cùng với Thổ và Thủy, tức Vật Chất (yếu tố âm hay thụ động của sự sinh hóa vũ trụ). (1) Tất cả những điều này đều là tài liệu bàn về Đấng Lưỡng Tính thiêng liêng bản sơ. (GLBN, Từ tr 66 - 250)
+ Chân Sư DK luận về Hỏa Thủy: Trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu—thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y.
Đùa với Lửa: Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.”. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả - Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [trang 103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã.........
Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người.........
Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền......, mời xem chi tiết (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
+ Hỏa thần - Thần lửa: Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu .... Giảng giải : Ta Hê Dạ Gia là "Thần lửa". Thứ thần lửa này rất nóng vô cùng. Vì nóng quá cho nên nói : ‘’Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu.’’ Rất lợi hại, nóng khiến người không chịu nổi. Nóng quá sẽ khiến người chết. Nạn lửa xuất hiện thì trên không trung có bảy mặt trời đồng thời cũng xuất hiện, thiêu hủy hết thảy sơn hà đại địa, biển cả cũng khô cạn, chẳng có vật gì còn sống sót lại. Lửa có thể thiêu đến cõi trời Sơ Thiền. Nhị Thiền và Tam Thiền cũng có tai nạn.(Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Có 12 Hành tinh (7 H.Tinh thánh thiện và 5 không thánh thiện) có liên quan với sự sống bên ngoài, môi trường và các hoàn cảnh của cá nhân. Các mãnh lực biểu hiện trạng thái thiêng liêng thứ 3 - Ý muốn hiểu biết; (CTHNM, 38)
+ 12 HT chi phối 12 Cung HĐ, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã con người, cộng với các tình trạng nghiệp quả kế thừa, tạo ra các trạng thái chung quanh và các hoàn cảnh sống và sau rốt việc kiểm soát khía cạnh hình tướng của sự sống (CTHNM, 63)
+ 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
+ Mỗi hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Đây sẽ là một điểm quan trọng cần phải tính đến, vì nhóm các thần bí gia này đang mỗi năm mỗi trở nên mạnh mẽ hơn.
− Các Năng Lượng Hành Tinh phát ra từ:
a/ Bảy hành tinh.
b/ Trái Đất.
c/ Mặt trăng.
Chỉ có một vài điều có thể được lưu ý về tiết đoạn nói về các năng lượng này và về tiết đoạn kế tiếp, vì đây là một loạt các hướng dẫn cho người tìm đạo chứ không phải là một luận thuyết về năng lượng.
− Năng Lượng Mặt Trời phát ra từ:
a/ Mặt trời vật chất.
b/ Các nguồn vũ trụ.
Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. Vì vậy, một số bạn vốn đã nghiên cứu bộ Luận Về Lửa Càn Khôn có thể nhận thấy các chi tiết sau là đáng chú ý:
1. Các loại devas thấp nhất hay các nhà kiến tạo trên Con Đường Tiến Hóa thăng thượng là các thiên thần màu tím; kế tiếp là các thiên thần màu xanh lá cây, và cuối cùng là các thiên thần trắng (white devas). Tất cả các thiên thần này đều bị chi phối bởi một nhóm đặc biệt thứ tư. Các thiên thần này kiểm soát các tiến trình bên ngoài của sự sống ở cõi trần.
2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. Loại bỏ những sản phẩm được kiểm soát bởi nhiệt (heat) và bạn sẽ đưa nền văn minh của chúng ta đến một trạng thái dừng lại, bạn sẽ đưa mọi phương tiện vận chuyển đến một kết thúc cùng với mọi phương cách chiếu sáng; bạn sẽ vứt bỏ tất cả các nhà máy chế tạo. Ngoài ra, về cơ bản, những sinh linh lửa (fiery lives) này, được tìm thấy trong tất cả những gì bốc cháy, và trong sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
Xem thêm: Các phẩm tính của hành tinh Chủ về - Chi phối - Dẫn truyền Cung NL - Quản 4 phương
Xem thêm: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Quyền năng/ Huyền công/ Thần thông (power, siddhis):
+ Các Hành tinh chi phối Khả năng (CTHNM, 715):
- Thổ tinh“ Saturn – chi phối các khả năng mộ đạo.
- Thủy tinh Mercury – chi phối các khả năng trí tuệ.
- Mộc tinh Jupiter – điều hành các khả năng tình cảm.
- Mặt Trời – điều hành các khả năng cai trị.
- Hỏa tinh Mars – chi phối các khả năng ích kỷ.
- Kim tinh Venus – chi phối các khả năng kiên trì.
- Mặt Trăng – chi phối các bản năng”.(GLBN III, 463).
+ Hành tinh dẫn truyền Cung NL(GQ1- Cấu tạo con người):
Vulcan và Diêm Vương tinh - Cung 1,
Mặt trời và Mộc tinh- Cung 2,
Trái đất và Thổ tinh - Cung 3,
Thủy tinh và Mặt trăng - Cung 4,
Kim Tinh - Cung 5,
Hỏa tinh và Hải Vương Tinh - Cung 6,
Thiên Vương Tinh- Cung 7
+ Ý nghĩa từ khóa của các hành tinh (Ngoại môn)
1-Mặt trời: bản ngã, cái tôi, ngoại hình, lập trường trong cuộc sống hoặc bạn là ai
2-Mặt trăng: tính khí, nhà, bản chất trong nhà, phẩm chất nuôi dưỡng
3-Thuỷ tinh: lời nói, viết, suy nghĩ có ý thức, logic
4-Kim tinh: cảm nhận thẩm mỹ, nghệ thuật, vẻ đẹp, tình cảm, tình yêu
5-Hoả tinh: tham vọng, lực đẩy, năng lượng, bản chất hung hăng
6-Mộc tinh: mở rộng bất cứ cái gì nó chạm vào. Lớn, quá mức, hạnh phúc
7-Thổ Tinh: cấu trúc, kỷ luật, tập trung, nghiêm trọng, tách rời, phân cách
8-Thiên Vương Tinh: không ổn định, tự phát, bốc đồng, sáng tạo, không có kỷ luật
9-Hải Vương tinh: tưởng tượng, lý tưởng, mơ mộng, trẻ con, nghệ thuật, tưởng tượng, dễ tiếp thu
10-Diêm Vương Tinh: ám ảnh, ép buộc, cuồng tín, ý thức nhiệm vụ, bị tình cảm tác động (Nguồn: CTHNM 3)
+ Hành tinh đại diện bốn phương chính (Đông - Tây - Nam - Bắc): Chính xác nhất cho bán cầu nam là Thổ Tinh; Hỏa Tinh ở Bán cầu đông; Mặt trăng ở Bán cầu bắc; và Kim Tinh ở Bán cầu tây. Điều này là do thực tế rằng chúng cũng là những chủ tinh tự nhiên của bốn nhà góc (nhà 10, nhà 1, nhà 4 và nhà 7) tạo thành khung cơ bản cho các ngôi nhà khác của lá số chiêm tinh. Nguyên tắc tứ phân này là nguyên mẫu mà theo đó chúng ta đưa ra thực tiễn. Có bốn mùa, bốn hướng chính, bốn yếu tố, bốn mặt của một kim tự tháp, và bốn loại tâm lý.... (Nguồn: CTHNM 2)
Xem thêm trang Thuật ngữ: Tổng hợp về mầu sắc
Xem thêm trang Thuật ngữ: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Hành tinh hệ (Scheme, Planetary scheme, Hệ thống hành tinh): - Bảy chu kỳ dãy hành tinh (chain periods) hợp thành một hành tinh hệ. Mười hành tinh hệ hợp thành một thái dương hệ (solar system). (LVLCK, 63)
+ Thể biểu lộ (body of manifestation) của một Hành Tinh Thượng Đế (Heavenly Man) tức là một hành tinh hệ (a scheme). Mỗi hành tinh hệ có bảy dãy hành tinh. Mỗi dãy có bảy bầu hành tinh (globes) tạo thành tổng số 49 bầu; đến lượt mỗi bầu lại bị chiếm hữu bởi sự sống của Thượng Đế (Logos) trong điều mà chúng ta gọi là 7 cuộc tuần hoàn (rounds), theo sát nghĩa, tạo ra 49 x 7 = 343 cuộc lâm phàm hay là các xung lực mới để biểu lộ.(LCLCK, 366)
+ Các hành tinh hệ khác nhau đều không giống nhau và khác về (LVLCK, 1163):
a. Loại năng lượng,
b. Mức tiến hóa,
c. Vị trí trong cơ tiến hóa chung,
d. Cơ hội nghiệp quả,
e. Tốc độ rung động.
Xem: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ
+ Mantra Yoga: Khoa Yoga về âm thanh hay linh từ sáng tạo (creative Word). (ASCLH, 347)
+ Thính giác: Đây là giác quan đầu tiên được biểu lộ một cách rất thích hợp; trạng thái biểu lộ thứ nhất là trạng thái âm thanh, do đó, tất nhiên là chúng ta thường tin tưởng âm thanh là cái đầu tiên mà con người để ý đến trên cõi trần, cõi biểu lộ trọng trược nhất và có các hiệu quả âm thanh đáng ghi nhận nhất được xem là yếu tố sáng tạo. Một cách nổi bật, cõi trần là cõi của thính giác và như thế là giác quan được gán cho cõi tiến hoá thấp nhất và của mỗi một trong 5 cõi.
Do đó, chúng ta ghi nhận rằng trên cõi trần, con người phải tìm ra chính nốt của mình, phải tìm nốt đó dù cho hình hài có trọng trược đến đâu.
a. Trên cõi trần, con người đang tìm kiếm nốt của riêng mình.
b. Trên cõi cảm dục, con người đang tìm kiếm nốt của huynh đệ y, qua sự tương đồng về cảm xúc, con người tiến đến chỗ nhận được sự tương đồng của huynh đệ y.
c. Trên cõi trí, y đang bắt đầu tìm được nốt của nhóm y.
d. Trên cõi Bồ đề hay cõi minh triết, con người bắt đầu tìm thấy nốt của Hành Tinh Thượng Đế của y.
e. Trên cõi Niết bàn hay cõi Tinh Thần, nốt của Thượng Đế bắt đầu ngân lên trong tâm thức y.
Thính giác trên cõi cảm dục thường được gọi là nhĩ thông và có nghĩa là khả năng nghe được âm thanh của cõi cảm dục.....
.... Khi sự tiến hoá tiếp tục, cảm giác bên trong của tai trở nên nhạy, các âm thanh khác của cõi trần cũng sẽ ở trong phạm vi hiểu biết của con người, và y sẽ nhận biết một cách tinh nhạy về mọi âm thanh trên cõi cảm dục và cõi trần - điều mà hiện giờ nếu có thể xảy ra, sẽ đưa đến kết quả làm vỡ tan cơ thể. Thí dụ, nếu nốt của thiên nhiên chỉ tác động một lần thôi trên tai của một người (một nốt làm bằng toàn thể các rung động sinh ra bởi mọi hình hài vật chất trọng trược) thể xác của y sẽ hoàn toàn bị phá vỡ. Y chưa sẵn sàng đón nhận một biến cố như vậy; tai trong chưa được chuẩn bị thích đáng. Chỉ khi nào thính giác gồm ba phần được hoàn thiện, bấy giờ trên cõi trần con người mới được phép có thính giác hoàn hảo.
Thính giác trên cõi trí chỉ là một sự mở rộng khả năng phân biệt âm thanh..... (LVLCK, 190)
+ Âm thanh (sound, âm) Thật là điều hiển nhiên khi nói rằng âm thanh là màu sắc và màu sắc là âm thanh... Xin bạn luôn luôn nhớ rằng mọi âm thanh đều tự biểu hiện thành màu sắc. (TVTTHL, 205)
+ Âm thanh sản sinh ra, hay đúng hơn là thu hút các nguyên tố lại để tạo ra một ozone, việc chế tạo chất này ở ngoài tìm tay của ngành hóa học, nhưng ở trong các ranh giới (limits) của khoa luyện kim đan (alchemy). Âm thanh có thể làm hồi sinh (resurrect) ngay cả một người hoặc một con thú mà thể dĩ thái (astral “vital body”) chưa hoàn toàn tách ra khỏi thể xác bởi sự gián đoạn của tuyến từ điển (magnetic or odic chord). Với tư cách một người được cứu sống ba lần bằng quyền năng này, tác giả (tức bà H.P.Blavatsky–ND) có đủ uy tín để nói là bản thân mình biết được ít nhiều về điều đó. (GLBN II, 279)
Xem: Tổng hợp về mầu sắc
I- MẦU SẮC CỦA NGŨ HÀNH THEO NGŨ HÀNH ĐÔNG PHƯƠNG
+ Hành Kim - mầu trắng; Hành Thủy mầu đen; Hành Hỏa mầu đỏ; Hành Mộc mầu xanh; hành Thổ mầu Vàng;
II- MẦU SẮC CỦA CÁC ĐẠI: TỨ ĐẠI - NGŨ ĐẠI - LỤC ĐẠI - THẤT ĐẠI THEO PHẬT PHÁP
1- Về Khí - Mầu Mây_ Kinh A Hàm: Mây có 4 thứ: màu trắng; màu đen; màu đỏ; màu hồng.
- Mây có màu trắng vì yếu tố đất đặc biệt nhiều;
- Mây có màu đen vì yếu tố nước đặc biệt nhiều hơn;
- Mây có màu đỏ vì yếu tố lửa đặc biệt nhiều hơn;
- Mây có màu hồng vì yếu tố gió đặc biệt nhiều hơn.
Mây cách mặt đất từ 20 - 4000 dặm. Nguồn: Mục 29- Tại đây
2- Mầu sắc của Nhân khí theo các Đại
... Bà vốn không tin Trời Đất, nghe Ngài nói thế lại càng thêm nghi mà hỏi rằng:
- Có phải sau khi chết, con người thật biến thành quỷ không?
- Sao chỉ nói người chết rồi mới thành quỷ? Có người lúc còn sống, tâm chứa toàn tâm quỷ, nói lời quỷ, làm việc quỷ, vậy có khác gì với ma quỷ đâu? Người thường sân hận tức là quỷ mặt đỏ, người thường oán hờn tức quỷ mặt vàng, người hay buồn não tức quỷ mặt trắng, người dễ nóng giận tức quỷ mặt xanh, người thường phiền muộn tức quỷ mặt đen. Nếu dùng sân, oán, não, nộ, phiền mà đối đãi với người thì là năm loài quỷ trên, sẽ luôn quấy phá gia đình, trong nhà tuyệt đối không an, lại tổn tài hao khí, tai hoạn xảy đến liên miên.
Ngài lại dạy:
- Tâm là thần; thần cũng là tâm. Nếu bà làm chuyện chi cũng khởi từ lương tâm, tức là trọng kính đối với thần, nếu bội ngược lương tâm thì cũng như là khi dối thần. Sau khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu bao thứ khổ. Khi ấy muốn thoát khổ, e rằng không còn kịp nữa. Nhân vì chúng sanh đã quay lưng với sự giác ngộ, hợp với trần lao, mê chân theo vọng, xa rời bổn tánh của mình, tìm cầu vật chất ảo huyền ở thế gian, nên phải tự thọ lãnh quả báo. Nếu biết xoay chuyển lại, bỏ trần hiệp giác, xã vọng qui chân, thì đồng Phật không khác, mãi mãi thoát ly lục đạo luân hồi, chấm dứt sanh tử.... (Nguồn: Tiểu sử HT Tuyên Hóa - Mục 17)
III- MẦU SẮC CỦA CÁC ĐẠI: TỨ ĐẠI - NGŨ ĐẠI - LỤC ĐẠI - THẤT ĐẠI THEO MINH TRIẾT CHÂN SƯ TÂY TẠNG
Xem: Tổng hợp về mầu sắc
+ Mầu sắc và hiểu quả:
Một số màu sắc có một hiệu quả nhất định, dù vậy, tôi chỉ có thể kể ra ba màu và nói vắn tắt về chúng thôi: 1. Màu vàng cam (orange) kích thích sự hoạt động của thể dĩ thái, nó xua tan sự tắc nghẽn (congestion) và làm mạnh thêm luồng sinh khí (flow of prana). 2. Màu hồng (rose) tác động lên thần kinh hệ và có khuynh hướng làm linh hoạt (vitalisation) và xua đi sự trầm cảm (depression) và các triệu chứng suy nhược (symptoms of debilitation); nó làm tăng mạnh thêm ý chí muốn sống (Will–to–live) 3. Màu xanh lục (Green) có hiệu quả chữa trị tổng quát, có thể được sử dụng một cách an toàn trong các trường hợp viêm nhiễm (inflamation) và sốt, nhưng cho đến nay hầu như không thể đưa ra các tình huống đúng để dùng được màu này hay đạt đến độ đậm nhạt thích hợp. Màu lục là một trong các màu cơ bản cần được dùng sau rốt khi chữa trị thể xác, đó là màu của âm điệu (note) của Tạo Hóa (Nature).(TVTTHL, 247–248)
Xem: Tổng hợp về mầu sắc
+ Cung và mầu sắc:
Về màu sắc các màu đỏ, lam và vàng là các màu nguyên thủy (primary) và tối giản (irreducible).
Đó là màu của các cung chính yếu (major rays):
a/ Ý chí hay Quyền năng ……... Màu đỏ (Red)
b/ Bác ái–Minh triết ……… ….. Màu lam (Blue)
c/ Trí tuệ linh hoạt …………….. Màu vàng (Yellow)
Kế đó, chúng ta có các cung phụ (subsidary rays):
d/ Màu cam Orange)
e/ Màu lục (Green)
f/ Màu tím (violet)
và cung tổng hợp (synthesising ray), màu chàm (Indigo) (TLHNM I, 127–128)
Xem: Tổng hợp về mầu sắc
+ Hành tinh Chủ Tinh các cung Hoàng đạo: Có ba mức độ cai quản trong chiêm tinh học bí truyền:
Truyền thống / công truyền: liên quan đến bên ngoài và trần gian, cái hiển nhiên; cá nhân hoặc phàm ngã.
Bí truyền: một biểu hiện tinh tế hơn của dấu hiệu hoàng đạo và hành tinh cai quản; cái gì đó bên trong, tinh tế, và liên quan đến linh hồn hoặc nhận thức có ý thức.
Huyền Giai: biểu hiện cao nhất của dấu hiệu hoàng đạo và hành tinh cai quản; ý định tinh khiết nhất của hành tinh. Biểu hiện cao nhất này là thách thức phổ quát và thành tựu cuối cùng cho tất cả mọi người.
Chiêm tinh học nội môn dạy rằng ba cấp độ cai quản “thể hiện bộ ba của mỗi dấu hiệu hoàng đạo và hành tinh, hoặc ba vòng xoắn ốc nguyên mẫu mà qua đó sự tiến hóa của con người xảy ra.” Chúng ta có thể hoặc không thể cảm nhận hay nhận ra cả ba mức độ cai quản trong cuộc sống của chúng ta. Tự kiểm tra, tự nhận thức và xu hướng tự cải thiện sẽ cần phải hiện diện để các chủ tinh bí truyền và chủ tinh Huyền Giai thực hiện công việc của chúng và tạo ra ảnh hưởng của chúng trong cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, các chủ tinh này mang đầy tiềm năng để ảnh hưởng đến tất cả mọi người ở mọi lúc. Tất cả mọi người đang phát triển; tất cả đều đã nhập thể để trải qua những niềm vui và thách thức, những khó khăn và những tự do đạt được trong gian khó để là con người. Vòng hoàng đạo, các hành tinh, và năng lượng chảy qua chúng có ý phát triển chúng ta, như mặt trời làm cây cối phát triển. Chiêm tinh học truyền thống hay ngoại môn đã luôn sử dụng các hành tinh có thể nhìn thấy được (Mercury, Venus, Mars, Jupiter, Saturn) như là các chủ tinh. Với sự khám phá ra ba hành tinh bên ngoài, chiêm tinh học hiện đại đã đánh giá lại và đã bổ sung hoặc thay thế một số hành tinh cai quản truyền thống. Ví dụ, trong hơn mười nghìn năm, Saturn đã là chủ tinh của Aquarius. Hiện nay Uranus cai quản Aquarius. Điều đó phải chăng sự cai quản của Saturn hàng ngàn năm là không chính xác? Chiêm tinh học là một khoa học, và giống như tất cả các khoa học, khi những bằng chứng mới được phát hiện và tiết lộ, nó được sử dụng và cái cũ biến mất vào hậu trường của kiến thức và tính áp dụng trong quá khứ.
Thông tin về các Chủ tinh bí truyền và Huyền Giai đã được đưa ra thông qua quyển sách Chiêm tinh học Nội môn của tác giả Alice A. Bailey và Chân sư của Bà, đức Djwal Khul, một Chân sư Tây Tạng về kỷ luật tinh thần và trí tuệ. Thông tin về các chủ tinh này được công bố vào nửa đầu thế kỷ 20 và nhiều nhà chiêm tinh đã khảo sát giá trị và sử dụng chúng trong việc hiểu biết không chỉ biểu đồ của một người mà còn về điều kiện con người và các quá trình của nó như là một tổng thể. Chúng tôi, các tác giả của cuốn sách này, chắc chắn nhìn thấy giá trị của các hành tinh chủ quản cao hơn này. Chúng tôi thấy chúng đang làm việc trong cuộc sống của khách hàng, bạn bè, và gia đình, cũng như trong cuộc sống riêng của chúng tôi. Chúng tôi cũng gợi ý rằng những người mới đến với chiêm tinh học bắt đầu đơn giản. Tìm hiểu các chủ tinh truyền thống hoặc các chủ tinh ngoại môn trước. Ảnh hưởng của chúng dễ dàng được nhìn thấy. Sau đó thêm một mức độ quan sát và ý nghĩa khác và tìm hiểu để tìm kiếm ảnh hưởng của các chủ tinh bí truyền. Cuối cùng, hãy suy ngẫm về các chủ tinh Huyền Giai trong cuộc sống của bạn và trên thế giới. .....
+ Đoạn sau đây được trích từ GLBN III, trang 455, Sơ đồ II, có tính cách gợi ý, mặc dù ở bên ngoài và sai lạc có chủ ý, vì các hành tinh thánh thiện và không thánh thiện được trộn vào nhau và nhiều hành tinh cũng bị bỏ sót.
Hành tinh Nguyên khí con người Màu sắc Ngày trong tuần
1. Mars ............ Kama-rupa .............. Đỏ ......... Thứ ba
2. Mặt Trời ..... Prana-Sự sống ......... Cam ...... Chúa nhật
3. Mercury ...... Buddhi ...................... Vàng ..... Thứ tư
4. Saturn ......... Kama-manas ........... Lục ........ Thứ bảy
5. Jupiter ......... Vỏ hào quang ......... Lam......... Thứ năm
6. Venus ......... Manas-Thượng trí .... Chàm ..... Thứ sáu
7. Mặt Trăng .. Linga Sharira ............ Tím ......... Thứ hai
Các “màn che” (“blinds”) như thế thường có và cần thiết trong giáo lý huyền môn nhưng chúng sẽ được dùng ngày càng ít đi khi nhân loại trở nên ngày càng tinh tế về tâm linh.
Đây là cách chia theo ngoại môn (Exoteric division). Các Giới của Thiên Nhiên và các Hành Tinh. Trong chu kỳ này:
1. Giới Khoáng chất – Pluto và Vulcan (Diêm Vương Tinh và Vulcan).
2. Giới thực vật – Venus và Jupiter (Kim tinh và Mộc tinh).
3. Giới động vật – Mặt Trăng và Hoả tinh (Mars).
4. Giới nhân loại – Thuỷ Tinh và Thổ tinh (Mercury và Saturn).
5. Giới linh hồn – Hải vương tinh (Neptune) và Thiên Vương tinh (Uranus).
6. Tổng hợp năm giới này – Mặt Trời.
+ Hành Tinh Thánh Thiện – Không thánh thiện và Các Cung năng lượng (CTHNM, 718)
Hành Tinh Thánh Thiện |
Cung năng lượng |
Hành Tinh Không Thánh thiện |
Cung năng lượng |
1. Vulcan |
Cung 1 |
1. Mars |
Cung 6 |
2. Mercury |
Cung 4 |
2. Địa Cầu |
Cung 3 |
3. Venus |
Cung 5 |
3. Pluto |
Cung 1 |
4. Jupiter |
Cung 2 |
4. Nguyệt Cầu (hành tinh ẩn giấu) |
Cung 4 |
5. Saturn |
Cung 3 |
5. Thái Dương (hành tinh ẩn giấu) |
Cung 2 |
6. Neptune |
Cung 6 |
|
|
7. Uranus |
Cung 7 |
|
|
.................................................. |
...................................... |
............................................................ |
....................................... |
+ Tất cả ở trên xem tại nguồn: Tổng hợp về Hành tinh - Cung hoàng đạo và chòm sao)
+ Chủ Tinh/ Hành Tinh Cai quản Cung Hoàng đạo có 3 mức: Công Truyền - Bí truyền - Huyền Giai
+ Chủ tinh công truyền (Esoteric Astrology). Đức DK có danh sách các Chủ Tinh Nội Môn và Chủ tinh Huyền Giai áp dụng cho các đệ tử và điểm đạo đồ. - Là sự cộng hưởng. Những phẩm chất của dấu hiệu hoàng đạo tương tự hoặc hợp tác với những phẩm chất của một hành tinh cụ thể. Bằng cách này, những phẩm tính của dấu hiệu hoàng đạo đi vào hệ mặt trời của chúng ta thông qua môi giới của hành tinh có phẩm chất phù hợp với phẩm chất của dấu hiệu hoàng đạo đó.(Chiêm THNM 17)
+ Chủ tinh/ Hành tinh Cai quản Lá số chiêm tinh: Xem cung Mọc của bạn. Hành tinh cai quản Cung Mọc là hành tinh chủ quản/ Chủ tinh lá số của bạn. Ví dụ, nếu Xử Nữ là Cung Mọc - Thuỷ tinh quản Lá số. Nếu Nhân Mã là Cung Mọc - Sao Mộc chủ tinh lá số. Bây giờ hãy lưu ý cẩn thận hành tinh cai quản lá số của bạn (chủ tinh của lá số) ở cung nào, nhà số mấy. Vị trí của nó có ảnh hưởng lớn trong cuộc sống của bạn và nhuộm màu cá tính của bạn tới một mức độ rộng lớn. Bạn hãy chắc chắn tìm ra chủ tinh của bạn và kiểm tra vị trí của nó trong lá số của bạn. Đây là đầu mối quan trọng khi diễn giải một lá số.(Nguồn: CTH ngoại môn 4) - Ngoài ra còn Chủ tinh Cung Mặt Trời, Cung Mặt Trăng đều có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực nó cai quản.
+ Chủ Tinh Lá Số: Mỗi lá số có một hành tinh cai quản, rất dễ tìm. Đơn giản, bạn chỉ cần nhìn vào cung Mọc của bạn. Hành tinh cai quản Cung Mọc là hành tinh chủ quản lá số của bạn. Ví dụ, nếu Xử Nữ là Cung Mọc, hành tinh chủ quản lá số của bạn là Thuỷ tinh. Nếu Nhân Mã là Cung Mọc của bạn, hành tinh chủ quản lá số của bạn là sao Mộc. Bây giờ hãy lưu ý cẩn thận hành tinh cai quản lá số của bạn (chủ tinh của lá số) ở cung nào, nhà số mấy. Vị trí của nó có ảnh hưởng lớn trong cuộc sống của bạn và nhuộm màu cá tính của bạn tới một mức độ rộng lớn. Bạn hãy chắc chắn tìm ra chủ tinh của bạn và kiểm tra vị trí của nó trong lá số của bạn. Đây là đầu mối quan trọng khi diễn giải một lá số. (Xem: Diễn giải Chiêm tinh học ngoại môn 4)
Xem thêm trang Thuật ngữ: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Kim Ngưu/ Taurus: Hành Thổ (Xem); Dẫn truyền(Cung 4) (Xem)
- Cần cù, ổn định, thực tế, bảo thủ, yêu thiên nhiên; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 2, có đặc tính: Thái độ đối với tài sản, thân thể, vật dụng, người phối ngẫu, giá trị, đạo đức;
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5; (Kim Tinh truyền dẫn Cung 5)
- Khẩu hiệu: Hãy để cho sự đấu tranh không nao núng.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Vulcan; Cung 1 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi thấy, và khi mắt mở ra, tất cả là ánh sáng.
+ Thiên Vương Tinh: Uranus truyền dẫn Cung 7 (GQ1- CT con người)
+ Không ổn định, tự phát, bốc đồng, sáng tạo, không có kỷ luật
+ Thiên vương tinh có liên quan đến phát minh, khám phá, kích động, công nghệ, thiên tài, lệch tâm, điện, và tai nạn, trong số những thứ khác.
- Giả thuyết của tôi là Thiên vương tinh nạp năng lượng cho bất cứ cái gì nó chạm vào và làm cho nó tự do. Thiên vương tinh tìm kiếm tự do và độc lập
- Nhà chiêm tinh Stephen Arroyo chỉ ra một mặt của sao Thiên Vương mà không được chú ý nhiều: ích kỷ.
+ Hãy nhớ rằng cung 7 có liên quan nhiều đến luân xa xương cùng và luân xa đáy cột sống, nhưng khi Chân sư DK nói với bạn về luân xa xương cùng, Ngài cho Uranus là một trong những chủ tinh cai quản nó, và bạn nhớ, Uranus là hành tinh cung 7 nổi bật. Vì vậy, chúng ta phải thực sự không tham gia vào cách thức mua sắm (Ảo cảm tình dục/ Cô gái và xe đẹp) này vốn được sử dụng cho mục đích thứ yếu. (Nguồn: Chương Ảo cảm cung 7 phần 1, mục Ảo cảm về Ma thuật tình dục)
+ Hành Tinh Uranus - Thiên Vương tinh (Tham khảo trong Giáo lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Uranus được cổ nhân biết dưới tên khác.” (GLBN I, 126)
2. “Cronus (thời gian)… được tượng trưng như là Uranus bị cắt xén (mutilating Uranus)… Thời gian tuyệt đối được tạo ra để trở thành hữu hạn và có điều kiện.” (GLBN I, 450)
3. “Trong số ba tinh cầu bí ẩn hay các Tinh Tú Thiên Thần (Star Angels), Uranus… không được bao gồm.” (GLBN I, 629)
4. Uranus … nhân cách hoá mọi năng lực sáng tạo và đồng nghĩa với Cronus. (GLBN II, 281 – 282)
5. “Cổ nhân không biết tới Uranus và họ bắt buộc tính Mặt Trời trong số các hành tinh… Uranus là một tên gọi hiện đại, nhưng có một điều chắc chắn, cổ nhân đã có một hành tinh bí mật mà họ không bao giờ đặt tên. Hành tinh thứ 7 này không phải là Mặt Trời mà là Đại Tư Tế (Hierophant) thiêng liêng ẩn mật.” (GLBN III, 330)
6. “Hiện nay Uranus đang được kích hoạt.” (LVLCK 357)
7. “Là một trong ba hành tinh tổng hợp, còn Sirius có ảnh hưởng đến toàn bộ thái dương hệ chúng ta xuyên Uranus, Neptune và Saturn”. (LVLCK 378)
8. “Uranus là trú sở của “lửa điện.” (LVLCK 1154)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem: Tổng hợp về Thiên Vương tinh
+ Nhà kiến tạo dĩ thái (The ethereal builder): Nhà kiến tạo dĩ thái tức là Tinh linh (elemental) phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
+ Lưới dĩ thái (Etheric web):
- Theo nghĩa đen, lưới dĩ thái là mạng lưới tinh anh với các tuyến lửa trải rộng qua trung tâm và tạo thành một diện tích có kích thước khá rộng. Nó tách biệt 2 thể cảm dục và thể xác. (LVLCK, 944)
- Các lưới dĩ thái thực ra là dĩa (disks), đang quay tròn với các tốc độ riêng biệt, khác nhau tùy theo loại trung tâm lực và tùy theo mức độ tiến hóa của hệ thống trung tâm lực liên hệ. Chỉ khi nào các lưới này bị thiêu rụi bởi các luồng hỏa đi lên và đi xuống, người ta mới thật sự thấy đúng được các trung tâm lực. Nhiều người có nhãn thông lầm lẫn các trung tâm lực và các đối phần bảo vệ của chúng, vì các đối phần này (counterpart) có độ tỏa chiếu và ánh sáng riêng của chúng. (LVHLT, 592)
- Tấm màn ngăn cách cõi cảm dục khỏi cõi trần. (TLHNM I, 102)
+ Cõi Vật Chất: Tập hợp các cõi vật chất, tức là cõi hồng trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí (lower mental plane); (GLTNVT, 104)
+ Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ Đức Phật giảng về tứ đại:
+ Các Đại và Tánh Các Đại: Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh nước là chơn không, tánh không là chơn thủy, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
Giảng:
"A-nan, Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh nước là chơn không." Cũng vậy, thể tánh của nước chính là chơn không. "Tánh không là chơn thủy." Thế ông cho rằng nó từ đâu mà có? Nó vốn từ trong Như Lai tạng." Nó có trong chân tâm của mỗi chúng sinh như chúng ta. Chúng ta có đầy đủ không những thủy đại, mà còn có hỏa đại, địa đại, phong đại. Hoàn toàn có đủ trong tâm chúng ta địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại , và thức đại là bảy đại, tất cả đều có đủ trong tâm chúng ta. Nhưng, mặc dù chúng hiện hữu ở đó, chúng vẫn không lẫn lộn hay ngăn ngại nhau. "Xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới. Tánh của nước vốn thường thanh tịnh và trùm khắp cả pháp giới. Ông nên biết rằng trong thể tánh thanh tịnh là sự hiện hữu mầu nhiệm (diệu hữu)."Trong chơn không là diệu hữu. Nếu ông quán chiếu sâu vào đạo lý nầy, ông sẽ liễu ngộ được. Nói cách khác, khi chính ông có công phu[89]– khi ông tọa thiền, có được định lực và phát khởi trí huệ, thì ông sẽ nhận ra rằng đạo lý được giảng giải trong kinh nầy là chân thật, không hư ngụy. Nhưng, đạo lý nầy không dễ gì hiểu được nếu ông cố dò tìm nó bằng thức tâm.
"Biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh. "Bất kỳ các loài chúng sinh trong 9 pháp giới[90] nếu có tâm mong cầu điều gì đều được đáp ứng đúng theo sở nguyện. Bất luận họ muốn điều gì, bất kỳ họ muốn bao nhiêu, đều được thỏa nguyện. Nếu quý vị muốn có một ly nước, sẽ có ly nước để uống. Nếu quý vị muốn có hai ly nước, sẽ có hai ly nước để uống. Mọi ước nguyện của mọi loài chúng sinh đều được đáp ứng xứng theo tâm lượng của họ........
+ Thức Đại và Tánh của Thức Đại
A-nan, tánh của thức đại không có nguồn gốc, duyên theo sáu căn trần hư vọng mà có. Nay ông nhìn khắp thánh chúng trong hội nầy, khi mới dùng mắt xem qua; nhìn chung, chỉ thấy như bóng trong gương, chưa phân tích rõ được.
Giảng:
Sáu đại: địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến đã được giảng rõ. Nay thêm thức đại để thành bảy đại. 'Thức' là gì? Là sự nhận biết hoặc không nhận biết. Biết cái gì và không biết cái gì? Không biết gì cả chính là biết.
Tại sao tôi nói thức không biết gì cả? Ông nghĩ rằng ông biết được cái gì? ...... Thế nên, sáu đại được giảng giải trên đây và đại thứ bảy nầy–thức đại– cũng giống như bảy anh em ruột. .... Quý vị không nhận biết được địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại - Là Tứ đại; và quý vị không nhận biết được không đại và kiến đại. Ngay cả ngài A-nan cũng không nhận biết được chúng. Thế nên Đức Phật... đã tìm ra bảy anh em của quý vị.... Quý vị đã từ bỏ của báu vốn có của mình, phong cảnh quê hương của mình. Nên khi quý vị đi xa, quý vị lìa bỏ cội gốc mà bám lấy cành nhánh. Quý vị từ bỏ những gì thân thiết gần gũi mà tìm cầu những thứ xa xôi. Quý vị đi ra và kết thân với nhiều người. Vậy chẳng phải điên đảo hay sao? Tại sao quý vị hướng ra bên ngoài kết bạn với người khác mà không nhận ra những người anh em ruột thịt của mình? Vì quý vị nhận cái hư giả làm cái chân thật. Quý vị nhận giặc làm con. Quý vị nhận giặc cướp làm bạn mình và hướng ra bên ngoài dùng thức tâm để ứng xử mọi việc.....
Trong giáo lý Tiểu thừa, khi quý vị nhận những gì hư giả làm cái chân thật và dùng thức tâm để ứng xử mọi việc thì rất là tai hại. Nay quý vị đã nhận ra cái hư giả và cái chân thật. Đã nhận ra được bảy anh em ruột thịt trong nhà, thế là bây giờ, mặc dù thức tâm là hư giả, nhưng nó đã chuyển thành Như Lai tạng. Nó vốn biến hiện từ Như Lai tạng. Đó được gọi là 'chuyển tướng thành tánh.' Trong quá khứ, quý vị đã dính mắc hoàn toàn vào tướng, nhưng nay quý vị đã nhận ra được tự tánh, quý vị sẽ không còn từ bỏ cái thân thiết gần gũi để tìm kiếm cái xa xôi nữa, không còn từ bỏ gốc để chạy theo nắm bắt nhành ngọn nữa, hoặc không còn nhận giặc làm con nữa.
"A-nan, tánh của thức đại không có nguồn gốc."– Nó không đến từ nơi nào cả. Nói cách khác, nó không có nguồn gốc. "Thế thì, nó là cái gì?" Quý vị liền hỏi.
Nó "duyên theo sáu căn trần hư vọng mà có." Để hiện hữu, nó phải mượn nhờ sáu căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý và sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp– là 'kiến phần' và 'tướng phần.[104]'
Đến đây kinh văn sẽ đề cập đến hoạt dụng của thức.
Rồi trong tâm thức ông, theo thứ tự chỉ ra, đây là Văn-thù, Phú-lâu-na, đây là Mục-kiền-liên, đây là Tu-bồ-đề,
Ông phải suy xét thật kỹ, quán sát thật tường tận. Cái thấy phải nương nhờ con mắt ông, sắc tướng là cảnh của tiền trần. Những gì có tướng mới thành có, chẳng có tướng ắt thành không. Cái thức như vậy, do đâu mà có?
Thức thì linh động (Phân biệt, linh hoạt), cái thấy trong lặng, chẳng hòa chẳng hợp. Tánh ngửi, tánh nghe và tánh hay biết cũng đều như vậy. Chẳng lẽ tâm thức không do đâu mà có?
Nếu thức ấy chẳng do đâu sinh ra, thì nên biết tác dụng của kiến văn giác tri vốn vắng lặng cùng khắp, tánh chẳng do đâu mà có. Hai đại ấy (thức đại và kiến đại) cùng với hư không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại, tánh thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng,
A-nan, tâm ông nông cạn, không ngộ được cái kiến văn, không rõ được cái giác tri vốn là tánh Như Lai tạng. Ông nên quán sát sáu chỗ thức tâm nầy là đồng hay khác, là không hay là có, là chẳng đồng chẳng khác, là chẳng không chẳng có?
Giảng:
"Không ngộ được cái kiến văn–và tánh biết ngửi, tánh biết nếm và tánh hay biết, tác dụng của chúng, và không rõ được cái giác tri đều vốn là tánh Như Lai tạng. Ông không nhận ra được đạo lý Đức Phật đã giảng giải về địa, thủy, hỏa, phong, không và kiến, ông không nhận ra được cái tánh hay biết cũng đồng là tánh Như Lai tạng. Ông không hiểu được rằng tất cả đều là tác dụng lưu xuất từ Như Lai tạng."
"Ông nên quán sát sáu chỗ thức tâm." Sáu chỗ của thức tâm là địa, thủy, hỏa, phong, không và kiến. Sáu lĩnh vực của thức tâm nầy là đồng hay khác, là không hay là có, là chẳng đồng chẳng khác? Nó chẳng đồng hay chẳng khác? Là chẳng không chẳng có? Có phải nó chẳng không mà cũng chẳng hiện hữu? Ông nói sáu thức nầy như cái gì?
Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Quyển 3)
+ THÂN THỨC: A-nan, như ông đã rõ, thân căn và xúc trần làm duyên, sinh ra thân thức.
Thức nầy lại nhân thân căn sinh ra, lấy thân căn làm giới; hay nhân xúc trần sinh ra, lấy xúc trần làm giới?
A-nan, nếu do thân căn sinh ra, ắt là không có cái biết về hai duyên hợp và ly, thì thân căn còn biết được gì?
Nếu nhân xúc trần sinh ra, ắt không cần đến thân của ông. Lẽ nào không có thân mà biết được hợp li?
A-nan, vật thì không biết cảm xúc, thân căn có biết, nên có cảm xúc.
Những gì thân biết được chính là xúc trần, những gì biết được về xúc trần chính là thân căn. Đã là cảm xúc thì không phải thân căn, mà đã là thân căn thì không phải cảm xúc.
Cả hai tướng thân căn và xúc trần vốn không có xứ sở. Nếu xúc trần hợp với thân căn, tức là tự thể của thân căn. Còn nếu rời hẳn thân căn, thì cũng như các tướng hư không.
Trong ngoài đã không thành, làm sao mà thức lập được ở giữa? Giữa đã không lập được, thân thức ông sinh ra, do đâu mà lập thành giới?
Vậy nên biết rằng thân căn, xúc trần làm duyên, sinh ra giới thân thức. Cả ba chỗ đều không. Cả ba giới của thân căn, xúc trần, và thân thức đều vốn không phải tính nhân duyên, cũng không phải tính tự nhiên.
Giảng:
Những đạo lý đa dạng được giải thích ở trên đều nhằm chỉ ra rằng giới của thân thức không thể nào tìm thấy được. Nó vốn không có giới.
"Vậy nên biết rằng. Nó là biểu hiện của tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, không thể nào tìm thấy một gốc gác có thực của chúng. Thế nên, không được so sánh pháp môn phương tiện Quyền thừa với Thiệt pháp."
Những gì được giảng giải trước đây đều là pháp phương tiện. Pháp đang được giảng nói bây giờ là Đệ nhất nghĩa đế, là giáo lý rốt ráo của Trung đạo, hoàn toàn khác với pháp môn được giảng nói trước đây. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới–tất cả các pháp nầy đều không sinh khởi do nhân duyên, cũng chẳng sinh khởi do tự nhiên.
Trước đây Đức Phật đã dùng pháp nhân duyên để phá tan thuyết tự nhiên do ngoại đạo chủ trương. Đây là lí do tại sao A-nan chấp trước vào pháp nhân duyên sinh mà chưa thể nào giải trừ được. A-nan không thể nào từ bỏ được ý tưởng ấy. Ông nghĩ rằng pháp mà Đức Phật giảng nói trước đây sẽ không bao giờ thay đổi, không bao giờ khác đi. Tại sao bây giờ Đức Phật lại phủ nhận những đạo lý trước đây ngài đã giảng nói? Vì chính Đức Phật cũng không công nhận rằng các pháp ngài đã nói trước đây là mâu thuẫn, Đúng vậy không? Ngài nói ngược lại với những điều đã giảng trước đây. Đến mức A-nan phải phát sinh vô số nghi nan và còn muốn hỏi rất nhiều điều. Thế nên bây giờ Đức Phật bảo A-nan rằng trước đây ngài nói pháp nhân duyên sinh là để phá trừ thuyết tự nhiên sinh của ngoại đạo; pháp ấy chưa phải là rốt ráo. Đó không phải là pháp môn cứu cánh. Bây giờ đã đến lúc giảng nói pháp Trung đạo liễu nghĩa, pháp Đệ nhất nghĩa đế. Những pháp Như Lai giảng nói trước đây không còn hợp thời nữa; đừng tiếp tục chấp dính vào nó nữa. A-nan vẫn chưa hiểu được điều nầy; thế nên ông tiếp tục hỏi.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ THIỆT THỨC: A-nan, như ông đã rõ, thiệt căn và vị trần làm duyên, sinh ra thiệt thức.
Thức nầy lại nhân thiệt căn sinh ra, lấy thiệt căn làm giới; hay nhân vị trần sinh ra, lấy vị trần làm giới?
A-nan, nếu nhân thiệt căn sinh ra, thì trong thế gian, các loại mía (ngọt), mơ (chua), hoàng liên (đắng), muối (mặn), tế tân, gừng quế (cay), đều không có vị. Ông hãy tự nếm lưỡi mình xem là ngọt hay đắng?
Nếu thấy lưỡi đắng, thì lấy gì để nếm được lưỡi? Lưỡi đã không tự nếm được, lấy gì để mà hay biết? Còn nếu lưỡi không đắng, thì vị trần vốn không tự sinh, làm sao mà lập thành giới?
Nếu nhân vị trần sinh ra, thì thiệt thức đã là vị rồi, nó cũng giống như thiệt căn, lẽ ra không tự nếm được. Làm sao còn biết là có vị hay không có vị?
Lại tất cả các vị không phải do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh ra, thì thiệt thức cũng phải có nhiều tự thể.
Giảng:
... "Các vị đã do nhiều vật sinh ra, thì thiệt thức cũng phải có nhiều tự thể. Nhưng thể của thiệt thức thì không có nhiều cái đa dạng như vậy."
Đoạn kinh nầy chỉ ra một thực tế thiệt thức là bất biến. Nó 'tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên.' Vậy nên dù có rất nhiều thứ sinh ra rất nhiều vị, nhưng thiệt thức không theo vô số vị trần để có nhiều tự thể. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng giải điều nầy một cách có chủ ý để khiến cho A-nan phải hiểu rằng thiệt thức vốn phát sinh từ Như Lai tạng. Không phải do một vị trần riêng biệt nào hoặc thiệt căn sinh ra thiệt thức.
Nếu tự thể của thiệt thức là một và thể đó thật do vị trần sinh ra, thì các vị mặn nhạt chua cay cùng hòa hợp mà sinh ra, các vị khác nhau ấy sẽ biến thành chỉ cùng một vị, lẽ ra phải không có sự phân biệt.
Không có phân biệt thì không được gọi là thức. Làm sao còn gọi là thiệt, vị và thức giới?
Chẳng lẽ hư không sinh ra tâm thức ông?
Nếu thiệt căn và vị trần hòa hợp thì giữa nó vốn không tự tánh. Làm sao giới được sinh ra?
Vậy nên biết rằng thiệt căn, vị trần làm duyên, sinh ra giới thiệt thức. Cả ba chỗ đều không. Cả ba giới của thiệt căn, vị trần, và thiệt thức đều vốn không phải tính nhân duyên, cũng không phải tính tự nhiên.
Giảng:
... Nó không phải được sinh ra từ nhân duyên, cũng chẳng phải được sinh ra từ tự nhiên. Vì nếu nó được sinh ra từ nhân duyên thì sẽ bị rơi vào phạm trù có (hữu). Còn nếu nó được sinh ra từ tự nhiên thì sẽ bị rơi vào phạm trù không (vô). Có (hữu), không (vô) đều chẳng phải là nghĩa rốt ráo của Trung đạo. Đó là nghĩa nhân duyên được giảng dạy trong giáo lý Quyền thừa,[57] và là chủ thuyết tự nhiên của hàng ngoại đạo. Rốt ráo, giới của thiệt thức từ đâu sinh ra? Cũng vậy, đó là biểu hiện tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ TỊ THỨC: A-nan, như ông đã rõ, tị căn và hương trần làm duyên, sinh ra tị thức.
Thức nầy do tị căn sinh ra, lấy tị căn làm giới; hay do hương trần sinh ra, lấy hương trần làm giới?
A-nan, nếu tị thức nhân tị căn sinh ra, Ông lấy cái mũi thịt có hình tướng như hai móng tay, hay lấy cái tính biết ngửi khi mũi lay động làm tị căn?
Nếu nhận hình tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân căn; thân biết tức là cảm xúc. Đã gọi thân căn thì không phải tị căn, đã gọi là cảm xúc tức là xúc trần đối với thân căn. Vậy tị căn còn không có tên gọi, làm sao lập thành giới?
Nếu lấy cái ngửi biết làm tị căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái nhận biết? Nếu lấy mũi thịt làm cái nhận biết, thì cái biết của chất thịt vốn là xúc trần chứ không phải là của tị căn.
Nếu lấy hư không làm cái ngửi biết, thì hư không tự biết, còn xác thịt lẽ ra không biết. Như thế, lẽ ra hư không là ông. Thân của ông mà ông không biết, thì A-nan hiện nay lẽ ra cũng không tồn tại.
Nếu lấy hương làm cái ngửi biết, thì cái ngửi biết thuộc về hương trần, có can dự gì đến ông?
Nếu các mùi thơm thối sinh ra do tị căn của ông, thì hai mùi thơm thối kia không sinh ra do cây y lan và cây chiên đàn. Mùi hương từ hai cây đó không đi đến mũi ông, ông tự ngửi mũi ông để biết là thơm hay thối. Nếu thối thì không phải thơm, thơm thì không phải thối.
Nếu cả hai mùi thơm thối đều ngửi được cả, thì một mình ông phải có hai tị căn, ở trước tôi hỏi đạo phải có hai ông A-nan. Vị nào là tự thể của ông?
Còn nếu tị căn là một, thì thơm thối không hai. Thối đã thành thơm, thơm đã thành thối. Hai tánh đó đã không có, giới do đâu mà lập?
Nếu tị thức nhân hương trần mà sinh, thì tị thức đã nhân hương trần mà có. Cũng như con mắt thấy, nhưng không thể nào thấy được chính nó. Tị thức nhân hương trần mà có, lẽ ra không biết được hương trần.
Nếu biết được hương trần, thì không phải do hương trần sinh ra. Nếu không biết được hương trần, thì không phải là tị thức. Hương trần mà không biết có tánh ngửi, thì hương giới không thành. Tị thức mà không biết hương trần, thì giới của nó ắt không phải do hương trần lập nên.
Đã không có thức trung gian thì nội căn ngoại trần cũng không thành, và những điều ngửi biết kia, tất cả đều là hư vọng.
Vậy nên biết rằng tị căn, hương trần làm duyên, sinh ra giới tị thức. Cả ba chỗ đều không. Cả ba giới của tị căn, hương trần, và tị thức đều vốn không phải tính nhân duyên, cũng không phải tính tự nhiên.
Giảng:
"Vậy nên biết rằng – Tất cả cũng đều là biểu hiện của tánh chân như nhiệm mầu từ Như Lai tạng. Chúng đều không có một gốc gác nhất định.
Quý vị đừng dính mắc vào pháp phương tiện mà tôi đã giải thích trước đây; mười tám giới, mười hai xứ đều là hư vọng, luống dối, không thực có. Nhưng, để dẫn dắt hàng Nhị thừa nên cần phải giảng nói mọi điều từ trong pháp môn phương tiện nầy. Cơ bản là nó không thực có.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ NHĨ THỨC: A-nan, như ông đã rõ, nhĩ căn và thanh trần làm duyên, sinh ra nhĩ thức.
Giảng:
"A-nan, như ông thường biết được rằng, như ông đã rõ, nhĩ căn và thanh trần làm duyên, sinh ra nhĩ thức." Nhĩ căn nghe được thanh trần, kết hợp với nhau thành nhân duyên. Qua đó nhĩ thức phát sinh. Từ nhĩ căn sinh ra một bản tánh tạo nên sự phân biệt, đó chính là nhĩ thức.
Thức nầy do nhĩ căn sinh ra, lấy nhĩ căn làm giới; hay do thanh trần sinh ra, lấy thanh trần làm giới?
A-nan, nếu nhĩ thức do nhĩ căn sinh ra, mà không có hai tướng động tĩnh hiện tiền, thì nhĩ căn cũng không có cái biết. Mà đã không biết gì, cái biết còn không thành, thì thức có hình tướng gì?
Nếu cho rằng tai nghe, vậy khi không động tĩnh, cái nghe cũng không thành. Làm sao mà lỗ tai, chỉ là hình sắc, tiếp xúc với trần cảnh để được gọi là thức giới. Vậy giới nhĩ thức do đâu mà lập?
Nếu nhân thanh trần mà sinh, thì nhĩ thức cũng nhân thanh trần mà có, ắt không dính líu gì đến cái nghe. Không nghe thì cũng không biết các tướng thanh trần ở đâu.
Giả sử nhĩ thức do thanh trần sinh ra, dù cho thanh trần nhân cái nghe mà có tướng, thì cái nghe lẽ ra phải nghe được nhĩ thức.
Nếu không nghe được nhĩ thức, thì thanh trần không phải là giới của nhĩ thức. Nếu nghe được thì nhĩ thức đồng như thanh trần. Nhĩ thức đã bị nghe, thì lấy gì để biết là nghe được cái thức? Còn nếu không biết, thì rốt ráo cũng như cây cỏ.
Không lẽ thanh trần và cái nghe xen tạp thành giới ở giữa? Không có vị trí của giới ở giữa, thì các tướng trong ngoài làm sao mà lập được?
Do vậy nên biết, nhĩ căn và thanh trần làm duyên, sinh ra giới nhĩ thức. Cả ba chỗ nầy đều không thực có. Nên cả ba giới của nhĩ căn, thanh trần và nhĩ thức đều vốn không phải tính nhân duyên, cũng chẳng phải tính tự nhiên.
(Cả ba giới trên, cũng vậy, chẳng gì khác hơn chính là sự biểu hiện tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng _HT Tuyên Hóa giảng)(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ NHÃN THỨC: A-nan, như ông đã rõ, nhãn căn và sắc trần làm duyên, phát sinh nhãn thức.
Thức đó nhân nơi nhãn căn mà sinh ra, lấy nhãn căn làm giới; hay nhân sắc trần[45] mà sinh ra, lấy sắc trần làm giới?
A-nan, nếu nhân nhãn căn phát sinh mà không có sắc trần và hư không thì không thể phân biệt được. Dù có thức của ông, thì dùng được vào việc gì?
Lại nữa cái thấy của ông, ngoài những sắc xanh vàng đỏ trắng thì không thể biểu hiện được. Vậy do đâu mà lập giới?
Nếu nhân sắc trần sinh ra, khi có hư không thì chẳng có sắc, lẽ ra cái thức của ông phải diệt. Làm sao thức ấy biết được tánh hư không?
Nếu khi sắc tướng biến đổi, ông cũng biết rằng sắc tướng ấy biến đổi. Nhưng cái thức của ông thì không biến đổi, thế do đâu mà giới được lập?
Nếu nhãn thức biến đổi khi sắc trần biến đổi, thì tự nhiên sắc trần không thành giới được. Nếu nhãn thức không biến đổi thì sẽ thường hằng, thức đã từ sắc sinh ra, lẽ ra nó phải không biết được hư không ở đâu.
Giả sử nhãn thức cùng phát sinh từ cả hai thứ nhãn căn và sắc trần, thì khi hợp lại, phải có một điểm nối ở giữa; khi rời ra thì phải còn một điểm tiếp giáp của hai bên. Như thế là thể tính tạp loạn, làm sao thành giới?
Do vậy, ông nên biết nhãn căn và sắc trần làm duyên, sinh ra giới của nhãn thức. Cả ba chỗ nầy đều không thực có. "Nên cả ba giới của nhãn căn, sắc trần và nhãn thức đều vốn không phải tính nhân duyên, cũng chẳng phải tính tự nhiên." (Nó chỉ là biểu hiện của tánh chân như nhiệm mầu từ Như Lai tạng_HT Tuyên Hóa)(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Tứ Luân - Các Luân: Gồm Không luân - Phong luân - Thủy luân - Kim luân. Thứ tự biến hiện là:
Không luân: Bánh xe không gian ở dưới nước và bánh xe gió của thế giới. (Goole dịch từ "The wheel of space below the water and wind wheels of the world")
Phong luân: Khởi lên từ bên trên Không luân, Thủy luân sanh ra trên Phong luân, và Kim luân sanh ra trên Thủy luân, và Địa luân dựa trên Kim luân.
Phong luân - Kim luân - Địa luân với Địa cầu: Nơi sâu tận cùng của thế giới là Phong Luân, Phong Luân này nương vào hư không, kiên cố như kim cang. Trên Phong Luân có Thủy Luân. Trên Thủy Luân có Kim Luân, được hình thành từ kim cang hình vòng tròn; nên gọi là Kim Luân. Trên Kim Luân này lại có chín núi tám biển, gọi là Địa Luân. Từ mặt nước cho đến Kim Luân, sâu đến 8 vạn do tuần; do vậy ta mới biết Địa Luân rất dày. Như vậy Kim Luân này còn có nghĩa là đại địa, vũ trụ, thế giới.
(Kim luân là tên gọi của một trong 7 loại báu do Chuyển Luân Thánh Vương cảm đắc được. Vòng tròn báu này có 4 loại khác nhau là vàng, bạc, đồng, sắt, từ đó sanh ra sự khác nhau giữa Kim Luân Vương, Ngân Luân Vương, Đồng Luân Vương và Thiết Luân Vương. Cũng là tên gọi tắt của Kim Luân Thánh Vương)
Hỏa luân: Lửa xoáy, ví dụ. lửa xoay tròn, cả vòng tròn như đang bốc cháy, biểu tượng của ảo ảnh; một bánh xe lửa. (Goole dịch từ "Whirling fire, e.g. fire whirled in a circle, the whole circle seeming to be on fire, emblem of illusion; a fire wheel"
Địa luân có nghĩa là: Tầng trên cùng của y báo (khí thế gian) và tầng cuối cùng của chính báo (thân hữu tình). Một trong 5 luân. Nếu đem phối hợp với nhục thân của chúng sinh thì địa luân là Tất luân (từ đầu gối trở xuống). Về hiển sắc, Địa luân là mầu vàng, về hình sắc, Địa luân có hình vuông, chủng tử là (A). (xt. Ngũ Luân). (Nguồn: Từ điển Phật giáo)
+ Kim luân (Kim luân không nên hiểu là Kim loại/ Hành kim):
I. Kim Luân. Cũng gọi Kim tính địa luân, Địa luân, Địa giới. Một trong 3 luân (phong, thủy, kim), hoặc 1 trong 4 luân (không, phong, thủy, kim). Vũ trụ luận của Ấn độ đời xưa cho rằng lớp dưới cùng của thế giới là hư không, trên hư không có phong luân, trên phong luân lại có thủy luân, trên thủy luân lại có kim luân. Do sức nghiệp của loài hữu tình khuấy động thủy luân, nên trên mặt thủy luân kết thành kim luân (lớp vàng rất dày). Các thế giới hiện thực như: Núi, biển, đảo, v.v... đều kiến lập và tồn tại trên kim luân. Phía dưới cùng của kim luân gọi là Kim luân tế (mé kim luân)
II. Kim Luân. Gọi đủ: Kim luân bảo. Cũng gọi: Luân, Luân bảo. Vũ khí hình bánh xe làm bằng kim cương (một trong 7 thứ báu) là vật cầm tay của vua Chuyển luân Thánh vương. Truyền thuyết cho rằng tùy theo luân bảo chuyển động xoay về hướng nào thì nơi ấy đều qui phục. Chuyển luân Thánh vương cầm Kim luân bảo gọi là Kim luân vương (gọi tắt là Kim luân). Trong 40 tay của bồ tát Thiên thủ Quan âm, tay cầm Kim luân được gọi là Kim luân thủ.
(1) Nơi sâu tận cùng của thế giới là Phong Luân, Phong Luân này nương vào hư không.... Trên Phong Luân có Thủy Luân, ... Trên Thủy Luân có Kim Luân, ... được hình thành từ kim cang hình vòng tròn. Trên Kim Luân này lại có chín núi tám biển, gọi là Địa Luân. ... Địa Luân rất dày. Như vậy Kim Luân này còn có nghĩa là đại địa, vũ trụ, thế giới.(Phật dạy Kim Luân bảo trì thế giới; Phong luân nắm giữ thế giới _Kinh Thủ LN)
(2) Là tên gọi của một trong 7 loại báu do Chuyển Luân Thánh Vương cảm đắc được. ... Cụ thể xem thêm nguồn: Thuật ngữ Kim luân - thuvienhoasen.
+ Kim luân - Thành lập khí thế gian:
Phong luân ở dưới cùng,
Bề trên là thủy luân. (Hơi nước/ Chất hơi ngưng tụ mưa xuống thành nước)
Phần nước ở dưới sâu tám ức,
Phần còn lại ngưng kết thành vàng
Thủy luân và kim luân [ Có đường kính mười hai ức - Ba ngàn bốn trăm năm mươi; Chu vi gấp ba lần.]
Giảng: Phong luân - Thể của nó thuộc chất rắn. Giả sử như có một đại Nặc-kiện-na (mahānagna) dùng kim cương ném vào nó thì kim cương sẽ bị vỡ tan mà phong luân vẫn không tổn hoại gì.
Vàng, bạc, các chất báu và đất được cấu tạo như vậy đã kết tụ lại nhờ các thứ gió do nghiệp lực tạo ra; và chúng đã tạo thành núi cũng như các đại châu. (Nguồn: Câu Xá luận - BT Thế Thân)
+ Kim luân - Đức Phật dậy:
- Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động => Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (Kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
- Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng => Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. (Do Hỏa đại/ Lửa do ma sát cọ sát với Kim đại mà sanh hơi ẩm/ Thủy đại/ Nước => Hỏa đại và Thủy đại đồng thời sanh ra _NTH ghi chú)
- Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì => Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn.
- Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó:
=> Trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
- Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
- Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
* Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
- Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau.
=> Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
* Vạn sự đều do Tâm tưởng sanh - Chúng ta tạo ra Thế giới này: Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Phật dậy về Các Đại - Lê sỹ Minh Tùng)
+ Kim luân: Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”....
- Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mê muội, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Nên có phong luân nắm giữ thế giới.
- Nhân hư không mà có sự lay động, phát minh ra tánh cứng, thành ra có ngăn ngại. Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng. Thế nên có kim luân để bảo trì quốc độ.
Giảng: ... sự lay động và tạo thành gió ..... thành ra tướng cứng chắc ngăn ngại của địa đại (yếu tố đất). Đây tức là lấy cái mê muội làm hư không, và trong thể hư không mê muội ấy, kết cái u tối hỗn trược thành sắc. "Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng". Tất cả các loại vàng bạc và các khoáng chất quý giá đều là tinh tuý trong lòng đất (địa đại), mà tánh chất của đất thì cứng chắc và ngăn ngại còn hơn cả kim loại. Nương nơi cái biết hư vọng của vô minh mà có ra tướng cứng chắc và ngăn ngại, như trong thế gian có người si tình mà hoá thành đá vậy.
- Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ biết cái lay động thì khiến cho phong đại phát ra. Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, nên có ánh sáng của lửa (hoả đại) làm tính biến hoá.
-Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt. Nên có thủy luân trùm khắp mười phương cõi giới. (Nguồn: Tứ đại - Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa)
+ Định nghĩa Chủng tử (Theo Duy Thức Học mới thật là Chủng tử): Bốn đại là chỗ nương tựa của tất cả các pháp do chúng tạo ra (pháp sở tạo). [Bốn đại này được gọi là tứ đại năng tạo; còn sắc, hương, vị, xúc được gọi là tứ đại sở tạo. Khi học trong Pháp tướng, thì các vị sẽ hay gặp mấy chữ đó. Tứ đại năng tạo và tứ đại sở tạo là sao? Tứ đại năng tạo là đất, nước, gió, lửa. Tứ đại sở tạo là sắc, hương, vị, xúc. Sắc, hương, vị, xúc nương nơi đất, nước, gió, lửa mà có. Gộp chung lại thì tất cả các sự vật hình tướng giữa thế gian này đều không ngoài tứ đại năng tạo và tứ đại sở tạo.]
Như hư không phổ biến khắp nơi, tuy có thể là đại, nhưng không gọi là chủng.
[Hư không thì khắp nơi nào cũng có hết. Cho nên, nếu nói đại, thì được; còn nói chủng thì không được. Vì nó không có sinh ra một cái gì hết, nó không phải là một cái vật thể, là cái gì hết].
Lại nữa, như hạt giống cây cỏ, tuy có thể sinh mầm nhánh mà được gọi là chủng, nhưng không thể gọi là đại. [Hạt giống, cây cỏ không gọi là đại.]
Nay ở đây đất, nước, lửa, gió, không những thể, tướng và dụng đều được gọi là đại mà còn chủng tử của tất cả sắc pháp đều được gọi là đại chủng.
[Nên nhớ chữ chủng tử này nó cũng có một cái phần tương đương, nó đồng danh từ chủng tử như ở trong Duy thức nói. Nhưng chủng tử ở trong Duy thức mới thật là chủng tử; còn chủng tử đây bất quá chỉ đối với sự vật hiện hành mà gọi là chủng tử, nhưng kỳ thật nó cũng hiện hành chứ không phải là chủng tử. Bởi vì theo Duy thức những cái gì hay mầm mống gì ta không huân tập vào trong Đệ bát thức, cái đó là thân nhân của tất cả các pháp, thì chính cái đó mới là thân sinh chủng tử. Từ nơi chủng tử thân sinh thân nhân ở nơi Đệ bát thức đó mà sinh hiện ra các pháp, thì cái đó mới thật là chủng tử. Như cái chủng tử đó mà hiện hành ra các pháp thì gọi là chủng tử sinh hiện hành. Như vậy đất cũng là hiện hành, gió cũng là hiện hành, nước cũng là hiện hành, lửa cũng là hiện hành. Nhưng hiện hành mà phải gọi là chủng, chứ kỳ thật theo lý Duy thức thì nó cũng là hiện chứ không phải chủng. Có thể gọi là hiện hành sinh hiện hành. Chỉ có cái chủng tử huân tập A-lại-da thức mới thật sự là chủng; còn tất cả các pháp được chủng tử đó hiện hành ra thì đều là hiện hành. Đó gọi là chủng sinh hiện. Nhưng đất, nước, gió, lửa hiện hành mà nó lại sinh ra cái hiện hành khác, nghĩa là hiện hành các sự vật khác. Cho nên tương đối mà cho nó là chủng chứ không phải chủng như chủng ở trong A-lại-da thức. Chủng tử là vậy đó. Thành ở đây chủng tử mà chủng tử hiện hành cũng như cái hạt giống bắp, hạt giống đậu cũng là chủng tử (hạt giống), nhưng đó là chủng tử nhưng mà hiện hành. Hiện sinh hiện, như hạt giống là hiện hành sinh ra hạt giống là hiện hành. Chủng tử mà sinh ra cây lúa hiện thành quả, hiện hành của hiện hành.] (Nguồn: Luận Câu Xá - HT Thích Thiện Siêu)
I- Chủng tử tự với Mạn Đà La Trì Chú Đại Bi:
+ Chủng Tử Tự: Chủng tử phát xuất từ đâu: Mời xem Thầy Hằng Trường giảng tại Clip ; Chủng tử tự 1 và Chủng tử tự 2
+ Chủng tử : ... Bởi vậy cho nên trong kỳ Pháp hội 2017 này, còn gọi là Mandala Đại Bi Quán Âm, Thầy chọn một chủng tử tự hay một hạt giống quang minh. Hạt giống quang minh này chính là chủng tử JA. JA có nghĩa là Nhập Thế Gian Hải Thanh Tịnh. Thế nào là hạt giống quang minh? Hạt giống quang minh tức là Dharma. Dharma hay pháp có nghĩa là khi các Bác càng tụng, càng chuyên chú thì sự khai mở của hạt giống này sẽ bùng vở lên, giúp cho mình chứng ngộ được sự thanh tịnh mà đức Phật đã từng chứng ngộ. Ý nghĩa của chủng tử JA rất hay, nhập thế gian là đi vào trong đời, hải là biển vô cùng rộng lớn. .... Năm nay, chủng tử JA sẽ được dùng để kết nối mình với Quán Âm Bồ tát và còn được dùng vào một mục đích khác nữa là mình xin nhập thế gian hải thanh tịnh. Cho nên sau khi xong Mandala, khi chúng ta đi vào đời làm việc thì lúc nào cũng được sự thanh tịnh cả. Mình đi tới sự thanh tịnh, nhập vào trong sự thanh tịnh chứ không bị tràn ngập trong sự đau khổ và nghiện ngập. Ký hiệu chủng tử JA mời xem tại trang nguồn: Thầy Hằng Trường giảng về JA
+ 42 Chủng tử tự: Giải thích này dựa vào tinh thần và triết lý cũng như sự tu tập của 42 chủng tử tự trong kinh Hoa Nghiêm, không phải là sự tu tập của thiền định hít thở thông thường mà các Bác đã quen rồi. Cho nên Thầy hy vọng là các Bác có thể tới tu tập một chủng tử tự trong Mandala, chủng tử tự đó chính là chủng tử JA. Chủng tử JA là chủng tử tự mà ánh sáng lan tỏa để khi chúng ta đi vào trong cuộc sống phàm tục thì tâm mình lúc nào cũng thanh tịnh, nhẹ nhàng. Chủng tử tự JA còn có cái tên rất là hay gọi là Nhập Thế Gian Hải Thanh Tịnh. Nhập vào sự thanh tịnh ở trong biển ô trược của thế gian. (trang nguồn: Thầy Hằng Trường giảng về JA)
II- Chủng tử Theo Minh Triết Mới
- Chủng tử 2: Định đoạt tính chất của thể dĩ thái như là một hiện thể mà nhờ đó các thần lực cung có thể tiếp xúc được với thể xác trọng trược. Nó định giới hạn cho cấu trúc dĩ thái hay là sinh võng (vital web) mà năng lượng sau này sẽ luân lưu theo đó và có liên kết một cách đặc biệt với trung tâm lực đặc biệt (trong số 7 bí huyệt) vốn sẽ là bí huyệt sinh động và linh hoạt nhất trong lần luân hồi tới.
- Chủng tử 3 mang lại chìa khóa cho thể cảm dục mà con người sẽ được an trụ vào đó trong lần luân hồi tới. Đừng quên rằng ở đây tôi đang nói về kẻ thường nhân chứ không nói đến người tiến hóa, đệ tử hay đạo đồ. Chính chủng tử này – qua các lực mà nó thu hút – giúp con người lập liên hệ trở lại với những người mà trước đây y yêu thương hay đã có sự tiếp xúc chặt chẽ. Một sự kiện cần được nhận biết rằng ý tưởng của nhóm chi phối một cách chủ quan tất cả các lần lâm phàm, và con người đi đầu thai, không những do ý muốn của riêng y là khao khát có được kinh nghiệm ở cõi trần mà còn theo sự thôi thúc của nhóm (group impulse) và theo cùng với nghiệp quả của nhóm cũng như hợp với nghiệp quả của riêng y.
+ 42 Chủng Tử Tự trong Kinh Hoa Nghiêm: Kinh giảng về thứ tự tu hành từ thấp đến cao, một bản đồ tu hành, chỉ dẫn con đường tu đạo đến quả vị Bồ Tát, Phật quả.
Đức Phật gói nghém cảnh giới bất nhị/ Vô sắc vô hiện của Ngài vào 42 chủng tử Tự, qua Mạn đà la ... biểu hiện bản tánh của Ngài. 42 chủng tử tự (Đỉnh cao của trí tuệ) ứng vô số cửa giải thoát. Sử dụng để giúp chúng sinh, ví dụ một người đang buồn, nếu dụng chủng tử tự và câu Chú tương ứng nhập vào Tâm anh ta, mang năng lượng tình thương vào hóa giải (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Trì giới - Sám hối có công đức có thể hóa giải - Tiêu trừ nghiệp chướng:
... Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám.
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng.
3. Loại thứ 3: Tiêu trừ nghiệp chướng.
Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Tuy họ nghiêm trì giới luật rất thanh tịnh, thật là hiếm có, được mọi người rất khen ngợi. Thế nhưng họ còn phiền não. Tức là họ còn thấy người này phá giới, người kia không trì giới. Họ còn có những phân biệt này, nếu còn có những phân biệt này thì công đức trì giới của họ bị phá hoại thì họ làm sao được định. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại trong đàn Kinh có nói “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” tức là người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Người thế gian đã phạm nhiều lỗi lầm, nếu như họ thật không thấy thì họ trở thành mất chứng ngu đần sao? vậy cái gì gọi là không thấy nghĩa là thấy như không thấy, tuyệt không để trong tâm.....(Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối nghiệp chướng)
+ Các Loại Sám Hối - Các cách sám hối.
Đệ tử chúng con, lễ chư Phật rồi, thứ lại sám hối. Kinh Diệt Tội nói: “Nếu chăm sám hối, diệt được tội nghiệp. Tại sao chỉ nói quán tâm lý trí, mới hay diệt nghiệp?”
Trong kinh giải thích hai cách sám hối: một là tâm mê, theo sự sám hối. Nghĩa là, đối trước tượng Phật, hành đạo lễ bái, tỏ bày sám hối, mong diệt tội chướng; hai là tâm sáng, theo Lý sám hối, nghĩa là quán sát thân tâm, cắt đứt phiền não, Năng Sở gây nghiệp, có nặng có nhẹ. Nếu là nghiệp nhẹ, theo Sự sám hối, có thể diệt hết, còn nếu nghiệp nặng, có thể chuyển được, biến nặng thành nhẹ. Nghĩa là lẽ ra nghiệp nặng, phải đọa ba đường, nhưng chuyển thành nhẹ, được sinh cõi người. Cho nên biết rằng, theo Sự sám hối, chuyển nặng thành nhẹ, nghiệp không thể hết là vì kiếp trước, gây nghiệp quá nặng, tâm thiện lại ít, sau ắt chịu báo.
Nay nói về Lý, không một vật gì, mình có thể được, nếu hiểu như thế, muôn pháp đều không, thân cần trong sạch, tâm không mê hoặc, không tạo ác nghiệp, nên không chịu báo, hăng hái tu hành, đạo nghiệp càng tăng. Như thế mới là phát tâm Bồ đề, rốt ráo cùng cực. Vì thế cho nên, những người có trí, nếu muốn tu tâm, muốn diệt tội nặng ba đường, phải học quán sát, theo Lý mà làm, mới mong mãi mãi xa lìa nẻo ác, đạt đến quả Phật.
Nhiếp luận nói ràng, nếu muốn lìa khổ, phải diệt vô minh, vô minh diệt rồi, thì hành cũng diệt, nếu hành đã diệt, thân tâm yên vui. Nếu hành lại sinh, tu đạo không rõ, thiện nghiệp chẳng thành, ác tâm càng mạnh. Bởi thế cho nên, bậc Tu Đà Hoàn không gây hoặc nghiệp, bậc A Na Hàm không chịu nghiệp báo, sinh nơi hạ giới. Lại nữa Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói rằng, nếu người có đủ mọi nghiệp ở nơi Dục giới, nhưng đã được quả A Na Hàm, thì chuyển được nghiệp kiếp sau mà chịu ngay ở đời hiện tại. La Hán cũng vậy. Vì thế nên biết, quán sát theo Lý mới thật sám hối.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thẩy nghiệp chướng đều do vọng tưởng, nếu muốn sám hối, hãy ngồi tĩnh tâm quán sát thực tướng”. Bởi thế chúng con, theo trong Kinh nói, trăm nghìn muôn kiếp, tạo nghiệp lâu dài, quán sát được một, đều tiêu diệt hết. Nếu các Phật tử, biết tính chúng sinh là tính niết bàn, thì những người ấy cùng cực giải thoát. Xét đến ngọn nguồn, nghiệp do điên đảo mà có, do vọng tưởng mà sinh, nhưng tâm tưởng ấy, cũng như luồng gió giữa chốn hư không, chẳng nơi nương tựa. Vì thế nên biết thiện hay là ác, đều do tâm tạo, khi chưa hiểu lý, mờ mịt không biết, nên mới gây nghiệp, đến sau rõ lý, tất cả tội trước, thẩy đều tiêu diệt. Lúc ấy mới biết, chẳng có tội gì để mà trừ diệt, chẳng có nghiệp gì để mà tạo tác, không còn chịu báo, cũng không luân chuyển.
Trong khi quán Lý, nên phải nghĩ rằng, tất cả nghiệp ác, vốn nó vắng lặng, cũng như Phật tính, đồng với chân như. Nhưng vì vô minh, ngăn ngại che lấp, nên không thể thấy, bởi vậy mới thường trước Phật, Bồ Tát, phạm trai phá giới, gây nên các tội thập ác, ngũ nghịch. Ví như trước Đạo Tràng này, tôn thờ tượng Phật, lễ bái cúng dàng, chợt có người mù, vì không trông thấy, bèn đứng trước Phật gây mọi nghiệp ác. Những người sáng mắt, thấy thế thương xót, mới bảo họ rằng, đây là Đạo Tràng, có thờ tượng Phật, tại sao đứng đây công khai tạo nghiệp? Người mù nghe rồi, xấu hổ sợ hãi, hối không kịp nữa. Liền ngay lúc đó, đứng trước đại chúng, cầu xin sám hối, bảo đại chúng rằng, vì tôi mù lòa, không thấy ánh sáng, không biết có Phật, tuy có chính nhân, nhưng không chính kiến. Nay nhờ thiện hữu chỉ bảo mới biết, xấu hổ sợ hãi, đã gây nên nghiệp, không thể nói hết.
Hiện tiền đại chúng, hãy đối trước Phật, cầu xin sám hối. Nguyện cầu chư Phật, thương xót tiếp thụ, diệt mọi tội cấu. Như người mù kia, nhờ người chỉ bảo, mới biết lỗi lầm, ăn năn sám hối. Chúng ta cũng vậy, lúc gây nên tội, thường đối trước Phật, vì không chính kiến, không thấy không biết. Ngày nay giác ngộ, biết rõ chư Phật, không ngoài tự tính, ba đạt chiếu suốt, năm mắt tròn sáng, trời đất hư không, những nơi tối tăm, bất luận xa gần, trong ngoài soi khắp, như ngọc minh châu, đặt trên bàn tay, tùy cơ ứng dụng, hóa độ quần sinh, đều lên bờ Giác. Lại biết tội duyên không có tội tính, đều do vọng tưởng, chịu mọi khổ não.
Kinh Duy Ma nói: “Tâm nhơ nên chúng sinh nhơ, tâm sạch thì cõi Phật sạch”. Vọng tưởng là nhơ, không vọng là sạch; vọng tưởng là địa ngục, tâm sạch là cõi Phật. Tội tính không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Tâm cũng không trong, không ngoài, không khoảng giữa, tâm đã như thế thì tội cũng vậy. Định tâm mà xem, tìm hiểu lý do, sẽ biết tự tính, thắp đuốc trí tuệ, diệt tan vô minh. Từ trước đến nay, gây bao tội ác, cũng như nhà tối; sám trừ vọng niệm, hiểu rõ chính nhân, đem đuốc trí tuệ, chiếu vào nhà tối. Lúc đó mới biết, từ kiếp vô thủy, đều bởi vô minh, ngăn che mê hoặc, không thấy chính quả, tạo các tội ác, như ở nhà tối, không thấy ánh sáng. Nay muốn sám trừ, phát nguyện tu hành, mở lòng đại thừa, sám tối nhỏ nhiệm, như ánh mặt trời, đánh tan băng tuyết, cũng như đau lâu, nay gặp lương y, như người ngu dại, gặp được minh sư. Nay đối trước Phật, khẩn cầu sám hối, hết thẩy tội chướng, nguyện đều tiêu diệt.
Cho nên kinh nói: tạo tội tuy nhiều không bằng làm thiện, chỉ một chút thôi, có thể diệt được tất cả tội chướng. Vì thế nên biết, tội không tự tính, do nhân duyên sinh, theo nhân duyên diệt; hễ gặp duyên ác, vô minh phát khởi, hễ gặp duyên thiện, đạo nghiệp tăng thêm, tội báo sai khác, duyên nghiệp nặng nhẹ, nay nên kiên quyết, không tạo tác nữa. Hiện tiền đại chúng, phải rõ bản nghiệp, đã biết cái nhân sám hối, mau trồng cái quả Bồ Đề, chịu tội muôn kiếp nghìn đời, sám hối một lúc tiêu hết. Nay hiểu được tâm, do lý mà sinh, rõ biết Phật lý, không ngoài tự tính. Tâm trước tuy gây tội nặng, niệm sau hiểu lý tiêu tan, vọng cảnh không sinh, nghiệp duyên cắt đứt.
Trong kinh Phật nói, tâm trước làm ác, ví như áng mây, che khuất mặt trời, tâm sau làm thiện, ví như mặt trời, đánh tan sương móc. Kinh Diệt tội nói: “Ví như chiếc áo, cả năm nhơ bẩn, có thể giặt dũ, một ngày sạch hết,” trong trăm nghìn kiếp, tạo mọi nghiệp ác, nay phải sám hối, nguyện nhờ sức Phật, sức Pháp, sức Tăng, chư Bồ Tát, cùng giúp thần lực, từ bi tiếp thụ, tấm lòng chí thành, giãi bầy sám hối, của lũ chúng con. Nguyện trong khoảnh khắc, diệt hết tội chướng, trăm nghìn muôn kiếp con đã gây nên. Hiện tại đại chúng, dốc một lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ của cả thế gian. ...(Nguồn: Kinh Mục Liên Sám Pháp)
Ba ngôi chân nhân:
- Ngôi (i)- Atma (Ắt-ma);
- Ngôi (ii)- Boud dhi ( Bồ-đề);
- Ngôi (iii)- Manas ( Trí-tuệ )
+ Thái dương hệ Tam phân (LVLCK, 30)
a. Lửa điện/ Lửa Tinh thần - Ngôi 1: - Chúa Cha: Sự Sống. Ý chí. Thiên Ý. Năng lượng dương
b. Lửa Thái Dương/ Linh Hồn - Ngôi 2: - Chúa Con: Tâm Thức. Bác Ái Minh Triết. Năng lượng thăng bằng.
c. Lửa do ma sát/ Xác Thể/ Vật Chất - Ngôi 3 - Chúa Thánh Thần: Sắc tướng. Thông tuệ hoạt động. Năng lượng âm.
=> Mỗi Ngôi lại biểu lộ tam phân, do đó tạo ra:
a. 9 tiềm lực hay Phân thân;
b. 9 Sephiroth;
c. 9 nguyên nhân Điểm Đạo.
Xem: Thượng Đế Tam Phân (LVLCK, 64)
Xem: Tổng hợp các tương ứng của vũ trụ và con người
+ Thống nhất thuật ngữ giữa các tác giả dịch Minh triết mới:
- Từ Tập đoàn Tiên Thánh hoặc Hội đoàn Tiên thánh: Thánh đoàn.
- Từ thể phách, thể vía: Thể dĩ thái (hoặc thể sinh lực) và thể tình cảm.
- Từ Đệ tử nhập môn: Đệ tử Chính thức/ Accepted Disciple.
+ Thể sinh lực tức là thể dĩ thái (LVHLT, 206)
+ Thể dĩ thái là một mạng lưới các dòng năng lượng, các tuyến lực và ánh sáng. Dọc theo các tuyến năng lượng này, các mãnh lực vũ trụ tuôn chảy, giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và động mạch (Nguồn)
+ Thể dĩ thái: Thể xác con người có 2 phần: Nhục thể và thể dĩ thái. Nhục thể được tạo thành bằng chất liệu của 3 phân cảnh thấp nhất của cõi trần. Thể dĩ thái được tạo thành bằng chất liệu của 4 phân cảnh cao hay phân cảnh dĩ thái của cõi trần. (ĐĐNLVTD, 218)
- Ẩn dưới xác thân và hệ thống thần kinh phức tạp và bao quát của nó, là một thể sinh lực hay thể dĩ thái vốn là đối phần và là hình hài đích thực của trạng thái hữu hình bên ngoài của cõi hiện tượng. Đó cũng là môi trường/ phương tiện chuyển thần lực đến tất cả các phần của thân thể con người và là tác nhân thừa hành của sự sống nội tại và tâm thức. Nó qui định và chi phối thể xác, vì chính nó là nơi lưu trữ và nơi truyền chuyển năng lượng từ các trạng thái bên trong khác nhau của con người và cũng từ môi trường mà trong đó, cả con người bên trong lẫn con người bên ngoài đều có được sở trường. Khoa học đang chứng minh điều này (CTHNM, 17).
- Bảy trung tâm lực chính vốn là một kiểu của các tác lực phân phối và các bộ pin điện, cung cấp mãnh lực năng động và năng lượng định tính cho con người; chúng tạo ra các hiệu ứng rõ rệt lên biểu lộ vật chất bên ngoài của y. “Việc kiểm soát sắc tướng qua bộ 7 năng lượng” là một qui luật không thể thay đổi trong việc cai quản bên trong của vũ trụ chúng ta và của thái dương hệ đặc biệt của chúng ta, cũng như trong trường hợp của con người cá biệt (CTHNM, 19)
- Nhà huyền linh không bận tâm đến nhục thể. Y xem thể dĩ thái mới là hình hài đích thực còn nhục thể được xem như chỉ là vật chất dùng để lấp đầy hình hài này. Thể dĩ thái là hình hài chủ yếu đích thực, cái khung sườn, vật liệu làm giàn giáo mà nhục thể tất nhiên phải phù hợp với nó. (ASCLH, 348–349)
+ Thể dĩ thái kép là bản sao chính xác từng phần của thể hồng trần hữu hình; qua trung gian nó, mọi dòng điện và sinh lực được cung cấp cho những hoạt động của thể hồng trần (Xem nguồn)
- Thể dĩ thái, vốn là một mô phỏng đúng y như đối phần trọng trược của nó, là cơ quan của lửa linh hoạt hay lửa bức xạ, và, như được biết rõ, đó là hiện thể của prana. Chức năng của nó là tích chứa các tia sáng bức xạ và nhiệt nhận được từ mặt trời và truyền chúng, qua lá lách, đến mọi phần của thể xác => Xương sống và Lá lách cực kỳ quan trọng cho sức khỏe thể xác con người. Khi lò lửa vật chất cháy sáng và khi nhiên liệu của thể xác (tức tia prana) được đồng hoá một cách thích ứng, xác thân con người sẽ vận hành như ý muốn (LVLCK, 75)
+ Cấu tạo Thể Dĩ thái: b/ Điều hơi kỳ lạ là trong giới nhân loại và chỉ giới nhân loại, thể dĩ thái ngày nay được tạo thành bằng 4 loại chất dĩ thái.... Chất liệu vận hà/ ống vận chuyển làm bằng prana hành tinh, tức năng lượng đem lại sự sống, sức khỏe chính hành tinh. Các ống này có thể chuyên chở tất cả hoặc bất cứ năng lượng có thể có nào – thuộc tình cảm, trí tuệ, Chân ngã, thượng trí, bồ đề hay thuộc niết bàn, tùy theo trình độ tiến hóa mà người có liên hệ đã đạt đến (Chân Sư DK)
+ Thể Dĩ Thái:
- Khái niệm, nằm sau các lý thuyết chiêm tinh học, là thể dĩ thái của bất kỳ hình hài nào cũng tạo thành một phần của thể dĩ thái của thái-dương-hệ, và do đó là trung gian cho việc truyền các năng lượng của mặt trời, của các lực hành tinh, và của các xung lực ngoài thái dương hệ hay vũ trụ, mà về mặt nội môn được gọi là “các linh khí”. Các lực và năng lượng này của các tia vũ trụ không ngừng luân lưu và đi theo các đường lối rõ ràng xuyên qua tất cả các phần trong dĩ thái không gian, và do đó liên tục đi qua các thể dĩ thái của mọi hình hài thông thường. Đây là một chân lý cơ bản và phải được ghi nhớ kỹ,
- Ý tưởng cơ bản thứ hai là sự đáp ứng của hiện thể dĩ thái của tất cả các hình hài và khả năng của nó để chiếm hữu, để sử dụng, và để truyền tải, đều phụ thuộc vào điều kiện của các bí huyệt, tức là của các luân xa như chúng được gọi ở Phương Đông. Chúng bao gồm không chỉ bảy bí huyệt chính được biết rõ mà còn vô số các xoáy lực nhỏ mà cho đến nay chưa được đặt tên và chưa biết đến ở Phương Tây. Nó cũng phụ thuộc vào tính chất của hiện thể dĩ-thái, vào tính sinh động của nó, và cũng phụ thuộc vào mạng lưới xen kẽ mà các bí huyệt tọa lạc ở đó, và tất cả được gọi là “mạng lưới” (“web”) hay “kim bôi” (“golden bowl”). Nếu lưới này sạch hết những trở ngại và chất lắng đọng (sediment), và nếu các vận hà (channels) của nó không bị tắc nghẽn thì các tia sáng, các năng lượng và các thần lực đang lưu thông có thể tìm thấy một phương tiện dễ dàng và có thể lưu thông không bị cản trở xuyên suốt toàn bộ cơ thể. Khi đó chúng có thể sử dụng các bí huyệt này, vốn đáp ứng với các rung động của chúng, và có thể được tiếp tục đi xuyên qua các hình hài trong các giới khác hoặc cùng giới trong thiên nhiên. Ở đây ẩn chứa bí mật của mọi việc chữa trị khoa học và huyền bí. Các nhà chữa trị đang thử nghiệm với thể dĩ thái và tuy vậy, họ ít có hiểu biết thực sự. Họ biết rất ít hoặc không biết gì về các bí huyệt trong chính cơ thể của họ, mà qua đó các luồng từ lực hoặc các luồng khác phải chảy qua; họ không biết về tình trạng của các bí huyệt dĩ thái của những người mà họ tìm cách chữa trị và về bản chất của các lực mà họ muốn vận dụng. Tất cả những gì họ có thể làm là gìn giữ giới luật trong đời sống của họ, và kiểm soát những ham muốn của họ sao cho họ tạo ra một cơ thể lành mạnh, và cung cấp các vận hà thông thoáng cho đường đi của các mãnh lực từ họ và xuyên qua họ đến những người khác.
Khái niệm thứ ba phải được lưu ý, đó là các hình hài đó, cho đến nay chủ yếu đáp ứng với các lực vốn đến với chúng từ các hình hài khác trên hành tinh, với bảy loại năng lượng cơ bản phát ra từ bảy hành tinh, và cũng với tia sáng mặt trời ban phát sự sống. Mọi hình hài trong cả bốn giới đang đáp ứng với nhiều mãnh lực này, với bảy năng lượng này và với tia (ray) duy nhất. Gia đình nhân loại cũng đáp ứng với các năng lượng khác và với các tia mặt trời – tuy nhiên tất cả đều bị nhuốm màu bởi mãnh lực được tạo ra trong vòng giới hạn thái dương (solar ring-pass-not). (LVHLT, 290-291)
+ Nói chung, công việc của giới nhân loại là để truyền năng lượng cho các giới thấp trong Thiên Nhiên, Thánh đoàn cho nhân loại (Các năng lượng này khi hạ thấp xuống để truyền đi, sẽ phân hóa thành các lực) (LVHLT, 291)
+ Thể Dĩ Thái: Chức năng quan trọng nhất của thể dĩ thái là dẫn truyền năng lượng sống hay sinh lực từ trường vũ trụ sang trường cá nhân, và từ đó đến cơ thể vật lý. Đó là mối liên hệ chính yếu với đại dương năng lượng sống duy trì toàn bộ thế giới tự nhiên... Với phương Đông, sinh lực, được gọi là prana, luôn luôn được coi là lực vũ trụ trong tự nhiên liên quan mật thiết đến hô hấp và hơi thở.
Đối với những người có nhãn thông, thể dĩ thái ở một người khỏe mạnh trông giống như một mạng lưới các đường từ lực sáng trắng tinh tế, vuông góc với bề mặt da. .. Mỗi bộ phận của cơ thể đều có đối phần tương ứng ở thể dĩ thái, qua đó năng lượng dĩ thái tuần hoàn liên tục.
Màu sắc của thể dĩ thái là màu xám-xanh lơ nhạt hay là màu xám-tím, chói sáng một cách lờ mờ, trông giống như làn không khí nóng dợn sóng trên mặt đường trong những ngày trời nóng. Ở một người bình thường, thể dĩ thái ló ra khỏi cơ thể từ năm đến bảy centimet (2-3 inch) và hòa lẫn vào trường năng lượng dĩ thái xung quanh - Một đại dương năng lượng thường xuyên chuyển động một cách lẹ làng nhanh chóng, bao quanh thể dĩ thái giống như bầu không khí bao quanh quả đất
Thể dĩ thái không phải là một dẫn thể của tâm thức, nó giữ vai trò dẫn truyền tâm thức đến bộ óc xác thịt, và nếu vì lý do gì đó thể dĩ thái bị tách rời khỏi thể vật lý, kết quả sẽ tạo ra những rối loạn và bệnh tật cho cơ thể.
Có một mạng lưới dĩ thái .. như một lớp lá chắn tự nhiên giữa thể dĩ thái và thể cảm dục, và bảo vệ con người khỏi sự liên thông giữa hai thể này quá sớm. .. Nó có tác dụng như một thiết bị bảo vệ, và những tổn thương của nó đều gây nên những hậu quả nghiêm trọng, vì điều này mở ra cánh cửa đến với các nguồn lực vượt quá sự kiểm soát của cá nhân...nếu bị rách lưới dĩ thái ..., là nguồn cơn của thói nghiện rượu, sử dụng ma túy và các chất kích thích tương tự.(Nguồn: Luân xa và năng lượng)
+ Thể sinh lực: Tính chất - Các trung tâm lực - Tương ứng
Xem thêm: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem thêm: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Sự ràng buộc vào hình hài hay là sự thu hút của hình hài đối với Tinh thần là sức thôi thúc to tát của tiến hóa giáng hạ. (ASCLH, 139)
+ Ham muốn cuộc sống hữu tình một cách mãnh liệt chính là sự ràng buộc. Nó có sẵn trong mọi hình hài, nó tự tồn tại (self–perpetuating), và thậm chí người rất sáng suốt cũng biết đến nó.
Hình thức ràng buộc này là nguyên nhân cơ bản của mọi biểu lộ. Nó có sẵn trong mối liên hệ của hai đại đối hợp: tinh thần và vật chất. Nó là yếu tố chi phối trong biểu lộ của Thượng Đế, và đây là lý do giải thích tại sao ngay cả “kẻ rất sáng suốt” cũng lệ thuộc nó. Hình thức ràng buộc này là khả năng tự sinh tự tồn. Cần nên nhớ rằng việc khắc phục khuynh hướng này, ngay cả khi được vị cao đồ xúc tiến đến giai đoạn cao nhất cũng chỉ là việc khắc phục tương đối thôi. Bao giờ mà Thái Dương Thượng Đế của chúng ta hay là Tinh thần Tuyệt Đối còn lâm phàm qua một Thái Dương Hệ thì khuynh hướng này sẽ còn hiện hữu trong vị Tinh Quân Hành Tinh cao cả nhất và trong Thực Thể Tâm linh cao siêu nhất. Để khắc phục sự ràng buộc hay là diệt dục, tất cả những gì có thể làm được là phát triển năng lực làm cân bằng các cặp đối hợp trên bất cứ cảnh giới đặc biệt nào, sao cho người ta không còn bị các hình tướng của cảnh giới đó nắm giữ được nữa, và như thế mới có thể tách ra được. (ASCLH, 137)
+ Cần có sự cân bằng: Vì thế, mọi thứ sẽ rõ ràng cho người môn sinh minh triết thiêng liêng cẩn thận rằng:
1/ Phương diện Quyền Lực - Cung 1, Các cõi giới 1 và 5, và những Quy Luật về Cố Định và Rung Động, tạo thành một khối liên kết nhau.
2/ Phương diện Tình Thương - Cung 2, Các cõi giới 2, 4, 6, và những Quy Luật về Gắn Kết, Điều Khiển Điện Từ, và Tình Yêu Thương, tạo nên một đơn vị khác.
3/ Phương diện Hoạt Động—Cung 3, Các cõi giới 3 và 7, và các Quy Luật về Phân Rã, Hy Sinh và Chết, tạo nên một nhóm khác nữa.
5. Những ví dụ thêm— Further examples
+ Trong đời sống này, rung động chính của bạn chạy theo dòng 2-4-6, tạo nên sự tăng cường những phẩm chất cung thứ hai của bạn và biểu thị cho nhu cầu cần có một yếu tố cân bằng nào đó. Tuy nhiên, sự khó khăn sẽ được trợ giúp và vấn đề sẽ được hỗ trợ hướng đến giải pháp bởi sự kiện rằng cơ thể vật chất của bạn thuộc cung bảy, nó đem đến rung động của dòng năng lượng 1-5-7. Điều này là một hỗ trợ rất lớn cho bạn. Trên cõi hồng trần, vì thế, bạn có nhiệm vụ cân bằng sự vượt trội của các thuộc tính, phẩm chất và nhịp điệu của cung hai. (NĐTTKNM/ DINA I, 666)
+ Điều cần lưu ý tiếp theo là các cung phàm ngã - chỉ với một ngoại lệ - là các cung trên dòng 1- 3- 5- 7, cho ta thấy từ đó khuynh hướng bảo tồn cân bằng và bù trừ lại sự điều khiển mạnh mẽ của dòng 2- 4- 6. Tôi muốn từ cân bằng này ở nhiều trong tâm trí của bạn khi bạn nghiên cứu công việc của Ashram (cộng đồng tu học) và nhóm tương quan lẫn nhau. Chỉ có người cân bằng mới có thể thật sự đáp ứng được nhu cầu của những người tin tưởng anh ta giảng dạy và có thể quản lý được với minh triết hai dòng của mãnh lực tổng hợp được hợp lại trong mỗi quá trình giảng dạy. Hai dòng này [Trang 178] là năm dòng năng lượng tạo nên thiết bị của người thầy giáo và những gì tạo nên thiết bị của người được dạy (người học). (NĐTTKNM/ DINA I 177)
+ Một trong những điều thú vị cần lưu ý (khi một người nghiên cứu khuynh hướng cung của bạn) đó là tất cả ba thể thấp của bạn ở trên dòng 1- 3- 5- 7, nhưng cung phàm ngã của bạn thuộc cung 6, trên dòng 2- 4- 6. Tại sao nó lại như vậy? Lý do đó là sự điều khiển của linh hồn bạn trong kiếp sống này có đủ quyền lực để gợi lên một phản ứng trên tất cả ba thể thấp của phàm ngã, và cung phụ thứ 6 của những cung thống trị của ba thể đó hoạt động tích cực đến nỗi nó trở thành một nhân tố chủ yếu. Vì thế bạn có một cung sáu phàm ngã. (NĐTTKNM/ DINA I 428)
I. Tìm Dụng thần tứ trụ/ Bát Tự: Là ngũ hành làm cân bằng mệnh Tứ trụ. Nó rất quan trọng trong số mệnh của con người.
Dụng thần là yếu tố quan trọng nhất trong lá số, ví như bệnh nặng có thuốc đặc trị vậy. Biết được Dụng thần và ứng dụng trong đời sống tu hành sửa mệnh rất tốt, là vì biết được điểm mạnh, năng khiếu của mình cũng như điểm yếu cần khắc phục, đặc biệt là Tâm tính, nhân cách, cách suy nghĩ và hành động cực kỳ quan trọng trong việc cải mệnh. Như người xưa nói "Dụng nhân như dụng mộc".
Dụng thần có nhiều đẳng cấp:
1- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy.
2- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại khống chế khí xấu vượng trong mệnh.
3- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại giúp cân bằng âm dương trong Mệnh
4- Dụng giúp liên thông 2 ngũ hành thiếu hoặc mất cân bằng khí vượng suy, lại giúp cân bằng âm dương trong Mệnh và thêm cân bằng nóng lạnh trong Mệnh
Tóm lại: Dụng thần đơn năng và dụng thần đa năng, giúp Mệnh lưu thông, hòa hợp âm dương, điều hòa nóng lạnh quá mức, có tình nghĩa là đẳng cấp cao nhất, cũng là Mệnh phú quý phát phúc nhất.
II. Ứng dụng Dụng thần vào đời sống
a/ Dụng thần là Mộc: Cũng cần xác định rõ (Âm dương hay Giáp/ Ất/ Dần/ Mão) để ứng dụng trong đời sống
b/ Dụng thần là Hỏa: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Bính/ Đinh/ Tị/ Ngọ) để ứng dụng trong đời sống
c/ Dụng thần là Thổ: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Mậu/ Kỷ/ Thìn/ Tuất/ Sửu/ Mùi) để ứng dụng trong đời sống
d/ Dụng thần là Kim: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Canh/ Tân/ Thân/ Dậu) để ứng dụng trong đời sống
e/ Dụng thần là Thủy: Cũng cần phân biệt rõ (Âm dương hay Nhâm/ Quí/ Hợi/ Tý) để ứng dụng trong đời sống
III- Dụng thần với Phong thủy nhà ở và văn phòng:
Ứng dụng Dụng thần giúp phát huy năng lượng dụng thần thuộc Nhân Mệnh mỗi người, đạt được âm dương/ Trong ngoài có khí chất hòa hợp, tương sinh thì còn gì bằng.
+ Trình độ Thầy theo kiến thức và khả năng truyền dạy
1) Có kiến thức, có giới (Là Người quân tử)
2) Có kiến thức, có giới, nhưng không có đa văn - Khó mà thuyết giảng;
3) Có kiến thức, có giới, có đa văn nhưng không thể thuyết giảng (Có nhân chưa đủ Duyên);
4) Có kiến thức, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp (Hội tụ đủ Nhân Duyên)
+ Đức Văn minh Đại đế (Mahachohan): Vị Trưởng của nhóm ba là Đức Văn minh Đại đế. Ngài bao gồm Phương diện Thông tuệ của thiên tính. Ngài còn có danh hiệu là vị Chúa của Văn minh. Ngài vận dụng nguồn bác ái thông tuệ và có trách nhiệm điều hành việc thực hiện Thiên cơ.
Tất cả mọi người đều rốt cuộc sẽ đi vào một trong Ba Ngành này của Huyền giai.
Vì thế, ba Đấng cao cả này đại diện cho Ý chí, Bác ái, và Thông tuệ. Ba Đấng này hợp tác hết sức chặt chẽ và hợp nhất với nhau, và mọi bước tiến hoặc kế hoạch ảnh hưởng đến nhân loại, các giới khác trong thiên nhiên và cả hành tinh này, đều được các Ngài quản trị. Các Ngài là đại diện thực hiện Chủ đích Hành tinh, để mang lại tình thương và những mối liên giao chính đáng của con người, và để đẩy nhanh cuộc tiến hóa của nhân loại qua việc thực hiện Thiên cơ. (Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Đức Văn Minh Bồ Tát/ Đại Đế (Lord of Civilisation, Mahachohan, Cho-Khan Thư của Ch. S. 57): Vị Lãnh Đạo của nhóm ba là Đức Mahachohan. Việc cai quản của Ngài đối với nhóm này kéo dài lâu hơn hai vị Huynh trưởng của Ngài. Ngài có thể giữ chức vụ này trong thời hạn nhiều căn chủng. Ngài là toàn bộ trạng thái thông tuệ. Đức Mahachohan hiện nay không phải là Đức đầu tiên giữ chức vụ này lúc thành lập Thánh Đoàn vào thời Lemuria – lúc bấy giờ, chức này được nắm giữ bởi một trong các vị Kumara hay Hỏa Tinh Quân (Lords of the Flame) đã lâm phàm cùng với Đức Sanat Kumara – mà Ngài đã giữ ngôi vị này trong chi chủng thứ hai của căn chủng Ắt lăng. Ngài đạt đến quả vị Chân Sư (Adeptship) trên dãy nguyệt cầu, và chính qua trung gian của Ngài mà một số lớn nhân loại tiến bộ hiện nay đã lâm phàm vào giữa căn chủng Ắt lăng. Liên hệ nghiệp quả giữa họ với Ngài là một trong những nguyên nhân xảy ra trước khiến cho việc này xảy tới sau. Công việc của Ngài liên hệ tới việc bảo dưỡng và củng cố mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất, giữa sự sống với sắc tướng, giữa ngã với phi ngã, đưa tới kết quả tạo ra cái mà chúng ta gọi là văn minh. Ngài vận dụng các lực của thiên nhiên, và phần lớn là các nguồn phát ra điện năng như chúng ta biết. Ngài là phản ánh của Ngôi Ba hay Ngôi Sáng Tạo, nên năng lượng từ Hành Tinh Thượng Đế lưu chuyển đến Ngài từ trung tâm lực cổ họng, và chính Ngài, bằng nhiều cách, làm cho công việc của các Huynh trưởng Ngài được thành toàn. Các kế hoạch và ý muốn của các Vị này được chuyển qua Ngài và thông qua Ngài, các giáo huấn đến được một số lớn các vị thừa hành thuộc giới thiên thần. (ĐĐNLVTD, 45)
+ Đức Văn Minh Bồ Tát: Công việc của Đức Văn Minh Bồ Tát cũng có thể được nhìn thấy với hiệu quả là các devas của hỏa xà đang được tạo ra trên con người ..... luồng hỏa này chịu trách nhiệm cho phản ứng chống lại sự phối hợp thể chất (physical marriage) và cho ước muốn hiện rõ của những người tiến hóa cao ở mọi nơi để né tránh liên hệ hôn nhân, và giới hạn chính họ vào việc sáng tạo trên cõi trí hoặc cõi cảm dục. Điều này là do khuynh hướng hiện tại của các thiên thần điều khiển của các cơ quan sinh sản hạ đẳng muốn tìm bí huyệt cổ họng và hoạt động ở đó, vận dụng sức mạnh của luồng hỏa xà để tạo ra việc đó. Mọi điều này đều ở dưới luật tiến hóa, nhưng trong thời gian chuyển tiếp giữa nhân với quả được biện minh, nhiều tổn hại, né tránh thiên luật, tất nhiên là gây đau khổ có thể được nhìn thấy. ...
Sự lơ là (laxness) trong liên hệ hôn nhân, do mối nguyên nhân đặc biệt này, chỉ được nhìn thấy trong số những người tiến hóa cao và trong số các tư tưởng gia độc lập của nhân loại. Sự lơ là tương tự ở trong quần chúng và các hạng người thấp kém của nhân loại, được dựa vào một lý do khác, và quan hệ bừa bãi (promiscuity) của họ là do một vài phát triển của bản chất con vật trong biểu lộ thấp nhất của nó. Hai nguyên nhân này sẽ chịu sự duyệt xét của những người có nhu cầu hiện tại của nền văn minh đích thực. Lúc bấy giờ họ có thể hợp tác với Đức Mahachohan trong công việc để thực hiện sự chuyển tiếp thần lực rất cần thiết từ một trung tâm thấp đến một trung tâm cao, và ngăn chận (nhờ sự hiểu biết) sự phóng túng có thể xảy ra. Điều này sẽ mang lại việc khước từ làm hoen ố tình thương cao cả hay là sự thôi thúc về phái tính đối với thiên nhiên.
Cung nghi lễ thường được gọi là “nghi thức hôn phối của Con”, bởi vì Tinh thần và vật chất có thể đáp ứng và hợp nhất trên cung này. Sự kiện này cũng sẽ được ghi nhớ trong một trăm năm tới đây, vì chúng sẽ chứng kiến các thay đổi lớn trong các luật hôn nhân. (LVLCK, Tr 909)
+ Hay Cười - Hay Khóc: ... Trước đây tôi đã nói qua rằng: Ngồi ở đâu cũng đừng lay động đầu gối. Đứng ở đâu cũng không rung quần. Khi mừng chớ cười to như phát cuồng. Lúc nổi giận cũng không cao giọng gào thét. Cho nên gọi là: Nghĩ trước nói sau, vui rồi thì cười, phải nghĩa mới lấy, đến đâu cũng đều nghĩ về người khác, chứ không nghĩ cho cá nhân mình. Cho nên người học Phật, thứ nhất là phải giữ giới luật. Vì sao ai đó có thể không khóc, không cười? Không khóc, không cười tức là có định lực. Người không có định lực mới khóc, mới cười. Quý vị có được định lực thì mới có trí tuệ. Quý vị không có định lực, tức là quý vị không có giữ giới. Quý vị nói mình có trí tuệ, nhưng lại không dùng được chút nào (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tám gió - Gió nghiệp - Khổ đau cũng là một loại gió:
Sao gọi là tám gió. Tức là xưng/ Khen - kỵ/ Chê - khổ - lạc - lợi/Vinh - suy/ Nhục - đắc - thất.
1. Xưng/ Khen nghĩa là xưng tán, tán thán, ca tụng - KHEN. "A ! Đạo hữu thật là Phật tử chân chính, lại hiểu rõ Phật pháp, có trí huệ, cũng rất thông minh, biện tài vô ngại !" Đó là xưng tán chư vị
2. Kỵ/ Đố kị/ Chê nghĩa là kỵ phúng, khiển trách, chỉ trích - CHÊ BAI. "Sao đạo hữu lại học Phật pháp. Hiện tại là thời đại khoa học. Học những lời cổ xưa cả mười tám đời, thật không có ý nghĩa gì hết. Hãy suy nghĩ kỹ. Thời đại khoa học sao lại học Phật pháp, nhân nhân quả quả, vô nhân vô ngã. Trong thời đại khoa học, mình là mình và người lại là người." Đó là lời kỵ phúng (chê bai).
3. Khổ - KHỔ ĐAU cũng là một loại gió.
4. Lạc tức là an lạc - HẠNH PHÚC, sung sướng. Ăn ngon, mặc đẹp, ở sang trọng, ngày ngày đều sung sướng an lạc. Việc gì cũng mong tốt đẹp hết. Đó là một loại gió.
5. Vinh tức là lợi ích, danh vọng - DANH THƠM. "Tôi tu hành rất khổ cực. Tôi cũng không khởi vọng tưởng, lại có người cúng dường cả chục ngàn đồng để giúp tôi xây chùa, nên tâm tôi rất vui vẻ".
6. Nhục là suy bại, không danh vọng - TIẾNG XẤU. Có người muốn phá hoại, nói :" Hòa Thượng kia không tốt. Việc gì thầy cũng làm. Chớ nên tin tưởng thầy đó. Tốt nhất là hãy tin tôi."
7. Lợi/ Đắc/ Được nghĩa là lợi dưỡng ĐƯỢC.
8. Hại/ Thất/ Mất tức là không lợi dưỡng - MẤT.
Chúng đều là gió cả. Gió mưa tám hướng mà không khinh sợ thì tám gió thổi đến cũng không động.
"Quyện chi tắc thối tạng ư mật, (cuộn lại giữ gìn trong bí mật)".
Bộ kinh này phải nên để nơi thanh tịnh, không nên để nơi bất kính. Chư vị phải tôn kính bộ kinh này.
"Phóng chi tắc di lục giáp trung, (mở ra chấn động khắp thế gian)".
Một khi mở kinh ra thì trí huệ Bát Nhã phóng quang đầy khắp sáu phương (tức đông tây nam bắc và trên dưới). Chư vị có thấy pháp môn Bát Nhã vi diệu lắm không. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kinh Tám ngọn gió đức Phật dậy
1. Được và Mất (Làbha và Alàbha)
Được và mất, hay nói cách khác, lợi lộc và lỗ lãi. Dĩ nhiên, khi được lợi thì người ta thỏa thích, vui mừng. Nhưng đến khi lỗ lã thì phiền não bắt đầu khởi phát. Nhiều trường hợp lỗ lã quan trọng làm cho người ta loạn trí, lắm khi đưa đến cảnh quyên sinh mạng sống, nếu không còn chịu đựng được nữa. Chính trong những hoàn cảnh tương tợ, ta phải biểu dương tinh thần dũng cảm và giữ tâm bình thản, không để quá chao động. Trong lúc vật lộn với đời sống, tất cả mọi người đều phải gặp những lúc thăng, lúc trầm, và chúng ta phải sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng đối phó, nhất là trong nghịch cảnh.
Mất một vật gì, tất nhiên ta cảm thấy buồn. Nhưng chính cái buồn ấy không giúp ta tìm lại được vật đã mất. Ta phải nghĩ rằng ai đó có thể hưởng vật kia, mặc dầu họ hưởng một cách bất chánh. Ước mong người ấy được vui vẻ, an lành và hạnh phúc. Hoặc giả ta có thể tự an ủi: "Đây chỉ là một mất mát nhỏ nhen, không quan trọng." Hoặc giả ta có thể chấp nhận một thái độ triết lý cao thượng: "Không có gì là 'Ta', không có cái gì là 'Của Ta'".
Ta phải dũng cảm chịu đựng những lỗ lã, thua thiệt, mất mát. Phải đương đầu với nó, và như câu "họa vô đơn chí" diễn tả, nó có thể đến một cách đột ngột, từng đoàn, từng đám đông, chớ không đơn độc. Ta phải điềm tĩnh đối phó, với tâm Xả (upekkhà) hoàn toàn, và nghĩ rằng: đây là cơ hội vàng ngọc để thực hành đức tánh Xả ly cao thượng nầy.
2. Danh tiếng: Danh Thơm và Tiếng Xấu (Yasa và Ayasa)
Danh thơm và tiếng xấu là cặp thăng trầm khác mà ta phải đối phó hàng ngày.
Danh thơm, chúng ta hoan hỷ đón mừng. Tiếng xấu thì chúng ta không thích. Danh thơm làm phấn khởi tinh thần. Tiếng xấu làm cho ta phiền muộn, khổ đau. Chúng ta thích được trứ danh...
Thật ra, chúng ta không cần chạy theo danh thơm, tiếng tốt. Nếu ta xứng đáng, ắt nó sẽ đến mà không cần tìm. Khi hoa đượm mật đầy đủ thì ong, bướm sẽ đến. Hoa không cần mời ong, hay mời bướm.
Còn tiếng xấu thì sao? Chúng ta không thích nghe, hay nghĩ đến. Chắc chắn là khi những lời nói xấu lọt vào tai, nó sẽ làm cho tâm ta bàng hoàng, khó chịu. Nỗi khổ tâm càng sâu đậm hơn, nếu những lời gọi là tường thuật hay báo cáo ấy tỏ ra bất công và hoàn toàn sai lạc.....
3. Ca Tụng và Khiển Trách (Pasamsà và Nindà)
Được ca tụng và bị khiển trách là hai hoàn cảnh thăng trầm khác, hằng ảnh hưởng đến nhân loại. Lẽ dĩ nhiên, khi được ca tụng thì ta nở mặt nở mày, hân hoan thỏa thích. Lúc bị khiển trách thì tinh thần suy sụp, ủ dột buồn rầu. Đức Phật dạy rằng giữa những lời ca tụng hay khiển trách, bậc thiện trí không thỏa thích, cũng không ủ dột ưu phiền, mà tựa hồ như tảng đá vững chắc, không lay chuyển dưới cơn bão táp phong ba của đời sống. Nếu chúng ta xứng đáng, những lời khen tặng quả thật êm tai. Nhưng nếu ta không xứng đáng, như trường hợp có người nịnh bợ, thì những lời ấy dù có êm tai, cũng sẽ làm cho ta thất vọng, và là một tai hại....
Kẻ si mê lầm lạc chỉ tìm cái xấu, cái hư của người khác mà không nhìn cái tốt cái đẹp của ai....
Nguyền rủa, chửi mắng là chuyện thường tình. Càng hoạt động, càng phục vụ, chúng ta càng trở nên trưởng thành hơn, và càng phải chịu vu oan, nói xấu, phỉ báng nhiều hơn.
4. Hạnh Phúc và Đau Khổ (Sukha và Dukkha)
Hạnh phúc và đau khổ là cặp thăng trầm cuối cùng. Nó cũng có nhiều năng lực nhất, ảnh hưởng đến đời sống nhân loại.
Điều gì làm được dễ dàng là hạnh phúc. Cái gì khó chịu đựng là đau khổ. Thông thường, thỏa mãn điều mong ước là hạnh phúc. Nhưng, liền khi vừa đạt được điều mong ước ấy, ta đã ước mong một loại hạnh phúc khác. Phần đông chúng ta thỏa thích trong sự thọ hưởng những lạc thú của đời sống. Nhưng cũng có hạng người thỏa thích trong sự từ khước, buông bỏ các lạc thú ấy. Không luyến ái, hay vượt lên trên mọi khoái lạc vật chất, là hạnh phúc đối với người đạo đức. Hạnh phúc Niết Bàn -- tức trạng thái thoát ra khỏi mọi đau khổ -- là hình thức hạnh phúc cao thượng nhất.
Chúng ta vui vẻ đón mừng hạnh phúc. Nhưng đau khổ thì không được niềm nở tiếp nhận. Đau đớn (vật chất) và phiền muộn (tinh thần) đến với ta dưới nhiều hình thức. Chúng ta đau khổ khi phải chịu bệnh hoạn, già yếu, đó là lẽ tự nhiên. Phải điềm tĩnh chịu đựng những khổ đau đó.
Lắm khi chúng ta phải xa lìa thân bằng, quyến thuộc. Cảnh biệt ly vô cùng đau khổ. Chúng ta phải nhận thức rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt trong cảnh biệt ly. Đó là luật Vô thường, và đây là cơ hội quý báu để ta thực hành tâm Xả....... (Nguồn: Tám Pháp Thế Gian)
+ 106. CHÚNG SANH BỊ XOAY CHUYỂN THEO TÁM PHÁP
Có tám pháp thế gian theo đó chúng sanh xoay chuyển. Những gì là tám? 1. lợi/ Được, 2. hại/ Mất, 3. vinh, 4. nhục, 5. khen, 6.chê, 7. Khổ, 8. Lạc. Tỳ-kheo, đó là có tám pháp mà thế gian theo đó xoay chuyển. Các Tỳ-kheo, hãy nên tìm cầu phương tiện trừ tám pháp này.
Như Lai xuất hiện thế gian, lại thành Phật đạo ở thế gian, nhưng không bị tám pháp thế gian lôi cuốn. Giống như hoa sen sinh ra từ bùn lầy, hết sức tươi sạch, không nhiễm nước bùn, được chư thiên yêu kính, ai thấy đều vui vẻ trong lòng. Như Lai cũng lại như vậy, được sanh từ bào thai, ở trong đó được nuôi lớn, được thành thân Phật. Cũng ngọc lưu-ly là loại báu làm sạch nước, không bị bụi nhơ làm nhiễm; Như Lai cũng lại như vậy, cũng sanh ở thế gian, không bị tám pháp thế gian nhiễm đắm. Cho nên, Tỳ-kheo, hãy nên tinh tấn tu hành tám pháp. (Tăng Nhất A Hàm, Tám Pháp, 43. Phẩm Thiên Tử Mã Huyết Hỏi tám Chính, Kinh số 8-9)
+ Xem thêm về tám ngọn gió: Tám pháp thế gian
+ Poseidonis: Đảo cuối cùng của Châu Atlantis bị chìm xuống biển cách đây 11.446 năm. (Thư của Ch. S.- Bức thư 93B, tức ML 23B tháng 10-1882)
+ Pradhna :
1- Trạng thái hiện tồn thuần túy tinh thần (state or pure spiritual being).
2- Chất liệu nguyên thủy không thể dung giải (unresovable primary substance), vật chất kết hợp với tinh thần, chưa bị biến phân, vẫn chưa có sắc tướng hoặc dấu hiệu phân biệt (distinguishing mark). (ASCLH, 99)
+ Akasha (tiên thiên khí) là Pradhna (Hồng Mông nhất khí) dưới một dạng thức khác.
Mahat (Toàn Linh Trí) là sản phẩm đầu tiên (first product) của Pradhna. (GLBN I, 300–301)
+ Đó là tâm Đại Từ Bi.
Đại Từ Bi Tâm chính là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Lòng “từ” có thể ban vui, tâm “bi” có thể cứu khổ; do đó nếu quý vị có được lòng từ bi bao la, rộng lớn thì đó chính là Chú Đại Bi vậy. Quý vị đã nghe rõ cả chưa? Đại Bi Tâm chính là Đại Bi Chú, Đại Bi Chú chính là Đại Bi Tâm. Quý vị có tâm Đại Bi tức là quý vị đang niệm Chú Đại Bi; nếu quý vị không có tâm Đại Bi tức là quý vị chưa niệm Chú Đại Bi vậy!
Hằng ngày, cho dù từ sáng đến tối quý vị luôn lầm rầm tụng niệm: “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da…,” nhưng nếu quý vị không có lòng đại từ đại bi thì đó không phải là niệm Chú Đại Bi. Trái lại, nếu quý vị chẳng hề niệm Chú Đại Bi, song thâm tâm lúc nào cũng tồn giữ tấm lòng đại từ đại bi, thì đó chính là quý vị đang trì niệm Chú Đại Bi vậy! Quý vị hiểu rõ cả rồi chứ? Cho nên, song song với việc niệm Chú, quý vị cần phải nuôi dưỡng cái tâm Đại Từ Bi nữa, như thế mới là chân chánh niệm Chú! (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng về Chú Đại Bi)
* Phát tâm đại bi: Thương xót hết thảy chúng sinh, chịu vô lượng khổ não trong vòng luân hồi sinh tử, thệ nguyện cứu vớt họ.
+ Tâm Đại Từ Bi: Tương ứng luân xa số 4. Thọ trì Chú Đại Bi thì luân xa số 4 phát triển mạnh mẽ, tỏa ra Hào quang từ đây.(Nguồn: Giảng Chú Đại Bi: Xem Thầy Hằng Trường giảng)
III- Đại Từ Đại Bi: Tâm từ bi rộng lớn của chư Phật, Bồ tát cứu độ tất cả chúng sinh.
- Luận Đại trí độ quyển 27 nói: Đại từ là ban vui cho tất cả chúng sinh, Đại bi là cứu khổ cho tất cả chúng sinh.
- Kinh Quán vô lượng thọ (Đại 12, 343 hạ), nói: Tâm Phật là đại từ bi. Phật đem tâm đại từ bi vô duyên nhiếp thụ tất cả chúng sinh.
- Luận Đại trí độ quyển 27 (Đại 25, 256 trung), nói: Đại từ của Bồ tát đối với Phật là nhỏ, đối với Nhị thừa là lớn, nên tạm gọi là đại. Đại từ đại bi của Phật mới thực là đại. [X. luận Phật địa Q.5]. (xt. Từ Bi).
* Đức từ bi rộng lớn, những đặc tính của chư Phật và chư Bồ Tát; ban vui cứu khổ. Đặc biệt ám chỉ Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát.( Xem nguồn)
+ 'Đại từ bi!' Đây là tâm từ bi không phân biệt, dành cho ngay cả những ai không có duyên với mình. Đó là lòng từ rộng khắp, lòng từ bi đối với mọi chúng sinh. Với tâm đồng thể đại bi, các ngài sẽ giúp chúng sinh nhổ sạch mọi loại khổ đau và ban cho họ nhiều niềm vui cao tột. Các ngài giúp cho chúng sinh nhận ra mặt mũi của mình khi cha mẹ chưa sinh ra.[136] Đó được gọi là:
Đại bi dành cho những chúng sinh không có duyên.
Đại từ dành cho những chúng sinh có cùng thể tánh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ 5- NGHI NGỜ - NGHI HOẶC
- Không phân biệt được Pháp lành giữ, không có tín tâm và khả năng thực hành giáo lý lên nghi ngờ (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ 16. KINH TÂM HOANG VU (Cetokhila Sutta)
Thế Tôn thuyết giảng như sau:
-- Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu, chưa đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này không xảy ra. Thế nào là năm tâm hoang vu chưa được đoạn trừ?
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nghi ngờ bậc Ðạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ bậc Ðạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ hai chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Tăng, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ ba chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ các học pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì; tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phẫn nộ đối với các đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn, thời tâm của vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm chưa được diệt trừ.
Như vậy là năm tâm hoang vu chưa được diệt trừ.
Thế nào là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, đối với những dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào đối với những dục, không phải không tham ái... không phải không khát ái, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất chưa được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không phải không tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai chưa được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không phải không tham ái ... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ ba chưa được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái lạc về sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thụy miên. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thê cho đến bụng chứa đầy... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư chưa được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh với mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ:
"Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ năm chưa được đoạn tận.
Như vậy là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu này, chưa đoạn tận năm tâm triền phược này, vị ấy có thể lớn mạnh trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này không xảy ra.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã diệt trừ năm tâm hoang vu, đã đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này có xảy ra.
Thế nào là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo không nghi ngờ bậc Ðạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ bậc Ðạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất đã được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ hai đã được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Tăng, không do dự, quyết đoán, tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ ba đã được diệt trừ.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ học pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư đã được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm đã được diệt trừ.
Như vậy là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ.
Thế nào là năm tâm triền phược đã được đoạn tận?
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái, tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất đã được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai đã được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ ba đã được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống không thiên nặng về khoái lạc sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghĩ, khoái lạc về thụy miên... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư đã được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác", tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ năm đã được đoạn tận.
Như vậy là năm tâm triền phược đã được đoạn tận.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã đoạn tận năm tâm triền phược này, thời vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này có xảy ra.
Vị này tu tập như ý túc câu hữu với dục Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tâm Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tư duy Thiền định; và tinh cần hành với nỗ lực là thứ năm.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đầy đủ mười lăm pháp kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn khỏi các ách phược.
Chư Tỷ-kheo, như có khoảng tám, mười hay mười hai cái trứng của con gà mái, những trứng này được con gà mái khéo ấp, ngồi lên trên, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng, thời dầu cho con gà mái không khởi lên sự mong ước: "Mong rằng những con gà con của ta, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng, hay với mỏ của chúng, có thể thoát ra một cách yên ổn", những con gà con ấy, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng hay với mỏ của chúng, có khả năng thoát ra một cách yên ổn. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Tỷ-kheo đầy đủ mười lăm pháp, kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn khỏi các ách phược.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn. (Nguồn: 16. Kinh Tâm Hoang Vu)
+ Nghi hoặc: .... Bèn thấy đại Bồ Tát Di Lặc từ nơi khác đến, có vô lượng chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, .............. Thiện Tài thấy rồi, hoan hỉ hớn hở, năm thể sát đất.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc quán sát Thiện Tài, chỉ thị đại chúng, khen ngợi công đức của Thiện Tài, mà nói kệ rằng: Tr 233
Sinh tâm nghi hoặc, thì sẽ ở trong sương mù, không biết được phương hướng, tìm chẳng được con đường chân chánh. Phải tin tam tạng mười hai bộ, lời nói hành động phải phải căn cứ nơi tam tạng Kinh điển, không đi trật đường, đó mới là bản sắc của người tu đạo ... Tr269
Nếu ai nghe pháp nầy
Mà sinh tâm thệ nguyện
Nên biết người như vậy
Đã được lợi rộng lớn. Tr 271
Sáu mươi ba bài kệ ở trên là khen ngợi Thiện Tài (Di Lặc BT khen).
Hai mươi sáu bài kệ trước là khen quả đức, bảy bài kệ kế tiếp là khen hiện đức, tám bài kệ kế tiếp là khen gặp hữu đức, năm bài kệ kế tiếp là khen sớm thành bậc hạnh đức, bảy bài kệ cuối là tổng minh các đức. (Nguồn: Tr274 - T24. Kinh Hoa Nghiêm)
+ Cá tính - Tánh xấu của mỗi loài chúng sinh
... Hoặc người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa lòng giận.
Giận hờn là gì? Chính là nổi nóng, chính là phiền não, cũng là vô minh. Giận hờn lợi hại giống như lửa vậy.
Ấy là: "Một đốm lửa giận, có thể đốt tiêu cả rừng công đức."
Người xưa cũng nói: "Ngàn ngày gánh củi một mồi lửa."
Ý nói quý vị đốn củi một ngàn ngày chỉ cần một đốm lửa châm vào có thể đốt cháy sạch. Ðó là hình dung bình thường chúng ta tích tạo bao công đức thiện nghiệp, dù tu hành bao lâu mà một khi quý vị nổi cáu lên, phừng lửa vô minh, thì bao nhiêu công đức tích tụ được đều đốt sạch cả. Hạng người nào thích nổi lửa vô minh thế? Chính là A-tu-la đấy.
Mỗi cá nhân đều có một xu hướng riêng.
- Người thuộc Phật đạo, tính cách đa số là từ bi;
- Người thuộc Tiên đạo thì ưa thích thanh nhàn,
- Người thuộc Nhân đạo thì đều có nhân duyên với mọi người;
- Người thuộc Quỷ đạo thì tánh hay giảo hoạt, không muốn thua thiệt, là người không thành thật, lén lén lút lút, và cũng giống như quỷ La-sát đã nói ở trước, đều có ý "muốn đến hại người."
- Người thuộc Súc sanh đạo thì nặng về tham dục, bất luận thứ gì họ đều không sợ nhiều, càng nhiều càng tốt, tham mãi không chán.
- Người thuộc A Tu-la đạo thì hay phát cáu, những người này hễ động đến thì nổi giận ngay, cáu gắt om sòm.
Những người như thế thì phải làm sao? Có cách gì có thể sửa đổi được? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã đem pháp môn này dạy bảo cho quý vị kỹ càng, đó là phải thường niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Hơn nữa, phải tiếp tục luôn luôn không gián đoạn.
"Thường" nghĩa là không dứt. Mỗi khi lên chùa, gặp chỗ nào có thờ Phật, hoặc thờ Bồ Tát Quán Thế Âm thì phải cung kính cúi đầu đảnh lễ. Cũng không nên hôm nay lạy, rồi ngày mai không lạy; sáng nay đảnh lễ, chiều tối lại không đảnh lễ. Nếu chịu kiền thành hằng thường kính lễ chư Phật Bồ-tát, lâu dần rồi bịnh nổi cáu ấy sẽ không còn nữa, mà chính mình cũng không biết vì sao? Nếu quý vị không tin, tôi sẽ đem kinh nghiệm của chính mình nói cho quý vị nghe. Tôi trước kia là người rất dễ nổi giận, hễ nói đánh là đánh, nói mắng là mắng ngay. Năm tôi 12, 13 tuổi rất thích đánh nhau. Bất luận là người lớn bao nhiêu, đến với tôi thì phải nghe tôi chỉ huy, nếu không nghe tôi chỉ huy thì tôi đánh! Dù chết cũng phải đánh, đánh đến chừng nào chịu hàng phục mới thôi. Thế gọi là gì? Ðó chính là một thứ hành động của A-tu-la. Về sau tôi học Phật, mới biết thói giận bướng như thế là không tốt, phải cải hóa tự tân mới được, nên thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho nên bây giờ làm sư phụ, tôi phải tu hạnh nhẫn nhục. Có lúc đồ đệ đến hiếp đáp, trước hết tôi nổi cáu, nhưng rồi nhỏ nhẹ ôn hòa, nhẫn nhục cho đến khi người ấy từ từ hiểu ra, tự nhận biết lỗi mình. Vì trước đây tôi chọc người khác giận nên bây giờ tôi bị đệ tử đến hiếp đáp. Có thể nói đây là một thứ quả báo! Có người hỏi: "Ðồ đệ nào dám hiếp đáp thầy vậy?" Người nào hiếp đáp tôi thì người đó tự biết. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đạo làm người: Có nhiều pháp giảng về các đức hạnh của đạo làm người
- Theo Nho đạo/ Khổng Tử ...: Ngũ luân - Ngũ thường/ Bát đức. Tương ưng với Đạo
- Đạo lý làm người cơ bản: Theo HT Tuyên Hóa thì lục đại tông chỉ là một cách mô tả đạo lý cơ bản làm người, gồm KHÔNG: Tranh/ Tham/ Cầu/ Ích kỷ/ Tự lợi/ Nói dối. Có được các hạnh này cũng tức là đã trì giới. Giữ được giới là có được cái gốc để phát triển trí tuệ (Giới - Định - Tuệ). Kết hợp với bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định mà đắc được trí huệ. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr123 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Theo Phật giáo: Thập thiện là đạo làm người cao sâu rộng hơn cả. Giản lược với người tu tại gia là giữ ngũ giới.
+ Đạo làm người qua Luân Thường Đạo Lý (Hai cách nói)
Ngũ Luân: Năm đạo lý tôn trọng lẫn nhau gồm Vua Thần - Cha con - Vợ chồng - Anh em - Bằng hữu.
Ngũ Thường: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín
* Cách nói khác: Tám đức ở Trung Quốc có hai cách nói, hai cách nói trừ đi những cái giống nhau trong đó còn lại 12 chữ. “Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, Nhân, Ái, Hòa, Bình”.
Hoặc nói 12 chữ: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ; cùng với Nhân, Nghĩa, Đạo và Đức. Đó là căn bản của con người.
=> 12 chữ này là hoàn toàn tương ưng với đạo, tương ưng với nguyên tắc của tự nhiên. Không có nó - Thế giới liền loạn thôi, bạn sẽ khổ.
* Khi gia đình và xã hội sống đúng Đạo, thì vạn sự theo Đạo chẳng cần nhắc đến. Nhưng khi bất hòa phát sinh mới nói đến chữ hiếu - Đạo nghĩa - Trung thần ... Đạo lý trong đoạn kinh nầy cũng giống như điều của Lão Tử muốn nói. Nếu chỉ có một yếu tố, thì sẽ không có gì trở nên hỗn trược. Nhưng vì chúng kết hợp với nhau và hình thành một khối, nên hư vọng sanh khởi. Điều nầy chứng minh rằng trong mọi pháp, đều có cái chân cái nguỵ, cái giả cái thật. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Năm đức tính của con người quân tử theo Đạo đời:
1. Nhân: Nhân (trong "nhân hậu")
2. Nghĩa: Nghĩa (trong "chính nghĩa")
3. Lễ: Lễ (trong "lễ phép")
4. Trí: Trí (trong "trí tuệ")
5. Tín: Tín (trong "uy tín")
Mất nhân cách: Còn như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là không phải người
Người nào phạm 5 điều này thì đời sau không làm được thân người. Chúng ta làm được năm điều này thì lương tâm không có hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người. Chúng ta xem những người này trong xã hội ngày nay, lại so với mình, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm mình, tự mình có làm được hay không? Tự mình đời sau có được thân người không? Nếu như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì đời sau nhất định đọa trong ba đường ác. (Nguồn: Ba Phúc Hiếu - Phụng sự Sư trưởng - Hành thập thiện)
+ Bàn về chữ Đạo: Đạo vũ trụ, đạo trời, đạo đất và đạo người, ngài Mạnh Tử có cuốn sách Đạo Đức Kinh rất tuyệt diệu. Xin mời xem đầy đủ về chữ Đạo tại: Đạo Đức Kinh của Mạnh Tử rất tuyệt đỉnh.
+ Chữ Đạo - Đạo của tự nhiên: Cái gì là đạo? Vợ chồng là đạo, cha con là đạo, anh em là đạo, bè bạn là đạo, vua tôi là đạo, (vua là người lãnh đạo, tôi là người bị lãnh đạo), đây là “ngũ luân”. Hỏi bạn năm thứ này do ai đặc ra? Là ai phát minh? Là ai quy định? Không có! Đây là nguyên tắc tự nhiên. Cho dù bạn có văn hóa hay không, người mọi rợ họ cũng có, người văn minh cũng Đạọ làm người, bạn không thể nào thoát khỏi năm cái này, cho nên năm cái này là nguyên tắc tự nhiên, đây là "đạo", đạo của tự nhiên => Đức/ Ngũ Thường: Tùy thuận theo đạo chính là "đức". Đầy đủ là 8 đức tính của con người. Trái ngược với đạo thì tai nạn sẽ đến ngay. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
+ Tâm Tính/ Đức Tính thiện lành: Căn cứ vào Tooltip "Lợi ích của người tu tập theo Thập thiện" và Bát tránh đạo để đánh giá người có các đức tính thiện lành, Tooltip "người đại thiện" theo Đức Phật dậy => Làm căn cứ dự đoán số mệnh (Nguồn: Kinh thập thiện - PS Tịnh Không giảng)
+ Đạo làm Người rất hay: Xem 28 Điều Lời Khai thị của Ấn Quang Đại Sư
+ Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau
HỎI: Tôi muốn biết mục tiêu của đời sống là gì và ngài có tin tưởng vào định mệnh hay không? Nếu có, thế thì vai trò của định mệnh trong đời sống là gì?
ĐÁP: Theo quan điểm của Phật giáo (mặc dù quan điểm của riêng tôi thì khác), đôi mắt, tâm thức, và khát vọng vượt thắng điều gì đó tất cả là một bộ phận của bản chất. Tôi nghĩ một cách thế tục, đó là câu trả lời. Chính mục tiêu của sự sống, tôi tin, là hạnh phúc. Không có gì bảo đảm trong cuộc sống, nhưng chúng ta tồn tại do bởi hy vọng. Nếu chúng ta đánh mất hy vọng thế thì điều đó sẽ làm ngắn lại sự sống của chúng ta. Sự tồn tại của chúng ta căn cứ trên hy vọng cho một tương lai tốt đẹp, không phải là một tương lai tệ hại. Từ quan điểm này, hạnh phúc là mục tiêu duy nhất cho sự sống.
- Định mệnh là cố định và chúng ta không có năng lực để thay đổi, theo những niềm tin khác nhau. Nhưng theo con đường thế tục, không có định mệnh. Những sự kiện xảy ra qua các nguyên nhân và điều kiện; thí dụ, một thân thể bệnh hoạn sẽ đưa đến một định mệnh yếu đuối. Nếu thân thể được chăm sóc, thế thì định mệnh có thể thay đổi. Vì vậy, định mệnh có thể thay đổi nếu có nổ lực thực hiện.(Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
+ Hy vọng: 1-12 Hy Vọng
1.- Có hai hy vọng này, này các Tỷ-kheo, khó được từ bỏ. Thế nào là hai? Hy vọng được lợi dưỡng và hy vọng được sống. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai hy vọng khó được từ bỏ.
2. Có hai hạng người ... khó tìm được ở đời.... Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm.
3. Có hai hạng người .... khó tìm được ở đời.... Người thỏa mãn và người làm người khác thỏa mãn.
4. Có hai hạng người ... khó làm cho thỏa mãn.... Người cất chứa các lợi dưỡng và người phung phí các lợi dưỡng.
5. Có hai hạng người ... dễ làm thỏa mãn. ... Người không cất chứa các lợi dưỡng và người không phung phí các lợi dưỡng.
6. Có hai duyên này, ... khiến tham sanh khởi. ... Tịnh tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tham sanh khởi.
7. Có hai duyên này, ... khiến sân sanh khởi. ... Chướng ngại tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến sân sanh khởi.
8. Có hai duyên này, .., khiến tà kiến sanh khởi. ... Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tà kiến sanh khởi.
9. Có hai duyên này, .. khiến chánh kiến sanh khởi. ... Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến chánh kiến sanh khởi.
10. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm . ... Tội phạm nhẹ và tội phạm nặng. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai tội phạm.
11. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm. ... Tội phạm thô trọng và tội phạm không thô trọng. ..
12. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm. ... Tội phạm có dư tàn và tội phạm không có dư tàn. ... (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
A- KIẾN THỨC CHUNG
+ Nghiệp và Thời gian là hai từ có nhiều đồng nghĩa (Chân Sư DK).
+ Lá số sinh lập theo thời gian là cơ sở để dự đoán số mệnh bằng các phương pháp khác nhau. Nếu người thầy có đủ Tâm và tầm thì dù dự đoán bằng phương pháp nào, thường đều cho kết quả như nhau, không mấy khác biệt. Người dự đoán chẳng qua là tìm thời điểm mà "Nghiệp" hay Năng lượng vũ trụ tương tác tại các thời điểm khác nhau, gây ra các kết quả khác nhau, mà người nào mà trong mệnh vận có cùng năng lượng, thì chịu tác động và gây ra các kết quả khác nhau.
+ Phân nhóm/ Loại người: Theo trình độ tiến hóa gồm Người kém phát triển/ Trung bình/ Trên trung bình - Trí nguyện/ Người tiến hóa/ Thánh nhân..(Nguồn)
+ Xem số qua sự phát triển của Tâm thức: 3 trình độ: Phàm ngã/ Linh Hồn/ Tinh Thần. Ảnh hưởng của cung hoàng đạo và hành tinh ở 3 cấp độ này - Ba Cung tối quan trọng: Mặt Trăng - Mặt Trời - Cung Mọc để ước định công việc sẽ được thực hiện trong tâm thức mỗi kiếp sống.
- Với Tâm thức: Năng lượng dẫn truyền qua các Cung Hoàng và Hành tinh và chức năng tiến hóa Tâm Thức của các Cung Hoàng Đạo với Người thường/ Chí nguyện (Đệ Tử) / Điểm Đạo Đồ, với sự chỉ dẫn của các Kỳ Công, ta có thể dự đoán.... + Các Cung Hoàng Đạo biểu hiện 3 Cấp Độ Tâm Thức (Chiêm THNM, 332)
+ Chín loại năng lượng vũ trụ, các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người; (Chiêm THNM, tr 24-26).
+ Biết vận mệnh: Nhờ môn chiêm tinh học, y có thể tìm ra vận mệnh của mình và biết những gì y nên làm. (CTHNM, 11)
+ Số phận và Định mệnh: Các ảnh hưởng của Hành tinh cho thấy, với người bình thường và kém tiến hóa, khi lý giải đúng, các ảnh hưởng đó có thể và chắc chắn báo hiệu số phận và định mệnh của phàm ngã (CTHNM, 24)
+ Các nội dung chính về xem số mệnh: - Đoán về bản thân: Xuất thân - Tướng mạo - Sức khỏe - Bệnh nạn - Đạo đức - Trí tuệ và sự tiến hóa của Tâm thức - Tiền tài, danh vọng, chức vụ .... - Đoán về gia đình: Dự đoán tham khảo về vinh nhục của dòng tốc, Sức khỏe hay nghề nghiệp, bệnh nạn hay thọ yểu của bố mẹ...... - Đoán về quan hệ gia đình và xã hội: Khả năng khôn khéo trong giao tiếp, ứng sử trong gia đình và ngoài xã hội, bàn bè thân hữu, làm việc tập thể ....
- Xem số mệnh để Cải mệnh làm cuộc sống tốt đẹp hơn: Có nhiều phương pháp để cải mệnh. Nhưng mạnh mẽ và hữu hiệu và nhiệm mầu nhất là bạn nên Tu hành theo Phật dậy. Thường thực hành Thập thiện nghiệp đạo, thực hành bố thí phóng sinh để có sức khỏe, không bệnh và sống thọ. Bố thí Pháp (Kinh Phật) và chi tiền tài để tạc tượng, đúc chuông để có trí tuệ và được làm vương giả; Bố thí tiền tài và thực phẩm, đồ ăn, thức uống, đồ dùng ... cho tăng ni phật tử và các chúng sinh để được giầu sang phú quý muôn đời.....
+ Biết trước thời điểm chết: Google đã phát triển được thuật toán trí tuệ nhân tạo (AI) có thể dự đoán chính xác tới 95% khi nào bạn sẽ chết. Họ sử dụng dữ liệu của bệnh viện để dự đoán cho bệnh nhân (Xem trên ở Google)
B- CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰ ĐOÁN SỐ MỆNH QUA LÁ SỐ SINH
+ Dự đoán về Tâm Tính/ Đức Tính thiện lành theo Phật giáo:
- Căn cứ vào Tooltip "Lợi ích của người tu tập theo Thập thiện", và
- Căn cứ vào Bát tránh đạo để đánh giá người có các đức tính thiện lành, và
- Căn cứ Tooltip "người đại thiện" theo Đức Phật dậy
=> Làm căn cứ dự đoán số mệnh (Nguồn: Kinh thập thiện)
- Căn cứ vào Tooltip "Sửa tâm tính hay Tính cách hay Nhân cách" để dự đoán hay giúp người sửa tính cách
+ Cắn Cứ Ngũ hành Âm Dương và Mười Thần trong Dự đoán Tứ trụ để suy đoán
+ căn cứ vào các Cung Mặt Trăng, Mặt Trời, Cung Mọc và các hành tinh trong Lá số Chiêm tinh để dự đoán tính cách
+ Ba loại Lá số sinh cho 3 nhóm người:
(1)- Thuần về vật chất bàn đến thể xác và Dĩ thái;
(2)- Chủ yếu về tình cảm, bàn đến tính chất của phàm-ngã và tính nhạy cảm của nó, hoặc trạng thái của ý thức;
(3)- Sẽ là biểu đồ về các xung lực và các tình trạng trí tuệ. - Nghiên cứu 3 biểu đồ này rất hữu ích, khi xếp chồng lên nhau sẽ cung cấp sơ đồ phàm-ngã, mô hình sự sống cá nhân (Chân Sư DK_CTHNM 7)
+ Là lá số vào thời điểm một người sinh ra: Nó bao gồm vị trí của các hành tinh của hệ mặt trời, mặt trời, Mặt trăng, các dấu hiệu của vòng hoàng đạo trên bầu trời. Người ta còn đưa vào lá số sinh các ngôi sao cố định, các tiểu hành tinh của hệ mặt trời như Chiron… Trên là số sinh, vòng tròn ngoài cùng chứa các cung hay dấu hiệu Hoàng Đạo, vòng tròn giữa là các nhà và các hành tinh được vẽ trong đó. Vị trí của các hành tinh (gồm cả mặt trời và Mặt trăng) được xác định so với dấu hiệu hoàng đạo.Xem mục Lá số sinh
+ Lá số Chiêm tinh/ Tử vi: Là hình ảnh của bầu trời (Các Hành Tinh, Ngôi sao) nhìn từ Trái đất, mặt hướng về Phương Nam (CTHNM1).
I- XEM QUA LÁ SỐ TỨ TRỤ (Phương pháp xem theo Công truyền/ Ngoại môn)
Lá số Tứ trụ lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì theo tiết khí - Theo Mặt trời
II- XEM QUA LÁ SỐ TỬ VI (Phương pháp xem theo Công truyền/ Ngoại môn)
Lá số Tứ trụ lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì theo theo Mặt trăng là chủ yếu.
III- XEM CHIÊM TINH QUA LÁ SỐ SINH:
+ Xem Nội môn hay Ngoại môn đề dùng chung 01 Lá số chiêm tinh, nhưng cách giải thích khác nhau (Nguồn)
+ Xem chiêm tinh có hai cách: (i) - Theo Công truyền/ Ngoại môn; (ii) Theo Bí truyền hay Nội môn. Cụ thể:
IV- CÁC PHƯƠNG THỨC XEM KHÁC: Còn nhiều cách xem số mệnh khác
+ Cung Thiên Đỉnh (Cung đang lên): Cung Hoàng đạo đang xuất hiện tại chân trời phía Đông vào thời điểm chủ thể chào đời. Cung Thiên đỉnh tác động đến đời sống xã hội và các mối quan hệ xã hội của chủ thể. Trong Lá số, các Hành tinh xuất hiện Tại hoặc Gần đường thẳng Cung thiên đỉnh tượng trưng cho sức mạnh và khả năng của chủ thể (CTH Toàn thư, 570)
- Cách xác định: Biết Vị trí địa lý là Kinh độ và Vĩ độ nơi sinh; Chuyển đổi giờ địa phương sang giờ GMT >>> Chuyển sang giờ thiên văn tại Greenwich nước Anh (Giờ thiên văn là thời gian được đo lường bằng các vì sao, nó được đo lường trong mối quan hệ với các vì sao cố định (Một ngày thiên văn ngắn hơn ngày thường 4 phút) (CTH Toàn Thư 308)
+ Thiên Định: Sau Cung Mọc Ascendant, điểm quan trọng thứ hai là độ của hoàng đạo ở đỉnh biểu đồ được gọi là Thiên Định (Midheaven) hay Medium Coeli (viết tắt là MC). Lưu ý rằng đây cũng là nóc của nhà thứ mười. Một chút kém quan trọng hơn là cusps của nhà thứ bảy và nhà thứ tư, Descendant (Dsc), và Nadir hoặc Imum Coeli (IC). Bốn điểm này tạo thành cái được gọi là các góc của lá số chiêm tinh—những điểm trọng yếu mà toàn bộ lá số có liên quan xoay quanh.(Xem nguồn: Minh triet moi - Lá số chiêm tinh)
+ Các Cung trong dự đoán số mệnh Tứ trụ - Tử vi - Chiêm tinh
1, Giải đoán cung Mệnh: Các bước phía trên (phần A, B ) đã nói rất nhiều đến những lý luận để giải đoán cung Mệnh, đồng thời những phần tính lý chung của các sao cũng hầu hết đều dùng cung Mệnh làm đại diện để mô tả tính chất của chúng....
2, Giải đoán cung Bào (Huynh đệ cung): Mối quan hệ của đương số với anh chị em trong gia đình, tình cảm có hòa hợp hay là xung khắc, có tương trợ - đoàn viên gần gũi hay phải chia lìa phân tán, khái lược về nhiều hay ít, thành đạt hay không, yểu chiết hay không, bào (cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha),… Cần xem cung Phúc cát hung để xét tăng giảm...
3, Giải đoán cung Phối (Phu Thê cung): Mối quan hệ của đương số với vợ/chồng của mình, tình duyên thuận lợi hay trắc trở, đến mau hay hay muộn, tình cảm nồng thắm hay lạnh nhạt, có được hạnh phúc hay hình khắc,… Khái lược về một số nét chính của người phối ngẫu của đương số như là người gần hay người xa tới mức dị tộc (ngoại quốc), có được thành công và tương trợ cho sự thành công của đương số sau khi kết phối hay chăng,… cung có tác động mạnh mẽ đến cuộc đời của đương số ... Ngoài ra, các Âm Dương gia còn chủ trương rằng “cô Âm bất sinh, cô Dương bất trưởng”, vợ chồng chính là cặp Âm Dương, chỉ khi kết phối và hòa hợp thì mới phát triển thịnh vượng được.
4, Luận giải cung Tử Tức: Mối quan hệ của đương số với con cái của mình, tình cảm có gắn bó thâm sâu hay không, có lạnh nhạt thờ ơ hay không, con cái có hiếu thuận với cha mẹ (tức vợ chồng đương số) hay không… cung Tử Tức cũng cho biết những thông tin để có thể dự đoán đương số có con hay không, con cái đầy đàn có trai có gái hay là hiếm muộn hay là tuyệt tự, có con trai nhiều hơn hay con gái nhiều hơn, có con dị bào hay không,…
Đối với Nữ mệnh thì Tử Tức là cường cung đã đành, đối với Nam mệnh thì Tử Tức được liệt vào số các cung nhược nhưng không nên coi nhẹ ...
5, Luận giải cung Tài Bạch: Chữ Tài nghĩa là tiền bạc, của cải, chữ Bạch nghĩa là lụa là gấm vóc, cung quan trọng vào hàng bậc nhất trên lá số, bởi vì ngoài chức năng mà nó đảm nhiệm về phương diện cung chức thì cung Tài Bạch nằm ở vị trí tam hợp vĩnh viễn với cung Mệnh nên những sao tọa thủ ở trong cung Tài Bạch có ảnh hưởng rất mạnh suốt cả cuộc đời con người ta thông qua sự hợp chiếu vào cung Mệnh. Cho ta biết hình thức thụ hưởng của cải của người ta là thuộc dạng nào, thông qua lương lậu bổng lộc, qua kinh doanh buôn bán, qua sản xuất trồng trọt, hay được thừa hưởng gia tài từ người khác… được dạy rằng, xem về giàu nghèo của đương số cần phải chú trọng xem đồng thời đến các cung Phúc Đức, Mệnh Thân và Điền Trạch.
6, Luận giải cung Tật Ách: Cho biết tổng quát khái lược về sức khỏe, bao gồm cả các Bệnh mà đương số dễ mắc phải, các Tật có thể sẽ có (ví dụ tật nói ngọng, nói lắp,… hoặc cái tính kiêu ngạo, hoặc hay nói tục chửi bậy, cũng được coi là tật xấu,.. tính táy máy tắt mắt, thích là liền nhặt lấy mang về chơi, chẳng hỏi han mượn chủ nhân gì cả => cái tật ăn cắp vặt,… là thuần túy về tật chứ không coi là bệnh), các khiếm khuyết trên cơ thể vừa thuộc Bệnh vừa thuộc Tật mà thông qua các Tai Ách (hoặc do bẩm sinh) mà đương số có thể bị như điếc, lác, mù, què,… Cung Tật Ách cũng cho biết khái lược về một số điểm thuộc tính cách của đương số (ví dụ như thích ăn diện, thích khoe khoang,…).
7, Luận Giải cung Thiên Di: Mối quan hệ của đương số với môi trường xã hội bên ngoài, từ việc đi lại lành dữ ra sao, cho đến những sự giao tiếp đối ngoại cùng người được quý trọng nâng đỡ, hay dèm pha dị nghị như thế nào,…
8, Luận giải cung Nô Bộc: Mối quan hệ của đương số đối với bạn bè, đồng nghiệp, những người trợ thủ giúp việc (đôi khi ứng vào cấp trên – thường là ứng với các sao quý nhân).
9, Luận giải cung Quan Lộc: Mối quan hệ của đương số đối với sự thành bại trong công danh sự nghiệp, công việc có được thuận lợi hay không, mức độ thăng tiến đến vị trí cỡ nào, có uy quyền ổn định hay thăng trầm, có bị truất giáng chuyển đổi gì không, khả năng chuyên môn (tức trình độ, tay nghề) là cao hay thấp, có phù hợp với đương số hay không,… gồm 2 phần Quan (sự nghiệp, công việc) và Lộc (tước lộc, bổng lộc đạt được từ công việc)...
10, Luận Giải cung Điền Trạch: Mối quan hệ của đương số đối với tài sản vật chất, nhà cửa đất đai, ruộng đồng vườn tược,... Chữ “Điền” là ruộng, vườn, “Trạch” là nhà. Còn phản ánh cả mối quan hệ về nơi ở, nơi cư trú mà đương số không sở hữu, ví dụ như nhà đi thuê, chỗ tạm trú trong một thời hạn nào đó.
11, Luận Giải cung Phúc Đức: Cung mang khái niệm trừu tượng nhất, cung quan trọng bậc nhất trên lá số, vì ảnh hưởng của Phúc Đức có thể chi phối tới hầu hết các cung chức còn lại ...
12, Luận Giải cung Phụ Mẫu: Mối quan hệ của đương số đối với cha mẹ của mình, tình cảm có hòa hợp tốt đẹp hay không, bối cảnh của gia đình, địa vị thành tựu của cha mẹ ra sao,… từ đó biết được xuất thân của đương số ở giai tầng nào trong xã hội, sự trợ giúp của cha mẹ đối với đương số, gián tiếp ước lượng suy đoán được thọ yểu của cha mẹ đương số. Còn được gọi là Tướng Mạo cung,...(Nguồn: Bài viết của Quách Ngọc Bội)
+ Trong Chiêm tinh còn có ba cung quan trọng nhất là: Cung Mặt trăng - Cung mặt trời - Cung mọc
+ Lá số số mệnh/ Lá số sinh: Thường lập theo Giờ, ngày tháng năm sinh của một người.
+ Hình thành đặc tính Lá số cho một kiếp sống (TTHM, thư 29.7.1920)
- Nghiệp quả: Là những việc nhất định sẽ xảy đến cho một người trong kiếp sống mà y không thể tránh khỏi. Nói vậy cũng đúng phần nào, nhưng đó chỉ là một khía cạnh của toàn vấn đề.
- Hình thành Thái dương hệ: Khi Đức Thái Dương Thượng Đế tạo lập thái dương hệ, Ngài thu hút vào trong phạm vi biểu hiện một số vật chất đủ dùng cho kế hoạch của Ngài, và các chất liệu thích hợp cho mục tiêu Ngài nhắm đến. Ngài không đặt tất cả những mục tiêu của Ngài vào chỉ thái dương hệ này. Ngài chỉ đặt một mục đích đặc biệt nào đó, nên nó cần một loại rung động đặc biệt và cần loại vật chất đã phân hóa nhất định. Phạm vi là “vòng giới hạn” thái dương hay của hệ thống, nó đặt giới hạn cho tất cả những gì xảy ra trong thái dương hệ, và cuộc biểu hiện nhị nguyên của chúng ta trong đó. Tất cả những gì trong vòng này đều rung động theo một nhịp điệu chủ yếu, tuân theo những qui luật nhất định, nhằm hoàn thành một mục tiêu đặc biệt và đạt một cứu cánh nhất định mà chỉ có Ngài mới hoàn toàn biết rõ. Tất cả cũng đều phục tùng những qui luật riêng, và chịu sự chế ngự của một nhịp điệu chính yếu nào đó, và có thể xem như bị chi phối bởi nghiệp quả của cuộc hiện hữu tuần hoàn thất phân đó, và bị thôi thúc bởi những nguyên nhân lâu đời, trước khi có vòng giới hạn. Vì thế mà thái dương hệ chúng ta được liên kết với hệ thống trước và hệ thống sẽ có sau này. Chúng ta là thành phần của một toàn thể vĩ đại hơn, đều chịu sự chi phối của định luật vũ trụ và cùng nhau thực hiện những mục tiêu nhất định.
- Hình thành Con người cũng như Thượng đế: Một Chân nhân đã hình thành 3 thể để biểu hiện và đặt chúng trong vòng giới hạn với mục đích trước mắt là đưa vào thể nguyên nhân khả năng “hiểu biết các sự kiện cơ bản của đời sống bằng trí tuệ.” Mục tiêu của kiếp sống này là phát triển trí năng của môn sinh, là dạy cho y những sự kiện cụ thể và khoa học, mở mang thể trí của y, để dùng cho công việc sau này. Y có thể phát triển quá độ về mặt tình cảm hay sùng tín thái quá. Y có thể bỏ ra nhiều kiếp để mơ ước, để nhìn ngắm các linh ảnh và tham thiền thần bí. Nhu cầu lớn của y là phải thực tiễn, phải có đầy đủ lương tri, phải hiểu chương trình của Phòng Học tập và áp dụng sự hiểu biết đã học được một cách thực tế ở cõi trần. Tuy nhiên, dù cho vòng giới hạn của y có vẻ ngăn cản và hạn chế các khuynh hướng sẵn có nơi y, và dù đã có sắp xếp khiến cho dường như y phải học những bài học của cuộc sống thực tiễn ở thế gian, y cũng không chịu học, mà chỉ đi theo lối nào dễ dàng cho y nhất. Y tưởng đến những mơ ước của mình, và sống xa rời thế sự => Y không làm tròn ý muốn của Chân nhân mà bỏ lỡ cơ hội. Y chịu nhiều đau khổ, và trong kiếp tới y cũng cần ở trong sự sắp xếp tương tự với sức thôi thúc mạnh hơn và một vòng giới hạn chặt chẽ hơn, cho đến khi nào y thực hiện được ý muốn của Chân nhân y. Xem thêm: Nguồn gốc số mệnh - cải mệnh; Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
+ Tánh Mạng: Ví như sinh năm Kỷ Hợi thì Kỷ là Tánh Thổ, Hợi là Mạng ... (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Tiểu đường (Diabetes): Một cách rõ ràng hơn, bệnh tiểu đường là kết quả của ham muốn sai lầm bên trong chứ dứt khoát không phải là kết quả của các ham muốn sai trái bên ngoài. Như đã nói ở trước, bệnh này có thể bắt nguồn ở kiếp sống này, hoặc là truyền lại từ kiếp sống trước. Trong trường hợp sau, linh hồn đầu thai sẽ chọn một gia đình để được sinh ra trong đó, gia đình này sẽ mang lại cho linh hồn một thể xác có khuynh hướng hay một tình trạng tự nhiên dễ bị bệnh này. (CTNM, 311)
+ Biểu tượng dòng Nước - Ðức Phật dạy:
- Nước theo lối cũ: Chỗ đất bị nước mạnh xoáy lở thì dù 100 năm sau, cũng không nên dựng lại một cái gì trên ấy. Vì dòng nước sẽ theo thói cũ mà lôi cuốn đi mất tất cả.
- Người có ác tâm mà bây giờ họ bảo mình là bắt đầu làm lành thì mình quyết không tin vội. Vì, tâm ác của họ chưa diệt, họ sẽ trở lại làm việc ác, ta phải nên dè dặt. Người muốn làm việc gì phải làm lần lần, như người đào giếng đào mãi xuống sâu sẽ có mạch nước.
- Cứu giúp: Kẻ trí giả thấy sự nguy hiểm hoặc bất bằng giữa cuộc thế, thì hãy ra tay cứu giúp - cũng như người có tài bơi lội có thể lội ngang qua dòng nước mạnh. (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Luận về Dòng chảy và Nước:
Đức Phật dậy: A-nan, ví như dòng nước chảy mạnh, các làn sóng nối tiếp, lớp trước lớp sau chẳng vượt khỏi nhau.
A-nan, tánh của dòng nước như vậy chẳng do hư không sinh ra, chẳng phải do nước mà có, cũng chẳng phải tánh nước, cũng chẳng lìa hư không và nước.
Thật vậy, A-nan. Nếu nhân hư không mà sinh thì mười phương hư không vô tận sẽ thành dòng nước vô tận. Thế giới tự nhiên sẽ bị chìm đắm.
Nếu do nước mà có thì dòng nước nầy tánh nó lẽ ra không phải là nước nữa, và hiện nay có thể chỉ ra tướng của nước và dòng nước khác nhau[80]. Nếu dòng nước tức là tánh nước thì khi nước trong lặng, sẽ không còn là thể của nước nữa?
Nếu lìa hư không và nước thì hư không vốn chẳng có trong và ngoài; ngoài nước ra vốn chẳng có dòng nước.
Do vậy nên biết hành ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiên - Q2 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thuỷ tinh - Sao Thủy: Thủy tinh và Mặt trăng truyền dẫn Cung 4 (GQ1- CT con người) - Sao Thủy (Cung của sao Thủy dẫn: Cung 4) điều khiển thể trí, là lực chiếm ưu thế ở cấp độ phàm ngã. Đáp ứng với câu châm ngôn "Hãy để vật chất thống trị " tâm trí tràn ngập những tư tưởng về tiền bạc và tài sản.(Thủy Tinh; Cung 4 - CTHNM, 80);
+ Mercury: Ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến Tứ nguyên ở người; Chân Sư DK (CTHNM, 338):
Sirius Leo Mercury Saturn
Tinh Thần ... Linh hồn .... Trí tuệ ....... Bộ óc
Sự sống ..... Tính chất ... Giác ngộ .. Sắc tướng
Hít vào ........Tạm nghỉ ... Thở ra ...... Tạm nghỉ
- Lời nói, viết, suy nghĩ có ý thức, logic
- Cách chúng ta nghĩ và xử lý thông tin, và do đó ảnh hưởng đến cách chúng ta giao tiếp. Suy nghĩ là một quá trình chứ không phải là một đặc điểm tĩnh bên ngoài của một người. Nói chung, các nhà chiêm tinh vẫn giải thích Thuỷ tinh một cách đơn giản hơn là liên kết một số lượng lớn các hiện tượng dường như không liên quan với Thuỷ tinh . Có sự đồng thuận rộng rãi về ý nghĩa của nó, vì vậy chúng ta không cần phải thảo luận về các cách hiểu khác nhau.
- Thống kê và ý nghĩa: Các quy luật và tạo lập Lá số Chiêm tinh; Định vị các Nhà; Vòng Hoàng Đạo và Mặt phẳng Hoàng đạo, đường Xích đạo Trời; Các Hành tinh có tính Ngũ Hành của nó mạnh hơn Ngũ hành cùng loại của các Cung Hoàng Đạo; Ý nghĩa các Cung Hoàng Đạo; Các Nhà; Các Góc hợp và Chủ tinh các Cung Hoàng Đạo; cũng như khái niệm về vượng, tướng, tù, tử; Cung chủ quản một Nhà; Mẫu sắc Ngũ hành; Tính điểm ngũ hành; Các góc hợp Tam hợp, Lục hợp ....
+ Thuỷ tinh (☿): Thuỷ tinh ảnh hưởng đến cách chúng ta nghĩ và xử lý thông tin, và do đó ảnh hưởng đến cách chúng ta giao tiếp. Suy nghĩ là một quá trình chứ không phải là một đặc điểm tĩnh bên ngoài của một người. Nói chung, các nhà chiêm tinh vẫn giải thích Thuỷ tinh một cách đơn giản hơn là liên kết một số lượng lớn các hiện tượng dường như không liên quan với Thuỷ tinh . Có sự đồng thuận rộng rãi về ý nghĩa của nó, vì vậy chúng ta không cần phải thảo luận về các cách hiểu khác nhau. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Hành Tinh Thủy tinh - Mercury (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Mercury chỉ vừa mới bắt đầu rời khỏi trạng thái triều nguyên.
a/ Mercury không có vệ tinh nào.
b/ Mercury là dãy thất phân.” (188, 189)
2. “Mercury già hơn Địa Cầu nhiều”. (I, 180)
3. “Mercury được gọi là thần thứ nhất trong số các Thần thiên giới, Thần Hermes… mà Thượng Đế được gán cho là sáng tạo ra và cuộc khai mở đầu tiên của con người vào Huyền Thuật. …Mercury là Budh, Minh Triết, Giác Ngộ hay là “làm sống lại” trong khoa học thiêng liêng”. (I, 513)
4. “Mercury là Chúa của Minh Triết”. (II, 31)
5. “Mercury còn huyền bì và ẩn mật hơn là Venus. Nó vốn:
a/ Đồng nhất với Mithra.
b/ Bạn đồng hành vĩnh cửu của Mặt Trời Minh Triết.
c/ Lãnh tụ và kẻ trục triệu (evocator) của linh hồn.
d/ Đồng nhất với Mặt Trời”. (II, 31)
6. “Mercury chữa lành kẻ mù, và phục hồi sự thấy của tinh thần và vật chất”. (II, 571)
7. “Mercury đôi khi tượng trưng:
a/ Như là có ba đầu, bởi vì là một với Mặt Trời và Venus.
b/ Như hình lập phương, không có tay, vì ‘sức mạnh của sự nói và hùng biện có thể chiến thắng mà không cần sự trợ giúp của tay và chân’”. (II, 572)
8. “Giống dân thứ năm được sinh ra dưới Mercury” (giống dân Aryan. A.A.B.) (II, 32)
9. “Mercury là anh của Địa Cầu”. (II, 48)
10. “Mercury nhận được ánh sáng bảy lần nhiều hơn bất cứ hành tinh nào khác”. (II, 570)
11. “Buddhi và Mercury tương ứng với nhau và cả hai đều vàng (yellow) có màu hoàng kim sáng rực. Trong hệ thống con người, mắt phải tương ứng với Buddhi, còn mắt trái tương ứng với Manas và Venus hay là Lucifer”. (III, 447, 448)
12. “Mercury được gọi là Hermes; Venus được gọi là Aphrodite và sự liên kết của chúng trong con người trên bình diện tâm lý – vật lý (psycho-physical plane) mang lại cho y tên gọi Hermaphrodite (Lưỡng Tính, Bán Thư Bán Hùng)” (III, 458) Tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn
13. “Venus, Jupiter và Saturn có thể được xem như là các hiện thể của ba siêu nguyên khí hay nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars được liên kết chặt chẽ với ba hành tinh này, nhưng ở đây có ẩn một bí mật còn bị che giấu”. (299).
14. “Gợi ý thứ hai mà Tôi tìm cách đưa ra, nằm trong tam giác được hợp thành bởi Địa Cầu, Mars, Mercury. Liên quan với tam giác này, sự tương tự nằm trong sự kiện rằng Mercury và trung tâm lực ở đáy xương sống trong con người có liên kết chặt chẽ. Mercury cho thấy kundalini ở trạng thái hoạt động sáng suốt trong khi Mars cho thấy kundalini ở trạng thái tiềm tàng”. (181)
15. “Vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm, cùng với Thượng Đế của hành tinh hệ Venus và của Địa Cầu chúng ta, Đấng Chủ Quản (Lord) của Mercury tạo ra một tam giác lực tạm thời”. (371)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem: Chiêm tinh học 1- 2 - 3; Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh; Tổng hợp về Thủy tinh
+ Thể - Dụng - Tánh Của Nước và Dòng Nước:
Trích Kinh Phật Dậy. ... A-nan, tánh của dòng nước (Sóng lớp lớp chồng lên nhau theo chật tự) như vậy chẳng do hư không sinh ra, chẳng phải do nước mà có, cũng chẳng phải tánh nước, cũng chẳng lìa hư không và nước.
- Nếu lìa hư không và nước thì hư không vốn chẳng có trong và ngoài; ngoài nước ra vốn chẳng có dòng nước.
Giảng:
Nếu lìa hư không và nước – ông muốn nói rằng dòng chảy ấy tách rời hẳn hư không và nước mà có. Nhưng hư không vốn chẳng có trong và ngoài; ngoài nước ra vốn chẳng có dòng nước. Tách rời khỏi nước thì chẳng có dòng chảy nào cả. Nên nói lìa khỏi nước mà có dòng chảy là không đúng. Ông sẽ cho rằng chẳng lìa (khỏi nước mà có dòng chảy), điều ấy cũng sai luôn. Phân tích rốt ráo, A-nan, ông nói như thế nào về việc nầy? Đó chẳng phải là cái gì hiện hữu do nước hoặc hư không. Cội nguồn của nó là Như Lai tàng diệu chân như tánh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Bàn về sóng biển - Thể dụng
Khi ra biển ngắm những làn sóng lặn hụp lên xuống thì “sóng “là” nước hay sóng “không là” nước? Nếu nói sóng và nước thì chắc chắn sóng và nước là hai tức là sóng “không là” nước. Còn nếu nói rằng nếu sóng mà không có nước thì làm gì có sóng do đó sóng “là” nước và nước “là” sóng. Như vậy sóng là hiện tượng của nước và nước là bản thể của sóng, tuy hai nhưng mà một bất khả phân ly. Khi động (có gió) thì nước nổi thành sóng, nhưng khi tịnh (gió tan) thì sóng trở về với thể tánh yên tịnh của nước vậy thôi. Như Lai Tạng cũng vậy, là bất tức bất ly bởi vì Tạng là tổng thể trùm chứa tất cả mọi nguyên nhân và kết quả của sự vật hiện tượng. Còn Như Lai là thường hằng bất biến, nhưng trong cái thường hằng bất biến này lại tùy duyên mà phát sinh ra muôn sinh vạn vật. Đó là bất biến mà tùy duyên. Thí dụ, trong thế gian này nơi nào cũng đều có đất tức là dạng của địa đại, nhưng cũng từ đất này mà tùy duyên tạo thành nhà cửa, chén đĩa, lâu đài, thành quách….nhưng một ngày nào đó thì những sự tướng kia cũng theo thời gian mà biến đổi và cuối cùng cũng trở về lại với đất. Đây là tùy duyên mà bất biến vậy. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng.)
+ Xin mời quí vị đọc bài tổng hợp chuyên đề với thuật ngữ Thể dụng vi diệu: Mời xem tại đây
+ Thủy Đại - Biển Nước
+ 614. TÁM PHÁP TẰNG HỮU CỦA A-TU-LA
Vua A-tu-la là Bà-la-la con trai của Mâu-lê-già A-tu-la trả lời rằng:
Bạch Thế Tôn. Các A-tu-la của con ở trong đại hải không bị các sự suy thối này, là tuổi thọ của A-tu-la, sắc tướng của A-tu-la, sự hoan lạc của A-tu-la, sức mạnh của A-tu-la. Các A-tu-la thích sống trong đại hải.
Thế Tôn lại hỏi: Này Bà-la-la, trong đại hải có mấy pháp vị tằng hữu, khiến cho các A-tu-la thấy vậy nên thích sống trong ấy?
Bà-la-la trả lời rằng: Trong đại hải của con có tám pháp vị tằng hữu, khiến cho các A-tu-la thấy vậy nên thích sống trong ấy. Những gì là tám?
1) Đại hải của con từ đáy lên trên, chu vi dần dần rộng hơn, nghiêng chênh chếch lên dần mãi tạo thành bờ biển. Nước trong ấy luôn luôn đầy, chưa từng chảy ra ngoài.
2) Thủy triều trong đại hải của con chưa từng sai thời.
3) Nước trong đại hải của con rất sâu không có đáy, rất rộng không thấy bờ. Bạch Thế Tôn, nếu nước trong đại hải của con rất không sâu có đáy, rất rộng không thấy bờ; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ ba trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
4) Nước trong đại hải của con đều cùng một vị. Bạch Thế Tôn, nếu nước trong đại hải của con cùng một vị; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ tư trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
5) Trong đại hải của con có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu. Bạch Thế Tôn, nếu trong đại hải của con có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó..... thì đó là pháp vị tằng hữu thứ năm trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
6) Đại hải là chỗ cư trú của các vị thần lớn. Những vị thần đó tên là A-tu-la, Kiền-thấp-hòa, La-sát, cá kình, rùa, cá sấu, Bà-lưu-nê, Đế-nghê, Đế-nghê-già-la, Đề-đế-nghê-già-la. Lại nữa, trong đại hải, rất kỳ lạ, rất đặc biệt, có chúng sanh thân thể tới một trăm do-diên, hai trăm do-diên, cho đến ba trăm do-diên, bảy trăm do-diên mà thân vẫn ở trong đại hải.
7) Đại hải của con thanh tịnh không dung chứa tử thi. Nếu có người nào mạng chung thì qua một đêm gió liền thổi tấp vào bờ.
8) Trong đại hải của con thuộc về châu Diêm-phù có năm sông lớn, là Hằng-già, Diêu-vưu-na, Xa-lao-phù, A-di-la-ba-đề, Ma-xí. Tất cả đều chảy vào đại hải. Chảy vào đó rồi, thảy đều bỏ tên cũ, gọi chung là đại hải. Đó là pháp vị tằng hữu thứ tám trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó. (Nguồn: mục 614- (Trung A Hàm, Kinh A-Tu-La, Phẩm 4, số 35)
+ 615. TÁM PHÁP TẰNG HỮU CỦA CHƯ TỲ KHEO
- Tương Tự Như Tám Pháp Đại hại: Này Bà-la-la, trong Chánh pháp luật của ta (Đức Phật) cũng có tám pháp vị tằng hữu, khiến cho các Tỳ-kheo thấy được bèn hoan lạc trong đó. Những gì là tám? Nguồn: mục 615- (Trung A Hàm, Kinh A-Tu-La, Phẩm 4, số 35)
+ Sao Hỏa thời mạt pháp: Trong thời mạt pháp, ngài tiếp tục sau khi ngưng một lúc, vị Hành Tinh Thượng Đế, đấng chủ trì địa cầu, sẽ thải bỏ và chuyển hóa độc chất như thỉnh thoảng cơ thể con người thải bỏ và chuyển hóa độc tố. Kết quả là thể tình cảm chung của nhân loại có xáo trộn, và những ai chưa biết tự kiểm sẽ có phóng túng về tình dục, rượu chè hoặc ngay cả tội phạm. Đây là chuyện đang xẩy ra lúc này, và ở mức độ rộng lớn đến nỗi lẽ tự nhiên nó ảnh hưởng nhân loại và sự phát triển của con người. Nếu con hỏi anh bạn chiêm tinh gia, anh sẽ cho con biết là ảnh hưởng của Mars đã gây ra điều ấy. (Nguồn: David Anrias: Chiêm Tinh gia và Huyền Bí gia - Chương IX)
+ Hỏa tinh và Hải Vương Tinh truyền dẫn Cung 6, Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người); Xem thêm: Bài viết ngày 13/10/2016a
+ Chân Sư DK tóm lược về Mars đầy đủ: Hỏa Tinh dứt khoát là hành tinh đang chi phối và kiểm soát thể xác...... Hỏa Tinh có liên quan chặt chẽ với giới tính..... bồi bổ (vitalise, làm cho sống động) dòng máu; nó bồi bổ, thanh luyện và làm phấn khích mọi trạng thái và cơ quan trong cơ thể, xuyên qua dòng máu......Như bạn biết, màu sắc được qui cho Mars là đỏ và đây là một tương ứng với màu của dòng máu và do đó cũng là sự phối hợp/ liên tưởng của Mars với tham dục, với tức giận và một ý thức về sự phản kháng chung. Ý thức về lưỡng nguyên, cực kỳ mạnh mẽ (CTHNM, 236-238)
+ Hoả tinh: Sao Hỏa (♂) - Mars là hành tinh của chiến binh, tham vọng, lực đẩy, năng lượng, bản chất hung hăng và chiến đấu. Nhiều nhà chiêm tinh cũng liên kết sao Hỏa với tình dục.
Tôi thấy sao Hỏa là động lực để đạt được và hoàn thành. Động lực thúc đẩy chúng ta và kích thích chúng ta. Tôi không liên kết trực tiếp Mars với tình dục, mặc dù mức năng lượng vật lý tổng thể của một người bị ảnh hưởng bởi sao Hỏa, và mối quan tâm đến giới tính có một tương quan tới mức năng lượng thể chất chung của một người.
Một cảm giác thoả mãn và hài lòng được tạo ra khi chúng ta thành công, cho dù thành công đó là một khu vườn có một vụ thu hoạch tốt, một mảnh đồ nội thất, một tác phẩm nghệ thuật hay một mối quan hệ thành công. Danh sách những thành tựu có thể đạt được gần như vô tận, và một dự án có thể rất cụ thể hoặc trừu tượng.
Sự hung hăng và chiến đấu có thể phát triển khi nỗ lực nhưng không thành công. Thất vọng cũng tương tự như ma sát. Động lực để đạt được điều gì đó gặp trở ngại, và bị chậm lại. Sau đó, nhiệt lượng cảm xúc phát triển, sức nóng của sự thất vọng có thể dẫn đến sự hiếu chiến. Có nhiều kỹ thuật để xử lý các sự thất vọng, chẳng hạn như giữ một quan điểm lành mạnh về những gì thực sự quan trọng và những gì chúng ta thực sự có thể đạt được. Trong phần lớn các trường hợp, những thất vọng mà chúng ta phải đối mặt có thể tránh được bằng cách học hỏi từ những sai lầm của chúng ta và có một tầm nhìn lành mạnh hơn về cuộc sống nói chung. Tuy nhiên, sự thất vọng là rủi ro chúng ta phải nhận khi chúng ta cố gắng làm bất cứ điều gì. Chúng ta phải có can đảm để nhận rủi ro này, cũng như chúng ta phải chịu rủi ro bị tổn thương nếu chúng ta yêu một ai đó. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta không ít, và chúng ta phải cố gắng tiến lên phía trước.
Động lực thúc đẩy chúng ta và kích thích chúng ta. Một người thức dậy cảm thấy chán nản, không quan tâm, và không động lực có thể cảm thấy ít năng lượng hơn người thức dậy với động lực để làm điều gì đó.
Tôi không liên kết trực tiếp Mars với tình dục, mặc dù mức năng lượng vật lý tổng thể của một người bị ảnh hưởng bởi sao Hỏa, và mối quan tâm đến giới tính có một tương quan tới mức năng lượng thể chất chung của một người. Những người có sức khỏe cải thiện thông qua một sự thay đổi trong chế độ ăn uống hoặc phong cách sống thường báo cáo rằng sự quan tâm của họ trong tình dục tăng lên cùng với sức sống và sức chịu đựng gia tăng của họ. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Hành Tinh - Mars (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. Khoa học thông thường, ngoài Mercury, Mars và bốn hành tinh khác mà thiên văn học không biết gì về chúng cả. Sự suy đoán chính là vì các hành tinh này, A. B. và Y. Z. tồn tại trong chất dĩ thái. (I, 187)
2. “Về phần Mars, Mercury và “bốn hành tinh khác”, chúng có liên quan với Địa Cầu mà về việc đó không một Đức Thầy nào… sẽ bao giờ nói đến…” (I, 187).
3. Hiện nay Mars đang ở vào trạng thái qui nguyên (state of obscuration, triều nguyên):
a/ Mars có hai vệ tinh mà nó không có quyền có (Mars has two satellites to which he has no right) (astral and mental). A.A.B.
b/ Mars là một dãy thất phân. (I, 188, 189)
4. Mars là Đấng Chủ Quản của sự sinh, sự tử, sự sinh hoá và sự huỷ diệt. (II, 410)
5. Mars được gọi là hành tinh có sáu mặt. (II, 399) Tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn 662
6. Có một… “tam giác được tạo thành bởi Địa Cầu, Mars và Mercury. Liên quan với tam giác này, sự tương đồng nằm ở sự kiện là Mercury và trung tâm lực ở đáy xương sống trong con người được liên kết chặt chẽ.” (181)
7. “Mercury, Mars và Địa Cầu được liên kết chặt chẽ với ba hành tinh này (Venus, Jupiter và Saturn)”. (299)
+ Cặp bài trùng: Hỏa tinh - Mars và Pluto - Diêm Vương tinh là cặp bài trùng (nội môn), nó tương tự như Kim tinh và Địa cầu (CTHNM, 568)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem thêm: Tong-hop-ve-sao-hoa-hoa-tinh
+ Làm người Thiện Tín xứng danh: Đệ tử Phật
IX. Khuyên nhủ các thiện tín tại gia
- 1. Dạy về luân thường đại giáo
* Phải tận tánh học Phật mới có thể tận hết luân thường học Khổng. Phải tận hết luân thường học Khổng mới có thể tận tánh học Phật. Thử coi những bậc đại trung, đại hiếu và những vị phát huy tâm pháp của thánh hiền trong Nho Giáo xưa nay không vị nào là chẳng nghiên cứu kinh Phật sâu xa, ngầm tu thầm chứng. Hợp hai đạo Phật và Nho lại thì cả hai cùng tốt đẹp, tách ra thì cả hai cùng bị tổn thương; bởi lẽ, người trong cõi đời không ai chẳng thuộc trong vòng luân thường, mà cũng không ai ra khỏi tâm tánh được. Để trọn vẹn luân thường tâm tánh ấy thì dùng “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” của nhà Phật để khắc kỷ, giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, dùng “cha hiền, con hiếu, anh nhường, em kính” để hỗ trợ. Do vậy, cha con, anh em v.v... dắt dìu nhau cùng trọn vẹn luân thường, tâm tánh, trừ khử phiền hoặc huyễn vọng để khôi phục Phật tánh sẵn có. Chẳng những về thể là một, mà về dụng cũng chẳng có hai!
* Phải biết rằng Phật pháp là pháp chung của cả chín pháp giới, không một ai là chẳng nên tu mà cũng không ai là chẳng thể tu nổi. Những kẻ nói Phật giáo vứt bỏ nhân luân, làm hại thánh đạo đều là những kẻ mù chẳng thấy hình sắc cứ luận càn. Vì sao nói như thế? Đức Phật đối với cha dạy lòng từ, với con dạy lòng hiếu, với vua dạy lòng nhân, với bầy tôi dạy lòng trung, chồng xướng vợ theo, anh nhường, em kính.
Với những lời lẽ hay đẹp, những hành vi tốt đẹp, không điều nào kinh Phật lại chẳng thuật rõ túc nhân hậu quả, tiền nhân hậu quả. Những điều Phật dạy về lòng từ, lòng hiếu... giống với Nho Giáo, nhưng những điều đạo Phật dạy về nhân quả ba đời thì Nho giáo còn chưa bao giờ được nghe đến, huống hồ là “đoạn Hoặc chứng chân” và “viên mãn Bồ Đề, quy về pháp vô sở đắc”! Tiếc là những kẻ ấy chưa được biết đến, chứ nếu đọc kỹ, nghĩ chín, ắt sẽ khóc lóc, đau đớn, tiếng rền cả đại thiên thế giới, buồn thương vì tội lỗi báng Phật vậy!
* Muốn học Phật, Tổ, trước hết phải giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như thiếu sót bổn phận, trái nghịch luân thường thì đã là kẻ tội nhân danh giáo, còn làm đệ tử Phật sao được? Phật giáo tuy vượt ngoài thế pháp, nhưng gặp vua nói Nhân, gặp bầy tôi nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, từ cạn mà lần đến sâu, hạ học thượng đạt (học từ những điều căn bản, thấp kém, nhưng đạt được những điều cao quý). Hãy đọc kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt sẽ biết được đại khái vậy!
* Muốn làm Phật tử chân thật, phải bắt đầu làm chân Nho trước đã. Nếu đối với những sự như chí tâm thành ý, khắc kỷ, giữ lễ, giữ lòng kính, trọng lòng thành, hiếu đễ, vui vẻ, cung kính... mà chẳng thể tu tập, đôn đốc thì nền tảng chẳng kiên cố, học Phật sao được? Chọn lấy tôi trung trong đám con hiếu; kẻ tánh hạnh trái nghịch Nho phong lẽ nào gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, trên nối tiếp huệ mạng, dưới hóa độ chúng sanh cơ chứ?
Phật pháp không sự gì to lớn chẳng bao hàm, không điều gì nhỏ nhặt chẳng nêu lên. Dù là pháp thế gian hay xuất thế gian, không một pháp nào lại chẳng thuộc phạm vi của Phật pháp. Những kẻ câu nệ, hủ bại trong thế gian thường cứ bảo “xuất gia là trái nghịch luân lý”, họ đều là hạng chưa suy xét thấu đáo đã vội hủy báng, sợ mắc nghẹn nên bỏ ăn, tự chôn vùi tánh mạng, thật là đáng thương!
Nếu có mở rộng được tầm mắt thì mới biết Phật pháp lưu truyền rộng rãi khắp trong ngoài Trung Hoa, đạo pháp thạnh hành cả hai ngàn năm qua, được rất nhiều vua thánh, tôi hiền, hào kiệt, vĩ nhân hộ trì, truyền bá. Lẽ đương nhiên đạo ấy phải là chân đạo mà phàm tình chẳng thể suy lường được nổi! Dù có bị một hai gã nho sĩ câu nệ, hủ bại bài xích, hay những tên vua bạo ác hủy phá, rốt cuộc hai tay vẫn không che nổi mặt trời, ngửa mặt nhổ lên trời, chỉ càng tự phô bày cái thấy biết kém cỏi, ít ỏi của mình mà thôi, tự lầm lạc gây tạo tội lỗi, chứ rốt cuộc Phật pháp có bị tổn hại gì đâu?
Lại có kẻ bề ngoài làm ra vẻ chê bai Phật pháp, chứ bề trong lại thực sự tu chứng. Từ đời Tống đến nay, những bậc danh nho không có ai là chẳng như vậy cả! Cho nên Quang tôi nói “thành ý chánh tâm do vậy hãy còn khiếm khuyết” thật đúng là lời bàn quyết định vậy!
* Đối với việc học Phật, vốn phải trọn vẹn nhân đạo mới hòng hướng đến được. Nếu chẳng thật sự thực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, dù có suốt ngày thờ Phật, Phật cũng chẳng gia hộ! Ấy là vì Phật giáo bao gồm hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian. Vì thế với cha nói Từ, với con nói Hiếu, khiến ai nấy đều tận hết bổn phận làm người, sau đấy mới tu pháp xuất thế. Ví như muốn dựng lầu cao vạn trượng, ắt trước hết phải đắp nền móng kiên cố, khai thông đường nước thì lầu cao vạn trượng mới có thể xây lên được, mới vĩnh cửu chẳng hư hoại. Nếu như nền móng chẳng vững, ắt chưa xây xong đã sụp.
Sách Luận Ngữ nói: “Tuyển trung thần ư hiếu tử chi môn” (chọn tôi trung từ nơi con hiếu); học Phật cũng giống như vậy. Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào Thiền Sư: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Muốn học Phật pháp, phải khắc kỷ, dè dặt, việc gì cũng đều phải phát xuất từ cái tâm chân thật mà làm. Người như vậy mới đáng gọi là chân Phật tử. Nếu tấm lòng gian ác, lại toan mượn Phật pháp để tránh tội nghiệp, có khác gì trước đã uống thuốc độc, sau lại uống thuốc bổ, muốn cho thân thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ, phỏng có được chăng?
* Đại trượng phu muốn văn chương thiên hạ, công nghiệp vang dội vũ trụ, nhưng chẳng thể đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thì chỉ là chấp vào cái bên ngoài, bỏ sót cái bên trong, chấp cái Có tuy nó chỉ là đằng ngọn, bỏ đi cái Không dù nó chính là đằng gốc. Người đời ai có thể vẹn toàn được mọi việc, chúng ta chỉ nên gắng sức giữ vẹn luân thường, tận lực tu Tịnh nghiệp là được, cần gì phải bận tâm đến điều gì khác nữa!
* Trộm nghĩ Nho lễ coi trọng cúng tế Xuân Thu, Thích giáo đặt nặng việc quanh năm truy tiến. Nghĩ đến cái ân nguồn nước, cội cây mà thực hành cẩn thận, chu đáo việc truy tiến thì thế gian, xuất thế gian nào có gián đoạn chi?
Ấn Quang Đại sư - Ngài đã tu hành thành tựu, có nhiều lời dạy cho Phật tử tại gia rất tuyệt diệu, mời đọc giáo lý của ngài: Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục
+ Thiện Nam Tử - Thiện Nữ Nhân trong Kinh Phật thường nói
- Làm người quân tử: Là Người thường tu đạo của Người quân tử, hướng đến thành tựu Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín và thực hành các lời dạy của Thánh hiền, ví như Bác Hồ hay Khổng Tử, Lão Tử, đức Phật đã dạy.
- Làm người Phật tử: Người tu Thập thiện nghiệp đạo, thường tu mười nghiệp lành gồm Không sát sinh - Không trộm cắp - Không Tà dâm - Không nói dối - Không nói hai lưỡi, đôi chiều - Không nói lời ác độc - Không nói truyện thị phi vô nghĩa - Không tham lam - Không sân hận - Không si mê (Thường xuyên học Phật pháp để khai mở trí tuệ)
+ Các giác - Bảy phương pháp tu: Bảy tiến trình - Bảy giác phần hay Bảy phần Bồ đề trong 32 phẩm trợ đạo trong tu hành tham thiền tu thiền định của Hàng Thanh văn tu:
"Thất giác bát chánh ý niệm cần, (bảy phần giác, tám chánh đạo, ý niệm cần tu)".
Bảy giác tức là bảy phần giác chi, cũng gọi là bảy phần bồ đề. Tám chánh tức là tám chánh đạo. Bao trùm hết bảy giác chi, tám chánh đạo, năm căn, năm lực, bốn như ý túc, bốn chánh cần, hợp lại thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
* Bảy giác/ Bảy phần bồ đề là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, niệm, định giác phần. Tu hành y chiếu theo bảy phương pháp.
1. Sao gọi là trạch pháp giác phần ? Trạch tức là tuyển trạch. Pháp tức là phương pháp. Giác là minh bạch, hiểu rõ, cũng là giác ngộ. Đối với pháp tu hành, chư vị phải nên chọn lựa, tuyển trạch, tức là phải có trạch pháp nhãn (con mắt chọn lựa pháp), thì chư vị mới biết gì là pháp, gì là không phải pháp, gì là pháp thiện, gì là pháp ác, biết pháp trắng pháp đen, phải có sức chọn lựa tuyển trạch như thế. Không nên lấy đúng làm sai, lấy đen làm trắng, lấy lành làm ác. Nếu làm như thế thì không phải là trạch pháp giác phần. Sau khi chọn lựa, tuyển trạch xong, thì phải y theo pháp mà tu hành.
2. Y pháp tu hành tức phải tinh tấn, nên giác phần thứ hai là tinh tấn. Chư vị phải chánh tinh tấn, chớ nên tà tinh tấn. Chánh tinh tấn tức là hoặc ngồi thiền, trì chú, học giáo điển, trì giới luật, tu nhẫn nhục, tất cả pháp đó đều phải tinh tấn. Nếu không tinh tấn như hôm nay ngồi thiền, ngày mai không ngồi, hôm nay trì giới ngày mai không trì giới, hôm nay tu hạnh nhẫn nhục ngày mai lại không tu, đó không phải là tinh tấn giác phần. Có tinh tấn giác phần tức là ngày đêm sáng tối sáu thời đều hằng tinh tấn. Sáng ba thời, tối ba thời đều tinh tấn không nghỉ ngơi.
3. Sau khi tinh tấn được rồi thì có thiền duyệt (vui trong thiền định). Thiền duyệt tức là hỷ giác phần. Ví như, khi ngồi thiền, công phu ngồi đến một giờ thì tự cảm giác an lạc, tự tại, vừa ý vô cùng; hút thuốc á phiện chỉ vui thích trong chốc lát, còn khi ấy làm bất cứ việc gì chư vị đều cảm giác an lạc vui thích hết cả. Đạt đến an lạc này, gọi là hỷ giác phần.
4. Trừ giác phần- Lại nữa, khi ngồi thiền, đạt đến cảnh giới khinh an thì tâm rất là an lạc. Nhưng cảnh giới này có lúc thì sanh khởi giống như trên, có lúc thì dễ dàng sanh tẩu hỏa nhập ma. Tại sao tẩu hỏa nhập ma ? Khi sanh tâm chấp trước, tức truy cầu nắm giữ cảnh giới vừa thấy, thì ma vương liền nhập vào tâm. Nếu chư vị không chấp trước, thì ma vương không có cách nào để nhập vào. Chư vị nếu chấp vào cảnh giới nào thì ma liền hiện ra cảnh giới đó. Làm thế nào để giải ? Lúc đó phải dùng trừ giác phần. Trừ tức là thẩm tra, dọ xét các ác giác quán. Phải tẩy trừ các ác giác quán, còn chánh giác quán thì phải bảo tồn.
5. Khi chư vị trừ bỏ chấp trước thì là xả giác phần. Xả này tức là xả bỏ vọng tưởng chấp trước. Nếu không thể xả bỏ vọng tưởng chấp trước thì không đắc được tam muội và đạt đến bảy phần bồ đề.
6. Niệm giác phần - Sau khi xả được vọng tưởng chấp trước thì bảo tồn được niệm tinh tấn, mà đã bàn ở bên trên. Chớ để quên mất, niệm này đeo đuổi niệm kia (niệm huyền tại huyền), niệm niệm không quên, tu tinh tấn.
7. Định giác phần - Tu tinh tấn thì sau này đắc được định giác phần, tức thuộc bảy bồ đề phần hay bảy giác phần. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tuệ tri: (12. Tuệ tri)
Các đệ tử tu tuệ tri theo Phật dạy như sau: "Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói buộc. Ví như, này Udayi, một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hay màu vàng nhạt. Một người có mắt cầm hòn ngọc ấy trên tay sẽ thấy: "Hòn lưu ly bảo châu này, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và sợi dây này được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt".... Các đệ tử của Ta tu hành biết được như sau: "Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh,....(Như trên). Các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn. (Nguồn: Kinh Niệm Xứ)
+ Suy tư sáng suốt, không chỉ về các vấn đề gợi sự chú ý mà còn về mọi vấn đề có ảnh hưởng đến nhân loại. Nó bao hàm cách diễn giải vấn đề tư tưởng và khả năng lý giải. Nó cũng có nghĩa là có khả năng để tạo các hình tư tưởng bằng chất liệu tư tưởng (thought matter) và dùng các hình tư tưởng này vào việc giúp đỡ quần chúng. Kẻ nào không biết suy tư rõ ràng và có một thể hạ trí chưa phát triển là kẻ sống trong sương mù, và một người còn trong sương mù thì chỉ là một người mù dẫn đường cho người mù.
+ Suy ngẫm kỹ - Nghiền ngẫm kỹ: Chân Sư DK dạy: Những kiến thức ĐẶC BIỆT ẩn chứa điều tuyệt diệu được trao truyền, nếu nghiền ngẫm để hiểu đúng, ứng dụng được vào đời sống = TUYỆT ĐỈNH NHÂN GIAN, bởi vì: KHI YÊN LẶNG SUY NGHĨ ĐIỀU ĐÓ TRONG TÂM, ÁNH SÁNG CÓ THẺ ĐẾN VÀ NGỌN LỬA NỘI TẠI SẼ BÙNG CHÁY VỚI SỨC NÓNG NHIỀU HƠN (Thư về TTHM-188)
+ Suy tư - Quán sát:
- Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều vấn đề gì, thời tâm sanh khuynh hướng đối vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về dục tầm, vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đã nặng về dục tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về dục tầm. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư quán sát nhiều về sân tầm... (như trên)... về hại tầm, vị ấy từ bỏ vô hại tầm. Khi tâm đã đặt nặng về hại tầm thời tâm vị ấy có khuynh hướng về hại tầm.
- Chư Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vấn đề gì thời tâm sanh khuynh hướng đối với vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vô sân tầm... (như trên)... nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về bất hại tầm, vị ấy từ bỏ hại tầm. Khi tâm đã đặt nặng về bất hại tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về bất hại tầm. (Nguồn: 19.Kinh Song Tâm)
+ Đức Christ: Còn gọi là Di Lặc Bồ Tát; Đức Chưởng Giáo (World Teacher), Đức Bồ Tát, Đức Iman Madhi (Hồi giáo) ....(ĐĐNLVTD, 43)
+ Luận Du Già Sư Địa: Luận Du Già Sư Địa, tác giả là Bồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664), gồm 100 quyển. Đây là một trong ba Bộ Luận thuộc loại đồ sộ bậc nhất hiện có trong Hán Tạng (*), là một trong những tác phẩm căn bản nhất của Tông Duy Thức – Pháp Tướng, là một trong các Bộ Luận nổi tiếng nhất của Phật giáo Bắc truyền thuyết minh quảng diễn rất đầy đủ về Địa/ Cảnh giới Bồ tát, với những quá trình nhận thức, hành trì, tu tập chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng của Bồ tát Đại thừa......
Ở Việt Nam, .... chúng ta đã Việt dịch được một số Kinh, Luận liên hệ, như Kinh Giải Thâm Mật, Luận Nhiếp Đại Thừa, Luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, Luận Thành Duy Thức… một bản Việt dịch Luận Du Già Sư Địa hoàn chỉnh ra đời..... do Cư sĩ Nguyên Huệ dịch ... Nguyên Hiển. (Nguồn: Luận Du Già Sư Địa)
+ Đấng Christ: Các tư tưởng của con người từ giữa thời kỳ Atlantis đã luôn bị thu hút về phía con đường hủy diệt hay tả đạo, vì sự ích kỷ đã là động lực và lợi ích cá nhân đã là yếu tố chi phối. Một phần công việc của Đấng Christ khi Ngài đến cách nay 2000 năm là để xóa bỏ xu hướng này bằng việc khắc sâu, thông qua gương mẫu và giáo huấn, về sự hy sinh và lòng vị tha, và tinh thần tử vì đạo (mà nó thường bị nhuốm màu bởi sự cuồng loạn và một lợi ích cá nhân ở cõi trời) đã là một trong những kết quả của nỗ lực này. Nhìn theo quan điểm của Thánh Đoàn thì nỗ lực đã thành công, vì tinh thần Cơ Đốc giáo thay thế cho sự tái định hướng vào những sự việc ở cõi trời. Đó là sự thanh khiết của động lực và bản năng phụng sự, mà nguyên tắc chủ đạo gần đây là mới so với quan điểm về những sự vĩnh hằng trước kia.
- Tuy vậy, bất chấp điều này, xu hướng đưa tới lợi lộc ích kỷ vẫn là yếu tố mạnh nhất trên thế giới vào lúc này, và đó là tình trạng khủng hoảng đang tồn tại giữa Thánh Đoàn Quang Minh và nhóm chức sắc đang điều khiển phe tả đạo, tức là đường lối kiểm soát bằng hình tướng và dục vọng (LVHLT, 259)
+ Đức Chưởng giáo là là Đấng cao cả mà toàn thế giới đang mong đợi. Ngài trở lại để khai sáng thêm con đường Chân lý, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề khó khăn, và tiến xa hơn trong cố gắng thể hiện Chân Thiện - Mỹ. Ngài là Đức Christ của Thiên Chúa giáo; là Đức Maitreya (Tiếng Sanskrit), Metteyya (Tiếng Pali), Jampa (Tiếng Tây Tạng) hay Di Lạc Bồ-tát của Phật giáo; là Đấng Hoá thân Kalki của Vishnu trong Ấn giáo; là Đức Imam Madhi của Hồi giáo; là Đức Sosiosh, Đấng Cứu thế của Hoả giáo; và Ngài cũng được tôn xưng trong các tôn giáo khác . . .(Trích Thư vể TTHM)
+ Đức Chưởng Giáo (The World Teacher, The Christ): Đức Chưởng Giáo là vị chủ quản nhóm 2. Ngài là Đấng Cao Cả mà tín đồ Cơ Đốc Giáo gọi là Christ. Ở phương Đông, Ngài cũng được biết dưới danh xưng Đức Bồ Tát (the Bodhisattva), Đức Di Lặc (the Lord Maitreya), và là Đấng mà người sùng tín Hồi giáo mong đợi, dưới danh xưng Iman Madhi. Chính Ngài đã chủ trì các vận mệnh cuộc sống từ khoảng năm 600 trước Thiên Chúa và chính Ngài đã đến với nhân loại trước kia và nay Ngài lại được mong chờ. Ngài là Đấng Bác Ái và Từ Bi, cũng như vị tiền nhiệm của Ngài, Đức Phật, là Đấng Minh triết. Năng lượng của Ngôi 2 tuôn tràn qua Ngài, trực tiếp đi đến Ngài từ bí huyệt tim của Hành Tinh Thượng Đế qua tim của Đức Sanat Kumara. Ngài hoạt động nhờ việc tham thiền được tập trung trong tim. Ngài là Đức Chưởng Giáo, Sư Phụ của các Chân Sư, Đấng giáo huấn của Thiên Thần và Ngài được giao cho việc dìu dắt vận mệnh tâm linh của con người và việc mở ra sự hiểu biết bên trong mỗi người rằng y là con của Thượng Đế và con của Đấng Tối Cao. Nếu Đức Bàn Cổ bận tâm tới việc tạo ra kiểu mẫu và hình hài nhờ đó tâm thức phát triển và thu nhận kinh nghiệm, thì Đức Chưởng Giáo điều khiển tâm thức nội tại trong cuộc sống hay trạng thái tinh thần của nó, tìm cách làm sinh động nó bên trong hình hài, để cho, vào đúng lúc, hình hài này có thể bị loại bỏ và tinh thần được giải thoát quay về cội nguồn. Từ lúc bỏ cõi trần, như đã được thuật lại gần đúng trong câu chuyện Thánh Kinh (mặc dù có nhiều chi tiết sai lầm), Ngài đã ở lại với các con của nhân loại, không bao giờ thực sự ra đi, mà chỉ có vẻ ra đi, và những ai biết cách đều có thể tìm thấy Ngài ở trong một thể xác, ngự tại Hy Mã Lạp Sơn và hoạt động hợp tác chặt chẽ với hai Huynh Trưởng của Ngài là Đức Bàn Cổ và Đức Văn Minh Bồ Tát. Hằng ngày, Ngài ban ân huệ cho thế gian và hằng ngày, Ngài đứng dưới cội thông lớn trong vườn của Ngài vào lúc hoàng hôn, đưa tay ban phúc cho tất cả những ai chân thành và thiết tha tìm đạo. Ngài biết rõ những kẻ đi tìm chân lý, mặc dù có thể họ vẫn không biết Ngài , nhưng ánh sáng mà Ngài ban rải vẫn kích thích đạo tâm họ, bảo dưỡng điểm linh quang của sự sống đang phấn đấu và cổ vũ người tìm đạo cho đến ngày trọng đại, lúc mà họ đứng đối diện với Đấng mà, nhờ được “thăng lên” (hiểu theo nghĩa huyền linh), đang kéo mọi người về phía Ngài với tư cách là Đấng Điểm đạo (Initiator) với các bí nhiệm thiêng liêng. (ĐĐNLVTD, 41–47)
+ Đức Di Lặc Bồ Tát:
A-dật-đa Bồ-tát, chính là Bồ-tát Di Lặc. A-dật-đa là tiếng Phạn, dịch là Vô Năng Thắng, cũng tức là Từ Thị. Vị Bồ-tát này chuyên tu Từ Tâm Tam-muội, đối với bất cứ ai ngài đều dùng tâm Từ bi. Ai mắng ngài, ngài cũng dùng lòng từ bi đáp lại; ai đánh ngài, ngài cũng đáp lại bằng lòng từ bi. Bất luận là người nào đối xử không tốt với ngài, hoặc là ức hiếp ngài, làm nhục ngài, giận dữ la hét ngài, sanh ra vô minh, ngài đều dùng lòng từ bi đối xử với họ. Tất cả mọi việc, ngài đều dùng lòng từ bi đối đãi hết. Chẳng những ngài dùng từ bi đối xử với người, mà ngài còn thương xót cứu giúp tất cả chúng sanh nữa. Ngài xem tất cả chúng sanh giống như là con cái của chính mình, thậm chí còn thân thiết hơn con cái nữa. Ngài thương mến giúp đỡ tất cả chúng sanh đủ cả mọi mặt với tâm từ bi vô lượng vô biên. Tu Từ Tâm Tam-muội cần phải tu cả hạnh Nhẫn nhục, cho nên ngài có một bài kệ như thế này:
Lão hèn mặc áo vá
Cơm hẩm đủ no lòng
áo vá qua cơn lạnh
Vạn sự chỉ tùy duyên
Có người mắng lão hèn
Lão hèn cho là hay
Có người đánh lão hèn
Lão hèn ngủ quên mất
Phun nước miếng lên mặt
Cứ để nó khô thôi
Ta cũng bớt sức lực
Anh cũng khỏi giận hờn
Kiểu Ba-la-mật ấy
Chính là báu thêm mầu
Nếu biết được như thế
Lo gì đạo chẳng thành.
Lão hèn mặc áo vá: Lão hèn chính là một người tuổi già rất ngu si, áo vá chính là áo rách phải dùng kim chỉ để vá lại.
Cơm hẩm đủ no lòng: Cơm hẩm chính là thức ăn không thêm các gia vị dầu, muối, tương, xì dầu, dấm..., rất nhạt nhẽo, không có mùi vị gì, chỉ có thể lót đầy bụng trống thôi.
áo vá qua cơn lạnh: áo rách được vá lành thì có thể dùng để ngăn cái lạnh lẽo từ bên ngoài.
Vạn sự chỉ tùy duyên: Bất cứ sự tình gì cũng tùy tiện mà giải quyết ổn thỏa. Việc đến thời ảnh hiện, việc đi kể như không, cũng chính là "Ðáo xứ tùy duyên qua ngày tháng, Thủ thường an phận mặc thời gian." Bất cứ sự tình gì hễ đến, đi thì kể như không, đó gọi là tùy duyên. Tùy duyên cũng chính là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến tùy duyên"; cũng chính là trong động có tĩnh, trong tĩnh có động; vừa tĩnh vừa động, vừa động vừa tĩnh.
Có người mắng lão hèn: Có người mắng ta là lão già ngu si.
Lão hèn cho là hay: Ta tự nói là hay quá, hay quá!
Có người đánh lão hèn: Có người đánh ta, cho ta là kẻ ngu si vô dụng, đoán xem điều gì sẽ xảy ra?
Lão hèn ngủ quên mất: Có người đánh ta một cái, ta nằm xuống ngủ quên ngay. Mình nói ngài là ngu si, tại sao lại làm thế? Thông thường người ta bị đánh thì trừng mắt nhướng mày nói: "Tại sao anh đánh tôi?" Nhưng ngài chẳng những không trợn mắt, mà lại nằm lăn trên đất ngủ khì nữa. Như vậy có quá hay hay không? Nếu ai có thể dùng được phương pháp này thì thật là không đến nỗi tệ, thật là có hạnh tu đấy.
Phun nước miếng lên mặt, có người phun nước miếng lên mặt mình thì lửa vô minh bốc lên hằng ba ngàn trượng: "Tại sao anh làm nhục tôi?!" Nhưng Bồ-tát Di Lặc thì: Cứ để nó khô thôi, để cho nó tự khô đi, tôi cũng không cần lấy tay lau sạch.
Ta cũng bớt sức lực, lau sạch nước miếng dù không hao phí sức lực bao nhiêu, nhưng cũng là phải dùng sức, bây giờ không lau thì sức lực đó cũng bớt phải xử dụng.
Anh cũng khỏi giận hờn, một khi mình thấy một người bị mình phun nước miếng lên mặt mà người ấy hình như coi như không, thì nghĩ rằng: "Cái người này! Mình không quen biết họ", thế thì giận hờn của mình không còn nữa.
Kiểu Ba-la-mật ấy, sao gọi là Ba-la-mật? Ðó là có người đánh, mình có thể ngủ thì được; có người phun nước miếng lên mặt, mình cứ để nó tự khô đi; đó chính là Ba-la-mật, cũng gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Giả như ngay đến Nhẫn nhục Ba-la-mật mà cũng không biết, thì mình học Phật pháp để làm chi? Chẳng cần phải suốt ngày từ sáng tới tối học đi học lại mãi mới gọi là học được nhiều Phật pháp, mà có khi cảnh giới đến lại không biết áp dụng một tí nào.
Chính là báu thêm mầu, đó là mầu nhiệm trong mầu nhiệm, quý báu trong quý báu. Nếu biết được như thế, lo gì đạo chẳng thành?
Nếu biết được những điều như trên thì lo gì không thành đạo được? Nếu tu học Nhẫn nhục Ba-la-mật như thế, thì đạo nghiệp của mình nhất định sẽ thành tựu; chư Phật, Bồ-tát không bao giờ dối gạt người đâu. Nếu mình học được như Bồ-tát Di Lặc thì nhứt định sẽ thành tựu đạo quả. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Bồ Tát Di Lặc là đại biểu truyền thừa tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật là một thời đại lớn. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật có Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp. Thời đại lớn này là một vạn hai ngàn năm. ....Bồ Tát Di Lặc chính là kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp, Di Lặc là vị thứ năm, cho nên là tiếp nối tương lai, cũng tiếp nối pháp môn này. Pháp môn này là pháp môn đệ nhất, mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo. Pháp môn đệ nhất chính là kinh Vô Lượng Thọ. Đối tượng kinh Vô Lượng Thọ, đối tượng có thể tiếp dẫn chính là chúng sanh căn tánh chín muồi ở thế gian - Ngay trong một đời này quyết định làm Phật. Đó chính là đối tượng của kinh Vô Lượng Thọ. Đây là thật, không phải giả ! .....H.T. TINH KHÔNG ! Xem thêm
+ 670. THỌ KÝ ĐỨC PHẬT DI LẶC
Này Di-lặc, vào một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, ngươi sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Giống như Ta hiện nay là Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. (Nguồn: mục 670- (Trung A Hàm, Kinh Thiên Sứ, Phẩm 6, số 64)
+ Di-lặc Bồ-tát, còn gọi là A-dật-đa (Ajita/ Hán dịch: Vô năng thắng). Di-lặc/ Từ thị (Maitreya) là họ của gia đình. Vị tăng to béo mập mạp. Có lẽ là vị Bồ-tát nầy thích ăn ngon. Ngài cũng rất thích cười, Ngài rất thích chơi với trẻ con, và đáp lại, trẻ con cũng rất thích chơi với ngài. Sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt, không còn là bậc đạo sư giáo hoá chúng sinh ở cõi nầy nữa, thì Đức Phật Di-lặc sẽ ra đời để tiếp tục việc giáo hoá chúng sinh. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni được gọi là Hồng Dương Phật. Khi Bồ-tát Di-lặc thành Phật, ngài sẽ được gọi là Bạch Dương Phật. Điều nầy có nghĩa là khi Đức Phật Di-lặc thị hiện ra đời, thì máu của chúng sinh sẽ là màu trắng, không còn màu đỏ như thời trước nữa. Loài người hiện nay có máu màu đỏ vì đang ở trong thời giáo hoá của Hồng Dương Phật.
Khi nào Đức Phật mới Di-lặc thị hiện ra đời? Nghe thật là lâu xa khi quý vị được kể ra ...(Mời xem trong Kinh văn). Thời Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dậy con tu tập pháp định duy tâm thức (Tam giới duy tâm - Vạn pháp duy thức là nguyên lý của pháp Duy thức quán), con được nhập vào chánh định, tâm cầu danh thế gian đã diệt. Bạch Đức Thế tôn, do con rõ được tánh duy thức như vậy, nên từ thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được Phật thụ kí, kế tiếp thành Phật ở cõi nầy. Đức Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp quán tường tận mười phương đều do thức biến. Thức tâm được tròn sáng, thể nhập tánh viên thành thật, rời xa các tánh y tha khởi và tánh biến kế sở chấp, được pháp vô sanh nhẫn. Đó là phương pháp tốt nhất. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Từ Thị Nhẫn: Từ Thị là Bồ Tát Di Lặc, bụng của ngài rất mập mạp, ai có lỗi lầm gì thì ngài cũng đều tha thứ, ngài luôn cười hì hì. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr69 - HT Tuyên Hóa giảng)
Xem: Tóm lược các Kỳ công của Hercules huyền thoại và Đức Phật và Đức Christ
Xem: Hercules và Đức Phật, Đức Christ
A- HUYỀN THUẬT HAY CHÁNH ĐẠO
+ Huyền thuật (Magic). GLBN I, 284.
- Huyền thuật là một khoa học thiêng liêng dẫn đến việc tham dự vào các phẩm đức (attributes) của chính sự thiêng liêng. Isis Unveiled I, 25.
- Mọi hoạt động huyền thuật cốt ở việc gạt bỏ các khúc cuộn của Con Rắn Cũ xưa (Ancient Serpent). Isis Unveiled I, 138.
- Mục tiêu của Khoa huyền thuật là sự hoàn thiện của con người. Isis Unveiled I, 309.
- Pháp thuật thiêng liêng cốt ở khả năng nhận ra tinh hoa của các sự vật dưới ánh sáng của thiên nhiên (cảm dục quang, astral light) và – bằng cách dùng các sức mạnh - linh hồn của Tinh Thần – để tạo ra các sự việc vật chất từ vũ trụ không nhìn thấy, và bằng các hoạt động như thế, Thượng (Above) và Hạ (Below) phải được tập hợp lại và tạo ra một tác động hài hòa. GLBN II, 538.
- Huyền thuật và từ lực (magnetism) là các thuật ngữ đồng nghĩa. Isis Unveiled I, 279.
- Huyền thuật là toàn bộ tri thức tự nhiên (natural knowledge). Isis Unveiled II, 99, 189.
- Huyền thoại không hàm ý sự vi phạm các định luật của thiên nhiên. Isis Unveiled I, Preface.
+ Căn bản của Huyền thuật.
- Huyền thuật được dựa vào các quyền năng bên trong của linh hồn con người . Isis Unveiled I, 459.
- Trinity của thiên nhiên là ổ khóa của huyền thuật, trinity của con người là chìa khóa vừa với nó. Isis Unveiled II, 635. 3.
- Huyền thuật là tâm lý học huyền linh. Isis Unveiled I, 612 – 616 4.
- Cảm dục quang là tác nhân chính của huyền thuật. Isis Unveiled I, 128. GLBN I, 275; II, 537.
+ Huyền thuật. Chính thuật ngữ Magic (Huyền Thuật) mang bằng chứng về nguồn cội cao siêu của nó. Tiếng La Tinh Magus, tiếng Hy Lạp Magos, tức nhà huyền thuật (magician), đem lại cho tất cả chúng ta các thuật ngữ khác này biểu thị cho uy quyền, minh triết, sự vượt trội. Kế đó chúng ta có phạm vi ảnh hưởng lộng lẫy, khoa trương, để diễn tả sự lớn lao ở vị thế, trong hành động và trong ngôn từ. Với âm tiết cuối hơi thay đổi, các từ giống nhau trở nên oai vệ, hàm ý quyền chi phối, và lần nữa, chúng ta có vị thẩm phán (magistrate), bất cứ điều gì có uy quyền mà lần nữa đã được đơn giản hóa thành Đức Thầy, và sau cùng bằng tiến trình tiến hóa ngôn từ đã trở thành chữ Mister (Ông) dễ hiểu. Nhưng chữ La Tinh chỉ là một cách truyền đạt các từ. Chúng ta cũng có thể lần theo sự phát triển lịch sử của ngữ căn này đến lúc chúng ta đạt đến ngôn ngữ Zend nơi mà chúng ta tìm thấy nó làm nhiệm vụ dưới tên dành cho toàn thể đẳng cấp tu sĩ. Các nhà huyền thuật (magi) được biết đến trên khắp thế giới vì sự minh triết và khéo léo của họ trong huyền linh học, và chắc chắn là từ ngữ huyền thuật hầu như mắc nợ vào cội nguồn đó vì sự tồn tại và ý nghĩa hiện nay của nó. Vậy chúng ta không cần dừng lại ngay cả nơi đây để trở lại ngôn ngữ Zend “mag”, hiện ra mờ mờ từ Bắc Phạn ngữ, maha, có nghĩa là vĩ đại”. Các học giả lỗi lạc nghĩ rằng chữ maha (lớn, đại) được viết theo chính tả lúc đầu mà “magha”. Phải công nhận là trong Bắc Phạn ngữ (sanskrit) có chữ Maga nghĩa là một thầy tu của Mặt Trời, nhưng chữ này rõ ràng là một từ vay mượn từ Zend (ngôn ngữ ?-ND) có nguồn gốc của nó từ ngôn ngữ láng giềng của nó là Bắc Phạn ngữ. (Nguồn: Tạp chí Lucifer, q X, 157.)
+ Huyền Thuật (Magic). Pháp thuật thiêng liêng cốt ở khả năng nhận ra tinh hoa của các sự vật dưới ánh sáng của thiên nhiên (cảm dục quang, astral light) và – bằng cách dùng các sức mạnh - linh hồn của Tinh Thần – để tạo ra các sự việc vật chất từ vũ trụ không nhìn thấy, và bằng các hoạt động như thế, Thượng (Above) và Hạ (Below) phải được tập hợp lại và tạo ra một tác động hài hòa. GLBN II, 538.
+ Magic là Vidya thứ hai trong bốn Vidyas (Minh Triết Tri Thức) và là maha - Vidya vĩ đại trong các tác phẩm Vạn Pháp Kỳ Thư (Tantric writtings). Nó cần có ánh sáng của vidya thứ tư (atma vidya, minh triết tinh thần) chiếu rọi lên nó để trở thành White Magic (Huyền Linh Thuật). GLBN I, 192.
+ Ứng Dụng Của Pháp thuật Hành Đạo Với Hắc Đạo Và Quỷ Thần
Hỏi: Dùng bùa chú như thế nào để đối phó với ma quỷ yêu tinh?
Đáp: Pháp thuật của ngoại đạo, của các loài yêu ma quỷ quái có lúc làm cho quý vị nhức đầu, đau răng, đau mắt, hoặc khiến cho quý vị không thể đi đứng, bị chóng mặt, hay phát cuồng nói bậy. Lúc đó các vị tụng chú thì sẽ phá được pháp thuật của chúng nó, khiến pháp thuật của chúng không còn linh nghiệm, chớ không phải là vô cớ bảo quý vị đi đối phó loài yêu ma quỷ quái đâu! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp câu hỏi 270)
+ Giờ đây những phương pháp nào có thể được sử dụng để bảo toàn người phụng sự nhân loại? Làm thế nào để bảo đảm an toàn cho họ trong cuộc xung đột hiện tại và trong cuộc xung đột còn lớn lao hơn của các thế kỷ sắp đến?
1. Hãy nhận thức rằng sự thanh khiết của tất cả các thể là điều kiện tiên quyết. Nếu một vị Hắc đạo chế ngự được một người nào thì điều ấy chứng tỏ rằng cuộc sống y có một vài nhược điểm. Cánh cửa xâm nhập phải do người đó tự mở ra, và kẽ hở mà sức mạnh độc hại có thể tràn vào phải do chủ nhân các thể tự tạo. Vì thế cần phải thận trọng gìn giữ xác thân hết sức sạch sẽ, chỉ có những tình cảm thanh khiết, vững vàng trong thể tình cảm, và tư tưởng trong thể trí phải thật thanh cao. Khi làm được như vậy, sẽ có sự điều hợp trong các hạ thể và Người suy tưởng (Chân ngã) ở nội tâm sẽ ngăn được mọi sự xâm nhập.
2. Hãy chấm dứt mọi nỗi sợ hãi. Những mãnh lực thăng thượng tiến hóa rung động mau lẹ hơn các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, đây có thể hiểu là yếu tố an toàn. Sự sợ hãi làm suy yếu; suy yếu làm tan rã; một điểm yếu vỡ ra tạo nên khoảng trống, qua đó mãnh lực ác hại có thể xâm nhập. Yếu tố xâm nhập là sự sợ hãi của chính đương sự, y tự mở ra cánh cửa theo cách đó.
3. Hãy điềm tĩnh, vững vàng dù điều gì xảy ra cũng vậy. Chân bạn có thể chìm trong bùn lầy của mặt đất, nhưng đầu bạn có thể tắm trong ánh nắng mặt trời ở trên cao. Hãy nhận biết bùn lầy của thế gian nhưng đừng để bị nhiễm bẩn.
4. Hãy biết cách dùng lương tri và áp dụng lương tri vào vấn đề đang có. Hãy ngủ nhiều và trong khi ngủ tìm cách làm cho cơ thể trở nên tích cực. Hãy cố gắng làm công việc trên cõi tình cảm và giữ gìn sự an tịnh nội tâm. Đừng bắt thân xác làm việc quá mệt mỏi, và chơi đùa bất cứ khi nào có dịp. Những giờ ngơi nghỉ, thư thả giúp điều chỉnh, ngăn ngừa những sự căng thẳng về sau.
Cõi Chánh Đạo Ngự trị: Ở cõi trần và cõi tình cảm huynh đệ Hắc đạo chiếm ưu thế. Nhưng ở cõi trí thì không mạnh như vậy, vì đó là cõi mà các Huynh đệ Chánh đạo đang hoạt động. Những nhà hắc thuật cao cường có thể hoạt động ở cõi hạ trí, chứ ở cõi thượng trí thì Chánh đạo ngự trị (TTHM, 136_Nguy hiểm trong tham thiền)
B- HẮC THUẬT HAY TÀ ĐẠO/ TÀ THUẬT
+ Đối–Christ (Anti–Christ): Người tìm đạo thuộc cung hai tạo ra Tổng Quả Báo (Dweller) của mình và để cho sự kềm chế ngày càng mạnh của nó trở thành “kẻ lừa phỉnh của linh hồn” (“deluder of souls”). Y là kẻ Đối – Christ thực sự, và qua giáo huấn sai lầm và sự tác động của những gì được gọi là huyền diệu, qua sự thôi miên và sự ám thị tập thể (mass suggestion), y giăng bức màn qua thế gian và bắt con người bước đi trong đại hão huyền. (LVHLT, 240)
+ Hãy nhớ rằng nhà hắc thuật thật sự (ở đây Tôi không đề cập đến một người có xu hướng hắc thuật) là một thực thể mất linh hồn (a soulless entity). Y là một thực thể mà trong y, Chân Ngã (Ego) – theo như chúng ta hiểu thuật ngữ đó ngày nay – không tồn tại (non-existent). Nó thường không được ….ác, kết quả là tận thế và bắt đầu ngày phán xét cuối cùng.-- ND …. chú ý và ít khi được thấu hiểu hoặc được biểu lộ, nên do đó, chúng không tồn tại trong thể xác. Thế giới của chúng bao giờ cũng là thế giới ảo tưởng. Từ cõi hạ trí, chúng tác động vào chất liệu dục vọng và vào thể cảm dục của những người trên cõi trần, vốn là những người bị ảo giác lôi cuốn và bị giữ lại trong xiềng xích của lòng ích kỷ cực độ, và việc tự cho mình là trung tâm (self-centeredness). Điều mà những người vô minh gọi là một nhà hắc thuật trên cõi trần chỉ là một người nam hoặc nữ nào đó nhạy cảm với, hoặc đồng cảm với một nhà hắc thuật thực sự trên cõi cảm dục. Mối quan hệ này chỉ có thể xảy ra khi đã có nhiều kiếp sống ích kỷ, dục vọng thấp kém, khát vọng trí tuệ lầm lạc, và ưa thích thông-linh-thuật (psychism) hạ đẳng, và điều này chỉ có thể xảy ra khi con người đã tự nguyện để cho chúng giam giữ trong cảnh nô lệ.(LVHLT, 545)
+ Pháp Thuật Hắc Đạo “Trù yếm thư chú kết oán thù.”
“Yếm mị chú thư” tức là tà chú, tà thuật thư ếm hại người. Có phái ngoại đạo dường như có một loại chú thư. Trong Mật Tông chẳng hạn, có một loại chú mà kẻ nào niệm được bài chú này, tu luyện được thứ phép thuật này, thì nội trong bảy ngày, kẻ ấy bảo quý vị chết thì quý vị sẽ chết, bảo quý vị sống thì quý vị được sống. Cho nên, Mật Tông xem ra cũng rất lợi hại! Quý vị nào có bạn bè theo Mật Tông thì cần phải cẩn thận một chút! Nếu quý vi có ý đắc tội với họ, thì coi chừng họ sẽ niệm chú cho quý vị chết! Thế nhưng, đây chính là một thứ tánh nết của A tu la, không có tâm từ bi. Như vậy tức là “yếm mị.”
Họ làm một “tiểu nhân” tức là một hình nhân nho nhỏ, trên đó có ghi rõ “sanh thần bát tự” [năm tháng ngày giờ sinh viết theo can chi] của quý vị; rồi hôm nay thì lấy kim chọc vào mắt hình nhân cho mù, ngày mai dùng kim đâm vào tai hình nhân cho điếc, ngày mốt lấy kim châm vào cổ họng hình nhân và bấy giờ quý vị sẽ bị đứt hơi mà chết! Đây là phép thuật của bàng môn tả đạo.
Tuy nhiên, quý vị chớ nên sợ hãi, chỉ cần quý vị có thể niệm Chú Đại Bi, thì họ có dùng phép thuật gì cũng đều không công hiệu cả.
“Kết oán thù.” “Kết” tức là cột vào với nhau; “oán thù” tức là thù hận vô cùng sâu nặng.
“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi.” Bấy giờ, quý vị chí thành khẩn thiết xưng tụng Thần chú Đại Bi, thì “trù ếm trở về nơi bổn nhân.” Họ muốn ám hại người khác, nhưng các phép thuật độc ác đó lại trở về nơi thân họ, khiến họ tự thọ quả báo! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ NÊN NHỚ: Hắc đạo họ không kính trọng ai cả, xem mọi người như là miếng mồi ngon. Họ bắt buộc mọi người phải làm theo đường lối của họ, và dùng những phương tiện đúng đắn hay bẩn thỉu để triệt hạ mọi chống đối và để cá nhân họ đạt được những gì họ muốn. Vị hắc đạo không để ý đến nỗi đau khổ mà y có thể gây ra. Y không bận tâm đến sự đau đớn tinh thần mà y mang lại cho kẻ chống đối y. Y cứ thực hiện ý định và không ngừng gây tổn thương cho bất cứ ai, đàn ông, phụ nữ hay trẻ em, miễn là việc làm đó khiến y thêm đến gần mục đích. Tuyệt đối không bao giờ nên trông mong lòng nhân từ của những kẻ chống lại Quang minh Chánh đạo.
Ở cõi trần và cõi tình cảm, các vị bàng môn có nhiều quyền lực hơn các Huynh đệ Ánh sáng (Ở Cõi trí, đặc biệt Thượng trí Chánh đạo ngự trị), không hơn về quyền năng thực sự, mà chỉ hơn về quyền năng bề ngoài, vì các Huynh đệ Chánh đạo không tìm cách thi thố quyền năng của mình trên hai cảnh giới đó, như phe Hắc đạo làm. Họ có thể vận dụng thẩm quyền của mình nhưng lại tự hạn chế, chỉ làm việc với các quyền năng thăng thượng tiến hóa, chứ không với các quyền năng tiến hóa giáng hạ. Những lực lượng tinh linh ở hai cảnh giới này được vận dụng bởi hai yếu tố.
a. Những mãnh lực cố hữu của cơ tiến hóa đang hướng dẫn tất cả đi tới hướng về sự hoàn thiện cuối cùng. Các Chân sư Chánh đạo đang hợp tác trong công cuộc này.
b. Các vị Hắc đạo đôi khi sử dụng các lực lượng tinh linh này để thỏa mãn ý muốn của họ và trả thù những người chống lại họ. Dưới sự điều khiển của họ, đôi khi có những tinh linh của cõi trần phục vụ như những thần giữ của và các loài tinh hoa hình dạng xấu xa, vài loại thần lùn và các tiên nữ màu nâu, màu xám và màu tối. Họ không thể kiểm soát được các thiên thần tiến hóa cao, cũng như các tiên nữ màu xanh, màu xanh lục và vàng, dù một số tiên nữ màu đỏ có thể bị buộc phải làm việc theo chỉ thị của họ. Những tinh linh dưới nước (không phải là thủy thần hay thủy tiên) có khi cũng đến trợ giúp họ. Khi kiểm soát được các lực lượng tiến hóa giáng hạ này họ cũng đôi lần gây tổn thất cho công việc của chúng ta.
Thường thì vị Hắc đạo giả làm một nhân viên Chánh đạo, họ thường đóng vai một sứ giả của thần thánh. Nhưng tôi đoán chắc với các bạn rằng, người nào hành động dưới sự hướng dẫn của Chân nhân mình sẽ có tầm mắt sáng tỏ và tránh được sự lừa gạt. (TTHM, 136_Nguy hiểm trong tham thiền)
+ Các ghi chú về Hắc thuật và huyền thuật: (LVLCK, tr 393-399)
+ Tả đạo (The Left–hand Path): Là con đường mà kẻ theo hắc đạo (black magician) và các huynh đệ trong bóng tối (brothers of the Shadows) đi theo. Nó bắt nguồn từ việc sử dụng các mãnh lực của thiên nhiên vào các mục đích ích kỷ; điểm nổi bật của nó là lòng ích kỷ và tính chia rẽ mạnh mẽ và chấm dứt nơi cõi A tỳ (Avitchi), tức cõi thứ 8, trú sở của các linh hồn bị sa đọa (lost soul) hay các lớp vỏ (shells) của con người hạ đẳng đã trở nên tách biệt với nguyên khí sự sống Chân Ngã hay cá nhân. (LVLCK, 642)
+ Tà thuật (Voodooism, tà đạo/ Black magic): – Tà thuật (black magic) chỉ là việc lạm dụng các quyền năng thông linh (psychic powers), hoặc lạm dụng bất cứ bí nhiệm nào của thiên nhiên, đúng ra là dùng sức mạnh của huyền học vào các mục đích ích kỷ, tội lỗi. (CKMTTL, 223).
Nhà ma thuật dứt khoát là đã sử dụng các bộ phận thân thể này (tức là não, phổi, tim, lá lách và các cơ quan sinh sản–ND) để tạo ra một loại thần lực, vốn là sự pha trộn của lực dĩ thái và năng lượng vật chất trọng trược, giúp cho y có thể làm được một vài hình thức pháp thuật, cũng như là tạo ra những hiệu quả trên các thể xác của loài thú và loài người. Chính kiến thức về điều này là nền tảng của tà thuật và của tất cả những cách thực hành gây ra sự suy kiệt (depletion) và chết chóc của những kẻ cản trở đường đi của nhà ma thuật hay bị y coi là kẻ thù. (ASCLH, 222–223)
C- SO SÁNH GIỮA HUYỀN THUẬT HAY CHÁNH ĐẠO VÀ HẮC THUẬT HAY TÀ ĐẠO
+ Con Đường Tiến Hóa của Hắc Đạo và Chánh Đạo:
- Con đường Ly Nguyên (Path of Outgoing): Con đường ly nguyên đưa vào vật chất. (CTHNM, 569)
* Huynh đệ hắc đạo dồn hết thì giờ vào các mãnh lực giáng hạ tiến hóa, hay là Con Đường Ly Nguyên. (LVLCK, 987)
- Con đường Qui Nguyên (Path of Return, Phản Bổn Hoàn nguyên):
* Huynh Đệ Chánh Đạo: Như người ta biết rõ, nhà huyền linh học hoạt động theo khía cạnh tiến hóa thăng thượng hay liên quan đến Con đường Qui Nguyên.(LVLCK, 987)
+ Hắc Đạo và Chính Đạo: Nhiều điều được nói ra trong số các đạo sinh huyền môn ngày nay về chính đạo và tà đạo. Điều cần nói chính xác là giữa hai loại người đó, đường ranh giới rất mong manh, khó mà nhận biết bởi những người cho đến nay, không xứng đáng với danh xưng là “kẻ biết”. Sự phân biệt giữa hai hạng người này là ở nơi cả hai động lực và phương pháp, có thể được tóm tắt như sau:
- Nhà huyền linh học có động lực trong những gì sẽ đem ích lợi cho tập thể mà người này dùng hết năng lực và thời gian cho tập thể đó. Hạng người theo tả đạo bao giờ cũng hoạt động một mình, hoặc là nếu vào bất cứ lúc nào y cộng tác với những người khác, thì đó là với mục đích ích kỷ ẩn giấu. Kẻ kiệt xuất của huyền linh học tự mình chú ý vào công việc nỗ lực có tính cách kiến tạo để cộng tác với các kế hoạch của Thánh Đoàn và để xúc tiến các ý muốn (desires) của Đức Hành Tinh Thượng Đế.
- Huynh Đệ Hắc Đạo dồn hết thì giờ của mình vào những gì nằm bên ngoài các kế hoạch của Thánh Đoàn và vào những gì không được đưa vào trong mục tiêu của Đấng Chủ Quản Cung của hành tinh.
Như có nói ở trước, nhà huyền linh học hoạt động hoàn toàn qua các Thần Kiến Tạo cao cấp, qua âm thanh và các con số mà Ngài phối hợp vào công việc các Ngài, và như thế có ảnh hưởng lên các Thần Kiến Tạo cấp thấp đang hợp thành vật chất của các thể của các Ngài, và do đó hết thảy những gì hiện hữu. Ngài hoạt động qua các bí huyệt và các điểm năng lượng thiết yếu, và từ đó tạo ra trong vật chất các kết quả mong muốn. Hắc phái làm việc trực tiếp với chính vật chất và với các thần tạo tác cấp thấp. Hắc phái không hợp tác với các thần lực xuất phát từ các phân cảnh Chân Ngã. Các băng nhóm nhỏ của “Đạo Binh Âm Thanh” là những kẻ phụng sự của hắc phái, và không có các Trí Tuệ điều khiển trong ba cõi thấp, do đó hắc phái hoạt động trước tiên trên cõi cảm dục và cõi trần, chỉ trong các trường hợp hiếm hoi mới hoạt động với các mãnh lực của cõi trí, và chỉ trong một ít trường hợp đặc biệt, ẩn giấu trong karma vũ trụ, một nhân viên hắc đạo mới hoạt động trên các phân cảnh cao của cõi trí. Tuy nhiên, các trường hợp được thấy ở trên là các nguyên nhân đóng góp chính của mọi hắc đạo đang biểu lộ. Huynh Đệ Chính Đạo bao giờ cũng hoạt động qua mãnh lực cố hữu của Ngôi Hai chừng nào mà vị này còn hoạt động liên quan với ba cõi thấp. Sau kỳ điểm đạo thứ ba, vị này hoạt động ngày càng nhiều với năng lượng tinh thần, hoặc là với thần lực của Ngôi Một. Ngài tạo ấn tượng lên các chất liệu hạ đẳng và vận dụng các sinh linh tạo tác cấp thấp với rung động của bác ái và sự mạch lạc thu hút của Ngôi Con, và nhờ minh triết mà các hình hài được tạo ra. Ngài học cách hoạt động từ tim, và do đó vận dụng loại năng lượng đang tuôn chảy từ “Tâm của Mặt Trời” cho đến khi (Ngài trở thành Đức Phật) Ngài có thể phân phát một phần thần lực phát ra từ “Mặt Trời Tâm Linh”. Do đó, bí huyệt tim trong Huynh Đệ Chính Phái là môi giới truyền chuyển của lực kiến tạo,và tam giác mà y sử dụng trong công tác này là:
a/ Bí huyệt trong đầu tương ứng với tim.
b/ Chính bí huyệt tim.
c/ Bí huyệt cổ họng.
Các Huynh Đệ Tả Phái hoạt động với các lực hoàn toàn của Ngôi Ba, và chính điều này mang lại cho họ rất nhiều quyền năng có vẻ thực, vì Ngôi Hai chỉ đang ở trong tiến trình đạt đến mức rung động cao nhất của nó, trong khi Ngôi Ba đang ở đỉnh cao của hoạt động rung động, vốn là sản phẩm của các diễn trình tiến hóa của thái dương hệ chính có trước kia. Ngôi này hầu như hoàn toàn hoạt động từ bí huyệt cổ họng, và trước tiên vận dụng các thần lực của mặt trời vật chất. Đây là lý do giải thích tại sao ngôi này đạt được nhiều mục tiêu của mình qua phương pháp kích thích prana hoặc phương pháp làm mất sinh khí của prana, và cũng giải thích tại sao đa số các ảnh hưởng của ngôi này đều xảy ra trên cõi trần. Do đó, ngôi này hoạt động qua
a/ Bí huyệt trong đầu tương ứng với bí huyệt cổ họng.
b/ Bí huyệt cổ họng.
c/ Bí huyệt ở đáy xương sống.
Nhà huyền linh học luôn luôn hoạt động kết hợp với những người khác, và chính y ở dưới sự chi phối của một số vị Lãnh Đạo nhóm. Ví dụ các Huynh Đệ của Bạch Giai hoạt động dưới quyền ba vị Đại Thánh và tuân theo các kế hoạch được đề ra, đặt các mục tiêu cá biệt và các ý kiến của các Ngài dưới đại kế hoạch chung. Kẻ theo hắc phái thường hoạt động mạnh theo cách cá nhân, và có thể được thấy đang xúc tiến các kế hoạch của y một mình hoặc có sự trợ giúp của các phụ tá. Y thường không chấp nhận một cấp trên quen thuộc nào, tuy nhiên lại thường là nạn nhân của các kẻ thừa hành trên các phân cảnh cao của tà lực vũ trụ, kẻ dùng y như y dùng các kẻ cộng tác thấp kém của y, nghĩa là, y hoạt động (bao giờ mà mục tiêu lớn hơn còn liên quan tới) một cách mù mờ và thiếu ý thức.
Như chúng ta biết rõ, kẻ theo chính đạo làm việc theo khía cạnh tiến hóa thăng thượng hay liên quan với Con Đường Hoàn Nguyên (Path of Return). Huynh đệ hắc đạo bận tâm vào các mãnh lực giáng hạ tiến hóa, hay là với Con Đường Hướng Ngoại (Path of Outgoing). Họ tạo thành mãnh lực thăng bằng lớn trong cơ tiến hóa, và mặc dù họ bận tâm với khía cạnh vật chất của biểu lộ, còn Huynh Đệ Chính Đạo lo về trạng thái linh hồn hay tâm thức, họ và công việc của họ, ở dưới đại luật tiến hóa, góp phần vào mục tiêu chung của Thái Dương Thượng Đế, mặc dù (và đây là ý nghĩa huyền bí tuyệt diệu đối với đạo sinh giác ngộ) không đóng góp vào mục tiêu riêng của Hành Tinh Thượng Đế.
Sau cùng có thể nói vắn tắt về các phân biệt giữa các nhà pháp thuật, đó là nhà pháp thuật của Thiên Luật hoạt động với linh hồn của các sự vật. Các huynh đệ hắc phái của y hoạt động theo khía cạnh vật chất.
Nhà huyền linh học hoạt động qua các trung tâm lực trên các cõi phụ thứ nhất và thứ tư của mỗi cõi chính. Kẻ theo hắc phái hoạt động qua các vi tử thường tồn và với vật chất và các hình hài có liên hệ. Trong mối liên hệ này, nhà huyền linh học sử dụng ba trung tâm lực cao. Kẻ theo hắc đạo sử dụng năng lượng của ba trung tâm lực thấp (các cơ quan sinh sản, lá lách và huyệt đan điền) tổng hợp năng lượng của họ bằng một tác động của ý chí và hướng nó vào trung tâm lực ở đáy xương sống, sao cho năng lượng tứ phân đó bây giờ được truyền tới bí huyệt cổ họng.
Nhà huyền linh học vận dụng mãnh lực kundalini khi nó được truyền qua vận hà giữa xương sống. Người theo hắc đạo vận dụng các vận hà bên trong, chia năng lượng tứ phân thành hai đơn vị, đi lên xuyên qua hai vận hà, để cho vận hà giữa ở trạng thái yên ngủ. Do vậy rõ ràng là một vận hà hoạt động với hai mặt, còn vận hà kia hoạt động với một mặt. Do đó, trên các cõi có hai mặt (planes of duality) hiển nhiên là tại sao kẻ theo hắc đạo có rất nhiều quyền năng này. Cõi có một mặt (plane of unity) đối với nhân loại là cõi trí. Các cõi có tính đa dạng (planes of diversity) là cõi cảm dục và cõi trần. Do đó, kẻ theo hắc đạo có quyền năng rõ rệt hơn là huynh đệ chính đạo trên hai cõi chính thấp (two lower planes) thuộc ba cõi thấp (three worlds, - hồng trần, cảm dục và hạ trí – ND).
Huynh đệ chính đạo làm việc dưới quyền Thánh Đoàn, hay là dưới quyền Vị Chúa vĩ đại (great King), đang thi hành các mục tiêu thuộc hành tinh của Ngài. Huynh đệ hắc đạo làm việc dưới quyền một vài Thực Thể riêng rẽ, mà y không biết gì cả, các Thực Thể này có liên quan với các mãnh lực của chính vật chất. Nhiều điều hơn có thể được đưa ra trong mối liên hệ này, nhưng những gì được đưa ra ở đây cũng đủ cho mục đích của chúng ta.
b/ Cội nguồn của Hắc Thuật. Khi đề cập đến điểm này, chúng ta đang xâm phạm vào các lãnh vực của huyền bí và địa hạt không thể giải thích được. Tuy nhiên, một vài diễn đạt có thể được đưa ra ở đây mà, nếu được suy nghiệm, có thể rọi một ít ánh sáng vào vấn đề tối tăm này.
Thứ nhất. Nên nhớ rằng toàn bộ vấn đề tai họa hành tinh (và đạo sinh phải thận trọng giữa tệ trạng hành tinh với tệ trạng vũ trụ) nằm ẩn giấu trong các chu kỳ sống của cá nhân và trong lịch sử của Thực Thể Vĩ Đại chính là Hành Tinh Thượng Đế của Địa Cầu. Do đó mãi cho tới khi một người đã được một số lần điểm đạo và như vậy đạt được một mức độ tâm thức hành tinh, thật là vô ích cho y khi suy đoán về sự ghi nhận đó. Trong bộ GLBN (q. III, 62; Đoạn 6, trang 27), H.P.B. có nói đến vấn đề “Các Thượng Đế chưa hoàn thiện”, và trong các ngôn từ này có ẩn chìa khóa về tệ trạng hành tinh (planetary evil)... (Nguồn: sách Luận về lửa càn khôn trang 397 - 410)
+ Hắc thuật sử dụng cảm dục quang (astral light) với mục đích lừa dối và quyến rủ, trong khi đó, huyền thuật sử dụng với mục đích thông tin và trợ giúp sự tiến hóa. (SD–I, 274)
1. Hắc thuật làm việc với các đối cực. Huyền thuật tìm kiếm điểm cân bằng hay quân bình và tổng hợp. (SD–I, 448)
2. Hắc thuật có biểu tượng là ngôi sao 5 cánh lật ngược. Huyền thuật sử dụng cùng biểu tượng với đỉnh hướng lên trên.
3. Hắc thuật là đại minh triết pháp thuật (Maha–Vidya) không có ánh sáng của minh triết tinh thần chân chính (Atma– Vidya). Huyền thuật là đại minh triết pháp thuật được soi sáng bằng minh triết tinh thần chân chính. (SD–I, 592)
4. Hắc thuật bị chi phối bởi mặt trăng. Huyền thuật được chi phối bởi mặt trời.
5. Hắc thuật và huyền thuật xuất phát trong kỳ đại phân ly tôn giáo (great schism) xảy ra trong căn chủng thứ tư. (SD–II, 221, 445, 520)
6. Hắc thuật dựa vào sự suy thoái về tính dục và về chức năng sáng tạo. Huyền thuật dựa vào sự chuyển hóa của khả năng sáng tạo thành tư tưởng sáng tạo cao siêu, các cơ quan sinh sản không được luồng nội hỏa (inner fire) lưu tâm đến, nội hỏa này chuyển qua bí huyệt cổ họng, trung tâm lực của âm thanh sáng tạo.
1. Hắc thuật liên quan đến các mãnh lực tiến hóa giáng hạ (involution). Huyền thuật hoạt động với năng lực tiến hóa thăng thượng. Hắc thuật liên quan với sắc tướng, với vật chất. Huyền thuật liên quan với sự sống bên trong hình hài, với Tinh thần. (LVLCK, 985)
+ Hắc Thuật (Black Magic, Tà Thuật, Tả Đạo) được HPB định nghĩa:
a/ Hắc Thuật sử dụng cảm dục quang cho các mục tiêu phỉnh lừa và dụ dỗ, trong khi nhà huyền linh thuật dùng nó cho các mục đích thông tin và trợ giúp sự tiến hóa. GLBN I, 274.
b/ Hắc thuật hoạt động với các đối cực. Nhà huyền linh thuật tìm kiếm điểm cân bằng hay quân bình, và điểm tổng hợp. GLBN I, 448.
c/ Biểu tượng của hắc thuật là ngôi sao năm cánh đảo ngược. Huyền linh thuật sử dụng cùng biểu tượng với điểm nhọn trên cùng.
d/ Hắc thuật là maha-vidya không có ánh sáng của atma-vidya. Huyền Linh thuật là maha-vidya được chiếu sáng bằng Atma-vidya. GLBN I, 592.
e/ Hắc thuật bị chi phối bởi mặt trăng. Huyền linh thuật bị chi phối bởi mặt trời.
f/ Hắc thuật và huyền linh thuật đều xuất phát trong cuộc đại ly giáo (great schism) bắt đầu trong căn chủng thứ tư. GLBN II, 221, 445,
g/ Hắc thuật được dựa vào sự suy thoái tính dục (degradation of sex) và suy thoái chức năng sinh sản. Huyền linh thuật căn cứ vào sự chuyển hóa của quan năng sáng tạo thành tư tưởng sáng tạo cao siêu, các cơ quan sinh sản bị bỏ rơi bởi luồng nội hỏa, nó chuyển qua cổ họng, bí huyệt của âm thanh sáng tạo.
h/ Hắc thuật liên quan đến các lực tiến hóa giáng hạ. Huyền linh thuật hoạt động với các mãnh lực tiến hóa thăng thượng.
i/ Hắc thuật có liên quan với hình hài, với vật chất. Huyền linh thuật có liên quan với sự sống bên trong hình hài, với Tinh Thần.
+ Xem thêm: Chánh đạo/ Huyền thuật và Tà đạo/ Hắc thuật (LVLCK)
+ Sinh lực (vital forces):
- Sinh lực (life force, prana, vitality) tức là từ lực (magnetism). (TVTTHL, 245)
- Sinh lực thuộc nhiều loại, đều chỉ là chất dĩ thái của không gian, chuyển động thường xuyên, đi qua lớp vỏ bên ngoài (outer sheath). (LVHLT, 289)
+ Từ lực là hiệu quả của cung thiêng liêng (Cung Bác ái ) khi biểu lộ, với cùng ý nghĩa rằng Điện năng là hiệu quả biểu lộ của cung nguyên thuỷ (Hoạt động sáng suốt) của Thông tuệ linh hoạt. Nên suy ngẫm kỹ về điều này vì nó nắm giữ một bí nhiệm (LVLCK, 59)
- Huyền thuật và từ lực (magnetism) là các thuật ngữ đồng nghĩa. Isis Unveiled I, 279.
+ Năng lượng sinh lực hay sinh khí (Pranic energy or vitality): Đây là sinh lực (vital force) có sẵn trong chính vật chất và mọi hình hài đều chìm ngập trong đó, vì chúng tạo thành các phần tử hoạt động của hình hài lớn hơn. Mọi hình hài đều đáp ứng với năng lượng này. Loại năng lượng này xuất phát từ mặt trời hồng trần và tác động tích cực lên các thể sinh lực của mọi hình hài trong cõi thiên nhiên (natural world), kể cả hình hài vật chất (physical form) của chính nhân loại. Theo thuật ngữ của Minh triết Vô Thủy (Ageless Wisdom), cả ba năng lượng này được gọi là lửa điện, lửa thái dương và lửa do ma sát. (LVHLT, 526)
+ Sinh lực: Theo y học Trung Hoa, sinh lực là năng lượng hay lực sinh sống được vận chuyển qua toàn thân thể; sức lực hệ trọng này lưu hành trong toàn thể vũ trụ.(Định nghĩa sinh lực - thuvienhoasen)
+ Tuyến tùng quả: Chúng ta được dạy rằng ở trung tâm não bộ, vùng tùng quả tuyến là trú sở của linh hồn, một tiền đồn của sự sống Thượng Đế, một tia lửa tinh thần thuần túy. Đây là điểm thấp nhất mà sự sống tinh thần thuần túy tiếp xúc hoặc chạm đến trực tiếp từ Chân Thần, Cha trên Trời. Đó là đầu mút của kim quang tuyến (sutratma or thread) đang nối liền và liên kết nhiều thể (sheaths) khác nhau và đi từ Chân Thần trên cõi cao, xuyên qua linh hồn thể trên các phân cảnh cao của cõi trí xuống tận thể xác. (ASCLH, 318)
+ Tuyến tùng quả là cơ quan bên ngoài của nội nhãn thông. Tuyến tùng quả là một khối nhỏ giống như hạt đậu, bằng chất xám thần kinh dính liền vào mặt sau của não thất thứ ba. Tuyến yên (pituitary body) so với tuyến tùng quả giống như Thượng trí (manas) so với Tuệ giác thể (buddhi) hay trí tuệ (mind) so với minh triết (wisdom). SD–III, 504–505 (LVLCK, 965)
+ Khi vị đệ tử sống cuộc đời mực thước, tránh xa thịt, chất nicotin và rượu, thực hành việc tiết dục thì tuyến tùng quả không còn teo tóp (atrophied) nữa mà trở nên hoạt động sớm hơn. (LVLCK, 1012)
+ Tuyến tùng quả có liên hệ trực tiếp với thể trí, dùng để đưa các ấn tượng từ cõi trí xuống não bộ. (GLTNVT, 151)
+ Tuyến tùng quả. Mắt thứ Ba. GLBN III, 548.
1. Mục tiêu tiến hóa để phát triển nội nhãn thông (inner vision).
2. Ý nghĩa huyền bí của mắt. GLBN III, 577.
3. “Con mắt của Taurus (Chòm Sao Thiên Ngưu), Sao Ngưu Lang (the Bull)” (Đối chiếu với mắt bò – bull’s eye).
Chòm Sao Taurus được gọi là Mẹ của Thiên Khải và là chủ thể diễn dịch (interpreter) Tiếng Nói thiêng liêng. GLBN I, 721.
4. Các cơ quan của nội nhãn thông:
a/ Cơ quan ngoài … Tuyến tùng quả … bằng vật chất.
b/ Cơ quan trong … mắt thứ ba …........ bằng dĩ thái.
Ghi chú: Các đạo sinh nên cẩn thận phân biệt giữa mắt thứ ba với tuyến tùng quả - Xem GLBN II, 308.
“Mắt thứ ba đã chết và không còn hoạt động nữa”. Nó đã bỏ lại sau một chứng nhân cho sự hiện hữu của nó trong tuyến tùng quả.
5. Tuyến tùng quả là một khối nhỏ giống hình hạt đậu chứa chất thần kinh màu xám dính liền vào phía sau của thất thứ ba.
6. Tuyến yên có vị thế so với tuyến tùng quả giống như manas có vị thế so với Buddhi, hay là trí tuệ (mind) so với minh triết. GLBN III, 504.
7. Tuyến tùng quả đạt đến mức phát triển cao nhất của nó tương xứng với mức phát triển thể chất thấp nhất. GLBN II, 308, 313.
8. Con mắt thứ ba tồn tại trong chất dĩ thái.
a/ Đàng trước đầu.
b/ Ngang với hai mắt.
9. Đó là một trung tâm năng lượng được tạo bởi tam giác lực gồm:
a/ Tuyến tùng quả.
b/ Tuyến yên.
c/ Bí huyệt hành tủy.
10. Con mắt được khai mở hay là con mắt thứ ba không đưa tới nhãn thông trực tiếp mà là cơ quan qua đó tri thức trực tiếp và chắc chắn được thu nhận. GLBN I, 77.
a/ Điểm đạo đồ hướng con mắt về phía bản thể (essence, cốt lõi) của sự vật.
b/ Con mắt thứ ba phải đạt được bằng khổ hạnh trước khi con người thành một cao đồ/ Chân Sư (adept). GLBN II 651.
11. Đạo sinh huyền linh học nên biết rằng mắt thứ ba nối liền bền bĩ với karma. GLBN II, 312, ghi chú. GLBN II, 316, 320.
a/ Do quá khứ thời Atlantis của nó, căn chủng thứ năm đang trang trải các nhân của căn chủng thứ tư.
b/ Vì nó tiết lộ những gì thuộc về quá khứ của nó. GLBN II, 297.
12. Đệ tam nhãn là gương soi (mirror) của Linh hồn. GLBN II, 312.
13. Đối với con mắt tâm linh, các Thần (Gods) không còn là khái niệm trừu tượng hơn là linh hồn và thể xác chúng ta đối với chúng ta nữa. GLBN I, 694.
a/ Nội nhãn có thể nhìn xuyên qua bức màn vật chất. GLBN I, 694.
b/ Mắt tâm linh (spiritual eye) khám phá các trạng thái siêu giác quan. GLBN II, 561.
14. Nơi người tâm linh được sinh trở lại, con mắt thứ ba vẫn linh hoạt. GLBN II, 458.
+ Chân Ngã - Ego:
- Là Con Của Trí Tuệ (Son of Mind). (LV7C, 475)
- Là thực thể biết suy tư - Chân Ngã (Ego) của kẻ thường nhân có trú sở trên cõi phụ thứ ba của cõi trí. (LVHLT, 113)
- Chân Ngã (real man) tức hồn tinh thần. (CTNM, 346)
- Chân Ngã tức chủ thể hữu ngã thức, có bản chất và thật sự là Bác ái - Minh Triết, nhưng biểu lộ chính yếu như là ý thức sáng suốt (LVLCK, 684)
– Chân Ngã, hình ảnh (reflection) của Chân Thần, chính nó cũng là một tam bộ như tất cả các cái khác (vạn hữu) trong thiên nhiên và phản ánh ba trạng thái của thánh linh, giống như trên cõi cao, Chân Thần phản ánh ba trạng thái – Ý chí, Bác ái - Minh Triết và Thông tuệ linh hoạt – của Thượng Đế. (ĐĐNLVTD, 114)
– Kiên trì là một trong các đặc tính của Chân Ngã. Chân Ngã kiên trì vì biết mình bất tử. Phàm ngã hay nãn lòng vì biết thời gian ngắn ngủi. (ĐĐNLVTD, 776)
– Chân Ngã của con người không phải là Atman, cũng không phải là Buddhi mà là Thượng Trí; kết quả của hoạt động trí tuệ và tinh túy của cá thể hữu ngã thức biết hoạt động trí tuệ – theo ý nghĩa tâm linh cao siêu. Kinh sách cổ gọi nó là Karana Sharira (Chân Ngã thể/Linh hồn thể) trên cõi của Sutratma, vốn là “sợi chỉ vàng” mà các phàm ngã khác nhau của Chân Ngã này được xỏ xâu qua đó, giống như xâu chuỗi. (GLBN III, 89)
– Higher self tức là causal self. (ASCLH, 400)
+ Ego tức là Solar Angel (Thần Thái Dương) bị giam nhốt. GLBN I, 621.
+ Chân Ngã (Ego) tức là Nhật Tinh Quân. (ĐĐNLVTD, 136)
+ Nhật Tinh Quân là các “Thiên Thần Sa Đọa” – SD–II, 287.
+ Chân Ngã: ... Phật bảo với chúng ta rằng: “Tất cả chúng sanh có chân ngã”, cái thân này là giả ngã, không phải chân ngã, giả ngã mới tạo lục đạo luân hồi, chân ngã tuyệt đối không có luân hồi. Chẳng những không có lục đạo luân hồi ngay cả thập Pháp giới cũng không có. Chân ngã trụ ở đâu, chân ngã trụ trong nhất chân pháp giới. Ai có chân ngã, Phật có chân ngã. Trong đại Kinh nói Phật có 3 thân, mỗi người chúng ta cũng có 3 thân, bản thể của thân chúng ta. Thật sự chân ngã là gì? Là pháp thân. Cho nên Phật tại trong Kinh nói mọi người tu hành, tu đến trình độ tương đương thì bạn chứng được thanh tịnh pháp thân, thanh tịnh pháp thân mới là chân ngã , trong thiền tông gọi là :
Trước khi cha mẹ chưa sanh bản lai diện mục, cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ chưa sanh tức là thanh tịnh pháp thân, trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là Tỳ Lô Giá Na Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật không phải là một người. Tỳ Lô Giá Na Phật là chân ngã của chính chúng ta, là chân thân của chúng ta gọi là Ty Lô Giá Na, Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn. Ý nghĩa của nó là biến nhất thiết sứ tức là bất cứ lúc nào, chổ nào cũng có khắp cả chổ. Nếu ở chổ này không có chân ngã thì cái thân giả này không thể hiện tiền, là thật có, nên cái giả tướng này là do chân ngã mà có. Cái ngã là thể, là tánh, do thể tánh chân thật mà hiện tướng. cho nên nhất định là có cái chân ngã này. Tất cả chúng sanh đã mê mất chân ngã mới trở thành phàm phu. Vì đã mê mất chân ngã, đã mê mất chứ không phải thực mất, đã mê mất mà thôi. Không phải thực sự mất đi chỉ là mê. Đã mê cái gì? Đã mê những giả tướng do thể tánh chân thật hiện ra những giả tướng. Trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là “duy tâm sở hiện” cái tâm đó gọi là chân, chân tâm, là chân ngã, cũng là Pháp thân. Hiện ra giả tướng, bạn đã chấp tướng, hư là hư ở chổ này, hiện ra cái giả tướng. Vì bạn không biết nó là giả tướng, nên bạn chấp trước cái giả tướng cho nó là chân, vì vậy đã quên mất cái chân tánh. Xem giả tướng cho là chân , hư là hư ở chổ này. Vì bạn có phân biệt, chấp trước nên nhất chân mới chuyển biến thành những hoàn cảnh rất phức tạp, biến thành thập pháp giới, biến thành lục đạo, biến thành tam đồ. Biến như thế nào? là do thức sở biến. Cái gì gọi là thức? trong Kinh Hoa Nghiêm giảng về thức rất cụ thể: vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là thức. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều có đủ 3 thứ này. Hiện nay, chúng ta đều có đủ , có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. vì vậy đã biến nhất chân pháp giới thành lục đạo luân hồi, đã biến thành lục đạo.... (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Đọc thêm bài viết về Chân nhân hay Chân ngã con người
+ Xem thêm về: Chân Thần
+ Thái Dương Thiên Thần (Solar Angels): Các Đấng phú cho con người Chân Ngã hữu thức bất tử là các “Thái Dương Thiên Thần” – dù là xét về mặt ẩn dụ (metaphorically) hay theo nghĩa đen (literally). (GLBN III, 97)
+ Solar Angels/ Thần Thái Dương: ..... 4/ Bằng cách kích thích các Chân Ngã thể của con người, để cho các Solar Angels có thể xúc tiến với độ chính xác cao và thúc ép sự va chạm của các Ngài với các lunar gods (nguyệt thần). Đây là cuộc chiến thực sự ở trên trời (heaven). Vì các Thần Thái Dương (1) luôn luôn xuống gần cõi trần, và trong khi giáng xuống, các Ngài đảm trách việc kiểm soát ngày càng nhiều các bản chất của nguyệt thần, tất nhiên các tư tưởng và dục vọng của con người được tinh lọc và thanh luyện. Các lửa thái dương dập tắt ánh sáng thái âm, nên bản chất thấp sau rốt được thanh lọc và chuyển hóa. Vào đúng lúc, các Solar Angels (Thái Dương Thiên Thần) chiếu diệu với tất cả vẻ huy hoàng của các Ngài qua phương tiện phàm ngã trên cõi trần, phàm ngã đó cung cấp nhiên liệu cho các ngọn Lửa. Thế là “Kẻ Chận Ngõ” đáng ghét dần dần bị diệt vì thiếu thức ăn, và tan rã vì thiếu sinh khí, con người được giải thoát.
(1) - Thần Thái Dương (LVLCK, tr 951)
1 Các Solar Gods (Thần Thái Dương, Nhật Thần) là các “Thiên Thần Sa Đọa” (“Fallen Angels”). GLBN II, 287.
a. Các Ngài làm ấm các bóng tối … các cơ thể con người.
b. Đến lượt các Ngài được làm ấm bằng Monad, hay Atma. GLBN II, 116, 117.
c. Các Ngài là các Minh Triết Xà. GLBN II, 240.
d. Bản chất các Ngài là Tri Thức và Bác Ái. GLBN II, 527.
e. Các Ngài đến từ cõi trí vũ trụ. GLBN III, 540.
* Ego tức là Solar Angel bị giam nhốt. GLBN I, 621.
a. Nó phải tự giải thoát khỏi vòng kềm tỏa của tri giác, thuộc giác quan.
b. Nó phải thấy bằng ánh sáng của Thực Tại duy nhất.
c. Xem GLBN II, 578.
d. Để đền bù cho nhân loại (to redeem humanity). GLBN II, 257.
e. Để phú cho (endow) nhân loại các tình thương (affections) và các hoài bão. GLBN II, 257
f. Các Ngài trao cho nhân loại trí thông minh và tâm thức. GLBN I, 204.
+ Nhật Thần (Solar Gods):
- Ban cho con người hạ trí và thượng trí. (LVLCK, 614)
- Nhật Tinh Quân là các “Thiên Thần Sa Đọa” – SD–II, 287.
a/ Các Ngài sưởi ấm các bóng... các thể con người.
b/ Đến phiên các Ngài được sưởi ấm bởi Chân Thần hay Atma.
c/ Các Ngài là Minh triết xà.
d/ Bản chất của các Ngài là Tri thức và Bác Ái.
e/ Các Ngài đến từ cõi trí vũ trụ. (LVLCK, 950)
+ Nhật Tinh Quân (Solar Lord):
- Chân Ngã (Ego) tức là Nhật Tinh Quân. (ĐĐNLVTD, 136)
- Solar Lord tức sun god, tức linh hồn. (CTNM, 342)
+ Mọi hình hài PHẢI tiến hóa qua chu kỳ: .... Cho đến nay, không có một hình hài nào được hoàn hảo, và chính vì sự kiện này mà cần phải có sự tiến hóa theo chu kỳ, và việc sản xuất các hình hài liên tục cho đến khi chúng đạt gần được giống như thật trong thực tế và trong hành động. Phương pháp tạo ra hình hài có thể được liệt kê như sau (LVLCK, tr 926):
+ Trình tự tiến hóa của các Giống Dân (gradual exolution of the Races). Năm pho tượng (ở vùng Trung Á, Bamian -ND) này là tài liệu bất diệt của Giáo Lý Huyền Môn về trình tự tiến hóa của các Giống Dân. Pho tượng lớn nhất tiêu biểu cho Giống Dân thứ nhất của nhân loại, thân thể khinh thanh của Giống Dân này được lưu lại trong đá cứng bền chắc, dùng cho việc học hỏi của các thế hệ mai sau, nếu không thì ký ức về điều ấy không bao giờ tồn tại sau cơn đại hồng thủy nhấn chìm Châu Atlantis. Tượng thứ hai cao 120 feet (36,57m), tượng trưng cho Giống Dân Hãn Sinh. Tượng thứ 3 cao 60 feet (18,28m) làm sống lại giống người xuống thấp (fell) và đó mở ra giống người đầu tiên bằng xác thịt do cha mẹ sinh ra, mà hậu duệ cuối cùng được tiêu biểu bằng các tượng trên đảo Easter, Những người này chỉ có tầm vóc từ 20 đến 25 f. (6m - 7,60m) ở vào thời Châu Lemuria bị chìm ngập, sau khi hầu như bị hủy diệt bởi núi lửa. Giống Dân thứ tư có tầm vóc còn nhỏ hơn nữa, tuy vẫn còn khổng lồ so với Giống dân thứ 5 hiện nay của chúng ta, Giống Dân hiện nay ở mức tiến hóa tột cùng so với những Giống dân trước. Thế thì đó chính là những “Người Khổng Lồ” của thời xưa, tức Gibborim của thời tiền và hậu Đại Hồng Thủy của Thánh Kinh (Bible). Họ đã sống sung túc cách đây một triệu năm hơn là chỉ cách đây từ ba đến bốn ngàn năm.(GLBN 3, 339)
+ Sự phát triển tuần tự của nhân loại, bạn có các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn ý thức động vật.
2. Cá nhân được an trụ vào tình cảm, có tính ích kỷ và bị chi phối bởi dục vọng.
3. Hai giai đoạn trên, cộng với một hiểu biết trí tuệ ngày càng tăng về các tình huống chung quanh.
4. Giai đoạn có trách nhiệm với gia đình hoặc bạn bè.
5. Giai đoạn của tham vọng và của sự khao khát đối với ảnh hưởng và quyền lực trong một lĩnh vực biểu hiện nào đó của con người. Điều này dẫn đến nỗ lực mới.
6. Sự phối-kết năng lực phàm-ngã dưới tác nhân kích thích ở trên.
7. Giai đoạn ảnh hưởng được vận dụng một cách ích kỷ và thường có tính chất phá hoại, bởi vì cho đến nay những vấn đề cao siêu không được ghi nhận.
8. Giai đoạn có một ý thức tập thể phát triển đều đặn. Giai đoạn này được xem như là:
a/ Một lĩnh vực cho cơ hội.
b/ Một địa hạt phụng sự.
c/ Một nơi mà trong đó sự hy sinh vì lợi ích của mọi người trở nên có thể xảy ra một cách vinh quang.
Giai đoạn sau cùng này đặt một người lên con đường đệ-tử, không cần phải nói rằng nó bao gồm giai đoạn của thời kỳ trước đó, là thời kỳ dự bị hay thử thách. (Trích đoạn chương X trang 396, 397 quyển Luận về Chánh thuật)
+ Vương quốc thứ tư trong tự nhiên nhất định đã được thu hút tiến lên hướng đến vương quốc thứ năm đang xuất hiện. (SPCCQG/ DN 112)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
Xem: Các giai đoạn tiến hóa của Phàm ngã- Con người
Xem: Biệt ngã tính/ Ngã hóa;
Xem: Phân nhóm/ Loại về Hạng người ....
Xem: Điểm 6 mục Quy Luật 5 - Cấu Tạo Con Người 13- Thể Hồng Trần
+ Thiên thần Devas: Trong trường hợp của các devas, tình thương là làm tròn thiên luật mà không đau khổ hoặc phiền não. Đó là con đường dễ nhất đối với họ, vì họ là trạng thái mẹ, phương diện âm của biểu lộ, và con đường dễ dàng cho họ là cống hiến, bảo dưỡng và chăm sóc. (LVLCK, Tr 903)
+ Thần, Thiên thần (Devas): Devas là các thực thể tiến hóa (progressing entities) của một chu kỳ hành tinh trước. (GLBN III, 235)
+ Thần chất (Deva substance, chất liệu của thiên thần): - Tinh chất kiến tạo (building essence) tức là thần chất. - Vật chất được các Agnishvatta làm linh hoạt (vitalised). (LVLCK, 936, 774)
+ Thiên Thần: Ban giải cho con người Từ lực (Prana) để chữa trị. Gìn giữ Prana, Từ lực và Sinh lực (Như con người là kẻ gìn giữ Nguyên khí thứ 5 = Trí tuệ)-TTHM,183
- Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo (TVTTHM, 185)
* Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy(TVTTHM, 174)
+ Thủy thần (Varuna, the God of Water): Thần của Nước, theo ý nghĩa nước của không gian hay là nước của vật chất. Ngài cũng được xem như là vị cai quản (Ruler) cõi cảm dục (cõi thứ 6) mà biểu tượng là nước. (LVLCK, 626)
+ 2. Các tinh linh và các devas cấp thấp của chất lỏng
Một minh họa rất lý thú về sự hòa nhập của mọi chất sáng tạo sinh động có thể được nhìn thấy có liên quan với bầu khí quyển bao quanh hành tinh chúng ta. Trong khí quyển đó người ta sẽ thấy :
a/ Sự ẩm ướt, hay là các tinh túy sinh động vốn là các tinh hoa chất của chất lỏng (liquid elementals).
b/ Chất hơi, hay là các sinh linh vốn liên kết với mọi tinh túy của lửa (fiery essences) vốn dễ bay hơi và là kết quả của sức nóng.
c/ Chất dĩ thái, hay là các đẳng cấp thấp nhất của các devas của các dĩ thái (ethers).
Khi ở trạng thái liên kết, tam bộ chính yếu này tạo ra cái mà chúng ta hít thở, và cái mà trong đó chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn. Đối với đạo sinh có suy tư, không khí thì đầy dẫy biểu tượng, vì đó là một sự tổng hợp và là những gì nối liền các tầng lớp cao và các tầng lớp thấp của biểu lộ.
Trước tiên, chúng ta phải tập trung sự chú tâm của chúng ta vào các sinh linh (lives) đang tạo ra toàn bộ của tất cả những gì thuộc về nước và chất lỏng qua khắp biểu lộ, và khi bàn đến việc này, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đang đề cập đến cái huyền bí nhất trong các tìm kiếm, và đến các vấn đề có liên quan rất chặt chẽ với cơ tiến hóa của con người.
Nhiều nhóm thủy thần (water devas) thuộc lớp hoạt động đã được phân nhóm một cách sơ lược bởi các văn sĩ viết chuyện thần tiên, dưới tên nàng tiên cá (undines), nhân ngư (mermaids) và các diễn tả khác, nhưng chúng có thiên hình vạn trạng, và điều này hẳn lộ rõ khi người ta nhớ rằng toàn bộ nước trên địa cầu (biển to, biển nhỏ, sông, hồ, suối), đều vượt xa chỗ khô hay đất liền, đã vậy mỗi giọt nước đọng (drop of moisture) chính là một sự sống bé nhỏ, đang hoàn thành chức năng của nó và đang trải qua chu kỳ của nó. Các hình thức thần thoại được nói ở trên, chỉ là vô số các sự sống được tạo thành một hình hài nhờ đó một deva đang tiến hóa tìm cách biểu lộ.
Sự cực kỳ lý thú của đề tài này có thể được trình bày dưới một vài phát biểu mà sẽ đem lại cho nhà nghiên cứu một ý tưởng nào đó về sự chú ý kỹ càng mà sau rốt cần và sẽ đặt vào đề tài này về các sự sống thiên thần biểu lộ qua nước (deva lives of watery manifestation). Như đã nói ở trên, toàn thể các sự sống này thì vĩ đại hơn là toàn thể các sự sống đang hợp thành toàn bộ địa cầu rắn đặc theo như chúng ta hiểu thuật ngữ đó, cho dù chúng không vượt quá con số các sự sống đang tạo ra phần chất khí của biểu lộ; phần chất khí này nằm trong bầu khí quyển, xuyên thấu qua chất đặc, và lắp đầy ở một mức độ lớn các hang động bên trong của hành tinh. Sự giống nhau về mặt tiểu thiên địa với Sự Sống vĩ đại của hành tinh được thấy ở sự kiện là cả hai hình thức chỉ là các vỏ ngoài hay là các khung sườn, bảo vệ cho cái “mái vòm” bên trong; cả hai hình thức đều lõm, cả hai đều có các điểm tận cùng âm và dương, có thể nói các cực của chúng về mặt trong tiếp tục ảnh hưởng nhiều đến các tiến hóa bên ngoài.
Một trong các hành tinh huyền bí nhất, Neptune (Hải Vương tinh), cai quản các “thủy thần”; Thần Quân đứng đầu các thủy thần, tức Varuna, Vị Chúa của cõi cảm dục, vốn là một phân thân (emanation) từ hành tinh đó. Vì vậy các nhà nghiên cứu sẽ thấy vô cùng lý thú khi nghiên cứu sự tương tác chặt chẽ giữa (898):
1. Cõi thứ sáu, tức cõi cảm dục, và cõi phụ thứ sáu của cõi trần, tức cõi phụ chất lỏng.
2. Cõi phụ thứ sáu của mỗi cõi chính trong thái dương hệ và sự liên hệ của chúng với nhau.
Ở đây, người ta sẽ tìm thấy một lý do giải thích tại sao con người thuộc loại tương đối thấp về thể xác, và có một thể cảm dục với một ít vật chất thuộc cõi phụ thứ sáu trong đó đáp ứng với các sự việc cao siêu hơn, và có một hoài bão tâm linh. Ảnh hưởng phát ra từ cõi phụ thứ sáu của cõi bồ đề làm thức động một đáp ứng hỗ tương từ vật chất cõi phụ thứ sáu trong các thể khác, và nguyên khí thứ sáu, tức nguyên khí bồ đề, theo Định Luật Tương Ứng làm mạnh thêm rung động đó.
Danh xưng Neptune là danh xưng mà theo đó Hành Tinh Thượng Đế của một trong ba hành tinh hệ chính yếu được biết trên hành tinh chúng ta. Một số các ảnh hưởng và năng lượng của Ngài tác động rất lớn đến tinh chất thiên thần của vật chất cõi phụ thứ sáu này, đạt đến chúng thông qua Thần Quân Varuna. Tri thức này có giá trị thực tiễn về mặt chiêm tinh, vì nó sẽ giúp cho con người hiểu được bản chất của các thể vật chất của họ, nhất là thể cảm dục của họ. Đó là một sự kiện huyền bí mà loại chất cảm dục trong cơ thể con người định đoạt tính chất của chất nước (watery substance) của thể xác của y. Theo huyền linh học, không hề có sự tách ra nào của các bản chất tâm linh-sinh lý, vì cái sau ấn định cái trước. Do đó, hành tinh Neptune có một ảnh hưởng sâu xa và một liên hệ chặt chẽ theo Định Luật Tương Ứng với cõi thứ sáu, hay cõi cảm dục, vốn là cõi của phần chất lỏng của thể xác Thượng Đế, với cõi phụ thứ sáu của cõi trần, hay với phần chất lỏng của xác thân con người và của thể xác hành tinh, cũng với loại năng lượng thứ sáu hay lực, hay cung thứ sáu.
Hành tinh hệ chính yếu mà Neptune cai quản, hợp thành một tam giác của thái dương hệ rất đáng chú ý đối với các nhà chiêm tinh học nội môn với hành tinh hệ thứ sáu và một hành tinh hệ khác nữa. Điều này được hình tượng hóa trong cây chĩa có ba gạc mà thần Neptune luôn luôn được vẽ là đang nắm giữ, các mũi chĩa theo nghĩa đen là các tam giác biểu tượng liên kết với nhau bằng ba đường thần lực.
Hành tinh này cũng có một liên hệ thiết yếu với nguyên khí thứ sáu của Thượng Đế, hay Buddhi và do đó cũng là nguyên khí thứ sáu của con người. Không một ai bắt đầu phối kết hiện thể Buddhi cho tới khi y tiến đến dưới ảnh hưởng của Neptune trong kiếp sống này hoặc kiếp sống khác. Khi xảy ra trường hợp này, lá số tử vi của phàm ngã y sẽ chỉ ra ảnh hưởng của Neptune đang chi phối ở nơi nào đó...........
Hành tinh Neptune, cùng với Hành Tinh Thượng Đế của Cung Sáu chi phối các bí huyệt của thể cảm dục trong con người. Diễn đạt này bao hàm nhiều ý nghĩa huyền bí thuộc đại thiên địa. Khi nhớ lại rằng mọi bí huyệt – con người và thiêng liêng – được tạo ra bằng tinh hoa thiên thần (deva essence), thì điểm nối tiếp giữa ảnh hưởng này với các devas, và tác dụng phản xạ của chúng trên con người, sẽ trở nên rõ ràng ngay tức khắc.
Trong cái bí ẩn của biển và cái bí mật của trạng thái “khô cạn” huyền bí hay thu hút huyền bí của nó, sau rốt ý nghĩa ẩn bên dưới sẽ được tiết lộ (900):
a/ Sự thúc đẩy phái tính, diễn dịch về mặt đại và tiểu thiên địa.
b/ Chấm dứt dục vọng.
c/ Chiều hướng của luồng hỏa đến bí huyệt cổ họng thay vì đến các cơ quan sinh sản.
d/ Qui nguyên (pralaya) và lẩn khuất (obscuration).
e/ Ý nghĩa của các lời: “Sẽ không còn biển nữa” được tìm thấy trong Thánh kinh Thiên Chúa giáo.
Khi suy tư về các ý tưởng này, các nhà nghiên cứu sẽ thấy cần ghi nhớ kỹ rằng Neptune là một trong các hành tinh chính yếu hay tổng hợp, rằng nó là một hành tinh “thu hút” (“absorbing”) hay là hành tinh “tách ra” (“abstracting”), và rằng nó tiếp nối với tiến trình mà theo đó sự hoàn thiện cuối cùng được minh chứng. Đấng Con được làm cho hoàn thiện, và cuộc lâm phàm vũ trụ được kết thúc.
Có một liên hệ huyền bí rất chặt chẽ giữa sự kiện nằm đàng sau các lời trong Thánh Kinh “Thần Đức của Chúa Trời vận hành trên mặt nước” (“the Spirit of God moved upon the face of the waters”-Thánh Kinh Cựu Ước, Sáng Thế Ký, 1:2- Bản dịch của NXB Tôn Giáo, 2003) với hoạt động hợp pháp được ban ra của Đại Mẫu (Great Mother) khi bà hoàn thành công việc kiến tạo-xác thân dưới sự thôi thúc của dục vọng. Mối liên hệ đích thực giữa cõi cảm dục với cõi trần sẽ chỉ trở nên lộ rõ khi các đạo sinh ghi nhớ cẩn thận rằng cõi cảm dục của thái dương hệ là cõi phụ thứ sáu của cõi hồng trần vũ trụ, và tạo thành toàn bộ chất lỏng của thể xác Thượng Đế. Khi điều này được hiểu rõ thì công việc của tinh hoa chất thiên thần sẽ chiếm đúng chỗ; yếu tố của dục vọng, hay của hoạt động cảm dục, và tác động phản xạ của nó trên thể xác xuyên qua cõi phụ thứ sáu sẽ trở nên rõ ràng và Đại Mẫu sẽ được thấy bị lôi cuốn một cách tích cực, dưới ảnh hưởng của dục vọng, trong việc kiến tạo, nuôi dưỡng và tạo ra hơi ấm và ẩm ướt giúp cho sự biểu lộ xảy ra. Ngôi Mẹ là vị thần lớn nhất trong số các devas và có liên kết chặt chẽ với các thủy thần, vì sự ẩm ướt (moiture) đủ loại rất cần thiết cho mọi sự sống.
Các thiên thần hoạt động của cõi dĩ thái thứ tư vũ trụ, vào đúng lúc, sẽ thể hiện thiên cơ trong sự hoàn thiện không lệch lạc nhờ môi trường vật chất linh hoạt của các devas cấp thấp của cõi chất lỏng hay cõi cảm dục. Khi họ đã thực hiện xong điều này, thì hai kết quả sẽ được nhận thấy: thứ nhất, cõi cảm dục sẽ hoàn toàn phản chiếu cõi bồ đề, và thứ hai, kết quả của điều đó sẽ là cõi trần sẽ tạo ra hiện thể chính xác cần thiết cho sự biểu lộ tiểu thiên địa hoặc đại thiên địa qua mãnh lực của nước, hay dục vọng.
Mọi điều này đều được mở ra cho các nhà huyền bí học trong biểu tượng học về hệ tuần hoàn trong con người. Giống như hệ thống máu, với hai loại vận hà của nó (động và tĩnh mạch) và hai loại nhà kiến tạo (hồng và bạch huyết cầu), được khảo cứu theo quan điểm huyền môn, nhiều điều sẽ được xác định có bản chất cách mạng. Các định luật về con đường thoát ra, và về con đường trở lại, với hai nhóm có các sự sống deva liên quan trong đó sẽ được con người hiểu rõ. Thêm một gợi ý nữa có thể được đưa ra ở đây. Trong thể xác của con người có liên quan với hệ tuần hoàn, trong ba yếu tố – tim, động mạch và tĩnh mạch –, chúng ta tìm thấy manh mối cho ba loại thiên thần, và cũng cho tam giác thái dương hệ mà chúng tượng trưng, và sau đó, cho ba cách biểu lộ thiêng liêng. Có một hệ tuần hoàn hành tinh, cũng như một hệ tuần hoàn thái dương, và nó được xúc tiến qua môi trường của thần chất ở khắp nơi, về mặt đại thiên địa cũng như tiểu thiên địa.
Các devas thuộc cõi phụ thứ sáu của cõi trần có thể được chia thành ba nhóm, rồi các nhóm này lại chia thành 7 và thành 49, thế là tương ứng với tất cả các nhóm trong thái dương hệ.
Trong bản chất chủ yếu của chúng, các nhóm này đáp ứng với những gì “vốn nằm ở trên nhiều hơn những gì vốn nằm bên dưới”, đó chỉ là một cách diễn tả theo huyền môn mối liên hệ có bản chất mật thiết giữa các hỏa thần với các thủy thần, và một phủ nhận về sự liên hệ chặt chẽ giữa các thủy thần với địa cầu. Diễn tả về mặt huyền linh, qua tác động của các hỏa thần, các thủy thần tìm được sự giải thoát.
Các thủy thần tìm cho chính họ con đường phụng sự trong công việc to tát của họ là nuôi dưỡng mọi sự sống thực vật và động vật trên hành tinh; mục tiêu đối với họ là để nhập vào nhóm thiên thần cao cấp hơn mà chúng ta gọi là các khí thiên thần (gaseous devas) hay hỏa thần (fire devas). Qua tác động của lửa của họ lên nước, các thần này tạo ra trình tự bay hơi, ngưng tụ và cuối cùng kết tủa (precipitation, đột hiện) – qua hoạt động không ngừng của nó – sẽ bảo dưỡng mọi sự sống trên địa cầu. Như thế, một lần nữa, có thể thấy các định luật bác ái tâm linh đang tác động trong giới thiên thần, cũng như trong giới nhân loại; trước tiên, sự triệt thoái hay rời khỏi của đơn vị ra khỏi nhóm (được gọi là biệt ngã hóa nơi con người, và bay hơi trong lĩnh vực nước). Kế đến sự ngưng tụ (condensation) hay là sự hỗn hợp của đơn vị với một nhóm mới hơn hay là cao hơn, chúng ta gọi điều này là ngưng tụ đối với các thủy thần và sự khai mở (initiation, điểm hóa) trong con người; sau cùng, sự hy sinh của nhóm các nguyên tử nhân loại hay thiên thần cho cái tốt lành của tổng thể. Như thế, định luật phụng sự và hy sinh chi phối mọi khía cạnh thiêng liêng thứ yếu trong tất cả các phần hành của nó lớn hoặc nhỏ. Đó là thiên luật. ..........(LVLCK, Tr 896/ 367).
+ Lửa vật chất (Fires of matter): Lửa từ đáy xương sống và tam giác lá lách (splenic triangle) là lửa vật chất… Các lửa này không có tác dụng tinh thần (spiritual effect) và chỉ có chính chúng liên quan với vật chất ở chỗ có các trung tâm lực này. (LVLCK, 138)
+ Các loại Vật chất:
2. Các tinh linh và các devas cấp thấp của chất lỏng
Một minh họa rất lý thú về sự hòa nhập của mọi chất sáng tạo sinh động có thể được nhìn thấy có liên quan với bầu khí quyển bao quanh hành tinh chúng ta. Trong khí quyển đó người ta sẽ thấy :
a/ Sự ẩm ướt, hay là các tinh túy sinh động vốn là các tinh hoa chất của chất lỏng (liquid elementals).
b/ Chất hơi, hay là các sinh linh vốn liên kết với mọi tinh túy của lửa (fiery essences) vốn dễ bay hơi và là kết quả của sức nóng.
c/ Chất dĩ thái, hay là các đẳng cấp thấp nhất của các devas của các dĩ thái (ethers).
Khi ở trạng thái liên kết, tam bộ chính yếu này tạo ra cái mà chúng ta hít thở, và cái mà trong đó chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn. Đối với đạo sinh có suy tư, không khí thì đầy dẫy biểu tượng, vì đó là một sự tổng hợp và là những gì nối liền các tầng lớp cao và các tầng lớp thấp của biểu lộ. (LVLCK, Tr 896/ 367).
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Tri thức công truyền và bí truyền: Câu trả lời cho điều này thực sự bao hàm trong việc nhận thức rằng một số tri thức liên quan đến khía cạnh bên trong của sự sống, còn loại tri thức khác liên quan đến khía cạnh bên ngoài; có một loại tri thức liên hệ đến năng lượng và lực (do đó có nguy hiểm khi vội vàng tiết lộ không đúng lúc) và một loại tri thức khác nữa có liên quan đến những gì thuộc về năng lượng. Do đó, điều hiển nhiên là cho đến khi có được khả năng để xác minh thông tin từ bên trong, thì toàn bộ các sự thật nên giữ lại bên ngoài tầm ý thức của đa số con người. (LVLCK, 285)
+ Tri thức là minh triết cổ chân chính. (ASCLH, 140)
+ Tri thức là sản phẩm của Phòng Học Tập, dùng để chỉ toàn thể những tìm kiếm và kinh nghiệm của con người, qua 5 giác quan và có thể được liên kết, giải đoán và định nghĩa bằng cách dùng trí năng con người. Đó là những điều mà ta cảm thấy xác tín trong trí hay những gì mà chúng ta có thể xác định bằng cách dùng thí nghiệm. Đó là bảng tóm tắt các nghệ thuật và khoa học. Nó bao hàm tất cả những gì liên quan đến việc kiến tạo và phát triển khía cạnh hình hài của sự vật. Do đó, nó liên quan đến khía cạnh vật chất của công cuộc tiến hóa, vật chất trong Thái Dương Hệ, trong hành tinh, trong ba cõi tiến hóa của nhân loại, và trong các thể của con người. (ĐĐNLVTD, 10–11)
+ Tri thức là việc thấu hiểu đúng các định luật về năng lượng, về việc bảo toàn thần lực, về các cội nguồn, các tính chất, các loại và mức độ rung động của năng lượng. Tri thức bao hàm việc thấu hiểu về:
a/ Các rung động chính yếu khác nhau.
b/ Các trung tâm mà theo đó thần lực nhập vào.
c/ Các vận hà theo đó thần lực lưu chuyển.
d/ Các tam giác lực và các dạng hình học khác mà nó tạo ra trong khi tiến hóa.
e/ Các chu kỳ và dao động của năng lượng liên quan với các kiểu mẫu biểu hiện khác nhau của hành tinh, kể cả mọi giới trong thiên nhiên.
f/ Ý nghĩa đích thực của các trạng thái thần lực mà chúng ta gọi là “thời kỳ hỗn nguyên” và các trạng thái mà chúng ta gọi là “thời kỳ biểu lộ”.
* Nó cũng bao gồm một nhận thức đúng về các định luật qui nguyên (LVLCK, 879–881)
+ Phát Triển Trí Khôn - Trí Thông Minh - Trí Tuệ - Trí Huệ - Trí Thông Tuệ - Trí Quang Minh: Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng câu Chú Đại Bi số 37 - Thất na thất na)
+ Xem thêm: Tổng hợp kiến thức rộng mở về thuật ngũ TRI THỨC
+ Lửa và ánh sáng: Lửa điện hay Tinh thần, hợp với lửa do ma sát (nhiệt) tạo ra lửa thái dương hay ánh sáng. (LVLCK, 241)
“Lửa điện, hay xung lực ý chí” liên kết với “Lửa do masát” tạo ra ánh sáng hay “lửa thái dương”. Lửa điện là lực hay năng lượng thuộc loại nào đó, và do đó trong chính nó, về căn bản là một bức xạ (emanation, phóng xuất). “Lửa do cọ xát” là vật chất với tính chất nhiệt như đặc tính chủ yếu của nó, đó là tiềm nhiệt (latent heat) hay là sensation (?). Do đó cả hai ý tưởng này đều dồn tới ý tưởng về nhị nguyên tính (duality). Một phóng xuất/ bức xạ phải có cội nguồn xuất phát của nó và nhiệt (hơi nóng) chỉ là kết quả của sự cọ xát, và tất nhiên là nhị nguyên (dual). Cả hai quan niệm này bao gồm các sự kiện xảy ra trước thái dương hệ từ lâu, và giấu kín trong Thiên Trí (Universal Mind). Tất cả những gì mà chúng ta có thể xác định một cách khoa học là bản chất của những gì được tạo ra bằng sự phỏng định của chúng, và đây là lửa thái dương hay là ánh sáng. Các ý tưởng này có thể làm sáng tỏ phần nào ý nghĩa của số năm, xét về mặt nội môn. Lửa điện, vốn là một phân thân, về bản thể có khái niệm lưỡng nguyên, và lửa do cọ xát cũng thế; chúng cùng nhau tạo ra lửa thái dương, và như thế là cái thứ năm huyền bí. (LVLCK, 803)
+ Lửa trong Đại Thiên Địa - Lửa Thái dương: Năng lượng của linh hồn đôi khi được gọi là lửa thái dương.(CTNM, 641)
+ Lửa thái dương hay lửa của cõi trí vũ trụ. Đây là phần của cõi trí vũ trụ vốn được dùng làm sinh động thể trí của Thượng Đế. Lửa này có thể được xem như là toàn bộ các tia lửa của trí tuệ, các lửa của hạ trí và nguyên khí sinh động của các đơn vị tiến hoá của nhân loại trong ba cõi thấp (LVLCK, 51)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Lửa trong Đại Thiên Địa - Lửa do ma sát (cọ xát) hay lửa sinh động nội tại: Các lửa này làm linh hoạt và đem lại sức sống cho Thái Dương hệ đang biểu lộ. Chúng là toàn bộ hoả xà của Thượng Đế khi hoạt động của Thái Dương hệ được đầy đủ (LVLCK, 51)
+ Lửa do ma sát: Theo ý nghĩa siêu hình là sự kết hợp giữa Tuệ giác hay nguyên khí thứ 6 với Trí tuệ hay nguyên khí thứ 5. Nhờ sự kết hợp hay gắn chặt vào nhau này mà nguyên khí thứ 5 hỗn hợp một phần nào và trở nên thành phần của Chân Thần. Theo ý nghĩa vật chất thì lửa do ma sát có liên quan với tia lửa sáng tạo hay mầm sống vốn khai sinh và tạo ra con người. (GLBN III, 250)
+ Lửa do ma sát (Lửa bên trong của vật chất): Chúng là một hậu quả trứ không phải nguyên nhân. Nó được tạo ra bởi 2 thứ lửa Tinh thần và Trí tuệ (Lửa điện và lửa thái dương) tiếp xúc với nhau qua trung gian vật chất. Biểu lộ trong vật chất như lửa bên trong mặt trời hay các hành tinh hay trong con người. (LVLCK, 68)
- Sự tồn tại: Khi sự tiến hoá chấm dứt, lửa của vật chất (Lửa ma sát) thì không thể nhận biết được. Nó chỉ tồn tại khi 2 thứ lửa kia được kết hợp lại và nó không tồn tại khi chính nó tách ra khỏi chính vật chất.(LVLCK, 68)
+ Nirmathana: Lửa do ma sát, như sự ma sát của hai miếng gỗ. (LVLCK, 602)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Hổ Cáp/ Scorpio: (Thiên Yết/ Thần Nông/ Bọ Cạp/ Thiên Hạt):
- Hành Thủy (Xem); (Dẫn truyền Cung 4; Xem)
- Bản năng, yên tĩnh, khéo tay, trực quan, lôi cuốn, yêu súc vật; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 8. Nhà này có đặc tính tương ứng: Tiền bạc, đầu tư, kinh doanh, chia sẻ, cái chết của bạn bè hoặc bản thân
* Loài Bọ cạp: Dụ cho tánh nghi ngờ (HT Tuyên Hóa giảng kinh Địa Tạng)
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Cổ là Hỏa tinh; Cung 6 và Hiện đại là Diêm Vương Tinh; Cung 1 (CTHNM, 80);
(Anh Kiệt nói dùng cả 2, xem mối quan hệ giữa sao hỏa và diêm vương tương tự như giữa venus/ Kim tinh và trái đất) - Khẩu hiệu: Hãy để Ảo Ảnh (Maya) phát triển, và hãy để sự lừa dối cai trị.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Hỏa Tinh; Cung 6 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi là chiến binh và từ chiến trường tôi xuất hiện trong chiến thắng.
Hổ Cáp (Bọ Cạp) về Công truyền: Bất cứ điều gì liên quan với cái chết và tình dục – máu, quân sự, vũ khí, sự sinh sản. Thế giới ngầm – vệ sinh môi trường, tội phạm, thủ đoạn gian trá, huyền bí, siêu hình. Tâm lý học, chữa bệnh, phẫu thuật. Thị trường chứng khoán, đầu tư, công đoàn và chính trị, bảo hiểm. (Hổ Cáp là cung chiêm tinh của các cơ quan sinh dục - GLBN)
Hổ Cáp (Bọ Cạp) về Bí truyền: Những nghề nghiệp liên quan đến cái chết, tình dục, khoa phẫu thuật, quân đội, sự sinh sản, thế giới ngầm, vệ sinh môi trường, thủ đoạn gian trá, thị trường chứng khoán, đầu tư, công đoàn và chính trị. Hổ Cáp được liên kết với việc chữa bệnh và tâm lý học, thông qua Diêm vương tinh.
Các nghề nghiệp nội môn: nghiên cứu về sự biến đổi huyền bí của cá nhân, nhà chữa trị/nhà tâm lý theo phép chuyển hóa hoặc bí truyền, chiến đấu chống lại cái ác và vì sự thiện hảo cao cả của tập thể.
+ Kim tinh/ Venus: Truyền dẫn Cung 5 (GQ1- CT con người)
- Venus: Hành tinh thánh thiện Venus - Kim tinh so với Hành tinh Địa cầu giống như Chân ngã so với Phàm ngã (CTHNM, 436)
- Venus: Về mặt huyền bí, Venus là Hành tinh bổ xung của Địa cầu, vốn là đối cực của Đại cầu (CTHNM, 33)
- Cảm nhận thẩm mỹ, nghệ thuật, vẻ đẹp, tình cảm, tình yêu. Xem nguồn);
- Nếu một người có sao Kim có góc hợp cứng đối với sao Hỏa, liệu điều này có ngụ ý rằng người đó nên làm nghệ thuật hay làm tình yêu? Nếu câu trả lời là cả 2: nghệ thuật và tình yêu vì sao Kim là hành tinh của tình yêu và vẻ đẹp, thì điều này có ngụ ý rằng các nghệ sỹ yêu đương hơn người khác, hay ý tưởng của Freud rằng các biểu hiện văn hoá giống như nghệ thuật thường là sự dịch chuyển các nhu cầu khác là đúng, và người ta có thể vẽ một bức tranh hoặc có một mối quan hệ lãng mạn tuỳ theo sở thích của một người? Xác định phía bên phương diện nào của sao Kim là rõ ràng nhất trong bối cảnh của sao Kim đặt trong lá số sinh.
* Nếu sao Kim ở trong nhà thứ 7, thì khía cạnh xã hội của sao Kim rất nổi bật,
* Còn nếu sao Kim ở trong nhà thứ 5, thì sự sáng tạo nghệ thuật của sao Kim sẽ nổi trội.
* Venus trong một cung hành thuỷ mang lại cảm xúc,
* Trong khi sao Kim trong một cung hành khí thì kém cảm xúc hơn.
Chúng ta có thể nhìn Venus như một hành tinh với nhiều thuộc tính khác nhau nhưng có liên quan. Cung và nhà và các góc hợp với các hành tinh khác cho chúng ta thấy những đặc tính nào của Sao Kim là nổi trội.
+ Kim tinh (♀): Venus là hành tinh của tình yêu, vẻ đẹp và nghệ thuật. ... Nếu một người có sao Kim có góc hợp cứng đối với sao Hỏa, liệu điều này có ngụ ý: nghệ thuật và tình yêu vì sao Kim là hành tinh của tình yêu và vẻ đẹp, thì điều này có ngụ ý rằng các nghệ sỹ yêu đương hơn người khác, hay ý tưởng của Freud rằng các biểu hiện văn hoá giống như nghệ thuật thường là sự dịch chuyển các nhu cầu khác là đúng, và người ta có thể vẽ một bức tranh hoặc có một mối quan hệ lãng mạn tuỳ theo sở thích của một người?
... Nếu sao Kim ở trong nhà thứ 7, thì khía cạnh xã hội của sao Kim rất nổi bật, còn nếu sao Kim ở trong nhà thứ 5, thì sự sáng tạo nghệ thuật của sao Kim sẽ nổi trội. Venus trong một cung hành thuỷ mang lại cảm xúc, trong khi sao Kim trong một cung hành khí thì kém cảm xúc hơn.
... Venus: sức hút của vẻ đẹp. Mọi người bị thu hút bởi vẻ đẹp. Chúng ta dành rất nhiều nỗ lực để làm cho môi trường xung quanh phù hợp với sở thích của chúng ta, và chúng ta cảm thấy khó chịu, thậm chí bệnh tật, nếu quang cảnh, âm thanh và mùi hôi tấn công các giác quan của chúng ta. ...
Không có hai người có cùng một sở thích, nhưng mọi người cảm thấy bị xua đẩy bởi những âm thanh, âm nhạc và môi trường xung quanh nhất định, và chúng ta bị thu hút bởi những cái khác. Trong tình yêu lãng mạn, vẻ đẹp của nhân cách và / hoặc các đặc tính thể chất của một người khác đóng một vai trò trong việc thu hút mọi người với nhau. Sức thu hút của vẻ đẹp mang cảm giác yêu thương. .... không phải tất cả các nghệ thuật chủ yếu là tính chất Kim tinh, nhưng hầu hết các nghệ thuật ít nhất phần nào thu hút chúng ta vì sức hấp dẫn của vẻ đẹp của nó.
Vẻ đẹp không chỉ đơn giản là vấn đề tỷ lệ hoàn hảo và sự hài hòa hoàn hảo. Thiếu sự ngạc nhiên, đa dạng, tương phản, và sự căng thẳng được tạo ra bởi những thay đổi từ bất hòa đến hài hòa dễ chịu có thể là sáo mòn và không hấp dẫn. Bất kể điều gì mà một người đặc biệt nhận thấy đẹp sẽ thu hút người đó bằng một sức mạnh hấp dẫn và cảm giác yêu thương.... Sao Kim là sức hấp dẫn của vẻ đẹp.
Tuy nhiên, có rất nhiều cái chúng ta yêu mà không đẹp, hoặc ít nhất chúng ta yêu chúng không phải vì chúng đẹp. Chúng ta yêu con cái và các thành viên khác trong gia đình, và tình yêu này là một hình thức liên kết tình cảm, cam kết, quan tâm và hiểu biết. ...
Cảm giác yêu thương mạnh mẽ và liên kết mạnh mẽ xảy ra như là kết quả của bất kỳ..., liên kết trở nên mạnh mẽ hơn:
Chia sẻ thời gian trong cùng nhà (Mặt Trăng)
Giao tiếp tốt (Mercury)
Làm việc với nhau và giúp đỡ nhau đạt được mục tiêu (Mars)
Mở rộng chân trời cùng nhau, khám phá những điều mới mẻ và mở rộng biên giới của những trải nghiệm và kiến thức của bạn (Jupiter)
Có trách nhiệm với nhau (Thổ tinh)
Trải nghiệm những bất ngờ, khám phá, hoặc phấn khích với nhau (sao Thiên Vương)
Giúp đỡ lẫn nhau để theo đuổi những ước mơ và lý tưởng của bạn (Hải Vương tinh)
Giữ bí mật khỏi hầu hết những người khác (Pluto)
Một mối quan hệ kết hợp hầu hết các tính chất trên là rất mạnh. ...
Một số nhà chiêm tinh giải thích lá số sinh bằng cách chỉ đơn giản là nhìn vào yếu tố chiêm tinh cai quản khu vực mà khách hàng đang hỏi. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ SAO KIM: Hành Tinh – Venus (Tham khảo trong Giáo lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Venus … không có vệ tinh nào … và già hơn Địa Cầu nhiều.” (GLBN I, 180 – II, 35)
3. “Ánh sáng đến qua Venus, Venus nhận nguồn cung cấp gồm ba phần và cống hiến 1/3 cho Địa Cầu.
a/ Do đó cả hai được gọi là “chị em song sinh.”
b/ Tinh thần của Địa Cầu phụ thuộc vào Venus.” (GLBN II, 33)
4. “Venus là hành tinh bí mật, mạnh mẽ và huyền linh nhất trong tất cả các hành tinh.
a/ Liên hệ của nó với Địa Cầu nổi bật nhất.
b/ Nó chi phối sự sinh hoá tự nhiên của con người.
c/ Nó được gọi là ‘mặt trời khác’.
d/ Nó là nguyên kiểu tinh thần hay nguyên sơ của Địa Cầu.” (GLBN II, 33 – 35)
5. “Hành Tinh Thượng Đế của Venus yêu thương Địa Cầu sâu đậm đến nỗi Ngài hoá thân và ban cho nó các định luật hoàn hảo vốn không để ý và bác bỏ.” (GLBN II, 38)
6. “Mọi tội lỗi phạm phải trên Địa Cầu được cảm nhận trên Venus. Mọi thay đổi trong Venus được phản chiếu trên Địa Cầu.” (GLBN II, 35)
7. “Venus… là người-mang-ánh-sáng (light-bearer) của Địa Cầu chúng ta, trong cả ý nghĩa vật chất lẫn ý nghĩa huyền bí.” (GLBN II, 36)
10. “Mặt Trời Sirius, là cội nguồn của trí tuệ Thượng Đế (manas) ... và Venus chịu trách nhiệm cho việc tiến nhập của trí tuệ trong dãy Địa Cầu.” (LVLCK, 347)
11. “Có một khoen nối tâm linh giữa Hành Tinh Thượng Đế của Venus với Hành Tinh Thượng Đế của Địa Cầu chúng ta.
a/ Hành tinh hệ Venus linh hoạt hơn hành tinh hệ chúng ta.
b/ Nhân loại của hành tinh hệ Venus tiến hoá hơn nhân loại trên Địa Cầu.
c/ Bức xạ của nó bao gồm cõi Bồ Đề về phần nhân loại.
d/ Do đó nó có thể mở ra, qua sự kích hoạt, cùng mức độ với nhân loại của Địa Cầu chúng ta.” (LVLCK, 367)
13. “Kim Tinh có phân cực âm và do đó hành tinh này có thể trở thành một thu hút huyền bí của Địa Cầu đối với lực của Kim Tinh … mối liên hệ nhân quả giữa hai Đức Hành Tinh Thượng Đế (một trong hiện thân dương – positive incarnation – còn vị kia trong hiện thân âm – negative incarnation -) đã tạo ra một liên minh hành tinh (planetary alliance). Diệu quang loé sáng.” (LVLCK, 323)
16. “Venus, Jupiter và Saturn có thể được xét theo quan điểm của hiện tại như là các vận thể (vehicles) của ba siêu nguyên khí hay nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars có liên kết chặt chẽ với ba nguyên khí này, nhưng nơi đây có một bí mật còn ẩn tàng.” (LVLCK, 299)
17. “Trong hệ thống con người, mắt phải tương ứng với Buddhi và Mercury, còn mắt trái tương ứng với manas và Venus.” (GLBN III, 447 và 458)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Sao Kim, hành tinh cung 5 sẽ giúp xua tan ảo cảm_Chân Sư DK: Vì vậy chúng ta phải rèn luyện, rèn luyện một cách tỉ mỉ. Sự rèn luyện thực sự sử dụng cung 5 của thể trí, và không có cách nào để tránh né được. Và dĩ nhiên loại tâm thức cung 2 sẽ tham gia và chúng ta sẽ không còn bị cuốn theo xu hướng cung 6 nói chung của thể cảm dục vốn tạo ra sự biến dạng, sự cường điệu hoặc sự giảm thiểu, gây ra ảo cảm. Chúng ta sẽ thấy sự sống theo đúng tỷ lệ, và bạn hãy nhớ rằng sao Kim - Hành tinh của sự cân đối, tỷ lệ, chủ tinh của Thiên Bình, dấu hiệu của tỷ lệ (Nguồn: Ảo Cảm 1- Anh Kiệt dịch 9. 2019)
Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh; Tổng hợp về Kim Tinh
+ Sinh khí thể (body of prana): Là thể sinh lực hay thể dĩ thái (vital body or etheric body). LVHLT, 206)
+ Từ lực hay là prana, sinh lực, sinh khí. (TVTTHL, 245)
+ Prana: X. Sinh khí, thần kinh lực
+ Sinh khí: Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo (TTHM, 185)
+ Sinh khí không phải là hơi thở mặc dù thường được dịch như thế. Đó là toàn thể năng lượng vũ trụ. Đó là năng lượng hiện hữu trong mỗi thể, và biểu lộ rõ rệt nhất của nó là sự vận động của phổi. Vận động này được tạo ra bởi sinh khí được cuốn vào trong hơi thở và là những gì mà chúng ta tìm cách kiềm chế trong thuật chuyển khí (Pranayama). Chúng ta bắt đầu bằng cách kiểm soát hơi thở vì đó là cách dễ nhất để kiểm soát prana. (ASCLH, 218)
+ Là yếu tố chủ quan ẩn bên dưới luồng khí được hít vào và thở ra. (LVHLT, 206)
+ Nhiệt linh hoạt (active heat) là prana. (LVLCK, 45)
+ Lửa linh hoạt (active fire) là prana. (LVLCK, 47)
+ “Prana hay nguyên khí sinh động (vital principle) là liên hệ chuyên biệt của Atma với hình thức vật chất nào đó, mà nhờ mối liên hệ với Atma, nó được tổ chức và kiến tạo như là một phương tiện để có được kinh nghiệm. Mối liên hệ chuyên biệt này tạo thành sinh khí cá biệt trong cơ thể một người. Sinh khí vũ trụ thấm nhuần vạn vật không phải là prana theo nghĩa thô thiển mà là một tên gọi dành cho Brahman như là Đấng Sáng tạo prana cá biệt ... Mọi thực thể, dù là thiên thần, con người hay con vật, chỉ tồn tại bao lâu mà prana còn ở trong cơ thể. Đó là kỳ gian sự sống của vạn vật ... Prana hay sức sống là chức năng chung của thể trí và mọi giác quan” Trích Serpent Power, trang 94–95.(LVLCK, 77)
+ Prana: Mặt trời cũng truyền sinh khí (revitalises) có prana, và điều này nên được xem xét (Trong phục hồi, duy trì sức khỏe) (LVHLT, 342)
+ Phân biệt Bức xạ từ thể dĩ thái - Bức xạ của prana với từ điển: Prana là một sự phóng phát từ một thể tinh anh (VD: thể cảm dục) và từ điển (Giải thích lửa bức xạ). Sự phân biệt này rất quan trọng và phải được nhận ra một cách cẩn thận (LVLCK, 72)
1. Lửa Nội Tại truyền sinh lực(Lửa do ma sát). Là hoả xà cá nhân, nó làm linh hoạt xác thân và biểu lộ theo 2 cách (LVLCK, 61):
- Nhiệt tiềm ẩn (Tiềm nhiệt) nó là căn bản của sự sống của tế bào tựa hình cầu, hay nguyên tử, và điều chỉnh sự quay của tế bào này so với tất cả tế bào khác.
- Hoạt nhiệt hay prana; Làm linh hoạt vạn vật và là lực phát động của hình hài đang tiến hoá. Nó tự biểu lộ trong 4 loại dĩ thái và trong trạng thái hơi. Sự tương ứng trên cõi hồng trần, với con người so với Akasha và biểu lộ ngũ phân của nó trên cõi của Thái dương hệ.
+ Prana: Nó tự biểu lộ trong 4 loại dĩ thái và trong trạng thái hơi. Có tương ứng trên cõi hồng trần liên quan tới con người so với Akasha và biểu lộ ngũ phân của nó trên cõi của Thái dương hệ (LVLCK, 61)
2. Kế tiếp là Lửa hay Tia Lửa của Trí Tuệ (Lửa Thái dương trong con người). Lửa này tạo thành đơn vị suy tư hữu ngã thức hay là linh hồn. Lửa của trí tuệ này bị chế ngự bởi Định Luật Hút. Chính tia lửa trí tuệ này trong con người, biểu lộ như hoạt động xoắn ốc có chu kỳ, nó đưa đến sự bành trướng và rốt cuộc trở về trung tâm của hệ thống nó, tức Chân Thần - nguồn cội và mục tiêu cho Chân Thần nhập thế tức là con người. Vì trong đại vũ trụ, lửa này cũng biểu lộ theo 2 cách:
1. Lửa linh hoạt hay prana. (Tiềm nhiệt hay thân nhiệt).
2. Năng lượng trí tuệ trong thể trí. Hai điều này hợp thành một tứ nguyên huyền bí, với yếu tố thứ năm, tức là điểm linh quang của ý chí sáng suốt, tạo thành năm của biểu lộ Chân Thần - biểu lộ trong trường hợp này có nghĩa là một biểu lộ nội tâm thuần tuý vì không hẳn là tinh thần, cũng không hẳn là vật chất.
3. Cuối cùng có Ngọn Lửa Chân Thần Thiêng Liêng. Ngọn Lửa này biểu hiện rung động cao nhất mà Chân Thần có thể có được, bị chế ngự bởi định luật Tổng hợp và là nguyên nhân của chuyển động luỹ tiến của Nguyên sinh khí đang tiến hoá.
+ Khi cả 3 toả chiếu như một lửa duy nhất, sự giải thoát khỏi vật chất hay khỏi hình hài vật chất được thành tựu, tạo thành một vận hà cho sự giải thoát(LVLCK, 64)
Xem thêm: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem thêm: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Sinh khí hành tinh (Planetary prana): Bức xạ (emanation) của hành tinh được chúng ta đặt tên là sinh khí hành tinh. Đó là những gì được đề cập đến khi người ta nói về các tính chất ban phát sức khỏe (health–giving qualities) của Từ mẫu Thiên nhiên (Mother Nature) và nằm sau tiếng kêu gọi việc nhà vật lý học hiện đại, khi y hô hào “Hãy hướng về Địa cầu”. Chính bức xạ lưu chất của sinh khí này tác động lên thể xác, dù rằng trong trường hợp này, nó không xuyên qua thể dĩ thái. Nó được thu hút hoàn toàn qua lớp da và các lỗ chân lông (pores) là con đường dễ dàng nhất của nó (LVLCK, 60–61)
+ Lá lách (spleen) là cơ quan mà sinh khí hành tinh hay sinh lực (vitality) được thu nhận và chuyển đi. (TLHNM II, 65)
+ Giãm sút sinh khí (vitality) trong thể xác. Trường hợp này xảy ra là do thể cảm dục đòi hỏi quá nhiều sinh khí của thể xác, nên khi nỗ lực để đáp ứng và khi cảm thấy bất lực không thể đáp ứng được một cách đầy đủ, người ta lại có cảm giác ngã lòng. Việc này thường xảy đến cho những người mà thể xác được cấu tạo một cách tinh tế.
+ Hoàn hư / Hườn hư / Trừu xuất (Pratyahara; abstraction): Hoàn / hườn : quay về. Hư: trống không. X. trừu xuất. Trừu xuất : rút ra.
+ abstraction - entities: Nói về mặt vũ trụ và xem thái dương hệ như chính là một nguyên tử của vũ trụ, chúng ta thấy rằng: “Các abstraction hay các entities ẩn trong hình hài chính là “lửa điện”. Chất liệu của vật chất đang nằm trong vòng giới hạn được xem như là một tổng thể đồng nhất, là “lửa do ma sát”.
+ Nhân loại thời tiền sử đến xuất hiện mặt Trời và Trăng Sao: Nay Đại Nghi Quỹ Vương mà Ta (Đức Phật) đã nói, đang có sức mạnh lớn, lợi ích cho chúng sinh. Song, Thế Gian kia, lúc Kiếp Sơ (Kalpāgra) thành thời tất cả chúng sinh ở trong hư không, đi đứng tự tại. Rồi ở thời ấy không có già không có chết. Lai thời ấy không có Tú (Nakṣatra), không có mặt trời (Āditya), mặt trăng (Candra) cũng không có thời tiết, cũng không có Âm Dương, cũng không có hàng Trời, Người, A Tu La….
Lại, thời ấy tuy có chúng sinh nhưng chưa có Tộc Tính. Con người đều thanh tịnh, không có thiện không có ác, cũng không có cái để ăn, cũng không có người ăn, cũng không có trì Trai, cũng không có Chú Pháp. Phần lớn chúng sinh ấy chỉ có Tưởng của Thế Gian, do nghiệp quá khứ dẫn dắt Nhân (hetu) nên rơi xuống đất chẳng thể bay trên hư không. Lúc đó liền có cái để ăn, liền có tham lam keo kiệt, thân đã nặng trược nên Đại Lực liền bị mất. Khi ấy liền có mặt trời, mặt trăng, tinh tú… rồi phân chia ngày đêm, liền có thời tiết cùng với Âm Dương. Liền nói trên Trời, Nhân Gian hơn kém có khác… cho nên có Trời, Người, A Tu La. Ta ở thời ấy, thân là Bồ Tát nhìn thấy chúng sinh kia có việc như vậy xong, Tâm thương xót cho nên hiện thân khác. Ấy là: hiện làm thân Tiên Nhân, hoặc hiện thân Phạm Vương, thân Đại Tự Tại Thiên, thân Na La Diên, thân Ca Lâu La cho đến mọi loại thân của hàng Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả…Ở trong mỗi một đời vì tất cả chúng sinh luôn thường giải nói nghĩa của Bồ Đề Hạnh.
Lại nữa, khi Ta [ Đức Phật ] ở quá khứ làm Bồ Tát thời tất cả chúng sinh trong Thế Gian: ngu si, hắc ám, không có Trí, không có Tuệ. Ta vì nhóm này nói tất cả công xảo kỹ nghệ của Thế Gian, Âm Dương, toán số, Điển Tịch Vi Đà (Veda), Chính Pháp, Tà Pháp, Giới Luật, Bản Hạnh cho đến nhóm Thanh Minh Luận. Tuy Ta ở đời quá khứ như vậy, vì Thế Gian nói như việc này, nhưng Ta cũng không có sở đắc, sở tri mà chỉ vì Bồ Đề (Bodhi) với nhóm giải thoát (Mokṣa). Như vậy tuy đi trong luân hồi nhưng luân hồi ấy chẳng thể cột trói.......
Do Nghiệp Lực này chẳng thể giải thoát Nhân Quả thiện ác, nên Ta nói một Pháp Âm Dương, Tinh Tú phân chia nơi thiện ác với nói bốn nhóm hộ thế là đất, nước, lửa, gió với chỗ mà bốn Đại này hòa hợp tạo làm, phát sinh mọi loại Tập Nhân (nhân gom chứa) của chúng sinh rồi vì lúc ấy tu Chân Ngôn Hạnh khiến được thành tựu....... [Nguồn: Văn Thủ Bồ Tát Pháp Kinh pdf -Tr 377]
+ Con người tiến hóa: Toàn bộ tầm quan trọng của cả quá trình tiến hóa, xét cho cùng, được đặt trên sự phát triển của tâm thức: ý thức thông minh làm sinh động các hình tướng, ở mọi trình độ khác nhau. ....Tác động 1 của linh hồn, vào lúc Biệt Ngã Hóa:
- Biệt ngã hóa, điểm đạo và đồng nhất hóa, gồm toàn bộ quá trình sự nghiệp của con người, từ lúc y xuất hiện vào trong giới nhân loại cho đến khi y chuyển ra khỏi nó ở cuộc điểm đạo thứ ba, và hoạt động tự do trong giới thứ năm, giới Thần Thánh (God). Tác động của linh hồn mang lại sự tiến hóa này. (Trích TLHNM)
I. Con Người tiến hóa qua Thập Giá: Nhờ Nghiên Cứu các Thập Giá, Chiêm Tinh Gia biết ai đó đang ở đâu trên đường tiến hóa. Mỗi Thập giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (Là các biến phân ba mặt của sự sống duy nhất). Chân Sư DK (CTHNM, 379, 380)
1- Thập Giá Cơ Bản ‒ Aries, Cancer, Libra, Capricorn
a. Về con người thông thường, cá biệt.
b. Về các cội nguồn tập thể.
c. Về ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 1.
2- Thập Giá Cố Định ‒ Taurus, Leo, Scorpio và Aquarius ‒ y sẽ đi đến lý giải chính xác về các sự sống:
a/ Của các điểm đạo đồ.
b/ Của sự thu hút tập thể thành tổng hợp.
c/ Của ý nghĩa về cuộc điểm đạo thứ 3.
3- Thập Giá Khả Biến ‒ Gemini, Virgo, Sagittarius và Pisces ‒ Y có thể đi đến ý nghĩa:
a/ Của các đệ tử.
b/ Của hoạt động tập thể.
c/ Ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 2.
II. Tiến hóa qua Cung Hoàng Đạo: Chia làm 3 nhóm theo trình tự phát triển - Tiến hóa CHIỀU ĐẢO NGHỊCH:
1. Chuẩn Bị: Một trí tuệ được kiểm soát, một năng lực để ghi nhận sự khai ngộ, một khả năng để tiếp xúc với khía cạnh bất tử và nhận ra một cách trực giác giới tinh thần, giờ y sẵn sàng việc lớn lao hơn.
- Bạch Dương linh hồn khoác lấy lớp vỏ trí tuệ - Linh hồn biết tư duy.
- Kim Ngưu thế giới dục vọng và phương tiện của cảm xúc phát triển - Linh hồn hữu thức
- Song Tử, một thể năng lượng được kiến tạo, một linh hồn sống động, thể dĩ thái được tạo ra.
- Trong Cự Giải công việc giáng sinh bắt đầu, bản chất tứ phân được biểu lộ.
2. Đấu Tranh cho Thành Tựu: Từ trận chiến vĩ đại mà thông qua đó cá nhân tự ý thức xuất hiện từ đám đông trong Cự Giải. Đây là 4 Cung của khủng hoảng và của sự nỗ lực lớn lao, tất cả sự khai ngộ, trực giác và năng lực linh hồn đều cần đến.
- Biết mình là cá thể, Linh hồn đạt được cá tính trong Sư Tử.
- Là đấng Christ tiềm năng, trở thành người nuôi dưỡng các ý tưởng và năng lực tiềm tàng trong Xử Nữ.
- Nỗ lực cân bằng các cặp đối nghịch, chao đảo dữ dội từ cực đoan này đến cực đoan khác trong Thiên Bình.
- Phải chịu sự tác động, kỷ luật của thế giới ảo tưởng và hình tướng, trở thành người chiến thắng ảo tưởng trong Hổ Cáp.
* 5 Kỳ Công đầu: “Chúng ta có thể xem 5 kỳ công đầu tiên (Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, và Sư Tử) là Con Đường Dự bị, và việc giết chết con Sư Tử Nemea là đỉnh điểm của hành trình gian khó đó. Bây giờ y sẵn sàng bước vào Con đường Đệ tử, trên đó đấng Christ nội tại đang dần tiết lộ, vật chất đang dần phục vụ cho linh hồn sử dụng, và phương diện hình sắc chỉ đơn giản được xem là “mẹ của đấng Christ Hài đồng”
3. Thành Tựu: Những thành quả đạt được và các quyền năng đã được phát triển. Người chí nguyện đã thoát ra khỏi thế giới của huyễn cảm và sắc tướng, và tâm thức của y bây giờ không chịu những hạn chế của chúng:
– Y có thể là cung thủ trong Nhân Mã, đi thẳng đến mục tiêu.
– Y có thể là con dê trong Ma Kết, leo lên ngọn núi Điểm đạo.
– Y có thể là người làm việc thế gian trong Bảo Bình
– Và là Đấng Cứu Thế trong Song Ngư
Vì thế, y có thể tóm tắt trong mình tất cả những gì đạt được trong giai đoạn chuẩn bị và trong những trận chiến quyết liệt trong 4 cung của hoạt động nỗ lực; (Nguồn: Các Kỳ Công)
+ Ba cách tiến hóa (Thuận chiều và Nghịch chiều)_Chân Sư DK (CTHNM, 295):
1. Giai đoạn quá khứ xa xăm đã qua - Không xét: Sự tiến bộ của nhân loại từ Aries đến Pisces, qua Taurus.
2. Ý nghĩa thuận chiều Vật chất - Tiến Hóa Công Truyền (Ngoại Môn = Hiện Tại): Tiến bộ của con người cá biệt diễn ra ngược lại với tiến bộ của tập thể; ở giai đoạn này, cá nhân tiến theo chiều kim đồng hồ từ Aries đến Taurus, xuyên qua Pisces. Sự sống của y lúc đó và về lâu về dài hầu hết là ngược với xã hội (anti-social) theo ý nghĩa tâm linh; y trở nên ích kỷ (selfish) và duy ngã (self-centred, trụ vào bản ngã). Các cố gắng của y đều dành cho chính y, cho sự thỏa mãn của y, riêng y và các hoạt động của phàm ngã trở nên ngày càng mạnh. Đây là tình trạng hiện tại đối với quần chúng.
3. Ý nghĩa Nghịch chiều/ Đảo Ngược - Tiến Hóa Bí Truyền (Nội Môn = Tương Lai): Cùng chiều với "giai đoạn 1". Tiến bộ của con người được tái định-hướng từ Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus. Trong giai đoạn cuối cùng này, y quay trở lại cùng phương pháp được hướng dẫn, tức nhịp điệu và chừng mực của hoạt động quần chúng trước kia nhưng lần này với các thái độ được thay đổi và đang thay đổi của việc phụng sự không ích kỷ, một phàm ngã được hiến dâng cho việc phụng sự nhân loại và với một sự tái định hướng tự ý của các năng lực của y sao cho chúng được hướng đến việc tạo ra sự tổng hợp và cảm thông. Việc này sẽ là tình huống trong tương lai đối với quần chúng.
* Nhà chiêm tinh học của tương lai sẽ phải ghi nhớ cẩn thận ba cách tiến hóa này. Đó là Thiên Cơ như hiện tại chúng ta có thể nhận biết được nó.
* Ví dụ với Cung Xử Nữ: Là cung thứ 6 xét theo cách này của Hoàng đạo (chiều Nghịch/ Đảo ngược) - Cung thứ 7 nếu người ta không xét vòng đảo ngược (Chân Sư DK_CTHNM, 285)
+ Nhân loại tiến hóa siêu vượt: Cuối chu kỳ quy nguyên Thái dương hệ chúng ta ..... Một phần của giới động vật sẽ tạm thời tiến vào thời kỳ qui ẩn tạm, như vậy để thoát ra năng lượng sử dụng cho tỷ lệ còn lại và tạo ra các kết quả như đã đề cập đến bởi nhà tiên tri của Do Thái (Thánh Kinh, Isaiah 11:6) khi vị này nói đến “muông sói sẽ ở với chiên con”; lời bình luận của tiên tri đó “một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi” là việc bàn rộng về sự kiện huyền linh rằng 3/5 nhân loại sẽ bước lên Thánh đạo, “con trẻ” là tên gọi dùng cho đệ tử dự bị và đệ tử chính thức. Trong giới thực vật và khoáng chất, sự biểu lộ tương tự sẽ xảy ra, nhưng với bản chất thật quá khó hiểu cho chúng ta. (Nguồn: LVLCK, Tr 494)
+ Vạn vật đều có nguồn cội từ Tinh thần – thoạt tiên, sự tiến hóa (evolution) bắt đầu từ trên và tiến xuống dưới, thay vì ngược lại như thuyết của Darwin đã giảng dạy.(GLBN III,177)
+ Tiến hóa thăng thượng là sự nhạy cảm với ánh sáng và sự giác ngộ ngày càng tăng thêm đều đặn. (LV7C, 642)
+ Tiến hóa thăng thượng chỉ là phương pháp điều chỉnh khía cạnh vật chất cho thích ứng với khía cạnh tinh thần ngõ hầu khía cạnh vật chất tỏ ra hoàn toàn thích hợp là một thể biểu hiện cho khía cạnh tinh thần. (LVLCK, 231)
- Tiến hóa thăng thượng (evolution) có thể được định nghĩa như là “khai mở năng lực đáp ứng luôn luôn tăng tiến”.
- Tiến hóa thăng thượng cũng còn được định nghĩa như là “sự phát triển theo chu kỳ” (“cyclic development”).
+ Tiến hóa thăng thượng có thể được định nghĩa như là thay đổi có sắp xếp và không ngừng biến đổi (ordered change and instant mutation). (TTCNT, 20, 22, 23)
+ Giai đoạn chế ngự của nốt Tinh Thần là giai đoạn tiến hóa thăng thượng thuộc các cõi cao. (LVLCK, 275)
+ Tiến hóa thăng thượng chỉ là một thuật ngữ được dùng để diễn tả sự phát triển từ từ (gradual development) trong thời gian và không gian của khả năng nội tại của một con người, của một Hành Tinh Thượng Đế và của Thái Dương Thượng Đế. (LVLCK, 234)
+ Người chí nguyện: Trong thời gian căng thẳng và vất vả này, hỡi những người anh em của tôi, tôi muốn nhắc nhở các bạn rằng không cần phải cảm thấy vô dụng hay bé nhỏ. Những nhóm người đệ tử mới là những Nhóm Hạt Giống; họ đang ở trong bóng tối hay trong giai đoạn phát triển và trong quá trình mở rộng—phát triển một cách thầm lặng. Giai đoạn này là quan trọng nhất cho sức khỏe của hạt giống và khả năng của nó để có thể cắm rễ mạnh mẽ xuống và xâm nhập một cách chậm rãi và đều đặn hướng lên đến ánh sáng. Vì thế trọng trách và năng lực đóng góp vào Thời Đại Mới được đặt lên chúng ta.(NĐTTKNM/ DINA I 74)
+ Như chúng ta đã thấy, những cánh hoa của luân xa tùng thái dương đang hướng lên đến luân xa tim. Điều này, trên thực tế, có nghĩa là năng lượng cảm xúc, ham muốn và tham vọng (trong nhân loại như một toàn thể) đang nỗ lực hướng lên về phía con đường cao cả hơn. (TLNM/ EH 174)
+ Khi bậc điểm đạo đồ nỗ lực mở rộng tâm thức của mình, khi anh ta học được cách ổn định tâm thức mình trong Tam Nguyên Tinh Thần, khi đó anh ta trở thành một phần của nỗ lực huyền giai vĩ đại và liên tục hướng đến “Nơi của Ánh Sáng Điện Quang Minh,” ánh sáng lạnh minh bạch của lý trí, là chìa khóa đầu tiên của cánh cửa đầu tiên.(CCVĐĐ/ RI 139)
+ Tiến hóa nghịch chiều vật chất - Theo Tâm linh - Bí truyền/ Nội môn
+ Giai đoạn 1: Cung Thái Dương (Mặt Trời) Chi phối con người(Phàm Ngã), con người dần dần thích hợp để sau đó đáp ứng với Linh Hồn.
+ Giai đoạn 2: Sự đáp ứng của Phàm ngã ngày càng tăng với các năng lượng, bị che dấu bởi Cung mệnh (Cung Mọc). Các năng lượng đó tạo ra điều bất ngờ và gây ra việc thúc đẩy diễn trình tiến hóa và việc khai mở sự sống nội tâm. ... Qua hiệu ứng của năng lượng tuôn đổ từ các Cung Hoàng Đạo, con người được chuẩn bị cho BƯỚC NGOẶT VỀ ĐỊNH HƯỚNG, trong đó con người từ từ và dần dần ĐẢO NGƯỢC CÁCH THỨC TIẾN BỘ DƯA TRÊN VÒNG SINH HÓA (Lúc bấy giờ, Y đi từ Dương Cưu đến Song Ngư xuyên qua Kim Ngưu, Hổ Cáp, Ma Kết thay vì chuyển từ Dương Cưu đến Kim Ngưu xuyên qua Nhân Mã, Hải Sư, Bắc Giải. Bộ 3 của các Chòm sao nói trên trong 2 lộ trình lớn này chung quanh Hoàng Đạo có một hiệu quả rõ rệt và quan trọng(Gọi là Cung có ảnh hưởng tối thượng). Trong tiến trình này, nguyên khí trí tuệ (Thể Trí) biết phân biện ..... (CTHNM, 64)
+ Cung Thăng thượng tiến hóa: Nửa sau của diễn trình tiến hóa được gọi là cung thăng thượng tiến hóa và đánh dấu việc tiến lên hay quay về của Tinh thần đến cội nguồn xuất phát của nó, cộng với các thu thập được của diễn trình tiến hóa. (LVLCK, 95)
+ Ba cách tiến hóa (Thuận chiều và Nghịch chiều)_Chân Sư DK (CTHNM, 295):
1. Giai đoạn quá khứ xa xăm đã qua - Không xét: Sự tiến bộ của nhân loại từ Aries đến Pisces, qua Taurus.
2. Ý nghĩa thuận chiều Vật chất - Tiến Hóa Công Truyền (Ngoại Môn = Hiện Tại): Tiến bộ của con người cá biệt diễn ra ngược lại với tiến bộ của tập thể;
3. Ý nghĩa Nghịch chiều/ Đảo Ngược - Tiến Hóa Bí Truyền (Nội Môn = Tương Lai): Cùng chiều với "giai đoạn 1". Tiến bộ của con người được tái định-hướng từ Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus. Trong giai đoạn cuối cùng này, y quay trở lại cùng phương pháp được hướng dẫn, tức nhịp điệu và chừng mực của hoạt động quần chúng trước kia nhưng lần này với các thái độ được thay đổi và đang thay đổi của việc phụng sự không ích kỷ, một phàm ngã được hiến dâng cho việc phụng sự nhân loại và với một sự tái định hướng tự ý của các năng lực của y sao cho chúng được hướng đến việc tạo ra sự tổng hợp và cảm thông. Việc này sẽ là tình huống trong tương lai đối với quần chúng.
* Nhà chiêm tinh học của tương lai sẽ phải ghi nhớ cẩn thận ba cách tiến hóa này. Đó là Thiên Cơ như hiện tại chúng ta có thể nhận biết được nó.
* Ví dụ với Cung Xử Nữ: Là cung thứ 6 xét theo cách này của Hoàng đạo (chiều Nghịch/ Đảo ngược) - Cung thứ 7 nếu người ta không xét vòng đảo ngược (Chân Sư DK_CTHNM, 285)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo Xem: Bảy Cung; Cung Hoàng Đạo; Lá số Chiêm tinh; Biểu đồ cung; Khẩu hiệu Phàm Ngã và Linh Hồn Xem về Năng khiếu của Cung, Cung Hoàng Đạo và Hành Tinh
+ Sắc tướng thiên thần (Rupa–deva): Các Dhyani Chohans, có hình hài, trước kia là người. (LVLCK, 615)
+ Sensa hay Senza: Tên gọi dành cho ngôn ngữ bí mật của giới tăng lữ, hay là “ngôn ngữ huyền bí” của các vị được điểm đạo khắp nơi trên thế giới. Đó là một ngôn ngữ đại đồng và phần lớn là chữ tượng hình. (ĐĐNLVTD, 224)
+ Vô sắc tướng thiên thần (Arupa Devas): Các Dhyan Chohans, không có hình hài, trước kia là người (Ex-men).(LVLCK, 615)
+ Hữu sắc tướng (Rupa, with form or body): Nói chung, thuật ngữ hữu sắc tướng được dùng để chỉ mọi hình hài (form) trong ba cõi thấp.(LVLCK, 616)
+ Các Hữu Thể này có thể được kể ra như sau:
I. Bảy Hành Tinh Thượng Đế. Trong toàn thể, các Ngài hợp thành cơ thể của Thái Dương Thượng Đế. Các danh xưng khác dành cho các Đấng Cao Cả (Beings) này là :
a. 7 Hành Tinh Thượng Đế hay Tinh Quân (Spirits)
b. Các Prajapatis.
c. 7 Đấng Chủ Quản của các Cung
d. Các Dyhan Chohans
e. 7 Tinh Quân trước Thiên Toà
f. 7 Nhất Đẳng Thiên Thần (Archangels)
g. 7 Thiên Đế (seven Logoi)
h. 7 Đấng Kiến Tạo (Builders). GLBN I, 115,130,152,535.
Các Ngài là các Đấng làm linh hoạt Cung Thiêng Liêng, cung của Thượng Đế Ngôi Hai, cùng ý nghĩa như Fohat và 7 Huynh Đệ của Ngài là toàn thể của cung Nguyên Thuỷ. GLBN I, 100, 108, 155.
a. Vật chất được làm cho phong phú bởi Cung Thông Tuệ Nguyên Thuỷ. Đây là anima mundi, linh hồn của thế giới.
b. Cung Nguyên Thuỷ là hiện thể đối với Cung Bác ái và Minh Triết Thiêng Liêng. Sự phối hợp cả hai cung là mực tiêu tiến hoá.
c. Cung Thiêng Liêng thì thất phân. Nó đưa vào 7 Thực Thể Thông Linh.
d. 7 Thực Thể Thông Linh này là :
1. Thượng Đế của Ý Chí hay Huyền Năng
2. Thượng Đế của Bác ái và Minh Triết
3. Thượng Đế của Hoạt Động
4. Thượng Đế của Hài Hoà
5. Thượng Đế của Khoa Học Cụ Thể
6. Thượng Đế của Sùng Tín hay Lý Tưởng Trừu Tượng.
7. Thượng Đế của Định Luật Nghi Thức hay trật tự.
II. Nhân loại, Chân Thần, các Đơn Vị Tâm Thức. Trong toàn thể, chúng hợp thành các thể của 7 Hành Tinh Thượng Đế. Mỗi Chân Thần thuộc về 1 trong 7 cung. GLBN I, 197, 285, 624, II, 85, 176, 196.
III. Thiên Thần . GLBN I, 308, II, 107. Các Thiên thần như :
a. Tinh Quân Thiên Thần của 1 cảnh giới. Phạm vi của cơ thể Ngài là toàn thể cảnh giới.
b. Các nhóm Thiên thần kiến tạo
IV. Các Thực Thể Thông Linh đã tiến hoá trong các giới khoáng chất, thực vật và động vật. GLBN I, 210, 298.
a. Sự Sống của Thượng Đế Ngôi Ba – nguyên tử vật chất.
b. Sự sống của Thượng Đế Ngôi Hai – các nhóm nguyên tử được kiến tạo thành hình hài, thực vật và động vật.
c. Sự sống của Thượng Đế Ngôi Một – Hình hài được chiếm ngự bởi các Tinh Quân Cao Cả nhất.
V. Tinh Quân của một hành tinh. GLBN I, 178, II, 251, 500.