* Các Thập giá: Cần phân biệt tính chất nội môn và ngoại môn. Chân sư viết chủ yếu về nội môn, rất ít ngoại môn.
+ Thập giá cố định (Fixed Cross): Chi phối 5 cõi tiến hóa con người và có ảnh hưởng tới kinh nghiệm các đệ tử. Như thế, trong khi ở trên thập giá này, nhờ giới luật và các kinh nghiệm đạt được, vị đệ tử vượt qua được hết từ bỏ này đến từ bỏ khác cho đến khi đạt được tự do và giải thoát hoàn toàn.
- Các từ khoá là mong muốn, dục vọng, sự ổn định, duy trì và độ bền.(Chống lại sự thay đổi. Chuyên tâm trong việc theo đuổi. Không dễ bị ảnh hưởng. Cố gắng uốn nắn môi trường theo ý chí của mình). Gồm: Kim Ngưu, Sư Tử, Hổ Cáp và Bảo Bình. (Xem Chiêm THNM 17)
+ Nhờ nghiên cúu về Thập Giá Cố Định ‒ Taurus, Leo, Scorpio và Aquarius ‒ Ta sẽ đi đến lý giải chính xác về các sự sống (CTHNM, 379):
a/ Của các điểm đạo đồ.
b/ Của sự thu hút tập thể thành tổng hợp.
c/ Của ý nghĩa về cuộc điểm đạo thứ ba.
+ Trên Thập Giá Cố Định, đó là “tâm của Mặt Trời” vốn được khơi hoạt và tuôn đổ các năng lượng của nó qua Neptune vào con người. Các năng lượng này kích hoạt và tác động đến tim, cổ họng và bí huyệt ấn đường (CTHNM, 335)
+ Thập Giá Cố Định ‒ theo trình tự, mang lại cho các thay đổi bên trong này một vài điểm chuyển biến lớn không thể tránh khỏi và cơ hội rõ rệt hiện tại. Saturn có tác dụng vượt trội trong việc tạo ra sự kiện này (CTHNM, 396)
Xem thêm: Tổng hợp về Ba Thập Giá
+ Thập giá cơ bản/ Chính yếu/ Chủ yếu/ Cốt lõi: Chi phối Chân Sư khi Ngài vượt qua 5 cuộc điểm đạo còn lại. Điều khá lạ lùng là cuộc điểm đạo thứ 4 không bị thập giá cố định lẫn thập giá chính yếu chi phối. Các từ khoá cho là ý chí, động lực, và hành động (Sẵn sàng để thay đổi. Nhấn mạnh vào hành động. Cố gắng thay đổi môi trường. Phóng chiếu bản thân vào môi trường xung quanh). Gồm: Bạch Dương, Cự Giải, Thiên Bình và Ma Kết. (Xem Chiêm THNM 17)
+ Nhờ việc nghiên cúu Thập Giá Cơ Bản ‒ Aries, Cancer, Libra, Capricorn ‒ Chiêm tinh gia có hiểu biết rõ ràng hơn (CTHNM, 379):
a. Về con người thông thường, cá biệt.
b. Về các cội nguồn tập thể.
c. Về ý nghĩa của cuộc điểm đạo đầu tiên
+ Trên Thập Giá Cơ Bản, đó là Mặt Trời tinh thần trung ương, nó tác động tới, và lúc bấy giờ Uranus là nơi phân phối, còn bí huyệt đầu trở thành bí huyệt trong cơ thể của điểm đạo đồ qua đó phương hướng và sự kiểm soát đi đến (CTHNM, 335)
+ Thập Giá Cơ Bản ‒ có trách nhiệm trong việc mang lại một vài điểm tổng hợp lớn, theo trình tự của cả sự thay đổi lẫn sự tổng hợp. Jupiter có trách nhiệm cho việc tập trung các năng lượng ở điểm này (CTHNM, 397)
Xem thêm: Tổng hợp về Ba Thập Giá
+ Thập Giá Khả biến / Chung/ Khả Chuyển: Các từ khoá là hoạt động, khả năng thích ứng, linh hoạt và thay đổi. (Có thể thay đổi và linh hoạt. Có tinh thần thám hiểm. Nhấn mạnh vào hoạt động trí tuệ. Thích nghi với môi trường); Gồm: Song Tử, Xử Nữ, Nhân Mã và Song Ngư.(Xem Chiêm THNM 17)
- Thập giá khả chuyển: Chi phối 3 cõi thấp, đặc biệt là cõi cảm dục. Kẻ thường nhân “chịu thập giá hình trên thập giá này mãi đến khi nào y đạt được kinh nghiệm cần thiết và tự tái định hướng một cách hữu thức sang một giai đoạn tiến hóa khác. (CVĐĐ, 693–694)
+ Nhờ nghiên cúu về Thập Giá Khả Biến ‒ Gemini, Virgo, Sagittarius và Pisces ‒ Chiêm tinh gia có hiểu biết rõ ràng hơn (CTHNM, 379):
a/ Của các đệ tử.
b/ Của hoạt động tập thể.
c/ Của cuộc điểm đạo thứ hai.
+ Trên Thập Giá Khả Biến, đó là Mặt Trời Vật chất và các ảnh hưởng của nó tác động vào con người, kích thích các tế bào xác thân và bảo dưỡng bản chất hình hài, tác động vào các trung tâm lực dưới cách mô (CTHNM, 335)
+ Thập Giá Khả Biến ‒ đưa đến các tình huống vốn dĩ sẽ tạo ra các chu kỳ thay đổi lớn trong sự sống của hành tinh, của một giới trong thiên nhiên hoặc của một con người. Mercury đóng một vai trò trong việc này.(CTHNM, 396)
Xem thêm: Tổng hợp về Ba Thập Giá
+ Bí nhiệm sống khỏe: Đối với con người, bí nhiệm của sự giải thoát nằm trong việc làm cân bằng các mãnh lực và làm quân bình các cặp đối hợp. (LVHLT, 225)
+ Hình Hài của Phàm-Ngã: Hiện thể đó bằng chất hồng trần, chất cảm dục và chất trí, vốn cung cấp phương tiện tiếp xúc trong ba cõi thấp. Nó được tạo ra trong mỗi kiếp sống, chủ âm (key) rung động được thiết lập trong kiếp sống trước kiếp sống hiện tại [Hình hài kiếp này y nguyên như Thể xác ở kiếp trước tại thời điểm chết]. Hình hài đó tỏ ra thích hợp đối với người trung bình và phục vụ y cho đến khi chết. Người đang bước vào trên con đường huyền bí bắt đầu với hiện thể được cung cấp, nhưng trong khi lâm phàm, luôn kiến tạo cho y một hiện thể mới hơn và tốt đẹp hơn, và càng tiến hóa thì y càng hành động một cách có ý thức hơn. Điều đó dẫn đến sự rối loạn liên tục và sức khỏe thường không tốt ở người sơ cơ (beginner) trong đời sống huyền linh. Y cảm nhận được thiên-luật, y nhận thức sự cần thiết của việc nâng cao chủ âm (key) của y, và thường thì y bắt đầu với những sai lầm. Y bắt đầu kiến tạo thể xác của mình một lần nữa bằng chế độ ăn kiêng và giới luật, thay vì hoạt động từ trong ra ngoài. Bằng giới luật cẩn thận của tâm trí, bằng việc vận dụng chất liệu tư tưởng, và bằng sự chuyển hóa cảm xúc, đi đến việc thể hiện ra trên cõi trần. Thêm vào hai điều trên, sự thanh khiết ở cõi trần đối với thực phẩm và cách sống, và trong thời gian bảy năm, người ấy đã xây đắp cho chính mình ba thể mới xung quanh các nguyên-tử thường tồn. (LVHLT, 263)
* Linh hồn được nghiên cứu với tư cách là một trung tâm tâm thức, và các thể với tư cách là các trung tâm của kinh nghiệm.
* Các Thể và các Đại/ Nguyên tố: Như chúng ta biết, thể xác con người gồm có 5 nguyên tố hồng trần: Địa, Thủy, Phong, Hỏa, và dĩ thái xuyên suốt tất cả. Các thể thanh của con người, tức là thể cảm dục hay tình cảm, thể trí và thể bồ đề hay còn gọi là thể tinh thần, thì cũng gồm các trạng thái tinh vi hơn của ngũ đại vừa kể, với những mức độ khác nhau. Ví dụ như thể cảm dục thì có liên quan đến nguyên tố Thủy, thể trí liên quan đến Phong, và dĩ thái và thể bồ đề liên quan đến Hỏa.
- Trong lá số tử vi của mỗi cá nhân, một nguyên tố thường nổi bật lên các nguyên tố kia, nhưng mục tiêu tối hậu của con người là đạt được sự hiểu biết tự thức và kiểm soát được lần lượt mỗi nguyên tố trên con đường hướng thượng của mình đi vào ánh Sáng. Để đạt mục đích của tham thiền, hầu như không thể được giữa các giòng tư tưởng xung đột trong những thành phố, tôi thường sống ẩn dật ở một nơi hoang vắng trên bờ biển. Ở đó, khí địa, Phong và Thủy giao hòa, thì một số vị Thánh Sư đã có thể dùng quan năng thần thông để tạo ấn tượng cho tôi về nhiều vấn đề đang có trong thời đại hiện nay. (Nguồn: Ngũ hành và các vị Thánh Sư)
I - THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Chúng ta có 3 thành phần chính trong cấu tạo của chúng ta: Chân thần, Linh hồn, và Phàm ngã. (Trích TL MQ/ MF)
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo. (5 Cõi: Người thường ở 3 cõi thấp "Cõi hồng trần - Cõi cảm dục - Cõi trí cụ thể, tổng 18 phân cảnh"; Người tiến hóa thêm phân cảnh trừu tượng của cõi trí và 2 cõi: Cõi Bồ đề và Cõi Atma/ Tinh thần_Minhtrietmoi.org) (CTHNM, 483)
+ Thể: Dùng để chỉ một hình thể có khả năng hoạt động độc lập trong cõi hữu hình và vô hình. (KCVTT, 128)
+ Thể, các thể: Các thể của con người hay các hiện thể biểu lộ được tạo thành bằng các đơn vị năng lượng. Chúng ta gọi các đơn vị năng lượng này là các nguyên tử và các đơn vị nguyên tử này được giữ lại với nhau dưới hình thức thể bằng mãnh lực cố kết của các năng lượng còn mạnh mẽ hơn. Các thể chính là bộ máy đáp ứng. Các thể gồm Thể Xác - Dĩ thái và Thể Cảm dục/ Tình cảm và Thể Trí (Thượng trí và Hạ trí) và Phàm ngã (Tổng hợp 3 thể thấp) và Chân Ngã và Chân Thần; (CTNM, 36).
+ Con người có 7 thể để hoạt động trên các cõi giới khác nhau. 3 thể cao (Tam nguyên tinh thần) và 4 thể thấp (tứ nguyên hạ). 4 thể thấp (Xác - Dĩ Thái - Cảm Dục - Trí) này được xem là 3 (tam nguyên hạ) khi chúng ta xem thể nhục thân và thể dĩ thái cấu thành một thể là thể hồng trần,hay thể xác/ Thể Vật Lý - Thể Hồng trần tam phân gồm: (1) Thể dĩ thái. (2) Các nadis chủ yếu. (3) Xác thân. Thể Trí gồm hạ trí và Thượng trí. Ba Thể cao gồm: Thể Phàm Ngã - Tổng hợp 4 Thể thấp. Cao hơn là Thể Chân nhân / Chân ngã/ Linh Hồn/ Linh tánh; Thể Chân Thần/ Tinh thần.
+ Thể cảm dục và thể hạ trí đều là vật chất (Theo cách riêng của nó) (LVLCK, 73)
+ Linh hồn được nghiên cứu với tư cách là một trung tâm tâm thức, và các thể với tư cách là các trung tâm của kinh nghiệm (EPII 335); (Trích TLHNM)
+ Trong mỗi kiếp sống, Phàm Ngã con người thuộc 1 trong 7 cung đó, luân phiên thay đổi tùy theo cung Chân Ngã. Sau lần điểm đạo thứ 3, con người xác định được vị trí linh hồn của mình (tôi tạm nói như thế) ở trên 1 trong 3 cung chính... Phàm Ngã vô thường thay đổi hết cung này đến cung khác, hết kiếp này đến kiếp khác, cho đến khi mọi tính chất đều được phát triển và biểu lộ. (TLHNM I, 128–129).
+ Cơ thể con người: Chất liệu của 2 phân cảnh (cõi phụ) thấp nhất của cõi trần và cõi cảm dục không bao giờ được kiến tạo thành cơ thể con người như ngày nay; chất liệu đó có rung động quá thấp và có mức độ quá thô trược ngay cả đối với hạng người thấp kém nhất trên địa cầu hiện giờ. Cũng cần nói thêm rằng nơi kẻ thường nhân, chất liệu của một cõi phụ nào đó sẽ chiếm đa số tùy theo mức tiến hóa của người đó. (LVLCK,942)
+ Các Thể và các Đại/ Nguyên tố: Như chúng ta biết, thể xác con người gồm có 5 nguyên tố hồng trần: Địa, Thủy, Phong, Hỏa, và dĩ thái xuyên suốt tất cả. Các thể thanh của con người, tức là thể cảm dục hay tình cảm, thể trí và thể bồ đề hay còn gọi là thể tinh thần, thì cũng gồm các trạng thái tinh vi hơn của ngũ đại vừa kể, với những mức độ khác nhau. Ví dụ như thể cảm dục thì có liên quan đến nguyên tố Thủy, thể trí liên quan đến Phong, và dĩ thái và thể bồ đề liên quan đến Hỏa.
Trong lá số tử vi của mỗi cá nhân, một nguyên tố thường nổi bật lên các nguyên tố kia, nhưng mục tiêu tối hậu của con người là đạt được sự hiểu biết tự thức và kiểm soát được lần lượt mỗi nguyên tố trên con đường hướng thượng của mình đi vào ánh Sáng. Để đạt mục đích của tham thiền, hầu như không thể được giữa các giòng tư tưởng xung đột trong những thành phố, tôi thường sống ẩn dật ở một nơi hoang vắng trên bờ biển. Ở đó, khí địa, Phong và Thủy giao hòa, thì một số vị Thánh Sư đã có thể dùng quan năng thần thông để tạo ấn tượng cho tôi về nhiều vấn đề đang có trong thời đại hiện nay. (Nguồn: Ngũ hành và các vị Thánh Sư)
+ Sự cấu tạo của con người, xét trong những trang sau đây, cơ bản gồm có ba phần, như sau:
I. Chân thần, hay Tinh thần thuần khiết, là Cha ở trên Trời. Trạng thái này phản ánh ba trạng thái của Thượng Đế:
1. Ý chí hay Quyền lực Đức Chúa Cha
2. Bác ái - Minh triết Đức Chúa Con
3. Thông tuệ Linh hoạt Chúa Thánh thần
và chỉ có thể tiếp xúc với trạng thái này vào những lần điểm đạo cuối cùng, khi hành giả gần đến mức cuối cuộc hành trình và trở nên hoàn thiện.
+ Chân thần lại tự phản ánh trong
II. Chân nhân, Chân ngã, hay là Cái Ta cao siêu. Trạng thái này có tiềm năng là:
1. Ý chí tinh thần Atma.
2. Trực giác Bồ-đề, Bác ái-Minh triết, nguyên khí Christ.
3. Trí tuệ cao siêu hay trừu tượng Thượng trí.
Trong những người tiến hóa cao, Chân nhân bắt đầu phát lộ quyền lực của mình, và ngày càng tăng trên Đường Dự bị cho đến lần điểm đạo thứ ba thì Chân ngã hoàn toàn chế ngự phàm ngã, và trạng thái cao nhất bắt đầu phát lộ năng lượng.
+ Chân nhân tự phản ánh trong
III. Phàm nhân hay phàm ngã, con người hồng trần. Trạng thái này cũng tam phân:
1. Thể trí hạ trí.
2. Thể tình cảm thể cảm dục.
3. Thể hồng trần thể xác và thể dĩ thái.
Do đó, mục đích của tham thiền là giúp hành giả ý thức được Chân nhân để Chân nhân chế ngự phàm tính. Đây là mục tiêu ngay trước mắt của người sơ cơ. (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
+ Cấu tạo con người qua Ba thể thấp: Xem tại đây
II - THEO PHẬT PHÁP
+ Thân Tâm hay Danh Sắc: Đức Phật dạy rằng con người là sự tập hợp của 2 thành phần chính gọi là danh và sắc.
Danh - Tâm: Là phần tư tưởng gồm có 4 hợp tố, đó là thọ, tưởng, hành và thức.
Sắc - Thân xác: Gồm có nội sắc và ngoại sắc, nhưng đại để là sự kết hợp của tứ đại đất, nước, gió, lửa. (Xem nguồn)
+ Con người - Tứ đại: Do tứ đại và Ngũ ấm mà thành ra chúng sinh. Ngũ ấm là Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức là ngũ ấm. Sắc là Thân xác do tứ đại làm thành. Cõi Thiên không có thân xác tứ đại, nhưng còn Thọ Tưởng Hành Thức - Do Si mê mà có. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Tứ đại với xác thân con người: Trích: A-nan bạch Phật: Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về nhân duyên hòa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh.
Giảng:
"A-nan bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về các pháp nhân duyên và các pháp hòa hợp rằng. Thế tôn nói rằng Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian – 'Thế gian' ở đây là chỉ cho hữu tình thế gian và khí thế gian – Tất cả mọi thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh."
Thế nào là bốn thứ 'đại' (tứ đại)? Đó là đất, nước, lửa, gió. Thân thể con người là hợp thể của tứ đại.
- Những phần cứng và chắc trong thân thể là thuộc về địa đại (đất),
- Hơi nóng trong cơ thể thuộc về hoả đại (lửa).
- Nước dãi, đàm dịch, nước mắt thuộc về thuỷ đại (nước).
- Hơi thở thuộc về phong đại (gió).
Khi chúng ta còn sống, thân thể chịu sự điều khiển của mình, nhưng sau khi chết thì tứ đại tan rã. Hơi ấm trong thân trở về với lửa. Các chất dịch trở về với nước. Các chất rắn trở về với đất. Hơi thở trở về với gió.
'Chuyện chết' đề cập ở đây là như thế nào? Mặc dù chúng ta còn đang sống, nhưng thân xác chúng ta được xem như là đã chết rồi. Cái đang sống được nói đến là gì? Mặc dù chúng ta không biết là nó đang sống, nhưng tinh thần chúng ta rất trẻ và đầy sức sống– đó chính là Phật tánh hằng có của chúng ta. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ Tứ đại trong bảy đại:
+ Tâm thức nhị nguyên sinh lành dữ: Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Có một pháp Đà la ni tên là Kim Cang tâm hay khiến chúng sanh một phen thấy, một phen nghe liền đặng đạo quả. Này gã trai lành! Thế nào gọi là Kim Cang tâm? Tâm/ Chân tâm này người người vẫn có không kẻ nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh này tự biết lấy, tự hiểu lấy. Vì sao?
Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ.
Tâm là chủ của thân; Thân là dụng của tâm. Tại sao vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học, đức do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm ra, họa do tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành Phật, tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm ác là người của La Sát, nên cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm mình, làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật. (Nguồn: Kinh Kim Cang)
Xem thêm: Các Thể của con người
Xem thêm: Thể vía ; Thể phách ;
Xem: T.H Tooltip và Thuật Ngữ, Cấu Tạo Con Người
+ Tâm tánh: .... Thế Tôn nói, Thanh tịnh pháp thân ấy là chơn tánh thanh tịnh (Thấy pháp thân). Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân, xưa nay thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh, tại chỗ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân. ... (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ LINH HỒN và THỨC ĐẦU THAI: Linh Hồn theo Minh Triết Thiêng Liêng. Còn Thức Đầu Thai theo Phật giáo. Cả hai đều chỉ năng lượng gốc để từ đó có con người và nhân loại trên thế gian. Về bản chất không có mấy khác biệt.
* Có một số người nói là trong đạo Phật không có quan niệm về “Linh hồn.” Vậy có đúng không?
Đáp: Có lẽ là có một số người nói như thế. Nhưng những lời nói đó đâu có thể đại diện cho cả toàn thể Phật giáo được. Từ trước tới nay, tôi chưa nghe qua đạo lý này, mà tôi cũng là một phần tử của Phật giáo vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 368)
+ Tam hồn trong con người (Three souls in man): Cần nên nhớ rằng, mọi quyền năng tâm thông là các quyền năng, năng lực và năng khiếu của Linh hồn Độc Nhất (One Soul), nhưng trong thời gian và không gian, một số trong chúng là các biểu hiện của động vật thức hay sinh hồn (animal soul), một số của nhân hồn (human soul) và một số của hồn thiêng liêng (divine soul). (TLHNM II, 559)
+ Sinh hồn (Animal soul) và Linh hồn (soul): Trong thiên nhiên, có loại thần lực (force) làm linh hoạt các giới dưới nhân loại, năng lượng phú linh hồn (ensouling energy), khi được kết hợp với năng lượng của vật chất và bản ngã (self), sẽ tạo ra mọi hình hài. Hiệu quả của việc liên kết (junction) này là đưa thêm vào trí tuệ còn phôi thai của chính vật chất một khả năng cảm thụ (sentiency) và khả năng đáp ứng tiềm tàng để tạo ra một cái gì đó nằm bên trong (subjective something) mà chúng ta gọi là sinh hồn. Sinh hồn tồn tại theo bốn mức độ hay bốn trạng thái cảm thức (sentient awareness):
1. Ý thức (consciousness) của giới khoáng vật.
2. Ý thức của giới thực vật.
3. Ý thức của giới động vật.
4. Ý thức của phàm nhân (animal form) mà chân nhân hoạt động thông qua đó, mà sau rốt chỉ là một bộ phận của nhóm trên dưới hình thức cao nhất.
Thứ đến là, có loại lực tâm thông (psychic force) vốn là kết quả của sự kết hợp của tinh thần với vật chất hữu cảm thức trong giới nhân loại, nó tạo ra một trung khu tâm thông (psychic centre) mà ta gọi là linh hồn của con người (soul of man). (LVHLT, 12)
+ Linh hồn và Nhân hồn: Cần phân biệt Linh hồn trên cõi của nó, liên quan đến mô tả trong các cõi cảm dục và trí tuệ. Đó là Nhân hồn - Linh hồn phân thân đi đầu thai.
* Phải nhớ rằng không có cái nào trong số tên gọi này và các hoạt động này (Trên cõi cảm dục, cõi trí) liên quan đến linh hồn trên cõi riêng của nó (Chân Ngã – ND), mà chỉ có liên quan tới các nhân hồn (human souls) đang luân hồi trên cõi trần mà thôi. Điều này phải được nhấn mạnh, vì trên cõi riêng của mình, các Linh hồn của tất cả mọi người đều thoát khỏi ảo tưởng (illusion), và không linh hồn nào có thể bị hủy diệt, bị lừa dối cũng không bị lôi kéo. Đó chỉ là “những linh hồn trong ngục tù”, những linh hồn này bị lệ thuộc vào các hoạt động của các tà lực (forces of evil) và chỉ trong một kỳ hạn (LVHLT, 241)
+ Nhân hồn và hồn tinh thần: Khi hai giai đoạn của Nghệ thuật Từ Trần kết thúc, linh hồn thoát xác trở nên thoát khỏi sự kềm chế của vật chất; linh hồn này được thanh luyện (tạm thời bằng các giai đoạn hoàn trả và loại bỏ) khỏi mọi sự nhiễm trược (contamination) của vật chất. Đạt được điều này không phải qua bất cứ hoạt động nào của hồn trong hình hài (soul in form), tức nhân hồn, mà là do kết quả của hoạt động của linh hồn trên cõi riêng của nó (tức là Hồn Tinh thần trên cõi Thượng trí–ND), Hồn Tinh thần này đang tách ra một phần của chính nó mà chúng ta gọi là nhân hồn. Về cơ bản, chính công việc của hồn đang phù trì (overshadowing soul, tức là Hồn Tinh thần–ND) mới là thực hiện điều này chứ hồn trong phàm ngã (soul in personality, tức Nhân hồn–ND) không hề làm việc đó. Trong giai đoạn này, nhân hồn chỉ đáp ứng với lực kéo (pull) hay lực thu hút (attractive force) của hồn tinh thần (spiritual soul) khi hồn tinh thần – với ý định có cân nhắc – kéo nhân hồn ra khỏi các lớp vỏ giam nhốt của nó. Sau đó, khi các diễn trình tiến hóa nối tiếp và linh hồn ngày càng kềm chế phàm ngã, chính là phần hồn bên trong các lớp vỏ giam nhốt này mới sẽ tạo ra – một cách hữu thức và có chú tâm – các giai đoạn từ trần. Trong các giai đoạn trước, việc giải thoát này (release) chỉ được tạo ra với sự trợ giúp của hồn tinh thần đang phù trì (overshadowing spiritual soul). Về sau, khi con người đang sống trên cõi trần với tư cách là linh hồn (tức nhân hồn–ND)– với sự liên tục đầy đủ của ý thức – chính linh hồn (soul–tức Nhân hồn) sẽ tiến hành các tiến trình tách ra, và lúc bấy giờ sẽ (với mục tiêu có định hướng) “tiến lên chỗ mà từ đó linh hồn (nhân hồn–ND) xuất phát”. (CTNM, 409–410)
+ Sinh hồn (Animal soul): Sinh hồn làm linh hoạt và đem sinh khí cho hình hài và tạo ra sự sống tạm thời của hình hài. Trong trạng thái vô thức (unconsciousness ), sinh hồn biết được đau đớn, khổ sở, những người trông nuôi bệnh nhân đều biết rõ điều này, nhưng không có cái đau đích thực (real pain) hay khổ đích thực (true distress) bởi vì Chân nhân, tức hồn tinh thần, đã xuất ra hoặc là bởi sự đau cực độ (như trong trạng thái vô thức thực sự), hay là bởi thuốc mê (narcotics). (CTNM, 346)
+ Sinh hồn tức là ý thức động vật (animal consciousness).
+ Thần Lực và Tâm thông: Có 2 loại lực ở trên (các lực ẩn tàng của sự hiện tồn và các lực này xuất phát từ hành vi vốn tạo ra biểu lộ ngoại cảnh đang biểu lộ ở mức độ có liên quan tới con người, và các loại lực này cần được hiểu rõ:
- Thứ nhất: Có loại thần lực làm sinh động các giới dưới nhân loại trong thiên nhiên, − năng lượng phú cho sự sống (ensouling energy), được kết hợp với năng lượng của vật chất và bản ngã, tạo ra mọi hình tướng. Hiệu quả của sự kết hợp này là đưa thêm vào sự thông minh còn phôi thai của chính vật chất một khả năng cảm thụ tiềm tàng (latent sentiency), và sự đáp ứng vốn tạo ra một điều gì đó thuộc nội tâm mà chúng ta gọi là sinh hồn (animal soul). Điều này tồn tại theo 4 mức độ hay trạng thái hiểu biết do cảm thức (sentient awaness):
a/ Tâm thức của giới khoáng vật.
b/ Tâm thức của giới thực vật.
c/ Tâm thức của giới động vật.
d/ Tâm thức của hình hài động vật (animal form) mà qua đó con người tâm linh (spiritual man) hoạt động, và sau rốt tất cả chỉ là một bộ phận của nhóm trước dưới hình thức cao nhất của nó. (LVHLT, 10)
- Thứ hai là có loại lực tâm thông (psychic force) vốn là kết quả của sự hợp nhất của tinh thần với vật chất có khả năng cảm thụ (sentient matter) trong giới nhân loại, và vốn tạo ra một trung tâm thông linh (psychic centre) mà chúng ta gọi là linh hồn con người. Trung tâm thông linh này là một trung tâm lực (force centre), và lực mà trung tâm này gìn giữ (the custodian) hay biểu hiện, phát huy một sự đáp ứng và một sự hiểu biết vốn là sự hiểu biết của linh hồn của sự sống hành tinh, một tâm thức tập thể vốn mang theo với nó các khả năng và kiến thức của một phẩm cấp khác hơn phẩm cấp trong sinh hồn (animal soul). Sau rốt các điều này thay thế cho các năng lực của sinh hồn vốn hạn chế, gây lệch lạc, và trói buộc, và cung cấp cho con người một phạm vi các sự tiếp xúc và một hiểu biết vốn không thể sai lầm, tránh khỏi sự sai sót, và chấp nhận y vào “đặc quyền của các cõi trời”. Hiệu quả của hoạt động tự do của linh hồn con người dùng để chứng minh tính có thể sai lầm và sự vô ích tương đối của các năng lực của sinh hồn. .... (LVHLT, 13)
+ Sinh hồn là phiên bản của "Linh hồn" đầu thai, nơi đời sống Phàm ngã hoạt động chủ yếu qua bí huyệt Đan điền/ luân xa Tùng thái dương, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. (Bí huyệt đan điền - Nơi đất và nước gặp nhau. Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài. Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm). [Tooltip Phong đại/ Hành khí]
+ Thần lực (Forces, Shaktis): Có sáu thần lực của Thiên nhiên.
a/ Chúng là các loại (types) năng lượng.
b/ Chúng là tính chất hay đặc tính năng động của một Hành Tinh Thượng Đế.
c/ Chúng là sinh lực của một Hành Tinh Thượng Đế được định hướng vào một hướng nào đó.
+ Thần Lực và Tâm thông: Có 2 loại lực ở trên (các lực ẩn tàng của sự hiện tồn và các lực này xuất phát từ hành vi vốn tạo ra biểu lộ ngoại cảnh đang biểu lộ ở mức độ có liên quan tới con người, và các loại lực này cần được hiểu rõ:
- Thứ nhất: Có loại thần lực làm sinh động các giới dưới nhân loại trong thiên nhiên, − năng lượng phú cho sự sống (ensouling energy), được kết hợp với năng lượng của vật chất và bản ngã, tạo ra mọi hình tướng. Hiệu quả của sự kết hợp này là đưa thêm vào sự thông minh còn phôi thai của chính vật chất một khả năng cảm thụ tiềm tàng (latent sentiency), và sự đáp ứng vốn tạo ra một điều gì đó thuộc nội tâm mà chúng ta gọi là sinh hồn (animal soul). Điều này tồn tại theo 4 mức độ hay trạng thái hiểu biết do cảm thức (sentient awaness):
a/ Tâm thức của giới khoáng vật.
b/ Tâm thức của giới thực vật.
c/ Tâm thức của giới động vật.
d/ Tâm thức của hình hài động vật (animal form) mà qua đó con người tâm linh (spiritual man) hoạt động, và sau rốt tất cả chỉ là một bộ phận của nhóm trước dưới hình thức cao nhất của nó. (LVHLT, 10)
- Thứ hai là có loại lực tâm thông (psychic force) vốn là kết quả của sự hợp nhất của tinh thần với vật chất có khả năng cảm thụ (sentient matter) trong giới nhân loại, và vốn tạo ra một trung tâm thông linh (psychic centre) mà chúng ta gọi là linh hồn con người. Trung tâm thông linh này là một trung tâm lực (force centre), và lực mà trung tâm này gìn giữ (the custodian) hay biểu hiện, phát huy một sự đáp ứng và một sự hiểu biết vốn là sự hiểu biết của linh hồn của sự sống hành tinh, một tâm thức tập thể vốn mang theo với nó các khả năng và kiến thức của một phẩm cấp khác hơn phẩm cấp trong sinh hồn (animal soul). Sau rốt các điều này thay thế cho các năng lực của sinh hồn vốn hạn chế, gây lệch lạc, và trói buộc, và cung cấp cho con người một phạm vi các sự tiếp xúc và một hiểu biết vốn không thể sai lầm, tránh khỏi sự sai sót, và chấp nhận y vào “đặc quyền của các cõi trời”. Hiệu quả của hoạt động tự do của linh hồn con người dùng để chứng minh tính có thể sai lầm và sự vô ích tương đối của các năng lực của sinh hồn. Tất cả những gì mà Tôi muốn làm ở đây là cho thấy hai nghĩa mà trong đó thuật ngữ “tâm thông” được dùng. Sau này, chúng ta sẽ đề cập đến sự tăng trưởng và phát triển của bản chất tâm thông thấp, hay là linh hồn của các vận thể (vehicles) mà nhờ đó con người hoạt động trong ba cõi thấp, và kế đó sẽ tìm cách làm sáng tỏ bản chất thực sự của linh hồn con người và bản chất của các năng lực có thể được đưa vào hoạt động, một khi một người có thể tiếp xúc với trung tâm tâm linh (spiritual centre), tức linh hồn, của chính mình và sinh hoạt trong linh hồn thức đó. (LVHLT, 13)
+ Xem thêm: Thần lực và các quyền năng
+ Quyền năng (power, siddhis, huyền công, thần thông)
+ Năng lượng Thần lực: Trong toàn thể Vũ Trụ biểu lộ này, có 3 trạng thái được nhận thức.
1. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Một, vô ngã và vô hiện, có trước Vũ Trụ Biểu Lộ.
2. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Hai, Tinh Thần - Vật Chất, Sự Sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Ba, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Đại Đồng. Từ các nguyên lý sáng tạo căn bản này, trong phát triển kế tiếp, có xuất phát theo trình tự được an bài. Vô số Vũ Trụ gồm hằng hà sa số các Tinh Tú Biểu Lộ và các Thái Dương Hệ. Mỗi Thái Dương hệ là sự biểu lộ của năng lượng và sự sống của một Đấng Vũ Trụ vĩ đại, Đấng mà vì thiếu một danh xưng hoàn hảo hơn, chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế. Thái Dương Thượng đế lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian của một Thái Dương Hệ. Thái Dương hệ này là xác thể hay sắc tướng của Đấng Vũ Trụ và chính Đấng này tam phân (itself triple). Thái Dương hệ tam phân này có thể được mô tả bằng tên gọi có 3 trạng thái (three aspects), hay là (theo như Thần học Cơ Đốc giáo) là 3 Ngôi (three Persons).
Ba trạng thái này của Thượng Đế, tức Thái Dương Thượng Đế, và Năng Lượng Trung Ương hay Thần Lực (vì các tên gọi đều đồng nghĩa về phương diện huyền linh) biểu lộ xuyên qua bảy trung tâm lực – 3 trung tâm lực chính yếu và 4 trung tâm lực thứ yếu. Bảy trung tâm này của Thiên Lực được tạo nên để hợp thành các Thực Thể Thông Linh kết hợp. Các Đấng này được biết dưới danh xưng: a. Bảy Hành Tinh Thượng Đế; b. Bảy Tinh Quân trước Thiên Toà; c. Bảy Cung (Rays); d. Bảy Thiên Đế (Heavenly Men). (Nguồn: Luận về Lửa càn khôn)
+ Quyền năng hay thần lực nguyên thủy: Có 6 thần lực nguyên thủy trong Thiên Nhiên. Các Shaktis này như sau:
1. Parashakti: Nghĩa đen là đại thần lực hay quyền năng tối cao (supreme force or power). Nó bao gồm và có nghĩa là quyền năng của ánh sáng và nhiệt.
2. Jnanashakti: Nghĩa đen là quyền năng của trí tuệ (power of intellect) của chân minh triết hay chân tri thức (real wisdom or knowledge). Quyền năng này có hai trạng thái
+ Jnanashakti (Trí tuệ thần lực): Thần lực của trí năng hay thể trí.
+ Parashakti (Tối thượng thần lực): Theo nghĩa đen là thần lực, năng lượng và bức xạ tối cao ở trong và xuất phát từ vật chất.
+ Mantrikashakti (Linh từ thần lực): Thần lực tiềm phục trong âm thanh, ngôn từ và âm nhạc (LVLCK, 395–396)
+ Xem thêm: Các Thần lực - Các Linh hồn - Các Tâm thức
+ THƯỢNG ĐẾ
Cha – Tinh Thần …….. Mẹ – Vật Chất
tạo ra
Đấng Con hay Thái Dương Thượng Đế, Chân ngã
Thượng Đế hữu thức đang tiến hoá qua Mặt Trời và 7 hành tinh thánh thiện, mỗi hành tinh biểu hiện một Nguyên khí vũ trụ, trong 6 biến phân bằng phương pháp:
a. Mở rộng, kích thích rung động, tương tác từ điện hay định luật hút và đẩy.
b. Luỹ tiến theo chu kỳ, lặp lại sự quay, nối kết với sự tiến lên theo hình xoắn ốc, và đang phát triển :
- Đặc tính bác ái – minh triết, qua việc sử dụng hình hài bằng trí tuệ linh hoạt.
- Ngã thức đầy đủ,
- Một Thái dương hệ hoàn hảo, hay hình hài, thích ứng cho các nhu cầu của tinh thần nội tại.
Nơi đây một bảng biểu tương đồng có thể được thực hiện, để chứng minh sự tương đồng của diễn trình, trong trường hợp của một Hành Tinh Thượng Đế và một con người. Nếu chúng ta hỏi tại sao 10 hệ thống và trong 10 hành tinh được thực hiện (gồm 7 thánh thiện và 3 ẩn tàng) bởi vì 7 hành tinh thánh thiện sau rốt nhập thành 3 và sau cùng 3 thành 1.
Tương tự, cũng như 7 Cung năng lượng đang biểu lộ, gồm 4 cung thứ yếu và 3 cung chính yếu. ba cung chính yếu thuộc về Cung III, một trong ba cung năng lượng gốc (LVLCK, 236)
+ Đấng Cao Cả này mà chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế, không mang ý nghĩa như Thượng Đế nhân hình (personal God) của Cơ Đốc giáo, vị Thượng Đế sau này chính là con người không hơn không kém, đã phát triển thành một Đấng có huyền năng khủng khiếp, và lệ thuộc vào các đức tính cùng là tật xấu của chính con người. Thái Dương Thượng Đế vượt lên trên con người, vì Ngài là toàn thể mọi cuộc tiến hoá trong toàn bộ Thái dương hệ, kể cả con người, đó là một cuộc tiến hoá nằm ở điểm giữa có liên quan với các cuộc tiến hoá khác. Về một phương diện, Ngài được sắp vào số các Đấng vượt trên con người, và trong thiên kiếp (kalpa) vừa qua, Ngài đã đạt được và vượt quá trình độ của con người hiện giờ; (LVLCK, 241)
+ Thái Dương Thượng Đế - Một Đấng Vũ Trụ Vĩ Đại, Ngài lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian là một Thái Dương Hệ. Tức Thái dương hệ là biểu lộ của năng lượng và sự sống của Thái Dương Thượng Đế (LVLCK, 29).
- Thái Dương Thượng Đế tức là Đại vũ trụ. (LVLCK, 69)
- Một Thái Dương Thượng Đế có hiện thể là bảy hệ thống hành tinh, có không gian là ba cõi vũ trụ. (LVLCK, 293)
+ Đấng Cao Cả này mà chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế, không mang ý nghĩa như Thượng Đế nhân hình (personal God) của Cơ Đốc giáo, vị Thượng Đế sau này chính là con người không hơn không kém, đã phát triển thành một Đấng có huyền năng khủng khiếp, và lệ thuộc vào các đức tính cùng là tật xấu của chính con người. Thái Dương Thượng Đế vượt lên trên con người, vì Ngài là toàn thể mọi cuộc tiến hoá trong toàn bộ Thái dương hệ, kể cả con người, đó là một cuộc tiến hoá nằm ở điểm giữa có liên quan với các cuộc tiến hoá khác. Về một phương diện, Ngài được sắp vào số các Đấng vượt trên con người, và trong thiên kiếp (kalpa) vừa qua, Ngài đã đạt được và vượt quá trình độ của con người hiện giờ; (LVLCK, 241)
+ I. Đức Thái dương Thượng đế (The Solar Logos)
Đấng chủ quản thái dưong hệ của chúng ta là đức Thái dương Thượng đế (Solar Logos), đấng cao cả nhất mà con người trong thái dưong hệ này có thể hình dung được. Ngài là đấng bao gồm tất cả các thiên thần, nhân loại và mọi giới loài trong vòng biểu lộ giới hạn của Ngài. Tất cả sống, hiện hữu, và chuyển động trong Ngài như câu thuật ngữ huyền linh học hay dùng là “In Him we live, move, and have our being”. Đức DK gọi Ngài là the Grand Heavenly Man hay The Grand Man of the Heaven, đấng Thiên Nhân vĩ đại. Sau đây là đoạn trích dịch trong A Treatise on Cosmic Fire nói về Ngài:
[1] Đức Thái Dương Thượng Đế, đấng Thiên Nhân Vĩ đại, cũng có hình thể hình cầu.
[1] Vòng giới hạn của Ngài bao gồm toàn thể chu vi của Thái dương hệ và tất cả trong phạm vi ảnh hưởng của Mặt Trời.
[2] Mặt Trời giữ một vị trí tương tự như hạt nhân của sự sống ở tâm nguyên tử. Hình cầu này bao gồm trong chu vi của nó 7 dãy hành tinh cùng với 3 dãy tổng hợp, tạo thành số 10 của sự hiển lộ của Thượng Đế.
[3] Mặt Trời là thể hồng trần của Thái Dương Thượng Đế, là thể biểu lộ của Ngài, và sự sống của Ngài quét qua 7 hệ thống tiến hoá theo chu kỳ trong cùng ý nghĩa như sự sống của một Hành Tinh Thượng Đế quét 7 lần xung quanh hệ thống 7 dãy hành tinh của Ngài. (Trong quyển Cosmic Fire, Ngài / Đức D.K xem mặt trời tương ứng với luân xa đáy cột sống trong con người).
[4] Mỗi dãy giữ một vị trí tương tự như một bầu trong một dãy hành tinh. Các bạn hãy lưu ý vẻ đẹp trong sự tương đồng này, tuy nhiên vẫn thiếu sự tương đồng trong chi tiết. [5] (GLBN I, 136).
Thêm vào đó, nếu đức DK nói rằng sự sống của một Hành Tinh Thượng Đế quét 7 lần xung quanh hệ thống 7 dãy hành tinh của Ngài thì điều đó hàm ý rằng bảy dãy hành tinh của một hệ hành tinh tồn tại đồng thời nhau, chứ không phải nối tiếp nhau trong thời gian như Thông Thiên Học giảng dạy.
[5] Ngài nói rằng giữa dãy hành tinh, hệ hành tinh, thái dương hệ … có một sự tương đồng. Điều này tạo nên vẻ đẹp của toàn thể. Câu cách ngôn huyền bí thường được nhắc đến là “As above, so below”, “trên sao, dưới vậy” … và đó là cách mà con người có thể học hỏi về những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên Ngài cũng lưu ý tuy có sự tương đồng, nhưng đó là sự tương đồng trong những nết chính yếu, chứ chúng ta không nên tìm kiếm sự tương đồng trong toàn bộ các chi tiết. (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 8 - Thông Thiên Học)
Một Thái Dương Thượng Đế chứa đựng trong chính Ngài tất cả các nhóm của mỗi loài, từ hồn nhóm giáng hạ tiến hoá, đến các nhóm Chân ngã trên cõi trí như là các nguyên tử trong thể biểu lộ của Ngài. [6] Ngài có 7 nhóm chính yếu hay 7 Thiên Nhân (Heavenly Men) như là các trung tâm lực của cơ thể Ngài. [7] Các vị này toả ảnh hưởng đến khắp nơi thuộc phạm vi Thượng Đế và các Ngài biểu hiện trong chính các Ngài tất cả các sự sống nhỏ bé hơn, các nhóm thứ yếu, con người và thiên thần, các tế bào, các nguyên tử và phân tử. [8]
Nhìn từ cõi vũ trụ, phạm vi của Thượng Đế có thể được hình dung như một quả cầu lửa đang rung động với ánh sáng huy hoàng, chứa bên trong vòng ảnh hưởng của nó các bầu hành tinh cũng rung động giống như các quả cầu lửa [9]. Đấng Đại Thiên Nhân rung động tới một mức độ ngày càng tăng đều đặn, toàn thể Thái dương hệ nhuốm một màu sắc nào đó, màu của sự sống của Thượng Đế, tức là Cung Thiêng Liêng Duy Nhất; [10] và Thái dương hệ xoay tròn theo một mức độ nào đó vốn là chìa khoá của đại kiếp (great kalpa) hay chu kỳ thái dương (solar cycle), và xoay vòng chung quanh cực thái dương trung ương của nó. [11] Đức DK cho rằng thái dưong hệ quay tròn quanh trục trung ương của nó (central pole). Từ thiên văn học chúng ta biết rằng:
– Mặt trời quay quanh trục của nó một vòng mất 27 ngày
– Toàn thể thái dưong hệ quay quanh trục của nó mất 100.000 năm.
Đức DK nói rằng thái dương hệ của chúng ta hợp cùng với sáu thái dương hệ khác tạo thành một hệ thống lớn hơn, là biểu lộ của đấng cao cả hơn nữa mà Ngài gọi là đấng Thượng Đế Vũ Trụ (Cosmic Logos). Mỗi vị Thái dương Thượng đế lại là một Trung tâm lực trong cơ thể của đức Thượng Đế Vũ Trụ này. (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 9 - Thông Thiên Học)
+ 267. HAY BỊ BỊNH
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ đa phần có tật bệnh? Nếu có kẻ nam hay người nữ nhiễu hại chúng sanh; người ấy hoặc nắm tay, hoặc dùng cây đá, hoặc dùng dao gậy nhiễu hại chúng sanh.
Người ấy thọ nghiệp này, tạo thành nghiệp ấy đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, chịu nhiều tật bệnh. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Dung mạo xấu xí:
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật, đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ trong chừng một bữa ăn, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn. Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân gái, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ, cho đến Vương Phi, hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả, đoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn.
Do chí tâm chiêm lễ hình tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế."
Lược giảng:
Ðức Phật dạy tiếp: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật..."
Trên thế gian này, cùng là con người song tại sao có người thì tướng mạo đẹp đẽ xinh xắn, có người lại xấu xí cục mịch? Hoặc có người thì thân thể tráng kiện, có người lại ốm đau quặt quẹo? Vì lẽ gì mà có những sự khác biệt như thế?
a/ Có mười nghiệp dữ (Thập Ác Nghiệp) khiến cho tướng mạo con người bị xấu xí; những gì là mười?
- Ác nghiệp thứ nhất là thường hay phẫn nộ, thích sanh lòng căm phẫn. Chữ "phẫn" này là một trong hai mươi thứ phiền não; còn "nộ" là phát cáu, nổi giận.
Người nữ đa số dễ nổi nóng, dễ giận hờn. Tuy rằng không phải người nữ nào cũng như vậy, nhưng phần đông thì đều là dễ nổi giận; họ có thể vì một cây kim hay một sợi chỉ mà sanh ra giận dữ, tức tối. Nổi giận, nổi nóng là đặc tính của người nữ.
- Ác nghiệp thứ hai là trong lòng thường chất chứa một mối hiềm nghi và ghét hận. Người nữ thường có tánh đa nghi, cái gì cũng hoài nghi cả; lại còn có thêm lòng phẫn hận nữa. Họ "hận người," cho rằng ai cũng có lỗi, cũng đắc tội với mình, cũng đáng cho mình thù ghét cả.
- Ác nghiệp thứ ba là gì? Là ưa nói dối, thích mê hoặc người khác—làm cho người khác bị điên điên đảo đảo, không biết thế nào cho phải nữa.
- Ác nghiệp thứ tư là gì? Là thích não loạn chúng sanh—đa số người nữ rất thích điều này.
- Ác nghiệp thứ năm là không có lòng ái kính chân thành đối với cha mẹ; cũng có người có vậy, nhưng đa số thì không.
- Ác nghiệp thứ sáu là không sanh tâm cung kính đối với nơi chốn tôn nghiêm của Thánh Hiền và Thiện Thần. (Những vị tu học Phật Pháp mà chứng quả A La Hán đều được gọi là bậc "Thánh Hiền."). Thậm chí ở trước mặt đức Phật, ở chùa chiền, đa số người nữ cũng không sanh lòng cung kính, không có được lòng cung kính chân chánh.
- Ác nghiệp thứ bảy là xâm đoạt tài sản ruộng vườn nhu yếu của Thánh Hiền. Ác nghiệp này chỉ nói về một số người nữ mà thôi, chứ không phải ai cũng như vậy. "Xâm đoạt" tức là cướp lấy, chiếm đoạt một cách ngang ngược.
- Ác nghiệp thứ tám là thường dập tắt những ngọn đèn thắp trước tượng Phật ở trong chùa hoặc trong tháp thờ Phật, không để đèn tiếp tục cháy sáng nữa. Ðây là hành vi thứ tám dẫn đến quả báo xấu xí. Thật ra, cũng rất ít người nữ nào lại thổi tắt đèn thắp trước tượng Phật như thế.
- Ác nghiệp thứ chín là thấy người nào xấu xí thì liền sanh lòng chê bai, khinh miệt, nói rằng: "Ôi! Người gì mà xấu xí quá sức, thật là chẳng ai dám nhìn!" Người nữ thường có thói khinh người như thế—song le, thấy người ta xấu xí mà khinh thường người ta, kết quả là chính bản thân mình cũng bị xấu xí luôn! Quý vị phải biết rằng, trong tự tánh của mình vốn có "tấm gương thu hình"; khi quý vị nhìn thấy một kẻ xấu xí rồi sanh lòng khinh mạn, thì tất cả đều được ghi nhận và thu vào "tấm gương" của quý vị; và đến đời sau, quý vị phải đầu thai làm kẻ còn xấu xí tệ hơn người đó nữa.
- Ác nghiệp thứ mười là thích học theo hoặc bắt chước theo những thói hư tật xấu (ác hạnh), những hành vi không chánh đáng.
Trên đây là mười thứ ác nghiệp hay mười nguyên nhân dẫn đến việc thọ quả báo tướng mạo xấu xí.
b/ Lại có mười nguyên nhân khiến cho thân thể mang nhiều bệnh tật; những gì là mười?
- Thứ nhất, là thích đánh đập mọi loài chúng sanh. Bất luận là chúng sanh nào, hễ trông thấy là đều muốn đánh đập—đây là nguyên nhân đầu tiên của quả báo thân thể phải mắc nhiều bệnh khổ.
- Nguyên nhân thứ hai dẫn đến quả báo bệnh tật khổ sở là xúi giục hoặc sai bảo người khác đánh đập chúng sanh—chó, mèo, chuột..., thậm chí cả trẻ em.
- Thứ ba, là khen ngợi việc đánh nhau. Khen ngợi cái gì? Trầm trồ, khen ngợi cách đánh đập, hành hạ chúng sanh. Do vì tán thưởng cách đánh đập của người khác, nên chính bản thân mình phải chịu quả báo nhiều bệnh tật.
- Thứ tư, là thấy sự đánh đập mà vui mừng. Có những kẻ thấy người khác đánh đập chúng sanh thì trong lòng lại vui mừng hớn hở, cho là chuyện thú vị: "Hay thật! Ðáng đời! Ðánh thật là đẹp mắt!"; xem ra còn thú vị hơn cả coi xi-nê nữa!
- Thứ năm, là thấy chúng sanh bệnh tật đau đớn rên siết, thì trong lòng lại hân hoan vui sướng. Có nhiều người hễ thấy kẻ khác bị ốm đau bệnh hoạn, thì trong lòng lại mừng rỡ, thích thú: "Có chúng sanh bị đau ốm rồi. Ồ! Hay quá! Có thế chứ, hắn bệnh rồi đấy!" Họ không cảm thông thương xót đã đành, lại còn vui cười mừng rỡ nữa.
- Thứ sáu, là thấy người bệnh được bình phục thì trong lòng cảm thấy không vui. Có những kẻ thấy người khác mắc bệnh song sau đó được thuyên giảm hoặc khỏi hẳn thì họ không vui, chính vì thế cho nên kiếp sau chính bản thân họ phải chịu quả báo nhiều bệnh tật, hay đau ốm.
- Thứ bảy, là cho chúng sanh uống thứ thuốc không đúng bệnh. Có những người đem thuốc cho chúng sanh bị bệnh, họ cho thứ thuốc gì? Họ cho thứ thuốc không phải trị đúng chứng bệnh mà chúng sanh đó đương mắc phải. Ví dụ, như người bệnh đau đầu thì họ lại cho thuốc đau bụng, chẳng những thế, họ còn huênh hoang: "Quý vị xem, tôi cho bệnh nhân uống thuốc rồi đó."
- Thứ tám, là thấy người bệnh được thầy thuốc tận tâm chữa trị cho, thì sanh lòng đố kỵ, ghen ghét, nói rằng: "Ôi! Ông bác sĩ đó tốt nhất là chết sớm đi, khỏi cần phải trị bệnh cho hắn nữa! Thấy mà gai mắt!"
- Thứ chín, là thấy người khác ốm đau bệnh hoạn thì lại vui thích, còn mong sao người đó cứ luôn luôn ốm đau, mãi mãi bị bệnh tật hành hạ.
- Thứ mười, là thích ăn vặt, ăn luôn miệng. Mới vừa ăn xong chưa kịp tiêu hóa hết thì lại ăn nữa, miệng lúc nào cũng thấy thèm ăn, muốn ăn luôn miệng, không ngừng nghỉ.
Do mười thứ ác nghiệp này mà phải thọ quả báo nhiều ốm đau bệnh tật.
Chúng sanh sở dĩ tướng mạo xấu xí hoặc thân thể nhiều bệnh tật là đều do phạm vào hai mươi ác nghiệp kể trên mà ra. Nếu không phạm vào hai mươi ác nghiệp đó thì sao? Thì tướng mạo không bị xấu xí, thân thể cũng không bị nhiều bệnh tật.
Như vậy, nếu bị xấu xí và nhiều bệnh tật thì phải làm thế nào? Thì hãy "đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ, dùng cái tâm thành khẩn thiết tha mà chiêm ngưỡng lễ bái Bồ Tát Ðịa Tạng trong chừng một bữa ăn, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi lâu bằng ăn xong một bữa cơm, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn."
Thế nào gọi là "tướng mạo viên mãn"? Ðó là mắt thì giống hình dạng của mắt, tai thì có dáng vẻ của tai. Thế thì, quý vị nói mắt như thế nào là không giống mắt? Thông thường, chúng ta thấy hầu hết mọi người đều có đôi mắt dài dài tựa như hạt hạnh nhân vậy, nhưng có kẻ lại có con mắt hình tam giác hoặc vuông vức bốn cạnh; hoặc đa số có tai dài, hình đĩnh vàng, song có kẻ lại có vành tai nhòn nhọn như mũi dao vậy; có người thì mũi lại hỉnh lên, lỗ mũi lộ ra ngoài. Nói theo sách tướng, người có tướng mũi như thế là người chẳng có chút phước báo nào cả—đó là tướng bần cùng. Gặp những người có tướng như thế thì quý vị chớ nên kết giao làm bạn, bởi vì làm bạn với họ sẽ chẳng có gì tốt đẹp cả.
Tôi có biết một vị Pháp Sư nọ có tướng mắt hình tam giác và mũi thì lộ ra. Khi còn ở Hương Cảng thì tôi giúp đỡ ông cũng nhiều, nhưng sau đó ông ta lại tráo trở, dùng đủ cách để bôi nhọ, phá hoại tôi. Tuy vậy, tôi cũng chẳng hề trách móc gì ông ta cả. Về sau, ông ta mắc phải chứng ung thư mà chết. Lúc sắp chết vẫn còn ham thể diện, chưa bỏ được cái "mặt" này, ông căn dặn rằng: Hãy làm như Pháp Sư Từ Hàng vậy—hãy đặt nhục thân của ông ta ngồi trong cái vại lớn rồi niêm lại, sau ba năm thì hãy mở ra xem, nếu nhục thân vẫn còn tươi tốt thì đem ra thếp vàng. Rút cuộc, để chưa tới hai hôm thì đầu của ông đã gục xuống rồi!
Có người nói với tôi rằng nếu là người có công phu tu hành thật sự, thì bất luận chết đã bao nhiêu ngày, nhục thân của họ vẫn trong tư thế đoan nhiên chánh tọa, chứ đầu không gục xuống như thế! Vị Pháp Sư này sang ngày thứ hai đầu đã gục xuống, thế nhưng ông ta còn ham thể diện, dặn đợi đến ba năm rồi mới mở vại. Tuy nhiên, mấy người học trò của ông ta không dám mở vại, vì họ biết rằng không "chắc ăn"! Cho nên, người có tướng mũi lộ ra như thế thì không được tốt cho lắm!
Lại nữa, đàn ông miệng rộng thì tốt, song đàn bà mà miệng rộng thì không tốt, đây là tướng phân nam nữ. Vận hạn của mỗi người, lúc nào thì tốt, lúc nào thì xấu, đều có thể biết được qua tướng mạo. Chỉ cần xem tướng mạo, người ta có thể biết được thời thanh niên quý vị đã thành công như thế nào, thời trung niên sẽ ra sao, và lúc về già hậu vận sẽ như thế nào. Cho nên, sự hiểu biết của người Trung Hoa về lãnh vực tướng số rất uyên thâm, chỉ xem tướng người mà biết được kẻ ấy mai sau tiền đồ có xán lạn hay không.
"Tướng mạo viên mãn" tức là tốt đẹp toàn diện, như Hồng y Yu Bin (Vu Bân) chẳng hạn, tướng mạo của ông ấy vô cùng tốt đẹp, tuổi già được vận may. Quý vị có thể chú ý tướng mạo của ông ấy—mắt, mũi, miệng đều rất cân xứng, hài hòa, tướng người rất phúc hậu, đức độ. Thế nhưng, rốt cuộc ông lại đi lầm đường; nếu theo Phật Giáo, ông ta có thể trở thành một vị Pháp Sư bất khả tư nghị.
"Tướng mạo viên mãn" là quả báo nhờ đã từng niệm Phật, lạy Phật, hoặc lạy những vị Bồ Tát.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: "Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân nữ, tuy rằng xấu xí nhưng nếu cô ta vẫn thích thân nữ, vẫn muốn làm người nữ, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ." Nhờ lễ bái hình tượng của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, cô ta chẳng những được thác sanh làm con gái của vua chúa mà còn được tướng mạo xinh đẹp, viên mãn nữa.
"Cho đến Vương Phi." Thậm chí cô ta có thể được thọ sanh làm vợ vua, "hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả." Cô ta có thể được làm con gái của quan Tể Tướng, con gái của bậc Ðại Quan, hoặc con gái của vị Ðại Trưởng Giả giàu có.
"Ðoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn." Tướng mạo của cô ta nhất định là rất đoan trang và vô cùng xinh đẹp, mỹ miều.
Như tôi vừa nói ban nãy, nếu cặp mắt thì xinh đẹp nhưng mũi lại không cân đối, như thế là không viên mãn; mũi rất đẹp mà mắt không cân xứng thì cũng không viên mãn; mắt, mũi đều đẹp cả mà tai lại không đẹp, không tương xứng, thì cũng không gọi là viên mãn, hoàn chỉnh. Chẳng hạn, một tai lớn, một tai nhỏ; một mắt to, một mắt nhỏ; mũi nằm lệch sang một bên mặt; miệng dính liền với mũi, hoặc mũi với miệng không tách rời nhau, không biết đó là mũi hay miệng nữa—các tướng mạo như thế đều là không viên mãn. Cũng đều là có mắt, có tai, có mũi như nhau, nhưng lại không hài hòa, không cân xứng, hoặc là lộn xộn dồn về một chỗ với nhau—mắt, mũi, tai tụ về thành một khối; quý vị nói xem, như thế có dễ coi không? Tướng mạo như thế đều là không viên mãn!
"Do chí tâm chiêm lễ Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế." Thế thì, tướng mạo viên mãn, các căn hoàn chỉnh, mắt cũng đẹp, tai cũng xinh, mũi cũng tốt, miệng cũng vừa phải, mặt mày đều dễ nhìn, nói chung là tất cả đều đẹp đẽ, tương xứng, là do đâu? Do có lòng tin chí thành, tha thiết chiêm ngưỡng và đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng mà được thọ hưởng phước báo tướng mạo đoan trang xinh đẹp như thế!
Có rất nhiều người tướng mạo không được đoan chánh. "Không đoan chánh" tức là những trường hợp có đầu như đầu khỉ, mặt như mặt ngựa, mắt như mắt chuột. Người Trung Hoa có câu nói: Ðầu thỏ, mắt rắn, tai chuột, má ưng.” (Thố đầu, xà nhãn, thử nhĩ, ưng tai.)
Có nghĩa là người mà đầu có hình thù giống như đầu thỏ, mắt như mắt rắn, tai giống tai chuột, má giống má của chim ưng. Con người mà có nhiều tướng súc sanh tập trung lại, biến thành một cái tướng mạo, thì đó là không tốt, không đoan chánh. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mười nghiệp ác làm tướng mạo xấu xí: Thường với người nữ giới thì Phẫn lộ, hờn giận - Chất chứa hiềm nghi, Ghét hận - Ưa nói dối, mê hoặc người - Thích lão loạn - Không có lòng ái kính - Không cung kính - Thích xâm đoạn tài sản nhu yếu - Thường tắt đèn cúng dường Phật - Thích sanh lòng chê bai, khinh biệt người xấu xí - Thích học đòi theo thói hư, tật xấu.
Và Mười nguyên nhân khiến thân thể nhiều bệnh: Thích đánh đạp - Xúi dục, sai bảo bảo người khác đánh đập - Khen ngợi việc đánh nhau - Thấy đánh đập thì vui mừng - Vui mừng khi người khác bị bệnh đau - Thấy người bệnh khỏi không vui - Cho thuốc không chữa được bệnh - Ganh ghét, đố kị người được bác sỹ chăm sóc tận tình - Thích thấy người khác bị bệnh đau - Thích ăn vặt, ăn luôn miệng. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
* Mười nghiệp xấu ác kết tập sâu dày qua nhiều kiếp sống: Dâm dục - Tham lam - Kiêu mạn - Sân hận - Sảo trá, lừa gạt - Nói giối, bịp bợm, vọng ngữ - Thường oán trách , đổ lỗi - Tà tri, tà kiến, bất chánh - Cong vạy, không ngay thẳng - Thích tranh giành, kiện tụng. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
* Ngũ độn sử: “Cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.” Trong con đường ấy, ngoài quỷ Dạ-xoa ra còn có cả cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp cũng đang rình chờ nữa. “Cọp” là dụ cho lòng tham, tham lam như cọp. Do đó, điều phục được lòng dâm dục tức là thuần phục được cọp; điều phục không nổi lòng dâm dục tức là chưa hàng phục được cọp vậy.
“Sói” là dụ cho cái gì? Ðó là dụ cho lòng sân hận. Loài sói rất lợi hại; lòng sân hận và loài lang sói thì đều đáng sợ như nhau.
“Sư tử” là dụ cho sự ngu si.
“Rắn độc, bò cạp” là dụ cho tánh kiêu mạn và nghi ngờ
“Tham, sân, si, mạn, nghi,” gọi chung là Ngũ Ðộn Sử. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nóng giận - Tạo ra độc tố: Giáo sư Elma giảng dạy tại đại học Stanford, Mỹ từng làm một thí nghiệm nổi tiếng. Ông thu thập hơi thở của người tức giận, bi thương, phiền não thở ra rồi dẫn vào một cái chai có đựng nước thuốc. Ông phát hiện màu sắc của nước ở trong chai này có sự thay đổi. Hơi thở của người tức giận làm cho nước chuyển thành màu tím, của người bi thương khiến nước chuyển thành màu xám. Sau đó ông đổ nước này lên những con chuột, một khoảng thời gian thì chúng run rẩy và chết. Thực nghiệm này chứng minh rằng, khi tức giận cơ thể sẽ sản sinh ra độc tố.(Nguồn: Tại đây)
+ Thù ghét - Chán Ghét - Thù Oán - Oán Thù - Thù hận - Hận Thù: Là đố kỵ bất cứ đối tượng nào của giác quan (Tài liệu MF-QU1 - Môn 100.3)
+ Hận thù/ Căm thù/ Oán thù: Căm giận đến mức thôi thúc phải trả thù. Cách hóa giải: đem tình thương đáp lại hận thù
* Cõi Địa Ngục: Có nguồn gốc từ Nhân Sân hận - Nóng nảy - Giận hờn - Giận giữ - Thù hận, rất đáng sợ. (TĐVN)
+ 2. SÂN HẬN - ĐỐI TRỊ = ĐỊNH TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ
+ Lửa nóng giận: ... Chẳng hạn, một người có tánh rất nóng, một khi ngọn lửa tự tánh của người ấy bộc phát mạnh thì thực chất của anh ta dễ dàng biến thành than ngay. Lửa của tự tánh rất mạnh, nó có sức nóng thật khủng khiếp, và như vậy, thực chất cũng dễ bị đốt cháy. Con người bao gồm các yếu tố kim loại, gỗ, nước, lửa và đất, nếu họ thường xuyên tiếp xúc và dốc hết tâm ý vào một yếu tố nào thì họ sẽ biến thành yếu tố đó. Điều đó xảy ra là do tư tưởng cố chấp tham trước... (Nguồn: Kinh Thủ LN 7- HT Tuyên Hóa)
+ “Sân” là cơn giận, lòng giận dữ, nóng nảy, thù hận khi không vừa lòng, không được thỏa thích như ý muốn. Bất bình vì bị xúc phạm, nhân đó làm những chuyện sai trái. Sau cơn giận thời giữ lại lòng oán ghét tìm dịp mà trả thù.
- Sở dĩ sân sinh khởi là do lòng yêu thích “cái ta” hay thích “cái của ta”. Nếu người ta mắng nhiếc, chê bai kẻ nào khác thời ta không thấy giận, nhưng nếu ai chửi bới hoặc khiển trách ta hay người thân của ta, hoặc làm tổn hại tài sản của ta lập tức ta cảm thấy khó chịu ngay. Khi khó chịu tăng dần thời sẽ trở thành nóng giận. Nhưng nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian như Đức Phật đã từng đưa nhận xét:
+ Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức”. Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”
=> Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người nào không nổi sân, thì tâm không khổ não, tâm không tranh giành, tâm nhu hòa ngay thẳng, tâm từ bi như Phật, thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sinh, thân tướng trang nghiêm được chúng sinh tôn kính và vì có đức nhẫn nhục nên sẽ được mau sinh lên cõi Phạm Thiên. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Lửa sân hận: .... "Này người Bà-la-môn, tại sao lại phải buông bỏ, gạt đi và tránh xa ngọn lửa hận thù? Nếu tâm thức bị ám ảnh bởi hận thù, khống chế bởi hận thù, say đắm bởi hận thù, thì sẽ là cách bước vào con đường đưa đến các "hành động" thân xác tai hại, các "hành động" ngôn từ tai hại, các "hành động" tâm thần tai hại. Vì thế khi cái chết xảy đến, thân xác tan rã, thì sẽ tái sinh trong cõi địa ngục, gánh chịu phần số bất hạnh, lâm vào cảnh khốn cùng nơi địa ngục. (Nguồn: 11 Loại Lửa - Kinh về Lửa)
+ Giận hờn - Hờn giận và Pháp tu để xa lìa giận hờn
... Hoặc người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa lòng giận.
Giận hờn là gì? Chính là nổi nóng, chính là phiền não, cũng là vô minh. Giận hờn lợi hại giống như lửa vậy.
Ấy là: "Một đốm lửa giận, có thể đốt tiêu cả rừng công đức."
Người xưa cũng nói: "Ngàn ngày gánh củi một mồi lửa."
Ý nói quý vị đốn củi một ngàn ngày chỉ cần một đốm lửa châm vào có thể đốt cháy sạch. Ðó là hình dung bình thường chúng ta tích tạo bao công đức thiện nghiệp, dù tu hành bao lâu mà một khi quý vị nổi cáu lên, phừng lửa vô minh, thì bao nhiêu công đức tích tụ được đều đốt sạch cả. Hạng người nào thích nổi lửa vô minh thế? Chính là A-tu-la đấy. Mỗi cá nhân đều có một xu hướng riêng.
Người thuộc Phật đạo, tính cách đa số là từ bi;
Người thuộc Tiên đạo thì ưa thích thanh nhàn,
Người thuộc Nhân đạo thì đều có nhân duyên với mọi người;
Còn thuộc Quỷ đạo thì tánh hay giảo hoạt, không muốn thua thiệt, là người không thành thật, lén lén lút lút, và cũng giống như quỷ La-sát đã nói ở trước, đều có ý "muốn đến hại người."
Người thuộc Súc sanh đạo thì nặng về tham dục, bất luận thứ gì họ đều không sợ nhiều, càng nhiều càng tốt, tham mãi không chán.
Người thuộc Tu-la đạo thì hay phát cáu, những người này hễ động đến thì nổi giận ngay, cáu gắt om sòm.
Những người như thế thì phải làm sao? Có cách gì có thể sửa đổi được? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã đem pháp môn này dạy bảo cho quý vị kỹ càng, đó là phải thường niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Hơn nữa, phải tiếp tục luôn luôn không gián đoạn.
"Thường" nghĩa là không dứt. Mỗi khi lên chùa, gặp chỗ nào có thờ Phật, hoặc thờ Bồ Tát Quán Thế Âm thì phải cung kính cúi đầu đảnh lễ. Cũng không nên hôm nay lạy, rồi ngày mai không lạy; sáng nay đảnh lễ, chiều tối lại không đảnh lễ. Nếu chịu kiền thành hằng thường kính lễ chư Phật Bồ-tát, lâu dần rồi bịnh nổi cáu ấy sẽ không còn nữa, mà chính mình cũng không biết vì sao? Nếu quý vị không tin, tôi sẽ đem kinh nghiệm của chính mình nói cho quý vị nghe. Tôi trước kia là người rất dễ nổi giận, hễ nói đánh là đánh, nói mắng là mắng ngay. Năm tôi 12, 13 tuổi rất thích đánh nhau. Bất luận là người lớn bao nhiêu, đến với tôi thì phải nghe tôi chỉ huy, nếu không nghe tôi chỉ huy thì tôi đánh! Dù chết cũng phải đánh, đánh đến chừng nào chịu hàng phục mới thôi. Thế gọi là gì? Ðó chính là một thứ hành động của A-tu-la. Về sau tôi học Phật, mới biết thói giận bướng như thế là không tốt, phải cải hóa tự tân mới được, nên thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho nên bây giờ làm sư phụ, tôi phải tu hạnh nhẫn nhục. Có lúc đồ đệ đến hiếp đáp, trước hết tôi nổi cáu, nhưng rồi nhỏ nhẹ ôn hòa, nhẫn nhục cho đến khi người ấy từ từ hiểu ra, tự nhận biết lỗi mình. Vì trước đây tôi chọc người khác giận nên bây giờ tôi bị đệ tử đến hiếp đáp. Có thể nói đây là một thứ quả báo! Có người hỏi: "Ðồ đệ nào dám hiếp đáp thầy vậy?" Người nào hiếp đáp tôi thì người đó tự biết. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nóng giận - Hận Thù: Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau
HỎI: Ngài có thể nói với chúng tôi vấn đề ngài vượt thắng thù oán và sợ hãi như thế nào? Và ngài có thể đưa ra một ánh sáng của thiền nào đó không?
ĐÁP: Có nhiều mức độ của thù oán và nó có thể được diễn tả như một cảm nhận xấu đối với người tạo ra rắc rối, kẻ thù, hay bạn bè. Nhưng sân hận là một bộ phận cảm xúc của chúng ta, vốn mọc lên như một cơ cấu phòng vệ trong một con người khi người ấy chạm trán với những hoàn cảnh tiêu cực hay nguy hiểm. Nói một cách sinh học, các cảm xúc như sân hận, khát vọng, và dính mắc là cần thiết cho sự tồn tại.
=> Thù oán có thể được diễn tả như dư âm của sân hận vốn duy trì và day dứt trong một thời gian dài.
Tôi không có thù oán, nhưng nếu tôi thấy điều gì đó sai trái, tôi trở nên sân hận giận hờn. Sau khủng hoảng ở Tây Tạng vào ngày 10 tháng Ba năm 2008, tôi cảm thấy những cảm xúc giống như mà tôi đã cảm nhận vào ngày 10 tháng Ba năm 1959, khi tôi mất tự do – bất lực, bất lực, và băn khoăn. Tuy thế, những cảm xúc hiện hữu khác, khi sau khủng hoảng 2008, tôi đã quán tưởng những cán bộ Trung Cộng và tôi đã hoán đổi sự sợ hãi và sân hận của họ cho sự nhẫn nhục và từ bi của tôi. Rõ ràng, nó không giải quyết bất cứ vấn nạn nào, nhưng nó giúp tôi trong việc duy trì sự an bình tinh thần của tôi.... Một thân thể yếu đuối có thể làm nghiêm trọng sự tiêu cực, nhưng một thân thể khỏe mạnh sẽ đưa đến kết quả trong một tâm tư mạnh mẽ vốn sẽ không bị quấy rầy một cách dễ dàng. Qua sự thực hành, chúng ta cần nghiên cứu để tách rời chính ta khỏi sân hận, vốn sẽ làm cho ta nhìn vào sân hận một cách hợp lý và cuối cùng đánh bại nó một cách hoàn toàn. Nếu sân hận lan tỏa khắp tâm tư, thì nó trở thành khó khăn để loại trừ. (Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
+ Nóng giận - Giận dữ: Suy tư về nóng giận, giận dữ ... (Nguồn: Giận dữ_Đại Lai Lạt Ma)
+ Lửa hận thù: ... phải buông bỏ, gạt đi và tránh xa ngọn lửa hận thù? Nếu tâm thức bị ám ảnh bởi hận thù, khống chế bởi hận thù, say đắm bởi hận thù, thì sẽ là cách bước vào con đường đưa đến các "hành động" thân xác tai hại, các "hành động" ngôn từ tai hại, các "hành động" tâm thần tai hại. Vì thế khi cái chết xảy đến, thân xác tan rã, thì sẽ tái sinh trong cõi địa ngục, gánh chịu phần số bất hạnh, lâm vào cảnh khốn cùng nơi địa ngục. (Nguồn: 11 Loại Lửa - Kinh về Lửa)
+ Tham dục [Tham ái và Dục vọng] - Ngũ dục [Thế gian gọi là Thất tình]: ... Thứ nhất là tham dục. [Khi nói] Tham thì đại đa số là nói về thuận cảnh. Con người gặp lúc vừa lòng xứng ý, chẳng cần biết là hoàn cảnh tinh thần hay hoàn cảnh vật chất, cứ hễ cái gì thuận theo ý mình bèn khởi tâm tham ái. Dục là dục vọng; nhà Phật gọi là Ngũ Dục, thế gian gọi là Thất Tình. Thất Tình Ngũ Dục người đời có ai chẳng tham ái hay chăng? Bởi tham ái Thất Tình Ngũ Dục nên chẳng thể thoát khỏi luân hồi, học Phật cũng chẳng thể thành tựu, học Thiền cũng chẳng thể “đắc Định”, niệm Phật thì hãy khoan nói đến “nhất tâm bất loạn”, dù chỉ “công phu thành phiến” cũng vẫn chẳng thể thành công, học Giáo chẳng thể “khai ngộ”, nguyên nhân chỉ vì chẳng thể buông Ngũ Dục Thất Tình xuống được. (Nguồn: Phật thuyết thanh tinh tâm kinh-PS Tịnh Không giảng)
+ Ngũ tình - Phiền lão chướng gồm Oán - hận - não - lộ - phiền:
- Oán: Lòng oán ghét, chẳng muốn nhìn hay truyện, luôn nghĩ xấu về họ, luồn tìm lỗi lầm, sãn sàng trách móc họ khi có cơ hội.
- Hận: Lòng tức giận, thù hằn - Như ngọn lửa cháy phừng phừng trong lòng.
- Não: Rầu rĩ ỷ ôi, tự dằn vặt, trách móc, đau khổ với lòng mình => Suy nghĩ, nói năng đầy dẫy tiêu cực, âm khí, không ai muốn gần gũi.
- Nộ: Lòng giận giữ hiện ra ngoài mặt như ngọn lửa cháy hừng hực, không có gì có thể dập tắt.
- Phiền: Lòng đầy phiền toái, nóng bức thúc dục, không yên ổn, cứ muốn làm điều ác - nghịch với thiên lý.
* Tu cải mệnh để phát trí phúc: Cần phải buôn xả tâm tham dục, tình chấp càng phải xả, rồi tu giữ ngũ giới hành thập thiện ... mới mong thành tựu các pháp tu. [Theo HT Tuyên Hóa giảng pháp]
+ Người nữ nhiều tánh xấu ác: Phẫn nộ - Hiềm nghi - Ghét hận ......
- Phẫn nộ - Ác nghiệp thứ nhất là thường hay phẫn nộ, thích sanh lòng căm phẫn. Chữ "phẫn" này là một trong hai mươi thứ phiền não; còn "nộ" là phát cáu, nổi giận.
Người nữ đa số dễ nổi nóng, dễ giận hờn. Tuy rằng không phải người nữ nào cũng như vậy, nhưng phần đông thì đều là dễ nổi giận; họ có thể vì một cây kim hay một sợi chỉ mà sanh ra giận dữ, tức tối. Nổi giận, nổi nóng là đặc tính của người nữ.
- Ác nghiệp thứ hai là trong lòng thường chất chứa một mối hiềm nghi và ghét hận. Người nữ thường có tánh đa nghi, cái gì cũng hoài nghi cả; lại còn có thêm lòng phẫn hận nữa. Họ "hận người," cho rằng ai cũng có lỗi, cũng đắc tội với mình, cũng đáng cho mình thù ghét cả.
Người nữ nhân thường kết tập rất nhiều tính xấu ác....... (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thất-tình: Hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục - mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham dục; được giới thiệu một cách giản dị như sau:
1. Hỷ: Không nên mừng vui quá độ, mừng thì tình sẽ động; Quá độ cười như phát cuồng
2. Nộ: Không nên giận, giận thì tình sẽ động; Bách bệnh phát sinh, khắp mình gân cốt đau đớn, vì lửa sân đã thiêu đốt cây bồ đề/ Thân thể cháy sạch
3. Ai: Không nên bi ai, bi ai cũng động tình; Cần tiết chế, không để quá độ.
4. Cụ: Không nên sợ hãi, sợ hãi cũng động tình; Tâm sợ hãi tất không được chánh đáng.
5. Ái: Không nên sanh tâm tham ái, bởi tham ái làm cho tình động; Ái: Thấy sắc đẹp thì tham đắm, thấy đồ đẹp của kẻ khác thì muốn chiếm làm của mình.
6. Ố/ Ác: Không nên có lòng chán ghét, chán ghét làm cho tình động; Ác với Ái ngược nhau: Sự dính mắc muốn chiếm và sự chán ghét muốn xả bỏ.
7. Dục: Không nên có dục niệm, dục niệm sẽ làm cho tình động; Tất cả dục niệm đều không tương ưng với Đạo.
>>> Hành giả sẽ bị hoàn cảnh chi phối, lay chuyển được mình, thì định lực sẽ bị tiêu ma, ta sẽ bị làn gió của các loại hoàn cảnh làm cho phiêu bạt, tâm bị lay động, không còn làm chủ được nữa và, khi không có chủ tức thành điên đảo. Tu hành không còn thất tình thì tâm an tịnh thường ở trong Định, đi đứng nằm ngồi dều đang dụng công => Lúc này nhận ra bộ mặt thật của chính mình. (Nguồn: Xem HT Tuyên Hóa giảng); (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr136 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngũ Dục: Chữ “dục” này là ngũ dục:
1- Tài dục: Ham muốn tiền bạc của cải, vàng ngọc, tài sản vật chất.
2- Sắc dục: Đắm say đam mê sắc đẹp mỹ miều, gồm 6 trần:
- Sắc dục: Ham muốn sắc đẹp, ưa thích tướng tốt.
- Thính dục: Ham muốn tiếng hay, dịu ngọt….
- Hương dục: Ham muốn mùi thơm ngạt ngào….
- Vị dục: Ham muốn đồ ăn thức uống ngon ngọt…
- Xúc dục: Ham muốn sự đụng chạm êm ái, dễ chịu, sung sướng …
- Pháp: Hình ảnh, âm thanh, mầu sắc .... lưu lại ở 5 Trần ở trên
3- Danh dục: Tham muốn địa vị, quyền cao chức trọng, danh thơm tiếng tốt.
4- Thực dục: Tham muốn ăn uống cao lương mỹ vị ngon nhiều.
5- Thùy dục: Tham muốn ngủ nghỉ nhiều (Nguồn)
+ Ngũ dục: Đây là 5 cái gốc của địa ngục - Tâm chúng ta có những thứ này thì tâm này sẽ có bệnh, có độc, nhất định phải hết lòng niệm câu A Di Đà Phật hồi phục lại tâm thanh tịnh của chúng ta (Nguồn).
+ Tại sao con người không nên có Thất tình Lục dục: Vì người sống nặng về tình cảm thường ích kỷ, rế rời xa đường đạo. Mời xem HT Tuyên Hóa khai thị tại: Gậy Kim Cang Hét 1
I- Phiền Lão:
+ Phiền não là phiền tâm, não thân, nên gọi là “phiền não”. Nó khiến cho tâm quý vị phiền muộn, thân quý vị khổ não.
- Nguồn gốc phiền lão: Tham, sân, si là cội rễ của phiền não, vô lượng vô biên phiền não đều sanh từ chỗ này. Tam Độc Phiền Não, đúng là bẩm sanh.
* Phiền não gồm 3 loại lớn. Trong kinh Hoa Nghiêm:
- Kiến Tư phiền não được gọi là chấp trước,
- Trần Sa phiền não được gọi là phân biệt,
- Vô Minh phiền não được gọi là vọng tưởng. [Nguồn: PS Tịnh Không Giảng về Tâm độc - Phiền lão]
* Não - Nộ - Phiền:
- Não: Rầu rĩ ỷ ôi, tự dằn vặt, trách móc, đau khổ với lòng mình => Suy nghĩ, nói năng đầy dẫy tiêu cực, âm khí, không ai muốn gần gũi.
- Nộ: Lòng giận giữ hiện ra ngoài mặt như ngọn lửa cháy hừng hực, không có gì có thể dập tắt.
- Phiền: Lòng đầy phiền toái, nóng bức thúc dục, không yên ổn, cứ muốn làm điều ác - nghịch với thiên lý. [Giảng theo HT Tuyên Hóa]
+ Đức Phật dậy 10 phiền lão (Nguồn: Kinh Thập Thiện):
1. Sợ hãi.
2. Tâm nhỏ nhen - Không có tâm từ rộng lớn đối với chúng sinh.
3. Tập khí giận dữ.
4. Thân thể thường bệnh tật.
5. Mạng sống không thọ.
6. Không được loài phi nhân bảo vệ.
7. Thường có mộng ác, ngủ hay thức đều không yên.
8. Nhiều thù oán trói buộc, khó giải tỏa.
9. Thường đi theo đường ác.
10. Khi chết thường bị sinh vào cõi ác.
+ Phiền lão: Trích đoạn HT Tuyên Hóa giảng về phiền lão trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm ...
A-nhã Kiều-trần-như kết luận: Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không, trong suốt và lặng lẽ, không lay động, đó được gọi là hư không. Lay động là trần, do lay động mà có tên gọi là trần.
Giảng: Quý vị hãy nhìn đám bụi trong dải tia sáng mặt trời đang nhảy múa lăng xăng không ngừng ấy. Cái gì là bụi? Bụi ấy biểu tượng cho phiền não, vô minh, phiền não chướng, sở tri chướng. Khi một ai bị chấp dính vào những thứ này được gọi là vướng “bụi trần.”
Hằng ngày quý vị nghe giảng kinh, tôi khuyên quý vị đừng có phiền não, nhưng những gì quý vị có được toàn là phiền não. Tôi khuyên quý vị đừng có vô minh nhưng những gì quý vị thể hiện ra đều là vô minh. Quý vị xem như vậy có phải là vâng lời không? Càng giảng giải về vô minh là điều không tốt bao nhiêu thì vô minh càng trở nên lớn hơn bên trong quý vị. Khi quý vị được giải thích là phiền não là không tốt thì phiền não lại càng lớn mạnh. Trước khi đề cập đến thì không có phiền não, nhưng một khi đã đưa ra bàn luận, thì phiền não lại sinh khởi và càng tăng. Thế nên có lẽ việc giảng giải kinh điển của tôi chẳng phải là lối giảng giải hay, vì tôi không có thể bao che, thanh minh cho phiền não của quý vị. Tôi hy vọng rằng quý vị sẽ liệng quách phiền não của quý vị xuống Thái Bình Dương cho xong, để đừng có xem phiền não của mình như một kho tàng quý giá nữa. Đừng nâng niu chiều chuộng chúng. Quý vị nên liệng hết phiền não xuống biển, cho dù phiền não có quá nhiều đến nỗi chúng có nguy cơ lấp tràn cả đại dương.
Phiền não là ma quỷ, quý vị có thể tìm thấy yêu tinh ma quỷ nơi đâu? Nói đơn giản, hễ có phiền não là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại, kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu. (Nguồn: mục 118- giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
II- Phiền Lão chướng và Sở chi chướng là hai lĩnh vực thuộc Chướng ngại.
- Phiền não chướng sinh khởi do chấp ngã. Khi chấp ngã, sẽ làm sinh khởi nên phiền não chướng. Bất luận điều gì xảy ra, quý vị đều không thể nào nhìn được thông suốt về nó cả, quý vị chẳng phóng xả sự việc đó được, vì thế nên quý vị bị vướng mắc với chúng. Và một khi sự vướng mắc sinh khởi, thì phiền não chướng theo sau liền. Đó là phiền não chướng.
- Sở tri chướng sinh khởi do chấp pháp. Về sở tri chướng, nếu quý vị nghĩ: “Tôi biết rất nhiều” thì đó là một chướng ngại. Chẳng phải là người ta càng học thì hiểu biết càng gia tăng đâu, mà trái lại họ càng học nhiều thì họ lại càng bị chướng ngại bởi những gì họ biết. Vì sao mà kiến thức là chướng ngại? Vì nó làm cho người ta kiêu ngạo và thường nghĩ: “Quý vị nhìn tôi xem. Tôi biết mọi thứ mà không ai trong các ông biết được. Tôi vượt xa các ông. Tôi chẳng thể nào so sánh với các ông được. Các ông đều là kẻ ngu đần. Nhưng còn tôi, tại sao sở học của tôi lại có một không hai trên thế gian này, đời này thật là hiếm có.” Ngay khi tâm kiêu mạn này trổi dậy thì đó chính là sở tri chướng.
Đây là hai món chướng ngại mà A-nan cho rằng toàn thể mọi người trong hội chúng đều bị ràng buộc. “Trói buộc” nghĩa là không có được tự tại. Họ không có được sự tự do bởi vì họ bị hai thứ chướng ngại này.
* Phiền não là ma quỷ, quý vị có thể tìm thấy yêu tinh ma quỷ nơi đâu? Nói đơn giản, hễ có phiền não là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại, kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn)
+ Phiền lão là Trần lao: ... Rối loạn như vậy: ở trong cái không đồng và cái không dị như đã nói ở trên, thế giới và hư không, “đồng dị phát sinh,” và tạo ra sự hỗn loạn, không có trật tự. Sự hỗn loạn nầy cuối cùng dẫn đến sự mệt mỏi. Trong cái đồng dị bỗng dưng được lập nầy, cuối cùng sinh ra sự mỏi mệt. Cái mỏi mệt là tướng trạng đầu tiên trong lục thô, đó là trí tướng. Mệt mỏi kéo dài sinh ra phiền não. Tiếp theo cái mệt mỏi là tướng trạng thứ nhì của lục thô, đó là tương tục tướng. Nhiễm ô là tướng trạng thứ ba của lục thô, đó là chấp thủ tướng. Những tướng trạng nầy kết hợp nhau trong một mớ hỗn độn u ám. Nó kết dính nhau và không có cách nào để tách rời chúng ra một cách rạch ròi. Đây là tướng trạng thứ tư của lục thô, đó là kế danh tự tướng. Sự hỗn loạn nầy tạo nên phiền não với sự tập nhiễm của trần lao. Trần lao là chính là phiền não. Phiền não chính là trần lao. Tám vạn bốn ngàn trần lao chính là tám vạn bốn ngàn phiền não. Từ những điều kiện khác nhau vừa bàn đến, phiền não sinh khởi. Cùng với phiền não là sự sinh khởi của núi sông đất liền. (Nguồn: HT Tuyên Hóa - Kinh Thủ LN-Q4-Chương 1)
+ Bỏ ác tu thiền - Làm lành lánh dữ - Xa lìa ái dục - Ái dục nặng:
Chú giải của Niệm Lão, đoạn bên phải khuyên dụ người đời, xả ác tu thiện, đây là tông chỉ được nói trong hai hàng kinh văn này. “Ái dục”, chỉ cho tình ái và tham dục, hiện nay gọi là tình chấp, cái này rất khó dứt. “Ái bất trọng bất đọa Ta bà”, đây là điều mà Cổ đức nói, “niệm bất nhất bất sanh tịnh độ”. Người đời đa phần đều chìm đắm trong ái dục, câu nói này hiện nay, có thể nói là sự miêu tả toàn xã hội trên thế giới, đây không phải là một vùng, mà toàn thế giới đang đắm chìm trong ái dục. Tình ái, dục vọng, trong cái tình này đúng là có thương yêu không? Là giả không phải là thật. Phật pháp nói vĩnh hằng bất biến mới là thật, có mới nới cũ là giả. Hiện nay trong cái xã hội này, thật có tình yêu chăng? Nếu đúng là có tình yêu thì còn thể lượng thứ, nhưng đều là hư tình giả ý, mọi người lừa gạt lẫn nhau, một chút chân thành cũng không có, xã hội ngày nay không giống như nhân gian, có người nói là địa ngục trần gian, câu nói này chúng ta càng nghĩ càng thấy có lý. Địa ngục nằm ở đâu? Hiện nay nhân gian là địa ngục, quan niệm đạo đức cơ bản của nhân luận đều mất hết rồi, hoàn toàn mất hết. Chúng ta nói ngũ thường, đúng là ngày nay bất nhân, bất nghĩa, vô lễ, vô trí, vô tín. Trung Quốc trước đây ngũ thường trong xã hội là điều cơ bản, bất cứ ai cũng đều phải có, không có quý vị làm sao đứng vững trong xã hội? Không thể không coi trọng 5 chữ này. Nhân là nghĩ đến mình đến người, nghĩ đến mình phải nghĩ đến người khác, bắt đầu từ đâu? Trước hết nghĩ đến cha mẹ, sau đó nghĩ đến vợ con cái, sau đó nghĩ đến huynh đệ tỷ muội, mở rộng theo từng tầng từng tầng. Phải dốc hết bổn phận của mình, phải yêu quý những người này, phải quan tâm những người này, phải chăm sóc những người này, phải giúp đỡ những người này. Bây giờ không còn gì nữa, người bây giờ chỉ nghĩ đến bản thân, ngoài bản thân ra không để tâm đến ai. Để trong tâm những gì? Dục vọng, tình dục. Giữa vợ chồng yêu đương kết hôn, quý vị nếu hỏi hai người kết hôn này, giữa hai người liệu có thật sự tin tưởng lẫn nhau không? Họ sẽ lắc đầu: đến đâu hay đó thôi! Cái thái độ này là thật không phải là giả, thờ ơ, không thể trường tồn. Mấy ngày chia tay cũng có, mấy tháng chia tay cũng có, một hai năm chia tay cũng rất nhiều rất nhiều, đều là tạo nghiệp. Thế gây oán cho ai? Nếu như họ đã có con rồi, thì gây oán cho đứa trẻ này, quý vị bất hòa, chúng phải chịu tội, nỗi oán hận của chúng kiếp này đời này rửa không sạch, kiếp sau đời sau vô tình hay hữu ý gặp được không báo thù hay sao?
Chúng ta xem câu này của Niệm Lão: “tình ái và tham dục, thực sự là gốc của sanh tử”. Đây là lời cổ nhân dạy: “ái bất trọng bất đọa sa bà”, người trong thế gian này hoàn toàn chìm đắm vào trong đó, đây nói về lục đạo luân hồi. Chết đây sanh kia, lưu chuyển không ngừng. Lục đạo từ đâu mà có? Là từ đây mà ra, là tham sân si mà Phật pháp nói. Tuy quyến thuộc đầy nhà, giữa bờ sanh tử, lúc sanh đến một mình, khi chết độc thân đi, không ai đi theo, không ai thay thế, nên nói độc sanh độc tử, độc đến độc đi, khổ vui tự chịu, không ai chịu thay. Lại nói đến quả báo khổ vui, đều do tự làm tự chịu, cũng không ai có thể thay thế. Quý vị kiếp này gặp được thiện duyên hành thiện tích đức, thì nơi quý vị đến tốt đẹp, tốt cũng chỉ là hai cõi nhân thiên. Nếu như tâm hành bất thiện, thì nơi quý vị đến không tốt đẹp, nơi không tốt này chính là ba đường ác, khổ vui tự chịu, tự làm tự chịu. Cảnh Hưng nói: “tự đương”, tức là tự thọ. “Thiện ác biến hoá”, Thiện biến hoá, tức là thiện đạo. “Tức thiện thú báo”, quả báo của ba đường lành. “Ác biến hoá tức ác thú báo”, người biến hoá thành súc sanh, biến thành ác quỷ, biến thành địa ngục, biến hoá. Hội Sơ nói: “đời này tuy là thiện quả, nhưng tạo nghiệp nhân ác, thì đời sau sẽ biến thành ương quá”. Quá là lỗi lầm. Thiên tai nhân họa đều là do tự bản thân mình gây ra nhân nghiệp bất thiện mà có. Hiện nay mặc dù chúng ta có ác báo rất khổ, nhưng việc thiện mình làm, khi đến kiếp sau nó sẽ biến thành phước báo. Thiên biến vạn hoá, không thể nói hết. Sự biến hóa này đều có thể lý giải, đều có thể nói được, nó cũng là chân tướng sự thật. Tóm lại, thiện nhân thiện quả, ác nhân ác báo, là chân lý, là sự thật, không thể không biết, không thể không suy xét thận trọng.... PS Tịnh Không giảng: Đời sống vô thường - Chết đi về đâu
+ Thiên Lang (Sirius): Trong 9 cuộc điểm đạo xét về nhân loại. Có: 5 cuộc điểm đạo hành tinh; 3 cuộc điểm đạo thuộc thái dương hệ mà Đức Christ đang có 2; 01 cuộc điểm đạo cấp vũ trụ vốn liên kết một người với sao Thiên Lang (Sirius) (CTHNM, 298)
+ Đại Hùng Tinh Thiên Lang Thất Tỷ Muội: Thiên văn học hiện đại, nhóm sao này là một mảng sao gồm 7 ngôi, là bảy ngôi sáng nhất nằm trong ranh giới của chòm sao Đại Hùng (Ursa Major) tại thiên cầu bắc. Chòm Đại Hùng Tinh ngoài 7 ngôi còn nhiều ngôi sao khác.
Tên Hán-Việt: Bắc Đẩu Thất Tinh gồm Tham Lang/ Cự Môn/ Lộc Tồn/ Văn Khúc/ Liêm Trinh/ Vũ Khúc/ Phá quân Chòn sao cán gáo Bắc Đẩu có 2 chòm lớn nhỏ cần phân biệt tương ứng tên gọi của chòm sao Đại hùng tinh và Tiểu hùng tinh, cụ thể:
-Chòm Bắc đẩu lớn gồm một nhóm sao thuộc Chòm sao Đại hùng tinh
-Chòm Bắc đẩu nhỏ hay còn gọi là Sao Bắc cực, là tên gọi cho ngôi sao nằm gần thiên cực trên thiên cầu bắc. Ngôi sao phù hợp nhất hiện nay là sao Polaris trong chòm sao Tiểu Hùng. (Nguồn: Xem wikipedia):
+ Các cung này (7 Cung năng lượng) có một liên hệ chặt chẽ với bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh (lại luôn luôn là bốn và ba như một biến phân thứ hai) và với Thất Tỉ Muội (seven Sisters), Chòm Sao Rua (Pleiades/ Tỷ muội Tinh đẩu). Chòm sao thứ nhất là tác nhân của thần lực dương đối với Hành Tinh Thượng Đế, còn chòm sao kia là tác nhân tiếp vận (relayer) của trạng thái âm. Do đó có một trao đổi trực tiếp các năng lượng giữa các sự sống của bảy Hành Tinh Thượng Đế với Các Đấng Cao Cả (Lives) vĩ đại và khôn dò tức là Các Đấng đang làm linh hoạt (inform) các chòm sao này. (CTHNM, 41)
+ Bảy Đấng Thánh của Đại Hùng Tinh
Các nguyên mẫu (prototypes) của bảy Hành Tinh Thượng Đế (ASCLH, 82)
+ Bắc Đẩu Thất Tinh: (北斗七星) Bảy sao Bắc đẩu. Chỉ bảy ngôi sao ở phương bắc tụ thành hình cái môi. Gọi tắt là Bắc đẩu. Tức bảy ngôi sao cách bắc cực khoảng 30 độ: Thiên xu, Thiên toàn, Thiên cơ, Thiên quyền, Ngọc hành, Khai dương và Dao quang. Thiên văn học gọi là Đại hùng tinh. Tục gọi là sao Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc và Phá quân. Trong quan niệm đời xưa về tinh tú, sao Thiên xu được coi là sao chính trong bảy sao, chủ về đức dương; sao Thiên toàn là sao pháp, chủ về hình âm; sao Thiên cơ là sao lệnh chủ về phạt hại; sao Thiên quyền là sao phạt, chủ về lẽ trời; sao Ngọc hành là sao sát, chủ về bốn phương và trung ương; sao Khai dương là sao nguy, chủ về thiên thực, ngũ cốc; sao Dao quang là sao bộ, chủ về binh. Trong Tôn tinh vương pháp, Bắc đẩu pháp, Bắc đẩu hộ ma pháp v.v... của Mật giáo đều cầu khấn bảy sao này. Ngoài ra, trong Thiền lâm có câu Bắc đẩu lí tàng thân, là chỉ cho thần thông diệu dụng của Thiền tăng, cũng như nói: giấu mình trong sao Bắc đẩu, linh dương giấu sừng không lộ dấu vết. Vân môn khuông châu thiền sư quảng lục (Đại 47, 546 thượng) chép: ‘Hỏi:Thế nào là cầu thấu suốt pháp thân?’ Sư (Vân môn) đáp: ‘Giấu mình trong Bắc đẩu’. [X. kinh Bắc đẩu thất tinh diên mệnh; Cảnh đức truyền đăng lục Q.12 Ba tiêu Tuệ thanh chương; Pháp uyển châu lâm Q.4] (Nguồn: Từ điền Phật giáo)
Xem thêm: Tổng hợp về 7 Cung đến Thái Dương hệ - Địa cầu và Nhân loại
+ Tâm tán loạn: Đối với người tu Tịnh độ, hóa giải xung đột vô cùng quan trọng. Trong các kinh điển, Thế Tôn đã giới thiệu thế giới Cực lạc là thế giới hòa bình, bình đẳng, nơi các bậc thượng thiện tụ hội. Nếu tâm không bình đẳng, giờ phút nào cũng mang nỗi oán hận, nhất định sẽ chướng ngại việc vãng sinh. Người vãng sinh tâm phải thanh tịnh, các tổ sư vẫn thường nói “Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, hay nói cách khác, tâm không thanh tịnh, thì bất luận người đó dụng công thế nào, có niệm hàng vạn danh hiệu đức Phật cũng không thể vãng sinh: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn - Đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Do đây biết tu hành muốn đắc thành tựu là ai ai cũng phải tu Tâm thanh tịnh bình đẳng ...
Theo Phật pháp, mỗi người đời đời kiếp kiếp đều có chủng tử oán hận trong A lại da thức. Người người cùng ở với nhau, luôn cảm thấy không vừa mắt, điều này ai cũng có thể kiểm nghiệm, bất luận thấy người nào, việc gì cũng đều không vừa lòng, đều thấy không vui. Đó là oán hận tích lũy từ vô lượng kiếp, nếu đồng thời bộc phát ra, thế giới này sẽ bị hủy diệt như các tôn giáo phương Tây từng dự đoán. Ngày tàn chính là toàn thế giới bị hủy diệt, trở lại từ đầu....
* Hóa giải xung đột gia đình: Hiện tượng không hòa thuận trong gia đình rất phổ biến, vợ chồng bất hòa, xung đột thường xảy ra. Nguyên nhân do đâu? Do quan niệm mình đúng, người khác không đúng; cả hai đều nhìn thấy không đúng của đối phương thì làm sao có thể hòa thuận. Trước khi kết hôn, chúng ta thường nhìn người yêu với con mắt lý tưởng hóa, mọi thứ thuộc về người đó đều đẹp, đều vừa mắt, nhờ vậy mới có thể đi đến kết hôn. Đó là trạng thái tâm lý trước hôn nhân. Tuy nhiên, nếu vĩnh viễn nghĩ đối phương là đúng, là tốt, khi có mâu thuẫn, chúng ta giành phần sai về mình, cam kết sửa đổi thì gia hòa vạn sự hưng. Ghi nhớ cái tốt của người mới có thể hòa thuận, có thể hóa giải xung đột, và thực sự xúc tiến an định hòa bình. Gia đình là tế bào của xã hội, là tổ chức cơ bản nhất. Nhà nhà hòa thuận thì xã hội hòa thuận, đất nước giàu mạnh. Mọi người đều phản tỉnh, đều biết khuyết điểm ở chính mình. Nói người khác sai chính là sai lầm to lớn. Ngày nay, đa số chúng ta phạm phải sai lầm này. Người khác làm gì có sai lầm, đạo lý này hiếm người hiểu được, chỉ có Phật Bồ tát hiểu. Vì sao nói người khác đều không có lỗi? Vì sai ở ngay chính chúng ta.....(Nguồn: Hóa giải lòng oán hận - PS Tịnh Không)
+ 608. TÂM BỊ PHÂN RẢI
Thế nào là tâm Tỳ-kheo hướng ra bên ngoài, bị phân rải, tán loạn?
Với con mắt, Tỳ-kheo con mắt thấy sắc, thức ăn tướng của sắc, thức đắm trước vị lạc của tướng của sắc, thức bị trói buộc bởi vị lạc của tướng của sắc; vị ấy bị vị ngọt của sắc tướng cột chặt tâm nên hướng ra ngoài, bị phân rải, tán loạn. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; với ý vị ấy nhận thức pháp, thức chạy theo pháp tướng, thức đắm trước vị lạc của pháp tướng, thức bị trói buộc bởi vị lạc của pháp tướng, vị ấy bị vị của vị ngọt của pháp tướng cột chặt tâm nên hướng ra bên ngoài, bị phân rải, tán loạn. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, Phẩm 13, số 164)
+ Chín Pháp giới Chúng sanh đều điên đảo
Ðiên đảo nghĩa là gì? Ðó là thấy khổ cho là vui, cho phải là trái, cho vô thường là thường tồn. Còn có nghĩa như trường hợp tâm tư bất định, trong đầu thì loạn tưởng, thấy việc nghĩa chẳng làm, thấy lợi thì chạy theo. Nói tóm lại, không phân biện trắng đen, không rõ điều chân giả, đều gọi là điên đảo.
Câu nói: "Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo" chính là định luật của nhân quả. Ðầu tiên là sự mê hoặc, khởi tâm sai lầm rồi theo đó tạo nghiệp. Tạo xong nghiệp thì nhận kết quả - quả báo, đó là lẽ tự nhiên. Quả báo là chẳng thể nghĩ bàn, mà chúng sanh tạo nghiệp cũng là điều chẳng thể nghĩ bàn. Lúc đầu tiên sanh ra mê hoặc, cũng là điều chẳng thể nghĩ bàn. Lý do là các loại sự vật, tất cả đều chẳng thể nghĩ bàn, do đó khiến cho chúng sanh thảy đều quay cuồng, bối rối, không biết đâu là đầu mối, như thế nào là thích đáng.
Từ pháp giới của a-tu-la mà nhìn về chư thiên thì họ không hiểu biết gì nhiều, nhưng nhìn về thế gian nhân loại thì họ biết một cách tường tận. A-tu-la thấy loài người điên đảo, trôi nổi trong sanh tử mà không biết khổ, lấy khổ làm vui, tham luyến không muốn bỏ, trông thật đáng thương.
Tại pháp giới của loài người, thì không ai biết được cảnh giới của a-tu-la ra sao, cũng không biết gì về đời sống của chư thiên, hay pháp giới của các bậc thuộc hàng Tứ thánh, nhưng đối với pháp giới của loài thú thì lại biết rõ rệt. Họ thấy súc sanh quá hồ đồ, điên đảo, không biết sự việc gì khác ngoài các vọng tưởng về ăn và dục.
Súc sanh nhìn về quỷ đói thì nhận thấy quỷ đói điên đảo, chúng vì miếng ăn mà khổ não, nhưng tới khi ăn thì đồ ăn là lửa, chúng không nuốt được.
Tại pháp giới quỷ đói nhìn sang pháp giới địa ngục thì thấy chúng sanh ở địa ngục điên đảo. Chúng sanh ở đây đã tạo ác nghiệp phải thọ ác báo, mà lại không biết sửa đổi, cải ác ra thiện.
Tại pháp giới địa ngục thì chúng sanh hoàn toàn không hiểu biết gì, sống trong mê, chết cũng trong mê, chỉ biết riêng lấy mình, không biết tới ai khác. Ðịa ngục là biển khổ mênh mông, không còn có đường nào sáng sủa......
Tại pháp giới địa ngục, mỗi ngày có hàng vạn chúng sanh được sanh ra rồi chết đi, trăm ngàn sự điên đảo, khổ sở không thể nói hết. Tại sao vậy? Ở đây ác nghiệp ngập trời nên chúng sanh phải đền tội. Trong cảnh vạn phần điên đảo không có được nửa phần không điên đảo, do đó lìa khỏi được pháp giới này thật là khó khăn vô kể.......
Tại pháp giới của loài người trong vạn phần điên đảo, thản hoặc có mười phần hay năm mươi phần, tối đa không quá một trăm phần, là không điên đảo. Trong lúc không điên đảo, người ta làm việc công đức, hoặc lạy Phật, hoặc niệm Phật. Khi điên đảo thì vọng tưởng lăng xăng, ham danh đoạt lợi, đấu tranh kiên cố. Tại sao trong vạn phần điên đảo lại chỉ có trăm phần không điên đảo? Ðại khái như khi lạy Phật chẳng hạn, lúc đó không điên đảo. Nhưng có những lúc thân đương lạy Bồ-tát mà tâm lại cầu Bồ-tát gia hộ, mong Bồ-tát ban cho trúng số, phù hộ cho được bình an; thậm chí, có kẻ chẳng chịu học hành mà cũng cầu Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ cho đỗ trạng nguyên, đó chính là điên đảo......
Quý vị phải nghiên cứu kỹ đi! Tại sao chúng ta ở thế giới này chưa thanh toán được phiền não, mà vẫn còn ở nơi hỗn tạp đợi chết? Kẻ xuất gia không ra vẻ người xuất gia, tại gia thì không chịu tu hành! Còn chờ đợi tới thời điểm nào nữa mới chịu tu? Ðời này là ngũ trược ác thế, lưu luyến sanh tử có ích lợi gì?
Quý vị! Hãy tha thiết vấn đề sanh tử, hãy mau phát tâm Bồ-đề, đừng tạo thêm những chuyện điên đảo nữa. Quay đầu lại đi! Ráng lên, "biển khổ không bờ, quay đầu là bến." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng A Tu La: Dục giới là nơi có năm loài chúng sanh ở lẫn lộn gọi là ngũ thú tạp cư địa. Năm loài này gồm Trời, Người, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục. Ở đây chỉ nói đến năm loài thôi mà không nói đến loài A tu la vì loài này có thể hiện thân là bất cứ loài nào trong năm loài trên. A tu la là một loài rất sân và ác độc; nếu ở trên trời thì là một vị ác thần; nếu là người thì là một ác nhân như những tên sát nhân, những tướng cướp hung dữ, những cường hào ác bá, những lãnh chúa độc tài; nếu ở trong loài súc sanh thì là loài ác thú như loài lang sói, hổ báo; nếu ở loài ma quỷ hay địa ngục thì là loài quỷ dữ chuyên quấy phá và não hại loài khác. (Nguồn: A Lại Da Thức - Duy Thức Học)
+ Xem thêm: Người đại ác - Kẻ vô đạo ...:
+ Xem thêm: Các loài A Tu La
+ Xem thêm: Tâm thiện ác và tu xa lìa
+ Các Thần Kim Cang:
Ô-sô-sắc-ma đến trước Phật, chắp hai tay đảnh lễ sát chân Phật rồi bạch rằng, “Con thường nhớ trước đây, trong nhiều kiếp xa xưa, tánh con nhiều dâm dục. Có Đức Phật ra đời, hiệu là Không Vương, nói rằng người đa dâm giống như đống lửa dữ, ngài dạy con quán khắp hơi nóng lạnh trên khắp trăm vóc tứ chi. ”
Giảng giải:
Ô-sô-sắc-ma là một vị thần Kim cang hộ pháp. Ngài là một trong những vị mà trong kinh nầy thường gọi là Kim cang Mật tích (Còn gọi là Hỏa đầu Kim cang) 密迹金, có nghĩa là vị Hộ pháp. Lịch sử của các vị Hộ pháp nầy như sau: Vô lượng kiếp trong quá khứ, có một vị Chuyển luân thánh vương mà người vợ đầu của ông sinh được 1000 người con. Vị Chuyển luân thánh vương nầy là người thấm nhuần Phật pháp. Ông bắt các con của mình rút thăm; và chúng phải tu hành thành Phật theo thứ tự số thăm mà họ đã rút được. Một ngàn vị Phật của kiếp nầy, tức Hiền kiếp, chính là những con trai của Chuyển luân thánh vương ấy.
Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (Kanakamuni Buddha) thành vị Phật đầu tiên, và Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là vị Phật thứ tư của Tinh tú kiếp. Có tên gọi như vậy là vì đó là lúc mà chư Phật và Hiền thánh xuất hiện ở thế gian.
Người vợ khác của Chuyển luân thánh vương có hai người con trai. Người anh phát nguyện rằng khi 1000 người anh của mình đã thành Phật hết rồi, sẽ đi đến quốc độ của họ để cúng dường. Người em phát nguyện khi 1000 người anh của mình đã thành Phật, sẽ đến để hộ trì cho họ – người nầy chính là Kim cang Lực sĩ.
Tại sao ở đây lại nói đến trước Phật chứ không nói từ chỗ ngồi đứng dậy? Là vì Kim cang Lực sĩ là thần Hộ pháp, và thần Hộ pháp thì không thể ngồi khi có sự hiện hữu của chư Phật. Họ phải đứng. Họ không được phép ngồi trong chúng hội của chư Phật. Như loài ma, không những họ không được phép ngồi mà thậm chí còn không được phép đứng. Họ phải quỳ. Các vị Hộ pháp phải quỳ khi nghe giảng pháp. Trong các pháp hội giảng kinh, có rất nhiều loài ma quỷ đang quỳ quanh đây để nghe giảng kinh. Nếu quý vị không thể thấy được chúng, đó là do quý vị không học được cách nói như tôi dành cho chúng. Quý vị có thể hỏi những vị đệ tử của tôi đã được khai ngũ nhãn. Họ sẽ nói cho quý vị nghe....
Con quán sát tính lửa trong thân con, sau một thời gian, con ghê tởm nó và được báo động về nó. Con không còn thích những niệm tưởng dâm dục nữa, con dần dần xa lìa được chúng. Khi nó đã không còn nữa, thì con Được giác tánh sáng suốt ngưng lặng bên trong.” Ô-sô-sắc-ma phát ra tánh sáng suốt từ bên trong, tâm đa dâm hoá thành lửa trí huệ. Có sự chuyển hoá xảy ra từ tâm niệm ám ảnh bới dâm dục; nó đã chuyển thành lửa trí huệ. Từ đó, mỗi khi chư Phật triệu mời con, thường gọi là Hoả đầu. Chư Phật thường gọi Ô-sô-sắc-ma là Hoả đầu Kim cang.
Con dùng sức hoả quang tam-muội mà thành A-la-hán. Tâm phát nguyện lớn rằng khi chư Phật thành đạo, con sẽ làm vị lực sĩ/ Kim cang Đại lực sĩ/ Đại Hộ pháp thân cận chư Phật, hàng phục ma oán. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Tâm tán loạn - Pháp tu quán tướng chót mũi trắng - Quán hơi thở mầu trắng - Quán thấy hơi thở phát sáng.
Tôn-đà-la Nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật rồi bạch Phật rằng, “Lúc con mới xuất gia, theo Phật nhập đạo, tuy giữ đúng giới luật, nhưng trong pháp tam-ma-đề, tâm thường tán loạn, nên chưa đạt được quả vị vô lậu. Thế tôn dạy con cùng với Câu-si-la quán tướng đầu chót mũi trắng.”
Giảng giải:
Nan-đà, A-nan-đà và Tôn-đà-la Nan-đà là ba anh em họ của Phật. Tôn-đà-la là gọi theo tên người vợ của ông là Sundari, có nghĩa là đẹp. Cô ta rất quyến rũ. Nan-đà, phần sau trong tên gọi ấy có nghĩa là ‘thiện.’ Vì có nhiều đệ tử cùng tên, nên Nan-đà được đặt riêng như vậy, có nghĩa là là Nan-đà của Tôn-đà-la.
Tôn-đà-la Nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật rồi bạch Phật rằng, “Lúc con mới xuất gia, theo Phật nhập đạo, tuy giữ đúng giới luật, nhưng trong pháp tam-ma-đề, tâm thường tán loạn, nên chưa đạt được quả vị vô lậu.
Con theo Phật tu đạo, tuy giữ giới luật nghiêm túc nhưng định lực chưa tròn đầy. Tâm con luôn luôn dao động. Con chưa thành tựu được quả vị vô lậu.
Thế tôn dạy con cùng với Câu-si-la quán tướng đầu chót mũi trắng. Vì tâm con quá tán loạn, Đức Phật dạy con và Ma-ha Câu-hi-la, cậu của Xá-lợi-phất, hãy quán sát tướng chót mũi, và hãy quán tưởng điểm màu trắng trên chóp mũi trong khi cả hai mắt đều chăm nhìn vào đó.”
Kinh văn:
Ban đầu con tu quán, trải qua hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở ra vào qua mũi như làn khói trắng, thân tâm bên trong sáng suốt viên mãn đồng như thế giới. Khắp nơi thanh tịnh như ngọc lưu ly. Tướng khói dần dần tiêu mất. Hơi thở trong mũi trở nên màu trắng.
Giảng giải:
Tôn-đà-la Nan-đà tiếp tục trình bày: Khi con hành trì theo phương pháp nầy, Ban đầu con con tu quán, trải qua hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở ra vào qua mũi như làn khói trắng. Con tập trung sức chú ý vào chóp mũi. Sau hai mươi mốt ngày, hơi thở giống như khói, thân tâm bên trong sáng suốt viên mãn đồng như thế giới. Bên trong như có ánh sáng và con thấy rõ những gì đang diễn ra trong các cõi giới, đến mức thấy khắp nơi thanh tịnh như ngọc lưu ly. Thân tâm của con và thế giới trở thành rỗng không và thuần một thể thanh tịnh. Tất cả đều rõ ràng rỗng suốt như ngọc lưu ly. Hơi thở nơi mũi con biến thành màu trắng, nhưng nó dần dần giảm đi. Tướng khói dần dần tiêu mất. Hơi thở trong mũi trở nên màu trắng. Từ sự quán tưởng hằng ngày như vậy, hơi thở con trở nên trắng như điểm sáng trắng trên chót mũi của con.
Kinh văn:
Tâm được khai ngộ, các lậu hết sạch, hơi thở ra vào hoá thành hào quang chiếu khắp mười phương thế giới. Con chứng quả A-la-hán. Thế tôn thọ ký cho con sẽ thành tựu quả vị bồ-đề.
Giảng giải:
Tâm được khai ngộ, các lậu hết sạch. Khi hơi thở của con trở nên màu trắng, tâm con bỗng nhiên được giác ngộ, sạch hết mọi lậu hoặc. Mỗi hơi thở ra vào hoá thành hào quang chiếu khắp mười phương thế giới. Con chứng quả A-la-hán. Ban đầu hơi thở của con giống như khói, rồi nó trở thành màu trắng như điểm sáng trắng trên chót mũi, và cuối cùng nói biến thành hào quang! Ánh sáng chiếu khắp pháp giới trong mười phương. Thế tôn thọ ký cho con sẽ thành tựu quả vị bồ-đề. Đức Phật bảo rằng trong tương lai, con chắc chắn sẽ thành Phật.
Kinh văn:
Đức Phật hỏi về viên thông, con dùng phép nhiếp niệm vào hơi thở, dừng lặng lâu ngày nên phát ra sáng suốt. Sự sáng suốt viên mãn, trừ sạch các lậu hoặc, đó là phương pháp hay nhất.
Giảng giải:
Tôn-đà-la Nan-đà trình bày rằng pháp tu tị thức là thù thắng hơn cả. Đối với ông ta, đó là phương pháp hay nhất. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
488. NÔNG NỔI, KHÔNG SÁNG SUỐT, NGU SI, DỐT NÁT
Một người Phạm chí có người vợ trẻ, vừa mới mang thai, người vợ cả đã có một đứa con trai. Trong thời gian ấy, Phạm chí kia bỗng nhiên mạng chung.
Sau khi mạng chung, con của bà vợ cả nói với bà mẹ kế như thế này: ‘Tiểu mẫu nên biết, nay của cải trong gia đình này hoàn toàn phải thuộc về tôi, không ai được dự phần vào’. Bà mẹ kế đáp: ‘Ta nay đang có thai, nếu sanh con trai thì nó phải được phần. Nếu sanh con gái thì của cải ấy mới hoàn toàn của cậu’. Con của bà vợ cả nói với bà mẹ kế ba lần như thế này: Tiểu mẫu nên biết, nay của cải trong gia đình này hoàn toàn thuộc về tôi, không ai được dự phần vào’. Bà mẹ kế cũng trả lời ba lần như thế này: ‘Nay ta đang có thai, nếu sanh con trai thì phải được chia phần. Nếu sanh con gái thì của cải ấy mới hoàn toàn thuộc về cậu’.
Bấy giờ bà mẹ kế ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ ràng, không có trí tuệ, muốn bảo toàn sự sống mà trở lại hại mình. Bà vào trong phòng lấy dao bén mổ bụng xem là trai hay gái. Bà ấy ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ, không có trí tuệ, muốn bảo vệ sự sống mà lại tự hại mình và đứa con trong bụng.
Này vua Bệ-tứ, nhà vua cũng lại như vậy, ngu si không thông suốt, không hiểu rõ ràng, không có trí tuệ, muốn bảo tồn sự sống mà lại nghĩ như thế này: ‘Này Ca-diếp, nếu biết tôi, biết người thân thích của tôi có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn sẻn, tham lam, có đại lượng, có thi ân, cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, khiến họ được an lạc, bố thí, không đắm trước của cải. Do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời, thì tôi, ngay bây giờ, sau khi thực hành bố thí, tu các thiện nghiệp, phụng trì trai giới, tôi dùng dao tự sát, hoặc uống thuốc độc, hoặc nhảy xuống giếng, hoặc thắt cổ mà chết. (Trung A Hàm, Kinh Bệ Tứ, Phẩm 6, số 71)
+ Tu nhất tâm bấn loạn - Trạng thái nhất tâm
Chúng nhơn đều đảnh lễ đáp rằng: "Nếu thấy cõi ấy, thì cần gì phải nguyện sanh! Xin Hòa Thượng từ bi hiện cõi Tây phương cho mọi người được thấy."
Sư nói: "Đại chúng! Người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành; con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm.
Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà.
Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là rùa, trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh.
Chư Thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì Thiên đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã thì núi Tu Di sập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt. Tâm địa mình chính là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài soi sáu cửa trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục dục. Trong soi tánh mình, làm cho ba độc liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần. Trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây phương. Nếu chẳng chịu tu như thế, thì làm sao đến cõi kia được!" (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu niệm Phật Nhất Tâm Bấn Loạn - Niệm Phật vãng sanh:
(34) Theo danh hiệu vị Phật ở thế giới đó: Đây là Pháp trì danh hiệu Phật để được nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn cũng được gọi là Nhất hạnh Tam muội. Kinh Văn Thù Sư Lợi nói Bát Nhã dạy rằng: Muốn được Nhất hạnh Tam muội thì tùy đức Phật ở phương nào, nên ngồi xoay mặt về phương ấy mà xưng niệm danh hiệu của Ngài không cho gián đoạn, tức có thể được nhất tâm bất loạn, khi được nhất tâm rồi, có thể tùy nguyện vãng sinh về thế giới của đức Phật ấy. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Pháp niệm Phật vãng sanh: Thứ sử lại hỏi: "Đệ tử thường thấy quý Thầy và người tục, niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về Tây phương, xin giải rõ cho biết các người ấy được vãng sanh về Tây phương chăng? Xin Ngài phá chỗ nghi nầy."
Sư nói: "Sử quân hãy nghe cho kỷ, Huệ Năng giải cho. Đức Thế Tôn lúc ở thành Xá Vệ, nói kinh về chỗ tiếp dẫn vào cõi Tây phương, rõ ràng cõi ấy cách đây chẳng xa. Nếu luận về hình tướng và số dặm, thì có mười muôn tám ngàn, tức là chỉ mười điều ác và tám điều tà trong thân. Thế mới nói là xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì người thượng trí.
Người có hai hạng, pháp không có hai thứ. Tánh ngộ mê có khác nhau, chỗ kiến giải có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu vãng sanh về cõi Tây phương, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói: "Tâm mình tịnh, tức là cõi Phật tịnh."
Sử quân, người Đông phương mà tâm tịnh, thì không có tội. Còn tuy là người Tây phương mà tâm chẳng tịnh, thì cũng có tội. Người Đông phương tạo tội, niệm Phật cầu vãng sanh về Tây phương. Còn người Tây phương tạo tội, niệm Phật cầu vãng sanh về xứ nào?
Người phàm mê muội, chẳng tỏ tánh mình, không biết cõi Tịnh độ trong thân, nên mới phát nguyện Đông nguyện Tây. Còn người giác ngộ dầu ở chỗ nào, tâm địa cũng một mực thanh tịnh tự nhiên. Cho nên Phật nói: Vô luận ở đâu tâm hằng an lạc.
Sử quân, nếu tâm địa mình trọn lành, thì cõi Tây phương cách đây chẳng xa. Bằng mình cưu mang cái tâm chẳng lành mà niệm Phật cầu vãng sanh, thì ắt khó đến cõi ấy.
Nay khuyên các Thiện tri thức, trước trừ mười điều ác, tức là đi tới mười muôn, sau dứt tám điều tà, ấy là qua khỏi tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường làm việc công bình, thì đến cõi ấy mau như khảy móng tay, liền thấy Phật Di Đà......
Sư nói: "Đại chúng! Người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành; con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm.
Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà.
Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là rùa, trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh......
Chư Thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì Thiên đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã thì núi Tu Di sập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt. Tâm địa mình chính là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài soi sáu cửa trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục dục. Trong soi tánh mình, làm cho ba độc liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần. Trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây phương. Nếu chẳng chịu tu như thế, thì làm sao đến cõi kia được!" (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Niệm Phật thành Phật: 20- Tu học Phật pháp nhất định phải theo thứ lớp, không được vượt cấp.... Học từ đoạn phiền não, từ tìm hiểu thấu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh. ... thân tâm thế giới của họ không có việc gì, dục vọng vật chất đã ngăn bỏ sạch sẽ. Một lòng một dạ chỉ muốn vãng sanh, chỉ nghĩ A Di Đà Phật, đây là đai trí tuệ......
Phật nói trong Kinh Đại Thừa: Một niệm sân khởi lên thì cả triệu cánh cửa chướng ngại mở ra… Dù hoàn cảnh không như ý cũng không khởi lên tâm sân giận, cần hiểu rõ nhân quả, lý sự bên trong đó. Khởi tâm sân giận, không làm chướng ngại người khác mà thật ra chỉ chướng ngại tự mình…
19- Ở Singapore buôn bán ma túy, án duy nhất là tử hình, là hình phạt treo cổ. Số người buôn bán ma túy rất nhiều, hơn nữa đều rất trẻ tuổi. .... Cư sĩ Lý Mộc Nguyên của Cư Sĩ Lâm Phật giáo, vào trại giam khuyên họ niệm “Kinh Vô Lượng Thọ”, niệm “A Di Đà Phật” cầu sanh Tịnh độ. Đại đa số tội phạm đều tiếp nhận, trong ngục tù giống như Phật thất tinh tấn của một niệm Phật đường. Vì họ đều biết ngày nào sẽ vãng sanh, do đó buông xuống tất cả thế giới bên ngoài của thân tâm, chân chân thật thật ở đó niệm Phật. ... Người niệm Phật không cần người dìu đỡ, tự mình bước lên một cách tự nhiên, một tí sợ hãi cũng không có. Sau khi bị treo cổ chết đi, mặt mày bình thường, bất khả tư nghì! Sau khi hỏa táng, nhặt được viên cứng rắn (kiên cố tử), xá lợi tử, đó là trong một đời của tôi chưa từng thấy qua. Màu sắc đẹp, lại to, rắn chắc, khi rơi xuống đất phát ra âm thanh như kim loại, bất khả tư nghì! Một người phải lên hành hình treo cổ, toàn bộ phạm nhân trong ngục đều niệm Phật để tiễn đưa họ. Chứng minh như trong kinh nói: Niệm Phật từ một ngày đến bảy ngày, chân thật sám hối, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh, là có thể thật sự thành công.... (Nguồn: Niệm Phật thành Phật - PS Tịnh Không)
+ Thân thể bất hoại của Người chứng sơ quả Tu Đà Hoàn (Theo Tooltip: Tu hành Giải Thoát Khổ đau - Thoát khỏi khổ đau - Thoát khổ được vui là Pháp Tu giải thoát Luân hồi sinh tử):
Chết, ai ai cũng đều không thích chết. Vì sao ? Vì quan hệ đến khổ đau. Lại có khổ vì thương nhau mà xa lìa, ghét nhau mà thường gặp, cầu mà không được như ý, năm ấm luôn thay đổi hẩy hừng. Những loại khổ này đều gọi là khổ. Nay chúng ta tu hành nên phải dẹp trừ ba khổ, tám khổ, vô lượng khổ, nên gọi là độ thoát tất cả khổ ách.
"Độ qua khổ ải xuất luân hồi, (vượt qua biển khổ xuất luân hồi)".
Mọi khổ đều nằm trong biển khổ. Nếu chư vị vượt qua hết tất cả khổ ách thì chắc chắn sẽ thoát khỏi sáu nẻo luân hồi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, người, trời.
"Vũ tễ thanh tịnh nguyệt chánh huy, (mưa tạnh trời trong trăng sáng hiện)".
Khi ấy mưa tạnh tức là không còn hạt mưa nào hết. Bầu trời trong sáng. Trăng sáng hiển hiện. Mặt trăng trong không trung chiếu sáng. Năm ấm đều không. Không còn năm ấm giống như không còn mây, mưa. Bầu trời trong sáng, thanh tịnh. Trăng treo lơ lững, muôn dặm không áng mây. Cảnh giới này khiến chư vị phát sanh trí huệ chân chánh, chiếu sáng khắp cả, nhờ đó mà độ thoát qua hết tất cả khổ ách.
"Càn nguyên đạo thể nhân trung thánh, (Càn nguyên đạo thể thánh giữa người)".
Khi chứng sơ quả A La Hán, thân thể chư vị tràn ngập khí dương. Càn là số dương trong kinh dịch, nên gọi là càn nguyên. Đạo thể là thể chất của việc tu đạo. Trung nhân thánh là thánh nhân trong loài người.
"Bất hoại kim khu thế thượng hy, (vàng chẳng hoại diệt thế gian hiếm)".
Khi chứng sơ quả Tu Đà Hoàn, chư vị cắt đứt được tám mươi tám phần kiến hoặc. Thân thể chư vị bất hoại như vàng ròng, trên thế gian rất hiếm có.
"Thoát sanh hà thuận thiên niên dược, (thoát sanh tử cần chi thuốc tiên)".
Xưa, vua Thái Thủy (221-207 BC) đến đảo Bồng Lai tìm thuốc trẻ mãi không già, giải thoát sanh tử. Chư vị không cần thiết phải đi tìm thuốc trẻ mãi không già, chỉ nên độ thoát hết tất cả khổ ách. Khi đó muốn sống thì sống, muốn chết thì chết. Chết sống do tự chính mình. Vua Diêm La không thể cai quản được, giống như tổ Bồ Đề Đạt Ma.
"Chứng diệt khải thị vạn kiếp kỳ, (chứng diệt đợi chi muôn kỳ kiếp)".
Pháp bốn diệu đế : Khổ, tập, diệt đạo. Khi chứng đắc diệt đế thì thành đạo, đắc vô dư Niết Bàn, không đợi trải qua tám muôn bốn ngàn kiếp, mà mau chứng đắc vô dư Niết Bàn.
"Nhị tử vĩnh vong ngũ trụ tận, (hai chết mất hẳn năm trụ diệt)".
Chư vị chứng đến độ thoát tất cả khổ ách, vượt khỏi vòng luân hồi, đắc được thân kim cang bất hoại. Khi ấy nhị tử mãi không mất. Sao gọi là nhị tử ? Có phải là chết hai lần không ? Không phải là chết hai lần mà là hai lần chết. Một lần là phần đoạn sanh tử. Một lần là biến dịch sanh tử. Gọi là hai lần chết.
Khi chứng quả A La Hán thì cắt đứt phần đoạn sanh tử.
Khi chứng quả vị Bồ Tát mới cắt đứt biến dịch sanh tử.
Nay, Bồ Tát Quán Thế Âm đã cắt đứt được biến dịch sanh tử. Chữ vong (mất), đây không phải là tử vong (chết mất). Trong sách đại học nói :" Nhi kim vong hỷ (như nay mất rồi)". Chữ 'vong' đọc là không. Chúng ta có thể đọc là vong, hay không cũng được, không cần giảng giải.
Hai loại chết này đều không.
"Ngũ trụ tận (tận hết năm trụ)". Nghĩa là năm trụ phiền não. Chúng là gì ?
Thứ nhất, kiến trụ phiền não, là trụ ái kiến.
Thứ hai, trụ ái dục.
Thứ ba, trụ sắc ái.
Thứ tư, trụ vô sắc ái.
Thứ năm, trụ vô minh ái.
Vì năm trụ ái này mà chúng ta sanh chấp trước, biến thành năm loại phiền não.
Bồ Tát Quán Thế Âm dẹp trừ hết năm loại phiền não này.
"Tiêu diêu pháp giới nhậm đông tây, (dạo chơi pháp giới khắp đông tây)".
Tiêu diêu có nghĩa là tự tại. Tự tại cũng là tiêu diêu. Tiêu diêu cũng là tự do. Tự do, nghĩa là an lạc, sung suớng. Sao an lạc sung sướng ? Vì có thể tùy tiện đi nơi này nơi nọ. "Nhậm đông tây", nghĩa là nếu chư vị muốn qua cõi tây phương cực lạc thì tùy ý mà đi. Muốn qua cõi đông phương Tịnh Lưu Ly Phật thì cũng có thể đi. Muốn đến cõi Ta Bà thì không thành vấn đề, cũng không cần hộ chiếu do tòa lãnh sự sứ quán cấp. Không có những thủ tục rườm rà. Nếu muốn đi thì cứ đi, nên gọi là tiêu diêu pháp giới. Pháp giới không phải chỉ trong vòng, đông tây, nam, bắc, mà cả trên dưới, mười phương. Chư vị muốn đi đến đâu thì đều được hoan nghinh khi đến những nơi đó. Không phải nói là muốn đi đến nơi kia, nơi kia không hoan nghinh tiếp đón chư vị, không cho nhập cảnh. Muốn đến nơi nào cũng được hết. Tiêu diêu pháp giới nhậm đông tây. Chư vị thấy cảnh giới này có an lạc lắm không, tự do lắm không ! Tiêu diêu, tự do, đó là tánh pháp giới chân chánh bình đẳng. Khi hai lần chết và năm trụ đều tận diệt thì đắc được tự do. Đó là tự do chân thật, an lạc chân thật, bình đẳng chân thật, và tiêu diêu chân thật. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh -1- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Tăng thượng tâm - 20. KINH AN TRÚ TẦM (Vtakkasanthàna Sutta).
Như vầy tôi nghe.... Thế Tôn thuyết giảng như sau: Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn thực tu tăng thượng tâm cần phải thường thường tác ý năm tướng.
Ở đây, Tỷ-kheo y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người thợ mộc thiện xảo hay đệ tử một người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh tung ra, đánh văng ra một cái nêm khác; chư Tỷ-kheo, cũng vậy, khi một Tỷ-kheo y cứ một tướng nào, tác ý một tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy khi tác ý một tướng khác với tướng kia, liên hệ đến thiện, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy: "Ðây là những tầm bất thiện, đây là những tầm có tội, đây là những tầm có khổ báo". Nhờ quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người đàn bà hay người đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang sức nếu một xác rắn, hay xác chó, hay xác người được quàng vào cổ, người ấy phải lo âu, xấu hổ, ghê tởm. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy nhờ quán sát... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải không ức niệm, không tác ý những tầm ấy. Nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người có mắt, không muốn thấy các sắc pháp nằm trong tầm mắt của mình, người ấy nhắm mắt lại hay ngó qua một bên. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi không ức niệm, không tác ý... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy. Nhờ tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Ví như một người đang đi mau, suy nghĩ: "Tại sao ta lại đi mau? Ta hãy đi chậm lại". Trong khi đi chậm, người ấy suy nghĩ: "Tại sao ta lại đi chậm? Ta hãy dừng lại". Trong khi dừng lại, người ấy suy nghĩ: "Tại sao Ta lại dừng lại? Ta hãy ngồi xuống". Trong khi ngồi, người ấy suy nghĩ: "Tại sao ta lại ngồi? Ta hãy nằm xuống". Chư Tỷ-kheo, như vậy người ấy bỏ dần các cử chỉ thô cứng nhất và làm theo các cử chỉ tế nhị nhất. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy tác ý đến... (như trên)... được an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ... đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục... liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong... được an trú, an tịnh nhất tâm, định tĩnh.
Ví như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu, hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục, và đánh bại. Chư Tỷ kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ trừ diệt chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, trong khi y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi. Tỷ-kheo ấy tác ý một tướng khác, liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được diệt trừ, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy, nhờ quán sát sự nguy hiểm các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy, nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy tác ý hành tướng các tầm và an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã an trú trong đạo tầm pháp môn. Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn; vị ấy đã đoạn trừ khát ái, đã giải thoát các kiết sử, khéo chinh phục kiêu mạn, đã chấm dứt khổ đau.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. (Nguồn: 20.Kinh An Trú Tầm)
+ Tùy duyên: Đức Phật nói rằng: “Duyên đến nên quý, duyên hết nên buông. Hoa nở là hữu tình, hoa rơi là vô ý. Người đến là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Duyên sâu thì hợp, duyên mỏng thì tan. Vạn pháp do duyên, vạn sự tùy duyên”. Người nên đến thì sẽ đến, người muốn đi thì đừng nên níu kéo. Đừng ép người, đừng ép mình, đừng bận tâm, đau lòng chỉ vì một chuyện, sống trên đời nên học cách "tùy duyên".(Nguồn: Nhân duyên - N.T. Bích Vân)
+ Duyên nợ: Đức Phật có câu: “Bất luận bạn gặp ai, người đó là người cần xuất hiện trong cuộc đời của bạn, tuyệt đối chẳng phải ngẫu nhiên, người đó sẽ dạy cho bạn một điều gì đó”. Đây đều là “nhân duyên” quyết định..... Mỗi người đến với thế gian đều có một số phận, một sứ mệnh khác nhau, có người mang đến cho ta niềm vui, niềm hạnh phúc, có người lại mang đến sự buồn phiền, khổ đau, sự oán trách, dằn vặt.
Phật dạy rằng, kiếp trước 500 lần ngoái đầu nhìn lại mới đổi được kiếp này một lần gặp thoáng qua. Cuộc đời ai cũng sẽ gặp một người mà ta yêu thương thật lòng, một người mà suốt đời này ta muốn gắn bó và ở cạnh bên nhưng đôi khi lại chẳng thể đến được với nhau. Đó là những người có duyên nhưng không có phận. Quả thực, duyên phận là điều gì đó rất kỳ lạ, không một ai có thể hiểu rõ và lý giải hết được. Những người “hữu duyên” vô tình quen biết nhưng lại thấu hiểu, yêu mến nhau. Có người dù xa lạ, dù chưa hề biết nhau nhưng vừa gặp mặt đã cảm thấy vô cùng thân thiết, quen thuộc như đã từng gặp nhau ở đâu rồi. Ngược lại, có những người vừa mới gặp đã thấy ác cảm, muốn tránh xa. Cũng có nhiều người có thể hài hòa với nhau, cảm mến nhau nhưng lại chẳng thể nào gần được nhau.
Đức Phật nói rằng: “Kiếp sống con người chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy luân hồi. Kiếp này nối tiếp kiếp khác, thừa hưởng và kế thừa lẫn nhau. Con người gặp nhau là bởi chữ “duyên”, sống và yêu nhau là bởi chữ “nợ”. Có người lập gia đình nhưng cuộc sống của họ lại giống như một cơn ác mộng, họ sống trong khổ đau, trong muộn phiền, trong nước mắt. Họ ước giá như mình chưa từng bước vào cuộc hôn nhân bất hạnh này, họ đấu tranh, vẫy vùng để cố thoát ra nhưng cũng không tài nào dứt ra được. Tất cả là do nợ, vì chữ nợ mà dù muốn trốn tránh cũng không được, buông bỏ cũng không xong. Và rồi cho đến một thời điểm nào đó, hết nợ thì duyên cũng hết, họ rời xa nhau, đường ai nấy đi, thậm chí không còn bất cứ mối liên hệ với nhau hoặc nếu có gặp lại cũng vui vẻ, chứ không còn gây đau khổ cho nhau nữa. Rồi cũng có những người được hưởng hạnh phúc trọn vẹn từ cuộc hôn nhân của chính mình, họ được yêu thương, được chiều chuộng, được chở che. Với họ, gia đình là một tổ ấm thật sự, cuộc sống của họ tràn ngập tiếng cười, niềm vui và dường như chỉ có một gam màu hồng của hạnh phúc. Chứng tỏ phước đức của họ từ kiếp trước là vô biên. (Nguồn: Chữ Nhân - duyên - Nợ)
+ Nhân Duyên Tình Yêu nảy nở qua luân hồi: Ví dụ về Ngài A Nan - Đệ tử gần gữi của Đức Phật Thích Ca mâu Ni. Trích đoạn HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm: ... Trong 500 đời trước, A-nan và con gái của Ma-đăng-già đã là vợ chồng của nhau. Thế nên khi cô ta thấy A-nan, liền phải lòng – cô ta đã gặp lại chồng mình trong những đời trước. Tình yêu của cô ta đối với A-nan là không thể nào tránh khỏi được. Thực vậy, có lẽ họ đã có lời thề nguyền trong những kiếp trước. Trong kiếp sống sau cùng gần nhất, cô ta có lẽ đã nói với A-nan, “Trong tương lai, chúng ta sẽ làm vợ chồng nhau mãi mãi. Đừng bao giờ xa nhau.” Đó là lý do tại sao tình yêu giữa hai người quá mạnh đến mức họ yêu nhau ngay khi vừa thấy nhau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Nợ nhau - Nhân Duyên trong đời quá khứ. Đức Phật nói 4 loại:
1) Loại thứ nhất là báo ân: Trong đời quá khứ, 2 bên có ân huệ với nhau, nếu chúng nó lại thấy quý vị, bèn đầu thai vào nhà quý vị, sẽ trở thành con hiếu, cháu hiền, đến để báo ân tình xưa.
2) Loại thứ hai là báo oán: Trong đời quá khứ, quý vị kết cừu hận với họ. Gặp gỡ lần này, họ đến làm con cái quý vị, mai sau lớn lên sẽ thành đứa con khiến cho gia đình suy bại, khiến cho quý vị nhà tan, người chết, nó đến để báo th quý vị..! Vì thế, chớ nên kết oán cừu với kẻ khác. Kẻ oán cừu bên ngoài có thể đề phòng, chứ họ đến đầu thai trong nhà quý vị, làm cách nào đây? Quý vị hại người đó hay hại chết kẻ đó, thần thức kẻ ấy sẽ đến làm con cháu trong nhà quý vị. Đó gọi là “con cháu ngỗ nghịch”
3) Loại thứ ba là đòi nợ: Trong đời quá khứ, cha mẹ thiếu nợ chúng nó, chúng nó đến đòi nợ. Nếu thiếu nợ ít, nuôi hai, ba năm, con bèn chết. Nếu thiếu nợ nhiều, đại khái là nuôi đến khi tốt nghiệp đại học, sắp có thể làm việc bèn chết mất. Nợ đã đòi xong, nó bèn ra đi.
4) Loại thứ tư là trả nợ: Con cái thiếu nợ cha mẹ quá khứ (hay đời quá khứ) hiện tai hay đời này gặp gỡ, nó phải trả nợ. Nó phải nỗ lực làm lụng để nuôi nấng cha mẹ. Nếu nó thiếu nợ cha mẹ rất nhiều, nó cung phụng cha mẹ vật chất rất trọng hậu. Nếu thiếu nợ rất ít, nó lo cho cuộc sống của cha mẹ rất tệ bạc, miễn sao quý vị chẳng chết đói là được rồi - Hạng người này tuy có thể phụng dưỡng cha mẹ, nhưng thiếu lòng cung kính, chẳng có tâm hiếu thuận. Báo ân bèn có tâm hiếu thuận, chứ trả nợ chẳng có tâm hiếu thuận. Thậm chí trong lòng chúng nó còn ghét bỏ, chán ngán cha mẹ, nhưng vẫn cho quý vị tiền để sống, nhiều hay ít là do xưa kia quý vị thiếu chúng nó nhiều hay ít. (Nguồn: Bốn nhân duyên con cái đầu thai)
+ Sự trầm tĩnh hoàn toàn là dấu hiệu của việc kềm chế thể cảm dục một cách trọn vẹn, sao cho các xáo trộn tình cảm được khắc phục, hoặc là ít nhất được hạ giãm đến mức tối thiểu trong kiếp sống của vị đệ tử. Trên vòng xoắn ốc cao hơn, nó cũng là dấu hiệu của một năng lực hành động một cách tự do trên các phân cảnh Bồ Đề, nhờ bởi việc hoàn toàn thoát khỏi (và do hậu quả của sự quân bình) mọi ảnh hưởng và mọi xung lực vốn được thúc đẩy từ ba cõi thấp. Mẫu mực hay tính chất quân bình này hàm ý – nếu bạn suy nghĩ kỹ – một trạng thái trừu xuất của thể trí; không gì được xem như bất toàn (nonperfection) có thể tạo ra xáo trộn. Bạn có thể nhận biết một cách chắc chắn rằng nếu bạn hoàn toàn thoát khỏi mọi phản ứng tình cảm thì trí óc bạn sẽ sáng suốt và năng lực suy tư sáng suốt của bạn sẽ tăng lên một cách phi thường với tất cả những gì mà nó có liên quan tới. Dĩ nhiên, sự trầm tĩnh hoàn toàn của một đệ tử được điểm đạo thì khác với sự trầm tĩnh của một Chân Sư được điểm đạo, vì một bên liên quan đến tác dụng của ba cõi thấp hay là phi tác dụng của chúng, còn bên kia thì liên quan đến khả năng thích nghi với tiết điệu của Tam Thượng Thể Tinh thần. Tuy nhiên, kiểu quân bình trước phải đi trước cái thành quả sau, đó là chỗ nghiên cứu vấn đề của tôi. Sự trầm tĩnh hoàn toàn này (vốn là điều có thể đạt được đối với bạn) được đạt đến bằng việc chế ngự các lực kéo, các thôi thúc, các xung lực và các thu hút của bản chất cảm dục, và cũng bằng việc thực hành điều mà trước đây tôi có nhắc đến: Sự điềm nhiên thiêng liêng. (CTNM, 672–673)
+ Loạn trí (Insanity, mất trí, điên) : X. mất trí + Các rối loạn thời hiện đại (Trích GQ2.3-TLH 2016, 19)
| Vấn đề |
Nhóm bí truyền |
Cung |
Các đặc tính cung |
| Lo lắng |
Sự kích thích – sự giác ngộ |
4 |
Các đặc tính cao/thấp |
| Bệnh tự kỷ |
Sự Chia Rẻ hay sự thu mình về trí tuệ? |
|
|
| Tính lưỡng cực (tính khí hay thay đổi) |
Sự kích thích – sự giác ngộ |
4 |
Các đặc tính cao/thấp |
| Ảo giác |
Sự kích thích – Ảo cảm |
6, 2 |
Thu hút sự tập trung vào trong/lên trên |
| Sự trầm cảm |
Sự kích thích – sự giác ngộ |
4 |
Các đặc tính cao/thấp |
| Mất sinh lực |
Các vấn đề của nhà thần bí/đệ tử |
6, 2 |
Thu hút sự tập trung vào trong/lên trên |
| Những rối loạn phân ly – Tâm thần phân liệt |
Sự Chia Rẻ |
4 |
Sự phân cực |
| Rối loạn nhận thức |
Sự kích thích – Ảo cảm |
6 |
Năng lượng liên quan đến cõi cảm dục |
| Cuồng tín |
Sự tích hợp |
6 |
|
| Ảo tưởng |
Sự kích thích – Ảo tưởng |
5 |
Năng lượng liên quan đến trí cụ thể |
| Hoang tưởng tự đại |
Sự kích thích |
1, 5, 7 |
Lực mạnh mẽ, ý chí trí tuệ |
| Định kiến |
Sự kích thích – Sự hướng nội về trí tuệ. Sự kích thích – Ảo tưởng |
5 |
Năng lượng liên quan đến trí cụ thể và cõi trí |
| Sự xúc động trí tuệ |
Sự kích thích – sự giác ngộ |
|
|
| Tính tự yêu mình |
Sự tích hợp – Tính cực ích kỷ |
1, 7 |
|
| Rối loạn xung lực ám ảnh |
Sự kích thích – Sự hướng nội về trí tuệ |
7 |
Có khuynh hướng ám ảnh mang lại trật tự |
| Tâm linh, thần bí |
Các vấn đề của các nhà thần bí, đệ tử |
6,2 |
Thu hút sự tập trung vào trong/lên trên, khuynh hướng quá đa cảm |
| Chứng tâm thần phân liệt |
Sự kích thích – sự giác ngộ |
4, 6 |
Các đặc tính cao/thấp, và 6 thì quá đa cảm |
| Chứng tâm thần phân lập |
Sự Chia Rẻ |
4 |
Sự phân cực |
+ Các giấc mơ liên quan với kế hoạch thế gian, kế hoạch thái dương và hệ thống vũ trụ: Các giấc mơ này có thể phân loại hoàn toàn từ bộ óc điên loạn và các kinh nghiệm ghi nhận được của người bất bình thường về tâm thần đến giáo huấn minh triết và chín chắn của các Thức giả trên thế gian. Giáo huấn này được truyền đạt cho các đệ tử trên thế gian và có thể được họ xem như hoặc là một diễn đạt do linh hứng, hoặc là một giấc mơ có ý nghĩa sâu xa. Cần nên nhớ rằng trong cả hai trường hợp (bất bình thường về tâm thần và vị đệ tử có luyện tập) đều có tình trạng giống nhau; có một con đường trực tiếp từ linh hồn đến bộ óc. Điều này đúng cho cả hai loại. Các giấc mơ hay các giáo huấn được ghi nhận này cho thấy một trình độ tiến hóa cao. (TLHNM–II, 499–510)
+ Định luật về Bất Toàn (Law of Imperfection): Định luật Bất toàn tồn tại vì các Đại Thực tại (có trong mọi thế giới hiện tượng) cũng đang ở trong tiến trình phát triển và khai mở tiến hóa. Do đó, chỉ khi nào các Ngài, các Đấng Tinh thần, đã mở được “Sự kềm chế cao cả” (“Sublime control”) – như thường được gọi – chất liệu của các sắc tướng cõi hiện tượng của các Ngài, các hình tướng này mới đạt tới mức hoàn thiện thiêng liêng. Bệnh tật chỉ là một hình thức bất toàn tạm thời, còn sự chết chỉ là một phương pháp để tái tập trung năng lượng, trước khi có một hoạt động thôi thúc tiến tới, đưa đến việc cải thiện ổn định mãi mãi. (CTNM, 297)
+ Tâm Ta là Oan gia: Phật nói: .... Nếu có Hiền giả sống ở gia đình mà hành đạo, nhàm chán tất cả sự vật nơi thế gian, biết rằng tất cả đều khổ, không, vô ngã nên muốn xuất gia. Vì đạo mà từ bỏ vợ con, nhà cửa, tìm minh sư để thọ trì pháp phục. Gần ngày ra đi, vợ con quyến luyến, than khóc, buồn thương ai oán. Thấy sự biệt ly đau khổ này, Hiền giả buồn bã liền thay đổi ý chí. Vì bị vợ con làm mê hoặc, nên không còn ý chí xuất gia. Giống như con voi bị sợi tóc quấn chân, không thể cử động được, do đó luôn đau khổ. Phật nói:
– Tất cả sức mạnh không gì bằng tâm. Tâm là oan gia, nó luôn lừa gạt người. Tâm dẫn vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người, hình tướng ra sao đều do tâm làm ra. Nếu chiến thắng được tâm để hành đạo thì sức mạnh ấy rất lớn. Ta chiến đấu với tâm phải trải qua vô số kiếp, nay mới được thành Phật. Một mình đi trong ba cõi đều do tâm dẫn lối....
Cha con, vợ chồng, anh em trong nhà, bạn bè, đầy tớ đều có năm nhân duyên: Oan gia - Mắc nợ - Đền trả - Nguyện cũ - Thân thiết.
– Sao gọi là oan gia? Như cha con, vợ chồng, anh em, dòng họ, bạn bè, đầy tớ sống gần gũi bên nhau nhưng giết hại nhau. Đó là oan gia.
– Sao gọi là mắc nợ? Như cha mẹ gom góp tài sản, bị con tiêu dùng phung phí. Đó là mắc nợ.
– Sao gọi là đền trả? Như con cái gom góp tài sản đem cung cấp cho cha mẹ. Đó là đền trả.
– Sao gọi là nguyện cũ? Đời trước phát nguyện muốn làm cho gia đình có tâm thiện, hoan hỷ, cung kính hòa thuận nhau. Đó là nguyện cũ.
– Sao gọi là thân thiết? Đời trước lấy đạo pháp làm nhân duyên, thờ kính lẫn nhau, sau này cùng nhau ở trong pháp sáng suốt, tinh tấn, ý chí hòa thuận. Đó là thân thiết. (Nguồn: Kinh Ngũ Khổ Chương Cú)
+ Oan gia nghiệp báo oán nương gá vào súc sanh hay Vật dụng: ... Có những chúng sanh oán thù không thể phá hoại trực tiếp, chúng sẽ nương gá vào những con thú cưng, hoặc những vật mà mình luyến ái để quấy nhiễu mình. Vì vậy người tu đạo phải buông xả, không nên luyến ái bất kỳ thứ gì. Tuy nhiên buông xả không phải là vô tình vô nghĩa, mà là để giữ tâm không bị lay động, mới đạt được Tam muội bất động.
- Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy rằng oan gia trái chủ có thể nhập vào súc sinh, thân nhân, hoặc thậm chí đệ tử của mình để gây chướng ngại. (Bình Anson, dịch, 2018)
=> Luyến ái (Attachment) trở thành cửa ngõ: Khi ta khởi tâm sở hữu, chấp trước, hoặc coi con thú cưng như mạng sống của mình, sẽ tạo duyên cho những chúng sanh này mượn để chi phối ta. Đây cũng là cách ái thủ hữu (愛取有) trong 12 nhân duyên vận hành. (Tuyên Hóa Thượng Nhân Pháp Ngữ, tập 2, Vạn Phật Thánh Thành)
+ Tình yêu: Nhà tâm lý học người Mỹ Robert Sternberg phân loại tình yêu, với 3 thành phần: Cảm xúc yêu thương, đam mê và sự gắn bó.
1. Say mê/ Điên cuồng: Đây là khoảng thời gian mà mọi người hầu như không biết nhau, nhưng lại cảm thấy một sự hấp dẫn lẫn nhau. Họ không chắc có điểm chung nào, nhưng họ vẫn ở bên nhau. Sự mê đắm này có thể biến đổi thành một cái gì đó hoàn chỉnh hơn theo thời gian, thường ít sảy ra.
2. Thích nhau: Bạn luôn có thể là chính mình. Trong loại tình yêu này, mọi người thường được thống nhất bởi những sở thích chung, quan điểm về cuộc sống và cảm giác được hiểu. Sự thân mật như vậy mà không có niềm đam mê và cam kết sẽ có nhiều khả năng dẫn đến tình bạn hơn là tình yêu chính thức.
3. Tình yêu trống rỗng: Các cặp vợ chồng trải qua loại tình yêu này chỉ có cam kết mà không có sự thân mật và đam mê. Đôi khi loại mối quan hệ này xuất hiện sau một tình yêu lớn, nhiệt tình, và đôi khi ngược lại: những người trải nghiệm tình yêu trống rỗng có thể thay đổi, điều đó làm tăng thêm niềm đam mê với cảm xúc của họ.
4. Tình yêu lớn/ Ngốc nghếch: Loại tình yêu này bao gồm cam kết và niềm đam mê và quen thuộc với nhiều cặp vợ chồng. Đây là loại tình yêu tồn tại khi 2 người thực sự thu hút lẫn nhau và sẵn sàng theo một số truyền thống như đám cưới xa hoa, trao đổi lời thề, và chia sẻ trách nhiệm gia đình, nhưng không có sự thân mật thực sự. Các cặp vợ chồng như vậy có thể sống cùng nhau trong một thời gian dài, nhưng hạnh phúc của họ là tương đối. Trong thực tế, họ không cảm nhận được bạn đời của mình như một người bạn.
5. Tình yêu lãng mạn: Loại tình yêu này bao gồm niềm đam mê và sự thân mật. Những người trong các cặp vợ chồng như vậy được thu hút với nhau và cảm thấy thoải mái bên cạnh nhau, nhưng họ không sẵn sàng để thực hiện các cam kết nghiêm trọng. Thường không đạt đến mức sống chung hay hôn nhân.
6. Đồng hành: Tình yêu đồng hành bao gồm cam kết và thân mật. Các mối quan hệ như vậy mạnh hơn nhiều so với tình bạn bình thường, và có một sự gắn kết thực sự giữa các đối tác. Tuy nhiên, đây là một thỏa thuận khá trinh tiết bởi vì loại tình yêu này thiếu niềm đam mê. Thường có thể phát sinh sau nhiều năm của một người quen hay hôn nhân.
7. Tình yêu trọn vẹn/ Tuyệt vời: Tình yêu này bao gồm tất cả 3 thành phần: niềm đam mê, sự thân mật tình cảm và cam kết. Tất nhiên, mức độ của họ không phải lúc nào cũng bằng nhau, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là tất cả họ đều ở đây. Bạn hiếm khi có thể thấy loại mối quan hệ này, nếu có thì thật tốt.
+ Các nhà tâm lý học chắc chắn rằng một người trải nghiệm nhiều loại tình yêu khác nhau trong cuộc đời của họ. (Xem: Bảy loại Tình Chí)
+ Bản chất tình yêu: Khi tình yêu lên đến cực điểm, thì nó trở lại chỗ đối nghịch với nó, đó là ghét. Tại sao cái ghét phát sinh?. Vì có yêu. Vì sao có yêu? Vì có ghét. Và điều gì tiếp tục xảy ra giữa những cặp vợ chồng, cha mẹ và con cái là chuyện của những nhân trong quá khứ đã kết thành quả trong đời hiện tại. Một số vợ chồng ‘tương kính như tân – xem trọng nhau như khách.’ Họ rất tôn trọng lẫn nhau. Phụ nữ Trung Hoa mỗi khi mang thức ăn cho chồng đều dùng hai tay nâng lên ngang lông mày của mình, trong phong thái rất kính trọng. Người chồng cũng rất tôn trọng người vợ mình, họ giống như những người bạn thân thiết. Không có tình cảm thấp hèn nơi họ. Thế nên nếu những cặp vợ chồng vốn đã có quan hệ thân thiết từ nhiều đời trước, thì đời nay họ sẽ rất hợp nhau. Người chồng không được làm điều gì xúc phạm đền người vợ và người vợ cũng không được làm điều gì tổn thương đến người chồng. Khi một cặp vợ chồng có sự thân thiết, hai người đều giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Nếu người vợ bị bệnh, người chồng phải nhanh chóng tìm bác sĩ để chữa trị. Nếu người chồng mệt nhọc, người vợ phải tìm cách để chồng mình được nghỉ ngơi. Có nhiều cặp vợ chồng đến với nhau với những nguyên nhân không thuận. Cũng vậy, đó là do những nhân oán hận nhau trong đời trước, đời nầy họ tìm đến với nhau, bất luận người chồng nói điều gì, người vợ cũng cãi lại. Bất luận người vợ suy nghĩ điều gì, người chồng cũng bác bỏ. Đời sống gia đình trở nên hoàn toàn rối rắm và luôn luôn có sự tranh cãi nhau từ sáng đến tối. Chồng đánh vợ, vợ trả đũa bằng cánh đánh vào đầu chồng, nên người chồng rất ngượng ngùng khi ra ngoài công chúng. Như vậy có phải khổ không? Bắt đầu với tình yêu và chấm dứt bằng sự oán hận. Thế nên người ta nói tình yêu là đồng nhất với đau khổ.
Suốt ngày người ta nói yêu, yêu, yêu. Yêu cái gì? Yêu ngày này qua ngày khác, Yêu cho đến chết. Nhưng nói thử xem, quý vị yêu ai? Nếu hiểu được đạo lý nầy, hai thứ khổ yêu và ghét sẽ không còn nữa. Nếu quý vị không hiểu đạo lý này, thì cả hai thứ khổ ắt vẫn xung khắc nhau. Do vậy, chúng ta tu tập để giác ngộ, để hiểu rõ, để chúng ta không bị xoay chuyển bởi cảnh khổ nầy. Nên đừng yêu và ghét gì cả. Đó chính là Trung đạo.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Tình yêu bền vững: Truyện hòn Đá hỏi Đức Phật về Tình yêu. Đức Phật cười cười nói: ...."Sau khi tình yêu đã đến một mức độ nhất định, nó sẽ biến thành tình thân. Lúc này, con sẽ coi cô ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc đời con, như vậy con cũng càng thêm lòng bao dung và thấu hiểu đối phương. Chỉ có tình thân mới là thứ ông trời sắp đặt sẵn khi con mới chào đời...... "Tình yêu bắt đầu từ sự tán thưởng lẫn nhau, vì rung động mà yêu nhau, vì không thể tách rời mới quyết định đi đến hôn nhân. Nhưng muốn bên nhau trọn đời quan trọng nhất cần có sự bao dung và thấu hiểu lẫn nhau, chấp nhận khuyết điểm của nhau". (Nguồn: Câu chuyện về Đức Phật và hòn đá)
+ Tùy duyên: Đức Phật nói rằng: “Duyên đến nên quý, duyên hết nên buông. Hoa nở là hữu tình, hoa rơi là vô ý. Người đến là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Duyên sâu thì hợp, duyên mỏng thì tan. Vạn pháp do duyên, vạn sự tùy duyên”. Người nên đến thì sẽ đến, người muốn đi thì đừng nên níu kéo. Đừng ép người, đừng ép mình, đừng bận tâm, đau lòng chỉ vì một chuyện, sống trên đời nên học cách "tùy duyên".(Nguồn: Nhân duyên - N.T. Bích Vân)
+ Ngộ chữ Ý trong Thân Khẩu Ý thuộc Thập thiện - Trí phân biện hay Trí tuệ phân biện hay Trí huệ
Bèn xin mẹ đi học đạo. Bà bằng lòng. Hiền Nhân đi, ròng rã tìm được bực minh sư xin làm Sa môn, vào núi tu hành. Chẳng bao lâu, Hiền Nhân tự ngộ được ý:
1. Thương xót chúng sanh như mẹ thương con.
2. Muốn độ thoát cho thế gian khốn khó.
3. Dứt trừ được tâm niệm ngu si.
4. Gặp vui không mừng mà gặp khổ cũng không lo ngại.
5. Hiểu được ý đạo, tâm thường vui vẻ.
6. Giữ gìn không phạm một tội lỗi nào.
7. Dứt trừ được tham, dâm.
8. Dứt trừ được sự giận dữ.
Người lại còn trừ được năm món dục lạc. Mắt không còn tham đắm hình sắc trần gian. Tai không còn tham đắm âm thanh vi diệu. Mũi không nhiễm mùi hương ngây ngất. Lưỡi không ưa thích vị ngon và thân không còn ưa lụa là và cảm giác êm dịu. (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Chữ Ý trong Tâm Ý: Tâm con người như con ngựa hoang, Ý như con khỉ. Tâm viên ý mã: Tâm như vượn leo trèo, ý như ngựa chạy rong. Nhóm từ này thường được dùng để ví dụ cho vọng tâm của người ta luôn luôn biến động bất định, gần giống với ý nghĩa của từ ngữ Tam tâm nhị ý. (Trích "Từ Điển Phật Quang")
+ Tâm Ý: Tâm con người như con ngựa hoang, Ý như con khỉ. Nếu không bắt kéo lại thì nó (Tâm) luôn lôn chạy khắp nơi, tinh thần phân tán làm hao phí nguồn lực quí báu của tự tính. Làm sao để khiến cho con khỉ (Ý) lão lão thực thực, khiến con ngựa hoang (Tâm) không thể không giữ quy cụ, phải bắt giữ tâm viên ý mã lại. Bắt thế nào, phải dùng "vòng kim cô" trói lại, và niệm chú "Khẩn Cô" như trong Tây Du Ký, Đường Tăng niệm Chú Khẩn Cô cho Tôn Ngộ Không khiến con khỉ mới lão thực.
+ Tâm viên ý mã (心猿意馬): Tâm như vượn leo trèo, ý như ngựa chạy rong. Nhóm từ này thường được dùng để ví dụ cho vọng tâm của người ta luôn luôn biến động bất định, gần giống với ý nghĩa của từ ngữ Tam tâm nhị ý. (Trích "Từ Điển Phật Quang")
+ Sức tâm: Tất cả sức mạnh không gì bằng tâm. Tâm là oan gia, nó luôn lừa gạt người. Tâm dẫn vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người, hình tướng ra sao đều do tâm làm ra. Nếu chiến thắng được tâm để hành đạo thì sức mạnh ấy rất lớn. Ta chiến đấu với tâm phải trải qua vô số kiếp, nay mới được thành Phật. Một mình đi trong ba cõi đều do tâm dẫn lối....
Cha con, vợ chồng, anh em trong nhà, bạn bè, đầy tớ đều có năm nhân duyên: Oan gia [Giết hại nhau] - Mắc nợ - Đền trả - Nguyện cũ - Thân thiết.
– Sao gọi là oan gia? Như cha con, vợ chồng, anh em, dòng họ, bạn bè, đầy tớ sống gần gũi bên nhau nhưng giết hại nhau. Đó là oan gia.
– Sao gọi là mắc nợ? Như cha mẹ gom góp tài sản, bị con tiêu dùng phung phí. Đó là mắc nợ.
– Sao gọi là đền trả? Như con cái gom góp tài sản đem cung cấp cho cha mẹ. Đó là đền trả.
– Sao gọi là nguyện cũ? Đời trước phát nguyện muốn làm cho gia đình có tâm thiện, hoan hỷ, cung kính hòa thuận nhau. Đó là nguyện cũ.
– Sao gọi là thân thiết? Đời trước lấy đạo pháp làm nhân duyên, thờ kính lẫn nhau, sau này cùng nhau ở trong pháp sáng suốt, tinh tấn, ý chí hòa thuận. Đó là thân thiết. (Nguồn: Kinh Ngũ Khổ Chương Cú)
+ Hôn nhân (Mariage relation) với Vị Thầy Đắc Đạo: Nhiều vị điểm đạo đồ đã đạt được mục tiêu khi tham dự vào quan hệ hôn nhân một cách khôn ngoan và thích đáng. Vị điểm đạo đồ vun bồi cách hành xử đặc biệt của trí tuệ, nhận thức rằng mọi hình thức biểu lộ đều thiêng liêng, và cõi trần cũng là một hình thức biểu lộ thiêng liêng như bất cứ cõi cao nào. Vị điểm đạo đồ hiểu rằng biểu hiện thấp nhất của thiên tính phải ở dưới sự kềm chế hữu thức của thiên tính nội tại đó, mọi loại hành vi nên được điều hòa bằng việc cố gắng làm tròn mọi bổn phận và nghĩa vụ, kềm chế mọi hành động, dùng thể xác để giúp ích cho sự tiến bộ tinh thần của tập thể và hoàn thành định luật. ...
Trong nhiều trường hợp, các đệ tử điểm đạo và các Chân Sư vẫn lập gia đình và hoàn thành bổn phận một cách bình thường với tư cách người chồng, người vợ, hoặc gia trưởng, nhưng mọi việc đều được kềm chế và điều chỉnh theo Thiên Ý (purpose) và Thiên Lý (intention) và không một chút gì bị lôi cuốn bởi đam mê hay dục vọng. (ĐĐNLVTD, 204–205)
+ Lẽ trời (Intention): X. Thiên lý.
+ Thiên Ý (Purpose or the Will of God, Divine Purpose): – Thiên Ý thì thường tồn (permanent), viễn lự (farsighted), bất biến (unalterable) và dùng làm Ý Niệm Vĩnh Cửu. (CVĐĐ, 50)
+ Thiên Ý hiển lộ qua Thiên Cơ (Plan). (CVĐĐ, 703)
+ Ðức Phật dạy: Kẻ đại ác, đại khái có 15 tội nặng - Tội của kẻ phàm ngu:
1. Một là sát sanh;
2. Hai là trộm cắp;
3. Ba là quen thói dâm ô;
4. Bốn là dối trá;
5. Năm là nịnh hót;
6. Sáu là chuốt ngót;
7. Bảy là gièm pha;
8. Tám là khinh bực hiền sĩ;
9. Chín là tham sự ô trược;
10. Mười là buông lung;
11. Mười một là say sưa;
12. Mười hai là ganh ghét kẻ hiền;
13. Mười ba là hủy báng đạo đức;
14. Mười bốn là sát hại thánh nhân;
15. Mười lăm là không kể tội lỗi.
- Trong kinh có câu: "Gian ngược, tham lam, oán người lương thiện, làm việc bất chính, thì khi chết, đọa vào ác đạo." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Kẻ đáng sợ - Ác nhân theo Thiền sư dậy:
- Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặt sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đoạn lường gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra toàn chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ âm mưu thống trị nhân loại nhưng nói ra toàn chuyện nhân nghĩa, đạo đức để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy kết thành bè đảng Mafia, không chuyện tàn ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ.
Còn như ông (Người có tướng mạo hung ác) thì chẳng có gì đáng sợ cả. (Nguồn: xem mục Chỉ rõ chỗ hư vọng của sáu căn)
+ Thế nào là người ác? Ðó là người không biết đạo lý, chuyên làm việc giết người, đốt nhà. Lý lẽ của họ là: "Của anh là của tôi, của tôi cũng là của tôi. Tiền của anh là của tôi, tiền của tôi lại là của tôi." Quý vị xem việc đó có đúng đạo lý không? Những người ác đó có cường quyền mà không có công lý. Họ chỉ dùng thế lực để hiếp đáp người khác mà không kể đến công lý là gì. Quý vị chạy đi đâu, họ cũng theo quý vị đến đó, luôn luôn canh chừng quý vị. Giả sử quý vị bị những người ác như thế rượt đuổi, nhơn một lúc sơ hở không cẩn thận, không chú ý, quý vị bị rơi vào vực sâu muôn trượng của núi kim cương.
Oán tặc: Phía trước đềụ cập đến người ác là những người còn có chút kiêng dè, không phải là hại người công khai. Oán tặc nói ở đây chính là kẻ ngang nhiên đánh cướp của cải, giết người đốt nhà, không việc ác nào chẳng làm. Những gì chúng ta gặp phải đều có quan hệ nhân quả đời trước. "Oán tặc" chính là những người có oán hận với ta, hoặc là đời trước ta từng trộm cắp đồ vật của họ, hoặc giết hại họ, hoặc có điều không phải với họ, cho nên đời này mới gặp nhau liền biến thành oán tặc. Ấy gọi là: "Giết người phải thường mạng, thiếu nợ phải trả tiền." Quý vị giết người ta, người ta cũng sẽ giết lại quý vị; quý vị cướp của người, thì phải trả tiền lại cho họ. Tất cả mọi thứ đều có sự quan hệ liên đới. (Nguồn: Kinh Pháp Hoa - Phẩm Phổ Môn)
+ Người ác: Tất cả vua của quỷ thần đều có oai đức lớn. Họ có thể chém yêu quái, trừ tai họa và chế phục bọn ngoại đạo. Họ dùng pháp Chiết Phục để hàng phục tất cả bàng môn tả đạo, ma mị yêu tinh, ngưu quỷ, xà thần. Phàm là những phần tử xấu, tà tri tà kiến, tà thuật tà pháp, họ đều có khả năng hàng phục hết. Họ có thể sanh thiện, diệt ác, trừ tà, phá ma.
Ác ma là ví cho những kẻ không màng chi đến đạo lý. Phàm những kẻ ngang ngược không màng đến lý lẽ thì rất quái gở và hống hách, họ đều là từ bọn ác ma chuyển thế mà thành. Quý vị có đối xử tốt với chúng bao nhiêu, chúng cũng không biết là quý vị tốt. Cho đến quý vị đem cả máu thịt mình mà hy sinh cho chúng, chúng vẫn không biết đủ, mà cũng chẳng cám ơn vì chúng có lòng tham không đáy. Tại sao vậy? Bởi chúng đã trải qua nhiều kiếp huân tập thói ác, cho nên các ác tập đó đã trở nên thâm căn cố đế, và tánh xấu được hình thành từ sự u tối gàn dở mà chúng lại không chịu sửa đổi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Khai thị 6)
+ Ác Tâm - Tâm Ác và Đối trị ác tâm - Đối trị tâm ác
Hiện tiền đại chúng, cần phát tâm lớn, tinh tiến sám trừ, tội căn nhỏ nhiệm, cố tu định huệ, mong cầu cho được, cáí tâm sáng suốt. Bởi vì lòng người, vốn là huyễn hoặc, tội khó định luận, vả lại thiện ác, chia thành hai đường, thuận nghịch khác nhau. Nếu tạo tội ác, nghịch với Niết Bàn, thuận với sinh tử. Muốn rõ thuận nghịch, lược kể mười tâm:
1. Một là vô minh, điên đảo mờ mịt, phiền não mê hoặc, xúc cảnh sinh tâm, gây nên tội ác, chịu mọi khổ não;
2. Hai là gặp gỡ, những bạn xấu xa, bắt chước lẫn nhau, tâm ác càng mạnh, tạo nên tội nghiệp, phải đọa địa ngục, chịu mọi khổ não.
3. Ba là tự mình, trói buộc tâm mình, tự hủy thiện tâm, ác nghiệp sâu nặng, thiện nghiệp mỏng manh, cho nên làm ác, chịu mọi khổ não.
4. Bốn là trong ngoài đều đủ, tự chẳng tu thiện, còn phá người khác, đối với việc thiện, lòng không vui mừng, vì thế gây tội, chịu mọi khổ não.
5. Năm là khinh khi người hiền, tự khen đức mình, sinh tâm kiêu ngạo, không lòng cung kính, vì thế tạo tội, chịu mọi khổ não.
6. Sáu là ỷ mình giầu có, quyền thế cao sang, phóng túng dông dỡ, tha hồ làm càn, vì thế gây tội, chịu mọi khổ não.
7. Bảy là không nhận khuyết điểm, che dấu lỗi lầm, bề trong độc ác, ngoài hiện hiền lành, bởi thế gây tội, chịu mọi khổ não.
8. Tám là thân hình khỏe mạnh, bảo mình không chết, vọng tưởng tham cầu, không sợ nẻo ác, vì thế tạo tội, chịu mọi khổ não.
9. Chín là ngoan cố hung hãn, càn dỡ thô bạo, không có liêm sỉ, bởi thế gây tội, chịu mọi khổ não.
10. Mười là bác luật nhân quả, không tin thiện ác, dứt mọi căn lành, thành kẻ bất tín, bởi thế tạo tội, chịu mọi khổ não.
Mười tâm như thế, đều do ba độc, tạo nên kết nghiệp, không ngày giải thoát, hết mê đến mê, từ ám tới ám, mãi đọa địa ngục, không ngày thoát ly. Duy có chư Phật, thương xót chúng sinh, như lũ con đỏ, dùng mọi phương tiện, mở cửa giải thoát, lập ra sám pháp, dựng đạo tràng này, để cho mọi người, giãi bầy sám hối, đổi các lỗi lầm, bỏ ác làm lành.
Có mười tâm thiện, đối trị tâm ác, như dã kể trên, hiện tiền đại chúng, nên phải dốc lòng, chí thành tưởng niệm.
Một là tin luật nhân quả, không hề ngờ vực, làm thiện được phúc, lám ác chịu báo, nhân quả rõ ràng, nghiệp báo không mất. Lòng tin là gốc, người khôn nên nghĩ, tin chắc như tế, mới có ích lợi, tại đạo tràng này.
Hai là phương pháp diệt tội, hổ thẹn là gôc, sám hối là cần, những người hành đạo, một lòng chuyên chú, siêng tu thập thiện, đó là con đường, lợi ích thứ nhất, có thể tiêu trừ, tội ác sâu nặng. Có lòng hổ thẹn, ăn năn lỗi lầm, diệt trừ điên đảo, làm được như thế mới có ích lợi trong đạo tràng này.
Ba là sợ hãi vô thường, thân mệnh người ta, như sương buổi sớm, một mai chết đi, khó lại được nữa. Nếu biết sinh lòng, sợ hãi như thế, không dám tạo ác, cắt đứt nghiệp duyên, hiểu được như vậy, mới có lợi ích, trong đạo tràng này.
Bốn là chí thành giãi bầy, khẩn cầu sám hối, các tội đã gây, từ trước đến nay, thề không làm nữa, không dám dấu diếm. Tỏ bầy như vậy, mới có lợi lộc, trong đạo tràng này.
Năm là dứt hết tâm ác, không cho tiếp tục, không cho nẩy mầm, quyết tâm mạnh mẽ, chính niệm bền bỉ, diệt trừ ác nghiệp, có được như thế, mới là sám hối, tại đạo tràng này.
Sáu là mở lòng Bồ Đề, nguyện cứu hết thảy, cùng vượt bến mê, để sang bờ giác. Tâm nguyện rộng lớn, bao trùm tất cả. Phát tâm như thế, mới có ích lợi, trong đạo tràng này.
Bảy là sửa công lập đức, trong tu trí tuệ là công, ngoài hành tinh tiến là đức; hăng hái chăm chỉ, diệt tâm lười biếng, như thế mới có ích lợi, trong đạo tràng này.
Tám là ủng hộ Chính Pháp, không theo tà sư, cầu cho Phật pháp, tồn tại lâu dài, để làm bè Từ, giữa nơi bể khổ, cứu vớt chúng sinh. Diệt lòng tà kiến, sinh tâm chính tín, mới có lợi lộc, trong đạo tràng này.
Chín là xin mười phương Phật, từ bi gia hộ, giúp đỡ đại chúng, đạo phẩm cao thêm, trí tuệ sáng suốt, thường nhớ ân đức, lập chí báo đền, thường phát từ tâm, cứu giúp hết thảy. Nếu được như thế, mới có lợi ích, tại đạo tràng này.
Mười là quan sát tội tính, vốn nó là không, tội từ tâm sinh, cũng từ tâm diệt, tội phúc không chủ, đều không thể được, không trong, không ngoài, chẳng ở quãng giữa, không phải là thường, cũng không phải đoạn, không có, không không, là pháp vô tác, như như tự tại. Nhưng vì chấp trước, mới gọi tội phúc, xét đến ngọn nguồn, tâm cảnh đều không, vắng lặng bất động. Đó là phá trù cái tâm vô minh chấp trước. Vô minh diệt rồi, sống chết cũng hết. Mười hai nhân duyên, là gốc luân hồi, cũng là khổ tập, gốc của sinh tử. Nhân quả đều mất, Thánh phàm không khác, trí tuệ bình đẳng, sáng suốt tròn đầy, chiếu khắp mười phương. Vì thế nên biết, chư Phật, Bồ Tát, không ngoài tự tính. Trên báo ân Phật, dưới độ chúng sinh, lập nên Đại Đạo, gọi là Như Lai. ...(Nguồn: Kinh Mục Liên Sám Pháp)
+ Chúng A Tu La - Tâm ác độc: Dục giới là nơi có năm loài chúng sanh ở lẫn lộn gọi là ngũ thú tạp cư địa. Năm loài này gồm Trời, Người, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục. Ở đây chỉ nói đến năm loài thôi mà không nói đến loài A tu la vì loài này có thể hiện thân là bất cứ loài nào trong năm loài trên. A tu la là một loài rất sân và ác độc; nếu ở trên trời thì là một vị ác thần; nếu là người thì là một ác nhân như những tên sát nhân, những tướng cướp hung dữ, những cường hào ác bá, những lãnh chúa độc tài; nếu ở trong loài súc sanh thì là loài ác thú như loài lang sói, hổ báo; nếu ở loài ma quỷ hay địa ngục thì là loài quỷ dữ chuyên quấy phá và não hại loài khác.(Nguồn: A Lại Da Thức - Duy Thức Học)
+ Chúng sanh cõi Trời - Người Phát thiện tâm thì ít, trong chốc lát - Phát ác tâm thì nhiều, lại kiên cố
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới, mà giao phó cho ông.
Ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi!
Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
Lược giảng:
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng...”
Trong Phật Giáo, xoa đảnh là một cử chỉ biểu lộ lòng từ bi ái hộ. Ở phẩm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã xoa đảnh Bồ Tát Địa Tạng rồi, bây giờ Đức Phật lại đặc biệt xoa đảnh vị Đại Bồ Tát này thêm một lần nữa, rồi nói rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông khó thể nghĩ bàn.” Thần thông của ông, năng lực của ông, thật không có vị Bồ Tát nào có thể sánh bằng! Sức thần thông này vốn chẳng thể suy lường, chẳng thể luận bàn—có thể nói rằng trội hơn tất cả và là một sự đặc biệt trong những sự đặc biệt—thần lực của Bồ Tát Địa Tạng thật chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được!
“Đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn.” Lòng từ bi của Bồ Tát Địa Tạng đối với chúng sanh cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được. Ngài từng phát nguyện rằng:
“Địa ngục chưa trống không, tôi thề chưa thành Phật,
Chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ Đề.”
Tâm lượng đại từ đại bi bao la như thế rất hiếm có. Các vị Bồ Tát khác, không có vị nào phát đại nguyện lực lớn lao dường ấy, chỉ có Bồ Tát Địa Tạng mới có nguyện lực đại từ đại bi như vậy.
“Trí huệ của ông không thể nghĩ bàn.” Trí huệ rộng lớn của Bồ Tát Địa Tạng cũng rất ít Bồ Tát có thể sánh kịp—cho đến đại trí đại huệ của Ngài cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được.
“Biện tài của ông không thể nghĩ bàn.” Có bốn loại biện tài vô ngại là Từ vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Nhạo thuyết vô ngại biện, và Pháp vô ngại biện. Tài biện luận không hề bị trở ngại của Bồ Tát Địa Tạng cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được.
“Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được!” Giả sử có thỉnh mời chư Phật trong khắp mười phương ngợi khen những kỳ tích bất khả tư nghị cũng như những sự vi diệu về thần lực, đức từ bi, trí huệ, cùng biện tài của Bồ Tát Địa Tạng, thì cho dù trải qua một ngàn đại kiếp, một vạn đại kiếp cũng không thể nào kể cho xiết, nói cho cùng được!
“Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ—trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, cùng nhân và phi nhân, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người—những chúng sanh ở cõi người và những chúng sanh trên cõi trời, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới—Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, mà giao phó cho ông. Ta nay phó thác, gởi gắm những chúng sanh này cho ông!”
Vậy, “ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi! Ông cần phải bảo hộ tất cả những chúng sanh đó, làm cho họ không bị đọa lạc vào ác đạo.”
“A-tỳ” cũng gọi là “vô gián”; địa ngục Đại A-Tỳ chính là địa ngục Đại Vô Gián.
Quý vị nên biết, một ngày một đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương dài bằng năm mươi năm ở cõi nhân gian của chúng ta; còn một ngày một đêm ở cõi nhân gian chúng ta thì dài bằng năm trăm năm ở chốn địa ngục. Tại sao như vậy? Bởi vì đời sống ở cõi trời vô cùng vui sướng, mà khi vui vẻ sung sướng thì người ta cảm thấy thời giờ trôi qua rất nhanh! Ở cõi nhân gian vì có khổ não, cho nên năm mươi năm của chúng ta là một thời gian rất dài, song đó chẳng qua chỉ bằng một ngày một đêm trên cõi trời mà thôi.
Lại nữa, một ngày một đêm ở cõi nhân gian của chúng ta thì tương đương với năm trăm năm ở chốn địa ngục. Nếu so với cõi nhân gian thì ở địa ngục còn thống khổ hơn nhiều, mà khi phải chịu thống khổ thì người ta cảm thấy thời giờ trôi qua rất chậm chạp. Như khi chúng ta phải làm một việc gì đó chẳng hạn, nếu trong lòng cứ đắn đo, phiền muộn, thì sẽ thấy ngày dài lê thê; còn nếu tâm trí thơ thới, vui vẻ, thì lại thấy thời giờ trôi qua vùn vụt, hết một ngày lúc nào không hay!
Sau khi căn dặn Bồ Tát Địa Tạng chớ để cho các chúng sanh đó bị đọa vào địa ngục Vô Gián dù chỉ trong một ngày một đêm, huống hồ là vĩnh viễn không có ngày được thoát ra, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi: “Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
Chí khí và tâm tánh của tất cả chúng sanh ở thế giới “kham nhẫn,” tức cõi Ta Bà ở Nam Thiệm Bộ Châu, đều không được an định, có lúc họ tin có lúc họ lại không tin, cứ luôn thay đổi. Đã thế, đa số lại tiêm nhiễm nhiều thói ác. Ví dụ có nhiều người, nếu quý vị mời họ đến nghe kinh, thì họ lại có vẻ không thích, không hăng hái lắm; đặc biệt là họ còn lo sợ rằng nghe kinh rồi thì bao nhiêu tội ác của họ sẽ biến mất hết!!! Vì sao ư? Đó là vì họ đã quen làm điều ác, lại còn tìm cách che đậy tội lỗi của mình, không muốn sửa đổi, chẳng chịu hối cải.
Ví dụ trò cờ bạc, nhiều người chẳng cần phải có ai bày vẽ cho cả, chỉ đến sòng bài nhìn lướt qua một lượt là tự nhiên biết cách bấm máy, thắng hay thua, được hay mất, thì từ từ tự rút kinh nghiệm. Những người thường đến các sòng bài ở Reno, Las Vegas, đều rất thông minh—họ chỉ nhìn thoáng qua là biết cách chơi ngay, chẳng cần ai chỉ dẫn mà vẫn rất thành thạo. Tuy nhiên, nếu quý vị bảo họ học điều hay lẽ phải, thì dù có tận tâm dạy dỗ đến thế nào đi nữa, họ cũng không lãnh hội được; cho nên nói “kẻ theo thói ác thì nhiều.”
Đức Phật đã sớm biết rõ mọi thói hư tật xấu của chúng sanh chúng ta; nhìn chúng sanh chúng ta, Ngài thấu rõ được đến tận xương tủy, biết được những gì đang tiềm ẩn trong tận cùng tâm tánh của chúng ta!
Kinh văn:
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất; nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ.”
Lược giảng:
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất.” “Chốc lát” là khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi—chỉ trong một thoáng là liền thối thất thiện tâm, không còn gì cả.
Có nhiều người phát tâm làm việc thiện nhưng chẳng được bao lâu lại hối tiếc: “Ôi! Tôi bố thí nhiều như vậy, chẳng biết có được đền bù cái gì không?” Như vua Lương Võ Đế cũng đã từng thắc mắc: “Tôi cất biết bao nhiêu là cảnh chùa, giúp độ được biết bao nhiêu là Tăng sĩ, lại từng bố thí cúng dường nhiều vô số kể; vậy chẳng hay công đức của tôi to lớn đến cỡ nào? Chẳng hay tôi có được công đức hay chăng?” Và sau đó thì nhà vua lại sanh lòng thối chuyển.
“Nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng.” “Ác duyên” tức là duyên bất tịnh, mà duyên bất tịnh lại chính là nhân duyên đọa lạc! Phàm quý vị gây ra những nhân duyên đọa lạc thì đều được xem như là gây tạo ác duyên, chẳng hạn như làm những việc ngu xuẩn, khởi lòng sân hận, hoặc sanh lòng tham vậy. Nếu quý vị có tâm tham dục thì sẽ tham tài, tham sắc; có tâm sân hận thì sẽ muốn giết người, đốt nhà; có tâm ngu si thì sẽ muốn đạt được những điều không thể đạt được. Đó đều là những ác duyên. Một khi gặp phải ác duyên thì thói ác mỗi niệm mỗi tăng trưởng—cái niệm xấu ác, cái tâm xấu ác mỗi lúc mỗi lớn mạnh hơn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ. Bởi chúng sanh khó độ như vậy, dầu họ có phát thiện tâm đi nữa thì cũng chỉ trong khoảnh khắc là liền thối thất, nếu lại gặp ác duyên thì tâm ác càng lúc càng tăng trưởng; cho nên Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, phải phân chia thân hình của Ta, dùng trăm ngàn vạn ức pháp môn phương tiện để giáo hóa chúng sanh, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ, khiến cho tất cả đều được ly khổ đắc lạc.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ A Tu La: Các tinh linh có hình người, về sau thành người.(LVLCK, 615)
+ A Tu La: Thiên chúng ở các cõi trời trên đây (ngoại trừ ở 5 cõi Bất-hoàn), đều là người phàm phu được hưởng thọ phước báo; khi hưởng phước hết rồi thì trở lại luân hồi. Riêng các vị thiên vương của các cõi trời kia thì đều là Bồ-tát, luôn trụ trong chánh định, dần dà tiến lên trên đường tu tập hướng tới Phật đạo. Tất cả thiên chúng đó đều do không rõ biết tánh giác sáng suốt nhiệm mầu vốn có nơi mình, cho nên vọng niệm tích tụ, rồi vọng sinh ba cõi; trong đó, các loài hữu tình, mỗi mỗi lại tùy theo vọng nghiệp mà chìm đắm trong 7 nẻo (Địa- ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Người, Tiên, A-tu-la, và Trời), thọ báo theo loại của mình. Trong 3 cõi ấy còn có 4 loài A-tu-la: Có loài nguyên từ loài Quỉ, do phước lực hộ trì Phật pháp mà có được thần thông, nhập vào hư không; loài A-tu-la này sinh ra từ trứng, thuộc về loài Quỉ. Có loài nguyên từ loài Trời, vì kém phước đức mà bị đọa lạc, ở gần mặt trời mặt trăng; loài A-tu-la này sinh ra từ bào thai, thuộc về loài Người. Có A-tu-la vương nắm giữ thế giới, sức mạnh suốt khắp chư thiên, không hề sợ ai, hay tranh quyền mà gây chiến với các trời Phạm Vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương; loại A-tu-la này do biến hóa mà sinh ra, thuộc về loài Trời. Lại có loài A-tu-la thấp kém, sinh trong lòng biển cả, lặn dưới vực sâu, ban ngày dạo đi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; loại A-tu-la này do thấp khí sinh ra, thuộc về loài Súc-sinh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng A Tu La: Dục giới là nơi có năm loài chúng sanh ở lẫn lộn gọi là ngũ thú tạp cư địa. Năm loài này gồm Trời, Người, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục. Ở đây chỉ nói đến năm loài thôi mà không nói đến loài A tu la vì loài này có thể hiện thân là bất cứ loài nào trong năm loài trên. A tu la là một loài rất sân và ác độc; nếu ở trên trời thì là một vị ác thần; nếu là người thì là một ác nhân như những tên sát nhân, những tướng cướp hung dữ, những cường hào ác bá, những lãnh chúa độc tài; nếu ở trong loài súc sanh thì là loài ác thú như loài lang sói, hổ báo; nếu ở loài ma quỷ hay địa ngục thì là loài quỷ dữ chuyên quấy phá và não hại loài khác.(Nguồn: A Lại Da Thức - Duy Thức Học)
+ Cõi Atula có đặc điểm là tâm đố kỵ dày vò, vì vậy, chúng sinh ở cõi này luôn tranh đấu nhưng luôn bị thua cuộc. Hình ảnh minh họa thú vị là cây Như ý (cây Đời sống) mọc lên ở cõi Atula nhưng lại trổ quả Trường thọ ở cõi Trời, điều đó khiến loài Atula ganh ghét, luôn gây chiến với chư Thiên. Nhân dẫn đến tái sinh ở cõi Atula là sự tạo tác các thiện nghiệp nhưng vẫn còn tâm ganh đua, đố kỵ. (Nguồn: Luân hồi - Mười pháp giới)
+ Đức Phật Dược Sư (tiếng Phạn भैषज्यगुरु, Bhaiṣajyaguru), danh hiệu đầy đủ là: Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, là giáo chủ của Thế Giới Tịnh Lưu Ly o phương Đông. Trong Kinh Hoa Nghiêm có đặc biệt đề cập đến: "Một niệm sân hận nổi lên, thì ngàn vạn cửa chướng ngại mở ra”, cần có tâm không sân hận thì lúc đối diện nghịch cảnh mới không khởi tâm gây hại.
Đức Phật A Súc Bệ từ buổi sơ khai trong quá trình tu tập ở nhân địa đã lập lời nguyện là cho dù có đối mặt với bất cứ vấn đề gì, Ngài đều sẽ không bao giờ sanh lòng sân hận hay thù ghét ai cả. Và kết quả là Ngài đã tạo dựng được cõi Tịnh Độ này và không bao giờ thối chuyển.
Thân của Phật A Súc Bệ có sắc xanh, Ngài ngự ở phương Đông và ngồi trên một cái đài làm bằng tám con voi chúa lớn (bát đại tượng vương). Đức Phật này có thể trừ khử được sân độc - độc tố của sự tức giận - và có thể chuyển hóa thức thứ tám thành Đại Viên Kính Trí. Trong Ngũ Bộ của Chú Lăng Nghiêm, thì ở phía Đông là Kim Cang Bộ. Chú Kim Cang Vương là sử dụng chiết phục pháp, tức là dùng phương pháp thuần hóa và chế ngự. Việc ưu tiên hàng đầu và tối quan trọng của những người tu hành là hàng phục và kiềm chế được phiền não hiện hành của chính mình, chứ không phải đi chiết phục người khác.
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật . Ngài làm thế nào để tiêu tai tăng thọ ? Chúng ta niệm Ngài thì cuối cùng chúng ta sẽ được tiêu tai tăng thọ hay Phật Dược Sư tiêu tai tăng thọ ? Ðây chứng minh là chúng ta niệm thì chúng ta sẽ được tiêu tai tăng thọ, vậy là chúng ta niệm để muốn tiêu tai tăng thọ, thì đó là một thứ tâm tham, lại có một thứ tâm mong cầu cho mình, lại chấp trước tướng, phàm có hình tướng thì đều là hư vọng, phải hiển xuất tướng ở bên trong. Vậy chúng ta niệm Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, hy vọng chính mình tiêu tai tăng thọ, đây tức là tâm tham và tâm ích kỷ. Quý vị thấy nói như vậy có đúng không ? Vậy tiêu tai tăng thọ này là ai ? Cũng không phải Phật Dược Sư tiêu tai tăng thọ, cũng không phải chính chúng ta tiêu tai tăng thọ. Chính chúng ta không có tai nan, thi tiêu tai gì ? Tăng thọ gì ? Cũng chẳng phải nói, tôi không niệm Phật Dược Sư, thì bây giờ tôi sẽ chết, cần phải tăng thọ, cần phải tiêu tai, đây thật là mê tín. Vậy chúng ta tiêu tai tăng thọ cho ai ? Cho tất cả chúng sanh có tai nạn, thậm chí cho những chúng sanh sắp mạng chung. Chúng ta niệm tiêu tai tăng thọ Dược Sư Phật để hồi hướng cho họ. Ðây chính là nghĩa rộng, không phải là nghĩa hẹp. Quý vị nghĩ xem có phải không? Cho nên chúng ta niệm Phật, nhất cử nhất động tu hành, đều phải hiểu được lý luận chân chánh, đừng mù quáng chay theo như thế, người ta nói thi nói theo, họ nói như thế này, thì tôi cũng nói như thế này, họ nói như thế kia, thi tôi cũng nói như thế kia, giống như ngọn cỏ, gió thổi hướng nào thì ngả theo hướng đó. Chúng ta học Phật phải có trí huệ chân chánh, trí huệ chân chánh không phải la chỉ nói và cũng không phải là nhìn thấy mọi người không đúng, phải chú trọng lý luận, nghiên cứu lý luận rõ ràng. Chúng ta niệm Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật là vì tất cả chúng sanh có tai nạn, vi mạng sống chúng sanh gần kết thúc để niệm, đó mới là lợi ích chúng sanh, mới là hành Bồ Tát Đạo. (Nguồn: Ngũ phương Phật - Vạn Phật Thánh Thành)
+ Phật phương Đông: Vị Phật thứ hai ở phương Đông là A Súc Bệ Phật, cũng còn gọi là Bất Động Phật, Vô Sân Khuể Phật, Vô Nộ Phật, hoặc Bất Động Như Lai. Trong Kinh Hoa Nghiêm có đặc biệt đề cập rằng:
“Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai.”
(Khi một niệm tức giận dấy lên,
thì trăm vạn cửa chướng ngại sẽ mở ra.)
Chỉ với cái tâm không sân hận thì người ta mới có thể không khởi lên ý niệm ám hại người khác khi phải đối đầu với nghịch cảnh.
Đức Phật A Súc Bệ từ buổi sơ khai trong quá trình tu tập ở nhân địa đã lập lời nguyện rằng: Cho dù có đối mặt với bất cứ vấn đề gì, Ngài đều sẽ không bao giờ sanh lòng sân hận hay thù ghét ai cả. Và kết quả là Ngài đã tạo dựng được cõi tịnh độ này và không bao giờ thối chuyển.
Thân của Phật A Súc Bệ có sắc xanh, Ngài ngự ở phương Đông và ngồi trên một cái đài làm bằng tám con voi chúa lớn (bát đại tượng vương). Đức Phật này có thể trừ khử được sân độc–độc tố của sự tức giận–và có thể chuyển hóa thức thứ tám thành Đại Viên Kính Trí. Cư sĩ Duy Ma Cật vốn đến từ thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông. Trong Ngũ Bộ của Chú Lăng Nghiêm, thì ở phía Đông là Kim Cang Bộ. Kim Cang Vương Chú là sử dụng chiết phục pháp, tức là dùng phương pháp thuần hóa và chế ngự. Việc ưu tiên hàng đầu và tối quan trọng của những người tu hành là hàng phục và kiềm chế được phiền não hiện hành của chính mình, chứ không phải đi chiết phục người khác. (Nguồn: Phật Dược Sư - HT Tuyên Hóa)
598. SỰ XUẤT LY KHỎI SÂN HẬN - XA LÌA SÂN GIẬN
Đa văn Thánh đệ tử quán sát sân nhuế cực kỳ mãnh liệt. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát sân nhuế nên tâm không hướng theo sân nhuế, không vui say trong sân nhuế, không gần gũi với sân nhuế, không quyết tâm nơi sân nhuế. Khi tâm sân nhuế vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô héo, co rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không được nở rộng ra, bị vứt bỏ di. Vị ấy không trụ nơi sân nhuế, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự sân nhuế. Giống như lông và gân của con gà bị đem quăng vào trong lửa, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút lại, bị cuốn tròn lại chứ không được nở.
Đa văn Thánh đệ tử cũng vậy, cực kỳ mãnh liệt quán sát sân nhuế. Vị ấy do cực kỳ mãnh liệt quán sát sân nhuế nên tâm không hướng theo nhuế, không vui say nhuế, không quyết định nơi nhuế. Tâm nhuế vừa sanh, tức khắc bị cháy tiêu, bị khô rút, bị cuốn tròn chứ không nở rộng ra được, bị vứt bỏ đi, vị ấy không an trụ nơi nhuế, chán ghét, nhàm tởm, chế ngự nhuế.
Vị ấy quán sát vô nhuế, tâm hướng về vô nhuế, không vui say vô nhuế, gần gũi vô nhuế, quyết định nơi vô nhuế, tâm không bị chướng ngại, không ô trược, tâm được an lạc, rất an lạc, viễn ly dục nhuế, viễn ly các lậu và các thứ phiền nhọc, ưu sầu do nhuế mà có, thoát chúng, giải chúng và lại giải thoát khỏi chúng. Vị ấy không còn nhận lãnh cảm thọ này nữa, tức cảm thọ sanh ra bởi nhuế. Như vậy, đó là sự xuất ly khỏi nhuế. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
384. LOẠI TRỪ NIỆM DỤC
Khi sanh niệm dục, Ta không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ; sanh niệm nhuế, niệm hại cũng không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ. Vì sao vậy? Vì Ta thấy rằng, nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện.
Ví như vào tháng cuối xuân, vì đã trồng lúa nên đất thả bò không được rộng. Người chăn bò thả bò nơi đầm ruộng, bò vào đất người, nó liền cầm roi đến ngăn lại. Vì sao vậy? Vì người chăn bò biết rằng nhân nơi đó mà có lỗi lầm là sẽ bị chửi, bị đánh, bị trói. Do đó, chăn bò cầm roi đến ngăn lại. Ta cũng như vậy, sanh niệm dục, không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ. Sanh niệm nhuế, niệm hại cũng không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ. Vì sao vậy? Vì Ta thấy nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện. (Trung A Hàm, Kinh Niệm, Phẩm 9, số 102)
+ Thể và Dụng của các Đại: Ví dụ về Thể/ Tánh và Dụng của Nước: Nước hiện hữu khắp nơi - tận hư không, khắp Pháp Giới, đâu đâu cũng có nước cả. Tuy nhiên, cũng có những nơi chúng ta không thấy có sự hiện diện của nước, là vì những nơi đó chỉ có "Tánh" của nước chứ không có "Thể" của nước. Ðiều này cũng tương tự như việc mọi người đều có Phật tánh, nhưng chúng ta không thấy được Phật tánh mà chỉ thấy được hình thể con người thôi vậy. Tánh của nước là ẩm ướt; hầu như mọi nơi đều có khí ẩm, do vậy có thể nói rằng mọi nơi đều có nước. Ðồng thời, mọi nơi đều có lửa.
Tánh nước và tánh lửa vốn hỗ tương hợp tác, chứ không xung khắc lẫn nhau; vậy thì tại sao nước không tràn ngập khắp mọi nơi? Bởi giữa trời, đất và nước có sự tương quan, gắn bó mật thiết với nhau. Vả lại, Tứ Ðại Thiên Vương còn có viên ngọc "trị nước" (tỵ thủy châu); nếu không nhờ viên ngọc này thì khắp cả thế giới sẽ toàn là nước, tất cả đều bị chìm trong biển nước mênh mông. Cho nên, không phải khắp nơi đều có sự hiện hữu rõ rệt của nước. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Thể tánh các đại: Trong NHƯ LAI TẠNG - Các đại không ngăn ngại nhau
...... Ngài Phú Lâu Na Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các thứ: 5 ấm, 12 xứ, 18 giới và 7 đại trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện xuất phát từ tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Tạng, vậy thì tại sao Như Lai Tạng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế?
Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng đã từng nói : Địa, thủy, hỏa, phong 4 đại bản tánh viên dung, khắp cùng khắp giới, vắng lặng thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung được thủy đại? Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đại có điều kiện phát sinh? Làm sao có thể hiểu biết được rằng: Thủy đại và hỏa đại đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau? Bạch Thế Tôn! Tánh địa đại thì ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp giới? Con không biết nghĩa ấy là thế nào. Xin Phật rủ lòng từ, vén mây mê lầm cho con và đại chúng. Có 2 câu hỏi ở đây:
1) Tại sao trong Như Lai Tạng tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng dưng lại chuyển biến sinh ra những hiện tượng hữu vi như như núi, sông, đất, liền…?
2) Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức thì trong 7 đại này tánh chất có đối kháng nhau. Thí dụ nước kỵ lửa, gió kỵ đất… Nếu thế, tại sao chúng có thể dung hợp được với nhau trong Như Lai Tạng mà không tương tàn, tương diệt? Phật dạy rằng:
- "Tánh sắc chơn không” nghĩa là Tánh của sắc là không mà hư không thì bao trùm bao la vô cùng vô tận.
- "Tánh không chơn sắc” nghĩa là trong hư không đã có đủ tất cả tánh chất của sắc hay nói chung của địa, thủy, hỏa, phong…,
=> Nhưng từ cái thể tánh thanh tịnh của hư không khi hội tụ đủ nhân duyên sẽ biến hiện thành ra sắc (Dụng của các đại).
- Tuy thủy đại [Tánh Thủy] đầy khắp hư không pháp giới tức là nơi nào trong không gian vô tận cũng đều chứa nước mà nước đâu có dập tắt lửa và nước cũng không làm ngập chìm cả thế gian nên Phật nói rằng: ”Tánh thủy chơn không”. Trong hư không tức là pháp giới không đại, vốn không phải nước vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại [Tánh Thủy]. Do đó Phật mới dạy rằng : ”Tánh không chơn thủy”.
- Hỏa đại cũng thế, lửa thì đầy khắp hư không mà không làm cháy nhà cửa, xe cộ, núi rừng hay vạn hữu thế gian. Vì vậy Phật mới nói : ”Tánh hỏa chơn không”. Trong hư không vốn không có lửa, nhưng khi chúng sinh cần thì lửa sẽ có trong hư không, cho nên Phật dạy rằng : ”Tánh không chơn hỏa”.
=> Nói tóm lại, Tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại [Tánh các đại] mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến).
=> Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại [Đây là nói Tánh thể các đại chứ không phải Dụng của các đại khi đủ duyên biểu lộ thành đất nước gió lửa tương tác sinh diệt nhau ] nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm........... (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phẩm tính các Hành: Các yếu tố tượng trưng cho bốn trạng thái vật chất: Lửa - năng lượng ion hóa rực rỡ; Đất - rắn; Khí - Gió/ Phong khí/ Chất hơi; Nước - chất lỏng.
Mọi thứ chúng ta nhận biết và kinh nghiệm đều bao gồm các yếu tố. Bất cứ thứ gì được kích động, năng động, hoặc bùng phát trào phản ánh yếu tố của lửa (Hành hỏa). Tính ổn định hoặc cấu trúc phản ánh yếu tố đất (Hành thổ). Hài hước, không thực tế hoặc định hướng về mối quan hệ phản ánh yếu tố khí (Hành khí). Bất cứ điều gì nhạy cảm hoặc hấp thụ phản ánh yếu tố nước (Hành thủy). (Nguồn: Ôn lại về Hành)
* Cụ thể: Xem Tooltip từng đại, từng hành
+ NHƯ LAI TẠNG - Các đại không ngăn ngại nhau
+ b/ 2- Ngài Phú Lâu Na Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các thứ: 5 ấm, 12 xứ, 18 giới và 7 đại trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện xuất phát từ tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Tạng, vậy thì tại sao Như Lai Tạng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế?
Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng đã từng nói : Địa, thủy, hỏa, phong 4 đại bản tánh viên dung, khắp cùng khắp giới, vắng lặng thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung được thủy đại? Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đại có điều kiện phát sinh? Làm sao có thể hiểu biết được rằng: Thủy đại và hỏa đại đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau? Bạch Thế Tôn! Tánh địa đại thì ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp giới? Con không biết nghĩa ấy là thế nào. Xin Phật rủ lòng từ, vén mây mê lầm cho con và đại chúng. Có 2 câu hỏi ở đây:
1) Tại sao trong Như Lai Tạng tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng dưng lại chuyển biến sinh ra những hiện tượng hữu vi như như núi, sông, đất, liền…?
2) Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức thì trong 7 đại này tánh chất có đối kháng nhau. Thí dụ nước kỵ lửa kỵ, gió kỵ đất… Nếu thế, tại sao chúng có thể dung hợp được với nhau trong Như Lai Tạng mà không tương tàn, tương diệt? Phật dạy rằng:
- ”Tánh sắc chơn không” nghĩa là Tánh của sắc là không mà hư không thì bao trùm bao la vô cùng vô tận.
- ”Tánh không chơn sắc” nghĩa là trong hư không đã có đủ tất cả tánh chất của sắc hay nói chung của địa, thủy, hỏa, phong…,
=> Nhưng từ cái thể tánh thanh tịnh của hư không khi hội tụ đủ nhân duyên sẽ biến hiện thành ra sắc.
- Tuy thủy đại đầy khắp hư không pháp giới tức là nơi nào trong không gian vô tận cũng đều chứa nước mà nước đâu có dập tắt lửa (hỏa đại) và nước cũng không làm ngập chìm cả thế gian nên Phật nói rằng : ”Tánh thủy chơn không”. Trong hư không tức là pháp giới không đại, vốn không phải nước (thủy đại) vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại. Do đó Phật mới dạy rằng : ”Tánh không chơn thủy”.
- Hỏa đại cũng thế, lửa thì đầy khắp hư không mà không làm cháy nhà cửa, xe cộ, núi rừng hay vạn hữu thế gian. Vì vậy Phật mới nói : ”Tánh hỏa chơn không”. Trong hư không vốn không có lửa, nhưng khi chúng sinh cần thì lửa sẽ có trong hư không, cho nên Phật dạy rằng : ”Tánh không chơn hỏa”.
=> Nói tóm lại, tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến).
=> Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sinh, nhưng vì do vọng niệm từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần dần biến thành căn nguyên sinh ra chúng sinh. Do vậy vọng minh chính là vô minh và cũng từ cái vô minh này mà dần theo thời gian hình thành sở tướng của tứ đại và hấp thụ tứ đại để làm thân. Vọng tưởng sai lầm đã biến con người thành “vọng năng” và dĩ nhiên chấp nhận có “sở năng” bên ngoài. Một khi chấp có “năng sở” nghĩa là chấp có chủ thể và đối tượng tức là chấp có sự đối đãi phân biệt. Năng minh là lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở bên trong của con người và sở minh chính là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là ngoại trần. Vì thế tuy thế giới vạn pháp có bao la vô cùng vô tận, nhưng cũng không ra ngoài căn, trần cả.
+ NHƯ LAI TẠNG: Trích HT Tuyên Hóa giảng:
Trước đây mỗi khi quý vị học kinh, hằng ngày quý vị đều sống cùng với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình, nhưng trong mọi thời quý vị đều không biết được những cái ấy từ đâu đến. Ai thử đoán tại sao lại có quá nhiều thứ như thế trong Như Lai tạng?
Như Lai tạng lớn đến chừng nào để có thể chứa được chừng ấy thứ?
Như Lai tạng lớn hơn tất cả mọi thứ, thế nên mới chứa được mọi vật. Nếu nó không lớn hơn tất cả mọi thứ thì nó không thể nào chứa được nhiều đến vậy.
Nó để nhiều thứ như vậy ở đâu?
Hãy phân chia Như Lai tạng ra nhiều ngăn. Quý vị có nhãn nhập, người khác cũng có nhãn nhập; quý vị có nhĩ nhập, người khác cũng có nhĩ nhập; quý vị có tị nhập, người khác cũng có tị nhập; quý vị có thiệt nhập, người khác cũng có thiệt nhập. Nếu tất cả đều trộn lẫn với nhau, thì đến khi cần dùng nó, làm sao quý vị sử dụng nó được? Nếu đơn giản nó gom lại thành một khối, nhưng được phân chia đều nhau để chỗ thu nạp (nhập) của riêng mỗi người đều ở trong một vị trí riêng, thế cần phải có rất nhiều chỗ. Nên nó phải là một khoảng không gian rất lớn. Đó là lí do tại sao tôi nói Như Lai tạng lớn hơn tất cả mọi thứ nên mới chứa trọn được cả mọi vật. Chẳng có thứ gì mà không chứa được trong đó. Bây giờ chúng ta đang ở đâu? Chúng ta đều đang ở trong Như Lai tạng.
Quý vị liền nói: “Tôi chẳng hiểu Như Lai tạng giống như cái gì cả.”
Hằng ngày quý vị đều thấy Như Lai tạng. Nhưng quý vị không nhận ra. Trong mọi động dụng hằng ngày quý vị đều ở trong Như Lai tạng. Những gì mắt quý vị thấy, những gì tai nghe mọi cái hoàn toàn đều ở trong Như Lai tạng. Quý vị vẫn chưa hình dung Như Lai tạng giống như thế nào.... Giảng:
Rốt ráo đạo lý nầy muốn chỉ bày điều gì? Chỉ ra rằng tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng vốn không sinh không diệt. Nó bao trùm mọi nơi, có trong mọi vật. Nó không như một con người, khi ở một nơi nào đó thì gọi là có mặt, và khi ông ta rời khỏi chỗ đó rồi thì gọi là không hiện hữu ở đó nữa. Đúng hơn, tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng là không sinh không diệt. Điều ấy chỉ ra rằng căn tánh vốn là chân thật và vọng tưởng là hư vọng, không thật.
... Đạo lý đang được giảng giải (Tứ Đại) sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới.
+ Chân Như Tự Tánh: Trong phần giảng về Tứ Đại trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 3: Phật dậy A-nan, như nước thành băng, băng tan thành nước.
Giảng:
A-nan, ông nên biết rằng chân như tự tánh tuỳ duyên nhưng bất biến, bất biến nhưng tuỳ duyên. Điều ấy được giải thích như thế nào? Chân như tự tánh cũng chính là tánh Như Lai tạng, cũng là Thật tướng, và cũng là chân tâm, như nước thành băng, băng tan thành nước....
Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
Giảng:
"Ông vốn không biết, A-nan, trong Như Lai tạng – Như Lai tạng là Chân tâm, là Thật tướng. Ông không biết rằng nếu ông cứu xét kỹ cho đến tận nguồn cội hư không và lân hư trần, ông sẽ thấy rằng mình không thể nào biết được nó cả. Mà đạo lý ấy lại được tìm thấy trong Như Lai tạng: tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Ở điểm rốt ráo, sắc tướng chính là chơn không; và tánh không cũng chính là chơn sắc. Nó vốn không nhiễm ô, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm. Cơ bản là bất biến. Tự tánh của nó vốn là thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, chẳng có gì làm cho nó tăng thêm, cũng chẳng bớt đi chút nào.
"Tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Đây là một hoạt dụng vi diệu "tuỳ theo mức độ hiểu biết từ TÂM chúng sinh." Nó đáp ứng tuỳ theo mọi năng lực NHẬN THỨC từ TÂM chúng sinh: mức độ của sự nhiệm mầu sẽ hiển bày tương ứng với năng lực nhận thức của mỗi chúng sinh.
Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Lúc bấy giờ A-nan và cả đại chúng, được sự khai thị nhiệm mầu của Đức Phật, khiến thân tâm vắng lặng, chẳng còn ngăn ngại. Trong đại chúng, mọi người đều tự nhận ra tâm mình trùm khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem một lá cây hay đồ vật trong bàn tay.
Giảng:
Cái gì chứa đựng cả chân thật và hư vọng? Chính là chân tâm chúng ta, Chân tâm chúng ta bao hàm cả cái chân thật và hư vọng và không có xứ sở. Nó ở cùng khắp hư không và bao trùm cả pháp giới. Thế thì nó ở đâu? Nó chẳng ở đó mà cũng chẳng phải không có ở đó. Vậy nên tâm bao hàm trong vạn pháp, vạn pháp chỉ là tâm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” - LÀ KHÔNG TẤT CẢ - Đức Phật dậy
- Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.
NHƯ LAI TẠNG LÀ “TỨC” - LÀ BẤT KHÔNG TẤT CẢ
Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh cho đến là lão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.
Phật bảo: Do vậy (Như Lai Tạng) nó là cả hai pháp thế gian và xuất thế gian, Tức là Như Lai tạng diệu minh tâm nguyên. (là chân tâm vắng lặng mà vẫn thường chiếu soi - HTTH).
Rời các nghĩa “tức,” “phi,” mà cũng là nghĩa “tức,” và chẳng phải nghĩa “tức.”
Phật bảo: Làm sao chúng sinh trong ba cõi thế gian, cùng với hàng Thanh văn Duyên giác xuất thế gian, đem tâm sở tri mà suy lường Vô thượng bồ-đề của Như Lai, dùng ngôn ngữ thế gian để nhập vào tri kiến Phật?
Ông và chúng sinh cũng đều như vậy. Chân tâm giác ngộ quý báu đều đầy đủ trong mỗi người. Nhưng khi Như Lai ấn ngón tay thì hải ấn phát ra hào quang, còn các ông chỉ tạm móng khởi tâm, thì trần lao liền nổi dậy.
Do vì không siêng năng cầu đạo giác ngộ vô thượng. Chỉ thích nghĩ đến Tiểu thừa, được một ít liền cho là đủ.
Phú-lâu-na bạch, “Chân tâm quý báu, thanh tịnh vi diệu, giác ngộ sáng suốt của con cùng với Như Lai vốn là viên mãn không hai. Nhưng xưa con mắc phải vọng tưởng từ vô thủy, nên phải ở lâu trong luân hồi. Nay được thánh thừa, còn chưa được chỗ cứu cánh. Như Thế tôn, hết thảy các vọng đều dứt trừ, chỉ có diệu dụng của tính chân. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q4 - Chương II)
+ Thanh tịnh Pháp Thân Phật: Nếu quý vị có trí thì giống như có thái dương/ Ngoài, có huệ giống như trăng sáng/ Trong tâm. Trí Huệ bát nhã thường chiếu sáng trong ngoài thân tâm, trong ngoài đều sáng suốt giống như lưu ly, vạn pháp trong tự tánh vốn trong sáng. Quý vị nhận biết bổn tâm của mình, thấy được bổn tánh, thì cũng giống như trời xanh không mây ... chính là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Lục Tổ Đàn Kinh)
+ Xin mời quí vị đọc bài tổng hợp chuyên đề với thuật ngữ Thể Dụng vi diệu của Như Lai tạng và tánh Như lai tạng, bản giác ... : Mời xem tại đây
+ Lễ 6 phương - Đức Phật dạy:
1. Phương đông - Cha mẹ, con:
- Con làm 5 việc: Một là phụng dưỡng cha mẹ. Hai là làm công việc thay cha mẹ. Ba là gìn giữ gia phong. Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế. Năm là tạo phước hồi hướng.
- Cha mẹ làm 5 việc: Một là ngăn con không làm điều ác. Hai là dạy con làm việc lành. Ba là hướng dẫn nghề nghiệp. Bốn là tác thành gia thất. Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp. Đây là đạo nghĩa cha mẹ con cái.
2. Phương nam - Thầy Trò
- Học trò làm 5 việc: Một là giữ lòng kính trọng. Hai là quan tâm săn sóc. Ba là chăm chỉ học hành. Bốn là đáp ứng khi cần. Năm là hấp thụ những gì được truyền dạy.
- Thầy làm 5 việc: Một là dạy trò những chuyên môn của mình. Hai là dùng phương pháp dễ hiểu. Ba là không giấu nghề. Bốn là giới thiệu tiến thân. Năm là bố trí an toàn cho trò. Ðó là đạo nghĩa thầy trò.
3. Phương tây - Hôn phối:
- Chồng làm 5 việc: Một là đối xử hoà ái. Hai là không bạc đãi khinh khi. Ba là một dạ thủy chung. Bốn là giao quyền nội chính. Năm là tùy khả năng mua sắm tư trang cho vợ.
- Vợ làm 5 việc: Một là quán xuyến công việc gia đình. Hai là cư xử với hai họ một cách đồng đều. Ba là một lòng tiết hạnh. Bốn là gìn giữ tài sản. Năm là cần mẫn trong bổn phận. Ðó là cách lễ bái phương tây tức đạo nghĩa vợ chồng.
4. Phương bắc - Bạn bè:
- Mình làm 5 việc: Một là rộng rãi. Hai là nhã nhặn. Ba là quan tâm lợi ích của bạn. Bốn là đồng cam cộng khổ. Năm là thành thật.
- Bạn tốt làm 5 việc: Một là cảnh giác bạn trước những cám dỗ. Hai là giữ hộ tài sản khi bạn sa ngã. Ba là làm nơi nương tựa cho bạn lúc sa cơ. Bốn là không bỏ bạn lúc nguy biến. Năm là cư xử tốt với người thân của bạn. Ðó là đạo nghĩa bạn bè.
5. Phương dưới - Giúp việc:
- Chủ làm 5 việc: Một là không giao việc quá sức. Hai là trả thù lao tương xứng. Ba là chăm sóc khi đau yếu. Bốn là chia sớt món ngon vật lạ. Năm là không bắt làm việc quá giờ.
- Người giúp việc làm 5 việc: Một là thức trước chủ. Hai là ngủ sau chủ. Ba là không lấy những thứ không cho. Bốn là siêng năng làm việc. Năm là giữ tiếng tốt cho chủ. Ðó là đạo nghĩa chủ tớ.
6. Phương trên - Sa môn, cư sĩ:
- Cư sỹ làm 5 việc: Một là cử chỉ thân thiện. Hai là lời nói thân thiện. Ba là tư tưởng thân thiện. Bốn là luôn mở rộng cửa đón tiếp. Năm là cúng dường tứ sự.
- Với cư sĩ, sa môn làm 5 việc: Một là hướng dẫn cư sĩ xa điều ác. Hai là hướng dẫn cư sĩ làm việc lành. Ba là luôn cư xử với tâm từ ái. Bốn là giảng giải đạo lý tường tận. Năm là chỉ đường an vui đời sau. Ðó là đạo nghĩa tăng tục.
+ Sin Ga La bày tỏ niềm hoan hỷ: Thật vi diệu, bạch đức Thế Tôn .... (Nguồn: Kinh Đảnh Lễ Sáu Phương)
+ Lễ các phương - Giữ Đạo nghĩa theo Dịch học / Phật giáo:
1- Phương đông: Gia đình - Sức khẻo [Cha mẹ]
2- Phương đông nam: Phú quý
3- Phương nam: Địa vị - Danh tiếng [Thày trò]
4- Phương tây nam: Hôn nhân
5- Phương tây: Con cái [Hôn phối]
6- Phương tây bắc: Quý nhân
7- Phương bắc: Sự nghiệp [Bạn bè]
8- Phương đông bắc: Tri thức
+ Xem thêm: Đạo nghĩa trong ngũ thường Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín
+ Cha mẹ là gốc rễ: Học Phật phải tu pháp môn căn bản, tức là tài bồi căn lành, bồi nguyên cố bổn. Bồi nguyên tức là bồi dưỡng nguyên khí. Cố bổn tức là khiến cho gốc rễ kiên cố. Nguyên là nguyên khí. Gốc tức là gốc rễ, tức là cha mẹ. Cha mẹ sinh chúng ta ra, chúng ta phải hiếu thuận. Hiếu thuận cha mẹ mới là người chân chánh tin Phật, không hiếu thuận cha mẹ, chẳng phải là người tin Phật. ..
Nếu người hiếu thuận cha mẹ, thì chánh khí trời đất tồn tại, không hiếu thuân cha mẹ, thì trong trời đất tràn ngập tà khí. Hiếu thuận cha mẹ phải thành tâm thành ý, tất cung tất kính. Ðối với cha mẹ phải cung cung kính kính, cha mẹ tức là Phật sống hiện tiền. .. Hiếu thuận cha mẹ phải dưỡng chí. Dưỡng chí tức là việc mà cha mẹ hoan hỷ thì làm nhiều một chút, việc mà cha mẹ không hoan hỷ thì làm ít một chút. Ðừng làm cha mẹ buồn phiền đau khổ, luôn luôn làm cho tâm của cha mẹ vui vẻ. .. Không biết hiếu thuận cha mẹ là quên mất gốc rễ. .. hiếu thuận cha mẹ so với cuối đầu lạy sư phụ còn tốt hơn nhiều. (Nguồn: Google Drive - HT Tuyên Hóa Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Bổn phận của Cha mẹ - Con cái, đức Phật đã dạy:
- Con làm 5 việc với Cha Mẹ: Một là phụng dưỡng cha mẹ. Hai là làm công việc thay cha mẹ. Ba là gìn giữ gia phong. Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế. Năm là tạo phước hồi hướng.
- Cha mẹ làm 5 việc: Một là ngăn con không làm điều ác. Hai là dạy con làm việc lành. Ba là hướng dẫn nghề nghiệp. Bốn là tác thành gia thất. Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp. Đây là đạo nghĩa cha mẹ con cái.
* Ðức Phật dạy về 6 phương:
- Phương đông là cha mẹ. - Phương nam là thầy tổ. - Phương tây là người hôn phối. - Phương bắc là bạn bè. - Phương dưới là người giúp việc. - Phương trên là sa môn (Nguồn: Kinh Đảnh Lễ Sáu Phương)
+ Muốn đi về Các Phương: Lễ bái Phật khi Xuất hành đi về các phương đều được bình an, vạn sự cát tường như ý
Phật bảo Diện Thiện Duyệt:
- Hãy lắng nghe kỹ, lãnh thọ kỹ, khéo ghi nhớ và hành trì, Ta sẽ vì ông thuyết pháp ủng hộ.
Khi ấy đồng tử thơ ấu họ Thích vâng theo lời dạy và lắng nghe. Phật bảo:
- Phương Đông, cách đây hơn tám ngàn vạn ức na-thuật cõi Phật, có thế giới tên là Bạt Chúng Trần Lao, đức Phật cõi đó hiệu là Đẳng Hành Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Đông, trước tiên nên cúi đầu quy y cúng dường Phật ở phương Đông, thì sẽ không còn sợ hãi và chẳng ai còn dám xâm phạm, nhiễu hại. Có ưa thích đi và có sự khởi hành thì chắc chắn sẽ được như nguyện, tâm chí chưa từng rối loạn và như tâm chí đã nghĩ liền được thành tựu.
- Phương Nam, cách đây hơn mười ức trăm ngàn cõi Phật có thế giới tên là Tiêu Minh Đẳng Yếu Thoát, đức Phật cõi đó hiệu là Sơ Phát Tâm Niệm Ly Khủng Úy Quy Siêu Thủ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Nam, nên từ xa cúi đầu quy mạng đức Phật kia rồi mới khởi sự ra đi, một lòng nhớ nghĩ, ý không lìa Phật thì không còn sợ hãi, không gặp hoạn nạn.
- Phương Tây, cách đây hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Thiện Tuyển Trạch, đức Phật đó hiệu là Kim Cang Bộ Tích Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Tây, trước tiên nên giảng thuyết và tư duy về pháp Bổn tịnh, hoàn toàn không còn sở kiến, không khởi, không diệt, thanh tịnh, vắng lặng và trước hết nên cúi đầu đảnh lễ đức Phật cõi đó, nhất tâm quy y rồi mới khởi sự ra đi, thì chắc chắn không còn sợ hãi, không gặp hoạn nạn.
- Phương Bắc, cách đây hơn hai vạn cõi Phật có thế giới tên là Giác Biện, Phật hiệu là Bảo Trí Thủ, Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Bắc, bắt đầu ngay nơi nhà, cúi đầu đảnh lễ quy y đức Phật kia rồi mới khởi sự ra đi thì chắc chắn không còn sợ hãi và không gặp hoạn nạn.
- Phương Đông-bắc, cách đây hơn trăm vạn ức cõi Phật có thế giới tên Trì Sở Niệm, đức Phật cõi đó hiệu là Hoại Ma Mạn Độc Bộ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Lại Như Lai kia đi đến dưới gốc cây Bồ-đề, vừa mới ngồi, nhất tâm, liền khuyến hóa các ma quyến thuộc và các thiên ma ở thế giới tam thiên đại thiên, đều an lập họ nơi Bất thối chuyển, sẽ thành đạo Chánh chơn Vô thượng. Đây là khi Như Lai đến dưới gốc cây Bồ-đề cảm hóa được. Người nào đi đến phương Đông-bắc, nên từ xa cúi đầu quy y đức Phật kia rồi sau mới đi, thì ngay nơi chỗ ở đạt được an ổn, chắc chắn không còn sự sợ hãi.
- Phương Đông-nam, cách đây hơn hai hằng hà sa các cõi Phật, có thế giới tên là Thường Chiếu Diệu, đức Phật đó hiệu là Sơ Phát Tâm Bất Thối chuyển Luân Thành Thủ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Như Lai đó khi còn làm Bồ-tát thường chỉ dạy mọi người thực hành nghĩa “Bất thối chuyển luân” là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định bất lọan, thành tựu trí tuệ. Đây là do Như Lai khi còn làm Bồ-tát cảm hóa được. Người nào đi về phương Đông-nam, trước hết nên cúi đầu, năm vóc gieo sát đất, nhất tâm quy mạng rồi sau mới đi thì không còn sợ hãi .
- Phương Tây-nam, cách đây hơn tám vạn cõi Phật có thế giới tên là Phú Bạch Giao Lộ, đức Phật đó hiệu là Bảo Cái Chiếu Không Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào đi về phương Tây-nam, trước hết nên cúi đầu đảnh lễ đức Như Lai kia, từ xa đem hoa rải dâng, niệm nơi tướng không, rồi sau mới đi thì không còn sợ hãi .
- Phương Tây-bắc, cách đây hơn sáu hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Trụ Thanh Tịnh, đức Phật đó hiệu là Khai Hóa Bồ-tát Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Quốc độ của đức Phật đó thanh tịnh trong sạch, cũng không có ái dục, không có người nữ, xa lìa năm món dục. Người nào đi đến phương Tây-bắc, trước hết nên đảnh lễ đức Phật kia, tự quay về sám hối lỗi lầm, tịnh tu phạm hạnh rồi sau mới ra đi thì không còn sợ hãi.
- Phương dưới, cách đây hơn chín mươi hai cai cõi Phật, có thế giới tên là Niệm Vô Đảo, đức Phật đó hiệu là Niệm Sơ Phát Ý Đoạn Nghi Bạt Dục, Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào khi muốn ngồi, hoặc ban đêm khi nằm, niệm Như Lai kia, cúi đầu quy y, thường dùng niệm từ khắp cứu giúp chúng sanh rồi sau mới ngồi hay nằm thì không còn sợ hãi, nguyện cầu điều gì chắc chắn được kết quả.
- Phương trên, cách đây hơn sáu mươi hằng hà sa các cõi Phật, có thế giới tên Ly Chư Khủng Cụ Vô Hữu Xứ Sở, đức Phật đó hiệu là Tịnh Minh Đẳng Siêu Vương Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào từ chỗ ngồi đứng dậy thường hay đảnh lễ đức Phật kia, quy y cúng dường, thường ôm ấp lòng từ, thương xót chúng sanh rồi sau mới đứng dậy đi thì không còn sợ hãi, tại chỗ đi đến được an lành vui vẻ. Do niệm như vậy nên thường được ủng hộ.
- Ông nên lãnh thọ kỹ danh hiệu chư Phật này và phụng trì, tư duy, nhớ mãi trong lòng thì chỗ muốn đi đến chắc chắn không gặp nguy khó.
Phật bảo đồng tử: Kinh này tên là “Diệt trừ tối tăm trong mười phương” ....
- Giả sử có người lãnh thọ kinh điển này rồi, hành trì đọc tụng và giảng thuyết cho người khác đầy đủ hoàn toàn không thiếu sót thì sẽ mau được thành tựu sở nguyện. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thọ trì kinh này và đọc tụng thì hoàn toàn không còn sợ hãi. Nếu đến chỗ quan huyện không bị xâm tổn. Nếu đi giữa giặc giã oán thù không bị nguy hại. Nếu đi trong lửa dữ, lửa dữ liền diệt. Nếu đi trong nước, hoàn toàn không bị chết chìm. Trời, rồng, quỷ thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chơn-đà-la, Ma-hưu-lặc, ác thần, ác ma và các chúng quỷ thần, nhơn, phi nhơn khác không dám xúc phạm. Các loài sư tử, hổ lang, mãnh thú, hùng bi không dám đến gần. Ngạ quỷ Võng lượng và quỷ Phản túc, các quỷ Hổn biên không thể nhiễu hại, cũng không có sự sợ hãi. Nếu một mình ở chỗ vắng vẻ, đồng trống, dưới gốc cây, chỗ đất trống, tức là nơi Như Lai tạo lập và đang ủng hộ.
Nếu tộc tánh tử, tộc tánh nữ (Thiện nam, Tín nữ) nào lãnh thọ kinh điển này rồi thọ trì đọc tụng, biên chép quyển kinh thì đã từng cúng dường chư Phật quá khứ, trồng các cội công đức và các công đức đã làm sắp hoàn thành.(Nguồn: Diệt trừ tối tăm trong mười phương)
+ Thi ân sáu phương: Phật dậy, Ngươi phải thi ân bố thí mới có thể tránh được nạn nghèo. Ngươi không hiểu ý nghĩa của sự vái lạy 6 hướng, để ta giải cho ngươi nghe, nghảnh mặt về hướng nào thì nhớ đối tượng thi ân:
- Hướng Đông: Cha mẹ
- Hướng Tây: Vợ con
- Hướng Bắc: Bằng hữu, thân thuộc.
- Hướng Nam: Tình Sư - đệ.
- Hướng trên/ Nhìn Trời: Các nhà Sư đã dạy dỗ ngươi về Đạo-đức.
- Hướng dưới/ Cúi mặt xuống đất: Nhớ tới bạn bè, tôi tớ, đã giúp ngươi trong công việc làm ăn. (Nguồn: Kinh Thiện Sinh)
+ Bốn phương trời: Nhị thập bát tú
- Phương Đông chùm sao Thanh Long có 7 sao: Giác, Đê, Cang, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.
- Phương Bắc chùm sao Huyền Vũ có 7 sao: Đẩu, Nữ, Ngưu, Hư, Nguy, Thất, Bích.
- Phương Tây chùm sao Bạch Hổ có 7 sao: Khuê, Vị, Lâu, Mão, Tất, Chủy, Sâm.
- Phương Nam chùm sao Chu Tước có 7 sao: Tỉnh, Qủy, Liễu, Tinh, Dực, Trương, Chẩn.
* Bốn hay sáu phương cũng có sự tương ứng là Tứ tượng trong phong thủy. Lục thú trong Dịch học - 12 Cung Hoàng đạo/ Chòm sao Hoàng đạo .....: Xem Nhị Thập Bát Tú
* Xem thêm: 12 cung Hoàng đạo theo Chiêm tinh phương Tây: Xem 12 cung Hoàng đạo
Tổng hợp kiến thức tương ứng với Phương giữa - Bốn mùa - Mậu kỷ - Hành thổ
+ Hành THỔ: Chính giữa là Phật bộ, thuộc về thổ (đất). Ðất sanh ra vạn vật, đất thịnh vượng cả bốn mùa. Một năm chỉ có bốn mùa, nhưng lại có 5 ngũ hành, thì sắp xếp như thế nào ? Vì thổ là ở chính giữa, kim mộc thủy hỏa là bốn bên, cho nên xuân hạ thu đông là bốn mùa. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng / Mùa ẩm ướt.
Nếu Thổ không có trong bốn mùa thì như thế nào ? Thổ thịnh vượng trong cả bốn mùa, mùa xuân ba tháng, trong ba tháng có chín mươi ngày, có thổ thì có thể sanh sôi nảy nở. Mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đều có thổ. Cho nên ở chính giữa là Mậu Kỷ thuộc thổ, phương đông là Giáp Ất thuộc mộc, phương nam là Bính Ðinh thuộc hỏa, phương tây là Canh Tân thuộc kim, phương bắc là Nhâm Quý thuộc thủy. Ðây là ngũ hành tương sanh tương khắc. [Ngài là diệt trừ si độc của chúng sanh - Một trong năm thứ độc - và có thể chuyển thức A-đà-na (Adana – Thức thứ 8) thành Pháp Giới Thể Tánh Trí_Nguồn: Ngũ phương Phật]. (Nguồn: Tỳ Lô Giá Na Phật - HT Tuyên Hóa) ()
+ Tôn Giả Xá Lợi Phất nói về đức hạnh của Tứ đại: ... "Bạch Thế Tôn, giống như những người vất lên mặt đất những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, mặt đất đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; quả tim con cũng như đại địa ... (Nguồn: Đức hạnh ngài Xá Lợi Phất)
+ Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Phạn: वैरोचन, Vairochana, hoặc Maha-Vairochana), Tỳ Lô Giá Na có nghĩa là "tỏa sáng", là ánh sáng chiếu rực rỡ khắp mọi nơi (quang minh biến chiếu). Ngài là Đức Phật ở trung tâm, một trong những vị Phật của Ngũ Phương (Năm Phương). Màu của thân Ngài là màu trắng. Ngài ngồi chính giữa trên một đài sen do tám con sư tử lớn hợp thành. Ngài có thể diệt trừ si độc của ngũ độc, si độc của chúng sanh và có thể chuyển thức A Đà Na ( thức "duy trì") thành Pháp Giới Thể Tánh Trí. Trong năm bộ của Chú Lăng Nghiêm thì Ngài thuộc Phật Bộ Trung Ương.
Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm
Dòng tộc Như Lai dạy chúng sanh
Tu khắp vạn hạnh Ba La Mật
Các pháp vô ngã chứng viên thông.
Giảng giải: Đa tha dà đa dịch là "Như Lai", cũng chính là Phật Bộ. Chú Lăng Nghiêm có năm bộ, chia ra năm hướng. Chính giữa là Phât Bộ, có Đức Phật Tỳ Lô Giá Na là giáo chủ. Phương tây là Liên Hoa Bộ, có Phật A Di Ðà là giáo chủ. Phương đông là Kim Cang Bộ, có Phật A Súc là giáo chủ, tức là Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư. Phương nam là Bảo Sanh Bộ, Phật Bảo Sanh là giáo chủ. Phương bắc là Yết Ma Bộ, Phật Thành Tựu là giáo chủ. Cộng lại là năm bộ. Thế gian này là do giáo chủ của năm bộ quản lý và trấn áp năm đại ma quân thì năm đại ma quân mới tuân theo quy củ, tuy dù tuân theo quy củ nhưng chúng cứ nghĩ đến việc làm cho thế giới này từ từ rối loạn hư hỏng. Thế giới này sanh ra đủ thứ tai nạn là do thiên ma ngoại đạo làm ra. Thiên ma ngoại đạo chỉ sợ là thiên hạ không có loạn, chỉ sợ thế gian này không hư hoại nhanh chóng, nhưng do có năm phương Phật này trấn áp tại đây nên chúng lén lút phá hoại, không dám ngang ngược làm ác. Trên thế gian thì ma và Phật đối lập với nhau. Phật thì giáo hóa chúng sanh sớm thành Phật đạo, ma thì giáo hóa chúng sanh sớm thành ma đạo. Nhưng Phật là nhờ ma giúp Ngài tu thành tựu, do đó ma chính là thiện trí thức của người tu đạo Phật. Người tu đạo khi cảnh nghịch đến thì thuận theo thọ nhận, nên nhin phía mặt trái để biết được chỗ tốt. Chúng ta cần nên cung kính Phật, nhưng cũng không phản đối ma vương, xem kẻ oán người thân đều bình đẳng, Phật ma đều như một, cần phải như thế thì không ghét cũng không thương, không thiện cũng không ác. Cảnh giới như thế không khác biệt nhiều. Năm Bộ chú Lăng Nghiêm này sau sẽ giảng lại đầy đủ.
Câu Ra Gia là chủng tộc của Phật, là chủng tánh của Như Lai, tức là đệ tử Phật giáo tin Phật.
‘’Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm’’ Chính giữa là Phật bộ, thuộc về thổ (đất). Ðất sanh ra vạn vật, đất thịnh vượng cả bốn mùa, một năm bốn mùa đất đều thịnh vượng, Xuân hạ thu đông. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Một năm chỉ có bốn mùa, nhưng lại có 5 ngũ hành, thì sắp xếp như thế nào ? Vì thổ là ở chính giữa, kim mộc thủy hỏa là bốn bên, cho nên xuân hạ thu đông là bốn mùa. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Quý vị xem, mùa đông nơi đây thì ẩm ướt, không chỉ là một chút xíu, người Quảng Đông gọi là “Hồi Nam” có nghĩa là mùa ẩm ướt.
Nếu Thổ không có trong bốn mùa thì như thế nào ? Thổ thịnh vượng trong cả bốn mùa, mùa xuân ba tháng, trong ba tháng có chín mươi ngày, có thổ thì có thể sanh sôi nảy nở. Mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đều có thổ. Cho nên ở chính giữa là Mậu Kỷ thuộc thổ, phương đông là Giáp Ất thuộc mộc, phương nam là Bính Ðinh thuộc hỏa, phương tây là Canh Tân thuộc kim, phương bắc là Nhâm Quý thuộc thủy. Ðây là ngũ hành tương sanh tương khắc.
“Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm” Tỳ Lô là Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, dịch là "biến nhất thiết xứ".
“Dòng tộc Như Lai dạy chúng sanh’’. Chính giữa là Phật Bộ. Chủng tộc của Phật đến giáo hóa tất cả chúng sanh.
‘Tu khắp vạn hạnh Ba La Mật’’. Tu khắp vạn hạnh, lục độ vạn hạnh, thập độ vạn hạnh, tu pháp Ba La Mật đến bờ bên kia.
‘’Các pháp vô ngã chứng viên thông’’. Đắc được các pháp vô ngã, các pháp vô thường, chứng được diệu lý viên thông, tất cả đều viên thông, thông dung vô ngại. (Nguồn: Tỳ Lô Giá Na Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật Tỳ Lô Giá Na: Đức Phật đầu tiên trong Ngũ Phương Phật là Đức Phật Tỳ Lô Giá Na ở trung ương, và được dịch là “Phật Lô Xá Na” hoặc “Đại Nhật Như Lai,” bởi theo tiếng Phạn, từ ngữ này có nghĩa là “quang minh biến chiếu, phổ châu Pháp Giới vô ngại” (ánh sáng soi chiếu khắp nơi, bao trùm cả Pháp giới, không bị ngăn ngại.) Thân của vị Phật này có sắc trắng; Ngài ngồi chính giữa trên một đài sen do tám con sư tử lớn hợp thành. Năng lực của Ngài là diệt trừ si độc của chúng sanh–một trong năm thứ độc—và có thể chuyển thức A-đà-na (3) (Adana – thức thứ 8) thành Pháp Giới Thể Tánh Trí. Trong năm bộ của Chú Lăng Nghiêm, thì đó chính là Phật Bộ ở phương trung ương. (Nguồn: Về Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
- Lại có vô lượng Chủ Thần Phương Hướng. Đó là : Chủ Thần Phương Hướng Biến Trụ Nhất Thiết. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Hiện Quang Minh. Chủ Thần Phương Hướng Quang Hành Trang Nghiêm. Chủ Thần Phương Hướng Chu Hành Bất Ngại. Chủ Thần Phương Hướng Vĩnh Đoạn Mê Hoặc. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Du Tịnh Không. Chủ Thần Phương Hướng Đại Vân Tràng Âm. Chủ Thần Phương Hướng Kế Mục Vô Loạn. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Quán Thế Nghiệp. Chủ Thần Phương Hướng Chu Biến Du Lãm.
Giảng giải: Lại có vô lượng vô biên Chủ Thần Phương Hướng. Chủ Thần Phương Hướng tức là thần quảng lý về phương hướng. Phương có mười phương, trong mười phương lại có thể phân ra làm trăm ngàn vạn phương. Nhưng có năm phương chủ yếu tức là: Đông, tây, nam, bắc và giữa. Năm phương nầy thuộc về ngũ hành. Phương đông thuộc mộc, phương nam thuộc hỏa, phương tây thuộc kim, phương bắc thuộc thủy, chính giữa thuộc thổ. Một năm bốn mùa thịnh vượng ở năm phương và ngũ hành. Mùa xuân thuộc mộc, thịnh vượng hướng đông, mùa hạ thuộc hỏa, thịnh vượng hướng nam, mùa thu thuộc kim, thịnh vượng hướng tây, mùa đông thuộc thủy, thịnh vượng hướng bắc, thổ thịnh vượng chính giữa, chính giữa là tứ thông bát đạt, cho nên thịnh vượng suốt bốn mùa.
Phương đông Giáp ất mộc, thuộc về màu xanh, thần quảng lý phương đông gọi là Thanh đế. Phương nam Bính đinh hỏa thuộc màu đỏ, thần quảng lý phương nam gọi là Xích đế. Phương tây Canh tân kim thuộc màu trắng, thần quảng lý phương tây gọi là Bạch đế. Phương bắc Nhâm quý thủy, thuộc màu đen, thần quảng lý phương bắc gọi là Hắc đế. Chính giữa Mậu kỷ thổ thuộc màu vàng, thần quảng lý chính giữa gọi là Huỳnh đế. Những vị thần năm phương nầy mỗi vị đều có chức vụ riêng. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1)
+ Góc Mùa Thu: Gồm nhà thứ 7, 8 và 9, an ninh được tìm kiếm và thành lập ở góc phần tư thứ hai được mở rộng để bao gồm bạn tình hoặc bạn đời của chúng ta và những người mà chúng ta hợp tác. Trong góc phần tư mùa thu này hạt giống của sự hoàn thành thông qua sự tìm kiếm sự bổ sung phù hợp với tài năng, nguồn lực và ham muốn của chúng ta, cả về thể chất lẫn tinh thần. Đây là phần tư của các mối quan hệ, liên minh, và sự mở rộng cá nhân vào những trải nghiệm mới, nơi những chân trời cá nhân được mở rộng và đối đầu những thách thức mới.
Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Nguyên nhân của mùa thu (Cause of Autumn): X. Hoạt động quy nguyên của hành tinh.(Từ điển minh triết)
Mười thần của ngũ hành Thổ
Mười thần của ngũ hành Kim
Mười thần của ngũ hành Mộc
Mười thần của ngũ hành Hỏa
Mười thần của ngũ hành Thủy
+ Mười ác nghiệp làm ốm đau bệnh tật (HT. Tuyên Hóa): Lại có mười nguyên nhân khiến cho thân thể mang nhiều bệnh tật;
1. Thích đánh đập mọi loài chúng sanh. Bất luận là chúng sanh nào, hễ trông thấy là đều muốn đánh đập đây là nguyên nhân đầu tiên của quả báo thân thể phải mắc nhiều bệnh khổ.
2. Xúi giục hoặc sai bảo người khác đánh đập chúng sanh chó, mèo, chuột..., thậm chí cả trẻ em.
3. Khen ngợi việc đánh nhau. Khen ngợi cái gì? Trầm trồ, khen ngợi cách đánh đập, hành hạ chúng sanh. Do vì tán thưởng cách đánh đập của người khác, nên chính bản thân mình phải chịu quả báo nhiều bệnh tật.
4. Thấy sự đánh đập mà vui mừng. Có những kẻ thấy người khác đánh đập chúng sanh thì trong lòng lại vui mừng hớn hở, cho là chuyện thú vị: "Hay thật! Ðáng đời! Ðánh thật là đẹp mắt!"; xem ra còn thú vị hơn cả coi xi-nê nữa!
5. Thấy chúng sanh bệnh tật đau đớn rên siết, thì trong lòng lại hân hoan vui sướng. Có nhiều người hễ thấy kẻ khác bị ốm đau bệnh hoạn, thì trong lòng lại mừng rỡ, thích thú: "Có chúng sanh bị đau ốm rồi. Ồ! Hay quá! Có thế chứ, hắn bệnh rồi đấy!" Họ không cảm thông thương xót đã đành, lại còn vui cười mừng rỡ nữa.
6. Thấy người bệnh được bình phục thì trong lòng cảm thấy không vui. Có những kẻ thấy người khác mắc bệnh song sau đó được thuyên giảm hoặc khỏi hẳn thì họ không vui, chính vì thế cho nên kiếp sau chính bản thân họ phải chịu quả báo nhiều bệnh tật, hay đau ốm.
7. Cho chúng sanh uống thứ thuốc không đúng bệnh. Có những người đem thuốc cho chúng sanh bị bệnh, họ cho thứ thuốc gì? Họ cho thứ thuốc không phải trị đúng chứng bệnh mà chúng sanh đó đương mắc phải. Ví dụ, như người bệnh đau đầu thì họ lại cho thuốc đau bụng, chẳng những thế, họ còn huênh hoang: "Quý vị xem, tôi cho bệnh nhân uống thuốc rồi đó."
8. Thấy người bệnh được thầy thuốc tận tâm chữa trị cho, thì sanh lòng đố kỵ, ghen ghét, nói rằng: "Ôi! Ông bác sĩ đó tốt nhất là chết sớm đi, khỏi cần phải trị bệnh cho hắn nữa! Thấy mà gai mắt!"
9. Thấy người khác ốm đau bệnh hoạn thì lại vui thích, còn mong sao người đó cứ luôn luôn ốm đau, mãi mãi bị bệnh tật hành hạ.
10. Thích ăn vặt, ăn luôn miệng. Mới vừa ăn xong chưa kịp tiêu hóa hết thì lại ăn nữa, miệng lúc nào cũng thấy thèm ăn, muốn ăn luôn miệng, không ngừng nghỉ. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nguyên nhân Bệnh nạn:
- Lòng thù hằn, thì sẽ có con quỷ mặt đỏ - Hại Tim
- Lòng oán ghét - quỷ mặt vàng - Hại Tỳ
- Lòng áo não - quỷ mặt trắng - Hại Phổi
- Lòng sân nộ - quỷ mặt xanh - Hại Gan
- Lòng phiền toái/ Muội - quỷ mặt đen - Hại Thận (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q4 )
+ 267. Hay bị bệnh: Đức Phật: Nếu có kẻ nam hay người nữ nhiễu hại chúng sanh ... khi sanh lại vào nhân gian, chịu nhiều tật bệnh. Nguồn: 267- (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Bệnh tật phát sinh là từ chữ THÔNG (Không Thông - Tắc Nghẽn - Thông Đạt - Lưu Thông): ... sanh ra chướng ngại, đều là do không thông. Thông thì có thể giải quyết vấn đề, ... không thông có thể bị bệnh. ... máu huyết lưu thông, bạn liền hồi phục khỏe mạnh. Uống thuốc chỉ là phương pháp bất đắc dĩ.... Khi bị bệnh, Phật dạy bạn niệm chú, chú vừa niệm thì bệnh liền khỏi... dùng âm nhạc để chấn động, đả thông (Kinh Thập thiện- Tập 31 - PS Tịnh Không giảng)
+ Cuộc sống cần chánh xá những nguyên nhân mang tới sự sợ hãi, khiếp đảm. (Nguồn: Trích đoạn Kinh Sợ hãi - Khiếp đảm)
+ Quỷ Vô thường - Quỷ ngũ hành gây bệnh hoạn
“Quỷ vô thường” không phải chỉ vỏn vẹn có một loại, mà có ít nhất đến năm loại là: Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen (Thanh, Hoàng, Hồng, Bạch, Hắc). Căn cứ theo lý luận đông y: ngũ hành phối hợp với ngũ tạng trong thân thể con người và cũng tương ứng với ngũ sắc năm màu, ngũ quý năm mùa và ngũ phương năm hướng. Dưới đây là phần sơ lược, nếu giảng giải tỉ mỉ về lý lẽ của nó thì vô cùng vô tận.
1) - Can - mộc - đông - xuân - thanh.
2) - Tâm - hỏa - nam - hạ - xích.
3) - Phế - kim - tây - thu - bạch.
4) - Tỳ - thổ - trung - trường hạ - hoàng.
5) - Thận - thủy - bắc - đông - hắc.
Ngũ hành có cái lý lẽ là “tương sanh tương khắc.” Mà năm loại quỷ vô thường cũng dựa theo cái lý ngũ hành tương khắc, và có thể làm cho ngũ tạng của chúng ta phát sanh nhiều thứ tật bệnh liên quan với nhau.
1) - Hắc Quỷ vô thường - Ví như người có bệnh thận. Và thận thuộc thủy có sắc đen. Bởi thủy khắc hỏa cho nên nó ảnh hưởng cả tim cũng sanh bệnh.
2) - Hoàng Quỷ vô thường - Tỳ thuộc thổ, sắc vàng. Tỳ có bệnh do thổ khắc thủy, do đó nó lần lượt ảnh hưởng đến thận.
3) - Thanh Quỷ vô thường - Can (gan) thuộc mộc, sắc xanh. Gan có bệnh do mộc khắc thổ, tiếp đến là nó sẽ làm ảnh hưởng khiến cho tỳ cũng bị bệnh.
4) - Bạch Quỷ vô thường - Phế (phổi) thuộc kim, sắc trắng. Kim khắc mộc nên phổi bị bệnh, khiến ảnh hưởng đến gan cũng có bệnh.
5) - Hồng Quỷ vô thường - Tim thuộc hỏa, sắc đỏ. Tim có bệnh do hỏa khắc kim. Cho nên khi tim có bệnh, nó cũng có thể ảnh hưởng đến công năng của phổi.
Như vậy, ngũ hành tương khắc, mà các chứng bệnh của ngũ tạng cũng là tùy theo ác tánh tuần hoàn của quy luật nhất định mà sanh ra.
... Nghiên cứu về căn nguyên, tất cả các thứ bệnh tật quỷ quái, cho đến cả sanh tử cũng đều là từ “vô minh” mà ra.
Nếu phá trừ được vô minh, thời tất cả các bệnh, tất cả các quỷ vô thường cũng sẽ không còn. Vô minh chính là cội gốc của tất cả tội ác, phiền não, bệnh khổ cho đến cả sanh tử. Con người nên học cách mở mang trí huệ. Khi có trí huệ rồi, chúng ta sẽ vận chuyển được ngũ hành, đem các đạo lý “tương khắc” biến thành “tương sanh,” như có thể làm cho: kim sanh thủy, thủy sanh mộc, mộc sanh hỏa, hỏa sanh thổ, thổ sanh kim. “Tương sanh” tức là cùng giúp đỡ dẫn dắt lẫn nhau, có thể biến hóa dao mác thành ra ngọc lụa.
Bệnh hoạn là do nghiệp chướng và quỷ thần đang tác quái. Chúng ta cũng không thể dùng con mắt nhục nhãn để quan sát các hiện tượng bệnh tật một cách đơn giản như thế. Do bởi bản thân của bệnh nhân có nghiệp chướng, cho nên mới có nhiều loài quỷ quái đi theo đòi nợ và gây rắc rối cho người bệnh. Do đó, tùy theo tình hình của chứng bệnh, nếu đơn thuần chỉ trông cậy vào thuốc men để trị liệu thì chưa đủ đâu. Mà người bệnh còn phải hiểu rõ về cái nhân duyên nghiệp chướng của bản thân mình. Thêm vào những bài linh chú Phật Pháp, như vậy trị bệnh sẽ được hiệu quả hơn, cho nên “thuốc đến là bệnh trừ,” có linh nghiệm liền. Bởi vậy, thời xưa có những vị thầy thuốc được danh dự là “thần y” như Hoa Đà đời Đông Hán, Tôn Tư Mạc đời Đường. Về đức độ trị bệnh của họ thì không thể nghĩ bàn. Những vị đó đều tin Phật, chẳng qua trên y án trị liệu không có ghi chép lại mà thôi.
Có số bệnh nhân được bác sĩ trị liệu có kết quả. Song, cũng có bệnh nhân được bác sĩ chữa lành bệnh nầy rồi, nhưng bệnh khác lại phát ra. Vừa trị hết bệnh nầy thì lại xuất hiện bệnh mới khác. Có khi họ liên tiếp bị hai ba thứ bệnh như vậy, cũng bởi vì nghiệp chướng cứ mãi quấy rầy ở phía sau. Như Bác sĩ đã đánh lui được con quỷ gây bệnh, nhưng con quỷ nầy sẽ đi tìm con quỷ khác đến giúp đỡ, rồi chúng trở lại tấn công vào hang huyệt khác của người bệnh. Bọn quỷ cũng thường có hành động tập thể theo từng đoàn, từng đám với nhau.
Khi tôi vừa mới xuất gia, tôi vẫn thường hay trị bệnh cho người ta. Nhưng tôi không có viết toa thuốc cho bệnh nhân, tôi cũng không có dùng thủ thuật mổ xẻ hoặc châm cứu gì cả. Tôi chỉ dựa vào tấm lòng chân thành của tôi để niệm những bài linh chú Phật giáo mà thôi. Tâm chí chân thành đó là cứu người. Lúc bấy giờ, tôi đã không biết gì đến chuyện phải cứu quỷ, cứu ma. Trong tâm tôi chỉ có tư tưởng cứu người, vì thế tôi đã làm bọn quỷ không vui lòng. Bởi vì khi quý vị chữa bệnh cho người, bọn ma quỷ nghĩ rằng quý vị muốn chống đối chúng, thế là chúng giận lây đến người chữa trị..., dùng Thần Chú chữa bệnh rất nên cẩn thận, lượng sức mình ... (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Nguyên nhân gây bệnh: Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa. .... Quỷ thần rất cần ứng sử "kính trọng mà lánh xa" như Khổng Tử dạy, đặc biệt người tu thiền không đúng chánh pháp, rễ thành ma đạo. (Nguồn: Bệnh tật cùng nghiệp chướng - HT Tuyên Hóa)
+ Các nguyên nhân gây bệnh: Nhiều kinh điển Phật giáo khác nhau mô tả nguyên nhân của bệnh cũng tương tự như nhau. Ví dụ, Kinh Phật Chuẩn Đoán nói rằng có 10 nguyên nhân và tình trạng của bệnh tật. Những lý do này là: ... (Xem: Tổng hợp các nguyên nhân_Tooltip)
+ Người ta bị bệnh vì họ "Không thể" tu hành:
-Ổn định tâm an lạc; Kiểm soát cơn giận dữ; Giải tỏa mối hận thù; Điềm tĩnh tim sợ hãi; Xóa tan buồn lo lắng
-Chấm dứt lời tranh cãi; Ngưng đọng cuộc đấu tranh; Khiêm nhường và khoan dung; Yên lặng khi thích đáng; Quân bằng sinh lực khỏe
-Chịu đựng đời gian nan; Theo cuộc sống đơn giản; Thực hành nghi thức đúng; Dứt sợ hãi tử vong; Chỉnh ý thức sai lầm
Tất cả các loại bệnh này gây ra do tập tính quá chấp thủ của chúng ta - tới ý tưởng, niềm tin, con người, ngoại hình, sở hữu, cảm xúc, địa vị, hoặc kinh nghiệm - với bất cứ một điều gì. Cần hiểu được ý nghĩa thực sự của sự buông xả và bản chất chân thực của tánh không, và điều trị lấy tất cả các căn bệnh bằng tri thức này, lúc đó chúng ta sẽ có y dược toàn hảo và nhiệm mầu để loại bỏ bao gốc rễ của bệnh tật. Cả hai phần thân và tâm cần được chăm sóc, và y dược của Phật giáo là biện pháp khắc phục lý tưởng. Sử dụng chánh Pháp để trị lành tâm thức, và con đường tiến tới sức khỏe thực sự sẽ mở rộng ra cho bạn. (Nguồn: Phật giáo với sức khỏe - Y học)
+ Xem trang tổng hợp các nguyên nhân gây bệnh - Nguồn gốc bệnh: Xem tại đây
+ Quỷ Vô thường - Quỷ ngũ hành gây bệnh hoạn
“Quỷ vô thường” không phải chỉ vỏn vẹn có một loại, mà có ít nhất đến năm loại là: Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen (Thanh, Hoàng, Hồng, Bạch, Hắc). Căn cứ theo lý luận đông y: ngũ hành phối hợp với ngũ tạng trong thân thể con người và cũng tương ứng với ngũ sắc năm màu, ngũ quý năm mùa và ngũ phương năm hướng. Dưới đây là phần sơ lược, nếu giảng giải tỉ mỉ về lý lẽ của nó thì vô cùng vô tận.
1) - Can - mộc - đông - xuân - thanh.
2) - Tâm - hỏa - nam - hạ - xích.
3) - Phế - kim - tây - thu - bạch.
4) - Tỳ - thổ - trung - trường hạ - hoàng.
5) - Thận - thủy - bắc - đông - hắc.
Ngũ hành có cái lý lẽ là “tương sanh tương khắc.” Mà năm loại quỷ vô thường cũng dựa theo cái lý ngũ hành tương khắc, và có thể làm cho ngũ tạng của chúng ta phát sanh nhiều thứ tật bệnh liên quan với nhau.
1) - Hắc Quỷ vô thường - Ví như người có bệnh thận. Và thận thuộc thủy có sắc đen. Bởi thủy khắc hỏa cho nên nó ảnh hưởng cả tim cũng sanh bệnh.
2) - Hoàng Quỷ vô thường - Tỳ thuộc thổ, sắc vàng. Tỳ có bệnh do thổ khắc thủy, do đó nó lần lượt ảnh hưởng đến thận.
3) - Thanh Quỷ vô thường - Can (gan) thuộc mộc, sắc xanh. Gan có bệnh do mộc khắc thổ, tiếp đến là nó sẽ làm ảnh hưởng khiến cho tỳ cũng bị bệnh.
4) - Bạch Quỷ vô thường - Phế (phổi) thuộc kim, sắc trắng. Kim khắc mộc nên phổi bị bệnh, khiến ảnh hưởng đến gan cũng có bệnh.
5) - Hồng Quỷ vô thường - Tim thuộc hỏa, sắc đỏ. Tim có bệnh do hỏa khắc kim. Cho nên khi tim có bệnh, nó cũng có thể ảnh hưởng đến công năng của phổi.
Như vậy, ngũ hành tương khắc, mà các chứng bệnh của ngũ tạng cũng là tùy theo ác tánh tuần hoàn của quy luật nhất định mà sanh ra.
... Nghiên cứu về căn nguyên, tất cả các thứ bệnh tật quỷ quái, cho đến cả sanh tử cũng đều là từ “vô minh” mà ra.
Nếu phá trừ được vô minh, thời tất cả các bệnh, tất cả các quỷ vô thường cũng sẽ không còn. Vô minh chính là cội gốc của tất cả tội ác, phiền não, bệnh khổ cho đến cả sanh tử. Con người nên học cách mở mang trí huệ. Khi có trí huệ rồi, chúng ta sẽ vận chuyển được ngũ hành, đem các đạo lý “tương khắc” biến thành “tương sanh,” như có thể làm cho: kim sanh thủy, thủy sanh mộc, mộc sanh hỏa, hỏa sanh thổ, thổ sanh kim. “Tương sanh” tức là cùng giúp đỡ dẫn dắt lẫn nhau, có thể biến hóa dao mác thành ra ngọc lụa.
Bệnh hoạn là do nghiệp chướng và quỷ thần đang tác quái. Chúng ta cũng không thể dùng con mắt nhục nhãn để quan sát các hiện tượng bệnh tật một cách đơn giản như thế. Do bởi bản thân của bệnh nhân có nghiệp chướng, cho nên mới có nhiều loài quỷ quái đi theo đòi nợ và gây rắc rối cho người bệnh. Do đó, tùy theo tình hình của chứng bệnh, nếu đơn thuần chỉ trông cậy vào thuốc men để trị liệu thì chưa đủ đâu. Mà người bệnh còn phải hiểu rõ về cái nhân duyên nghiệp chướng của bản thân mình. Thêm vào những bài linh chú Phật Pháp, như vậy trị bệnh sẽ được hiệu quả hơn, cho nên “thuốc đến là bệnh trừ,” có linh nghiệm liền. Bởi vậy, thời xưa có những vị thầy thuốc được danh dự là “thần y” như Hoa Đà đời Đông Hán, Tôn Tư Mạc đời Đường. Về đức độ trị bệnh của họ thì không thể nghĩ bàn. Những vị đó đều tin Phật, chẳng qua trên y án trị liệu không có ghi chép lại mà thôi.
Có số bệnh nhân được bác sĩ trị liệu có kết quả. Song, cũng có bệnh nhân được bác sĩ chữa lành bệnh nầy rồi, nhưng bệnh khác lại phát ra. Vừa trị hết bệnh nầy thì lại xuất hiện bệnh mới khác. Có khi họ liên tiếp bị hai ba thứ bệnh như vậy, cũng bởi vì nghiệp chướng cứ mãi quấy rầy ở phía sau. Như Bác sĩ đã đánh lui được con quỷ gây bệnh, nhưng con quỷ nầy sẽ đi tìm con quỷ khác đến giúp đỡ, rồi chúng trở lại tấn công vào hang huyệt khác của người bệnh. Bọn quỷ cũng thường có hành động tập thể theo từng đoàn, từng đám với nhau.
Khi tôi vừa mới xuất gia, tôi vẫn thường hay trị bệnh cho người ta. Nhưng tôi không có viết toa thuốc cho bệnh nhân, tôi cũng không có dùng thủ thuật mổ xẻ hoặc châm cứu gì cả. Tôi chỉ dựa vào tấm lòng chân thành của tôi để niệm những bài linh chú Phật giáo mà thôi. Tâm chí chân thành đó là cứu người. Lúc bấy giờ, tôi đã không biết gì đến chuyện phải cứu quỷ, cứu ma. Trong tâm tôi chỉ có tư tưởng cứu người, vì thế tôi đã làm bọn quỷ không vui lòng. Bởi vì khi quý vị chữa bệnh cho người, bọn ma quỷ nghĩ rằng quý vị muốn chống đối chúng, thế là chúng giận lây đến người chữa trị..., dùng Thần Chú chữa bệnh rất nên cẩn thận, lượng sức mình ... (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Nguyên nhân gây bệnh: Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa. .... Quỷ thần rất cần "kính trọng mà lánh xa", đặc biệt người tu thiền không đúng chánh pháp, rễ thành ma đạo. (Nguồn: Bệnh tật cùng nghiệp chướng - HT Tuyên Hóa)
+ Các nguyên nhân gây bệnh: Nhiều kinh điển Phật giáo khác nhau mô tả nguyên nhân của bệnh cũng tương tự như nhau. Ví dụ, Kinh Phật Chuẩn Đoán nói rằng có 10 nguyên nhân và tình trạng của bệnh tật. Những lý do này là: ... (Xem: Tổng hợp các nguyên nhân_Tooltip)
+
+ Thê Tài theo Tứ trụ: Chủ về tiền tài. Nam giới còn chủ về Vợ
+ Đại chủng vị tứ giới:
Tên gọi: Địa, thủy, hỏa, phong
Năng thành trì đẳng nghiệp (Dụng),
Kiên, thấp, noãn, động tính (Thể) .
* Dịch nghĩa: Đại chủng là bốn giới: đất, nước, lửa, gió; có khả năng thành tựu các nghiệp trì, nhiếp, thục, trưởng. Tính chất của chúng là cứng, ẩm, nóng, động
Đại có ba nghĩa Thể - Tướng - Dụng:
1. Thể đại: Bốn đại này phổ biến khắp các sắc, không vật nào không do chúng tạo thành, nên thể của chúng rất bao quát.
2. Tướng đại: Đất rộng, núi cao là tướng địa đại tăng thạnh; sông ngòi, biển cả là tướng thủy đại tăng thạnh; gió to, bảo lốc là tướng phong đại tăng thạnh; lò lửa phừng phừng là tướng hỏa đại tăng thạnh. Bốn đại tăng thạnh như vậy là hành tướng của bốn đại.
3. Dụng đại: Địa đại có khả năng nâng đỡ, duy trì mọi vật; thủy đại có khả năng thấm dính, làm nổi thuyền bè; hỏa đại có khả năng nấu chín, đốt cháy cây cỏ; phong đại có khả năng tăng trưởng hoặc quật ngã cây cối. Đó là tác dụng đại.
Sở dĩ trên mà nói tướng của địa đại là vì đất tăng thạnh, tướng thủy đại vì nước tăng thạnh. Vì 4 đại đó châu biến cùng nhau, chứ nó không nằm tách riêng ra, chan hòa cùng nhau, nếu như sự cứng rắn mà nhiều hơn 3 thứ kia thì nó trở thành địa đại, cái tướng của địa đại. Nếu sự thấm ướt nó nhiều hơn gọi là thủy đại,... phong đại, .. thành hỏa đại.
* Như hư không phổ biến khắp nơi, tuy có thể là đại, nhưng không gọi là chủng.
* Giới: Trì giữ. Bốn đại chủng có khả năng giữ gìn tự thể và các sở tạo sắc của chúng, gọi là bốn giới
Chẳng hạn như nhà triết học Anaximander - Sinh khí nó nuôi dưỡng con người, nuôi dưỡng nhân loại, nuôi dưỡng vũ trụ. Nếu không có sinh khí thì vũ trụ không thành, và con người không thành, cho nên lấy khí làm căn nguyên của vũ trụ, làm bản chất nguyên sơ của vũ trụ. [Kinh Thập Nhất Thiết Xứ dạy: ... dạy cho họ biết xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại. Lục đại đó nó biến thành lý thuyết chủ yếu của Mật tông; Sáu Đại - Chỉ có 4 đại lay động: Nếu như các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tính viên mãn cùng khắp, vốn không lay động; thì nên biết kiến đại cùng với hư không vô biên chẳng dao động và 4 thứ vốn lay động là địa, thủy, hỏa, phong, gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng, vốn không sinh không diệt. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q. 2; 3- HT Tuyên Hóa)]
..... Tính chất của cực vi thế nào?
Mỗi cực vi đều có đủ bốn tính chất là cứng, ướt, nóng, động (cố thể, dịch thể, nhiệt lực, động lực hay khí thể).
- Tính cứng rắn có tác dụng bảo trì mọi vật. [Địa đại/ Kim luân: Cố thể/ Cố kết thể]
- Tính thấp ướt có tác dụng gom dính mọi vật. [Thủy đại: Dịch thể / Thể lỏng]
- Tính ấm nóng có tác dụng thành thục mọi vật. [Hỏa đại: Nhiệt lực / Từ lực/ Lực từ]
- Tính chuyển động có tác dụng làm tăng trưởng mọi vật. [Phong đại: Động lực/ Khí thể/ Thể Khí]
Hình thức biểu hiện của bốn tính ấy gọi là bốn đại: đất, nước, lửa, gió. Cực vi có sẵn bốn tính chất và bốn tác dụng như thế nên có thể cấu thành vũ trụ vạn hữu, tùy theo sự phối hợp không đồng đều về phần lượng giữa bốn tính chất cực vi mà cấu thành mọi vật sai khác.
Nếu tính cứng nhiều hơn ba tính kia thì sẽ thành những vật cứng rắn như vàng, đá… Như vậy, vũ trụ vạn vật, núi sông thế giới đều do cực vi tạo thành.......
..... Như vậy, từ giữa trống không, do nghiệp lực của chúng sinh làm duyên tăng thượng nổi lên phong luân, rồi thủy luân, rồi kim [Địa] luân. Đó là sự cấu thành tuần tự của địa cầu này vậy. ....
Thời định - Báo định. VD: Cuối năm này thi mãn khóa phải không? Vậy thời có định không? Định rõ ràng. Vậy thi mãn khoá ai sẽ đậu? Có người đậu chắc chắn. Vậy là báo định thời định. Nếu như cuối năm này thi chắc chắn ra trường nhưng có anh chưa biết có đậu hay không đậu. Vậy là thời định nhưng báo bất định. Rõ ràng như vậy đó....
Thời định - Báo bất định. Tuy đã tạo nghiệp, thời gian trả nghiệp đã đến nhưng Quả báo chưa biết kết quả ra sao => Báo bất định... (Nguồn: Câu xá luận - Ngài Thế Thân)
+ Hỏa đại:
Dương Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ Hỏa: Tự tập trung và phi cá nhân; Thiếu kiên nhẫn, khuynh hướng lao vội vã vào mọi thứ; Bướng bỉnh, không nhạy cảm với người khác; Khởi xướng, bắt đầu mọi thứ; Kích động, nhiệt tình, có thể là thiếu tự chủ. - Dấu hiệu hành hỏa: Bạch Dương, Sư Tử, và Nhân Mã ; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Năng lượng. Tích cực. Nhiệt huyết. Đam mê. Cần phải thể hiện bản thân. Bốc đồng. Chủ động. Thoải mái Có khuynh hướng hướng ngoại. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não (LVHLT, 251)
+ Hành Hỏa thuần túy (nguyên khí dương chủ động) được xem như là ánh sáng và nhiệt, cùng với Thổ và Thủy, tức Vật Chất (yếu tố âm hay thụ động của sự sinh hóa vũ trụ). (1) Tất cả những điều này đều là tài liệu bàn về Đấng Lưỡng Tính thiêng liêng bản sơ. (GLBN, Từ tr 66 - 250)
+ Cần nhớ: Không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, Lửa quyết định sự tồn tại của mọi sự sống,.... sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Chân Sư DK luận về Hỏa Thủy: Trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu - thì các Hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y.
Đùa với Lửa: Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.”. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả - Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [trang 103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã.........
Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ/ Con người.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người.........
Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền ...... Như vậy, các bạn thấy rằng trong các hệ thống lớn, nhỏ đều có lửa.
Ở đây, tôi chỉ tóm tắt cho các bạn về mục đích của lửa trong tiểu vũ trụ và những gì phải nhắm đến. Chúng ta có ba loại lửa:
1. Tia lửa thiêng sinh động.
2. Tia lửa trí tuệ.
3. Luồng hỏa hậu (kundalini), sự hòa lẫn nhị nguyên của sức nóng nội tại và dòng sinh lực prana. Nơi ẩn trú [186] của mãnh lực này là luân xa chót xương sống, và luân xa lá lách hằng bồi dưỡng sức nóng đó.
Khi cả ba loại lửa này – một của tứ hạ thể, một của tam nguyên và một của nguyên khí thứ năm – gặp nhau và hòa lẫn với nhau một cách thích hợp về mặt hình học, thì mỗi luân xa sẽ được sinh động đúng mức, mọi quyền năng sẽ tự biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết và cặn bã sẽ bị đốt sạch, và hành giả đạt đến mục tiêu. Tia lửa đã trở thành ngọn lửa, và ngọn lửa là thành phần của khối lửa Đại ngã đang làm sống động trọn cả vũ trụ khách quan.mời xem chi tiết. (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
+ Hỏa thần - Thần lửa: Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu .... Giảng giải : Ta Hê Dạ Gia là "Thần lửa". Thứ thần lửa này rất nóng vô cùng. Vì nóng quá cho nên nói : ‘’Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu.’’ Rất lợi hại, nóng khiến người không chịu nổi. Nóng quá sẽ khiến người chết. Nạn lửa xuất hiện thì trên không trung có bảy mặt trời đồng thời cũng xuất hiện, thiêu hủy hết thảy sơn hà đại địa, biển cả cũng khô cạn, chẳng có vật gì còn sống sót lại. Lửa có thể thiêu đến cõi trời Sơ Thiền. Nhị Thiền và Tam Thiền cũng có tai nạn.(Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Hỏa Đại - Tánh của Lửa: Trích đoạn Phật dậy đoạn về Tứ Đại trong Như Lai Tạng/ Chân Tâm: ... A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh. Ông hãy xem các nhà trong thành khi chưa đến bữa ăn, muốn nhóm bếp thì tay cầm tấm kính đưa trước ánh sáng mặt trời để lấy lửa.
- Giảng: "A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh." Lửa tự nó vốn không có tánh chất riêng biệt. Phải có các yếu tố nhân duyên nó mới phát sinh được. 'Tự thể' ở đây không đề cập đến người mà chỉ cho thể tánh của lửa. Đoạn kinh nầy không nên hiểu rằng: 'Tôi không có lửa.' Có nghĩa là 'Tôi không có tánh nóng giận.' Nếu tự tánh quý vị không có chút lửa nào cả, thì quý vị sẽ là một vị Bồ-tát rất ngoan.
Thể tánh của lửa ở đâu? Tánh lửa ở khắp mọi nơi. Dù nó không có tự thể riêng, nhưng chẳng có nơi nào mà không có lửa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
Tổng hợp kiến thức tương ứng với Phương nam - Mùa Hạ - Bính Đinh - Hành Hỏa
+ Tôn Giả Xá Lợi Phất nói về đức hạnh của Tứ đại: ... "Bạch Thế Tôn, giống như những người vất lên mặt đất những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, mặt đất đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; quả tim con: Giống như ngọn lửa đốt sạch những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, những thứ mà bị dính bởi phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, ngọn lửa đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ... (Nguồn: Đức hạnh ngài Xá Lợi Phất)
Tổng hợp kiến thức tương ứng với Phương Tây - Mùa Thu - Canh tân - Hành Kim
+ Tôn Giả Xá Lợi Phất nói về đức hạnh của Tứ đại: ... "Bạch Thế Tôn, giống như những người vất lên mặt đất những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, mặt đất đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; quả tim con: Giống như đất, rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ... Người có chánh niệm không nói xấu người khác sau lưng. .... (Nguồn: Đức hạnh ngài Xá Lợi Phất)
+ Kinh Tiếng Gầm Sư Tử Của Tôn Giả Xá Lợi Phất: Nói về đức hạnh của Tứ đại
Ngay khi Tôn Giả Xá Lợi Phất vừa đi khỏi, một tăng sĩ nói với Đức Thế Tôn: "Ông Xá Lợi Phất đã đánh con, rồi ông ra đi mà không có một lời xin lỗi."
... Đức Thế Tôn nói: "Một trong những tăng sĩ ở đây đã phàn nàn rằng Tôn Giả đã đánh ông ta và khi Tôn Giả ra đi, đã không để lại một lời xin lỗi."... "Bạch Thế Tôn, giống như những người vất lên mặt đất những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, mặt đất đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; quả tim con:
Giống như đất, rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ... Người có chánh niệm không nói xấu người khác sau lưng.
Giống như nước giặt những thứ mà bị dính bởi phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, nước đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ....
Giống như ngọn lửa đốt sạch những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, những thứ mà bị dính bởi phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, ngọn lửa đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ...
Giống như ngọn gió thổi sạch những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, ngọn gió đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ....
Giống như tấm giẻ lau những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, những thứ mà bị dính bởi phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, tấm giẻ đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ..., quả tim con giống như tấm giẻ lau, rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ....
Giống như một cậu bé hoặc một cô bé bị ruồng bỏ, không có gia đình, cầm hộp đi ăn xin, quần áo mặc như giẻ rách đi vào làng, ra phố chợ với một quả tim khiêm tốn; ... giống như quả tim của đứa bé không có gia đình kia, quả tim mà rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ...
Giống như một con bò đực có hai sừng bị cắt, hiền lành, thuần hóa, dễ huấn luyện, đi lang thang hết đường nầy đến đường kia, hết khu nầy đến khu kia, và không làm tổn thương bất cứ ai; ... con như con bò đực có hai sừng bị cắt, có quả tim rộng lớn, cao quý, không thể đo lường, không có kẻ thù, và không có ý xấu xa. ....
[Tăng sỹ] - Giống như một người phụ nữ hoặc một người đàn ông, còn trẻ, khỏe mạnh, ưa thích đồ trang sức hoặc đồ trang trí, người nầy vừa gội đầu xong, nhưng rồi tâm trí họ bị phủ đầy với sự chán ghét, nôn mửa, hay thù hận, như thể họ bị xác chết của một con rắn, hoặc xác chết của một con chó hoặc xác chết của một con người quấn vòng quanh cổ; .... tâm trí con bị phủ đầy với sự chán ghét, nôn mửa, hay thù hận vì chính tấm thân hôi thối của con. ....
Giống như người bưng theo một bát mỡ, lỏng như nước có đầy lỗ và các kẽ hở, rỉ ra ngoài, rồi chảy nhỏ giọt; .... thân thể con có đầy lỗ và các kẽ hở, rỉ ra ngoài, rồi chảy nhỏ giọt. ....
... "Bạch Thế Tôn, con đã phạm tội vì con quá dại dột, ngu ngốc và không khéo léo, vì con đã buộc tội Tôn Giả Xá Lợi Phất, vì con đã nói sai, nói không đúng và nói không thật. Xin Đức Thế Tôn ưng thuận sự nhận tội của con, xin tha thứ cho con, ....
Đức Thế Tôn ... "Nầy, Xá Lợi Phất, hãy tha thứ cho người đàn ông ngu ngốc nầy,... (Nguồn: Đức hạnh ngài Xá Lợi Phất)
+ Xem thêm: Giảng về hạnh của Đất - Thích Chân Quang)
Tổng hợp kiến thức tương ứng với Phương đông - Mùa Xuân - Giáp ất - Hành Mộc
+ Tôn Giả Xá Lợi Phất nói về đức hạnh của Tứ đại: ... "Bạch Thế Tôn, giống như những người vất lên mặt đất những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, mặt đất đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; quả tim con: Giống như ngọn gió thổi sạch những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, ngọn gió đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; ...... (Nguồn: Đức hạnh ngài Xá Lợi Phất)
+ Tổng hợp kiến thức tương ứng với Phương bắc - Mùa Đông - Nhâm Quý - Hành Thủy - Thủy ngũ hành/ Nước
+ Thủy - Nước: Phù hợp với các sắc thái và tinh tế; Liên lạc với cảm xúc, nhạy cảm; Trực quan, đáp ứng cảm thông với người khác hoặc chiều sâu của cuộc sống; Dễ bị tổn thương, có thể phản ứng, sợ hãi, thương thân trách phận; Tìm kiếm sự gần gũi và sáp nhập - Đa cảm. Trực quan. Nhạy cảm với môi trường xung quanh và với người khác. Sáng tạo. Trí tưởng tượng mạnh. Đồng cảm (Chiêm THNM 4)
+ Nước: Vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực mềm, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. Đạo cũng ví như nước vậy. (Theo Đạo Đức Kinh của Mạnh Tử)
+ Hành Thủy - Nước trong thể Cảm Xúc được mô tả về tính chất (LVHLT, 160):
- Thật thú vị khi nhớ điều này: Nếu một hình-tư-tưởng được đưa vào thế giới cảm xúc để thu thập cho nó một thể của ham muốn (lực thôi thúc vốn tạo ra mọi biểu lộ ngoại tại – objectivity) và được nhấn chìm vào một “tình trạng của nước”, vốn có thể được mô tả tốt nhất như là hoàn toàn ích kỷ, thì tất cả những gì xảy ra là như sau: Nó bị mất, do bị hút vào thể cảm dục của vị đệ tử, vốn là điểm tập trung cho mọi năng lượng cảm dục mà người đệ tử sử dụng. Nó bị cuốn vào một lốc xoáy, mà thể cảm dục cá nhân là trung tâm của lốc xoáy đó, và đánh mất sự sống riêng biệt của nó. Sự so sánh về xoáy nước có giá trị ở đây........ (LVHLT, 162)
+ Tôn Giả Xá Lợi Phất nói về đức hạnh của Tứ đại: ... "Bạch Thế Tôn, giống như những người vất lên mặt đất những thứ trong sạch và những thứ không trong sạch, như phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, mặt đất đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; quả tim con: Giống như nước giặt những thứ mà bị dính bởi phân, nước tiểu, nước bọt, mủ và máu, tuy nhiên, nước đón nhận mọi thứ mà không chán ghét, nôn mửa, hay thù hận; .... (Nguồn: Đức hạnh ngài Xá Lợi Phất)
+ Cung Hoàng Đạo Hành Thủy (Âm): Góc hợp cứng vuông góc và đối nghịch (Kỳ công 4-8-12)
Dương ...... Âm
Hỏa và Khí ...... Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ ..... Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện ..... Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương ..... Năng lượng âm
+ Hành thủy Cung Hoàng đạo: Cự Giải, Hổ Cáp và Song Ngư; (Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo - Hành - Tứ Đại)
+ 3 Cung Hành Thủy với 3 biểu tượng: Con Cua (Bắc Giải) - Hổ Cáp (Bọ Cạp) - Con Cá (Song Ngư). 3 Cung (Nước) đúc kết về sự phát triển của con người - Phàm ngã, minh họa về Luật Nhân Quả (CTHNM, 359)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó (Không khí) là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
+ Hành Thủy - Nguyên tố thủy: Để giúp ích những người chưa quen với các thuật ngữ khoa Chiêm tinh, ở đây tôi xin nói rõ nguyên tố Thủy chế ngự cõi tình cảm hay cảm dục, mà huyền thuật nghi lễ có liên quan mật thiết. Từ đó, Hội Theosophia, hầu như vô tình đã đi vào một chu kỳ ngắn cần cách hoạt động kết hợp với nguyên tố Thủy hay yếu tố tình cảm này, mà cũng lạ là nó đã chế ngự tất cả các nguyên tố khác trong lá số tử vi thành lập hội vào tháng 11/1875. (Nguồn: Ngũ hành - Các vị Thánh sư - Tr5)
+ Thủy đại - Thần thủy: Giảng giải: ‘’Cai quản thủy tộc ở cung rồng.’’ Thủy thần thì cai quản chúng sinh trong biển, cho nên nói ‘’Ðại dương biển lớn nổi ba đào.’’ Ở trong nước thường đi du ngoạn trong nước, xem cá bơi đi bơi lại, có ăn, không có ăn, đều rất sung sướng.
‘’Tưới khắp thấm nhuần dưỡng vạn vật.’’ Hoa cỏ, thảo mộc, cây cối ngũ cốc đều cần nước, đều nương nước mà sống.
‘’Mênh mông ràn rụa diễn hồng mông.’’ Nếu nước lớn thì âm thanh lớn. Gia Tô giáo nói hồng thủy làm chết người thế gian, đều vì tin thần giả, không tin thần thiệt, cho nên dùng nước làm chết bạn, nếu thật là như thế, thì tin thần giả tức là phạm tội, vậy kẻ giết người, phóng lửa sao không làm chết họ đi, tin thần ngược lại có tội, nói thẳng thật là vô lý. ...
131. Nan giá na xá ni.
Tên của Thủy Thần diệu vô cùng
Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công
Hay trừ nạn sinh già bệnh chết
Tất cả tai ương hóa thành bụi.
Giảng giải: Câu Chú trên đây là tên của Thủy Thần. ‘’Danh tự Thủy Thần diệu vô cùng.’’ Bạn niệm tên của Thủy Thần thì sự việc rất áo diệu sẽ hiện ra. Việc gì?
‘’Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công’’. Nước độc, bệnh về nước đều được giải trừ. ‘’Hay trừ nạn sinh già bệnh chết.’’ Nạn sinh già bệnh chết đều có thể giải trừ.
‘’Tất cả tai ương hóa thành bụi.’’ Bất cứ tai nạn gì, cũng đều hóa giải được, giống như tán thành bụi. (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm-Tr301-Google - Drive)
+ Thủy đại thắng diệu nhất: .... Lại giải thoát gọi là thủy-đại. Ví như thủy-đại thắng hơn các đại khác, hay nhuận hột giống của tất cả cỏ cây. Cũng vậy, giải thoát hay nhuận tất cả loài có sự sanh sống. Giải thoát như vậy tức là Như-Lai. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết Bàn - Chương 7)
+ Dĩ thái - Tứ đại: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là phong, hỏa, thủy, địa. (LVLCK, 43)
Dương ..... Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ Biểu tượng huyền bí các đại ứng Luân xa:
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
* Tập trung năng lượng vào các ý tưởng chưa được thực hiện; Có thể là người mơ mộng không thực tế; Khả năng buông xả; Thân thiện nhất trong tất cả các yếu tố; Có thể đánh giá quá cao các khả năng trí tuệ; Cần phải có khoảng cách và tính khách quan để khám phá chính mình.
+ Không khí (Air): Không khí chỉ là chất dĩ thái phức tạp và đã biến phân. (GLBN II, 258)
+ Không đại - Không khí: ... dạy cho họ biết xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại....(Nguồn: Kinh Thập Nhất Thiết Xứ dạy)
+ Phong (Air; Không khí): Là biến phân (differentiation) của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi trực giác, cõi Bồ Đề. (LVLCK, 43)
+ Các Dấu hiệu Không khí: Song Tử, Thiên Bình, và Bảo Bình; (Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Giao tiếp. Thông minh. Thích làm việc về mặt tinh thần. Nắm bắt ý tưởng nhanh chóng. Có thể nói hoặc viết hiệu quả. Có quan điểm hợp lý. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ Không Khí hay Không Gian: Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Phật dậy về các Đại và Tứ Đại tương tác)
+ 522. PHONG GIỚI - Thế nào là phong giới? nội phong giới và ngoại phong giới - Đức Phật dậy
Nội phong giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Đó là gió đi lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang, gió co thắt lại, gió như dao cắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, được chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội phong giới.
Ngoại phong giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Nguồn: mục 522- (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ Phong thần - Thần gió: Tối thắng dũng mãnh đại phong thần - Nhà xập cây ngã rất kinh người ... Sân hận chiêu cảm tự trầm luân.
Giảng giải: Tối Thắng là tên của vị phong thần (thần gió). Vị thần này khí lực rất lớn, thường thường muốn tranh thắng, rất mãnh liệt, làm việc rất nhanh. Gió có nhiều loại như gió mát, gió ấm, gió này chẳng hại người, lúc thái bình thịnh thế, khi thì mưa, khi thì gió, thời tiết khí hậu điều hòa.
... Chủ thần gió, có thế lực rất lớn, ra oai rất là lợi hại, nhà cửa phòng ốc đều thổi ngã xập, cây cối trốc gốc, khí lực rất mãnh liệt, cho nên nói : ‘’Tối thắng dũng mãnh đại phong thần.’’ Ai có nóng giận tức là thần gió này trợ giúp. Cho nên nói: ‘’Nhà xập cây ngã rất kinh người.’’
‘’Tam Thiền đều sợ tai nạn này.’’ Lửa thiêu đốt đến cõi trời Sơ Thiền, Nước tràn ngập đến cõi trời Nhị Thiền, Gió thổi tan cõi trời Tam Thiền.
... Nạn gió này làm thế nào mà chiêu lại? ‘’Sân hận cảm chiêu tự trầm luân.’’ Vì làm người thì sự nóng giận quá lớn, tuy nhiên tu phước được sinh về cõi trời, nhưng phải thọ thứ quả báo nạn gió này. Gốc sân hận mà không đoạn trừ thì kết quả phải thọ quả báo nạn gió đó. (Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Phân biệt Phong đại [Gió] với Phong luân - Thành lập khí thế gian nơi Địa cầu:
Phong luân ở dưới cùng,
Bề trên là thủy luân.
Phần nước ở dưới sâu tám ức,
Phần còn lại ngưng kết thành vàng
Thủy luân và kim luân [ Có đường kính mười hai ức - Ba ngàn bốn trăm năm mươi; Chu vi gấp ba lần.]
Giảng: Phong luân - Thể của nó thuộc chất rắn. Giả sử như có một đại Nặc-kiện-na (mahānagna) dùng kim cương ném vào nó thì kim cương sẽ bị vỡ tan mà phong luân vẫn không tổn hoại gì. Vàng, bạc, các chất báu và đất được cấu tạo như vậy đã kết tụ lại nhờ các thứ gió do nghiệp lực tạo ra; và chúng đã tạo thành núi cũng như các đại châu. (Nguồn: Câu Xá luận - BT Thế Thân)
+ Lực (Force, mãnh lực): Lực chẳng qua chỉ là vật chất ở một trong các trạng thái cao nhất của nó. (Thư của Chân Sư, 321)
+ Lực: Là tên gọi để chỉ tất cả các năng lượng mà – sau khi được vận dụng và tập trung đúng – được phóng ra bởi cá nhân hay nhóm theo bất cứ hướng nào và với nhiều động cơ có thể có được, một số thuộc loại tốt lành và một số có tính chất ích kỷ. (GDTKNM, 143)
+ Phân thân: Mọi vi tử đều chịu sự biến phân không ngừng [SD–I, 167]
+ Biến dịch vũ trụ theo Luật tương ứng hay tương đồng: .... Chẳng hạn, một sự kiện xét theo lập trường của nhân loại ( từ “sự kiện” được dùng theo nghĩa khoa học, tức là điều đã được chứng minh, không còn gì nghi ngờ thắc mắc) thì có thể không phải là một sự kiện, theo lập trường của một vị Chân sư. Đối với Ngài, nó có thể chỉ là một phần của một sự kiện lớn hơn, chỉ là một bộ phận của cái toàn thể. Vì tầm nhìn của Ngài thấu đến bề đo thứ tư và thứ năm, nên nhận thức của Ngài về giá trị của thời gian trong vĩnh cửu phải đúng đắn hơn chúng ta. Ngài thấy các sự vật từ trên xuống dưới, và ở cương vị của một người thấy thời gian không có thực.
Một nguyên lý biến dịch chưa thể giải thích được vẫn tồn tại trong Trí tuệ của Đức Thượng Đế của thái dương hệ của chúng ta, và chi phối mọi hành động của Ngài. Chúng ta chỉ thấy các hình thể mãi mãi thay đổi, và thoáng thấy sự sống thường hằng tiến hoá bên trong các hình thể đó, nhưng vẫn chưa tìm ra manh mối của cái nguyên lý tác động xuyên qua chiếc kính vạn hoa luôn luôn biến chuyển gồm các thái dương hệ, các cung, các huyền giai, hành tinh, cảnh giới, hệ thống, các vòng tiến hoá, các giống dân chính, và các giống dân phụ. Tất cả đều đan vào nhau, liên kết nhau, xuyên thấu lẫn nhau, khiến chúng ta hoàn toàn sững sờ trước mô hình kỳ diệu của chúng bày ra trước mắt. ... Chúng ta không biết cách nào mà một có thể trở thành ba, ba trở thành bảy, và cứ thế mà tiếp diễn đến mức biến phân vô tận. Với tầm mắt của nhân loại thì sự đan kết cấu thành thái dương hệ thật phức tạp không thể tưởng, mà chìa khoá thì dường như chưa thể tìm thấy trong thời gian tới. ....
Chúng ta phải chấp nhận sự kiện rằng việc nghiên cứu luật tương ứng hay tương đồng là phương cách duy nhất để có thể tìm ra manh mối bí nhiệm của các cung, các hệ thống và các huyền giai. Đó là sợi chỉ duy nhất có thể giúp chúng ta tìm đường qua [7] mê lộ, là tia sáng duy nhất chiếu xuyên qua sự tối tăm của bức màn vô minh bao phủ chúng ta. H. P. Blavatsky đã nói như thế trong “Giáo Lý Bí Nhiệm,” nhưng cho đến nay, các môn sinh vẫn chưa cố gắng bao nhiêu để ích dụng được manh mối đó. Khi nghiên cứu Luật này, chúng ta cần nên nhớ rằng sự tương ứng vốn ở trong nền tảng, chứ không ở sự thể hiện của các chi tiết bề ngoài như chúng ta tưởng mình thấy được theo quan điểm hiện nay. Một lẽ là yếu tố thời gian làm chúng ta lạc hướng; chúng ta sai lầm khi cố ấn định rõ những thời khoảng hoặc giới hạn; trong cuộc tiến hoá, tất cả đều tiến triển thông qua sự hoà hợp, với một diễn trình luôn luôn chồng chéo và pha trộn lẫn nhau. Người môn sinh bình thường chỉ có thể nhận ra các điểm tương đồng cơ bản và những điều tổng quát mà thôi. Ngay khi y toan giản lược các điều đó thành những sơ đồ và bảng biểu chi tiết, là y bước vào các lãnh vực dễ bị sai lầm, đi quanh co qua đám sương mù mà cuối cùng sẽ lạc lối trong đó.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu luật tương đồng một cách khoa học, kiến thức của chúng ta sẽ tăng dần, và khi từ từ được tích lũy, các sự kiện sẽ dần dà hợp thành một hình thể ngày càng rộng lớn, chứa đựng nhiều chân lý. Bấy giờ, người môn sinh sẽ nhận biết rằng sau tất cả các cố gắng nghiên cứu, ít ra y cũng có được một ý niệm tổng quát về hình tư tưởng của Thượng Đế để có thể gắn vào đó các chi tiết y hoạch đắc qua nhiều kiếp luân hồi. Điều này đưa chúng ta đến điểm chót cần được xem xét, trước khi đi vào chính chủ đề, đó là:
Sự phát triển của con người chỉ là chuyển từ một trạng thái tâm thức này sang một trạng thái khác. Đó là một loạt những sự mở mang, phát triển khả năng ý thức vốn là đặc tính quan trọng nhất của Chủ thể Tư tưởng ở nội tâm. Đó là sự tiến triển từ mức tâm thức phân cực trong phàm nhân, phàm ngã hay hình thể, đến mức tâm thức phân cực trong Chân ngã, Chân nhân, hay linh hồn, rồi đến mức phân cực trong Chân thần, hay Tinh thần, mãi [8] cho đến mức rốt ráo là tâm thức Thiêng liêng. Trong quá trình phát triển của con người, trước hết, năng lực ý thức vượt qua những giới hạn giữ nó lại trong các giới hạ đẳng của thiên nhiên (khoáng vật, thực vật và động vật), đến ba cõi giới tiến hoá của phàm nhân, đến hành tinh mà y có vai trò trong đó, rồi đến thái dương hệ mà hành tinh này vận chuyển bên trong, cho đến cuối cùng nó vượt khỏi chính thái dương hệ và trở nên tâm thức đại đồng.... (Nguồn: Sách Điểm Đạo Trong Nhân Loại và Thái Dương Hệ)
+ Trung đạo - Điểm quân bình với Libra trong Chiêm tinh học Nội môn:
Như bạn biết, Libra chi phối đức tin hợp pháp và nắm giữ các cán cân giữa cái gọi là phải và trái, giữa âm và dương, cũng như giữa Đông và Tây. Điểm điều chỉnh sau cùng này có thể dường như đối với bạn là một câu vô nghĩa, nhưng khi mối liên hệ đúng và thực được thiết lập giữa Đông với Tây (vốn chưa xảy ra trường hợp này) nó sẽ đến qua hoạt động của Libra và công việc của đức tin hợp pháp (legal profession). “Libra là tác nhân bảo trợ của luật pháp”. Việc soạn thảo luật pháp từ trước đến giờ đã bị chiếm hết thời gian, với việc buộc phải tuân theo các phủ nhận và các thái độ sợ sệt vốn được duy trì đối với chúng ta trong bộ luật của Mose (luật Do Thái cổ), và được áp đặt qua phương tiện/ cách (medium) trừng phạt do vi phạm. Điều này hẳn là giai đoạn cần thiết cho các giống dân ấu trĩ (child races) và việc cho bảo tồn một “chế độ nhà trẻ” (“nursery regime”) đối với con người. Nhưng nhân loại đang đạt tới trưởng thành nên một cách diễn giải khác về các mục tiêu và các chủ đích (intents) của Libra qua trung gian của luật pháp bây giờ là cần thiết. Luật pháp phải trở thành kẻ bảo quản công lý tích cực chứ không chỉ là khí cụ của sự cưỡng chế (enforcement). Giống như chúng ta đang cố gắng gạt bỏ bạo lực (force) ra khỏi các mối liên hệ quốc gia của chúng ta, và giống như điều hiển nhiên hiện nay là tiến trình của các hình phạt mạnh mẽ đã không thành công trong việc ngăn chặn tội ác, hoặc trong việc ngăn chặn con người khỏi sự ích kỷ cực độ (vì đó là những gì mà mọi tội ác đang có), và giống như cách hành xử xã hội (khác với lập trường chống xã hội của tất cả những kẻ phạm luật), đang được xem như đáng ao ước và được giảng dạy trong các trường học của chúng ta, cũng thế, nó đang bắt đầu hiện ra trong ý thức quần chúng mà việc in sâu các liên hệ đúng và việc lan rộng khả năng tự chủ, và việc phát triển lòng vị tha (và các điều này chắc chắn là mục tiêu, thuộc về bên trong và thường không được hiểu rõ, về mọi phương thức hợp pháp) là sự tiếp cận cần thiết đối với thanh niên. Ảnh hưởng của cung Thiên Xứng (Libra) sẽ được đặt vào giới trẻ theo các đường lối tinh thần. Tội ác sẽ bị dập tắt/ loại trừ khi các tình trạng chung quanh nơi trẻ con sinh sống trở nên được cải thiện, khi sự chăm sóc vật chất được đưa ra trong các năm tạo hình đầu tiên đối với sự thăng bằng của các tuyến (glandular balance) cũng như đối với răng, mắt và tai, đối với tư thế đúng và việc nuôi nấng chính xác, và khi cũng có việc phân chia thời gian thích hợp hơn; khi tâm lý học nội môn và chiêm tinh học nội môn đưa ra sự đóng góp kiến thức của chúng vào việc nuôi dạy người trẻ tuổi. Các phương pháp cổ xưa phải nhường chỗ cho các phương pháp mới, và thái độ bảo thủ phải bị loại bỏ có lợi cho việc huấn luyện và thực nghiệm về tôn giáo, tâm lý và thể chất, được áp dụng một cách khoa học và được cổ vũ về mặt thần bí. Khi Tôi nói về tôn giáo, Tôi không đề cập tới sự giảng dạy có tính giáo điều hoặc có tính thần học. Tôi ám chỉ sự vun trồng các cách hành xử và các tình trạng vốn sẽ khơi hoạt tính thực tế trong con người, đưa chân nhân bên trong đến vị trí tối quan trọng (foreground) của tâm thức và nhờ thế tạo ra sự nhận thức về Thượng Đế Nội Tại.(Chiêm tinh học nội môn)
+ Trung đạo: Nói Trung đạo luận theo sắc tướng bao gồm sáu cõi chúng sinh (Dịch học gọi là Hậu thiên) thì là số 1. Theo Vô sắc tướng (Dịch học gọi là Tiên thiên) thì là số 0. Chư Phật, Bồ tát, La hán đều sinh ra từ Trung đạo. Trung đạo là Mẹ sinh ra hình tướng. Trung đạo ứng số 0 là Tánh không - Diệu Giác (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Danh xưng ứng Tứ đại: Chúng ta nên nhớ rằng các Devas Lords (Các Thần: Agni/ Thần Lửa - Varuna/ Thần Nước - Kshiti/ Thần Đất) trong giáo lý công truyền tượng trưng cho trạng thái vật chất của thể đặc của Thượng Đế, trong khi trạng thái lực khi tuôn chảy qua thể dĩ thái của Thượng Đế được xem xét dưới các tên khác nhau, đó là Shiva, Surya, Brahma. Tuy nhiên, 2 trạng thái chỉ là một:
- Thần lửa - Agni: Tức Hỏa Thần Quân (Thần Chủ Quản về Lửa) trong kinh Veda, Vị Thần cổ nhất và được tôn kính nhất trong số các thần ở Ấn Độ. Ngài là 3 phương diện của Lửa, do đó là toàn bộ của biểu lộ. Ngài cũng được xem như Thần Chủ Quản của Cõi trí (cõi thứ 5), biểu tượng của Ngài là Lửa.
- Thần Nước - Varuna: Vị thần của Nước, theo ý nghĩa nước của không gian hay là nước của vật chất. Ngài cũng được xem là Thần Cai Quản cõi cảm dục (cõi thứ 6) biểu tượng của Ngài là nước.
- Thần Đất - Kshiti: Vị Thần của Đất theo ý nghĩa chất đặc và không phải là một thể của Hành tinh; Ngài là Thần của cõi trần, cõi thứ 7; (Mục Các Thần theo công truyền - LVLCK, 766)
+ Biểu tượng các Đại với Luân xa: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
+ Danh xưng ứng Tứ đại biểu lộ Thần - Lực: Chúng ta nên nhớ rằng các Devas Lords (Các Thần: Agni/ Thần Lửa - Varuna/ Thần Nước - Kshiti/ Thần Đất) trong giáo lý công truyền tượng trưng cho trạng thái vật chất của thể đặc của Thượng Đế, trong khi trạng thái lực khi tuôn chảy qua thể dĩ thái của Thượng Đế được xem xét dưới các tên khác nhau, đó là Shiva, Surya, Brahma. Tuy nhiên, 2 trạng thái chỉ là một:
- Thần lửa - Agni: Tức Hỏa Thần Quân (Thần Chủ Quản về Lửa) trong kinh Veda, Vị Thần cổ nhất và được tôn kính nhất trong số các thần ở Ấn Độ. Ngài là 3 phương diện của Lửa, do đó là toàn bộ của biểu lộ. Ngài cũng được xem như Thần Chủ Quản của Cõi trí (cõi thứ 5), biểu tượng của Ngài là Lửa.
- Thần Nước - Varuna: Vị thần của Nước, theo ý nghĩa nước của không gian hay là nước của vật chất. Ngài cũng được xem là Thần Cai Quản cõi cảm dục (cõi thứ 6) biểu tượng của Ngài là nước.
- Thần Đất - Kshiti: Vị Thần của Đất theo ý nghĩa chất đặc và không phải là một thể của Hành tinh; Ngài là Thần của cõi trần, cõi thứ 7; (Mục Các Thần theo công truyền - LVLCK, 766)
+ Các Đại biểu lộ ra Mầu Sắc:
- Màu sắc chỉ là phương tiện biểu lộ ra bên ngoài để nhờ đó mà mãnh lực bên trong tự truyền chuyển (TVTTHL, 211)
- Nên nhớ, màu sắc chính là cách nhận thức về mức rung động mà mắt người tiếp nhận được, là người đang sử dụng thể xác của căn chủng thứ 5, trong cuộc tuần hoàn thứ 4 trên dãy hành tinh thứ 4. (TVTTHL, 222–223)
- Màu sắc là các biểu hiện (expressions) của thần lực (force) hay tính chất (quality). Màu sắc che giấu hay bao phủ các tính chất trừu tượng của Thượng Đế, các tính chất này được phản chiếu trong tiểu thiên địa ở ba cõi thấp như là các đức tính hay khả năng. (TVTTHL, 228)
- Màu sắc chỉ là hình hài bị một loại mãnh lực nào đó khoác lấy (assumed), khi mãnh lực đó tác động ở một tiêu chuẩn (measure) nhất định và khi sự tác động và sự chuyển dịch của nó bị cản trở hay được thông suốt bởi vật chất mà qua đó nó tác động. (TVTTHL, 232)
- Màu sắc là hiện tướng (form) và sức mạnh của đức hạnh (theo nghĩa huyền linh học) trong đời sống nội tâm (inner life). (TVTTHL, 249)
- Các màu sắc đều là các màu của ánh sáng (colours of light).(TVTTHL, 205–206)
- Màu sắc chỉ là hình thể được hiển thị do một loại mãnh lực, khi lực ấy đang vận chuyển ở một tầm mức nhất định, và khi sự tác động và vận hành của nó bị ngăn trở hay không bị ngăn trở do loại vật chất mà nó tác động xuyên qua đó. Trong câu này có chìa khóa giải quyết vấn đề tại sao màu sắc ở những cõi cao và những cõi thấp lại khác nhau.... Màu sắc thấy trong hào quang của người dã man và trong hào quang của người tiến hóa trung bình đã rất khác nhau rồi (TTHM, 232)
+ Mầu Mây_ Kinh A Hàm: Mây có bốn thứ: màu trắng; màu đen; màu đỏ; màu hồng.
- Mây có màu trắng vì yếu tố đất đặc biệt nhiều;
- Mây có màu đen vì yếu tố nước đặc biệt nhiều hơn;
- Mây có màu đỏ vì yếu tố lửa đặc biệt nhiều hơn;
- Mây có màu hồng vì yếu tố gió đặc biệt nhiều hơn.
Mây cách mặt đất từ 20 - 4000 dặm. (Nguồn: Mục 29- Tại đây)
+ Xem thêm: Định luật về mầu sắc
Xem: Tổng hợp về mầu sắc
+ Tánh của Nước: ...Trong Kinh Trường A Hàm có nói đến nguồn gốc của biển, sông, hồ. Ðó là bởi thế gian này có sự hiện diện của mặt trời - từ mặt trời phát ra một nguồn nhiệt lực gây nóng bức khiến cho vạn vật đều tiết "mồ hôi"; chính lượng "mồ hôi" này tích tụ lại và hình thành sông, hồ, ao, biển... Không phải chỉ riêng con người mà ngay cả đất đai, cây cối cũng có "mồ hôi" - tất cả chúng sanh đều có "mồ hôi." Mặt trời dọi đến đâu thì tỏa sức nóng đến đó, và sức nóng này gọi là "chích" (nướng). Thế giới này vì có quá nhiều "mồ hôi" - nhiều nước - nên có rất nhiều sông, hồ.
Nước hiện hữu khắp nơi - tận hư không, khắp Pháp Giới, đâu đâu cũng có nước cả. Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép về việc cầm hạt châu thủy tinh hướng lên không trung để hứng nước trong ánh trăng vào giữa đêm trăng sáng. Ðiều này chứng tỏ rằng khắp nơi đều có nước. Tuy nhiên, cũng có những nơi chúng ta không thấy có sự hiện diện của nước, là vì những nơi đó chỉ có "Tánh" của nước chứ không có "Thể" của nước. Ðiều này cũng tương tự như việc mọi người đều có Phật tánh, nhưng chúng ta không thấy được Phật tánh mà chỉ thấy được hình thể con người thôi vậy. Tánh của nước là ẩm ướt; hầu như mọi nơi đều có khí ẩm, do vậy có thể nói rằng mọi nơi đều có nước. Ðồng thời, mọi nơi đều có lửa.
Tánh nước và tánh lửa vốn hỗ tương hợp tác, chứ không xung khắc lẫn nhau; vậy thì tại sao nước không tràn ngập khắp mọi nơi? Bởi giữa trời, đất và nước có sự tương quan, gắn bó mật thiết với nhau. Vả lại, Tứ Ðại Thiên Vương còn có viên ngọc "trị nước" (tỵ thủy châu); nếu không nhờ viên ngọc này thì khắp cả thế giới sẽ toàn là nước, tất cả đều bị chìm trong biển nước mênh mông. Cho nên, không phải khắp nơi đều có sự hiện hữu rõ rệt của nước. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Luận về thủy hỏa: Chân Sư DK Luận, trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu—thì các Hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y. (TTHM_Nguy hiểm trang tham thiền)
+ Bí nhiệm của Nước và Lửa: ... Bí nhiệm này của điện, chủ yếu là có tính tam phân, liên quan đến Brahma hay trạng thái thứ ba, và đôi khi được gọi bằng những tên sau đây:
1. Bí mật của Brahma/ 2. Sự hiển lộ của Đức Mẹ/ 3. Bí mật của Lực Fohat/ 4. Bí nhiệm của Đấng Tạo Hoá/ 5. Bí mật của Ba phát xuất từ (thái dương hệ) thứ Nhất, và cũng được gọi bằng bốn nhóm từ thần bí, mang nhiều ánh sáng đến cho trực giác:
6. Con Tàu Bí nhiệm vượt Đại dương.
7. Chìa khoá của Kho tàng Thiêng liêng.
8. Ánh sáng Hướng dẫn qua ba động U minh.
9. Đầu mối đưa đến Năng lượng kết hợp Lửa và Nước.
[172] Trong tất cả các tên gọi này có nhiều kiến thức sẽ đến với người môn sinh suy gẫm chúng cẩn thận, nhớ rằng chúng chỉ về trạng thái Brahma ở mức biểu hiện thấp nhất ... (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)
+ Luận về Thủy Hỏa - Hải Thượng Lãn Ông: NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH HỌC THUYẾT THỦY HỎA
1. Thủy hỏa là thực thể
2. Tinh hoa của thủy là “chí”, tinh hoa của hỏa là “thần”
3. Hỏa làm chủ cho thủy, thủy tức là nguồn của hỏa; nguồn của thủy và hỏa không thể lìa nhau
4. Hỏa quá thừa là vì thủy không đầy đủ, thủy không đầy đủ biết rằng hỏa đã quá thừa.
5. Hỏa được yên vị thì mọi vẻ tốt tươi.
6. Hỏa tức là khí, khí không được thăng bằng mà sinh ra bệnh
7. Hỏa động thì nhiệt, hỏa uất thì hàn; hàn cực độ thì nhiệt, nhiệt cực độ thì hàn
8. Dương hỏa thuận lợi về cách chính trị, âm hỏa thuận lợi về cách tòng trị.
9. Năm tạng đều có “tướng hỏa”, mà đều thuộc vào tâm
10. Thủy hỏa là dấu hiệu của âm dương, âm dương là cội gốc của thủy hỏa.
ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT THỦY HỎA TRONG ĐIỀU TRỊ BẰNG CHÂM CỨU
1. Trong học thuyết kinh lạc
2. Trong điều trị hội chứng âm dương và tạng phủ
3. Điều trị hội chứng âm dương ...... (Nguồn: Luận về Thủy Hỏa_Trần Văn Thanh)
+ Sự tương ứng và tương đồng: Trong vũ trụ, có rất nhiều sự kiện tương ứng Nhị phân hay Tam phân ..... mà nhân loại không thể chứng minh, chỉ có thể chấp nhận và ứng dụng vào nghiên cứu học tập. Quan trọng nhất mà chúng ta cần nghiên cứu kỹ là sự tương ứng giữa Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ là con người. Tất cả tuân theo Định luật tương ứng hay tương đồng của Vũ trụ. Dưới đây là vài ví dụ:
- Lửa Tam lửa: Ba lửa gốc vũ trụ là "Lửa/ Điện/ Ý chí" - "Lửa nhiệt/ Lửa Thái dương/ Trung đạo" - "Chuyển động/ Lửa Trí tuệ/ Lửa ma sát".
- Thuyết Tam tài, ở Trời có Tam Quang tương ứng ba lửa gốc phổ chiếu vũ trụ của chúng ta là Mặt Trời - Mặt Trăng - Các vì Sao, tương ứng Tam tài là Trời - Đất - Người.
- Quy luật phổ quát của mọi Hình tướng / Vật chất: Thành - Trụ - Hoại - Không
- Quy luật phổ quát của các Hình tướng có Tình và Thức: Sinh - Lão - Bệnh - Tử
- Tứ đại hay ngũ hành ngoài vũ trụ đều có sự tương ứng trong lục phủ ngũ tạng hay chất liệu cấu tạo nên xác thân con người
- Tương ứng Chánh - Y báo (Người - Cảnh/ Không gian sống): Con người sinh ra có xác thân là Chánh báo. Y báo là hoàn cảnh sống bao gồm phong thủy nhà cửa, không gian sống, áo quần, giầu nghèo ... Theo luật nhân quả, "Tất cả do Tâm tưởng sanh. Bên trong có gì, bên ngoài có cái đó, từ nhà cửa, tiền tài, danh vọng ... cho đến quỷ thần nhiêu loạn chướng ngại đều tuân theo quy luật tương ứng trong ngoài.
- Tương ứng Thân - Tâm: Tát cả do Tâm tưởng sanh. Trong Tâm có thì ngoài cảnh có. Sửa Tâm chuyển thì cảnh chuyển. Chỉ sửa cảnh thì Tâm chẳng sửa thì chẳng mấy ích lợi. Ví như sửa Phong thủy và sử dụng Vật phẩm phong thủy theo Mệnh ...
- Trong Tâm Trí suy nghĩ thiện ác thì Ngoài Tướng mạo, hành vi biểu lộ rõ thiện ác .....
+ Góc Mùa Hạ: Đỉnh (cusp) của nhà thứ 10, Midheaven, bắt đầu góc phần tư cuối cùng. Nó đánh dấu thành tựu cá nhân cao nhất mà chúng ta có thể đạt được. Đây là nơi Mặt trời sẽ ở vào đúng trưa, ở đỉnh cao nhất của nó. Trong góc tư này, các mối quan hệ được hình thành để tiếp tục khẳng định và mở rộng sự thành công của chúng ta càng nhiều càng tốt. Đây là hy vọng thực hiện những hoài bão của chúng ta và nơi những mối quan hệ khách quan quan trọng hơn những mối quan hệ cá nhân hay chủ quan. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Tu hành tại Vạn Phật Thánh Thành
Tiếng bảng đều đặn vang lên từng hồi giữa đêm khuya tĩnh mịch, xua tan bóng tối âm u đang bao trùm vạn vật. Bây giờ là đúng ba giờ rưỡi sáng, ánh trăng dịu mát đang chiếu qua khe cửa. Vào giờ này, hầu hết mọi người vẫn còn đang say sưa trong giấc ngủ; riêng những người mang bổn nguyện và hoài bảo của kẻ xuất gia, phải là những người giác ngộ trước tiên trong vũ trụ, do đó họ cần phải thức dậy sớm nhất!
Theo Tỳ Ni Nhật Dụng Năm Mươi Ba Tiểu Chú, tập sách gắn liền với đời sống của người xuất gia, thì điều đầu tiên mà họ phải nghĩ tới sau khi thức dậy là “phải vì chúng sanh, không nên vì mình”:
Chương trình một ngày bắt đầu từ sáng sớm, sự khởi đầu mà tốt đẹp thì kể như đã thành công được một nữa. Sáng sớm tinh mơ thức dậy, việc quan trọng nhất của người xuất gia là hành lễ Công Phu Khuya – một mặt là để thôi thúc bản thân tinh tấn, không lười biếng, đồng thời cũng để gìn giữ tình, khí, thần của chính mình; và mặt khác là mượn sức mạnh của sự tụng Kinh trì Chú để quét sạch mọi hắc ám và tà khí trước khi bình mình ló dạng, để hạo nhiên chánh khí được tồn tại trong trời đất trước lúc vạn vật sinh hoạt trở lại. Như thế suốt ngày yêu ma quỷ quái sẽ không dám hung hăng, lộng hành. Cho nên việc trì tụng Thần Chú Lăng Nghiêm là đặc biệt cần thiết. Thần Chú này là tiêu biểu của Chánh Pháp và cũng là khắc tinh của yêu ma quỷ quái; do đó Thần Chú Lăng Nghiêm vô cùng quan trọng. Chỉ cần trên thế giới có một người tụng Thần Chú Lăng Nghiêm thì yêu ma quỷ quái sẽ không dám công nhiên xuất hiện tác oai tác quái rồi, huống hồ là mọi người đều đồng tâm hiệp lực, cùng nhau tụng niệm! Sức mạnh này càng khó thể nghĩ bàn hơn nữa!
Trong thời khóa Công Phu Khuya, sau khi tụng Kinh và Chú xong, đại chúng tụng Mười Đại Hạnh Nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Mười Đại Hạnh Nguyện nầy nhắc nhở kẻ tu hành phải noi gương phát tâm của Bồ Tát Phổ Hiền, học tập tinh thần của Bồ Tát, và đem mọi công đức hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Đó cũng là tu hạnh Bồ Tát vậy.
Tiếp theo lễ Công Phu Khuya là lễ Bái Nguyện. Đây là thời điểm “cảm ứng Đạo giao” giữa chúng Phật tử với chư Phật và chư Bồ Tát, là lúc hào quang của chư Phật và sự thành tâm của chúng sanh giao tiếp nhau. Từng chuỗi Phạm âm Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thanh thoát, trầm bổng ngân vang chẳng khác nào từng đợt sóng biển nhịp nhàng kéo đến gột rửa những trái tim thành khẩn huớng thiện được thêm trong sách, sáng lạn và viên dung hơn nữa. Trong nhiều năm qua, âm điệu truyền thống cổ điển này đã thức tỉnh không biết bao nhiêu kẻ mê muội, lầm lạc và giúp họ tìm lại được quê nhà đích thực của mình. Bái Nguyện cũng là biểu hiện lòng thiết tha của người Phật tử, thành khẩn phát lồ sám hối và khẩn cầu chư Phật cùng chư Bồ Tát “từ bi nhiếp thọ, hào quang rạng ngời, soi chiếu thân con, mọi ác tiêu trừ, thân tâm thanh tịnh.” Qua sự sám hối, người Phật tử đạt được sự lợi lạc cho bản thân và cho cả người khác, nguyện cầu cho mình cũng như hết thảy chúng sanh đều sớm lìa khổ được vui, vãng sanh Tịnh Độ, đồng thành Phật Đạo.
Tại Vạn Phật Thánh Thành, thường thì mỗi ngày đều có hai tiếng đồng hồ Tọa Thiền ở Vạn Phật Điện, và được chia làm hai thời – sáng từ 6 giờ đến 7 giờ, và chiều từ 5 giờ đến 6 giờ. Đó là lúc mà các cư sĩ tại gia dùng điểm tâm và cơm chiều, còn các Tăng Ni và những cư sĩ chỉ ăn ngày một bữa thì lợi dụng khoảng thời gian này để tinh tấn, nỗ lực hành Đạo như lời nhắc nhở của Hòa Thượng Tuyên Hóa: “Đừng bỏ qua cơ hội có thể khai ngộ, dù chỉ một giây, một phút!”
Những người tu hành của Vạn Phật Thánh Thành sau bốn tiếng đồng hồ dụng công bây giờ phân tán để chấp tác, tiếp tục dụng công tu hành qua công việc.
Thời xưa, có nhiều bậc cao tăng, đại đức đã đạt được sự thành tựu trong lúc làm việc cực nhọc; do đó không phải chỉ khi ngồi tham Thiền, tụng Kinh, lạy Phật mới là tu hành, mà là ở mọi nơi mọi lúc đều là tu hành cả. Người tu hành thì phải “động không chướng ngại tĩnh, tĩnh không chướng ngại động, động tĩnh chẳng phải hai”; bất cứ lúc nào cũng phải như như bất động, an nhiên tự tại. Do vậy, chấp tác cũng là một phần của sự tu hành. .....
Sáu giờ rưỡi chiều là giờ hành lễ Công Phu Tối. Nội dung Công Phu Tối cứ tuần tự một hôm tụng Kinh A Di Đà và một hôm tụng Lễ Phật Đại Sám Hối (Hồng danh 88 vị Phật). Thời khóa Công Phu Tối kết thúc vào lúc 7 giờ rưỡi tối, và tiếp theo đó là giờ giảng Kinh thuyết Pháp. Gia phong của Vạn Phật Thánh Thành là “một ngày không giảng Kinh thuyết Pháp là một ngày không ăn không uống.” ..... Thời gian thuyết Pháp mỗi buổi tối là một tiếng rưỡi đồng hồ từ 7 giờ rưỡi đến 9 giờ. Kể đến là nữa tiếng đồng hồ tụng phần tâm chú của Chú Lãng Nghiêm. Nếp sinh hoạt hằng ngày tại Vạn Phật Thánh Thành được kết thúc với bài kệ Cảnh Tỉnh Đại Chúng của Bồ tát Phổ Hiền.
Mười giờ rưỡi tối, ai nấy đều tuân theo hiệu lệnh tiếng bảng mà tắt đèn. Tất cả lại trở về với tịch tĩnh. Mọi người về liêu phòng nghỉ ngơi. Riêng đối với những người tinh tấn tu hành thì đây cũng chính là thời gian để tiếp tục dụng công. “Ngủ mà không ngủ, luôn ngồi không nằm” là bản sắc của kẻ tu hành vậy. (Nguồn: Tu Hành Tại Vạn Phật Thánh Thành)
+ Góc Mùa Xuân: Trong Chiêm tinh học gồm các Nhà 1, 2 và 3, tương ứng với mùa xuân và sự nổi lên của cá tính. Chính ở đây các giá trị và ý tưởng cơ bản được hình thành. Đây là góc phần tư của tính tự phát và cá tính lớn nhất, nơi mà trí thông minh bẩm sinh, khả năng thích ứng và truyền thông đều hoạt động vì lợi ích tốt nhất của chúng ta. Đó là góc phần tư mà chúng ta xác định những gì chúng ta muốn có trong cuộc sống. Ở đây, người mẹ và thời thơ ấu cũng là những yếu tố quan trọng. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất, Mặt trăng giống phần tư thứ hai, sao Kim giống phần tư thứ ba, và sao Thổ giống phần tư thứ tư. Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. ( Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Mùa Xuân: Quý vị xem, chuyện đốt rừng xua bắt thú, vì sao ở đây nói đến mùa xuân? Sao không nói đến mùa hè, mùa thu, phải nhất định nói về mùa xuân? Mùa xuân là thời kỳ muôn vật sinh trưởng. “Xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàng.” (Mùa xuân sinh sôi nảy nở, mùa hạ lớn lên, mùa thu thâu gồm lại, mùa đông tàng chứa.) Mùa xuân là mùa hết thảy muôn vật đều bắt đầu sinh trưởng, sao có thể nhẫn tâm giết hại? Tâm như vậy là hết sức tàn nhẫn, không có nhân từ, không có thương yêu. Chúng ta đọc qua những lời răn dạy của các bậc hiền thánh xưa, từ những chỗ như thế này thể hội được tấm lòng nhân từ bác của các ngài, cũng từ chỗ này mà học tập, mà nuôi dưỡng thành tập quán, tập quán thương người yêu vật. (Trích: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến 6 / 4 / 2000 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 187, số hồ sơ: 19-012-0187)
+ Mùa Đông - Phương Bắc: Gồm các nhà số 4, 5 và 6, cho thấy chúng ta sẽ làm gì để tạo ra sản phẩm mang lại an ninh cho bản thân và gia đình chúng ta. Nó mô tả các phương tiện mà qua đó chúng ta có được nhiều cơ sở vững chắc hơn và thiết lập mối quan hệ với gia đình và xã hội. Góc phần tư này là nhà và nơi làm việc, những nơi đó là cơ sở cho sự an toàn của chúng tôi. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Phương Bắc chủ về: Học hỏi kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, phấn đấu lỗ lực ....
+ Phương bắc, Phật Thành Tựu là Bộ Chủ. Yết Ma dịch là "Tác pháp" hoặc "Biện sự". Bộ này thuộc về phương bắc, Bồ Tát Ðịa Tạng thống lãnh tất cả chúng quỷ thần và vô số quyến thuộc.
‘’Thiện ác nghiệp báo không mảy sai.’’ Làm thiện được thiện báo, làm ác được ác báo, thiện ác quả báo tơ hào chẳng sai.
‘’Mặt đen vô tư lão Diêm Vương.’’ Mặt mày của vua Diêm La vô tư chẳng nói đến nhân tình, đúng là đúng, sai là sai, mặt của vua Diêm Vương đen giống như sắt, chẳng có một chút nhân tình đạo vị, ...(Nguồn: Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật phương Bắc trong ngũ phương Phật: 5. Vị Phật thứ năm ở phương Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật của Thắng Nghiệp Tịnh Đô. Ngài là chủ bộ Phương Bắc trong Ngũ Phương Như Lai, đại biểu cho “Thành Sở Tác Trí”. Ngài có thể chuyển hóa phiền não do đố kỵ, và chuyển hóa năm thức đầu tiên thành Thành Sở Tác Trí. Thân của vị Phật này có màu xanh lục, Ngài kết Ấn Vô Uý và ngồi trên bảo tòa làm bằng tám con chim đại bàng cánh vàng (bát đại bàng kim sí điểu). Ngài có thể hàng phục những con rồng ác và các loại rắn độc...... Bộ Yết Ma nói “Phương bắc Yết Ma bộ chủ công ”. Công này chính là giữ gìn công đạo, có thể nói chủ bộ này là công (đạo), đây là một bài kệ tụng. (Nguồn: Phật Bất Không - HT Tuyên Hóa)
+ Hành Thổ:
Dương Âm
Hỏa và Khí
Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ - Năng lượng dương: Tích cực, tự thể hiện
Các dấu hiệu số chẵn - Năng lượng âm: Thụ động, tiếp nhận
+ Hành Thổ: Dựa vào các giác quan và lí luận thực tiễn; Hiểu biết bẩm sinh về cách thức thế giới vật chất hoạt động; Kiên nhẫn, tự kỷ luật, tháo vát; Kiên trì, bền bỉ - Thực tế, truyền thống, thận trọng, đáng tin cậy; Có thể cứng nhắc, tuân thủ thói quen và cách tiếp cận tuyến tính với thế giới
+ Dấu hiệu hành thổ với Cung Hoàng Đạo: Kim Ngưu, Xử Nữ, và Ma Kết (Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
+ Hành Thổ: Thực tế. Ổn định. Kiên nhẫn. Siêng năng. Ý chí mạnh mẽ. Đặt tầm quan trọng vào sự an ninh. Có thể ép bản thân để đạt được mục tiêu dài hạn. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ Phật phương Nam:
3. Vị Phật thứ ba là Bảo Sanh Phật/ Bảo Sinh Phật ở phương Nam. Ngài là tập hợp của tất cả Phước, Đức, Tài, Bảo và có thể sanh ra vạn pháp. Thân của vị Phật này có màu vàng và Ngài ngự trên một cái đài được làm bằng tám con ngựa vua lớn (bát đại mã vương). Ngài có thể chuyển hóa thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí và có thể điều phục được tất cả chúng sanh kiêu mạn. Trong Chú Lăng Nghiêm, thì đó chính là Bảo Sanh Bộ, biểu thị cho Chú Chư Thiên Vương và thuộc loại Tăng Ích Pháp, có thể làm tăng trưởng giới, định, huệ của chúng ta chứ không phải làm tăng ích danh văn lợi dưỡng. (Nguồn: Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật Bảo Sanh (Phạn văn: रत्नसम्भव, Ratna-sambhava). Trong Ngũ Phương Phật thì vị Phật này là Như Lai ở Phương Nam, đại biểu cho Phật Tỳ Lô Giá Na “bình đẳng tánh trí”, cũng là đại biểu cho đức vi diệu của Phật Pháp, và cũng chỉ cho sự tăng lợi ích vô lượng phúc đức, trân bảo. Nên gọi là: “Bảo Sanh”. Thân của vị Phật này có sắc vàng” và Ngài ngự trên một cái đài được làm bằng tám con ngựa vua lớn (bát đại mã vương). Ngài có thể chuyển hóa thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí và có thể điều phục được tất cả chúng sanh kiêu mạn. Trong Chú Lăng Nghiêm, thì đó chính là Bảo Sanh Bộ, biểu thị cho Chú Chư Thiên Vương và thuộc loại Tăng Ích Pháp, có thể làm tăng trưởng giới, định, huệ của chúng ta chứ không phải làm tăng tánh tham danh lợi dưỡng của chúng ta.
Bảo Vương Phật bộ chủ ma ni
Bồ Tát Hư Không quyến thuộc hội,
Phương nam thuộc về lửa Bính Ðinh
Lửa đỏ ánh hồng chiếu Khảm Ly.
Giảng giải :
Nam Mô Ma Ni Câu Ra Da. Ma Ni thuộc về "Bảo" (quý giá), Bảo Bộ là phương nam, phương nam Bảo Sanh bộ.
“Bảo Vương Phật bộ chủ ma ni.’’ Phật Bảo Sanh la bộ chủ Bảo Bộ.
“Bồ Tát Hư Không quyến thuộc hội.’’ Ngài và Bồ Tát Hư Không Tạng và Bồ Tát Ba La Mật cùng đại chúng ở cùng một nơi.
‘’Phương nam vi tri lửa Bính Ðinh.’’ Phương nam là vị trí cua Bính Ðinh hỏa, thuộc về lửa.
Cho nên ‘’Lửa đỏ hồng quang chiếu Khảm Ly.’’ Tuy nhiên tại phương nam nên quang minh mầu đỏ rất mãnh liệt, chiếu Khảm, Khảm là phương bắc, Ly là phương nam. Khảm là phương bắc thuộc thủy, Ly là phương nam thuộc hỏa. Từ phương nam chiếu đến phương bắc hỗ tương chiếu sáng cho nên pháp quang của Bảo Bộ có thể chiếu khắp pháp giới. (Nguồn: Phật Bảo Sanh - HT Tuyên Hóa)
+ Phật phương Bắc:
Tác pháp biện sự Yết Ma bộ
Bồ Tát Ðịa Tạng tộc chúng nhiều
Thiện ác nghiệp báo chẳng mảy sai
Mặt đen vô tư lão Diêm Vương.
Giảng giải: Ðây là phương bắc, Phật Thành Tựu là Bộ Chủ. Yết Ma dịch là "Tác pháp" hoặc "Biện sự". Bộ này thuộc về phương bắc, Bồ Tát Ðịa Tạng thống lãnh tất cả chúng quỷ thần và vô số quyến thuộc.
‘’Thiện ác nghiệp báo không mảy sai.’’ Làm thiện được thiện báo, làm ác được ác báo, thiện ác quả báo tơ hào chẳng sai.
‘’Mặt đen vô tư lão Diêm Vương.’’ Mặt mày của vua Diêm La vô tư chẳng nói đến nhân tình, đúng là đúng, sai là sai, mặt của vua Diêm Vương đen giống như sắt, chẳng có một chút nhân tình đạo vị, bạn muốn lường gạt vua Diêm La không thể được, các bạn nhất định phải làm việc thiện. Nếu làm việc ác thì vua Diêm Vương chẳng tha cho bạn, làm việc thiện thì ông ta cung kính bạn. Cho nên phải thường niệm Chú Ðại Bi, thì vua Diêm Vương quản không được bạn. Có người tạo rất nhiều tội, lâm chung đến chỗ vua Diêm Vương, vua Diêm Vương hỏi y sao làm nhiều tội nghiệp như thế, y nói tôi chẳng tạo tội nghiệp gì, tôi thường làm việc tốt ! Vua Diêm Vương hỏi ông ta, ông làm tốt việc gì ? Ông ta nói tôi thường niệm Chú Ðại Bi, vua Diêm Vương nói ông nói láo, thường tụng Chú Ðại Bi cũng chẳng ăn thua gì, bèn tống ông ta vào núi đao, ông ta liền niệm Chú Ðại Bi, thì lập tức núi đao liền hóa thành hoa sen, ông ta ngồi trong hoa sen vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Cho nên nếu bạn một niệm hồi quang phản chiếu, sửa đổi lỗi lầm làm mới lại, thì tội nghiệp quá khứ sẽ tiêu diệt, nhưng phải chân thành sửa lỗi làm mới, thật biết sửa đổi lỗi lầm, thì dù tội nhiều như núi Tu Di, một khi sám hối, tội bèn tiêu sạch, thì hoa sen sẽ hiện tiền. Hoa sen hiện tiền là biểu thị tội nghiệp tiêu sạch. (Nguồn: Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật phương Bắc: 5. Vị Phật thứ năm ở phương Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật của Thắng Nghiệp Tịnh Đô. Ngài là chủ bộ Phương Bắc trong Ngũ Phương Như Lai, đại biểu cho “Thành Sở Tác Trí”. Ngài có thể chuyển hóa phiền não do đố kỵ, và chuyển hóa năm thức đầu tiên thành Thành Sở Tác Trí. Thân của vị Phật này có màu xanh lục, Ngài kết Ấn Vô Uý và ngồi trên bảo tòa làm bằng tám con chim đại bàng cánh vàng (bát đại bàng kim sí điểu). Ngài có thể hàng phục những con rồng ác và các loại rắn độc. Trong Chú Lăng nghiêm, Ngài được xếp vào Bộ Yết Ma, là thần chú của Chư Quỷ Thần, dùng pháp Tức Tai có thể thanh trừ tất cả tai nạn. Tuy nhiên, để dứt trừ mọi tai ương, chúng ta phải lấy việc sám hối nghiệp chướng làm đầu.
Lọng hương thơm đầy khắp hư không
Xông khắp hữu tình trong pháp tánh
Lực thù thắng giữ giới thanh tịnh
Phương bắc Yết Ma bộ chủ công.
Giảng giải:
Tần đà la tần đà la. Câu chú văn nầy phiên dịch thành Lọng Hương Thơm. Lọng Hương Thơm này, chẳng những chỉ ở một nơi, mà một khi quý vị niệm câu Chú này thì tận hư không khắp pháp giới đều hiện ra loại lọng hương thơm trang nghiêm này. Bởi vì tận hư không biến pháp giới đều có lọng hương thơm trang nghiêm này, nên yêu mà quỷ quái khi thấy được cảnh giới oai đức trang nghiêm thì đều từ chỗ trốn ngoan ngoãn hiện ra......
Lần này có Quả Chân đến kế tục bắt đầu giảng lại từ đầu, cũng có thể nói đây là một cơ hội rất lớn cho quý vị mà quý vị trước đây không chú ý, lần này quý vị phải chú ý lắng nghe.........
“Lọng hương thơm đầy khắp hư không”: Ý nghĩa câu Chú nầy là “lọng hương thơm”, khi quý vị niệm Chú nầy, thì tận hư không khắp pháp giới, đều có một thứ hương thơm lạ, nên nói: Lọng hương thơm đầy khắp trong hư không. Cái hư không này, khi tụng Chú này, thì chẳng những nhân gian tỏa hương thơm, mà trên trời cũng thơm, cho đến địa ngục, ngạ quỷ, cũng đều đắc được pháp cứu hộ.
“Khắp xông hữu tình trong pháp giới”: loại hương thơm nầy xông khắp, loại lọng hương thơm này, không chỉ xông riêng một hai người, mà là xông khắp cả pháp giới.
“Lực thù thắng giữ giới thanh tịnh”: Loai năng lực thù thằng này giúp trì giữ, Chú này lại chuyển thành năng lực thù thắng giúp trì giữ, là năng lực thù thắng giúp giữ gìn giới luật thanh tịnh.
Câu chú văn này là thuộc Bộ chủ của Bộ Yết Ma ở phương bắc, Bộ Yết Ma nói “Phương bắc Yết Ma bộ chủ công ”. Công này chính là giữ gìn công đạo, có thể nói chủ bộ này là công (đạo), đây là một bài kệ tụng. (Nguồn: Phật Bất Không - HT Tuyên Hóa)
+ Chữ Giác - Tánh Giác:
Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”...
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới.....
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới. Nhân hư không mà sinh ra dao động kiên cố cái sáng mà thành có ngăn ngại. Các loại kim bảo kia đều do minh giác lập ra tánh cứng chắc, nên có kim luân giữ gìn cõi nước. Phong đại và kim bảo cọ xát mà có lửa sáng làm thành tính biến hóa… Nơi Sở minh, tự yêu thích cái sáng suốt của tánh minh, dòng yêu thích làm thành chủng tử, ấy là nguyên nhân có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh ... (Nguồn: Chẳng phải nhân - Chẳng phải Duyên)
+ Tánh giác [Ở người là Phật tánh]: Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung Tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “TÁNH GIÁC”.
- PHẬT TÁNH: Đối với con người thì cái Tánh giác này là Phật tánh hay Tánh giác diệu minh là Chánh Nhân Phật tánh nghĩa là Tánh mầu nhiệm vốn sẵn có. Phật tánh hay Tánh giác thì lúc nào cũng thanh tịnh, trong sáng, thường diệu, thường minh nên gọi là “Tánh giác diệu minh” mà không cần cái minh bên ngoài tức là sở minh để có minh. Nhưng con người vì lầm lẫn chạy theo vọng chấp tham-sân-si nên mới tạo nghiệp và tự cột họ vào trong sinh tử luân hồi. Bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, tự quay thuyền trở lại bến xưa thì tánh giác sẽ trở thành Bản Giác tức là cái Giác tính bản lai sẳn có của mình. Cái Bản giác này thường minh và thường diệu nên gọi là Bản giác minh diệu. Phật tánh thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh.
- Còn Bản giác minh diệu là Liễu Nhân Phật tánh nghĩa là Phật tánh nhờ công phu tu tập rồi mới ngộ. (Nguồn: Xem Mục Giác không sinh mê)
+ Toàn Tánh nơi Chân Tâm: Đức Phật bảo: ... A-nan, như tất cả sự vật hiện hữu trong thế giới từ ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, nút thắt… khi gạn xét cội gốc của nó, mỗi thứ đều có thể tánh, cho đến như hư không cũng có tên gọi và dáng mạo.
Huống gì bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là bản chất của tất cả mọi tâm niệm mà tự nó lại không có thể tánh hay sao?
Nếu ông chấ́p chặt tánh phân biệt hiểu biết, cho đó là tâm, thì tâm này khi rời tất cả sắc thanh, hương, vị, xúc, thì tâm ấy phải riêng có toàn tánh.
Nếu cái tâm phân biệt ấy là chân tâm thì lẽ ra nó sẽ hiện hữu mà không cần bất kỳ sự liên hệ nào với sắc, thanh, hương, vị, xúc. Mặc dù chỉ đề cập đến năm món. Nhưng đều hàm ý đến cả sáu trần. Nếu thức tâm phân biệt thực là chân tâm thì lẽ ra tâm ấy sẽ tiếp tục tồn tại ngay cả khi cái tâm có toàn tánh kia, siêu việt hẳn các cảm giác khi tiếp xúc với sáu trần. Lẽ ra phải có một cái tâm khác, ngoài cái tâm hình thành ngay khi các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý tiếp xúc với các trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
Có phải đó chính là giải pháp chăng? Không? Đức Phật chỉ đưa ra giả thiết này để khai thị cho A-nan.
Dù có diệt hết cái thấy, nghe, hiểu, biết mà giữ được sự thanh thản, lặng lẽ bên trong, đều do bóng dáng của sự phân biệt pháp trầ̀n vẫn còn.
Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm. Nhưng ông phải suy xét chính chắn, nếu có một thể tánh phân biệt khi rời hẳn tiền trần thì đó chính là tâm ông.
Nếu tánh phân biệt này khi rời hẳn tiền trần mà không còn tự thể thì đó chỉ là bóng dáng phân biệt của tiền trần.
Trần ấy chẳng phải là thường trụ, khi nó biến diệt thì cái tâm ấy cũng như lông rùa sừng thỏ. Ắt pháp thân ông cũng đồng như đoạn diệt. Ai là người tu chứng vô sinh pháp nhẫn? Tức là nếu không có Thân cũng chẳng có Tâm thì lấy gì để tu? A Nan và đại chúng ngơ ngác chưa hiểu: Chân Tâm mình thế nào, ở đâu?
Đức Phật bảo A Nan: Tất cả mọi người tu học trong thế gian, mặc dù nay đã được cửu thứ đệ định, nhưng không hết sạch mê lầm, thành bậc a-la-hán, đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt, lầm cho đó là tính chân thực. Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa thành thánh quả. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q1-Phần Chánh văn-Mục 90)
+ Phật tánh: Pháp Bảo Đàn Kinh phẩm thứ 2 viết: “Dẫu kẻ ngu, dẫu người trí cũng đều có Phật Tánh như nhau. Chỉ tại sự mê, ngộ chẵng đồng đó thôi. Cho nên mới có kẻ ngu người trí => Thiện ác và Vô thiện ác.
- Phật Tánh cũng tức là Chân Như, tánh chân thật như thường, như nhiên không biến đổi, chẳng sanh chẳng diệt. Song với kẻ ngu, độn trí, vì bị nhiều dục vọng, nghiệp chướng ngăn che nên khiến cho Phật Tánh, Chân Như bị lu mờ. Còn đối với người trí ít tham, ít dục vọng, thường hành việc tu tập nên Chân Như, Phật Tánh dần dần hiện rõ ra, biết điều sai trái nên tránh, theo lẽ phải, tu tâm dưỡng tánh thì Tánh Giác lần lần hiển hiện.
Đối với chúng sanh trong Thập Giới, Phật Tánh trong 3 giới Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh thì u tối, kém cõi. Thiên, Nhơn, A Tu La thì khá hơn. Thinh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát càng tỏ rõ hơn nhiều; cho đến Phật thì Phật Tánh hoàn toàn sáng suốt tỏa chiếu.
Kinh Niết Bàn quyển 25 viết: Bồ Tát biết rằng Phật Tánh có bảy đức tánh, bảy nghĩa lý: (1) Thường; (2) Tịnh; (3) Thật; (4) Thiện; (5) Đương kiến (những gì ta đang thấy và sẽ thấy); (6) Chơn; (7) Khả chứng. (Nguồn: Phật tánh)
+ Tánh Phật - Phật Tánh: Loài Người Có Tánh Phật trong Con Người
Trích đoạn ngài A Nan hỏi Đức Phật Tâm trụ ở đâu:
- Một là căn bản sinh tử, từ vô thỉ, chính là tâm phan duyên mà hiện nay ông và toàn thể chúng sinh nhận làm tự tánh.
- Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ-đề niết-bàn từ vô thỉ. Đó chính là cái thức tinh nguyên minh của ông. Hiện nay hay sinh khởi các duyên bị ông quên mất.
HT Tuyên Hóa giảng: Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ-đề niết-bàn từ vô thỉ.
Chẳng có khởi đầu nên Đức Phật gọi là “vô thỉ”; ngay cả những gì xảy ra trước lúc khởi đầu.
Bồ-đề là tiếng Phạn (bodhi), dịch nghĩa là giác ngộ được đạo lý. Có ba nghĩa:
1. Chơn tánh bồ-đề: tức là Phật tánh mà mọi chúng sanh đều vốn có sẵn. Thông thường mọi chúng sanh đều có chơn tánh bồ-đề này.
2. Thật trí bồ-đề: tức là trí tuệ chân chính chẳng phải là tà tuệ.
3. Phương tiện bồ-đề: Tức là phương tiện của những người sau khi đã chứng đạo, họ quán sát căn cơ, nghiệp lực của chúng sinh mà có phương cách thích hợp để giáo hóa.
Ba dạng bồ-đề này có thể xem là một, phân ra gọi là ba, thực ra chỉ là một. Cả ba chính là chân tánh bồ-đề và do nơi chân tánh bồ-đề mà có được Thật trí bồ-đề và phương tiện bồ-đề.
Rốt ráo, bồ-đề do đâu mà có? Bồ-đề chẳng từ đâu mà có mà cũng chẳng đi về đâu. Mỗi người chúng ta xưa nay vốn đã từng có sẵn tánh bồ-đề trong mình rồi. Chẳng người nào có tánh bồ-đề ít hơn hay nhiều hơn người kia. Tánh bồ-đề ấy không tăng thêm không giảm bớt; không sinh ra, không mất đi chẳng thanh tịnh, chẳng dơ uế.
Có người từng hỏi: “Phật tánh là gì?” Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp:
– Tại mắt gọi là tánh thấy
– Tại tai gọi là tánh nghe
– Tại mũi gọi là tánh ngửi
– Tại lưỡi gọi là tánh nếm
– Tại thân gọi là tánh biết (do xúc chạm)
– Tại nơi ý gọi là tánh nhạy bén linh lợi
Đó là cách thế tự nhiên như khi tay mình cầm đồ vật. Tất cả những điều này đều là biểu hiện sự vi tế, bất khả tư nghì của chân tâm. (Nguồn: mục 77- HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Chân Tánh: ... Như Lai chân thật nói với ông/ A Nan, những người có trí/ Người trí trong Kinh thường nói cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ để có thể giác ngộ trí tuệ chân chánh.
* CÁI THẤY và TÁNH THẤY: Đức Phật bảo.... Thế nên phải biết, như trong phòng tối, đèn làm hiển lộ các vật thể. Còn cái thấ́y đó là do ở mắt, chứ không phải đèn. Khi mắt nhận rõ các vật thể thì tánh thấy đó chính là tâm, chẳng phải là mắt.
Đức Phật dậy: Tất cả chúng sinh bị mê hoặc bởi khách trầ̀n phiền não nên chẳng được giác ngộ, chứng quả a-la-hán. 5 Anh em ông Kiều Trần Như nhân đâu mà thành tựu quả vị.
- Khách trần: Cũng là vọng tưởng. Vọng tưởng gồm Khách trần và phiền não. Phiền não gồm 2 món là Kiến hoặc và Tư hoặc, cũng gọi là Vô minh hay Trần sa hoặc.
- A Nhà Kiều Trần Như: Con do ngộ chữ Khách trần mà thành tựu quả vị. Ví như ông Khách ngủ trọ qua đêm, việc lưu trú xong thì họ đi, nhưng thật là chủ thì vẫn ở đó. Như thế đủ hiểu Khách - Chủ.
- Trong lặng là hư không, lay đồng là trần. Ví như nhìn qua khe cửa có ánh nắng chiếu, thấy nhiều bụi trần chuyển động trong hưu không.
+ Động Tịnh của Tâm: Đức Phật ví dụ bàn tay Phật mở ra nắm lại, mắt thấy ngón tay động. Còn Tánh thấy không những tĩnh lặng mà còn chẳng có ý niệm về sự yên tĩnh.
Đức Phật lại bảo: Giả sử có người khác gọi cái động là trần, cái không dừng trụ gọi là khách.” Các ông lưu ý, nếu A nan xoay đầu nhìn xung quanh, là cái đầu động nhưng cái Thấy không dao động, hay bàn tay co mở nhưng cái thấy không co mở. Tại sao nay các ông vẫn còn nhận cái động làm thân và nhận các cảnh làm hiện thể? Nên từ đầu đến cuối, các ông ở trong niệm niệm sinh diệt. Tức quý vị nhận sắc thân vật chất của mình và các cảnh chung quanh cho đó làm thực thể. Những cái dao động này vốn hoàn toàn ở bên ngoài. Nó là thứ vốn không thuộc về tánh thấy của quý vị. Các ông chấp chặt vào thân tâm các ông cho đó là ông chủ của mình, nhận thức tâm phân biệt làm ông chủ, nhưng nó niệm niệm sinh diệt, mà bỏ quên Tánh Thấy của mình.
=> Các ông bỏ mất chân tánh, làm những việc điên đảo. Đã đánh mất tâm tánh chân thật rồi, còn nhận vật làm chính mình, nên chính mình bị trôi lăn theo vòng lưu chuyển.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn-Đoạn cuối)
+ Phật Tánh - Pháp chẳng hai: ... Lục tổ Huệ Năng bảo: "Pháp sư giảng Kinh Niết Bàn, ắt đã rõ Phật tánh chính là Pháp chẳng hai của Phật pháp vậy. Như Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch với Phật rằng: Người phạm bốn điều trọng cấm, làm năm điều tội nghịch và chúng xiển-đề, thì thiện căn Phật tánh phải bị đoạn diệt chăng? Đức Phật đáp rằng: Thiện căn có hai thứ: một là thường, hai là vô thường. Còn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cho nên không đoạn diệt, ấy gọi là Pháp chẳng hai. Thiện căn lại có hai: một là lành, hai là chẳng lành, Phật tánh chẳng phải lành, chẳng phải chẳng lành, ấy gọi là Pháp chẳng hai. Uẩn cùng với giới, phàm phu thấy có hai, chớ người trí thấu hiểu, biết tánh nó vốn chẳng hai. Tánh chẳng hai tức là Phật tánh vậy." (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tánh Giác: Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung Tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “TÁNH GIÁC”.
- PHẬT TÁNH: Đối với con người thì cái Tánh giác này là Phật tánh hay Tánh giác diệu minh là Chánh Nhân Phật tánh nghĩa là Tánh mầu nhiệm vốn sẵn có. (Nguồn: Xem Mục Giác không sinh mê)
+ TÁNH GIÁC DIỆU MINH CHÂN TÂM: TÁNH GIÁC NHIỆM MẦU BẢN NHIÊN SÁNG TẠO RA MUÔN VŨ TRỤ - THẾ GIỚI CHÚNG SINH TƯƠNG TỤC MÃI MÃI KHÔNG DỪNG DỨT, ẤY LÀ DO VỌNG TÂM VÔ MINH LUÔN KHỞI VỌNG TƯỞNG TẠO NGHIỆP SINH TỬ LUÂN HỒI ...
Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”
Giảng giải:
Đoạn kinh văn nầy mở đầu cho phần cực kỳ quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Vì nội dung đoạn kinh này sẽ giải thích tại sao con người trở thành người.
Ông có nghe Như Lai đã từng dạy : "Tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu hay không? Bạch Thế Tôn! Con đã nghe, Phú Lâu Na thưa.
- Ý ông hiểu thế nào? Tánh giác tự minh mà gọi là giác hay tánh giác không minh phải dùng tánh minh để minh tánh giác?
Ngài Phú Lâu Na bạch với Phật: Tánh giác tự minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nếu tánh giác không minh thì còn lấy gì để gọi là minh tánh giác.
Phật dạy rằng:
- Đúng vậy. Phú Lâu Na! Nếu tánh giác không tự minh thì không lấy cái gì để minh tánh giác. Và nếu tánh giác là cái sở minh thì không còn gọi là tánh giác nữa.
=> Vậy ông nên hiểu : Tánh giác vốn minh mà chúng sinh lầm tưởng phải nhờ cái minh để minh tánh giác. Sự thật tánh giác vốn không phải là cái sở minh. Nhân vì lầm tưởng mà tánh giác trở thành ra sở. Cái vọng về sở đã thành, tất cái vọng năng của ông. Nguồn gốc của vọng tưởng phát nguyên là như vậy.
+ Nguồn gốc vọng tưởng sinh ra các hiện tượng Tâm lý: Tánh giác nhất định phải là diệu minh chớ không cần nhờ vào Minh để làm sáng tỏ. Còn Vọng là minh giác nghĩa là vừa dấy động một niệm sở minh thì chính mình đã đánh mất tánh giác diệu minh rồi. Tánh giác thì bao trùm khắp pháp giới vốn không có năng minh, không có sở minh, không có năng giác, không có sở giác, nhưng vì do vọng chấp mê lầm mà mình cho rằng mình có năng giác còn đối tượng bên ngoài có sở giác. Khi có sự thiết lập của năng và sở tức là trong và ngoài thì sự phân biệt đối đãi hình thành và dĩ nhiên vọng niệm cũng phát khởi từ đây. Thí dụ như khi quán chiếu thấy tượng Phật bên ngoài tức là sở minh thì chúng ta dùng hình ảnh Đức Phật bên ngoài mà xoay lại để thấy được Phật tánh bên trong của mình tức là năng minh. Còn nếu chạy theo hình tượng Phật bên ngoài mà quên đi Phật tâm, Phật tánh thanh tịnh, bất sinh bất diệt của chính mình thì chúng ta chạy theo sở minh mà quên bỏ năng minh bên trong vậy.
=> Đây là nguyên nhân của phiền não khổ đau. Vì thế tánh giác vốn tự minh tự diệu, không có gì đáng gọi là sở minh. Nhưng do vọ mà giả dối lập ra sở minh và đối đãi phân biệt sinh ra cái năng minh của chúng sinh. (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác - Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Lúc bấy giờ A-nan và cả đại chúng, được sự khai thị nhiệm mầu của Đức Phật, khiến thân tâm vắng lặng, chẳng còn ngăn ngại. Trong đại chúng, mọi người đều tự nhận ra tâm mình trùm khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem một lá cây hay đồ vật trong bàn tay. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ MỘT THỂ TÁNH: Đức Phật bảo. Phú-lâu-na, ông lại hỏi rằng, tánh của đất nước lửa gió vốn là viên dung, trùm khắp pháp giới, ông nghi tại sao tánh lửa và tánh nước lại không xâm đoạt lẫn nhau. Ông lại nêu ra hư không và đất liền trùm khắp pháp giới, lẽ ra nó không dung hợp với nhau.
Giảng giải: Phú-lâu-na, ông lại hỏi rằng, tánh của đất nước lửa gió vốn là viên dung, trùm khắp pháp giới. Ông bảo rằng, “Nơi nào có nước, thì nơi ấy không có lửa, và nơi nào có lửa, thì nơi ấy không có nước. Tánh của nước và lửa không dung hợp nhau.”
Quý vị nên biết rằng nước lửa và các chất khác đều có một thể tánh, tuy nhiên, chúng ta không thể nào suy lường mà biết được. Cũng như quý vị mỗi người đều có tính chất khác biệt nhau. Nước có tính chất của nước, lửa có tính chất của lửa, mắt thường của quý vị không thể nào nhìn thấy được vấn đề nầy. Khi nó đã thành lửa rồi, chúng ta mới thấy được nó, nhưng khi nó chưa thành lửa, tánh chất của lửa vẫn hiện hữu ở đó. Tương tự như tánh nước. Tánh nước cũng có trong khắp cả pháp giới. Vì khi có ánh sáng mặt trời, chúng ta vẫn có thể dùng kính lúp để lấy được lửa, và dưới mặt trăng chúng ta vẫn có thể lấy nước,[1] vì thể tánh của các chất nầy vẫn hiện hữu trong hư không. Quý vị thấy hư không vốn trống rỗng, nhưng thực ra nó được chất đầy bởi vô số các hiện tượng. Và hư không chính là pháp giới. Tuy nhiên, Phú-lâu-na không hiểu rằng tại sao tánh của nước và lửa lại cùng lúc trùm khắp cả pháp giới.
“Phú-lâu-na, ông nghi tại sao tánh lửa và tánh nước lại không xâm đoạt lẫn nhau. Ông lại nêu ra hư không và đất liền trùm khắp pháp giới, lẽ ra nó không dung hợp với nhau. ‘Hư không là hư không,’ ông lý luận, ‘và nếu ở đó có hư không thì sẽ không có đất. Đất là vật cứng chắc, ngăn ngại, thế nên sẽ không có chút nào hư không trong đó cả. Nếu hư không trùm khắp pháp giới thì trong đó sẽ không có đất. Nếu đất trùm khắp pháp giới thì trong đó sẽ không có hư không.’” Đức Phật lập lại mối nghi của Phú-lâu-na.
+ Như Lai dùng Tánh giác diệu minh bất sinh bất diệt hiệp cùng Như Lai tạng, thì Như Lai tạng chỉ thuần là Tánh giác diệu minh, chiếu khắp cả pháp giới.
Cho nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong cái nhỏ hiện ra cái lớn, trong cái lớn hiện ra cái nhỏ.
Đạo tràng bất động cùng khắp cõi giới mười phương. Thân bao trùm cả hư không vô tận khắp mười phương. Ở trên đầu một mảy lông mà hiện ra cõi Bảo vương. Ngồi trong vi trần mà chuyển bánh xe đại pháp. Diệt trần tướng, khế hợp tánh giác, nên phát ra tánh giác chân như sáng suốt nhiệm mầu.
Quán về tánh, vốn là chân, chỉ là tánh diệu giác minh. Tánh diệu giác minh, vốn chẳng phải là lửa, là nước. Làm sao còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?
Giảng giải:
Khi quán chiếu sâu vào Tánh Như Lai tạng, thấy xưa nay vốn là chân, hoàn toàn không có một vọng tưởng nào. Trong đó duy chỉ có tánh diệu giác viên minh chân thật. Xưa nay vốn chẳng có các tướng đất nước, lửa, gió; chỉ vì trong tánh Như Lai tạng vốn có đầy đủ tất cả các pháp, đầy đủ tất cả tánh năng. Tuy đầy đủ các pháp: năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, đều có đủ tất cả công năng, nhưng đều cùng nhau tương hợp an ổn vô sự, mỗi tướng đều được an lập nơi phần vị của mình, không có sự xâm đoạt, lấn diệt lẫn nhau. Khi đã rõ rồi, thì sẽ không cần phải hỏi về chuyện các hiện tượng có dung hợp nhau trong tánh Như Lai tạng.
Tánh diệu giác minh chân thật cũng như vậy. Nếu ông phát minh Hư không, thì có Hư không hiện ra. Nếu ông phát minh đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ đều hiện ra. Nếu cùng phát minh các hiện tượng, thì tất cả cùng hiện ra.
Giảng giải: "Tánh diệu giác minh chân thật"- tức là thường trú chân tâm tánh tỉnh minh thể cũng như vậy. "Nếu ông phát minh hư không, thì có hư không hiện ra. Nếu ông phát minh đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ đều hiện ra" - Nếu ông tạo ra nhân duyên khiến phát sinh một hoặc các yếu tố: đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ ấy đều được hiện ra. "Nếu cùng phát minh các hiện tượng, thì tất cả cùng hiện ra" - Nếu cùng lúc tạo ra nhân duyên khiến phát sinh tất cả, thì tất cả các đại chủng ấy đều hiện ra. Chẳng hạn, một người có thể nghĩ đến – có nghĩa là có trong mình – Lửa trong mặt trời và nước từ trong hạt châu cùng một lúc.
Thế nào là cùng hiện ra? Phú-lâu-na, như trong chỗ có nước hiện ra bóng mặt trời, có hai người cùng xem mặt trời hiện trong nước. Rồi mỗi người đi về mỗi hướng đông tây khác nhau, ắt là họ đều thấy có mặt trời theo mình. Theo hai người cùng đi, một về hướng đông, một về hướng tây, không có chuẩn đích nhất định.
Nên không thể gạn hỏi rằng, mặt trời ấy chỉ là một, tại sao khi mỗi người đi đều có mặt trời đi theo? Mặt trời đã thành hai, tại sao trước kia chỉ hiện ra một? Hư vọng quanh quẩn như vậy, chẳng có gì để làm bằng cứ.
Phú-lâu-na, ông lấy cái sắc không khuynh loát, xâm đoạt nhau trong Như Lai tạng, thì Như Lai tạng sẽ cùng theo ông làm sắc, làm không hiện khắp cả pháp giới.
Thế nên trong ấy, gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Chúng sinh mê lầm, trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian.
Giảng giải: "Thế nên"– do vì sắc và không tương tục xâm đoạt lẫn nhau trong tánh Như Lai tạng, trong đó sinh khởi tác dụng cùng với các tướng hữu vi. Do các nguyên nhân nầy, mà sắc và không trở thành hiện hữu, tướng và dụng của nó trùm khắp cả pháp giới. "Trong ấy" - trong tánh Như Lai tạng, "gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối". Nguyên nhân là do "chúng sinh mê lầm". Ở trong chỗ vô số hiện tượng ấy, chúng sinh trở nên mê lầm. Họ không nhận ra được đạo lý về chân tâm, nên họ bị mê muội. Do vậy, nên trong chân tâm (phần chân) của tánh Như Lai tạng đã sinh khởi nên tam tế lục thô.
Như Lai dùng tánh giác diệu minh bất sinh bất diệt hiệp cùng Như Lai tạng, thì Như Lai tạng chỉ thuần là tánh giác diệu minh, chiếu khắp cả pháp giới.
Cho nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong cái nhỏ hiện ra cái lớn, trong cái lớn hiện ra cái nhỏ.
Mà Như Lai tạng chính là bổn diệu viên tâm.
Giảng giải: Còn có thể gọi tánh Như Lai tạng là bổn diệu viên tâm. Vốn là vi diệu, viên mãn, thanh tịnh và trùm khắp pháp giới. Nó lớn đến nỗi không có cái gì vượt qua nó được và nhỏ đến mức trong đó chẳng có gì. Cái bổn diệu viên tâm khác với các hiện tượng kia như thế nào? Đức Phật bảo:
- Không phải là tâm, chẳng phải là không. Không phải là đất, chẳng phải là nước, chẳng phải gió, chẳng phải lửa; ... Như thế cho đến chẳng có Như Lai, chẳng phải A-la-hán, chẳng có Chánh biến tri. Chẳng có đại niết-bàn, chẳng có thường lạc ngã tịnh.
Do đó đều chẳng phải là các pháp thế gian và xuất thế gian. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng.
- Tức là tâm, là không. Tức là đất nước gió lửa. Tức là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Tức là sắc thanh hương vị xúc pháp. Tức là nhãn thức giới, ..... tức trí huệ, tức lục độ. Như thế cho đến tức Như Lai, tức Ứng cúng, tức Chánh biến tri. Tức đại niết-bàn, tức thường lạc ngã tịnh .
===> Do vậy nó là cả hai pháp thế gian và xuất thế gian, Tức là Như Lai tạng diệu minh tâm nguyên.
Rời các nghĩa “tức,” “phi,” mà cũng là nghĩa “tức,” và chẳng phải nghĩa “tức.”
Làm sao chúng sinh trong ba cõi thế gian, cùng với hàng Thanh văn Duyên giác xuất thế gian, đem tâm sở tri mà suy lường Vô thượng bồ-đề của Như Lai, dùng ngôn ngữ thế gian để nhập vào tri kiến Phật?
HT Tuyên Hóa giảng về Như Lai Tạng ở trên: Giáo pháp được giảng bây giờ chính là không Như Lai tạng. Kế đến, quý vị sẽ được giải thích Như Lai tạng vốn là không và bất không. Thế nên quý vị thấy, Như Lai tạng vốn không chỉ đơn thuần là một trạng thái, mà nó có vài điều khác biệt trong nầy. Vậy nên quý vị đừng thấy rằng mình biết được vài thuật ngữ Phật pháp rồi kể rằng mình đã hiểu được tất cả. Có thể quý vị chỉ biết về Như Lai tạng, nhưng quý vị còn phải biết cách làm cho Như Lai tạng thành không; và quý vị biết được Như Lai tạng là bất không, nhưng rồi quý vị phải nhận ra được Như Lai tạng vốn vừa là không vừa là bất không. Quá rắc rối, phải không?(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Bản giác và Minh Giác: ... Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến, đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác?
Giảng: Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến. Các ông lập nên một tri kiến khác trên cái tri kiến vốn đã là hư vọng. Đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Ông đã nhận ra rằng tri kiến của mình vốn là không có tự thể, thế nên ông không khởi một niệm tưởng nào căn cứ trên tri kiến ấy. Ngay trong tri kiến ấy mà không khởi một niệm tưởng phân biệt nào chính là tương ưng với Đạo. Đó chính là niết-bàn vô lậu chân tịnh. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác? Trong chỗ vắng bặt tri kiến, làm sao còn dung chứa một thứ gì khác? Nơi ấy chính là bản nguyên thanh tịnh pháp giới. Tại sao ông lại muốn đưa thêm một thứ gì nữa vào trong đó? Tại sao lại chồng thêm tri kiến lên trên tri kiến? Nguyên lý nầy cũng như trong đoạn kinh trước đã nói, “Bản giác vốn là diệu minh, nhưng hư vọng nên thành minh giác.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Xin mời quí vị đọc bài tổng hợp chuyên đề với thuật ngữ Thể Dụng vi diệu của Như Lai tạng và tánh Như lai tạng, bản giác ... : Mời xem tại đây
+ Năng sở có nghĩa là: (能所) Từ gọi chung Năng và Sở. Chủ thể của 1 động tác gọi là Năng; khách thể (đối tượng) của động tác ấy gọi là Sở. Chẳng hạn như mắt hay thấy vật, gọi là Năng kiến, còn vật do mắt thấy thì gọi là Sở kiến. Cũng thế, người bị nương tựa gọi là Sở y, người nương tựa vào kẻ khác gọi là Năng y. Người tu hành gọi là Năng hành, pháp môn được tu hành gọi là Sở hành. Người qui y gọi là Năng qui, chỗ qui y gọi là Sở qui; người giáo hóa gọi là Năng hóa, người được giáo hóa gọi là Sở hóa; chủ thể nhận thức gọi là Năng duyên, đối tượng bị nhận thức gọi là Sở duyên. Ngôn ngữ, văn chương, giáo pháp... biểu thị ý nghĩa, gọi là Năng thuyên, ý nghĩa được biểu thị gọi là Sở thuyên v.v... Tóm lại, Năng và Sở có đủ mối quan hệ tương tức không tách rời nhau giữa thể và dụng, nhân và quả, vì thế gọi là Năng sở nhất thể. [Nguồn: Từ điển Phật học].
+ Vô minh sinh Năng sở hình thành Hư không và các đại: ... Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới.... có kim luân giữ gìn cõi nước ...có hỏa đại..... có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh.
Ngoài tứ đại còn có không đại, kiến đại và thức đại. Vì không đại là phản ánh của chơn không. Kiến đại là chỗ lưu lộ của chân như, thuộc năm hiện lượng. Nó chính là phần Năng kiến nói trong luận Khởi Tín, là phần Kiến tinh nói trong kinh Lăng Nghiêm. Thức đại là để biết do đâu có sự phân biệt cảnh.... (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên hay tự nhiên)
+ Năng Sở: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật dạy, từ cái Tánh giác bất biến - Bất nhị biến thành năng sở sinh ra có tứ đại:
- 5. Lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sự thật thực tại, sự kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo hay không bị tạo), [ví dụ tứ đại: Địa, thủy, hỏa, phong là không bị tạo, mà khi địa, thủy, hỏa, phong kết hợp lại thành cái thân thể của ta là cái bị tạo. Hay tứ đại gọi là năng tạo, mà nó nhờ có tứ đại tạo thành sắc, hương, vị, xúc, thì sắc, hương, vị, xúc ấy gọi là tứ đại sở tạo; còn tứ đại còn lại là tứ đại năng tạo. Năng tạo hay sở tạo gì cũng đều là pháp hết, tâm và vật, ý thể và hiện tượng. Tâm và vật, tâm cũng là pháp, vật cũng là pháp, ý thể cũng là pháp, mà hiện tượng cũng là pháp.]
..... Phái duy thực trong A-tỳ-đạt-ma (chữ pháp) được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ 5. Nói một cách khác như ta gọi Phật pháp, trong khi ta gọi Phật pháp thì nên hiểu rằng nó gồm có 2 mặt: một mặt gọi là giáo pháp và một mặt gọi là lý pháp. Giáo pháp là lời dạy của đức Phật, còn lý pháp là cái ý nghĩa của lời dạy đó, ý nghĩa mà đức Phật nhắm tới. Giáo pháp ví dụ như ngón tay chỉ mặt trăng, còn lý pháp ví như mặt trăng. Giáo pháp là cái đức Phật nói ra, còn lý pháp là một thực tại. Đó là một cái chân lý do đức Phật phát minh, chứ Phật không sinh ra nó. Ví dụ như pháp duyên khởi tính thì Phật không sinh ra nó. “Duyên khởi tính” thì dù Phật có thành Phật hay không thành Phật, duyên khởi tính của vạn pháp cũng là duyên khởi tính của vạn pháp. Cái đó thuộc lý pháp hay gọi là chứng pháp, bởi cái đó ta phải chứng. Còn giáo pháp là cái để ta chứng cái lý pháp đó. Vì vậy, nếu không chứng được lý pháp thì chỉ kẹt vào nơi ngôn từ mà thôi, hiểu và dừng lại ở ngôn từ, ngang nơi ngôn từ và đứng lại đó chứ không thể chứng được. Cũng y như hành giả chỉ thấy ngón tay, ngang nơi ngón tay mà thôi, chứ không thể thấy được mặt trăng. Cho nên hai phạm trù đó phải đi đôi với nhau.] (Nguồn: Câu Xá Luận - HT Thích Thiện Siêu)
+ Xem thêm giảng giải về Năng Sở: Tánh Giác vốn không hai. Khi thấy có ngã, có nhân, thì mới thấy có tự có tha, có năng có sở. Khi thấy vô ngã, vô nhân, vô năng, vô sở thì tất cả đều là sự vận hành của Pháp, không có tự có tha nữa. Tất cả đều là sự mầu nhiệm của Pháp chứ không có tự lực, tha lực nào cả. Điều này con không thể hiểu mà chỉ có thể chứng ngộ thôi. (Nguồn: Giảng về năng sở)
+ Tâm năng sở: đây là nói tính chất hoạt động truy tầm đối tượng của tâm (tâm sở), gọi là tầm; quán sát đối tượng gọi là tứ. Hoạt động với tính chất thô, gọi là tầm; hoạt động với tính chất vi tế, gọi là tứ, đây là sự sai biệt của tầm và tứ”.
+ Sinh Hư không: Đức Phật nói ...Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới xuất hiện. Các đại cũng thế, nếu chúng sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì các đại này sẽ dần dần xuất hiện. (Kinh Thủ LN - Phú Lâu La hỏi Phật)
+ Tánh Bản Nhiên: Cái chẳng phải hòa hợp thì gọi là tánh bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải là bản nhiên, hòa hợp chẳng phải là hòa hợp. Hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ, ngay cả cái rời bỏ đều chẳng phải. Câu nói nầy mới được gọi là pháp không hí luận.
Giảng giải:
“Hòa hợp” là chỉ cho nhân duyên. Khi tự nhiên chẳng phải là tự nhiên và hòa hợp không có nhân duyên của hòa hợp, thế là hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ. Hai thuyết tự nhiên và hòa hợp đều được khiển trừ. Ngay cả cái rời bỏ đều chẳng phải. Khi tách rời hẳn nhân duyên và tự nhiên, thì còn nhân duyên và tự nhiên, cả hai pháp đều phải khiển trừ. Câu nói nầy mới được gọi là pháp không hí luận. Chẳng phải nhân duyên cũng chẳng phải tự nhiên. Đó mới là lời giải thích chân thực vì đó không phải là hí luận–đó không phải là lời nói để đánh đố. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Sinh tử theo chu kỳ: Nhân gian có câu "Sinh có hạn - Tử bất kỳ".
a. Tái sanh: Ngày sinh nhật là ngày người Mẹ đau đớn tột cùng, có câu "Chửa cửa mả" nói nên sự nguy hiểm trùng trùng của sinh đẻ. Xem bài: Khó sanh đẻ
b. Tử vong: Mỗi người có mặt ở đời là việc Sanh đã xong, còn việc Tử vong chỉ trong một Hơi thở ra mà KHÔNG thở vào nữa là Chết => Tử bất kỳ như Đức Phật dạy - Xem: Tử bất kỳ và cách ứng sử với Sanh Tử.
+ Trong 1 kiếp sống: (i) - Con người lại có được một thể xác tiến hoá hơn,(ii)- có tính chất ứng đáp nhiều hơn, (iii)- được điều hợp với một khoá cao hơn, với sự tinh vi và thích hợp hơn, rung động với một mức độ khác hơn. Ba ý tưởng này cần nghiên cứu cẩn thận và quảng diễn một cách hợp lý (LVLCK, 169)
+ Giai đoạn chuẩn bị Luân hồi: Nhân hồn được tái hấp thu vào đại hồn trước khi lại tái luân hồi.… Có ba chủng tử liên quan một cách đặc biệt với các vi tử thường tồn thể xác và thể cảm dục, như thế tạo ra mãnh lực ngũ phân vốn dĩ sẽ tạo ra các sắc tướng
+ Luân hồi, thời gian tạm ngưng: Không hề có sự cố định về thời gian tạm ngưng, đó chỉ là vấn đề nhu cầu của linh hồn mà thôi; (VLH, 199)
+ Người ta cho rằng bí nhiệm ẩn tàng trong 777 lần luân hồi. Con số này đem lại cơ hội cho nhiều suy gẫm. Cần nói rõ rằng đó không phải là con số chu kỳ luân hồi mà con người phải vượt qua nhưng nó nắm giữ chìa khóa cho 3 chu kỳ chính đã nói trước (chu kỳ của Chân Thần, chu kỳ của Chân Ngã, và chu kỳ của Phàm ngã –ND). Trước tiên, con số này áp dụng cho Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống hành tinh chúng ta chứ không phải cho các hành tinh hệ khác. Mỗi Đức Hành Tinh Thượng Đế có con số của Ngài, còn con số của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta ẩn giấu trong 3 con số nói trên, cũng như 666 và 888 nắm giữ cái huyền bí được che giấu của hai Đức Hành Tinh Thượng Đế khác. Số 777 này cũng là số chuyển hóa, vốn là công việc căn bản của tất cả các Hành.
+ Con Người đầu thai luân hồi: Làm sao mà con người trở thành con người? Khi con người được hình thành, thức thứ tám có mặt trước tiên; và khi chết, thì thức thứ tám ra đi sau cùng (HT Tuyên Hóa giảng kinh Phật). THỨC THỨ TÁM Luân hồi: Xem chi tiết tại trang: Tổng hợp về Luân hồi - Chết và Tái sinh
+ Quy luật con người đầu thai: Đại sư Liên Hoa Sanh có khuyên rằng: Trong giờ phút lâm chung hãy buông bỏ mối quan tâm đối với thế giới nầy; hãy buông bỏ sự dính mắc với bất cứ ai mà bạn có mối quan liên mạnh mẽ nhất trong đời nầy........ Hãy nhớ rằng, theo Du Già Sư Địa Luận (Yogacarabhumi) được thánh giả Vô Trước (Asanga) ghi chép lại từ Bồ Tát Di Lặc (Maitreya), thì con người chết đi và đầu thai lại chỉ luẩn quẩn trong vòng những người thân của mình trong vô lượng lần. (Xem nguồn)
586. SỐNG LÂU - THỌ MẠNG RẤT DÀI
Do nhơn gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ thọ mạng rất dài? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào xa lìa nghiệp sát, đoạn tuyệt nghiệp sát, bỏ hẳn dao gậy, có tâm tàm, có tâm quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả cho đến loài côn trùng. Người ấy thọ nghiệp này, tạo tác nghiệp ấy đầy đủ rồi đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian, thọ mạng rất dài. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Pháp tu Hạnh Đầu đà:
Tôn giả Ma-ha Ca Diếp là người có địa vị rất quan trọng trong Phật giáo. Chư Phật thuyết pháp, các vị Ðại Phạm thiên cùng tụ hội và dâng hoa sen bằng vàng lên cúng Phật. Có một hôm, Phật cầm hoa sen vàng đưa ra trước đại chúng, bấy giờ, trong pháp hội có hàng trăm vạn trời, người, không ai biểu lộ thái độ gì, chỉ có Tôn giả Ma-ha Ca Diếp mỉm cười. Lúc đó Phật nói: "Ta có Chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, pháp môn tâm ấn, thật tướng vô tướng, đã truyền cho Ca Diếp." Vì thế ngài Ca Diếp là Tổ đời thứ nhất của Phật giáo ở Thiên Trúc. Tôn giả hiện giờ vẫn còn sống ở thế giới này. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả Ma-ha Ca Diếp bèn đến núi Kê Túc ở Vân Nam nhập định, đợi lúc Ðương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật ra đời thành Phật, ngài mới đem cà-sa viền vàng giao cho Ðức Phật Di Lặc, chừng đó ngài mới hoàn tất những việc cần làm.
Khi Tôn giả Ca Diếp quy y Phật xuất gia làm Tỳ-kheo thì đã một trăm sáu mươi tuổi, qua bốn mươi chín năm Phật thuyết pháp, hơn ba trăm hội giảng kinh, Tôn giả đã hơn hai trăm tuổi. Từ khi Phật nhập diệt đến nay đã hơn ba ngàn năm, có rất nhiều người tu hành đến núi Kê Túc để triều bái Tổ sư Ca Diếp. Núi Kê Túc thường có ba thứ ánh sáng: ánh sáng Phật, ánh sáng vàng, ánh sáng bạc. Khi đến núi Kê Túc lễ lạy, nếu người có lòng chí thành thì có thể nghe được tiếng chuông vang ra từ trong núi, chỉ nghe tiếng chuông chứ không thấy chuông, cách núi Kê Túc mấy trăm dặm đều có thể nghe được. Ðó thật là cảnh giới bất khả tư nghì!
Tôn giả Ca Diếp là người được hai cái bậc nhất trong số đệ tử Phật. 1) Ðầu-đà bậc nhất, 2) Tuổi cao bậc nhất. Trong các đệ tử của Phật, luận về tuổi tác thì không có ai hơn ngài. Trong hàng đệ tử của Phật, ngài ăn rất kham khổ, thọ dụng rất kham khổ, tu hành cũng rất kham khổ, cho nên được tôn là hạnh Ðầu-đà bậc nhất.
Ðầu-đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Ðẩu Tẩu tức là phấn chấn tinh thần, mạnh mẽ tinh tấn. Ðầu-đà tức là thực hành khổ hạnh, có mười hai thứ khổ hạnh, mười hai hạnh Ðầu-đà này là biểu hiện sự trụ trì Phật pháp. Chỉ cần có người tu hạnh Ðầu-đà thì Phật pháp còn trụ lâu ở thế gian; nếu không có người tu hạnh Ðầu-đà thì Phật pháp bị diệt mất. Mười hai hạnh Ðầu-đà là:
1. Mặc y phấn tảo: Y phấn tảo là gì? Tức là loại y phục hoặc vải mà người ta đã dùng rồi không cần nữa, vứt bỏ đi thì người xuất gia đem những thứ y phục đó về giặt sạch may thành y phục của mình. Mặc những thứ y phục này có những lợi ích gì? Có lợi ích rất lớn là khiến cho mình không còn tâm tham, không thích y phục đẹp, mặc thứ y phục này khiến cho trong lòng rất an tịnh, bớt đi lòng tham, cũng khiến cho người khác không có tâm tham. Nếu mình mặc bộ y phục quá đẹp, người khác có thể sanh ra một thứ lòng hâm mộ, từ hâm mộ sanh ra ganh ghét, từ ganh ghét sanh ra tâm tham, kế đó sanh ra tâm trộm cắp. Nếu mặc y phấn tảo thì không có ai muốn đến lấy trộm, đó là có lợi cho mình mà cũng có lợi cho người khác; cũng là những y phục Phá nạp mà người xuất gia hay mặc. Vì thế người xuất gia cũng gọi là "Nạp tử", có nghĩa là nói người xuất gia mặc y Phá nạp.
2. Chỉ có ba y, bình bát, tọa cụ: Tức là những đồ vật mà người xuất gia được có. Ba y là:
- Ðại y: Có loại hai mươi lăm điều, một trăm lẻ tám miếng. Thứ y này đắp mặc khi giảng kinh thuyết pháp hay khi vào Hoàng cung.
- Thất điều y: Là y bảy điều, đắp mặc khi lễ sám lạy Phật.
- Ngũ y: Là y năm điều, đắp mặc khi chấp lao phục dịch, đi ra vào, đón rước tiếp đãi khách khứa.
Tại sao chỉ có ba y, bình bát và tọa cụ? Ðó cũng là khuyên bảo phải tri túc, chớ tham nhiều vật chất. Dưới đây là nói về vật thực, có năm mục:
3. Thường khất thực: Thường ôm bát đi khất thực, tự mình không nấu nướng.
4. Theo thứ lớp khất thực: Tức là ngừng ở mỗi nhà khất thực, không nói là bỏ nhà người nghèo khổ mà đến nhà người giàu có để khất thực. Nếu ngừng lại ở từng nhà thì một ngày hóa duyên trước cửa bảy nhà. Nếu bảy nhà đều không cúng dường thì ngày hôm đó không ăn. Không thể lựa chọn mà phải bình đẳng khất thực. Không giống như Tôn giả Tu-Bồ-đề và Ðại Ca Diếp có tâm phân biệt. Tôn giả Ðại Ca Diếp chuyên đến nhà người nghèo để khất thực, vì ngài nghĩ rằng người nghèo thật đáng thương, nếu không gieo trồng phước lành cho họ thì đời sau lại càng khổ hơn, vì thế ngài cứ đến hóa duyên người nghèo. Trái lại, Tôn giả Tu-Bồ-đề lại chuyên hóa duyên người có tiền mà không hóa duyên người nghèo khổ. Ngài cho rằng: "Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng phước lành thì đời sau lại nghèo khổ." Mỗi vị đều trình bày lý do của mình, Ðức Phật mới quở trách các vị ấy là bậc A-la-hán có tâm phân biệt không bình đẳng.
5. Giữa ngày ăn một bữa: Sáng sớm và chiều tối không ăn chi hết, chỉ đúng trưa (từ 11-12 giờ) mới ăn. Có người không hiểu Phật pháp, cho rằng giữa ngày ăn một bữa chính là Trì ngọ. Trì ngọ là buổi sáng ăn, buổi chiều không ăn. Nếu sáng, chiều và trưa đều ăn thì gọi là "Năng cật." Giữa ngày ăn một bữa, là tu hành theo chế độ của Phật dạy, nhơn vì giữa ngọ là thời gian Phật ứng cúng. Sáng sớm là chư Thiên ăn, quá Ngọ là súc sanh ăn, chiều tối là ngạ quỷ ăn. Tại sao người xuất gia không ăn chiều? Vì ăn chiều khua đũa bát, ngạ quỷ có thể đến cướp lấy thức ăn, nhưng mà thức ăn một khi vào miệng liền biến thành lửa đỏ, nhơn đó mà sanh lòng sân hận, rồi làm cho người xuất gia sanh bịnh. Thế nên người xuất gia không ăn chiều.
6. Ăn ít một chút: Tức là không ăn quá nhiều, nếu ăn quá nhiều, bụng không có chỗ chứa thức ăn cho nên phải bận rộn rất nhiều cho việc tiêu hóa.
7. Quá ngọ không uống nước cô đặc: Nước cô đặc là nước ép từ trái cây, sữa bò, sữa đậu nành. Quá giờ Ngọ, người tu hạnh Ðầu-đà chơn chính thì không uống những thứ nước cô đặc ấỵ
Có người chỉ tu một thứ hạnh Ðầu-đà, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn thứ, hoặc tu trọn vẹn các hạnh Ðầu-đà, đều là tuỳ theo sức mình mà thực hành. Năm mục ở trên là về ăn uống, còn năm mục sau đây là về mặc ở. Người tu hành cũng không tránh khỏi các vấn đề ăn mặc, ở, đi; cho nên có mười hai thứ hạnh Ðầu-đà.
8. Ở nơi A-lan-nhã: A-lan-nhã dịch là Tịch tịnh xứ, tức là chỗ rất ít bóng người, không có thứ tiếng tạp loạn, đó là nơi mắt không thấy thì miệng không ham, tai không nghe thì tâm không phiền. Giống như người thấy đồ ăn ngon thì sanh ra lòng muốn ăn. Tai không nghe nhiều tiếng ồn ào thì trong lòng không sanh phiền não, còn ở chỗ vắng lặng thì dễ dụng công tu hành, dễ ngộ đạo.
9. Ở dưới bóng cây: Người tu hành ở dưới bóng cây, nhưng không quá ba đêm. Ở qua hai đêm thì phải dời chỗ. Tại sao thế? Vì nếu ở đó ba đêm thì sẽ có người đến cúng dường. Vì người tu hạnh Ðầu-đà không mong cầu phan duyên, không mong cầu được cúng dường thức ăn ngon.
10. Ở lộ thiên: Tức là ở khoảng đất trống.
11. Ở gò mả: Tức là ở bên gò mả khiến cho tự mình có một thứ cảm giác để đối trị với tánh buông lung: "Này, ở đó có người chết, nếu không tu hành về sau ta cũng giống như thế, ta phải gấp rút tu hành mới được." Ở bên gò mả thì không thể nào lười biếng được.
12. Lưng không dính chiếu: Tức là thường ngồi không nằm, không có nằm khi ngủ nghỉ, như thế mới có thể dụng công mà không lười nhác.
Tôn giả Ca Diếp chẳng phải chỉ tu một thứ hạnh Ðầu-đà, mà cả mười hai hạnh Ðầu-đà đều tu trọn vẹn. Ðến khi ngài hơn hai trăm tuổi, Phật thấy ngài tu hạnh Ðầu-đà, không nhẫn tâm để ngài khổ cực quá, có một hôm Tôn giả Ca Diếp đến ra mắt Phật, Phật chia nửa tòa cho Tôn giả Ca Diếp cùng ngồi rồi nói với ngài rằng: "Ông nay tuổi đã quá già rồi, nên nghỉ bớt đi, chớ nên theo hạnh Ðầu-đà cực khổ như thế nữa." Tôn giả Ca Diếp nghe Phật dạy, chỉ cười mà không đáp. Nhưng khi ngài trở về vẫn tu hạnh Ðầu-đà, không cho rằng mình tuổi tác đã cao mà ngưng tu hạnh Ðầu-đà. Ðức Phật biết việc ấy nên vui vẻ nói: "Trong Phật pháp của ta, hạnh Ðầu-đà của Ca Diếp có thể làm cho Phật pháp trụ thế năm trăm năm nữa." Cho nên ngài Ca Diếp được khen là hạnh Ðầu-đà bậc nhất.
Mười hai hạnh Ðầu-đà là việc tu hành của người xuất gia, có một số người tại gia nói: "Mười hai hạnh Ðầu-đà là để cho người xuất gia tu, chứ nói với người tại gia chúng tôi để làm gì?"
Câu nói này mới nghe dường như rất đúng, nhưng xét kỹ lại một chút thật là quá mê si! Tại sao biết được mình trước kia không phải là người tu hành, chưa từng tu hạnh Ðầu-đà? Có thể là các vị quên mất đấy, nên bây giờ tôi xin nhắc lại.
Làm sao mình biết đời sau mình không xuất gia? Hoặc là đời sau hạt giống Bồ-đề của mình được thành thục, công đức viên mãn, mình sẽ xuất gia? Nếu vào đời sau sẽ tu mười hai hạnh Ðầu-đà, thì sẽ cảm thấy rất quen thuộc, rất tương ưng, đó là do đời nay được nghe đến, cho nên đời sau mới rất thích thú mà tu hành. Ðó cũng là do quá khứ gieo trồng nhơn lành nên đời nay kết được quả lành vậy. Hoặc là đời nay gieo trồng nhơn lành này, đời sau kết được quả lành kia. Ai dám chắc mình mãi mãi là người tại gia? Ai dám chắc mình mãi mãi không là người xuất gia? Ai cũng không thể nói mình mãi mãi là phàm phu. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Ngài Ma Ha - Ca Diếp: Trích giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm
Các vị Thanh văn được tỉch diệt trong diệt tận định như Ma-ha Ca-diếp trong hội nầy. Đây là bậc thứ chín trong cửu thứ đệ định [Cửu định], tức diệt thọ tưởng định. Một số vị trong hội chúng nầy đã đạt được diệt thọ tưởng định và chứng được quả vị A-la-hán. Ai trong hội nầy đã chứng được diệt tận định? Ma-ha có nghĩa là lớn, tức chỉ cho ngài Trưởng lão Ca-diếp, vốn trước kia là ngoại đạo thờ lửa. Trong đạo Phật thường gọi ngài là Kim sắc tiên. Ngài hiện nay vẫn còn đang nhập định trên đỉnh Kê túc sơn,[14] tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Ngài không xả thân và thọ thân sau. Ngài đang ở trong diệt tận định. Trong tương lai, khi Bồ-tát Di-lặc ra đời, ngài Ma-ha Ca-diếp sẽ trao y bát của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại cho Bồ-tát Di-lặc. Ngài đã nhập định ở đó chừng ba ngàn năm. Một người có thể ngồi như thế một ngàn năm, hoặc thậm chí một vạn năm trong định vẫn không là vấn đề.
* Chúng ta tu đạo là để duy trì sự tự chủ khi đang còn khoẻ mạnh, khi chúng ta đang tỉnh giác và còn minh mẫn, khi bệnh, khi ngủ, khi mơ, ngay cả khi chết. Nếu chúng ta được như muốn chết là chết, và đến mức nếu không muốn chết, thì cứ sống mà không gặp vấn đề gì cả, thoát khỏi mọi ràng buộc, thế thì mới có thể nói là mình tự tại đối với sinh tử. Nếu muốn sống, vẫn được; và nếu muốn chết, vẫn có thể chết liền. Chẳng hạn, nếu muốn sống, quý vị có thể sống đến hàng ngàn năm như Tổ Ma-ha Ca-diếp. Nếu quý vị muốn chết, liền có thể chết trong tư thế đứng, ngồi hoặc nằm. Quý vị muốn làm bất cứ cách nào mình thích.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ Ma Ha - Ca Diếp vẫn đang nhập Con quán sát trong thế gian, sáu trần đều biến hoại, chỉ dùng pháp không tịch tu diệt tận định, thân tâm mới có thể trải qua trăm ngàn kiếp như khảy móng tay (Giảng: Tâm của Ma-ha Ca-diếp có thể trải qua một thời gian dài hằng trăm ngàn kiếp như trong một khoảnh khắc ngắn–như khảy móng tay. Nay Ma-ha Ca-diếp thực sự đang nhập định–trong Diệt tận định–trong Kê túc sơn ở tỉnh Vân nam Trung Hoa). (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tôn giả Ma-ha Ca Diếp: Là người có địa vị rất quan trọng trong Phật giáo. Chư Phật thuyết pháp, các vị Ðại Phạm thiên cùng tụ hội và dâng hoa sen bằng vàng lên cúng Phật. Có một hôm, Phật cầm hoa sen vàng đưa ra trước đại chúng, bấy giờ, trong pháp hội có hàng trăm vạn trời, người, không ai biểu lộ thái độ gì, chỉ có Tôn giả Ma-ha Ca Diếp mỉm cười. Lúc đó Phật nói: "Ta có Chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, pháp môn tâm ấn, thật tướng vô tướng, đã truyền cho Ca Diếp." Vì thế ngài Ca Diếp là Tổ đời thứ nhất của Phật giáo ở Thiên Trúc. Tôn giả hiện giờ vẫn còn sống ở thế giới này. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả Ma-ha Ca Diếp bèn đến núi Kê Túc ở Vân Nam nhập định, đợi lúc Ðương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật ra đời thành Phật, ngài mới đem cà-sa viền vàng giao cho Ðức Phật Di Lặc, chừng đó ngài mới hoàn tất những việc cần làm.
Khi Tôn giả Ca Diếp quy y Phật xuất gia làm Tỳ-kheo thì đã một trăm sáu mươi tuổi, qua bốn mươi chín năm Phật thuyết pháp, hơn ba trăm hội giảng kinh, Tôn giả đã hơn hai trăm tuổi. Từ khi Phật nhập diệt đến nay đã hơn ba ngàn năm, có rất nhiều người tu hành đến núi Kê Túc để triều bái Tổ sư Ca Diếp. Núi Kê Túc thường có ba thứ ánh sáng: ánh sáng Phật, ánh sáng vàng, ánh sáng bạc. Khi đến núi Kê Túc lễ lạy, nếu người có lòng chí thành thì có thể nghe được tiếng chuông vang ra từ trong núi, chỉ nghe tiếng chuông chứ không thấy chuông, cách núi Kê Túc mấy trăm dặm đều có thể nghe được. Ðó thật là cảnh giới bất khả tư nghì!
Tôn giả Ca Diếp là người được hai cái bậc nhất trong số đệ tử Phật. 1) Ðầu-đà bậc nhất, 2) Tuổi cao bậc nhất. Trong các đệ tử của Phật, luận về tuổi tác thì không có ai hơn ngài. Trong hàng đệ tử của Phật, ngài ăn rất kham khổ, thọ dụng rất kham khổ, tu hành cũng rất kham khổ, cho nên được tôn là hạnh Ðầu-đà bậc nhất.
Ðầu-đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Ðẩu Tẩu tức là phấn chấn tinh thần, mạnh mẽ tinh tấn. Ðầu-đà tức là thực hành khổ hạnh, có mười hai thứ khổ hạnh, mười hai hạnh Ðầu-đà này là biểu hiện sự trụ trì Phật pháp. Chỉ cần có người tu hạnh Ðầu-đà thì Phật pháp còn trụ lâu ở thế gian; nếu không có người tu hạnh Ðầu-đà thì Phật pháp bị diệt mất. 12 hạnh Ðầu-đà là:
1. Mặc y phấn tảo: Tức là loại y phục hoặc vải mà người ta đã dùng rồi không cần nữa, vứt bỏ đi thì người xuất gia đem những thứ y phục đó về giặt sạch may thành y phục của mình.....
2. Chỉ có ba y, bình bát, tọa cụ: Ðại y - Thất điều y - Ngũ y. Ðó cũng là khuyên bảo phải tri túc, chớ tham nhiều vật chất.
3. Thường khất thực: Thường ôm bát đi khất thực, tự mình không nấu nướng.
4. Theo thứ lớp khất thực: Tức là ngừng ở mỗi nhà khất thực, không nói là bỏ nhà người nghèo khổ mà đến nhà người giàu có để khất thực. Nếu ngừng lại ở từng nhà thì một ngày hóa duyên trước cửa bảy nhà. Nếu bảy nhà đều không cúng dường thì ngày hôm đó không ăn. ....
5. Giữa ngày ăn một bữa: Sáng sớm và chiều tối không ăn chi hết, chỉ đúng trưa (từ 11-12 giờ) mới ăn. ...
6. Ăn ít một chút: Tức là không ăn quá nhiều, nếu ăn quá nhiều, bụng không có chỗ chứa thức ăn cho nên phải bận rộn rất nhiều cho việc tiêu hóa.
7. Quá ngọ không uống nước cô đặc: Nước cô đặc là nước ép từ trái cây, sữa bò, sữa đậu nành.
8. Ở nơi A-lan-nhã: A-lan-nhã dịch là Tịch tịnh xứ, tức là chỗ rất ít bóng người,...
9. Ở dưới bóng cây: Người tu hành ở dưới bóng cây, nhưng không quá ba đêm. ...
10. Ở lộ thiên: Tức là ở khoảng đất trống.
11. Ở gò mả: Tức là ở bên gò mả khiến cho tự mình có một thứ cảm giác để đối trị với tánh buông lung ...
12. Lưng không dính chiếu: Tức là thường ngồi không nằm, không có nằm khi ngủ nghỉ, như thế mới có thể dụng công mà không lười nhác.
Tôn giả Ca Diếp cả mười hai hạnh Ðầu-đà đều tu trọn vẹn. Ðến khi ngài hơn hai trăm tuổi, Phật thấy ngài tu hạnh Ðầu-đà, không nhẫn tâm để ngài khổ cực quá, có một hôm Tôn giả Ca Diếp đến ra mắt Phật, Phật chia nửa tòa cho Tôn giả Ca Diếp cùng ngồi rồi nói với ngài rằng: "Ông nay tuổi đã quá già rồi, nên nghỉ bớt đi, chớ nên theo hạnh Ðầu-đà cực khổ như thế nữa." Tôn giả Ca Diếp nghe Phật dạy, chỉ cười mà không đáp. Nhưng khi ngài trở về vẫn tu hạnh Ðầu-đà, không cho rằng mình tuổi tác đã cao mà ngưng tu hạnh Ðầu-đà. Ðức Phật biết việc ấy nên vui vẻ nói: "Trong Phật pháp của ta, hạnh Ðầu-đà của Ca Diếp có thể làm cho Phật pháp trụ thế năm trăm năm nữa." Cho nên ngài Ca Diếp được khen là hạnh Ðầu-đà bậc nhất.... (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Theo đạo Phật có 4 cách chết:
a/ Chết vì hết tuổi thọ = Chết đúng thời: Tuổi thọ của mỗi loài sinh vật đã được định trước theo những định luật di truyền và những điều kiện sinh sống của mỗi loài, mỗi cá thể. Tuổi thọ của con người có nhiều người sống trên 100 tuổi khi đời sống văn minh.
b/ Chết vì hết nghiệp: Nghiệp ở đây có thể được hiểu là sinh nghiệp của kiếp sống đó hoặc nghiệp của toàn bộ kiếp sống của một chúng sinh, như vậy chúng sinh nầy đã đắc đạo quả A la Hán, đã thoát khỏi dòng sinh tử luân hồi.
c/ Chết vì hết tuổi thọ và hết nghiệp: Đây là cái chết của người lớn tuổi, đã sống hết tuổi thọ sinh học và đồng thời hết nghiệp của kiếp sống đó - hoặc là cái chết của một vị A la Hán đã hết tuổi thọ. Những vị nầy đã chết vì hết tuổi thọ và đồng thời cũng chấm dứt mọi nghiệp báu từ những tiền kiếp.
d/ Chết vì một Đoạn nghiệp - Không đúng thời: Có những Đoạn nghiệp cho quả làm cắt đứt thình lình dòng sinh nghiệp trước kỳ hạn của kiếp sống. Đây là cái chết bất đắc kỳ tử do tai nạn, bịnh tật, hoặc tự tử. Đây là chết không đúng thời/ Chưa sống hết định số thọ mạng. (Sinh nghiệp là năng lực có thể làm phát sinh và duy trì tâm và sắc trong đời sống hiện tại, đồng thời lúc vừa chết có khả năng tái tạo một đời sống mới, nó là sức mạnh để đưa đi tái ). (Nguồn: Thuyết Nhân Duyên)
+ Có chín nguyên nhân, mạng sống chưa diệt tận mà bị chết bất ngờ:
1. Không nên ăn cơm mà ăn cơm: Tức là ăn những thứ không ưa ý, ăn không theo thời tiết bốn mùa và ăn những thứ đã bỏ đi mà lấy lại ăn.
2. Ăn cơm không chừng mực: Ăn uống vô độ tức là không biết tiết độ trong khi ăn, ăn quá nhiều, ăn quá no.
3. Không tập cách ăn: Ăn những thứ không quen tức là khi đi đến một nước khác, do không biết tập tục ăn uống của người ta, ăn phải những thức ăn không quen và ăn uống trái giờ thường lệ, không chịu tập ăn chút chút trước cho quen dần thức ăn.
4. Không xuất ra: Không kịp tiêu hoá nghĩa là mới ăn xong, thức ăn chưa tiêu hoá đã ăn thêm thứ khác, hoặc khi uống thuốc xổ mà chưa xổ hết liền ăn trở lại.
5. Làm cho dừng lại: Nín đại tiểu tiện nghĩa là lúc cơ thể muốn đại tiểu tiện mà không đi liền, kiềm chế quá lâu, hoặc kiềm chế hạ phong.
6. Không giữ giới tức là phạm vào năm giới cấm, sống đời gian dâm, xâm phạm vợ con người khác, bị luật pháp trừng trị bỏ tù hoặc xử tử, hoặc bị tra tấn đến chết, hoặc bỏ đói đến chết, hoặc vượt ngục trốn thoát ra ngoài bị oán gia hại chết, hoặc lo sợ buồn sầu đến chết.
7. Gần gũi với ác tri thức: Gần gũi người ác nghĩa là người ta làm điều ác mà mình cũng đến gần gũi, chơi thân.
8. Vào trong nhà không đúng thời, không hành đúng như pháp: Nhập cư bất hợp pháp và không biết luật pháp sở tại để thi hành nghĩa là sáng sớm hoặc chiều tối đi qua nước khác, hoặc đi vào vùng chiến sự, bị quan phủ truy bắt mà không trốn; hoặc vào nhà người ta, trông thấy những điều không đáng thấy, nghe được những điều không đáng nghe, phạm vào những điều không đáng phạm, nhớ những điều không đáng nhớ…
9. Có thể tránh mà không tránh: đó là khi gặp những trâu điên, ngựa chứng, chó dại, rắn độc, hoặc gặp nước dữ, lửa lớn, hoặc hầm hố vực sâu, hoặc xe ngựa chạy quá nhanh, hoặc gặp người say, người ác cầm đao đâm chém nhau lại ra can gián… đó là những trường hợp tránh được mà không chịu tránh, để rồi lâm nạn vong thân.
Người có trí nên biết, những điều gì tránh được thì hãy tránh để có được hai điều lợi. Thứ nhất là được trường thọ. Thứ hai là được nghe chánh pháp, cũng được tu tập lâu dài. (Nguồn: Phật Thuyết Phật Y Kinh)
+ Những cái chết - Kiểu chết đúng và phi thời: Phật giảng về cái chết đúng thời và phi thời ....
- Hỏi về Bồ tát bố thí cả con đẻ của mình cho người khác, các con bị người nhận đánh giết ... thì cha mẹ có tội không? Cho với Tâm bình đẳng, mong con sung sướng thì không có tội. Người ác gây tội phải chịu theo nghiệp báo.
- Hỏi người thắp đèn, con thiêu thân bị chết thì có tội không? Phật giảng pháp, người ngu si làm không đúng pháp bị mang họa ... Phật KHÔNG có tội gì cả. Đèn sáng là tốt, ngu si phải chịu ...
- Hỏi Thân - Mạng khác nhau: Ngoại đạo nói, giết Thân xác thì không phải giết Mạng người, trả lời thế nào? Khi mà Người chết có thể thiêu, chặt xác thân .... Ngoại đạo lý luận giết người là giết Thân xác, không giết Thân mạng thì giảng giải thế nào? Còn Thiền sư dạy người "Giết Thân mạng" để không phải sinh tử luân hồi thì trả lời làm sao với ngoại đạo? Hoặc do tự sát giết Thân mà không giết mạng thì trả lời ngoại đạo thế nào?
Hỏi: Tại sao Như Lai biết vạn sự, sao không ngăn cản ngoại đạo vu oan cho ngài, để giúp họ thoát bị đọa địa ngục ??? Phật dậy, như người biết họ có nghiệp bị bệnh nạn nặng, nhưng khi bệnh chưa đến thời phát thì thầy thuốc có trị được không??? Hiện không có bệnh sao có thể trị??? Cũng vậy, Phật tuy biết hết trước, nhưng chưa phải thời thì không nói ra. Hơn nữa, như thầy thuốc khám ra bệnh quá nặng, do nghiệp chẳng thể chữa trị, đành chịu chết. Đức Phật cũng vậy, biết người có ác tâm hại Phật, nhưng họ lại vô duyên với Pháp của Phật dậy, ngài biết nói và khuyên nhủ họ cũng chẳng nghe, đành im lặng để họ tạo nghiệp và chịu nghiệp, Phật cũng chẳng có cách khác giúp họ được. Phật KHÔNG thể làm trái nghiệp báo và chỉ có thể ghi nhận như thế. ... (Nguồn: Văn Thù Tạp Vấn Phật)
+ Sự chết: Công việc của Thượng Đế Ngôi Hai chấm dứt và công cuộc hoá thân thiêng liêng của Ngôi 3 - Ngôi Con kết thúc. (LVLCK, 168)
+ Chết: Là sự triệt thoái ra khỏi tim và đầu, 2 luồng năng lượng – giác tuyến và sinh mệnh tuyến – do đó tạo ra sự mất ý thức hoàn toàn và sự tan rã của thể xác. (CTNM, 454)
+ Chết là sự triệt thoái một cách hữu thức hay vô thức của thực thể sinh động bên trong ra khỏi lớp vỏ ngoài của nó, sự tương ứng sinh động bên trong của nó, và sau cùng, chính là sự từ bỏ của thể tinh anh hay các thể tùy theo trình độ tiến hóa của con người. (CTNM, 478)
+ Sự chết chỉ là giải thoát cho linh hồn ra khỏi các xiềng xích nặng nề nhất, là việc hóa sinh vào một sự sống bao la hơn, một sự trở về trú sở đích thực của linh hồn sau cuộc sống tha hương ngắn trên cõi trần, một sự chuyển đổi từ bầu khí ngục tù sang bầu khí tự do khoáng đạt hơn. Sự chết là ảo tưởng lớn nhất trong số các ảo tưởng ở cõi trần. Không có sự chết mà chỉ có các thay đổi trong các điều kiện sống. Sự sống vẫn liên tục, không gián đoạn, không đứt đoạn; “bất sinh, vĩnh hằng, có tự nghìn xưa, thường tồn”. Sự sống không bị hủy diệt cùng với sự hủy diệt của các thể bao phủ nó. Cho rằng linh hồn bị hủy diệt khi thể xác tan rã thì cũng như nghĩ rằng bầu trời sập xuống khi cái lọ bị vỡ. (MTNX, 174)
+ Xem: Luân hồi - Chết và Tái sinh (Nói về việc Tu thập thiện nghiệp với nhân quả của việc chết và tái sanh. Việc tái sanh phụ thuộc rất lớn vào Nghiệp chướng và Tâm thức con người tại thời điểm lúc chết rất quan trọng)
+ Chết uổng: Đức Phật dậy 9 cái chết uổng. (Nguồn: Kinh Công Đức Dược Sư Phật_Trang 351/ 389)
+ Xem thêm: Phật giảng về cái chết đúng thời và phi thời .... (Nguồn: Văn Thù Tạp Vấn Phật)
+ Tánh Giác: Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung Tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “TÁNH GIÁC”.
- PHẬT TÁNH: Đối với con người thì cái Tánh giác này là Phật tánh hay Tánh giác diệu minh là Chánh Nhân Phật tánh nghĩa là Tánh mầu nhiệm vốn sẵn có. (Nguồn: Xem Mục Giác không sinh mê)
+ TÁNH GIÁC DIỆU MINH CHÂN TÂM:
Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”
Giảng giải:
Đoạn kinh văn nầy mở đầu cho phần cực kỳ quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Vì nội dung đoạn kinh này sẽ giải thích tại sao con người trở thành người.
Ông có nghe Như Lai đã từng dạy : "Tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu hay không? Bạch Thế Tôn! Con đã nghe, Phú Lâu Na thưa.
- Ý ông hiểu thế nào? Tánh giác tự minh mà gọi là giác hay tánh giác không minh phải dùng tánh minh để minh tánh giác?
Ngài Phú Lâu Na bạch với Phật: Tánh giác tự minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nếu tánh giác không minh thì còn lấy gì để gọi là minh tánh giác.
Phật dạy rằng:
- Đúng vậy. Phú Lâu Na! Nếu tánh giác không tự minh thì không lấy cái gì để minh tánh giác. Và nếu tánh giác là cái sở minh thì không còn gọi là tánh giác nữa.
=> Vậy ông nên hiểu : Tánh giác vốn minh mà chúng sinh lầm tưởng phải nhờ cái minh để minh tánh giác. Sự thật tánh giác vốn không phải là cái sở minh. Nhân vì lầm tưởng mà tánh giác trở thành ra sở. Cái vọng về sở đã thành, tất cái vọng năng của ông. Nguồn gốc của vọng tưởng phát nguyên là như vậy.
+ Nguồn gốc vọng tưởng sinh ra các hiện tượng Tâm lý: Tánh giác nhất định phải là diệu minh chớ không cần nhờ vào Minh để làm sáng tỏ. Còn Vọng là minh giác nghĩa là vừa dấy động một niệm sở minh thì chính mình đã đánh mất tánh giác diệu minh rồi. Tánh giác thì bao trùm khắp pháp giới vốn không có năng minh, không có sở minh, không có năng giác, không có sở giác, nhưng vì do vọng chấp mê lầm mà mình cho rằng mình có năng giác còn đối tượng bên ngoài có sở giác. Khi có sự thiết lập của năng và sở tức là trong và ngoài thì sự phân biệt đối đãi hình thành và dĩ nhiên vọng niệm cũng phát khởi từ đây. Thí dụ như khi quán chiếu thấy tượng Phật bên ngoài tức là sở minh thì chúng ta dùng hình ảnh Đức Phật bên ngoài mà xoay lại để thấy được Phật tánh bên trong của mình tức là năng minh. Còn nếu chạy theo hình tượng Phật bên ngoài mà quên đi Phật tâm, Phật tánh thanh tịnh, bất sinh bất diệt của chính mình thì chúng ta chạy theo sở minh mà quên bỏ năng minh bên trong vậy.
=> Đây là nguyên nhân của phiền não khổ đau. Vì thế tánh giác vốn tự minh tự diệu, không có gì đáng gọi là sở minh. Nhưng do vọ mà giả dối lập ra sở minh và đối đãi phân biệt sinh ra cái năng minh của chúng sinh. (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác - Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Lúc bấy giờ A-nan và cả đại chúng, được sự khai thị nhiệm mầu của Đức Phật, khiến thân tâm vắng lặng, chẳng còn ngăn ngại. Trong đại chúng, mọi người đều tự nhận ra tâm mình trùm khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem một lá cây hay đồ vật trong bàn tay. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ MỘT THỂ TÁNH: Đức Phật bảo. Phú-lâu-na, ông lại hỏi rằng, tánh của đất nước lửa gió vốn là viên dung, trùm khắp pháp giới, ông nghi tại sao tánh lửa và tánh nước lại không xâm đoạt lẫn nhau. Ông lại nêu ra hư không và đất liền trùm khắp pháp giới, lẽ ra nó không dung hợp với nhau.
Giảng giải: Phú-lâu-na, ông lại hỏi rằng, tánh của đất nước lửa gió vốn là viên dung, trùm khắp pháp giới. Ông bảo rằng, “Nơi nào có nước, thì nơi ấy không có lửa, và nơi nào có lửa, thì nơi ấy không có nước. Tánh của nước và lửa không dung hợp nhau.”
Quý vị nên biết rằng nước lửa và các chất khác đều có một thể tánh, tuy nhiên, chúng ta không thể nào suy lường mà biết được. Cũng như quý vị mỗi người đều có tính chất khác biệt nhau. Nước có tính chất của nước, lửa có tính chất của lửa, mắt thường của quý vị không thể nào nhìn thấy được vấn đề nầy. Khi nó đã thành lửa rồi, chúng ta mới thấy được nó, nhưng khi nó chưa thành lửa, tánh chất của lửa vẫn hiện hữu ở đó. Tương tự như tánh nước. Tánh nước cũng có trong khắp cả pháp giới. Vì khi có ánh sáng mặt trời, chúng ta vẫn có thể dùng kính lúp để lấy được lửa, và dưới mặt trăng chúng ta vẫn có thể lấy nước,[1] vì thể tánh của các chất nầy vẫn hiện hữu trong hư không. Quý vị thấy hư không vốn trống rỗng, nhưng thực ra nó được chất đầy bởi vô số các hiện tượng. Và hư không chính là pháp giới. Tuy nhiên, Phú-lâu-na không hiểu rằng tại sao tánh của nước và lửa lại cùng lúc trùm khắp cả pháp giới.
“Phú-lâu-na, ông nghi tại sao tánh lửa và tánh nước lại không xâm đoạt lẫn nhau. Ông lại nêu ra hư không và đất liền trùm khắp pháp giới, lẽ ra nó không dung hợp với nhau. ‘Hư không là hư không,’ ông lý luận, ‘và nếu ở đó có hư không thì sẽ không có đất. Đất là vật cứng chắc, ngăn ngại, thế nên sẽ không có chút nào hư không trong đó cả. Nếu hư không trùm khắp pháp giới thì trong đó sẽ không có đất. Nếu đất trùm khắp pháp giới thì trong đó sẽ không có hư không.’” Đức Phật lập lại mối nghi của Phú-lâu-na.
+ Như Lai dùng Tánh giác diệu minh bất sinh bất diệt hiệp cùng Như Lai tạng, thì Như Lai tạng chỉ thuần là Tánh giác diệu minh, chiếu khắp cả pháp giới.
Cho nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong cái nhỏ hiện ra cái lớn, trong cái lớn hiện ra cái nhỏ.
Đạo tràng bất động cùng khắp cõi giới mười phương. Thân bao trùm cả hư không vô tận khắp mười phương. Ở trên đầu một mảy lông mà hiện ra cõi Bảo vương. Ngồi trong vi trần mà chuyển bánh xe đại pháp. Diệt trần tướng, khế hợp tánh giác, nên phát ra tánh giác chân như sáng suốt nhiệm mầu.
Quán về tánh, vốn là chân, chỉ là tánh diệu giác minh. Tánh diệu giác minh, vốn chẳng phải là lửa, là nước. Làm sao còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?
Giảng giải:
Khi quán chiếu sâu vào Tánh Như Lai tạng, thấy xưa nay vốn là chân, hoàn toàn không có một vọng tưởng nào. Trong đó duy chỉ có tánh diệu giác viên minh chân thật. Xưa nay vốn chẳng có các tướng đất nước, lửa, gió; chỉ vì trong tánh Như Lai tạng vốn có đầy đủ tất cả các pháp, đầy đủ tất cả tánh năng. Tuy đầy đủ các pháp: năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, đều có đủ tất cả công năng, nhưng đều cùng nhau tương hợp an ổn vô sự, mỗi tướng đều được an lập nơi phần vị của mình, không có sự xâm đoạt, lấn diệt lẫn nhau. Khi đã rõ rồi, thì sẽ không cần phải hỏi về chuyện các hiện tượng có dung hợp nhau trong tánh Như Lai tạng.
Tánh diệu giác minh chân thật cũng như vậy. Nếu ông phát minh Hư không, thì có Hư không hiện ra. Nếu ông phát minh đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ đều hiện ra. Nếu cùng phát minh các hiện tượng, thì tất cả cùng hiện ra.
Giảng giải: "Tánh diệu giác minh chân thật"- tức là thường trú chân tâm tánh tỉnh minh thể cũng như vậy. "Nếu ông phát minh hư không, thì có hư không hiện ra. Nếu ông phát minh đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ đều hiện ra" - Nếu ông tạo ra nhân duyên khiến phát sinh một hoặc các yếu tố: đất, nước, lửa, gió, thì mỗi thứ ấy đều được hiện ra. "Nếu cùng phát minh các hiện tượng, thì tất cả cùng hiện ra" - Nếu cùng lúc tạo ra nhân duyên khiến phát sinh tất cả, thì tất cả các đại chủng ấy đều hiện ra. Chẳng hạn, một người có thể nghĩ đến – có nghĩa là có trong mình – Lửa trong mặt trời và nước từ trong hạt châu cùng một lúc.
Thế nào là cùng hiện ra? Phú-lâu-na, như trong chỗ có nước hiện ra bóng mặt trời, có hai người cùng xem mặt trời hiện trong nước. Rồi mỗi người đi về mỗi hướng đông tây khác nhau, ắt là họ đều thấy có mặt trời theo mình. Theo hai người cùng đi, một về hướng đông, một về hướng tây, không có chuẩn đích nhất định.
Nên không thể gạn hỏi rằng, mặt trời ấy chỉ là một, tại sao khi mỗi người đi đều có mặt trời đi theo? Mặt trời đã thành hai, tại sao trước kia chỉ hiện ra một? Hư vọng quanh quẩn như vậy, chẳng có gì để làm bằng cứ.
Phú-lâu-na, ông lấy cái sắc không khuynh loát, xâm đoạt nhau trong Như Lai tạng, thì Như Lai tạng sẽ cùng theo ông làm sắc, làm không hiện khắp cả pháp giới.
Thế nên trong ấy, gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Chúng sinh mê lầm, trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian.
Giảng giải: "Thế nên"– do vì sắc và không tương tục xâm đoạt lẫn nhau trong tánh Như Lai tạng, trong đó sinh khởi tác dụng cùng với các tướng hữu vi. Do các nguyên nhân nầy, mà sắc và không trở thành hiện hữu, tướng và dụng của nó trùm khắp cả pháp giới. "Trong ấy" - trong tánh Như Lai tạng, "gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối". Nguyên nhân là do "chúng sinh mê lầm". Ở trong chỗ vô số hiện tượng ấy, chúng sinh trở nên mê lầm. Họ không nhận ra được đạo lý về chân tâm, nên họ bị mê muội. Do vậy, nên trong chân tâm (phần chân) của tánh Như Lai tạng đã sinh khởi nên tam tế lục thô.
Như Lai dùng tánh giác diệu minh bất sinh bất diệt hiệp cùng Như Lai tạng, thì Như Lai tạng chỉ thuần là tánh giác diệu minh, chiếu khắp cả pháp giới.
Cho nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong cái nhỏ hiện ra cái lớn, trong cái lớn hiện ra cái nhỏ.
Mà Như Lai tạng chính là bổn diệu viên tâm.
Giảng giải: Còn có thể gọi tánh Như Lai tạng là bổn diệu viên tâm. Vốn là vi diệu, viên mãn, thanh tịnh và trùm khắp pháp giới. Nó lớn đến nỗi không có cái gì vượt qua nó được và nhỏ đến mức trong đó chẳng có gì. Cái bổn diệu viên tâm khác với các hiện tượng kia như thế nào? Đức Phật bảo:
- Không phải là tâm, chẳng phải là không. Không phải là đất, chẳng phải là nước, chẳng phải gió, chẳng phải lửa; ... Như thế cho đến chẳng có Như Lai, chẳng phải A-la-hán, chẳng có Chánh biến tri. Chẳng có đại niết-bàn, chẳng có thường lạc ngã tịnh.
Do đó đều chẳng phải là các pháp thế gian và xuất thế gian. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng.
- Tức là tâm, là không. Tức là đất nước gió lửa. Tức là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Tức là sắc thanh hương vị xúc pháp. Tức là nhãn thức giới, ..... tức trí huệ, tức lục độ. Như thế cho đến tức Như Lai, tức Ứng cúng, tức Chánh biến tri. Tức đại niết-bàn, tức thường lạc ngã tịnh .
===> Do vậy nó là cả hai pháp thế gian và xuất thế gian, Tức là Như Lai tạng diệu minh tâm nguyên.
Rời các nghĩa “tức,” “phi,” mà cũng là nghĩa “tức,” và chẳng phải nghĩa “tức.”
Làm sao chúng sinh trong ba cõi thế gian, cùng với hàng Thanh văn Duyên giác xuất thế gian, đem tâm sở tri mà suy lường Vô thượng bồ-đề của Như Lai, dùng ngôn ngữ thế gian để nhập vào tri kiến Phật?
HT Tuyên Hóa giảng về Như Lai Tạng ở trên: Giáo pháp được giảng bây giờ chính là không Như Lai tạng. Kế đến, quý vị sẽ được giải thích Như Lai tạng vốn là không và bất không. Thế nên quý vị thấy, Như Lai tạng vốn không chỉ đơn thuần là một trạng thái, mà nó có vài điều khác biệt trong nầy. Vậy nên quý vị đừng thấy rằng mình biết được vài thuật ngữ Phật pháp rồi kể rằng mình đã hiểu được tất cả. Có thể quý vị chỉ biết về Như Lai tạng, nhưng quý vị còn phải biết cách làm cho Như Lai tạng thành không; và quý vị biết được Như Lai tạng là bất không, nhưng rồi quý vị phải nhận ra được Như Lai tạng vốn vừa là không vừa là bất không. Quá rắc rối, phải không?(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Bản giác và Minh Giác: ... Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến, đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác?
Giảng: Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến. Các ông lập nên một tri kiến khác trên cái tri kiến vốn đã là hư vọng. Đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Ông đã nhận ra rằng tri kiến của mình vốn là không có tự thể, thế nên ông không khởi một niệm tưởng nào căn cứ trên tri kiến ấy. Ngay trong tri kiến ấy mà không khởi một niệm tưởng phân biệt nào chính là tương ưng với Đạo. Đó chính là niết-bàn vô lậu chân tịnh. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác? Trong chỗ vắng bặt tri kiến, làm sao còn dung chứa một thứ gì khác? Nơi ấy chính là bản nguyên thanh tịnh pháp giới. Tại sao ông lại muốn đưa thêm một thứ gì nữa vào trong đó? Tại sao lại chồng thêm tri kiến lên trên tri kiến? Nguyên lý nầy cũng như trong đoạn kinh trước đã nói, “Bản giác vốn là diệu minh, nhưng hư vọng nên thành minh giác.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Giảng về đặc tính "Chủng tử"/ Thể - Dụng: Có 10 phẩm tính của Thể tánh của chủng tử gồm có:
Sát na diệt - Quả câu hữu - Hằng tùy chuyển - Tánh quyết định (Thiện , ác và Vô ký) - Đãi chúng duyên - Dẫn tự quả (Hạt gì Cây đó) - Tự biến cộng biến - Tương tức tương nhập - Không cũ không mới - Bất nhị (Tính liên tục nuôi trưởng dưỡng) - Không thêm không bớt.
A lại ra thức (Vô ký) bị bao phủ bởi 7 thức thấp hơn/ hạt giống Nghiệp bao gồm tham sân si vui buồn .... Ví như hương sen ướp ra nhiều loại chè khác nhau => Chè/ Thức bị ướp - Bị nhiễm (Nguồn: Xem Sư ông Nhất Hạnh giảng)
+ Xin mời quí vị đọc bài tổng hợp chuyên đề với thuật ngữ Thể Dụng vi diệu của Như Lai tạng và tánh Như lai tạng, bản giác ... : Mời xem tại đây
+ Định đề (Postulate): Quyển “Luận về Huyền linh thuật” được căn cứ vào 4 định đề căn bản mà kẻ nghiên cứu phải chấp nhận vì nó cung cấp một giả thuyết đáng nghiên cứu và thử nghiệm, thứ tự quan trọng là:
1. Trong vũ trụ biểu lộ của chúng ta có tồn tại sự biểu hiện của một Năng lượng hay Sự sống vốn là nguyên nhân chịu trách nhiệm cho vô số hình hài sắc tướng và một huyền giai rộng lớn các thực thể có khả năng cảm thụ tạo thành toàn thể những gì hiện tồn. Định đề này thường được gọi là Vật–Hoạt–Thuyết, mặc dù thuật ngữ này chỉ làm cho rối trí.
2. Định đề này xuất phát từ định đề thứ nhất và được phát biểu như sau: Sự sống Duy Nhất, biểu lộ qua vật chất, tạo ra một yếu tố thứ ba đó là ý thức. Ý thức này, vốn dĩ là kết quả của sự hợp nhất của hai cực tinh thần và vật chất, là linh hồn của vạn vật; nó thấm nhuần mọi chất liệu hay năng lượng biểu lộ ra bên ngoài; nó nằm dưới mọi hình hài, dù cho đó là hình hài của đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là một nguyên tử, hay là hình hài của con người, một hành tinh hay một Thượng Đế. Đây là Tự Định Thuyết.
3. Được phát biểu như sau: Mục tiêu mà theo đó sự sống chiếm ngự hình hài và mục tiêu của thực thể biểu lộ là việc khai mở ý thức hay là sự thiên khải của linh hồn. Định đề này có thể được gọi là Thuyết Tiến Hóa Ánh sáng.
4. Mọi sự sống đều biểu hiện theo chu kỳ. Đây là Thuyết Tái Sinh hay Thuyết Luân Hồi, minh chứng của định luật chu kỳ. Đó là các đại chân lý ẩn tàng tạo thành nền tảng của Minh triết Muôn đời - Sự hiện tồn của sự sống và việc phát triển của ý thức qua việc chiếm hữu hình hài theo chu kỳ.(LVHLT, 8–10)
+ Khẩu quyết hình thành Thế giới trong Dịch học Đông phương: Thiên địa định vị - Thiên trạch thông khai - Lôi phong tương bạc - Thủy hỏa bất tương xạ
+ Các chu kỳ:
Thế giới: Thành trụ hoại không
Chúng sinh: Sinh lão bệnh tử
+ Các Nguyên lý gốc:
I. Nguyên Lý Cơ Bản I. Có một Nguyên Lý Bất Biến Vô Biên; một Thực Tại Tuyệt Đối đi trước tất cả Hiện Hữu biểu lộ theo điều kiện. Nó vượt ngoài phạm vi và tầm với của bất kỳ tư duy hay sự diễn đạt nào của con người.
Vũ Trụ biểu hiện được chứa đựng bên trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một biểu tượng có hạn định của Thực Tại Tuyệt Đối đó.
Trong toàn thể Vũ Trụ được biểu hiện này, có ba phương diện phải được nhận thức (3)
1. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 1, vô ngã và không biểu lộ, có trước của cái được Biểu Hiện.
2. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 2, Tinh thần-Vật chất, Sự sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.
3. Thượng Đế Vũ Trụ Ngôi 3, Thiên Ý Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Phổ quát..
+ Kiến thức về vũ trụ gốc Tam phân – năng lượng gốc vũ trụ là chính. Từ năng lượng này, vô số Thái dương hệ hình thành, mỗi thái dương hệ có một sự sống biểu lộ, chúng ta thường gọi là Đấng Thái Dương Thượng Đế . (QU1. Ma Kết)
II- Nguyên Lý Cơ Bản II. Có một nguyên lý cơ bản được gọi là Định Luật Tuần Hoàn.
1. Định Luật Tuần Hoàn này chi phối tất cả các biểu hiện, dù đó là biểu hiện của một Thái Dương Thượng Đế thông qua trung gian một thái dương hệ [Trang 6], hay là biểu hiện của con người thông qua trung gian một hình thể. Tương tự, Định luật này cũng điều khiển tất cả các vương quốc trong tự nhiên.
2. Ba Định Luật Vũ Trụ được kết nối với Định luật này (6)
3. Có bảy Định Luật hệ thống, thống trị sự biểu hiện của Đấng Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. (6)
4. Mỗi định luật trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ (6)
5. Mỗi luật có hiệu lực tuần hoàn (6)
Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cõi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ yên nghỉ của nó
6. Mỗi sự sống biểu hiện có ba chu kỳ vĩ đại của nó (6-7)
Sinh ra - Sống - Chết.
Xuất hiện - Phát triển - Biến mất.
Giáng hạ tiến hoá - Tiến hóa - Qui nguyên
Bất động - hoạt động - chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại - Sự sống sinh động - Sự sống nhịp nhàng.
7. Kiến thức của các chu kỳ liên quan đến kiến thức về con số, âm thanh và màu sắc (7)
8. Kiến thức toàn bộ của các chu kỳ chỉ được biết đến khi đã là một người tinh thông lão luyện hoàn thiện (7)
Tri thức trọn vẹn của bí ẩn của các chu kỳ chỉ được sở hữu bởi Chân sư hoàn thiện.
III- Nguyên Lý Cơ Bản III. Tất cả các linh hồn đều giống với Đại Hồn
1. Thượng Đế của thái dương hệ là Đại Vũ Trụ. Con người là Tiểu Vũ Trụ. (7)
2. Linh hồn là 1 phương diện của mọi dạng thức đời sống, từ một Thượng Đế (Logos) cho đến một nguyên tử. (7)
3. Mối quan hệ giữa những linh hồn và Đại Hồn là nền tảng của Tình Huynh Đệ (7)
Mối quan hệ giữa tất cả các linh hồn và Đại Hồn cấu thành nên nền tảng niềm tin khoa học của Tình Huynh Đệ. Tình Huynh Đệ là một sự thật trong tự nhiên, không phải là một lý tưởng. (Nguồn: Luận về Lửa Càn Khôn)
+ Tọa thế (Posture, Asana, tư thế ngồi thiền): Tư thế tốt nhất là tư thế làm cho người tìm đạo có thể sớm quên rằng mình đang có một thể xác. Người ta thường đưa ra tư thế ngồi thẳng lưng (upright position) thoải mái trên một cái ghế, chân đặt tréo tự nhiên, tay đặt trên đùi, mắt nhắm lại, cằm hơi cúi xuống, đó là tọa thế tốt nhất cho người tìm đạo Tây phương. Ở Đông phương, có một môn học về các tọa thế và có khoảng 84 cách ngồi khác nhau, một số rất phức tạp và gây nhiều đau đớn. Môn học này là một nhánh của Hatha Yoga và căn chủng thứ năm không cần tuân theo. Đó là tàn tích của môn Yoga chỉ cần và đủ cho căn chủng Lemuria, vì họ cần học cách kềm chế thể xác. … Cần nên nhớ rằng nỗ lực để đạt tới việc quên đi thể xác bằng tọa thế đúng cách được mang lại nhờ việc kiên trì thực hành với sự thoải mái hơn là nhờ áp đặt mạnh bạo lên cơ thể những tư thế và phong thái xa lạ và không thoải mái. (ASCLH, 215)
+ Tư thế khi Tham Thiền:
- Tư thế trên cõi hồng trần – một vị thế vững vàng và bất động của thể xác khi tham thiền.
- Tư thế trên cõi cảm dục – một tình trạng vững mạnh, ổn định, không lay chuyển của thể tình cảm trong đời sống ở cõi trần.
- Tư thế trên cõi trí – một thể trí ổn cố, không xao động, hoàn toàn được chế ngự.
+ Tư thế ngồi tham thiền: Tọa như chung/ Ngồi như đại hồng chung. Không giao động, ngay ngắn, thẳng thắn. Mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm, lưỡi thì uốn cong lại để ở hàm trên, có nước dãi thì nuốt vào. Hành như phong/ gió thoảng nhẹ. Trạm như tùng/ Đứng như cây tùng. Ngọa như cung ....
- Ngồi thiền thì uốn đầu lưỡi lên hàm trên, nếu có nhiều nước dãi thì nuốt vào. Đây là "Nước cam lồ". Vid sao? Vì ngồi thiền, ngồi lâu rồi nước dãi là vị ngọt. Tuy không đồng như đường, hoặc như mật, nhưng cũng là một vị ngọt đàm đạm. Người thường uống thức nước cam lồ này, thì thường không ăn cơm cũng không đói, không uống nước cũng không khát, cho đến đi không biết đi, đứng không biết đứng, ngồi không biết ngồi, nằm không biết nằm, công phu đã đả thành một khối, thời khắc đều ở trong định.
Nước cam lồ trị được bách bệnh, cường thân kiện thể, khai mở đại trí huệ, nhưng phải luôn luôn dụng công, không nên gián đoạn. Vì sao người tu đạo không thích nói nhiều, vì họ muốn dụng công, bổ củi, gánh nước ... đều dụng công, cho đến thành thục không dụng mà tự dụng công, khong nghĩ tham " Niệm Phật là ai" nó cũng tự tham. Tham đến thành khối mưa gió mặc trời.
Nước cam lồ lại còn gọi là "nước nhà mình", ba chữ này hợp lại đọc thành chữ dược "Thuốc". Thuốc này sống thọ lâu năm, thuốc liễu sinh thoát tử, thuốc thoát khỏi luân hồi lục đạo. Ai ai cũng có thuốc này, nhưng mọi người không dùng đến nó. Ai cũng bỏ gốc tìm ngọn ..., thứ thuốc này tự tính vốn sẵn có. Người nào thường dụng công thì nước dãi rất ngọt, thậm trí còn hơn mật, đường. đợi đến khi thuốc này công hiệu thì trong thân thể liền sinh sản biến hóa. Nếu chưa tu đến chỗ diệu dụng, thì không biết, nếu đến được rồi thì thời thời khắc khắc không thể buông bỏ công phu. Không thể gián đoạn, nhưng phải luôn giữ thường hằng. Không phải 3 ngày đánh cá, 2 ngày phơi lưới ... phải kiên, thành, hằng, thường dụng công thì mới có thể thành tựu. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr41; 127 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tư thế ngồi thiền: ... Hôm nay là ngày đầu thiền thất. Hy vọng quý-vị chớ lãng phí cơ hội khai ngộ.
Ðả thất thì phải khắc kỳ thủ chứng. Không thể ngồi trên thiền sàng mà khởi lên vọng tưởng. Như vậy thì chỉ cô phụ công việc tham thiền của mình mà thôi.
Bây giờ nói về tư thế tọa thiền, mình cần phải ngồi cho đúng mới có ích lợi cho thân tâm. Nếu không, tọa thiền không có giá trị gì. Trong khi tọa thiền, trước hết phải để thân tâm mình tự nhiên nhẹ nhàng, không nên gấp rút khẩn trương. Tốt nhất là ngồi thế kiết già, đó là thế căn bản của pháp ngồi thiền.
Thế kiết già phu tọa (hoặc là thế kiết già) là gì? Tức là lấy chân trái để lên chân mặt, sau đó để chân mặt lên đùi trái. Ðó là thế Kim-cang tọa, nghĩa là thế kiên cố bất động. Trong quá khứ chư Phật đã ngồi thế Kim-cang tọa mà thành Phật; tư thế này có thể hàng phục thiên ma và chế chỉ ngoại đạo. Khi chúng thấy mình ngồi trong tư thế này thì chúng liền thối lui, không dám lại quấy phá.
Sau khi đã ngồi kiết già rồi, mắt phải nhìn vào chóp mũi, không được nhìn phía đông cũng không được nhìn phía tây. Ðó gọi là:
Mắt nhìn mũi, mũi hướng về miệng, miệng hướng về tâm.
Như vậy thì mình mới có thể nhiếp trì được thân tâm; đem tâm đang chạy loạn xạ đó mà định trụ lại, không cho nó chạy ra bên ngoài nữa. Khi được như vậy thì gọi là:
Tâm chuyên nhất, mới linh cảm.
Tâm phân tán, thì bế tắc.
Mình cần phải đoan nghiêm chính tọa, xương sống phải thẳng, đầu phải ngay, không cúi về trước cũng chẳng ngã ra sau; không nghiên bên trái hoặc ngã bên phải. Mình phải ngồi như cái chuông lớn, vững vàng không động đậy. Ðừng ngồi giống như cái chuông treo, lắc qua bên đông lắc qua bên tây. Ngồi kiết già là tư thế thích hợp nhất để tham thiền.
Người sơ học sẽ cảm thấy không quen, nào là đau chân, mỏi lưng, không nên coi đó là quan trọng. Mình cần phải cắn răng chịu đựng, nhẫn nại một thời gian lâu dài thì tự nhiên hiện tượng đó không còn nữa. Ðó gọi là "cửu tọa hữu thiền" nghĩa là ngồi lâu tự nhiên sẽ có thiền, tự nhiên sẽ đắc được thiền vị.
Thân thể của mình cũng giống như căn phòng vậy. Muốn du hành ra ngoài, muốn đến chỗ nào thì tự do mà làm. Muốn hóa thân thành trăm ngàn vạn ức tới tận hư không biến Pháp-giới để giáo hóa chúng sinh thì tùy ý nhậm vận. Nếu không muốn đi du hành thì mình vẫn ở trong căn phòng, không ai có thể tới làm phiền mình cả. Nên hiểu rằng tận hư không biến Pháp-giới, tất cả mọi thứ đều ở trong pháp thân, không có gì chạy ra khỏi pháp thân này.
Quý-vị hết sức siêng năng cần khổ lại tham thiền, ngày đêm không ngừng dụng công, là chỉ vì muốn được tự do trong sinh tử, khống chế được sinh mạng của chính mình, làm chủ chuyện sinh tử. Khi đã làm chủ được thì đó là mình đã tới được cảnh giới sinh tử tự do.
Người tham thiền tham đến chỗ trên không biết có trời, dưới không biết có đất, giữa cũng không thấy có người, cùng với hư không hợp thành một. Tới cảnh giới như vậy sẽ có cơ hội khai ngộ. Lúc ngồi lúc đi đều là cơ duyên để khai trí huệ.
Mình tham câu: "Niệm Phật là Ai?" Niệm Phật là người nào? Người nào đang niệm Phật? Ai là người đang ngồi đây? Người ngồi đây là Ai? Lúc ăn cơm, Ai là người ăn cơm? Lúc ngủ, Ai là người đang ngủ? Phải tìm ra kẻ đó. Tìm tất cả là Tham; tham đến lúc thủy cùng sơn tận thì với một sự chuyển thân mình sẽ khai ngộ. Rằng ... (Nguồn: Đả thiền thất phải khắc kỳ thủ chứng - HT Tuyên Hóa)
+ Ngồi Kiết già và Bán già: Ngồi trong tư thế kiết già là ngồi với tư thế hai chân đan chéo vào nhau. Ngồi với tư thế kiết già này sẽ được phát sinh vô lượng công đức.
... Ông ta ngồi suy nghĩ: “Nếu ta ngồi trong tư thế kiết già thì đó là ngôi chùa bằng vàng, nếu ta ngồi với tư thế bán già thì đó là ngôi chùa bằng bạc, còn nếu ta không ngồi với hai tư thế ấy thì chẳng có gì khác ngoài một vũng bùn. Tốt hơn là nên bắt đầu tu tập, không nên xoay xở tụng kinh đám nữa.” Rồi ông ta vùi mình trong đề tài ấy ngay và công phu tham cứu rất nghiêm mật. Sau một thời gian, ông được ngộ đạo, được tặng danh hiệu “Quỷ Bức Thiền Sư.” Vì nếu vị ấy không bị hai con quỷ dọa đánh, vị ấy chắc hẳn sẽ còn trì hoãn công phu và sẽ không bao giờ thành công trong việc tu tập. (Nguồn: Xem tư thế ngối thiền - HT Tuyên Hóa)
+ Tư Thế và Giữ Tâm trong thiền định
Bây giờ tâm trong nhân địa tu hành phải trở về với cội nguồn thanh tịnh, trong sạch; điều nầy giống như lắng nước đục bằng cách để yên trong bình chứa. Lặng yên mãi không lay động. Bình chứa yên tĩnh ấy là gì? Đó là hình ảnh biểu tượng cho quý vị khi ngồi thiền. Khi chúng ta ngồi thiền và tu tập thiền định, có nghĩa là chúng ta đang làm cho đất bùn lắng đọng bằng cách ngồi yên tĩnh. Khi chúng ta đã phát triển được định lực, nghĩa là ta rót nước trong của định lực vào trong tự tánh mình. Thân quý vị giống như cái bình chứa yên tĩnh. Nhưng quý vị phải hoàn toàn không được lay động. Không được duỗi chân ngay khi vừa thấy đau, hoặc dựa lưng nghỉ ngơi khi vừa thấy đau lưng. Ai trong quý vị vừa duỗi chân ra dù chỉ chút ít hoặc chồng gối phía sau lưng để đỡ mình thì vẫn chưa hiểu được thế nào là trưởng dưỡng công đức. Quý vị luôn luôn nhìn quanh để tìm kiếm sự thuận tiện cho mình. Ở Mỹ, người ta luôn luôn quan tâm đến tiện nghi, dù trong ngôi nhà nghèo nhất cũng có cái máy truyền hình. Chúng ta không thể nói rằng đây là ‘hoàn toàn yên tĩnh và bất động’ được. Người mà hoàn toàn yên tĩnh và bất động thì không bao giờ lo sợ cái gì cả. Chân đau một chút không nghĩa lý gì cả..... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ Tu là Pháp trung đạo:
Làm Vừa Ðủ là Trung-Ðạo
Pháp môn tham thiền, cần hồi quang phản chiếu ở mọi thời mọi lúc một cách tự nhiên. Mình không được quá gấp rút, cũng không được quá chậm chạp; nên có câu nói rằng:
Gấp thì đứt, chậm thì lỏng
Không chậm, không gấp mới thành công.
Không gấp không chậm là trung đạo; đi đứng nằm ngồi đều không rời "cái nầy," xa rời khỏi "cái nầy" tức là sai lầm. "Cái nầy" là cái gì? Ðó chính là Trung-đạo liễu nghĩa.
Tham thiền không được đi vào cực đoan, không được quá lố cũng không được thiếu hụt; quá lố hay thiếu hụt đều không phải là Trung-đạo. Không rơi vào "không," cũng không rơi vào "hữu," không rơi vào hai biên tế, mới gọi là Trung-đạo. Nên nói rằng: "Trung-đạo chính là phi không phi hữu" (chẳng không mà cũng chẳng có), cũng có nghĩa là chân không diệu hữu. Không chấp trước chân không, nhưng cũng đừng quái ngại diệu hữu. Chân không diệu hữu đều không thể nắm bắt, cũng không thể xả bỏ. Nắm cũng không được, bỏ cũng không xong, đó chính là cảnh giới của chân không diệu hữu.
Người dụng công cần phải có thủy có chung (có đầu có đuôi) thì mới thành tựu được. Rằng: "Quán triệt thủy chung." Không thể một ngày tu rồi mười ngày nghỉ Ố nhất bộc thập hàn Ố nghĩa là một ngày hơ ấm, mười ngày bỏ lạnh. Không được gặp chuyện khó khăn liền thối lui, đi được nửa đường rồi bỏ cuộc, người như vậy là kẻ không có chí khí. Cổ nhân nói:
Tu Ðạo bất phạ mạn, chỉ phạ trạm.
Nghĩa là:
Người tu đạo không sợ chậm, chỉ sợ đứng một chỗ.
Lúc thường dụng công tham thiền, mình nên chú ý vào thoại đầu, dùng Kim-cang bảo kiếm (tức là trí huệ) để chặt hết vọng tưởng. Vọng tưởng hết, thì trí huệ hiện tiền. Có trí huệ quang minh, mới phá tan vô minh hắc ám. Vô minh phá trừ rồi, mình thoát khỏi Tam-giới, hết sinh tử, lúc đó mới ra khỏi vòng tròn định mạng (thập nhị nhân duyên).
Người dụng công tu đạo cần có tâm nhẫn nại. Bất luận trường hợp khó khăn gian khổ nào, cũng cần nhẫn thọ. Nhẫn nại thì mới tới được bờ bên kia. Vì vậy trong khi đả thiền thất đừng nên sợ khổ. "Khổ tận cam lai" nghĩa là đắng hết, ngọt lại. Nếu mình chưa lặn xuống tận đáy, mình sẽ không bao giờ vươn lên tận chóp đỉnh. Căn nhà cao hằng ngàn trượng đều từ nơi mặt đất xây lên, không phải xây lên trong hư không. Bởi thế cần hạ thủ tham thiền nơi chốn căn bản, tức là trừ bỏ vọng tưởng. Nếu mình có thể ngừng vọng tưởng, thì lúc đó:
Lòng trong suốt, trăng hiện bóng nước.
Ý an định, trời xanh không mây.
Khi lòng thơi thản, trăm nạn tiêu hết. Ý yên định, mọi chuyện an bình. Rằng:
Tâm ngừng, niệm dứt là giàu sang thật.
Lòng tư dục cạn, ruộng phước mới chân.
Tham thiền tức là dứt hết vọng, chỉ còn sự chân thật (khử vọng tồn chân). Cũng giống như sàng cát đãi vàng vậy; ở trong cát mà tìm vàng đó là chuyện rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu mình muốn tìm vàng thì phải tìm trong cát, tất phải có lòng nhẫn nại. Quý-vị có muốn hiểu rõ Phật tánh của mình không? Muốn được minh tâm kiến tánh chăng? Vậy thì phải nhẫn nại tu hành, nhẫn nại tham thiền, nghiên cứu, lâu dần thì tất nhiên sẽ quán thông, sẽ khai ngộ; "ồ! Thì ra là vậy."
Khi tham thiền thì mình đừng để ý đến chuyện khác, cứ một mực tham câu "Niệm Phật là Ai?" Phải tìm cho ra "Ai" đó, chỉ khi nào tìm ra rồi thì lúc đó mới ngừng tham. Công phu mình đã đến chỗ thuần thục rồi, thì tự nhiên sẽ gặt hái được kết quả tốt.
Khi ngồi trong thế kiết già, đem chân trái gác lên đùi phải, đem chân phải gác lên đùi trái. Ðó là vì chân trái thuộc về dương, chân phải thuộc về âm. Cho nên khi ngồi thiền, chân trái (dương) thì ở phía trên, chân phải (âm) thì ở phía dưới, đó cũng giống như là vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (tức là âm và dương). Tuy ý nghĩa như vậy; nhưng để cho tiện, quý-vị muốn bỏ chân trái ở dưới, chân phải ở trên cũng được; bởi vì Pháp thì không nhất định, tùy theo thói quen của mỗi người, không cần phải chấp trước một phương pháp, một tư thế cố định nào cả. Ðể chân trái ở trên chân phải là một phương pháp mà thôi, không phải là một quy luật tuyệt đối; rằng quý-vị phải tuân theo như vậy.
Nói tóm lại, kiết già phu tọa là thế mình dễ nhập định nhất. Nếu mình có thể nhập định trong lúc đi thì ngồi hay không ngồi đều không thành vấn đề. Cảnh giới lúc nhập định thì không có một chút vọng tưởng nào, trong tâm một niệm chẳng nẩy sinh, bụi trần chẳng nhiễm. Nếu có thể đi đứng nằm ngồi không sinh một niệm nào, không nhiễm ô bụi trần thì đó là lúc dụng công đấy. Không nhất định ngồi mới gọi là dụng công tham thiền. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Nhập môn ngồi thiền: 328. Hỏi: Xin Ngài lược giảng chút ít về phương pháp ngồi thiền ở chùa Kim Sơn để con có thể nhập môn?
Đáp: Chú tới chùa Kim Sơn (San Francisco) thì biết liền. Muốn nhập môn, vào cửa trước tiên phải tập ngồi kiết già. Hòa Thượng Trái Cây (Thủy Quả), tức là Ngài Quảng Khâm cũng tréo chân ngồi như thế. Đó gọi là Kim Cang tọa. Ngồi như vậy thì có thể hàng phục được ma quân.
332. Hỏi: Tại sao nhất định phải ngồi kiết già mới nhập định được? Dùng phương pháp khác có được không? Nếu như hai chân không xếp bằng lại được như vậy thì có thể ngồi yên tĩnh tọa không?
Đáp: Vậy cũng được. Thế ngồi kiết già này gọi là Kim Cang tọa, thành thử giúp ta ngồi được kiên cố hơn một chút.
344. Hỏi: Vậy rốt cuộc thì phương thức tĩnh tọa Siêu Giác này là tốt hay không tốt? Vì hiện nay loại thiền này thì rất thịnh thành trên khắp thế giới.
Đáp: Đó là vì có số người không cách gì ngồi kiết già cho được, nên người ta mới nghĩ ra một phương pháp khác biệt thôi. Thật ra, muốn tĩnh tọa thì trước tiên phải học ngồi kiết già. Không luyện tập ngồi kiết già, không ra chút công phu mà muốn đắc đạo. Đó là chuyện không thể có được. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hét1 - HT Tuyên Hóa giảng)
* Đọc thêm: Lợi ích và an toàn trong tu thiền
+ Nghĩa của chữ Phật là gì?
Chữ Phật có nghĩa là giác ngộ. Đức Phật có đủ ba tính giác: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Điều này đã được giải thích rõ ở trên.
Ở trong kinh này thuật ngữ “ba tính giác” chính là bản giác, thủy giác và cứu cánh giác. Nhưng đây cũng là những tên gọi khác của tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Trong kinh Phật, có nhiều nơi tên gọi khác nhau nhưng nghĩa lý thì giống nhau. ....
Ba tính giác của Đức Phật cũng giống như vậy. Nếu quý vị không nghiên cứu sâu Phật pháp, thì quý vị không thể nào biết được bản giác, thủy giác, cứu cánh giác là gì, nhưng nếu quý vị tham cứu Phật pháp kỹ lưỡng, quý vị biết ngay nó có cùng ý nghĩa với ba đặc tính giác ngộ. Đó là giải thích tổng quát về chữ Phật.... (Nguồn: Kinh Thủ LN - Giảng giải kinh - HT Tuyên Hóa)
+ Như Lai - Tên gọi của một Đức Phật: Như là bất biến - Lai là tùy duyên
Trong Kinh Kim Cang nói: Bậc Như Lai, Không từ đâu đến, cũng không về đâu, nên gọi Như Lai. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Như Lai[5] là một trong mười danh hiệu của Đức Phật (Thông thường, mỗi Đức Phật đều có mười ngàn danh hiệu ... do chúng sinh không nhớ hết các danh hiệu ấy. Nên lại giảm xuống chỉ còn 10 danh hiệu). Ngoài Như lai còn là:
- Ứng cúng: xứng đáng được hưởng sự cúng dường của loài người và trời.
- Chánh biến tri: hiểu biết chân chính bao trùm khắp.
- Minh hạnh túc: Sự giác ngộ cũng như công hạnh hoàn toàn trọn vẹn.
- Thiện thệ thế gian giải [6]: vượt qua mọi kiến giải thế gian một cách tự tại.
- Vô thượng sĩ : Bậc không ai sánh bằng.
- Điều ngự trượng phu: Bậc trượng phu khéo điều phục chính mình.
- Thiên nhân sư: Thầy của trời và người
- Phật
- Thế Tôn
Tất cả các Đức Phật đều có mười danh hiệu này.
HT Tuyên Hóa cũng giảng Đức Phật to lớn thế nào, Ngài ngự ở đâu ...(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh)
+ Đức Phật có các Danh: Bạc Già Phạm/ Bà Già Phạm - Bà Già Bà - Bà Nga Phạ Đế ... (Nguồn: Tại đây)
+ Ai là đấng Bảo vương? Bảo vương chính là Đức Phật.
Thế nên với người tuyên bố, "Chúng ta đều là Phật!". Tôi bảo họ, "Anh là Phật? Đức Phật có tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông. Vậy anh có được bao nhiêu thân? Bao nhiêu trí? Bao nhiêu mắt? Bao nhiêu thần thông? Anh không thể giả mạo được."(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Đức Phật thành Phật - Được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề: ... Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Ðức Phật kia cũng ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế nầy: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc rất khó làm và ít có; ở trong cõi nước Ta Bà, trong đời ác năm trược: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này.
Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó! (Nguồn: Kinh A Di Đà)
+ Như Lai: ... bây giờ nếu tùy duyên tác động vào tâm chúng sinh, con người sẽ phát sinh ra những cảm giác vui buồn, hờn giận, thương ghét, tốt xấu, hơn thua, phải quấy… nhưng nếu chúng sinh biết xoay về bản thể chân thật của mình thì vui buồn tan biến, thương ghét không còn và tâm sẽ trở về với tự tánh thanh tịnh bất biến của nó.
Nói cách khác, Như là bất biến còn Lai là tùy duyên. Vì thế Như Lai là bất biến tùy duyên và cũng tùy duyên bất biến. Có tùy duyên bất biến nên chúng sinh mới có thể hóa giải vô minh phiền não để trở về sống với chơn tâm, tánh giác diệu minh của chính mình. (Nguồn: Xem mục Dùng Phật nhãn nhìn lên ....)
+ Cần xả bỏ tất cả các Pháp đã đạt mới mong Đạt Pháp cao hơn_Đức Phật:
+ Bảy Danh hiệu: Trích ngài A Nan hỏi Đức Phật...
Bạch Thế tôn, như trong các quả vị Bồ-đề, Niết-bàn, Chân như Phật tính, Am-ma-la thức, Không Như Lai tạng, Đại viên cảnh trí. Bảy danh hiệu ấy tên gọi tuy khác, mà thể tánh thanh tịnh viên mãn vững chắc như kim cương vương, thường trụ bất hoại. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương V)
+ Thế Tôn: Đức Phật dậy, còn thế nào gọi là Thế Tôn? Là người có thể biết hết các pháp đối trị vậy.
Lại nữa, ở thế gian ngôn ngữ bất đồng, nên người đời không hiểu được nhau, mà Phật thì hiểu biết tất cả, nên gọi Phật là Thế Tôn.
Lại nữa, như Lặc Tỷ Khưu nói, Nhị Thừa phàm phu tự nói đã chứng được các pháp, hoặc ưa nơi tĩnh mịch, hoặc thích thiền định, hay các pháp khác, nhưng giữ bí mật. Phật thì không thế, Phật chứng được các pháp, đều rủ lòng từ bi mà nói cho người khác nghe.
Lại nữa, vì Phật đã diệt trừ được tham, sân và si, nên gọi là Thế Tôn. ..... (Nguồn: Phẩm Ưu Ba Ly thứ tám)
+ Nguồn gốc vũ trụ - Các đấng vũ trụ - Thượng đế biểu hiện:
Nhưng chúng ta là ai, xuất phát từ đâu? Câu trả lời của Minh Triết Thiêng Liêng là tất cả chúng ta đều xuất phát từ Sự Sống Duy Nhất Đại đồng (One Universal Life). Chúng ta là một phần bất khả phân của Sự Sống Duy Nhất đó, là Tia lửa của Ngọn Lửa Thiêng hay điểm Linh Quang, Chân thần, chảy ra xuyên qua các Đấng Vũ trụ (Universla Beings), xuyên qua các Đấng nhỏ hơn như các chòm sao, đến hành tinh của chúng ta, cuối cùng đến con người chúng ta trên trái đất này.
Các đấng Vĩ đại này, mà cơ thể của các Ngài là vũ trụ hay các chòm sao, phân thành 7 dạng biểu lộ, thể hiện 7 lọai năng lượng hay là 7 Cung (7 Rays).
Khi Thượng đế khai sinh một vũ trụ mới, từ Ngài phóng ra bảy phát xạ (emanations). Cổ thư hay dùng từ “thở ra” (breathe out) để mô tả tiến trình này. Sự Sống Duy Nhất thở ra hay phân hóa thành bảy luồng năng lượng được biết đến như là Bảy Cung.
Bảy Cung cung ứng toàn bộ môi trường thể hiện cho Thượng đế Biểu hiện, và bản thân chúng là các phẩm tính như Bác Ái, Sùng Tín, Mỹ Lệ. Mỗi cung có cung bậc, âm thanh, màu sắc, và rung động riêng của nó. Ta có thể thấy chúng trong màu sắc của cầu vồng, bảy note của âm giai. Ta còn thấy các ví dụ khác về số bảy như 7 ngày trong tuần, 7 tội lỗi chết người, Bảy Kỳ quan của thế giới, 7 Luân xa hay 7 tuyến …(Nguồn: Cấu tạo con người 1)
+ Các Đấng Thiêng Liêng:
– Ah–hi tức là Thiên Trí (Universal mind) – Ah–hi, các Đấng Kiến Tạo vĩ đại (greater Builders), các Ngài là các Tinh Quân thi hành ý chí của Thái Dương Thượng Đế, các Ngài sử dụng phần lớn hai cõi để giao tiếp với nhau và với các đoàn thể của các Ngài: Một là cõi thứ hai, nơi mà các Ngài giao tiếp bằng phương tiện tinh thần mà hiện nay con người không thể hiểu được. Hai là cõi trí, nơi mà các Ngài giao tiếp với tất cả các sự sống thứ yếu bằng loại viễn cảm thuộc thể trí. (LVLCK, 815)
– Ah–hi: các Đấng Thiêng liêng (Celestial Beings). (GLBN I, III)
+ Cõi Thượng Đế: Cõi thứ nhất, cõi thiêng liêng hoặc cõi của Thượng Đế, là cảnh giới cao nhất ghi trong Sơ đồ Sự cấu tạo của Con người và chỉ về loại chất liệu-năng lượng gọi là “Biển Lửa”. Loại chất liệu-năng lượng này là nguyên khí, phương tiện biểu lộ trên cõi hồng trần vũ trụ cho các Đấng cao cả như Đức Hành tinh Thượng Đế và Thái dương Thượng Đế của chúng ta. Trí thông minh của chúng ta chưa thể hiểu được cõi này. Nguồn: ( GQ1.Con người và tâm thức)_Nguồn: Thuật Ngữ bác Khá; Xem thêm: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ
+ Hình tư tưởng của Thượng Đế (Thought–form of the Logos): Thái Dương Hệ của chúng ta. (LVLCK, 572)
+ Mắt của Thượng Đế (Eye of God, thiên nhãn): Thiên nhãn là Toàn Nhãn thông (All–Seeing Eye). (CVĐĐ, 516)
+ Thượng Đế Ngôi I - Shiva: Shiva là một trong các danh xưng để chỉ Thượng Đế Ngôi Một vĩ đại, và dưới danh xưng đó có ẩn nhiều ý nghĩa huyền bí. Shiva thay cho:
1. Trạng thái Ý chí (Will Aspect).
2. Trạng thái Tinh thần (Spirit Aspect).
3. Cha trên Trời.
4. Mục tiêu hướng dẫn.
5. Năng lượng hữu thức.
6. Định ý tích cực. (LVLCK, 1008)
+ Năng lượng tinh thần (Spiritual energy): Năng lượng tinh thần phát xuất từ các Đức Chúa Cha, đạt tới nhân loại từ cõi giới mà về mặt chuyên môn được gọi là cõi Chân Thần, từ cõi nguyên hình (archetypeal sphere), cội nguồn cao siêu nhất mà một người có thể biết đến. Có rất ít người được trang bị đủ để học có thể đáp ứng với loại năng lượng này. Đối với đa số người, năng lượng đó thực ra không tồn tại.(LVHLT, 525)
+ Năng lượng tinh thần (Spiritual energy): Năng lượng tinh thần phát xuất từ các Đức Chúa Cha, đạt tới nhân loại từ cõi giới mà về mặt chuyên môn được gọi là cõi Chân Thần, từ cõi nguyên hình (archetypeal sphere), cội nguồn cao siêu nhất mà một người có thể biết đến. Có rất ít người được trang bị đủ để học có thể đáp ứng với loại năng lượng này. Đối với đa số người, năng lượng đó thực ra không tồn tại.(LVHLT, 525)
+ Thượng Đế thức (Logoic consciousness) tức là các trạng thái tiếp nối của nhận thức thiêng liêng trong lĩnh vực thái dương.
+ Thượng Đế của Sirius (Sirian Logos):
- Thượng Đế của sao Sirius hợp thành một trong bảy Thái Dương Thượng Đế (Grand Heavenly Men), các Ngài là các trung tâm lực trong cơ thể (body) của Đấng Bất Khả Tư Nghị. (LVLCK, 572)
- Luôn luôn chúng ta cần nhớ rằng tâm thức của cõi trí vũ trụ là mục tiêu thành đạt của Thượng Đế, và Thượng Đế của sao Sirius so với Thái Dương Thượng Đế của chúng ta cũng giống như Chân Ngã của con người so với phàm ngã. (LVLCK,592)
+ Thượng Đế hữu ngã (personal God):
- Thượng Đế hữu ngã của người theo Thiên Chúa Giáo chính là con người không hơn không kém, được thổi phồng thành một Đấng có uy quyền khủng khiếp (awful powwer) và lệ thuộc vào các tính tốt và tật xấu (vices) của chính con người. (LVLCK, 239)
- “Thượng Đế hữu ngã”, một hiện thân (incarnation) của Thượng Đế. (TLHNM, 209)
+ Thượng Đế Ngôi Ba (The Third Logos): Thượng Đế Ngôi Ba tức Toàn Linh Trí (Mahat) hay Thiên Trí Sáng tạo (Divine Creative Intelligence), tức Brahma của Ấn Giáo, Văn Thù (Mandjusri) của Phật giáo Bắc Tông, Chúa Thánh Thần của Thiên Chúa Giáo. (MTNX, 123)
+ Thượng Đế thứ ba hay Brahma, nó được gọi là prakriti, hay vật chất: Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa. Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và Khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
Xem thêm: Cấu tạo con người 2;
Xem: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ
Thượng Đế Nội Tại (God Immanent):
- Thượng Đế Nội Tại có sẵn trong mỗi con người riêng biệt, trong các nhóm và các quốc gia, trong các hình thức có tổ chức (organized forms) và trong tôn giáo, trong nhân loại nói chung và trong chính Hành Tinh Thượng Đế.(ACMVĐTG, 162)
- Bản Lai Diện Mục (Presence) tức Thượng Đế Nội Tại.
- Sự sống của Thượng Đế Nội Tại là nguồn cội của sự hoạt động, của trí tuệ, sự phát triển (growth) và tính thu hút (attractiveness) của mọi hình hài trong mọi giới của thiên nhiên. (TLHNM II, 229–230)
+ Thượng Đế siêu việt (Transcendent Deity):
- Thượng Đế siêu việt không thoát ra khỏi các tam phân (triplicities), các nhị phân (dualities) và đa phân (multiplicities) của biểu lộ. Chỉ có sự sống, vô sắc tướng (formless), thoát khỏi ngã tính (individuality) không biết rõ. (TLHNM II, 231)
- Có một Đấng Thượng Đế Siêu Việt (God Transcendent), Ngài “thấm nhuần (pervaded) hết thảy vũ trụ với một mảnh của Chính Ngài” vẫn có thể nói “Ta nguyên vẹn”. (TLHNM II, 229)
- Thượng Đế Siêu Việt mãi mãi hiện hữu nhưng chỉ có thể thấy được, biết được và tiếp cận được một cách chính xác bằng Thượng Đế Nội Tại (God Immanent). (ACMVĐTG, 162)
+ Laya: Trung tâm Laya tức là trung tâm yên nghỉ. (GLBN I, 152, 189, 195, 202)
- Trạng thái Laya tức là trạng thái chưa biến phân (tình trạng chưa phân hóa).
- Laya tức là điểm không của cõi vật chất.
- Laya, điểm vật chất, nơi mà mọi sự phân hóa đều ngưng lại.
+ Trạng thái 3 Ngôi Thượng Đế tức là các bản nguyên thiêng liêng. (LVLCK, 299)
+ Trạng thái và Ngôi
- Ngôi 1, là trạng thái ý chí tồn tại (Ngôi Shiva–ND).
- Ngôi 2, là trạng thái kiến tạo, trạng thái/ Ngôi Vishnu
- Ngôi 3, là trạng thái hoạt động các Đấng cao cả là biểu lộ của Ngài, đặc trưng bằng phương pháp phân phối vật chất, tực Định luật tiết kiệm. Ngôi Brahma, (LVLCK, 214–215)
+ Ba Trạng thái
- Trạng thái thứ 3 tức trạng thái vật chất.
- Trạng thái thứ 2, tức trạng thái bác ái.
- Trạng thái thứ 1, trạng thái Sự sống hợp nhất linh hoạt (nó lôi cuốn mọi hình hài và mọi nhị phân thành một tổng thể vĩ đại). (LVHLT, 385)
+ Hoạt động 3 ngôi Thượng Đế
- Ngôi 1 hoạt động thông qua một Quyền Lực Từ.
- Ngôi 2 hoạt động thông qua các kết hợp của linh từ.
- Ngôi 3 hoạt động thông qua các công thức toán học.(LVLCK, 771)
+ Trạng thái
- Tức trạng thái Hoạt động–Thông tuệ (Activity – Intelligence aspect) (LVLCK, 175)
- Trạng thái thứ ba, tức trạng thái Brahma, tức là trạng thái Thánh Thần (Holy Ghost Aspect) (ASCLH, 54)
- Trạng thái Brahma tức là trạng thái chất liệu (substance aspect). (LVLCK, 1018)
+ Thượng Đế Ngôi Một tức là “Ý chí hiện tồn”. (LVLCK, 560)
+ Thượng Đế Ngôi 2, trạng thái kiến tạo hình hài - tức Ngôi Vishnu. (LVLCK, 218)
+ Ngôi Lời (Logos) tức Quán Thế Âm. (Thư của Ch, S. 379)
+ Tiếng nói vô thinh - TNVT - The voice of the silence: Tiếng nói vô thinh đối với bất cứ người nào là tiếng nói đến từ phần thâm sâu (the part) của người ấy vốn cao hơn nơi mà tâm thức của người này có thể đạt đến, dĩ nhiên tiếng nói đó thay đổi theo mức tiến hóa của người này. Đối với những ai còn hoạt động vì phàm ngã, thì tiếng nói của Chân Ngã là tiếng nói vô thinh, nhưng khi con người đã hoàn toàn chế phục được phàm ngã và làm cho phàm ngã hợp nhất được với Chân Ngã, để cho Chân Ngã có thể hoàn toàn hoạt động xuyên qua phàm ngã, thì tiếng vô thinh chính là tiếng của Linh Thể (Atma)- tức là tinh thần tam phân trên cõi Niết Bàn. Khi đạt đến trình độ này rồi thì vẫn còn có một tiếng nói vô thinh nữa – đó là tiếng của Chân Thần (monad) nơi cõi trên. Khi con người huyền đồng (identifies) Chân Ngã với Chân Thần và đạt đến Quả vị Chân Sư (Adeptship), thì con người vẫn sẽ tìm thấy một tiếng vô thinh từ bên trên xuống đến với Ngài, nhưng lúc ấy tiếng đó có lẽ sẽ là tiếng của một trong các Thiên Sứ (Ministers) của Thái Dương Thượng Đế (Deity), tức một trong các Hành Tinh Thượng Đế (Planetary Logoi) theo cách gọi dành cho các Ngài. Có lẽ đến lượt Hành Tinh Thượng Đế, tiếng vô thinh sẽ là tiếng của chính Thái Dương Thượng Đế (Solar Logos), và thậm chí, đối với Thái Dương Thượng Đế, nếu có một điều gì như là tiếng vô thinh, thì đó hẳn phải là tiếng của một Thượng Đế cao cấp hơn nữa. (GLTNVT, 63)
+ GLTNVT: Giảng Luận Tiếng Nói Vô Thinh
+ Kệ Sám hối trong Kinh Hoa Nghiêm
Thuở xưa con tạo các nghiệp ác
Đều do vô thuỷ tham sân si
Từ thân miệng ý mà sinh ra
Tất cả con nay đều sám hối.
Hoặc
Xưa con đã tạo bao ác nghiệp
Đều do gốc bởi tham sân si
Từ thân miệng ý phát sinh ra
Tất cả nay con xin sám hối.
* Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 25
+ Đức Phật đã luân hồi bao nhiêu kiếp?
Trừ các bậc Thánh A la hán, không một ai có thể biết được chúng ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu trong cuộc tử sanh bất tận, vô thỉ và vô chung này. Thế giới vô biên, những chúng sanh sống trong các thế giới vô số lượng và sự sanh tử luân hồi của họ cũng vô cùng.
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi. Rồi có nhiều Tỷ kheo đi đến, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn. Có bao nhiêu kiếp, bạch Thế Tôn, đã đi qua, đã vượt qua?
Rất nhiều, này các Tỷ kheo, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể đếm chúng được là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp, một vài trăm ngàn kiếp.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho một ví dụ được không?
Ở đây, này các Tỷ kheo, có bốn vị đệ tử, sống đến một trăm năm. Cứ mỗi ngày họ nhớ đến trăm ngàn kiếp, này các Tỷ kheo, các kiếp được họ nhớ đến là vậy. [Tính toán: 4 người x 100 năm x 365 (ngày/ năm) x 100.000 (Kiếp nhớ lại/ Ngày) = Số kiếp đã qua - Thật khó mà hình dung]
Nhiều như vậy, này các Tỷ kheo, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể đếm chúng được là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp, một vài trăm ngàn kiếp.
Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ kheo, là vừa đủ để các ông nhàm chán, là vừa đủ để các ông từ bỏ, là vừa đủ để các ông giải thoát đối với tất cả các hành. (ĐTKVN, Tương Ưng Bộ II, chương 4, phẩm 1, phần Các đệ tử, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.317). Nguồn: Phatgiao
+ Thật Tướng và Hư Không Trong Phật Giáo
- Thật tướng tức là chân không và cũng tức là diệu hữu. Quý vị cho rằng chân không là hư không chăng? Không phải. Vì trong chân không xuất sinh diệu hữu. Diệu hữu chắc chắn không phải là sự hiện hữu (thông thường). Chân không chẳng phải là hư không, và diệu hữu không phải lúc nào cũng hiện hữu. Vì nó không thực có, nên được gọi là diệu hữu. Thật tướng cũng có đạo lý y như vậy. Nếu quý vị thông đạt được nghĩa nầy, thông suốt được việc nhỏ thì thông suốt được hết mọi việc.
- Thật tướng là gì? Thật tướng tức vô tướng. Đây là giải thích thứ nhất. Mà không vật nào là không có thật tướng. Hết thảy các pháp đều xuất sinh từ thật tướng. Đó là ý nghĩa Thật tướng tức vô tướng, và không vật nào là không có thật tướng. Nghĩa thứ ba là vô tướng mà không có vật nào chẳng phải là thật tướng. Hết thảy các pháp đều xuất sinh từ thật tướng. Thế nên “thật tướng” là bản thể của các pháp.
... Nếu rời hẳn các tướng sắc không, động tĩnh, thông tắc, hợp ly, sinh diệt thì rốt ráo không có một pháp nào cả.
Thật Tướng: ... HT Tuyên Hóa giảng: Bấy giờ Thế tôn bảo A-nan rằng: "Trước đây ông nhàm chán các pháp Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác. Ông đã quyết định từ bỏ hẳn pháp môn của hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, giáo pháp của thời A-hàm, phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Nay ông phát tâm siêng năng cầu đạo giác ngộ Vô thượng, đạo giác ngộ của hàng Bồ-tát. Do vậy, nên nay là lúc Như Lai sẽ chỉ bày cho ông Đệ nhất nghĩa đế. Như Lai sẽ giảng giải pháp môn Thật tướng cho ông. Đệ nhất nghĩa đế chính là Thật tướng.
Có ba loại Thật tướng:
1. Thật tướng vô tướng (vô tướng chi thật tướng): Không còn các tướng hư vọng, tất cả đều là Nhất chân bình đẳng thật tướng. Tức là Không Như Lai tạng.
2. Thật tướng của cái chẳng phải vô tướng (vô bất tướng chi thật tướng): Hoàn toàn đều chẳng phải là vô tướng, chỉ tuỳ duyên mà biến hiện ra tất cả tướng.
3. Thật tướng của chẳng tướng nào không phải là tướng (vô tướng vô bất tướng chi thật tướng): Tức là Không bất không Như Lai tạng. Cũng gọi là diệu hữu chân không, chân không diệu hữu.
Dù kể là ba, nhưng chỉ là một, đó là Thật tướng. Thật tướng là không có tướng, nhưng chẳng có gì là không có tướng cả. Đó là lý chân không diệu hữu, diệu hữu chân không. Nếu cứu xét đến tột cùng, thì vốn chẳng có tướng gì cả. Nhưng trong cái chẳng có tướng gì ấy lại có tất cả. Thế nên chẳng có tướng gì chính là chân không, và có tất cả là diệu hữu.
Đạo lý đang được giảng giải sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới.
Chân Như Tự Tánh: A-nan, như nước thành băng, băng tan thành nước.
Giảng:
A-nan, ông nên biết rằng chân như tự tánh tuỳ duyên nhưng bất biến, bất biến nhưng tuỳ duyên. Điều ấy được giải thích như thế nào? Chân như tự tánh cũng chính là tánh Như Lai tạng, cũng là Thật tướng, và cũng là chân tâm, như nước thành băng, băng tan thành nước. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.1)
+ Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương I và II
Các Tướng - Đức Phật bảo Phú Lâu Na: Thế nên trong ấy, gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Chúng sinh mê lầm, trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian.
Giảng giải:
Thế nên – do vì sắc và không tương tục xâm đoạt lẫn nhau trong tánh Như Lai tạng, trong đó sinh khởi tác dụng cùng với các tướng hữu vi. Do các nguyên nhân nầy, mà sắc và không trở thành hiện hữu, tướng và dụng của nó trùm khắp cả pháp giới. Trong ấy, trong tánh Như Lai tạng, gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Nguyên nhân là do chúng sinh mê lầm. Ở trong chỗ vô số hiện tượng ấy, chúng sinh trở nên mê lầm. Họ không nhận ra được đạo lý về chân tâm, nên họ bị mê muội. Do vậy, nên trong chân tâm (phần chân) của tánh Như Lai tạng đã sinh khởi nên tam tế lục thô.
Nhất niệm bất giác sinh tam tế. 一念不覺生三細
Cảnh giới vi duyên trưởng lục thô. 景界為緣長六粗
Như tôi đã giải thích ở trên, tam tế là nghiệp tướng, chuyển tướng và hiện tướng. Lục thô là trí tướng, tương tục tướng, chấp thủ tướng, kế danh tự tướng, khởi nghiệp tướng và khổ hệ nghiệp tướng. Một khi chúng sinh đã phát khởi lên những tướng nầy, họ liền bị mê mờ. Một khi đã mê mờ, thì họ trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Họ quay lưng lại với giác tánh và thích dính mắc với sáu trần. Đây là vì họ nghĩ rằng, trong tánh Như Lai tạng có sự xung đột lẫn nhau. Do vậy nên họ quay lưng lại với tánh giác và hợp với cảnh trần. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian. Núi sông đất liền và sự tương tục của thế giới trở thành hiện hữu......(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương II)
+ Trí Bát nhã - Trí huệ tâm: ..... Nhà Đường gọi Bát nhã là trí huệ. Cả thảy các chỗ các nơi, trong cả thảy thời gian, niệm niệm chẳng ngu muội, thường tu hạnh trí huệ, tức là hạnh Bát nhã. Một niệm ngu muội tức là Bát nhã tuyệt. Một niệm trí huệ tức là Bát nhã sanh. Người thế gian mê muội, chẳng thấy Bát nhã. Miệng nói Bát nhã, mà trong lòng thường ngu muội. Thường tự nói ta tu hạnh Bát nhã, niệm niệm nói "không" mà chẳng biết Chân không. Bát nhã không hình tướng, ấy là trí huệ tâm. Thiệt có hiểu rõ như thế, mới chính là trí Bát nhã. Giảng:
Cái gì gọi là Bát nhã? Tại mọi nơi, bất cứ lúc nào, niệm niệm sáng suốt, niệm niệm không mê, niệm niệm không vô minh, thường dùng trí huệ xử lý mọi việc, đó chính là tu hạnh trí huệ. Nếu một niệm ngu si, Bát nhã sẽ đoạn tuyệt. Đoạn tuyệt này là ví dụ, chớ trí huệ chân chánh hoàn toàn không đoạn tuyệt, vì trí huệ chân chánh bất sanh bất diệt, làm sao có thể đoạn tuyệt được? Ý nói lúc mê muội, Bát nhã không hiện tiền. Nếu không mê muội, không ngu si, lúc đó Bát nhã sanh khởi. Ví dụ có người nói uống rượu hút thuốc là không tốt, dùng LSD, dùng ma túy là không nên, nhưng quý vị không tin, đó gọi là Bát nhã đoạn tuyệt. Người có trí huệ thì phải làm sao? Nếu nghe nói rằng uống rượu, hút thuốc, hút á phiện là điều không tốt, người trí bèn nhanh chóng sửa đổi, đó gọi là Bát nhã sanh. Người ngu si biết rõ ràng đó là điều không đúng nhưng vẫn cứ muốn thử.
Người thế gian rất ngu, không chỉ một người mà là rất nhiều người đều ngu si, họ tự mình không biết Bát nhã, miệng thường nói trí huệ, mà tâm thường làm những việc ngu muội. Điều không nên làm mà họ vẫn cứ làm. Họ thường nói tôi tu hành trí huệ, mỗi niệm đều nói: "không" chính là Bát nhã.
Bát nhã có hai mươi loại không môn, cần phải "không" tất cả. Nhưng họ không biết cái không chân chánh, tuy hiểu một chút Kinh điển, biết trì một vài câu chú, tụng vài câu Kinh, nhưng tật xấu của mình lại không sửa đổi, đó chính là khẩu đầu thiền. Hằng ngày nói "không" mà không biết sửa đổi tật xấu của mình. Chân không có nghĩa là phải làm cho vô minh, tập khí tật xấu của mình hoàn toàn đều không không, cần phải không tất cả những hành vi ngu muội không sáng suốt.
Bát nhã không có hình tướng, không dài ngắn vuông tròn, hoặc xanh vàng đỏ trắng. Tâm không có vô minh, thường sanh trí huệ, trí huệ là rõ ràng sáng suốt, có thể biết pháp đúng pháp sai. Quý vị nếu có kiến giải như thế, đó mới chính là Bát nhã trí.
Sao gọi là Ba la mật? Ấy là tiếng Tây Thiên Trúc, nhà Đường gọi là đáo bỉ ngạn, nghĩa là khỏi sự sanh diệt. Tâm dính cảnh, thì sự sanh diệt dấy lên, như nước nổi sóng, tức là thử ngạn (bờ bên này). Còn tâm lìa cảnh, thì không có sự sanh diệt, như nước thường lưu thông, tức gọi là bỉ ngạn (bờ bên kia). Cho nên gọi là Ba la mật.(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hành Tinh Thượng Đế: Nói chung, thuật ngữ này được dùng cho 7 Đấng cao cả nhất tương ứng với 7 Nhất Đẳng Thiên thần (Archangels) của Cơ Đốc giáo. Tất cả các Ngài đều đã trải qua giai đoạn nhân loại và hiện nay đang biểu lộ qua một hành tinh và các mức tiến hóa của hành tinh đó, giống như cách con người biểu lộ qua thể xác của mình vậy. Vị Hành Tinh Thượng Đế cao nhất hoạt động qua bất cứ bầu hành tinh (globe) đặc biệt nào, thực ra là vị Thượng Đế riêng (personal God) của hành tinh ấy.
* Trong hành tinh, hay Hành Tinh Thượng Đế: Nói chung, những gì được đưa ra liên quan tới Thái Dương Hệ đều có thể được xác định đối với mọi hành tinh mà bản chất của chúng là hình ảnh phản chiếu của thái dương, người anh cả của chúng. (ĐĐNLVTD, 222)
+ Hành Tinh Thượng Đế: Đức DK gọi các Hành Tinh Thượng Đế là các Thiên Nhân (Heavenly Men), trong khi Ngài gọi đức Thái dương Thượng đế là Đại Thiên Nhân (Grand Man of the Heaven). Đấng cao hơn nữa Ngài gọi là Cosmic Logos (Vũ Trụ Thượng đế). Ngài cũng hay dùng từ Đấng Mà Chúng Ta Không thể Nói Gì Cả (The One About Naught May Be Said) để chỉ Cosmic Logos, hoặc đôi khi là đấng còn cao hơn đó nữa là Cosmic ParaBrahman. Trong giới Huyền Linh học hay viết tắt tên gọi One About Naught May Be Said thành OABNMBS để chỉ Đấng Không Thể Nghĩ Bàn, Đấng Bất Khả Tư Nghị. Chúng tôi sẽ trích từ A Treatise On Cosmic Fire các đoạn sau đây nói về Hành Tinh Thượng Đế, kèm theo đó là các diễn giải:
Mỗi Hành Tinh Thượng Đế được xem như có dạng hình cầu [12]. Cũng giống như hạt nguyên tử và con người, Ngài có vòng giới hạn (ring-pass-not) của Ngài. Vòng giới hạn này bao gồm toàn thể hệ thống hành tinh. [13] Trong trường hợp của Ngài, bầu vật chất trọng trược của bất cứ một dãy hành tinh nào cũng tương tự như thể hồng trần của một người và hạt nguyên tử trên cõi trần. Mỗi hệ thống tiến hoá gồm 7 dãy hành tinh là biểu hiện của sự sống của một Thực Thể sử dụng nó cho mục đích hiển lộ nhằm hoạch đắc kinh nghiệm, giống như con người đối với thể xác của y. [14]
Một Hành Tinh Thượng Đế chứa đựng bên trong chính Ngài những gì tương ứng với tế bào bên trong các hiện thể biểu lộ của con người.......
Bảy Hành Tinh Thượng Đế, được xem như có liên quan đến Đấng Cao Cả mà Thái Dương Thượng Đế là một phản ảnh của Ngài, có vai trò như là bảy trung tâm lực trong thể xác con người. Điều này sẽ được hiểu rõ khi sự tương đồng giữa cõi hồng trần vũ trụ và cõi hồng trần Thái dương hệ được nghiên cứu. [18] Do đó, ba trong các trung tâm lực này
– Liên hệ đến các trung tâm lực thấp của Đấng Thực Thể Vũ Trụ. [19]
– Có sự tương đồng của chúng trên các cõi chất đặc, chất lỏng và chất hơi.
– Hiện nay đang là mục tiêu chú tâm của hỏa xà vũ trụ. [20]
* [18] Đối với đức Thái dương Thượng đế thì các Hành Tinh Thượng Đế lại tạo thành chính là các luân xa hay các Trung tâm lực bên trong cơ thể của đức Thái dương Thượng đế. Đây là điểm đặc biệt quan trọng mà các bạn cần nhớ.
* [19] Ba Trung tâm lực thấp là các luân xa tùng thái dương, luân xa xương cùng và luân xa đáy cột sống.
* [20] Trong Thái dương hệ cũng có luồng xà hỏa Kundalini tương tự như trong con người. Đức DK nói rằng luồng xà hỏa Kundalini Thái dương đang kích hoạt các luân xa thấp là luân xa xương cùng, luân xa tùng thái dương, luân xa đáy cột sống.
Như vậy, các bạn thấy định luật tương đồng “trên sao, dưới vậy” thể hiện ra sao trong trường hợp thái dương hệ và con người..... (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 10 - Thông Thiên Học)
+ Tứ nguyên: c. Một trong các trung tâm lực này tương ứng với luân xa tùng thái dương, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp, như thế tạo thành một Tứ nguyên (bộ bốn – quaternary). [21] Đức DK nói rằng “Một trong các trung tâm lực này (Các Hành tinh Thượng đế) tương ứng với luân xa tùng thái dương, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp, như thế tạo thành một Tứ nguyên”. Nhưng Ngài không chỉ rõ hành tinh nào tương ứng với luân xa này, mà để người học đạo tự suy gẫm và khám phá lấy.... Chi tiết xem thêm: Thái dương hệ phần 11
+ Người trời (God man): X. Thiên nhân.
+ Hành Tinh Thượng Đế: Đức DK gọi các Hành Tinh Thượng Đế là các Thiên Nhân (Heavenly Men), trong khi Ngài gọi đức Thái dương Thượng đế là Đại Thiên Nhân (Grand Man of the Heaven). Đấng cao hơn nữa Ngài gọi là Cosmic Logos (Vũ Trụ Thượng đế). Ngài cũng hay dùng từ Đấng Mà Chúng Ta Không thể Nói Gì Cả (The One About Naught May Be Said) để chỉ Cosmic Logos, hoặc đôi khi là đấng còn cao hơn đó nữa là Cosmic ParaBrahman. Trong giới Huyền Linh học hay viết tắt tên gọi One About Naught May Be Said thành OABNMBS để chỉ Đấng Không Thể Nghĩ Bàn, Đấng Bất Khả Tư Nghị. Chúng tôi sẽ trích từ A Treatise On Cosmic Fire các đoạn sau đây nói về Hành Tinh Thượng Đế, kèm theo đó là các diễn giải .... (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 10 - Thông Thiên Học)
+ Linh hồn mới được sáng tạo (Newly–created soul): Liên quan đến Chân Thần, độc giả nên nhớ rằng triết học Đông phương bác bỏ tín điều thần học Tây phương đối với việc một linh hồn mới được sáng tạo cho mỗi hài nhi vừa ra đời, vì đó là một tín điều phản triết học (unphilosophical), cũng như không thể có được trong cấu trúc (economy) của Thiên Nhiên. Phải có một số giới hạn các Chân Thần, tiến hóa và ngày càng phát triển đến mức hoàn thiện, xuyên qua việc đồng hóa của nhiều cá tính kế tiếp nhau trong mỗi chu kỳ Khai Nguyên mới. Điều này tuyệt đối cần thiết xét theo các giáo lý về Luân hồi, Nhân quả và xét theo việc Chân Thần con người dần dần trở về với cội nguồn – Thượng Đế tuyệt đối. Như vậy, mặc dù tập đoàn các Chân Thần tiến hóa ít hay nhiều hầu như không thể tính được, nhưng con số Chân Thần vẫn có hạn, cũng như mọi sự vật trong vũ trụ biến phân và hữu hạn này. (GLBN I, 224)
+ Quyền năng: Sáng tạo - Hóa công - Quyền năng tạo hóa: Quyền năng này liên quan đến năng lực của vị cao đồ để vận dụng các bản tố (elements) dưới 5 dạng thức của chúng và với các bản tố này sẽ tạo được các thực tại thể hiện ra bên ngoài (objective realities), và như vậy sáng tạo được trên cõi trần.
+ Tạo Hóa (Creator, Hóa Công, Đấng Sáng Tạo, Thợ Tạo): Ngôi Ba của Ba Ngôi (Trinity), Ngôi Thánh Thần, tức Tạo Hóa. (CTHNM, 245)
+ Đấng tạo hóa Hành tinh: Bạn sẽ thấy rõ rằng những luồng năng lượng này, phát ra từ Vị Chúa của Bảy Tia, do đó bị nhuốm màu và "bị ô uế"—nếu tôi có thể dùng một từ như vậy—bởi những hạn chế của chính những Đấng vĩ đại này; Họ là các vị Tạo Hoá, theo quan điểm của chúng ta, nhưng trên thực tế, là các vị Tạo Hoá đang được hình thành, mặc dù gần với Thần tính thái dương hơn nhiều so với con người tiên tiến nhất gần với Thần tính hành tinh.[293] Họ là "các vị Tạo Hoá không hoàn hảo" được nói đến trong Giáo Lý Bí Nhiệm và là các Tạo Hoá hành tinh của các hành tinh thiêng liêng và không thiêng liêng. Nếu các Sự sống thông tin vĩ đại của các hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta không hoàn hảo, thì tác động của sự không hoàn hảo này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các sáng tạo hành tinh của Họ, các cơ thể biểu hiện của Họ, và do đó đưa vào một điều kiện nghiệp quả mà con người cá nhân hoàn toàn không thể kiểm soát, nhưng trong đó anh ta di chuyển và anh ta chia sẻ. Rõ ràng là tôi không thể làm sáng tỏ chủ đề này. Tất cả những gì tôi có thể làm hoặc được phép làm là đưa cho bạn bảy khổ thơ từ một trong những tập sách cổ nhất trên thế giới; nó đề cập đến bảy tia nguyên nhân gây ra sự không hoàn hảo trong các biểu lộ hành tinh của chúng ta. Cần phải thêm vào những khổ thơ này (nếu có thể) các khổ thơ truyền đạt ý nghĩa của các khiếm khuyết phát sinh từ các điều kiện chiêm tinh và tạo ra các hiệu ứng mang tính chất hành tinh và do đó liên quan đến lá số tử vi của Tạo Hoá hành tinh cụ thể của chúng ta. Nhưng những điều này quá khó hiểu, phức tạp và có chủ đề sâu rộng, và chỉ có thể được nghiên cứu và xem xét khi nhân loại đã đạt đến giai đoạn phát triển trực giác đến mức con người có thể "đánh giá cao nguyên nhân và kết quả như những quá trình tổng thể và có thể thấy cả sự khởi đầu và kết thúc trong một khoảnh khắc thời gian trong không gian". Bằng những lời này, Đạo Sư Serapis đã từng tóm tắt vấn đề khi cố gắng đào tạo một nhóm đạo đồ đã được đổi mới theo cách tiếp cận các chủ đề rộng lớn này. ..... (Nguồn: Chữa bệnh nội môn)
+ Các Thiên nhân - Đấng Hành Tinh: Đức DK gọi các Hành Tinh Thượng Đế là các Thiên Nhân (Heavenly Men), trong khi Ngài gọi đức Thái dương Thượng đế là Đại Thiên Nhân (Grand Man of the Heaven). Đấng cao hơn nữa Ngài gọi là Cosmic Logos (Vũ Trụ Thượng đế). Ngài cũng hay dùng từ Đấng Mà Chúng Ta Không thể Nói Gì Cả (The One About Naught May Be Said) để chỉ Cosmic Logos, hoặc đôi khi là đấng còn cao hơn đó nữa là Cosmic ParaBrahman. Trong giới Huyền Linh học hay viết tắt tên gọi One About Naught May Be Said thành OABNMBS để chỉ Đấng Không Thể Nghĩ Bàn, Đấng Bất Khả Tư Nghị. Chúng tôi sẽ trích từ A Treatise On Cosmic Fire các đoạn sau đây nói về Hành Tinh Thượng Đế, kèm theo đó là các diễn giải ... (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 10 - Thông Thiên Học)
+ Đại Vũ trụ hay Tứ Linh Diệu: Biểu lộ hợp nhất của cả 3 đấng: Nhất - Nhị - Tam nguyên này (LVLCK, 56)
+ Tứ Linh Diệu (LVLCK, 56):
- Cha - Mahadeva- T.Đế Ngôi 1 - Ý chí Tinh thần
- Con - Vishnu - T.Đế Ngôi 2 - Bác ái Minh triết
- Mẹ - Brahma - T.Đế Ngôi 3 - Trí tuệ Hoạt động
* Tứ Linh Diệu: Biểu lộ hợp nhất của cả 3 đấng Nhất - Nhị - Tam nguyên này
* Thái Dương Thượng Đế (TDTĐ): Một Đấng Vũ Trụ Vĩ Đại/ Đại Vũ trụ, Ngài lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian là một Thái Dương Hệ - Là biểu lộ của năng lượng và sự sống của TDTĐ.
+ Một Thái Dương Thượng Đế có hiện thể là 7 hệ thống hành tinh, có không gian là 3 cõi vũ trụ. (LVLCK, 293)
+ Phân biệt Đại Vũ trụ và Tiểu Vũ trụ (Nhân Trắc Học): Tiểu vũ trụ là một vũ trụ nhỏ, như một con người, trong khi Đại vũ trụ là một thực thể rộng lớn đang biểu hiện, như một thái dương hệ. Luật tương ứng giúp xác định những điểm tương đồng giữa cuộc sống và những gì cao xa hơn ở cấp hành tinh, thái dương hay vũ trụ.
- Trên sao, Dưới vậy: Vũ trụ là một THỰC THỂ vĩ đại, đang sống và thở. Trong khi đó chúng ta chỉ là nguyên tử bé nhỏ bên trong cái Toàn thể này. Câu nói cổ “trên sao, dưới vậy” bao giờ cũng đúng, và cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.
- Có sự Tương ứng/ Tương đồng giữa Tiểu Vũ Trụ - Đại Vũ Trụ
- Cần phân biệt giữa các thuật ngữ
a. Đại Vũ Trụ: Đại khai nói về năng lượng vũ trụ nguyên sơ ở các cõi cao, chưa phân hóa xuống thấp đến mức được xem là Vật chất, mà vẫn gữ nguyên phẩm TINH THẦN. Thường nói đến năng lượng chưa đến các Thái Dương Hệ.
b. Đại Thiên Địa: Đại khái nói về năng lượng vũ trụ đã phân hóa thấp xuống được xem là Vật chất, mà phẩm tính Tinh thần xem như không còn. Thường nói đến các nguồn thần lực đã đến và truyển chuyển trong phạm vi các Thái dương hệ
+ Chân Sư DK dạy, nghiên cứu Đại vũ trụ gồm các nội dung :
1. Nghiên cứu những định luật về điện, Vũ trụ lực (Fohat), Sinh lực (Prana), và Ánh sáng tinh giới.
2. Nghiên cứu thiên văn học và chiêm tinh học.
3. Nghiên cứu vũ trụ khởi nguyên học nội môn.
4. Nghiên cứu các đẳng cấp nhân loại.
5. Nghiên cứu trường tiến hóa thiên thần.
6. Nghiên cứu các định luật của thái dương hệ.
7. Nghiên cứu thần giao cách cảm, sự sáng tạo của trí tuệ và khoa trắc lượng tâm lý. (Nguồn: Nghiên cứu Đại vũ trụ)
+ Mặt trời nội tâm (Subjective sun): Tâm của Mặt trời (Heart of the Sun) tức là mặt trời nội tâm. Tâm của Mặt trời tức là khối cầu huyền bí bên trong, nằm sau mặt trời hồng trần (physial sun) của chúng ta và mặt trời hồng trần của chúng ta chỉ là lớp vỏ bao quanh đó. (ĐĐNLVTD, 168, 130)
+ Hữu sắc tướng (Rupa, with form or body): Nói chung, thuật ngữ hữu sắc tướng được dùng để chỉ mọi hình hài (form) trong ba cõi thấp.(LVLCK, 616)
+ Các Hữu Thể này có thể được kể ra như sau:
I. Bảy Hành Tinh Thượng Đế. Trong toàn thể, các Ngài hợp thành cơ thể của Thái Dương Thượng Đế. Các danh xưng khác dành cho các Đấng Cao Cả (Beings) này là :
a. 7 Hành Tinh Thượng Đế hay Tinh Quân (Spirits)
b. Các Prajapatis.
c. 7 Đấng Chủ Quản của các Cung
d. Các Dyhan Chohans
e. 7 Tinh Quân trước Thiên Toà
f. 7 Nhất Đẳng Thiên Thần (Archangels)
g. 7 Thiên Đế (seven Logoi)
h. 7 Đấng Kiến Tạo (Builders). GLBN I, 115,130,152,535.
Các Ngài là các Đấng làm linh hoạt Cung Thiêng Liêng, cung của Thượng Đế Ngôi Hai, cùng ý nghĩa như Fohat và 7 Huynh Đệ của Ngài là toàn thể của cung Nguyên Thuỷ. GLBN I, 100, 108, 155.
a. Vật chất được làm cho phong phú bởi Cung Thông Tuệ Nguyên Thuỷ. Đây là anima mundi, linh hồn của thế giới.
b. Cung Nguyên Thuỷ là hiện thể đối với Cung Bác ái và Minh Triết Thiêng Liêng. Sự phối hợp cả hai cung là mực tiêu tiến hoá.
c. Cung Thiêng Liêng thì thất phân. Nó đưa vào 7 Thực Thể Thông Linh.
d. 7 Thực Thể Thông Linh này là :
1. Thượng Đế của Ý Chí hay Huyền Năng
2. Thượng Đế của Bác ái và Minh Triết
3. Thượng Đế của Hoạt Động
4. Thượng Đế của Hài Hoà
5. Thượng Đế của Khoa Học Cụ Thể
6. Thượng Đế của Sùng Tín hay Lý Tưởng Trừu Tượng.
7. Thượng Đế của Định Luật Nghi Thức hay trật tự.
II. Nhân loại, Chân Thần, các Đơn Vị Tâm Thức. Trong toàn thể, chúng hợp thành các thể của 7 Hành Tinh Thượng Đế. Mỗi Chân Thần thuộc về 1 trong 7 cung. GLBN I, 197, 285, 624, II, 85, 176, 196.
III. Thiên Thần . GLBN I, 308, II, 107. Các Thiên thần như :
a. Tinh Quân Thiên Thần của 1 cảnh giới. Phạm vi của cơ thể Ngài là toàn thể cảnh giới.
b. Các nhóm Thiên thần kiến tạo
IV. Các Thực Thể Thông Linh đã tiến hoá trong các giới khoáng chất, thực vật và động vật. GLBN I, 210, 298.
a. Sự Sống của Thượng Đế Ngôi Ba – nguyên tử vật chất.
b. Sự sống của Thượng Đế Ngôi Hai – các nhóm nguyên tử được kiến tạo thành hình hài, thực vật và động vật.
c. Sự sống của Thượng Đế Ngôi Một – Hình hài được chiếm ngự bởi các Tinh Quân Cao Cả nhất.
V. Tinh Quân của một hành tinh. GLBN I, 178, II, 251, 500.
Nếu các mục tiêu nói ở trên được xem xét cẩn thận, nó sẽ được nhận ra làm cách nào mà mỗi mục tiêu đều có vị trí trong thiên cơ, và cách nào sự tiến hóa chỉ là một thuật ngữ, được dùng để diễn tả sự phát triển dần dần trong thời gian và không gian, của năng lực có sẵn của con người, của một Hành Tinh Thượng Đế, và của Thái Dương Thượng Đế. Vị trí và vị thế của một và cả thảy so với nhau phải được ghi nhớ, vì không có ai phát triển được mà không cần đến kẻ khác. Như thế, chúng có được gì ?
a. Đấng Con, Thái Dương Thượng Đế. Ngài biểu lộ qua thái dương và 7 hành tinh thánh thiện, mỗi một trong các Ngài biểu hiện cho một trong 7 nguyên khí, cũng như Ngài trong toàn thể biểu hiện cho một trong các nguyên khí của 1 Thực Thể Thông Linh vũ trụ còn vĩ đại hơn nữa.
b. Một Hành Tinh Thượng Đế. Ngài biểu lộ qua 1 hành tinh, và là hiện thân của một trong các nguyên khí của Đấng Con, Thượng Đế. Chính Ngài cũng đang phát triển qua 7 nguyên khí, vốn là nguồn cội của sự hợp nhất bản thể của Ngài với tất cả các Hành Tinh Thượng Đế khác. Xét về phương diện vũ trụ, Đấng Con đang phát triển nguyên khí của một Đấng vũ trụ vĩ đại hơn, nguyên khí mà chúng ta gọi là bác ái minh triết. Đó là tính chất căn bản mà Ngài phải phát triển trong chu kỳ sống của Ngài. Do đó, mỗi Hành Tinh Thượng Đế là hiện thân trội nhất của một nguyên khí phụ
Ngài là toàn thể của nhiều sinh linh đang tiến hoá trên một hành tinh. (LVLCK, 234)
+ QUI LUẬT CỦA ĐƯỜNG ĐẠO: Các Qui luật này là những điều hướng dẫn giúp chúng ta trở về Nguồn cội tinh thần của mình (MQ-Tâm thức)
Đoạn 1. Mỗi người tiến trên Đường đạo trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật, tỏa chiếu trên Đường bởi những Vị hướng đạo hiểu biết. Bấy giờ hành giả không thể che giấu điều gì, và đến mỗi khúc quanh trên Đường Đạo y phải đối diện với chính mình.
Đoạn 2. Trên Đường Đạo, những điều che giấu được phô bày. Mỗi người thấy và biết điều quấy của mình. Thế nhưng, sự phô bày đó không khiến họ lùi bước, bài bác lẫn nhau, hoặc chao đảo trên Đường Đạo. Đường Đạo trở nên sáng tỏ.
Đoạn 3. Trên Đường Đạo hành giả không đi lang thang một mình. Không có gì hấp tấp, hay vội vàng. Và cũng không có thời gian bỏ phí. Hiểu được điều này, mỗi khách hành hương dấn bước tiến lên, và thấy quanh mình có các bạn đồng hành. Một số tiến phía trước; y theo sau. Một số đi sau; y dẫn lối. Y không tiến bước một mình.
Đoạn 4. Khách hành hương phải tránh ba điều. Đội mũ trùm đầu, hoặc dùng mạng che mặt không cho người khác thấy; mang theo bình nước chỉ đủ cho mình dùng; vác trên vai chiếc gậy không có móc để cầm giữ.
Đoạn 5. Mỗi Khách hành hương trên Đường đạo phải mang theo những gì y cần: một bầu lửa, để sưởi ấm các bạn đồng hành; một ngọn đèn với những tia sáng chiếu ra từ tâm của mình và cho các bạn đồng hành thấy bản tính sự sống ẩn tàng nơi mình; một túi vàng, y không vung vãi trên Đường, mà để chia sẻ cho người khác; một chiếc bình niêm kín, trong đó y mang theo toàn cả tâm nguyện của mình để đặt dưới chân Đấng đang chờ chào đón y ở cửa Đạo – một chiếc bình niêm kín.
Đoạn 6. Khi dấn bước trên Đường, Khách hành hương phải có tai nghe tỏ rõ, bàn tay giúp đỡ, chiếc lưỡi im lặng, tâm hồn tự chủ, tiếng nói vàng, chân nhanh nhẹn, mắt rộng mở đón nhận ánh sáng. Y biết mình không độc hành.
+ Thần Chú Cứu Hộ Chúng Sinh: Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng với 4 Chúng, 8 Bộ: Trời, Rồng, người, Phi Nhân… cung kính vây quanh.
Vào lúc ấy tất cả nhân dân của nước Tỳ Xá Ly đang mắc bệnh Đại Ác. Một là mắt đỏ như máu, hai là 2 lỗ tai tuôn ra mủ, ba là trong lỗ mũi chảy máu, bốn là lưỡi bị cấm không có tiếng nói, năm là các vật dụng để ăn liền đều hóa thành cứng rít, sáu là Thức bị ngăn bít giống như người say. Lại có 5 Dạ Xoa tên là Khất Noa Ca La (Krïsïnïa Kàla) mặt đen như mực, có 5 con mắt, lộ nanh chó hướng lên trên, hút tinh khí của con người.
Bấy giờ người dân Tỳ Xá Ly liền có đủ Dương Chi Tịnh Thủy (Nước trong sạch của nhành Dương Liễu) đem trao cho Quán Thế Âm Bồ Tát. Cầu xin Đức Đại Bi Quán Thế Âm xót thương cứu hộ tất cả chúng sinh mà nói Chú.
Quán Thế Âm Bồ Tát muốn dạy cho khắp cả chúng sinh nên nói rằng: “Ngày nay, các ngươi cần phải một lòng xưng niệm Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng, nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, Bậc Đại Bi Đại Danh Xưng cứu hộ khổ ách”.
Như đây, 3 lần xưng Tam Bảo, 3 lần xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, đốt mọi danh hương, cúi 5 vóc sát đất, hướng về phương Tây, một lòng một ý khiến định hơi thở, vì muốn thoát khỏi ách khổ, cầu thỉnh Quán Thế Âm. Hợp 10 ngón tay chắp lại rồi nói Kệ là:
Nguyện cứu con thoát khổ
Đại Bi che tất cả
Phóng khắp hào quang tịnh
Diệt trừ màn Si Ám
Vì miễn khổ sát hại
Phiền não với mọi bệnh
Đi đến nơi con ở
Cho con đại an lạc
Nay con cúi đầu lễ
Nghe tên bậc cứu ách
Nay con tự quy y
Đấng cha lành Thế Gian
Nguyện xin quyết định đến
Miễn con khỏi ba Độc
Cho con đời này vui
Cùng với Đại Niết Bàn
Lại bạch với Đức Phật rằng: “Thế Tôn! Thần Chú như vậy quyết định là tốt lành và cũng là Đại Từ Đại Bi Đà La Ni Án của chư Phật 10 phương trong 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Người nghe Chú này thì vĩnh viễn hết sạch mọi khổ, thường được an vui, mau lìa 8 nạn, được niệm Phật Định, đời này gặp Phật. Nay con sẽ nói Thần Chú Cứu Hộ Chúng Sinh của chư Phật 10 phương. ........ [Mời xem kinh văn]
Lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như Thần Chú này cũng là điều mà vô lượng chư Phật ba đời ở 10 phương diễn nói. Người tụng trì Chú này là nơi hộ trì của chư Phật, Đại Bồ Tát. Được miễn lìa sự sợ hãi, đao, gậy, thứ độc hại và khiến được mau khỏi các loại bệnh tật”
Khi nói lời này thì người dân Tỳ Xá Ly lại bình phục như cũ.
Đề nghị xem kỹ Kinh văn gốc. Nếu thọ trì đọc tụng đúng như lý như pháp sẽ có được sự nhiệm mầu.
Xem nguồn: Kinh chú Đà La Ni Thỉnh Bồ Tát Quán Thế Âm Tiêu Phục Độc Hại
+ Chú Lăng Nghiêm: Trong bảy ngày thứ hai, một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát, tâm không gián đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có chỉ dạy về nguyện.
Giảng: Trong tuần thứ hai tu hành, “một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát.” Quý vị phải thật lòng và nhất tâm. Pháp tứ hoằng thệ nguyện
“Tâm không gián đoạn.” Có nghiã là tâm không dừng trì tụng chú Lăng Nghiêm, và tâm không bao giờ quên tứ hoằng thệ nguyện.
“Trong Luật Tạng của ta đã có chỉ dạy.” Khi đức Phật nói về giới luật, đức Phật có dạy cách phát thệ nguyện.
Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy, mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện. Chỗ ánh sáng của gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo tràng tu Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời mạt thế thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly. Giảng: “Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật.” Quý vị trì tụng chú “Tát Đát Ra Bát Đát Ra” mà đức Phật đã thuyết, đó là chú Lăng Nghiêm.... (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm, Tập 7 - HT Tuyên Hóa)
+ Chú Lăng Nghiêm - Thủ Lăng Nghiêm:
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ: Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương :
1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ.
2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ.
3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ.
4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ.
5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Phật Thành Tựu là chủ. (Bộ sổ ghi nghiệp của chúng sanh được giữ bởi những vị “Cai Quản Nhân Quả” hay Minh Quan trong địa ngục_Từ điển thuvienhoasen.org)
- Mời đọc: Khai thị về Kinh và Chú Thủ Lăng Nghiêm
- Mời đọc: Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm
+ Ứng dụng Chú Lăng Nghiêm: Trừ ái dục và
Tôi đã nói với quý vị về việc tụng chú Lăng Nghiêm. Nếu quý vị tụng được chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ là một trong những người giàu nhất thế giới trong bảy kiếp sau. Thực vậy, nếu ngay bây giờ, nếu quý vị tụng được chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ là một trong những người giàu nhất thế giới vì quý vị nhận ra được Pháp bảo tạng nầy. Và khi quý vị đặt Pháp bảo tạng nầy vào trong tâm quý vị rồi thì còn có ai đánh cắp ra khỏi được? Bất kỳ loại kẻ cắp nào cũng không lấy được. Pháp bảo tạng nầy ở trong tự tánh của quý vị. Nó đã được cất giữ trong vòm trời Như Lai tạng của quý vị. Chẳng ai có thể tìm đến đó để lấy cắp được. Chẳng thể diễn tả nó vi diệu đến chừng nào. Nếu quý vị thâm nhập được Phật pháp, thì ngay bây giờ quý vị là một trong những người giàu nhất thế gian. Nhưng bây giờ thì quý vị chưa sử dụng tài sản đó được. Khi nào quý vị thành Phật rồi thì điều ấy sẽ thuộc về quý vị. Bây giờ gia tài ấy chỉ mới được kí thác với tên của quý vị, nhưng quý vị chưa đến tuổi trưởng thành, thế nên bây giờ chưa dùng được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
-Chú Thủ Lăng Nghiêm tiêu trừ Ái dục: ... Như Ma-đăng-già trước kia là dâm nữ, do nhờ sức của thần chú mà tiêu trừ ái dục. Nay trong Phật pháp có tên là Tánh tỷ-khưu ni.
Giảng giải:
"Như Ma-đăng-già trước kia là dâm nữ, do nhờ sức của thần chú mà tiêu trừ ái dục". Trong đời trước, cô ta là dâm nữ, vốn nhiều ái dục. Tuy vậy, năng lực của thần chú Thủ-lăng-nghiêm đã khiến cho tiêu tan hết ái dục trong cô. Nên bây giờ chúng ta mới biết công dụng thần chú Thủ-lăng-nghiêm là để tiêu trừ ái dục trong lòng mỗi người. “Thế thì tôi chẳng muốn tụng chú Thủ-lăng-nghiêm nữa,” quý vị bác lại. “Tôi không muốn tình yêu của mình bị khô héo. Tôi muốn có tình yêu mãi mãi.”
Giữ mãi tình yêu ấy? Được rồi! Quý vị cứ mặc tình. Nếu quý vị đã thích rồi, thì chẳng ai ngăn cản được. Nhưng quý vị nên nhớ rằng thần chú Thủ-lăng-nghiêm không những chỉ trừ bỏ được nghiệp ái, mà còn có thể khiến cho tăng trưởng năng lực thần thông và trí huệ. Đó là năng lực bất khả tư nghì.
Ái tình là khổ đau. Như tôi vừa nói đến. Yêu và ghét là hai cái khổ. Chẳng hạn, hãy xem tình yêu mà không được đáp lại. Người đang yêu không nghĩ đến gì khác ngoài người mình yêu đến mức không ăn không ngủ được. Họ cứ mơ tưởng đến cách theo đuổi, nhưng cuối cùng họ vẫn không đạt được. Có phải đó là nghĩ mãi đến cái khổ hay không?
Nay trong Phật pháp có tên là Tánh tỷ-khưu ni.
Pháp danh Tánh tỷ-khưu ni của Ma-đăng-già biểu hiện sự nhận ra tự tánh của cô ta. Ngay khi Đức Phật nói pháp cho cô ta nghe, ngay lúc đó cô ta chứng ngộ, đạt được quả vị thứ ba của hàng A-la-hán, không qua các thứ bậc sơ quả đến quả vị thứ hai. Cô ta chứng ngộ ngay quả vị thứ ba. Vì cô nhận ra rằng, thấy rằng ái dục vốn là không. A-nan vẫn còn trong giai vị sơ quả, trong khi người vợ của ông trong 500 kiếp trước đã vượt qua mình quá xa.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ LĂNG NGHIÊM CHÚ SỚ LƯỢC GIẢNG
Nhân duyên Ðức Phật thuyết kinh Lăng Nghiêm là vì A Nan bị Ma Ðăng Già Nữ dùng tà chú Tiên Phạm thiên mê hoặc, nhiếp dẫn vào nhà dâm, dựa kề vuốt ve, làm cho A Nan sắp bị hủy hoại giới thể. Ðức Phật sai Bồ tát Văn Thù đem chú đến cứu hộ, dắt A Nan về chỗ Phật. Vì thế nên biết Chú Lăng Nghiêm là chủ thể của Kinh Lăng Nghiêm. Nếu không có chú Lăng Nghiêm, thì không có Kinh Lăng Nghiêm. Mà Charles Luk khi phiên dịch Kinh Lăng Nghiêm ra tiếng Anh, lại võ đoán bỏ đi phần chú Lăng Nghiêm cùng với phần kiến lập thiết trí đạo tràng, nói người Tây phương đối với chú không có gì hứng thú. Ðiều này thật là hoàn toàn sai lầm. Thật như rằng lấy tai thay mắt (đối với vự việc chỉ nghe người ta nói liền tin theo mà không chịu phân tích, xét đoán), giống như thằng mù dẫn thằng đui, người ta nói sao mình cũng tào lao làm bậy theo, thật là vô tri ngu dốt, đáng thương vô cùng, đáng hổ thẹn biết bao. Ðã không thỉnh giáo với các bậc Thiện trí thức, lại lấy ý kiến nông cạn hẹp hòi của riêng mình, độc tài Kinh nghĩa, không sợ quả báo, gan to tầy trời, mà những người không hiểu biết lại a dua theo đó. Lại có những quyến thuộc của ma vương, vô cùng khiếp sợ chân lý của Kinh Lăng Nghiêm phá tà hiển chánh, thanh tịnh minh hối, chuyển mê về ngộ. (HT Tuyên Hóa giảng)
Xem thêm toàn văn (Googdrive): Giảng giải Chú Lăng Nghiêm
+ Phân biệt Pháp thật giả - Phật dạy trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
... Bấy giờ Thế tôn bảo A-nan rằng: "Trước đây ông nhàm chán các pháp Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác, phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Nên nay là lúc Như Lai sẽ chỉ bày cho ông Đệ nhất nghĩa đế."
Sao ông lại còn đem những nhân duyên vọng tưởng hí luận thế gian mà tự ràng buộc mình?
Ông tuy nghe nhiều, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà không phân biệt được thuốc thật ở trước mắt. Như Lai cho là rất đáng thương xót.
Nay ông hãy nghe kỹ, Như Lai sẽ vì ông mà chỉ bày tường tận. Và cũng để cho những người tu Đại thừa sau nầy thông đạt thật tướng. A-nan yên lặng, chờ nghe thánh chỉ của Đức Phật.
A-nan, như ông đã nói, tứ đại hòa hợp phát ra các thứ biến hoá trong thế gian.
A-nan, nếu tánh của các đại kia không hòa hợp nhau, thì không thể lẫn lộn với các đại khác. Cũng như hư không, không thể hòa hợp với các sắc tướng.
Nếu tính của tứ đại là hòa hợp, thì cũng đồng như các thứ biến hoá, trước sau biến thành nhau, sinh diệt nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ.
A-nan, như nước thành băng, băng tan thành nước.
- Ông hãy quán sát tính của địa đại, thô làm thành đất liền, tế làm thành vi trần, cho đến lân hư trần;
Nếu chẻ chất cực vi có sắc tướng vô cùng nhỏ ra làm bảy phần. Càng chẻ lân hư trần đó nữa, thì thật là tánh hư không.
A-nan, nếu lân hư trần đó chẻ thành hư không, thì nên biết hư không cũng sinh ra sắc tướng.
Nay ông hỏi rằng do hòa hợp mà sinh ra các tướng biến hoá trong thế gian.
Ông hãy xét kỹ lân hư trần nầy, phải dùng bao nhiêu hư không hợp lại mới thành? Không lẽ lân hư hợp lại sẽ thành lân hư trần?
Lại nữa, lân hư trần chẻ đã thành hư không được, thì phải dùng bao nhiêu sắc tướng hợp lại mới thành cả hư không?
Nhưng nếu khi hợp sắc tướng lại, thì sắc tướng hợp lại, không thành được hư không. Nếu hợp hư không lại, khi hư không hợp lại thì không thành được sắc tướng. Sắc tướng còn chẻ được, chứ hư không làm sao hợp lại được?
Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
- Hỏa đại - Thủy đại - Phong - Không đại cũng lại như thế: Theo nghiệp mà biến hiện .......
Nếu hư không đó, tánh tròn đầy trùm khắp, vốn không lay động, thì nên biết hiện tiền hư không và bốn thứ đất, nước, lửa, gió đều gọi là năm đại, tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sinh không diệt.
A-nan, tâm ông mê muội, chẳng ngộ được tứ đại vốn là Như Lai tạng. Ông hãy quán sát hư không là ra hay vào, hoặc chẳng ra vào?
Ông hoàn toàn không biết, trong Như Lai tạng, tánh giác là chơn không, tánh không là chơn giác, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới (Diệu giác). "Ứng hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh."
- Kiến đại - Thức đại cũng lại như thế: Theo nghiệp mà biến hiện .......
Thức thì linh động, cái thấy trong lặng, chẳng hòa chẳng hợp. Tánh ngửi, tánh nghe và tánh hay biết cũng đều như vậy. Chẳng lẽ tâm thức không do đâu mà có?
Nếu thức ấy chẳng do đâu sinh ra, thì nên biết tác dụng của kiến văn giác tri vốn vắng lặng cùng khắp, tánh chẳng do đâu mà có. Hai đại ấy (thức đại và kiến đại) cùng với hư không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại, tánh thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng.
Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Lúc bấy giờ A-nan và cả đại chúng, được sự khai thị nhiệm mầu của Đức Phật, khiến thân tâm vắng lặng, chẳng còn ngăn ngại. Trong đại chúng, mọi người đều tự nhận ra tâm mình trùm khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem một lá cây hay đồ vật trong bàn tay.
Tất cả mọi vật có trong thế gian, đều là tâm bồ-đề sáng suốt nhiệm mầu.
Lúc bấy giờ A-nan và cả đại chúng, được sự khai thị nhiệm mầu của Đức Phật, khiến thân tâm vắng lặng, chẳng còn ngăn ngại. Trong đại chúng, mọi người đều tự nhận ra tâm mình trùm khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem một lá cây hay đồ vật trong bàn tay.
Tất cả mọi vật có trong thế gian, đều là tâm bồ-đề sáng suốt nhiệm mầu.
Tâm tánh tròn đầy, cùng khắp mười phương.
Nhìn lại thân cha mẹ sinh ra, như mảy bụi phất phơ trong mười phương hư không, thoạt còn thoạt mất; như trong đại dương mênh mông, nổi lên hòn bọt nước, chẳng biết sinh diệt từ đâu. Rõ ràng tự nhận biết được chân tâm nhiệm mầu xưa nay thường trụ bất diệt.
Nên chắp tay lễ Phật, được điều chưa từng có. Đến trước Như Lai nói kệ tán thán ... (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Sắp bị đọa Tam ác đạo - Phương Pháp Phá tan địa ngục cứu giúp chúng sinh đọa ác đạo
“Lại nữa, này Địa Tạng! Trong đời vị lai, hoặc trời hoặc người, phải tùy theo nghiệp mà thọ báo ứng, đọa lạc vào ác đạo; lúc sắp bị đọa ác đạo hoặc vừa đến ngưỡng cửa, những chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, cùng một câu kinh một bài kệ của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lực, phương tiện để cứu vớt các chúng sanh đó; ở chỗ của các người đó hiện thân vô biên, vì họ mà phá tan địa ngục, làm cho họ được sanh thiên, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng...
Lược giảng:
“Lại nữa, này Địa Tạng! Ta lại bảo thêm cho ông rõ một đôi điều nữa. Trong đời vị lai, hoặc trời hoặc người, phải tùy theo nghiệp mà thọ báo ứng, đọa lạc vào ác đạo; lúc sắp bị đọa ác đạo hoặc vừa đến ngưỡng cửa ...”
Giả sử vào đời sau, có những thiên nhân trên cõi trời hoặc những người ở cõi nhân gian, vì nghiệp chướng mình trót gây tạo nên phải chịu quả báo bị đọa vào ba đường ác, thì ngay khi họ sắp sửa đọa lạc trong đường ác hoặc vừa đến trước cửa địa ngục, “những chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, cùng một câu kinh một bài kệ của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lực, phương tiện để cứu vớt các chúng sanh đó. Ông hãy vận dụng sức thần thông của mình đồng thời khéo dùng các quyền xảo phương tiện để cứu độ họ.”
Đồng thời, “ở chỗ của các người đó hiện thân vô biên. Ngay tại nơi mà những người đó đang cư ngụ, ông hãy hiển bày thân vô biên, thị hiện thần thông với đại oai thần, đại oai đức vô biên của mình. Ông hãy vì họ mà phá tan địa ngục, làm cho họ được sanh thiên. Ông hãy vung tích trượng, mở toang cửa địa ngục, phóng thích loài ngạ quỷ, khiến những chúng sanh đang chịu tội khổ đều được sinh về cõi trời, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng... Lúc đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng kệ tụng để trùng tuyên lại nghĩa trên như sau:
“Hiện tại, vị lai chúng thiên, nhân,
Nay Ta ân cần dặn bảo ông:
Dùng đại thần thông phương tiện độ,
Chớ để đọa vào các ác đạo.”
(Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sanh cõi Trời - Người Phát thiện tâm thì ít, trong chốc lát - Phát ác tâm thì nhiều, lại kiên cố
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới, mà giao phó cho ông.
Ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi!
Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất; nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ.”
“Này Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng trời, người giao phó cho ông. Vào đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam thiện nữ nào, ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, thì ông nên dùng Đạo lực mà ủng hộ người đó, làm cho lần lần tu Đạo Vô Thượng, chớ để thối thất.”
Lược giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói: “Này Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng trời, người giao phó cho ông. Ta kỳ vọng rất lớn nơi ông. Ta đem hết thảy chúng sanh trên cõi trời và ở cõi nhân gian mà phó thác, gởi gắm cho ông.”
“Vào đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam thiện nữ nào ...” “Đời vị lai” tức là chỉ cho thế hệ chúng ta, bao gồm tất cả quý vị và tôi hiện nay. Đương thời, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni “ký hiệp ước,” phó thác chúng sanh cho Bồ Tát Địa Tạng; trong số các chúng sanh đó thì có cả quý vị và tôi nữa, bởi Đức Phật có nói là các “thiện nam thiện nữ”!
Quý vị đều là những “thiện nam tử, thiện nữ nhân,” mà tôi cũng là một trong những “thiện nam tử, thiện nữ nhân”; chúng ta tuyệt đối không phải là các “ác nam tử, ác nữ nhân”! “Ác nam tử, ác nữ nhân” thì không thể nào ngồi yên ở đây được; bởi nếu đến đây, họ sẽ ngồi trên ghế nệm êm ái mà cứ thấy xốn xang như ngồi trên bàn đinh, chỉ chực nhổm dậy bỏ chạy. Còn quý vị là những “thiện nam tử, thiện nữ nhân,” hễ đến được chốn này thì ngồi xuống rồi là không muốn bỏ đi nữa, càng nghe giảng càng thấy thích thú, càng thấy thấm thía, có ý nghĩa, cho nên chẳng muốn ra về.
“Ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn ...” Quý vị xem, chúng ta có hy vọng rồi đó! Tất cả chúng ta đều không nên lo lắng bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Địa Tạng đã “ký hiệp ước” với nhau rồi, đã “bàn giao” hết sức rõ ràng rồi! Đức Phật nói rằng: “Trong Phật Pháp, nếu có kẻ nào chỉ cần trồng một chút căn lành, chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, thì ông—Bồ Tát Địa Tạng—nên dùng Đạo lực mà ủng hộ người đó. Tuy rằng việc thiện mà họ làm được còn ít ỏi, nhưng đều phát xuất từ thiện tâm, ông phải dùng Đạo nhãn để quán sát, vận dụng Đạo lực—thần thông, thần lực, đức từ bi, trí huệ, biện tài—của mình để bảo vệ ủng hộ những người mới trồng được đôi chút thiện căn này, làm cho lần lần tu Đạo Vô Thượng, chớ để thối thất. Ông phải khiến cho họ mỗi ngày mỗi tu nhiều thêm một chút, mỗi ngày mỗi hiểu rõ về Đạo Vô Thượng hơn một chút, đừng để cho họ thối thất tâm Bồ Đề.”
Có người hoài nghi: “Trong kinh nói rằng mặc dù trồng ít căn lành như vậy mà vẫn được Bồ Tát Địa Tạng ủng hộ; song chúng con làm rất nhiều việc thiện mà sao lại không thấy có được sự ủng hộ của Ngài? Vì sao chúng con chưa thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát đến ủng hộ mình?”
Quý vị chưa thấy Bồ Tát Địa Tạng ủng hộ quý vị ư? Quý vị có biết được không? Quý vị thử nghĩ lại xem, quý vị có từng bị xe đụng đáng lẽ phải chết, thế mà quý vị chỉ bị thương xoàng thôi chứ không nguy đến tánh mạng? Đó chính là nhờ Bồ Tát Địa Tạng âm thầm che chở cho quý vị vậy! Hoặc là quý vị có lúc đang đau nặng thì bỗng dưng được thuyên giảm, bình phục; nếu không phải nhờ Bồ Tát Địa Tạng che chở thì quý vị có thể có được sự cảm ứng như thế chăng?
Lại có người nói: “Con chưa hề bị xe đụng, cũng chẳng hề đau ốm, thế thì Bồ Tát Địa Tạng không che chở cho con sao?” Ồ! Thế ông còn nhớ không, có một lần ông đi biển, thuyền chòng chành cơ hồ sắp lật úp vậy, nhưng Bồ Tát Địa Tạng đã phù hộ ông, khiến thuyền không bị lật, có điều là ông không hay không biết gì cả đó thôi!
Lại có người nói: “Con chưa hề đi thuyền!” Thì ông có đi máy bay rồi, và máy bay chẳng gặp rủi ro—đó cũng là nhờ được sự bảo hộ của Bồ Tát Địa Tạng đấy!
Lại cũng có nhiều người ngồi trên máy bay mà cứ nơm nớp lo sợ: “Chẳng biết máy bay có bị rớt hay không? Bay cao đến thế kia!” Tại sao họ sợ? Đó là do trong quá khứ họ đã gây tạo nghiệp chướng quá nặng nề, cho nên bây giờ sợ rằng nghiệp chướng này sẽ hại mình bị đọa thêm, vì thế mới sanh lòng sợ hãi. May thay, họ đã học Phật Pháp, cho nên phi cơ không bị rớt!
Có người lại nói: “Tôi không sợ gì cả!” Ông không sợ gì cả ư? Đó là nhờ Bồ Tát Địa Tạng phù hộ và ban cho ông lòng can đảm đấy!
Trên đây là một vài trường hợp điển hình về sự linh cảm của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bất luận quý vị là ai, tất cả quý vị đều nên tin tưởng Địa Tạng Vương Bồ Tát bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài đã “ký hiệp ước” tại cung trời Đao Lợi—Ngài sẽ bảo hộ quý vị, tôi và tất cả chúng sanh đời hiện tại, bởi vì đó là trách nhiệm của Ngài, quý vị không thể không tin tưởng! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sanh cõi Trời - Người Phát thiện tâm thì ít, trong chốc lát - Phát ác tâm thì nhiều, lại kiên cố
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàn của ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới, mà giao phó cho ông.
Ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi!
Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất; nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ.”
Lược giảng:
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất.” “Chốc lát” là khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi—chỉ trong một thoáng là liền thối thất thiện tâm, không còn gì cả.
Có nhiều người phát tâm làm việc thiện nhưng chẳng được bao lâu lại hối tiếc: “Ôi! Tôi bố thí nhiều như vậy, chẳng biết có được đền bù cái gì không?” Như vua Lương Võ Đế cũng đã từng thắc mắc: “Tôi cất biết bao nhiêu là cảnh chùa, giúp độ được biết bao nhiêu là Tăng sĩ, lại từng bố thí cúng dường nhiều vô số kể; vậy chẳng hay công đức của tôi to lớn đến cỡ nào? Chẳng hay tôi có được công đức hay chăng?” Và sau đó thì nhà vua lại sanh lòng thối chuyển.
“Nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng.” “Ác duyên” tức là duyên bất tịnh, mà duyên bất tịnh lại chính là nhân duyên đọa lạc! Phàm quý vị gây ra những nhân duyên đọa lạc thì đều được xem như là gây tạo ác duyên, chẳng hạn như làm những việc ngu xuẩn, khởi lòng sân hận, hoặc sanh lòng tham vậy. Nếu quý vị có tâm tham dục thì sẽ tham tài, tham sắc; có tâm sân hận thì sẽ muốn giết người, đốt nhà; có tâm ngu si thì sẽ muốn đạt được những điều không thể đạt được. Đó đều là những ác duyên. Một khi gặp phải ác duyên thì thói ác mỗi niệm mỗi tăng trưởng—cái niệm xấu ác, cái tâm xấu ác mỗi lúc mỗi lớn mạnh hơn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ. Bởi chúng sanh khó độ như vậy, dầu họ có phát thiện tâm đi nữa thì cũng chỉ trong khoảnh khắc là liền thối thất, nếu lại gặp ác duyên thì tâm ác càng lúc càng tăng trưởng; cho nên Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, phải phân chia thân hình của Ta, dùng trăm ngàn vạn ức pháp môn phương tiện để giáo hóa chúng sanh, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ, khiến cho tất cả đều được ly khổ đắc lạc.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phân thân trong Phật giáo: "Phân thân"—thân thể làm sao có thể phân chia ra được? "Phân thân" ở đây cũng có thể gọi là "phân linh," "phân tánh," hoặc "phân tâm." Vì sao gọi là "phân linh"? Các bậc Bồ Tát thường có một thứ "linh cảm" có thể nói là "hữu cảm tự thông, vô cầu bất ứng," và có thể ví với cảnh giới:
"Ngàn ao đầy nước, ngàn trăng hiện, - Vạn dặm không mây, vạn dặm trời xanh."
Các "phân thân" của Bồ Tát Ðịa Tạng vốn không hiện hữu, vì sao ở đây lại nói là có "phân thân"? Bởi vì các "phân thân" này là do tùy thuận theo cơ duyên của chúng sanh mà thị hiện. Các "phân thân" này là như thế nào? Nói một cách đơn giản, "phân thân" cũng tương tự như hình ảnh vậy—vốn chỉ là một người, sau khi chụp hình thì có được nhiều bức ảnh của cùng một người. Tuy nhiên, hình ảnh thì không có tác động, không có sự cảm thông linh ứng, và cũng chẳng có sinh khí; còn các "phân thân" mà Bồ Tát Ðịa Tạng hóa hiện ra thì đều giống hệt bổn thân của Ngài; cho nên gọi là "ngàn muôn ức hóa thân." Hễ thấy nơi nào có địa ngục, Bồ Tát Ðịa Tạng liền phân phối một thân của mình đến nơi đó để giáo hóa chúng sanh. Do vậy, khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bất cứ nơi nào có địa ngục, Ngài đều hiện diện để giáo hóa chúng sanh. Vì Bồ Tát Ðịa Tạng phát thệ nguyện giáo hóa các chúng sanh trong địa ngục, cho nên ở đâu có địa ngục, thì ở đó có phân thân của Ngài Ðịa Tạng vậy!
"Tập hội" tức là quy tụ, tựu về. Vậy, "Phân Thân Tập Hội" ở đây có nghĩa là tất cả những thân mà Ðịa Tạng Bồ Tát đã hóa hiện ra đều trở về và tụ hội lại với nhau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Pháp cao sâu - Chúng sinh thông minh - Người Lợi căn tu. Bộ Kinh Tạng - Kinh Trung A Hàm.
1. ÁC DỤC, NIỆM DỤC
Chư Hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục thì tôi không ưa thích người đó và nếu tôi có ác dục, niệm dục thì người ấy cũng chẳng ưa thích tôi.
Tỳ-kheo hãy quán sát như vậy, không hành ác dục, không niệm dục. Nên học như vậy. (Trung A Hàm, Kinh Tỳ Kheo Thỉnh, Phẩm 8, số 89)
2. ÁC QUẢ, ÁC BÁO
Này A-nan, nếu ai có thân ác hành, khẩu và ý ác hành, do duyên này thân hoại mạng chung đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai có thân ác hành, khẩu và ý ác hành, do duyên này thân hoại mạng chung đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục, trường hợp này tất có. (Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
3. ÁC TUỆ
Nếu có ai hành khổ hạnh một cách tân khổ, do hành khổ hạnh nên không có tín tâm, giải đãi, không chánh niệm, chánh trí, có đủ ác tuệ. Hành khổ hạnh như vậy là cấu uế. (Trung A Hàm, Kinh Ưu-đàm-bà-la, Phẩm 9, số 104)
4. ÁI DIỆT KHỔ DIỆT THÁNH ĐẾ
Thế nào là ái diệt Khổ diệt Thánh đế? Nghĩa là chúng sanh thực có sáu xứ tham ái bên trong: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý xứ. Chúng sanh ấy giải thoát, không nhiễm, không đắm trước, đoạn bỏ hoàn toàn, vô dục, diệt tận, tĩnh tịch; đó gọi là Khổ diệt.
Đa văn Thánh đệ tử biết rằng ‘Ta biết pháp như vậy, thấy như vậy, hiểu như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy, đó là ái diệt Khổ diệt Thánh đế.
Nếu có người nào không tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài vật xuất vốn và lời lãi, đó không phải là tạo tác nghiệp, người ấy nếu giải thoát, không nhiễm, không đắm trước, đoạn bỏ hoàn toàn, vô dục, diệt tận, tĩnh tịch; đó gọi là ái diệt, Khổ diệt Thánh đế. Cũng thế, ngoại xứ xúc, thọ, tưởng, tư, ái, cũng lại như vậy.
Chúng sanh quả thật có sáu giới tham ái: Đất, nước, lửa, gió, hư không, thức giới; người ấy nếu giải thoát, không nhiễm, không đắm trước, đoạn bỏ hoàn toàn, vô dục, diệt tận, tĩnh tịch; đó gọi là ái diệt, Khổ diệt Thánh đế. Này chư Hiền, Đa văn Thánh đệ tử biết rằng ‘Ta biết pháp như vậy, thấy như vậy, hiểu như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy, đó là ái diệt Khổ diệt Thánh đế. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31)
5. ÁI DỤC
Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như thật về tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái.
Thế nào là biết như thật về ái? Có ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Thế nào là biết như thật về tập của ái? Do thọ mà có ái.
Thế nào là biết như thật về diệt của ái? Thọ diệt tức ái diệt.
Thế nào là biết như thật về diệt đạo của ái? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp. (Trung A Hàm, Kinh Đại Câu-hi-la, Phẩm 3, số 29)
6. ÁI DỤC NHƯ BÓ ĐUỐC
Này Cư sĩ, cũng như một người tay cầm một bó đuốc đang cháy, ngược gió mà đi. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Giả sử người ấy không liệng bỏ tức khắc, nhất định có cháy tay và các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao? Giả sử người ấy liệng bỏ tức khắc, sẽ còn bị cháy tay hay các chi thể khác nữa chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như bó đuốc đang cháy; Thế Tôn nói dục vọng như bó đuốc đang cháy, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây, tất cả mọi dục vọng thế gian, vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
7. ÁI DỤC NHƯ CON RẮN
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một con rắn độc to lớn, rất dữ, rất độc địa, màu đen dễ sợ. Nếu một người đi đến, không ngu, không si, cũng không điên đảo, tự chủ với tâm mình, tự do tự tại, muốn hoan lạc, chớ không muốn đau đớn, rất ghét đau đớn; muốn sống chớ không muốn chết, rất ghét sự chết. Ý Cư sĩ nghĩ sao, người ấy há lại thò tay cho con rắn cắn, hay các chi thể khác và nói rằng, ‘Này, mổ đi! Này mổ đi!’ Như vậy chăng?
Cư sĩ đáp: Không phải vậy, Cù-đàm. Vì sao vậy? Người ấy thấy con rắn bèn nghĩ rằng, ‘Nếu ta thò tay và các chi thể khác cho con rắn nó mổ, nhất định phải chết chớ không nghi ngờ. Dù không chết thì nhất định phải chịu đau đớn vô cùng’. Người ấy thấy con rắn bèn nghĩ đến sự lánh xa, ước mong xả ly.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như rắn độc. Thế Tôn nói dục vọng như con rắn độc, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi dục vọng thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
8. ÁI DỤC NHƯ GẶM CỤC XƯƠNG
Như một con chó đói, gầy ốm, mệt mỏi, đến bên chỗ mổ bò. Người đồ tể hay đệ tử của người đồ tể quăng cho con chó một khúc xương đã rút tỉa hết thịt. Con chó lượm được khúc xương rồi chạy đến chỗ này chỗ kia mà gặm, rách môi, mẻ răng, hoặc gây thương hại cuống họng, nhưng con chó không vì vậy mà đoạn trừ được đói.
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như bộ xương khô. Thế Tôn nói dục vọng như bộ xương khô, hoan lạc ít mà khổ não lại nhiều, đầy dẫy nguy hiểm, nên xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi sự vật dục của thế gian đều vĩnh viễn đoạn tận không dư tàn. Hãy tu tập điều đó.
(Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
9. ÁI DỤC NHƯ GIẤC MƠ
Này Cư sĩ, cũng như một người nằm mộng, thấy mình sung túc, năm thứ dục lạc thỏa thích. Nhưng khi tỉnh dậy, một thứ cũng không thấy. Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như giấc mộng. Thế Tôn nói dục vọng như giấc mộng, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây, tất cả mọi vật dục thế gian, vĩnh viễn đoạn tận, không dư tàn. Hãy nên tu tập sự kiện này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
10. ÁI DỤC NHƯ HẦM LỬA
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa có một hầm lửa lớn, trong đó đầy những lửa nhưng không có khói, không có ngọn. Nếu một người đi đến, không ngu, không si, cũng không điên đảo, tự chủ với tâm mình, tự do tự tại, muốn hoan lạc chớ không muốn đau đớn, rất ghét sự đau đớn; muốn sống chớ không muốn chết, rất ghét sự chết. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Người ấy lại nhảy vào hầm lửa này chăng?
Cư sĩ đáp: Không phải vậy, Cù-đàm. Vì sao vậy? Vì người ấy thấy hầm lửa liền nghĩ rằng, ‘Nếu rơi xuống hầm lửa, nhất định chết chớ không nghi ngờ. Dù không chết, nhất định chịu đựng đau đớn vô cùng’. Người ấy thấy hầm lửa bèn nghĩ đến việc xa lìa, ước mong xa lìa, xả ly.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như hầm lửa. Thế Tôn nói dục vọng như hầm lửa, hoan lạc ít mà khổ não nhiều đầy những nguy hiểm, hãy nên xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
11. ÁI DỤC NHƯ MIẾNG THỊT
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một miếng thịt rơi trên khoảng đất trống; hoặc quạ hoặc diều mang miếng thịt ấy đi. Rồi những quạ diều khác đuổi theo để tranh giành. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Nếu quạ diều ấy không chịu xả bỏ tức khắc miếng thịt này, các quạ diều khác vẫn đuổi theo để dành giựt chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao, nếu quạ diều ấy xả bỏ tức khắc miếng thịt này, các quạ diều khác có còn đuổi theo để dành giựt chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy, Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như miếng thịt. Thế Tôn nói dục vọng như miếng thịt; hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy nên xa lìa đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian đều vĩnh viễn đoạn tận không dư tàn. Hãy nên tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
12. ÁI DỤC NHƯ TRÁI CÂY
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một gốc cây ăn trái to lớn. Cây ấy thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt. Một người đi đến, đói, mệt mỏi, gầy ốm, muốn được ăn trái. Người ấy nghĩ rằng, ‘Cây này thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt. Ta đang đói, gầy ốm, mệt mỏi, muốn được ăn trái. Nhưng dưới gốc không có trái rụng để có thể ăn cho no và mang về. Ta biết leo cây. Bây giờ ta có nên leo lên cây này chăng?’ Nghĩ xong, bèn leo lên. Lại cũng có một người khác, đói, gầy ốm, mệt mỏi, muốn được ăn trái, cầm một cái búa rất lớn, bèn nghĩ rằng: ‘Cây này thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt nhưng dưới gốc cây không có trái rụng để có thể ăn cho no và mang về, ta không biết leo cây. Bây giờ ta có nên đốn ngã cây này chăng?’, bèn đốn ngã cây ấy. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Người trên cây nếu không xuống nhanh khi cây ngã xuống đất, có bị gãy tay hoặc các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao, nếu người trên cây leo xuống nhanh, khi cây ngã xuống đất, há lại bị gãy tay hay các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy, Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như trái cây. Thế Tôn nói dục vọng như trái cây, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm hãy lánh xa đi’. Nếu ai có sự xả ly dục ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian, vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập sự kiện này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
13. ÁI DỤC NHƯ VAY MƯỢN
Này Cư sĩ, cũng như một người vay mượn vật dụng hưởng lạc, hoặc cung điện, lầu các, hoặc vườn hào, ao tắm, hoặc voi ngựa, xe cộ, hoặc chen gấm mùng mền, hoặc nhẫn, vòng, xuyến, hoặc hương, anh lạc, vòng cổ, hoặc tràng hoa vàng báu, hoặc danh y thượng phục, rồi nhiều người trông thấy bèn ca ngợi rằng, ‘Như vậy, tốt lành thay! Như vậy, sung sướng thay! Nếu có tài vật gì thì nên hưởng thụ thỏa thích cho đến cùng như vậy’. Nhưng chủ nhân có thể tước đoạt hay sai người tước đoạt bất cứ lúc nào muốn, bèn tự mình tước đoạt hay sai người tước đoạt, những người khác trông thấy, bèn nói với nhau rằng, ‘Nó là người vay mượn; thật sự là lừa gạt chớ không phải vay mượn. Vì sao?
Vì chủ nhân của sở hữu có thể tước đoạt hay sai người tước đoạt bất cứ lúc nào muốn. Và rồi đã tự mình tước đoạt hay sai người tước đoạt’. Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như vay mượn. Thế Tôn nói dục vọng như vay mượn hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
Kinh rất dài, rất nhiều nội dung vi riệu để tu tập, mời đọc Những Lời Phật Dậy trong Trung A Hàm - Bộ Kinh Tạng
+ Hiểu biết toàn diện về ái dục:
5. ÁI DỤC
Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như thật về tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái.
Thế nào là biết như thật về ái? Có ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Thế nào là biết như thật về tập của ái? Do thọ mà có ái.
Thế nào là biết như thật về diệt của ái? Thọ diệt tức ái diệt.
Thế nào là biết như thật về diệt đạo của ái? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp. (Trung A Hàm, Kinh Đại Câu-hi-la, Phẩm 3, số 29)
6. ÁI DỤC NHƯ BÓ ĐUỐC
Này Cư sĩ, cũng như một người tay cầm một bó đuốc đang cháy, ngược gió mà đi. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Giả sử người ấy không liệng bỏ tức khắc, nhất định có cháy tay và các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao? Giả sử người ấy liệng bỏ tức khắc, sẽ còn bị cháy tay hay các chi thể khác nữa chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như bó đuốc đang cháy; Thế Tôn nói dục vọng như bó đuốc đang cháy, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây, tất cả mọi dục vọng thế gian, vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
7. ÁI DỤC NHƯ CON RẮN
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một con rắn độc to lớn, rất dữ, rất độc địa, màu đen dễ sợ. Nếu một người đi đến, không ngu, không si, cũng không điên đảo, tự chủ với tâm mình, tự do tự tại, muốn hoan lạc, chớ không muốn đau đớn, rất ghét đau đớn; muốn sống chớ không muốn chết, rất ghét sự chết. Ý Cư sĩ nghĩ sao, người ấy há lại thò tay cho con rắn cắn, hay các chi thể khác và nói rằng, ‘Này, mổ đi! Này mổ đi!’ Như vậy chăng?
Cư sĩ đáp: Không phải vậy, Cù-đàm. Vì sao vậy? Người ấy thấy con rắn bèn nghĩ rằng, ‘Nếu ta thò tay và các chi thể khác cho con rắn nó mổ, nhất định phải chết chớ không nghi ngờ. Dù không chết thì nhất định phải chịu đau đớn vô cùng’. Người ấy thấy con rắn bèn nghĩ đến sự lánh xa, ước mong xả ly.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như rắn độc. Thế Tôn nói dục vọng như con rắn độc, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi dục vọng thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
8. ÁI DỤC NHƯ GẶM CỤC XƯƠNG
Như một con chó đói, gầy ốm, mệt mỏi, đến bên chỗ mổ bò. Người đồ tể hay đệ tử của người đồ tể quăng cho con chó một khúc xương đã rút tỉa hết thịt. Con chó lượm được khúc xương rồi chạy đến chỗ này chỗ kia mà gặm, rách môi, mẻ răng, hoặc gây thương hại cuống họng, nhưng con chó không vì vậy mà đoạn trừ được đói.
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như bộ xương khô. Thế Tôn nói dục vọng như bộ xương khô, hoan lạc ít mà khổ não lại nhiều, đầy dẫy nguy hiểm, nên xa lánh đi. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi sự vật dục của thế gian đều vĩnh viễn đoạn tận không dư tàn. Hãy tu tập điều đó. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
9. ÁI DỤC NHƯ GIẤC MƠ
Này Cư sĩ, cũng như một người nằm mộng, thấy mình sung túc, năm thứ dục lạc thỏa thích. Nhưng khi tỉnh dậy, một thứ cũng không thấy. Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như giấc mộng. Thế Tôn nói dục vọng như giấc mộng, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây, tất cả mọi vật dục thế gian, vĩnh viễn đoạn tận, không dư tàn. Hãy nên tu tập sự kiện này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
10. ÁI DỤC NHƯ HẦM LỬA
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa có một hầm lửa lớn, trong đó đầy những lửa nhưng không có khói, không có ngọn. Nếu một người đi đến, không ngu, không si, cũng không điên đảo, tự chủ với tâm mình, tự do tự tại, muốn hoan lạc chớ không muốn đau đớn, rất ghét sự đau đớn; muốn sống chớ không muốn chết, rất ghét sự chết. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Người ấy lại nhảy vào hầm lửa này chăng?
Cư sĩ đáp: Không phải vậy, Cù-đàm. Vì sao vậy? Vì người ấy thấy hầm lửa liền nghĩ rằng, ‘Nếu rơi xuống hầm lửa, nhất định chết chớ không nghi ngờ. Dù không chết, nhất định chịu đựng đau đớn vô cùng’. Người ấy thấy hầm lửa bèn nghĩ đến việc xa lìa, ước mong xa lìa, xả ly.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như hầm lửa. Thế Tôn nói dục vọng như hầm lửa, hoan lạc ít mà khổ não nhiều đầy những nguy hiểm, hãy nên xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
11. ÁI DỤC NHƯ MIẾNG THỊT
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một miếng thịt rơi trên khoảng đất trống; hoặc quạ hoặc diều mang miếng thịt ấy đi. Rồi những quạ diều khác đuổi theo để tranh giành. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Nếu quạ diều ấy không chịu xả bỏ tức khắc miếng thịt này, các quạ diều khác vẫn đuổi theo để dành giựt chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao, nếu quạ diều ấy xả bỏ tức khắc miếng thịt này, các quạ diều khác có còn đuổi theo để dành giựt chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy, Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như miếng thịt. Thế Tôn nói dục vọng như miếng thịt; hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy nên xa lìa đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian đều vĩnh viễn đoạn tận không dư tàn. Hãy nên tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
12. ÁI DỤC NHƯ TRÁI CÂY
Này Cư sĩ, cũng như cách thôn không xa, có một gốc cây ăn trái to lớn. Cây ấy thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt. Một người đi đến, đói, mệt mỏi, gầy ốm, muốn được ăn trái. Người ấy nghĩ rằng, ‘Cây này thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt. Ta đang đói, gầy ốm, mệt mỏi, muốn được ăn trái. Nhưng dưới gốc không có trái rụng để có thể ăn cho no và mang về. Ta biết leo cây. Bây giờ ta có nên leo lên cây này chăng?’ Nghĩ xong, bèn leo lên. Lại cũng có một người khác, đói, gầy ốm, mệt mỏi, muốn được ăn trái, cầm một cái búa rất lớn, bèn nghĩ rằng: ‘Cây này thường có nhiều trái ngon lành đẹp mắt nhưng dưới gốc cây không có trái rụng để có thể ăn cho no và mang về, ta không biết leo cây. Bây giờ ta có nên đốn ngã cây này chăng?’, bèn đốn ngã cây ấy. Ý Cư sĩ nghĩ sao? Người trên cây nếu không xuống nhanh khi cây ngã xuống đất, có bị gãy tay hoặc các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Thật sự như vậy, Cù-đàm.
Ý Cư sĩ nghĩ sao, nếu người trên cây leo xuống nhanh, khi cây ngã xuống đất, há lại bị gãy tay hay các chi thể khác chăng?
Cư sĩ đáp: Không vậy, Cù-đàm.
Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử lại tư duy như vầy, ‘Dục vọng như trái cây. Thế Tôn nói dục vọng như trái cây, hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm hãy lánh xa đi’. Nếu ai có sự xả ly dục ly ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian, vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập sự kiện này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
13. ÁI DỤC NHƯ VAY MƯỢN
Này Cư sĩ, cũng như một người vay mượn vật dụng hưởng lạc, hoặc cung điện, lầu các, hoặc vườn hào, ao tắm, hoặc voi ngựa, xe cộ, hoặc chen gấm mùng mền, hoặc nhẫn, vòng, xuyến, hoặc hương, anh lạc, vòng cổ, hoặc tràng hoa vàng báu, hoặc danh y thượng phục, rồi nhiều người trông thấy bèn ca ngợi rằng, ‘Như vậy, tốt lành thay! Như vậy, sung sướng thay! Nếu có tài vật gì thì nên hưởng thụ thỏa thích cho đến cùng như vậy’. Nhưng chủ nhân có thể tước đoạt hay sai người tước đoạt bất cứ lúc nào muốn, bèn tự mình tước đoạt hay sai người tước đoạt, những người khác trông thấy, bèn nói với nhau rằng, ‘Nó là người vay mượn; thật sự là lừa gạt chớ không phải vay mượn. Vì sao?
Vì chủ nhân của sở hữu có thể tước đoạt hay sai người tước đoạt bất cứ lúc nào muốn. Và rồi đã tự mình tước đoạt hay sai người tước đoạt’. Này Cư sĩ, Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Dục vọng như vay mượn. Thế Tôn nói dục vọng như vay mượn hoan lạc ít mà khổ não nhiều, đầy những nguy hiểm, hãy xa lánh đi’. Nếu ai có sự xả ly dục, ác bất thiện pháp này, thì ở đây tất cả mọi vật dục thế gian vĩnh viễn đoạn tận không dư tàng. Hãy tu tập điều này. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
Nguồn: Tổng hợp về Ái dục - Kinh Trung A Hàm
+ Ơn nghĩa chúng sinh - Một trong bốn ân Phật dậy:
Bấy giờ, đức Phật từ trong chính định dạy ngài Di lặc: “Này các đệ tử, hãy nghe cho kỹ, ta sẽ diễn nói ơn nghĩa thế gian và xuất thế gian. Một ơn cha mẹ. Hai ơn chúng sinh. Ba ơn tổ quốc. Bốn ơn Tam bảo. Bốn ơn lớn này, tất cả mọi người đều phải ghi nhận và nên đền đáp.
ƠN NGHĨA CHÚNG SINH
Tất cả chúng sinh, từ vô lượng kiếp, trôi lăn sinh tử ở trong năm đường: thiên, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh và làm con người kiếp trước đã từng làm cha, làm mẹ, quyến thuộc của nhau. Tiếp nối điều này, ta hãy quán niệm tất cả người nam từng là cha ta, tất cả người nữ từng là mẹ ta. Mỗi người chúng ta từng làm cha mẹ nên cũng từng có tâm đại từ bi như cha mẹ ta. Ơn cha mẹ xưa, ta chưa trả hết. Nay do vọng nghiệp sinh ra thuận nghịch, rồi do chấp mắc, oán hại lẫn nhau.
Vì không có trí nên ít ai hiểu trong nhiều đời trước, chúng ta đã từng làm cha mẹ nhau. Chỗ đáng trả ơn, làm lợi ích nhau mà không chịu làm đều là bất hiếu. Nhân duyên đời trước, tất cả chúng sinh quá khứ, hiện tại và đời tương lai đều có ơn lớn, thực khó trả hết. Do vậy ta nên tìm cách trả ơn tất cả chúng sinh bằng lối sống đẹp, giàu lòng vị tha, giúp đỡ mọi người sống trong hòa thuận, cơm no áo ấm.
Này các đệ tử, làm người cao quý phải biết đền trả bốn ân như thế. Người cầu chính đạo quyết tâm đền trả bốn ân cao quý bằng sự thực tập mười Ba-la-mật. Trong đời tương lai, bất kỳ người nào nghe được Kinh này, thọ trì, đọc tụng, phổ biến rộng rãi sẽ được phước đức, tăng trưởng trí tuệ, được thiện thần giúp, thân không đau ốm, tuổi thọ dài lâu, an vui thơi thới.
Phật vừa dứt lời, tất cả mọi người vô cùng hoan hỷ, phát tâm thọ trì, truyền bá kinh này.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (Nguồn: Kinh Bốn Ân Lớn)
+ Tri Ân Báo Ân: " Làm cách nào để siêu độ thân bằng quyến thuộc của mình?". Những người đã chết, điều mong mõi duy nhất và tha thiết của họ là trông nhờ sự giúp đỡ của con cháu. Do đó con cháu cần phải tu học Phật pháp. Theo đúng phương pháp của Phật đã dạy đễ tu hành. Đây là cách thức giúp đỡ có hiệu quả nhất.
Nhưng trong Phật pháp có đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Pháp môn Trì danh niệm Phật là phương pháp dễ tu và mau chóng đạt kết quả nhất. ...
Trong cuộc sống, dẫu có nhiều bận rộn một tuần ít nhất quý vị phải đến niệm Phật đường một ngày. Niệm Phật vì ai? Vì giúp đỡ thân bằng quyến thuộc hiện kiếp cũng như thân nhân nhiều đời nhiều kiếp đã qua. Công đức này thật to lớn vô cùng.
Trong đây có người thắc mắc: " Làm sao biết được thân bằng quyến thuộc lúc nào thoát khỏi ác đạo". Xin thưa rằng: " Ngay lúc quý vị phát tâm chân thành niệm Phật, họ lập tức thoát khỏi ác đạo". Bởi vì việc làm của quý vị chân thật, không giả dối thì liền được cảm ứng, chứ không phải chờ đến khi quý vị niệm Phật, đến lúc công phu thành khối họ mới được siêu thoát. Tuy nhiên nếu công phu của quý vị thành khối, nghĩa là không xen tạp, không gián đoạn, có thể gọi là " chứng tiểu quả" thì phước báu của họ sẽ được sanh lên thượng thiên đạo. ( Trời, người, A tu la). Trường hợp công phu niệm Phật của quý vị không ngừng nâng cao, thì thân bằng quyến thuộc của quý vị sẽ không bao giờ trở lại ác đạo. Đến đây quý vị đã hiểu rõ hai mặt lý và sự của công đức niệm Phật rồi. Từ đây quý vị tự biết mình phải làm thế nào khi phát tâm niệm Phật để đền đáp công ơn sâu dầy đối với Cửu huyền Thất Tổ, thân bằng quyến thuộc.
Phát tâm niệm Phật là điều rất tốt. Tuy nhiên nếu không có ngoại duyên hổ trợ, nghiệp chướng, tập khí của mình lại công phu không được đắc lực.
Một niệm Phật đường chân chính là một tăng thượng duyên giúp chúng ta tu hành, duyên này rất thù thắng. ....
.... Nếu quý vị không tìm được người giảng pháp, có thể đến đạo tràng chúng tôi lấy băng về nghe, mỗi ngày nên mở băng nghe hai giờ đồng hồ. Như vậy, Niệm Phật Đường của quý vị với chúng tôi không có khác.
Công phu niệm Phật của chúng ta một khi đã thành khối, không những thân bằng quyên thuộc của kiếp này, thậm chí đến nhiều đời kiếp trước mà chúng ta không biết hoặc không thể nhớ, họ vẫn được siêu độ. Nghĩ đến việc này, nếu chúng ta không siêng năng nổ lực tu hành, chúng ta thật có lỗi với ông bà, Tổ tiên, thân bằng quyến thuộc. Do đó khi vào niệm Phật, chúng ta phải mang tâm tri ân báo ân để niệm Phật. ...... Cho nên niệm Phật không phải vì chính mình, mà vì thân bằng quyến thuộc, vì tất cả chúng sanh. (Nguồn: Khai thị niệm Phật - PS Tịnh Không)
+ Kinh Đại Phương Tiện Phật báo Ân. (Đây là trích đoạn trong Kinh - Kính đề nghị xem Kinh văn gốc)
..... Kẻ Phạm Chí ấy bảo Tôn giả A Nan rằng: .... Thầy Cồ Đàm/ Đức Phật của ngươi thực là người bội bạc, chẳng biết ân nghĩa, mới đành lòng dứt bỏ ra đi như thế! Cho đến phụ vương, vì tạo lập cung điện, cưới nàng Cù Di làm vợ cho Cồ Đàm, nhưng ông cũng chẳng làm theo bổn phận của vợ chồng, khiến cho nàng phải sầu khổ, cho nên biết Cồ Đàm là người bất hiếu.
Tôn giả A Nan nghe nói như thế rồi, trong lòng sinh ra thẹn hổ, khất thực xong xuôi, trở về đến chỗ Phật, đầu mặt lễ sát xuống chân Phật, rồi lui về ngồi một phía, chấp tay bạch Phật rằng:
-Lạy đức Thế Tôn! Trong Phật pháp, có sự hiếu dưỡng cha mẹ không?
Phật dạy:
-A Nan! Ai bảo ngươi, khiến ngươi hỏi ta điều ấy, chư Thiên thần chăng? Nhân, Phi nhân chăng? Hay là ngươi tự đem trí lực của ngươi mà hỏi Như Lai chăng?
Tôn giả A Nan bạch Phật rằng:
-Lạy đức Thế Tôn! Không phải chư Thiên, Long, Quỷ, thần, Nhân, Phi nhân hiện ra bảo con, mà do vừa rồi, lúc con đi khất thực, ở giữa đường gặp đồ đảng Lục sư, là Tát Gia Ni Kiền Tử, đem lời mạ nhục.
Tôn giả A Nan đến trước Phật thuật hết những sự tình như trên .......
..... A Nan! Nghe cho kỹ, Ta nay sẽ vì ông, lượt nói về nhân duyên khổ hạnh hiếu dưỡng cha mẹ (của đức Phật).
....... Bấy giờ, Thái tử Tu Xà Đề (Tiền thân của đức Phật) thưa với cha mẹ rằng:
- Con nay sẽ xin nguyện đem thâm mạng này của con, để cúng dàng cha mẹ, cha mẹ ngày nay, nếu cắt thân mạng con một lúc, thì không được bao nhiêu ngày, máu thịt sẽ bị hôi thúi. Vậy kính xin cha mẹ, đừng giết chết ngay, và con nay chỉ xin cha mẹ một điều, mong cha mẹ đừng làm trái ý con, nếu trái con thì sẽ không phải là cha mẹ hiền từ của con nữa.....
.... Nhân tâm làm lợi ích cho chúng sinh, tâm tự lợi lợi tha, mà diệt trừ được tâm chướng ngại, được tâm tịnh tĩnh, hay gần gũi Thiện hữu, thường sinh tâm cung kính, tâm chuyên ý nghe pháp, nhớ giữ không quên, tâm suy nghĩ nghĩa lý nhiệm mầu, tâm nghe ít mà hiểu nhiều, tâm không nguyện nghe nhiều, mà không hiểu nghĩa. Kế tin tự tâm là chân như thực tướng; tin tự tâm như thực tướng nghĩa. Khi đã tin tự tâm là như thực tướng nghĩa rồi, kế sinh tâm như thuyết tu hành; do sinh tâm như thuyết tu hành rồi, kế sinh tâm không thoái chuyển, do sinh tâm không thoái chuyển rồi, nên đối với chúng sinh, liền sinh những tâm đối trị: ....
......- Bồ Tát phải tri ân báo ân như thế nào?
Phật bảo Bồ Tát Hỷ Vương:
-Thiện nam tử! Ông hãy nghe cho kỹ: Bồ Tát muốn tri ân báo ân nên phải phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, và dạy bảo tất cả chúng sinh phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Bồ Tát Hỷ Vương hỏi:
- Nếu phát tâm Bồ Đề, sẽ phải phát như thế nào? Và nhân đâu mà có thể phát được?
Phật nói:
-Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát, khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề phải lập đại nguyện, và nói như thế này: “Nếu tôi chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tôi sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh được an trụ trong cảnh đại Niết Bàn, lại sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh, thảy đều được đầy đủ bát nhã ba la mật”. Như thế gọi là tự lợi cũng gọi là lợi tha. ... ...
.... Khi ấy Đức Như Lai lên cung trời Đao Lợi, vì mẹ là Ma Da phu nhân, và các đại chúng, thuyết pháp trong thời gian chín mươi ngày. Trong chín mươi ngày ấy, ở cõi Diêm Phù Đề, tất cả đều không biết Đức Như Lai ở chỗ nào. Ngài Đại Mục Kiền Liên, thần thông đệ nhất, dùng hết thần lực, để tìm kiếm khắp cả mười phương, cũng lại chẳng biết. Ngài A Na Luật Đà, thiên nhỡn đệ nhất, xem xét khắp cả mười phương, ba ngàn đại thiên thế giới, cũng lại chẳng thấy, cho đến cả năm trăm đệ tử, cũng chẳng biết Đức Như Lai ở đâu, nên ai nấy đều mang lòng buồn rầu mong nhớ....
.... Bấy giờ Đức Thế Tôn, bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát rằng:
- Các Thiện nam tử! Và đại chúng nên biết: Đại vương nước Ba La Nại lúc bấy giờ, chính là cha ta Duyệt Đầu Đàn ngày nay, người mẹ của Thái tử lúc bấy giờ chính là mẹ ta Ma Gia phu nhân ngày nay, còn Thái tử Nhẫn Nhục chính là thân Ta ngày nay.
Bồ Tát đã từng ở trong vô lượng A tăng kỳ kiếp, hiếu dưỡng cha mẹ, nào là y phục, thức ăn uống, phòng xá, giường chõng cho đến đem cả thân thể xương tủy để cúng dàng cha mẹ, việc đó như thế.
Chi tiết xin mời xem trong Kinh Phật Báo Ân Phương Tiện Cấp Túc Nhất Thiết Chúng Sinh. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Thần chú tiêu tai cát tường - HT Tuyên Hóa giảng
Năm nay, kể từ ngày Nguyên-đán, chúng ta cùng thành tâm niệm thần chú Tiêu Tai Cát Tường:
"Nam mô. Tam mãn đa. Mẫu đà nẫm. A bát la để. Hạ đa xá. Sa nẵng nẫm. Ðát điệt tha. Án. Khư khư. Khư hê. Khư hê. Hồng hông. Nhập phạ ra. Nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ ra. Ðể sắt xá. Ðể sắt xá. Sắt trí rị. Sắt chí rị. Sa phấn trá. Sa phấn trá. Phiến để ca. Thất lí duệ Sa bà ha."
Nếu như quý vị chuyên tâm trì niệm, chắn chắn sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn và tới được cảnh giới như trong câu nói: "Cảm ứng đạo giao."
Tại sao chúng ta cần phải niệm Thần Chú Tiêu Tai Cát Tường? Ðể cầu cho toàn thế giới, toàn thể nhân loại tai qua nạn khỏi, đến chỗ cát tường. Ðó là lý do thúc đẩy Vạn Phật Thánh Thành cử hành Pháp-hội Tiêu Tai Cát Tường. Tóm lại, chính là giúp chúng sanh thoát ly khổ hải, chớ không có mục đích gì khác.
Một số các chùa, bất luận mở pháp hội nào đều nhằm vào các thí chủ công đức (người xuất tiền của để làm công đức). Vạn Phật Thành không giống như vậy, chẳng có pháp hội nào mà chúng ta nhằm vào các công đức chủ, chúng ta chỉ có chủ công đức mà thôi. Thế nào gọi là chủ công đức? Nghĩa là Vạn Phật Thánh Thành chủ trì công đức và hồi hướng tất cả công đức cho toàn thể nhân loại trên thế giới này.
Tại đây chúng ta mang hết thành tâm và thành ý niệm thần chú Tiêu Tai Cát Tường, vì lợi ích của toàn thể nhân loại chớ không phải chỉ riêng lợi ích của mấy người ở tại Vạn Phật Thành. Pháp hội này lớn rộng, đại nhi vô ngoại, nghĩa là to lớn đến độ bao trùm hết các chúng sanh, không một chúng sanh nào ở ngoài cả. Bất cứ ai, không kể người tin Phật hay không tin Phật, kẻ thiện người ác, chúng ta đều mang công đức hồi hướng cho tất cả, làm cho mọi người thoát ly khổ ách và được hưởng an vui.
Thực hiện những pháp hội này, chúng ta không hề đặt giá, chỉ lo châu toàn bổn phận, hết một lòng với thiên chức, lẽ đương nhiên cầu an lạc là phải cầu cho hết mọi chúng sanh. Nếu không nhận thức cho rõ, chúng ta sẽ làm mất hết ý nghĩa của pháp hội. Bởi vậy chúng ta phải niệm với một sự chí thành, một sự tha thiết, để có thể cảm động tới lòng từ bi của Phật và Bồ-tát, khiến các Ngài rủ lòng thương xót giúp giảm nhẹ tai nạn cho chúng sanh, tai nạn lớn biến thành nạn nhỏ, tai nạn nhỏ thì được hóa giải luôn. Ở đây chúng ta hết lòng cầu nguyện cho toàn thể nhân loại, được tiêu tai cát tường. Ðó là cái đáng giá!
Chúng ta nhờ vào vị thế ưu việt của đạo tràng Vạn Phật Thành mà làm tiêu được tai nạn cho toàn thể nhân loại trên thế giới, thì thật là một điều hết sức lý tưởng. Nếu không có địa điểm đó, thì không nơi nào có thể giúp chúng ta làm được công đức này. Cho nên tại Vạn Phật Thánh Thành, có quy định làm "sái tịnh," tức dọn dẹp sạch sẽ, vào đêm trừ tịch của âm lịch, để sáng ngày mồng một Nguyên-đán bắt đầu niệm thần chú Tiêu Tai Cát Tường. Vạn Phật Thánh Thành làm chủ công đức, nghĩa là chủ trì việc làm công đức để hồi hướng đến các chúng sanh trên toàn thế giới.
Quý vị! Tham gia các loại pháp hội này là một vinh dự! Một vận may! Quý vị hãy phấn chấn tinh thần, thành tâm mà niệm, chớ có bôi bác bề ngoài che đậy tâm lười biếng. Mọi người phải cùng nhau một lòng vì cứu độ chúng sanh mà niệm. Hãy niệm! Niệm! Niệm! Niệm! (Nguồn: Chú tiêu tai cát tường-HT Tuyên Hóa)
+ Chúng sinh vô lượng thệ nguyện độ:
- Độ sinh - Độ sanh: Giúp người tu giải thoát luân hồi sinh tử - Độ thoát
- Siêu độ: Siêu độ vong linh vào ngày rằm tháng bảy âm - Lễ vu lan.
Tông chỉ của bộ Kinh Địa Tạng nằm trong tám chữ: "Hiếu đạo, Độ sanh, Bạt khổ, Báo ân". Tám chữ này muốn nói lên điều gì? Chính là nói lên đạo lý hiếu thảo với cha mẹ. Con người biết hiếu thảo với cha mẹ thì sẽ làm trời đất rạng rở. Việc khiến trời đất cảm động, cũng chính là lòng hiếu thảo cha mẹ, nên nói: "Thiên địa trọng hiếu, hiếu đương tiên". Chữ Hiếu này rất quan trọng. Chỉ cần một chữ "Hiếu" thì cả nhà được bình an. "Hiếu thuận hoàn sanh hiếu thuận tử". (Cha mẹ biết hiếu thảo thì sẽ sinh con hiếu thảo)
Tông chỉ thứ hai của bộ Kinh này là "Độ sinh". Sao gọi là độ sinh? Từ bờ bên này sang bờ bên kia gọi là "độ"; từ sinh tử đến Niết Bàn cũng gọi là "độ"; từ phiền não tới thành Bồ đề cũng gọi là "độ". Nói độ sinh chính là độ chúng sinh. Độ chúng sinh không phải nói độ một người, hai người, cũng không phải độ ba người, năm người mà gọi là độ chúng sinh. Độ chúng sinh là độ tất cả mười hai loài chúng sinh, giáo hóa, khiến họ đều phát tâm Bồ đề, sớm thành Phật quả. Đây mới gọi là độ chúng sinh.
Hỏi: Làm sao cứu độ chúng sinh, cửu huyền thất tổ, trong hạ giới?
Đáp: Kinh kể lại rằng ngài Mục Kiền Liên dùng sức mạnh thần thông của cá nhân mình để thử cứu mẹ mình ở địa ngục mà thất bại. Do đó, muốn cứu độ chúng sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ, mình cần phải nhờ tới đạo lực của tập thể chư Tăng, những vị chân thật tu hành. Xưa kia, vào rằm tháng tư, đức Phật và chư Tăng kiết hạ, (nghĩa là an trụ một chỗ để tu hành, không ra ngoài khất thực để tránh phải dẫm lên côn trùng sâu bọ sinh sản đầy đẫy vào mùa mưa). Rằm tháng bảy, là ngày cuối cùng của mùa hạ, Phật và chư Tăng tề tựu để tụng giới, thuyết pháp. Bấy giờ chư Tăng sẽ dùng đạo lực thanh tịnh của mình để hồi hướng về chúng sinh đang chiụ thống khổ trong cõi dưới. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Kim Cang Bộ - Bộ Kim Cang và Liên Hoa Bộ - Bộ Liên Hoa
Như vậy là tối hôm nay đã lược giảng xong bộ Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai....
Hai vị Phật, một vị ở phương đông là đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, một vị ở phương tây là đức A-di-đà Như Lai. Ở phương đông là Phật A-súc, cũng là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; ở phương tây là đức Phật A-di-đà, giáo chủ của pháp môn Tịnh độ.
Hai vị Phật, một vị thuộc Kim Cang bộ, một vị thuộc Liên Hoa bộ; đặc điểm trong bộ Kim Cang là pháp “hàng phục”, còn trong bộ Liên Hoa là pháp “nhiếp thọ”.
Pháp hàng phục trong bộ Kim Cang, còn gọi là pháp “chiết phục” thì lấy lòng hỷ xả để đưa chúng sanh đến chỗ quy thuận, trong khi đó, pháp nhiếp thọ của bộ Liên Hoa thì lấy lòng từ bi để thâu phục chúng sanh.
Tại sao Kim Cang bộ lại đặt trọng tâm vào hỷ và xả? Số là khi Phật hàng phục thiên ma và ngoại đạo, Ngài không có tâm sân hận. Ngài dùng tâm hỷ và xả, một phương cách đối trị để giáo hóa, khiến chúng bỏ đường tà để theo về chánh pháp. Mục đích của Phật là dẫn dắt chúng tới chỗ thoát vòng sanh tử.
Lấy từ bi để nhiếp thọ, lấy hỷ xả để hàng phục, trong công cuộc giáo hóa chúng sanh chứng tỏ rõ công năng của các pháp “tứ vô lượng tâm”.
Tinh thần của Kim Cang thường biểu lộ qua cặp mắt trợn lên một cách giận dữ. Thật ra cặp mắt tuy giận dữ mà lòng không giận dữ, chỉ thuần có hỷ và xả, hoan hỷ và bao dung. Còn như hình Bồ tát với cặp mắt nhìn xuống là hoàn toàn không có ý nghĩa giận dữ. Phật A-di-đà đối với chúng sanh không giận dữ, Ngài không dùng phương cách hàng phục mà dùng tâm từ bi để tiếp dẫn chúng sanh.
Trong nghi thức “Thiền môn nhật tụng”, có câu chú gọi là “Nhị Phật chú”, như sau:
Nhị Phật diễn hóa tại Ta-bà
Đông A-súc, Tây Di-đà
Thập tam điều đại giới phạm ba-la
Phạ Diêm-la
Cần sám hối
Tội tiêu ma.
(Tạm dịch: Hai vị Phật giáo hóa cõi Ta-bà. Phía đông là Phật A-súc, phía tây là Phật A-di-đà, Mười ba điều phạm giới Ba-la-di, nếu sợ vua Diêm-la thì phải sám hối. Tội sẽ tiêu tan)
Theo nguyên tắc, ai phạm giới Ba-la-di thì không sám hối được, tuy nhiên nếu có tâm sám hối chân thực thì tội cũng có thể tiêu tan. “Nhị Phật chú” thuộc về “câu triệu pháp môn”. Chữ “câu” là giữ lại, “triệu” là gọi đến. Giả dụ có người bị ma chướng hay bị quỷ ám, nếu đọc chú lên thì có thể gọi được quỷ tới. Chú này rất linh nghiệm, có điều rất ít người biết đến và cũng không biết cách niệm chú.
Trong Phật giáo còn có “Phổ Am chú” thuộc loại pháp hàng phục. Truyền thuyết kể lại rằng Tổ sư Phổ Am lúc xưa là một người giết heo. Sau người đi tu, không còn giết heo nữa, người bèn dùng mười hai con dao giết heo, luyện thành phi đao, tức là dao bay. Khi niệm chú Phổ Am lên thì những con dao giết heo kia sẽ bay lên không gian, khiến tà ma đều sợ hãi, bởi vậy chú Phổ Am thuộc loại pháp hàng phục. (Nguồn: Kinh Dược Sư Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Nguyện cầu đức Phật: Nghĩa: Ðại hùng đại lực đại từ bi. Nguyện cầu trừ sạch hết hoặc vi tế, khiến cho con sớm thành Vô thượng giác. Kiến lập đại đạo tràng
trong khắp mười phương.
Giảng giải: ‘’Ðại hùng‘’, tức là đại anh hùng, cũng bao quát đại trí, đại huệ, đại hạnh, đại nguyện trong đó. ‘’Ðại lực’’, càng không thể so sánh thứ sức lực to lớn này. Tức có đại hùng lực, lại có đại từ bi. Dùng đại hùng đại lực để chủ trì tâm đại từ bi. Từ là ban cho chúng sinh hết thảy sự vui sướng, bi là cứu hết thảy khổ của chúng sinh. Thương chúng sinh không thể cùng tận, tất cả nguyện của chúng sinh đều đầy đủ. Chúng sinh có nguyện cầu gì với Phật, Phật đều làm cho họ được như ý. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Lăng Nghiêm, Tr 37)
+ Trí Huệ đức Phật: ... Oai thần lực của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta phàm phu, chẳng có cách chi có thể hiểu được, cho nên bây giờ chúng ta vẫn còn là phàm phu, không hiểu thấu được cảnh giới của Phật. Nhưng Phật hiểu được tâm của chúng sinh. Bất cứ trong tâm tưởng gì ? Phật đều biết. Kinh Kim Cang có nói : "Tất cả chúng sinh có những tâm gì, Như Lai đều biết đều thấy".
Nghĩa là tất cả hết thảy chúng sinh, không màng có bao nhiêu thứ tâm, Phật hoàn toàn biết bạn đang nghĩ gì ? Thích gì ? Chán bỏ cái gì ? Phật đều nhìn thấy rõ ràng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - T1)
+ 4- Phật huấn thị về cung cách và bổn phận người Phật tử.
Đức Phật dậy: Thọ trì năm giới Phật chế là người phước đức. Phàm làm việc gì nên khải bạch Tam Bảo. Phật huyền thông thấu suốt không việc nhỏ nhặt nào mà không biết.
Giảng: Lời kinh trên đây là Phật khai thị cho chúng ta. Những ai thọ trì năm giới, chuyên tâm tu tập thì mới chân thật là đệ tử Phật, nhất định là người phước đức trong nhân gian. Thọ trì ngũ giới tất nhiên được năm phước đức:
1/- Trường thọ.
2/- Giàu sang.
3/- Thanh tịnh ít bệnh.
4/- Mội người kính tin.
5/- Trí huệ phước đức hơn người.
Đại để các kinh luật đều nói tạo nhân tu trì ngũ giới thì được quả báo bằng phước đức như đây. Để hành vi thuần thiện, tâm ý thuần chân, Phật còn từ bi kỹ lưỡng chỉ giáo cho chúng ta phương pháp kiểm soát hành vi tâm niệm để tránh vọng tình huân tập bằng cách “khi hành sự, nên bạch Tam Bảo”, nhứt niệm thông tam giới. Nhứt tâm chánh niệm quy y Tam Bảo, thì trừ diệt được nghiệp ba đời. Trọn đời y như thế thực hành, thì không nguyện nào mà không thành, không tâm hạnh nào mà không thanh tịnh, không quả vị nào mà không chứng đắc. Thành kính khải bạch Tam Bảo mỗi khi thi hành việc gì, thì cho dù làm việc “thế sự” cũng thành “Phật sự”, hạnh chúng sanh cũng thành hạnh Bồ Tát.
Thế nào là khải bạch Tam Bảo? Phật huyền thông huệ nhãn, tàng thân khắp pháp giới, không nơi chốn nào mà không ảnh hiện. Đủ thiện duyên thì Phật ảnh hiện suốt thông tất cả. Như ba động khắp trong không gian, đủ dụng cụ hợp tầng số là có diệu dụng thu nhiếp và ảnh hiện. Như không khí khắp trong vũ trụ có năng lực nuôi sống muôn loại. Nên kinh nói: “Phật huyền thông thấu suốt, không việc nhỏ nhặt nào mà không biết”. Khải bạch Tam Bảo là đến trước tượng Phật đốt tâm hương thành kính bạch lên những việc sắp làm, mong đức Phật từ bi gia hộ cho bồ đề tâm kiên cố thuận duyên hành đạo; vận dụng hết tâm niệm hành vi thực hành thì đúng như lời Phật dạy trong kinh điển là khải bạch Pháp bảo; thỉnh ý sư trưởng, thảo luận với người đạo đức là khải bạch Tăng bảo. Làm như thế trước khi thi hành thì nhất định việc làm hợp với lý tánh lương tâm, tự nhiên cảm ứng đạo giao cùng với huyền thông chư Phật.......
Đức Phật dậy: Người có giới hạnh là có đạo đức ứng hợp với chân tánh tự nhiên, chư thiên hộ trì, sở nguyện không trái ý, cảm động mười phương, đức tánh bằng trời, vun bồi công đức vĩ đại, thánh hiền ngợi khen, khó có thể nghĩ bàn.
LỜI GIẢI:
Đức Phật hết lời khen ngợi người có giới hạnh. Có giới hạnh là công đức sâu rộng lớn như trời biển, đồng thời Phật cũng khuyến khích mọi người nên phát tâm tu trì giới pháp. Học Phật phải nhận rằng phàm chỉ trì giới cho riêng mình là tiểu thừa giới, tiểu thừa tâm. Tự mình thọ trì giới pháp mà còn nghĩ đến làm lợi ích chúng sanh, khuyến khích chúng sanh cùng với mình phát tâm tu tập Phật pháp là đại thừa giới, đại thừa tâm. Người trì giới, đồng thời phát từ bi tâm làm lợi ích chúng sanh tự nhiên cùng với Phật Bồ Tát cảm ứng tương giao, được chư Phật Bồ Tát tùy duyên hiện tướng, tâm nguyện tương ưng cùng đại thể bản tánh Phật chúng sanh thanh tịnh, nên kinh đây gọi là “ứng hợp bản thể chân tánh tự nhiên”.
Lại nữa, Bồ Tát độ sanh tùy duyên hiện tướng, tùy căn cơ nghiệp thức chúng sanh thích hợp thân hình gì thì các ngài hiện tướng “đồng sự, lợi hành” theo Tứ nhiếp pháp mà không trái với bản thể chân tánh tự nhiên. Nếu người học Phật hiểu được nghĩa lý nầy thì chỉ cần tự thân chuyên trì giới luật, tinh tấn làm việc phước đức, chẳng phải cần cầu thần linh tự nhiên cảm ứng chư Phật Bồ Tát Thiên Long Bát Bộ hộ trì, không tâm nguyện nào mà không thành, không đạo hạnh nào mà không viên mãn. Tức là người chuyên trì giới luật với tâm lượng vị tha, thường nghĩ tưởng đến lợi ích của chúng sanh, xả thân hành đạo thì tất nhiên được chư Phật Bồ Tát Thiên Long Bát Bộ hộ niệm, nên việc làm khởi đầu dù gặp phải bất cứ nghịch duyên ma chướng, nhưng sau đó thuận tâm như nguyện. Muốn đạt đến hữu cầu tất ứng, thì tâm phải đồng tâm Phật, miệng nói lời Phật nói, thân làm các hạnh Phật làm, tự hành hóa tha, như thế nhứt định cảm động mười phương pháp giới, tâm hạnh xứng tánh, vô vi vô tác, rạng ngời như nhựt nguyệt, đem nguồn ấm mát cho vạn loại sanh trưởng, cùng với vạn vật dung hợp đồng nhất thể.
Do chánh tâm chuyên trì giới pháp, thành ý tu thiện, lợi ích chúng sanh, từ đó có được công đức tự lợi lợi tha to lớn, cảm đến thành hiền thế gian và xuất thế gian đều tán thán hộ trì bất tận, nên kinh đây nói: “Cảm động mười phương, đức sánh bằng trời, vun bồi công đức vĩ đại, thành hiền ngợi khen, khó có thể nghĩ bàn”. Người tu học Phật chỉ biết năng lực của sự trì giới và công đức hoằng pháp làm thiện chuyển động đến chư Phật Bồ Tát Bát Bộ Thiên Long. Nên năng lực thần thông có, khi nào chính lòng ta thật sự thanh tịnh làm việc công đức chứ không phải chạy tìm bên ngoài nhờ thần linh, hồn tinh quỷ mị giáng điển dựa thế lực người nầy kẻ khác để tu hành phụng sự Phật pháp. Như thế là tà pháp chứ không phải là chánh pháp. (Nguồn: Kinh A Nan vấn về Phật sự)
+ Đức Phật rõ biết mọi việc: Vì sao Phật có thể dùng lòng nhân từ để tế độ chúng sanh? Bởi vì Phật có trí huệ."Năng nhân" cũng có nghĩa là tùy duyên;"tịch mặc" cũng chính là bất biến. Ðức Phật thì thường bất biến, song cũng luôn tùy duyên; tuy luôn tùy duyên, nhưng vẫn thường bất biến. Mặc dù ở trong Ðịnh tịch nhiên bất động, Phật vẫn có thể cảm thông linh ứng. Cho nên nói: Mọi tâm tưởng của chúng sanh, Phật đều có thể thấy, nghe và rõ biết.
Mọi tâm tưởng của chúng sanh, bất luận nhiều hay ít, Phật đều có thể thấy, nghe và rõ biết tất cả. Vì sao Phật có thể thấy biết tất cả? Chính là nhờ"năng nhân, tịch mặc." Bởi Ðức Phật có thể"năng nhân" nên Ngài thấy rõ được tất cả; và nhờ có thể"tịch mặc" nên Phật thấu suốt hết mọi sự. Do đó, quý vị đừng lầm tưởng rằng không ai hay biết những việc mình làm, bởi Phật có thể thấy biết tất cả.
Chúng ta tu Ðạo, hễ trong lòng có một phần chân thành thì sẽ được một phần cảm ứng, có mười phần chân thành thì sẽ được mười phần cảm ứng. Nếu tâm quý vị có trăm ngàn vạn ức phần chân thành, thì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dù đang ở vị trí"bổn giác tịch nhiên bất động," cũng có thể cảm thông linh ứng mà giúp cho quý vị được toại nguyện, khiến cho quý vị được sớm thành tựu Ðạo nghiệp. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Đức Phật luôn quan sát, lắng nghe chúng sinh: Khi đó Đức Thế Tôn trả lời rằng: “Này Anan, Như Lai sẽ nói cho ông. Khi Như Lai đang an trú trong không gian hư không, Như Lai luôn quán sát và dõi nhìn các chúng sinh ở cõi Ta Bà. Vì vậy, các ông hãy lắng nghe lời khuyên của Như Lai. Giáo Pháp này sẽ đem đến lợi lạc trong thời điểm mà thời kỳ đen tối khởi sinh. Vào thời điểm ác trược đó, nếu ai đọc tụng và ghi chép giáo Pháp này, cầu nguyện, thực hành thiền định, trì tụng và quán tưởng về hạnh từ bi của Đấng Đại Bi (Đại Bồ tát Quán Thế Âm) thì những bất tịnh, u ám sẽ được thanh tịnh nhanh chóng. Nếu một ai hết lòng tôn kính bản Kinh giáo Pháp thiêng liêng này, giữ gìn một cách thanh tịnh bằng cách cúng dường với hoa và hương thì tất cả chúng sinh sẽ được nhiều lợi lạc... (Nguồn: Kinh Ngọn Đèn Sáng Tỏ)
+ Các loài trong Đường dữ - Đường ác đạo - Cõi dữ - Cõi ác đạo
Các loài trong đường dữ
Ðịa ngục, quỷ, súc sanh
Khổ sanh già bịnh chết
Lần đều khiến dứt sạch.
Ðường dữ (evil destinies) hay ác đạo chính là những nơi bất thiện, và chẳng phải chỉ có một mà có rất nhiều.
Tổng quát thì có bốn loài là: A-tu-la - ngạ quỷ - súc sanh - địa ngục
A-tu-la thì như trước đã giải thích rồi, họ chính là đấu tranh kiên cố; những loại chúng sanh thích đấu tranh đều thuộc vào A-tu-la. Ðịa ngục do đâu mà có? Ấy là do nghiệp chướng của mỗi cá nhân chúng ta mà hình thành. Quý vị tạo tội ác gì thì sẽ có địa ngục tương ứng với tội ác đó hiện ra. Ðịa ngục lại chia ra rất nhiều thứ.
Kinh Ðịa Tạng nói:
"Ngục lớn có mười tám, kế đó có năm trăm ngục nhỏ, lại có hàng ngàn trăm vô lượng vô biên địa ngục."
Ðịa ngục có phải giống như nhà tù ở thế gian không? Do người ta làm ra cái nhà rất chắc chắn, chờ khi có người phạm tội thì đem nhốt vào đó chăng? Không phải thế! Ðịa ngục là do tội ác của mỗi cá nhân mà hiện ra. Quý vị tạo ác nghiệp sát nhân thì sẽ có địa ngục sát nhân hiện ra; tạo tội ác đốt nhà thì sẽ có địa ngục đốt nhà hiện ra. Bởi tạo ác nghiệp gì thì sẽ có địa ngục đó hiển hiện, vì thế chủng loại địa ngục không có nhất định. Ðến khi trả nghiệp xong rồi thì địa ngục ấy sẽ tự biến mất. Nghiệp chưa hết thì địa ngục vẫn còn. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Pháp nhiếp - Bốn loại nhiếp thọ
Tam luân của Phật lấy bốn pháp nhiếp làm chủ, cho nên nói nhiếp hóa chúng sinh. Nhiếp là nhiếp thọ, giống như hút sắt vậy. Nhiếp phân làm hai thứ :
1. Nhiếp hữu hình, giống như có người ở Nữu Ước, tiếp được thơ hoặc điện thoại của bạn bè ở Cựu Kim Sơn, bèn đến Cựu Kim Sơn.
2. Nhiếp vô hình, tức là nhiếp tinh thần, tức cũng là thần túc thông, có thể nhiếp người đến. Ví như có người vốn chưa từng thấy mặt, hoặc là chỉ thấy trong mộng, thì người này bèn đến, đó là tác dụng về nhiếp tinh thần.
Phật thường dùng nhiếp hữu hình và vô hình, để nhiếp hóa chúng sinh, dùng đủ loại thần thông để nhiếp hóa chúng sinh, dùng từ bi hỷ xả để nhiếp hóa chúng sinh.
Tóm lại có bốn loại nhiếp :
1. Bố Thí : Phân làm ba loại :
A. Bố thí tài : Thấy người khốn khổ hoạn nạn, dùng vàng bạc vật chất để cứu họ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
B. Bố thí pháp : Thấy người không rõ sự lý, dùng Phật pháp nhân quả để khai đạo cho họ, khiến cho họ khai mở trí huệ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
C. Bố thí không sợ hãi : Thấy người bất hạnh, dùng lời khéo để an ủi họ, làm cho họ không hoảng hốt sợ hãi, họ sẽ cảm động mà nương tựa bạn. Như vậy sẽ phát sinh cảm tình với chúng sinh thì dễ gần gũi chúng sinh.
2. Ái ngữ : Tức là lời nói thái độ giống như cha mẹ nói với con cái, không những nhu hòa mà còn từ bi, đối với chúng sinh cũng lại như thế, khiến cho chúng sinh có hảo cảm. Do đó :
‘’ Lời hay nửa câu ấm suốt ba mùa Đông.’’
Lời nói là biểu đạt sự cảm tình. Biết dùng người thì kết duyên lành khắp nơi, không biết dùng người thì kết duyên ác kháp nơi. Cho nên người tu đạo phải rộng kết duyên lành.
Có câu chyện như vầy, lúc Đức Phật còn tại thế, Đức Phật và hai vị Tôn giả Ca Diếp và A Nan đi đến xứ nọ thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Gặp lúc mùa hạ thời tiết nóng bức, mồ hôi chảy nhễ nhại, bèn đến nghỉ dưới gốc cây. Lúc bấy giờ Đức Phật thấy một phụ nữ đến giếng gánh nước bèn sai Tôn giả A Nan đi xin nước. A Nan dến bên giếng, người thiếu phu nổi giận, không những không cho nước, mà còn mắng chửi Tôn giả A Nan. Tôn giả A Nan im lặng cúi đầu trở về chỗ Phật. Phật sai Tôn giả Ca Diếp đến xin nước, Tôn giả Ca Diếp đến bên giếng, người phụ nữ cười hỏi : ‘’ Thầy đến đây làm gì ? ‘’ Tôn giả Ca Diếp nói rõ ý của mình đến, thì người phụ nữ này múc đầy hai bầu nước, một bầu cúng dường Phật, một bầu cúng dường ngài Ca Diếp. Tôn giả A Nan thấy như vậy, trong tâm nghi vấn, bèn hỏi Phật là nhân duyên gì ? Phật bèn nói ra một đoạn nhân duyên trong vô lượng kiếp. Lúc đó người phụ nữ này là con chuột, vì quan hệ nghiệp chướng, chuột bị xe cáng chết ở giữa đường, thân thể đã hôi thối. Tôn giả A Nan là một vị Tỳ kheo đi ngang qua, ngửi thấy mùi chuột thối muốn mửa ra, tâm nghĩ lão chuột đáng chết, rồi bịt mũi đi qua. Đằng xa cũng có một Tỳ kheo đi đến, đó là tiền thân Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả phát tâm từ bi, thấy chuột chết thật đáng thương xót, mới mai táng xác chuột dưới đất, rồi vì nó mà niệm bảy lần Chú Vãng Sinh, cho nên nó mới có duyên sinh làm người. Đó là nhân quả kết duyên lành hoặc kết duyên ác.
3. Lợi hành : Tức là có lợi gì thì phân chia đồng đều cho mọi người, không thể chiếm làm của riêng. Nên học Bảo Thúc Nha và Quản Trọng về việc chia vàng. Hai người hợp tác làm ăn, đến khi chia lợi nhuận thì Quản Trọng lấy phần nhiều, còn Bảo Thúc Nha thì ít hơn. Có người cho rằng không công bằng, mới hỏi Bảo Thúc Nha tại sao lại như thế ? Bảo Thúc Nha nói : ‘’ Quản Trọng có mẹ già còn sinh tiền, ăn uống phải có dinh dưỡng, cho nên mới lấy phần nhiều.’’ Quản Trọng nghe được điều này rất cảm động vô cùng, rất cảm kích nói rằng : ‘’ Cha mẹ là người sinh ta, người biết ta là Bảo Thúc Nha.’’
4. Đồng sự : Bồ Tát nghĩ muốn độ người gì, thì hiện ra thân đó, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm có ba mươi hai thân tướng. Đáng dùng thân người nam độ được, thì hiện thân người nam để độ, đáng dùng thân người nữ độ được, thì hiện ra thân người nữ để độ. Đáng dùng thân sĩ, nông, công, thương độ được thì hiện ra thân sĩ, nông, công, thương để độ. Tóm lại, phải hiện ra thân cùng thân, cùng thân phận, thì mới độ được dễ dàng. Nếu với chúng sinh giống nhau, chẳng có giới hạn, không phân biệt đó đây, như vậy thì bạn với chúng sinh thành một thể, lúc đó thuyết pháp cho chúng sinh nghe, thì hiệu quả trăm phần trăm.
Vị Thiên Vương này, đắc được môn giải thoát : bốn pháp nhiếp, để nhiếp hóa chúng sinh. Ở trên là môn giải thoát của mười vị Biến Tịnh Thiên Vương. Dưới đây là những bài kệ của các vị đó. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Trí huệ của đức Phật: .... Căn cứ vào những nghĩa nói trên, nên biết Nhị Thừa không thể xưng là Phật.
Hơn nữa, chữ Phật không thể dùng tiếng mà truyền được, cũng không thể lấy nghĩa mà hiểu được.
Còn thế nào gọi là Thế Tôn? Là người có thể biết hết các pháp đối trị vậy.
Lại nữa, ở thế gian ngôn ngữ bất đồng, nên người đời không hiểu được nhau, mà Phật thì hiểu biết tất cả, nên gọi Phật là Thế Tôn.
Lại nữa, như Lặc Tỷ Khưu nói, Nhị Thừa phàm phu tự nói đã chứng được các pháp, hoặc ưa nơi tĩnh mịch, hoặc thích thiền định, hay các pháp khác, nhưng giữ bí mật. Phật thì không thế, Phật chứng được các pháp, đều rủ lòng từ bi mà nói cho người khác nghe.
Lại nữa, vì Phật đã diệt trừ được tham, sân và si, nên gọi là Thế Tôn..... (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Trí huệ như lai - Trí huệ đức phật - Trí huệ của phật - Trí huệ của đức phật
Trí huệ Như Lai không bờ mé
Tất cả thế gian không lường được
Dứt trừ si tối của chúng sinh
Đại Huệ thâm nhập pháp môn này.
‘’ Trí huệ Như Lai không bờ mé.’’ Trí huệ của Phật chẳng có bờ mé, chẳng có hạn lượng. Giáo nghĩa của Phật giáo cũng không bờ mé. Bất cứ là Phật giáo đồ, hoặc không phải là Phật giáo đồ, đều bao quát ở trong Phật giáo. Tin hay không tin, chỉ là vấn đề thời gian sớm muộn mà thôi, thành Phật không thành Phật cũng là vấn đề sớm muộn.
Tại sao nói Phật giáo chẳng có bờ mé ? Vì tâm chúng sinh chẳng có bờ mé, nghĩa là tâm chúng sinh lớn bao nhiêu, thì Phật giáo lớn bấy nhiêu. Bất cứ bạn tin Phật hay không tin Phật, đều ở trong phạm vi Phật giáo, không thể ra ngoài Phật giáo. Phật pháp tận cùng hư không khắp pháp giới, chẳng có giới hạn. Bất cứ là hữu tình (động vật) hoặc vô tình (khoáng thực vật) đều có Phật tính. Phật tính là bình đẳng, chẳng có khác biệt. Cho nên Phật giáo chủ trương tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, chẳng có phân biệt, chẳng có đẳng cấp, một luật bình đẳng, đó là chỗ tư tưởng vĩ đại của Phật giáo.
Bây giờ có người không tin Phật pháp, tương lai cuối cùng sẽ tin. Bây giờ không thành Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật. Chỉ cần bạn chịu tinh tấn tu hành, thì nhất định có hy vọng. Phật thì không nói dối, tuyệt đối không nói lời lường gạt chúng sinh.
‘’ Tất cả thế gian không lường được.’’ Tất cả người thế gian đều không thể lường được trí huệ của Phật nhiều bao nhiêu ? Cũng không thể biết được trí huệ của Phật rộng lớn cỡ nào ? Tại sao ? Vì trí huệ của Phật không có bờ mé, là không thể nghĩ bàn.
‘’ Diệt trừ si tối của chúng sinh.’’ Phật dùng trí huệ rộng lớn, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, phá trừ ngu si đắc được trí huệ. Phật vĩnh viễn diệt trừ tâm ngu si đen tối của tất cả chúng sinh, tức cũng là phá vô minh của chúng sinh, làm cho chúng sinh đắc được quang minh trí huệ.
‘’ Đại Huệ thâm nhập pháp môn này.’’ Cảnh giới này, vị Khả Ái Lạc Đại Huệ Thiên Vương, thâm nhập thấu rõ hiểu được trí huệ không ngằn mé của Phật, an trụ ở trong tam muội này. ....
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Vào Pháp Giới có bài kệ rằng :
"Bụi cõi tâm niệm đếm biết được,
Nước trong biển lớn uống hết được,
Hư không lường được, gió buộc được, Không thể nói hết công đức Phật".
Số hạt bụi trong thế giới nhiều vô số, mỗi chúng sinh trên thế giới khởi tâm động niệm, đều có thể biết; Nước trong biển lớn có thể uống hết được, tuy nhiên hư không vô biên, cũng có thể trắc lượng được; Gió lớn tuy không có hình tướng cũng có thể buộc nó lại được, nhưng không ai có thể biết được công đức của Phật, cho nên nói công đức Như Lai không thể nghĩ bàn. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Trí Huệ đức Phật: ... Oai thần lực của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta phàm phu, chẳng có cách chi có thể hiểu được, cho nên bây giờ chúng ta vẫn còn là phàm phu, không hiểu thấu được cảnh giới của Phật. Nhưng Phật hiểu được tâm của chúng sinh. Bất cứ trong tâm tưởng gì ? Phật đều biết. Kinh Kim Cang có nói : "Tất cả chúng sinh có những tâm gì, Như Lai đều biết đều thấy".
Nghĩa là tất cả hết thảy chúng sinh, không màng có bao nhiêu thứ tâm, Phật hoàn toàn biết bạn đang nghĩ gì ? Thích gì ? Chán bỏ cái gì ? Phật đều nhìn thấy rõ ràng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Hoa Nghiêm - T1)
+ Trí huệ của Đức Phật: A-nan, Như Lai nói Phật pháp do nhân duyên sinh, chẳng phải là căn cứ vào những tướng hoà hiệp thô trọng của thế gian. Như Lai nhận ra các tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ bản nhân của chúng do nhân duyên gì mà phát sinh ra.
Như thế cho đến một giọt mưa ngoài hằng sa thế giới, (Như Lai) cũng đều biết số mục. Cũng như nay trước mắt ông, các thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, (Như Lai) đều biết nguyên do. (Giảng giải: Như thế–Như Lai biết nhân duyên gì khiến các hiện tượng phát sinh–cho đến một giọt mưa ngoài hằng sa thế giới, (Như Lai) cũng đều biết số mục. Như Lai biết rõ các nhân duyên gì ở trong tận cùng các thế giới xa xăm và các thế giới khác. Chẳng có hiện tượng nào trong các thế giới đó mà Như Lai không biết, kể cả các thế giới ở ngoài các thế giới nầy, Như Lai đều biết rõ từng giọt mưa rơi xuống. Kinh Kim Cang có nói: “Như Lai hoàn toàn thấy biết được mọi tâm niệm của chúng sinh.”
Bất luận là các chúng sinh thuộc cõi giới loài người hay cõ giới khác, bất kỳ niệm tưởng nào sinh khởi trong chúng, Như Lai đều biết rõ. Cũng như nay trước mắt ông. Ông không thể nào thấy được các hiện tượng ở các cõi nước khác cách xa đây nhiều như số cát sông Hằng, như những vật đang hiện hữu trước mắt ông bây giờ, các thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, (Như Lai) đều biết nguyên do). (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cá tính - Tánh xấu của mỗi loài chúng sinh
... Hoặc người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa lòng giận.
Giận hờn là gì? Chính là nổi nóng, chính là phiền não, cũng là vô minh. Giận hờn lợi hại giống như lửa vậy.
Ấy là: "Một đốm lửa giận, có thể đốt tiêu cả rừng công đức."
Người xưa cũng nói: "Ngàn ngày gánh củi một mồi lửa."
Ý nói quý vị đốn củi một ngàn ngày chỉ cần một đốm lửa châm vào có thể đốt cháy sạch. Ðó là hình dung bình thường chúng ta tích tạo bao công đức thiện nghiệp, dù tu hành bao lâu mà một khi quý vị nổi cáu lên, phừng lửa vô minh, thì bao nhiêu công đức tích tụ được đều đốt sạch cả. Hạng người nào thích nổi lửa vô minh thế? Chính là A-tu-la đấy.
Mỗi cá nhân đều có một xu hướng riêng.
- Người thuộc Phật đạo, tính cách đa số là từ bi;
- Người thuộc Tiên đạo thì ưa thích thanh nhàn,
- Người thuộc Nhân đạo thì đều có nhân duyên với mọi người;
- Người thuộc Quỷ đạo thì tánh hay giảo hoạt, không muốn thua thiệt, là người không thành thật, lén lén lút lút, và cũng giống như quỷ La-sát đã nói ở trước, đều có ý "muốn đến hại người."
- Người thuộc Súc sanh đạo thì nặng về tham dục, bất luận thứ gì họ đều không sợ nhiều, càng nhiều càng tốt, tham mãi không chán.
- Người thuộc A Tu-la đạo thì hay phát cáu, những người này hễ động đến thì nổi giận ngay, cáu gắt om sòm.
Những người như thế thì phải làm sao? Có cách gì có thể sửa đổi được? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã đem pháp môn này dạy bảo cho quý vị kỹ càng, đó là phải thường niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Hơn nữa, phải tiếp tục luôn luôn không gián đoạn.
"Thường" nghĩa là không dứt. Mỗi khi lên chùa, gặp chỗ nào có thờ Phật, hoặc thờ Bồ Tát Quán Thế Âm thì phải cung kính cúi đầu đảnh lễ. Cũng không nên hôm nay lạy, rồi ngày mai không lạy; sáng nay đảnh lễ, chiều tối lại không đảnh lễ. Nếu chịu kiền thành hằng thường kính lễ chư Phật Bồ-tát, lâu dần rồi bịnh nổi cáu ấy sẽ không còn nữa, mà chính mình cũng không biết vì sao? Nếu quý vị không tin, tôi sẽ đem kinh nghiệm của chính mình nói cho quý vị nghe. Tôi trước kia là người rất dễ nổi giận, hễ nói đánh là đánh, nói mắng là mắng ngay. Năm tôi 12, 13 tuổi rất thích đánh nhau. Bất luận là người lớn bao nhiêu, đến với tôi thì phải nghe tôi chỉ huy, nếu không nghe tôi chỉ huy thì tôi đánh! Dù chết cũng phải đánh, đánh đến chừng nào chịu hàng phục mới thôi. Thế gọi là gì? Ðó chính là một thứ hành động của A-tu-la. Về sau tôi học Phật, mới biết thói giận bướng như thế là không tốt, phải cải hóa tự tân mới được, nên thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho nên bây giờ làm sư phụ, tôi phải tu hạnh nhẫn nhục. Có lúc đồ đệ đến hiếp đáp, trước hết tôi nổi cáu, nhưng rồi nhỏ nhẹ ôn hòa, nhẫn nhục cho đến khi người ấy từ từ hiểu ra, tự nhận biết lỗi mình. Vì trước đây tôi chọc người khác giận nên bây giờ tôi bị đệ tử đến hiếp đáp. Có thể nói đây là một thứ quả báo! Có người hỏi: "Ðồ đệ nào dám hiếp đáp thầy vậy?" Người nào hiếp đáp tôi thì người đó tự biết. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
I- THEO MINH TRIẾT MỚI
+ 12 cung Hoàng đạo = 7 + 5: Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ 12 cung hoàng đạo thuộc 2 nhóm có liên quan nhiều đến Khoa Học về các Tam Giác, gồm:
1- Bảy cung Hoàng đạo có liên quan đến việc phát triển tâm thức hành tinh trên Địa Cầu và chỉ ngẩu nhiên có liên quan đến Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, tức Huyền Giai Nhân loại.
2- Năm cung Hoàng đạo còn lại có liên quan đến việc phát triển của Huyền Giai Nhân loại trong thời gian và không gian. 5 cung quyết định chính yếu: a/ Cancer.; b/ Leo; c/ Scorpio.; d/ Capricorn.; e/ Pisces. * Năm giống dân: Năm cung Hoàng đạo tương ứng với 5 giống dân lớn, hiện tại chúng ta là chủng Aryen, là thứ năm.
* Năm lục địa: 5 chủng tộc này tạo ra các biểu lộ bên ngoài là 5 lục địa Châu Âu, Châu Phi, Châu Á, Châu Úc, Châu Mỹ.
* Năm tuyến nội tiết trong con người: Đối với Đấng hành tinh, 5 lục địa này cũng như 5 tuyến nội tiết chính yếu đối với con người. Chúng được liên kết với 5 trung tâm lực
+ Ví dụ với số 7: 7 Cung ( 7 phẩm tính, màu sắc, âm thanh.....); 7 Hành tinh thánh thiện - 7 nhánh tri thức - 7 cấp độ tâm thức; 7 ngày/ Tuần; 7 tôi lỗi chết người; 7 Kỳ quan thế giới; 7 Luân xa; 7 Tuyến nội tiết chính ...
+ Ví dụ với số 5: 5 Hành tinh không thánh thiện;
II- THEO PHẬT HỌC - Con Số 12 = 3 x 4
+ Mục Thế Giới Chúng Sinh Và Không Gian - Thời Gian
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian (Thọ giả) là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian (Chúng sinh) - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)
+ 12 loại chúng sinh (Xoay chuyển xoay vần trở lại): .... Thế giới thành lập. Ba đời bốn phương hòa hợp can thiệp nhau, chúng sinh biến hóa có 12 loại
Vậy nên trong thế giới, nhân động nên có tiếng, nhân tiếng nên có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị nên biết pháp, sáu vọng tưởng càn loạn thành ra nghiệp tánh, mười hai đối hiện, do đó mà xoay chuyển mãi mãi.
Do đó, trong thế gian, những thanh, hương, vị, xúc biến đổi tột cùng, đến mười hai lần vần trở lại.... (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q.7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sinh/ Chúng sanh: Sattva (Bắc Phạn), Creatures.
- Tát đóa, tát đỏa: Sattva (chúng sinh).
+ Chúng Sinh trong Luân hồi lục đạo: Ðức Phật dạy: Ta quan sát chúng sinh trong luân hồi lục đạo, cùng nhau ở trong sinh tử, chung nhau nuôi sống, đắp đổi làm cha mẹ, anh chị em với nhau… Họ cũng có thể sinh vào đường khác, đường thiện, đường ác, thường làm quyến thuộc lẫn nhau. Do nhân duyên đó, ta quan sát thấy TẤT CẢ THỊT MÀ CHÚNG SINH ĂN ĐỀU LÀ THỊT NGƯỜI THÂN CỦA HỌ. (*Lục đạo: thiên nhân, người, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, chúng sinh địa ngục) _ Kinh Lăng Già
+ Lục đạo luân hồi: Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép: "Dương tử vi nhân, nhân tử vi dương." (Dê chết trở làm người, người chết trở làm dê.) (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng - Vô Lượng Thọ Phật)
+ Chúng sanh: Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chúng sánh: "Chúng" có nghĩa là nhiều; "sanh" tức là sinh ra. Bởi do năm nhân tố—Sắc (hình sắc), Thọ (cảm thọ), Tưởng (suy nghĩ), Hành (hành vi), Thức (ý thức)—buộc ràng mà tạo thành thân thể, và do tác động của nhân duyên cảnh giới mà sinh ra, nên gọi là "chúng sanh." (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ XUẤT SINH 12 LOẠI CHÚNG SINH
Dựa theo những tướng điên đảo xoay vần đó, nên trong thế giới có các loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu ưởng, hoặc phi vô tưởng.
Giảng giải: Dựa theo những tướng điên đảo xoay vần đó. Tác động qua lại của sáu trần và mười hai loại chúng sinh nên hình thành những điên đảo, nên trong thế giới có các loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, đấy là bốn loại sinh.
- Có bốn điều kiện (duyên) cần thiết để sinh từ trứng (Noãn sinh): 1. Cha; 2. Mẹ; 3. Nghiệp căn; 4. Hơi ấm.
- Có ba điều kiện để thai sinh: 1. Cha; 2. Mẹ; 3. Nghiệp căn
- Có hai điều kiện cần thiết của thấp sinh: 1. Nghiệp căn; 2. Khí ẩm thấp.
- Về hóa sinh thì chỉ cần một điều kiện: 1. Đó là nghiệp căn.
Tùy vào nghiệp thức, các chúng sinh hóa sinh theo ý muốn, họ có thể biến, hiện cõi này, cõi nọ.
Bốn loại chúng sinh: hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc. Các chúng sinh này không phải là có sắc, cũng không phải là không có sắc. Hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, đấy không phải là có tưởng, hoặc không có tưởng.
1. Kinh văn: A Nan, do vì thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động nên hòa hợp với khí, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng bay lặn, vì vậy nên có mầm trứng trôi lăn trong các cõi nước: cá, chim, rùa, rắn, rất nhiều các loại.
Giảng giải: Chúng ta đã biết vọng khởi không phải là chân tánh, và từ Vô minh hữu hiện cả Tam tế, lục thô, thành ra hư vọng nối tiếp nhau trong vòng luân hồi bất tuyệt. Nghiệp là do động, và từ động sinh ra điên đảo, nên hòa hợp với khí, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng bay lặn. “Khí” là tạo tác của nghiệp. “Tưởng bay”, chỉ chung các loài chim khác. “Tưởng lặn”, chỉ loài bò sát, lưỡng cư. Vì vậy do các tưởng nên có mầm trứng. “Mầm” trong tiếng Sanskrit là Kalala, có nghĩa là “chất nhầy kết tụ”, đấy là sự hòa hợp tính huyết của giống đực và giống cái trong tuần đầu phát triển. ...
2. Kinh văn: Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, nên hòa hợp với tư, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng ngang dọc, như vậy nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước – người, súc, rồng, tiên, rất nhiều các loại.
Giảng giải: Thai sinh là do lòng dục. Sự ái dục và giao tình sẽ làm thành bào thai. Loài người, thú, rồng, và tiên đều sinh theo cách này – đều do dục tưởng và ham muốn thành điên đảo.... “Tư” (Stimulation: kích thích) là tạo nghiệp, là hành động do ham muốn, như vậy nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước – người, súc, rồng, tiên, rất nhiều các loại. Sinh từ thai ...
3. Kinh văn: Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú, nên hòa hợp với noãn, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nghiêng ngửa, vậy nên có tế thi thấp sinh trôi lăn trong cõi nước, nhung nhúc quậy động, rất nhiều các loại.
Giảng giải: Đoạn này bàn về thấp sinh. ....Thường, chúng ta không để ý, nhưng thực sự cả mười hai loại đều liên quan nhau. Con người cũng liên quan đến các loài như vậy.
4. Kinh văn: Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, nên hòa hợp với xúc, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng mới cũ, vậy nên có yết nam hóa sinh trôi lăn trong các cõi nước, chuyển thoái, phi hành, các loài rất nhiều.
Giảng giải: Đoạn này bàn về Hóa sinh – điều kiện chỉ là nghiệp của tự thể. ....
5. Kinh văn: Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng – nên hòa hợp với trước, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tinh diệu, vì vậy nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước, hưu cửu, tinh minh, các loài rất nhiều.
Giảng giải: Đoạn này bàn về hữu sắc. Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng. Ngại là ngăn cản, gây chướng ngại, có nhiều sắc, chướng ngại đan xen nhau, nên hòa hợp với trước, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tinh diệu. “Trước” là tạo nghiệp, do chấp trước nên làm khuất đi ánh sáng chân tâm, vì vậy nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước. Đây là loài phát sáng như mặt trời, mặt trăng, loại mang điềm lành gọi là hưu, có điểm dữ gọi là cửu; ở động vật phát sáng thì như đom đóm, các loài như vậy có rất nhiều.
6. Kinh văn: Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc nên hòa hợp với ám, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng, thầm ẩn, vậy nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại rất nhiều.
Giảng giải: Đoạn này bàn về các chúng vô sắc, tức các chư Thiên cõi Vô sắc giới. ... Các chúng sinh ấy hiện hữu là do thức nghiệp, không có sắc tướng và có rất nhiều trong thế giới.
7. Kinh văn: Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh nên hòa hợp với ức, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng tiềm kết, vậy nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước, thần quỷ tinh linh, các loài rất nhiều.
Giảng giải: Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh. Phần này bàn về các chúng sinh hữu tưởng, nhưng vô sắc. Các chúng sinh ấy như là thần, quỷ, tinh linh. ... Quỷ và thần có loại tinh quái, và loại cư xử rất đúng mực. Có một số quỷ vương thị hiện chư Bồ tát, có quỷ vương cũng khó lường. Tinh linh là các loài sơn thần, hải thần, thành hoàng… các chúng có nhiều và ở khắp nơi.
8. Kinh văn: Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si nên hòa hợp với ngoan, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng khô cảo; vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loại rất nhiều.
Giảng giải: Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si mê. ... Ý tưởng hoàn toàn cạn kiệt, vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loại rất nhiều. Vì tư tưởng của họ khô héo nên tinh và thần chuyển hóa thành đất, gỗ, kim loại hoặc đá. Loại này có ở nhiều nơi. Và, tại sao tinh và thần lại biến thành như vậy? ... thật khó tin rằng cái tinh thần của con người lại có thể biến thành gỗ, đá – nhưng đó là sự thực. ....
9. Kinh văn: Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy nên hòa hợp với nhiễm, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng nhân y, vậy nên có yết nam, không phải có sắc mà có sắc trôi lăn trong cõi nước, các loài thủy mẫu dùng tôm làm mắt, các loại rất nhiều.
Giảng giải: Phần này bàn về các chúng phi hữu sắc. ..... Loài thủy mẫu nhờ vào bọt nước làm thành thân, chúng không có mắt nên phải nhờ vào mắt của tôm, đấy là mối tương quan, ký sinh. Loài thủy mẫu này trông như những bong bóng trong nước, chúng vô sắc và có ở khắp nơi.
10. Kinh văn: Nhân trong thế giới có tướng dẫn luân hồi, điên đảo về tính nên hòa hợp với chú, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hô triệu, vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều.
Giảng giải: ... Gần đây tôi đã nói về pháp “Câu triệu”, pháp “Hô triệu” này cũng có dạng như vậy. Hô là gọi tên ai đó. Thường thì mọi người không thấy gì, nhưng khi tụng niệm chú thì đối tượng sẽ hiện đến, lúc đó chúng ta có thể thấy được. Mặc dù chúng ta gọi đó là quỷ, thần, nhưng họ đều là một loại thần thức đặc biệt - vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, Quỷ, thần ở đây là loại phi vô sắc – là những thần hộ pháp. Họ dùng chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều. Trong Mật giáo có nhiều loại chú này.
11. Kinh văn: Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng nên hòa hợp với dị, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng hồi hỗ, vậy nên có yết nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi lăn trong cõi nước, những giống tò vò, mượn chất khác làm thân của mình, các loại rất nhiều.
Giảng giải: ... Kinh Thi có câu: “Sâu bướm có con, Tò vò mang nợ”.
12. Kinh văn: Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát nên hòa hợp với quái thành ra tám mươi bốn nghìn nghĩ tưởng ăn thịt cha mẹ, vậy nên yết nam, không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước, như con Thổ kiêu, ấp khối đất làm con, và chim Phá kính ấp quả cây độc làm con, con lớn lên thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loại rất nhiều.
Giảng giải: .... Ở Trung Quốc, chim Thổ kiêu còn gọi là chim Ưng đầu mèo, hoặc chim Bất hiếu. ... khi các con Thổ kiêu đầy lòng oán hận lớn lên, chúng sẽ ăn thịt cha mẹ, và chim Phá kính ấp quả cây độc làm con. ... Phá kính cũng là loài thú bất hiếu. ... Đấy gọi là mươi hai loại chúng sinh (Nguồn: Kinh Thủ LN 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đạo phải lưu thông không tắc nghẽn - Thông đạt vô ngại
Chư Thiện tri thức! Đạo phải thông lưu, sao lại làm cho nó ngưng trệ? Tâm không trụ pháp, thì Đạo thông lưu. Còn tâm trụ pháp, ấy là mình trói lấy mình. Bằng nói rằng thường ngồi chẳng động, thì cũng như Xá Lợi Phất ngồi im lặng trong rừng, bị Duy Ma quở vậy.
Giảng:
Đạo là gì? Đạo cần phải thông đạt vô ngại, trôi chảy không ngừng, tại sao lại làm cho nó trì trệ đình chỉ? Quý vị đình chỉ cái tâm mà biến thành tro tàn, cây khô, vậy thì có ích dụng gì! Cho nên lúc tâm vô sở chấp trước, tức ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, không chấp vào không, không chấp vào có, không chấp vào pháp. Nếu chấp pháp chính là chấp vào cái có, chấp vào không, chính lạc vào cái vọng không. Cho nên cần phải không chấp vào pháp, không chấp vào không, không chấp vào ngã, đó mới là ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Lúc vô sở trụ thì đạo mới lưu thông. Nếu tâm chấp pháp, nói: tôi thường ngồi không động. Đó giống như con tầm nhả tơ, tự mình trói mình, tự mình làm mình không còn tự do. Nếu nói thường ngồi không động là Nhất hạnh tam muội, thì giống như Ngài Xá Lợi Phất trong rừng ngồi thiền không động mà bị cư sĩ Duy Ma khiển trách: "Ngài ngồi như thế có ích dụng gì? Giống như người chết, chớ không phải chân chánh nhập định."
Chư Thiện tri thức! Lại có người dạy ngồi xem cái tâm, quán tưởng tâm cảnh vắng lặng (khán tâm quán tịnh), ngồi yên chẳng dậy, bảo y theo đó mà lập công phu. Người mê chẳng hiểu, cố chấp làm theo, rồi thành điên dại. Số người lầm như thế chẳng phải là ít. Truyền dạy nhau như vậy, thiệt là lầm to!
Giảng:
Có hành giả dạy ngồi thiền, bảo người khán (nhìn) cái tâm của mình; quán tịnh là ra sao? Không động không khởi, từ đó liền có công phu. Người mê không hiểu đạo lý này lại nói: "ngồi ở một chỗ không động không khởi sẽ có công phu, có thiền định," từ đó sanh ra chấp trước mà điên cuồng. Giống như lúc trước có rất nhiều người đến đây, xưng là đã khai ngộ.....
Thế giới này là như thế, chân chân giả, giả giả chân. Quý vị chân chánh người chung quanh nói quý vị là giả, quý vị là giả người ta lại nói quý vị chân chánh, cho nên quý vị cũng không nên nói chân, cũng không nên nói giả để họ tự nhận thức.
Người chưa khai ngộ tự xưng mình đã khai ngộ, mà người đã khai ngộ rồi lại nói mình chưa khai ngộ, như thế sẽ giống như những người chưa khai ngộ. ... Vì khai ngộ và không khai ngộ thì giống nhau không có gì sai khác, không cần giả danh..... Không có ai nhận ra là tốt nhất, và đó chính là trực tâm là đạo tràng. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các Kinh Phật: .... Phật đã thấu suốt hết thảy mọi pháp và có thể thuyết minh tất cả các pháp”.
Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật: Thế nào gọi là Phật thuyết hết thảy các pháp? Phật tùy cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi?
Phật đáp: -Phật theo căn tính của chúng sinh và tùy thời cơ mà thuyết các pháp.
Sau này các đệ tử kết tập pháp tạng sẽ chia ra từng bộ loại một.
Khi Phật thành đạo, vì các đệ tử mà nói ra giới luật, có giới khinh giới trọng, hữu tàn và vô tàn, kết tập thành Luật Tạng.
Khi Như Lai nói về nhân quả, tội phúc, các món ràng buộc, phiền não và các nghiệp thân, khẩu, ý thì kết thành Luận Tạng.
Như Lai vì trời, người, tùy thời có thuyết pháp để khuyên họ tu tập, nói ra bộ Tăng Nhất A Hàm.
Sau lại vì những chúng sinh thông minh, nói các pháp cao sâu, gọi là Trung A Hàm, để cho những người có lợi căn theo đó mà tu tập.
Sau nữa, nói các phép tọa thiền cho những người tu thiền định học tập, nên mới thành bộ Tạp A Hàm.
Sau hết, vì phá trừ tà kiến, ngoại đạo mà nói ra bộ Trường A Hàm.
Tất cả bốn loại đó, sau kết tập thành Kinh Tạng. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Mười hai Bộ Kinh: Trích Đức Phật bảo Ngài A Nan: ... Ông tuy luận bàn nghĩa nhân duyên tự nhiên dứt khoát rõ ràng. Nhưng ông không thoát khỏi nạn Ma-đăng-già (Dùng tà chú tà dâm hại ngài A Nan).
Giảng giải: Tôi sẽ kể lại mười hai bộ kinh cho quý vị:
1. Trường hàng.
2. Trùng tụng.
3. Thọ ký
4. Cô khởi.
5. Tự thuyết.
6. Nhân duyên.
7. Thí dụ.
8. Bổn sự.
9. Bổn sinh.
10. Phương quảng.
11. Vị tằng hữu.
12. Luận nghị.
Khi tôi liệt kê như vậy, tôi không căn cứ hoặc tra cứu đến một cuốn luận nào cả. Tôi chỉ ghi nhớ. Tương tự như vậy, trong quý vị đây ai đến nghe giảng kinh nên nhớ kỹ những gì mình học được. Khi nghe, nên nhắm vào điểm nào để ghi nhớ. Thật là phiền toái khi mình không nhớ rõ được những gì mình đã học, thế nên quý vị phải xem lại kỹ những gì mình sẽ giải thích. Quý vị nên ghi nhớ phần chính yếu của bộ kinh.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Kinh Phạm Võng - Giới Bồ Tát: HT Tuyên Hóa lúc ở chùa Kim Luan có nói: Về sau có ai muốn xuất gia với tôi, không những học thuộc Chú Đại Bi, Chú Lăng Nghiêm, Luật Sa Di và 53 tiểu chú, còn phải học thuộc Kinh Lăng Nghiêm. Đây là điều kiện tối cơ bản để thu đệ tử. Còn phải học thuộc Kinh Phạm Võng (Giới Bồ Tát) Luật Tứ Phần Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr77 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chọn Pháp tu rốt ráo: ... Tuy nhiên, "pháp" thì có pháp đúng và pháp sai; có pháp rốt ráo và pháp không rốt ráo; có pháp thiện và cũng có pháp ác. Chúng ta tu hành thì phải tu pháp rốt ráo (cứu cánh pháp).
Hãy nêu một ví dụ: Từ Châu Mỹ sang Châu Âu, nếu quý vị đi bằng máy bay thì nhất định sẽ mau chóng tới được nơi sở định; còn nếu theo đường bộ thì quý vị nghĩ phải mất bao lâu? Ngoài việc đi bộ vất vả trên đất liền, quý vị còn phải trải qua những gian khổ của đường biển nữa. Lúc gặp biển tất phải dùng thuyền để vượt biển, mà thuyền thì đi rất chậm, phải mất rất nhiều thời gian; trong khi nếu đáp máy bay thì lại rất nhanh.
Tương tự như thế, chúng ta tu pháp không rốt ráo thì phải tu trong một thời gian rất lâu mới được "về tới nhà" (thành Phật). Song, nếu tu pháp rốt ráo thì chẳng mấy chốc là chúng ta "về tới nhà" ngay, rất nhanh chóng. Như thế, pháp không rốt ráo là gì? Ðó là tất cả các pháp của ngoại đạo. Ðúng vậy, tu pháp không rốt ráo cũng có được đôi chút lợi ích, nhưng rất chậm. Tu pháp rốt ráo tức là y chiếu theo giáo pháp của Ðức Phật mà tu hành.... (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chọn Pháp Tu hay Chọn Cách Tu Thánh Đạo - Tu Bồ Tát Đạo - Tu Giải Thoát - Tu Đại Thừa và cần tu Như Pháp Thọ trì để có thành tựu các Pháp Môn Tu hành.
* Dưới đây là những gợi ý mà Nhân Trắc Học với vốn kiến thức hạn hẹp của mình, mong muốn phổ biến Phật Pháp đến mọi người. Do đó, không thể tránh khỏi sự nông cạn, phiến diện ... Kính đề nghị quí vị hãy tìm đọc các Kinh Phật gốc và các bài giảng giải Kinh của các bậc Thánh hiền hàng Bồ Tát đạo để chánh xa vào con đường Hắc đạo/ Ngoại đạo mà không biết đường ra, đặc biệt trong thời Mạt pháp này.
+ Chọn lựa pháp môn tà hay chánh phải đặc biệt chú ý: Tùy căn cơ mục đích chọn pháp phù hợp. Phàm hết thảy kinh điển Đại Thừa đều là những pháp môn dạy chúng ta siêu thoát tam giới, liễu sanh thoát tử. Dù pháp môn quyết định bình đẳng, đều có thể đạt đến mục tiêu và hiệu quả giống như nhau; nhưng vì căn tánh của chúng ta chẳng tương đồng, nếu pháp môn chẳng đúng với căn tánh, chúng ta tu học sẽ gặp khó khăn, chẳng thể thấy thành tựu ngay trong một đời này được. Bởi thế, phải chọn lựa pháp môn. Ngay trong một đời này, mấu chốt để tu hành thành hay bại là chọn lựa pháp môn thích hợp hay không! Nếu muốn cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ thì chọn lấy pháp môn Tịnh Độ. Trong hiện tại, mỗi một pháp môn đều có tà - chánh, đều có giả - thật (có pháp chỉ được lợi ích một phần, có pháp được lợi ích viên mãn). Đây là điều phải chú ý, phải hiểu những phương pháp ấy.(Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
A- Tu hành theo Tiểu thừa:
+ Gồm các Hàng tu tại gia để Cải mệnh toàn diện, làm cho cuộc sống hạnh phúc viên mãn hơn, giảm thiểu khổ đau, bệnh nạn, sống thọ hết số trời định. Hơn thế nữa, nó tạo tiền đề cho các kiếp luân hồi được vinh hoa phú quý, vạn sự tốt lành viên mãn hơn. Giúp tránh bị đọa ba đường ác khổ đau tột cùng, ngày được làm người vô cùng tối tăm mịt mùng, xa vời vợi ...
+ Giáo lý dùng để tu hành căn bản như: Đạo người quân tử gồm Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Học và thực hành đối nhân sử thế trong gia đình và xã hội như đạo Cha con - Vợ chồng - Quân thần - Bạn bè - Chủ tớ ..., luôn sống thuận theo trời đất, học hiểu và tin sâu vào Nhân Quả báo ứng, luôn phấn đấu làm lành lánh giữ trong đời sống hàng ngày như: Không tranh - Không tham - Không nói giối - Không nóng giận thù hận - Không uống riệu.
B- Tu hành theo Trung thừa:
Gồm những người tìm đạo - Người chí nguyện quyết tâm tìm chọn và đi theo con đường tiến đến giải thoát luân hồi sinh tử. Con đường tu để chứng các quả vị đến Hàng Thanh văn - Duyên giác của Hàng A La Hán còn Hữu lậu, hay các Bậc điểm đạo đến bậc 3 theo Minh triết thiêng liêng, họ chưa giải thoát luân hồi sinh từ, nhưng đã rất gần đến quả vị giải thoát luân hồi, tiến bước đến giải thoát Niết bàn vi diệu. Theo Phật giáo thì học hiểu và tu "thập thiện nghiệp đạo, nghiêm trì giới luật, tu Giới Định Huệ. Luôn dụng Phước - Huệ song tu để chánh "La hán cầm bình bát không", có trí huệ nhưng đi xin chẳng ai cho.
C- Tu hành theo Đại thừa: Con đường tu lên cao để chứng quả vị của Hàng A La Hán Vô lậu - Giải thoát Niết Bàn - Con đường Bồ Tát Đạo, tu lục độ vạn hạnh, tu thiền định thâm sâu, tiến đến Phật quả vi diệu, trở về Tánh Diệu Giác Minh Thanh Tịnh Bao Trùm Như Lai Tạng bất sinh bất diệt.
+ Kham Nhẫn: Con voi của vua xứng đáng cho vua dùng, là tài sản của vua, và được xem là một biểu tượng của vua, nếu nó KHAM NHẪN CHỊU ĐỰNG:
1. Kham nhẫn các sắc: Con voi của vua, đi đến chiến trận, khi thấy đoàn voi hay khi thấy đoàn ngựa, hay khi thấy đoàn xe, hay khi thấy đoàn bộ binh, liền không chùn chân, rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận
2. Kham nhẫn các tiếng: Con voi của vua, đi đến chiến trận, khi nghe tiếng voi, hay khi nghe tiếng ngựa, hay khi nghe tiếng xe, hay khi nghe tiếng bộ binh, hay khi nghe tiếng trống lớn, thanh la, tù và, trống nhỏ, không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận
3. Kham nhẫn các hương: Con voi của vua đi đến chiến trận, đối với các con voi của vua thuộc loại quý chủng, quen thuộc chiến trận, khi nó ngửi mùi phân và nước tiểu của những con voi ấy, nó không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận.
4. Kham nhẫn các vị: Con voi của vua đi đến chiến trận, khinh miệt một máng cỏ và nước, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn hoặc năm máng cỏ và nước, không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận
5. Kham nhẫn các xúc: Con voi của vua đi đến chiến trận, khi bị một mũi tên bắn trúng, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận
+ Biết 5 pháp:
1. Biết nghe: Con voi của vua, khi người nài sai làm một công tác hoặc đã làm, hoặc chưa làm, nhiệt tâm tác ý, hoàn toàn chú tâm, lóng tai và nghe.
2. Biết sát hại: Con voi của vua đi đến chiến trận, giết voi, giết kẻ cưỡi voi, giết ngựa, giết kẻ cưỡi ngựa, phá xe, giết kẻ cưỡi xe, giết các bộ binh.
3. Biết phòng hộ: Đi đến chiến trận, con voi của vua phòng hộ phần thân trước, phần thân sau, đầu, phòng hộ tai, ngà, vòi, đuôi, người cưỡi voi.
4. Biết kham nhẫn: Con voi của vua khi lâm trận, kham nhẫn bị thương đâm, bị kiếm đâm, bị trúng tên, các thứ tiếng, như tiếng trống lớn, tiếng thanh la, tiếng tù và, tiếng trống nhỏ.
5. Biết đi đến: Con voi của vua, khi người nài (huấn luyện voi) sai đi về hướng nào, hoặc trước kia đã có đi, hay chưa đi, liền mau mắn đi về chỗ ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc....
Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không tham đắm các sắc khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh.....
Tỷ-kheo khi tai nghe tiếng, không tham đắm các tiếng khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh.....
Tỷ-kheo khi mũi ngửi các hương, không tham đắm các hương khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh....
Tỷ-kheo khi lưỡi nếm các vị, không tham đắm các vị khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh.....
Tỷ-kheo khi thân cảm các xúc, không tham đắm các xúc khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh.....
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời. (Nguồn: phẩm Vua - Tỷ Kheo)
+ Đức tính cần có: Nhận thức được cái hợp nhất, đầu óc phóng khoáng, khoan dung, khiêm nhường, hòa nhã và bác ái, từ mẩn, kiên nhẫn. (TLHNM–I, 201–210);
+ Môn sinh - Người chí nguyện: Điều lý tưởng là sống ở thế gian nhưng không thuộc về thế gian, cho nên chỉ có người đệ tử ở mức tiến hóa cao hay ngay trước khi được Điểm đạo mới được phép ẩn dật trong một thời gian. Chỉ có sự từ bỏ ở nội tâm là đáng kể, và thái độ vô kỷ đối với hoàn cảnh mới quan trọng, chứ không phải việc ẩn thân ở một nơi riêng biệt nào.(TVTTHM)
+ Đức tính đặc biệt:
- Sức mạnh, can đảm, kiên định, chân thực xuất phát từ tính hoàn toàn không e sợ;
- Năng lực cai trị, khả năng thấu hiểu các vấn đề vĩ đại bằng đường lối hiểu biết rộng rãi và vận dụng con người cùng với các phương tiện.
+ Đức tính tốt được người cung kính: Có năm tính tốt nầy thì được người cung kỉnh: Một là nhu hòa và nhẫn nhịn; Hai là cung kính và có tín tâm; Ba là mau mắn và ít nói; Bốn là lời nói đi đôi với việc làm; Năm là đối với bạn càng lâu càng thâm hậu . Năm đặc tính ấy làm cho người ta cung kính mình. Trong kinh có câu: "Nếu biết thương lấy mình thì phải dè dặt giữ mình. Các bậc hiền sĩ có chí hướng thượng cao xa học hiểu chính đáng thì không bao giờ lầm lạc."(Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
Xem: Tổng hợp về Đức tính, kiểu người, sự nghiệp 7 Cung
Xem: Các Động lực của Linh hồn - Phàm ngã
Xem: Biệt ngã tính/ Ngã hóa;
Xem: Phân nhóm/ Loại về Hạng người ....
+ Chọn bạn và kết bạn: Chọn bạn - Ðức Phật dạy, Có 10 kẻ mình không nên mời về nhà: Một là thầy ác; Hai là bạn tà; Ba là kẻ hay khinh bỉ bực thánh nhân; Bốn là kẻ hay nói tráo trở; Năm là kẻ dâm ô; Sáu là người thèm rượu; Bảy là kẻ có tính xấu; Tám là người không biết ơn nghĩa; Chín là đàn bà con gái mất nết; Mười là kẻ tì thiếp ưa trang sức. Đấy là 10 hạng không nên mời về nhà. Kinh chép: "Lánh xa người ác, đừng làm bạn với kẻ dâm lung, chỉ nên tùng sự các bực hiền giả, mới mong thành người minh đức.
- Kết bạn: Ðức Phật dạy kết bạn có 4 loại là
* Như Hoa: Khi bông hoa còn tươi tốt thì giắt trên đầu, khô héo rồi bỏ đi. Kết bạn cũng thế: hễ thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại bỏ làm lơ.
* Như cân: Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu vổng lên, có qua lại thì cung kính nhau, không qua lại thì khinh dẻ nhau.
* Như núi: Hòn núi vàng, loài chim thú tụ về, lông cánh được chói màu vàng rực. Kết bạn cũng thế: khi sang thời sang với nhau, khi vui đồng vui.
* Như đất: Tất cả mọi vật đều dựa đất mà sinh. Làm bạn để nuôi dưỡng, ủng hộ, ân hậu không quên...
- Kết bạn: Lên gần gũi bậc Đại Đức Hiền Trí - Tránh xa kẻ Đại ác (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Kết bạn - Chọn bạn: Gần mực thì đen - Gần đèn thì rạng. HT Tuyên Hóa giảng về chủ đề này rất sâu sắc.... Bấy giờ Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Những chúng sanh chưa được giải thoát thì tánh thức không định, quen làm điều ác thì kết thành nghiệp, quen làm điều thiện thì kết thành quả; làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh, luân chuyển trong Ngũ Ðạo, chẳng tạm ngừng ngớt; trải qua trần kiếp, mê hoặc chướng nạn, như cá bơi trong lưới theo dòng nước chảy, tạm thoát ra được rồi lại mắc vào lưới. Vì những kẻ đó mà Ta phải lo nghĩ.
Ðời trước Ông đã phát nguyện, nhiều kiếp lập trọng thệ quảng độ những kẻ có tội, thì Ta còn lo gì nữa!"
Lược giảng:... tánh thức không định. Tánh và tri thức của các chúng sanh đó đều không nhất định. Chẳng hạn có người ban đầu muốn học Phật Pháp, nhưng học chưa được bao lâu thì lại đổi ý, thay đổi tông chỉ—đó là do "tánh thức không định" vậy.
Quen làm điều ác thì kết thành nghiệp, quen làm điều thiện thì kết thành quả.....
Làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh. Thế nào gọi là "theo cảnh mà sanh"? Thí dụ quý vị gặp được bạn tốt (thiện hữu), thường giảng Phật Pháp cho quý vị nghe và hướng dẫn quý vị làm các việc từ thiện; quý vị chăm chú lắng nghe và làm theo—và thế là quý vị làm được thiện sự. Thế nhưng, nếu quý vị gặp nhằm bạn xấu (ác hữu), rủ rê quý vị vào con đường rượu chè cờ bạc, chơi bời lêu lổng, sa đọa trụy lạc; và vì nghe mãi cũng bùi tai nên quý vị xiêu lòng đi theo, thì rồi quý vị cũng trở thành hư đốn như họ vậy!....
Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
..... cho nên, trước hết mọi người cần phải biết "chọn bạn mà chơi," phải phân biệt được bạn tốt và bạn xấu. Ðối với những người bạn tốt, thân thiện, thì quý vị nên tin tưởng; còn đối với bạn xấu thì bất luận họ nói điều gì quý vị cũng chớ nên tin! ....(Kinh Địa Tạng - Phẩm 4 - HT Tuyên Hóa)
+ 202. DO BỦN XỈN MÀ CÓ CHẤP THỦ
- Bảo Thủ - Keo kiệt: Nhân của bảo thủ, tập khởi của bảo thủ, bản của bảo thủ, duyên của bảo thủ, gọi đó là keo kiệt vậy. Vì sao? Vì duyên keo kiệt nên có bảo thủ.
204. DO ĐẮM TRƯỚC MÀ CÓ BỎN XẺN
Nhân của bỏn sẻn, tập khởi của bỏn sẻn, bản nguyên của bỏn sẻn, duyên của bỏn sẻn, gọi đó là đắm trước. Vì sao? Vì duyên đắm trước nên có bỏn sẻn.
205. DO DỤC MÀ BỊ THOÁI CHUYỂN
Dục tuyệt đối không có lạc, chỉ có vô lượng khổ hoạn. Đa văn Thánh đệ tử nếu không biết đúng như thật, vị ấy bị dục phủ kín, không đạt được an lạc do xả và vô thượng tịch tĩnh. Ma-ha-nam, Đa văn Thánh đệ tử như vậy sẽ nhân nơi dục mà bị thoái chuyển. (Trung A Hàm, Kinh Khổ Ấm, Phẩm 9, số 100)
206. DO DỤC MÀ CÓ ĐẮM TRƯỚC
Nhân của đắm trước, tập khởi của đắm trước, bản của đắm trước, duyên của đắm trước, gọi đó là dục. Vì sao? Vì duyên dục nên có đắm trước. (Trung A Hàm, Kinh Đại Nhân, Phẩm 9, số 97)
207. DO KHÔNG CHẤP THỦ NÊN KHÔNG SỢ HÃI
Những gì thuộc về sáu kiến xứ ấy mà thấy không phải là sở hữu của ta, ta không phải là sở hữu của chúng, cũng không phải là thần ngã, và do không kiến chấp như vậy, nên không chấp thủ thế gian này.
Do không chấp thủ thế gian này nên không có sợ hãi. Do không sợ hãi mà chứng đắc Niết-bàn, biết như thật rằng, ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa. (Trung A Hàm, Kinh A-lê-tra, Phẩm 16, số 200)
354. KHÔNG THỦ, KHÔNG SỢ HÃI
Nếu Tỳ-kheo nào ly sắc nhiễm, ly sắc dục, ly sắc ái, ly sắc khát, thì vị ấy không muốn được sắc, không truy cầu sắc, không đắm trước sắc, không trú vào sắc nghĩ rằng ‘Sắc không phải là ta. Sắc không phải là sở hữu của ta’. Vị ấy đã không muốn được sắc, không truy cầu sắc, không đắm trước sắc, không trú vào sắc nghĩ rằng ‘Sắc không phải là ta. Sắc không phải là sở hữu của ta’ thì thức không nắm bắt sắc. Khi thức đã không nắm bắt sắc, lúc ấy sắc biến dịch, thức không bị chuyển theo sắc. Thức đã không bị chuyển theo sắc thì vị ấy không sanh sợ hãi, tâm không trú vào trong đó. Nhơn vì tâm biết nên không khiếp sợ, không lao nhọc, không chấp thọ, không sợ hãi.
Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức; Tỳ-kheo ly thức nhiễm, ly thức dục, ly thức ái, ly thức khát. Nếu Tỳ-kheo nào ly thức nhiễm, ly thức dục, ly thức ái, ly thức khát thì vị ấy không muốn đắc thức, không truy cầu thức, không đắm trước thức, không trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức không phải là ta. Thức không phải là sở hữu của ta’. Tỳ-kheo ấy khi đã không muốn được thức, không truy cầu thức, không đám trước thức, không trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức không phải là ta. Thức không phải là của ta’, thì thức không nắm bắt thức. Khi thức đã không nắm bắt thức, lúc thức kia biến dịch, thức không bị chuyển theo thức. Khi thức không bị chuyển theo thức, Tỳ-kheo ấy không sanh sợ hãi, tâm không trú vào trong đó. Nhơn vì tâm biết nên không khiếp sợ, không lao nhọc, không chấp thọ, không sợ hãi.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo không chấp thủ, không sợ hãi. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, Phẩm 13, số 164)
208. ĐỐ KỴ
Thế nào là Đa văn Thánh đệ tử y trên không đố kỵ thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ thù nghịch? Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Ai đố kỵ thù nghịch tất phải thọ ác báo đời này và đời sau. Nếu ta đố kỵ thù nghịch ấy là tự hại và cũng xuyên tạc hủy báng người khác. Chư Thiên và các vị phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta, các phương đều nghe đồn tiếng xấu của ta. Khi thân hoại mạng chung tất phải đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Ai đố kỵ thù nghịch tất phải thọ ác báo này đời này và đời sau như vậy, nay ta có nên y cứ trên không đố kỵ thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ thù nghịch chăng?’ Rồi vị ấy y cứ trên không đố kỵ thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ thù nghịch. Như vậy, Đa văn Thánh đệ tử y cứ trên không đố kỵ thù nghịch mà đoạn trừ đố kỵ thù nghịch. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
+ Quả báo Tâm đố kị nặng lề phải đọa đọa địa ngục, sau sanh làm Ngạ Quỷ thối hôi hám, dơ bẩn, sống nơi hầm phân nước tiểu, chịu đói khát quá thì ăn phân, nước tiểu nên càng hôi thối nhưng không thấy mình hôi thối, ví như hàng cá tanh hôi ám mùi nhưng do quen lên không thấy. Khi tái sanh còn dư nghiệp nên vẫn có mùi hôi (HT Tuyên Hóa giảng Chú Lăng Nghiêm)
213. ĐOAN CHÁNH
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có thân hình đoan chánh? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào tánh không nóng nảy, không hay bực dọc, người ấy nghe lời nói êm ái hay thô bỉ cục cằn không nổi cơn giận dữ, không ganh ghét sanh ra buồn rầu, không nổi thịnh nộ tranh chấp.
Người ấy thọ nghiệp, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời lại sanh vào nhân gian, hình thể đoan chánh. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
324. KHÔNG ĐOAN CHÁNH
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có thân hình không đoan chánh? Nếu có kẻ nam hay người nữ mà tánh nóng nảy, hay bực dọc, vừa nghe chút ít đã nổi cơn giận dữ, nổi ganh ghét mà sanh lo buồn, nổi thịnh nộ tranh chấp. Người ấy thọ lấy nghiệp này, tạo tác đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, hình thể không đoan chánh. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
(Nguồn:Trung A Hàm, Kinh Đại Nhân, Phẩm 9, số 97)
+ Tu sửa và chuyển hóa nóng giận - Giận giữ - Thù hận
Câu hỏi: Thầy ơi, con không biết làm gì với cơn giận trong con. Khi cơn giận phát khởi, con có thể cảm nhận được sự có mặt của nó, cơ thể con nóng lên, mặt con đỏ bừng và đầu con thì rối bời…Con biết là con được trao truyền từ cha của con hạt giống nóng giận đó và con không muốn giống cha. Con muốn trở thành một con người dễ thương. Nhưng khi giận lên thì con không thể suy nghĩ được gì hết. Thầy hãy chỉ cho con là con nên làm gì khi con giận? Bởi vì lúc đó đầu óc của con dường như bị tê liệt và con không thể suy nghĩ được gì hết.
Thầy: Có những người rất dễ nổi giận, năng lượng bực bội, sân hận trong họ rất mạnh và dễ biểu hiện. Có thể là mười năm trước, người đó không nóng tính và dễ giận như bây giờ. Và điều đó có nghĩa là hạt giống giận trong người đó được tưới tẩm và không ngừng lớn lên mỗi ngày. Vì vậy, nếu ta thấy cơn giận trong ta quá lớn thì điều đó cũng có nghĩa là ta đã để cho hạt giống giận lớn lên trong ta. Vấn đề là ở thức ăn. Bụt đã dạy rằng không có gì có thể tồn tại nếu không có thức ăn. Và nếu cơn giận trong ta không ngừng lớn lên, đó là vì ta đang cung cấp thực phẩm, đang nuôi cơn giận trong ta mỗi ngày. Những gì chúng ta nghe, những gì chúng ta thấy đều đi vào trong ta và nuôi hạt giống giận lớn lên. Nếu ta biết làm thế nào để dừng lại, không nghe những điều đó, không xem những thứ đó, thì chúng ta có cơ hội ngăn không cho hạt giống giận lớn lên.
Điều này cũng đúng với những hạt giống khác như bạo động, sợ hãi, tuyệt vọng, v.v. Nếu bạo động, sợ hãi và tuyệt vọng trong ta lớn lên, đó là vì ta đã để cho chúng lớn lên. Trong đời sống hàng ngày, ta đã tiêu thụ như thế nào để nuôi cơn giận, sự sợ hãi và tuyệt vọng trong ta ngày một lớn lên. Khi ta đọc một bài báo trong một tạp chí nào đó tức là ta đang tiêu thụ, bởi vì bài báo đó có thể chứa đựng rất nhiều bạo động và hận thù, đọc bài báo đó chính là ta đang cung cấp thực phẩm cho hạt giống giận trong ta. Cũng tương tự như vậy, khi ta trò chuyện với một ai đó và những gì người đó chia sẻ toàn là giận hờn và thù hận thì trong khi nghe, ta đã để cho hạt giống giận trong ta bị tưới tẩm và nuôi dưỡng. Vì vậy mà chúng ta cần phải rất chánh niệm để không tiêu thụ những loại thực phẩm có khả năng nuôi dưỡng cơn giận trong ta. Đó là sự thực tập chánh niệm.
Những thực phẩm nuôi hạt giống giận có thể đi vào trong ta qua đường mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đó là vấn đề tiêu thụ. Chẳng hạn như Internet, khi ta vào mạng Internet, ta có thể tiếp xúc với rất nhiều những thức ăn không lành mạnh như thèm khát, bạo động, giận hờn, tuyệt vọng, và ta tiêu thụ những thực phẩm đó. Vì vậy mà điều đầu tiên ta cần thực tập đó là không cung cấp thực phẩm để nuôi dưỡng hạt giống giận. Không nhìn, không nghe, không làm những gì có khả năng làm cho hạt giống giận lớn lên. Chúng ta phải quyết tâm và đề ra những cách thức cụ thể để làm điều đó. Chẳng hạn như: ta nguyện rằng từ nay trở đi ta sẽ không nhìn, không nghe, không nói chuyện, không suy nghĩ về những điều có khả năng nuôi dưỡng hạt giống giận trong ta. Và ta phải nhờ bạn bè giúp đỡ, ta có thể nói với bạn bè rằng: “Xin các bạn hãy giúp tôi, tâm giận hờn trong tôi rất lớn, vì vậy xin đừng cho tôi bất kỳ một loại thực phẩm nào có thể nuôi dưỡng hạt giống giận trong tôi. Xin hãy yểm trợ cho tôi.” Chúng ta phải tự mình thực tập và đề nghị bạn bè yểm trợ chúng ta trong sự thực tập đó. Đây là điều đầu tiên chúng ta cần thực tập.
Điều thứ hai chúng ta cần làm, đó là quán chiếu về khổ đau, khổ đau trong chính chúng ta, khổ đau nơi cha, nơi mẹ, nơi vợ/chồng, hoặc con cái, v.v. Những người thân của ta có thể đã nói, đã làm những điều không được dễ thương đối với chúng ta. Nhưng đó không phải là vì họ muốn làm cho chúng ta khổ, mà bởi vì trong bản thân họ có quá nhiều khổ đau. Và họ chính là nạn nhân của khổ đau đó. Họ không biết xử lý những khổ đau trong chính mình. Và nếu nhìn thật sâu, chúng ta sẽ thấy được nỗi khổ, niềm đau nơi họ cũng như những gốc rễ của khổ đau đó. Ta sẽ nhận ra rằng họ chính là nạn nhân của những khổ đau của chính họ. Cái thấy đó sẽ làm phát khởi tình thương và lòng từ bi trong trái tim ta. Từ bi là năng lượng duy nhất có khả năng làm trung hòa cơn giận, một loại thuốc giải độc giúp chuyển hóa cơn giận (antidote of anger). Vì vậy, điều thứ hai mà chúng ta cần thực tập, đó là nuôi dưỡng lòng từ bi. Một người không có từ bi là người có rất nhiều khổ đau. Nếu chúng ta biết cách nuôi dưỡng lòng từ bi thì năng lượng từ bi đó sẽ có khả năng trung hòa cơn giận trong ta và giúp làm vơi bớt khổ đau nơi người kia, bởi vì với lòng từ bi, chúng ta có thể nói và làm một điều gì đó đầy tình thương để giúp cho người kia bớt khổ. Con đường của đạo Bụt là con đường của từ bi. Không một ngày nào mà chúng ta không thực tập nuôi dưỡng lòng từ bi. Nếu lòng từ bi trong ta lớn lên mỗi ngày thì hạt giống giận trong ta sẽ tiếp tục được chuyển hóa. Mọi người ai cũng nên thực tập điều này.
Nếu cha mẹ của chúng ta không biết phương pháp thực tập thì với sự thực tập của mình, chúng ta sẽ giúp cho cha mẹ làm được điều đó. Khi chúng ta thực tập, chúng ta làm cho cơn giận trong ta ngày một yếu đi và năng lượng từ bi ngày một lớn, điều này sẽ nuôi dưỡng và mang lại nhiều lợi lạc cho cha mẹ của chúng ta. Vì cha mẹ không chỉ ở bên ngoài chúng ta mà còn nằm bên trong từng tế bào của cơ thể chúng ta. Vì vậy mỗi khi ta làm phát khởi lòng từ bi trong trái tim ta thì cha mẹ ở trong ta cũng đang được chuyển hóa nhờ vào năng lượng từ bi đó. Và khi chúng ta có con, chúng ta sẽ không tiếp tục trao truyền cho con mình hạt giống giận, bởi vì chúng ta đã thực tập và đã chuyển hóa được cơn giận trong ta. Chúng ta đã dừng lại được bánh xe luân hồi. Chúng ta chỉ trao truyền cho thế hệ tương lai hạt giống của hiểu biết và thương yêu mà thôi. Chúng ta đã chuyển hóa được năng lượng giận hờn trong ta thành năng lượng tích cực. Và đó là điều mà chúng ta hoàn toàn có thể làm được ngay ngày hôm nay. (Nguồn: TS Thích Nhất Hạnh giảng)
+ Tâm bấn loạn - Tâm loạn động - Tâm vọng tưởng điên đảo:
Người có hai hạng, pháp không có hai thứ. Tánh ngộ mê có khác nhau, chỗ kiến giải có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu vãng sanh về cõi Tây phương, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói: "Tâm mình tịnh, tức là cõi Phật tịnh."....
Nay khuyên các Thiện tri thức, trước trừ mười điều ác, tức là đi tới mười muôn, sau dứt tám điều tà, ấy là qua khỏi tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường làm việc công bình, thì đến cõi ấy mau như khảy móng tay, liền thấy Phật Di Đà.....
Sư nói: "Đại chúng! Người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành; con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm.
Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà.
Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là rùa, trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh......
Giảng:
Nếu quý vị không hiểu tự tánh của mình, mê mất đi tự tánh, quên đi tự tánh của mình, đó chính là chúng sanh. Nếu tự tánh giác ngộ, giác ngộ rằng không làm tất cả điều ác mà làm tất cả điều lành (chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành), cho nên đoạn ác tu thiện, đó chính là Phật. Năng thực hành pháp từ bi, sung mãn lòng từ bi, đó chính là học theo Bồ Tát Quán Thế Âm....
Chính là hỷ xả, hoan hỷ bố thí. Từ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm, Xả vô lượng tâm – Tứ vô lượng tâm. Nếu quý vị có thể từ bi hỷ xả chính là học theo hạnh của Ngài Bồ Tát Đại Thế Chí.
Nếu quý vị có thể tự tịnh kỳ ý, tự tịnh kỳ tâm, phản bổn hoàn nguyên trở về tánh Như Lai Tạng, thấy diệu tánh minh tâm, chân minh giác tánh, đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đó cũng là năng nhân tịch mặc......
Lòng nhơn ngã là Tu Di: có nhân có ngã liền có núi Tu Di. Người có tướng của người, ngã có tướng của ngã; người có cái bộ dạng của người, ngã có cái dáng điệu của ngã. Cái bộ dạng này còn cao hơn núi Tu Di. Tu Di dịch là Diệu Cao, Diệu Cao nghĩa là không biết nó cao bao nhiêu, vì nó quá diệu, cho nên người cống cao ngã mạn chính là Tu Di. Bình đẳng chính trực ở trên và Tu Di ở đây đều là ví dụ. Đó là bảo quý vị ở tự tánh mình thấy Đức Phật A Di Đà, ở tự tánh mình thấy tất cả tật xấu.
Lòng tà vạy là nước biển, lòng phiền não là sóng trào: Tà tâm của ông giống như nước biển lớn. Ông có phiền não chính là biển sanh sóng. Sóng nhỏ thì rất bằng phẳng an tịnh không có thanh âm, sóng lớn dâng cao mười trượng thì có thể cuốn thuyền lớn vào tận đáy biển. Giống như đại phiền não của người thì có thể che phủ cả ánh sáng trí huệ, cho nên chúng ta cần phải cẩn thận, không nên sanh phiền não.
Lòng độc hại là rồng dữ: có sóng thì sẽ phát sanh nguy hiểm, đó chính là độc hại. Lòng độc hại chính là độc long, cho nên ác long ở long cung lúc muốn mời khách, liền nổi sóng lớn, mời tất cả mọi người trên thuyền đến long cung ăn tiệc, uống long tửu.
Lòng dối giả là quỷ thần: người phàm phu nói, Tôi không tin có quỷ, tôi không tin có Thần, vì không nhìn thấy....
Tôi sẽ nói cho quý vị, thế nào là có thể biết mình thấy quỷ hay thấy Thần: quỷ màu đen, ảnh đen, vì nó thuộc về âm. Thần màu trắng, thuộc dương. Lúc quý vị nhìn thấy thì có hình tượng, nhưng nhìn thì có thể thấy, mà nắm lấy thì không được, vì chúng đều là hư vọng.
Lòng trần lao là rùa, trạnh. Lòng tham sân là địa ngục: trần lao trong tự tánh của chúng ta chính là rùa, trạnh .... quý vị có tham tâm, có sân tâm thì nhất định sẽ đọa địa ngục, vì nay đã trồng hột giống địa ngục – tham tâm, sân tâm – thì tương lai nhất định sẽ đọa địa ngục.
Lòng ngu si là súc sanh: Lúc giảng Kinh, có khi tôi nói, "người đó ngu như heo."... Cho nên nói ngu si là súc sanh, quý vị nghĩ xem một đời của súc sanh có ý nghĩa gì? (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
Ðức Phật dạy:
"Này các Tỳ Kheo, có năm phương cách để loại trừ sân hận mà vị Tỳ kheo cần phải áp dụng để loại bỏ hoàn toàn sân hận mỗi khi nó khởi lên đối với bất cứ ai. Thế nào là năm?
1.Hành giả cần phải phát triển tâm từ đối với người mà vị ấy sân hận; bằng cách này, hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
2.Hành giả cần phải phát triển tâm bi mẫn đối với người mà vị ấy sân hận; bằng cách này, hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
3.Hành giả cần phát triển tâm xả đối với người mà vị ấy sân hận; bằng cách này, hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
4.Hành giả cần phải làm ngơ, không để ý người mà vị ấy sân hận; bằng cách này hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
5.Hành giả cần phải áp dụng ý tưởng: 'chủ nhân của nghiệp' đối với người mà vị ấy sân hận, như sau; 'vị này là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp của vị ấy; vị này có nghiệp là nguồn gốc, nghiệp là bà con, nghiệp là nơi nương tựa; vị ấy sẽ là kẻ thừa kế bất cứ nghiệp nào mà vị ấy đã tạo, tốt hay xấu'; bằng cách này hành giả sẽ loại trừ sân hận đối với người ấy.
Đây là năm phương cách mà vị Tỳ kheo cần phải áp dụng để loại trừ hoàn toàn sân hận mỗi khi nó khởi lên đối với bất cứ ai."
(Tăng Chi Bộ Kinh III, Ch.7 (X) 60, tr 409-413)
+ Hết thảy Pháp do tâm tạo - Do Tâm tưởng sanh - Biến hiện từ Tâm - Hiển bày từ Tâm.
Tự tâm chấp lấy tự tâm
Vốn không phải huyễn, lại thành pháp huyễn.
Chẳng thủ trước, thì chẳng có gì là phi huyễn
Phi huyễn còn chẳng sinh
Pháp huyễn làm sao lập?
Đó gọi là diệu liên hoa
Kim cang vương bảo giác
Giảng giải:
Tự tâm chấp lấy tự tâm. Chúng sinh vốn không nhận ra được kiến phần và tướng phần vốn chỉ là biểu hiện từ tự tâm,
Tam giới duy tâm.
Vạn pháp duy thức.
Không nhận ra được các pháp từ tân biến hiện, nên trở lại chấp lầy kiến phần; có nghĩa là chấp lấy quan niệm chủ quan của riêng mình–là thức thứ 8. Tướng phần là chỉ cho ngoại cảnh. Vốn tướng phần và kiến phần cả hai đều là hư vọng. Chúng chỉ ảnh tượng hư giả trong tâm mình. Nhiều người không thể tin được rằng chúng sẽ quay trở lại bản tính tự chiếu soi, mà họ chỉ mong tìm cầu bên ngoài. Đối với chân tâm, họ mê mờ và chạy đuổi theo cái hư vọng. Nếu quý vị nhận ra được vạn pháp chỉ là sự biến hiện từ chính tâm mình; nếu quý vị
Thức tự bổn tâm
Kiến tự bổn tánh
Thì quý vị sẽ hiểu ra rằng tướng phần và kiến phần vốn sinh khởi từ tâm mình. Nếu quý vị nhân ra được chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể thì quý vị sẽ không còn chạy tìm cầu bên ngoài, mà sẽ quay về nhà.
Vốn không phải huyễn, lại thành pháp huyễn.
Vì chúng sinh vốn thường mê mờ chân tâm và đuổi theo vọng tâm, nên họ thường nghi ngờ rằng vốn tự thể là không có hư vọng, mà lại trở thành hư vọng. Quý vị phải nên đừng để mình bị vướng mắc vào suy nghĩ hư vọng nầy. Không bị vướng mắc (chấp thủ) chính là điểm quan trọng ở đây. Nguyên nhân mà nhiều người bị mê lầm sáu căn và sáu trần là do họ chấp thủ vào tướng phần và kiến phần. Họ bị vướng mắc đến nỗi tin rằng tánh thấy (khả năng thấy–capacity to see) của mình chính là kiến phần, và đó là cái có thực. Họ không hiểu ra rằng tánh thấy ấy vốn cũng chỉ là hư vọng – nó không có thực.
Chẳng thủ trước, thì chẳng có gì là phi huyễn.
Chẳng có gì là phi huyễn ở đây.
Phi huyễn còn chẳng sinh. Những gì hư vọng chắc chắn sẽ không hiện hữu, chẳng có nơi chỗ để chúng sinh khởi. Pháp huyễn làm sao lập? Làm thế nào mà các pháp huyễn tồn tại được?
Đó gọi là Diệu liên hoa, vi diệu và mầu nhiệm. Hoa sen sinh ra từ bùn nhưng không bị ô nhiễm bởi bùn dơ. Nó mọc trong bùn nhưng chính nó lại thanh tịnh, và hoa sen lẫn quả của nó hình thành cùng lúc. Đó chính là Kim cang vương bảo giác. Kim cang là kim loại cứng chắc nhất. Nó biểu tượng cho trí huệ. Không có thứ gì có thể phá huỷ hay xuyên thủng được trí huệ. ‘Vương’ có nghĩa là tự tại, như một vị Vua vậy. ‘Bảo giác’ là chỉ cho chân tâm chúng ta. Nếu quý vị có thể không bị chấp thủ vào tướng phần và kiến phần, thì có thể trở về với nguồn tâm gốc tánh, có thể trở về trong tánh Như Lai tạng. Tức đã chuyển thức thành trí. Khi sự chuyển y đã viên mãn, thì tướng phần và kiến phần chuyển thành Diệu liên hoa–Bảo giác. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thể tính trong Phật giáo: Sự hiện hữu các vật trong thế gian
+ Tất cả các Pháp đều do từ tâm biểu hiện - Nhân Nơi tâm mà có - Bao gồm trong tâm:
Như câu Đức Phật bảo A Nan: Từ nơi toà sư tử, đức phật xoa đầu A-nan rồi bảo rằng:
... Như Lai thường nói các pháp phát sinh đều do từ tâm biểu hiện. Tất cả nhân quả và thế giới nhiều như vi trần đều nhân nơi tâm mà có thể tính (hiện hữu)
HT Tuyên Hóa giảng:
Từ nơi tòa sư tử: đây không có nghĩa là Đức Phật ngồi trên lưng sư tử hoặc là chỗ ngồi của Đức Phật được khắc chạm hình dáng của sư tử mà do pháp âm của Đức Phật được ví như tiếng gầm của loài sư tử, thế nên nơi mà Đức Phật giảng pháp được gọi là tòa sư tử.
Đức Phật lấy tay Ngài xoa đảnh đầu A-nan. Trong đạo Phật việc xoa đảnh đầu là biểu hiện lòng từ ái cao tột nhất, phát ra một năng lực lớn lao để nhiếp thọ chúng sinh.
Rồi bảo rằng: Như Lai từ lâu nay đã thường nói rằng hết thảy mọi pháp, đều là sự biểu hiện của tâm.
Tất cả nhân quả nhân tiếp liền nhân, quả nối liền quả, hết thảy các pháp trên thế gian và suốt khắp thế giới nhiều như vi trần đều nhân nơi tâm mà có. Tất cả đều là sự hiển bày từ tâm chúng ta. Thế nên cổ văn Trung Hoa có câu:
Nhược nhân thức đắc tâm
Đại địa vô thốn thổ.
(Nếu người nào nhận ra được bản tâm của mình, thì dưới chân mình không còn có một tấc đất).
Vậy thì đó là cái gì? Đất dưới chân mình đi đâu mất rồi? Đó là một cách diễn tả của Thiền tông về sự trớ trêu của điều bất khả tư nghì. Thật là không may khi chưa nhận ra được bản tâm của mình, nên trái đất vẫn là một hạt bụi rất lớn. (Nguồn: Kinh TLN-Q1-Phần Kinh văn, mục 89)
+ Tất cả Pháp do từ Tâm biểu hiện - Bao gồm trong tâm - Do Tâm tưởng sinh: (Đoạn này nói về THỨC TÂM nằm trong DIỆU MINH CHÂN TÂM là cái không sinh không diệt, vạn pháp bao gồm trong này)
Đức Phật giảng rằng: Thân Như Lai gọi là Chính Biến Chi - Thân A Nan và chúng sinh gọi là Thân điên đảo, nhưng A Nan không biết sự khác nhau/ Điên đảo này nằm ở đâu, chỗ nào mà lại khác Thân các Như Lai:
Đức Phật bảo đại chúng: Này các thiện nam tử! Như Lai thường nói: “Sắc, tâm, các duyên, các tâm sở sử cùng các pháp sở duyên, đều do tâm biến hiện.”
HT Tuyên Hóa giảng:
Đức Phật bảo: “Này các thiện nam tử!”. “Như Lai thường nói: Sắc, tâm, các duyên, các tâm sở sử cùng các pháp sở duyên.” Trước đây, Như Lai đã nói rất nhiều lần.
“Sắc” là chỉ cho các sắc pháp, và “tâm” là chỉ cho tâm pháp. Theo Bách pháp minh môn luận, có 11 sắc pháp và 8 tâm pháp. Tâm pháp thuộc về 8 thức tâm vương. Có 51 thứ thuộc về tâm sở pháp, 24 thứ thuộc về tâm bất tương ưng pháp, có nghĩa là không tương ưng với sắc pháp, không tương ưng với tâm pháp, hay với vô vi pháp. Cùng với 6 pháp vô vi, tạo thành tất cả 100 pháp.
Các duyên có nghĩa là 4 duyên:
- Thân nhân duyên 親 因 緣: duyên dựa trên nhân tức thời.
- Tăng thượng duyên 增 上 緣.
- Thứ đệ duyên 次 弟 緣: còn gọi là đẳng vô gián duyên.
- Sở duyên duyên 所 緣 緣.
“Đều do tâm biến hiện.” Tất cả các pháp đều sinh khởi từ nhân duyên và không pháp nào vượt ra ngoài biểu hiện dù chỉ trong một niệm tưởng từ chân tâm. Từ đó mà tất cả các pháp – núi sông, đất liền, cỏ cây cùng vô số hiện tượng sinh thành. Chúng đều xuất sinh từ tâm; tất cả các pháp ấy đều bao gồm trong tâm. Chẳng phải các pháp nầy chứa đựng bản tâm mà trái lại: tuyệt đối tất cả các pháp chung quanh ta, cả tự nhiên lẫn nhân tạo, tất cả đều lưu xuất từ bản tâm. Nếu quý vị nhận ra chân tâm thường trú của mình, thì tất cả các pháp nầy không còn hiện hữu nữa.
Thân tâm ông đều là vật hiện ra từ trong diệu minh chân tinh diệu tâm.
Giảng:
“Thân ông” có nghĩa là thân thể ông đang mang hiện nay, và “tâm ông” có nghĩa là tâm thức của ông. Cả 2 đều là biểu hiện từ diệu minh chân tinh diệu tâm. Đó có phải là vượt lên trên và bên ngoài thức tâm mà có một diệu minh chân tâm khác hay sao?
Không phải vậy. Đó chính là thức tâm của quý vị, nó vốn ở trong diệu minh chân tâm, nhưng vì chúng sinh không biết vận dụng diệu minh chân tâm nầy, nhận lầm thức tâm làm chân tâm. Thực là sai lầm, họ đã nhận giặc làm con. Do đó khiến họ phát sinh vô số điên đảo.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q2)
+ Nhược nhân dục liễu tri Tam thế nhất thiết Phật. Ưng quán pháp giới tánh Nhất thiết duy tâm tạo
Vào đời Đường có vị xuất gia tên là Vương Minh Cán. Vị đó tuy xuất gia làm hoà thượng, nhưng không tu hành. Một ngày nọ, bị quỷ vô thường bắt đi, vị đó gặp Bồ Tát Địa Tạng, dạy vị đó một bài kệ Kinh Hoa Nghiêm :
"Nhược nhân dục liễu tri Tam thế nhất thiết Phật.
Ưng quán pháp giới tánh Nhất thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là :
"Nếu ai muốn biết rõ Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới Hết thảy do tâm tạo".
Vị đó thấy vua Diêm Vương thì đọc ra bài kệ nầy, do đó được phóng thích. Bài kệ nầy không những cứu được sinh mạng của vị đó, mà cũng cứu được chúng sinh thọ khổ dưới địa ngục. Các bạn thấy đó ! Bài kệ nầy có diệu dụng như thế, cho nên phải tụng Kinh Hoa Nghiêm, phải lạy Kinh Hoa Nghiêm, phải ấn tống Kinh Hoa Nghiêm, thì nhất định có công đức vô lượng. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm-HT Tuyên Hóa - T1)
28. Tất Cả Do Tâm Tạo
Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Nếu ai muốn biết rõ, tất cả Phật ba đời, nên quán tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo.” Tức là tất cả các đạo lý đều do tâm hiển hiện. Tất cả Phật ba đời cũng là do tâm mà hiển hiện. Nói tóm lại, tất cả đều do tâm tạo. Con người có thể tạo nên thiên đường, thì con người cũng có thể tạo ra địa ngục. Thực hành theo mười điều lành là tạo nên thiên đường, làm mười điều ác là tạo thành địa ngục. Tâm cũng có thể tạo ra con người, A-tu-la, súc sanh và ngạ quỷ. Tâm của con người thì vi diệu như thế đó. Vì nó thiên biến vạn hóa không rời khỏi một niệm, cho nên nói “tất cả do tâm tạo.”
Mỗi khi tâm chúng ta khởi động niệm, chư Phật đều thấy biết hết. Nhưng con người chúng ta hầu như đều là bịt tai để trộm chuông, tự mình lừa dối mình, cứ tưởng rằng, chắc Phật Bồ Tát không biết, quỷ thần không biết, ai ai cũng không biết. Khi có ý nghĩ như thế, chúng ta sẽ tạo ra biết bao chuyện điên điên đảo đảo, hại người hại mình, gây thành những điều sai lầm to lớn.
Đối với Phật giáo, chúng ta nên ủng hộ đạo tràng và xem việc chấn hưng Phật giáo là trách nhiệm của mình. Chúng ta không nên tạo các nghiệp ác ở trong đạo tràng và nên hiểu rằng tất cả đều do tâm tạo. Cho nên tại Vạn Phật Thành, trường Đại Học Pháp Giới, Trung Học Bồi Đức và Tiểu Học Dục Lương đều lấy Lục Đại Tông Chỉ: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ để làm lời răn dạy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị- Mục 28)
+ Bồ Tát Vô Trước anh ruột của Bồ Tát Thế Thân/ Thiên Thân
Nhắc đến Đại thừa và Tiểu thừa, hôm nay tôi sẽ kể cho quý vị nghe một câu chuyện.
Ở Ấn Độ có vị Bồ-tát tên là Thế Thân, còn gọi là Thiên Thân, Ngài có người anh ruột là Bồ-tát Vô Trước. Bồ-tát Vô Trước học tập theo giáo lý Đại thừa, còn Bồ-tát Thế Thân do có nhân duyên không tốt, nên ngài theo Tiểu thừa và học tập theo giáo lý của phái này. Bồ-tát Thế Thân tư chất rất thông minh, Bồ-tát Vô Trước, anh của ngài, luôn muốn tìm cách độ em tin theo pháp môn Đại thừa, nhưng vẫn chưa có sức mạnh nào khiến cho em mình tin theo. Em của Ngài luôn ca ngợi pháp Tiểu thừa và cho rằng pháp Đại thừa không đúng. Sau đó, Bồ-tát Vô Trước nghĩ ra một cách: Ngài giả bệnh rồi sai người nhắn người em đến thăm mà bảo rằng: “Anh tuổi đã lớn, lại bệnh thế này, nếu em không đến thăm thì sau này anh em không còn cơ hội gặp mặt nữa”. Nghe vậy, người em liền đến thăm Ngài. Bồ tát Vô Trước bảo em:
- Anh sắp chết rồi, những Kinh điển Đại thừa mà anh đã học, em có thể tùy ý lấy xem, nếu em có khả năng xem được thì anh dù chết cũng có thể yên lòng nhắm mắt.
Bồ tát Thế Thân đến thăm anh cũng không có việc gì làm; thế là Ngài bèn cầm quyển Kinh Đại thừa lên xem. Ngài xem bộ kinh nào quý vị có biết không? Đó chính là bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
Bồ tát Thế Thân càng xem càng thấy được sự bất khả tư nghì, mới biết rằng cảnh giới Hoa Nghiêm thật là vi diệu chẳng thể dùng lời diễn tả. Giống như mặt trời trên không trung chiếu khắp muôn vật, lại giống như màn lưới của Đại Phạm Thiên Vương từng lỗ dung nhiếp lẫn nhau. Đến lúc ấy Ngài mới biết rõ trước đây mình đã sai lầm, bèn hét lớn:
- Mau đem cho tôi một thanh bảo kiếm!
- Ngài cần bảo kiếm để làm gỉ? Người bên cạnh hỏi.
- Tôi muốn cắt lưỡi của mình.
Vì sao ngài lại muốn cắt lưỡi?
- Trước đây tôi đã dùng tấc lưỡi này để khen ngợi pháp Tiểu thừa, hủy báng Kinh điển Đại thừa, đó là tội lớn nên tôi muốn cắt lưỡi để tạ tội.
Bồ tát Vô Trước nghe thế, can:
- Em đừng nên như vậy!
Người em kiên quyết:
- Vì sao anh biết không? Vì tội của cái lưỡi này quá lớn, nên em nhất định phải cắt bỏ nó.
Người anh ôn tồn:
- Ví như không cẩn thận bị trượt té xuống đất, nếu em muốn đứng dậy vẫn phải nương vào sức đất phải không? Em không thể nào ngã xuống đất mà không đứng dậy, khi em muốn đứng dậy thì chỉ cần dùng tay chống xuống đất là đứng dậy được. Trước đây em nhờ vào cái lưỡi ấy để ca ngợi Tiểu thừa, hủy báng Đại thừa thì hôm nay em cũng có thể dùng lại ba tấc lưỡi đó để ca ngợi Đại thừa!
Nghe anh nói cũng có lý nên Bồ tát Thế Thân thôi không đòi cắt lưỡi nữa . Sau đó, ngài vào núi tu hành, học tập kinh điển Đại thừa, trước tác bộ Thập Địa Luận. Ngày bộ Thập Địa Luận hoàn thành, trái đất chấn động, đồng thời miệng Ngài cũng phát ra hào quang. Lúc ấy, Quốc vương đến thăm Ngài, hỏi:
- Có phải Ngài đã chứng quả A-la-hán rồi chăng?
- Không, tôi không chứng quả A-la-hán, Bồ-tát Thế Thân trả lời.
- Ngài không chứng quả A-la-hán thì tại sao trái đất lại chấn động và miệng phát ra hào quang?
- Do vì lúc trẻ tôi học tập Tiểu thừa mà hủy báng Đại thừa, nay tôi đổi sang học Kinh Hoa Nghiêm, trước tác bộ Thập Địa Luận, nay bộ luận đã hoàn thành, nên quả đất chấn động và miệng tôi phát ra hào quang, chứ không phải do chứng quả mới có hiện tượng này.
Quốc vương ngạc nhiên:
- Thì ra là do bộ Kinh Hoa Nghiêm này vi diệu như thế! (HT Tuyên Hóa giảng Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn)
+ Bồ Tát Thiên Thân: ....... Bồ Tát Thiên Thân đại từ đại bi lấy 660 pháp trong Du Già Sư Địa Luận do Bồ Tát Di Lặc thuyết. Bồ tát Thiên Thân đem tất cả vạn pháp vũ trụ nhân sinh quy nạp thành 660 loại, thuận tiện giảng giải, giới thiệu cho mọi người. Tuy nhiên, người mới học Phật sẽ tiếp nhận một cách khó khăn. Cho nên bồ tát đem 660 pháp quy nạp tiếp thành một trăm loại, gọi là bách pháp. Một trăm loại này khi triển khai chính là tất cả pháp vũ trụ, là vạn pháp. Nói cách khác, tuy là một trăm loại nhưng trên thực tế là vô lượng vô biên. Trong một trăm loại lại chia thành năm loại lớn
Thứ nhất là “tâm pháp”, chúng ta thường nói tám tâm vương.
Thứ hai là “tâm sở pháp”, nói tác dụng tâm lý.
Thứ ba là “sắc pháp”, chỉ vật chất.
Thứ tư là “tâm bất tương ưng hành pháp”, nếu dùng cách nói hiện đại thì đó là khái niệm trừu tượng, tuy giả nhưng có những sự tướng không thể không thừa nhận.
Thứ năm là “vô vi pháp”
Bốn loại đầu gồm tổng cộng 94 pháp, đều gọi “pháp hữu vi”. Ý nghĩa “hữu vi” là có sinh có diệt mà nhà Phật dạy là không thật, giả dối. Cái thật là không sinh không diệt. Sáu cõi luân hồi có sinh có diệt; mười pháp giới gồm Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật cũng có sinh có diệt. Phật có sinh có diệt, cũng không phải là thật. Nên nhớ Phật này là Phật của mười pháp giới. Vậy chỗ nào mới là không sinh không diệt? Đó chính là “nhất chân pháp giới”. Vậy “nhất chân pháp giới” ở đâu?
Kinh Hoa Nghiêm chỉ cho chúng ta thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ Lô Giá Na là “nhất chân pháp giới”. Phật lại bảo, “thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng là Nhất chân pháp giới”. ... (Nguồn: Tứ Hoằng Thệ Nguyện - PS Tịnh Không)
+ Chân Như Phật Tánh là Tỳ Lô Giá Na Phật: ..... Kinh Hoa Nghiêm chỉ cho chúng ta thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ Lô Giá Na là “nhất chân pháp giới”. Phật lại bảo, “thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng là nhất chân pháp giới”. Kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà cũng nói, người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, ai ai cũng đều thọ vô lượng, không có sinh diệt. Chúng ta vãng sanh đến Tây Phương cực lạc, không phải từ nhỏ dần dần trưởng thành người lớn. Nếu từ nhỏ dần dần lớn lên, đó là có sinh có diệt. Người thế giới Tây phương là hóa thân, thân hình không khác với Phật A Di Đà, cao lớn, trang nghiêm như nhau. Thế giới đó rất kỳ lạ, đó là không sinh không diệt, là nhất chân pháp giới..... (Nguồn: Tứ Hoằng Thệ Nguyện - PS Tịnh Không)
+ Nhất Chân Pháp giới - Tâm Bồ Đề cùng khắp mười phương:
Ông vốn không biết, trong Như Lai tạng tánh của thức là rõ biết sáng suốt, tính giác ngộ sáng suốt chính là chơn thức. Bản giác trong sáng nhiệm mầu, vắng lặng cùng khắp pháp giới.
Bao gồm và hiển bày trong khắp mười phương hư không, đâu có phương hướng xứ sở?
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật.
Giảng:
"Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu." Tùy theo nghiệp cảm của chúng sinh đã tạo mà những quả báo nầy hiện ra. "Thế gian không biết"– môn đệ của ngoại đạo, những người theo giáo lý quyền thừa, và hàng Tiểu thừa, những kẻ phàm phu, những người thiếu trí huệ, 'lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên." Họ không rõ có phải đạo lý nầy xuất phát từ lý nhân duyên hay không. Họ mê mờ và nghi hoặc, không nhận ra được rõ ràng. Hoặc là họ cho đó là tánh tự nhiên, đó là lý thuyết tự nhiên luận của hàng ngoại đạo.
"Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường." – Đó là hoàn toàn do thức tâm khởi lên phân biệt và suy lường–hoạt dụng đến mức độ đó– Chỉ là tên gọi, hoàn toàn không có nghĩa chân thật."
*Có người hỏi:
Ban đầu kinh này phá trừ thức tâm, cho rằng nó chỉ là danh nghĩa hư vọng, rốt ráo không có tự thể, cho đến chỉ bày trong kiến văn giác tri cũng gồm cả sắc tướng để phá. Cho đến 18 giới, đều nói là lưu xuất từ tánh Như Lai tạng. Đến khi nói về thất đại, lại nói là trùm khắp pháp giới, hàm biến cả mười phương hư không, tức là tánh toàn thể rộng lớn trùm khắp. Tại sao trước đã nói thức là cực vọng, sau lại nói nó toàn chơn?
Đáp: Ban đầu mới tu đạo, cần phải nhờ vào phương tiện để quyết trạch chân vọng mà xả bỏ đi căn bản sinh tử để đạt được niết-bàn diệu tâm. Sở dĩ ban đầu cần phải phá trừ thức là để dứt khoát không dùng nó nữa. Khi đã nhận ra được thức vốn là hư vọng rồi, từ đó mới nói rõ nghĩa rốt ráo viên dung, để chỉ rõ chẳng pháp nào mà không chân, pháp nào mà chẳng như (Chân như Phật tánh). Cho đến ức kiếp cõi nước như vi trần, cũng chẳng ngoài nhất chân pháp giới cả.
Tất cả mọi vật có trong thế gian, đều là tâm bồ-đề sáng suốt nhiệm mầu (Tất cả các pháp đều là tâm bồ-đề).
Tâm tánh tròn đầy, cùng khắp mười phương.
Nhìn lại thân cha mẹ sinh ra, như mảy bụi phất phơ trong mười phương hư không, thoạt còn thoạt mất; như trong đại dương mênh mông, nổi lên hòn bọt nước, chẳng biết sinh diệt từ đâu. Rõ ràng tự nhận biết được chân tâm nhiệm mầu xưa nay thường trụ bất diệt. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ TRÌ TỤNG - TRÌ CHÚ - TRÌ NIỆM CHÚ
+ Thọ Trì: Thọ Là Nhận lấy, vui thích và cung kính nhận lấy. Trì: Là gìn giữ duy trì, y theo mà làm với Tâm chân thành, cung kính với tín tâm không chút nghi ngờ.
+ HỎI: Thỉnh hỏi các câu “Chú” có công dụng gì? ĐÁP: “Chú” không phải để nói là có công dụng gì, mà đây là trang nghiêm pháp giới, là một loại pháp của pháp giới Trang Nghiêm. Trang nghiêm pháp giới cũng tức là trang nghiêm tự tánh của con. Pháp giới trang nghiệm rồi thì tự tánh của con cũng trang nghiêm luôn. Tự tánh trang nghiêm tức là thành tựu một loại Pháp Bồ Đề. Chứ không phải nói rằng, tôi trì Chú này rồi thì tôi không ăn mà cũng không đói, tôi không mặc áo mà cũng không lạnh, tôi không ngủ mà cũng không buồn ngủ. Không phải như thế đâu, mà trì chú là giúp tăng trưởng thêm pháp thân huệ mạng của con đó. (HT Tuyên Hóa giải đáp - Gậy Kim Can Hét)
+ Trì tụng Chú Đại Bi: Trì là không dùng miệng lưỡi đọc, nhẩm - Lưỡi không động gọi là Trì. Thực hành Trì Chú hiệu nghiệm hơn nhiều là đọc tụng bằng miệng lưỡi. Xem (Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi - Phút 30 Clip)
+ Khi trì chú, niệm Phật thì nhất định là nên quán tưởng phải không (Câu Hỏi 246) ?
Đáp: Nếu quý vị quán tưởng thì có thể bớt được một chút vọng tưởng. Không quán tưởng thì vọng tưởng nhiều thêm một chút.
- Chữa Bệnh Nhiệm mầu: Câu Hỏi 15: Ông nội con bị bệnh nặng, thỉnh Hòa Thượng… chữa. Đáp: Chỉ có Bồ Tát Quán Thế Âm mới có thể sửa đổi được bộ sổ sanh tử mà thôi.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Trì tụng Mật Chú: Mật Chú có nhiều quyền lực trong việc chữa trị bệnh tật khi tụng bằng tâm chân thành, tập trung sâu sắc, và ý định chính đáng. Chú Đại Bi và Chú Phật Dược là hai ví dụ như vậy. Khi tụng, mỗi Mật Chú tạo ra số lượng công đức to tát và có tác dụng chữa bệnh và biến đổi tuyệt vời (Nguồn: Phật giáo với y học)
+ Tụng Chú không thành tiếng - Niệm trong Tâm Trí:
Trong Kinh Thủ LN đức Phật dạy A Nan về Tánh nghe và tiếng chuông: ..... Khi tiếng chuông hết ngân và Đức Phật hỏi như vậy, La-hầu-la biết việc mình phải làm tiếp theo; ông rất là thông minh. La-hầu-la nổi tiếng là người tu tập mật hạnh. Mọi người không biết là ông ta đang tu tập. Không ai biết hằng ngày ông thực hành công phu. Ông ta công phu như thế nào? Ông ta có thể nhập định vào mọi lúc, mọi nơi. Khi vào phòng tắm, ông ta cũng nhập định. Khi ăn, ông vẫn ăn nhưng ông đang ở trong định. Tâm ông không để vào thức ăn. Không ai biết được chuyện đó, thể nên ông được xem là người mật hạnh đệ nhất. Hãy lấy việc tụng Chú Thủ-lăng-nghiêm làm ví dụ, không ai thấy La-hầu-la trì tụng chú, nhưng ông ta có thể tụng thuộc lòng. Không ai biết ông học lúc nào, nhưng ông tụng làu làu. Vì La-hầu-la là đệ nhất tu tập mật hạnh,.........(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4, Chương V)
+ Tụng Trì Đúng Pháp - Y Pháp Thọ Trì: Kinh Văn Nghĩa: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thì lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên mình, như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát dạy tiếp: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp... ” Thứ “pháp” mà Quán Thế Âm Bồ-tát nói đến ở đây là pháp gì? Đó là pháp “Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn”—pháp môn Bốn mươi hai Bàn Tay Ấn Pháp! Quý vị phải biết rằng: Hiện tại tôi giảng Kinh Đại Bi bởi vì quý vị cần phải hiểu rõ mọi chỉ dẫn để có thể tu tập cho đúng pháp.
“Y pháp thọ trì” tức là tu tập và hành trì đúng theo những gì đã dạy trong pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, và đó không phải chỉ tụng làu làu một mạch từ “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da. Nam Mô A Lị Da...” cho đến hết bài Chú Đại Bi là đủ. Không phải đơn thuần như thế! Cho nên, đối với pháp môn này, quý vị cần phải được “chân truyền,” tức là phải được chính thức và thật sự truyền dạy một cách đúng đắn thì mới được; bằng không, nếu không được chân truyền, mà chỉ toàn là nói suông và xem kinh nghĩa thôi, thì chẳng thể nào hiểu nổi! (Nguồn: Giảng Chú Đại Bi_HT Tuyên Hóa)
+ Trì Chú trước tiên phải theo Chánh tâm, thành ý: Học Chú thì trước tiên cần phải chánh tâm, thành ý; tâm không chánh thì học chú gì cũng thành tà. Tâm chánh, học Chú mới có cảm ứng. Chánh tâm cũng chưa đủ, cần phải thành ý. "Thành" tức là lúc nào mình cũng hết sức chuyên chú, chuyên tâm, không xao lãng, không làm những chuyện cẩu thả, tắc trách. Ðược vậy thì mới có cảm ứng.
Nếu không "chánh tâm, thành ý," nếu trong lòng đầy dẫy tư tưởng sai lầm, làm hại kẻ khác, tức là mình làm chuyện của ma. Pháp của ma vương là hại người, không lợi ích cho ai cả.
Nếu thật sự muốn tu hành thì trong bất cứ trường hợp nào cũng không được làm hại kẻ khác. Phải nuôi tâm làm lợi chúng sinh; không được học Chú để hàng phục ma quỷ hoặc đi đấu với người khác.
Người theo Phật Giáo không có kẻ thù, không tìm người để trả thù. Ðối với kẻ cố ý hại mình, mình phải nhẫn nại, tu hạnh Nhẫn Nhục Ba-la-mật; không sinh tâm báo thù. Ðó là chỗ cao siêu, là ưu điểm của Phật Giáo mà các tôn giáo khác thiếu sót.
Tôn chỉ hết sức trọng yếu của Phật Giáo là: Nếu bạn là ma quỷ thì tôi tuyệt đối không làm tổn hại bạn, không sinh lòng đối kháng, mà ngược lại, sẽ tìm cách để nhiếp thọ bạn. Ðây là giáo nghĩa đặc biệt nhất của đạo Phật. Ðối với chúng sinh luôn phát tâm từ bi, không làm hại kẻ khác.
"Tụng trì, mặc niệm, thiểu ý ngôn." Câu chú "Yin two na" (Nhân đa la) dịch nghĩa là tụng trì, hoặc là mặc niệm, hoặc thiểu ý ngôn; tức là mình không cần nói nhiều, cũng không vọng tưởng nhiều, chuyên tâm thì linh, tán loạn thì không cảm ứng.
Thế nào là chuyên nhất? Tức là luôn luôn đừng sinh tâm làm hại chúng sinh. Nếu có tâm làm hại kẻ khác thì tương lai sẽ gặp chuyện hết sức nguy hiểm; bởi vì: "Ða hành bất nghĩa tất tự tệ." (Nếu luôn làm chuyện bất nghĩa, thì mình sẽ tự tiêu diệt mình.)
Mình hại kẻ khác tức là mình đã hại chính mình. Mình giết cha người, thì có kẻ chắc chắc sẽ giết cha mình; mình giết anh người thì sẽ có kẻ giết anh mình; đó là luật nhân quả. Là Phật tử thì cần phải làm lành lánh dữ. Nếu không tạo nhân ác, thì sẽ tránh được quả ác trong tương lai.
Khổng Tử nói rằng: "Ngôn tất trung tín, Hành tất đốc kính, Tuy man mạch chi bang, hành hỹ." (Lời nói chân thật, Hành động chắc thật, cung kính, thì dù ở nơi nguy hiểm cũng vẫn được an toàn.). Xem nguồn: Trì chú theo Chánh pháp và Thành ý.
+ Thọ trì đọc tụng: “Thọ trì” là tuân thủ lời giáo huấn của Phật trong kinh điển, y giáo phụng hành. “Đọc tụng”, là mỗi ngày ôn tập lời giáo huấn ấy, không thể quên được. (Nguồn: HT Tịnh Không giảng về giáo dục)
+ Nhược nhân dục liễu tri Tam thế nhất thiết Phật. Ưng quán pháp giới tánh Nhất thiết duy tâm tạo
Vào đời Đường có vị xuất gia tên là Vương Minh Cán. Vị đó tuy xuất gia làm hoà thượng, nhưng không tu hành. Một ngày nọ, bị quỷ vô thường bắt đi, vị đó gặp Bồ Tát Địa Tạng, dạy vị đó một bài kệ Kinh Hoa Nghiêm :
"Nhược nhân dục liễu tri Tam thế nhất thiết Phật.
Ưng quán pháp giới tánh Nhất thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là :
"Nếu ai muốn biết rõ Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới Hết thảy do tâm tạo".
Vị đó thấy vua Diêm Vương thì đọc ra bài kệ nầy, do đó được phóng thích. Bài kệ nầy không những cứu được sinh mạng của vị đó, mà cũng cứu được chúng sinh thọ khổ dưới địa ngục. Các bạn thấy đó ! Bài kệ nầy có diệu dụng như thế, cho nên phải tụng Kinh Hoa Nghiêm, phải lạy Kinh Hoa Nghiêm, phải ấn tống Kinh Hoa Nghiêm, thì nhất định có công đức vô lượng. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm-HT Tuyên Hóa - T1)
+ 614. TÁM PHÁP TẰNG HỮU CỦA A-TU-LA
Vua A-tu-la là Bà-la-la con trai của Mâu-lê-già A-tu-la trả lời rằng:
Bạch Thế Tôn. Các A-tu-la của con ở trong đại hải không bị các sự suy thối này, là tuổi thọ của A-tu-la, sắc tướng của A-tu-la, sự hoan lạc của A-tu-la, sức mạnh của A-tu-la. Các A-tu-la thích sống trong đại hải.
Thế Tôn lại hỏi: Này Bà-la-la, trong đại hải có mấy pháp vị tằng hữu, khiến cho các A-tu-la thấy vậy nên thích sống trong ấy?
Bà-la-la trả lời rằng: Trong đại hải của con có tám pháp vị tằng hữu, khiến cho các A-tu-la thấy vậy nên thích sống trong ấy.
1) Đại hải của con từ đáy lên trên, chu vi dần dần rộng hơn, nghiêng chênh chếch lên dần mãi tạo thành bờ biển. Nước trong ấy luôn luôn đầy, chưa từng chảy ra ngoài.
2) Thủy triều trong đại hải của con chưa từng sai thời.
3) Nước trong đại hải của con rất sâu không có đáy, rất rộng không thấy bờ. Bạch Thế Tôn, nếu nước trong đại hải của con rất không sâu có đáy, rất rộng không thấy bờ; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ ba trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
4) Nước trong đại hải của con đều cùng một vị. Bạch Thế Tôn, nếu nước trong đại hải của con cùng một vị; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ tư trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
5) Trong đại hải của con có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu. Bạch Thế Tôn, nếu trong đại hải của con có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, trân châu, bích ngọc, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ năm trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó.
6) Đại hải là chỗ cư trú của các vị thần lớn. Những vị thần đó tên là A-tu-la, Kiền-thấp-hòa, La-sát, cá kình, rùa, cá sấu, Bà-lưu-nê, Đế-nghê, Đế-nghê-già-la, Đề-đế-nghê-già-la. Lại nữa, trong đại hải, rất kỳ lạ, rất đặc biệt, có chúng sanh thân thể tới một trăm do-diên, hai trăm do-diên, cho đến ba trăm do-diên, bảy trăm do-diên mà thân vẫn ở trong đại hải.
7) Đại hải của con thanh tịnh không dung chứa tử thi. Nếu có người nào mạng chung thì qua một đêm gió liền thổi tấp vào bờ.
8) Trong đại hải của con thuộc về châu Diêm-phù có năm sông lớn, là Hằng-già, Diêu-vưu-na, Xa-lao-phù, A-di-la-ba-đề, Ma-xí. Tất cả đều chảy vào đại hải. Chảy vào đó rồi, thảy đều bỏ tên cũ, gọi chung là đại hải. Đó là pháp vị tằng hữu thứ tám trong đại hải của con, các A-tu-la thấy vậy bèn thích sống trong đó. Nguồn: mục 614- (Trung A Hàm, Kinh A-Tu-La, Phẩm 4, số 35)
+ Thí Dụ Về Biển Cả, Kinh Tăng Chi Bộ _ Đức Phật dậy
... Đức Thế Tôn sau đó nói chuyện với thần Pahārāda như sau: "Pahārāda, ta nghĩ rằng các A-tu-la đã có nhiều vui thích về biển cả." - "Bạch Thế Tôn, đúng như thế." - "Pahārāda, có bao nhiêu phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu về biển cả, mà các A-tu-la đã nhận ra và nhiều lần vui thích?"
"Bạch Thế Tôn, có tất cả là tám phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu về biển cả, mà các A-tu-la đã nhiều lần vui thích. Đây là tám phẩm chất:
(1) Bạch Thế Tôn, biển cả dốc xuống dần dần, và nghiêng xuống từ từ, chứ không phải đột ngột dốc xuống thẳng tắp như vực thẳm. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu đầu tiên mà các A-tu-la nhận ra về biển cả và đó là lý do mà họ đã vui thích.
(2) Biển cả thì ổn định và nước không tràn lan ra khỏi ranh giới của nó. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ hai....
(3) Biển cả không dung chứa một xác chết hay một thây ma; nếu có một xác chết, biển cả sẽ nhanh chóng đẩy xác vào bờ rồi xô nó lên mặt đất. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ ba....
(4) Sau khi những con sông mạnh mẽ - như sông Hằng, Yamuna, Aciravatī, Sarabhū và sông Mahi - đổ ra biển cả, không còn ai gọi tên những con sông nầy nữa, vì tên chúng nay được thay thế bằng biển cả. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ tư....
(5) Dù tất cả các dòng nước, dòng sông trên thế giới chảy ra biển cả, cộng với nước mưa từ trên trời rơi xuống, nhưng nước biển dường như không thấy tăng hay giảm. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ năm....
(6) Biển cả chỉ có một vị, đó là vị mặn của muối. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ sáu....
(7) Biển cả có nhiều vật quý giá, khác nhau về thể loại và mầu sắc như: ngọc trai, đá quý, ngọc lưu ly, vỏ sò, đá thạch anh, san hô, bạc, vàng, hồng ngọc, và ốc mắt-mèo (cats-eyes). Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ bẩy....
(8) Biển cả là nơi trú ngụ của những sinh vật khổng lồ: cá timi, cá timiṅgala, cá timirapiṅgala, A-tu-la, long thần, và gandhabbas [demi-god, nửa thần, nửa người]. Có sinh vật dài một trăm do-tuần, hoặc dài hai, ba, bốn hoặc năm trăm do-tuần [1 do-tuần dài khoảng 6 miles tức gần 10 km]. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ tám mà các vị A-tu-la nhận ra về biển cả và đó là lý do mà họ đã vui thích.
"Bạch Thế Tôn, đây là tám phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu mà các A-tu-la đã nhiều lần vui thích về biển cả. Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng các Tỳ Kheo cũng vui thích trong Giáo Pháp và Giới Luật, có phải không?"
"Họ đã vui thích, Pahārāda."
"Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu mà các Tỳ Kheo đã nhận ra về Giáo Pháp và Giới Luật, mà họ đã nhiều lần vui thích?"
"Pahārāda, có tám phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu trong Giáo Pháp và Giới Luật, mà các Tỳ Kheo đã nhiều lần nhận ra, và đó là lý do mà họ đã vui thích. Đây là tám phẩm chất:
ĐỨC PHẬT DẬY: TÁM PHẨM CHẤT TUYỆT VỜI VÀ KỲ DIỆU CỦA PHẬT PHÁP
(1) Giống như là biển cả dốc xuống dần dần, và nghiêng xuống từ từ, chứ không phải đột ngột dốc xuống thẳng tắp như vực thẳm; Pahārāda, cũng như thế về Giáo Pháp và Giới Luật: Đây là một sự huấn luyện, thực tập dần dần, rồi tiến bộ từ từ; vì không có cách nào hiểu rõ một cách đột ngột chân lý tột cùng. [Nghĩa là, sẽ không có sự đột nhiên hiểu ra chân lý tột cùng, nhanh chóng như bước chân nhẩy vọt của một con ếch. Ngay từ lúc bắt đầu đi tu, nếu không sống hoàn toàn đạo đức, từ bi v.v., thì không thể đạt được quả A-la-hán. Chỉ bằng cách tu hành sống đời đức hạnh, tập trung tâm ý và dùng trí tuệ, rồi tu theo một thứ tự thích hợp - tức là giới, định, tuệ - mà người tu có thể đạt được quả A-la-hán.] Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu đầu tiên mà các Tỳ Kheo nhận ra trong Giáo Pháp và Giới Luật và đó là lý do mà họ đã vui thích.
(2) Giống như biển cả là sự ổn định và nước không tràn lan ra khỏi ranh giới của nó; cũng như thế, khi Như Lai dạy các đệ tử học hỏi về giới luật, họ sẽ không vi phạm vì họ xem giới luật là mục đích sống của đời họ. [Thí dụ như đối với các đệ tử cao quý như các vị Tu-Đà-Hoàn v.v., thì giới luật không thể nào làm cho tan vỡ.] Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ hai của Giáo Pháp và Giới Luật....
(3) Giống như là biển cả không dung chứa một xác chết hay một thây ma, biển sẽ nhanh chóng đẩy xác vào bờ rồi xô nó lên mặt đất; cũng như thế, Tăng Đoàn sẽ không dung chứa một tăng sĩ vô đạo đức trong hàng ngũ của mình, người mà có tính tình xấu xa, bất tịnh, có hành vi đáng ngờ vực, có những hành động bí mật, sống không đúng như một tăng sĩ khổ hạnh mà sống như một tăng sĩ giả hiệu, không trong sạch nhưng giả vờ sống trong sạch, thối tha đến tận lõi, nhiều dục vọng và có hành vi ghê tởm. Trong trường hợp nầy, Tăng Đoàn sẽ nhanh chóng tập họp và khai trừ ngay tăng sĩ đó. Mặc dù lúc tăng sĩ nầy hãy còn ngồi tập họp chung với Tăng Đoàn, nhưng người nầy cách xa Tăng Đoàn, cũng như Tăng đoàn cách xa người nầy. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ ba của Giáo Pháp và Giới Luật....
(4) Giống như những con sông mạnh mẽ sau khi đã đổ ra biển cả, không còn ai gọi tên những con sông nầy nữa, vì tên chúng nay được thay thế bằng biển cả; cũng như thế, khi những người thuộc bốn giai cấp - quý tộc, Bà la môn, thường dân và kẻ hầu hạ - khi xuất gia đi tu trở thành tăng sĩ, rồi tuân theo Giáo Pháp và Giới Luật lập nên bởi Như Lai, không còn ai gọi tên cũ và giai cấp của những người nầy, vì những vị tăng sĩ nầy nay được gọi là Những Người Con Thuộc Dòng Họ Đức Phật Thích Ca. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ tư của Giáo Pháp và Giới Luật....
(5) Giống như là biển cả, nước biển không tăng cũng không giảm, dù tất cả các dòng nước, dòng sông trên thế giới chảy ra biển cả, cộng với nước mưa từ trên trời rơi xuống; cũng như thế, dù có nhiều tăng sĩ tu hành đạt đến Niết Bàn, yếu tố Niết Bàn không có để lại "phần còn dư", nghĩa là không có tăng hay giảm trong yếu tố Niết Bàn. [Giả dụ như trong nhiều tỷ năm, vào thời không có Đức Phật xuất hiện, không có một người nào tu đạt đến Niết Bàn, ta cũng không thể nói Niết Bàn hoàn toàn trống chỗ. Nói một cách khác, trong cuộc đời Đức Phật, mỗi lần khi ngài giảng Pháp, có vô số người đạt đến Niết Bàn, ta cũng không thể nói Niết Bàn đã đầy hết chỗ.] Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ năm của Giáo Pháp và Giới Luật ....
(6) Giống như biển cả chỉ có một vị, đó là vị mặn của muối; cũng như thế, Giáo Pháp và Giới Luật chỉ có một vị, đó là hương vị giải thoát. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ sáu của Giáo Pháp và Giới Luật....
(7) Giống như biển cả, có nhiều vật quý giá khác nhau về thể loại và mầu sắc như: ngọc trai, đá quý v.v.; cũng như thế, trong Giáo Pháp và Giới Luật có nhiều điều quý báu. Sau đây là những điều quý báu: bốn nền tảng chánh niệm hay tứ niệm xứ, bốn nỗ lực đúng, bốn cơ sở thành công, năm khả năng thiêng liêng, năm thần thông, bẩy yếu tố giác ngộ, và Bát Chánh Đạo. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ bẩy của Giáo Pháp và Giới Luật....
(8) Giống như biển cả là nơi trú ngụ của những sinh vật khổng lồ; cũng như thế, Giáo Pháp và Giới Luật là nơi cư trú của những người sống đời cao thượng: các vị Tu-Đà-Hoàn và các vị tu hành để đạt được quả Nhập Lưu [còn tái sinh từ 1 đến 7 lần vào cõi dục giới]; các vị Tư-Đà-Hàm và các vị tu hành để đạt được quả Nhất Lai [còn tái sinh 1 lần vào cõi dục giới]; các vị A-Na-Hàm và các vị tu hành và đạt được quả Bất Lai [không còn tái sinh vào cõi dục giới]; các vị A-La-Hán và các vị tu hành để đạt được quả A-La-Hán [không còn luân hồi, sinh tử]. Đây là phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu thứ tám của Giáo Pháp và Giới Luật, mà các Tỳ Kheo đã nhiều lần nhận ra và đó là lý do mà họ đã vui thích.
"Pahārāda, đây là tám phẩm chất tuyệt vời và kỳ diệu trong Giáo Pháp và Giới Luật, mà các Tỳ Kheo đã nhiều lần nhận ra và đó là lý do mà họ đã vui thích." (Nguồn: Xem tại đây)
+ 615. TÁM PHÁP TẰNG HỮU CỦA CHƯ TỲ KHEO
- Tương Tự Như Tám Pháp Đại hại: Này Bà-la-la, trong Chánh pháp luật của ta (Đức Phật) cũng có tám pháp vị tằng hữu, khiến cho các Tỳ-kheo thấy được bèn hoan lạc trong đó. Những gì là tám? Nguồn: mục 615- (Trung A Hàm, Kinh A-Tu-La, Phẩm 4, số 35)
+ Tâm vô trụ làm gốc của Pháp đốn ngộ/ Đốn giáo
Chư Thiện tri thức! Pháp môn của ta (Pháp đốn ngộ/ Đốn giáo) đây từ trên truyền xuống, trước hết là lập Vô niệm làm tông. Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc (bổn). Vô niệm nghĩa là trong khi niệm, lòng không động niệm. Vô tướng nghĩa là đối với sắc tướng, lòng lìa sắc tướng. Vô trụ chính là Bổn tánh của con người.
Vô trụ làm gốc: Đối với các điều lành dữ, tốt xấu ở thế gian, cùng với kẻ thù người thân, đối với lúc nghe các lời xúc phạm, châm chích, khinh khi, tranh đấu, xem cả thảy như không không, chẳng nghĩ đến việc đền ơn trả oán. Trong niệm niệm lòng không nghĩ đến cảnh mình đã gặp trước. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối tiếp nhau chẳng dứt, thì gọi là bị buộc ràng. Đối với các pháp, niệm niệm lòng không trụ vào đâu thì khỏi bị buộc ràng. Ấy là Vô trụ làm gốc.
- Giảng:
Pháp môn đốn giáo .... đều lấy vô sở niệm làm tông, vô tướng làm bổn thể, vô trụ làm cơ sở. Cái gì gọi là vô tướng? Chính là ở nơi tướng mà ly khai tướng. Vô niệm chính là ở nơi niệm mà không chấp trước vào niệm. Vô trụ chính là bổn tánh của con người. Ở thế gian này .... Mỗi niệm không nên nghĩ về những sự việc quá khứ. Nếu các ông cứ mãi hồi tưởng về những niệm quá khứ, niệm hiện tại và niệm vị lai, niệm niệm tương tục không ngừng, như sóng nước, đó chính là tự mình dùng dây trói buộc mình, tự trói buộc mình vào một chỗ, mà không được tự do. Nếu các ông đối với vạn pháp, niệm niệm không chấp trước, đó chính là không có bị trói buộc, chính là lấy vô sở trụ làm căn bổn. (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hiểu về Vô trụ: Chúng sanh trong 9 pháp giới còn chổ để trụ. Ví như Bồ Tát trụ ở cảnh giới lục độ. Duyên giác trụ ở nhân duyên, Thanh văn trụ ở Tứ đế, Ngạ quỷ trụ ở cảnh giới tham, địa ngục trụ nơi sân, súc sanh trụ ở cảnh si mê. Tâm của tất cả các chúng sanh này đều còn chổ để trụ để dính mắc. Nói cách khác, tâm của chúng ta như thế nào thì cảnh giới của chúng ta như thế đó. Phàm phu chúng ta muốn trụ nơi cảnh giới vô trụ của Phật là điều không thể đạt được. Tuy nhiên Phật có truyền dạy cho chúng ta một phương pháp vô cùng thù thắng và tiện lợi để có thể dự vào cảnh giới vô trụ của các ngài, đó là pháp môn niệm Phật. Bồ tát trụ ở lục độ, quí vị đã được nâng cao hơn đẳng cấp của Bồ tát. Thế nhưng tiếng niệm Phật của quý vị phải tương ưng. Thế nào gọi là tương ưng. Mỗi một tiếng niệm Phật, quý vị phải trải lòng từ bi của mình đến với tất cả chúng sanh trong hư không và lan rộng đến khắp pháp giới. Mỗi tiếng niệm Phật đều vì lợi ích cho chúng sanh, đều mang lòng muốn ban vui cứu khổ đến mọi loại. Có người hỏi: tiếng niệm Phật của chúng ta, thực tế có lan rộng đến hư không các pháp giới không? Khẳng định là được. (Nguồn: Khai thị niệm Phật - PS Tịnh Không)
+ Pháp ưu sinh: Thai nhi nhập thai có sự tương ứng với phúc đức của cha mẹ thời điểm đậu thai, nên chọn Thời vận đang phát phúc thiện để mang thai, cũng nên tu sửa Tâm tính và hành thiện thí cúng để tích phúc, cầu nguyện Tam Bảo, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng ... gia hộ độ trì để có thể sinh con hiểu thảo. Đây là sự chuẩn bị mang thai - Pháp ưu sinh được con cái như ý, cầu được ước thấy - Phật pháp nhiệm mầu giành cho những ai thực hành đúng Như Pháp đức Phật dạy.
Trong Phật pháp, nếu tin sâu nhân quả và mang theo Chú Đại Bi, Chú Lăng Nghiêm bên mình thì được bình an, nếu mang thai hoặc sinh con, người mẹ và bé luôn đeo Thần chú thì vạn sự cát tường, diệt trừ các chướng nhiễu nhương gây họa. (NTH tổng hợp tóm lược theo Thánh hiền giảng, mời xem chi tiết HT Tuyên Hóa giảng giải Chú Đại Bi, Chú Lăng Nghiêm)
+ Mang thai - Thai nhi phát triển
... Kinh Thai Cốt nói, A Nan hỏi Phật: “Trên thế giới này, cái gì lớn nhất?” Đức Phật trả lời: “Trên thế giới này, công ơn cha mẹ, là điều lớn nhất!” A Nan bạch Phật: “Xin Phật từ bi nói cho con nghe”. Đức Phật dạy rằng: “Hình hài đứa bé ở trong bụng mẹ, trong khoảng tháng đầu, có thể ví như sương trên ngọn cỏ, buổi sáng tuy đọng, không lâu lại tan, chỉ biết buổi sáng, không chắc buổi chiều, cho nên gọi là sương đầu ngọc cỏ. Hình hài đứa bé ở trong bụng mẹ, vào khoảng hai tháng, hóa như cục tuyết, vào tháng thứ ba, biến thành máu đọng, và đã dài được sáu tấc ba phân; vào tháng thứ tư, tứ chi bắt đầu, trước sinh hai tay, sau sinh hai chân; đến tháng thứ năm sinh ra năm bào, nghĩa là trước hết sinh xương chỏm đầu, rồi xương hai vai, sau cùng, là xương đầu gối, thế là năm bào. Thân hình đứa bé ở trong bụng mẹ, vào tháng thứ sáu, sinh ra sáu căn: mắt hay nhìn sắc, tai thích nghe tiếng, mũi để ngửi mùi, lưỡi để nếm vị, thân để va chạm, ý để phân biệt, đó là sáu căn. Đến tháng thứ bảy, sinh các loại xương, chia thành bảy thứ: nếu là chư Phật, sinh xương cứng chắc, ví như kim cương, nếu là Bồ Tát, sinh xương đỏ thắm, như cánh hoa sen, nếu là Thanh Văn, sinh xương xá lợi, có đủ năm sắc, nếu là Đế vương sinh xương rồng phượng, nếu là đại thần, sinh xương móc khóa, nếu là tướng quân, sinh xương mãnh hổ, còn những người thường, sinh đủ 360 đốt xương. Đàn ông sinh xương từ đầu trở xuống, đàn bà sinh xương từ chân trở lên; nếu là đàn ông, xương trắng mà nặng, nếu đàn bà, xương đen và nhẹ.
Hình hài đứa bé, ở trong bụng mẹ, vào tháng thứ tám, chịu tám nỗi khổ: mẹ ăn thứ nóng, cảm thấy đau rát, mẹ uống nước lạnh, cảm thấy giá buốt, lúc mẹ ăn no, thấy bị đè ép, khi mẹ đói lòng, cảm thấy chơi vơi, lúc mẹ ngủ nghỉ, như nằm giường sắt, nếu mẹ đi lại, mình thấy lắc lư, khi mẹ ngồi xuống, mình như bị té, nếu mẹ cúi xuống, mình như bị treo; đến tháng thứ chín, ba lần xoay mình: xoay lần thứ nhất, trai chuyển bên trái, gái chuyển bên phải, xoay lần thứ nhì, tay ôm lòng mẹ, chuyển lần thứ ba, chân đạp sườn mẹ, đến tháng thứ mười, là kỳ sinh hạ, nếu đứa con hiếu, thì sinh dễ dàng, nếu là ngỗ nghịch, thì rất khó khăn, cả nhà lo sợ. Sau khi sinh rồi, thân mẹ nhơ nhớp, tinh thần tán loạn, trong khi sinh nở, lo khổ như thế, vì vậy nên biết, ân đức của mẹ, thật là to lớn. (Nguồn: Kinh Mục Liên Sám Pháp)
Xem thêm: Kinh đức Phật giảng nói về công sinh thành của người Mẹ thật lớn lao, không thể đền đáp - Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trộng Ân
+ Hồn khóm (Group–soul, hồn tập thể): Hồn khóm trên con đường tiến hóa giáng hạ (involutionary path) và hồn khóm trên con đường tiến hóa thăng thượng thì không giống nhau (unlike). Hồn khóm trên con đường tiến hóa giáng hạ đang trải qua sự biến phân và gồm có các thực thể được làm cho linh hoạt bằng một sự sống chung (general life). Hồn khóm trên con đường tiến hóa thăng thượng đã được biến phân (differentiated); mỗi thực thể là một đơn vị riêng rẽ, có sự sống duy nhất, tự túc (complete in itself) song vẫn là một với tổng thể. (LVLCK, 910)
+ Đại Hồn (Master–Soul) là Alaya, linh hồn vũ trụ hay Atma, mỗi con người đều có trong mình một tia (ray) của nó và được giả định là có thể đồng nhất hóa chính mình với nó và hòa hợp chính mình vào nó. (LVLCK, 137)
+ Hồn bị phân mảnh: HỎI: Một người lúc sống đã từng kết hôn bao nhiêu lần thì sau khi chết nghiệp báo hiện ra, có cái cưa lớn cắt từ đầu tới chân ra bấy nhiêu phần. Bị phân cắt ra như vậy thì có gì không tốt?
ĐÁP: Như đã bị cắt ra thành nhiều phần nhỏ nhặt vụn vặt như thế rồi, sau muốn quy tụ linh tánh lại thì không dễ gì. Vậy trải qua nghìn trăm ức kiếp, sợ cũng không thể nào phục hồi lại được thân người. Lúc này thì tánh hóa linh tàn với cỏ cây cùng mục nát và biến thành thực vật vô tình. Bổn tánh mà bị phân tán đi rồi thì không dễ gì được làm chúng sanh nữa đâu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị - Q.3)
+ Bậc khéo nói pháp sâu xa - Bậc khéo nói an ủi
Bấy giờ Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín hỏi Đại Bồ Tát Địa Tạng:
– Ngài vì sao mà khéo nói Pháp sâu xa, có thể khiến chúng sinh lìa sự khiếp nhược?
Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng đáp:
– Này thiện nam tử! Nên biết, người mới phát ý cầu về Đại thừa mà chưa được tín tâm, đối với giáo Pháp sâu xa của đạo Vô Thượng, họ ưa sinh nghi ngờ khiếp nhược, cho nên Ta dùng phương tiện hay khéo, tuyên rõ nghĩa thật để an ủi họ, khiến lìa khiếp nhược. Do đó hiệu của Ta là “Bậc khéo nói an ủi”. An ủi như thế nào? Nghĩa là những chúng sinh căn tính chậm lụt, tâm lượng nhỏ hẹp, nghe sự tối thắng, tối mầu của đạo Vô Thượng, mặc dù ý họ ham thích, phát tâm hướng về, nhưng lại suy nghĩ rằng: Sự cầu đạo Vô Thượng, cần phải chứa công để đức rất rộng, tu những hạnh khổ khó làm, phải tự độ, độ tha, trải qua kiếp số dài xa, ở trong sinh tử lâu chịu siêng khổ, mới có thể thành. Vì lý do đó họ sinh khiếp nhược. Ta liền vì họ nói nghĩa lý chân thật. Nghĩa là nói tất cả các Pháp bản tính tự rỗng rang, rốt ráo vô ngã, không có người làm, không có người thọ, không tự không tha, không đi, không đến, không có phương sở, cũng không quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến vì họ nói mười tám món không. Tất cả các Pháp không có tướng sinh tử Niết Bàn, cũng không có tướng chắc thật có thể nắm bắt. Lại vì họ nói: Tất cả các Pháp như huyễn, như hóa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, như thành Càn Thát Bà, như tiếng dội trong hang trống, như quán nắng, như bọt nước, như sương mốc, như đèn lòa, như mắt bị nhặm, như mộng, như chớp, như mây nổi đầu non, những phiền não sinh tử tính nó rất yếu ớt, có thể dễ làm cho diệt mất… Lại dạy họ rằng: phiền não sinh tử, rốt ráo không có tự thể, tìm nó chẳng thể được, xưa nay chẳng sinh, thật cũng chẳng diệt, tự nó vắng lặng, chính là Niết Bàn…
Những lời nói như vậy, nhằm phá tất cả mọi sự nhận thức sai lầm, bớt đi sự chấp đắm nơi tự thân tâm, để chúng sinh được lìa khiếp nhược.
Lại có chúng sinh, vì chẳng hiểu ý chỉ nơi lời nói của đức Như Lai mà sinh khiếp nhược. Ý chỉ nơi lời nói của đức Như Lai như thế nào? Đó là: Đức Như Lai đã luôn luôn nhìn thấy cảnh giới Nhất Thật Tướng, rốt ráo lìa khỏi các pháp ác thuộc sinh, lão, bệnh, tử, chứng được Pháp thân của Ngài, Pháp thân này thường hằng không mất, không biến đổi v.v…có sự chứa nhóm vô lượng công đức. Như Lai lại có thể thấy tỏ rõ trong thân của tất cả chúng sinh, đều có sẵn những công đức chân thật, thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng vì bóng tối nhiễm ô của vô minh che chướng, cho nên từ trước tới giờ luôn luôn chịu vô lượng thứ khổ sinh, già, bệnh, chết. Như Lai ngay đó khởi tâm đại bi, muốn khiến cho tất cả chúng sinh lìa các thứ khổ, đồng gặt hái sự vui đệ nhất của Pháp thân và Pháp thân ấy là Pháp vô phân biệt, lìa tất cả ý niệm. Chỉ có bậc hay diệt tư tưởng hư vọng của thức, chẳng khởi niệm phân biệt, mới có thể chứng nhập.
Chỉ vì tất cả chúng sinh, thường ưa phân biệt, chấp đắm các Pháp, bởi điên đảo vọng tưởng cho nên chịu sống chết triền miên, do đó đức Như Lai muốn cho họ lìa ý tưởng phân biệt chấp trước, cho nên Ngài nói: Tất cả pháp thế gian rốt ráo của nó rỗng rang, không là gì cả, cho đến tất cả những Pháp xuất thế gian, bản thể của nó cũng rốt ráo, rỗng không, không thuộc vào đâu…” Nếu nói rộng ra thì như mười tám Pháp không (44). Sự hiển bày tất cả các Pháp như vậy, đều chẳng lìa thể của Bồ Đề. Thể của Bồ Đề chẳng thể có, chẳng phải không, chẳng phải chẳng có, chẳng phải chẳng không, chẳng phải cả có lẫn không, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải chẳng một, chẳng phải chẳng khác, chẳng phải một lẫn khác, cho đến rốt ráo không một tướng nào có thể nắm bắt, vì nó lìa hết tất cả tướng. Thế nào là lìa hết tất cả tướng? Nghĩa là chẳng thể nương vào lời lẽ để giữ lấy, vì trong Pháp của Bồ Đề, không có sự lĩnh nhận bằng lời lẽ nói năng, và sự nói năng không thể đến được, lại cũng chẳng thể nương vào cái tâm có nghĩ ngợi mà biết được. Trong Pháp Bồ Đề không có “người hay giữ lấy và Pháp để giữ lấy”. Không ta, không người vì lìa tướng phân biệt. Nếu còn có sự phân biệt, chính là hư ngụy, chẳng gọi là khế hợp với Bồ Đề…
Những lời dạy như thế của đức Như Lai, các chúng sinh căn tính chậm lụt, không thể hiểu nổi, cho rằng Vô thượng Bồ Đề và Pháp thân của Như Lai chỉ là Pháp trống không, rốt ráo một mực, không có gì hết, do đó mà tâm của họ khiếp nhược, sợ sệt vào chỗ “không được gì cả”. Hoặc họ sinh ra tư tưởng đoạn diệt, khởi nhận thức có tăng có giảm, chuyển sang phỉ báng, khinh mình, khinh người v.v… Để đối trị hạng này, ta liền vì họ nói: Pháp thân Như Lai, tự tính nó chẳng phải ngoan không, mà là có Tự thể chân thật, Thể này đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh, từ vô thỉ đến giờ, nó tự nhiên tròn đầy, chẳng phải nhờ tu mới có, chẳng phải nhờ tạo mới thành. Cả đến trong thân tất cả chúng sinh cũng đều sẵn đủ, không biến, không đổi, không thêm, không bớt. Những lời nói như vậy, có thể trừ sự khiếp nhược của chúng sinh, đó mệnh danh là “An ủi”.
– Lại nữa, những chúng sinh ngu si chấp chặt, nghe những lời nói như thế, cũng sinh khiếp nhược nữa, vì không hiểu nổi nghĩa này, họ lại chấp rằng Pháp thân của Như Lai từ xưa đến nay đã đầy đủ, chẳng phải là tướng tu tạo, thì đâu có tướng chứng đắc gì, do đó mà họ sinh khiếp nhược, rơi vào hạng tín tà đảo kiến, theo lối của tự nhiên ngoại đạo.
Đối với hạng này, ta liền vì họ nói đến sự tu hành tất cả thiện Pháp, để tăng trưởng sự đầy đủ, mới sinh ra sắc thân Như Lai, được quả báo vô lượng công đức thanh tịnh. Những lời nói như thế, nhằm khiến chúng sinh lìa sự khiếp nhược, đó được mệnh danh là “An ủi”. Những nghĩa sâu thẳm được ta nói ra, khế hợp với lý chân thật, không có các lỗi, bởi lìa lời nói mâu thuẫn của thế gian, làm sao biết tướng lìa lời nói mâu thuẫn?
Bởi vì Pháp thân của Như Lai, mặc dầu không có cảnh giới của lời lẽ, và lìa cả cái tâm tưởng niệm, chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho đến không có tất cả các tướng, chẳng thể căn cứ vào lời lẽ để chỉ bày, nhưng căn cứ vào Pháp giả gọi đối đãi nhau bởi nhân duyên huyễn hóa của thế đế, thì có thể dùng phương tiện chỉ bày để nói. Vì tính của Pháp thân này không phân biệt, lìa cả tướng tự, tướng tha, chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho đến lìa hết tất cả các tướng, cho nên nói rằng, bản thể của Pháp thân là rốt ráo rỗng rang, không thuộc vào cái có. Vì khi đã lìa tâm phân biệt rồi, thì tưởng niệm hết sạch, bèn không còn một tướng nào cả, nhưng có thể tự thấy, tự biết và tự có tất cả. Thế nên nghĩa không quyết định khế hợp với thật tướng chân như, không hề sai lầm.
– Lại nữa, chính trong nghĩa không đó, do lìa tâm vọng tưởng phân biệt, thì sự rốt ráo tận cùng của nó, không một tướng nào có thể nói rằng không. Vì chỉ còn lại một sự chân thật, chính đó gọi là bất không vậy. Lìa tưởng niệm của thức, cho nên không có bất cứ một tướng hư ngụy nào, mà là rốt ráo thường hằng chẳng biến, chẳng đổi. Bởi không còn một tướng nào có thể hoại, có thể diệt, cho nên cũng lìa mọi sự tăng giảm.
– Lại nữa, chỗ vô phân biệt của Thật thể Chân như này, từ đời vô thỉ đến nay, đủ vô lượng chủng tử công đức vô lậu, tự nhiên sẵn có, lúc nào cũng tương ưng, vì nó không lìa, không rời, cho nên nói là bất không. Những công đức chứa nhóm nơi Thật thể Chân như như thế, tất cả chúng sinh đều có sẵn, chỉ vì chúng sinh bị vô minh che lòa, cho nên chẳng biết, chẳng thấy, chẳng thể nào đạt được công đức lợi ích của Pháp thân, đâu khác gì hoàn toàn không có. Nói chưa có là nói những chúng sinh chẳng biết, chẳng thấy về thể của Pháp thân, cho nên bao nhiêu lợi ích của công đức nghiệp, chẳng phải là chỗ những chúng sinh ấy có thể thọ dụng, vì vậy chẳng gọi là thuộc về của họ. Chỉ có nhờ vào sự tu khắp tất cả thiện Pháp, đối trị các thứ nghiệp chướng, nhận ra Pháp thân kia, sau đó mới được những công đức lợi ích. Thế nên nói rằng tu tất cả thiện Pháp, sinh ra sắc thân Như Lai. ... (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Kinh Phân biệt Bố thí, Ðức Phật dạy:
- "Cho 100 người ác ăn không bằng cho 01 người thiện ăn.
- Cho 1.000 người thiện ăn không bằng cho 01 người thọ ngũ giới ăn.
- Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu Ðà Hoàn ăn.
- Cho một trăm vị Tu Ðà Hoàn ăn không bằng cho một vị Tư Ðà Hàm ăn.
- Cho một ngàn vạn vị Tư Ðà Hàm ăn không bằng cho một vị A Na Hàm ăn.
- Cho một ức vị A Na Hàm ăn không bằng cho một vị A La Hán ăn.
- Cho mười ức vị A La Hán ăn không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn.
- Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật ba đời ăn (Tam thế Phật).
- Cho một ngàn ức vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn". (Nguồn: Kinh phân biệt bố thí)
+ Quả báo thiện ác - Quả báo cát hung - Quả báo Họa phúc với con người
1- Phật tử cùng Tín phụng thờ Phật nhưng lại có quả báo sai biệt là vì sao? Mời đọc trong Kinh để biết Phật giảng rõ nguyên nhân có người Tín phụng thờ Phật thì cầu được ước thấy, nhiều điều cát tường như ý, nhưng có người thì cầu gì cũng không được, lại lắm tai ương ... Tất cả đều do tu không ssungs NHƯ PHÁP - NHƯ LỜI PHẬT DẬY mà ra quả báo sai khác nhau như vậy.
2.- A-Nan xót thương người đời nhiều ác, kém đức tin.
Lời Phật dạy chí chân chí thiết, mà người tin Phật quá ít oi, đời nầy xấu ác nhiều, chúng sanh nguyền rủa lẫn nhau, thật đáng đau lòng lắm vậy! Nếu có tin lời Phật cũng chỉ một hoặc hai thì làm sao hoán cải cõi đời ác trượt nầy, nên mới tồi tệ đến như thế.
3.- A- Nan thương xót chúng sanh mà cầu Phật trụ lâu ở đời.
Sau khi Phật diệt độ, kinh pháp tuy còn mà không có người tin, rồi dần dần suy tàn tán diệt! Than ôi! Đau lòng lắm thay! Sẽ phải nương cậy vào đâu, cúi xin đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh mê tối lầm lạc, chưa nên vào Niết bàn.
+ Thỉnh Phật trụ ở đời.
I- A-Nan nhân đây mà nói kệ rằng.
1/ Phật hộ trì ba cõi
Ân đức khắp chúng sanh
Nguyện vì tất cả chúng
Nên chưa thể Niết bàn.
2/ Người gặp chánh pháp ít
Mê muội không rõ chân
Đáng thương kẻ bất thức
Tội chướng sâu như thế
3/ Có phước gặp Phật pháp
Vạn triệu chỉ một hai
Kinh pháp tiêu tán dần
Biết phải nương vào đâu.
II- Nghi hoặc hủy báng Tam Bảo thì tội nặng.
III- Tội nào thì quả nấy
IV- Phước báo của người thọ trì giới.
V/ Nghi quả báo tội phước.
VI- Tâm ý thế gian là nguyên nhân của nghiệp báo.
VII- Kết thúc băng lời chuyển hóa. (Nguồn: Kinh A Nan vấn về Phật sự)
+ Quả Báo Phước nghiệp - Phước Báo - Phước Báu: Có 3 căn bản:
1. Hạng người sau đây, khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người không may mắn vì:
- Làm phước do bố thí trên một quy mô nhỏ
- Làm phước do giới đức trên một quy mô nhỏ
- Làm phước do tu tập trên một quy mô nhỏ.
2. Hạng Người, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người có may mắn vì:
- Làm phước do bố thí trên một quy mô vừa
- Làm phước do giới đức trên một quy mô vừa
- Không đạt được căn bản làm phước do tu tập.
3. Hạng Người, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên vì:
- Làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn
- Làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn
- Không đạt được căn bản làm phước do tu tập.
* Có nhiều cấp bậc chư thiên mà người đó có thể được sanh đến như
- Chư Thiên ở Tam thập Tam thiên
- Chư Thiên ở Yàma thiên
- Chư Thiên ở Tusità thiên
- Chư Thiên ở Hóa lạc thiên
- Chư Thiên ở Tha hóa tự tại thiên (Nguồn: Ba căn bản phước nghiệp)
Xem thêm: Công đức phước đức
* Tóm lược Kinh Nghiệp báo sai biệt: Phật bảo Thủ Ca: Tất cả chúng sinh có liên quan với nghiệp, nương tựa nơi nghiệp, theo nghiệp tự chuyển. Do nhân duyên ấy có phân ra: thượng, trung, hạ, sai khác chẳng đồng:
Bị quả báo mạng sống ngắn ngủi - Mạng sống trường thọ;
Bị quả báo nhiều bệnh tật - ít bệnh tất;
Bị quả báo thân xấu xí - thân đẹp đẽ;
Bị quả báo uy thế yếu - uy thế mạnh;
Bị quả báo dòng họ hạ tiện - Dòng họ cao thượng;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh của cải ít - Của cải nhiều;
Bị quả báo trí tàn kiến (thấy biết sai lệnh không đúng nhân quả) - Trí chân chính;
Bị quả báo địa ngục - Súc sinh - ngạ quỷ - A-tu-la;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh được quả báo loài người - Trời Sắc giới - Trời vô sắc giới;
Bị quả báo không cố định;
Bị quả báo sinh chỗ biên địa (vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới…) - Sinh nơi thành phố, thủ đô;
Bị quả báo phải chịu đủ tuổi thọ ở địa ngục;
Bị quả báo phân nửa tuổi thọ ở địa ngục;
Bị quả báo tạm vào liền ra;
Khiến chúng sinh làm mà chẳng tập - Tập mà chẳng làm - Cũng tập cũng làm - Chẳng làm chẳng tập;
Khiến chúng sinh trước vui sau khổ - Trước khổ sau khổ - Trước vui sau vui - Trước khổ sau vui;
Khiến chúng sinh nghèo mà thích bố thí - Giàu mà xan tham (tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ…);
Khiến chúng sinh được thân vui mà tâm chẳng vui - Tâm vui mà thân chẳng vui - Thâm tâm đều vui - Thân tâm đều chẳng vui;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh tuổi thọ tuy hết mà nghiệp chẳng hết - Nghiệp tuy hết mà tuổi thọ chẳng hết;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ đều hết;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ cả hai đều chẳng hết mà đoạn trừ tất cả phiền não;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh đoạ vào đường ác mà thân hình đẹp lạ, mày mắt đoan trang, màu da tươi sáng được mọi người thích nhìn;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh nơi đường ác mà thân hình xấu xí, da dẻ thô nhám, người chẳng thích nhìn;
Hoặc có nghiệp khiến chúng sinh sinh vào đường ác mà thân miệng hôi thối, các căn khiếm khuyết (mắt, tai mũi, lưỡi… không được trọn vẹn);
Hoặc có chúng sinh tập hạnh thế gian mười bất thiện nghiệp bị ác báo bên ngoài;
Hoặc có chúng sinh tập hạnh thế gian mười điều thiện nghiệp được quả báo thù thắng bên ngoài.
Ví như có chúng sinh lễ Phật, tháp miến được mười thứ công đức:
Cúng thí lọng báu được mười thứ công đức,
Cúng thí chuông linh được mười thứ công đức,
Cúng thí y phục được mười thứ công đức,
Cúng thí bát đũa được mười thứ công đức,
Cúng thí thức ăn nước uống được mười thứ công đức,
Cúng thí giầy dép được mười thứ công đức,
Cúng thí hương hoa được mười thứ công đức,
Cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức,
Cúng thí cung kính chắp tay được mười thứ công đức.
Đó là lược nói tên pháp môn các nghiệp sai khác.
Chi tiết giảng giải các loại Nghiệp báo và công đức nói trên đức Phật giảng rất rõ, xin xem tại nguồn: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt
+ Tu lòng tin và sự hiểu biết về Cảnh giới Nhất Thật Tướng của Tâm
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Này thiện nam tử! Trên đây là lược nói ý nghĩa cảnh giới của Nhất Thật Tướng, nếu muốn nương vào cảnh giới Nhất Thật Tướng, để tu lòng tin và sự hiểu biết (28), thì hãy nên học tập hai đường lối quán chiếu. Thế nào là hai?
– Một là quán các Pháp đều Duy tâm Duy thức.
– Hai là quán Thật tướng Chân như.
Về cách học quán Duy tâm Duy thức thì: Trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, tùy thân, khẩu, ý có sự móng niệm, đều phải quán xét, biết những niệm khởi chỉ là do tâm, cho đến bất cứ cảnh giới gì, nếu tâm trú vào sự nhớ nghĩ, thì phải xét biết và buông
xả, chớ để cho tâm rơi vào tình trạng vô ký (29), hoặc vin theo duyên mà không tự kiểm soát. Trong mỗi mỗi niệm đều nên quán sát, tùy ý niệm nào mà tâm duyên đến, lập tức thâu nhiếp trở lại, không để cho tâm theo đuổi những ý niệm đó. Làm sao cho tâm tự biết, nội tâm của mình tự sinh tưởng niệm, chẳng phải tất cả cảnh giới có tưởng niệm, có phân biệt. Nghĩa là nội tâm tự sinh các quan niệm như: hay dở, tốt xấu, phải quấy, được mất, suy lợi, có không v.v…tóm lại là vô lượng ý tưởng. Song, tất cả cảnh giới chưa từng có tưởng, chưa từng có khởi phân biệt, nên biết tất cả cảnh giới, tự nó không có tư tưởng phân biệt, tức là tự nó chẳng phải hay dở, chẳng phải tốt xấu, cho đến chẳng phải có, chẳng phải không, lìa tất cả tướng. Cứ như vậy quán sát, biết tất cả Pháp chỉ duy tâm tưởng mà sinh. Nếu như lìa tâm, thì không có tướng bất cứ một Pháp nào có thể tự thấy có sự sai biệt. Thường nên như vậy mà khắc ghi và giữ gìn nội tâm, biết rằng chỉ có vọng niệm, không có cảnh giới chân thật. Sự quán sát này cần phải đều đặn, chớ cho bỏ dở. Đây gọi là sự tu học duy tâm, duy thức quán.
Nếu tâm bị vô ký, chẳng biết tự tâm đang nghĩ gì, đó chính là có cảnh giới ở trước, chẳng gọi là duy tâm thức quán.
Vả lại, gìn giữ và khắc ghi nội tâm, ắt biết được, tưởng tham, tưởng sân, tưởng si, tưởng tà kiến. Biết thiện, biết bất thiện, biết vô ký, biết tâm lao lư nghĩ đến các sự khổ v.v… Nếu khi tịnh tọa, tùy đối tượng bị duyên của tâm mà mỗi niệm xét biết sự sinh diệt của duy tâm, ví như dòng nước trôi chảy, hay ánh lửa tiếp nối của ngọn đèn, không lúc nào tạm thời dừng lại. Từ đó sẽ được chính định vắng lặng các sắc. Được tam muội này rồi, kế đến học tập đức tin về quán tâm của Pháp Xa Ma Tha (30) và đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na (31).
Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Xa Ma Tha nghĩa là: Tư duy về tướng chẳng thể thấy của nội tâm. Tướng này tròn đầy, bất động, không đến, không đi, bản tính chẳng sinh, chẳng diệt, vì lìa phân biệt vậy. Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na nghĩa là: Xét biết những tư tưởng, nhận biết các sắc bên trong bên ngoài, đều theo tâm mà sinh, theo tâm mà diệt, cả đến tư tưởng nhận thức về sắc thân Phật cũng vậy, đều tùy tâm sinh, tùy tâm mà diệt, như huyễn như hóa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, chúng chẳng phải tâm, cũng chẳng lìa tâm, không phải đến, không phải chẳng đến, không phải đi, không phải chẳng đi, không phải sinh, không phải bất sinh, không phải tác động, không phải chẳng tác động.
Đại Bồ Tát Địa Tạng, bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Này thiện nam tử! Nếu luôn luôn dùng đức tin, tu tập hai Pháp quán tâm như vậy, mau được ngộ ra đạo lý nhất thừa. Nên biết, quán Pháp duy tâm duy thức như vậy, gọi là ngưỡng cửa trí tuệ cao tột hơn hết. Ngưỡng cửa này có thể khiến cho tâm của hành giả mạnh mẽ bén nhạy và thêm lớn sức tin hiểu, nhanh chóng vào nghĩa không của Đại thừa, và phát được tâm Vô thượng Đại Bồ Đề.
Trên đây là nói về Pháp quán Duy tâm Duy thức.
Nếu muốn học tập Pháp quán Thật tướng Chân như thì: Hành giả tư duy về tính của tâm vốn không sinh, không diệt, không trụ vào cái thấy nghe hiểu biết, lìa hẳn tất cả những tưởng phân biệt, lần lần có thể vượt qua tướng cảnh giới của các định không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Được tương tự với không tam muội, thì tướng phân biệt thô của Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng hiện ra trước từ đó mà tiến tu thêm, sẽ làm bậc thiện tri thức, với lòng từ bi quảng đại. Vì khéo bảo nhiệm và trưởng dưỡng, cho nên lìa các chướng ngại, siêng tu chẳng bỏ phế lần lượt có thể vào tam muội vắng lặng của tâm. Được Tam muội đó rồi, lại liền có thể nhập Nhất hạnh Tam muội, nhập Nhất hạnh Tam muội rồi, thấy vô số đức Phật và phát những tâm hạnh sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn, trụ vào bậc Kiên Tín (32).
Trên đây là đường lối của hai Pháp quán Xa Ma Tha và Tỳ Bát Xá Na, chắc chắn được sự tin hiểu, có thể quyết định thú hướng Bồ Đề, tùy chỗ tu học các Tam muội Thiền định và sự nghiệp thế gian, nhưng không bị đắm trước, cho đến có thể tu khắp tất cả thiện căn của Pháp phần Bồ Đề, đối với sự sống chết không bị khiếp sợ, không thích Nhị thừa. Bởi nương vào phương tiện hay khéo, vô cùng vi diệu và khả năng tu tập bằng hai đường lối quán tâm này, có thể làm chỗ sở y cho các thứ trí tuệ và các hạnh căn bản vậy.
Lại nữa, tu học sự tin hiểu như trên gồm có hai hạng người. Thế nào là hai? Một là hạng căn tính lanh lợi. Hai là hạng căn tính chậm lụt.
Hạng căn tính lanh lợi: Người này trước đó đã biết: Tất cả các cảnh giới bên ngoài, duy tâm tạo ra, hư dối chẳng thật, như mộng, như huyễn, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa, năm món cái nhẹ mỏng, tâm tán loạn cũng ít. Hạng người nói trên, nên học tập ngay Pháp quán Thật tướng Chân như.
Hạng người căn tính chậm lụt: Hạng này trước đó chưa thể biết tất cả các cảnh giới bên ngoài, đều chỉ là tâm, vì hư dối không thật. Tình thức nhiễm mắc của họ dày đặc, năm món cái nhiều phen nổi lên, tâm khó điều phục, thì trước hết phải nên học Pháp quán duy tâm thức. Nếu người nào, tuy học sự tin hiểu như vậy, nhưng chủng tử thiện căn còn mỏng, chưa thể tiến lên, các phiền não xấu ác chẳng bị bẻ dẹp lần lần, và tâm những người ấy nghi ngờ khiếp nhược, sợ đọa vào ba đường ác, hoặc sinh vào chỗ tám nạn (33), sợ chẳng thường được gặp đức Phật, chư vị Bồ Tát, các bậc Thánh nhân, chẳng được cúng dường nghe nhận chính Pháp, sợ hạnh Bồ Đề khó thể thành tựu… Có các thứ nghi sợ và những chướng ngại như thế v.v…thì nên trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, thường xuyên tụng niệm danh hiệu của Ta, Địa Tạng Bồ Tát. Nếu được nhất tâm thì căn lành sẽ thêm lớn và ý chí người ấy dõng mãnh lanh lợi. Lại thêm quán Pháp thân của Ta, và Pháp thân của tất cả các đức Phật, với tự thân của mình thể tính đều bình đẳng, không hai không khác, chẳng sinh chẳng diệt, có đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, công đức tràn đầy. Đó là điều đáng nên nương tựa. ....(Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
Xem thêm: Tổng hợp về người thượng - Trung - Hạ căn
+ Cảnh giới của Nhất Thật Tướng là gì?
– Nghĩa là bản thể nơi tâm của tất cả chúng sinh, từ trước đến giờ chẳng sinh chẳng diệt, tự tính nó thanh tịnh, không chướng không ngại, dường như hư không vì lìa phân biệt, bình đẳng khắp giáp, nơi nào cũng có, tràn đầy khắp mười phương, rốt ráo một tướng, không hai không khác, chẳng biến, chẳng đổi, không thêm, không bớt. Do vì bản thể nơi tâm của tất cả chúng sinh, nơi tâm của tất cả Thanh Văn, Độc Giác, nơi tâm của tất cả Bồ Tát và nơi tâm của tất cả chư Phật, đều cùng chẳng sinh chẳng diệt, không nhiễm, không tịnh, đồng là một tướng chân như. Tại sao vậy? Vì tất cả những tâm có khởi phân biệt, đều như huyễn hóa, không hề chân thật. Nghĩa là: Những Pháp số của tâm như: ức niệm, lo lắng, xét biết v.v…thuộc bốn uẩn là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đều chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải tạp sắc, chẳng có dài ngắn, vuông tròn, lớn, nhỏ…cho đến cùng tận mười phương hư không, tất cả thế giới, tìm về hình trạng tâm này, không một chút phần, có thể nắm bắt. Chỉ vì chúng sinh bị vô minh si tối làm nhân làm duyên huân tập, hiện ra cảnh giới hư vọng, khiến sinh nhớ nghĩ vướng mắc.
Tâm này nó chẳng thể tự biết, vọng tự bảo có, khởi tưởng xét nét, so đo về ngã, sở hữu của ngã, nhưng thật ra không có cái tướng của giác tri. Bởi vọng tâm này rốt ráo không có thật thể, vì chẳng thể tìm thấy cái thật thể của vọng tâm. Nếu không có cái năng phân biệt của giác tri, thì không có cái tướng của tất cả cảnh giới sai biệt thuộc mười phương ba đời, bởi tất cả Pháp đều chẳng thể tự có, chỉ nương sự phân biệt của vọng tâm mà có. Nghĩa là tất cả cảnh giới, mỗi mỗi chẳng tự nghĩ mình là có, chẳng biết đây là tự, kia là tha. Thế nên tất cả Pháp chẳng thể tự có, ắt không đổi khác. Chỉ nương vọng tâm, chẳng biết chẳng rõ, vì bên trong tự không. Tức là: Có cái bị biết bên ngoài, rồi vọng sinh các thứ tưởng Pháp, cho là có, cho là không, bảo kia, bảo đây, bảo phải, bảo trái, bảo tốt, bảo xấu…cho đến vọng sinh vô lượng vô biên tư tưởng về Pháp. Nên biết tất cả các Pháp như thế, đều từ vọng tưởng sinh ra, nương vọng tâm làm gốc. Nhưng vì vọng tâm không tự tướng, cũng chỉ nương cảnh giới mà có. Nghĩa là nó duyên niệm xét biết theo cảnh giới đằng trước, cho nên gọi là tâm. Vả lại, vọng tâm này với cảnh giới mé trước, mặc dù đều nương vào nhau, nhưng sự phát khởi của nó không trước sau gì cả và vọng tâm này luôn luôn là nguồn gốc, là chủ tể của tất cả cảnh giới. Tại sao vậy? Bởi vì, nương vào vọng tâm mà vọng tâm này chẳng rõ một tướng Pháp giới, vì thế nói rằng tâm có vô minh. Nương vào sức mạnh vô minh làm nhân, cho nên hiện ra cảnh giới hư vọng. Lại cũng do vô minh diệt, cho nên tất cả cảnh giới cũng diệt theo. Chẳng phải do tất cả cảnh giới tự chẳng sáng tỏ mà nói cảnh giới có vô minh, cũng chẳng phải nương nơi cảnh giới mà sinh vô minh. Tất cả các đức Phật đối với tất cả cảnh giới chẳng sinh vô minh.
Lại nữa, chẳng do cảnh giới diệt mà tâm vô minh diệt. Bởi tất cả cảnh giới, từ trước đến giờ thể tính tự vắng lặng, vì chưa từng có bất cứ thứ gì. Do nghĩa như thế, cho nên chỉ nói, tất cả các Pháp nương nơi tâm làm gốc. Nên biết, tất cả các Pháp, Pháp nào cũng gọi là tâm, vì nghĩa của thể không thay đổi, và được nhiếp vào tâm vậy.
Lại nữa, tất cả các Pháp, được khởi từ tâm, với tâm mà tạo ra tướng, hòa hợp mà có, cùng sinh cùng diệt, đồng không dừng trụ. Bởi tất cả cảnh giới chỉ bị duyên của tâm, niệm niệm tiếp nối mà được duy trì, tạm thời được có.
Về nghĩa của tâm được nói trên đây, có hai thứ tướng. Thế nào là hai?
Một là tướng bên trong tâm. Hai là tướng bên ngoài tâm.
– Tướng bên trong tâm lại có hai thứ.
Một là chân, hai là vọng.
Chân là gì? Đó là cái tướng sẵn có nơi thể của tâm, tướng này như như chẳng đổi, thanh tịnh tròn đầy không chướng, không ngại, kín nhiệm khó thấy. Bởi nó khắp giáp tất cả chỗ, thường hằng không hoại, nên có thể kiến lập, sinh trưởng tất cả Pháp.
Vọng là gì? Tức là luôn luôn khởi niệm, phân biệt, xét nét, duyên lự, nhớ tưởng các việc. Mặc dù liên tục hay sinh tất cả cảnh giới, nhưng thể bên trong của nó là hư ngụy, không hề chân thật, và cũng không thể tìm thấy nó.
– Tướng bên ngoài tâm, tức là tất cả các Pháp và các thứ cảnh giới v.v…Tùy có cái bị niệm mà cảnh giới hiện ra trước, vì vậy mà biết, có sự sai biệt giữa tâm bên trong và tâm bên ngoài. Thế thì nên biết, tướng vọng bên trong, là nhân, là thể, tướng vọng bên ngoài, là quả là dụng.
Do những nghĩa như vậy, thế nên ta nói: Tất cả các Pháp, đều gọi là tâm.
Lại nữa, nên biết cái tướng bên ngoài của tâm. Tướng này cũng như các thứ cảnh giới bị thấy trong mộng, duy tâm hiện ra, không có việc thật bên ngoài. Tất cả cảnh giới đều cũng như vậy, bởi đều nương vào giấc mộng vô minh của nghiệp thức mà được thấy, vọng tưởng mà thành.
Lại nữa, nên biết mỗi niệm, mỗi niệm trong nội tâm đều chẳng có dừng trụ, cho nên tất cả cảnh giới bị thấy, bị duyên, cũng tùy theo tâm mà niệm niệm chẳng dừng. Nghĩa là: Tâm sinh, nên các Pháp sinh, tâm diệt, nên các Pháp diệt. Tướng sinh diệt này chỉ có tên gọi, thật bất khả đắc. Bởi vì tâm chẳng qua đến cảnh giới, cảnh giới chẳng về đến tâm, như tướng trong gương, không đến không đi, thế nên tất cả Pháp, tìm tướng sinh diệt nhất định trọn chẳng thể được. Nghĩa là tất cả Pháp rốt ráo không có thật thể, từ trước đến giờ luôn luôn rỗng rang, vì thật sự chẳng sinh chẳng diệt vậy.
Tất cả các Pháp thật không có sinh diệt như thế, thì không có tướng cảnh giới sai khác, mà là vắng lặng nhất vị. Như thế gọi là Chân Như, gọi là Đệ nhất Nghĩa đế, gọi là Tự tính Thanh tịnh Tâm. Tự tính Thanh tịnh Tâm ấy long trọng, tròn đầy, vì không có cái tướng phân biệt. Tướng không phân biệt tức là, đối với tất cả chỗ, không đâu mà chẳng hiện hữu. Vì nó hiện hữu ở khắp giáp, do đó có thể nương vào sự hiện hữu này mà duy trì và dụng lập tất cả Pháp.
Lại nữa, tâm đó gọi là Như Lai Tạng, Như Lai Tạng nghĩa là: Tâm này gồm chứa đầy đủ vô lượng vô biên bất khả tư nghì chủng tử vô lậu và công đức thanh tịnh, vì Pháp thân của chư Phật, từ ngằn mé vô thỉ đến nay, không chướng, không ngại, tự tại chẳng diệt. Tất cả mọi sự hóa hiện và những công đức nghiệp hằng thường lẫy lừng, chưa bao giờ dứt. Nghĩa là chư Phật đều thị hiện Phật ở trong tất cả thế giới, ứng hóa đủ cách làm lợi ích chúng sinh. Do đó thân một đức Phật, chính là thân của tất cả chư Phật, thân của tất cả chư Phật cũng chính là thân một đức Phật, và bao nhiêu việc làm cũng đồng là một, tức là không tướng phân biệt, không niệm kia đây, bình đẳng không hai. Bởi nương vào một Pháp tính mà có sự tác nghiệp, đồng ứng hóa một cách tự nhiên, vì thể không đổi khác vậy.
Như trên đã nói, Pháp thân của các đức Phật khắp tất cả chỗ và tròn đầy bất động, tùy các chúng sinh, chết đây sinh kia mà luôn luôn làm chỗ nương tựa cho các chúng sinh. Ví như hư không đều có thể dung nạp tất cả sắc tướng và các thứ hình trạng. Tất cả sắc tướng và các thứ hình trạng đều nương nơi không mà có sự dựng lập và sinh trưởng ở trong hư không, bị nhiếp vào nơi hư không, lấy hư không làm thể, không có vật gì có thể ra ngoài ranh giới của hư không. Nên biết, trong mọi sắc tướng biên giới hư không chẳng bị hủy diệt, khi sắc tướng hoại bèn trở về với hư không và biên giới hư không sẵn có không thêm, không bớt, chẳng động, chẳng biến đổi.
Pháp thân của các đức Phật cũng lại như vậy, đều có thể dung nạp các thứ quả báo của tất cả chúng sinh, đều nương vào Pháp thân của các đức Phật, mà có sự dựng lập và sinh trưởng, ở trong Pháp thân, bị nhiếp nơi Pháp thân, lấy Pháp thân làm thể, không một vật gì có thể ra ngoài ranh giới của Pháp thân. Nên biết trong thân của tất cả chúng sinh, Pháp thân của chư Phật cũng chẳng thể hủy diệt, nếu khi phiền não bị đoạn trừ, sẽ trở về với Pháp thân, về biên giới Pháp thân sẵn có không thêm không bớt, chẳng động, chẳng biến đổi.
Chỉ vì từ đời vô thỉ trở lại đây, tâm tương ưng với vô minh, do năng lực nhân duyên huân tập si ám, cho nên hiện ra cảnh giới hư vọng, rồi do nương vào cảnh giới hư vọng, làm nhân làm duyên huân tập mà khởi vọng tưởng, tương ưng với tâm, chấp ngã, sở hữu của ngã, tạo chứa các nghiệp, để rồi chịu khổ sống chết không ngừng, thay vì gọi Pháp thân, lại gọi là chúng sinh.
Nếu trong số các chúng sinh, người nào có được năng lực huân tập của Pháp thân, thì phiền não của chúng sinh ấy lần lần cạn mỏng, có thể nhàm chán sự khổ thế gian và cầu đạo quả Niết Bàn, tin tưởng quay về với Nhất Thật Tướng, tu sáu Pháp ba la mật và tất cả Pháp phần Bồ Đề, đó mệnh danh là Bồ Tát. Trong số những Bồ Tát như thế, vị nào tu hành tất cả thiện Pháp một cách đầy đủ hoàn toàn, rốt ráo được lìa giấc ngủ vô minh, sẽ được mệnh danh là Phật. Lại nên biết rằng, danh từ chúng sinh, Bồ Tát, Phật v.v… chỉ nương lời lẽ giả gọi của thế gian để nói mà thôi, về thể của Pháp thân, thì không có gì sai khác, rốt ráo bình đẳng, không có tướng biến đổi.
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Này thiện nam tử! Trên đây là lược nói ý nghĩa cảnh giới của Nhất Thật Tướng, nếu muốn nương vào cảnh giới Nhất Thật Tướng, để tu lòng tin và sự hiểu biết (28), thì hãy nên học tập hai đường lối quán chiếu. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Hành giả thường nên quán xét thân và tướng của tâm:
....... Lại thêm quán Pháp thân của Ta (Địa Tạng Vương Bồ Tát), và Pháp thân của tất cả các đức Phật, với tự thân của mình thể tính đều bình đẳng, không hai không khác, chẳng sinh chẳng diệt, có đủ bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, công đức tràn đầy. Đó là điều đáng nên nương tựa.
– Lại nữa, hành giả thường nên quán sát thân mình và cái tướng của tâm đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, như huyễn, như hóa, đáng chán, đáng lìa.
Nếu luôn luôn tu học Pháp quán như vậy, hành giả mau được tăng trưởng đức tin thanh tịnh, bao nhiêu chướng ngại lần lần giảm bớt. Tại sao vậy ?
– Vì những người này được gọi là học tập theo sự nghe danh hiệu của ta, cũng có thể nói, học tập sự nghe danh hiệu của các đức Phật trong mười phương. Được gọi là sự học tập chí tâm lễ lạy và cúng dường ta, và hay học sự chí tâm lễ lạy cúng dường đức Phật trong mười phương. Được gọi là học sự nghe những Kinh điển thâm sâu đại thừa. Được gọi là sự giữ gìn biên chép, cúng dường cung kính Kinh điển Đại thừa sâu thẳm. Được gọi là học sự xa lìa những chấp trước tà vạy, đối với nghĩa lý sâu xa của chính Pháp, chẳng bị rơi vào sự phỉ báng chê bai. Được gọi là đối với đệ nhất nghĩa, rốt ráo sâu xa của thật tướng, học sự tin hiểu. Được gọi là hay trừ các thứ tội chướng. Được gọi là sẽ được sự chứa nhóm vô lượng công đức.
Những người nói trên, khi bỏ thân này, trọn chẳng đọa vào ác đạo và tám chỗ nạn. Khi sinh trở lại được nghe chính Pháp và tin tưởng học tập tu hành. Cũng có thể tùy nguyện sinh về Tịnh Độ của các đức Phật ở các phương khác.
– Lại nữa, nếu như người nào muốn sinh Tịnh Độ hiện tại ở phương khác, thì phải theo danh hiệu vị Phật ở thế giới đó (34) mà chuyên ý niệm tụng, một lòng chẳng loạn và quán sát Pháp thân như đã nói trên, người ấy quyết định được sinh Tịnh Độ của đức Phật ấy. Chừng đó căn lành sẽ thêm lớn và mau được bất thoái. Nên biết, sự nhất tâm buộc niệm tư duy Pháp thân bình đẳng của các đức Phật được nói trên đây, đối trọng tất cả căn lành, nó là tịnh nghiệp trỗi vượt trên hết. Do đó, người nào siêng năng tu tập, lần lần có thể hướng đến Nhất hạnh Tam muội. Một khi được vào Nhất hạnh Tam muội, là thành tựu tâm hạnh rộng lớn nhiệm mầu, mệnh danh là được tương tự với Vô sinh Pháp nhẫn.
Nếu tu hành với tâm tạp loạn cấu uế, thì dầu có xưng tụng danh hiệu của Ta, đó chẳng được gọi là nghe danh hiệu, vì chẳng hay sinh sự tin hiểu quyết định, chỉ gặt hái quả báo lành nhỏ mọn của thế gian mà thôi, chẳng được lợi ích rộng lớn sâu diệu. Hành giả nào tu với tâm tạp loạn cấu uế như vậy, tùy tu bất cứ thiện Pháp nào, đều chẳng thể được lợi ích sâu rộng.
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
– Thiện nam tử: nên biết, sự siêng lòng tu học môn Thiền vô tướng trên đây (Niệm Bồ Tát Địa Tạng đến Ba la mật, cũng tức là niệm tất cả chư Phật), không lâu sẽ được lợi ích rộng lớn sâu xa, lần hồi thành Phật.
Sự lợi ích rộng lớn sâu xa là: được vào Pháp vị Kiên Tín, vì thành tựu Tín nhẫn (35). Vào địa vị Kiên tu (36), vì thành tựu Thuận nhẫn (37), vào Chính nhân vị (38) vì thành tựu Vô sinh nhẫn (39). (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Luận về Nghiệp - Nhân quả Nghiệp báo trong Kinh Phân Biệt Ðại Nghiệp:
Này A Nan, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh, chắc chắn không có thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh". Như vậy Ta không chấp nhận cho vị ấy". Này A Nan vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác hạnh; chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy.
Này A Nan, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, tất cả đều sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục". Như vậy Ta không chấp nhận cho vị ấy.
Này A Nan, nếu vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, tất cả đều sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta không chấp nhận cho vị ấy".
Này A Nan, nếu vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào thiện thú thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta cũng chấp nhận cho vị ấy. Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung tất cả đều sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
Này A Nan, nếu vị ấy nói: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung tất cả đều sinh vào cõi dữ ác thú, địa ngục". Như vậy Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
Này Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, có khả năng đưa đến lạc thọ, nó sẽ cảm giác lạc thọ; nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, nó cảm giác khổ thọ, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, nó cảm giác bất khổ bất lạc thọ.
Này A Nan, người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi mạng chung, nó sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do nó làm từ trước, hay do nó làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được nó chấp nhận và chấp chặt. Do vậy nó sinh vào cõi dữ, nó phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại trong một đời khác. Này A Nan, người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do nó làm từ trước, hay do nó làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được nó chấp nhận và chấp chặt. Do vậy nó sinh vào thiện, có phải thọ quả báo được khởi lên ngay trong hiện tại hay trong một cuộc đời khác.
(Ðoạn này ý nói một người: phải thọ quả báo dữ ngay trong hiện tại hay trong một đời khác bởi các nghiệp ác của họ tạo ra từ trước, hay tạo ra về sau, hay tạo ra vì là ác niệm khởi lên trong giờ phút lâm chung. Trái lại, có những người cả đời tạo nghiệp ác nhưng do thiện nghiệp của họ tạo ra từ trước, hoặc tạo về sau, hoặc trong giờ phút lâm chung mà khởi lên chánh kiến hướng về điều thiện, thì họ tạo được thọ quả bảo vui ngay trong hiện tại hay trong một đời khác chớ không phải thọ khổ. Ðây là trường hợp làm ác mà thọ vui vậy. Kinh còn dạy về người làm lành được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này, nhưng cũng có người làm lành mà phải đọa ác thú, địa ngục, ý nghĩa cũng tương tự như vừa giải thích trên đây. Ðó là do trong giờ phút lâm chung họ khởi lên tà kiến hướng về việc ác, và cái ác niệm này rất mạnh nên phải bị đọa lạc. Bởi nghiệp do tâm tạo, trong giờ lâm chung tâm khởi lên chánh kiến thiện niệm hoặc tà kiến ác niệm mạnh hơn các nghiệp đã tạo ra lúc sống, thì các nghiệp này sẽ chuyển theo tâm niệm khi lâm chung mà thọ báo).
* Kinh Tăng Chi tập I:
Ai nói như sau: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào nó cảm thọ quả như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không có đời sống phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chân chính đoạn trừ. Và này, ai nói như sau: "Người này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào nó cảm thọ quả báo như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chân chính đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, có những người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ấy đưa nó vào địa ngục. Có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, và nghiệp ác ấy đưa đến cảm thọ ngay trong hiện tại cho đến chút ít cũng không được thấy trong tương lai.
Hạng người như thế nào, làm nghiệp ác nhỏ mọn đưa nó vào địa ngục? - Ðó là hạng người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít ỏi. Người như vậy, làm nghiệp ác nhỏ mọn đưa nó vào địa ngục.
Hạng người như thế nào làm nghiệp ác tương tự, đưa đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được trong tương lai? - Ðó là hạng người thân được tu tập, giới, tâm, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng. Người như vậy làm việc ác tương tự đưa đến cảm thọ ngay trong hiện tại.
Ví như có người bỏ một nhúm muối vào trong một chén nước nhỏ, nước trong chén nước nhỏ ấy vì nhúm muối này trở thành mặn và không uống được không? - Thưa có, bạch Thế Tôn. Vì nước trong chén nước nhỏ này ít, do nhúm muối này, nước trở thành mặn, không uống được.
Này các Tỷ-kheo, ví như có người bỏ một nhúm muối vào sông Hằng, sông Hằng ấy có vì nhúm muối này trở thành mặn và không uống được không? - Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì khối nước sông Hằng rất lớn, khối nước ấy không vì nhúm muối này trở thành mặn và không uống được.
Như nhúm muối, sông Hằng không làm cho nước sông Hằng bị mặn không thể uống được.
(...)
Này các Tỷ-kheo, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì con người lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ". Ðối với vị ấy, ta đến và nói: "Chư Tôn giả, có thiệt chăng, chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì... (như trên)... đều do nhân nghiệp quá khứ?" - Ðược Ta hỏi như vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có như vậy". - Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời các Tôn giả do nhân nghiệp quá khứ sẽ trở thành người sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói láo v.v..." nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào nghiệp quá khứ và lý do viên thực, với những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có "đây là việc phải làm" hay "đây là việc không nên làm". Như vậy sự cần thiết cần phải làm hay không cần phải làm, không được tìm thấy là chân thật, là đáng tin cậy, thời danh tư ø Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho các ngươi được, vì các ngươi sống thất niệm và các căn không đư?c hộ trì. Như vậy, đây là sự chỉ trích đúng pháp của Ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như vậy, có chấp kiến như vậy.
(Ðoạn này đức Phật chỉ trích những người cho nghiệp quá khứ giống như một định mệnh. Nhất thiết những cảm thọ gì, hành vi gì trong hiện tại cũng đều cho rằng do nghiệp quá khứ quy định cả, thế thì hiện tại chỉ quay theo quá khứ. Sát sanh, trộm cắp, nói láo v.v... đều do nghiệp quá khứ sai khiến, chứ hiện tại không có trách nhiệm gì. Vậy thì không còn sự lựa chọn: đây là việc nên làm, đây là việc không nên làm, đây là tu, đây không phải tu; thời danh từ Sa-môn, người tu, trở thành vô nghĩa; bởi không thể kể đây là một công phu của một ý chí tự do lựa chọn, mà chỉ là một sự thụ động tuân theo nghiệp quá khứ sai sử, hiện tại chẳng có công lao gì).
* Nghiệp được giải thích theo Luận Cu Xá:
a. Thể tánh của nghiệp - Thuyết minh về thể tánh của nghiệp là đề cập đến hai nghiệp, ba nghiệp, năm nghiệp. Hai nghiệp là Tư nghiệp và Tư dĩ nghiệp. Chính sự hoạt động phân biệt suy từ trong nội tâm, đó là Tư nghiệp. Từ đó phát sinh ra hành động và nói năng nơi thân và miệng, đó là Tư dĩ nghiệp. Lại từ hai nghiệp này chia ra làm ba nghiệp là Thân nghiệp, Ngữ nghiệp và Ý nghiệp. Thân nghiệp, Ngữ nghiệp tức là Tư dĩ nghiệp. (Do tư duy, cố ý rồi mới phát sinh ra hành động) còn ý nghiệp tức là tư nghiệp. Lại từ ba nghiệp này chia ra năm nghiệp, tức từ Thân nghiệp chia ra Thân biểu nghiệp, và Thân vô biểu nghiệp, từ Ngữ nghiệp cũng chia ra Ngữ biểu nghiệp và Ngữ vô biểu nghiệp. Như đồ biểu dưới đây .........
b. Tánh chất của Nghiệp:
Nghiệp có thiện tánh, ác tánh, vô ký tánh. Tuy nhiên chỉ có ác và thiện tánh mới là nghiệp, chứ vô ký tánh không đủ sức mạnh tạo thành quả nên không gọi là nghiệp.
Nhưng sao gọi rằng thiện, ác, vô ký?
* Luận Bà Sa cuốn 11 nói: "Nếu pháp gì hay chiêu cảm quả khả ái, khả lạc thì gọi là thiện, nếu chiêu cảm quả báo không khả ái, không khả lạc thì gọi là ác; trái với cả hai sự đó thì gọi là vô ký".
* Luận Cu Xá 15 nói: "Nghiệp an ổn hay chiêu cảm quả báo khả ái, và Niết-bàn, tạm thời và vĩnh viễn xa lìa thống khổ gọi là thiện. Nghiệp không an ổn hay chiêu cảm quả báo bất khả ái gọi là ác. Còn nghiệp trái hai tánh trên gọi là vô ký. Ðây là căn cứ vào sự cảm quả để phân biệt ba tánh thiện, ác, vô ký.
* Luận Cu Xá 13 lại còn căn cứ vào nguyên do để chia ba tánh thiện, ác, vô ký, mỗi tánh đều có bốn thứ là: Thắng nghĩa, Tự tánh, Tương ưng, Ðẳng khởi.
1. Thắng nghĩa thiện: Chỉ có Niết-bàn, vì Niết-bàn an ổn vĩnh viễn bặt dứt dấu vết thống khổ. Thắng nghĩa có nghĩa là tuyệt đối.
2. Tự tánh thiện: Chỉ cho năm tâm sở: Tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si. Năm tâm sở này tự thể nó là thiện chứ không phải nhờ vào cái khác mới thiện. Mọi sự thiện đều lấy nó làm gốc.
3. Tương ưng thiện: Chỉ những tâm sở như: Tín, cần, khinh an v.v... nhờ tương ưng, tương hợp với năm tâm sở tự tánh thiện trên kia mà thành chứ tự thể nó không phải là thiện.
4. Ðẳng khởi thiện: Chỉ cho thân ngữ thiện nghiệp là do sự phối hợp bằng nhau giữa tự tánh thiện và tương ưng thiện mà có.
Bốn thứ ác là:
1. Thắng nghĩa ác: Chỉ cho sanh tử luân hồi. Vì sanh tử tự bản chất nó là rất khổ, xấu xa.
2. Tự tánh ác: Chỉ cho năm tâm sở vô tàm, vô quý, tham, sân, si. Vì tự tánh nó là ác chứ không phải chờ tương ưng, đẳng khởi mới ác.
3. Tương ưng ác: Chỉ cho các tâm sở mà tự tánh không phải ác, nhưng vì tương ưng với năm tâm sở tự tánh ác mà hóa ra ác.
4. Ðẳng khởi ác: Chỉ cho thân ngữ ác nghiệp do sự phối hợp bình đẳng của tự tánh ác và tương ưng ác mà khởi lên.
Vô ký tánh thì chỉ có thắng nghĩa vô ký, đó là chỉ cho hư không vô vi, phi trạch diệt vô vi. Hai vô vi này thể nó thường trú nên gọi là thắng nghĩa. Nhưng nó không phải là kết quả chứng đắc của sự tu đạo, nên không phải là thiện mà chỉ là vô ký. Ngoài ra trong 46 tâm còn lại, không có thứ nào thuần là vô ký, nên không lập tự tánh vô ký, và đã không có tự tánh vô ký thì cũng không có tương ưng và đẳng khởi vô ký.
* Các loại nghiệp:
1. Hữu lậu nghiệp là nghiệp ác hoặc thiện, tạo ra bởi động cơ của tâm chấp ngã, tham ái, nó chỉ đưa quả báo loanh quanh trong vòng ba cõi sáu đường. Trái lại nghiệp thiện tạo ra bởi động cơ của tâm vô ngã, của trí tuệ Bát-nhã thì gọi là vô lậu nghiệp, bởi nghiệp này không làm chúng sanh rơi vào trong ba cõi sáu đường nhưng lại làm cho giải thoát khỏi ba cõi sáu đường, chứng được Niết-bàn an lạc.
2. Phước nghiệp là nghiệp lành thọ quả báo ở cõi Dục: phi phước nghiệp là nghiệp ác thọ quả báo khổ ở cõi Dục; bất động nghiệp là nghiệp tu Thiền thọ quả báo ở cõi Sắc và Vô sắc.
3. Tam thọ nghiệp là nghiệp thuận theo lạc thọ ở cõi Dục và Sơ, Nhị, Tam Thiền; là nghiệp thuận theo khổ thọ ở cõi Dục, là nghiệp thuận theo bất khổ lạc ở Tam Thiền trở lên đến cõi trời Hữu đảnh.
4. Tam thời nghiệp tức là nghiệp thọ quả báo trong ba thời kỳ: Có nghiệp thọ quả ngay trong hiện tại, có nghiệp thọ quả trong đời kế tiếp, có nghiệp thọ quả từ đời thứ ba trở đi. Về điểm này có hai chủ trương như sau:
a. Nhà bốn nghiệp, chủ trương có Thuận hiện nghiệp, Thuận sanh nghiệp, Thuận hậu nghiệp và Thuận bất định nghiệp.
b. Nhà tám nghiệp, chủ trương trong bốn cách thọ quả nêu trên, lại chia ra có quả báo (dị thục) nhất định mà thời kỳ thọ quả không nhất định, có thời ký thọ quả nhất định mà quả báo không nhất định, có cả quả báo và thời kỳ thọ quả đều nhất định v.v... nhân lên thành tám nghiệp.
Trong Luận Tỳ Bà Sa cuốn 114 ghi có ba thuyết:
a. Hai nghiệp Thuận sanh thọ, Thuận hậu thọ có đủ cả tánh chất Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp. Còn hai nghiệp Thuận hiện thọ và Thuận bất định thọ thì chỉ giới hạn ở Mãn nghiệp.
b. Ba nghiệp Thuận sanh thọ, Thuận hậu thọ, và Thuận bất định thọ đều có đủ cả Dẫn nghiệp, Mãn nghiệp, còn Thuận hiện nghiệp thì chỉ giới hạn ở Mãn nghiệp.
c. Cả bốn nghiệp đều có đủ Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp.
5. Mười nghiệp tạo ác là thân sát sanh, trộm cắp, dâm dục; miệng nói dối, nói hai lưỡi (ly gián); nói thô ác, nói thêu dệt; ý tham lam, sân hận, tà kiến.
Mười nghiệp tạo thiện là thân xa lìa ác, xa lìa trộm, xa lìa dâm, xa nói dối, xa lìa nói hai lưỡi, xa lìa nói thô ác, xa lìa thêu dệt; ý không tham, không sân, chánh kiến........... (Nguồn: Định nghiệp trong phật giáo)
+ Xem thêm: Nghiệp tích trữ ở đâu? (Nguồn: Nghiệp là gì và tích trữ ở đâu)
+ Nghiệp là gì - Kinh Pháp Cú:
"Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu tạo nghiệp nói hay làm với tâm ô nhiễm sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe".
"Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu tạo nghiệp nói hay làm với tâm trong sạch, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình".
"Lành dữ bởi ta, ô nhiễm cũng bởi ta; làm lành bởi ta, thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể thanh tịnh cho ai được".
* Kinh Tăng Chi tập I:
Ai nói như sau: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào nó cảm thọ quả như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không có đời sống phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chân chính đoạn trừ. Và này, ai nói như sau: "Người này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào nó cảm thọ quả báo như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chân chính đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, có những người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ấy đưa nó vào địa ngục. Có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, và nghiệp ác ấy đưa đến cảm thọ ngay trong hiện tại cho đến chút ít cũng không được thấy trong tương lai.
Hạng người như thế nào, làm nghiệp ác nhỏ mọn đưa nó vào địa ngục? - Ðó là hạng người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít ỏi. Người như vậy, làm nghiệp ác nhỏ mọn đưa nó vào địa ngục.
Hạng người như thế nào làm nghiệp ác tương tự, đưa đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được trong tương lai? - Ðó là hạng người thân được tu tập, giới, tâm, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng. Người như vậy làm việc ác tương tự đưa đến cảm thọ ngay trong hiện tại.
Ví như có người bỏ một nhúm muối vào trong một chén nước nhỏ, nước trong chén nước nhỏ ấy vì nhúm muối này trở thành mặn và không uống được không? - Thưa có, bạch Thế Tôn. Vì nước trong chén nước nhỏ này ít, do nhúm muối này, nước trở thành mặn, không uống được.
Này các Tỷ-kheo, ví như có người bỏ một nhúm muối vào sông Hằng, sông Hằng ấy có vì nhúm muối này trở thành mặn và không uống được không? - Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì khối nước sông Hằng rất lớn, khối nước ấy không vì nhúm muối này trở thành mặn và không uống được.
Như nhúm muối, sông Hằng không làm cho nước sông Hằng bị mặn không thể uống được.
(...)
Này các Tỷ-kheo, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì con người lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ". Ðối với vị ấy, ta đến và nói: "Chư Tôn giả, có thiệt chăng, chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì... (như trên)... đều do nhân nghiệp quá khứ?" - Ðược Ta hỏi như vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có như vậy". - Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời các Tôn giả do nhân nghiệp quá khứ sẽ trở thành người sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói láo v.v..." nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào nghiệp quá khứ và lý do viên thực, với những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có "đây là việc phải làm" hay "đây là việc không nên làm". Như vậy sự cần thiết cần phải làm hay không cần phải làm, không được tìm thấy là chân thật, là đáng tin cậy, thời danh tư ø Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho các ngươi được, vì các ngươi sống thất niệm và các căn không được hộ trì. Như vậy, đây là sự chỉ trích đúng pháp của Ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như vậy, có chấp kiến như vậy.
(Ðoạn này đức Phật chỉ trích những người cho nghiệp quá khứ giống như một định mệnh. Nhất thiết những cảm thọ gì, hành vi gì trong hiện tại cũng đều cho rằng do nghiệp quá khứ quy định cả, thế thì hiện tại chỉ quay theo quá khứ. Sát sanh, trộm cắp, nói láo v.v... đều do nghiệp quá khứ sai khiến, chứ hiện tại không có trách nhiệm gì. Vậy thì không còn sự lựa chọn: đây là việc nên làm, đây là việc không nên làm, đây là tu, đây không phải tu; thời danh từ Sa-môn, người tu, trở thành vô nghĩa; bởi không thể kể đây là một công phu của một ý chí tự do lựa chọn, mà chỉ là một sự thụ động tuân theo nghiệp quá khứ sai sử, hiện tại chẳng có công lao gì).
* Nghiệp được giải thích theo Luận Cu Xá:
a. Thể tánh của nghiệp - Thuyết minh về thể tánh của nghiệp là đề cập đến hai nghiệp, ba nghiệp, năm nghiệp. Hai nghiệp là Tư nghiệp và Tư dĩ nghiệp. Chính sự hoạt động phân biệt suy từ trong nội tâm, đó là Tư nghiệp. Từ đó phát sinh ra hành động và nói năng nơi thân và miệng, đó là Tư dĩ nghiệp. Lại từ hai nghiệp này chia ra làm ba nghiệp là Thân nghiệp, Ngữ nghiệp và Ý nghiệp. Thân nghiệp, Ngữ nghiệp tức là Tư dĩ nghiệp. (Do tư duy, cố ý rồi mới phát sinh ra hành động) còn ý nghiệp tức là tư nghiệp. Lại từ ba nghiệp này chia ra năm nghiệp, tức từ Thân nghiệp chia ra Thân biểu nghiệp, và Thân vô biểu nghiệp, từ Ngữ nghiệp cũng chia ra Ngữ biểu nghiệp và Ngữ vô biểu nghiệp. Như đồ biểu dưới đây .........
b. Tánh chất của Nghiệp:
Nghiệp có thiện tánh, ác tánh, vô ký tánh. Tuy nhiên chỉ có ác và thiện tánh mới là nghiệp, chứ vô ký tánh không đủ sức mạnh tạo thành quả nên không gọi là nghiệp.
Nhưng sao gọi rằng thiện, ác, vô ký?
* Luận Bà Sa cuốn 11 nói: "Nếu pháp gì hay chiêu cảm quả khả ái, khả lạc thì gọi là thiện, nếu chiêu cảm quả báo không khả ái, không khả lạc thì gọi là ác; trái với cả hai sự đó thì gọi là vô ký".
* Luận Cu Xá 15 nói: "Nghiệp an ổn hay chiêu cảm quả báo khả ái, và Niết-bàn, tạm thời và vĩnh viễn xa lìa thống khổ gọi là thiện. Nghiệp không an ổn hay chiêu cảm quả báo bất khả ái gọi là ác. Còn nghiệp trái hai tánh trên gọi là vô ký. Ðây là căn cứ vào sự cảm quả để phân biệt ba tánh thiện, ác, vô ký.
* Luận Cu Xá 13 lại còn căn cứ vào nguyên do để chia ba tánh thiện, ác, vô ký, mỗi tánh đều có bốn thứ là: Thắng nghĩa, Tự tánh, Tương ưng, Ðẳng khởi.
1. Thắng nghĩa thiện: Chỉ có Niết-bàn, vì Niết-bàn an ổn vĩnh viễn bặt dứt dấu vết thống khổ. Thắng nghĩa có nghĩa là tuyệt đối.
2. Tự tánh thiện: Chỉ cho năm tâm sở: Tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si. Năm tâm sở này tự thể nó là thiện chứ không phải nhờ vào cái khác mới thiện. Mọi sự thiện đều lấy nó làm gốc.
3. Tương ưng thiện: Chỉ những tâm sở như: Tín, cần, khinh an v.v... nhờ tương ưng, tương hợp với năm tâm sở tự tánh thiện trên kia mà thành chứ tự thể nó không phải là thiện.
4. Ðẳng khởi thiện: Chỉ cho thân ngữ thiện nghiệp là do sự phối hợp bằng nhau giữa tự tánh thiện và tương ưng thiện mà có.
Bốn thứ ác là:
1. Thắng nghĩa ác: Chỉ cho sanh tử luân hồi. Vì sanh tử tự bản chất nó là rất khổ, xấu xa.
2. Tự tánh ác: Chỉ cho năm tâm sở vô tàm, vô quý, tham, sân, si. Vì tự tánh nó là ác chứ không phải chờ tương ưng, đẳng khởi mới ác.
3. Tương ưng ác: Chỉ cho các tâm sở mà tự tánh không phải ác, nhưng vì tương ưng với năm tâm sở tự tánh ác mà hóa ra ác.
4. Ðẳng khởi ác: Chỉ cho thân ngữ ác nghiệp do sự phối hợp bình đẳng của tự tánh ác và tương ưng ác mà khởi lên.
Vô ký tánh thì chỉ có thắng nghĩa vô ký, đó là chỉ cho hư không vô vi, phi trạch diệt vô vi. Hai vô vi này thể nó thường trú nên gọi là thắng nghĩa. Nhưng nó không phải là kết quả chứng đắc của sự tu đạo, nên không phải là thiện mà chỉ là vô ký. Ngoài ra trong 46 tâm còn lại, không có thứ nào thuần là vô ký, nên không lập tự tánh vô ký, và đã không có tự tánh vô ký thì cũng không có tương ưng và đẳng khởi vô ký.
* Các loại nghiệp:
1. Hữu lậu nghiệp là nghiệp ác hoặc thiện, tạo ra bởi động cơ của tâm chấp ngã, tham ái, nó chỉ đưa quả báo loanh quanh trong vòng ba cõi sáu đường. Trái lại nghiệp thiện tạo ra bởi động cơ của tâm vô ngã, của trí tuệ Bát-nhã thì gọi là vô lậu nghiệp, bởi nghiệp này không làm chúng sanh rơi vào trong ba cõi sáu đường nhưng lại làm cho giải thoát khỏi ba cõi sáu đường, chứng được Niết-bàn an lạc.
2. Phước nghiệp là nghiệp lành thọ quả báo ở cõi Dục: phi phước nghiệp là nghiệp ác thọ quả báo khổ ở cõi Dục; bất động nghiệp là nghiệp tu Thiền thọ quả báo ở cõi Sắc và Vô sắc.
3. Tam thọ nghiệp là nghiệp thuận theo lạc thọ ở cõi Dục và Sơ, Nhị, Tam Thiền; là nghiệp thuận theo khổ thọ ở cõi Dục, là nghiệp thuận theo bất khổ lạc ở Tam Thiền trở lên đến cõi trời Hữu đảnh.
4. Tam thời nghiệp tức là nghiệp thọ quả báo trong ba thời kỳ: Có nghiệp thọ quả ngay trong hiện tại, có nghiệp thọ quả trong đời kế tiếp, có nghiệp thọ quả từ đời thứ ba trở đi. Về điểm này có hai chủ trương như sau:
a. Nhà bốn nghiệp, chủ trương có Thuận hiện nghiệp, Thuận sanh nghiệp, Thuận hậu nghiệp và Thuận bất định nghiệp.
b. Nhà tám nghiệp, chủ trương trong bốn cách thọ quả nêu trên, lại chia ra có quả báo (dị thục) nhất định mà thời kỳ thọ quả không nhất định, có thời ký thọ quả nhất định mà quả báo không nhất định, có cả quả báo và thời kỳ thọ quả đều nhất định v.v... nhân lên thành tám nghiệp.
Trong Luận Tỳ Bà Sa cuốn 114 ghi có ba thuyết:
a. Hai nghiệp Thuận sanh thọ, Thuận hậu thọ có đủ cả tánh chất Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp. Còn hai nghiệp Thuận hiện thọ và Thuận bất định thọ thì chỉ giới hạn ở Mãn nghiệp.
b. Ba nghiệp Thuận sanh thọ, Thuận hậu thọ, và Thuận bất định thọ đều có đủ cả Dẫn nghiệp, Mãn nghiệp, còn Thuận hiện nghiệp thì chỉ giới hạn ở Mãn nghiệp.
c. Cả bốn nghiệp đều có đủ Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp.
5. Mười nghiệp tạo ác là thân sát sanh, trộm cắp, dâm dục; miệng nói dối, nói hai lưỡi (ly gián); nói thô ác, nói thêu dệt; ý tham lam, sân hận, tà kiến.
Mười nghiệp tạo thiện là thân xa lìa ác, xa lìa trộm, xa lìa dâm, xa nói dối, xa lìa nói hai lưỡi, xa lìa nói thô ác, xa lìa thêu dệt; ý không tham, không sân, chánh kiến........... (Nguồn: Định nghiệp trong phật giáo)
+ Xem thêm: Nghiệp tích trữ ở đâu? (Nguồn: Nghiệp là gì và tích trữ ở đâu)
+ Nghiệp là gì: Nghiệp là suy nghĩ. Bất cứ hành động, lời nói nào được tạo tác thì đều xuất phát từ suy nghĩ của chúng ta trước.... (Nguồn: Nghiệp là gì _ Đức Phật dạy)
+ 249. Hỏi: Cái gì gọi là nghiệp?
Đáp: Nghiệp là cái gánh nặng của con người, là gánh nặng của sanh mạng và của tinh thần. Nghiệp của mỗi người tạo ra thì thâu cất vào kho chứa riêng của mỗi người, tức là cất chứa trong thửa ruộng của thức thứ tám. Kho chứa này có sức thần thông, cho nên nghiệp nặng hay nghiệp nhẹ gì bỏ vào cũng đều được cả. Nó thì không lớn, không nhỏ, cũng không có gì là phân biệt. Đấy đều là nghiệp của chính mình, không phải của người khác, nên không ai đánh cắp được, cũng không ai cướp đoạt hay lấy đi được. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hét 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Bốn loại nghiệp: Nghiệp đen - Nghiệp trắng - Nghiệp đen trắng - Nghiệp không đen không trắng
(II) (232) Với Chi Tiết
Có bốn nghiệp này, này các Tỷ-kheo, đã được ta chứng ngộ với thắng trí và thuyết giảng. Thế nào là bốn?
1. Nghiệp đen - Quả đen?
Có người làm thân hành có tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại, làm ý hành có tổn hại. Người ấy, do làm thân hành có tổn hại, do làm khẩu hành có tổn hại, do làm ý hành có tổn hại, sanh ra ở thế giới có tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới có tổn hại, các cảm xúc có tổn hại được cảm xúc.
Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc có tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ, như những chúng sanh trong địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen quả đen.
2. Nghiệp trắng - Quả trắng?
Có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Người ấy, do làm thân hành không có tổn hại, do làm khẩu hành không có tổn hại, do làm ý hành không có tổn hại, sanh ra ở thế giới không có tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới không có tổn hại, các cảm xúc không có tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc không có tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ không có tổn hại, thuần nhất lạc, như chư Thiên ở Biến Tịnh Thiên. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp trắng quả trắng.
3. Nghiệp đen trắng - Quả đen trắng?
Có người làm thân hành có tổn hại và không tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, làm ý hành có tổn hại và không tổn hại. Người ấy, do làm thân hành có tổn hại và không tổn hại, do làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, do làm ý hành có tổn hại và không tổn hại, sanh ra ở thế giới có tổn hại và không tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới có tổn hại và không tổn hại, các cảm xúc có tổn hại và không tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, xen lẫn, pha trộn lạc và khổ. Ví như một số người và chư Thiên, một số chúng sanh ở các đọa xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen trắng quả đen trắng.
4. Nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt?
Tại đấy, này các Tỷ-kheo, phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp đen quả đen này; phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp trắng quả trắng này; phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp đen trắng quả đen trắng này; này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, có bốn nghiệp này đã được Ta chứng ngộ với thắng trí và thuyết giảng.
+ Đức Phật giảng chi tiết
1. Nghiệp đen - Quả đen? Họ không giữ ngũ giới: người sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say riệu men.
2. Nghiệp trắng - Quả trắng? Họ giữ ngũ giới - Cao hơn nữa thì giữ nhiều giới - Hành thập thiện và Bát chánh đạo. 27 Giác chi.
3. Nghiệp đen trắng - Quả đen trắng? Họ giữ ngũ giới nửa vời: Hành thiện ác đan xen.
4. Nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng: Họ đoạn tận ba nghiệp trên. (Nguồn: Phẩm Nghiệp - Chương bốn pháp - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Tướng Mộc Luân - Kinh Chiêm Sát
Này thiện nam tử! Muốn học cách làm Tướng Mộc Luân thì, trước phải khắc gỗ, cỡ như ngón út, dài dưới một tấc (11) chính giữa mảnh gỗ, bốn mặt bằng nhau, đầu hai mảnh gỗ, nhọn lần lần ra, ngửa tay gieo qua chỗ sạch bên cạnh, khiến cho chuyển đổi, nhân vì nghĩa này mệnh danh là Luân. Lại nương tướng này, có thể phá hỏng lưới nghi chấp tà trong tâm chúng sinh, chuyển sang đường chính, đến chốn an ổn, nên gọi là Luân (12).
Về Tướng Mộc Luân, thì có tất cả ba thứ khác nhau. Thế nào là ba?
– Một là Luân tướng biểu thị nghiệp chủng thiện ác sai biệt đã tạo đời trước. Luân này có mười.
– Hai là Luân tướng biểu thị nghiệp chủng chứa nhóm trong những đời trước, hoặc xa hoặc gần, tạo nghiệp mạnh yếu, lớn nhỏ khác nhau, Luân này có ba.
– Ba là Luân tướng biểu thị thọ báo, sai biệt cả trong ba đời, Luân này có sáu.
Như muốn xem xét những nghiệp ác sai biệt đã tạo đời trước, thì phải khắc gỗ ra làm mười Luân, y mười Luân này viết ghi danh từ của mười thiện nghiệp, cứ mỗi thiện nghiệp, chủ ở một luân, ghi ở một mặt. Kế lấy mười ác nghiệp, viết đối diện lại với mười thiện nghiệp, khiến cho cân đối, mỗi luân cũng ghi ở tại một mặt.
Về mười thiện nghiệp chính là cội rễ tất cả điều thiện, có thể tóm nhiếp tất cả thiện Pháp khác.....
– Thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát nghiệp được chứa nhóm xa gần, trong đời quá khứ về trước, những nghiệp đã tạo, mạnh yếu, lớn nhỏ sai khác thế nào, lại nên khắc gỗ ra làm ba luân, biểu thị ba nơi: Thân, Khẩu, Ý. Mỗi luân chủ một nơi, viết chữ vào đó. Lại nơi mỗi luân, chính giữa một mặt, viết vào đường gạch, hơi lớn và dài, cho đến chí mí. Kế mặt thứ ba, rạch một nét khác, hơi to và sâu. Đến mặt thứ tư cũng khắc một nét cho lớn và cạn.
Cần nên biết rằng, nghiệp thiện trang nghiêm, cũng tương tự như vẽ vời tô điểm. Nghiệp ác suy hại, giống như gạch bỏ.
Gạch nào dài lớn, tượng trưng cho sự chứa thiện vốn đã từ lâu trở lại, thiện nghiệp đã làm, mạnh mẽ bén nhạy, việc làm tăng thêm.
Gạch nào nhỏ ngắn, tượng trưng cho sự chứa thiện trở lại, vốn còn gần, cạn, chỉ mới tập tành, nền tảng chậm chạp, việc làm mỏng manh.
Nét khắc nào mà, vừa to vừa sâu, tượng trưng cho những tập quán xấu ác, từ lâu trở lại, việc làm tăng thêm, dư họa cũng dày.
Nét khắc nào mà, vừa to vừa cạn, tượng trưng cho sự thoái tu thiện Pháp, trở lại đây gần, mà mới tập tành theo những ác pháp, những nghiệp đã tạo, cũng chưa đến nỗi tăng thượng lên lắm. Hoặc là dù có khởi nghiệp ác nặng, nhưng từng hối cải, đó được gọi là những điều ác nhỏ.
– Này thiện nam tử! Nếu như chiêm sát luân tướng lần đầu, thì chỉ mới biết thiện ác sai biệt đã tạo đời trước, nhưng chẳng thể biết tập quán chứa nhóm lâu xa hay gần, cũng như chưa thể biết nghiệp đã tạo là mạnh hay yếu, hoặc lớn hay nhỏ. Thế nên cần phải, chiêm sát luân tướng lần thứ hai nữa (16).
– Thiện nam tử! Nếu muốn biết được tướng thanh tịnh thì: Bắt đầu từ khi tu hành sám Pháp, qua sau bảy ngày, phải nên mỗi bữa, vào lúc sáng sớm, lấy tướng mộc luân thuộc lớp thứ hai (18) để đủ trong tay, gieo luôn ba lần. Nếu thân, khẩu, ý đều là thuần thiện, người ấy được gọi là thanh tịnh lại.
(10) Tướng Mộc Luân: Nguyên chữ Luân nghĩa đen là bánh xe, (là vòng là vừng. Chúng tôi dịch là mảnh gỗ) đó là căn cứ theo hình dáng của miếng gỗ được khắc chạm theo sự chỉ dẫn trong Kinh. Đoạn dưới đức Địa Tạng đã cắt nghĩa chữ Luân, người đọc nhân đây mà nhận rõ hơn. Không dùng chữ “mảnh gỗ” thì khó tìm chữ nào khác để diễn dịch chữ “Luân” này.
(11) Dài dưới một tấc: Một tấc đây là một tấc Tàu. Đơn vị chiều dài một thước Tàu phỏng độ 6m40, một tấc Tàu bằng một phần mười bốn tấc Tây, tức 4cm. Theo hình gỗ được khắc, bề dài cũng là 4cm.
(14) Tay cầm mộc luân: Mộc luân tất cả gồm 19 cái, chia làm 3 nhóm, nhóm thứ nhất có 10 cái, nhóm thứ hai có 3 cái và nhóm thứ ba có 6 cái. Đây là cách nói gieo lần thứ nhất, đem 10 cái đó ghi 10 thiện, 10 ác mà gieo.
(16) Chiêm sát luân tướng lần thứ hai: Đây là gieo nhóm mộc luân thứ hai, gồm 3 cái, có ghi 3 chữ: thân, khẩu, ý. Lời dạy đoạn văn này rất tế nhị. Dịch giả xin góp lời giúp cho người chiêm sát khỏi bị sai lạc, thiếu sót.
Sau khi gieo nhóm mộc luân thứ nhứt gồm 10 cái, mà hiện trên mặt gỗ, gồm 10 nghiệp thiện, ác lẫn lộn, ví dụ như: Sát sinh, thâu đạo, bất tà dâm (3 nghiệp của thân) Bất vọng ngữ, bất lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ (4 nghiệp của miệng) Tham ái, bất sân nhuế, ngu si. (3 nghiệp của ý)
Người gieo muốn biết tính chất các nghiệp bất thiện nói trên là nặng hay nhẹ, phải tiến gieo thêm từng mảnh gỗ trong 3 luân của nhóm 2. Ví dụ, nghiệp phát hiện nơi thân là Sát sinh, thâu đạo,trọng tâm là hai nghiệp này thuộc nơi thân, thì lấy mộc luân có chữ thân gieo xuống. Nếu mộc luân chữ thân hiện ở mặt trước là nét khắc sâu và dài, đó là biểu hiện hai nghiệp ác này rất nhiều, sâu dày. Nhưng nếu hiện ra nét bạc dài, đó là điều không tương ưng cần phải sám hối gieo lại. Tiếp theo đó, xem hai luân được phát hiện của khẩu nghiệp là ác khẩu, ỷ ngữ, muốn biết sự sâu cạn của hai nghiệp này, thì gieo mộc luân có chữ khẩu. Nếu mộc luân hiện ra nét khắc ngắn cạn, đó là nghiệp ác khẩu, ỷ ngữ nhẹ. Nhưng nếu hiện ra nét bạc dài, hoặc ngắn (biểu hiện thiện nghiệp dày hoặc mỏng) thì không tương ưng, phải sám hối phát nguyện gieo lại. Đến như Luân của ý cũng như vậy. Nếu thấy ý nghiệp được phát hiện là tham ái, ngu si, thì lấy riêng mộc luân có chữ ý mà gieo.
(18) Mộc luân thuộc lớp thứ hai: Lối gieo lần này không phải như lần trước. Gieo nhóm thứ hai như lần trước, thì gieo từng cái. Đến đây sau khi đã sám hối một thời gian nào đó, muốn biết ba nghiệp thanh tịnh lại chưa, cho nên phải gieo 3 luân một lúc.(Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
Đức Phật bảo Bồ Tát Kiên Tịnh Tín: ... Lại nữa, Bồ Tát Địa Tạng, được mệnh danh là “Đấng khéo nói Pháp an ủi chúng sinh” Nghĩa là khéo nói những Pháp rất sâu có thể mở mang, dẫn dắt những người vừa mới tu học, phát khởi ý chí cầu Pháp Đại thừa, khiến chẳng khiếp nhược. Bởi những nhân duyên như vậy cho nên, nơi thế giới này, chúng sinh khát ngưỡng, chịu sự giáo hóa, đắc độ của Người, do đó mà ta để cho Người nói.
Khi ấy, Bồ Tát Kiên Tịnh Tín đã hiểu được ý của Phật, ngay đó Ngài liền mở lời khuyến thỉnh đức Địa Tạng rằng:
Hay thay đấng Đại Sĩ cứu đời! Hay thay đấng Đại Trí khai đạo! Như điều tôi hỏi về những chúng sinh trong đời ác trược, dùng phương tiện gì giáo hóa chỉ dẫn, cho họ lìa khỏi các thứ chướng ngại, được vững niềm tin? Nay đức Như Lai muốn để cho Ngài nói phương tiện đó, xin Ngài phải thời, thương xót nói cho.
Lúc đó Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng nói với Ngài Kiên Tịnh Tín rằng:
Này thiện nam tử! Hãy khéo lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói:
Thời gian sau khi đức Phật diệt độ, trong đời ác trược, những vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, nam nữ cư sĩ, đối với những điều nhân quả thế gian và xuất thế gian, như chưa có được đức tin quyết định, chẳng thể tu học về tưởng vô thường, về ý tưởng khổ, ý tưởng vô ngã, ý tưởng bất tịnh… Những Pháp quán ấy chẳng thể thành tựu, chẳng thể siêng năng quán bốn Thánh đế, hoặc là Pháp quán mười hai nhân duyên, hoặc là những Pháp quán bất sinh bất diệt…Do chẳng siêng quán những Pháp như vậy, cuối cùng chẳng thể không tạo tội lỗi, thuộc mười điều ác căn bản. Đối với công đức của Phật, Pháp, Tăng, và những cảnh giới nhiệm mầu của ngôi Tam Bảo, chẳng hay chuyên lòng tin tưởng sâu sắc, đối trong ba thừa, đều không định hướng… Những hạng người trên, nếu có bất cứ thứ chướng duyên nào, thì mối lo lắng càng thêm tăng trưởng, hoặc nghi, hoặc hối. Đối với mọi điều, tâm chẳng sáng tỏ, cầu nhiều, lo nhiều, lắm chuyện rằng buộc, làm việc bất định, tư tưởng rối loạn, phế tu đạo nghiệp.
Hàng đệ tử Phật, người nào có sự chướng nạn như thế, nên dùng phương pháp xem Tướng Mộc Luân (10) mà chiêm nghiệm xét nét. Nghiệp nhân tốt xấu của những đời trước, cũng như những sự khổ vui lành dữ hiện tại đời này, duyên hợp mà có, duyên hết thì tan, nghiệp nhóm theo tâm, tướng hiện quả khởi, chẳng mất, chẳng hư, tương ứng với nhau, không hề sai lạc. Hãy nên như vậy, chiêm nghiệm kỹ càng nghiệp báo tốt xấu, rồi tự nhắc nhở nơi lòng của mình. Đối với việc nào có chỗ nghi ngờ, thì lấy theo đó quyết định rõ rệt.
Là đệ tử Phật, hãy nên học tập phương pháp Chiêm Sát Tướng Mộc Luân này, hết lòng nương theo việc được xem xét, thì không điều nào mà chẳng thành tựu. Chẳng nên vứt bỏ phương pháp nói trên, trở lại theo đuổi những thứ bói quẻ, hoặc là những việc chiêm tướng lành dữ của người thế gian, rồi sinh ham đắm, ưa thích học tập. Nếu thích học tập, thì rất chướng ngại Thánh đạo Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Muốn học cách làm Tướng Mộc Luân thì, trước phải khắc gỗ, cỡ như ngón út, dài dưới một tấc (11) chính giữa mảnh gỗ, bốn mặt bằng nhau, đầu hai mảnh gỗ, nhọn lần lần ra, ngửa tay gieo qua chỗ sạch bên cạnh, khiến cho chuyển đổi, nhân vì nghĩa này mệnh danh là Luân. Lại nương tướng này, có thể phá hỏng lưới nghi chấp tà trong tâm chúng sinh, chuyển sang đường chính, đến chốn an ổn, nên gọi là Luân (12). ....
Bấy giờ Ngài Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Những điều được nói trong Khế Kinh Lục Căn Tụ này, tên là Pháp môn gì? Pháp chân yếu này, con sẽ thọ trì, khiến đời sau này, khắp đều được nghe. Đức Phật bảo Ngài Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín: Pháp môn này gọi là: Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác; Cũng gọi tên là: Tiêu Trừ Các Chướng. Còn được gọi là: Chỉ Bày Cho Người Cầu Về Đại Thừa Biết Phương Tiện Tiến Đến Và Phát Lộ Nghĩa Thật Rốt Ráo Rất Sâu; Và cũng gọi là: Khéo Nói An Ủi Khiến Lìa Khiếp Nhược Mau Vào Đức Tin Kiên Cố Quyết Định. Y danh nghĩa như thế, Ông nên thọ trì. (Nguồn: HT Thích Thiện Thông dịch Kinh Chiêm Sát..)
+ Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo - Gieo Quẻ Chiêm Sát
Những người xem thiên cơ làm ăn tốt là chứng minh người thế gian đối với kiết hung họa phước có chồng chất nghi ngờ. Họ đều muốn biết một chút tin tức, để làm thế nào có thể tránh hung tìm kiết, họ đều giữ một cái tâm cầu may này. Bạn có tai nạn, bạn có thể trốn tránh nổi không? Trốn tránh không khỏi. Quả báo nhất định phải tự chịu. Bạn có phước, cái phước đó bạn không cần, bạn muốn bỏ đi cũng không bỏ được, phước cứ đi theo bạn. Phật không cho phép chúng ta đi làm những sự việc này.
Trong kinh A Nan Hỏi Phật Việc Tốt Xấu, Phật đối với gieo quẻ, xem tướng, tử vi, phong thủy, hết thảy không cho phép chúng ta đi hỏi. Ngài nói đây là ý thế gian, đệ tử Phật có thể làm việc thế gian, nhưng không được phép làm ý thế gian, lời nói này quá rõ ràng, minh bạch. Phật thật là từ bi đến cực điểm, chúng sanh có căn tánh, có mê hoặc này, cứ luôn muốn gieo quẻ để hỏi, cho nên Phật cũng thuận theo tập khí của chúng sanh, Ngài đã nói ra bộ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để dạy đệ tử Phật chúng ta, nếu như đối với kiết hung có nghi hoặc thì gieo quẻ thế nào. Chúng ta nhìn thấy bộ kinh điển này, thì nghĩ đến Phật thật sự là từ bi đến cực điểm, vì chúng ta mà mở rộng cửa phương tiện. Nhưng phương pháp gieo quẻ đó, phần trước đều dạy bạn phải tu như thế nào thì mới có thể có được cảm ứng. Nếu bạn không có công phu tu học, thì bạn không thể có cảm ứng. Ở Trung Quốc chúng ta nhìn thấy có một cuốn sổ tay nhỏ “Quán Thế Âm Bồ Tát Linh Khóa”. Đó cũng là sách xem bói. Phần trước đại sư Ấn Quang có viết một bài tựa rất rõ ràng, trước khi gieo quẻ phải thật cung kính, phải thật thành khẩn niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 108 biến. Đây là cầu cảm ứng, điều này rất có đạo lý. Tại sao vậy? Thành tắc linh. Bạn niệm Phật hiệu hơn 100 biến rồi thì tâm định, tâm thành rồi. Nếu như chúng ta vĩnh đoạn tham sân si thì tâm này là chân tâm, là trực tâm chánh kiến, tâm Bồ-đề của bạn liền hiện tiền. Cho nên, tất cả kiết hung họa phước không cần phải đi hỏi nữa. Giờ nào cũng là giờ tốt, ngày nào cũng là ngày tốt, ở đâu cũng là chỗ tốt, không có gì là không kiết tường, vẫn là nguyên lý mà Phật đã nói ở trong bộ kinh này là “cảnh tùy tâm chuyển”. Tâm của bạn thuần thiện, không ác thì cảnh duyên của bạn thảy đều chuyển đổi hết. Chúng ta phải biết đạo lý này. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo) - Cần tải về để xem;
Ví dụ: ... Học trò của Thanh Lương đại sư là đại sư Tông Mật, theo ngài Thanh Lương đại sư học kinh Hoa Nghiêm; nhưng Ngài nhận thấy bộ kinh này không khế hợp căn tánh mình, bèn đối trước Đại Tạng Kinh rút thử một cuốn, cầu Phật, Bồ Tát chỉ dẫn cho mình. Kết quả Ngài rút ra được cuốn kinh Viên Giác, thế là Ngài trọn đời dốc công phu nơi kinh Viên Giác, dùng kinh Hoa Nghiêm để phát huy kinh Viên Giác. Ngài viết năm bản chú giải kinh Viên Giác: Viên Giác Kinh Đại Sớ, Lược Sớ, Đại Sớ Chi Sao, Lược Sớ Chi Sao[2]…. Đến nay là cả ngàn năm sau, hậu nhân hễ nói đến việc chú giải kinh Viên Giác đều dùng những bản chú giải của đại sư Tông Mật. Quyền uy chân chánh là do chuyên tinh[3], chỉ có như vậy mới có thể thành tựu. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Clip giảng Kinh Chiêm Sát - Phần Sám hối
- Đối tượng tu pháp Chiêm Sát Sám: ... Làm bánh xe gỗ theo Kinh Chiêm Sát; ... Thế nên, trong Chiêm Sát Sám Nghi, Đại Sư Ngẫu Ích ở phần khuyên tu là khuyên mười hai hạng người tu Sám Pháp này đều bao hàm ở trong đó, tôi sẽ đọc qua cho mọi người nghe sẽ hiểu hơn. Đại Sư Ngẫu Ích nói: “Nếu đệ tử Phật, muốn tu chính Pháp xuất thế, muốn hiện tại không có các chướng duyên, muốn trừ diệt ngũ nghịch thập ác và trọng nghiệp vô gián, muốn cầu tư sinh chúng cụ đều được sung mãn nhiêu ích” (Trang 56; Clip phút 49)
- Trong Kinh Chiêm Sát, Bồ Tát Địa Tạng đặc biệt nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là người nghiệp nặng, như tôi thuộc người nghiệp nặng, không biết ở dưới tòa có ai hơn tôi chút nào chăng? Người nghiệp nặng thì như thế nào? Bồ Tát Địa Tạng khuyên chúng ta, không thể lập tức tu định tuệ, nên y theo Sám Pháp để được thanh tịnh trước; Trong Kinh văn nói: mới bắt đầu học, nên phát tâm tu học kiên định Vô tướng trí tuệ; Như chúng ta hiện nay, muốn thâm nhập một môn Kinh Vô Lượng Thọ, cầu niệm Phật tam muội, thậm chí cầu Lý nhất tâm bất loạn, đây chính là cầu tu tập thiền định!
Ý này chính là nói, lúc nãy quý vị dùng bánh xe thứ nhất, nếu bói đến chính mình trong mười nghiệp có trọng nghiệp, dùng bánh xe thứ hai để kiểm nghiệm bánh xe thứ nhất, nếu là mầu đen lớn lại tương ưng, đó chính là ác nghiệp rất nặng, vậy quý vị tốt nhất không nên lập tức gấp gáp thâm nhập một môn, có thể có chướng ngại, quý vị phải tiêu nghiệp trước.
Đây là Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở chúng ta, Ngài nói: “sở dĩ giả hà” tại sao như vậy? Người này tập khí, ác tâm đời trước rất mãnh liệt sắc bén, nên đời này phải tạo nhiều ác nghiệp, hủy phạm cấm giới, nên phạm tội rất nặng, nếu không sám hối khiến cho thanh tịnh mà tu thiền định trí tuệ, nên có nhiều chướng ngại, không có lợi ích; Hoặc thất tâm toán loạn, hoặc ngoại tà não loạn, hoặc nạp thọ tà pháp, tăng trưởng ác kiến, đây đều thuộc bị tẩu hỏa nhập ma, nên phải tu Pháp sám hối trước (Trang 64; Clip phút 49)
- Sám hối và ấn chứng: Tội nhẹ đối đầu sám hối là được, tìm một người sám hối là được, tội nặng phải thủ tướng sám hối. Thủ tướng sám chính là một trong các phương pháp sám của Chiêm Sát Sám, chẳng qua nó không giống với một số thủ tướng sám khác; Các thủ tướng sám thông thường khác ví như Pháp Hoa sám, Đại Bi sám, phải thấy hảo tướng; Trong Phạm Võng Bồ Tát giới, cũng có Phạm Võng sám, nó cần thấy hảo tướng;
Như thế nào gọi là hảo tướng: như thấy Phật, thấy ánh sáng, thấy hoa, thấy trong định hoặc thấy trong mộng đều được, đây gọi là thấy hảo tướng; Nếu như không thấy những hảo tướng này, vậy thì tội không tiêu diệt được, nhưng điều này không dễ. Quý vị thấy Phật được mấy lần? Thấy hoa sen được mấy lần? Rất khó!
Vậy Chiêm Sát Sám thì sao? Lấy thân khẩu ý, Tam Luân Thanh tịnh Luân tướng, đây gọi là thấy tướng hảo. Điều này rất đúng, đây chính là thủ tướng sám; Nếu dùng thủ tướng sám được Thanh tịnh Luân tướng thì những trọng tội đó có thể diệt trừ; Mà cách sám hối này có thể diệt trừ được nghịch tội; Nghịch tội còn nặng hơn phạm trọng giới, phạm trọng giới là gì? Trọng giới sát sinh như giết người gọi là giới nặng, giới trộm cắp như ăn trộm ngũ tiền trở lên, có một cách tính là khoảng một nghìn đài tệ trở lên, điều này rất dễ phạm, phải cẩn thận; (Nguồn: Sách trang 60; Clip giảng phút thứ 38 của PS Định Hoằng )
- Clip này chủ yếu giảng về Sám Pháp (Ở cuối cuốn sách của PS Định Hoằng)
Sám đầy đủ: Từ trang 5 đến trang 20
Sám rút gọn: ngài khuyên mỗi buổi sáng có thể tu rút gọn bài Sám hối trang 18 và 19
Phút thứ 7: Mục đích để hỏi nghiệp chướng nặng nhẹ quá khứ - Hiện tại - Vị lai, tìm xem nghiệp nào nặng nhất để tu tập tiêu trừ hóa giải nghiệp đó trước
Phút thứ 22: Bồ Tát Địa Tạng khuyên nếu có nghiệp nặng thì nên tu sám hối trước, trong Kinh nói tu sám nhiều nhất là 1.000 ngày tu sám đúng như Pháp thọ trì thì được Tâm thanh tịnh, làm tiền đề để tu các pháp khác như Niệm Phật Ba La Mật hay tu Thiền định, Tu Giới - Định - Tuệ. => Cách này có thể đạt được kết quả, cũng rất an toàn là vì tội chướng, Thiên ma, Oan gia không còn nhiễu loạn vì được Bồ Tát Địa Tạng gia hộ độ trì, bên ngoài cũng ít nhiễu loạn. Theo đó nếu có cảm ứng, cảnh giới hiện (Nếu có) là thật, không phải giả như pháp tu thông thường mà chưa Sám hết tội chướng, cảnh giới thường là giả.
Phút 25: Thời mạt phát, chúng sinh nghiệp rất nặng thì Kinh này là thuốc thần để chữa trị. Đức Phật nói, sau khi ngài nhập diệt, trong khoảng thời gian đức Phật Di Lặc chưa ra đời, ngài Địa Tạng Bồ Tát thay mặt đức Phật làm giáo chủ cõi Ta Bà. => Bộ Sám Pháp này rất thù thắng.
Phút thứ 38: Sám hối tột cùng thì đắc được giới thanh tịnh luân tướng. So với Lương Hoàng Sám, Thủy Sám thì Kinh Chiêm Sát còn thù thắng hơn, là vì loại trừ được cảnh giới ma chướng không thật. Tức Sám Chiêm Sát nếu đắc Giới Tịnh luân tướng thì báo có, không thì quẻ chiêm sát báo không, rất an toàn và khách quan và an toàn cho người tu.
Phút thứ 49: Muốn biết nghiệp chướng đười trước, thì dùng LUÂN TƯỚNG thứ nhất để kiểm tra. Khi có được BÁNH XE GỖ rồi, thì khi lễ lạy theo Pháp Kinh Luân Tướng (Có Clip hướng dẫn - Chưa biết), lễ lạy Tam Bảo và niệm 1000 danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Ma Ha Tát (Đại Bồ Tát) rồi tung bánh xe gỗ lên để xem nghiệp đười trước của chính mình. Nếu phát hiện nghiệp nặng, rất nặng ... Cần có đàn tràng, tràng phang bảo cái, hương hoa, nước ... cúng dường, đọc tụng Chú Đại Bi hoặc niệm Bồ Tát Quán Âm để sái tịnh phòng thờ (Nước sạch và cành Dương liễu vảy khắp phòng).
Phút thứ 55: Kiểm tra Thanh tịnh luân tướng qua Chiêm sát, tung ba lần tổng cộng chín bánh xe mầu đỏ là được. Khi đạt được Thanh tịnh luân tướng thì tức là tội nghiệp đã diệt trừ sạch. Người nghiệp chướng nặng nhất nếu tu sám đúng Như Pháp thọ trì thì sám nhiều nhất là 1.000 ngày là đạt Thanh tịnh luân tướng, tức không nghiệp nào mà không trừ diệt.
Phút thứ 135: Sám hối hộ người khác có nghiệp chướng nặng cũng hiệu nghiệm.
Phút thứ 145: Tự tánh vốn thanh tịnh không ô nhiễm, nghiệp chướng thì là giả không phải thật, cho nên Sám hối có thể diệt trừ vì nó cũng hư vọng. So sánh các pháp Sám như Lương Hoàng Sám, Thủy sám ..., không bằng Chiêm sát sám. Hồi hướng công đức mỗi buổi lễ = Pháp sám rất thù thắng. Phát nguyện: Đại Sư Ngẫu Ích thêm vài Kinh Chiêm Sát.
Xem Clip giảng Kinh Chiêm Sát - PS Định Hoằng giảng
Sách Hướng dẫn Làm Quẻ - Gieo Quẻ có ứng nghiệm - Trang 61 - 64
+ Duyên - Nội duyên và Ngoại duyên: Đức Phật dạy, con người sẽ sanh bệnh, nhân của bệnh là gì? Đức Phật nói tam độc, hiện nay tôi nói năm độc, năm độc tham sân si mạn nghi. Trong tâm ta có năm độc, năm độc này là nhân, nhân gặp duyên, quả báo liền hiện tiền, quả báo chính là tật bệnh. Duyên có nội duyên, có ngoại duyên.
- Nội duyên thuộc về phương diện tình cảm của mình: Oán hận não nộ phiền, ta có những thứ này.
- Ngoại duyên là tài sắc danh thực thùy, làm sao quý vị không sanh bệnh được?
Đoạn một trong ba loại này sẽ không sanh bệnh. Đương nhiên tầng cao nhất là nhân từ bên trong, đoạn tận tham sân si mạn nghi, vĩnh viễn không bị sanh bệnh. Có tham sân si mạn nghi, không có oán hận não nộ phiền, cũng không bị sanh bệnh. Có oán hận não nộ phiền, nhưng không có, xa rời tài sắc danh thực thùy, cũng không có sanh bệnh. Cả ba thứ này cùng xen nhau vào, phiền phức rất lớn, sẽ bị bệnh ngay, đạo lý là như vậy.
Phật pháp dạy chúng ta làm như vậy (Tin sâu Nhân Quả), trong đó có đạo lý lớn. Nếu thấu triệt được đạo lý này, ít nhất phải mất hai ba mươi năm, đây là đại học vấn!. Nếu thật sự rõ ràng minh bạch, tự nhiên ta sẽ thực hành và làm được điều đó, như vậy đời sống của ta sẽ vô cùng an vui. Phải làm được mới có thể giúp người khác, mới có thể dạy bảo người khác, người ta mới tin tưởng. Thân thể mạnh khỏe, ta không bị sanh bệnh.
Đức Phật dạy chúng ta phải đoạn nhân, nhân chính là tham sân si mạn nghi. Nghi là đối với giáo huấn của thánh hiền, không hoài nghi đối với thánh hiền nhân, không hoài nghi đối với giáo huấn của thánh hiền, đối với điển tích của thánh hiền. Điều này rất quan trọng, Vì sao vậy? Chúng ta khai mở được trí tuệ hay không là nhờ vào nó, không có giáo huấn của thánh hiền, chúng ta khai trí tuệ từ đâu? Không có trí tuệ không thể giải quyết được vấn đề. (Nguồn: HT. Tịnh Không, Tịnh Độ Đại Kinh ... tập 145.)
+ Luật nghiệp Quả báo ứng: (Xem tại đây)
+ Linh hồn đầu thai - Vận (định) mệnh và sự lựa chọn có cân nhắc:…. Đừng quên rằng, trong tâm thức cao của người này, y được tham khảo ý kiến trước khi đi đầu thai để xem coi y có muốn nhận chịu karma nếu gặp thất bại, thế nên, mọi việc xảy đến cho một người nào, theo một ý nghĩa rất xác thực, đều là do sự lựa chọn có cân nhắc của chính người ấy. Khi sự thật này mọi người hiểu, họ sẽ quán triệt được chân lý rằng họ luôn luôn có thể có khả năng chịu đựng hơn cái mà họ gọi là “định mệnh” (số mệnh, vận mệnh) của họ.(VLH, 167)
* Hình thành số mệnh: Bất cứ sự SINH nào cũng căn cứ vào ngày giờ sinh/ hoàn thành đưa vào sử dụng để lập lá số để biết sự phát triển, tồn vong (Lá số sinh)
- Định hình số mệnh: Năng lượng của cung Hoàng Đạo mà một người được sinh ra trong đó, nó cho thấy vấn đề hiện tại của người ấy, nó xếp đặt bước đi hay nhịp độ đối với cuộc sống, tính chất của Phàm Ngã người ấy. Nó chi phối trạng thái hoạt động của cuộc đời người này trong lúc đầu thai.
+ Chín năng lượng: Từ các Cội Nguồn xa xăm, đi vào sự sống hành tinh chúng ta và tạo ra các hiệu quả nhất định lên trên con người cá biệt và nhân loại nói chung, gồm 9 nguồn: 3 chòm sao; 7 Thái dương hệ; 5+7= 12 hành tinh; 7 Trung tâm Hành tinh; 7 Trung tâm lực thể dĩ thái (L.Xa); 12 chòm sao hoàng đạo. Cũng không thể thiếu bức xạ từ địa cầu chúng ta sống, tổng cộng là 10 nguồn, và chỉ lúc bấy giờ, bạn có thể có một phân tích và hình ảnh tạm đầy đủ về các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người, nhưng chỉ có thể xảy ra ở một trình độ phát triển tương đối tiến bộ và khi con người tiến gần Thánh Đạo (hiểu về mặt chuyên môn). Trước tiên, con người học cách kiềm chế các phản ứng của mình đối với các hành tinh khi chúng chi phối và điều khiển các sự việc thuộc phàm ngã của y từ các “trạm” khác nhau của chúng trong 12 cung (houses) của lá số tử vi của con người. Điều này được thi hành theo 2 cách:
1- Lập lá số Chiêm tinh/ Tử vi giải đoán đúng và kế đó chọn các giai đoạn để xác định những gì cần làm để vô hiệu hóa các ảnh hưởng của hành tinh ở nơi nào xét thấy thích hợp để kiềm chế các phản ứng của phàm ngã. Điều này phải được làm bằng cách áp dụng sức mạnh của tư tưởng. Việc này đòi hỏi sự tin tưởng hoàn toàn vào việc tìm hiểu và lý giải của các nhà chiêm tinh học và việc biết thật đúng lúc sinh ra.
2- Bằng cách đảm nhiệm sáng suốt lập trường của Nhà Quan Sát tâm linh, và bằng cách vun trồng năng lực đáp ứng với Linh Hồn. Kế đó, từ quan điểm của Linh Hồn đó, con người phải học cách kiểm soát hoàn cảnh và các phản ứng kèm theo của phàm ngã. (Chiêm THNM, tr 24-26)
+ Chiêm tinh học - 10 Năng lượng: Khoa chiêm tinh có liên quan với hiệu quả được tạo ra trong vật chất của các thể thấp (sheaths, lớp vỏ) bởi các ảnh hưởng, các rung động v.v… của các hành tinh khác nhau. Chúng gồm 9 năng lượng + Từ Địa cầu chúng ta sống = 10 Năng lượng (CTHNM, 22 - Trích từ LVLCK, 1051)
+ PHẬT NÓI KINH BẮC ĐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG: Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả chúng sanh. Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu soi. (Xem Kinh văn)
Xem: Nguồn gốc số mệnh - Nhân nào quả đấy
Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
+ Tháng sinh cho biết ngày cơ hội. Cánh cửa rộng mở. Tháng đặc biệt mà một Linh hồn đi vào luân hồi được biểu thị cho linh hồn đó tháng mà linh hồn đã thoát ra vòng luân hồi trong một chu kỳ sống trước đây. Thí dụ, nếu linh hồn đã qua đời trong tháng được chi phối bởi cung Leo, nó sẽ tái sinh trong cùng cung đó, tiếp tục lại sợi dây kinh nghiệm mà nó để lại, và bắt đầu với cùng một loại năng lượng và với sự trang bị đặc biệt, mà cùng với những thứ đó linh hồn đã ra khỏi kiếp sống trần gian, cộng với sự thành tựu về tư tưởng và thái độ bàng quan hữu thức. Tính chất của năng lượng và bản chất của các mãnh lực cần được vận dụng trong kiếp sống được chỉ ra cho linh hồn theo cách này. (Xem Chiêm TH nội môn 7).
+ Tái sanh cõi nào: Trong nhà Phật, người mạng chung tái sanh cõi nào hoàn toàn do nghiệp báo chi phối. Một niệm cuối cùng, của hơi thở cuối cùng Tâm khởi vọng tưởng Thiện hay Ác rất quan trọng, vì nó có thể giúp người đó tái sanh cõi lành hoặc sanh về cõi dữ - Không thể không chú ý ghi nhớ kỹ. Sau đây là ví dụ:
* Cấp Cô Độc Tái Sanh: .... Đệ tử đức Phật thăm hỏi và hướng dẫn phương pháp tu tập cho Cấp Cô Độc xong, Xá-lợi-phất và A-nan trở về tinh xá. Không lâu sau, Cấp Cô Độc thân hoại mạng chung, ra đi một cách an nhiên. Sau khi nhắm mắt, ông sinh về cõi trời Đâu-suất. Vừa hóa sinh, ông liền xuống lại vườn Kỳ-đà, nơi đức Phật đang trú ngụ. Bây giờ, ông là một thiên tử với dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực. Khi ông xuất hiện, dù trời còn tối, cả khu vườn Kỳ-đà sáng lên rạng rỡ. Ông đến đảnh lễ đức Phật, đọc một bài kệ tán thán Ngài, rồi biến mất.
Sáng hôm sau, đức Phật nói với đại chúng Tỳ-kheo rằng, hồi đêm có một vị thiên tử dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực cả khu vườn đến thăm Ta. Lúc đó, A-nan hỏi đức Phật: Bạch đức Thế Tôn, vị thiên tử đó có phải là Cấp Cô Độc không?
Đức Phật nói: Đúng, vị thiên tử đó chính là Cấp Cô Độc.[3] (Nguồn: Chi tiết cư sỹ Cấp Cô Độc)
* Khi giảng kinh Phật, Thánh hiền thường nói ví dụ về nhiều người tu "Niệm Phật vãng sanh: Đứng vãng sanh, Ngồi vãng sanh, Nằm vãng sanh ... chết rất tự tại an nhiên, thân thể mềm mại. Đây đều là tu thiện được quả báo thiện. Tất nhiên sống ác, hội tập nhiều nghiệp bất thiện thì sẽ bị đọa lạc ba cõi ác Địa ngục - Ngạ quỷ - Súc sanh khổ đau triền miên, không biết bao giờ mới có lại được thân người lần nữa. Rất nên tự cảnh tỉnh mình, vì thường thì với người không tu giữ ngũ giới rễ sau nhiều ngàn năm, mỗi người mới có thể được tái sanh làm người lần nữa, chưa kể sinh ra bệnh, nạn, chân tay, ngũ quan thiếu hụt, chết yểu mạng ... do ác nghiệp mình đã gây tạo quá nhiều.
+ Xem thêm: Chết và Tái sinh (Nói về việc Tu thập thiện nghiệp với nhân quả của việc chết và tái sanh. Việc tái sanh phụ thuộc rất lớn vào Nghiệp chướng và Tâm thức con người tại thời điểm lúc chết rất quan trọng)
+ Nghiệp duyên - Duyên nghiệp: Vì sao có "nghiệp"? "Nghiệp" là do thân (hành vi), khẩu (miệng—lời nói) hoặc ý (tư tưởng) gây tạo ra. Nói là "tạo ra," thì tại sao không gọi đó là "nhân" (nguyên nhân), mà lại gọi là "nghiệp"? "Nhân" chỉ có nghĩa là một loại nguyên nhân, lý do của một lần tạo tác mà thôi; còn "nghiệp" là tập hợp do các "nhân" tích lũy lại mà thành. Bởi trong "nghiệp" bao gồm quá nhiều loại "nhân" nên không thể gọi đó là "nhân" nữa, mà gọi là "nghiệp."
"Duyên" là nhân duyên, sự đưa đẩy dẫn đến việc tạo nghiệp. Nhân duyên tạo nghiệp thì nhiều vô số—mỗi chúng sanh đều có một nghiệp duyên khác biệt, cho nên cảnh giới mà mỗi chúng sanh gặp phải cũng không đồng nhất. Chẳng hạn, có chúng sanh thì lúc nào cũng được vui sướng, may mắn; vì sao? Ðó là do trong các đời trước chúng sanh ấy trồng toàn "nhân lành" (thiện nhân), cho nên đời này được hưởng "quả lành" (thiện quả). Lại có những chúng sanh thường phải sống trong cảnh khổ sở khốn cùng, là vì sao? Ðó là vì trong đời trước các chúng sanh ấy không hề gieo "nhân lành," mà chỉ trồng toàn "nhân xấu" (ác nhân); các "nhân xấu" ấy tích lũy lâu ngày trở thành "nghiệp xấu" (ác nghiệp), do đó đời này phải chịu quả báo khổ sở.
Ở đời, trồng thiện nhân thì được thiện quả; gieo ác nhân tất gặp ác báo. Thiện hay ác, tốt hay xấu, thì đều do cá nhân mỗi người tự gây tự tạo, chứ không phải do ai khác chỉ thị, sai khiến. Ngay cả việc thành Phật cũng vậy—chính bản thân quý vị phải nỗ lực dụng công tu tập để có được sự thành tựu, chứ không ai có thể làm thay cho quý vị được cả! Cho nên, nếu bây giờ quý vị tinh tấn dụng công tu hành tức là quý vị đang tinh tấn gieo trồng "nhân" Phật, và trong tương lai quý vị sẽ được thành Phật (tức là kết thành "quả" Phật). Nói cách khác, hễ quý vị tạo Phật nghiệp thì tương lai sẽ thành Phật, còn nếu tạo ma nghiệp thì tương lai chắc chắn sẽ làm ma làm quỷ! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Kiểm tra nghiệp chướng - Chọn pháp tu: ... Trong Kinh Chiêm Sát, Bồ Tát Địa Tạng đặc biệt nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là người nghiệp nặng, như tôi (PS Định Hoằng) thuộc người nghiệp nặng, không biết ở dưới tòa có ai hơn tôi chút nào chăng? Người nghiệp nặng thì như thế nào? Bồ Tát Địa Tạng khuyên chúng ta, không thể lập tức tu định tuệ, nên y theo Sám Pháp để được thanh tịnh trước; Trong Kinh văn nói: mới bắt đầu học, nên phát tâm tu học kiên định Vô tướng trí tuệ; Như chúng ta hiện nay, muốn thâm nhập một môn Kinh Vô Lượng Thọ, cầu niệm Phật tam muội, thậm chí cầu Lý nhất tâm bất loạn, đây chính là cầu tu tập thiền định!
... Ý này chính là nói, lúc nãy quý vị dùng bánh xe thứ nhất, nếu bói đến chính mình trong mười nghiệp có trọng nghiệp, dùng bánh xe thứ hai để kiểm nghiệm bánh xe thứ nhất, nếu là mầu đen lớn lại tương ưng, đó chính là ác nghiệp rất nặng, vậy quý vị tốt nhất không nên lập tức gấp gáp thâm nhập một môn, có thể có chướng ngại, quý vị phải tiêu nghiệp trước.
Đây là Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở chúng ta, Ngài nói: “sở dĩ giả hà” tại sao như vậy? Người này tập khí, ác tâm đời trước rất mãnh liệt sắc bén, nên đời này phải tạo nhiều ác nghiệp, hủy phạm cấm giới, nên phạm tội rất nặng, nếu không sám hối khiến cho thanh tịnh mà tu thiền định trí tuệ, nên có nhiều chướng ngại, không có lợi ích; Hoặc thất tâm toán loạn, hoặc ngoại tà não loạn, hoặc nạp thọ tà pháp, tăng trưởng ác kiến, đây đều thuộc bị tẩu hỏa nhập ma, nên phải tu Pháp sám hối trước
Nếu không, quý vị tu tinh tấn, vì tập khí ác nghiệp của quý vị rất nặng, ác tâm rất mãnh liệt, sẽ như thế nào? Rất dễ phạm trọng giới, mà còn thất tâm sai trái, như phát thần kinh; Bệnh thần kinh, quả thực có hạng người này, đang tu như vậy tự nhiên nhẩy lầu, đây là do mắc bệnh thần kinh, hoặc tà ma bên ngoài nhiễu loạn, chính mình tiếp nhận tà pháp, tin lời những tà pháp đó, làm tăng trưởng tà kiến không thể quay đầu. Hạng người này tốt nhất khoan tu tinh tấn, phải tu Pháp sám hối trước, tinh tấn sám hối, được thân khẩu ý Thanh tịnh Luân tướng, sau đó mới tu Pháp môn của mình, như vậy sẽ không có vấn đề. (Xem Trang 64; và Clip phút 49)
* Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt:
Thanh niên Subha bạch Thế Tôn: "Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, giữa loài người với nhau, khi họ là loài người, lại thấy có người liệt, có người ưu? Có người đoản thọ, có người trường thọ? Có người nhiều bệnh, có người ít bệnh? Có người đẹp sắc, có người xấu sắc, có người trí tuệ yếu kém, có người đầy đủ trí tuệ? v.v...
Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Nghiệp phân chia các loại hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu. Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông sát sanh tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Ở đây, khi mạng chung nếu được đi đến loài người, chỗ nào nó sinh ra, nó phải đoản mạng. Nhưng nếu có người đàn bà hay đàn ông từ bỏ sát sanh, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh. Do nghiệp ấy, khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời. Ở đây, khi mạng chung nếu nó đi đến loài người, chỗ nào nó sinh ra, nó được trường thọ v.v...".
* Kinh Phân Biệt Ðại Nghiệp:
Này A Nan, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh, chắc chắn không có thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh". Như vậy Ta không chấp nhận cho vị ấy". Này A Nan vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác hạnh; chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy.
Này A Nan, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, tất cả đều sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục". Như vậy Ta không chấp nhận cho vị ấy.
Này A Nan, nếu vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai sát sinh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, tất cả đều sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta không chấp nhận cho vị ấy".
Này A Nan, nếu vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào thiện thú thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta cũng chấp nhận cho vị ấy. Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung tất cả đều sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này". Như vậy Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
Này A Nan, nếu vị ấy nói: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Nếu vị ấy nói: "Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung tất cả đều sinh vào cõi dữ ác thú, địa ngục". Như vậy Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
Này Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, có khả năng đưa đến lạc thọ, nó sẽ cảm giác lạc thọ; nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, nó cảm giác khổ thọ, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, nó cảm giác bất khổ bất lạc thọ.
Này A Nan, người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi mạng chung, nó sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do nó làm từ trước, hay do nó làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được nó chấp nhận và chấp chặt. Do vậy nó sinh vào cõi dữ, nó phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại trong một đời khác. Này A Nan, người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do nó làm từ trước, hay do nó làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được nó chấp nhận và chấp chặt. Do vậy nó sinh vào thiện, có phải thọ quả báo được khởi lên ngay trong hiện tại hay trong một cuộc đời khác.
(Ðoạn này ý nói một người: phải thọ quả báo dữ ngay trong hiện tại hay trong một đời khác bởi các nghiệp ác của họ tạo ra từ trước, hay tạo ra về sau, hay tạo ra vì là ác niệm khởi lên trong giờ phút lâm chung. Trái lại, có những người cả đời tạo nghiệp ác nhưng do thiện nghiệp của họ tạo ra từ trước, hoặc tạo về sau, hoặc trong giờ phút lâm chung mà khởi lên chánh kiến hướng về điều thiện, thì họ tạo được thọ quả bảo vui ngay trong hiện tại hay trong một đời khác chớ không phải thọ khổ. Ðây là trường hợp làm ác mà thọ vui vậy. Kinh còn dạy về người làm lành được sinh thiện thú, thiên giới, cõi đời này, nhưng cũng có người làm lành mà phải đọa ác thú, địa ngục, ý nghĩa cũng tương tự như vừa giải thích trên đây. Ðó là do trong giờ phút lâm chung họ khởi lên tà kiến hướng về việc ác, và cái ác niệm này rất mạnh nên phải bị đọa lạc. Bởi nghiệp do tâm tạo, trong giờ lâm chung tâm khởi lên chánh kiến thiện niệm hoặc tà kiến ác niệm mạnh hơn các nghiệp đã tạo ra lúc sống, thì các nghiệp này sẽ chuyển theo tâm niệm khi lâm chung mà thọ báo).
+ Phép luận Chủ Khách trong Xem Số mệnh Tử vi
Ở bước này, đề xuất xét các bước như đã làm ở mục 6, nhưng không chỉ xét với Chính Tinh mà phải xét cả các Phụ tinh. Ý nghĩa của phép luận Chủ Khách là để phân định mức độ cát hung, tính chủ động hay bị động trong diễn biến cát hung đó.
Phép luận này không chỉ áp dụng cho cung Mệnh mà còn có thể áp dụng cho các cung còn lại, đặc biệt là dùng khi xét đoán hạn.
* Phép phân chia Chủ-Khách của người xưa có ứng dụng rất lớn, trong nhiều môn và thuật khác nhau. Bản chất là dựa vào sự đối đãi của Động-Tĩnh, đó là cái Lý được suy từ quá trình vận động của Âm-Dương mà ra. Phàm cái gì Động (hoặc Động trước) thì coi là Khách, cái gì Tĩnh (hoặc Động sau) thì coi là Chủ. Bên Trong làm chủ mà bên Ngoài làm khách. Thâm sâu làm Chủ mà Nông cạn ấy là Khách,… Bởi vì Động-Tĩnh tuần hoàn thay đổi liên miên bất tuyệt, khi thì Dương động Âm tĩnh, khi thì Âm động Dương tĩnh, đó là do cái thế ta quán xét vậy, hay nói cách khác thì là tùy thuộc vào hệ quy chiếu vậy. Lão Tử cũng nói, Thấp-Cao, Trước-Sau, Ngắn-Dài, Dễ-Khó ấy là tùy vào người ta trông nó ngược hay xuôi vậy.
Đem vận dụng vào môn Tử Vi Đẩu Số thì ta thấy rằng:
* Hi Di tiên sinh nói:
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời.
Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh, tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm Khách được!
…
Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
(Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau.
* Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý,
Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp.
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát,
Cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh.
Cát tinh nhập mệnh viên (miếu đắc) thì sẽ được cát lợi,
Hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung.
* Hung hay cát của các Sao cũng như Cách cục của chúng không chỉ cứ chăm chăm nhìn vào tính chất của chúng, mà còn phải xem nó đi vào triền độ nào, đóng ở cung nào, thế đứng ra sao, miếu vượng hay lạc hãm, có gặp khắc chế hay không.
Hung sát tinh mà đắc địa thì đó là hư hung, đã là hư hung thì không đáng ngại, nếu như hãm địa thì đó là thực hung, đã là thực hung thì nguy hiểm. Hung sát tinh gặp khắc / chế của chúng thì không đáng ngại. Như Hỏa Linh mà gặp Tử Vi hoặc Tham Lang ở chỗ mà Tử hay Tham miếu đắc vượng thì Hỏa Linh có hãm cũng không phải thực hung (ví dụ tại Mùi cung gặp Tham, tại Thân cung gặp Tử Phủ).
Cát tinh mà đắc địa thì mới là thực cát, đã là thực cát thì nhất định có lợi lộc tốt lành vui vẻ, nếu như cát tinh lạc hãm thì là hư cát mà đã là hư cát thì chẳng có gì hay ho thậm chí còn có hại. Ví dụ Thiên Đồng là Phúc tinh, nếu lạc đến chỗ cung Tuất thì nam phiêu lãng ham chơi, nữ thời đa dâm.
* Trên lá số, lấy Bản cung (cung ta đang xét) để mà coi các Sao ở đó làm Chủ, các sao ở Xung cung làm chính Khách, Tam hợp cung làm thứ Khách. Vì rằng Xung ấy là khởi nguồn của Động vậy. Giả như Bản cung vô chính diệu thì mượn chính diệu của Xung cung làm Chủ, xem các sao ở Tam Hợp chiếu làm Khách.
Chủ có chính tinh hãm, có sát hung tinh hãm tọa thủ Bản cung thì Chủ nhược yếu:
– nếu tam phương tứ chính có nhiều hung sát mạnh, tức là Khách hung mạnh thì cực kỳ nguy hiểm.
– nếu tam phương tứ chính có cát tinh trợ thì ấy là Khách hiền tới giúp chiếu về thì tuy nguy hiểm nhưng có thể thoát được, có người khác trợ giúp trong lúc ta gặp khó khăn.
Chủ có chính tinh miếu, đắc cách, thành bộ, không có sát tinh, ấy là Chủ cường:
– nếu tam phương tứ chính sát hung tinh đắc địa vây chiếu, ấy là Khách hư hung, thì như xông pha giữa chiến trường lập đại công mà vẫn chẳng mũi tên hòn đạn nào xâm phạm được.
– nếu tam phương tứ chính sát hung hãm, ấy là Khách thực hung, thì giống như là tự lực đối chọi lại với ngoại cảnh khó khăn, hay giống như cảnh ông Khổng Tử có tài mà hoàn cảnh thời vận không ủng hộ vậy.
Chủ cát, cung đối xung hung, 2 cung tam hợp chiếu cát, vậy là đương đầu với khó khăn, với kẻ địch mạnh nhưng được vây cánh trợ giúp ắt sẽ vượt qua vậy.
Nếu như Chủ cát mà tam phương tứ chính cũng toàn cát tinh thì như rồng gặp mây, như hổ mọc thêm cánh. Ấy là tại sao mà cách Tử Phủ Dần Thân đắc Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt ở tam phương chiếu về lại được gọi là quân thần khánh hội (vua tôi mừng tụ hội) vậy.
…
Cứ thế mà phân tích diễn giải cho từng trường hợp chi tiết sẽ thấy rõ rằng khắp 12 cung đều có thể là Ta cũng đều có thể là Địch, đừng bao giờ lậm vào cái suy nghĩ rằng tốt mới là Ta và xấu mới là Địch.
Sách còn viết:
Cát hung tối yếu tế phân minh
bản đối hợp lân hữu trọng khinh
tứ diện sở ca chung tất bại
thiên tường vân tập tự nhiên hanh
(Cát hung phân biệt, xét cho tinh
Bản, đối, hợp, lân, có trọng khinh
Gặp địch bốn bề, cục tất bại
Mây lành tụ tập, tự nhiên vinh).
Tự cường tài thị hảo nhân gia
lân xá duy thiêm cẩm thượng hoa
nhược đáo phùng nguyên chân cảnh địa
xuân phong chích khả cảm tương soa
(Tự cường mới xứng kẻ tài ba
Hàng xóm chỉ như gấm thêm hoa
Nếu được gặp nguồn cảnh địa tốt
Gió Xuân cũng thẹn bởi kém xa)
Lưỡng lân tương vũ khởi vi tai
tự phạt tài giáo đại khả ai
dịch đóa đương đầu nhất côn bổng
nan phòng tả hữu tập binh lai
(Hàng xóm khinh nhờn khởi họa tai
Tự nhiên tốn sức thật bi ai
Đương đầu ác bổng còn dễ né
Tập kích đôi bên khó thoát hoài)
Bản phương cát vị chi do nội tự cường.
Bản phương hung vị chi tòng căn tự phạt.
(Bản phương được cát lợi ấy là do bên trong tự đã có lực mạnh mẽ
Bản phương hung ấy là do nguồn cơn tự phạt chính mình)
Đối phương cát vị chi nghênh diện xuân phong.
Đối phương hung vị chi đương đầu ác bổng.
(Đối phương cát như ngẩng mặt đón gió Xuân
Đối phương hung như đương đầu với cây ác bổng)
Hợp phương cát vị chi tả hữu phùng nguyên.
Hợp phương hung vị chi tả hữu thụ địch.
(Hợp phương cát ấy là hai cánh trái phải gặp được nguồn cội
Hợp phương hung ấy là hai cánh trái phải gặp kẻ địch)
Lân phương cát vị chi lưỡng lân tương phù.
Lân phương hung vị chi lưỡng lân tương vũ.
(Lân phương cát ấy là đôi bên kề cận tương trợ
Lân phương hung ấy là đôi bên kề cận khinh nhờn).
Phương cung giai cát vị chi thiên tường vân tập.
Phương cung giai hung vị chi tứ diện sở ca.
(Cung ở các phương đều cát ấy là ngàn mây lành tụ hội
Cung ở các phương đều hung ấy là bốn bề thọ địch).
Đó chính là yếu quyết để phân định nặng nhẹ chủ khách cát hung theo Bản (bản cung), Đối (cung đối xung), Hợp (2 cung tam hợp chiếu), Lân (2 giáp cung). (Nguồn: Các bài viết của Quách Ngọc Bội)
+ Nhân nào quả đấy: ... Này bốn ông Thiên Vương! Bồ Tát Ðịa Tạng:
Nếu gặp kẻ sát sanh, thì dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải chết yểu.
Nếu gặp kẻ trộm cắp, thì dạy rõ quả báo bần cùng khổ sở.
Nếu gặp kẻ tà dâm, thì dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.
Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thì dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.
Nếu gặp kẻ hay hủy báng, thì dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.
Nếu gặp kẻ nóng giận, thì dạy rõ quả báo xấu xí, bệnh hoạn, tàn tật.
Nếu gặp kẻ bỏn xẻn, thì dạy rõ quả báo sở cầu không toại nguyện.
Nếu gặp kẻ ăn uống vô độ, thì dạy rõ quả báo đói, khát, cổ họng đau đớn.
Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung, thì dạy rõ quả báo kinh cuồng, mất mạng.
Nếu gặp kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ, thì dạy rõ quả báo trời đất đánh chết.
Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cối, thì dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.
Nếu gặp kẻ làm cha mẹ trước hoặc cha mẹ sau mà độc ác, thì dạy rõ quả báo sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.
Nếu gặp kẻ đặt lưới, giăng bẫy để bắt các sinh vật còn non yếu, thì dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.
Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thì dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.
Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.
Nếu gặp kẻ phá hoại của Thường Trụ, thì dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.
Nếu gặp kẻ ô nhục phạm hạnh và vu báng Tăng Già, thì dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.
Nếu gặp kẻ làm bỏng, đốt, chém, chặt, hoặc đả thương sinh vật, thì dạy rõ quả báo phải luân hồi đền trả lẫn nhau.
Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thì dạy rõ quả báo làm thân cầm thú đói khát.
Nếu gặp kẻ phá hủy vật dụng một cách phi lý, thì dạy rõ quả báo mọi sở cầu đều thiếu hụt.
Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao, thì dạy rõ quả báo làm nô dịch hèn hạ.
Nếu gặp kẻ nói hai lưỡi gây xích mích, thì dạy rõ quả báo không lưỡi hoặc trăm lưỡi.
Nếu gặp kẻ tà kiến, thì dạy rõ quả báo thọ sanh ở vùng biên địa. (Nguồn: Kinh Địa Tạng)
+ 439. NGHIỆP HIỆN TẠI LÀ DO CHÍNH MÌNH TẠO
Ma Mạp nên biết,
Tạo tác nghiệp tương xứng với đoản thọ, tất chịu đoản thọ.
1) Tạo nghiệp tương xứng với trường thọ, tất được trường thọ.
2) Tạo tác nghiệp tương xứng với nhiều tật bệnh, tất phải chịu nhiều tật bệnh.
3) Tạo tác nghiệp tương xứng với ít tật bệnh, tất được ít tật bệnh.
4) Tạo tác nghiệp tương xứng với sự không đoan chánh, tất phải thọ sự không đoan chánh.
5) Tạo tác nghiệp tương xứng với đoan chánh, tất được đoan chánh.
6) Tạo tác nghiệp tương xứng với không oai đức, tất phải chịu không oai đức.
7) Tạo tác nghiệp tương xứng với oai đức, tất được oai đức.
8) Tạo tác nghiệp tương xứng với dòng dõi ti tiện, tất phải sanh nhằm dòng dõi ti tiện.
9) Tạo tác nghiệp tương xứng với dòng dõi tôn quý, tất được sanh vào dòng dõi tôn quý.
10) Tạo tác nghiệp tương xứng với không của cải, tất bị không của cải.
11) Tạo tác nghiệp tương xứng với nhiều của cải, tất được nhiều của cải.
12) Tạo tác nghiệp tương xứng với trí tuệ kém cỏi, tất bị trí tuệ kém cỏi.
13) Tạo tác nghiệp tương xứng với trí tuệ tốt đẹp, tất được trí tuệ tốt đẹp.
Chúng sanh do hành nghiệp của chính mình, do nghiệp mà thọ báo, duyên nơi nghiệp, tùy theo nghiệp xứ cao thấp mà chúng sanh có tốt đẹp hay không tốt đẹp. (Nguồn: mục 439- Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Bát Chánh Đạo chỉ là một trong rất nhiều Pháp Tu Đạo Bồ Tát/ Thánh Đạo
Người tu Thánh Đạo theo các pháp sau:
- Tu “Nhẫn nhục” để có đầy đủ các tướng tốt.
- Tu “Tinh tấn” để phá trừ ma oán, sớm thành Phật.
- Tu “Thiền định” nên có thể sinh khởi pháp lành.
- Tu “Trí tuệ” để dứt bỏ vọng kiến phân biệt.
- Tu “Tâm từ” để chẳng khởi phiền não, làm hại.
- Tu “Tâm bi” để thương yêu các chúng sinh.
- Tu “Tâm hỷ” để diệt trừ tâm ganh ghét đố kị.
- Tu “Tâm xả” để được tĩnh tại, không yêu ghét...
- Tu “Tứ nhiếp pháp” để có thể giáo hóa chúng sinh.
- Tu “Tứ niệm xứ” để thành tựu pháp quán tứ niệm xứ.
- Tu “Tứ chánh cần” để đoạn trừ tất cả pháp bất thiện.
- Tu “Tứ thần túc”, đẻ thân tâm nhẹ nhàng, thư thái.
- Tu “Năm căn”, để có lòng tin vững chắc, siêng năng, không mê mờ, vọng động, luôn tĩnh lặng, thuần hòa dứt các phiền não.
- Tu “Năm lực”, để mọi thù địch đều diệt hết, không bị phá hoại.
- Tu “Bảy giác chi”, để khéo giác ngộ tất cả các pháp.
- Tu “Tám Thánh Đạo”, để có trí tuệ chân chánh, luôn hiện ra.
- Tu “Pháp chỉ”, để có năng lực trừ bỏ tất cả kết sử.
- Tu “Pháp quán”, để nhận biết tự tánh của các pháp đúng thật.
- Tu “Phương tiện”, để có cái vui của hữu vi và cái vui của vô vi.
Này Long Vương, ông nên biết 10 nghiệp thiện ấy hay khiến mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng và tất cả Pháp Phật đều được viên mãn. Vì thế, nên các ông phải nên siêng năng tu học. (Nguồn: Kinh Thập Thiện)
+ Nhân Quả của ăn thịt chúng sanh: Trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nói rất hay ! "ĂN NÓ NỬA CÂN ĐỜI SAU PHẢI TRẢ CHO NÓ TÁM LẠNG". Bây giờ ăn là "khẩu phước" tương lai trả nợ là gì ? Trong Định Luật Nhân Quả gọi là không sai chút nào ! Nợ mạng thì trả mạng, nợ tiền thì phải trả tiền mặc dù đến Vô Lượng Kiếp khi nhân duyên tụ hội thì "Quả Báo Liền Hiện Tiền".
Chúng ta hiểu được đạo lý này ! trong Xã Hội hiện thực khi chúng ta gặp vấn đề chúng ta sẽ biết được " Nhân Quả Nghiệp Báo " Người khác tổn thương chúng ta [chúng ta cũng không để trong lòng]. Nghĩ rằng trong đời quá khứ chúng ta đã tổn thương họ, ngày nay tôi đã trả sạch quả báo này! coi như không còn gì nữa _ HT Tịnh Không giảng (Nguồn: Theo Facebook Diệu An)
* Mời xem kỹ giảng giải khi tại: Kinh Địa Tạng - P4- HT Tuyên Hóa giảng
+ Xem thêm: Tổng hợp Nhân nào quả đấy theo Phật dậy
+ Quá khứ - Hiện Tại - Tương Lai: Đó là vì sự diễn tiến của Thiên Nhiên dưới sự điều động của Luật Nghiệp Quả hay của một Định Luật Thiên Nhiên bao giờ cũng tác động không ngừng. Một vị Hiền giả ẩn danh mà chỉ có vài người trong giới Huyền môn được biết, có nói :
HIỆN TẠI LÀ CON ĐẺ CỦA QUÁ KHỨ; TƯƠNG LAI LÀ CON ĐẺ CỦA HIỆN TẠI. TUY THẾ, ÔI GIỜ PHÚT HIỆN TẠI NÀY ! NGƯƠI HÁ CHẲNG BIẾT RẰNG NGƯƠI KHÔNG CÓ PHỤ MẪU, NGƯƠI CŨNG KHÔNG THỂ CÓ CON; RẰNG NGƯƠI CHỈ CÓ THỂ SINH RA CHÍNH NGƯƠI THÔI ? DÙ CHO TRƯỚC KHI NGƯƠI BẮT ĐẦU NÓI : “TA LÀ CON CHÁU CỦA QUÁ KHỨ”, THÌ NGƯƠI ĐÃ TRỞ THÀNH QUÁ KHỨ MẤT RỒI. TRƯỚC KHI NGƯƠI THỐT RA ÂM THANH CUỐI CÙNG, HÃY NGHE ĐÂY ! NGƯƠI ĐÃ KHÔNG CÒN LÀ HIỆN TẠI NỮA MÀ ĐÚNG LÀ TƯƠNG LAI VẬY. ĐÓ LÀ QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI, CÁI TAM VỊ NHẤT THỂ BAO GIỜ CŨNG VẪN TRƯỜNG TỒN, CÁI ĐẠI ẢO GIÁC (MAHÃMÃYÃ) CỦA LÝ TUYỆT ĐỐI VẪN NGỰ TRỊ KHẮP VŨ TRỤ. (GLBN, Tr 444 hay 831)
+ Hiện tại (Present): Hiện tại chỉ là một đường thẳng toán học (mathematical line) đang phân chia cái phần của Kỳ gian Vĩnh hằng (Eternal Duration) mà chúng ta gọi là Tương lai (Future) với phần mà chúng ta gọi là Quá khứ (Past). (GLBN I, 110)
+ Ba tâm - Ba thời Quá khứ Hiện tại Vị lai
"Tam tâm tam chỉ thấu tam quan, (ba tâm ba chỉ thấu ba cửa)."
Ba tâm tức là tâm quá khứ, hiện tại, vị lai. Tâm quá khứ đã ngừng. Tâm hiện tại cũng dừng. Tâm vị lai lại dừng. Ba tâm không thể có. Tâm quá khứ không thể được. Tâm hiện tại không thể được. Tâm vị lai cũng không thể được. Ba tâm không thể được. Không thể khởi tâm quá khứ. Tâm hiện tại không thể sanh. Tâm vị lai cũng chưa có. Khi ấy, tâm không nghĩ thiện, không nghĩ ác. Ba tâm của chư vị cũng không có. Sao gọi nghĩ thiện, nghĩ ác ? Tức là khi chư vị dụng công tu hành, đạt đến cảnh giới dùng thiền duyệt làm món ăn, pháp hỷ đều đầy đủ. Khi ấy, đang ngồi tĩnh tọa, chư vị khai mở sơ quan (cửa đầu), trung quan (cửa giữa), thượng quan (cửa trên). Sơ quan cũng gọi là cửa Mao Cung. Trung quan gọi là cửa Lai Tích. Thượng quan gọi là cửa Ngọc Chẩm, hay là cửa sanh tử. Cửa đầu và gữa dễ dàng phá vỡ, vượt qua, nhưng đến cửa thứ ba thì rất khó khăn. Vượt qua được cửa thứ ba, chư vị lại phải hướng về phía trước mà tiếp tục tu hành. Khi đó, chư vị đạt đến cảnh giới gì ? (Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ba tâm - Ba Tướng phàm phu tương ứng ba thân Phật: ... Thiện nam tử, phàm phu vì ba tướng mà có ràng buộc, có ngăn cách, rời xa ba thân, không đạt đến ba thân. Ba tướng là gì, một là biến kế, hai là y tha, ba là thành tựu. Ba tướng như vậy mà không thể lý giải [cái nên lý giải], không thể diệt trừ [cái nên diệt trừ], không thể trong sáng [cái nên trong sáng], thế nên không thể đạt đến ba thân. Ba tướng như vậy mà có thể lý giải, có thể diệt trừ, có thể trong sáng, thì toàn hảo ba thân của chư vị Như lai. Thiện nam tử, phàm phu chưa trừ bỏ được ba tâm nên rời xa ba thân, không thể đạt đến. Ba tâm là gì, một là tâm sinh sự, hai làm tâm dựa vào căn bản, ba là tâm căn bản. Do đạo tạm dẹp mà tâm sinh sự diệt tận, do đạo đoạn trừ mà tâm dựa vào căn bản diệt tận, do đạo hơn hết mà tâm căn bản diệt tận. Tâm sinh sự diệt tận thì biến hiện hóa thân, tâm dựa vào căn bản diệt tận thì hình thành ứng thân, tâm căn bản diệt tận thì hiển lộ pháp thân. Do vậy, chư vị Như lai đủ cả ba thân. (Nguồn: Kinh Kim Quang Minh)
+ Hiện tại vĩnh cửu (Eternal Now): Tổng hợp của Quá Khứ, Hiện tại và Tương lai. (ĐĐTKNM–II, 186)
+ Hiện tại vĩnh cửu: Khi tiến trình thải bỏ (elimination) được hoàn tất và thời điểm tiếp xúc với linh hồn xảy ra, thể trí (manasic vehicle) ở trong tiến trình hủy diệt, thì con người tức khắc biết được tương lai, vì tiên đoán là một kỹ năng của linh hồn thức và con người tạm thời tham dự vào đó. Do đó, quá khứ, hiện tại và tương lai được thấy như là một. Việc nhận biết được Hiện Tại Vĩnh Hằng từ từ phát triển từ lần luân hồi này đến lần luân hồi khác và trong tiến trình tái sinh liên tiếp. Điều này tạo thành một trạng thái tâm thức (đặc trưng cho trạng thái bình thường của người tiến hóa) mà có thể được gọi là trạng thái phúc lạc (devachanic). (CTNM, 497)
+ Tham thiền lúc bình minh: Việc tham thiền muộn trong ngày, khi các xúc cảm (emotions) đã bị xáo trộn, và khi chúng ở trạng thái hoạt động đầy đủ, thì không có hiệu quả bao nhiêu. Thời gian tĩnh lặng có được sau giấc ngủ là thời gian thích hợp để tham thiền có hiệu quả. Lúc đó, thể cảm dục, tức bản chất xúc cảm, trở nên yên tĩnh hơn nhiều sau khi thể này đã chìm vào cái hối hả rộn rịp (bustle) của cõi đời. Có một mãnh lực (influence) tốt lành sẽ tuôn tràn ra từ giờ phút bình minh yên tĩnh đó, mãnh lực này sẽ bảo vệ suốt cả ngày, còn các tình cảm, nhờ đã lắng dịu và tĩnh lặng, sẽ dễ tuân theo (amenable to) sự kềm chế hơn. (KCVTT, 302–303)
Xem: Tham thiền huyền môn theo Raja yoga (GQ-MF)
Xem: TH về các P.Pháp và con đường Tham Thiền
Xem: Tổng hợp Huyền học - Huyền Bí Học - Huyên Linh học và Huyền Linh Thuật
+ Mâu thuẫn phát sinh theo Quy luật thời gian: ..... Các nhà nghiên cứu các sách của Tôi và bộ Giáo Lý Bí Nhiệm phải nhớ rằng bất cứ các mâu thuẩn nào có thể xuất hiện đều chỉ là mâu thuẩn trong Thời Gian, và rằng khi yếu tố này được hiểu một cách thích đáng và nhà nghiên cứu biết chu kỳ đặc biệt nào mà tài liệu sẽ được áp dụng thì các thiếu chính xác bề ngoài này sẽ biến mất......(Trích tác phẩm: Luận về 7 cung - Tập III - Chiêm tinh học; Chương III - Phần Khoa học về tam Giác lực, trang sách in 554/513)
+ Năng lượng (Energy) Đại hay Tiểu vũ trụ: - Tất cả các lực đang tuôn đổ vào hình hài cá biệt từ bất cứ phương hướng và cội nguồn nào. Các tên gọi sutratma, life thread hay silver cord (ngân quang tuyến) thường được dùng để chỉ các năng lượng chính yếu này.(GDTKNM, 143)
- Chúng ta dùng để chỉ hơi thở thiêng liêng hay sự sống. (LVHLT, 152)
- Là lưu chất của sự sống chu lưu khắp cơ thể của Thượng Đế, và làm linh hoạt ngay cả vi tử nhỏ nhất trong tổng thể này. (LVHLT, 364)
+ 10 nguồn tương tác đến nhân loại: Các Cội Nguồn xa xăm, đi vào sự sống hành tinh chúng ta và tạo ra các hiệu quả nhất định lên trên con người cá biệt và nhân loại nói chung, tổng là 10 nguồn: 1. Tinh tòa Đại Hùng (Great Bear, Gấu Lớn). 2. Thất Tỉ Muội (Seven Sisters) của tinh tòa Pleiades. 3. Sirus, the Dog Star (Sao Thiên Cẩu). 4. Bảy thái dương hệ mà thái dương hệ chúng ta là một 5. Bảy hành tinh thánh thiện (Không có địa cầu). 6. Năm hành tinh không thánh thiện hay các hành tinh “ẩn tàng”. 7. Bảy trung tâm hành tinh. 8. Bảy trung tâm lực trong thể dĩ thái con người. 9. Mười hai chòm sao của hoàng đạo, cộng với phát xạ từ chính địa cầu (CTHNM, 22)
+ N.Lượng vòng hoàng đạo, của thái dương hệ và của hành tinh, tác động dưới hình thức lực kích thích hay cản trở tùy theo loại dẫn thể hay khí thể mà chúng tác động vào; bản chất của các dẫn thể này và năng lực của chúng để thu hút, đáp ứng, loại bỏ, tiếp nhận và chuyển hóa đều hoàn toàn tùy thuộc vào mức tiến hóa đã đạt được và cũng tùy thuộc vào tình hình chung của hành tinh và tâm lý đang có trong gia đình nhân loại ở bất cứ thời kỳ đã chọn nào. Nguồn: Chiêm TH nội môn 8
+ Bảy cung NL, mỗi cung có đặc tính chuyển động: Cung 1; 7 - Thẳng; Cung 2; 4; 6 - Xoay vòng; Cung 3; 5 - Zíc zắc, ngừng nghỉ ( Nguồn )
+ Fohat: Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa— Matter and ether are synonymous terms (TCF- Luận về lửa vũ trụ, Tr 118)
Bảy cõi giới chính thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất.
+ Fohat: Là Vũ trụ năng - Năng lượng thiêng liêng - Tư tưởng thiêng liêng hay Năng lượng khi đã biểu lộ trên bất cứ cõi vũ trụ nào. Đó là tác dụng hỗ tương giữa tinh thần và vật chất. 7 biến phân của Fohat là (LVLCK, 59) :
1. Cõi Sự.S thiêng….. Adi……...... Bể lửa
2. Cõi Chân Thần.…Anupadaka.…. Akasha
3. Cõi Tinh thần ..…..Atma…….... Aether
4. Cõi trực giác ...…Bồ đề…… Phong (Air)
5. Cõi Trí tuệ …… ..Trí tuệ…….. Hoả
6. Cõi dục vọng ….Cảm dục…Tinh tú quang
7. Cõi trọng trược.... Hồng trần… Dĩ thái
+ Mô tả khác của 7 biến phân (LVLCK, 43)
1. Cõi Thiêng liêng...Tối Đại Niết Bàn... Bể lửa
2. Cõi Chân Thần- Đại Niết Bàn- Tiên Thiên khí
3. Cõi Tinh Thần ......Niết Bàn ....Hậu thiên khí
4. Cõi Trực Giác … Bồ Đề ........ Không khí
5. Cõi trí …….. Trí tuệ ... ........... Lửa
6. Cõi dục vọng ...Cảm dục... Cảm dục quang
7. Cõi trọng trược...Hồng trần... Dĩ thái (Ether)
Xem: TH Hỏa Tinh Quân - Fohat - Năng Lượng
+ Thể, các thể: Các thể của con người hay các hiện thể biểu lộ được tạo thành bằng các đơn vị năng lượng. Chúng ta gọi các đơn vị năng lượng này là các nguyên tử và các đơn vị nguyên tử này được giữ lại với nhau dưới hình thức thể bằng mãnh lực cố kết của các năng lượng còn mạnh mẽ hơn. Các thể chính là bộ máy đáp ứng. (CTNM, 36).
+ Thể năng lượng: Dùng để chỉ một hình thể có khả năng hoạt động độc lập trong cõi hữu hình và vô hình. (KCVTT, 128)
+ Thể năng lượng (Energy body): Thể năng lượng tức thể dĩ thái. (GDTKNM, 36)
+ Trái đất (và Thổ tinh) truyền dẫn Cung 3, nó tự quay ngược chiều kim đồng hồ (Các hành tinh trong hệ mặt trời cũng quay xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ). Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người) + Venus: Hành tinh thánh thiện Venus - Kim tinh so với Địa cầu giống như Chân ngã so với Phàm ngã (CTHNM, 436)
+ Venus: Về mặt huyền bí, Venus là Hành tinh bổ xung của Địa cầu, vốn là đối cực của Đại cầu (CTHNM, 33)
+ Năng lượng phát xạ của Địa cầu: Linh hoạt như tất cả mọi con người đang sống trên bề mặt của Địa Cầu và do đó được phóng vào thể dĩ thái của hành tinh (vì lý do là “con người đứng thẳng”) thân thể con người lúc nào cũng ngập trong các phóng xuất và các phát xạ của Địa Cầu chúng ta và trong tính chất toàn vẹn của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta khi Ngài phát ra và truyền năng lượng bên trong vùng chung quanh hành tinh của Ngài. Các nhà chiêm tinh học luôn luôn nhấn mạnh vào các ảnh hưởng và các năng lượng đang đi đến khi chúng đập mạnh vào và tác động qua hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia đã bỏ quên không xem xét thích đáng các tính chất và các lực phát ra vốn là sự đóng góp của thể dĩ thái của Địa Cầu chúng ta vào tổng thể lớn hơn. Chúng ta sẽ xem xét điều này sau, nhưng Tôi cảm thấy cần kêu gọi sự chú ý của các bạn vào lúc này. Xem thêm Luận về lửa càn khôn để biết quan hệ đặc biệt Kim tinh - Địa cầu_Chân Sư DK(CTHNM III, 20);
+ Vòng Hoàng đạo (Hoàng đới, Zodiac): Là con đường tưởng tượng của Mặt Trời trong bầu trời. (Ngoại môn-như ảo tưởng), nhưng các chòm sao lại có thực, và các luồng năng lượng đang qua lại, trộn lẫn, đan bện khắp không gian thì không phải là ảo tưởng chút nào mà rõ ràng là biểu hiện cho các mối liên hệ vĩnh cửu. Chính việc dùng sai các năng lượng khác nhau đã tạo ra ảo tưởng. (CTHNM, 62);
Xem nguồn + Có 2 zodiacs, vốn khá riêng biệt và khác biệt:
- Vòng Thiên thể: Thiên văn & CTH phương Đông dùng, dựa trên vị trí thực tế của các ngôi sao, và được cố định trên bầu trời.
- Vòng Chí tuyến: CTH phương Tây liên kết với điểm xuân phân, và điểm này di chuyển theo sự thay đổi từ từ của trục Trái đất qua thời gian dài. Nó thích hợp nhất cho con người ở mức độ tiến hóa hiện tại, nó tạo thành một phần của ảo ảnh vĩ đại mà con người đang phải chịu. Xem nguồn; Xem thêm:
+ Tóm tắt lịch sử Hoàng đạo: Có 3 quyển sách mà 3 loại người nghiên cứu và học hỏi trong đó: (i)- Sách về sự sống - Các Điểm đạo đồ - 12 Chòm sao; (ii)- Sách Minh triết - Các Đệ tử - 12 Hành tinh; (iii)- Sách về hình hài hay biểu lộ - Nhân loại - 12 Huyền giai sáng tạo + Tương tác Vòng Hoàng đạo với nhân loại: (i)- Tiểu Hoàng đạo: Vị trí các Hành tinh trong Vòng H.Đạo chi phối sự sống và ảnh hưởng đến Nhân loại trung bình trở xuống; (ii) Nhân loại thông minh bậc trung và người chí nguyện, dự bị đệ tử thì đáp ứng sáng suốt các Hành tinh đang ảnh hưởng Phàm ngã, Cung Thái dương, cung mệnh; (iii)- Đệ tử, điểm đạo đồ thì đáp ứng tất cả + Năng lượng 3 Chòm sao chính (CTHNM, 40)
+ Huyền giai sáng tạo: Là trật tự đẳng cấp có trong nhiều đoàn nhóm khác nhau. Như các đẳng cấp của chính phủ, của giáo hội, hoặc những hệ thống đẳng cấp để phân biệt các giai tầng xã hội. ....
+ Nhiều ánh sáng, nếu thành tâm nghiên cứu các con số của Huyền Giai - Năm Huyền Giai đầu xem như các trừu xuất thuần túy.
HG 1 có các số: 6 . 1 . 7.
HG 2 có các số: 7 . 2 . 6.
HG 3 có các số: 8 . 3 . 5.
HG 4 có các số: 9 . 4 . 4.
HG 5 có các số: 10 . 5 . 3.
HG 6 có các số: 11 . 6 . 2.
HG 7 có các số: 12 . 7 . 1.
* Lưu ý, trong GLBN các Huyền Giai có số khác. Điều này để che đậy, nhưng nó cũng làm rối trí nhà nghiên cứu (CTHNM, 47)
+ Huyền giai sáng tạo thứ 4 - Nhân loại: Bây giờ chúng ta xem xét chủ yếu con người v| nguyên khí trí tuệ, sự phát triển của trí tuệ trong Huyền Giai Sáng Tạo thứ 4, tức các Chân Thần nhân loại, với mối quan hệ đặc biệt tới dãy Địa cầu của chúng ta. (Nguồn: Trí tuệ con người - LVLCK, 456)
+ Huyền giai thứ 6: Điều này đã ảnh hưởng đến Huyền giai thứ 6, một trong các Huyền Giai thiên thần, đang cư trú trong hệ thống Kim Tinh. (LVLCK, 485)
+ Giới thứ 4 và Huyền giai Hành tinh: Một số sự kiện đã được hiểu rõ và được nhận thức bởi một môn sinh huyền linh bậc trung, vốn đã suy nghĩ về giáo lý này một cách cẩn thận. Y biết rằng sự kết nối của Tinh thần - vật chất với trí tuệ, hay manas, được thực hiện trong căn chủng thứ ba, và chắc chắn rằng gia đình nhân loại nhất định đã bắt đầu hiện diện trên địa cầu kể từ ngày ấy (LVLCK, 494)
+ Ba Đấng cao cả: Đức Bàn Cồ - Bồ Tát - Văn Minh Đại Đế đại diện cho Ý chí, Bác ái, và Thông tuệ. Mỗi người sẽ vào 1 trong 3 Ngành này của Huyền giai (MQ, Chủ đề 5)
+ Phân biệt Huyền giai: Nếu đạo sinh nhớ rằng bản chất của hình hài tùy thuộc vào tính chất (quality) của Sự Sống đang nhập thể (incarnating Life), y cũng sẽ nhớ rằng các phân biệt giữa các nhóm Huyền Giai khác nhau, vì các Sự Sống trong các nhóm này đều có tính chất khác nhau và các hình hài mà qua đó chúng biểu lộ đều khác hẳn nhau. Do đó, chúng ta phải phân biệt giữa:
1. Các nhóm tiến hóa hướng hạ.
2. Các nhóm tiến hóa hướng thượng.
3. Bảy nhóm sự sống mà chúng ta gọi là Nguyệt Tổ Phụ (lunar Fathers):
a/ Ba nhóm không có hình hài (incorporeal) mà chúng ta gọi là giới tinh hoa chất (elemental kingdoms).
b/ Bốn nhóm có vật chất, vốn là các hình hài của bốn giới trên cung hướng thượng.
4. Bảy huyền giai của các Sự Sống (Lives).
5. Bảy nhóm gồm các Solar Angels.
Đừng nên lẫn lộn về sự phân biệt giữa các huyền giai của các Đấng Cao Cả (Beings) với bảy Cung, vì mặc dầu có sự liên quan chặt chẽ (close connection), lại không có sự giống nhau (resemblance). Các “Cung” (“Rays”) chỉ là các hình thức nguyên thủy của một số Đấng Cao Cả (Lives), các Ngài “mang theo trong Quả Tim (Hearts) của các Ngài” mọi Mầm Mống (Seeds) của Hình Hài. Các Hierarchies là các nhóm sự sống đa dạng, ở mọi giai đoạn khai mở và tăng trưởng sẽ dùng đến các hình hài đó. (1) (LVLCK, 635)
+ NGHIÊN CỨU HỌC HỎI: Có ba nhóm sách mà ba loại người nghiên cứu và học hỏi trong đó (CTHNM 17):
1. Sách về Sự Sống – Các Điểm Đạo Đồ ‒ 12 chòm sao.
2. Sách về Minh Triết – Các Đệ Tử ‒ 12 hành tinh.
3. Sách về Hình Hài hay về Sự Biểu Lộ ‒ Nhân Loại – 12 Huyền Giai Sáng Tạo (12 Creative Hierarchies).
+ Xem thêm: Các huyền giai sáng tạo trong Giáo lý bí nhiệm
+ Giao tiếp giữa người chết và người sống (Relation between the dead and the living): Sự giao tiếp giữa người chết với người sống phải và sẽ ở trên các phân cảnh trí tuệ (mental levels) trước khi có các tiến trình hội nhập; sự giao tiếp sẽ thực sự bị gián đoạn khi nhân hồn được tái hấp thu vào đại hồn (oversoul) trước khi luân hồi trở lại. Tuy nhiên, sự kiện có mối giao tiếp đến lúc đó cũng sẽ hoàn toàn diệt được nỗi sợ chết. Trong trường hợp các đệ tử đang học tập trong Huyền viện (Ashram) của một Chân Sư, ngay cả tiến trình hội nhập này cũng không tạo được bức tường ngăn cách nào nữa. (CTNM, 396)
+ Ngủ và chết (Sleep and death): Con người hay quên rằng mỗi đêm, trong các giờ ngủ, chúng ta chết đối với cõi trần nhưng sống và hoạt động ở nơi khác. Họ quên rằng họ đã có được khả năng rời bỏ thể xác Bởi vì cho đến nay, con người không thể đem trở lại vào ý thức bộ óc hồng trần các hồi ức đối với những gì đã qua và đối với khoảng thì giờ xảy ra sau đó của cuộc sống linh hoạt, họ không liên kết được việc chết và ngủ. Sau rốt, sự chết chỉ là một khoảng thì giờ dài trong sự sống để hoạt động ở cõi trần, người ta chỉ “xuất ngoại” trong một thời gian dài. Nhưng tiến trình ngủ hằng ngày và tiến trình chết ngẩu nhiên đều giống nhau, với sự dị biệt duy nhất là trong lúc ngủ, sợi dây từ khí (magnetic thread) hay là dòng năng lượng (current of energy) mà sinh lực chạy theo đó được giữ nguyên và tạo ra con đường trở lại với thể xác. Trong cái chết, sinh mệnh tuyến (life thread) này bị đứt hay gảy. Khi điều này xảy ra, thực thể hữu thức không trở lại với nhục thân, và thể này vì thiếu nguyên khí cố kết (principle of coherence) bấy giờ sẽ tan rã. (LVHLT, 494–495)
+ Vong linh lụy trần (Earthbound): Vì lẽ người tự tử vô cùng đau khổ do sự hối hận (vì đã tự tử) nên người tự tử muốn làm bất cứ điều gì để nhập lại vào thể xác của mình, cho dù điều ấy có nghĩa là đương đầu với nhiều hậu quả tai hại, người tự tử thường không chịu dùng nỗ lực của ý chí cần cho mình để tách thể dĩ thái (etheric body, còn gọi là thể sinh lực) của mình ra (chính thể này quấn chung quanh thể cảm dục vào lúc từ trần). Do sự bám chặt này của thể dĩ thái, kẻ tự tử đó trở thành “vong linh lụy trần” chừng nào mà y vẫn khăng khăng không chịu tách bỏ thể sinh lực. (CKDCLH, 147-148)
+ Tu phước cho mình và hộ người thân sau 49 ngày mất:
1. Đọc tụng nhiệm mầu: Đọc kinh, trì chú là công đức hạng nhất. Nếu đọc Kinh hay trì chú nếu có xen tạp thì chẳng linh nghiệm (Trong Kinh Đức Phật nói: Giữ tâm một chỗ, chẳng có chuyện gì không làm được => Đọc tụng sẽ linh ứng nhiệm mầu). Trong vòng 49 ngày sau ngày mất này, mỗi ngày người nhà đều phải tu, đây mới là thật sự giúp đỡ, duyên này sẽ vô cùng thù thắng. Người nhà, quyến thuộc hiện tiền phải hiểu đạo lý này.
=> Đọc Kinh Địa Tạng đúng pháp: Sau khi người ấy mạng chung, dù từ trước có tội nặng, thậm chí năm tội Vô Gián, cũng được thoát khỏi hẳn, thọ sanh nơi nào cũng thường nhớ biết việc đời trước. Lợi ích này quá lớn, quá lớn! Chân chánh chẳng thể nghĩ bàn.
Đây là chính, phía dưới là phụ, là trợ duyên.
2. Trợ duyên: Dùng lời khai thị tốt lành cho người bệnh hay lúc sắp lâm chung
- Hoặc lấy những vật ưa thích của người bệnh, hoặc y phục, đồ quý báu, vườn tược nhà cửa, không kể nhiều ít.
Đối trước người bệnh mà lớn tiếng xướng lên. Tu phước giùm phải cho người ấy biết. Cần có các lời khai thị tốt lành:
- Đừng nhắc đến những tội lỗi họ đã làm trong đời, nhắc những chuyện lỗi lầm trong giờ phút ấy thì họ sẽ sanh vào ác đạo, phải nhắc họ đã làm những chuyện tốt gì, những công đức gì.
=> Người thân trong nhà nên thay họ tu phước, phải nói cho họ biết. Cách tu:
* Chúng con, tên, họ đó, xin vì người bệnh này mà đối trước Kinh, tượng, thí xả những vật này để cúng dường kinh tượng, hoặc tạo hình tượng Phật, Bồ Tát, hoặc xây dựng Chùa Tháp, hoặc cúng dầu thắp đèn, hoặc cúng vào Thường Trụ. Coi tài vật của họ bao nhiêu, coi nhân duyên lúc đó, những chuyện này đều có thể làm, đều tu phước trong Tam Bảo, đây chẳng phải mê tín.
- Sau 7 ngày mất: hàng ngày vẫn nhắc nhớ cho người đã khuất (Nguồn: PS Tịnh Không);
Xem: Địa Tạng BT bổn nguyện kinh giảng ký, tập 26 quyển hạ_PS Tịnh Không
+ Thế gian nói: Người Chết Sống Lại nhiệm mầu. Đây là kết quả của đọc tụng Kinh Dược Sư đúng Pháp, xin xem đoạn trích:
Này A Nan! Thân người khó được, ở trong Tam Bảo tin kính tôn trọng cũng khó có thể được. Nghe danh hiệu của Đức Như Lai ấy còn khó hơn gấp bội việc này.
Này A Nan ! Vô lượng Hạnh Bồ Tát, vô lượng các phương tiện khéo, vô lượng Nguyện rộng lớn của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy. Ta muốn một kiếp hoặc hơn một kiếp, nói về Hạnh Nguyện Bồ Tát của Đức Như Lai ấy, cho đến cùng kiếp cũng chẳng thể xét tìm hết những việc làm với Nguyện lớn thù thắng xưa kia của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy.
Bấy giờ trong Chúng có vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Cứu Thoát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo lộ một bắp tay, quỳ gối phải sát đất, hướng về Đức Bà Già Ba, chắp tay cong mình, bạch rằng:"Đại Đức Thế Tôn ! Ở đời vị lai sẽ có chúng sanh: thân bị bệnh nặng, tật bệnh lâu dài, gầy ốm, chẳng ăn được phải chịu đót khát, miệng cổ khô ráo, tướng chết hiện trước mặt, mắt không nhìn thấy, cha mẹ, thân quyến, bạn bè, Tri Thức vây quanh khóc lóc. Hình xác của người ấy nằm tại chỗ của mình mà Diêm Ma Sứ Nhân (Yama-ceṭa) dẫn Thần Thức của kẻ đó, đến trước mặt Diêm Ma Pháp Vương (Yama-dharma-rāja), sau lưng người này có vị Thần Đồng Sinh, tùy theo việc người ấy đã làm , hoặc tội hoặc phước, tất cả đều biên chép, gìn giữ hết, rồi trao cho Diêm Ma Pháp Vương. Thời Diêm Ma Pháp Vương tìm hỏi người ấy, tính toán việc đã làm, tùy theo thiện, tuỳ theo ác mà phân xử.
Nếu hay vì người bệnh này, quy y Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy, như Pháp cúng dường, liền được bình phục. Khi Thần thức của người này được quay trở lại thời như từ mộng tỉnh giấc, tự mình nhớ biết. Hoặc trải qua 7 ngày, hoặc 21 ngày, 35 ngày, 49 ngày... Thần Thức quay về xong, thì nhớ đủ hết thảy nghiệp báo lành dữ. Do tự mình chứng biết cho nên dù phải bị mất mạng cũng chẳng dám tạo nghiệp ác nữa. Chính vì thế cho nên kẻ trai lành, người nữ thiện có lòng tin, cần phải cúng dường Đức Dược Sư Như Lai".
Khi ấy Tuệ Mệnh A Nan hỏi Cứu Thoát Bồ Tát rằng:"Thiện Nam Tử! Nên cúng dường Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy như thế nào ?"
Cứu Thoát Bồ Tát nói:" Ðại Đức A Nan ! Nếu có người bệnh muốn khỏi bệnh nặng, nên vì người này, bảy ngày bảy đêm thọ nhận tám phần Trai Giới. Nên đem thức ăn uống với mọi loại vật dụng, tuỳ theo sức mà bày biện, cúng dường Tỳ Kheo Tăng, ngày đêm sáu thời lễ bái cúng dường Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy, đọc tụng Kinh này 49 biến, thắp 49 ngọn đèn. Nên làm bảy pho tượng của Đức Như Lai ấy, trước mỗi một Tượng đều để bảy ngọn đèn, mỗi một ngọn đèn lớn như bánh xe. Hoặc lại cho đến 49 ngày, ánh sáng chẳng dứt . Nên làm cái Phan lụa ngũ sắc dài 49 thước (Xích: thước Tàu)....
... “Rải các thứ hoa, đốt các hương quý, bệnh thời khỏi hết, tai nạn giải thoát”, rải các loại hoa để cúng dường đức Dược Sư, đốt các loại hương quý như trầm thủy hương, trầm hương, đàn hương, chiên đàn hương loại nhãn “ngưu đầu” v.v.. Được vậy, mọi thứ bệnh đều hết, các thứ tai nạn đều được giải trừ.
“Bấy giờ Tôn giả A-nan hỏi ngài Cứu Thoát:”. Ngài đại diện các chúng sanh mà hỏi thật kỹ càng: “Bạch thiện nam tử! Tại làm sao mà mạng người đã hết, có thể tăng thêm?” Bạch Thiện nam tử! Cớ làm sao người ta đã tới lúc tận mạng, mà đời sống còn được kéo dài thêm, sức khỏe còn được tốt thêm, lợi ích được cả hai đàng như vậy? Đó là điều khó hiểu.
“Ngài Cứu Thoát nói: Bạch đại đức! Ngài há chẳng nghe Như Lai nói có chín thứ chết uổng ư? Bồ-tát Cứu Thoát đáp lại như sau: Này Đại đức! Chẳng lẽ Tôn giả chưa được nghe đức Như Lai nói về chín loại chết uổng (hoạnh tử) do các tai vạ bất ngờ xảy đến hay sao? “Bởi vậy khuyên làm phướn đèn nối mạng, tu mọi phước đức. Vì tu phước đức không bị ách nạn tới lúc mạng chung”, bởi các lẽ ấy, kinh Phật mới khuyên các chúng sanh phải sắm phướn và đèn, tu mọi phước đức. Bởi sắm sửa các thứ cúng dường và làm những việc phước đức nên cuộc đời của họ chẳng gặp khổ nạn, không bị các cảnh chết uổng vì tai bay vạ gió.
Lại nữa, Ðại Đức A Nan ! Hàng Quán Đỉnh Sát Lợi Vương, nếu có tai nạn xảy ra, nghĩa là người dân bị nạn bệnh dịch, nước khác xâm bức, nạn phản nghịch ngay trong nước, nạn Tinh Tú biến ra nhiều điềm quái dị, nạn Nhật Thực Nguyệt Thực, nạn mưa gió chẳng đúng thời, nạn quá thời tiết không mưa.
Lúc đó, vị Quán Đỉnh Sát Lợi Vương này nên đối với tất cả chúng sinh, khởi tâm Từ Mẫn, tha cho kẻ bị cột trói giam cầm, y theo Pháp Thức cúng dường đã nói lúc trước mà cúng dường Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy.
Lúc vị Quán Đỉnh Sát Lợi Vương dùng căn lành này, do Thắng Nguyện xưa kia của Đức Thế Tôn Dược Sư lưu Ly Quang Như Lai ấy cho nên cảnh giới của vị vua ấy liền được an ổn, mưa gió đúng thời, lúa mạ được mùa, quốc độ giàu có. Hết thảy chúng sinh trong tất cả quốc giới, không có bệnh, an vui, phần lớn sống vui vẻ.
Ở quốc giới ấy cũng không có các Quỷ Thần ác của hàng Dạ Xoa (Yakṣa), La Sát (Rākṣasa), Tỳ Xá Xà (Piśāca) ... nhiễu loạn chúng sinh. Hết thảy tướng ác đều ngưng, chẳng hiện. Vị Quán Đỉnh Sát Lợi Vương ấy được sống lâu, sắc đẹp, mạnh khỏe, không có bệnh, được tự tại và được tăng thêm lợi ích"
Bấy giờ, Tuệ Mệnh A Nan hỏi Cứu Thoát Bồ Tát rằng:"Thiện Nam Tử! Vì sao mạng sống đã hết mà có thể kéo dài được nữa ?"
Cứu Thoát Bồ Tát nói:" Này A Nan ! Há ông chẳng nghe Đức Như Lai nói về chín cách chết đột ngột sao (Còn có rất nhiều cách chết đột ngột khác) ? Chính vì thế cho nên dạy dùng phương tiện Chú Dược.
Quí vị cần nghiên cứu kỹ trong bản kinh để có được sự nhiệm mầu: Xem Kinh Công Đức Dược Sư_tr 350
Xem thêm: Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
+ Thưa Thế tôn, hữu tình bị chết yểu là do nghiệp gì mà bị như vậy?
Đức Phật bảo con của trưởng giả rằng: Do sát sanh nên bị như vậy. Lại nữa, nghiệp sát có mười loại:
1. Tự tay giết.
2. Khuyên người khác giết.
3. Thấy giết thì hoan hỷ.
4. Tùy hỷ việc giết.
5. Giết bào thai.
6. Khuyên trục thai cho chết.
7. Oán thù mà giết.
8. Giết bằng cách đoạn nam căn.
9. Bằng phương tiện giết.
10. Sai người giết.
Mười thứ như vậy đưa đến quả báo chết yểu.
Lại nghiệp như thế nào mà được quả báo trường thọ? Có mười loại nghiệp:
1. Xa lìa việc tự tay giết.
2. Xa lìa việc khuyên bảo người giết.
3. Xa lìa sự hoan hỷ khi (thấy) giết.
4. Xa lìa việc tùy hỷ giết.
5. Cứu người hình ngục bị giết.
6. Phóng sanh mạng.
7. Bố thí sự không sợ cho kẻ khác.
8. Thương xót vỗ về người bệnh.
9. Bố thí đồ ăn uống.
10. Cúng dường tràng phan, đèn đuốc.
Mười nghiệp như vậy đưa đến quả báo trường thọ. (Nguồn: Kinh Phân Biệt Thiện Ác Bảo Ứng)
+ Cô Hồn - Vong Linh Người Chết Vì Oan Nghiệp Chưa Siêu Thóat:
Trong truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Việt Nam, việc cúng Cô hồn hay Đàn tràng Chẩn tế là một pháp thức để cầu siêu cho các vong linh của những người đã chết mà vì oan nghiệp chưa siêu thoát. Nghi thức này được gọi là Thập loại Chúng sinh, như Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du hay Thập loại Cô hồn.
Thập loại cô hồn được phân loại như sau :
1. Thủ hộ quốc giới: Loại oan hồn vị quốc vong thân;
2. Phụ tài khiếm mạng: Loại oan hồn chết vì trái chủ oan gia, trụy thai, sẩy thai;
3. Khinh bạc Tam Bảo: Loại oan hồn vì tạo nghiệp bất hiếu, phụ nghịch, vô đạo;
4. Giang hà thủy nịch: Loại oan hồn chết sông, chết biển;
5. Biên địa tà kiến: Loại oan hồn ở nơi biên ải hẻo lánh xa xăm;
6. Ly hương khách địa: Loại oan hồn phiêu bạc tha hương, chết đường, chết bụi;
7. Phó hỏa đầu nhai: Loại oan hồn chết vì tự tử, trầm mình xuống sông, núi, chết đâm, chết chém;
8. Ngục tù trí mạng: Loại oan hồn chết vì bị tra tấn, khổ nhục trong lao tù;
9. Nô tì kết sử: Loại oan hồn chết vì bị nô lệ, hành hạ, đày đọa;
10. Manh mung ám á: Loại oan hồn lúc sống bị đui, què, câm, điếc, cô quả không ai chăm sóc.
- Đàn tràng (mandala) chẩn tế,Trai đàn hay làm chay và chạy kinh đàn, là một nơi tổ chức các nghi lễ của Mật Giáo, dùng sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho các loại cô hồn hay vong linh vì oan nghiệp chưa siêu thoát đang còn sống trong thế giới mong lung. Một trai đàn cúng thí thường kéo dài từ 3 tiếng đến 7 tiếng đồng hồ.(Nguồn: Ngạ Quỷ và Thí Thực)
+ Pháp Hóa giải: Nếu ngủ gặp Ác mộng - Mộng ác - Mộng xấu ác hay bỗng thấy Điềm chẳng lành nơi sinh sống
“Lại hễ có người, bỗng thấy mộng ác”, nghĩa là giả dụ có người bỗng nhiên gặp ác mộng, trong giấc mộng thấy chuyện chẳng lành, chẳng hạn thấy mình chết, thấy người khác chết, mình bị đụng xe, thấy người nhảy xuống biển, đại khái những điều chẳng lành v.v..; “những hình tướng ác”, như thấy một con quỷ la-sát dữ tợn, một con yêu miệng rộng giơ nanh, hoặc ông thiên lôi đương cầm búa lăm le bổ xuống, nói chung là các cảnh đất động, núi lở, sóng thần, những sự việc kinh khủng mà người ta gặp trong cơn ác mộng; “hoặc chim quái ác, ở đâu đến đậu”, hoặc giả các loại chim kỳ quái đến tụ tập trên nóc nhà, như loại cú đầu mèo, cú vọ, quạ; “hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, tại ngay chỗ ở”, hoặc nơi cư ngụ có cả trăm loài yêu quái xuất hiện, ban ngày thấy quỷ, ban đêm thấy ma, như thấy cây chổi quét nhà tự nó đi đi lại lại, cái bầu nước bay lơ lửng trên không, nói chung là trăm ngàn sự việc kỳ quái xuất hiện.
“Thử nhân” nghĩa là người ấy, hay gia đình ấy, “nếu đem các thứ quý giá”, nếu dùng các đồ quý giá, thuộc loại đắt tiền; “cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình tướng ác, những điều chẳng lành, đều biến mất hết”, đem những thứ đó để cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai một cách cung kính, thời những mộng ác, tướng ác, tỷ dụ như trong mộng thấy rắn, thấy hổ, sói, beo, sâu bọ, tất cả những thứ chẳng lành đó, bỗng dưng tiêu tan hết. Cho nên bất kể người nào trong chúng ta, nếu trong nhà xảy ra những sự tình chẳng lành, chúng ta nên gấp gáp cúng dường đức Phật Dược Sư một cách cung kính, thì ắt sẽ có điều cát tường đến, mọi rắc rối sẽ biết mất; “chẳng làm hại được”, không còn lo ngại vấn đề gì nữa;
“Hoặc có sợ hãi tai nạn thủy hỏa, đao binh độc chất, cheo leo hiểm nghèo”, hoặc bị nước nhấn chìm, bị lửa đốt, bị dao chém, gặp chất độc, hoặc ở chỗ cheo leo hiểm nghèo; “voi dữ sư tử, hùm sói gấu bi, rắn độc bọ cạp, rết độc sâu bọ, ruồi muỗi các loại”, các loại voi dữ, sư tử, hổ, báo, gấu đen, bi – “bi” cũng là một loại ác thú - rắn độc, bọ cạp, rết, sâu du diên, tức là loài sâu chuyên hút tủy não trong đầu, ruồi muỗi hay các loại sâu bọ có hại, nói chung các thứ gây nên sợ hãi; “nếu dốc một lòng, niệm đức Phật kia, cung kính cúng dường, thời các sợ hãi, đều được giải hết”, nếu như dốc lòng nhớ tới đức Phật Dược Sư, rồi cúng dường một cách cung kính, thì tất cả mọi thứ sợ hãi đều được giải trừ;
“Nếu có nước khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thời người cung kính, niệm đức Phật kia, cũng đều giải thoát”, nếu có một nước khác đến xâm lược, hay là trong nước đạo tặc hay phản loạn nổi lên, song trong lòng luôn luôn nhớ tới đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì các nạn này cũng được giải trừ. Tóm lại, hết thảy các tai nạn đều nhất loạt tiêu tan, xấu đổi thành tốt, điều chẳng lành biến thành điều may mắn. (Nguồn: Kinh Dược Sư - HT Tuyên Hóa giảng)
+ "Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu trong đời sau có người nam hay người nữ nào nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay cầu chết đều không được, hoặc đêm mộng thấy ác quỷ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc đi trên đường hiểm, hoặc nhiều lần bị bóng đè, hoặc cùng quỷ thần dạo chơi..."
Lược giảng:
Giả sử trong đời vị lai, có thiện nam tín nữ nào đó đã thọ Ngũ Giới và biết hành Thập Thiện mà cứ phải nằm một chỗ suốt một thời gian dài.
Chính vì ốm đau lâu ngày không ngồi dậy được, nên bị chứng tê bại. Nguyên do của căn bệnh này là bởi lòng dâm dục quá nặng nề. Triệu chứng của bệnh liệt là không đi đứng được. Bởi chân thuộc về thận, nếu dâm dục quá nhiều thì chân bị yếu, đi đứng khó khăn; cũng như quý vị thường thấy ở ngoài đường phố, có rất nhiều người chân bị sưng vù lên, bước đi không được vững vàng, cần phải chống gậy rồi lê từng bước. Tất nhiên, ở đây không phải nói tới những người không đi đứng được bởi chân bị thương tích hoặc què quặt do tai nạn hay bom đạn chiến tranh. Những người được đề cập đến trong phần kinh văn này là những kẻ bẩm sinh lành lặn, không hề bị thương tật cũng không bị tai nạn xe cộ, song không thể đi đứng được. Ðây là hạng người có lòng dâm dục quá nặng nề, dâm dục quá nhiều!
Quý vị cũng thấy đó, ở nước Mỹ có rất nhiều người mắc phải bệnh liệt; vì sao ư? Vì họ không biết gì về những tác hại của vấn đề sắc dục, cho nên nay họ phải chịu khổ sở bởi chứng bệnh này; e rằng cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, họ cũng chẳng biết do đâu mà chân của họ lại bị như thế!
"Cầu sống hay cầu chết đều không được." Giả sử có người ốm đau phải nằm một chỗ đến liệt giường liệt chiếu, không nhúc nhích được, muốn sống nhưng chẳng được sống yên vui, mà muốn chết thì lại không được chết liền ngay! Quý vị thấy như thế có đau khổ không chứ? Bệnh nhân đớn đau khổ sở, sống không ra sống, chết không ra chết—thật là dở sống dở chết!
"Hoặc đêm mộng thấy ác quỷ." Bệnh nhân đêm ngủ thường chiêm bao thấy ác quỷ và thấy mình đi theo các ác quỷ đó làm những việc không tốt, và làm càng nhiều thì bệnh càng nặng. Người bệnh ấỵ nằm mộng thấy ác quỷ và biết rõ ràng đó là ác quỷ, song vẫn cứ đi theo chúng mà ăn những đồ bất tịnh và làm những việc xấu xa, thậm chí hành dâm cả trong mộng nữa.
"Cho đến kẻ thân thích trong nhà." Hoặc là bệnh nhân chiêm bao thấy những người thân đã quá vãng, chẳng hạn như nếu cha đã qua đời thì mộng thấy cha, hoặc mẹ đã qua đời thì mộng thấy mẹ, ... nói chung là thường nằm mộng thấy những bà con thân thuộc đã chết—và đó là hiện tượng không tốt. Bởi vì người bà con đã chết này có quen biết người bệnh, nên có thể dẫn dắt loài quỷ ở ngoài vào nhà của người ấy, rồi kẻ đã chết đó lại bỏ đi. Bấy giờ, loài quỷ được dẫn vào nhà rồi bèn dùng các phép thuật độc hại để làm cho bệnh tình của bệnh nhân càng ngày càng trầm trọng hơn.
"Hoặc đi trên đường hiểm." Hoặc là bệnh nhân nằm mơ thấy mình đi lạc vào con đường hiểm trở—như chạy lên đỉnh núi cheo leo, hễ sẩy chân té xuống là tan xương nát thịt—khiến trong lòng sanh ra hoảng sợ. Trong giấc mơ, người bệnh thường thấy nhiều sự việc không tốt lành, khiến cho mình luôn có cảm giác phập phồng lo sợ, hễ nhớ tới tình cảnh đó là trong lòng vô cùng hoảng hốt, sợ hãi. Cũng có khi người bệnh nằm mơ thấy mình đang đi thì gặp phải hổ, sói hay yêu quái ... hiện ra chận đường. Nói tóm lại là người bệnh cứ chiêm bao thấy xảy ra những việc rất đáng sợ.
"Hoặc nhiều lần bị bóng đè." Hoặc trong giấc mơ, bệnh nhân thấy loài yểm mỵ quỷ Cưu Bàn Trà thường xuyên lui tới, một đêm có khi đến ba lần hoặc năm lần, không nhất định. Nếu đến một lần rồi song cảm thấy nhân duyên của chúng với người bệnh chưa hết, thì chúng lại đến lần nữa, rồi lại thêm lần nữa, và đè người ấy đến nỗi thốt không ra tiếng và cũng không thở, không động đậy gì được cả. Người bệnh bấy giờ hai mắt trợn trừng như nhập "ma định" vậy, và đó là thứ "tà định" chứ không phải là Chánh Ðịnh. "Ðịnh" cũng có chánh có tà; chúng ta không nên nhập loại "tà định" này.
"Hoặc cùng quỷ thần dạo chơi..." Hoặc là người bệnh chiêm bao thấy mình kết bạn với quỷ thần; mặc dù biết rõ ràng đó là quỷ nhưng vẫn cứ theo chúng đi du ngoạn. Trong giấc mơ thì không thấy sợ quỷ, thức dậy rồi mới cảm thấy sợ hãi. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chết oan - Chết uổng - Hoạnh tử: Ngài A-nan liền hỏi: “Thế nào là chín cách chết oan uổng? (Không đáng chết mà chết, chưa dứt thọ mạng mà chết. Chết bất đắc kỳ tử.)”. Bồ Tát Cứu Thoát đáp:
1. “Như có những người mắc bệnh nhẹ nhưng không thầy, không thuốc, cũng không có người thăm bệnh. Hay như được gặp thầy, lại cho thuốc sai. Thật chẳng đáng chết, nhưng lại phải chết uổng. Lại tin theo những tà ma ngoại đạo ở thế gian; nghe các thầy yêu nghiệt nói bậy việc họa phước, sanh ra sợ hãi, tâm dao động chẳng yên, chẳng giữ được lòng chân chánh, bói toán hỏi việc tai họa, thấy xấu lại giết hại các loại chúng sanh, tâu bày khấn vái lên các đấng thần thánh, kêu gọi các loài quỷ thần sông, rạch, núi, hồ thỉnh cầu ban phước, muốn hy vọng kéo dài mạng sống thêm, nhưng rốt cuộc chẳng thể được. Kẻ ngu si mê hoặc tin theo tà kiến điên đảo đành phải chết uổng. Đọa vào địa ngục chẳng biết lúc nào ra khỏi. Đó là cách chết oan uổng thứ nhất.
2. Hai là do phép vua mà bị tru diệt.
3. Ba là do ưa thích săn bắn, chơi bời, say đắm tửu sắc, tham dâm mê rượu, phóng túng vô độ, bất ngờ bị loài phi nhân đoạt mất tinh khí mà chết.
4. Bốn là bị nạn lửa đốt cháy mà chết.
5. Năm là chìm dưới nước mà chết.
6. Sáu là bị các loài thú dữ ăn thịt.
7. Bảy là té chết nơi núi non hiểm trở.
8. Tám là do thuốc độc, do trù ếm, chú thuật, các loài thây ma đứng dậy hóa quỷ hại chết.
9. Chín là đói khát khốn khổ, do chẳng được ăn uống nên phải chết uổng.
“Đó là chín cách chết oan uổng mà Như Lai đã lược nói ra. Lại còn vô số những cách chết oan uổng khác nữa, khó nói hết được. (Nguồn: Kinh Dược Sư)
+ 15 loại chết khổ đau - Ác tử: Quán Thế Âm Bồ-tát bạch với Ðức Phật: Người tu Chú Đại Bi không bị các loại ác tử đó là ......(Nguồn: Chú Đại Bi - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chòm Sao Bắc Đẩu Thất Tinh: ... Khi thấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ tòa đứng dậy, tiến đến trước Phật mà bạch rằng:
Thưa Đức Thế Tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu Âm Dương, Ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà 7 sao Bắc Đẩu ở giữa trời có uy quyền uy đức tối tôn như vậy? Cúi xin Thế Tôn vì chúng con tuyên thuyết, tất cả nhân Thiên và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng rằng: Quý hóa lắm thay! Ta nay sẽ vì ông và chúng sinh ở đời vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều cùng hiểu biết, công đức lớn lao của 7 sao ấy, phúc thì quyền sinh, ân thí muôn cõi...... Khi ấy Phật bảo tất cả đại chúng rằng:
- Có thiện nam hay tín nữ nào mà hàng năm cứ ngày 8 tháng Giêng, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và hàng tháng cứ ngày 7, ngày 9 với ngày sinh mình mặc y phục sạch đối trước tinh tượng chí tâm xưng niệm Danh hiệu 7 vị Phật và 2 vị Bồ Tát thời tùy tâm nguyện cầu gì cũng thấy cảm ứng ngay.
- Lại nếu có thể thắp 7 ngọn đèn bày theo tinh vị rồi lúc nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa tinh thủy dốc lòng khẩn cầu ắt được như ý.
- Ông Văn Thù này! Khắp cõi tể – quan, cư sĩ, tăng – ni, đạo – tục dù sang dù hèn cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh.....
- Ông Văn Thù này ! Bắc Đẩu Cổ Phật quảng đại từ bi, thị hiện giữa bầu trời, chủ trương niên – mệnh , thống lãnh Càn Khôn. Trên từ vua- chúa, dưới đến nhân dân, trời đất núi sông, chim muông cây cỏ, tất cả đều do Thất Tinh Bắc Đẩu cai quản soi chiếu. ... (Xem Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật)
+ Chết uổng - Hoạnh tài:
Hỏi: Sao gọi là phi tai hoạnh họa?
Đáp: Lẽ ra là không nên có mà lại có tai họa, không phải thuộc về mình mà mình vẫn bị nhận lãnh. Vốn dĩ là không nên bị mà mình lại phải bị. Hoạnh họa cũng như tai nạn đột ngột, mình không ngờ là vậy mà lại hóa ra vậy, tức là ngoài ý muốn.
Có người uống rượu, bị chết chìm trong thùng rượu; đây có phải là tai nạn đột ngột không? Ăn gà bị mắc nghẽn xương gà mà chết; đó không phải là bất ngờ hay sao? Như Tống Tử Văn ăn một miếng thịt gà rồi bị miếng xương gà mắc nghẹn ở cổ.
Lại còn có những chuyện như treo cổ, nhảy biển, hỏa tai, lụt lội, bị cây bị đá đè chết, bị đất chôn sống, tất cả đều gọi là hoạnh tử, chết bất ngờ.
Bởi gặp phải quá nhiều kim mộc thủy hỏa thổ trong lúc người ta chưa dự tính gì là bị chết thì đều gọi là hoạnh tử chết bất ngờ, cũng gọi là mắc phải nạn mà chết.
HỎI: Tại sao người ta phải chịu những thứ quả báo như vậy?
ĐÁP: Điều này chúng ta phải tính ngược dòng thời gian ba nghìn năm, hoặc mười nghìn năm cũng không nhất định. Nhưng đó đều là do một niệm vô minh từ lúc ban đầu nhất đã làm sai nhân quả, cho nên mới gặp phải tội ương hoạnh tử.
HỎI: Chuyện quỷ bắt người chết thế là như thế nào?
ĐÁP: Ví dụ như bất ngờ ở ngay chỗ xảy ra tai nạn đụng xe, năm đó vào tháng ba có người bị xe đụng. Qua năm sau vào tháng ba lại cũng có người bị xe tông. Tháng ba, hai năm sau, chỗ đó lại có người bị xe đụng. Qua ba năm sau, ở đó lại có xe đụng. Vậy tức là chỗ đó có con quỷ đang muốn kiếm quỷ chết thế cho nó.
Những chuyện đụng xe, chết chìm, lửa thiêu, rớt máy bay, xe lửa trợt đường ray và tàu thuyền chìm xuống biển v.v... đều là như thế. Trong đó còn có biết bao nhiêu chuyện mà ta không thể nói hết. (Nguồn: Đường links: https://www.dharmasite.net/.../Gay-Kim-Cang-Het_Quyen-3...)
+ Người kiêu mạn chết uổng: Thế nào là bức ngặt, và không bức ngặt ? Như người phàm ngã-mạn tự cao cho rằng không ai hại được mình, bèn ở chung với rắn cọp độc trùng, nên biết người nầy sẽ bị hoạnh tử. Đây là bức ngặt. Trong chơn giải thoát không có việc như vậy. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết Bàn - Chương 7)
+ Tu hộ người thân còn sống hay đã chết
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Sau khi Ta diệt độ, trong đời ác năm trược, nếu có chúng sanh nào sau khi mạng chung, lại được hàng quyến thuộc vì người chết ấy mà tu tạo các phước lành từ 7 ngày cho đến 49 ngày, thì trong bảy phần công đức, người chết chỉ được một phần. Nhưng nếu có thể trong 49 ngày ở lúc sanh thời, họ ngưng tất cả chuyện nhà để biên chép Kinh này, rồi cúng dường hương hoa, đảnh lễ Phật, và thỉnh chư Tăng đến để thiết chay cúng dường bảy lần, thì công đức có được sẽ nhiều như cát sông Hằng. Ở đời hiện tại, người ấy sẽ được trường thọ và vĩnh viễn lìa xa khổ ách của ba đường ác. Còn nếu người ấy đã chết, người thân cốt nhục có thể mang tài sản của họ mà tu tạo phước đức, thì người chết sẽ hưởng trọn bảy phần công đức. (Nguồn: Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé)
+ Tu họ người bị ác nghiệp sâu dầy nằm liệt giường - Sống dở chết dở:
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu trong đời sau có người nam hay người nữ nào nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay cầu chết đều không được, hoặc đêm mộng thấy ác quỷ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc đi trên đường hiểm, hoặc nhiều lần bị bóng đè, hoặc cùng quỷ thần dạo chơi..."
"Trải qua nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm, trở nên gầy mòn, lao sái; trong giấc ngủ kêu gào khổ sở, thảm thiết không vui. Ðây đều là do nơi nghiệp đạo còn đang luận đối, chưa quyết định là nhẹ hay nặng, nên hoặc là khó chết, hoặc là khó lành.
Mắt phàm tục của kẻ nam, người nữ không thể biện rõ việc đó, chỉ nên đối trước tượng của chư Phật, chư Bồ Tát, lớn tiếng đọc tụng Kinh này một biến; hoặc lấy những vật ưa thích của người bệnh như y phục, đồ quý báu, nhà cửa, ruộng vườn..., đối trước người bệnh mà lớn tiếng xướng rằng:
‘Chúng con, tên đó họ đó, xin vì người bệnh này mà đối trước kinh, tượng, thí xả những vật này để hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo hình tượng của Phật, Bồ Tát, hoặc xây dựng chùa tháp, hoặc sắm đèn dầu thắp cúng, hoặc cúng vào Thường Trụ.’
Xướng lên như vậy ba lần để cho người bệnh được nghe biết.
Giả sử các thức của người bệnh đã phân tán, đến hơi thở đã dứt, thì hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến bảy ngày, cứ lớn tiếng xướng bạch như trên và lớn tiếng tụng Kinh này. Sau khi người bệnh đó mạng chung, thời dẫu cho từ trước có tội nặng, thậm chí năm tội Vô Gián, cũng được thoát khỏi hẳn, thọ sanh nơi nào cũng thường nhớ biết việc đời trước.
Huống nữa là người thiện nam, người thiện nữ nào tự mình biên chép Kinh này, hoặc bảo người biên chép, hoặc tự mình đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát, cho đến bảo người khác đắp vẽ, thì quả báo mà người đó thọ nhận tất được lợi ích lớn.
Vì thế, Phổ Quảng, nếu thấy có người nào đọc tụng Kinh này, cho đến chỉ trong một niệm tán thán Kinh này hoặc tỏ lòng cung kính, thì ông phải dùng trăm ngàn phương tiện khuyến hóa người đó phát lòng siêng năng, chứ đừng thối thất, thì sẽ được trăm ngàn vạn ức công đức không thể nghĩ bàn ở hiện tại và vị lai." (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Vì người sắp mạng chung: "Bạch Ðức Thế Tôn! Những chúng sanh tập khí xấu ác, bắt đầu từ mảy mún rồi lần đến nhiều vô lượng.
Ðến khi những chúng sanh có tập khí như thế sắp sửa mạng chung, thì cha mẹ cùng quyến thuộc nên vì họ mà tạo phước đức, để giúp cho lộ trình phía trước của họ. Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc tôn kinh, hoặc cúng dường tượng Phật cùng tượng của chư Thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật, Bồ Tát cùng Bích Chi Phật, làm cho mỗi danh mỗi hiệu đều thấu vào nhĩ căn của người sắp mạng chung, hoặc nơi bổn thức nghe biết.
Các chúng sanh đó, cứ theo nghiệp ác đã gây tạo mà suy lường quả báo chiêu cảm, tất phải đọa vào ác đạo; song nhờ quyến thuộc vì kẻ lâm chung mà tu nhân Thánh này, các tội đó thảy đều tiêu sạch.
Như sau khi người ấy đã chết, nếu lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thì có thể làm cho người chết đó vĩnh viễn xa lìa chốn ác đạo, được sanh vào cõi trời hoặc cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu; quyến thuộc hiện tại cũng được vô lượng lợi ích."
Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, danh hiệu của một vị Bích Chi Phật, thì bất luận là có tội hay không tội, thảy đều được giải thoát cả."
Con người, khi sắp chết thì thiện lương trỗi dậy, lương tâm có thể nhận ra được những gì mình đã làm trong suốt một đời này, là đúng hoặc là không đúng. Ðó là một sự "phản tỉnh." Lúc bấy giờ, kẻ lâm chung chân chánh nhìn nhận những việc làm không đúng của mình; do đó mà sanh lòng ăn năn sám hối. Một khi đã khởi tâm sám hối rồi, thì cho dù chỉ nghe thấy danh hiệu của một đức Phật, một tôn Bồ Tát, hoặc một tôn Bích Chi Phật, cũng đều có thể diệt được vô lượng tội chướng, gieo trồng vô lượng thiện căn! Vì thế, lúc sắp mạng chung là một thời điểm tối quan trọng; đồng thời, đó cũng là thời điểm khó phát khởi thiện tâm cầu sám hối nhất! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hóa giải ác nạn: Bị Xiền xích - Tù tội - Tử hình
Hoặc bị khổ phép vua
Sắp bị đem hành hình
Nhờ sức niệm Quán Âm
Dao gãy vụn từng đoạn.
Phép vua thì không vị nể nhân tình. Nếu phạm phải phép vua thì bị chém đầu. Nhưng cũng có người không phạm mà bị bắt chém đầu là do bị vu cáo; do đó, luật pháp của quốc gia có lợi ích cho người mà cũng có khi làm hại người. Lợi ích là bởi có thể trừng phạt những người phạm tội, còn có hại là đối với những người không phạm pháp mà bị người vu khống. Ví như có người làm chứng giả, nói:
"Anh ta làm những việc xấu xa như thế, chính mắt tôi thấy đây!"
Thế rồi các quan tòa cũng không kể là "ba bảy hăm mốt," phán quyết ngay là người ấy có tội, bắt đem chém đầu, nhưng thực ra đương sự không có làm những việc phạm pháp ấy. Luật sư không chánh nghĩa, người phạm pháp rõ ràng có thể biện hộ cho họ thành vô tội, còn người rõ ràng không có tội, lại chứng minh là có tội. Quý vị xem trên thế giới này, muốn tìm được chân lýụ thì tìm ở đâu chư? Trên thế gian này thực ra không có chân lý mà chỉ có cường quyền thôi. Muốn tìm chân lý thì phải tìm ở trong Phật giáo. Cho nên, quý vị hoặc có tội, hoặc không tội, mà vướng phải luật pháp, lúc sắp bị hành hình, trong thời gian ngắn ngủi ấy (chỉ e rằng quý vị sợ quá đến nhũn người đi rồi quên tất cả thôi) nếu quý vị không quá sợ hãi, vẫn nhớ niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, thì ngọn dao sắp chém đầu quý vị sẽ tự nhiên gãy vụn thành từng đoạn, chứng tỏ rằng cổ của quý vị cứng hơn kim cương cho nên dao mới gãy nát như vậy. Nhưng nếu quý vị có lòng hoài nghi, cố ý phạm tội, thì đầu quý vị nhất định bị rơi rụng. Ðó là vì đối với Bồ Tát Quán Thế Âm, quý vị không có lòng tin, chỉ muốn thử nghiệm, thì đương nhiên không thể có cảm ứng được. Nếu có lòng tin chân chánh thì tất cả mọi việc đều có cảm ứng.
+ Bị nhốt lao ngục - Tù đầy - Tam giam - Tạm giữ
Hoặc tù cấm già tỏa
Tay chân bị xiềng xích
Nhờ sức niệm Quán Âm
Bỗng nhiên được giải thoát.
Thế nào gọi là tù? Theo chữ Hán, tù (囚) tức là người (人) bị nhốt trong bốn bức tường (口). Cấm là ngăn cấm không được tự do. Già nghĩa là cái gông. Phạm nhân chẳng những bị nhốt vào trong ngục mà còn phải mang gông nữa. Cái gông là gồm hai miếng gỗ kháp lại, ở giữa có khoét một lỗ hổng vừa đủ rộng để mang vào cổ và có thể khóa lại để tội nhân không thể nào trốn được. Tỏa tức là xiềng cùm chân, xích khóa tay.
Như tôi từng nói, phàm người có gia đình phải nên sớm giác ngộ, chớ để cho ba việc lớn giam hãm. Ba việc ấy là gì? Cha mẹ ví như cái gông mang trên cổ, con cái thì như cái còng tay. Ðừng cho rằng có con cháu là thích ý, loại còng này một khi mang vào thì cởi không ra. Có vợ thì không khác nào bị xiềng chân lại, cũng không được tự do.
Hôm nay, có một người đệ tử, nói thế này:
-"Tôi mượn của chánh phủ hơn hai ngàn đồng, nếu bây giờ muốn xuất gia thì hai ngàn đồng này không thể trả được, cho nên trước hết phải đi làm để trả xong hết nợ rồi mới quyết định xuất gia được."
Anh ta nói thiệt hay giả tôi không cần biết, tôi chỉ xin nói trước với mọi người là có thể khi anh ta trả hết nợ rồi thì chân lại bị mắc vào một thứ cùm nào đó, nhưng tôi hy vọng là anh ta sẽ không mang cùm để có thể làm một vị nhân thiên sư biểu của nước Mỹ. Tôi đem việc này nói với mọi người đểạ ai nấy cùng cầu nguyện, chúc anh ta được thành công sớm làm lãnh tụ Phậât giáo nước Mỹ.
Hiện tại nước Mỹ rất cần người xuất gia, hễ có ai muốn xuất gia, bất luận trước kia họ là người như thế nào, tôi đều nhiệt liệt tán thán, chỉ cần sau khi xuất gia họ có thể tuân giữ quy củ là được. Tôi tận lực đào tạo hàng Trưởng lão cho nước Mỹ, nhưng tự họ không theo kịp vì không có căn bản, rễ chưa bám sâu. Tuy nhiên, tôi mong muốn vun bồi để trong giới Phật giáo nước Mỹ, mỗi người xuất gia đều là một vị Trưởng lão, thậm chí là một Tổ sư của đạo Phật ở nước Mỹ.
Tay chân một khi bị hình cụ trói buộc, mất hết tự do thì phải làm sao? Chỉ cần niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì tự nhiên được giải thoát.
Trước đây ở Trung Hoa có một vị Hòa thượng bị dân tộc miền núi (người Dao) bắt được, trói lại nhốt trong phòng. Dân ở đây tánh tình rất dã man, chuyên môn bắt người Hán giết để ăn thịt. Vị Hòa thượng này lúc bình thường rất tin tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên lúc đó ngài không hề sợ hãi, chỉ nhất tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Ông cứ niệm, niệm mãi, kết quả có một con hổ đến phòng giam của ngài phá tung cửa để ngài tự do trốn thoát. Găẽp cảnh nguy hiểm như thế mà lại có thể hóa nguy thành an, cho nên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được sự ứng nghiệm không thể nói hết được......
Tranh tụng đến cửa quan
Trong quân trận sợ hãi
Nhờ sức niệm Quán Âm
Các oán lùi tan ngay.
Giảng: Tranh tụng đến cửa quan: “Tranh” là đấu tranh. ... Thời kỳ này không phải là Thiền định kiên cố, cũng không phải là Tự miếu kiên cố, mà là Ðấu tranh kiên cố. Nước này đấu tranh với nước kia, nhà này đấu tranh với nhà kia, người này đấu tranh với người kia, súc sanh đấu tranh với súc sanh, quỷ đấu tranh với quỷ, nơi nào cũng đều đấu tranh cả.....
“Tụng” là tố tụng, thưa kiện. Tranh tụng tức là đưa nhau đến tòa án để tranh cãi cho ra lẽ. Tranh cãi thì cần phải mời luật sư. Có một số luật sư có thể đem việc có lý nói thành vô lý, việc vô lý nói thành có lý. Ấy gọi là thị phi điên đảo.
Mấy tháng trước đây, báo chí đăng tin có một người đàn bà mưu sát chồng, nhưng bà ta có quá nhiều tiền, mới hứa hẹn với vị luật sư rằng, nếu cãi cho bà được trắng án thì bà sẽ trả cho một khoản tiền rất hậu hỉ. Vị luật sư ấy biết rõ bà ta là người giết chồng, nhưng trước pháp đình dùng mọi lý lẽ biện hộ, bẻ cong sự thật khiến cho bà ta được miễn tội. Ôi! Quý vị nói như thế có công lý hay không? Chỉ có tiền thôi, dù giết người cũng không có tội! Ðó chính là tranh tụng đấy. Ðã không có tội, thì khỏi phải đền mạng. Như vậy há chẳng phải là trên thế giới không còn chân lý nữa hay sao? Xưa nay đến pháp đình là cốt tìm ra lẽ phải, nhưng đến đó có luật sư biện hộ cho, rồi có đạo lý cũng biến thành không đạo lý, không đạo lý cũng biến thành có đạo lý. Quý vị xem thế giới này phải chăng là thế giới tối tăm hắc ám?
“Ðến chỗ quan”: Ðến chỗ quan chính là ra tòa, đến pháp đình tìm lẽ phải, xem lý do của ai đầy đủ, ai là người không có tội. Nhưng khi đến đó rồi, lý do của quý vị dù đầy đủ nhất, mà quý vị không tiền thì thành có tội. Còn lý do của quý vị không đầy đủ, quý vị không có đạo lý, mà quý vị có tiền thì là người vô tội. Cho nên thế giới này bị tiền bạc chi phối, vùi lấp lương tâm con người đi.
Trong quân trận sợ hãi: Sợ sệt và kinh hãi ở trước quân trận, như tình hình hiện giờ ở Việt Nam (1968). Tại nơi đó, tuy đầy dẫy hãi hùng, nhưng nhờ sức niệm Quán Âm, nếu quý vị tụng niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát,” thì các oán đều lui tan, tất cả oán hận đều không còn nữa. Ðấu tranh chốn cửa quan và trong quân trận, đều là nhân vì đời đời kiếp kiếp kết oán rất nhiều, nên mới tụ hội lại một chỗ để đền trả quả báo cho nhau; nhưng quý vị nếu hay trì niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những quả báo như thế đều có thể giảm bớt, nặng biến thành nhẹ, còn nhẹ trở thành không có. Nếu không niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những vấn đề ấy sẽ trở thành nghiêm trọng, nếu niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ giảm nhẹ đi. Cho nên cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nghĩ bàn, không phải người thường có thể biết được.
Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Các ấm ma - Ma ngũ ấm và Pháp tu Xa lìa Ngũ ấm ma
Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát phá các oán Địch trừ lìa bốn ma ?
Bồ Tát chuyên cần tu tập quán năm ấm như ảo huyễn thì Được lìa ma ngũ ấm.
Vì quán các pháp tánh thanh tịnh nên lìa ma phiền não.
Vì quán tất cả pháp theo duyên sanh tánh nó chẳng thành tựu nên lìa ma chết.
Vì quán tất cả pháp Được duyên tạo thành là tướng vô thường bại hoại nên lìa thiên ma.
Vì Bồ Tát quán các pháp như vậy nên Được lìa bốn ma tiến Đến Bồ Đề trọn chẳng giải Đãi. Bao nhiêu ma nghiệp chướng ngại Bồ Đề, Bồ Tát Đều xa lìa cả.
Sao gọi là ma nghiệp ?
Có tâm niệm hướng Đến Nhị thừa là ma nghiệp.
Chẳng thủ hộ Bồ Đề tâm là ma nghiệp.
Với các chúng sanh có quan niệm sai khác là ma nghiệp.
Nơi bố thí mong báo là ma nghiệp.
Vì thọ sanh mà trì giới là ma nghiệp.
Có sắc tưởng mà tu hành nhẫn nhục là ma nghiệp.
Vì thế sự mà siêng tinh tiến là ma nghiệp.
Nơi thiền Định có ý tưởng thích ưa là ma nghiệp.
Nơi huệ sanh hí luận là ma nghiệp.
Nhàm mỏi sanh tử là ma nghiệp.
Tu các thiện căn mà chẳng hồi hướng Vô thượng Bồ Đề là ma nghiệp.
Chán ghét phiền não là ma nghiệp.
Phạm tội phú tàng là ma nghiệp.
Ganh ghét chư Bồ Tát là ma nghiệp.
Phỉ báng chánh pháp là ma nghiệp.
Chẳng thọ học chánh pháp là ma nghiệp.
Chẳng biết báo ơn là ma nghiệp.
Chẳng tiến cầu Ba la mật là ma nghiệp.
Chẳng kính thuận chánh pháp là ma nghiệp.
Lẫn tiếc nơi pháp là ma nghiệp.
Vì lợi dưỡng mà thuyết pháp là ma nghiệp.
Chẳng biết phương tiện mà hóa Độ chúng sanh là ma nghiệp.
Bỏ tứ nhiếp pháp là ma nghiệp. Khinh hủy cấm giới là ma nghiệp.
Ganh ghét người trì giới là ma nghiệp.
Học hạnh Nhị thừa là ma nghiệp.
Hi vọng chánh vị là ma nghiệp.
Bỏ lìa Đại từ mà quán vô sanh là ma nghiệp.
Muốn chứng pháp vô vi là ma nghiệp.
Nhàm lìa công Đức hữu vi là ma nghiệp.
Chẳng thương chúng sanh là ma nghiệp.
Chẳng khiêm hạ bực tôn truởng là ma nghiệp.
Tập làm lưỡng thiệt là ma nghiệp.
Dua nịnh nhiều gian là ma nghiệp.
Hiển bày tịnh hạnh của mình là ma nghiệp.
Làm ác chẳng thẹn là ma nghiệp.
Chẳng lưu bố chánh pháp là ma nghiệp.
Lấy ít công Đức làm Đủ là ma nghiệp.
Tóm lại, nếu thân cận làm tất cả pháp bất thiện mà xa lìa tất cả thiện pháp Đều là ma nghiệp cả. Đây là ma nghiệp. Người làm các nghiệp ấy thì chướng Đạo Bồ Đề. Chư Bồ Tát ấy Đã vượt quá Đã bỏ lìa nên có thể chánh thọ hành. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ Phúc Lộc Thọ - Tam tinh chiếu:
Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn bảo Bồ Tát Phổ Quảng cùng tứ chúng—Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, bao gồm cả Thiên Long Bát Bộ, rằng: "Lắng nghe! Lắng nghe! Tất cả các Ông hãy chăm chú lắng nghe cho kỹ. Ta sẽ vì các Ông mà lược nói về những sự phước đức của Ðịa Tạng Bồ Tát làm lợi ích cho hàng Trời, Người."
"Phước đức" là gì? Trong Kinh Thư, ở thiên "Hoằng Phạm" có giảng về chữ "phúc" và phân ra năm loại (Ngũ Phúc) là phúc thọ, phú quý, khang ninh, tu hiếu đức, và khảo chung mạng.
1) Phúc thọ (phước sống lâu). Loại phước thứ nhất là "phúc thọ," nghĩa là "có phước, có thọ"—một người vừa được phước lại vừa được thọ nữa. Thế nào gọi là "phước"? "Phước" tức là hết thảy đều rất tự nhiên, tự tại. "Thọ" là thọ mạng, tuổi thọ.
Người Trung Hoa thường dùng chữ "thọ" này theo nghĩa "trường thọ" (sống lâu). "Thọ" thì vốn có "trường thọ" và "đoản thọ" (sống ngắn ngủi); song nếu chỉ nói "thọ" mà thôi thì được hiểu là "trường thọ," chứ không phải là "đoản thọ"; vì thế ở đây dùng chữ "phúc thọ."
Có câu: " Phước Lộc Thọ ba sao chiếu quanh” (Phúc, Lộc, Thọ tam tinh củng chiếu). "Tam tinh" có nghĩa là ba ngôi sao—Phúc tinh (sao Phước), Lộc tinh (sao Lộc) và Thọ tinh (sao Thọ). "Phúc" là sự tốt lành may mắn rất tự nhiên tự tại của riêng mình. "Lộc" là bổng lộc, lợi tức. Nếu quý vị làm việc cho chính phủ, thì tiền lương quý vị lãnh được hằng tháng gọi là "bổng lộc" vậy. "Thọ" là thọ mạng, sự sống lâu.
Theo người Trung Hoa, Thọ Tinh Công là một ông tiên quắc thước, trán cao, không có tóc, chỉ có chòm râu dài bạc trắng như cước, và còn được gọi là Nam Cực Tử. Tương truyền, Nam Cực Tử chính là Nam Cực Tiên Ông của Ðạo Giáo, trong đầu có ba quyển "thiên thư" (sách của trời) là quyển thượng, quyển trung và quyển hạ. Bởi có được "thiên thư" nên việc gì Tiên Ông cũng biết rõ cả.
2) Giàu Sang (Phú quý). Loại phước thứ hai là "phú quý," tức là vừa giàu có lại vừa sang trọng, tôn quý.
3) Khỏe mạnh bình yên (Khang ninh). Loại phước thứ ba là "khang ninh," tức là thân thể vừa khỏe mạnh lại vừa yên ổn.
4) Thích làm điều lành (Tu hiếu đức). Loại phước thứ tư là "tu hiếu đức," tức là thích làm việc tốt, thích hướng theo phương diện đạo đức mà xử sự.
5) Chết an lành (Khảo chung mạng). Loại phước thứ năm là sống đến già (chết già, không do tai nạn).
"Ðức" cũng có năm loại (Ngũ Ðức) là ôn, lương, cung, kiệm, nhượng. Có người nào hội đủ được năm đức hạnh này chăng? Ðó chính là Ðức Khổng Tử!
1) Ôn hòa( Ôn). "Ôn" tức là ôn hòa, không nóng không lạnh, ấm áp vừa chừng. Nếu quý vị suốt ngày cứ như Quan Ðế Công, chẳng nói chẳng cười, thì là người quá lạnh lùng, lãnh đạm; còn nếu suốt ngày cứ cười đùa hi hi ha ha, thì lại thành ra quá nhiệt tình, quá niềm nở. Ðức Khổng Phu Tử thì ôn hòa, mẫu mực—đáng cười mới cười, đáng nói mới nói; không đáng cười thì không cười, không đáng nói thì không nói.
2) Lương thiện (Lương). Loại đức hạnh thứ hai là "lương thiện," nghĩa là có lương tâm, lòng dạ hiền lành, tốt bụng.
3) Cung kính (Cung). "Cung" tức là đối với bất cứ ai chúng ta cũng cung kính lễ độ, không có thói khinh người.
4) Tiết kiệm (Kiệm). "Kiệm" tức là "kiệm phác"; có nghĩa là tiết kiệm, không làm hư hại, không lãng phí của cải vật chất. Thí dụ về vấn đề ăn uống, đáng lẽ phải ăn năm chén cơm mới thật no, nhưng bây giờ mình chỉ ăn ba chén mà thôi, bớt đi hai chén để dành cho những người đói kém hơn; như thế là tự kiềm chế để tiết kiệm cho chính mình. Có câu:
Cho mình thì nên cần kiệm
Đãi khách thì cần rộng rãi.
(Tự phụng tất tu giản ước,
Yến khách thiết kỵ lưu liên.)
Ðối với riêng bản thân mình thì phải cần kiệm, đơn giản, bớt ăn bớt tiêu; những sự chi dụng về đồ ăn thức uống, áo quần giày dép, nơi ăn chốn ở..., thảy đều không nên cầu kỳ, xa xỉ, bày vẽ thái quá. Cho nên, chữ "kiệm" (cần kiệm) này vô cùng quan trọng.
5) Nhường nhịn (Nhượng). Ðây là loại đức hạnh thứ năm. "Nhượng" tức là khiêm nhường, nhường nhịn—đối với bất cứ việc gì chúng ta cũng không tranh giành để được ưu tiên, chẳng e sợ về sau mình bị thiệt thòi. "Nhượng" cũng là nhường cho người khác được "đệ nhất"—cái gì tốt thì để cho người ta được trước, còn cái gì không tốt thì chính mình lãnh lấy, đó gọi là "nhượng." Chúng ta cần phải học tánh khiêm nhượng, nhường nhịn một cách lễ phép, lịch sự. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngũ Phúc gồm:
1. “Trường thọ” là mệnh không chết non, hơn nữa tuổi thọ lâu dài.
2. “Phú quý” là tiền tài dư dật hơn nữa còn có địa vị tôn quý.
3. An khang” là thân thể khỏe mạnh và tâm linh an bình.
4. “Hảo đức” là tấm lòng lương thiện và nhân hậu trầm tĩnh
5. “Thiện chung” là có thể dự đoán được ngày chết của mình. Lúc cuối cùng, không gặp phải tai họa bất ngờ, thân thể không ốm đau, trong nội tâm không lo lắng hay phiền não, an tường tự tại mà rời khỏi nhân gian.
“Ngũ phúc” hợp lại mới tạo thành một cuộc sống trọn vẹn hạnh phúc, một khi tách rời ra thì không còn ổn nữa. Ví dụ, có người trường thọ lại nghèo hèn qua ngày, có người phú quý nhưng thân thể lại không tốt, có người nghèo hèn mà thiện chung, có người phú quý lại gặp tai họa bất ngờ…
Trong “ngũ phúc”, quan trọng nhất là phúc thứ tư – “Hảo đức”. Chính là có được tấm lòng lương thiện, nhân hậu trầm tĩnh, đây là tướng có phúc nhất. Bởi vì đức là căn nguyên của phúc, phúc là kết quả của đức tạo thành. Chỉ có “Hảo đức” đôn hậu thuần khiết, mới có thể nuôi dưỡng bốn phúc khác, khiến chúng không ngừng lớn mạnh, mà phần này chúng ta có thể hoàn toàn khống chế, cho nên những người già thường nói phải tích đức làm việc thiện. (Theo NTDTV.com)
+ Ngũ phúc lâm môn - Phụ nữ học Kinh Phật có những lợi ích sau:
10. Được hưởng ngũ phúc lâm môn: trường thọ, phú quý, bình an, khỏe mạnh, thiện chung. Phúc báo của một người phụ nữ không những ảnh hưởng đến cuộc đời chính họ mà còn tác động đến chồng con và gia đình. (Nguồn: Phụ nữ học Kinh Phật)
+ Ngũ phước: Của người giảng kinh thuyết pháp có được (Nguồn: Phật Thuyết Hiền Giả Ngũ Phước Đức Kinh)
+ Giúp người lâm chung - Hại người lâm chung
"Vì lẽ đó nên nay con đối trước Ðức Phật Thế Tôn, cùng Thiên Long Bát Bộ, nhân và phi nhân v.v... mà khuyên bảo các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề: Vào ngày lâm chung, cần phải cẩn thận, chớ giết hại và chớ gây tạo ác duyên, cũng đừng bái tế quỷ thần, cầu xin vọng lượng.
Vì sao thế? Vì việc sát hại cho đến tế bái đó không có mảy may năng lực lợi ích cho người mất, mà chỉ kết thêm tội duyên, làm cho thâm trọng hơn thôi.
Giả sử người chết đó, trong đời vị lai hoặc hiện tại sanh, đắc được phần Thánh Quả, sẽ sanh vào cõi trời, cõi người; nhưng vì lúc lâm chung bị hàng quyến thuộc gây tạo ác nhân, làm cho người chết cũng mắc lấy ương lụy, phải đối biện, chậm sanh vào chốn tốt lành.
Huống chi là người sắp chết lúc sống chưa từng có chút thiện căn, phải y theo bổn nghiệp mà tự đọa ác đạo! Hàng quyến thuộc nỡ nào làm tăng nghiệp tội của người ấy?!
Ví như có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, lại vác theo đồ vật nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận gởi ít món đồ nữa, vì thế mà càng khốn đốn, nặng nề thêm."
Lược giảng:
Ðịa Tạng Vương Bồ Tát lại bạch tiếp: "Vì lẽ đó nên nay con đối trước Ðức Phật Thế Tôn, cùng Thiên Long Bát Boä— Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già—nhân và phi nhân v.v... mà khuyên bảo các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề, vào ngày lâm chung, cần phải cẩn thận, chớ giết hại và chớ gây tạo ác duyên, đừng gây ra những nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng bái tế quỷ thần, cầu xin vọng lượng, cũng không nên tế lễ cầu xin nơi những quỷ thần, ngoại đạo, cùng tất cả sơn yêu thủy quái." (Vọng lượng là thuộc loài sơn tinh thủy quái.)
Giảng đến đây, tôi nhớ có một bài kệ nói rằng:
Có người mê muội chẳng an khang,
Hứa giết heo dê tế quỷ thần,
Oan nghiệp sát sanh bao đời trước,
Khác nào trên tuyết phủ thêm sương?
Chớ tưởng heo dê thú vật mãi,
Hình dung biến đổi đã muôn lần,
Luân hồi xoay chuyển vay rồi trả,
Ðất trời lồng lộng trốn được đâu!
“Có người mê muội chẳng an khang,” (Hữu đẳng mê nhân bất an khang). Ở đây, "chẳng an khang" tức là bất ổn, không ổn thỏa, làm không được tốt.
“Hứa giết heo dê tế quỷ thần,” (Ðối thần kỳ hứa tái trư dương). Ở Trung Hoa có một phong tục sai lầm mà chúng ta không hề thấy xảy ra ở các nước phương Tây. Người Trung Hoa thường gọi việc tang ma cho người chết là "bạch sự" (việc trắng), còn việc kết hôn là "hồng sự" (việc đỏ). "Bạch sự" tức là "tang sự," là chuyện buồn; "hồng sự" thì là "hỷ sự," là chuyện vui. Bất luận là trong nhà gặp phải tang sự hay hỷ sự, người ta đều giết heo giết dê để cúng tế quỷ thần; hoặc muốn cầu xin thần linh việc gì đó, họ cũng đem gà đem vịt đến tế lễ. Quý vị chưa thấy cảnh người ta đem gà đến các nơi như miếu Thành Hoàng để cúng tế sao? Hạng người này chính là " mê muội chẳng an khang "—do mê tín, chẳng hiểu quy củ phép tắc nên không thấy "an khang," và vì thế mà làm việc gì cũng không thỏa đáng, không hợp lý cả!
Vậy, những kẻ ngu muội mê tín đó đến trước tượng của thần linh mà vái van cầu khẩn: "Xin Ngài phù hộ cho cha (hoặc mẹ, hoặc anh, hoặc em...) của con sau khi chết không bị đọa địa ngục; được vậy thì vài hôm nữa con sẽ giết heo, giết dê và đem đến cúng tế cho Ngài, để Ngài thọ dụng." Họ đem heo đem dê tới để "đánh bạc" với quỷ thần!
"Oan nghiệp sát sanh bao đời trước” (Sát sanh oan nghiệp tiền sanh sự") . "Sát sanh" là một thứ nghiệp oán thù. Ðời trước, quý vị đã có sát sanh, đã từng gây tạo oan nghiệp; nay trong đời hiện tại nếu quý vị lại tiếp tục sát sanh nữa, thì thế nào? Thì chẳng khác nào trên tuyết lại phủ thêm một lớp sương nữa vậy!
“Khác nào trên tuyết phủ thêm sương?” (Như hà tuyết thượng hựu gia sương?") Có tuyết xuống thì trời đã rét lạnh rồi, thế mà bây giờ lại thêm một lớp sương nữa, thì thời tiết lại càng băng giá, rét lạnh thêm nhiều; tương tự như thế, đời trước quý vị đã từng gây oan nghiệp rồi, nay lại tiếp tục tạo tội thì oan nghiệp lại càng chồng chất thêm vậy.
“Chớ tưởng heo dê thú vật mãi,” (Hưu vật nhận định thị trư dương) . Quý vị chớ nên cố chấp, khăng khăng cho rằng loài vật muôn kiếp vẫn là loài vật, đừng tưởng rằng heo mãi mãi là heo và dê mãi mãi vẫn là dê!
“Hình dung biến đổi đã muôn lần,” (Cải đầu hoán diện kỷ thiên trường) . Con người có thể đầu thai làm heo, và heo cũng có thể thác sanh làm người.
Quý vị có nhận thấy không? Dân tộc nào thích ăn thịt heo thì dân tộc đó đều có vẻ hao hao giống heo; quốc gia nào thích ăn thịt bò thì dân chúng trong quốc gia đó đều có cặp mắt từa tựa như mắt bò. Có nơi thì dân chúng đều không thích thịt heo hay thịt dê, mà chỉ thích ăn ếch nhái nên toàn quốc ai nấy đều có cặp mắt tương tự như mắt ếch vậy. Nói tóm lại, người dân của một nước mà thích ăn thịt của loài động vật nào, thì dân chúng trong nước đều có những nét đặc trưng giống loài động vật đó; cho nên, mỗi quốc gia đều có một chủng loại riêng biệt!
“Luân hồi xoay chuyển vay rồi trả,” (Như xa luân chuyển tương hoàn báo). Chúng ta vẫn như cái bánh xe, cứ tiếp tục lăn chuyển, tuần hoàn vay trả.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép rằng: "Dương phục vi nhân," có nghĩa là "dê lại làm người." Dê có thể làm người, thế thì heo không thể làm người sao? Chẳng những heo, dê có thể làm người, mà bất cứ sinh vật nào cũng đều có thể làm người được cả; đó chẳng qua chỉ là một sự "đổi xác" mà thôi. Một khi đã thay đổi thể xác rồi, thì quý vị sẽ không thể nhận ra được nữa. Linh tánh từ thân người có thể "dọn" sang thân heo, và linh tánh từ thân heo cũng có thể "dọn" sang thân người—người và vật đều có thể hỗ tương "dọn nhà" như thế. Hiện tại chúng ta được làm người, thì có thể ví như chúng ta đang ở nơi nhà cao cửa rộng; và đến khi chúng ta chạy vào con đường làm heo làm dê, thì chẳng khác nào đang từ nhà cao cửa rộng mà dọn sang nhà tranh vách đất, hoặc một nơi tồi tàn lụp xụp nhất để ở vậy; cho nên nói "như xa luân chuyển tương hoàn báo."
“Ðất trời lồng lộng trốn được đâu!” (Vân hải đằng không vô xứ tàng) . Kẻ không hiểu rõ thì cho rằng chúng sanh là mỗi loài mỗi khác; còn người đã đắc Túc Mạng Thông thì biết rằng giữa con người và các loài chúng sanh có một mối quan hệ liên đới. Trong âm thầm lặng lẽ, và cho dù ở những nơi mà con người không nhìn thấy được, như ngoài biển cả hoặc trong hư không, chẳng ai trốn thoát được nhân quả, mà cũng chẳng có chỗ nào để ẩn thân hầu trốn tránh nhân quả được cả! Luật Nhân Quả vĩnh viễn tồn tại trong khắp cõi hư không, thái không. Bởi "gieo nhân nào thì gặt quả nấy," cho nên nếu sát sanh thì phải chịu sự báo ứng của sát sanh. Quý vị gây tạo bất cứ nghiệp gì thì nghiệp đó đều tồn tại và chiêu cảm sự báo ứng; vì vậy không nên cầu xin nơi loài vọng lượng hoặc yêu tinh quỷ thần.
Bấy giờ, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát nói tiếp: "Vì sao thế? Vì việc sát hại cho đến tế bái đó không có mảy may năng lực lợi ích cho người mất." Việc hàng quyến thuộc của người chết giết heo giết dê để cúng tế các ác quỷ tà thần, chẳng mang lại chút năng lực nào có thể trợ giúp hoặc làm lợi ích cho người ấy cả; "mà chỉ kết thêm tội duyên, làm cho thâm trọng hơn thôi!" Việc sát sanh và tế lễ đó chỉ khiến cho tội chướng của người chết càng sâu nặng thêm mà thôi!
"Giả sử người chết đó, trong đời vị lai hoặc hiện tại sanh, đắc được phần Thánh Quả, sẽ sanh vào cõi trời, cõi người." Người ấy đã từng làm những việc công đức nên được phước báo, đáng được sanh vào cõi người hoặc cõi trời.
"Nhưng vì lúc lâm chung bị hàng quyến thuộc gây tạo ác nhân, gieo trồng ác nghiệp, làm cho người chết cũng mắc lấy ương lụy, phải đối biện."
"Ương lụy" tức là liên lụy, ảnh hưởng, làm cho kết quả trở thành không tốt đẹp.
Ở đây, "đối biện" tức là đối chất biện luận với Diêm La Vương. Ví dụ, Diêm La Vương có thể phán bảo: "Hiện nay người nhà của ông đã vì ông mà giết rất nhiều heo để cúng tế quỷ thần rồi đấy!"
Bấy giờ, người chết kia hẳn sẽ tự bào chữa: "Việc đó không liên quan gì tới tôi cả. Tôi nào có bảo họ giết heo giết bò gì đâu! Ðó là họ tự ý làm, tôi làm sao ngăn cản họ được!" Ðáng tiếc là ở địa ngục không có luật sư biện hộ, thành ra tự mình phải bào chữa cho mình vậy!
"Chậm sanh vào chốn tốt lành." Lẽ ra, người ấy đáng được sanh lên cõi trời sớm hơn, nhưng vì còn phải mất thì giờ để biện luận, nên việc vãng sanh bị chậm trễ rất nhiều.
"Huống chi là người sắp chết lúc sống chưa từng có chút thiện căn, phải y theo bổn nghiệp mà tự đọa ác đạo! Hàng quyến thuộc nỡ nào làm tăng nghiệp tội của người ấy?!" Trong trường hợp kẻ lâm chung trước kia chưa từng tạo được chút phước lành nào cả, thì căn cứ theo ác nghiệp đã gây ra, kẻ ấy phải đọa vào đường ác; thế thì, những bà con thân thích sao còn nhẫn tâm làm cho nghiệp tội của người đó nặng nề thêm? Cho nên, quý vị đừng vì người chết mà sát sanh, hoặc làm những việc tàn ác; mà hãy ăn chay, niệm Phật, tụng Kinh hồi hướng cho họ.
Ở đây có một tỷ dụ; tỷ dụ như thế nào? "Ví như có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày. Ðã ba hôm rồi người ấy chưa được ăn uống gì cả, thế mà lại vác theo đồ vật nặng hơn trăm cân. Ðã vậy, người đó bỗng gặp kẻ lân cận gởi ít món đồ nữa, vì thế mà càng khốn đốn, nặng nề thêm."
Tỷ dụ này ngụ ý rằng người đó vốn đã có tội rồi, lẽ ra hàng quyến thuộc nên vì người đó mà làm việc phước thiện hầu giảm bớt nghiệp tội; thế nhưng họ chẳng những không làm việc phước lành, mà còn nhân danh người đó để giết hại chúng sanh nữa!
Trong tỷ dụ trên, người từ xứ xa đến nọ vốn đã ba ngày trời không ăn không uống, trên lưng lại phải vác đồ rất nặng, cho nên đã kiệt sức, đi không muốn nổi rồi; thế mà hàng xóm lân cận lại còn gởi thêm vài món đồ nữa, vì vậy càng nặng và vất vả hơn trước nhiều. Ðiều này biểu thị cho việc người đó vốn đáng tội phải đọa địa ngục rồi, quý vị lại còn vì người đó mà sát sanh hại vật, gây thêm tội lỗi nữa, cho nên thời gian người đó phải ở trong địa ngục càng lâu dài hơn; vì thế mà nói là "càng khốn đốn, nặng nề thêm."
Trong tỷ dụ trên, "đồ vật nặng" là dụ cho Ngũ Uẩn; "nặng hơn trăm cân" là dụ cho Thập Ác; "kẻ lân cận" là chỉ cho gia quyến của người chết; "gởi ít món đồ nữa" là chỉ cho việc quyến thuộc vì người chết mà giết hại heo dê, làm cho nghiệp tội của người đó càng thâm trọng thêm. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
394. MẠNG NGƯỜI KHÓ GIỮ
Giống như cây gậy ném xuống nước, nó sẽ trồi trở lên rất nhanh; cũng vậy, mạng người cũng như cây gậy ném xuống nước, trồi lên rất nhanh, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà tai hoạn, khổ đau lại lớn, tai hoạn quá nhiều! (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
395. MẠNG NGƯỜI NHƯ MIẾNG THỊT NUNG
Giống như một miếng thịt nhỏ được bỏ vào nồi nước lớn, bên dưới lửa cháy hừng hực, sẽ tiêu tan rất nhanh; cũng vậy, mạng người cũng như miếng thịt tiêu tan kia, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ, tai hoạn lại lớn, tai hoạn rất nhiều! (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
528. QUÁ ÍT VỊ NGỌT
Giống như viên ngói mới được nhúng vào bồn nước, rồi đem ra ngay, để ở nơi có gió và nóng thì khô ráo liền; cũng vậy, mạng người cũng như viên ngói mới được nhúng vào bồn nước, rồi khô ráo ngay, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ tai hoạn lớn, tai hoạn quá nhiều! (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
604. TAI HỌA QUÁ NHIỀU
Lúc trời mưa lớn, nước giọt tạo thành bong bóng, thoạt hiện thoạt biến; cũng vậy, mạng người cũng như bọt nước, rất khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ tai hoạn rất lớn, tai hoạn quá nhiều! (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
+ Quán vô thường - Sanh già bệnh chết hàng ngày: ... Lễ trà tỳ của quốc vương Suddhodana được tổ chức bảy hôm sau đó. .... Bụt đứng lên đi ba vòng quanh hỏa đàn rồi tự tay châm lửa cho hỏa đàn. Trước khi châm lửa, người nói: Sinh, già, bệnh và chết là những gì phải xảy đến cho tất cả mọi người. Chúng ta phải nghĩ đến sinh, già, bệnh và chết trong đời sống hàng ngày để đừng bị chìm đắm trong dục vọng, để sống an lạc, thảnh thơi và làm cho cuộc đời chung quanh bớt khổ. Sinh, già, bệnh và chết cũng là lý thường nhiên. Người đạt đạo có thể đạt tới trạng thái thản nhiên trước sinh, già, bệnh, và chết. Trong tự tính của vạn pháp, không có gì sinh, không có gì diệt, không có gì còn, không có gì mất, không có gì thêm, không có gì bớt.
Hỏa đàn bốc cháy phần phật. Có tiếng chiêng tiếng trống hòa lẫn với tiếng tụng kinh trầm bổng. (Nguồn: Tứ đại tan dã - Thích Nhất Hạnh)
Nguồn: Tổng hợp Lời Phật dạy - Trung A Hàm
+ Các pháp tu xa lìa ác nghiệp - Phòng chánh chết uổng: Thiện nam, Tín nữ quyết chí hồi đầu tu hành theo Phật pháp, thường làm lành lánh dữ, nghiêm trì ngũ giới, chăm tu thập thiện, thường ngày đọc tụng Kinh chú (Nên trường kỳ tu một pháp môn, một bộ Kinh chú chủ đạo). Tất cả các pháp đều giúp Phật tử tích lũy vun bồi phúc báu, phòng chánh hoạn nạn, có nhiều Thần Hộ pháp đi theo bảo hộ, chánh chết uổng .... Nói chung tất cả các Pháp, các Kinh Chú đều rất vi diệu. Mời tham khảo bài viết: "Các Pháp tu Cải mệnh nhiệm mầu"
+ Pháp tu xa lìa Ác duyên hiểm nguy - Giữ được Tánh mạng an toàn - Yên ổn.
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì việc công chuyện tư, hoặc vì sự sanh sự tử, hoặc vì việc khẩn cấp, mà phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn hoặc đi ngang hiểm đạo; người đó trước tiên nên niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến, thì đi qua nơi nào cũng có các vị quỷ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi mãi mãi được an lạc, cho đến dẫu gặp cọp, sói, sư tử... cùng tất cả mọi thứ độc hại, cũng đều không thể làm thương tổn đến được.”
Lược giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì việc công chuyện tư, hoặc vì sự sanh sự tử—như có kẻ gặp phải vấn đề sống chết, cần phải báo tin cho một ai đó—hoặc vì việc khẩn cấp, mà phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn hoặc đi ngang hiểm đạo ...” “Hiểm đạo” tức là nơi vô cùng nguy hiểm, thường có các thú dữ như chó sói, cọp, beo... rình rập, hoặc bọn thổ phỉ chực sẵn để cướp bóc.
“Người đó trước tiên nên niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến.” Những người vì công việc phải dấn thân vào những chốn hiểm nguy như thế, thì trước khi lên đường, họ nên thành tâm trì niệm danh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ Tát đủ số mười ngàn lần; vì sao? Bởi nếu họ làm được như thế “thì đi qua nơi nào cũng có các vị quỷ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi mãi mãi được an lạc.”
“Cho đến dẫu gặp cọp, sói, sư tử..., các mãnh thú có thể ăn thịt người, cùng tất cả mọi thứ độc hại, cũng đều không thể làm thương tổn đến được.” Ngay cả những mãnh thú hay ăn thịt người cũng như các thứ độc hại khác, thảy dều không thể nào gây tổn hại cho người đó được.
Nay những người sắp sang Đài Loan (thọ Cụ Túc Giới, 1969) cũng chớ nên lo lắng thái quá, đi bằng máy bay cũng không có việc gì đâu! Chỉ cần quý vị dụng công tu tập Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn và trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thì tôi có thể bảo đảm cho sự an toàn của quý vị. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Không bị 15 loại chết khổ đau - Ác tử: Người tu Chú đại bi không bị chết ác tử. Quán Thế Âm Bồ-tát bạch với Ðức Phật: “Các loại ác tử đó là:
1. Một là không bị chết vì đói khát, khốn khổ.
2. Hai là không bị chết vì gông, tù, đòn roi.
3. Ba là không bị chết vì oan gia thù nghịch.... Chúng ta hầu như ai cũng có “oan gia đối đầu - Kẻ có oán thù/ chỉ có thù hận, oán ghét mình. Nói chung, họ bị bao phủ bởi một thứ oán khí u ám và sống trong sự thù ghét, hằn học, chống đối lẫn nhau.
4. Bốn là không bị chết vì chiến trận tương tàn. ... cho dù phải ra chiến trường chiến đấu với địch quân, cũng không bị chết vì tên bay đạn lạc.
5. Năm là không bị chết vì cọp, sói, ác thú tàn hại.... không bị cọp beo, chó sói, hoặc những thú dữ khác cắn chết hay tàn hại.
6. Sáu là không bị chết vì trúng độc rắn, rết, bò cạp....người nào chẳng may trúng phải nọc độc của chúng thì đành bó tay chịu chết, vô phương cứu chữa. Tuy nhiên, nếu quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì sẽ không bị nọc của các độc trùng đó làm hại đến tánh mạng.
7. Bảy là không bị chết vì nước cuốn, lửa thiêu.
8. Tám là không bị chết vì trúng phải độc dược.
9. Chín là không bị chết vì cổ độc tác hại. Ở Nam Dương, Singapore, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, và luôn cả ở tỉnh Quảng-đông (Trung Hoa), người ta có luyện được những loại thuốc độc cực mạnh và vô cùng lợi hại, gọi là “cổ độc.” Có rất nhiều loại “cổ độc”; có loại chỉ cần ăn một chút xíu nhưng khi vào đến bụng thì nó lại phình to ra, khiến cho nạn nhân bị trướng bụng mà chết. Tuy nhiên, nếu quý vị thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì không có độc chất nào có thể hại được quý vị.
10. Mười là không bị chết vì điên loạn, mất trí. Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bị chết do điên cuồng mê loạn, hoặc do đầu óc không được tỉnh táo.
11. Mười một là không bị chết vì núi lở, cây ngã, vách đá sụp.
12. Mười hai là không bị chết vì kẻ ác thư ếm... Có nhiều kẻ dùng “ác chú” để trù ếm, khiến cho người ta nằm mộng thấy những điều sợ hãi, hoặc dùng tà thuật để “thư” cho người ta chết. Kẻ ác thư ếm” tức là kẻ ác ấy có “tà chú” nên có thể âm thầm ám hại người khác ...Tà chú có thể làm cho đầu óc người ta trở nên mê muội, không còn tri giác, cũng không còn sáng suốt để làm chủ chính mình nữa; do đó bị kẻ dùng chú khống chế, sai sử một cách dễ dàng.
13. Mười ba là không bị chết vì tà thần, ác quỷ thừa cơ làm hại. Quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì tà thần, ác quỷ không có cơ hội hãm hại hoặc giết chết quý vị.
14. Mười bốn là không bị chết vì ác bệnh triền thân....Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bị mắc phải “ác bệnh - là các loại bệnh trầm trọng, ngặt nghèo, như bệnh tê bại, không nhúc nhích được, hoặc các bệnh nan y khác. Cancer (ung thư) cũng thuộc loại “ác bệnh” vậy.
15. Mười lăm là không bị chết vì tự sát, tự tử. Tức là tự đi tìm cái chết cho mình bằng cách uống thuốc độc, treo cổ, nhảy xuống giếng, lao xuống biển… hoặc vô số cách khác, vì chính mình không còn muốn sống nữa. Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bao giờ tự hủy hoại đời mình. (Nguồn: Chú Đại Bi - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người khó sanh đẻ - Sanh khó - Khóa sinh - Sinh khó - Sinh đẻ khó.
- Lại nữa, Diệu Cát Tường! Sau khi Ta diệt độ, trong đời ác năm trược sẽ có những người nữ đang mang thai mà giết hại động vật để lấy ăn thịt, hoặc ăn các loại trứng chim. Bởi chẳng có một chút lòng từ mẫn nên ở đời hiện tại, họ sẽ mắc phải quả báo đoản mạng và quả báo sanh khó. Do bởi sanh khó nên họ có thể bị chết. Hoặc dù có sanh được đứa con này ra đi nữa, nhưng nó là oan gia trái chủ chứ không phải đứa con hiền đức. Nhưng nếu họ có thể phát thệ nguyện rộng lớn và biên chép Kinh này, thì sẽ liền sanh dễ dàng, không có các tai chướng, mẹ con đều an vui. Như muốn con trai hay con gái thì sẽ tùy theo ước nguyện mà được sanh cả.” (Nguồn: Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé)
+ Gặp hoạn nạn - Khó sanh đẻ thì Niệm Quán Thế Âm: Hiện nay đang lúc tình thế hoạn nạn, bất luận là ai, đều phải thường niệm thánh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm. Dẫu gặp phải những nguy hiểm như nước, lửa, đao binh và bệnh tật do oán nghiệp v.v… mà nếu có thể chí thành niệm, chắc chắn chẳng đến nỗi nguy hiểm! Hơn nữa, nữ nhân đang khi sanh nở, hãy nên chí thành niệm thánh hiệu Quán Âm ra tiếng rõ ràng (lúc ấy chớ nên niệm thầm trong tâm, vì lúc ấy phải dùng sức đẩy đứa con ra, nếu niệm thầm chắc bị bệnh tổn khí) sẽ liền an nhiên sanh.
nở, chắc chắn chẳng bị khổ vì khó sanh. Dẫu khó sanh sắp chết, dạy người ấy niệm, sẽ tức khắc an nhiên sanh nở. Có thể đem điều này bảo khắp với hết thảy mọi người, chính là cứu sẵn sản nạn, cứu sẵn tánh mạng, mà con gái, con dâu v.v… của chính mình cũng đều cùng được Phật, Bồ Tát từ bi gia bị.
Đừng cho rằng Quang chẳng nên thốt ra lời này! Cổ nhân nói “sanh tử cũng lớn thay!” Lâm chung trợ niệm là giúp cho người chết được vãng sanh. Khi sanh nở niệm Quán Âm chính là giúp cho người sống cả mẹ lẫn con được lìa nguy hiểm....
Chí thành niệm Phật, lợi ích ấy lớn lắm. Đời có kẻ ngu chẳng biết biến - thông, chẳng hạn như ăn mặn thì chẳng dám niệm. Lại như nữ nhân khi có kinh nguyệt hoặc sanh nở bèn chẳng dám niệm. Phải biết: Ăn chay là tốt nhất, nhưng ăn mặn cũng vẫn niệm được. Có kinh nguyệt thì hãy thường rửa ráy sạch sẽ, đừng dùng tay bẩn chưa rửa chạm vào kinh, tượng và thắp hương v.v… Hễ rửa ráy sạch sẽ thì chẳng ngại gì. Nữ nhân khi sanh nở phải niệm “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” ra tiếng, chắc chắn chẳng đến nỗi bị sanh khó. Dẫu bị sanh khó mà chịu chí thành niệm Ngài, cũng chắc chắn sanh ngay. ...nhiều người mấy ngày mới sanh được, hoặc phải mổ, hoặc do sanh nở mà chết, Nếu niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì không ai bị khó sanh!
"Niệm Phật, Bồ Tát đúng" Lúc bình thường ắt phải cung kính, khiết tịnh; còn lúc ấy (tức lúc sanh nở) lõa lồ bất tịnh vốn là chuyện bất đắc dĩ, là chuyện có liên quan đến tánh mạng. Chỉ cần trong tâm chí thành, chẳng cần phải luận trên hình tướng bề ngoài. Nếu là lúc bình thường, ắt cần phải mũ áo tề chỉnh, tay lẫn mặt đều sạch sẽ thì mới được niệm ra tiếng. Nếu không, chỉ niệm thầm trong tâm thì công đức vẫn giống hệt như vậy. Vì thế, lúc ngủ nghỉ, tắm rửa, tiêu tiểu, hoặc đến chỗ không sạch sẽ, đều niệm thầm trong tâm.
- Nữ nhân khó sanh chẳng phải là có oán thù với đứa con sắp sanh mà chính là oan gia đời trước, gây trở ngại hầu sản phụ không sanh được, khiến cho bị đau khổ. Sản phụ hãy niệm Phật và những người chăm sóc chung quanh đều cùng vì sản phụ ấy niệm Phật thì những kẻ oan gia kia nghe tiếng niệm Phật sẽ liền tháo lui, chẳng dám cản trở! Nếu là người lúc bình thường luôn niệm Phật chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi mắc sự nguy nan này. Dẫu là người lúc bình thường chẳng niệm Phật mà lúc ấy có thể chí tâm niệm thì chắc chắn cũng được dễ sanh! Kẻ ngu chấp lý hẹp hòi, cho là hễ đàn bà trong nhà sanh con thì cả nhà đều chẳng được cúng Phật, cũng chẳng được niệm Phật; nếu không, sẽ mắc tội!... chẳng biết quyền biến, đáng thương vậy thay! (Thư gởi cư sĩ Tự Giác) ( Quyển thượng - Ấn Quang Đại Sư Văn sao)
+ Câu Sinh - Câu sanh: Thuật ngữ trong Phật giáo trong việc phát sinh Tướng các Trần cảnh
Do từ vô thuỷ, tâm ông điên loạn. Tri kiến vọng phát mãi mãi không dừng, làm cho tri kiến sinh mệt nhọc. Giảng giải:
"Do từ vô thuỷ, tâm ông điên loạn". Từ vô thuỷ kiếp đến nay, chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể–chân tánh–của ông đã bị điên đảo. ‘Điên đảo’ ở đây là chỉ cho ‘sinh tướng vô minh, đó là từ câu sinh. Từ sinh tướng vô minh phát khởi lên tri thức phân biệt các hiện tượng, vốn cũng là tự câu sinh. ‘Điên đảo’ chỉ cho vô minh. Còn ‘loạn’ chỉ cho Tam tế đã đề cập ở trước. Đó là: 1. Nghiệp tướng - 2. Năng kiến tướng - 3. Cảnh giới tướng;
1. Nghiệp tướng khiến cho phát sinh Năng kiến tướng, Năng kiến tướng lại làm sinh khởi Cảnh giới tướng . Điều nầy rất vi tế, tuy vậy, đó không phải là điều mà hàng phàm phu biện biệt được.
Một niệm bất giác sinh ra tam tế. Khi tam tế này đã phát khởi, thì liền có nút thứ nhất. Thời điểm mà Tri kiến vọng phát mãi mãi không dừng, là khi cảnh giới tướng làm duyên để tăng trưởng thành lục thô. Điều nầy cũng đã được giảng giải ở đoạn trước. Lục thô là:
Trí tướng: Trí nầy chỉ cho trí thế gian, tức thế trí biện thông. Nó bao gồm cả hiếu biết về lính vực khoa học, kỹ thuật, các loại nghề nghiệp. Vì quý vị ‘phát khởi vọng kiến,’ nên sinh khởi nên Trí tướng, và phát sinh ra cái thứ hai trong Lục thô.
Tương tục tướng: Nó không bao giờ dừng. Trí tướng chính là nút thứ hai, và Tương tục tướng chính là nút thứ ba.
Chấp thủ tướng: Sinh khởi tính chấp trước.
Kế danh tự tướng .
Khởi nghiệp tướng (production of karma).
Nghiệp hệ khổ tướng ( karmic-bound suffering). (Nguồn: HT Tuyên Hóa-Kinh TLN - Q. 5)
+ Nhân loại thời tiền sử đến xuất hiện mặt Trời và Trăng Sao: Nay Đại Nghi Quỹ Vương mà Ta (Đức Phật) đã nói, đang có sức mạnh lớn, lợi ích cho chúng sinh. Song, Thế Gian kia, lúc Kiếp Sơ (Kalpāgra) thành thời tất cả chúng sinh ở trong hư không, đi đứng tự tại. Rồi ở thời ấy không có già không có chết. Lai thời ấy không có Tú (Nakṣatra), không có mặt trời (Āditya), mặt trăng (Candra) cũng không có thời tiết, cũng không có Âm Dương, cũng không có hàng Trời, Người, A Tu La….
Lại, thời ấy tuy có chúng sinh nhưng chưa có Tộc Tính. Con người đều thanh tịnh, không có thiện không có ác, cũng không có cái để ăn, cũng không có người ăn, cũng không có trì Trai, cũng không có Chú Pháp. Phần lớn chúng sinh ấy chỉ có Tưởng của Thế Gian, do nghiệp quá khứ dẫn dắt Nhân (hetu) nên rơi xuống đất chẳng thể bay trên hư không. Lúc đó liền có cái để ăn, liền có tham lam keo kiệt, thân đã nặng trược nên Đại Lực liền bị mất. Khi ấy liền có mặt trời, mặt trăng, tinh tú… rồi phân chia ngày đêm, liền có thời tiết cùng với Âm Dương. Liền nói trên Trời, Nhân Gian hơn kém có khác… cho nên có Trời, Người, A Tu La. Ta ở thời ấy, thân là Bồ Tát nhìn thấy chúng sinh kia có việc như vậy xong, Tâm thương xót cho nên hiện thân khác. Ấy là: hiện làm thân Tiên Nhân, hoặc hiện thân Phạm Vương, thân Đại Tự Tại Thiên, thân Na La Diên, thân Ca Lâu La cho đến mọi loại thân của hàng Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả…Ở trong mỗi một đời vì tất cả chúng sinh luôn thường giải nói nghĩa của Bồ Đề Hạnh.
Lại nữa, khi Ta [ Đức Phật ] ở quá khứ làm Bồ Tát thời tất cả chúng sinh trong Thế Gian: ngu si, hắc ám, không có Trí, không có Tuệ. Ta vì nhóm này nói tất cả công xảo kỹ nghệ của Thế Gian, Âm Dương, toán số, Điển Tịch Vi Đà (Veda), Chính Pháp, Tà Pháp, Giới Luật, Bản Hạnh cho đến nhóm Thanh Minh Luận. Tuy Ta ở đời quá khứ như vậy, vì Thế Gian nói như việc này, nhưng Ta cũng không có sở đắc, sở tri mà chỉ vì Bồ Đề (Bodhi) với nhóm giải thoát (Mokṣa). Như vậy tuy đi trong luân hồi nhưng luân hồi ấy chẳng thể cột trói.......
Do Nghiệp Lực này chẳng thể giải thoát Nhân Quả thiện ác, nên Ta nói một Pháp Âm Dương, Tinh Tú phân chia nơi thiện ác với nói bốn nhóm hộ thế là đất, nước, lửa, gió với chỗ mà bốn Đại này hòa hợp tạo làm, phát sinh mọi loại Tập Nhân (nhân gom chứa) của chúng sinh rồi vì lúc ấy tu Chân Ngôn Hạnh khiến được thành tựu....... [Nguồn: Văn Thủ Bồ Tát Pháp Kinh pdf -Tr 377]
+ Con người tiến hóa: Toàn bộ tầm quan trọng của cả quá trình tiến hóa, xét cho cùng, được đặt trên sự phát triển của tâm thức: ý thức thông minh làm sinh động các hình tướng, ở mọi trình độ khác nhau. ....Tác động 1 của linh hồn, vào lúc Biệt Ngã Hóa:
- Biệt ngã hóa, điểm đạo và đồng nhất hóa, gồm toàn bộ quá trình sự nghiệp của con người, từ lúc y xuất hiện vào trong giới nhân loại cho đến khi y chuyển ra khỏi nó ở cuộc điểm đạo thứ ba, và hoạt động tự do trong giới thứ năm, giới Thần Thánh (God). Tác động của linh hồn mang lại sự tiến hóa này. (Trích TLHNM)
I. Con Người tiến hóa qua Thập Giá: Nhờ Nghiên Cứu các Thập Giá, Chiêm Tinh Gia biết ai đó đang ở đâu trên đường tiến hóa. Mỗi Thập giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (Là các biến phân ba mặt của sự sống duy nhất). Chân Sư DK (CTHNM, 379, 380)
1- Thập Giá Cơ Bản ‒ Aries, Cancer, Libra, Capricorn
a. Về con người thông thường, cá biệt.
b. Về các cội nguồn tập thể.
c. Về ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 1.
2- Thập Giá Cố Định ‒ Taurus, Leo, Scorpio và Aquarius ‒ y sẽ đi đến lý giải chính xác về các sự sống:
a/ Của các điểm đạo đồ.
b/ Của sự thu hút tập thể thành tổng hợp.
c/ Của ý nghĩa về cuộc điểm đạo thứ 3.
3- Thập Giá Khả Biến ‒ Gemini, Virgo, Sagittarius và Pisces ‒ Y có thể đi đến ý nghĩa:
a/ Của các đệ tử.
b/ Của hoạt động tập thể.
c/ Ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 2.
II. Tiến hóa qua Cung Hoàng Đạo: Chia làm 3 nhóm theo trình tự phát triển - Tiến hóa CHIỀU ĐẢO NGHỊCH:
1. Chuẩn Bị: Một trí tuệ được kiểm soát, một năng lực để ghi nhận sự khai ngộ, một khả năng để tiếp xúc với khía cạnh bất tử và nhận ra một cách trực giác giới tinh thần, giờ y sẵn sàng việc lớn lao hơn.
- Bạch Dương linh hồn khoác lấy lớp vỏ trí tuệ - Linh hồn biết tư duy.
- Kim Ngưu thế giới dục vọng và phương tiện của cảm xúc phát triển - Linh hồn hữu thức
- Song Tử, một thể năng lượng được kiến tạo, một linh hồn sống động, thể dĩ thái được tạo ra.
- Trong Cự Giải công việc giáng sinh bắt đầu, bản chất tứ phân được biểu lộ.
2. Đấu Tranh cho Thành Tựu: Từ trận chiến vĩ đại mà thông qua đó cá nhân tự ý thức xuất hiện từ đám đông trong Cự Giải. Đây là 4 Cung của khủng hoảng và của sự nỗ lực lớn lao, tất cả sự khai ngộ, trực giác và năng lực linh hồn đều cần đến.
- Biết mình là cá thể, Linh hồn đạt được cá tính trong Sư Tử.
- Là đấng Christ tiềm năng, trở thành người nuôi dưỡng các ý tưởng và năng lực tiềm tàng trong Xử Nữ.
- Nỗ lực cân bằng các cặp đối nghịch, chao đảo dữ dội từ cực đoan này đến cực đoan khác trong Thiên Bình.
- Phải chịu sự tác động, kỷ luật của thế giới ảo tưởng và hình tướng, trở thành người chiến thắng ảo tưởng trong Hổ Cáp.
* 5 Kỳ Công đầu: “Chúng ta có thể xem 5 kỳ công đầu tiên (Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, và Sư Tử) là Con Đường Dự bị, và việc giết chết con Sư Tử Nemea là đỉnh điểm của hành trình gian khó đó. Bây giờ y sẵn sàng bước vào Con đường Đệ tử, trên đó đấng Christ nội tại đang dần tiết lộ, vật chất đang dần phục vụ cho linh hồn sử dụng, và phương diện hình sắc chỉ đơn giản được xem là “mẹ của đấng Christ Hài đồng”
3. Thành Tựu: Những thành quả đạt được và các quyền năng đã được phát triển. Người chí nguyện đã thoát ra khỏi thế giới của huyễn cảm và sắc tướng, và tâm thức của y bây giờ không chịu những hạn chế của chúng:
– Y có thể là cung thủ trong Nhân Mã, đi thẳng đến mục tiêu.
– Y có thể là con dê trong Ma Kết, leo lên ngọn núi Điểm đạo.
– Y có thể là người làm việc thế gian trong Bảo Bình
– Và là Đấng Cứu Thế trong Song Ngư
Vì thế, y có thể tóm tắt trong mình tất cả những gì đạt được trong giai đoạn chuẩn bị và trong những trận chiến quyết liệt trong 4 cung của hoạt động nỗ lực; (Nguồn: Các Kỳ Công)
+ Ba cách tiến hóa (Thuận chiều và Nghịch chiều)_Chân Sư DK (CTHNM, 295):
1. Giai đoạn quá khứ xa xăm đã qua - Không xét: Sự tiến bộ của nhân loại từ Aries đến Pisces, qua Taurus.
2. Ý nghĩa thuận chiều Vật chất - Tiến Hóa Công Truyền (Ngoại Môn = Hiện Tại): Tiến bộ của con người cá biệt diễn ra ngược lại với tiến bộ của tập thể; ở giai đoạn này, cá nhân tiến theo chiều kim đồng hồ từ Aries đến Taurus, xuyên qua Pisces. Sự sống của y lúc đó và về lâu về dài hầu hết là ngược với xã hội (anti-social) theo ý nghĩa tâm linh; y trở nên ích kỷ (selfish) và duy ngã (self-centred, trụ vào bản ngã). Các cố gắng của y đều dành cho chính y, cho sự thỏa mãn của y, riêng y và các hoạt động của phàm ngã trở nên ngày càng mạnh. Đây là tình trạng hiện tại đối với quần chúng.
3. Ý nghĩa Nghịch chiều/ Đảo Ngược - Tiến Hóa Bí Truyền (Nội Môn = Tương Lai): Cùng chiều với "giai đoạn 1". Tiến bộ của con người được tái định-hướng từ Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus. Trong giai đoạn cuối cùng này, y quay trở lại cùng phương pháp được hướng dẫn, tức nhịp điệu và chừng mực của hoạt động quần chúng trước kia nhưng lần này với các thái độ được thay đổi và đang thay đổi của việc phụng sự không ích kỷ, một phàm ngã được hiến dâng cho việc phụng sự nhân loại và với một sự tái định hướng tự ý của các năng lực của y sao cho chúng được hướng đến việc tạo ra sự tổng hợp và cảm thông. Việc này sẽ là tình huống trong tương lai đối với quần chúng.
* Nhà chiêm tinh học của tương lai sẽ phải ghi nhớ cẩn thận ba cách tiến hóa này. Đó là Thiên Cơ như hiện tại chúng ta có thể nhận biết được nó.
* Ví dụ với Cung Xử Nữ: Là cung thứ 6 xét theo cách này của Hoàng đạo (chiều Nghịch/ Đảo ngược) - Cung thứ 7 nếu người ta không xét vòng đảo ngược (Chân Sư DK_CTHNM, 285)
+ Nhân loại tiến hóa siêu vượt: Cuối chu kỳ quy nguyên Thái dương hệ chúng ta ..... Một phần của giới động vật sẽ tạm thời tiến vào thời kỳ qui ẩn tạm, như vậy để thoát ra năng lượng sử dụng cho tỷ lệ còn lại và tạo ra các kết quả như đã đề cập đến bởi nhà tiên tri của Do Thái (Thánh Kinh, Isaiah 11:6) khi vị này nói đến “muông sói sẽ ở với chiên con”; lời bình luận của tiên tri đó “một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi” là việc bàn rộng về sự kiện huyền linh rằng 3/5 nhân loại sẽ bước lên Thánh đạo, “con trẻ” là tên gọi dùng cho đệ tử dự bị và đệ tử chính thức. Trong giới thực vật và khoáng chất, sự biểu lộ tương tự sẽ xảy ra, nhưng với bản chất thật quá khó hiểu cho chúng ta. (Nguồn: LVLCK, Tr 494)
+ Mọi hình hài PHẢI tiến hóa qua chu kỳ: .... Cho đến nay, không có một hình hài nào được hoàn hảo, và chính vì sự kiện này mà cần phải có sự tiến hóa theo chu kỳ, và việc sản xuất các hình hài liên tục cho đến khi chúng đạt gần được giống như thật trong thực tế và trong hành động. Phương pháp tạo ra hình hài có thể được liệt kê như sau (LVLCK, tr 926):
+ Trình tự tiến hóa của các Giống Dân (gradual exolution of the Races). Năm pho tượng (ở vùng Trung Á, Bamian -ND) này là tài liệu bất diệt của Giáo Lý Huyền Môn về trình tự tiến hóa của các Giống Dân. Pho tượng lớn nhất tiêu biểu cho Giống Dân thứ nhất của nhân loại, thân thể khinh thanh của Giống Dân này được lưu lại trong đá cứng bền chắc, dùng cho việc học hỏi của các thế hệ mai sau, nếu không thì ký ức về điều ấy không bao giờ tồn tại sau cơn đại hồng thủy nhấn chìm Châu Atlantis. Tượng thứ hai cao 120 feet (36,57m), tượng trưng cho Giống Dân Hãn Sinh. Tượng thứ 3 cao 60 feet (18,28m) làm sống lại giống người xuống thấp (fell) và đó mở ra giống người đầu tiên bằng xác thịt do cha mẹ sinh ra, mà hậu duệ cuối cùng được tiêu biểu bằng các tượng trên đảo Easter, Những người này chỉ có tầm vóc từ 20 đến 25 f. (6m - 7,60m) ở vào thời Châu Lemuria bị chìm ngập, sau khi hầu như bị hủy diệt bởi núi lửa. Giống Dân thứ tư có tầm vóc còn nhỏ hơn nữa, tuy vẫn còn khổng lồ so với Giống dân thứ 5 hiện nay của chúng ta, Giống Dân hiện nay ở mức tiến hóa tột cùng so với những Giống dân trước. Thế thì đó chính là những “Người Khổng Lồ” của thời xưa, tức Gibborim của thời tiền và hậu Đại Hồng Thủy của Thánh Kinh (Bible). Họ đã sống sung túc cách đây một triệu năm hơn là chỉ cách đây từ ba đến bốn ngàn năm.(GLBN 3, 339)
+ Sự phát triển tuần tự của nhân loại, bạn có các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn ý thức động vật.
2. Cá nhân được an trụ vào tình cảm, có tính ích kỷ và bị chi phối bởi dục vọng.
3. Hai giai đoạn trên, cộng với một hiểu biết trí tuệ ngày càng tăng về các tình huống chung quanh.
4. Giai đoạn có trách nhiệm với gia đình hoặc bạn bè.
5. Giai đoạn của tham vọng và của sự khao khát đối với ảnh hưởng và quyền lực trong một lĩnh vực biểu hiện nào đó của con người. Điều này dẫn đến nỗ lực mới.
6. Sự phối-kết năng lực phàm-ngã dưới tác nhân kích thích ở trên.
7. Giai đoạn ảnh hưởng được vận dụng một cách ích kỷ và thường có tính chất phá hoại, bởi vì cho đến nay những vấn đề cao siêu không được ghi nhận.
8. Giai đoạn có một ý thức tập thể phát triển đều đặn. Giai đoạn này được xem như là:
a/ Một lĩnh vực cho cơ hội.
b/ Một địa hạt phụng sự.
c/ Một nơi mà trong đó sự hy sinh vì lợi ích của mọi người trở nên có thể xảy ra một cách vinh quang.
Giai đoạn sau cùng này đặt một người lên con đường đệ-tử, không cần phải nói rằng nó bao gồm giai đoạn của thời kỳ trước đó, là thời kỳ dự bị hay thử thách. (Trích đoạn chương X trang 396, 397 quyển Luận về Chánh thuật)
+ Vương quốc thứ tư trong tự nhiên nhất định đã được thu hút tiến lên hướng đến vương quốc thứ năm đang xuất hiện. (SPCCQG/ DN 112)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
Xem: Các giai đoạn tiến hóa của Phàm ngã- Con người
Xem: Biệt ngã tính/ Ngã hóa;
Xem: Phân nhóm/ Loại về Hạng người ....
Xem: Điểm 6 mục Quy Luật 5 - Cấu Tạo Con Người 13- Thể Hồng Trần
+ Định Luật Luân Hồi: (Law of Reincarnation) Toàn thể mục đích của Luật Luân Hồi là đi đến chỗ sau rốt Chân Ngã sẽ học được cách tạo ra một hiện thể của tâm thức (vehicle of consciousness), để, nhờ hiện thể đó, chân ngã có thể phản chiếu ra (mirror forth) mọi trạng thái thuộc Đấng Thánh Linh (divinity, Phật Tánh, Chơn Như) của nó dưới trạng thái quân bình hoàn hảo. (VLH, 140)
+ Định luật Luân Hồi (Law of Rebirth, Luật Tái Sinh): Định luật này là hệ luận chính của Định luật Tiến Hóa. Ở Tây phương, định luật chưa bao giờ được hiểu đúng, còn ở Đông phương, nơi mà định luật này được thừa nhận là nguyên lý cai quản sự sống, nó lại tỏ ra không hữu ích vì có hậu quả ru ngủ (soporific) và gây hại cho sự tiến bộ. Đạo sinh phương Đông xem luật này như là dịp đem lại cho họ nhiều thì giờ; điều này đã làm cho nỗ lực mạnh mẽ để đạt mục tiêu thành vô hiệu. Người Thiên Chúa giáo bậc trung lầm lẫn định luật Luân Hồi với cái mà họ gọi là “thoái bộ luân hồi của linh hồn” (“the transmigration of souls”) và thường tin rằng luân hồi có nghĩa là chuyển con người vào thân thể của con thú hay của các hình thức sự sống thấp kém hơn. Chẳng đúng chút nào cả. Khi sự sống của Thượng Đế tiến tới qua hết hình hài này đến hình hài khác thì sự sống đó trong các giới dưới nhân loại trong thiên nhiên cứ tuần tự tiến tới từ các hình hài khoáng chất thành hình hài thảo mộc và từ thảo mộc thành hình hài động vật; từ giai đoạn hình hài động vật, sự sống của Thượng Đế chuyển vào giới nhân loại và chịu sự chi phối của Luân Hồi, chứ không phải Luật Thoái Bộ Luân Hồi. Đối với những ai biết được ít nhiều về Luật Tái Sinh hay Luân Hồi (Reincarnation) thì lầm lẫn này có vẻ buồn cười. Giáo lý hay thuyết luân hồi giáng nỗi sợ hãi xuống người Thiên Chúa Giáo chính thống; tuy nhiên, nếu có ai đặt với họ câu hỏi mà các môn đồ đã hỏi Đức Christ về người mù: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, người hay cha mẹ người, mà người sinh ra thì mù như vậy?” (John IX:2) thì họ không chịu nhận các ngụ ý đó, hoặc là họ tỏ vẻ cười nhạo hay nao núng (dismay) khi xảy ra trường hợp đó. Nói chung, cách trình bày cho thế gian ý tưởng về luân hồi của các nhà khảo cứu huyền học hay các nhà Theosophy bậc trung đều đáng phàn nàn. Đáng phàn nàn vì ý tưởng đó đã được trình bày một cách thiếu sáng suốt. Cái hay nhất của họ có thể được nói đến là họ đã làm cho quảng đại quần chúng được làm quen với lý thuyết này. Tuy nhiên, nếu được trình bày một cách sáng suốt hơn thì có lẽ thuyết này đã được chấp nhận rộng rãi hơn ở Tây phương. Nếu mục tiêu của Đức Christ là giảng dạy về các mối liên hệ đúng đắn giữa con người ở khắp nơi thì giáo huấn của Ngài phải nhấn mạnh vào Luật Luân Hồi. Điều này tất nhiên phải như thế, vì khi thừa nhận định luật này, người ta sẽ tìm được giải pháp cho mọi vấn đề của nhân loại và giải đáp được nhiều nghi vấn của con người. Triết thuyết này sẽ là một trong các chủ đề then chốt (keynotes) của tôn giáo mới trên thế gian, cũng như là tác nhân soi sáng để hiểu rõ hơn các sự việc trên thế giới. Trước đây, lúc Đức Christ còn hiện hữu trên cõi trần, Ngài đã nhấn mạnh sự thật về linh hồn và giá trị của cá nhân. Ngài nói cho con người biết rằng họ có thể được cứu vớt bằng sự sống của linh hồn và của Christ nội tâm. Ngài cũng nói rằng “Nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời” (“except a man be born again, he cannot see the kingdom of God”– John III:3). Chỉ có linh hồn mới có thể làm công dân của cõi đó. (Trích T. Kinh, 91).
+ Luật Luân hồi/ Nghiệp quả: ... Nên nhớ rằng, trong thực tế, mọi nhóm huyền linh và các tác phẩm về huyền học đều thiếu sáng suốt khi đặt tìm quan trọng vào tiền kiếp (past incarnation) và vào việc nhớ lại tiền kiếp. Việc nhớ lại này không thể kiểm chứng hợp lý được – Bất cứ ai cũng có thể nói hay đưa ra chuyện gì túy thích. Cách giảng dạy đó đã đưa ra nhiều quy luật tưởng tượng được cho là chi phối phương trình thời gian (time equation) và khoảng cách giữa các kiếp sống mà quên rằng thời gian là một năng lực của ý thức não bộ (brain–consciousness) và khi tách rời khỏi bộ óc thì thời gian không có nữa (non–existent); người ta đã luôn luôn nhấn mạnh vào việc trình bày các mối liên hệ theo sự tưởng tượng. Từ trước đến giờ, giáo huấn được đưa ra về luân hồi đã làm hại nhiều hơn là lợi. Chỉ có một yếu tố vẫn còn giá trị: hiện giờ sự hiện hữu của Luật Luân Hồi đã được hàng ngàn người bàn bạc và chấp nhận. Ngoài việc biết được định luật này có thật, chúng ta không biết nhiều về nó. Những ai do kinh nghiệm mà biết được bản chất thật của việc luân hồi đều nghiêm chỉnh bài bác các chi tiết không thể có và thiếu sáng suốt được các đoàn thể huyền linh học và Theosophy đưa ra như là có thực. Luật Luân Hồi vẫn có, nhưng cho đến nay, chúng ta chưa biết gì về các chi tiết tác động của nó. Chỉ có thể nói vài điều về luật này một cách chính xác và các điều này cho thấy không có sự mâu thuẩn nào:
1. Định luật Luân hồi là một định luật thiên nhiên vĩ đại trên hành tinh chúng ta.
2. Đó là một tiến trình được thiết lập và tiến hành theo định luật Tiến hóa.
3. Nó liên quan mật thiết và bị chi phối bởi Luật Nhân Quả.
4. Đó là tiến trình phát triển liên tiếp, giúp con người tiến hóa, từ các hình hài thô sơ nhất của chủ nghĩa vật chất thiếu suy xét đến sự hoàn thiện tâm linh và nhận thức sáng suốt, giúp cho con người trở thành thành viên của Thiên Quốc.
5. Nó giải thích các dị biệt giữa con người và – cùng với Luật Nhân Quả (ở phương Đông được gọi là Luật Nghiệp Quả) – nó giải thích các dị biệt về hoàn cảnh và thái độ đối với đời sống.
6. Đó là biểu hiện cho trạng thái ý chí của linh hồn, chứ không phải là kết quả của bất cứ việc ấn định nào của hình hài; chính linh hồn trong mọi hình hài mới luân hồi, chọn lựa và kiến tạo các thể xác, thể cảm dục và hạ trí thích hợp để nhờ đó mà học được các bài học cần thiết kế tiếp.
7. Đối với nhân loại, định luật Luân hồi tác dụng trên cõi linh hồn. Việc chuyển kiếp (incarnation) được thúc đẩy và điều khiển từ phân cảnh linh hồn, trên cõi trí.
Linh hồn chuyển kiếp theo nhóm, theo chu kỳ và theo định luật, mục đích để đạt được các liên giao hoàn toàn với Thượng Đế và với đồng loại.
8. Theo luật Luân Hồi. Việc phát triển tăng tiến bị chi phối, phần lớn bởi nguyên khí trí tuệ, vì “khi con người suy tưởng như thế nào trong tâm thì y trở nên như thế ấy” (“as a man thinketh in his heart, so is he”). Các lời vắn tắt này cần được xem xét thật kỹ càng.
9. Theo Luật Luân Hồi, con người từ từ phát triển thể trí, kế đó, thể trí bắt đầu kiểm soát bản chất xúc cảm, tình cảm và sau rốt phát hiện ra linh hồn cùng là bản chất và môi trường của linh hồn đối với con người.
10. Ở mức độ phát triển này, con người bắt đầu bước lên Con Đường Trở Về Cội Nguồn, và sau nhiều kiếp sống, dần dần tự định hướng tiến tới Thiên giới.
11. Khi nào nhờ mở được trí, có được minh triết, thực hành việc phụng sự và do hiểu biết, con người đã học được việc không đòi hỏi gì cho bản ngã hay chia rẽ, thì bấy giờ, y mới từ bỏ được lòng ham sống trong ba cõi thấp và mới thoát được Định luật Luân Hồi.
12. Giờ đây, con người có được ý thức tập thể, biết được nhóm linh hồn của mình, biết được linh hồn trong mọi hình hài và đã đạt được – như Đức Christ đề ra – giai đoạn hoàn thiện giống như Đấng Christ, tiến đến “được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Đấng Christ” (Bản dịch T.Kinh, nhà XB T. Ch. Giáo, trang 201). (“Measure of the stature of the fulness of the Christ” – Eph. IV:13) (STLCĐC, 115–119)
Xem thêm: Tổng hợp về Luân hồi sáu cõi
+ Các chu kỳ sống - Tiến hóa: Toàn thể phương pháp tiến hoá chỉ đơn giản là hiệu chỉnh khía cạnh vật chất so với khía cạnh Tinh thần, sao cho khía cạnh vật chất tỏ ra hoàn toàn thích hợp như là một thể biểu lộ cho khía cạnh tinh thần. Chu kỳ sống của Con là 100 năm của Brahma, theo cùng ý nghĩa giống như con người có một chu kỳ sống gồm một số năm tuỳ theo nghiệp quả của y. Trong kiếp sống của một người, y biểu lộ những gì có trong y vào giai đoạn đặc biệt của mình, và dần dần phát triển từ giai đoạn tiền sinh (ante-natal period) trong đó Bản Ngã ứng linh trạng thái vật chất, cho đến khi Chân ngã sở hữu hoàn toàn hình hài đã được chuẩn bị. Giai đoạn này thay đổi tuỳ theo cá nhân. Từ lúc ngã thức đầy đủ được tìm thấy, và con người (nếu tiến bộ một cách bình thường) tự biểu lộ qua hình hài một cách thích hợp hơn bao giờ hết. Mỗi sự sống có chu kỳ nhỏ trong đại chu kỳ của Chân ngã hay Bản Ngã, thấy được sự biểu lộ đó đầy đủ hơn, mang lại cho hình hài, dưới sự kiểm soát và phát triển nhiều hơn một nhận thức hữu thức của Chân ngã, cho đến khi xảy ra một chu kỳ lên đến cực điểm của các kiếp sống trong đó Bản ngã bên trong chi phối nhanh chóng, và có đầy đủ uy lực. Hình hài trở nên hoàn toàn thích ứng; sự phối hợp 2 cực Tinh thần và vật chất được tạo ra đầy đủ; ánh sáng (lửa) và nhiệt (bức xạ) được nhìn thấy và cảm nhận một cách có hệ thống. Lúc bấy giờ, hình hài hoặc là được vận dụng một cách hữu thức cho các mục đích đặc biệt, hoặc là bị rời bỏ và con người được giải thoát. Lửa điện và lửa do ma sát được hoà nhập và kết quả là lửa thái dương bùng cháy rực rỡ.
Trải rộng ý tưởng này từ con người, một đơn vị tâm thức đã biệt ngã hoá, đến Thái Dương Thượng Đế, ở một trong các thể của Ngài mà con người là một tế bào. (LVLCK, 232)
VII. TẠI SAO DIỄN TRÌNH TIẾN HOÁ LẠI THEO CHU KỲ?
Câu hỏi này là câu tất nhiên sẽ làm chúng ta kinh ngạc sửng sốt. Do đó, chúng ta hãy bàn về câu hỏi trên như sau: một số ý kiến có liên quan đến ý tưởng về sự tiến hoá có chu kỳ, chúng ta nên suy gẫm kỹ về các ý tưởng này.
1. Ý tưởng về sự lặp lại này có liên quan đến các yếu tố sau:
a. Lặp lại trong thời gian: Ý tưởng về sự hoạt động theo chu kỳ cần phải có các kỳ gian dài ngắn khác nhau – các chu kỳ lớn hoặc nhỏ - nhưng (tuỳ theo độ dài của chúng) với mức độ đồng nhất. Một manvantara, hay Ngày của Brahma, luôn luôn có độ dài nhất định và một mahamanvantara) cũng thế. Các chu kỳ trong đó nguyên tử của bất cứ cõi nào xoay quanh trên trục của nó đều đồng nhất trên cõi riêng của nó.
b. Lặp lại trong sự kiện: điều này kéo theo ý tưởng về mức chủ đạo, hay âm thanh của bất cứ nhóm nguyên tử đặc biệt nào, đi vào thành phần của bất cứ hình hài đặc thù nào. Nhóm các nguyên tử này sẽ có khuynh hướng tạo nên một loạt trường hợp đặc thù, và sẽ lặp lại mức độ hay âm thanh, khi một yếu tố làm linh hoạt được kèm theo chúng. Khi mãnh lực làm sinh động được xúc tiếp ở các giai đoạn ấn định đối với một nhóm nguyên tử nào đó, mãnh lực đó sẽ gợi ra từ các nguyên tử đó một âm thanh đặc thù vốn sẽ biểu lộ ra bên ngoài như các trường hợp xung quanh. Nói cách khác, sự tương tác giữa Ngã và phi ngã, bao giờ cũng có bản chất tuần hoàn. Tính chất tương đồng trong âm điệu (tone) sẽ được Bản Ngã phát huy khi nó ẩn trong hình hài, nhưng chủ âm sẽ dần dần tăng lên. Đó là điểm tương đồng đối với các hậu quả tạo ra, khi dò đúng cùng chủ âm trong các bát độ khác nhau, bắt đầu từ căn bản.
c. Tái diễn trong không gian quan niệm này có liên hệ sâu xa với quan niệm chính yếu về nghiệp quả, đó thực sự là định luật chi phối vật chất của Thái dương hệ, và đã khởi đầu công việc của nó trong các Thái dương hệ trước. Do đó, chúng ta có các chu kỳ theo thứ bậc và sự tái diễn theo một vòng xoắn ốc bao giờ cũng đi lên, theo định luật rõ ràng.
2. Như vậy, các ý tưởng được truyền đạt có thể được diễn tả như sau:
a. Thái dương hệ lặp lại hoạt động của nó ……..... Lặp lại trong Không Gian.
b. Một dãy hành tinh lặp lại hoạt động của nó …… Lặp lại trong Thời Gian.
c. Sự vang dội liên tục không dứt của một nốt của cõi, của một nốt thuộc cõi phụ và của tất cả những gì được đưa vào biểu lộ bởi nốt đó ...… Lặp lại của cõi.
d. Khuynh hướng của các nguyên tử để kéo dài mãi mãi hoạt động của chúng và như thế tạo ra sự tương đồng về trường hợp, về môi trường và về hiện thể …. Sự lặp lại hình thể.
Khi chúng ta đưa các ý tưởng này lên đến mọi cõi trong Thái dương hệ, và từ đó đến các cõi vũ trụ, chúng ta mở ra cho chính chúng ta một qui mô vô cùng lớn.
3. Quan niệm thứ ba có liên quan là những gì thuộc về hai loại chu kỳ.
1. Sự xoay trên trục: ....
2. Sự quay quanh một quỹ đạo.....
a. Liên hệ với con người, điều này có thể được xem như sự quay của vòng sinh tử luân hồi, hay đoạn đường của một thực thể qua ba cõi thấp đi vào luân hồi và trở lại.
b. Liên quan với một Hành Tinh Thượng Đế .....
c. Liên quan với Thái Dương Thượng Đế .....
Ở điểm này cần chú ý rằng, ý tưởng được bàn đến có liên quan với chu kỳ tiến hoá không thể tách ra khỏi ý niệm về tâm thức. (LVLCK, 274)
+ Chuẩn bị cho cái chết để tái sinh:.... Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng rằng bất cứ một hiện tượng cấu hợp nào cũng đều là vô thường. .... Ngày nay thì khoa học và kỹ thuật có thể sử dụng các phương pháp thực nghiệm để chứng minh điều đó một cách dễ dàng.
Đối với một người chấp nhận sự tái sinh thì khi cái chết gần kề sẽ hiểu rằng tâm thức của mình sẽ rời bỏ cơ sở vật chất của nó. .... Có phải là thân xác mình, của cải, gia đình, danh vọng hay uy quyền...? Tất cả những thứ ấy không có một giá trị nào cả, vì người sắp ra đi sẽ bỏ lại tất cả những thứ ấy.
Chỉ có dòng tiếp nối liên tục tâm thần là tồn tại và những gì mà nó có thể mang theo là những vết hằn (của nghiệp) đã in sâu vào nó. Những gì tiếp tục tồn tại và kéo dài từ kiếp sống này sang kiếp sống khác trên dòng liên tục tâm thần chính là nghiệp của chúng ta.
Chúng sẽ phải chết bởi vì chúng ta là những hiện tượng cấu hợp, tạo ra từ sự kết hợp của nhiều thành phần, sự kết hợp ấy liên hệ đến một số nguyên nhân và điều kiện nào đó. Trong từng giây phút một, các cấu hợp biến đổi không ngừng, và các biến đổi ấy một lúc nào đó sẽ kết thúc bằng một hiện tượng mà người ta gọi là cái chết. (Nguồn: Chuẩn bị cho cái chết... )
+ Hiểu về cái chết - Hiểu về sự chết - Chuẩn bị cho cái chết để tái sinh hay tái sanh tốt đẹp hơn
Tất cả chúng ta đều biết rằng cái chết là một cái gì đó chúng ta sẽ gặp vào cuối chu kỳ sống ở cõi trần của mình. Nhưng nhiều người tránh nói về cái chết hoặc nghĩ về nó, cho đến khi họ hoặc một thành viên gia đình hoặc người bạn gần gũi đang cận kề cái chết. Chủ đề về cái chết có thể đáng sợ đối với nhiều người. Video này hy vọng sẽ cung cấp một vài sáng tỏ về cái chết, và hiểu hơn quá trình làm thế nào chúng ta có thể chết một cách tốt đẹp. Cũng hy vọng rằng thông qua sự hiểu biết này, chúng ta có thể đạt được nhiều hơn sự bình an trong trí, sự thoải mái và yên tâm. Chúng ta cũng chiếu ánh sáng vào sự chết để giúp đời sống hiện tại của chúng ta trên Trái Đất trọn vẹn và vui vẻ hơn. (Nguồn: Xem Clip giảng về hiểu về cái chết và chuẩn bị tái sinh (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tôi (Chân Sư DK) nói về Cái Chết như là một người hiểu biết vấn đề từ cả kinh nghiệm về thế giới bên ngoài lẫn sự biểu hiện của đời sống nội tâm:
− Không hề có cái chết nào cả. Như bạn biết, chỉ có sự tiến nhập vào sự sống sung mãn hơn. Có sự giải thoát khỏi các cản trở của hiện thể nhục thân. Diễn trình giằng xé quá khủng khiếp như thế không có, ngoại trừ trong các trường hợp của cái chết dữ dội và cái chết đột ngột, lúc đó có các khó chịu thật sự duy nhất là một cảm giác ngắn ngủi và lấn át về tình trạng nguy hiểm và sự hủy diệt sắp xảy ra, và một cái gì đó rất giống như một cú sốc điện. Không còn gì nữa.
Đối với người kém tiến hóa, cái chết thật ra là một giấc ngủ và một lãng quên, vì thể trí không đủ thức tỉnh để phản ứng, và kho ký ức cho đến nay thực tế là trống rỗng.
Đối với công dân tốt lành bậc trung, cái chết là một sự tiếp tục của diễn trình sinh hoạt trong tâm thức của y và là một sự sang trang của các mối quan tâm và các xu hướng của cuộc sống. Tâm thức và cảm thức của y cũng vậy và không thay đổi. Y không cảm thấy nhiều sự dị biệt, được chăm sóc chu đáo, và thường không biết là mình đã trải qua giai đoạn chết.
Đối với những kẻ độc ác và ích kỷ một cách tàn nhẫn, đối với kẻ tội phạm, và đối với một số người sống chỉ vì khía cạnh vật chất, điều đó dẫn tới tình trạng mà chúng ta gọi là “lụy trần” (“earth-bound”). Các mắt xích mà họ đã rèn nên với trái đất và khuynh hướng về phía trần gian của tất cả các ham muốn của họ bắt buộc họ vẫn ở gần cõi trần và thúc đẩy sự xếp đặt cuối cùng của họ quanh quẩn nơi cõi trần. Họ tìm kiếm một cách tuyệt vọng và bằng mọi phương tiện có thể có để tiếp xúc trở lại với cõi trần và để tái nhập. Trong vài trường hợp, tình yêu cá nhân quá mạnh đối với những người bị bỏ lại sau, hoặc việc không hoàn thành một bổn phận cấp thiết được thừa nhận đã lưu giữ những người tốt đẹp trong một tình trạng gần như tương tự.
Đối với người có đạo tâm, cái chết là một sự tiến nhập ngay lập tức vào một lĩnh vực phụng sự và biểu lộ mà y rất quen thuộc; và y tức khắc nhận ra là không có gì mới mẻ. Trong những giờ ngủ của mình, y đã phát triển một lĩnh vực phụng sự tích cực và học tập. Bây giờ chỉ là y hoạt động trong đó toàn bộ hai mươi bốn giờ (nói bằng thuật ngữ thời gian cõi trần) thay vì vài giờ thông thường của giấc ngủ của y ở cõi trần.
Theo thời gian qua và trước khi kết thúc thế kỷ sắp tới, cuối cùng cái chết sẽ được xem là không tồn tại theo ý nghĩa mà bây giờ nó được hiểu (LVHLT, 300)
+ Có được thân người siêu khó: “Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng-các, bên cạnh ao Di Hầu tại Tỳ-da-ly. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ- kheo: Ví như đất liền đều biến thành biển lớn, có một con rùa mù, sống vô lượng kiếp; trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Trong biển có một khúc gỗ nổi, chỉ có một lỗ hổng, lênh đênh trên sóng nước theo gió trôi nổi Đông Tây. Con rùa mù một trăm năm mới trồi đầu lên một lần kia, sẽ gặp được cái lỗ hổng này không?
Tôn giả A-nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao? Vì con rùa mù này, nếu đến biển phía Đông, thì khúc gỗ có thể theo gió, hoặc đến biển phía Tây, Nam, Bắc. Cũng vậy, bốn phía xung quanh không dễ gì gặp được. Phật bảo A-nan:
Con rùa mù và khúc gỗ nổi tuy trái chiều nhau, nhưng có thể gặp được. Phàm phu ngu si phiêu lưu trong năm đường, tạm thời được thân người còn khó hơn việc trên. Vì sao? Vì những chúng sanh này không thực hành nghĩa này, không thực hành pháp, không thực hành điều lành, không thực hành chân thật, lần lượt sát hại lẫn nhau, kẻ mạnh lấn áp người yếu, tạo ra vô lượng điều ác. Cho nên, các Tỳ-kheo, đối với bốn Thánh đế (Tứ diệu đế) nếu chưa hiện quán, thì nên siêng năng tìm phương tiện, phát khởi ý muốn tăng thượng, tu học hiện quán.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. (Nguồn: Giảng giải Kinh Tạp A-hàm, kinh số 406)
+ Tiền kiếp là loài nào tái sanh làm người:
... Mùa xuân năm nay (1968) có báo đăng tin rằng ở quốc gia nọ có mấy vạn con ễnh ương tự sát tập thể. Tại sao thế? Vì ở nước đó ễnh ương quá nhiều, chúng tự sát để có thể thác sanh làm người. Sự kiện này chứng tỏ rằng đa số dân chúng trong quốc gia này đều là ễnh ương chuyển sanh. Nhìn kỹ, quý vị sẽ thấy tướng mạo dánh dấp của họ có phần nào tương tự ễnh ương. Quý vị không chú ý nên không biết đó thôi! Dân chúng của mỗi quốc gia thường là đồng một chủng loại. Chủng loại ấy đa số đời trước là súc sanh, nay cùng nhau đầu thai làm dân trong một quốc gia. Mùa xuân năm nay tôi giảng về đạo lý này, thì có người hỏi:
-"Người Mỹ đa số là loài gì thác sanh? Là do chủng loại nào hình thành quốc gia này?"
Tôi đáp: "Người và súc sanh đều có cả, vì dân nước Mỹ là do người của các quốc gia di dân tới, nên là một tập hợp gồm người cùng súc sanh."
Thật đấy, không phải đùa đâu. Nếu chúng ta khai được Ngũ nhãn (Phật nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn, Thiên nhãn và Nhục nhãn) thì biết rõ người trên thế giới này không hẳn đều là người, mà loài nào cũng có. Làm sao nhìn ra được? Quý vị nếu có Phật nhãn, khai mở được mắt trí huệ, mà muốn biết người ấy đời trước là gì hoặc đời trước đã làm gì, thì nhìn vào cái bóng (shadow) đằng sau của người ấy; bởi bóng của thân đời trước vẫn còn đi theo cho đến đời này. Ðời trước nếu họ là người thì đời này cái bóng của họ là người, nếu họ là súc sanh thì bóng của họ là súc sanh, nếu họ là yêu quái thì bóng của họ là yêu quái. Chỉ có người mở được Ngũ nhãn mới có thể nhìn thấy được rõ ràng. Nếu không mở được Ngũ nhãn thì sẽ không phân biệt ra được. Cho nên quý vị gặp một người nào đừng vội cho đó là người. Làm sao biết được vấn đề này? Nếu quý vị có được Thiên nhãn thông, thì dễ dàng biết rõ. Chỉ cần quý vị cố gắng dụng công tu hành, thì muốn biết việc gì cũng đều được cả.
Hiện tại ở nước kia (không phải tôi mắng chửi người), đa số dân chúng là chuột biến ra. Nhưng trong đó rất nhiều chuột, cũng có rất nhiều người, rất nhiều quỷ và súc sanh. Tóm lại, mỗi quốc gia đều có ngựa bò dê gà heo chó đủ loại sanh lên. Người ta cũng từ những chúng sanh này biến ra. Ðạo lý này nói ra thật là vi diệu. Người thường vì không chứng thật việc này nên không tin thôi. Nếu muốn chứng thật việc này cần phải thực sự dụng công tu hành chứng được thần thông. Tới lúc đó mới nói:
-"Trước kia có một vị Pháp sư nói về đạo lý này, thật không sai chút nào! Làm sao sự việc vi diệu như vầy ông ta lại nói ra hết như thế?"
* Mời xem toàn văn - HT Tuyên Hóa giảng: Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa về Bồ Tát Quán Âm
+ Nhân tái sanh các loài theo kiểu sanh: .... Nay nói sơ qua nghiệp chướng bốn loại:
1.- Noãn sanh: Là người đời trước vì kế sinh hoạt, tâm hay sắp đặt mưu mô xảo trá lừa gạt, nên đọa làm noãn sanh như các loài chim cá v.v... Người tham kế cao thì làm chim, thấy người thì bay cao. Người mưu sâu thì làm cá, gặp người thì lặn xuống.
2.- Thai sanh: Người này đời trước tham đắm dâm dục nên đọa thai sanh như người, dê, heo, cùng thú có vú đẻ con như trâu, bò, ngựa, mèo, chó. Tội tham dâm sanh làm người thì đặng đứng thẳng, nếu lòng ngang ngược, tham dục không có tiết độ thì sanh làm thú đi ngang bốn cẳng (chân).
3.- Thấp sanh: Người này đời trước tham ăn rượu thịt làm việc vui chơi, đánh lộn giữa chợ, loạn tâm điên đảo, nên đọa làm thấp sanh là loài cua, tôm, rùa, trạnh v.v...
4.- Hóa sanh: Người này đời trước hay dời đổi, ý niệm khác thường, trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy, làm nhiều tội ác, nên đọa hóa sanh như loài ve, bướm, muỗi, ruồi v.v...
Phật nói cùng ông Văn Thù Sư Lợi: Trong lục đạo tứ sanh, con người là quý trọng, vì người có tánh linh. Phật cũng từ trong loài người mà tu hành, nghiệp cũng do người tạo ra, như người tu phước thì được về cõi Trời, người làm ác thì đọa vào địa ngục, người có đức thời làm Thần, người có đạo thì làm Thánh. Phước và tội đều có liên quan nhiều đời, không thể đem hiện tại mà nhận định, đến khi lâm chung theo nghiệp trả quả. Trong sáu đường, đường người là quý, năm đường kia không sánh kịp, nên một khi mất thân người, muôn kiếp không thể phục hồi lại được. ......
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa làm ngạ quỷ?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng thí, tham mến ăn mặc, lường gạt lấy tiền của công đem thọ dụng riêng. Có người nghèo khó xin ăn, một đồng chẳng thí lại thêm mắng chửi, cứ lo cho mình no ấm không thương người đói lạnh. Đến khi chết rồi quyết đọa trên đường ngạ quỷ, chịu đói khổ sở, cái cuống họng nhỏ như cây kim, nuốt ăn chẳng xuống, cái bụng lớn như cái trống đồng, như hòn núi, thoảng như gặp đồ ăn uống thì đồ ăn uống ấy hóa đồng sôi sắt nóng, đói cho đến đổi trong miệng hóa ra lửa, lỗ mũi ra khói, hình thể ốm đen, đền tội đủ rồi mới hết nghiệp khổ.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa làm súc sanh?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm thú, bày tiệc ăn chơi đàn ca vui sướng, nên trả quả làm súc sanh đền thường mạng trước. Lại có người mượn vay tiền bạc của người đoạt lấy chẳng trả, quả báo làm súc vật trả cái nợ cho người, trả cho hết cái nghiệp đó mới ra khỏi luân hồi......
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tu những phước nghiệp gì được làm người đàn ông?
Thế Tôn nói: Người biết cung kính Tam bảo, thảo nuôi cha mẹ, thường làm mười việc lành, thọ trì năm giới, lòng ở công chánh, quí mến người hiền lương, tu những căn lành như vậy thời đặng làm người đàn ông. Nếu trong ba kiếp chẳng tu thời đọa làm đàn bà. Trong năm trăm năm làm thân đàn ông một lần, hoặc khi chuyển đổi thân, quên mất kiếp trước, gặp nhân duyên ác lại tạo việc chẳng lành, nên mất thân đàn ông muôn kiếp khó trở lại đặng.
Lại nữa Văn Thù Sư Lợi! Thân đàn ông có đầy đủ bảy báu; thân người đàn bà có năm thứ lậu. Sao tên là bảy báu? ..........
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có người trai lành gái tín một đời trai giới, gieo trồng các căn lành, đến già sa ngã bỏ ăn chay phạm giới cấm, sau bị quả báo chi?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh như vậy tuy có căn lành mà không có nguyện lực lớn, không có chánh tri kiến, xa lìa thầy bạn, quên hết các công lao khi trước tu hành, trở lại bị lục tặc lôi kéo, cướp đoạt công đức của mình, tâm sanh điên đão không thành Phật đạo. Trong đó hoặc có người phạm về việc ăn thịt thời phải đọa lạc về thần đạo, như bực trên thì làm quỷ vương, bực giữa thì làm dọa xa, bực dưới thì làm la sát, chịu hưởng của người cúng tế. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Trong đó hoặc có người phạm dâm dục thời làm ma đạo, bực trên thời làm ma vương, bực giữa thời làm ma dân, bực dưới thời làm ma nữ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Trong đó hoặc có người phạm tội uống rượu, thời đọa lạc về quỷ đạo, bực trên làm hữu tài quỷ, bực giữa thời làm phong nguyệt quỷ, bực dưới thời làm tiêu tán quỷ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Hoặc phạm tội trộm cắp, phải đọa lạc tà đạo, bực trên thời làm tinh linh, bực giữa thời làm yêu quái, bực dưới thì làm người ta. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Hoặc phạm tội vọng ngữ, chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, cái lòng tự cao nên phải đọa làm loài yêu, bực trên thời làm ly mị, bực giữa thời làm vọng lượng, bực dưới thời dựa gá cỏ cây. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Lại có người hay oán giận, tuy có phước đức cũng đọa Tu la ác đạo, bực trên là A tu la vương, bực giữa là A tu la chúng, bực dưới là A tu la nữ, thường ham tranh đấu, chịu những lao khổ mãi mãi. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Người tu đúng phải giữ ngũ giới, không ăn thịt ... (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Con người luân hồi: Cho đến nay, do mức độ phát triển còn nhỏ bé của thường nhân, các cuộc luân hồi cõi cảm dục (astral incarnations) hay các chu kỳ ở cõi cảm dục còn ít, nhưng chúng tuyệt nhiên không được xem nhẹ và thường tương đối có tầm quan trọng hơn các cuộc luân hồi ở cõi trần. Theo thời gian qua, các chu kỳ cảm dục sẽ được hiểu rõ hơn cũng như mối liên hệ của chúng đối với các chu kỳ hồng trần. Khi nào người ta hiểu rõ rằng thể xác không phải là một nguyên khí mà chính nguyên khí trí cảm (hay là nguyên khí trí-dục vọng) mới là một trong các nguyên khí thiết yếu nhất đối với con người, lúc bấy giờ là giai đoạn hay là chu kỳ mà trong đó con người tác động trên cõi phụ thứ 5 của cõi cảm dục (căn bản là cõi trí cảm) sẽ đảm nhiệm đúng chỗ của nó. Đối với các chu kỳ hạ trí và chu kỳ thượng trí thì cũng thế. Các chu kỳ thượng trí hay chu kỳ chân ngã, bao hàm tất cả các nhóm với các chu kỳ nhỏ trong ba cõi thấp tương ứng với một cuộc tuần hoàn đầy đủ trong các chu kỳ của một Hành Tinh Thượng Đế. Có 7 chu kỳ như thế, nhưng số các chu kỳ nhỏ này (nằm trong số 7 chu kỳ nói trên) là một trong các bí mật của điểm đạo.
Các chu kỳ chân ngã diễn ra trong các nhóm 7 và 3, chứ không phải trong các nhóm 4 và 7 như diễn ra trong các chu kỳ phàm ngã, và cùng một tỉ lệ như thế chắc chắn phải đúng cho các chu kỳ trung ương, của một Hành Tinh Thượng Đế và của một Thái Dương Thượng Đế.
Các chu kỳ Chân Thần diễn tiến trong các nhóm 1 và 3 cũng như xảy ra các chu kỳ căn bản của các Thực Thể Thông Linh vĩ đại, mà trong đó con người là phản ảnh tiểu thiên địa. Nếu quan niệm chung đưa ra ở đây được khảo cứu liên quan đến các hệ thống tiến hóa, và các hình thức biểu lộ khác đối với nhau, và, nếu chính tiểu thiên địa được khảo sát như là đầu mối cho toàn thể, một số ý tưởng sẽ bắt đầu thấm nhập vào trí, như đối với mục đích ẩn dưới các biểu lộ này. Cũng cần nên nhớ rằng mọi thường nhân trong mỗi lần luân hồi, cần thành đạt được ba mục tiêu :
1. Phát triển tâm thức hay là khơi dậy khả năng nhận thức,
2. Đạt được một tỉ lệ nào đó về khả năng thường tồn hay là tăng gia một cách rõ rệt phần nội hàm/ cái tích chứa (content) của linh hồn thể,
3. Tạo ra karma hay là phát khởi (bằng hành động), với các nhân vốn cần thiết cho một số hiệu quả không thể tránh khỏi, thế nên một Hành Tinh Thượng Đế ở giai đoạn tiến hóa của Ngài cũng hành động như thế. Khi con người tiến tới và khi y bước vào Con Đường Dự Bị và sau đó là Con Đường Điểm Đạo, y thành công trong việc đem lại thêm một số phát triển đáng chú ý.
1. Như có nói ở trước, tâm thức của y mở rộng, y bắt đầu hoạt động một cách sáng suốt từ bên trên, và không còn hoạt động một cách thiếu sáng suốt ở các cõi thấp nữa.
2. Việc kiến tạo linh hồn thể đưa đến sự hoàn thành viên mãn, và kế đó y bắt đầu làm vỡ tan những gì y đã tạo ra trước kia, và phá hủy Thánh điện đã được kiến tạo một cách thận trọng biết bao, vì nhận ra rằng Thánh Điện đó cũng chỉ là một giới hạn.
3. Y không còn tạo nghiệp quả trong ba cõi thấp, mà bắt đầu làm cho nghiệp quả tách rời, hay nói đúng hơn là “kết thúc công việc của y”.
Được biết cái bí mật tàng ẩn trong 777 lần luân hồi. Con số này cung cấp chất liệu cho nhiều ức đoán (GLBN I, 191). Cần nêu ra rằng số đó không nắm giữ con số của một chu kỳ luân hồi đã định, mà qua đó con người phải trải qua, nhưng nó nắm giữ chìa khóa đối với 3 chu kỳ chính yếu được nhắc đến ở trên....... Số 777 này cũng là số chuyển hóa, vốn dĩ là công trình căn bản của tất cả các Hành Tinh Thượng Đế. Công việc căn bản của con người là tích lũy, hoạch đắc hay thu lượm những gì mà sau đó phải được chuyển hóa. Công cuộc chuyển hóa hay là chu kỳ đích thực của 777 bắt đầu trên Đường Dự Bị, và hiển nhiên là hoạt động của một Hành Tinh Thượng Đế đã được thực hiện và đáp ứng bởi các tế bào trong cơ thể Ngài....... (LVLCK, 305)
+ Nguyên nhân sinh tử luân hồi tái sanh
“Ngươi hãy đến chỗ Xá-lê Tử/ Xá Lợi Phất nói rằng ‘Đức Thế Tôn muốn gọi ngài.’”..... Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lợi-phất, có thật vừa rồi thầy tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật, rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’ chăng?”
Tôn giả Xá-lê Tử bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, không phải với lời văn ấy, không phải đi với câu ấy mà con nói về nghĩa ấy”..... Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Xá-lê Tử nếu có vị phạm hạnh nào đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, biết thế nào, thấy thế nào, để có thể tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’ Này Xá-lê Tử nghe như vậy thầy sẽ trả lời sao?”
Tôn giả Xá-lê Tử trả lời rằng:
“Bạch Thế Tôn,.... con sẽ trả lời như vầy: ‘Chư Hiền, sanh có nhân. Nhân của sự sanh ấy diệt tận, thì biết nhân của sự sanh diệt tận; tôi tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’ ..... con sẽ trả lời như thế.
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Nếu các vị phạm hạnh đến hỏi như thế, thầy nên trả lời như vậy. Vì sao thế? Vì nói như thế nên biết đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu có vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, sự sanh do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc[6]?” Thầy nghe những câu hỏi đó, trả lời như thế nào?”......... Con nghe như vậy sẽ trả lời rằng: ‘Này chư Hiền, sự sanh lấy hữu làm nhân, lấy hữu làm duyên, từ hữu mà sanh, lấy hữu làm gốc’. ...
Đức Thế Tôn khen: “Hay thay! Hay thay! .....
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, hữu do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế nào?”...... ‘Này chư Hiền, hữu lấy thủ[7] làm nhân, lấy thủ làm duyên, từ thủ mà sanh, lấy thủ làm gốc.’....
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! ..... đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, thủ do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc?’ ........ ‘Này chư Hiền, thủ lấy ái làm nhân, lấy ái làm duyên, từ ái mà sanh, lấy ái làm gốc’. Bạch Thế Tôn, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con như thế, con sẽ trả lời như vậy”.
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! .... đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, thế nào là ái?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế nào?”......: ‘Này chư Hiền, có ba cảm thọ[8]; cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ không lạc không khổ. Ở trong đó mà ham muốn, đắm trước, đó gọi là ái’. ....
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! ... đó là nghĩa”..... Kinh còn dài nữa (Nguồn: 23.Kinh Trí 1 - Kinh A Hàm)
C- Nghiệp Quả Tương Tục - Trích đoạn Phật bảo Phú Lâu Na :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na! Sở dĩ có 3 thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm....(Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục...)
+ Lục đạo luân hồi: Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép: "Dương tử vi nhân, nhân tử vi dương." (Dê chết trở làm người, người chết trở làm dê.) (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
II- LUÂN HỒI THEO PHẬT GIÁO:
A- Thế giới tương tục: Vọng tưởng giao xen phát sinh, lần lượt làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên đó mà thế giới tương tục.
B- Chúng sinh tương tục: Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau. Các loài thọ nghiệp báo cũng theo nhau lên xuống. Do nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục.
C- Nghiệp Quả Tương Tục - Trích đoạn Phật bảo Phú Lâu Na :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na! Sở dĩ có 3 thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm....(Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục...)
+ Nghiệp quả tương tục: Trích Đức Phật giảng cho ngài Phú Lâu Na:
Chính ba thứ sát đạo dâm là căn bản. Do nhân duyên đó, nghiệp quả tương tục. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)
+ Giảng về Luân Hồi Sinh Tử: Trích Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật giảng: ... Lời chỉ dạy nầy là phần rất rất quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Nó liên quan với một điểm then chốt: vấn đề luân hồi sinh tử. Nếu quý vị hiểu được chương nầy, thì quý vị có thể nhanh chóng chấm dứt luân hồi sinh tử. Nếu quý vị chưa thể hiểu được, thì phải có gấp đôi nỗ lực và tinh tấn trong việc tu học ... Đức Phật bảo A Nan:
Hay thay, A-nan! Ông muốn biết câu sinh vô minh là đầu mối khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông chứ không phải là cái gì khác. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
* Mời đọc các trích đoạn đức Phật giảng về Thế giới chúng sinh tương tục - HT Tuyên Hóa giảng, Nhân Trắc Học tổng hợp trong bài viết: Thế giới chúng sinh tương tục - Vòng luân hồi
Xem chi tiết tại trang: Tổng hợp về Luân hồi - Chết và Tái sinh
+ CON NGƯỜI LUÂN HỒI (Incarnation, đầu thai, lâm phàm): X. Định luật luân hồi:
- Chân Ngã - Linh Hồn - Thức Thứ tám Luân hồi hay incarnating - Reincarnating ego - Luân hồi hay Tái sanh.
- Chân Ngã luân hồi tức là hồn thiêng (divine soul).
- Sutratma theo nghĩa đen là Thread Soul (Hồn Dây), đồng nghĩa với Chân Ngã luân hồi (tức là Manas liên kết với Buddhi). (CKMTTL,120,125)
+ Tứ sanh: ... Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Thế nào là tứ sanh. Tạo những nghiệp chi mà bẩm thọ thân mạng mỗi loại không giống nhau?
Thế Tôn nói: Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay gây tạo nhiều việc điên đảo, niệm niệm không lành, vùi lấp chơn tánh, tham luyến trần duyên mãi mãi. Bởi tham, sân, si tạo các tội lỗi không lường không ngằn như là: sát sanh, trộm cắp, tà dâm v.v... đến khi luân hồi bẩm thụ thân mình đều khác.
Nay nói sơ qua nghiệp chướng bốn loại:
1.- Noãn sanh: Là người đời trước vì kế sinh hoạt, tâm hay ssắp đặt mưu mô xảo trá lừa gạt, nên đọa làm noãn sanh như các loài chim cá v.v... Người tham kế cao thì làm chim, thấy người thì bay cao. Người mưu sâu thì làm cá, gặp người thì lặn xuống.
2.- Thai sanh: Người này đời trước tham đắm dâm dục nên đọa thai sanh như người, dê, heo, cùng thú có vú đẻ con như trâu, bò, ngựa, mèo, chó. Tội tham dâm sanh làm người thì đặng đứng thẳng, nếu lòng ngang ngược, tham dục không có tiết độ thì sanh làm thú đi ngang bốn cẳng (chân).
3.- Thấp sanh: Người này đời trước tham ăn rượu thịt làm việc vui chơi, đánh lộn giữa chợ, loạn tâm điên đảo, nên đọa làm thấp sanh là loài cua, tôm, rùa, trạnh v.v...
4.- Hóa sanh: Người này đời trước hay dời đổi, ý niệm khác thường, trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy, làm nhiều tội ác, nên đọa hóa sanh như loài ve, bướm, muỗi, ruồi v.v...
Phật nói cùng ông Văn Thù Sư Lợi: Trong lục đạo tứ sanh, con người là quý trọng, vì người có tánh linh. Phật cũng từ trong loài người mà tu hành, nghiệp cũng do người tạo ra, như người tu phước thì được về cõi Trời, người làm ác thì đọa vào địa ngục, người có đức thời làm Thần, người có đạo thì làm Thánh. Phước và tội đều có liên quan nhiều đời, không thể đem hiện tại mà nhận định, đến khi lâm chung theo nghiệp trả quả. Trong sáu đường, đường người là quý, năm đường kia không sánh kịp, nên một khi mất thân người, muôn kiếp không thể phục hồi lại được. (Nguồn: Đại thừa Kim Cang luận)
+ Tứ sanh: Chúng sanh cõi quỷ thì có hai loại thai sinh và hóa sinh. Còn tất cả chư thiên cùng chúng ở cõi âm và địa ngục thì thuộc về hóa sinh. Trong sáu nẻo luân hồi, loài hữu tình chết nơi đây sanh nơi kia. Hoặc do thai sanh, hoặc do noãn sanh, hoặc do thấp sanh, hoặc do hóa sanh. (Kinh Giải Thâm Mật)
Thai sanh là chúng hữu tình từ nơi thai tạng mà sanh ra, như loài: Voi, ngựa, trâu, dê, heo, lừa. Noãn sanh là chúng hữu tình từ nơi trứng mà sanh ra, như loài ngỗng, công, se sẻ. Thấp sanh là chúng hữu tình từ nơi chỗ ướt mà sanh ra, như loài trùng, muỗi. Hóa sanh là chúng hữu tình chẳng nương nơi nào, từ nơi không mà bỗng hiện ra đủ thân mình và chi phận, như chư thiên, loài ở Địa ngục.
Loài người cũng có đủ bốn kiểu sanh chứ không phải chỉ Thai sanh.... Xem thêm về Tứ sanh: Xem tại đây
+ Nhân loại chỉ mới ở ngưỡng của việc trở nên thiên về trí tuệ (LVHLT, 439)
+ Giới Nhân loại thật sự: Ở hai trong số ba cõi thấp - tức cảm dục và hồng trần – thì 5 cõi phụ của nỗ lực con người là 5 cõi phụ cao nhất. Hai cõi phụ thấp nhất, tức cõi phụ 6 và 7 là cõi mà chúng ta có thể diễn tả như là “thấp lè tè” và liên hệ với các hình thức sự sống thấp dưới toàn thể nhân loại. Chúng ta có một sự tương đồng được củng cố trong sự kiện rằng 2 căn chủng có trước nhất trong cuộc tuần hoàn này dứt khoát không phải là nhân loại và rằng chính căn chủng thứ 3 mới thực sự là nhân loại lần đầu tiên. Do đó, đếm từ dưới lên trên, thì chỉ cõi phụ thứ 3 trên cõi trần và cõi cảm dục mới đánh dấu sự khởi đầu cho cố gắng của nhân loại, còn lại 5 cõi phụ thấp phải được chinh phục. Trên cõi trí, 5 cõi phụ thấp phải được chinh phục trong cuộc tiến hoá thuần tuý nhân loại. Khi tâm thức được tập trung trên cõi phụ 5 (tính từ dưới lên) lúc bấy giờ các cõi trừu tượng – theo quan điểm con người trong ba cõi thấp - bất ngờ xảy đến 2 cõi phụ tổng hợp, biểu lộ qua sự tổng hợp của 5 giác quan. Trong cuộc tiến hoá của Hành Tinh Thượng Đế, chúng ta có cùng một sự kiện: 5 cõi nỗ lực, tức 5 cõi thấp của Thái dương hệ và hai cõi trừu tượng cao hơn, tức cõi tinh thần hay cõi Chân Thần và cõi thiêng liêng hay cõi Thượng Đế. (LVLCK, 187)
+ Tương Ứng Trung tâm lực với Nhân Loại: Ở đây có một lời, và là một gợi ý. Một cách tượng trưng, Thánh Đoàn của hành tinh tạo thành bí huyệt đầu của nhân loại, và các thần lực của các Ngài tạo thành các lực của bộ não. Trên cõi trần có một nhóm lớn những người tìm đạo, các đệ-tử dự bị và các đệ-tử chính thức, họ đang tìm cách để đáp ứng với “bí huyệt đầu”, một số có ý thức, một số vô thức. Họ được tập hợp từ mọi lĩnh vực biểu lộ, nhưng tất cả đều sáng tạo theo cách này hoặc cách khác. Đến lượt họ, họ tạo thành những gì có thể được gọi một cách tượng trưng là “tuyến tùng quả” của nhân loại. Giống như trong con người cá biệt, tuyến này thường không hoạt động và ở trạng thái hôn thụy, cũng thế, trong nhân loại, nhóm các tế bào trong não của thể kết hợp này không hoạt động, nhưng dao động theo các rung động của bí huyệt đầu – tức Đại Đoàn huyền linh (the occult Hierarchy). Một số tế bào đã thức tỉnh. Hãy để chúng tăng cường nỗ lực của chúng và nhờ thế đánh thức các tế bào khác. Những người tiên phong của gia đình nhân loại, các nhà khoa học, nhà tư tưởng và các nghệ sĩ tạo thành tuyến yên. Họ biểu lộ trí cụ thể nhưng lại thiếu nhận thức trực giác và chủ nghĩa lý tưởng vốn sẽ đặt họ (nói tượng trưng) vào tuyến tùng quả; tuy thế họ lỗi lạc, biểu cảm và có óc khám phá. Mục tiêu của Thánh Đoàn (lại nói một cách tượng trưng) là làm cho tuyến tùng quả mạnh lên và, do đó, có tính thu hút đến nỗi tuyến tùng quả của những sự sống tế bào có thể được kích thích, và nhờ đó mang lại một sự tương tác chặt chẽ. Điều này sẽ dẫn đến tác động mạnh mẽ đến nỗi sẽ có một luồng chảy của các tế bào mới tới tuyến tùng quả, và đồng thời một phản ứng mạnh mẽ được thiết lập đến nỗi toàn bộ cơ thể sẽ bị ảnh hưởng, dẫn đến luồng đi lên của nhiều sự sống được kích thích để thay thế cho những sự sống đang tìm đường tiến vào trung tâm nỗ lực của Thánh Đoàn (LVHLT, 277)
+ Có thể nói rằng con người rơi vào ba nhóm chính:
1. Đại đa số, vốn là những người không tốt cũng không xấu, nhưng chỉ không suy nghĩ và hoàn toàn chìm đắm vào trong triều lưu tiến hóa và trong hoạt động phát triển một ngã thức thực sự, cùng với sự trang bị cần thiết.
2. Một số nhỏ, có số lượng rất nhỏ, vốn là những người hoạt động một cách rõ rệt và hữu thức ở khía cạnh vật chất − hoặc (nếu bạn thích diễn tả nó như thế) ở khía cạnh của tà lực. Họ có uy lực trên cõi trần, nhưng quyền năng của họ thì tạm thời chứ không vĩnh cửu. Định luật của vũ trụ, vốn là luật bác ái, không ngừng chống lại họ, và từ trong điều có vẻ như là ác, cái tốt sẽ xuất hiện.
3. Một số lớn vốn là những người tiên phong đi vào giới linh hồn, họ là người tiêu biểu cho các ý tưởng trong kỷ nguyên mới, và là người gìn giữ cái khía cạnh của Minh-Triết Muôn Thuở (Ageless Wisdom) vốn sắp được tiết lộ cho nhân loại. Nhóm này bao gồm những người nam lẫn nữ, vị tha và thông minh trong mỗi lĩnh vực của nỗ lực con người, của người tìm đạo và các đệ-tử, của các điểm đạo đồ, − họ xướng lên nốt (note) cho các nhóm và các kiểu người (types) khác nhau − và của chính Thánh Đoàn Huyền Linh (Occult Hierarchy). Ảnh hưởng của nhóm các huyền bí gia và các bậc thức giả này thì cực kỳ lớn lao, và cơ hội hoạt động hợp tác với nhóm đó vào lúc này thì dễ dàng đạt tới hơn vào bất cứ thời điểm nào khác trong lịch sử nhân loại.
Nhóm thứ nhất thì không suy nghĩ, hai nhóm kia đang bắt đầu suy tư và sử dụng các định luật của tư tưởng. Tôi muốn bàn đến việc sử dụng tư tưởng của người tìm đạo. (LVHLT, 482)
+ Nhân Sinh Các Cõi: Trong vòng luân hồi theo nghĩa mô tả những cõi giới trong luân hồi là kết quả của những nghiệp nhân tương ứng. Xét ở khía cạnh các trạng thái Tâm, có thể nói, hàng ngày, thậm chí trong từng giây phút, chúng ta có đủ trải nghiệm của 6 cõi luân hồi trong tâm.
- Khi chúng ta khởi tâm sân hận, đó là trải nghiệm về cõi Địa ngục trong chính bản thân.
- Khi dấy lên tâm tham lam, chúng ta trở thành một chúng sinh của Ngã quỷ.
- Khi khởi tâm ngu si, mê muội, chúng ta trải nghiệm trạng thái Súc sinh.
- Khi kiêu hãnh ngã mạn, chúng ta trải nghiệm trạng thái tâm của chư Thiên.
- Nếu sinh tâm ganh ghét, đố kỵ, chúng ta liền trở thành loài Atula.
Như vậy, nếu phản tỉnh quán chiếu mỗi ngày, chúng ta thấy tâm mình không ngừng luân hồi trong sáu đạo. Vì vậy, việc tu tập rèn luyện để chuyển hóa những tâm luân hồi tiêu cực này là cần thiết trong từng hành động, lời nói và suy nghĩ của chúng ta hàng ngày.......
.... Cõi Người - Nhân loại được thiết lập trên nền tảng của ham muốn và dục vọng khám phá, hưởng thụ. Đây là nơi mà hạnh phúc và khổ đau xen lẫn nhau một cách hoàn hảo đủ để thôi thúc con người hướng đến hành trình tâm linh. Nhân để sinh vào cõi Người là sự trì giữ năm giới (không sát sinh, không uống rượu, không tà dâm, không trộm cắp, không nói dối). (Nguồn: Tái sinh và luân hồi lục đạo )
+ Cõi Người: Chiếu sáng khắp thế gian: Trí huệ sáng suốt của Bồ Tát Quán Thế Âm rực rỡ chiếu khắp cả thế giới Phàm thánh đồng cư. Cõi mà chúng ta hiện đang sống đây gọi là cõi Phàm thánh đồng cư, còn gọi là "Thế gian Phàm thánh đồng cư," tức là nơi mà phàm phu và thánh nhân cùng ở chung ( HT Tuyên Hóa giảng Kinh Pháp Hoa - Phẩm Phổ Môn)
+ Đời Sống sau khi chết: Cho đến nay, ít có người tiến hóa đủ để sau khi chết, thấy mình có được một hiện thể phần lớn làm bằng chất trí (mental substance). Chỉ có các đệ tử và các vị đạo đồ, tức là những người hầu như sống trong thể trí, sau khi chết, tức khắc thấy mình ở trên cõi trí. Đa số con người đều thấy mình ở cõi cảm dục, khoác lấy lớp vỏ (shell) bằng chất cảm dục (astral matter) và phải chịu một giai đoạn thải bỏ (olimination) bên trong vùng ảo giác (illusory area) của cõi cảm dục. (CTNM, 486)
+ Sau khi chết [phần lớn ở cõi phụ thứ tư của cõi Cảm dục]: Trong mọi điều Tôi đã nói liên quan tới thể dĩ thái của con người, liên quan đến hành tinh, liên quan đến chơn linh của địa cầu, mấu chốt của toàn bộ tình hình nằm trong sự kiện là năm cung vào lúc này, có cung 7 là cung chiếm ưu thế của chúng. Cung 7 là cung kiểm soát thể dĩ thái (the etheric) và các devas dĩ thái. Nó kiểm soát cõi phụ thứ bảy của tất cả các cõi nhưng vào lúc này nó chi phối cõi phụ thứ bảy của cõi trần. Cũng vì đang ở trong vòng tuần hoàn thứ tư, khi một cung tiến vào sự nhập thế (incarnation) rõ ràng, nó không những chỉ kiểm soát trên các cõi có cùng một số, mà còn có một ảnh hưởng đặc biệt trên cõi phụ thứ tư. Hãy lưu ý cách mà cung này tác động vào lúc này trong ba cõi thấp:
1. Cõi dĩ thái thứ tư, cõi thấp nhất trong số các cõi dĩ thái, sẽ là cõi vật chất kế tiếp của tâm thức. Chất dĩ thái ngay lúc này đang trở nên có thể thấy được đối với một số người, và sẽ có thể nhìn thấy hoàn toàn vào cuối thế kỷ này đối với nhiều người.
2. Cõi phụ thứ tư của cõi cảm dục giữ lại phần lớn con người khi họ qua đời, và tất nhiên nhiều công việc với số lượng lớn nhất nhờ đó có thể được hoàn tất.
3. Cõi phụ thứ tư của cõi trí là cõi devachan (thiên đường tạm). (LVHLT, 374)
+ CÁCH NHẬN BIẾT NGƯỜI SẮP LÂM CHUNG SẼ SANH VỀ CẢNH GIỚI NÀO ?
Trong kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ, đức Phật bảo:
– Nếu người sắp lâm chung, dự biết thời khắc, chánh niệm rõ ràng, tắm gội mặc áo, an lành qua đời, ánh sáng chiếu thân, thấy tướng hảo Phật, các điềm lành đều hiện ra, biết chắc người này quyết định vãng sanh Tịnh Độ.
– Nếu người niệm Phật trì giới không có tâm tinh tấn, lúc sắp mạng chung không có tướng lành, không có tướng ác. Địa phủ không thâu, An Dưỡng chẳng nhận, như ngủ mà đi. Người này lòng nghi ngờ chưa đoạn dứt nên sanh về Nghi Thành(*), thọ hưởng vui vẻ trong năm trăm năm, tu Tín, Nguyện thêm mới được về Tịnh Độ.
– Nếu người khởi tâm thương xót, chánh niệm hiện tiền, đối với tài sản, vợ con tâm không luyến ái, đôi mắt trong sáng, ngẩng mặt mỉm cười, nghĩ tưởng thiên cung sẽ đến rước ta, tai nghe thiên nhạc, mắt thấy đồng tử cõi trời. Lúc bỏ báo thân này, nhất định sanh về Thiên giới.
– Nếu người sanh tâm nhu nhuyến, khởi tâm phước đức, thân không bệnh hoạn, nghĩ nhớ cha mẹ vợ con, đối với việc thiện ác tâm không lầm lẫn, tâm tư ngay thẳng, di chúc gia tài từ biệt mà đi. Người này nhất định sanh về cõi người.
– Nếu người giận dữ mà nhìn quyến thuộc, đưa tay nắm bắt hư không, tiểu tiện không hay, thân thường hôi thối, hai mắt đỏ hoe, thường nằm úp mặt, co về bên trái, toàn thân đau nhức.
Hoặc thấy tướng ác, miệng không nói được, rên rỉ kêu gào, oan trái hiện ra, tâm thức tán loạn, mê hoặc điên đảo, toàn thân lạnh buốt, bàn tay nắm chặt, thân cứng như đá. Người này lúc mạng chung nhất định sanh về cõi Địa ngục.
– Nếu người hay liếm môi, thân nóng như lửa, thường lo đói khát, ưa nói về ăn uống, miệng há không ngậm lại, tham luyến tài sản, mạng sống dây dưa khó dứt, chết không nhắm mắt. Người này nhất định vào đường Ngạ quỷ.
– Nếu người thân mang bệnh nặng như ở trong mây mù, tâm hồn mê man tán loạn, sợ nghe danh hiệu Phật, ưa thích ăn mùi vị máu thịt, không chịu nghe lời khuyên bảo, ái luyến vợ con, tay chân co quắp, toàn thân xuất mồ hôi, nói lời thô ác, thường nuốt nước miếng. Tướng ấy hiện ra, nhất định đi vào đường súc sanh.
Chú thích: (*) Nghi Thành: Nơi sanh về của các hành giả tu các công đức bằng tâm nghi hoặc trong các cõi Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà. Hành giả dù được vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc, nhưng vẫn còn chưa hiểu thật tướng, nên đức Phật mới đáp ứng căn cơ của họ mà thị hiện cõi hóa sanh, đó là Nghi Thành. Nam Mô A Di Đà Phật ! Đại Sư Ưu Đàm !
+ Các Tự Tánh không chết theo xác thân: Đức Phật bảo ngài A Nan: Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh, truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển. Chưa từng khai ngộ bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu. Giảng giải:
Khi sự hiện hữu của thân xác đến tận cùng, khi thân thể tàn tạ và chết đi, thì mạng quang của quý vị dời chuyển; nhưng tánh giác, tánh nghe của quan niệm thì không biến hoại. Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh. Do đâu mà các chúng sinh chưa được thành Phật? Vì sao họ không hiểu đạo? Chỉ vì họ truy đuổi theo sắc thanh từ vô lượng vô biên kiếp trong quá khứ cho đến ngày nay. Họ đuổi theo sắc trần và thanh trần rồi dính mắc với chúng. Họ truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển, mãi mãi, và họ Chưa từng khai ngộ. Họ nhận lầm vọng rồi cho là chân và bị xoay chuyển theo các trần cảnh nầy. Họ quá dính mắc với những cái vọng và chẳng nhận ra cái gì chân, thế nên bây giờ họ chẳng biết bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu. Họ không hiểu được đạo lý này, vốn rất vi diệu, chân thật và thường trụ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4, Chương V)
+ 94. CHIM VÀ RỒNG
-Có bốn loài chim cánh vàng. Những gì là bốn?
1) Chim cánh vàng sinh bằng trứng
2) Chim cánh vàng sinh bằng thai
3) Chim cánh vàng sinh do ẩm
4) Chim cánh vàng sinh do biến hóa.
-Có bốn loài rồng. Những gì là bốn?
1) Rồng sinh bằng trứng
2) Rồng sinh bằng thai
3) Rồng sinh do ẩm thấp
4) Rồng sinh do biến hóa.
Khi Long vương đang thừa sự Phật, chim cánh vàng không thể ăn thịt được. Vì sao vậy? Như Lai thường hành bốn vô lượng tâm, vì vậy cho nên chim không thể ăn rồng. Sao gọi là bốn vô lượng tâm? Là Như Lai thường hành tâm Từ Bi Hỷ Xả. Đó gọi là Như Lai thường có bốn vô lượng tâm này; có gân sức mạnh, dõng mãnh lớn, không thể ngăn và hoại được. Vì vậy, nên chim cánh vàng không thể ăn rồng. (Tăng Nhất A Hàm, Bốn Pháp, 27. Phẩm Đẳng Thú Bốn Để, Kinh số 8)
+ Tu giải thoát luân hồi sanh tử - Đặng Thánh quả:
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Lấy chỗ công phu tu chứng nào mà đặng vượt ra ngoài phàm phu vào quả thánh đạo?
Phật nói:
- Nếu người trai lành gái tín theo đạo Phật thì phải bỏ những việc ái ân, dứt đoạn tình duyên, giữ gìn trai giới, chuyên làm mười việc lành, ba nghiệp trong sạch, xa lìa lục trần. Lập chí tìm thầy học hỏi chỗ chánh pháp, y theo thầy dạy, đừng đi theo lòng phàm dẫn dắt sai quấy, y theo Phật tu hành, nếu có công phu như vậy thì đặng chứng Tu đà hoàn.
- Có người lành tập theo uy nghi của Phật, giới luật trong sạch, một lòng ngồi tịnh, tâm không tán loạn. Thân, khẩu, ý ba nghiệp đều nhiếp phục cái tâm đối với đời, động ít tịnh nhiều, có công phu như vậy thì đặng chứng quả Tư đà hàm.
- Lại có chúng sanh trong ba nghiệp chẳng móng, sáu trần chẳng sanh, tịnh lâu công dày, tâm tánh thường hiệp nhất, tâm đối với đời lặng yên chẳng động, tâm đặng thông thả, bằng có cái công như vậy thì đặng chứng quả A na hàm.
- Có chúng sanh lấy chỗ cái tâm thong thả đó tập thành năng lực thiền định, tánh định hiện ra trước, biết rõ chân tánh của mình xưa nay vắng lặng, tâm cảnh đều không, lòng tâm lặng yên không lay động, có công như thế đặng chứng quả A la hán.
Người nào tu đặng công phu của bốn quả này, vượt ra khỏi cõi người, cõi trời lục dục vào chỗ đạo tràng vắng lặng của các bậc thánh hiền, đồng Phật xuất thế, giúp Phật độ khắp nơi, làm cho quốc độ Phật trở thành thanh tịnh. Độ mình độ người đặng trả ơn đức Phật, thẳng đến Bồ đề đạo tràng, lòng không điên đảo, nên tên là tứ quả đặng đạo của bậc thánh nhân.
Phật nói cùng Văn Thù Sư Lợi: Như người nào đặng bốn quả có lòng tin thiệt, y theo lời dạy bảo của thầy, chẳng có hai lòng, giới đức tinh nghiêm, oai nghi đầy đủ, việc đời tài sắc, ái ân, danh lợi phải đoạn bỏ cho dứt, phải tuyệt cho hết từ trước đến sau, giữ đạo một lòng tuy chưa đặng thông và hiểu nhiều, mà tâm tánh bền chặt trong sạch giải thoát cũng như Phật không khác, nên cái quả vị siêu phàm nhập thánh. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ PHÁP TU GIẢI THOÁT NIẾT BÀN DUY NHẤT - CHƯ PHẬT MƯỜI PHƯƠNG ĐỒNG TU TẬP
... Vì thức thứ 8 là thức đầu tiên khởi niệm tưởng phân biệt. Tất cả đều bắt nguồn từ thức thứ 8. Ngũ uẩn và thức thứ 8 kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành nút buộc luân hồi sinh tử. Vì nó bắt đầu từ thức thứ 8, nên khi mở, phải bắt đầu từ sắc uẩn (2 nút). Thứ tự nầy cũng giống như khi cởi áo quần, phải cởi từ lớp ngoài trước rồi lớp trong. ... Như trong bài kệ nói:
Khi sáu nút đã được mở, thì một cũng không còn. Khi sáu căn, tức là sáu nút đã được tự tại, thì cái một cũng biến mất luôn. Điều nầy sẽ được giải thích chi tiết trong đoạn văn sau.
Nơi các căn, hãy chọn tính viên thông. Phương pháp tu tập là áp dụng nỗ lực ngay từ cửa ngõ của sáu căn. Có nghĩa là, mắt không bị xoay chuyển bởi hình sắc, tai không bị xoay chuyển bởi âm thanh, mũi không bị xoay chuyển bởi hương thơm, lưỡi không bị xoay chuyển bởi mùi vị, thân không bị xoay chuyển bởi sự xúc chạm, thức không bị xoay chuyển bởi các pháp. Quý vị chuyển hoá ngay những gì xuất hiện nơi cửa của sáu căn. Quý vị hồi quang phản chiếu, không cần phải tìm cầu bên ngoài. Chỉ cần phòng hộ thân và tâm. Hãy tự tìm cầu ở trong chính mình
Để tu tập nơi sáu căn, quý vị phải chọn một căn để dẫn đến viên thông. Đức Phật đã đặt nền móng cho phương pháp nầy. Ngài đã giảng giải về 1200 công dụng của mỗi căn và chỉ cho A-nan thấy căn nào hoàn chỉnh nhất. Chẳng hạn, nhãn căn là không hoàn chỉnh, nhưng nhĩ căn thì được. Thiệt căn và ý căn cũng là những căn hoàn chỉnh. Có những căn hoàn chỉnh và có những căn thì không. Quý vị phải chọn một căn và phát huy công phu tu tập trên căn đó. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã ngầm ý bảo rằng nhĩ căn sẽ dẫn đến viên thông. Đức Phật mong A-nan tự quyết định trong sự lựa chon; Đức Phật muốn A-nan tự mình tìm ra sự quyết định.
Tự chọn ra một căn viên thông và được vào dòng, tức thành chánh giác.
Nhập vào dòng pháp giới của bậc thánh. Nghịch với dòng sanh tử của phàm phu.
Sau khi đã vào dòng (Nhập lưu) được rồi, mới có thể thành tựu chánh đẳng chánh giác. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ HAI MƯƠI LĂM PHÁP MÔN VIÊN THÔNG - CÁC PHÁP TU GIẢI THOÁT GỒM:
I- Viên Thông sáu Trần gồm:
1. Viên thông Thanh Trần
2. Viên thông Sắc Trần
3. Viên thông Hương Trần
4. Viên thông Vị Trần
5. Viên thông Xúc Trần
6. Viên thông Pháp Trần
II- Viên Thông Năm Căn gồm:
1. Viên thông Nhãn Căn
2. Viên thông Nhĩ Căn (Chưa tìm thấy)
3. Viên thông Tị Căn (Ví dụ trong Kinh: Người ngu đần, trí nhớ rất kém, tu học Pháp này - An cư, quán sát, đếm và điều hòa hơi thở, chứng Quả vị Vô lậu A La Hán)
4. Viên thông Thiệt Căn (Ví dụ trong Kinh: Người tu bị khẩu nghiệp, có lưỡi như lưỡi Bò, tu học Pháp này - Nhất vị thanh tịnh tâm địa, chứng Quả vị Vô lậu A La Hán)
5. Viên thông Thân Căn (Ví dụ trong Kinh: Người tu học Pháp này - Thuần tịnh cái tính biết, quên bẵng thân thể, bị đau nhưng không thấy biết đau, chứng Quả vị Vô lậu A La Hán)
III- Viên Thông sáu Thức gồm:
1. Viên thông Nhãn Thức
2. Viên thông Nhĩ Thức
3. Viên thông Tị Thức
4. Viên thông Thiệt Thức
5. Viên thông Thân Thức
6. Viên thông ý Thức
IV- Viên Thông bảy Đại gồm:
1. Viên thông Hỏa Đại
2. Viên thông Địa Đại
3. Viên thông Thủy Đại
4. Viên thông Phong Đại
5. Viên thông Không Đại
6. Viên thông Thức Đại
7. Viên thông Kiến Đại
(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
* Mời xem trang chuyên đề về Pháp Tu Cải Mệnh Theo Bồ Tát Đạo/ Thánh Đạo
+ Quỷ Vương Chủ Mạng - Quỷ Vương Chủ về sanh tử
Ðức Phật nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Quỷ Vương tên là Chủ Mạng bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Nghiệp duyên căn bản của con là chủ về nhân mạng ở cõi Diêm Phù Ðề, khi sanh khi tử đều do con làm chủ. Bổn nguyện của con thì rất muốn làm lợi ích, nhưng vì chúng sanh không hiểu ý con nên đến nỗi khi sanh khi tử đều không được an ổn; tại sao thế?
“Người cõi Diêm Phù Ðề lúc mới sanh xong, không kể là con trai hay con gái, hoặc khi sắp sanh, chỉ nên làm thiện sự để thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thì tự nhiên Thần Thổ Ðịa sẽ vô cùng hoan hỷ, ủng hộ cho cả mẹ lẫn con đều được sự an lạc lớn, hàng quyến thuộc cũng được lợi ích.
“Hoặc khi đã sanh rồi thì nên cẩn thận, chớ giết hại để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản mẫu, cùng nhóm họp hàng quyến thuộc lại để uống rượu, ăn thịt, ca hát, đánh đàn, thổi sáo; vì có thể khiến cho cả mẹ lẫn con chẳng được an lạc.”
“Vì sao thế? Bởi vì lúc sanh nở khó khăn đó, có vô số ác quỷ cùng vọng lượng, tinh mỵ, muốn tới ăn huyết tanh. Chính con sớm đã sai các thần linh của nhà cửa đất đai phải bảo hộ người mẹ và đứa con, làm cho họ được an vui mà hưởng nhiều sự lợi ích.
“Những người này thấy sự an ổn vui vẻ thì nên tạo phước để báo đáp các thần Thổ Ðịa, thế mà trái lại, họ còn giết hại, tụ tập quyến thuộc; vì lẽ này, hễ phạm tội tất phải tự gánh chịu, người mẹ và đứa con đều bị tổn hại!
“Lại ở cõi Diêm Phù Ðề, những người sắp mạng chung, bất luận là thiện hay ác, con đều muốn cho họ không bị đọa lạc vào đường ác; huống chi là kẻ tự tu thiện căn, làm tăng oai lực của con!
“Những người làm thiện ở cõi Diêm Phù Ðề, đến lúc lâm chung cũng còn có trăm ngàn quỷ thần trong ác đạo hoặc biến làm cha mẹ, cho đến hàng quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến cho lạc vào ác đạo; huống chi là những kẻ vốn đã tạo ác!”
Lược giảng:
Chủ Mạng Quỷ Vương lại bạch: “Vì sao thế? Nguyên nhân nào khiến cho cả người mẹ và đứa bé sơ sinh đều không được yên ổn? Vì lúc sanh nở khó khăn đó, có vô số ác quỷ cùng vọng lượng, tinh mỵ, các loài sơn yêu thủy quái, muốn tới ăn huyết tanh. Chúng thường nhân lúc người sản phụ đang sanh nở, máu me lênh láng, bèn tìm đến để ăn huyết tanh. Chính con—Chủ Mạng Quỷ Vương—sớm đã sai các thần linh của nhà cửa đất đai phải bảo hộ người mẹ và đứa con, làm cho họ được an vui mà hưởng nhiều sự lợi ích.” “Thần linh” ở đây tức là Thần Thổ Ðịa.
“Những người này thấy sự an ổn vui vẻ thì nên tạo phước để báo đáp các thần Thổ Ðịa.” Những người chung quanh thấy cả mẹ lẫn con đều được an ổn vui vẻ thì lẽ ra nên tu phước, làm những việc công đức hầu đáp tạ hết thảy các thần Thổ Ðịa mới phải; “thế mà trái lại, họ còn giết hại, tụ tập quyến thuộc.” Họ chẳng những không đáp tạ công ơn của chư vị thần linh mà còn sát hại sinh vật, tụ họp bạn bè thân quyến lại để ăn uống vui chơi, tiệc tùng đình đám; “vì lẽ này, hễ phạm tội tất phải tự gánh chịu, người mẹ và đứa con đều bị tổn hại!” Một khi đã phạm tội thì nhất định phải tự lãnh lấy quả báo, do đó, luôn cả người mẹ cùng đứa bé sơ sinh đều bị tổn hại.
Chủ Mạng Quỷ Vương bạch tiếp: “Lại ở cõi Diêm Phù Ðề, những người sắp mạng chung, bất luận là thiện hay ác, là người hiền lành hay kẻ hung dữ, con đều muốn cho họ không bị đọa lạc vào đường ác, chẳng phải sa vào ba ác đạo; huống chi là kẻ tự tu thiện căn, làm tăng oai lực của con! Nếu kẻ sắp chết là người đã từng tự mình tu thiện căn, thì con không cần phải hao tổn sức lực gì để bảo hộ cho người ấy cả!”
“Những người làm thiện ở cõi Diêm Phù Ðề, đến lúc lâm chung cũng còn có trăm ngàn quỷ thần trong ác đạo hoặc biến làm cha mẹ, cho đến hàng quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến cho lạc vào ác đạo.” Con người, cho dù quý vị là người thường hay làm việc thiện, thì lúc hấp hối gần kề cái chết thế nào cũng có loài ác quỷ đến dụ dỗ, muốn làm cho quý vị bị đọa lạc vào đường ác. Bấy giờ, các ác quỷ đó có thể biến ra hình dạng giống hệt cha mẹ hoặc bạn bè thân thuộc của quý vị, và hiện đến để đón quý vị, khiến cho quý vị bị đọa vào đường ác.
Vậy, những người làm thiện sự mà còn bị ác quỷ đến lừa gạt, dụ dỗ vào ác đạo như thế, thì “huống chi là những kẻ vốn đã tạo ác, chẳng làm mảy may thiện sự nào?” Cho nên, nếu gặp những người đã quen làm ác thì các ác quỷ lại càng muốn lôi kéo họ vào đường ác hơn nữa!
“Bạch Ðức Thế Tôn! Những kẻ nam người nữ ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội, không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều không còn thấy nghe gì nữa.
“Hàng quyến thuộc phải nên thiết đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật cùng Bồ Tát; những thiện duyên như thế có thể khiến cho người chết thoát khỏi các đường ác, và các ma quỷ, ác thần đều phải rút lui hoặc giải tán.
“Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh lúc lâm chung nếu được nghe đến danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, hoặc một câu hay một bài kệ trong kinh điển Ðại Thừa, con xem xét thấy hạng người ấy, trừ năm tội Vô Gián và tội sát hại, còn những nghiệp ác nho nhỏ đáng phải đọa vào đường ác thì chẳng bao lâu đều được thoát khỏi cả.”
Ðức Phật bảo Chủ Mạng Quỷ Vương rằng: “Ông vì lòng đại từ nên có thể phát đại nguyện, ở trong sanh tử cứu hộ chúng sanh như thế. Như trong đời sau có kẻ nam người nữ nào đến thời điểm sanh tử, thì ông chớ rút lại lời nguyện đó, mà nên làm cho họ thảy đều được giải thoát, mãi mãi được an vui.”
Lược giảng:
Quỷ Vương Chủ Mạng lại bạch với Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Những kẻ nam người nữ ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội.” Lúc con người sắp chết thì khí ấm (noãn), hơi thở (tức) và các thức (sự hiểu biết) đều lìa khỏi cơ thể—xác thân không còn hơi ấm, hô hấp ngừng bặt và Thức Thứ Tám (thức A-lại-da) cũng lìa khỏi thân, đây gọi là “mạng chung” (sanh mạng hết). Khi vừa mới chết thì thần thức (tức là Thân Trung Ấm) rơi vào trạng thái hôn trầm mê muội, không còn sáng suốt tỉnh táo, không còn rõ biết gì nữa cả; đó là vì thần thức mới vừa tách rời khỏi cơ thể, chính mình vẫn chưa biết là mình đã chết.
“Không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều không còn thấy nghe gì nữa.” “Không phân biệt được thiện ác” tức là không còn khả năng biện biệt, không thể biết được rõ ràng thế nào là thiện, thế nào là ác nữa. Lúc bấy giờ, kẻ lâm chung không còn nhìn thấy và cũng chẳng thể nghe thấy gì cả—tri giác về thấy và nghe đều không còn.
Vì thế, “hàng quyến thuộc phải nên thiết đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật cùng Bồ Tát.” Tất cả bà con thân thích bấy giờ nên vì người sắp chết mà làm những việc công đức tạo phước lành lớn, như thỉnh chư Tăng đến tụng kinh, hoặc tự mình tụng kinh cho người ấy.
Do đó, ở Trung Hoa khi trong gia đình có người vừa qua đời, hàng quyến thuộc thường thỉnh cầu chư Tăng tụng kinh trong suốt bảy thất (bốn mươi chín ngày), là cũng vì lẽ ấy. Như lúc Lão Hòa Thượng Hư Vân viên tịch (1959), Phật Giáo Giảng Ðường tại Hương Cảng đã làm công đức tụng Kinh Ðại Bát Nhã trong suốt một trăm sáu mươi ngày ròng rã. Ðây là việc xưa nay chưa từng xảy ra—từ thời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cho đến nay, chưa có vị Tổ Sư nào viên tịch mà được tụng Kinh Ðại Bát Nhã cả. Tổ chức một pháp hội lớn lao như vậy gọi là “thiết đại cúng dường.”
“Chuyển đọc tôn kinh” tức là trì tụng bộ kinh này—Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện.
“Những thiện duyên như thế có thể khiến cho người chết thoát khỏi các đường ác, và các ma quỷ, ác thần đều phải rút lui hoặc giải tán.” Bởi hàng quyến thuộc vì người chết mà làm các việc công đức, cho nên những nhân duyên thiện lành đó có thể hỗ trợ, giúp cho người chết xa lìa các ác đạo. Lại nữa, “đức đại tắc oan nghiệt tiêu”—kẻ có công đức lớn thì tội nghiệt cũng được giảm nhẹ hoặc tiêu tan; do đó tất cả ma quỷ và ác thần thảy đều thối lui, bỏ chạy hết, không còn đeo đuổi người ấy nữa.
Quỷ Vương Chủ Mạng lại bạch tiếp: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh ở Nam Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung nếu được nghe đến danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát—không cần nhiều, chỉ cần được nghe vỏn vẹn danh hiệu của một vị Phật hoặc một vị Bồ Tát mà thôi—hoặc một câu hay một bài kệ trong kinh điển Ðại Thừa, con xem xét thấy hạng người ấy, trừ năm tội Vô Gián và tội sát hại, còn những nghiệp ác nho nhỏ đáng phải đọa vào đường ác thì chẳng bao lâu đều được thoát khỏi cả.”
Theo phần kinh văn trên, nếu có những người lúc lâm chung được nghe danh hiệu của một đức Phật hay của một tôn Bồ Tát, một câu hoặc một bài kệ của kinh điển Ðại Thừa mà thôi, thì có thể được tiêu trừ tất cả mọi nghiệp tội, ngoại trừ năm tội Vô Gián và tội sát hại. Năm tội Vô Gián (năm tội nghịch đáng phải đọa địa ngục Vô Gián) và tội sát hại thì vốn chẳng thể tiêu trừ được. Trong trường hợp những chúng sanh đó chỉ gây các nghiệp ác nho nhỏ, nhẹ hơn năm tội Vô Gián và tội sát hại một chút, song vẫn đáng phải đọa ác đạo, thì chẳng bao lâu Chủ Mạng Quỷ Vương cũng sẽ khiến cho họ được giải thoát, khỏi phải chịu tội.
Tuy nhiên, phần kinh văn trên cũng có thể được hiểu là cho dù các người đó có mắc năm tội Vô Gián hoặc tội sát hại thì cũng đều được giải trừ cả. Bởi nếu trong lúc cận kề cái chết, những người ấy có thể khởi lòng thành tâm đến cực điểm, thì mọi nghiệp chướng đều có thể rũ sạch; tuy nhiên, vấn đề là rất khó mà giữ được chánh niệm trong giờ phút tối hậu đó!
Ðức Phật bảo Quỷ Vương Chủ Mạng rằng: “Ông vì lòng đại từ nên có thể phát đại nguyện, ở trong sanh tử cứu hộ chúng sanh như thế. Ông quả thật là có lòng đại từ bi nên mới lập thệ nguyện lớn lao này, chịu ở trong sự sanh tử của chúng sanh mà bảo hộ hết thảy chúng sanh! Như trong đời sau có kẻ nam người nữ nào đến thời điểm sanh tử, thì ông chớ rút lại lời nguyện đó, mà nên làm cho họ thảy đều được giải thoát, mãi mãi được an vui.”
Kinh văn:
Quỷ Vương bạch cùng Ðức Phật rằng: “Xin Ðức Thế Tôn chớ lo! Trọn đời con luôn luôn ủng hộ chúng sanh ở cõi Diêm Phù Ðề, làm cho lúc sanh lúc tử đều được an vui. Chỉ mong các chúng sanh trong lúc sanh cùng lúc tử đều tin theo lời con, thì không ai là không được giải thoát và được lợi ích lớn cả!”
Bấy giờ, Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: “Vị Ðại Quỷ Vương chủ về sanh mạng đây, đã từng trải qua trăm ngàn đời làm vị Ðại Quỷ Vương, ủng hộ chúng sanh trong lúc sanh và lúc tử. Bậc Ðại Sĩ này vì lòng từ bi phát nguyện hiện thân đại quỷ, chớ thật ra không phải quỷ.
“Quá một trăm bảy mươi kiếp sau, ông ấy sẽ được thành Phật hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp tên là An Lạc, thế giới tên là Tịnh Trụ, thọ mạng của Ðức Phật đó đến số kiếp không thể tính đếm được.
“Này Ðịa Tạng Bồ Tát! Những việc của vị Ðại Quỷ Vương đó thì không thể nghĩ bàn như thế; hàng trời, người được độ thoát cũng đến số không thể hạn lượng.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
307. QUÁN BẤT TỊNH ĐỐI TRỊ NỮ SẮC
Hãy từ bỏ tưởng tịnh, tư duy quán bất tịnh. Sau khi tư duy quán bất tịnh, Tỳ-kheo sẽ đoạn tận dục ái, sắc ái và vô sắc ái; đoạn tận vô minh, kiêu mạn. Nay, Tỳ-kheo, dục của ngươi từ đâu sanh? Từ tóc sanh? Nhưng tóc hiện nhơ không sạch, đều do huyễn hóa, lừa gạt người đời. Móng, răng… thuộc về thân thể đều là không sạch. Cái gì là chân, cái nào là thật? Từ đầu đến chân, thảy đều như vậy. Những vật hữu hình như gan, mật, năm tạng, không một vật đáng ham. Cái gì là chân? Nay, Tỳ-kheo, dục của ngươi từ đâu sanh? Nay ngươi khéo tu phạm hạnh, Chánh pháp của Như Lai, tất sẽ hết khổ. Mạng người rất ngắn, không lâu ở đời. Tuy có rất thọ, không qua trăm tuổi.
Như Lai xuất thế, rất là khó. Được gặp, nghe pháp cũng khó. Thọ nhận thân hình tứ đại cũng lại việc khó được. Các căn đầy đủ cũng lại khó được. Được sanh vào chốn trung ương, cũng lại khó gặp. Gặp gỡ thiện tri thức, cũng lại khó được. Nghe pháp cũng khó, phân biệt nghĩa lý cũng lại khó được. Thành tựu pháp tùy pháp, việc này cũng khó. Nay, Tỳ-kheo, ngươi nếu thân cận thiện tri thức, thì có thể phân biệt các pháp, cũng có thể giảng rộng nghĩa này cho người khác. Nếu đã nghe pháp thì có thể phân biệt. Đã phân biệt pháp rồi thì có thể giảng nói nghĩa của nó. Không có tưởng dục, tưởng sân nhuế, tưởng ngu si; đã lìa ba độc nên thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết. (Tăng Nhất A Hàm, Năm Pháp, 35. Phẩm Tà Tụ, Kinh số 8)
308. QUÁN NỮ SẮC
Khi ấy, người nữ kia từ xa trông thấy Đa-kỳ-xa, cô liền cười. Đa-kỳ-xa khi từ xa thấy người nữ cười, liền phát sanh niệm tưởng này: ‘Cô nay, với hình thể được dựng đứng bởi xương, được quấn chặt bởi da, cũng như cái bình vẽ, bên trong đựng đồ bất tịnh, lừa dối người đời, khiến sinh loạn tưởng.’
Tôn giả Đa-kỳ-xa quán sát người nữ kia từ đầu đến chân, trong thân thể này không cái gì đáng ham, ba mươi sáu vật thảy đều bất tịnh. Nay những vật này là từ đâu sinh? Rồi Tôn giả Đa-kỳ-xa lại nghĩ: ‘Nay ta quán sát thân khác, không bằng tự quán sát trong thân mình. Dục này từ đâu sanh? Từ đất sanh chăng? Từ nước, lửa, gió sanh chăng? Nếu từ đất sanh; đất cứng chắc, không thể bị hư hoại. Nếu từ nước sinh, nước rất mềm, không thể bắt giữ. Nếu từ lửa sanh; lửa cũng không thể bị nắm bắt. Nếu từ gió sanh; gió không có hình, không thể nắm bắt.’ Tôn giả lại nghĩ: ‘Tham dục này chỉ có từ tư tưởng sanh.’ (Tăng Nhất A Hàm, Năm Pháp, 35. Phẩm Tà Tụ, Kinh số 9)
543. QUÁN SÁU GIỚI
Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau. Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như gã đồ tể mổ bò, lột hết bộ da, trải lên mặt đất, phân thành sáu đoạn. Cũng vậy, Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng: ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như vậy, Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết trên như thật. Tỳ-kheo như thế, sống cô độc, viễn ly, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ các tai hoạn của tâm và được định tâm. Được định tâm rồi thì biết trên như thật. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Thân, Phẩm 7, số 81)
Rất nhiều pháp quán tương: Xem Kinh Trung A Hàm
+ Kiên Lao Địa Thần - Kiên Lao Thổ Thần - Địa Thần Kiên Lao - Thổ Thần Kiên Lao
Lúc đó Kiên Lao Ðịa Thần bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ trước đến nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, đều là những bậc đại thần thông trí huệ không thể nghĩ bàn, quảng độ chúng sanh. Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây so với chư Bồ Tát, thì thệ nguyện thâm trọng.
Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đây có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Ðề. Như các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc cũng hóa hiện trăm ngàn thân hình để độ Lục Ðạo, nhưng nguyện của các ngài còn có lúc hoàn mãn; còn Bồ Tát Ðịa Tạng đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong Lục Ðạo, trải đến kiếp số như số cát của trăm ngàn ức sông Hằng."
Lược giảng:
Lúc đó Kiên Lao Ðịa Thần, tức là vị Hộ Pháp Kiên Lao Ðịa Thần đã từng phát nguyện hộ trì Chánh Pháp, bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ trước đến nay, trải qua vô lượng kiếp về trước cho đến hiện nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát." "Chiêm ngưỡng" có nghĩa là chăm chú ngắm nhìn, không rời mắt. "Ðảnh lễ" tức là cúi rạp đầu sát đất mà lạy.
Hộ Pháp Kiên Lao Ðịa Thần đã từng được gặp rất nhiều Bồ Tát, đã từng cúi đầu lễ lạy rất nhiều Bồ Tát, mà các vị Bồ Tát đó đều là những bậc Ðại Bồ Tát, và "đều là những bậc đại thần thông trí huệ không thể nghĩ bàn." Những bậc Ðại Bồ Tát này đều có trí huệ rộng lớn, vĩ đại. Phải có đại trí huệ thì mới có thể hành trì Pháp Ðại Thừa; vậy Pháp Ðại Thừa là gì? Ðó là thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn! Thần thông và trí huệ của chư Ðại Bồ Tát này đều là vô lượng vô biên, cao thâm khó lường!
"Quảng độ chúng sanh." Các bậc Ðại Bồ Tát thảy đều rộng độ tất cả chúng sanh.
"Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây so với chư Bồ Tát thì thệ nguyện thâm trọng." Những vị Ðại Bồ Tát này tuy là rộng độ khắp mọi loài chúng sanh, song trong các bậc Ðại Bồ Tát thì thệ nguyện của Bồ Tát Ðịa Tạng vốn thâm sâu, rộng lớn hơn cả. Ngài đã lập nguyện rằng:
"Ðịa ngục chưa trống không, tôi thề chưa thành Phật,
Chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ Ðề."
Sức nguyện lớn lao này đặc biệt sâu rộng, không có sự cùng tận.
Hộ Pháp Kiên Lao Ðịa Thần lại bạch tiếp: "Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đây có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Ðề. Như các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc cũng hóa hiện trăm ngàn thân hình để độ Lục Ðạo—trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—nhưng nguyện của các ngài còn có lúc hoàn mãn."
Ðịa Tạng Vương Bồ Tát có nhân duyên lớn với tất cả chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề. Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Quán Âm, và Bồ Tát Di Lặc cũng hóa hiện ra cả trăm ngàn thân hình, và các ngài cũng phát nguyện độ thoát hết thảy chúng sanh trong sáu đường được thành Phật Ðạo. Thế nhưng, nguyện lực của các vị Bồ Tát đó tuy quảng đại song cũng còn có ngày hoàn mãn rốt ráo, các ngài cũng có lúc được mãn nguyện.
"Còn Bồ Tát Ðịa Tạng đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong Lục Ðạo, trải đến kiếp số như số cát của trăm ngàn ức sông Hằng." Trong khi đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát phát tâm giáo hóa hết thảy chúng sanh trong sáu đường, mà những thệ nguyện Ngài đã lập và kiếp số đã trải qua thì nhiều như số cát trong cả trăm ngàn ức sông Hằng vậy. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Thần chú Kiên lao Địa thần: .... Khi ấy Kiên lao địa thần lại thưa, bạch đức Thế tôn, con có một bài minh chú (84) có năng lực lợi ích nhân thiên, an lạc tất cả. Nam tử nữ nhân nào, hay bốn bộ đệ tử của đức Thế tôn, muốn được đích thân nhìn thấy chân thân của con, thì phải chí tâm mà trì minh chú ấy. Thì tùy sở nguyện mà toại ý cả. Là như nguyện được đồ dùng để sống, nguyện được tài sản, nguyện được vàng ngọc, nguyện được kho tàng ẩn trong lòng đất, nguyện được những khả năng thần kỳ, nguyện được thuốc thần để trường sinh hay trị liệu mọi bịnh, nguyện chiến thắng thù địch, nguyện chế ngự các thứ luận thuyết. Hãy dọn một tịnh thất mà thiết đạo tràng, tắm mình mẩy, mặc đồ sạch, ngồi nệm cỏ. Hãy đối trước hình tượng Phật có xá lợi, hay trước chùa tháp Phật có xá lợi, mà đốt hương, rải hoa, hiến dâng ẩm thực. Lấy ngày tám tháng trăng sáng (85) , hoặc là ngày sao Bố sái (86) mà tụng minh chú triệu thỉnh con, Kiên lao địa thần: Tát da tha, chi ri, chi ri, chu ru, chu ru, ku ru, ku ru, ku tu, ku tu, tô tu, tô tu, ba ha, ba ha, sa va ri, sa va ri, soa ha........
Bấy giờ đức Thế tôn bảo Kiên lao địa thần, lành thay, địa thần có thể đem minh chú nói thật mà hộ trì kinh này và pháp sư quảng bá kinh này. Nhân tố này làm cho địa thần được phước báo vô số lượng. (Nguồn: Kiên Lao Địa Thần - Kinh Kim Quang Minh)
+ Các đại Bồ tát - các Bồ tát - các bậc A La Hán thời cận đại
Chớ nói rằng năm trăm năm sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chẳng còn ai khai ngộ, hoặc không có ai chứng quả A La Hán nữa. Thật ra, bất cứ lúc nào và ở vào thời nào cũng đều có người được khai ngộ, cũng có bậc A La Hán xuất thế cả; chẳng qua là các bậc A La Hán này sau khi chứng quả đều không muốn thị hiện thần thông, không đi khắp nơi xem xét chuyện thế gian.
Thuở trước, các Pháp Sư từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa hoằng Pháp như Tôn Giả Ma Ðằng, Tôn Giả Trúc Pháp Lan, và cả Tổ Sư Ðạt Ma (xuất thế sau khi Phật diệt độ cả ngàn năm) nữa, các ngài đều có thần thông. Gần đây thì có Lão Hòa Thượng Hư Vân, Luật Sư Hoằng Nhất và Lão Pháp Sư Ấn Quang—các ngài đều là những bậc cao tăng thời cận đại của Trung Hoa và là những bậc A La Hán, những bậc Bồ Tát. Ðặc biệt hơn nữa, mọi người đều công nhận Lão Pháp Sư Ấn Quang chính là hóa thân của Ðại Thế Chí Bồ Tát! Như vậy, sau khi Phật nhập Niết Bàn, ở nước Trung Hoa vẫn có rất nhiều bậc đại đức cao tăng xuất hiện. Cho nên, dù Phật vào Niết Bàn đã năm trăm năm, một ngàn năm, hay một vạn năm đi chăng nữa, hễ người nào có thể y theo Phật Pháp mà chân chánh tu hành, thì người đó cũng sẽ được khai ngộ và chứng quả vị như thường. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Trần Lao: Đức Phật bảo ngài A Nan: ... Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần lao.
“Trần” có nghĩa là dơ bẩn, “lao” có nghĩa là nhiễu loạn, xáo trộn. Sự dơ bẩn, ô uế, làm nhiễu loạn tâm quý vị, nó quấy rối tự tánh của quý vị. Thế nên quý vị không thể nào chuyển hóa vọng tưởng thành chân tâm được. Nó giống như khi hai đạo quân giao chiến với nhau, sẽ có một bên thắng trận. Quý vị sẽ chiến thắng nếu quý vị hàng phục được trần lao, nghĩa là khi quý vị cắt đứt được vòng sinh tử.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Trần lao: ... Rối loạn như vậy, đối đãi nhau sinh ra mệt mỏi. Mệt mỏi lâu dài phát ra trần tướng, tự làm vẩn đục lẫn nhau. Do đó đưa đến khởi phát trần lao phiền não.
Giảng giải: Nay sẽ nói đến lục thô. Phần nầy sẽ giải thích năm món thô đầu tiên.
Lục thô là:
1. Trí tướng: thuộc về câu sanh pháp chấp, tức là từ khi sinh ra đã có sẵn năng lực phân biệt. Đây không phải là trí tuệ cứu cánh, mà chỉ là tướng của trí có được do năng lực phân biệt.
2. Tương tục tướng: tức phân biệt pháp chấp, lúc nào cũng suy nghĩ, liên tục không gián đoạn
3. Chấp thủ tướng: thuộc về câu sanh ngã chấp, suy lường cùng khắp, chấp ngã, ngã sở.
4. Kế danh tự tướng: thuộc về phân biệt ngã chấp, chủ yếu là lập nên vọng tưởng giả danh, theo sự chấp trước giả danh mà duy trì vọng tưởng.
5. Khởi nghiệp tướng: Do kế danh tự tướng mà sinh khởi nên nghiệp tướng, tạo vô số nghiệp.
6. Nghiệp hệ khổ tướng: Do tạo nghiệp nên thọ lãnh quả báo, do vì trói buộc vào nghiệp mà thọ khổ.
Ban đầu khi nghe những điều nầy có lẽ quý vị không thể nào hiểu được, nhưng sau khi tham cứu một thời gian, quý vị dần dần sẽ hiểu. Còn bây giờ, hãy để cho nó lọt qua tai quý vị, và trong thức thứ tám của quý vị sẽ có ấn tượng. Nếu quý vị tham cứu Phật pháp một thời gian dài, chắc chắn quý vị sẽ đến thực tế là mọi thứ đều liên quan với nhau và quý vị bỗng nhiên hiểu ra.
Rối loạn như vậy: ở trong cái không đồng và cái không dị như đã nói ở trên, thế giới và hư không, “đồng dị phát sinh,” và tạo ra sự hỗn loạn, không có trật tự. Sự hỗn loạn nầy cuối cùng dẫn đến sự mệt mỏi. Trong cái đồng dị bỗng dưng được lập nầy, cuối cùng sinh ra sự mỏi mệt. Cái mỏi mệt là tướng trạng đầu tiên trong lục thô, đó là trí tướng. Mệt mỏi kéo dài sinh ra phiền não. Tiếp theo cái mệt mỏi là tướng trạng thứ nhì của lục thô, đó là tương tục tướng. Nhiễm ô là tướng trạng thứ ba của lục thô, đó là chấp thủ tướng. Những tướng trạng nầy kết hợp nhau trong một mớ hỗn độn u ám. Nó kết dính nhau và không có cách nào để tách rời chúng ra một cách rạch ròi. Đây là tướng trạng thứ tư của lục thô, đó là kế danh tự tướng. Sự hỗn loạn nầy tạo nên phiền não với sự tập nhiễm của trần lao. Trần lao là chính là phiền não. Phiền não chính là trần lao. Tám vạn bốn ngàn trần lao chính là tám vạn bốn ngàn phiền não. Từ những điều kiện khác nhau vừa bàn đến, phiền não sinh khởi. Cùng với phiền não là sự sinh khởi của núi sông đất liền. (Nguồn: HT Tuyên Hóa - Kinh Thủ LN-Q4-Chương 1)
+ Sinh Trần lao và các tướng thế gian: ... đức Phật bảo: Thế nên trong ấy, gió thì động, hư không thì tĩnh lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Chúng sinh mê lầm, trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian.
Giảng giải: Nguyên nhân là do chúng sinh mê lầm. Ở trong chỗ vô số hiện tượng ấy, chúng sinh trở nên mê lầm. Họ không nhận ra được đạo lý về chân tâm, nên họ bị mê muội. Do vậy, nên trong chân tâm (phần chân) của tánh Như Lai tạng đã sinh khởi nên tam tế lục thô.
Nhất niệm bất giác sinh tam tế. 一念不覺生三細
Cảnh giới vi duyên trưởng lục thô. 景界為緣長六粗
Như tôi đã giải thích ở trên, tam tế là nghiệp tướng, chuyển tướng và hiện tướng. Lục thô là trí tướng, tương tục tướng, chấp thủ tướng, kế danh tự tướng, khởi nghiệp tướng và khổ hệ nghiệp tướng. Một khi chúng sinh đã phát khởi lên những tướng nầy, họ liền bị mê mờ. Một khi đã mê mờ, thì họ trái ngược tánh giác, hợp với trần cảnh. Họ quay lưng lại với giác tánh và thích dính mắc với sáu trần. Đây là vì họ nghĩ rằng, trong tánh Như Lai tạng có sự xung đột lẫn nhau. Do vậy nên họ quay lưng lại với tánh giác và hợp với cảnh trần. Nên phát ra trần lao và các tướng thế gian. Núi sông đất liền và sự tương tục của thế giới trở thành hiện hữu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q4-Chương 2)
+ Có Tướng (Của các Trần): Nhân nguyên của "Có Tướng" trong Phật giáo Đại thừa:
Đức Phật bảo: A-nan, nhân nơi trần mà phát ra cái biết (của căn), nhân các căn mà có tướng (của trần). Tướng (phần sở kiến) và kiến (phần năng kiến) đều không có tự tính, như bó lau gác vào nhau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa - Kinh Thủ LN - Q.5)
+ Nếu cái thấy nghe nầy, rời các tướng sắc không, tối sáng, động tĩnh, thông bít, đậm nhạt, hợp ly, sinh diệt, thì rốt ráo nó không có tự thể. Cũng như tâm niệm, nếu rời khỏi tiền trần, là vốn không thật có. Sao lại đem cái tâm hoàn toàn đoạn diệt ấy làm nhân tu hành, mà mong đạt được bảy quả vị thường trụ của Như Lai? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q1)
+ Các tướng sắc không, tối sáng, động tĩnh, thông bít, đậm nhạt, hợp ly, sinh diệt (Kinh Thủ LN - Q3: Nếu rời hẳn các tướng sắc không, động tĩnh, thông tắc, hợp ly, sinh diệt thì rốt ráo không có một pháp nào cả.)
Hư không kia làm sao vì ông mà thành đồng hay khác? Huống chi lại gọi là một hay chẳng phải một. Thế ông đã biết, sáu căn thọ dụng cũng giống như vậy.
Do hai thứ tối sáng hiển bày lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái thấy. Cái thấy ánh hiện ra thành sắc, kết sắc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhãn căn’ như trái bồ đào. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo sắc.
Do hai tướng động tỉnh đối chọi lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái nghe. Cái nghe ánh hiện ra thành tiếng, cuộn cái tiếng lại thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhĩ căn’ là lá sen non. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo âm thanh.
Do hai tướng thông và bít phát hiện lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính ngửi. Tính ngửi ánh hiện ra thành hương, thu nạp các hương thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘tỉ căn’ như hai móng tay duỗi xuống. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo hương.
Do vị nhạt và vị khác xen lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính nếm. Tính nếm ánh hiện ra thành vị, thu nạp các vị thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘thiệt căn’ như mặt trăng lưỡi liềm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo vị.
Do hai tướng ly và hợp cọ xát lẫn nhau, kết dính sự yên lặng trong tánh diệu viên mà phát ra cái biết xúc chạm. Tính biết xúc chạm ánh hiện thành xúc, thu nạp các xúc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi thể của ‘thân căn’ như cái trống cơm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo xúc.
Do hai thứ sinh diệt tương tục lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái biết. Tính biết ánh hiện thành các pháp, thu nạp các pháp thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi là ‘ý tư,’ như cái thấy trong nhà tối. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo pháp.(Đoạn kinh nầy nói đến ý căn, tức thức thứ sáu, là đối tượng của sinh diệt. Khi niệm trước vừa đình chỉ, niệm sau liền sinh khởi. Năng lực của tánh biết là thu nạp các pháp, chính là trần cảnh. Ý căn bị thu hút bởi pháp trần_HT Tuyên Hóa)
A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng. (chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà tánh giác ấy biến thành vọng giác và vọng minh–kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám_HT Tuyên Hóa)
Vậy nên nay ông rời tối rời sáng, thì không có cái thể của thấy. Rời động rời tỉnh, thì không có cái nghe. Không có thông không bít, thì tính ngửi không phát sinh. Không có mùi vị, không lạt, thì tính nếm không có. Không rời xa, không kết hợp thì tánh xúc chẳng có. Không sanh không diệt, thì cái biết gá chỗ nào?
Ông chỉ cần không theo động tĩnh hợp li, điềm biến thông tắc, sanh diệt ám minh, mười hai tướng như vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4)
+ Vi Trần: Trích Phật dậy ngài A Nan về Tứ Đại.
...Ông hãy quán sát tính của địa đại, thô làm thành đất liền, tế làm thành vi trần, cho đến lân hư trần;
Giảng:
"Ông hãy quán sát tính của địa đại. A-nan, nay Như Lai sẽ giảng giải về địa đại cho ông, ông phải nên lắng lòng nghe cho kỹ. Đừng có như trước đây, ông chỉ chú tâm học hiểu mà không công phu trau dồi định lực. Nay Như Lai sẽ chỉ cho ông giáo lý nền tảng để công phu trau dồi định lực.
Hãy xem xét đặc tính của đất: Thành phần thô làm thành đất liền." 'Thô' có nghĩa sự cấu thành của đất phần lớn là do sự hợp lại của nhiều hạt bụi. "Tế làm thành vi trần." Phần nhỏ nhất làm thành vi trần, cho đến lân hư trần.
'Lân hư trần' là những phân tử nhỏ nhất, mắt thường không thấy được. Nó là bạn láng giềng với hư không, ít nhiều gì nó chính là hư không, chứ không là gì khác. Có người nói rằng: "Khi ánh sáng mặt trời chiếu qua khe cửa, tôi thấy những hạt vi trần nhảy múa trong hư không."Đó là cái mà quý vị thấy được. Còn lân hư trần thì không thể nhìn thấy được bằng mắt thường.
Nếu chẻ chất cực vi có sắc tướng vô cùng nhỏ ra làm bảy phần. Càng chẻ lân hư trần đó nữa, thì thật là tánh hư không.
Giảng:
"Nếu chẻ chất cực vi có sắc tướng vô cùng nhỏ."
Lân hư trần là vật vô cùng nhỏ, là vật vi tế nhất trong tất cả mọi vật có hình tướng. Chẳng có gì nhỏ hơn nó nữa. Vậy mà, nó vẫn có một sắc tướng để có thể nhận biết được. "Ra làm bảy phần. Nếu quý vị chia chẻ những lân hư trần này ra làm bảy phần, thì nó rất gần với hư không. Càng chẻ lân hư trần đó nữa, thì thật là tánh hư không. Những lân hư trần đã được chia chẻ ra nầy thực sự là hư không." Cơ bản là không có sắc tướng. Đây là giải thích về tánh của địa đại.
A-nan, nếu lân hư trần đó chẻ thành hư không, thì nên biết hư không cũng sinh ra sắc tướng.(Sắc tướng có thể biến thành hư không, và hư không cũng chứa đựng sắc tướng trong nó.)
Nay ông hỏi rằng do hòa hợp mà sinh ra các tướng biến hoá trong thế gian.
Ông hãy xét kỹ lân hư trần nầy, phải dùng bao nhiêu hư không hợp lại mới thành? Không lẽ lân hư hợp lại sẽ thành lân hư trần?
Lại nữa, lân hư trần chẻ đã thành hư không được, thì phải dùng bao nhiêu sắc (Địa đại) tướng hợp lại mới thành cả hư không?
Nhưng nếu khi hợp sắc tướng lại, thì sắc tướng hợp lại, không thành được hư không. Nếu hợp hư không lại, khi hư không hợp lại thì không thành được sắc tướng. Sắc tướng còn chẻ được, chứ hư không làm sao hợp lại được?
Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ TÂM CHÚNG SINH.
Giảng:
"Ông vốn không biết, A-nan, trong Như Lai tạng–Như Lai tạng là Chân tâm, là Thật tướng. Ông không biết rằng nếu ông cứu xét kỹ cho đến tận nguồn cội hư không và lân hư trần, ông sẽ thấy rằng mình không thể nào biết được nó cả. Mà đạo lý ấy lại được tìm thấy trong Như Lai tạng: tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Ở điểm rốt ráo, sắc tướng chính là chơn không; và tánh không cũng chính là chơn sắc. Nó vốn không nhiễm ô, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm. Cơ bản là bất biến. Tự tánh của nó vốn là thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, chẳng có gì làm cho nó tăng thêm, cũng chẳng bớt đi chút nào.
"Tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Đây là một hoạt dụng vi diệu "tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh." Nó đáp ứng tuỳ theo mọi năng lực nhận thức từ tâm chúng sinh: mức độ của sự nhiệm mầu sẽ hiển bày tương ứng với năng lực nhận thức của mỗi chúng sinh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+12 Địa chi: Tý - Sửu - Dần - Mão - Thìn - Tị - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi.
+ Thời gian: Dùng các địa chi này để làm tên gọi cho 12 giờ trong ngày, 12 tháng trong năm.
+ Các (12) vị Đại Tướng Dược Xoa: Các vị tướng trong Kinh Dược Sư - Chữa bệnh mầu nhiện, có nhiều tương ứng với các tên trong Dịch học đông phương như Tý - Sửu ... Thanh Long, Câu Trần ..
- Thập Nhị Thần Tướng Dược Xoa Pháp: 12 vị Dược Xoa Đại Tướng là 12 vị Đại tướng ở trước tòa ngồi của Đức Dược Sư Như Lai, quản lý sự mạnh khỏe (kiện khang), đẩy lùi bệnh tật, thoát lìa nạn khổ, tiêu tai diên thọ.
Theo ý nghĩa sâu xa hơn: 12 vị Thần Tướng Dược Xoa là thân hóa hiện của chư Phật Bồ Tát, nhận trọng trách thực hành Phật Nguyện và hộ trì chúng sinh. Mỗi vị Thần Tướng đều thống lãnh bảy ngàn Dược Xoa quyến thuộc, tổng cộng thành tám vạn bốn ngàn Dược Xoa. (Xem trong Kinh Dược Sư, trang 188)
+ Kinh Thất Phật Dược Sư (do Ngài Nghĩa Tịnh dịch) ghi rằng: “Có tám vị Đại Bồ Tát tên là: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Chí Bồ Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát, Bảo Đàn Hoa Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát”
1_ Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát (Maṃjuśrī-bodhisatva) dịch âm là: Văn Thù Thi Lợi, Mạn Thù Thất Lợi; dịch ý là Diệu Cát Tường. Lại có tên là Văn Thù Sư Lợi
Đồng Chân, Nhu Đồng Văn Thù Bồ Tát. Tôn này đại biểu cho Trí Đức, Tuệ Đức, Chứng Đức của tất cả chư Phật.
2_ Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara-bodhisatva): là vị Bồ Tát có hạnh nguyện Đại Bi (Mahā-kāruṇa) luôn quán sát lắng nghe âm thanh cầu cứu của chúng
sinh liền hóa hiện vô số Hóa Thân đến cứu khổ.
3_ Đắc Đại Thế Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta-bodhisatva): còn gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát. Tôn này dùng ánh sáng Trí Tuệ chiếu khắp tất cả khiến cho tất cả chúng sinh được sức vô thượng. Lại nữa khi Ngài bước đi thì tất cả Đại Địa ở mười phương Thế Giới đều chấn động, cho nên có tên gọi là Đại Thế Chí
4_ Vô Tận Ý Bồ Tát (Akaṣaya-matir-bodhisatva) Vị Bồ Tát này do quán Nhân Duyên, Quả Báo của tất cả hiện tượng sự vật đều là vô tận, nên phát Tâm “Bên trên cầu Công Đức của chư Phật không có cùng tận, bên dưới cứu độ chúng sinh không có cùng tận”. Do vậy có tên gọi là Vô Tận Ý
5_ Bảo Đàn Hoa Bồ Tát (Ratna-maṇḍala-puṣpa-bodhisatva): còn có tên Phạn là Ratna-dāna-puṣpa- bodhisatva tức Bảo Thí Hoa Bồ Tát. Tôn này dùng hoa vạn hạnh gom tập Phước Báu ban bố cho khắp tất cả chúng sinh khiến cho họ tự mình tìm ra phương cách dùng Phước Báu trang nghiêm
6_ Dược Vương Bồ Tát (Bhaiṣaijya-rāja-bodhisatva): Tôn này có Tâm Nguyện hay đem thuốc men tốt ban bố cho chúng sinh để chữa trị hai loại bệnh khổ về thân và Tâm của chúng sinh
7_ Dược Thượng Bồ Tát (Bhaiṣaijya-samudgata-bodhisatva): Tôn này cũng có Tâm Nguyện dùng thuốc tốt để chữa trị hai loại bệnh khổ về thân và Tâm cho tất cả chúng sinh.
8 _ Di Lặc Bồ Tát (Maitreya-bodhisatva) dịch âm Hán Việt là Di Đế Lệ, Mai Đê Lê, Mê Đế Lệ, Mai Đát Lệ, Mỗi Đát Lý, Mai Đát Lệ Dược, Muội Đát Lý Duệ…là họ của Bồ Tát, nghĩa là Từ Thị, còn tên của Ngài là A Dật Đa (Ajita) nghĩa là Vô Năng Thắng.
Bồ Tát Di Lặc có hiệu là Từ Thị, tên hiệu đó xác lập căn bản tối hậu là Bản Nguyện Sở Hạnh của Ngài. Ngay trên Duyên Khởi, đời đời kiếp kiếp Ngài đều tu tập Tam Muội Từ Tâm (Maitra-citta-samādhi), thực hiện Từ Hạnh (Maitra-caryā) để cứu độ chúng sinh. Đức đặc biệt của Di Lặc là sau khi bứt trừ sự thống khổ của các chúng sinh, liền tiến thêm một bước là ban cho chúng sinh niềm vui của Pháp (Pháp Lạc) (Nguồn: Kinh Dược Sư)
+ Các Đại Bồ tát: ... Có các vị đại Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười Phật thế giới, cùng nhiễu quanh Đức Phật.
Danh hiệu của các Ngài là: Đại Bồ Tát Phổ Hiền. Đại Bồ Tát Phổ Đức Tối Thắng Đăng Quang Chiếu. Đại Bồ Tát Phổ Quang Sư Tử Tràng. Đại Bồ Tát Phổ Bảo Diệm Diệu Quang. Đại Bồ Tát Phổ Âm Công Đức Hải Tràng. Đại Bồ Tát Phổ Trí Quang Chiếu Như Lai Cảnh. Đại Bồ Tát Phổ Bảo Kế Hoa Tràng. Đại Bồ Tát Phổ Giác Duyệt Ý Thanh. Đại Bồ Tát Phổ Thanh Tịnh Vô Tận Phước Quang. Đại Bồ Tát Phổ Quang Minh Tướng.
Đại Bồ Tát Hải Nguyện Quang Đại Minh. Đại Bồ Tát Vân Âm Hải Quang Vô Cấu Tạng. Đại Bồ Tát Công Đức Bảo Kế Trí Sinh. Đại Bồ Tát Công Đức Tự Tại Vương Đại Quang. Đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh Liên Hoa Kế. Đại Bồ Tát Phổ Trí Vân Nhật Tràng. Đại Bồ Tát Đại Tinh Tấn Kim Cang Tề. Đại Bồ Tát Hương Diệm Quang Tràng. Đại Bồ Tát Đại Minh Đức Thâm Mỹ Âm. Đại Bồ Tát Đại Phước Quang Trí Sinh. Mời xem kỹ trong Kinh có giảng chi tiết về các Ngài. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - T1- HT Tuyên Hóa)
+ Chữ Đại trong tứ Đại: Là yếu tố năng lượng bản nguyên biểu lộ trùm khắp HƯ KHÔNG BIẾN PHÁP GIỚI => Đại = To lớn vô cùng tận, không bờ mé. Mỗi Đại có bản Tánh riêng biệt nên gọi là Đạo như đức Phật giảng cho Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát trong "Đại Thừa Kim Cang Luận": Đất có tánh chắc, nước có tánh thông, lửa có tánh nóng, gió có tánh động kêu là tứ đại. Các Đại là chất liệu nền tảng để các năng lượng biểu hiện thành các tầng lớp Vật chất từ Vi tế đến thô kệch nhất. Trong Dịch học gọi là Ngũ hành. [NTH tổng hợp]
* Quan hệ biện chứng: Không khí là biểu hiện vật lý thấp nhất - Hành Khí là biểu hiện huyền học, nguyên lý tinh thần trung gian - Không đại là nền tảng siêu hình, vượt ngoài, chứa cả “khí” lẫn “không khí”.
Nói cách khác: Nếu Không đại là “Tấm vải vũ trụ/ Tấm thảm của Thượng đế” - Thì Hành Khí là “một gam màu tinh thần” trên đó - Còn Không khí chỉ là “một vệt màu vật chất cụ thể” trong thế giới hữu hình. [Theo GPT tổng hợp]
+ Các Đại động tịnh - Đức Phật dậy: Trong không gian vũ trụ này thì chỗ nào cũng có 7 Đại là địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại (nhận thức tư duy, phân biệt). Các Đại ở Thái Cực/ Nhất Nguyên/ Như Lai Tạng thì Tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau, vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến). Khi biến hiện thì trong 7 đại, có 3 đại là tịnh, vô sắc tướng gồm Không đại - Kiến đại - Thức đại. Tứ đại là động. Do thường lay động không ngừng nên biến hóa thành sắc tướng vạn vật dị biệt sinh diệt không ngừng.
* Năm Đại: Nếu hư không đó, tánh tròn đầy trùm khắp, vốn không lay động, thì nên biết hiện tiền hư không và bốn thứ đất, nước, lửa, gió đều gọi là năm đại, tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sinh không diệt. (Hư không: Tại sao nó tròn đầy, bao trùm khắp, không chướng ngại? Vì nó lưu xuất từ Như Lai tạng, và vốn không sinh không diệt." Thế nên hư không chẳng sinh ra, chẳng tan biến đi.)
* Sáu Đại - Tứ đại lay động: Nếu như các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tính viên mãn cùng khắp, vốn không lay động; thì nên biết kiến đại cùng với hư không vô biên chẳng dao động và bốn thứ vốn lay động là địa, thủy, hỏa, phong, gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng, vốn không sinh không diệt.
Giảng: ".... đất, nước, lửa, gió, không và kiến – gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng." Đó đều là biểu hiện của tánh Như Lai tạng. "Vốn không sinh không diệt." [...Tỷ dụ như xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại. Lục đại là lý thuyết chủ yếu của Mật tông (Kinh Thập Nhất Thiết Xứ).]
* Bảy Đại: Nếu thức ấy chẳng do đâu sinh ra, thì nên biết tác dụng của kiến văn giác tri vốn vắng lặng cùng khắp, tánh chẳng do đâu mà có. Hai đại ấy (thức đại và kiến đại) cùng với Không/ Hư không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại, tánh thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q. 2; 3- HT Tuyên Hóa)
+ V- GIẢNG VỀ CÁC ĐẠI TRONG KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - HT TUYÊN HÓA
... HT Tuyên Hóa giảng: Bấy giờ Thế tôn bảo A-nan rằng: "Trước đây ông nhàm chán các pháp Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác. Ông đã quyết định từ bỏ hẳn pháp môn của hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, giáo pháp của thời A-hàm, phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Nay ông phát tâm siêng năng cầu đạo giác ngộ Vô thượng, đạo giác ngộ của hàng Bồ-tát. Do vậy, nên nay là lúc Như Lai sẽ chỉ bày cho ông Đệ nhất nghĩa đế. Như Lai sẽ giảng giải pháp môn Thật tướng cho ông. Đệ nhất nghĩa đế chính là Thật tướng. Có ba loại Thật tướng:
1. Thật tướng vô tướng (vô tướng chi thật tướng): Không còn các tướng hư vọng, tất cả đều là Nhất chân bình đẳng thật tướng. Tức là Không Như Lai tạng.
2. Thật tướng của cái chẳng phải vô tướng (vô bất tướng chi thật tướng): Hoàn toàn đều chẳng phải là vô tướng, chỉ tuỳ duyên mà biến hiện ra tất cả tướng.
3. Thật tướng của chẳng tướng nào không phải là tướng (vô tướng vô bất tướng chi thật tướng): Tức là Không bất không Như Lai tạng. Cũng gọi là diệu hữu chân không, chân không diệu hữu.
Dù kể là ba, nhưng chỉ là một, đó là Thật tướng. Thật tướng là không có tướng, nhưng chẳng có gì là không có tướng cả. Đó là lý chân không diệu hữu, diệu hữu chân không. Nếu cứu xét đến tột cùng, thì vốn chẳng có tướng gì cả. Nhưng trong cái chẳng có tướng gì ấy lại có tất cả. Thế nên chẳng có tướng gì chính là chân không, và có tất cả là diệu hữu.
Đạo lý đang được giảng giải sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới. (Nguồn: Kinh Thủ LN- Q3, 4- HT Tuyên Hóa)
+ Không đại - Thần giới không: Không hình không tượng tức là không - Nhìn cũng chẳng thấy nghe cũng không....
Giảng giải : Noa Gia dịch là "Không", không tức là Thần giới không. Thật ra không tức là không, còn phải tìm một vị thần cai quản, thật là không có việc tìm việc làm, giống như chính phủ đặt ra một chức bộ trưởng cải thiện không khí. Thần không như thế nào ? Không có hình dạng gì hết cho nên: ‘’Không hình không tượng tức là không.’’ Thuấn nhã đa tức là không.
‘’Nhìn cũng chẳng thấy, nghe cũng không.’’ Không thì bạn nhìn cũng chẳng thấy, nếu nhìn thấy thì chẳng gọi là không, cũng không thể ngửi mùi vị thần không. (Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Không đại - Không khí: Kinh Thập Nhất Thiết Xứ dạy: ... dạy cho họ biết xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại....
Xem thêm: Phần 1: Phân biệt các Giới - Đại chủng bốn giới - Tứ đại
Xem thêm: Các Đại Dựa Vào Nhau Để Tồn Tại
Xem thêm: Tổng hợp Tooltip các đại và các Hành
Xem thêm: Các Đại và các hành tương tác
Xem thêm: Các Đại và các Hành trong Đại Thiên Địa
A- Các Hành tố - Theo âm dương ngũ hành
1. Nhất Nguyên hay Thái Cực: Vật chất hỗn độn, dung hợp
2. Chia Âm Dương: Duyên khởi chia Âm Dương và phân chia mãi vô cùng tận, thiên biến vạn hóa biến thành muôn vật, muôn việc vi diệu
3. Tứ đại: Chữ Đại - Là yếu tố năng lượng bản nguyên biểu lộ trùm khắp HƯ KHÔNG BIẾN PHÁP GIỚI => Đại = To lớn vô cùng tận, không bờ mé. Mỗi Đại có bản Tánh riêng biệt nên gọi là Đạo như đức Phật giảng cho Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát trong "Đại Thừa Kim Cang Luận": Đất có tánh chắc, nước có tánh thông, lửa có tánh nóng, gió có tánh động kêu là tứ đại. Các Đại là chất liệu nền tảng để các năng lượng biểu hiện thành các tầng lớp Vật chất từ Vi tế đến thô kệch nhất. Trong Dịch học gọi là Ngũ hành. [NTH]
B- THEO MINH TRIẾT MỚI:
+ Tứ đại (vật chất vi tử, yếu tố): X. Yếu tố, Hợp tố.
+ Tứ đại - Dĩ thái: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ đại: Phong (Air), Hỏa (Fire), Thủy (Water), Địa (Earth). (LVLCK, 43)
+ Ngũ Đại có 5 yếu tố: Dĩ thái (Ether), Không khí/ Phong (Air), Lửa (Fire), Nước (Water), và Đất (Earth) .(ASCLH, 157)
+ Dĩ thái - "Thuộc về Sao": Khi tiếp xúc với thế giới dĩ-thái, ấn tượng đầu tiên được mang lại luôn luôn là một ánh sáng đầy sao, sự sáng chói, sự nhấp nháy (LVHLT, 221)
+ Tattva hay vật chất vi tử của một cõi là kết quả của một vùng xoáy được tạo nên bởi tattva của cõi kế trên trong các tập hợp thô trược nhất của cõi cao kế trên đó, vùng xoáy này được tạo ra bởi một tanmatra mới phát ra từ Isvara, các yếu tố:
1. Cõi Tối Đại Niết Bàn (cõi thứ 7). Do sự phối hợp của vật chất vi tử Cõi này mà 6 phân cảnh thấp của cảnh giới (cõi) cao nhất được tạo thành.
2. Cõi Đại Niết Bàn, vật chất vi tử của cảnh giới Đại Niết Bàn, cõi thứ 6.
3. Tiên thiên khí (Tiên thiên khí đại, tương ứng với Dĩ thái (ether), âm thanh (sound), vật chất vi tử của cõi Niết Bàn (Nirvana), cõi thứ năm.
4. Yếu tố Phong (Phong đại), tương ứng với Không Khí (Air), xúc giác (Touch), vật chất vi tử của cõi thứ tư, cõi Bồ Đề. (Bất cứ sự động nào đều phát sinh gió)
5. Yếu tố Hỏa (Hỏa đại), tương ứng với Lửa, ánh sáng, vật chất vi tử của cõi thứ ba, cõi trí (Manasic plane).
6. Yếu tố Thủy (Thủy đại), tương ứng với Nước, Vị giác (taste), vật chất vi tử của cõi thứ hai, cõi cảm dục
7. Yếu tố Thổ (Thổ đại), tương ứng với Đất, khứu giác (smell), vi tử hồng trần của cõi thứ nhất, cõi trần. (LVLCK, 56, 94)
- Xem thêm Hợp tố, Tattvas hay là các biến phân của lực dưới 7 hình thức của chúng. (ASCLH, 153)
- Xem thêm: Sách Ngũ hành - Minh Triết mới
+ Tứ đại: ... Kế đó Vật Chất Nguyên Thuỷ tự phân tán và hợp thành những Nguyên Tố qui định thành Tứ Đại trong Nguyên Tố thứ năm, tức Dĩ Thái, một biến thể của Akasha, tức chất Tinh Quang (Anima Mundi) hay Mẹ của Vũ Trụ. Tại sao và bằng cách nào có sự hình thành những “Chấm điểm, Đường thẳng, Tam giác, Khối vuông, Vòng tròn” và sau cùng là những khối “Bầu Tròn”? Thiên bình luận nói rằng đó là luật Thiên Nhiên và vì Thiên Nhiên tự biểu lộ theo những phương pháp hình học. (Nguồn: Giáo lý bí nhiệm)
+ Ngũ hành: ... Sự liên hệ chặt chẽ giữa những Mãnh Lực thiên nhiên đó (dưới bàn tay dìu dắt của các Đấng Cao Cả) với các loại ngũ hành của Vật chất thuần tuý tạo nên những hiện tượng vật chất như ánh sáng, nhiệt lực, từ điện, v.v....... Điện lực, ánh sáng, nhiệt lực v..v… đã được gọi một cách chính xác là “Cái Bóng của Vật Chất Vận Chuyển” ....
.... Nhưng, đằng sau mãnh lực này, có tiềm ẩn những nguyên nhân thâm diệu cao xa hơn, cũng như người chủ xe điều khiển người đánh xe từ bên trong. Đó là những Đấng Thông Tuệ, sáng suốt, từ tinh hoa của các Ngài phát xuất những trạng thái “Mẹ”, tạo nên vô số Tinh Linh thuộc về ngũ hành trong thiên nhiên, cũng như mỗi giọt nước chứa đựng vô số Sinh vật vô cùng nhỏ bé (Infusoria) (1).....
g) NHÓM THỨ SÁU và THỨ BẢY có đặc tính thấp hơn của Tứ thể hạ. Đó là những Thực Thể hữu thức, thể chất mong manh như sương và vô hình như chất Dĩ Thái, xuất phát từ nhóm trung ương đầu tiên gồm có Bốn vị Thiên Vương. Đến lượt các Nhóm ấy lại phóng phát ra vô số các nhóm nhỏ, nhóm thấp nhất là những tinh linh ngũ hành, gồm vô số loại, từ những loại vô sắc và không có thể chất - những TƯ TƯỞNG tuyệt đích của các Đấng sáng tạo ra chúng - dẫn xuống đến vi trần mà mắt người không nhìn thấy ..... (Nguồn: Giáo lý bí nhiệm)
+ Thứ tự tính vật chất tăng dần thì bảy nguyên tố vũ trụ là (Thư của Chơn sư, 90):
1. Akāsha (đôi khi được gọi là Aether),
2. Thủy (Linh hồn Thế giới hoặc chính xác hơn là phần cao của nó),
3. Dĩ thái (thường được viết là Aether),
4. Tứ Đại: Lửa, Gió, Nước (phần thấp của Linh hồn Thế giới) và Đất.
- Ba nguyên tố đầu tiên tương ứng với ba cõi cao, “vô sắc giới” (aroupa) của vũ trụ,
- Bốn nguyên tố cuối cùng đôi khi được gọi là 4 phương chính (Giáo Lý Bí Truyền I, 359, 501) tương ứng với bốn cõi thấp, “sắc giới” (roupa). (Nguồn: Thông thiên học)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây. (Xem Tooltip: Các đại và luân xa)
+ Theo truyền thống Ấn Độ thì 4 đại: Địa, Thủy. Hỏa, Phong là 4 đặc tính của vật chất hay là các nhân tố tạo thành vật chất. Trong đó:
- Địa Đại là nguyên tố rắn chắc có tác dụng giữ gìn tức là tính bền của vật chất.
- Thủy Đại là nguyên tố ướt mềm có tác dụng nhóm họp tức là tính dính ướt của vật chất.
- Hỏa Đại là nguyên tố phóng quang ấm áp có tác dụng thiêu cháy, nấu chín tức là tính ấm áp của vật chất.
- Phong Đại là nguyên tố bốc hơi (Chất hơi) rung chuyển có tác dụng lay động tức là tính động của vật chất.
Như vậy bất kỳ một thứ nào nếu không có 4 tính năng lớn đó thì không phải là vật chất, nghĩa là mọi thứ vật chất đều phải dựa vào sự tương tác tương tùy của bốn đặc tính này mà tồn tại.
+ Linh hồn của các Hành Tố. Các sinh vật tiến hóa trong 4 giới/ 4 Hành – Địa, Phong, Hỏa và Thủy. Tín đồ Do Thái Bí giáo gọi các tạo vật này là Thổ tinh linh (thuộc về đất), Phong tinh linh (thuộc về không khí), Hỏa tinh linh ( thuộc về lửa) và Thủy tinh linh (thuộc về nước).… (NGMTTL, 111–112)
C- THEO PHẬT GIÁO: Trong Phật giáo có các thuyết: Tứ đại, Ngũ đại, Lục đại, Thất đại...
I. Sao gọi Tứ đại: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là tứ đại?
Thế Tôn nói: Đất có tánh chắc, nước có tánh thông, lửa có tánh nóng, gió có tánh động kêu là tứ đại. Trong thân người cũng có tứ đại hòa hiệp mới thành một thể, nên da thịt gân cốt hiệp thành cái thân tên là địa đại. Nước miếng, nước tiểu và máu tươi nhuận cái thân tên là thủy đại. Trong mình hơi ấm vận chuyển điều hòa cái thân tên là hỏa đại. Tay chân co duổi đi đứng tới lui, chuyển động cái thân tên là phong đại. Hễ tứ đại điều hòa thì thân an lạc; tứ đại chẳng hòa ắt sanh bệnh khổ. Nên địa, thủy, hỏa, phong kêu là tứ đại. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
1. Tứ đại vốn lay động: Nếu như các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tính viên mãn cùng khắp, vốn không lay động; thì nên biết kiến đại cùng với hư không vô biên chẳng dao động và bốn thứ vốn lay động là địa, thủy, hỏa, phong, gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng, vốn không sinh không diệt.
Giảng: ".... đất, nước, lửa, gió, không và kiến – gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng." Đó đều là biểu hiện của tánh Như Lai tạng. "Vốn không sinh không diệt.". (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q.3 tiếp Q.2- HT Tuyên Hóa)
2. Tứ Đại nương tựa vào nhau để tồn tại: Con Người nương tựa vào lúa gạo để tồn tại - Lúa gạo dựa vào Đất - Đất dựa vào Nước - Nước dựa vào Gió - Gió Tựa vào Hư Không - Hư Không không có nương tựa, nhưng Nhân (nhờ Mặt Trời và Mặt Trăng) mà mà có Hư Không - Mặt trời, mặt trăng nương vào Tứ thiên vương mà tồn tại - Tứ Thiên vương nương vào Tam thập tam thiên mà tồn tại .... Nhẫn Nhục dựa vào Niết Bàn tồn tại - Niết Bàn không dựa vào đâu mà tồn Tại - Là Pháp Tối Thắng Của Đức Phật. (Nguồn: mục 777- Xem tại đây)
3. Hiểu đơn giản: Gồm đất (địa đại), nước (thủy đại), gió (phong đại) và lửa (hỏa đại). Bốn đại là bốn yếu tố căn bản tạo thành vật chất:
- Đất tượng trưng cho độ rắn chắc, kết cấu của vật chất;
- Nước tượng trưng cho độ ẩm, sự hiện diện của nước trong vật chất;
- Lửa tượng trưng cho nhiệt năng hay năng lượng, hàm chứa trong mọi vật chất;
- Gió tượng trưng cho sự chuyển động, thay đổi của các phân tử cấu thành vật chất.
Tất cả vật chất trong vũ trụ đều do bốn tính chất này hòa hợp theo những tỷ lệ khác nhau mà tạo thành. Thân thể con người cũng không phải ngoại lệ, nên được gọi là thân tứ đại. Vì thân tứ đại là cội nguồn của mọi sự tham dục, khổ não nên người tu tập nên quán xét nó như là con rắn độc (tứ đại độc xà).(Nguồn: Định nghĩa tứ đại)
+ Đại khái các tông Câu xá, Duy thức... đều áp dụng thuyết Tứ đại, vì tứ đại tạo ra tất cả các sắc pháp nên gọi là Tứ đại chủng hay Năng tạo tứ đại.
- 4. Hiểu toàn diện: Bốn yếu tố lớn hình thành nên vật chất, gồm:
(1) Địa Đại (Đất), bản chất của nó cứng rắn, có tác dụng bảo trì.
(2) Thủy Đại (Nước), bản chất ẩm ướt, có tác dụng thâu nhiếp, tập trung.
(3) Hỏa Đại (Lửa), bản chất ấm nóng, có tác dụng thành thục.
(4) Phong Đại (Gió), bản chất động, có tác dụng sinh trưởng.
- Khi 4 yếu tố này hợp lại thì có thể hình thành nên vạn vật, và khi chúng tan biến thì vạn vật cũng theo đó mà tiêu diệt; cho nên, không có người sáng tạo ra vạn vật, mà cũng chẳng có vạn vật nào được sáng tạo cả; vì vậy, trong Phật Giáo vẫn thường dùng từ “Tứ Đại giai không, bốn đại đều không thật có).
- Tứ đại luôn động/ thay đổi: Bốn yếu tố lớn cấu tạo nên vạn hữu. Bốn thành phần nầy không tách rời nhau mà liên quan chặt chẽ lẫn nhau. Tuy nhiên, thành phần nầy có thể có ưu thế hơn thành phần kia. Chúng luôn thay đổi chứ không bao giờ đứng yên một chỗ trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Theo Phật giáo thì vật chất chỉ tồn tại được trong khoảng thời gian của 17 chập tư tưởng, trong khi các khoa học gia thì cho rằng vật chất chỉ chịu đựng được 10 phần 27 của một giây. Nói gì thì nói, thân thể của chúng ta chỉ là tạm bợ, chỉ do nơi tứ đại hòa hợp giả tạm lại mà hành, nên một khi chết đi rồi thì thân tan về cát bụi, các chất nước thì từ từ khô cạn để trả về cho thủy đại, hơi nóng tắt mất, và hơi thở hoàn lại cho gió. Chừng đó thì thần thức sẽ phải theo các nghiệp lực đã gây tạo lúc còn sanh tiền mà chuyển vào trong sáu nẻo, cải hình, đổi xác, tiếp tục luân hồi không dứt.
- II- Ngũ Đại - Cũng gọi Ngũ đại chủng. Chỉ cho 5 nguyên tố của thể tính rộng lớn, sinh thành ra muôn pháp, tức là: Đất, nước, lửa, gió và không. Tính chất của 5 nguyên tố này theo thứ tự là cứng, ướt, nóng, động và vô ngại; tác dụng là giữ gìn, thu nhiếp, thành thục, tăng trưởng, không ngăn ngại.
+ Mật giáo thì chuyên sử dụng thuyết Ngũ đại, Lục đại (đất, nước, lửa, gió, không, thức), chủ trương tứ đại không lìa tâm đại, cho rằng tâm và sắc tuy khác nhưng thể tính của chúng thì chẳng phải 2;
- Lại đem Ngũ đại phối với ngũ phương(vị), ngũ sắc, ngũ Phật, ngũ môn và ngũ trí.
- Còn nói về hình tướng và màu sắc thì đất là hình vuông màu vàng; nước hình tròn màu trắng; lửa hình tam giác màu đỏ; gió hình bán nguyệt màu đen; không là hình bảo châu màu xanh. Đây chính là tháp Ngũ luân hình Tam muội da của đức Đại nhật Như lai. [Nguồn: X. kinh Vô lượng thọ Q.hạ; phẩm A xà lê chân thực trí trong kinh Đại nhật Q.5....).
- 2. Ngũ Đại. Chỉ cho 5 đại: Không đại, phong đại, hỏa đại, thủy đại và địa đại do Ngũ duy sinh ra. (Ngũ duy chỉ cho: Thanh duy, xúc duy, sắc duy, vị duy và hương duy).
Đây là 1 khoa trong 25 đế do học phái Số luận thành lập. Cứ theo Thành duy thức luận thuật kí, thì có thuyết cho rằng từ Ngã mạn sinh ra 10 pháp là ngũ đại và ngũ duy; nhưng cũng có thuyết chủ trương Ngã mạn chỉ sinh ra ngũ duy, còn ngũ duy thì sinh ra ngũ đại, và ngũ đại sinh ra 11 căn.
- Phật giáo thì cho tứ đại và ngũ đại là năng tạo, còn học phái Số luận thì chủ trương ngũ đại là sở tạo. Đây là sự sai khác căn bản giữa 2 bên. [ Nguồn: X. kinh Niết bàn Q.35, 36 (bản Nam).... (Nguồn: Định nghĩa ngũ đại)
+ Tứ đại do năng tạo, ở Thiên là khí, ở đất là hình: Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới.... có kim luân giữ gìn cõi nước ...có hỏa đại..... có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh.
Ngoài tứ đại còn có không đại, kiến đại và thức đại. Vì không đại là phản ánh của chơn không. Kiến đại là chỗ lưu lộ của chân như, thuộc năm hiện lượng. Nó chính là phần Năng kiến nói trong luận Khởi Tín, là phần Kiến tinh nói trong kinh Lăng Nghiêm. Thức đại là để biết do đâu có sự phân biệt cảnh.... (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên hay tự nhiên- Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ MỤC HỎI ĐÁP VỀ TỨ ĐẠI (Phật dậy trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Đại chủng là bốn giới - Tức đất, nước, lửa, gió - Khả năng và tính chất
- Luận: Đất, nước, gió, lửa có khả năng gìn giữ các tính chất riêng của mình và các sắc pháp được chúng tạo thành (sở tạo sắc) vì thế gọi là giới. Bốn giới này được gọi là đại chủng vì chúng làm chỗ dựa cho tất cả các loại sắc khác và vì thế tính vốn rộng khắp; hoặc vì đại chủng đất, nước, v.v., tập trung với số lượng lớn trong đất, nước, v.v., hoặc vì khởi đủ các loại tác dụng lớn.
- Hoạt động tương tác - Tạo nghiêp: Theo thứ tự trên, chúng có thể trì giữ, kết dính (nhiếp), làm chín và làm tăng trưởng.
* Địa giới có khả năng trì giữ, thủy giới có khả năng kết dính, hỏa giới có khả năng làm chín và phong giới có khả năng làm tăng trưởng. Nói “tăng trưởng” có nghĩa là làm chuyển dịch (prasarpaṇa) và lớn mạnh (vṛddhi).
* Các tính chất bốn Đại: cứng, ướt, nóng, động. Địa giới có tính cứng, thủy giới có tính ướt, hỏa giới có tính nóng, và phong giới có tính động. Nhờ vào tính chất động này mới có thể dẫn dắt đại chủng tạo sắc tương tục sinh khởi đến các chỗ khác; cũng giống như trường hợp của ánh đèn. Phẩm Loại Túc luận (Prakaranas) và Khế kinh (Garbhāvakrantisūtra) nói: Phong giới là gì? - Là tính chất nhẹ nhàng (laghutva). Phẩm Loại Túc luận lại nói: “Tính chất nhẹ nhàng này là một sở tạo sắc.” Vì thế một pháp có tính động (iraṇātmaka) là phong giới; tức ở đây đã dựa vào tác dụng động (iraṇātmakrman) để trình bày thể tính cho nên mới nói là “nhẹ nhàng”.
+ Những khác biệt giữa đại chủng đất, v.v., là gì? Đáp: Đất là hiển và hình; Tùy thế tục đặt tên; Nước, lửa cũng như vậy; Gió là phong giới cũng là hiển sắc và hình sắc.
- Luận: Địa là màu sắc và hình dạng, có sắc xứ làm thể, thế gian gọi như vậy. Bởi vì thế gian khi chỉ cho nhau xem đất đều dựa vào màu sắc và hình dạng của nó. Về nước và lửa cũng vậy.
+ Gió chính là phong giới, vì thế gian căn cứ vào sự chuyển động để gọi tên hoặc giống như trường hợp của đất v.v. Ở đây cũng tùy theo cách gọi của thế gian nên gọi là gió. Gió chính là màu sắc và hình dạng vì thế mới nói là “cũng như vậy” (diệc dĩ). Như thế gian nói “gió đen,” “gió xoáy,” v.v., tức đã dựa vào màu sắc và hình dạng để chỉ cho gió. (Nguồn: (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q3- HT Tuyên Hóa)
+ Hành kim trong ngũ hành cũng tương ứng là/ Nhiếp thuộc Địa đại trong tứ Hành tố (Đất - Nước - Gió - Lửa là vật chất đậm đặc nhất (Được chia tương ứng 4 phương). Tứ Hành tố là "biến phân" của các tứ Đại gồm Địa đại - Thủy đại (Phần cao của nước) - Hỏa đại - Phong đại; Ngoài ra còn Không, Kiến, Thức đại). Các đại hình thành trời đất/ muôn vũ trụ khắp hư không. Tứ đại ở trời là KHÍ thì động, biến đổi không ngừng, đều do nhân Phong luân/ Gió lay động mà phát sinh các nhân duyên hòa hợp hoặc phân ly mà thành ra các sắc vô tướng biến đổi không ngừng. Ở đất thành hình đều do Đất ngăn ngại hòa hợp với Nước - Gió - Lửa mà thành Tướng vạn vật biến đổi không ngừng, muôn sai vạn biệt, sinh diệt diệt sinh không cùng. Đại khái, hiểu theo nghĩa thế gian thì bảy đại trong hư không, có tứ đại (Địa - Thủy - Hỏa - Phong) thì động, ba đại là Không - Ý - Thức thì tịnh) - Nhân trắc học tổng hợp - Mong chỉ tham khảo;
Xem thêm: Tổng hợp phân biệt Hành tinh và Hành tố
Xem thêm: Phần 1: Phân biệt các Giới - Đại chủng
Xem thêm: Các Đại Dựa Vào Nhau Để Tồn Tại
Xem thêm: Tổng hợp Tooltip các đại và các Hành
Xem thêm: Các Đại và các hành tương tác
Xem thêm: Các Đại và các Hành trong Đại Thiên Địa
+ Sáu nghiệp hao tổn tài sản: Này Thiện Sinh, sáu nghiệp tổn tài là: 1. Đam mê rượu chè. 2. Cờ bạc. 3. Phóng đãng. 4. Đam mê kỹ nhạc. 5. Kết bạn với người ác. 6. Biếng lười. Phật cũng dậy chi tiết sự tai hại của sáu nghiệp này:
- Lại nữa, này Thiện Sinh, nên biết, uống rượu có sáu điều lỗi: 1. Hao tài. 2. Sinh bệnh. 3. Đấu tranh. 4. Tiếng xấu đồn khắp. 5. Bộc phát nóng giận. 6. Tuệ giảm dần. Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả ấy uống rượu không thôi thì nghiệp gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, cờ bạc có sáu điều tai hại: 1. Tài sản ngày một hao hụt. 2. Thắng thì gây thù oán. 3. Bị kẻ trí chê. 4. Mọi người không kính nễ tin cậy. 5. Bị xa lánh. 6. Sinh tâm trộm cắp. Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả mê đánh bạc mãi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, phóng đãng có sáu lỗi: 1. Không tự phòng hộ mình. 2. Không phòng hộ được tài sản và hàng hóa. 3. Không phòng hộ được con cháu. 4. Thường hay bị sợ hãi. 5. Bị những điều khốn khổ ràng buộc xác thân. 6. Ưa sinh điều dối trá. Đó là sáu điều lỗi. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả phóng đãng mãi không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, say mê kỹ nhạc có sáu lỗi: 1. Tìm đến chỗ ca hát. 2. Tìm đến chỗ múa nhảy. 3. Tìm đến chỗ đàn địch. 4. Tìm đến chỗ tấu linh tay. 5. Tìm đến chỗ có âm thanh vi diệu. 6. Tìm đến chỗ đánh trống. Đó là sáu tai hại của kỹ nhạc. Nếu trưởng giả hoặc con trai trưởng giả say mê kỹ nhạc mãi không thôi thì gia sản ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1. Tìm cách lừa dối. 2. Ưa chỗ thầm kín. 3. Dụ dỗ nhà người khác. 4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người khác. 5. Xoay tài lợi về mình. 6. Ưa phanh phui lỗi người. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán.
- Này Thiện Sinh, lười biếng có sáu lỗi: 1. Khi giàu sang không chịu làm việc. 2. Khi nghèo không chịu siêng năng. 3. Lúc lạnh không chịu siêng năng. 4. Lúc nóng không chịu siêng năng. 5. Lúc sáng trời không chịu siêng năng. 6. Lúc tối trời không chịu siêng năng. Đó là sáu điều tai hại của sự lười biếng. Nếu trưởng giả hay con trưởng giả lười biếng mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
Lời Phật dạy thật rõ ràng: Đam mê rượu chè, cờ bạc, phóng đãng, đam mê kỹ nhạc, kết bạn với người ác, biếng lười là sáu nguyên nhân gây ra tổn hao tài sản. Phải thấy rõ nguyên nhân chính yếu và chi tiết của sự tổn tài cũng như sự nguy hiểm của nó mới có thể khắc phục. Như hồ nước, chỉ có một lối nước vào mà có đến sáu lối nước ra thì chắc chắn hồ sẽ khô cạn. Cũng vậy, muốn gìn giữ cơ nghiệp và chi tiêu đúng pháp để lợi mình và lợi người trong hiện tại và cả mai sau, hãy chuyển hóa sáu nghiệp bất thiện này. (Nguồn: Trích Kinh Thiện Sanh)
+ Chọn nghề mà làm giàu: Có 5 điều mà Phật dạy không nên kinh doanh, còn gọi là kinh doanh phi pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ:
1. Không buôn bán vũ khí.
2. Không buôn bán người.
3. Không buôn bán thịt.
4. Không buôn bán rượu
5. Không buôn bán thuốc độc. (Nguồn: Phật dậy về làm giầu)
+ Nguyên nhân Số phận sinh ra đã nghèo: Xem Phật dậy Mười điều bị tổn phước báu (Kinh Tăng Nhất A Hàm – Tập III)
Tạo nghiệp xấu ác hao tổn phúc báo:
+ Hao tổn tài sản: Trong kinh Thiện Sanh, Đức Phật rất quan tâm đến pháp tu dành cho Cư sĩ, xin giới thiệu với các Bạn một đoạn kinh văn:
“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương; thì đời này tốt đẹp và cả đời sau cũng được quả báo tốt đẹp; đời này có căn cơ và đời sau có căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả bậc nhất , sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện.
1/. “Này Thiện Sinh, nên biết, hành bốn kết là: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ.
2/. “Thế nào là bốn trường hợp ác? Đó là: Tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Ai làm những việc ác theo bốn trường hợp đó sẽ bị hao tổn.
Nói như vậy xong, Phật lại nói bài tụng ...
... Sáu nghiệp hao tổn tài sản: Này Thiện Sinh, sáu nghiệp tổn tài là: 1. Đam mê rượu chè. 2. Cờ bạc. 3. Phóng đãng. 4. Đam mê kỹ nhạc. 5. Kết bạn với người ác. 6. Biếng lười. Phật cũng dậy chi tiết sự tai hại của sáu nghiệp này .... (Nguồn: Trích Kinh Thiện Sanh)
+ Hao tổn phước báo: Người xưa khuyên rằng, hành thiện sẽ tích được phúc báo. Nhưng trong cuộc sống, có rất nhiều việc mà chúng ta vô ý làm, không những không tích được phúc báo mà còn khiến phúc báo bị hao tổn mất. Dưới đây là 6 hành vi khiến phúc báo của một người bị hao tổn nhanh nhất mà một vị Hòa thượng khuyên bảo!
1. Tức giận, oán giận, cáu kỉnh:
2. Xung đột với cha mẹ, người bề trên:
3. Oán trời trách người, bàn lộng thị phi, ghen ghét người khác.
4. Khoe khoang, khoa trương bản thân:
5. Nói điều xấu, điều không đúng về người khác:
6. Thường xuyên sát sinh. (Nguồn: Hành vi hao tổn phước báo_HT Tịnh Không)
+ Phật dạy về 4 đường ác và 6 việc làm hao tổn tài sản:
+ 4 nghiệp xấu ác đó là: Sát sinh hại vật, trộm cướp lường gạt của người khác, tà dâm, nói dối hại người, đây là bốn điều xấu ác;
+ 6 điều nguy làm hao tổn tài sản là:
1. Say sưa rượu chè: Tài sản tiêu hao; Gây sự tranh cãi; Phát sanh bệnh tật; Đánh mất danh dự; Lõa lồ trâng tráo; Trí tuệ suy giảm.
2. Đi lại không giờ giấc có 6 điều nguy là: Không giữ được mình; Không giữ được vợ con; Không giữ được tài sản; Dễ bị tình nghi; Thành nạn nhân tin đồn; Chuốc lấy ưu phiền.
3. La cà chốn du hí, vũ trường có 5 đều nguy là: Công việc đình trệ; Thối thất siêng năng; Mất nhiều thời gian; Hao tốn tiền của; Bận rộn tâm tìm chỗ vũ nhạc ca hát.
4. Đam mê cờ bạc có 6 điều nguy là: Thắng sinh thù oán; Thua bị khổ đau; Tài sản bị tổn thất; Lời nói không hiệu lực; Bạn bè khinh miệt; Người đời không dám gả cưới.
5. Giao du bạn xấu ác có 6 điều nguy là: Ảnh hưởng thói cờ bạc; Ảnh hưởng thói điếm đàng; Ảnh hưởng thói rượu chè; Ảnh hưởng thói gian xảo; Ảnh hưởng thói lường gạt; Ảnh hưởng thói côn đồ.
6. Quen biếng nhác với 6 lý do là: Nghĩ rằng lạnh quá; Nghĩ rằng nóng quá_ Nghĩ rằng sớm quá_ Nghĩ rằng trễ quá_ Nghĩ rằng đói quá,_ Nghĩ rằng No quá. Nguồn: xem tại đây và xem Phật dậy 4 điều sâu ác và 6 cửa hao tài
+ Nghiệp xấu ác hao tổn phước báo: Người xưa khuyên rằng, hành thiện sẽ tích được phúc báo. Nhưng trong cuộc sống, có rất nhiều việc mà chúng ta vô ý làm, không những không tích được phúc báo mà còn khiến phúc báo bị hao tổn mất. Dưới đây là 6 hành vi khiến phúc báo của một người bị hao tổn nhanh nhất mà một vị Hòa thượng khuyên bảo!
1. Tức giận, oán giận, cáu kỉnh:
Đại sư Ấn Quang khuyên bảo: “Người phụ nữ không hay tức giận, thì con cháu sống thọ hơn. Phụ nữ thường xuyên tức giận cáu kỉnh, sinh con sẽ khó nuôi.”
Phát giận là điều cứu không được. Tức giận chính là: “Lửa thiêu rừng công đức”. Chỉ một cơn lửa giận, có thể thiêu cháy hết cả phúc đức. Người xưa thường khuyên rằng: “Oán giận một lần đối với một người bình thường, sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 100 kiếp. Oán giận một lần đối với cha mẹ, người lớn tuổi, người Đại Đức, sẽ làm tiêu tan phúc đức tích lũy trong 1000 kiếp.” Hậu quả rõ ràng nhất là: “Phúc mỏng mệnh nông”.
2. Xung đột với cha mẹ, người bề trên:
Chống đối, mâu thuẫn với cha mẹ, người đã sinh ra mình, nuôi mình lớn lên, che chở bảo vệ cho mình khi hoạn nạn, khó khăn, vì mình có thể hy sinh cả thân mạng... Là việc đứng đầu trong những việc làm: “Tổn phúc bại lộc”. Vô luận là cầu cái gì cũng đều không đạt được, ngàn vạn lần cầu cũng uổng công, bởi vì tích phúc không có mà tổn phúc lại nhanh. Sự việc, nhân duyên, làm việc đều không thuận… Nếu như công việc không thuận lợi, cảm tình thống khổ, lập tức hiếu thuận với cha mẹ, cha mẹ vui mừng thì hết thảy Thiên Nhân, quỷ Thần đều sẽ đến bảo hộ. Người không chống đối, không có mâu thuẫn với cha mẹ, thì công việc sẽ thuận lợi, có nhân duyên tốt đẹp. Nếu như từ nhỏ đã không có mâu thuẫn gì với cha mẹ, thì cho dù xuất thân trong gia đình nghèo khó, sau này lớn nên cũng có thể trở thành người có sự nghiệp.
Người dùng tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ, tương lai tất sẽ giàu có, khá giả. Hiếu thuận, nhưng không dùng vật phẩm tiền tài nuôi dưỡng cha mẹ, thì cho dù làm đại quan cũng sẽ thiếu hụt tài phú. Nói xấu, xuyên tạc bậc Thánh Hiền, Đại Đức, một câu làm tổn hại 100 thiện, làm hỏng hết huyết mạch phúc báo của gia đình.
3. Oán trời trách người, bàn lộng thị phi, ghen ghét người khác.
Những điều này làm tổn hại đức khí và hòa khí của trời đất, tài vận sẽ bị hủy diệt. Nếu như không có của cải của tổ tiên che chở, thì nhất định sẽ bần cùng, làm việc không thuận. Oán trời trách người, một lần sẽ làm tiêu tan ba thiện. Đại sư Ấn Quang nói: “Người gặp nghịch cảnh mà không oán trời trách người, thì nhất định sẽ có hậu phúc và con cháu thịnh vượng.”
Ghen ghét châm chọc, nói xấu người khác cái gì, thì tương lai cũng sẽ phải chịu như thế!
4. Khoe khoang, khoa trương bản thân:
Khoe khoang bản thân, ở đâu cũng đề cao mình, cũng tự mãn, dần dần sẽ khiến quỷ Thần ghen ghét mà phá bỏ. Cho nên, khoe khoang cái gì thì tương lai sẽ bị mất đi thứ đó.
5. Nói điều xấu, điều không đúng về người khác:
Nói những điều xấu, điều không đúng về người khác, là làm tổn thương đến hòa khí giữa trời và đất, chiêu mời tai họa của quỷ Thần giáng xuống. Hơn nữa, còn dùng những lời nói đồn đại không đúng sự thật, để khoa trương bản thân, cố ý hạ thấp người khác, khiến cho người bị nói tức giận khó chịu, thì làm sao có thể sống bình an đây?
6. Thường xuyên sát sinh:
Sát sinh, là hành vi đứng đầu trong những hành vi làm hao tổn phúc báo nhanh nhất. Trong cuộc sống hàng ngày, sát sinh là việc khó “đoạn tuyệt” được, nhưng nếu không nhất định phải sát sinh, thì chúng ta hãy hạn chế sát sinh. Bởi vì, sát sinh chính là cách làm hao tổn dần phúc báo của bản thân. Đến khi đã hưởng hết phúc báo từ đời trước, thì chúng ta sẽ phải chịu nghiệp báo của sát sinh gây ra. (Nguồn: Hành vi hao tổn phước báo_HT Tịnh Không)
+ Mười điều bị tổn phước báu
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Do gốc mười điều ác, ngoại vật còn suy giảm huống gì nội pháp. Thế nào là mười? Là sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói thêu dệt, nói lời ác, nói hai lưỡi đâm thọc gây rối đôi bên, tật đố, sân hận, tà kiến.
1. Do quả báo của sát sanh nên thọ mạng của chúng sanh rất ngắn.
2. Do quả báo trộm cắp nên chúng sanh sanh ra liền bị nghèo đói.
3. Do quả báo của dâm dục nên gia đình chúng sanh không trinh bạch.
4. Do quả báo nói thêu dệt, nên đất đai không bằng phẳng.
5. Do quả báo của nói hai lưỡi đâm thọc nên đất đai sanh gai góc.
6. Do quả báo nói lời ác nên có nhiều ngôn ngữ.
7. Do quả báo tật đố nên lúa thóc không dồi dào.
8. Do quả báo của sân hận nên có nhiều vật uế ác.
9. Do quả báo của tà kiến nên tự nhiên sanh trong tám địa ngục lớn.
10. Do quả báo của mười điều ác này nên khiến vật bên ngoài bị suy giảm, huống chi vật bên trong.
Thế nên, các Tỳ-kheo, nên nhớ nghĩ xả bỏ xa lìa mười pháp ác, tu hành mười pháp lành. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.(Nguồn: Kinh Tăng Nhất A Hàm – Tập III)
+ Yoga về các bí huyệt (Laya Yoga): Laya Yoga có liên quan với thể dĩ thái, với các trung tâm lực hay chakras nằm trong thể đó và với việc phân phối các luồng thần lực và khơi hoạt luồng hỏa xà (serpent fire). (ASCLH, 121-122)
+ Sự tiến hóa qua các Luân xa Dĩ Thái (EP I, 301)
1. L.Xa đầu _ Chân Thần_ Sự sống _Trạng thái thứ nhất.
2. L.Xa tim _ Linh hồn. _ Tâm thức _Trạng thái thứ hai.
3. L.Xa Ajna _ Phàm ngã _ Vật chất _Trạng thái thứ ba.
Ba luân xa chính đối với người tiến hóa.
4. Luân xa cổ họng _ Thể trí _N.Lượng trí tuệ.
5. LX Tùng thái dương_Thể cảm dục_N.Lượng cảm dục.
6. Luân xa xương cùng_Thể xác
7. L.xa đáy cột sống _Chính sự sống _T.Tâm Chân Thần.
Các Tinh Linh và Linh hồn hoạt động (EP II 290. 304)
Ba Tinh linh (TL) có chủ yếu ở 3 luân xa thấp nhất:
1. L.Xa xương cùng, - TL trí tuệ => L.Xa cổ họng.
2. L.Xa tùng T.Dương - TL cảm dục => Luân xa tim.
3. L.Xa đáy cột sống, - TL hồng trần => Luân xa đầu.
Linh hồn nội tại tập trung vào 3 luân xa cao.
1. Luân xa đầu Tâm thức trí tuệ.
2. Luân xa cổ họng Tâm thức sáng tạo.
3. Luân xa tim Tâm thức cảm giác[304]
+ Hai sự kiện quan trọng là (LVHLT, 191):
1. Ba trung tâm lực dưới cơ hoành,
a/ Bí huyệt đáy xương sống,
b/ Bí huyệt xương cùng,
c/ Bí huyệt đan điền,
mà hiện nay là những bí huyệt có uy lực nhất trong nhân loại bậc trung, và là những bí huyệt “linh hoạt” nhất, cần được tái tổ chức, tái định hướng, và được đưa từ trạng thái tích cực sang trạng thái tiêu cực.
2. Tương tự, bốn trung tâm trên cơ hoành,
a/ Bí huyệt tim,
b/ Bí huyệt cổ họng,
c/ Bí huyệt giữa hai mày,
d/ Bí huyệt đầu,
phải được đánh thức và được đưa từ trạng thái tiêu cực sang trạng thái tích cực - Có hai cách:
1. Đầu tiên, bằng việc chuyển năng lượng tích cực của các bí huyệt thấp thành năng lượng tích cực của bí huyệt cao hơn, và
2. Thứ hai, bằng việc đánh thức bí huyệt đầu do sự thể hiện hoạt động của ý chí. Hiệu quả đầu tiên được tạo ra bằng việc xây dựng tính-cách và bằng sự thanh lọc các thể, khi được linh hồn sử dụng trong ba cõi thấp. Hiệu quả thứ hai là kết quả của việc thiền định và sự phát triển mục đích có tổ chức, do ý chí áp đặt lên sự sống hằng ngày. Xây dựng tính cách, lối sống trong sạch, các phản ứng tình cảm có kiểm soát, và tư duy đúng đắn là các lời lẽ vô vị (platitudes) của tất cả các hệ thống tôn giáo, và đã bị mất tác dụng (weight) do việc chúng ta quá quen thuộc với chúng...
- Tuy nhiên, nó vẫn là một thực tại, để rồi khi các năng lượng tiềm tàng ở đáy cột sống được đưa lên đầu và được mang (xuyên qua đan-điền, tức là nơi thu thập và phân phối năng lượng, và hành tủy) đến bí huyệt giữa hai lông mày, lúc bấy giờ phàm-ngã, tức khía cạnh vật chất, đạt đến địa vị thần thánh của nó, và Trinh Nữ Mary (Virgin Mary) – trong ý thức cá nhân, vốn là một thực thể tương đương hữu hạn của một Thực Tại vô hạn − được “đưa đến tận Thiên Đường” để ngồi ở đó, bên cạnh con trai của bà, tức Đấng Christ, hay linh hồn.
- Khi các năng lượng của bí huyệt xương cùng, từ trước đến nay được tập trung vào hoạt động sáng tạo vật chất và sinh sản, và vì thế là nguồn gốc của đời sống tính dục ở cõi trần và mối quan tâm vật chất, được thăng hoa, được tái định hướng và được đưa đến bí huyệt cổ họng, bấy giờ người tìm đạo trở thành một lực sáng tạo hữu thức trong các cõi giới cao; y tiến vào bên trong bức màn, và bắt đầu tạo tác các mô hình của những sự vật vốn cuối cùng sẽ mang lại các cõi trời mới và cõi trần thế mới.
- Khi các năng lượng của đan điền – các biểu hiện từ trước đến giờ của bản chất dục vọng mạnh mẽ, nuôi dưỡng đời sống tình cảm của phàm-ngã – cũng được chuyển hóa và được tái định hướng, sau đó chúng được đưa đến bí huyệt tim, và dẫn đến, như một kết quả, một nhận thức về ý thức tập thể, về lòng bác ái tập thể và mục đích tập thể, vốn làm cho người tìm đạo thành một người phụng sự nhân loại và một người cộng tác thích hợp của các vị Huynh-Trưởng của nhân loại.
Khi ba sự chuyển di này đã được hoàn thành (consummated), sau đó là một hoạt động diễn ra (transpires) trong bí huyệt đầu, tức yếu tố chi phối cuối cùng, và bằng một tác động ý chí của linh hồn cai quản bên trong, một số diễn biến xảy ra mà chúng ta có thể xem xét sau này trong các nghiên cứu của chúng ta ...(LVHLT, 192)
+ Người tìm Đạo: Kích hoạt bí huyệt Tim trước khi được phép sáng tạo quan bí huyệt Cổ họng (LVHLT, 198):
Trung-tâm-lực đầu tiên mà người tìm đạo muốn khơi hoạt một cách có ý thức, và tập trung vào đó trong các giai đoạn đầu mới tu hành của mình, là bí huyệt tim. Y phải học để có tập-thể-thức, để nhạy cảm với những lý tưởng tập thể, và có tính bao gồm trong các kế hoạch và các quan niệm của mình. Y phải học cách yêu thương có tính cách chung (collectively) và một cách thanh khiết, chứ không bị thúc đẩy bởi sự thu hút của phàm-ngã, và động cơ được tưởng thưởng. Nếu không có sự thức tỉnh này nơi bí huyệt tim, y không thể được phó thác để vận dụng các quyền năng sáng tạo của bí huyệt cổ họng, vì các quyền năng này sẽ bị lệ thuộc vào việc tự đề cao, và đủ loại tham vọng
+ Huyệt Đan Điền với Tính dục: Vấn đề đối với nhiều người tìm đạo ngày nay là vấn đề của huyệt đan điền, vì huyệt đó đã mở rộng, đang hoạt động tích cực và gần như được thức tỉnh hoàn toàn. Tuy nhiên, công việc chuyển hóa đang tiến hành đồng thời, dẫn đến một số lớn khó khăn và các tình trạng hỗn loạn. Bí huyệt tim cũng đang bắt đầu rung động, nhưng chưa được thức tỉnh, bí huyệt cổ họng thường được khơi hoạt sớm, nhờ việc chuyển năng lượng từ bí huyệt xương cùng. Điều này là do bởi nhiều nguyên nhân – đôi khi là do mục đích và ý định tinh thần, nhưng thường hơn là do một sự từ chối đời sống tính dục bình thường, vì các điều kiện kinh tế, hoặc vì thiếu sinh-lực thể chất, các điều này dẫn (predisposes) đến tình trạng sống độc thân. Sự thiếu sinh lực (vital force) đến lượt nó là do bởi nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là do một sự di truyền lâu đời tạo ra một suy đồi của thể xác, hoặc do tình trạng độc thân gượng ép trong các kiếp sống quá khứ; tình trạng độc thân gượng ép này rất thường là kết quả của đời sống ở tu viện và cách sống của đời sống thần bí. Khi sự khơi hoạt sáng tạo này tìm được sự biểu lộ thông qua bất cứ bộ môn nghệ thuật nào – như văn học, hội họa, âm nhạc – hoặc trong tổ chức tập thể, và công việc điều hành thì không có sự tổn hại nào xảy ra, vì năng lượng tìm thấy một lối thoát sáng tạo bình thường. Người tìm đạo nên ghi nhớ các điểm này. Y đang đối mặt với một vấn đề phức tạp nhất. Y tiến nhập một cách mò mẫm vào một tình huống vốn là kết quả của một diễn trình tiến hóa lâu dài và y không có giải pháp nào cho nó. Nhất là trường hợp trong các giai đoạn đầu và trước cuộc điểm đạo thứ nhất, vì y không có kiến thức về lịch sử của quá khứ, cũng không có bất kỳ sự tiên kiến nào về tương lai. Y chỉ phải nhận lấy khí cụ và cơ hội của mình; và làm hết năng lực của mình, được hướng dẫn bởi các quy tắc lâu đời của Raja Yoga, và ánh sáng của chính linh hồn mình.
- Khi bí huyệt tim được khơi hoạt, và bí huyệt cổ họng bước vào hoạt động sáng tạo, một mối quan hệ rõ rệt được thiết lập và có một tương tác năng lượng giữa hai bí huyệt này. Đến lượt nó, hoạt động này dẫn đến một sự đáp ứng từ trạng thái của hoa sen ngàn cánh (một hoa sen tổng hợp), mà năng lượng luôn luôn làm sinh động bí huyệt tim và bí huyệt cổ họng thường đi qua. Hoạt động đáp ứng và hành động tương tác này đưa đến hai kết quả, và các kết quả này nên được lưu ý vô cùng cẩn thận.
* Đầu tiên, ánh sáng trong đầu xuất hiện. Một lóe sáng (nếu Tôi có thể diễn tả nó như thế) được thiết lập giữa năng lượng cao dương tính đang phủ bóng khi nó được tập trung trong hình dạng hoa sen ngàn cánh, với rung động đang tăng lên đều đều của các hoa sen hay các bí huyệt tim và cổ họng. Đến lượt chúng, hai bí huyệt thấp này đang đáp ứng với các năng lượng đang được nâng lên, và được đưa lên từ các bí huyệt dưới cơ hoành.
* Thứ hai, sự hiện diện bí huyệt giữa hai lông mày cũng bắt đầu được cảm nhận, và hoa sen hai cánh quan trọng này bắt đầu rung động. Nó tượng trưng cho việc nhất quán linh hồn và thể xác, chủ-thể và khách-thể. Trong một số sách huyền linh học, nó được gọi là hoa sen có 96 cánh hoa, nhưng đây chỉ là một biến-phân có liên quan với các năng lượng được tập trung trong hai cánh. Ta sẽ để ý rằng tổng cộng của những cánh hoa thần lực trong các bí huyệt (không tính hai bí huyệt đầu) cả thảy lên tới 48 cánh. Các năng lượng này ở hai trạng thái của chúng, là năng lượng thiết yếu cho thể xác và các phẩm tính của linh hồn, tạo nên 96 trạng thái hoặc rung động của hai cánh hoa của bí huyệt Ấn Đường (Ajna), hay là bí huyệt giữa hai lông mày. Cũng cần nhớ rằng thuật ngữ “cánh hoa” (“petal”) chỉ tượng trưng cho một sự biểu lộ thần lực và tác động rõ rệt của nó trong vật chất (LVHLT, 199)
+ Hãy luôn nhớ rằng ngay khi làm linh hoạt một bí huyệt, luôn luôn có việc tiếp sinh lực (vitalisation) tương ứng cho bí huyệt đầu tương tự, cho đến khi cuối cùng bảy bí huyệt trong cơ thể và bảy bí huyệt trong đầu xoay cùng một lúc.
Cũng nên nhớ rằng ngay khi bốn cung thứ yếu chuyển vào ba cung chính, thì bốn bí huyệt nhỏ cũng xúc tiến sự tương ứng và đi vào kỳ qui nguyên (pralaya), tìm thấy điểm tập trung của chúng ở bí huyệt cổ họng. Như vậy bạn sẽ có ba bí huyệt – đầu, tim và cổ họng – mang lửa nội tại, với ba bí huyệt chính ở đầu cũng rung động cùng lúc.(LVHLT, 363)
+ Tiến trình khai mở này tự nó được mang lại bởi năm đợt thức tỉnh (các trích dẫn TLHNM GQ1.1):
1. Các luân xa dưới cơ hoành kiểm soát và chiếm ưu thế... Sự thôi thúc thể xác trong sự biểu lộ đầy đủ ... điểm phát triển cao của nó trong thời Lemuria ... luân xa xương cùng đã kiểm soát.
2. Các luân xa dưới cơ hoành trở nên hoàn toàn hoạt động, với sự chú trọng chủ yếu vào luân xa tùng thái dương (vốn) trở thành kho tiếp nhận và phân phối lớn cho tất cả các mãnh lực thấp, và đánh dấu giai đoạn chuyển đổi vào một thể cao hơn, là thể cảm dục ... đặc trưng của sự phát triển chủng tộc Atlantis.
3. Sự thức tỉnh của luân xa cổ họng và sự di chuyển của nhiều năng lượng thấp vào hoạt động cổ họng. Luân xa Ajna bắt đầu trở nên hoạt động, tạo ra các phàm ngã tích hợp và sáng tạo. Giai đoạn này là đặc trưng của chủng tộc Aryan hiện tại.
4 Sự thức tỉnh của luân xa tim và sự di chuyển của năng lượng luân xa tùng thái dương vào luân xa tim, như vậy tạo ra các nhóm, và lối vào của một ý thức mới và đầy đủ hơn của năng lượng tâm linh. Khi đó, sự di chuyển quan trọng vào những trạng thái ý thức đó sẽ tiết lộ vương quốc của Thượng Đế. Giới thứ năm trong thiên nhiên trở nên hoạt động một cách sáng tạo trên trái đất. Đây sẽ là đặc trưng của tâm thức của giống dân lớn tiếp theo.
5. Sự thức tỉnh của luân xa đầu, với sự kích hoạt tương ứng của lửa kundalini ở đáy cột sống. Điều này dẫn đến sự tích hợp cuối cùng của linh hồn và thể xác, và sự xuất hiện của một nhân loại hoàn thiện trên mặt đất. Điều này sẽ biểu lộ bản chất của giống dân cuối cùng.
Chỉ những ai được "đánh thức" sẽ được hưởng lợi từ Tâm lý học bí truyền (EPII 326)
+ Tinh linh: .... khái niệm như “elementals” (tinh linh), lunar lords (nguyệt tinh quân) … cần sự giải thích cặn kẽ để các bạn mới đọc sách có thể hiểu được. Ngay cả trong văn chương Thông Thiên Học và trong sách của đức DK, những thuật ngữ này cũng gây bối giối rất nhiều người vì chúng được dùng với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Từ Elementals thường được dịch là Tinh linh, có nhiều ý nghĩa khác nhau trong văn chương của Thông Thiên Học và trong giáo lý của đức DK. Thông thường nó được dùng để chỉ những thực thể (entities) thuộc dòng tiến hóa thiên thần (deva evolution), nhưng trên cung giáng hạ tiến hóa. Đôi khi nó lại được dùng để chỉ các “Nature Spirits” như gnomes (thần lùn), sylphs (thủy tinh), fairies (tiên nữ) … là các deva trên cung thăng thượng tiến hóa. Ở đây, Elemental mà đức DK nhắc đến dùng để chỉ ba hạ thể của chúng ta:
Trong văn chương Thông Thiên Học, người ta nói nhiều về các tinh linh (elementals) hay các nguyệt tinh quân (lunar lords) khác nhau vốn hợp thành, cấu thành, và kiểm soát bản chất thấp......
Lưu ý: Đức DK nói rằng ba tinh linh này có đời sống riêng của chúng, tách khỏi phàm ngã của chúng ta. (Ba Tinh linh - Ba Thể thấp này, đặc biệt là Thể dục vọng hợp với các rung động thấp, quỷ quyệt, nó thôi thúc, xúi dục cái Trí tham muốn vô độ, bẩn thỉu, thấp hèn. Hoặc sinh ra tư tưởng ghen ghét, đố kị ... Chúng đang biểu lộ và tiến hóa theo con đường riêng của nó, chứ nó không hề CÁM GIỖ hay muốn HẠI TA)...
Minh sư giảng rằng: Đừng lầm lộn các Thể của con là chính con, Thể Xác cũng như Thể Cảm xúc và Thể Trí của con không phải là chính con. Trong ba Thể này, cái nào cũng tự xưng là con để mong đạt được điều nó muốn. Nhưng con phải biết rõ chúng nó và biết rằng con là chủ của chúng. ... [Nguồn: Xem tại đây]
+ Tinh linh của các bản tố; các tạo vật có liên quan đến 4 lãnh vực, hay các bản tố: Địa (Earth), Phong (Air), Hỏa (Fire), và Thủy (Water). Ngoại trừ một số ít ở đẳng cấp cao và các vị cai quản, chúng là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. (ĐĐTNLVTD, 217)
– Tinh linh là các thực thể còn phải tiến hóa thành người vào một thời gian trong tương lai. (GLBN III, 235)
– Tinh linh là các mãnh lực bán-thông-tuệ của các giới. (GLTNVT, 311)
+ Các tinh linh có bản chất dưới nhân loại. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc chúng trên cõi cảm dục không có gì đảm bảo rằng chúng ở trên con đường tiến hóa thăng thượng. Trái lại, chúng ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có mặt trên mọi cõi giới, riêng các loại tinh linh dĩ thái – như là thần lùn, thổ tinh linh, thổ tiểu tiên thì được biết rõ hơn. Chia thành 4 nhóm:
1. Tinh linh của đất (Thổ tinh linh).
2. Tinh linh của nước (Thủy tinh linh).
3. Tinh linh của không khí (Phong tinh linh).
4. Tinh linh của lửa (Hỏa tinh linh).
* Nếu các bạn có thể biết được, thì chúng là tinh hoa của mọi vật. Chúng là những loài tinh hoa của thái dương hệ, có bốn cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu.( TVTTHL, 174)
- Các nhà kiến tạo dĩ thái, tức là tinh linh phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
+ Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy (TVTTHM, 174)
+ Ở Thái dương hệ này, Hỏa Tinh linh đông nhất, nhì đến Tinh Linh Không khí hiện diện khắp các cõi. Thủy hay Thổ tinh linh ít hơn nhiều, chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số Hành tinh của Thái dương hệ (CTHNM, 188)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Các Luân xa mà qua đó sự sống Tinh Linh (SSTL) và Linh hồn hoạt động (EP II 290. 304)
1. Đời sống 3 Tinh linh này được tạo thành chủ yếu ở 3 luân xa thấp nhất:
1. LX xương cùng, - SSTL trí tuệ => LX cổ họng.
2. LX tùng T.Dương- SSTL cảm dục => Luân xa tim.
3. LX đáy cột sống, - SSTL hồng trần => Luân xa đầu.
- Sự sống của linh hồn nội tại qua 3 luân xa cao.
1. Luân xa đầu - Tâm thức trí tuệ.
2. Luân xa cổ họng - Tâm thức sáng tạo.
3. Luân xa tim - Tâm thức cảm giác [304]
+ Xem thêm: Tổng Hợp Các Tinh Linh
+ Lá Lách: Các NĂNG LƯỢNG phát ra từ mặt trời cũng có một tác dụng kép.
- Thứ nhất, có những năng lượng mà chúng ta có thể gọi là hiệu ứng prana, vốn là kết quả của ảnh hưởng của lực thái dương (solar force), đang phát ra từ mặt trời vật chất. Hiệu ứng này tạo ra các kết quả rõ ràng trên các hình tướng khách quan, và các năng lượng này được gọi là các năng lượng thuộc vật chất hay cần cho sự sống (physical or vital). Các năng lượng này đi vào trong cơ thể con người xuyên qua lá lách và cũng xuyên qua một bí huyệt nằm giữa hai xương vai; bí huyệt này nằm giữa bí huyệt cổ họng và bí huyệt tim trong cột sống, nhưng gần bí huyệt tim hơn bí huyệt cổ họng.
- Thứ hai, có các năng lượng phát ra từ cái mà về mặt nội môn được gọi là “tâm của mặt trời” (“heart of the sun”); các năng lượng này quét qua hết hành tinh này đến hành tinh khác theo bảy luồng lớn và cung cấp lực (power) vào linh hồn của con người, tạo ra loại nhạy cảm mà chúng ta gọi là ý thức (awareness). Bảy loại năng lượng này tạo ra bảy loại linh hồn hoặc bảy cung (rays), và theo ý tưởng này, bạn tìm thấy cái bí mật của sự hiệp nhất linh hồn. Trong khi biểu lộ, do các ảnh hưởng của bảy loại năng lượng tác động trên vật chất của không gian, người ta nhận thấy bảy loại linh hồn, bảy lĩnh vực biểu lộ, và bảy mức độ tâm thức cùng các đặc trưng của cung. Như bạn biết rõ, các biến phân này giống như màu sắc mà lăng kính thu được khi được đưa ra trước các tia của mặt trời, hoặc được đưa ra trước mảng họa tiết của kiểu mẫu được tìm thấy trong ánh phản chiếu trên một hồ bơi trong trẻo. (LVHLT, 433)
+ Lá lách: Ý tại lá lách. Lá lách màu vàng, nên gọi là đứa bé mặt vàng.
"Bạch ngưu đại xa lân lân chuyển, (trâu trắng, xe lớn, chuyển từ từ)".
Trong kinh Pháp Hoa có nói đến xe lớn, trâu trắng, tức là Phật thừa, chỉ có Phật thừa mà không có thừa nào khác. Lại nữa, muốn thành Phật thì phải đi trên con đường này, thì mới ngồi trên cổ xe lớn trâu trắng. Chưa thành Phật được thì không thể ngồi trên xe này. Tức bảo rằng chúng ta dụng công đắc lực để chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sanh.
Sao gọi là cổ xe lớn trâu trắng, mà không nói xe lớn trâu đen, hay xe lớn trâu vàng, hoặc xe lớn trâu nhiều màu ? Con trâu này màu trắng, giống như tự tánh của chúng ta không ô nhiễm. Chư vị từ từ hành pháp đại thừa. Xe trâu trắng đi trên đường đại thừa, phát ra âm thanh lân lân. Khi đó, người tu hành đạt được cảm giác. Cảm giác gì ?
"Hoàng kiểm tiểu nhi khiếu khiếu toản, (bé mặt vàng đáp tới đáp lui)".
Cảm giác như say sưa, ngủ mơ, mộng mị, tức là không biết gì là chân, gì là giả, là hư là thật, bốn chi (hay tay hai chân) rất mềm diu. Tay không có sức lực; chân cũng không có sức lực, giống như bùn non, không muốn làm gì hết. Khi ngồi thiền, hay không ngồi thiền, thân thể đột nhiên rung động nhanh chóng. Khi ấy tâm chúng ta đập. Kỳ thật không phải là tâm đập mà là lá lách đập. Sao lá lách đập ? Lá lách đập giúp chúng ta tiêu hóa dễ dàng. Chư vị chạy mau chút ít thì lá lách làm việc nhiều chút ít. Hoàng kiểm tiểu nhi là ai ? Tức là ý niệm của chư vị, nghĩa là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Ý tại lá lách. Lá lách màu vàng, nên gọi là đứa bé mặt vàng.
"Khiếu khiếu toản", tức là đập tới đập lui. Thế nên, người thường ngồi thiền, lắm khi ngồi đến lúc không biết gì hết. "Tim tôi đập như thế nào, có bị bịnh gì không ?"
Tâm khởi lo sợ như thế. Chớ lo sợ. Đó chỉ là quá trình tu hành mà chúng ta phải vượt qua. Khi xe lớn trâu trắng chuyển pháp luân thì ý niệm cũng khởi dậy, tim đập mạnh rất nguy hiểm. Lúc đó tâm phát sanh sợ hãi. Tim đập mạnh như thỏ nhảy tới nhảy lui. (Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Năng lượng và Lực (Energy and Force): Tôi muốn bạn ghi nhớ rằng, mặc dù tất cả đều là năng lượng, tuy nhiên, đồng thời trong giáo huấn nội môn chính xác thì hoạt động có sức thôi thúc cao được gọi là năng lượng còn những gì bị chi phối bởi năng lượng và bị cuốn vào hoạt động qua trung gian của nó được gọi là lực. Do đó, tên gọi có tính cách tương đối và có thể thay đổi. Thí dụ, đối với đa số nhân loại, xung lực cảm dục là năng lượng cao nhất mà thông thường nhân loại mong muốn, còn các lực mà năng lượng cảm dục tác dụng lên bấy giờ sẽ là các lực dĩ thái và hồng trần. (VMCQG, 129)
+ Tôi dùng từ ngữ “năng lượng” để chỉ biểu lộ tinh thần (spiritual expression) của bất cứ cung nào, còn từ ngữ “lực” để chỉ công dụng (use) mà con người tạo ra đối với năng lượng tinh thần đó khi họ tìm cách sử dụng nó và cho đến nay, thường dùng sai. (VMCQG, 16)
+ Laya yoga: Khoa học về các trung tâm lực tức là laya yoga; đây là việc áp dụng định luật vào các mãnh lực của Thiên nhiên và việc con người sử dụng các mãnh lực này một cách khoa học. Nó liên quan tới việc chuyển một vài bộ bảy (septenates) của năng lượng qua các trung tâm lực trên xương sống và vào trong đầu bằng cách tiến theo dạng hình học đặc biệt nào đó. Việc này làm cho một người thành một nhà tâm thông tài giỏi và khai mở trong y một vài quyền năng tiềm tàng mà khi được phát triển, làm cho y tiếp xúc được với linh hồn của vạn vật và với khía cạnh chủ quan của thiên nhiên.(ASCLH, 78)
+ Laya yoga có liên quan với thể dĩ thái, với các trung tâm lực hay các chakra trong thể đó, và liên quan với việc phân phối các luồng thần lực và việc khơi hoạt hỏa xà. (ASCLH, 121–122)
Xem: Xem Khoa học về Hơi thở Chân Sư DK dạy
+ Trung tâm lực tức là bí huyệt (chakra). (LVHLT, 362)
+ Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các Hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Hỏa xà (Kundalini, hỏa hậu): Mãnh lực sự sống: một trong các sức mạnh của thiên nhiên. Đó là một năng lực mà chỉ những ai thực hành định trí bằng yoga mới biết được. Nó tập trung bên trong xương sống. (ĐĐTNLVTD, 219).
+ Hỏa xà là sự phối hợp nhị phân của nội nhiệt và luồng sinh khí. Nơi phát sinh của mãnh lực này là bí huyệt ở đáy xương sống, còn lá lách là nơi cung ứng nội nhiệt. (TVTTHL, 186)
+ Hỏa xà nằm ở chót xương sống, và trong kẻ thường nhân, chức năng chính của nó là đem lại sức sống cho thể xác.(LVLCK, 183)
+ Kundalini: Tức hỏa xà ở chót xương sống.(ASCLH, 209)
+ Hỏa Xà của Thượng Đế: Lửa do ma sát (cọ xát) hay lửa sinh động nội tại: Các lửa này làm linh hoạt và đem lại sức sống cho Thái Dương hệ đang biểu lộ. Chúng là toàn bộ hoả xà của Thượng Đế khi hoạt động của Thái Dương hệ được đầy đủ (LVLCK, 51)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Lửa bên trong (nội hỏa/ Nội tại): Lửa bên trong của vật chất “lửa do ma sát”. Nó là hậu quả chứ không phải nguyên nhân. Nó được tạo ra do hai lửa của tinh thần và trí tuệ (lửa điện và lửa thái dương) tiếp xúc nhau qua trung gian của vật chất. Năng lượng này biểu lộ trong chính vật chất như là nội hỏa của thái dương và của các hành tinh, và có được một phản ảnh trong các nội hỏa của con người. Con người là Linh Hỏa và Trí hỏa tiếp xúc nhau qua trung gian của vật chất hay hình hài. Khi cơ tiến hóa kết thúc, lửa vật chất không còn nhận biết được nữa. Nó chỉ tồn tại khi hai lửa kia kết hợp lại và nó không tồn tại khi tách khỏi chính vật chất (LVLCK, 68).
+ Lửa hành khí - Lửa bên trong Thái dương hệ, hành tinh, và con người gồm có 3:
1. Tiềm hỏa/ Nội hỏa: Lửa bên trong ở trung tâm của khối cầu, các lò lửa bên trong này tạo nên sự ấm áp.
2. Lửa bức xạ/ Linh hoạt: Lửa này là điện của cõi trần, các tia sáng, và năng lượng dĩ thái. Đây là lửa linh hoạt.
3. Lửa thiết yếu hay là hoả hành khí, chính chúng sẽ là tinh hoa của lửa. Phần lớn, chúng chia 2 nhóm:
a. Hoả thiên thần (Fire devas) hay các thực thể tiến hoá thăng thượng.
b. Hoả tinh linh (Fire elementals) hay các thực thể tiến hoá giáng hạ
+ Tất cả các hành khí và thiên thần này đều ở dưới sự kiểm soát của Hoả Tinh Quân, tức là Agni [Bản chất của các Hành khí biết suy tư ]. (LVLCK, 70)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Cần suy ngẫm: Chân Sư DK dạy, Hãy suy ngẫm kỹ điều này - Những kiến thức ĐẶC BIỆT ẩn chứa điều tuyệt diệu được trao truyền, nếu nghiền ngẫm để hiểu đúng, ứng dụng được vào đời sống = TUYỆT ĐỈNH NHÂN GIAN, bởi vì: KHI YÊN LẶNG SUY NGHĨ ĐIỀU ĐÓ TRONG TÂM, ÁNH SÁNG CÓ THẺ ĐẾN VÀ NGỌN LỬA NỘI TẠI SẼ BÙNG CHÁY VỚI SỨC NÓNG NHIỀU HƠN (Thư về TTHM-188)
+ TTHM-183: Con người truyền đạt cho Thiên thần những ý kiến khách quan. Các Thiên Thần sẽ ban giải cho con người Từ lực để chữa trị. Các Thiên Thần gìn giữ Prana, như con người giữ nguyên khí thứ 5 hay Trí tuệ.
+ TTHM-184: Mặt Trời trung tâm thái dương hệ chúng ta; Trái Tim là trung tâm con người
+ TTHM-185: Prana- Hiểu đúng => Biết bí quyết sức khoẻ hoàn hảo
+ TTHM-187: Viêm Kim Cương gắn trên đỉnh Thần Trượng nó tập chung được 3 loại lửa:
(i)-Tia lửa thiêng - Nguyên khí thứ năm
(ii)- Tia lửa Trí tuệ - Tam nguyên
(iii)- Luồng Hoả hậu - Kundalini của Tứ hạ thể. Nó tương tự như thấu kính hội tụ gom được ánh sáng mặt trời để làm bùng lên một ngọn lửa hoà hợp => Như thế, mọi quyền năng sẽ biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết, căn bã sẽ bị đốt sạch = Hành giả đạt đích
+ Bí huyệt sinh lực: Vital plexi - X. Hạch thần kinh [ Hạch thần kinh mà y học chính thống biết được là các phản ảnh (reflections) hay các hình bóng (shadows) của các bí huyệt sinh lực (vital plexi) chứ không còn gì khác. (ASCLH, 328–329)]
+ Trung tâm lực tức là bí huyệt (chakra). (LVHLT, 362)
+ Trung tâm lực (Force centres): Toàn thể các dây thần kinh với hàng triệu từ lực đạo (nadis) hay “đối phần tuyến” (“thread counterparts”) trong thể dĩ thái, tạo thành một đơn vị, theo giáo huấn của Minh Triết Vô Thủy (Ageless Wisdom), đơn vị này có trong nó các điểm tập trung cho các loại năng lượng khác nhau. Các điểm tập trung này được gọi là “các trung tâm lực”, kinh nghiệm sống của linh hồn cùng biểu hiện của nó dựa vào các trung tâm lực này chứ không dựa vào thể xác. Chúng là các yếu tố chi phối hệ thống tuyến của cơ thể. (TLHNM–II, 64)
+ Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các Hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Có hai sự kiện quan trọng là (LVHLT, 191):
1. Ba trung tâm lực dưới cơ hoành,
a/ Bí huyệt đáy xương sống,
b/ Bí huyệt xương cùng,
c/ Bí huyệt đan điền,
mà hiện nay là những bí huyệt có uy lực nhất trong nhân loại bậc trung, và là những bí huyệt “linh hoạt” nhất, cần được tái tổ chức, tái định hướng, và được đưa từ trạng thái tích cực sang trạng thái tiêu cực.
2. Tương tự, bốn trung tâm trên cơ hoành,
a/ Bí huyệt tim,
b/ Bí huyệt cổ họng,
c/ Bí huyệt giữa hai mày,
d/ Bí huyệt đầu,
phải được đánh thức và được đưa từ trạng thái tiêu cực sang trạng thái tích cực (Xem chi tiết: Chuyển trạng thái luân xa ở LVHLT, 192)
+ Mỗi bí huyệt hay chakra gồm có ba vòng xoắn (whorl) hay luân xa (wheel) đồng tâm trộn lẫn vào nhau mà trong con người tâm linh trên con đường dự bị, chúng từ từ chuyển động theo một hướng, nhưng dần dần tăng tốc độ hoạt động của chúng khi người này tiến gần đến cổng của con đường điểm đạo. Vào lúc điểm đạo, tâm điểm của luân xa (một điểm của lửa tiềm tàng) được chạm đến, độ quay trở nên mãnh liệt và có hoạt động theo chiều đo thứ tư. (LVHLT, 362)
+ Bí huyệt với Thái Dương hệ:
- Bí huyệt tim trong con người mở cánh cửa vào những gì được gọi là “tâm của Mặt Trời” (“heart of the Sun”).
- Bí huyệt cổ họng mở đường vào sự hiểu biết đầy đủ về đường đi của Mặt Trời vật chất, và tất cả các nhà chiêm tinh chân chính cuối cùng phải có bí huyệt đó hoạt động.
- Bí huyệt đầu mở đường tới Mặt Trời tinh thần trung ương, => Mỗi bí huyệt đi tới một trong những cõi vũ trụ, xuyên qua sự tương ứng hành tinh (LVHLT, 364)
+ Một mô tả khác về các luân xa:
- Luân Xa: Luân Xa là các trung tâm hay cơ quan siêu vật lý thông qua đó năng lượng của các trường khác nhau được đồng bộ hóa và phân phối cho cơ thể vật lý. Chúng ít nhiều hoạt động trên thể cảm dục, thể trí và (ở mức độ nào đó) trên các cấp độ cao hơn, có chức năng khác nhau ở mỗi thể, nhưng chúng có tầm quan trọng hàng đầu ở cấp độ dĩ thái, nơi chúng đóng vai trò là công cụ tập trung năng lượng trong cơ thể.
Bảy luân xa dĩ thái, có ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của cơ thể vật lý và thể dĩ thái, có các đối phần của chúng ở cấp độ cảm dục và thể trí...
Các luân xa đồng thời là các cơ quan truyền dẫn và biến đổi năng lượng từ trường này sang trường khác, vì cơ chế của chúng là đồng bộ hóa các năng lượng cảm xúc, trí tuệ và dĩ thái. Chúng biến đổi năng lượng lên hay xuống, làm chậm hay tăng tốc, từ trường này sang trường khác, khiến cho năng lượng nhanh hơn của trường cảm xúc có thể ảnh hưởng đến năng lượng chậm hơn của thể dĩ thái, và ngược lại.
Các luân xa không bao giờ tĩnh; tốc độ quay của chúng vừa nhanh vừa biến đổi theo tình trạng sức khoẻ và chất lượng dòng chảy. Toàn bộ quá trình này tương tự như cơ chế hô hấp, vì năng lượng cũng được con người hít vào và thở ra. Năng lượng đổ vào lõi trung tâm của luân xa, đến xương sống qua phần cuống, sau đó chảy dọc theo các đường dẫn nhỏ bé của thể dĩ thái được kết nối với hệ thần kinh cơ thể. Cuối cùng năng lượng quay trở lại các luân xa, di chuyển ra ngoài theo đường xoắn ốc thông qua các vòng xoáy của các cánh hoa, theo nhịp điệu vào ra đều đặn. Những xoắn ốc của năng lượng ngày càng mở rộng ra trong suốt quá trình tuần hoàn, dần dần lẫn vào và tan biến trong trường dĩ thái của toàn bộ cơ thể, và sau đó hòa lẫn vào trường vũ trụ, giống như hơi thở ra của con người trở thành một phần của toàn bộ bầu khí quyển trái đất.
Các luân xa chính của thể dĩ thái được nằm dọc theo một trục thẳng đứng, năm luân xa dưới nằm song song với tủy sống, kéo dài từ xương cùng tới hộp sọ, trong khi hai luân xa còn lại một nằm giữa hai lông mày và một nằm ở đỉnh đầu. Luân xa đỉnh đầu thường lớn hơn các luân xa khác, và là điểm tập trung tâm thức.
Sợi chỉ tâm thức thức tỉnh gắn liền với lõi trung tâm của luân xa đỉnh đầu. Trong giấc ngủ, luồng năng lượng ở đây giảm xuống, và được kích hoạt lại khi tỉnh thức. Tuy nhiên sợi chỉ sự sống kết nối luân xa tim với trái tim của cơ thể, và kết nối này không bị gián đoạn trong suốt cuộc đời. Vào lúc chết, sợi chỉ tâm thức rút khỏi luân xa đỉnh đầu, và sợi chỉ của sự sống rút khỏi trái tim, báo hiệu sự tan rã của tất cả các luân xa khác. Như vậy khi chết tất cả các kết nối bị phá vỡ; thể dĩ thái trước tiên nới lỏng liên kết khỏi cơ thể vật lý, sau đó tách ra, và tan rã trong vòng vài ngày sau khi chết trong điều kiện bình thường.
Tóm lại, các chức năng chính của luân xa dĩ thái là hấp thu và phân phối prana hay sinh lực cho thể dĩ thái, qua nó đến cơ thể vật lý, và để duy trì các liên kết động với các luân xa tương ứng trong thể cảm xúc và thể trí. ... (Nguồn: Luân xa và năng lượng con người)
+ Có 7 bí huyệt chính, theo thứ tự sau:
1/ Bí huyệt đầu (Head Centers): Nằm ở ngay đỉnh đầu. Thường được gọi là “hoa sen ngàn cánh” hay Brahmarandra. Nó hoạt động sau lần điểm đạo thứ ba và là cơ quan phân phối năng lượng Chân Thần, thuộc trạng thái ý chí của thánh linh. Nó nối liền với Phàm ngã tam phân bằng giác tuyến... Ngoại hiện trên cõi trần (physical externalisation) là tuyến tùng quả ở trong đầu.
2/ Bí huyệt ấn đường (Ajna centre): Ở giữa hai mày, nằm ở vùng đầu ngay bên trên hai mắt. Nó hoạt động đầy đủ vào lúc được điểm đạo lần ba. Nó là cơ quan phân phối năng lượng của Ngôi Ba – năng lượng thông tuệ linh hoạt. Nó nối liền với Phàm ngã bằng sinh mệnh tuyến sáng tạo. Ngoại hiện trên cõi trần của nó là tuyến yên (pituitary body).
3/ Bí huyệt cổ họng (throat centre): Nằm ở sau cổ, đi tới phần cuối não dính với tủy sống (medulla oblongata), như vậy liên quan tới tuyến động mạch cảnh và xuống đến hai bả vai. Nó liên quan tới cuộc điểm đạo thứ nhất. Đó là cơ quan phân phối năng lượng sáng tạo, năng lượng của Ngôi Ba. Nó nối liền với Phàm ngã bằng tuyến sáng tạo (creative thread), nối liền với linh hồn bằng tuyến ý thức và với Chân Thần bằng sutratma hay sinh mệnh tuyến. Ngoại hiện hồng trần của nó là tuyến giáp (thyroid gland).
4/ Bí huyệt tim (Heart centre): Nằm ở giữa hai bả vai. Nó hoạt động sau lần điểm đạo thứ hai. Đó là cơ quan phân phối năng lượng của Thánh Đoàn. Nó nối liền chủ yếu với Phàm ngã khi tiến trình chỉnh hợp với linh hồn được chế ngự. Ngoại hiện hồng trần của nó là tuyến ức (thymus gland). Hiện nay, người ta biết rất ít về tuyến này... Tâm lý học hiện đại kết hợp với y học, nhận thấy rằng khi tuyến này quá hoạt động (overactive) sẽ tạo ra người vô trách nhiệm và vô luân (irresponsible and amoral person).
5/ Bí huyệt nhật tùng (solar plexus centre): Nằm đúng ngay dưới xương bả vai trong cột xương sống và đang cực kỳ linh hoạt. Các bí huyệt thấp này đặc biệt không liên quan tới các cuộc điểm đạo như là các bí huyệt trên cách mô, vì chúng là các bí huyệt thuộc Phàm ngã và phải ở dưới sự kiểm soát của linh hồn khi nhận được các cuộc điểm đạo thuộc đẳng cấp nào đó. Bí huyệt nhật tùng là nơi thanh toán quan trọng (great clearing-house) cho tất cả các năng lượng dưới cách mô. Bí huyệt này liên quan đến ba bí huyệt chính và 21 bí huyệt nhỏ liệt kê ở trang 72 (bản tiếng Anh–ND). Ngoại hiện hồng trần của nó là tụy tạng (pancreas), với ngoại hiện phụ ở trong bao tử (stomach).
6/ Bí huyệt xương cùng (Sacral centre): Nằm ở phần dưới của vùng thắt lưng (lumbar area), là một bí huyệt rất mạnh, hiện đang chi phối đời sống tính dục. Một trong các điều lý thú về bí huyệt này là nó phải luôn luôn là bí huyệt mạnh mẽ cho đến khi 2/3 nhân loại được điểm đạo, vì tiến trình sinh sản phải tiếp diễn và vẫn linh hoạt ngõ hầu cung cấp các thể cho linh hồn sắp đến. Nhưng khi nhân loại tiến hóa, bí huyệt này sẽ bị kềm chế và các hoạt động của nó sẽ được xúc tiến một cách sáng suốt và như là kết quả của sự hiểu biết, của việc nhìn xa thấy rộng và các giao tiếp cao siêu và tinh tế, chứ không phải như là kết quả của dục vọng không giới hạn và không được kềm chế như hiện nay. Bí huyệt này biểu lộ (register) năng lượng của Ngôi Ba của thánh linh, cũng như bí huyệt nhật tùng biểu lộ năng lượng của Ngôi Hai và bí huyệt chót xương sống biểu hiện (express) năng lượng của Ngôi Một. Ngoại hiện hồng trần của nó nằm trong các tuyến sinh dục (gonads), các cơ quan sinh sản.
7/ Bí huyệt chót xương sống (Centre at the Base of the Spine): Bí huyệt này nằm đúng chót xương sống và chống đỡ (support) cho mọi bí huyệt khác. Vào lúc này, nó tương đối nằm yên, vì nó chỉ được đánh thức để hoạt động đầy đủ bằng một tác động của ý chí được vị đệ tử điểm đạo điều khiển và kềm chế. Như chúng ta được dạy rằng nguyên khí sự sống được “đặt trong tim”, cũng thế, ý chí hiện tồn (will-to-be) được đặt trong chót xương sống... Tuyến thượng thận (Adrenal glands). (CTNM, 144–202)
+ Chi tiết hệ thống các luân xa chính:
- Luân xa đỉnh đầu
Luân xa trên cùng nằm cách đỉnh đầu khoảng sáu centimet. Nó giống hình cái đĩa, bao gồm 12 cánh hoa vàng ở trung tâm, với 960 cánh hoa phụ được sắp xếp xung quanh chúng, vì vậy nó được gọi là “hoa sen ngàn hoa” trong Mật tông Ấn giáo. Những cánh hoa này hiển thị tất cả các màu sắc của cầu vồng, với màu tím chiếm ưu thế.
Trong Mật tông Ấn giáo, luân xa sahasrara, được mô tả là “chỗ ngồi đặc biệt và cao nhất của linh hồn, Jiva”, và như vậy khác với các luân xa khác nằm dọc theo cột sống. Đó là luân xa quan trọng nhất và cho thấy cả phẩm chất tinh thần và trạng thái của tâm thức của mỗi cá nhân ... Nếu lõi trung tâm của luân xa tỏa sáng rực rỡ, điều này thường cho thấy người đó thực hành tham thiền đều đặn.
Nói cách khác, đây là luân xa cho thấy mức độ tiến hóa tâm thức của cá nhân...
Khi các liên kết dĩ thái giữa luân xa đỉnh đầu và luân xa trán mở rộng và hoạt động, điều này cho thấy một mức độ thông nhãn nhất định, và cũng chứng tỏ có thực hành tham thiền và định trí. Trong cơ thể vật lý, sự kết nối với luân xa này chủ yếu thông qua tuyến tùng, nhưng nó ảnh hưởng đến toàn não bộ.
- Luân xa Trán
Luân xa trán, hay luân xa ajna, gồm 96 cánh hoa. Nằm trên trán ở giữa hai mắt... được xem như là một phần của “hoa sen ngàn cánh” đỉnh đầu.
Trong cấu trúc,... luân xa trán có liên quan với tuyến yên; Đây là luân xa chủ yếu liên quan đến việc tích hợp các ý tưởng và kinh nghiệm với năng lực tổ chức. Nó là cơ quan của hình dung và là trung tâm của nhận thức, có thể hướng lên những điều cao hơn hoặc hướng xuống thế giới trần tục; Nó phản ánh tính nhị nguyên của tâm thức.
Nếu luân xa trán của thể dĩ thái phát triển mạnh và các kết nối của nó với luân xa đối ứng ở thể cảm dục được khai mở và hoạt động, việc thông nhãn tới các cõi cao hơn có thể diễn ra. Khi nó được kết nối chủ yếu với luân xa cuống họng, điều này cho thấy việc sử dụng tích cực trí tưởng tượng sáng tạo.
- Các luân xa khac mời xem trên trang nguồn (Nguồn: Luân xa và năng lượng con người)
+ Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Chòm Sao hay Tinh Tòa (CTHNM, 35; 37)
+ 12 Chòm sao/ Tinh tòa Hoàng Đạo: Xem như biểu hiện của trạng thái NL Linh hồn, được khảo cứu qua Tâm thức và phát triểnlinh hồn (Ý chí Bác Ái) (CTHNM, 37)
+ Ba chòm sao: Đại Hùng (Great Bear), từ Pleiades (Tua Rua) và từ Sirius (Ngưu Lang), chúng chi phối rộng, nhưng ngày nay vẫn tiềm tàng hơn là biểu lộ ; Riêng chòm Tua Rua có 7 năng lượng ảnh hưởng lên xác thân. (CTHNM, 470).
+ Ba nhóm tam giác - Truyền năng lượng của 3 Chòm Sao:
Đại Hùng Tinh --- Pleiades --- Sirius
Leo ........ Capricorn ..... Pisces
Các sao này truyền năng lượng xuyên qua
Saturn ...... Mercury .......... Uranus
Đi đến các trung tâm lực sau
Trung T lực đầu ... Trung T lực ..... Trung lực
của hành tinh ..... ấn đường HT .... Tim H.Tinh.
Từ đó đi đến
TT lực đầu..... Trung T lực ....... Trung T lực
của đệ tử .... ấn đường đệ tử .... tim của đệ tử.
và sau rốt kiểm soát
Đáy X.Sống .... Bí H cổ họng .... H. Đan điền
- Hai nhóm năng lượng chi phối trái đất:
(i)- Bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh là cội nguồn xuất phát của 7 cung của thái dương hệ chúng ta. Mỗi một trong 7 năng lượng này được truyền vào Thái Dương hệ chúng ta qua 3 chòm sao (Hoàng Đạo) và các Hành tinh chi phối chúng. (Xem Bảng tổng hợp Minh triết mới)
(ii)- 12 Chòm sao hòa lẫn năng lượng Cung => Tạo ra lưỡng nguyên chi phối cuộc sống hành tinh. (Nguồn: CTHNM, 477-478)
+ 12 chòm sao: Các đạo sinh cũng sẽ thành công khi nhớ rằng 12 chòm sao đang tạo ra hoàng đạo đặc biệt của chúng ta chính là các nơi nhận nhiều luồng năng lượng đến với chúng từ nhiều cội nguồn. Chúng hòa lẫn và pha trộn với năng lượng của bất luận chòm sao đặc biệt nào và – chuyển hóa và “thanh luyện về mặt huyền linh” – sau rốt tìm ra con đường của chúng đi vào thái dương hệ chúng ta. (CTHNM, 18)
+ Tinh tòa gồm hai hay nhiều Thái Dương Hệ hay chuỗi Mặt Trời với các hành tinh (planet) đi kèm theo các Mặt Trời. Các Thái Dương Hệ này được giữ chung với nhau như một tổng thể cố kết do sự tương hệ mạnh mẽ của các thái dương, mà sự liên hệ từ lực được quân bình đến nỗi, nói về mặt huyền linh, “Các mặt trời cùng tiến bước trong phạm vi năng lực của nhau”. Các mặt trời duy trì các khoảng cách tương đối với nhau và truyền sinh lực cho các hành tinh của mình, nhưng đồng thời cũng duy trì một sự đồng đều về sự quân bình và về ảnh hưởng. Trong vài trường hợp hiếm có, sự quân bình này bị xáo trộn và có việc tăng hay giãm ảnh hưởng và năng lực thu Hút. (TLHNM I, 152)
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh Hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
- 12 Hành tinh đang chi phối 12 Cung Hoàng đạo, có liên quan trước tiên đến biểu lộ ở cõi trần của con người, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã (CTHNM, 63)
+ Hành tinh - Tinh tú = Luân xa - Bí huyệt hay Chakra: Các Chòm sao là các luân xa của Vũ trụ. Các hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ 12 Hành tinh chi phối 12 Cung HĐ, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã con người, cộng với các tình trạng nghiệp quả kế thừa, tạo ra các trạng thái chung quanh và các hoàn cảnh sống và sau rốt việc kiểm soát khía cạnh hình tướng của sự sống (CTHNM, 63)
+ 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
+ Mỗi hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Có 12 Hành tinh (7 H.Tinh thánh thiện và 5 không thánh thiện) có liên quan với sự sống bên ngoài, môi trường và các hoàn cảnh của cá nhân. Các mãnh lực biểu hiện trạng thái thiêng liêng thứ 3 - Ý muốn hiểu biết; (CTHNM, 38)
+ Hành tinh chi phối con người: Có 5 Hành tinh không Thánh thiện gồm Hỏa T - Mặt Trời - Mặt Trăng - Diêm VT - Địa cầu; Có 7 hành tinh Thánh thiện gồm Mộc T - Thủy T - Kim T - Thổ tinh - Hải VT - Thiên VT - Vllcan (Ẩn dấu trong Mặt trời và mặt Trăng). Ảnh hưởng của một hành tinh linh thiêng hoặc không linh thiêng rất khác nhau:
Hành tinh không linh thiêng chủ yếu tác động lên đời sống trong ba cõi. Hành tinh linh thiêng... sẽ hỗ trợ trong tiến trình dung hợp Linh hồn và thể xác, của ý thức và hình thể; chúng cũng sẽ thúc đẩy sự khai mở trực giác (Linh hồn tinh thần), vốn là phương diện thấp hơn của Chân Ngã.
Trong suốt một thời kỳ dài của chu kỳ luân hồi và giai đoạn biểu lộ, con người chủ yếu bị chi phối bởi hoạt động của các hành tinh không linh thiêng với nhân cách
Hành tinh - Ảnh hưởng đối với nhân cách
Mars (Sao Hỏa) - Dẫn truyền năng lượng Cung Sáu (Chiến đấu vì lý tưởng), tác động lên thể xác vật chất và hành động.
Earth (Trái Đất) - Thể hiện nguyên lý của Cung Ba (Hoạt động Thông tuệ), chủ yếu liên hệ với đời sống hành động và tiến hóa qua xung đột.
Pluto (Diêm Vương Tinh) - Cung Một (Ý chí Quyền năng), cai quản nhà của cái chết và các chia ly lớn - quá trình thanh lọc nhân cách.
Moon (Mặt Trăng) - Cung Bốn (Hài hòa qua Xung đột), tác động lên thể sinh lực/dĩ thái, duy trì hình hài và sự sống sinh học.
Sun (Mặt Trời - Che giấu Vulcan), liên quan tới sinh lực (prana) và thể hiện nguyên khí sống, chủ yếu tác động Bản ngã cá nhân chưa tiến hóa.
* Nhóm Nhân cách với Hành tinh có 3 nhóm chính: (1). Phàm ngã phối kết đang dần chịu chi phối của Linh hồn; (2). Phàm ngã đã hợp nhất, điều phối nhưng chưa chịu ảnh hưởng của Linh hồn; (3). Phàm ngã chưa phối kết - Có nhân cách đang thức tỉnh, hòa nhập với phân nhóm thứ ba và là sự thể hiện tốt nhất của nhóm đó. Xét các hành tinh không linh thiêng (LT) tương ứng với các loại nhân cách (đặc biệt ở cấp phổ thông):
Hành tinh không LT ... Phương diện nhân cách tác động chính
Mars (Sao Hỏa) ... Thể xác vật chất và sự xung động hành động
Earth (Trái Đất) ... Kinh nghiệm trần thế, nghiệp quả
Moon (Mặt Trăng) ... Thể sinh lực, thói quen hình tướng
Sun (Mặt Trời - thay Vulcan) - Bản ngã riêng, ý chí cá nhân hóa
Pluto (Diêm VT) ... Sự chết của những ham muốn thấp kém, sự tái sinh nhân cách.
* Các trung tâm lực chính chịu ảnh hưởng của các hành tinh không linh thiêng:
Trung tâm lực - Hành tinh không LT .... Ghi chú
TT lá lách - Earth (Trái Đất) ..... Trung tâm tiếp nhận năng lượng prana; chủ yếu cho thể vật lý và thể sinh lực.
TT phụ ở ngực ... (Mặt Trăng) ... Gắn với tuyến ức, liên quan đến sự sống sinh học, không hoạt động ở người tiến hóa cao.
TT xương cùng - Mars (Sao Hỏa) ... Trung tâm của hoạt động sinh sản và ham muốn vật chất.
TT đám rối mặt trời - Pluto (Diêm VT) ... Trung tâm của cảm xúc bản năng và bản năng tự vệ; giai đoạn thanh lọc.
TT trước cổ họng - Sun (Mặt Trời - che Vulcan) ... TT phụ giúp trung chuyển sáng tạo giữa TT sinh sản và TT cổ họng.
Tình trạng hoạt hóa các TT ở người bình thường và đệ tử: 5 TT dọc theo cột sống liên hệ với 5 hành tinh không LT, nhưng ở người chưa tiến hóa hoặc trung bình, chúng chủ yếu tập trung trên cõi cảm dục và trong thể cảm dục. Ý nghĩa của sự chuyển hóa khi tiến hóa, năng lượng từ các TT lực này được nâng cao:
TT xương cùng và đám rối Thái dương/ Mặt trời dần nhường chỗ cho sự hoạt hóa mạnh mẽ hơn của TT cổ họng, TT tim và trung tâm đầu. Các hành tinh linh thiêng bắt đầu chi phối các trung tâm này thay vì các hành tinh không linh thiêng. (Nguồn: Sách Minh triết - ChatGPT tổng hợp)
+ Xem thêm: Các Hành tinh - Các Sao - Tinh tú
+ Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật [Kính lưu ý: Xin chỉ tham khảo bởi chính chúng tôi cũng không thể khẳng định độ tin cậy của kinh này)
Tôn giả A – Nan kể: Đúng như thế này, chính tôi được nghe. Một thời Phật ở tỉnh cư Thiên Cung, tập họp chủ Thiên : Phạm Vương Đế Thích, Bát bộ tử chúng đàm luận pháp yếu. Khi thấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ tòa đứng dậy, tiến đến trước Phật mà bạch rằng:
Thưa Đức Thế Tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu Âm Dương, Ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà 7 sao Bắc Đẩu ở giữa trời có uy quyền uy đức tối tôn như vậy? Cúi xin Thế Tôn vì chúng con tuyên thuyết, tất cả nhân Thiên và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng rằng:
Quý hóa lắm thay! Ta nay sẽ vì ông và chúng sinh ở đời vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều cùng hiểu biết, công đức lớn lao của 7 sao ấy, phúc thì quyền sinh, ân thí muôn cõi.
Vị Bắc Đẩu thứ nhất: ” Đại Khôi Dương Minh Tham Lang Thái Tinh Quân ” là vị Cổ Phật ở thế giới Tối Thắng Phương Đông hiệu là Vận Ý Thông Chúng Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ hai:” Đại Phước Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh Quân ” là vị Cổ Phật ở thế giới Diệu Bảo Phương Đông, hiệu là Quán Âm Tự Tại Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ ba:” Đại Quyền Chân Thân Lộc Tồn Chính Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Viên Châu Phương Đông hiệu là Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ tư: ” Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc Hữu Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Vô Ưu Phương Đông hiệu là Tối Thắng Cát Tường Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ năm: ” Đại Tất Đán Nguyên Liêm Trinh Cường Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Tĩnh Trụ Phương Đông, hiệu là Quảng Đạt Trí Hiện Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ sáu: ” Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Pháp Ý Phương Đông, hiệu là Pháp Hải Du Hỉ Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ bảy : ” Phiêu Thiên Quan Phá Quân Quan Tĩnh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Mãn Nguyện Phương Đông hiệu là Dược Sư Lưu Lý Quang Như Lai.
Ngoài ra còn có vị thứ tám ( Đông – Minh Ngoại Phụ Tinh Quân ) là Bồ Tát ở thế giới Diệu Hỉ Phương Tây, hiệu là Hoa tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
Vị thứ chín ( Ấn Quan Nội Bật Tinh Quân ) là Bồ Tát ở thế giới Diệu Viên Phương Tây, hiệu là An Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Khi ấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và các đại chúng nghe Phật khai diễn các sao Bắc Đẩu đều là Cổ Phật Như Lai, ứng cúng, chính biến trì, minh hành túc, Thiên thệ Thế gian giải, Vô thượng sĩ , Điều – Ngự – trượng – phu – Thiên – Nhân, sư, Phật , Thế tôn khắp vĩ chúng sinh, hóa thân thị hiện.
Nghe như thế rồi, tất cả đều sung sướng vui mừng, được sự chưa từng có, cúi đầu chắp tay đọc kệ khen rằng:
Các Đức Đại Thiện Thệ!
Vô thượng cát tường Tôn!
Ở đời quá khứ kia
Các ngài đã tu chứng
Ly dục xuất thế gian
Rủ lòng đại từ bi
Thương xót các chúng sinh
Hai nhăm hữu đời sau
Mà hóa thân thị hiện
Ở giữa vòm trời
Làm Thất Bắc Đẩu Tinh Quân
Gồm Ngoại – phụ, Nội – bật.
Chúa tể cả muôn cõi
Quý thay ! Quý hóa thay !
Thích Ca, Văn đại sư
Đã vì đại chúng đây
Khai diễn cho được biết
Thất Bắc Đẩu Tinh Quân
Đều là các Cổ Phật
Đời quá khứ thị hiện
Chúng con nay được nghe
Nguyện xin vì hậu thế
Mà diễn nói rộng rãi
Bài kinh công đức này.
Khi ấy Phật bảo tất cả đại chúng rằng:
- Có thiện nam hay tín nữ nào mà hàng năm cứ ngày 8 tháng Giêng, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và hàng tháng cứ ngày 7, ngày 9 với ngày sinh mình mặc y phục sạch đối trước tinh tượng chí tâm xưng niệm Danh hiệu 7 vị Phật và 2 vị Bồ Tát thời tùy tâm nguyện cầu gì cũng thấy cảm ứng ngay.
- Lại nếu có thể thắp 7 ngọn đèn bày theo tinh vị rồi lúc nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa tinh thủy dốc lòng khẩn cầu ắt được như ý.
- Ông Văn Thù này! Khắp cõi tể – quan, cư sĩ, tăng – ni, đạo – tục dù sang dù hèn cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh.
- Khi đã được nghe diễn nói kinh này mà biết thắp đèn bầy theo tinh vị của các sao Bắc Đẩu rồi cung khính đem các thứ hương hoa tinh thủy cúng đàn thời những người ấy lộc vị cao sang, thọ mệnh kiêm trường, hưởng phúc vô lượng vô biên.
- Hoặc có cha mẹ quyến thuộc tiên vong đã lâu hay mới, hoặc chưa được siêu độ mà lòng những lo cho họ chìm đắm trong u đồ mà lại biết vì họ tụng kinh này, xin biết lễ làm theo kinh dâng sao giải hạn thì rất tốt nhưng phải trung thành khấn Phật, thời các vong hồn của những người ấy được sinh Thiên thượng, thụ hưởng Thiên phúc.
- Nếu có người nam hay người nữ nào bị ma quỷ làm, bị tà thần hại, ác mộng sợ hãi, tâm thành hôn mê mà biết bảo họ thụ trì đọc tụng kinh này, giữ gìn trái giới liền được tiêu tai giải ách hết bệnh.
- Nếu có người nam hay người nữ nào mệnh ngộ tai ách, vận phùng hung tinh làm mắt đỏ ngầu, màng che đồng tử hoặc bị kiện tụng, giam cầm tử ngục, năm canh thao thức ác mộng kinh hoàng, sau khắc bâng khuâng biếng ăn khổ não mà biết thắp đèn bầy theo tinh vị của sao Bắc Đẩu hương hoa tinh thủy, cung kính cúng Dàng đặt thành thời khóa đọc tụng kinh này, 7 biến cho chí 49 biến tâm liền tự tại, thân được an khang.
- Nếu có người nam hay người nữ nào cầu tự, cầu thị nên vào tịnh thất đối trước tinh vị của sao Bắc Đẩu bái tụng kinh này 7 biến tới 100 biến. Cầu tự sẽ được sinh nam trí tuệ, cầu thị sẽ được tên gi bảng vàng.
- Hoặc giả ruộng vườn cày cấy trồng trọt thường bị thất thu, chăn nuôi lục súc hao tán bất lợi, cũng nên đối trước tinh vị Bắc Đẩu, hương hoa tinh thủy cung kính cúng Dàng, bái tụng kinh này tức thời được gieo trồng bội thu, chăn nuôi phát triển.
- Có người nữ nào mang thai sầu não đến lúc sinh nở, trong tâm lo ngại, cũng nên thành tâm vì người nữ kia, hương hoa tinh thủy, cung kính cúng Dàng Bắc Đẩu Thất Tinh, bái tụng kinh này tức thời sẽ được lâm sản an toàn, sinh nam trí tuệ, sinh nữ đoan trang.
- Ông Văn Thù này ! Bắc Đẩu Cổ Phật quảng đại từ bi, thị hiện giữa bầu trời, chủ trương niên – mệnh , thống lãnh Càn Khôn. Trên từ vua- chúa, dưới đến nhân dân, trời đất núi sông, chim muông cây cỏ, tất cả đều do Thất Tinh Bắc Đẩu cai quản soi chiếu.
- Nếu có tai ương suy biến nguy cấp thời nên lập tức thắp đèn bầy theo Bắc Đẩu tinh vị, thành tâm khấn cầu, đọc tụng kinh này tức thời sẽ được gia hộ tốt lành như ý sở cầu.
- Nếu đất nước nào có sự chiến tranh mà có thể bầy đèn theo tinh vị hương hoa tinh thủy, cung kính cúng Dàng, đọc tụng kinh này, tâm không gián đoạn tức thì sẽ được Đẩu Khí gia uy, Thất Tinh thuận chiếu khiến được thiên thời -địa lợi- nhân hòa, tướng hùng binh dũng, thế mạnh như gió, tiến đến phương nào phương ấy bình phục yên vui.
Đức Phật Thế Tôn tuyên thuyết 7 Đức Cổ Phật Như Lai cảm ứng vô lượng cùng kiếp khó hết rồi Đức Thế Tôn đọc thần chú rằng:
Úm, hạt na, đàn na
Cha cha đế, ma ha đế
Sắt cha, sắt cha đế
Hạt bát ma duệ sa bà ha ( 3 lần ).
Khi Đức Thế Tôn nói kinh này xong, Bồ Tát Văn Thù cùng các đại chúng , Thiên – Long bát bộ, quần tinh, quỷ thần thẩy đều cung kính tin theo phụng hành. Phật Thế Tôn khai diễn Bắc Đẩu Nguyên tinh thị hiện ở Thiên – Trung tiêu tai diên thọ trường chiếu khắp cả bốn phương có uy lực quyền hành, Ngoại – phù và Nội – bật rất rực rỡ huy hoàng khê thủ tán dương được phúc lộc thọ diên trường (Danh hiệu Bảy Đức Cổ Phật được trích từ KINH BẮC ĐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG) (Nguồn: Xem Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật)
+ PHẬT NÓI KINH BẮC ĐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG
Nam Mô Tham Lang tinh, Thị Đông phương Tối Thắng thế giới Vận Ý Thông Chứng Như Lai Phật.
Nam Mô Cự Môn tinh, thị Đông phương Diệu Bảo thế giới Quan Âm Tự Tại Như Lai Phật.
Nam Mô Lộc Tồn tinh, Thị Đông phương Viên Mãn thế giới Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật.
Nam Mô Văn Khúc tinh, Thị Đông phương Vô Ưu thế giới Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật.
Nam Mô Liêm Trinh tinh, Thị Đông phương Tịnh Trụ thế giới Quảng Đạt Trí Biện Như Lai Phật.
Nam Mô Vũ Khúc tinh, Thị Đông phương Pháp Ý thế giới Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật.
Nam Mô Phá Quân tinh, Thị Đông phương Lưu Ly thế giới Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật.
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả chúng sanh.
Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu soi.
Nếu nghe kinh này thọ trì, cúng dường, chuyển đọc, khuyên bạn hữu, thân tộc, cốt nhục của mình thọ trì, thì hiện đời được phước, đời sau sanh lên chư Thiên.
Nếu kẻ Thiện nam và người Thiện nữ nào có kẻ tiên vong đã qua đời mà bị đọa vào địa ngục, hoặc chịu các thứ khổ sở. Nếu nghe kinh này tin kính cúng dường thì kẻ tiên vong kia liền xa lìa khỏi chốn địa ngục, được vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới.
Nếu có kẻ thiện nam và người thiện nữ nào, hoặc bị loài quỷ mị xâm hại, hay tà ma quấy nhiễu, ác mộng quái lạ, hồn phách kinh sợ, nếu nghe kinh này thọ trì cúng dường hồn phách liền được yên ổn, không còn lo sợ.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nào, hoặc có sĩ quan sắp bổ chấp chánh. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì vị quan ấy liền được mời sang địa vị cao cấp, được đại kiết tường.
Nếu có trai lành và người gái tín, thân bị tật bịnh triền miên, muốn cầu nhẹ nhàng, nên vào tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, thì tật bịnh ấy liền được lành hẳn.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín muốn được tấn đạt, ra đi may mắn, cầu tài vừa ý, buôn bán phát đạt. Nếu gặp kinh này, tin kính cúng dường liền được tiền tài giàu có, vào ra an lành.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nuôi tằm hư hao, lục súc chẳng yên, liền ở tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, ruộng tằm vừa ý, lục súc sum vầy, không còn tổn thất cũng chẳng tai chướng.
Nếu có người nữ suốt tháng mang thai, khó khăn nặng nề, nếu gặp kinh này tín kính cúng dường, mẹ con liền được phân giải nhẹ nhàng, ách nạn tiêu trừ, sanh con trai gái, thân hình đẹp đẽ, quả báo sống lâu.
Nếu kẻ trai lành và người gái tín biết được Bắc Đẩu Thất Tinh, rọi chiếu đời sống nhơn sinh của mình thì trong một đời, hễ có tai ách quan sự miệng tiếng đồn đãi, trăm điều quái lạ. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì không còn một việc gì mà phải phòng hại.
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói lời ấy rồi, hết thảy thiện nam tín nữ cung kính tín thọ làm lễ mà trở về.
Kinh này: Vị Tăng tên Bà la môn, từ Thiên Trúc truyền đến đời triều vua Đường ở Trung Hoa thọ trì.
Sa Môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn. (Nguồn: 8- Phật Nói Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng)
+ PHẬT NÓI THẤT TINH CHƠN NGÔN THẦN CHÚ
1. Tham Lang tinh (sao Tham Lang). Người sanh giờ Tý hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu gặp nguy nạn, nên dùng món ăn gạo, lúa mạch cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
2. Cự Môn tinh (sao Cự Môn). Người sanh giờ Sửu, giờ Hợi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp nguy nạn, nên dùng món ăn lúa, nếp cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
3. Lộc tồn tinh (sao Lộc Tồn). Người sanh giờ Dần, giờ Tuất đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nếu dùng món ăn lúa tẻ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
4. Văn Khúc tinh sao (sao Văn Khúc). Người sanh giờ Mẹo, giờ Dậu đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
5. Liêm Trinh tinh (sao Liêm Trinh). Người sanh giờ Thìn, giờ Thân đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt mè cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
6. Vũ Khúc tinh (sao Vũ Khúc). Người sanh giờ Tỵ, giờ Mùi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt đậu lớn cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
7. Phá Quân tinh (sao Phá Quân). Người sanh giờ Ngọ hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
Tụng trì Thần chú dưới đây:
Úm, Táp Đá Nhi Nẵng Giả, Bán Nhá Mật Nhá Giả, Nhiễm Phổ Tha, Ma Ta Phạ, Nhị Nẵng Ra Khất Sơn Bà Phạ Đô Xóa Ha (108 lần).
Nếu có người mỗi ngày tụng Thần chú này quyết định tội nghiệp thảy đều tiêu trừ và tất cả sở nguyện cầu đều được thành tựu. Nếu mỗi ngày tụng Thần chú này 108 biến, thân mình và tất cả quyến thuộc đều được phò hộ. Nếu tụng 500 biến được sức đại oai thần trong 500 do tuần, tất cả ma vương, các ma chúng, kẻ chướng ngại và vô lượng ác quỷ không dám gần gũi, thường được ủng hộ. (Nguồn: 9- Phật Nói Thất Tinh Chơn Ngôn Thần Chú)
+ Laya yoga: Khoa học về các trung tâm lực tức là laya yoga; đây là việc áp dụng định luật vào các mãnh lực của Thiên nhiên và việc con người sử dụng các mãnh lực này một cách khoa học. Nó liên quan tới việc chuyển một vài bộ bảy (septenates) của năng lượng qua các trung tâm lực trên xương sống và vào trong đầu bằng cách tiến theo dạng hình học đặc biệt nào đó. Việc này làm cho một người thành một nhà tâm thông tài giỏi và khai mở trong y một vài quyền năng tiềm tàng mà khi được phát triển, làm cho y tiếp xúc được với linh hồn của vạn vật và với khía cạnh chủ quan của thiên nhiên.(ASCLH, 78)
+ Laya yoga có liên quan với thể dĩ thái, với các trung tâm lực hay các chakra trong thể đó, và liên quan với việc phân phối các luồng thần lực và việc khơi hoạt hỏa xà. (ASCLH, 121–122)
Xem: Xem Khoa học về Hơi thở Chân Sư DK dạy
+ Tinh linh cảm dục (Astral elemental, Desire–elementals):
- Sự sống giáng hạ tiến hóa bé nhỏ tạo thành Tinh linh cảm dục của chúng ta. (LVHLT, 311)
- Các tinh linh thiên nhiên có liên quan đến việc tạo ra thể cảm dục của loài vật và loài người được dành cho tên gọi đặc biệt là tinh linh cảm dục (còn gọi là “thần cảm dục“ – desire–gods) vì chúng được làm cho sinh động một cách mạnh mẽ bằng đủ loại dục vọng và luôn luôn dự vào việc kiến tạo thể cảm dục của con vật lẫn con người. (MTNX, 76)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí. (CTHNM, 188)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Tinh linh sinh lực (Pranic elementals): Các tinh chất nhỏ bé của lửa này (minute fiery essences) có khả năng thẩm thấu (permeate) qua cấu trúc (texture) của cơ thể con người, của một thân cây hay của tất cả những gì có thể có trong giới nhân loại, giới thực vật và động vật, và hòa hợp với lửa của hệ thống tiểu thiên địa.(LVLCK, 67)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Tinh linh của lửa: Các hình hài trọng trược hơn của cuộc sống thể hơi, thường được gọi là hỏa tinh linh, tinh linh của lửa. Chúng trực tiếp ở dưới sự kiềm chế của Hỏa tinh quân, Tinh quân của cõi trí.(LVHLT, 389)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.(CTHNM, 188)
+ Hoả tinh linh (Cõi Trần), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của lò sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy (LVLCK, 87)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Tinh hoa của lửa [2 nhóm: Hỏa tinh linh - Hỏa thiên thần]:
3. Lửa thiết yếu hay Hoả hành khí: Chính chúng sẽ là tinh hoa của lửa. Phần lớn, chúng được chia thành 2 nhóm:
a. Hoả thiên thần (Fire devas) hay các thực thể tiến hoá thăng thượng.
b. Hoả tinh linh (Fire elementals) hay các thực thể tiến hoá giáng hạ
Tất cả các Hành khí (Hỏa Tinh Linh) và Thiên thần này đều ở dưới sự kiểm soát của Hoả Tinh Quân, tức là Agni. [Bản chất của các Hành khí biết suy tư]. (LVLCK, 70)
+ Hỏa Tinh linh - Sự sống chất hơi: .... 2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. .... (LVHLT, 389).
+ Hỏa Tinh Quân - Agni (Lửa của vật chất): Cai quản khắp các hoả tinh linh và hoả thiên thần trên 3 cõi tiến hoá nhân loại là hồng trần, cảm dục và hạ trí, và thống ngự chúng không những trên địa cầu này mà còn trên 3 cõi giới trong mọi phần của Thái dương hệ.
"Hỏa Tinh Quân" Ngài là 1 trong số 7 Huynh Đệ, mỗi vị tượng trưng cho một trong 7 nguyên khí hay chính các vị là 7 trung tâm lực trong cơ thể của Hoả Tinh Quân vũ trụ mà bà Blavatsky gọi là “Fohat”, Ngài là Đấng Thông Tuệ linh hoạt của lửa, là cơ bản của các lửa bên trong của Thái dương hệ. Mỗi một trong số các Đấng này thống ngự trên mỗi cõi và 3 vị Huynh Trưởng (luôn luôn là 3 vị hiển lộ và sau đó là 7 vị, các Ngài rốt cuộc sẽ phối hợp thành 3 nguyên thuỷ) ngự trị trên cõi 1, 3, và 5 hay là trên cõi Tối Đại Niết Bàn (adi), cõi Niết Bàn (atma) (1) và cõi trí (manas). Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng các Ngài là lửa được xét trong trạng thái thứ 3, tức lửa của vật chất. Trong toàn thể của các Ngài, 7 Đấng này hợp thành tinh hoa của Tinh Quân vũ trụ mà các sách huyền linh gọi là Fohat (LVLCK, 85)
+ Phân hóa khi biểu lộ: Mỗi 1 trong số 7 Hoả Tinh Quân này được phân hoá ra thành nhiều nhóm hoả thực thể, từ các Thiên Thần Tinh Quân (Deva-Lords) của một cõi giới xuống đến các hoả tinh linh (Tinh Linh Tinh Quân) nhỏ bé của các lò lửa trong nhà (LVLCK, 87).
+ Hỏa Tinh Quân: Một trong các Đại Huyền Giai có các Đấng Tinh thần đang hướng dẫn Thái Dương Hệ. Các Ngài nắm quyền điều khiển cuộc tiến hóa của nhân loại trên hành tinh này cách đây khoảng 18 triệu năm, vào giữa giống dân Lemuria hay căn chủng thứ ba. (ĐĐNLVTD, 220)
+ Khi bậc điểm đạo đồ nỗ lực mở rộng tâm thức của mình, khi anh ta học được cách ổn định tâm thức mình trong Tam Nguyên Tinh Thần, khi đó anh ta trở thành một phần của nỗ lực huyền giai vĩ đại và liên tục hướng đến “Nơi của Ánh Sáng Điện Quang Minh,” ánh sáng lạnh (ví như Trăng hiện trên đỉnh đầu khi thiền định thanh tịnh) minh bạch của lý trí, là chìa khóa đầu tiên của cánh cửa đầu tiên.(CCVĐĐ/ RI 139)
Xem: Tổng hợp về Hỏa Tinh Quân - Fohat - Năng Lượng
+ Gemini - Song Tử - ♊
+ Song Tử/ Gemini (Song Nam - Song Sinh): Hành Không Khí (Xem); Dẫn truyền(Cung 2) (Xem) - Ánh sáng, thoáng mát, nhiều sở thích, thông minh; ;Xem nguồn - Chủ quản Nhà thứ 3, có đặc tính tương ứng: Quan tâm về môi trường sát bên. Cách hiểu và học hỏi + Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4 (CTHNM, 80);
Kim Tinh dẫn Cung 5 - Khẩu hiệu: Hãy để sự bất ổn làm công việc của nó. + Nội Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi thấy cái ngã khác của tôi và trong sự suy tàn của cái ngã đó, tôi tăng trưởng và bừng sáng.
+ Gemini là cung quan trọng nhất trong số 12 cung hoàng đạo và ảnh hưởng của nó nằm đàng sau mỗi một trong các cung đó ‒ cho đến nay ít chiêm tinh gia nhận ra. Điều này sẽ được hiểu một cách đầy đủ hơn khi tam giác hợp bởi Gemini và hai cung đối lập được nghiên cúu. Vì Cung Bác ái-Minh triết, tức Cung 2, đang tuôn đổ qua Gemini, nên hiển nhiên là chính xác biết bao khi giáo lý huyền môn dạy rằng tình thương nằm dưới toàn thể vũ trụ. Chúng ta tin chắc rằng Thượng Đế là tình thương, và cách diễn đạt này chính xác cả về ngoại môn lẫn nội môn. Tình thương ẩn bên dưới của Thượng Đế đi đến thái dương hệ chúng ta trước tiên qua Gemini / Song tử, mà cùng với chòm sao Đại Hùng và Pleiades, Gemini hợp thành một tam giác vũ trụ. Nói một cách tượng trưng và theo Cổ Luận : “Trên tam giác vàng, Christ vũ trụ xuất hiện; đầu của Ngài ở trong Gemini; một chân ở trên khu vực của bảy Từ Phụ, còn chân kia được đặt vững vàng trong khu vực của bảy Từ Mẫu (hai chòm sao này đôi khi được gọi là Bảy Huynh Đệ và Bảy Tỷ Muội ‒ A.A.B).....
3. Gemini – Sự dung hợp của các đối nghịch (opposites); công phu sáng suốt của sự nhất quán; tổng hợp. Trên vòng tuần hoàn thông thường, các cung này mang lại:
1. Gemini – Kinh nghiệm của các cặp đối ứng (pairs of opposites). Lưỡng nguyên rõ ràng và riêng biệt. Sự tương tác giữa các Cặp Đôi (Twins): Linh hồn và phàm ngã.
2. Taurus – Sự tái tập trung của các ham muốn thấp trước khi một sự quay vòng khác của Vòng Đại Tuần Hoàn để tìm sự mãn nguyện của phàm ngã. Đứa Con Đi Hoang (Prodigal Son) đi vào một xứ xa.
3. Aries – Một lần nữa bắt đầu cũng như kết thúc. Cần nên nhớ rằng tất nhiên Aries chính là biểu lộ thiêng liêng mà Đức Christ đề cập đến khi Ngài nói “Ta là Alpha và Omega, cái bắt đầu và kết thúc”....
Gemini ‒ Tính hay thay đổi. Tính không ổn định. Sự tương tác.
Sagittarius – Khát vọng ham muốn. Phương hướng. Định hướng.
Virgo – Sự sống vật chất. Yêu chuộng một lý tưởng.
Pisces – Cảm giác. Tình trạng trung gian. Tính lưu động.
Gemini – Nhận thức của linh hồn và sắc tướng. Tương tác linh hồn.
Sagittarius – Chỉ hướng về hoài vọng tinh thần. Các đệ tử.
Virgo – Mẹ của Chúa Hài Đồng. Ấp ủ hoài bão (Gestation).
Pisces – Đấng Cứu Thế. Tình trạng trung gian.
Liên quan tới danh sách trên, thật là lý thú mà ghi nhận rằng Cặp Song Sinh (Twins) được dành riêng và không dính dáng trong Gemini trở thành Centaur (Con Nhân Mã), tức thú ‒ người (man-beast), trong Sagittarius, trong khi Virgo, tức Xử Nữ (the Virgin), trở thành nữ thần Cá trong đối cực (polar opposite), tức Pisces. Một luận đề có thể được viết ra dựa vào đề tài về sự liên hệ của các đối nghịch (opposites) trong vòng hoàng đạo, vì chúng thể hiện tinh thần và vật chất và mối liên hệ hỗ tương của chúng, cộng với sự tác động của các năng lượng định tính; đồng thời chúng làm chứng cứ cho sự kiện rằng hai đối nghịch đó là một, và chỉ là biểu hiện của Người chưa tiến hóa....
Liên hệ hỗ tương (inter-relation), sự tương thuộc (inter-dependence), tương giao thông tin (inter-communication), sự tương tác (interplay, ảnh hưởng lẫn nhau) – đây là các thuật ngữ chi phối nền tảng khoa học của chiêm tinh học, và chúng đang bắt đầu trở thành các thuật ngữ được dùng nhiều ngày nay, liên quan tới các sự việc của con người và cách hành xử (conduct) của con người.....
Sự phân tích này tạo thành trong chính nó một lĩnh vực suy đoán lý thú và rộng khắp.
Do đó, Gemini là cung quan trọng nhất trong số mười hai cung hoàng đạo và ảnh hưởng của nó nằm đàng sau mỗi một trong các cung đó ‒ cho đến nay đó là một sự kiện mà chỉ có ít chiêm tinh gia nhận ra. Điều này sẽ được hiểu một cách đầy đủ hơn khi tam giác hợp bởi Gemini và hai cung đối lập được nghiên cúu. Vì Cung Bác ái-Minh triết, tức Cung 2, đang tuôn đổ qua Gemini, nên hiển nhiên là chính xác biết bao khi giáo lý huyền môn dạy rằng tình thương nằm dưới toàn thể vũ trụ. Chúng ta tin chắc rằng Thượng Đế là tình thương, và cách diễn đạt này chính xác cả về ngoại môn lẫn nội môn. Tình thương ẩn bên dưới của Thượng Đế đi đến thái dương hệ chúng ta trước tiên qua Gemini, mà cùng với chòm sao Đại Hùng và Pleiades, Gemini hợp thành một tam giác vũ trụ. Đây là tam giác của Christ vũ trụ (tức Ngôi Hai của Tam Vị Nhất Thể ‒ xin xem lại trang 200 –ND) và là biểu tượng nội môn nằm đàng sau Thập Giá vũ trụ......
Trong cách diễn đạt theo huyền môn này có ẩn giấu lý do giải thích tại sao Gemini được xem như một cung thuộc không khí (air sign), vì về mặt vũ trụ, nó có liên quan (như Aquarius và Libra, hai điểm khác của bộ ba không khí) theo cách đặc biệt nhất với Đại Hùng Tinh, với Pleiades và với Sirius. Mối liên hệ chủ yếu là một liên hệ sáu mặt, và, ở đây bạn sẽ tìm thấy một ám chỉ về cách giải quyết của các cặp đối hợp ‒ vì cả ba chòm sao này có liên quan đến ba ý tưởng về đối kháng - thăng bằng - tổng hợp (opposition - equilibrium - synthesis) hay là dung hợp đại đồng. Có thể trình bày như sau:
1- Gemini ‒ tạo thành một điểm nhập vào cho năng lượng vũ trụ từ Sirius (Sao Thiên Lang).
2- Libra ‒ được liên kết với và đang truyền chuyển các thần lực của Pleiades (chòm sao Rua, sao Mão).
3- Aquarius ‒ thể hiện tâm thức vũ trụ (universal consciousness) của Great Bear (Đại Hùng Tinh).
...... Như ngày nay bạn có thể bắt đầu hiểu, Gemini có liên quan tới thể dĩ thái; đó là người bảo quản của năng lượng điều tiết và là người trung gian, đối với các điều cốt yếu cơ bản, giữa linh hồn và thể xác. Đây là hai huynh đệ có liên hệ. Nơi con người bậc trung, thể dĩ thái là tác nhân truyền năng lượng tâm linh, làm phấn khích và phối kết nhục thân, do đó giúp cho thể cảm dục và thể trí kiểm soát phàm ngã. Khi con người ở trên Con Đường Đệ Tử, do đó ở trên vòng hoàng đạo đảo ngược, đưa tới điểm đạo, thể dĩ thái trở thành tác nhân truyền năng lượng linh hồn, chứ không truyền lực của phàm ngã nữa. ... Có nhiều điều cần học hỏi từ việc nghiên cứu hoạt động kép – cao và thấp – của thể dĩ thái và mối liên hệ và sự đáp ứng của thể đó với chòm sao Gemini, nhưng việc đó quá khó hiểu đối với nhà nghiên cứu bình thường. Tuy nhiên, đó là một sự kiện huyền bí cần ghi nhớ, ... Cách lý giải đích thực sẽ đến và cách chữa trị đúng trong mọi lĩnh vực của cách sống con người qua cách hiểu biết thích hợp đối ới các sức mạnh và năng lượng có sẵn đang tuôn đổ vào hành tinh ở bất cứ thời điểm đặc biệt nào.
.....Thứ nhất, Chủ thể cai quản chính là Mercury, mà với cương vị Sứ Giả của Thượng Đế hay là “Trung Gian thiêng liêng, mang thông điệp giữa các thái cực (poles) với tốc độ và ánh sáng”. Trong hành tinh quan trọng và mạnh mẽ nhất này, ý tưởng về tính đối ngẫu/tính nhị nguyên (duality) lại được tìm thấy, đang nâng cao và được nâng cao bởi ảnh hưởng của Gemini. Mercury là biểu hiện của trí tuệ vì nó hòa giải giữa cái cao và cái thấp. Sự hòa giải này lại rơi vào hai giai đoạn: dùng trí cụ thể làm tác nhân trung gian bên trong phàm ngã, chi phối sự sống phàm ngã, phân tích và phân biệt giữa cái ngã với phi ngã và nhấn mạnh ý thức “tôi và anh” (“me and thou” consciousness) cũng như ý thức của phàm ngã và môi trường chung quanh của nó...... Thứ hai, nó chuyển di các thông tin giữa linh hồn và não, đồng thời lập nên liên hệ trung thực giữa phàm ngã với chân ngã; do đó, chính thể trí giác ngộ làm liên kết linh hồn và phàm ngã......
Do đó, theo một cách đặc biệt, Mercury làm tăng lên trong người thuộc cung Gemini ý thức tiềm tàng về lưỡng nguyên tính trong các giai đoạn khác nhau của nó và cũng làm tăng ý thức phân biệt, đưa đến chính bản chất lanh lợi trí tuệ và chính sự uyển chuyển của thể trí vốn là một trong các kỷ năng chủ yếu cũng như là một trong các khó khăn hàng đầu của cung này. ... ngài có khả năng hiểu được các thái cực và liên kết chúng một cách tuyệt diệu với nhau. Một cách nổi bật, Gemini là cung của nhà tiên tri/sứ giả (messenger), và cung này tạo ra nhiều sứ giả của Thượng Đế khi các vị đó xuất hiện qua các thời đại, các nhà khai mở (revealers) đối với các chân lý thiêng liêng mới, và là các nhà trung gian (intermediaries) giữa giới thứ tư và giới thứ năm. Chính vì lý do này mà bạn có được chủ thể cai quản bên ngoài được tạo ra như Mercury và chủ thể bên trong như Venus, vì các chủ thể này biểu hiện cho giữa chúng và các năng lượng của Cung 4 và Cung 5, vốn là sự hiểu biết phôi thai về các nguyên nhân và các tình trạng từ đó mà ra và cũng là của Thiên Cơ.......
Như vậy, chính vì Venus làm liên hệ một số cặp đối hợp mà hành tinh này (she) đã bị liên kết một cách sai lầm trong trí con người với tính dục (sex), và sự sống tính dục (sex life), và với mối liên hệ của các trái ngược vật chất, nam và nữ.
Thật là lý thú mà phát hiện rằng chủ thể chi phối của Gemini là chính Địa Cầu, lại là một hành tinh không thánh thiện. Địa Cầu cũng là chủ thể chi phối của Sagittarius, đối cực (polar opposite) của Gemini. Đây chỉ là hai tinh tòa bị Địa Cầu chi phối (ruled), và sự kiện này có tầm quan trọng lớn lao, tạo ra một tình huống khác thường trong thái dương hệ và một mối liên hệ độc đáo. Tuyến lực thuộc vũ trụ từ Gemini đến Sagittarius và ngược lại có liên quan về mặt bên trong và mặt huyền bí với Địa Cầu chúng ta, nhờ thế đảm bảo sự phát triển linh hồn của nó, việc khai mở hình tướng dưới hình thức một biểu hiện của linh hồn đó, và tất nhiên dẫn dắt nhân loại đau khổ chúng ta trên hành tinh đầy sầu muộn này đến tận cửa điểm đạo trong Capricorn.
Trong cách diễn đạt này và trong sự kiện về đau khổ và phiền muộn vốn là các tính chất phân biệt của sự sống hành tinh chúng ta có ẩn giấu môt bí ẩn thầm kín.....
Ba năng lượng (Cung 3/ Địa cầu - Cung 4/ Thủy tinh - Cung 5/ Kim tinh) này, được tập trung qua ba hành tinh đang chi phối Gemini, chủ yếu được dành cho sự phát triển của giới thứ tư trong thiên nhiên và được tập trung vào Địa Cầu, chính nó là một trong các chủ thể chi phối (rulers)...... Mercury, thiên thể (star) của sự xung khắc, cũng là hành tinh chủ yếu của các mối liên hệ, vì nó cai quản và “bố trí” (“engineers”, vạch ra, sắp đặt) (Tôi tạm dùng một thuật ngữ như thế) sự tương tác giữa Địa Cầu chúng ta với các chòm sao đang chi phối của nó....
Khi xét chủ đề này, bạn sẽ phải xét đến các cơ cấu chiêm tinh sau đây:
1. Gemini ........ Virgo .......... Mercury Địa Cầu
2. Gemini ........ Aries .......... Mercury Địa Cầu
3. Gemini ........ Scorpio ...... Mercury Địa Cầu
(CTHNM)
+ Thuật ngữ tương ứng: Thể dĩ thái - Thể sinh lực; Thể phách - Thể vía - Thể tình cảm - Thể dục vọng - Thể cảm dục = Tham dục là nói Thể này.
+ "Thể dĩ thái" rất phức tạp - Cần suy ngẫm: .... Tôi tự hỏi không biết bạn có thể nắm bắt được ít nhất một phần và một cách tượng trưng sự thật rằng các tam giác (Đại và tiểu Thiên địa/ Con người) này ... Chúng phải được xem như đang chuyển động nhanh chóng, luôn luôn xoay tròn trong không gian và không ngừng di chuyển về phía trước, và như là có sự kéo dài bề đo thứ tư và thứ năm. Không có cách nào để mô tả chúng ... vì chỉ có con mắt bên trong của linh thị mới có thể tưởng tượng ra sự tiến triển, vị trí hay dáng vẻ của các tam giác đó. .... Do đó, toàn bộ mạng lưới vũ trụ và thái dương hệ là một loạt các tam giác phức tạp, luôn luôn chuyển động, đan vào nhau, trong đó mỗi điểm của một tam giác phóng xuất ra ba tuyến (lines) hay luồng năng lượng (tất cả là chín), nó cũng đáp ứng với và tiếp nhận các năng lượng – cũng tam phân trong thiên nhiên – vốn ở trong chu vi hoặc là lĩnh vực ảnh hưởng và hoạt động rung động của nó.
Thật là vô ích cho các nhà nghiên cứu khi cố gắng tháo/lần ra manh mối (unravel) tập hợp các dòng năng lượng đang trộn vào nhau này. Tất cả những gì hiện nay có thể xảy ra đối với con người với thiết bị hiện có của y là chấp nhận dựa trên giả thuyết các diễn đạt về một vài tam giác chính yếu đang ảnh hưởng đến nhân loại, và tìm cách chứng minh ảnh hưởng của chúng, và cố gắng đi đến một số hiểu biết về mạng lưới phức tạp, đan dệt vào nhau mà chính y sở hữu và y gán danh xưng là “thể dĩ thái” (“etheric body”) cho mạng lưới này. (Nguồn: Chiêm tinh học NM)
+ Thể Sinh lực: .... Về vấn đề này, xét trên vài phương diện thì thể cảm dục lại là thể thứ ba của tâm thức nếu tính xác thân và thể Dĩ thái/ Sinh lực điện (Thể sinh lực Điện - Có thể Ngài nói đến Hệ thống Luân xa_Nhân TH) là hai đơn vị [Khi nói về cấu tạo con người, thường xem 2 Thể này là một - Không tính thể xác như là một thể độc lập]. Tôi không thể nói thêm, vì tất cả đều hoán chuyển và xuyên thấu lẫn nhau, tôi chỉ đưa ra tài liệu để các bạn suy ngẫm. (Tham thiền huyền môn)
+ Thể sinh lực tức là thể dĩ thái (LVHLT, 206)
+ Thể dĩ thái là một mạng lưới các dòng năng lượng, các tuyến lực và ánh sáng. Dọc theo các tuyến năng lượng này, các mãnh lực vũ trụ tuôn chảy, giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và động mạch (Nguồn)
+ Thể dĩ thái: Thể xác con người có 2 phần: Nhục thể và thể dĩ thái. Nhục thể được tạo thành bằng chất liệu của 3 phân cảnh thấp nhất của cõi trần. Thể dĩ thái được tạo thành bằng chất liệu của 4 phân cảnh cao hay phân cảnh dĩ thái của cõi trần. (ĐĐNLVTD, 218)
+ Ẩn dưới xác thân và hệ thống thần kinh phức tạp và bao quát của nó, là một thể sinh lực hay thể dĩ thái vốn là đối phần và là hình hài đích thực của trạng thái hữu hình bên ngoài của cõi hiện tượng. Đó cũng là môi trường/ phương tiện chuyển thần lực đến tất cả các phần của thân thể con người và là tác nhân thừa hành của sự sống nội tại và tâm thức. Nó qui định và chi phối thể xác, vì chính nó là nơi lưu trữ và nơi truyền chuyển năng lượng từ các trạng thái bên trong khác nhau của con người và cũng từ môi trường mà trong đó, cả con người bên trong lẫn con người bên ngoài đều có được sở trường. Khoa học đang chứng minh điều này [Điểm này cũng có thể suy ra Thể dĩ thái đang nói đến là Hệ thống Trung tâm Điện = Hệ thống các Luân xa năng lượng phát xạ_Nhân TH] (CTHNM, 17).
+ Bảy trung tâm lực chính vốn là một kiểu của các tác lực phân phối và các bộ pin điện, cung cấp mãnh lực năng động và năng lượng định tính cho con người; chúng tạo ra các hiệu ứng rõ rệt lên biểu lộ vật chất bên ngoài của y. “Việc kiểm soát sắc tướng qua bộ 7 năng lượng” là một qui luật không thể thay đổi trong việc cai quản bên trong của vũ trụ chúng ta và của thái dương hệ đặc biệt của chúng ta, cũng như trong trường hợp của con người cá biệt (CTHNM, 19)
+ Nhà huyền linh không bận tâm đến nhục thể. Y xem thể dĩ thái mới là hình hài đích thực còn nhục thể được xem như chỉ là vật chất dùng để lấp đầy hình hài này. Thể dĩ thái là hình hài chủ yếu đích thực, cái khung sườn, vật liệu làm giàn giáo mà nhục thể tất nhiên phải phù hợp với nó. (ASCLH, 348–349)
+ Thể dĩ thái kép: 6. Thể hồng trần bao gồm hai thể: thể hồng trần và thể dĩ thái, và thể hồng trần đã được khoa học nghiên cứu thật tường tận. Chân sư DK nói rằng Y khoa (và cũng có lẽ khoa học nói chung) là món quà mà Thượng đế dành cho nhân loại...... Do đặc tính chất liệu tạo ra, ta có thể phân biệt chúng thành thể hồng trần thô kệch và thể ‘‘dĩ thái kép’’ (etheric double). Thể dĩ thái kép là bản sao chính xác từng phần của thể hồng trần hữu hình; qua trung gian nó, mọi dòng điện và sinh lực được cung cấp cho những hoạt động của thể hồng trần..... Hơn nữa, danh từ ‘‘dĩ thái kép’’ diễn đạt rất đúng bản chất và sự cấu tạo phần thanh nhẹ của thể hồng trần, nó cũng dễ nhớ, ‘dĩ thái’ (etheric) vì được cấu tạo từ chất dĩ thái (ether), ‘kép’ (double) vì là bản sao (duplicate) của thể hồng trần thô kệch, hay cái bóng của nó.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét thể đậm đặc, có thể gọi là phần hữu hình của thể hồng trần, dù những chất hơi cũng là thành phần của thể đậm đặc cũng không thấy được bằng mắt thường. Thể hồng trần đậm đặc là ‘‘lớp áo’’ ngoài cùng và là biểu lộ thấp nhất của con người. .... Những tu sĩ Hatha Yoga phát triển rất cao năng lực kiểm soát hệ thần kinh giao cảm, với mục đích kích thích những quyền năng tâm linh bậc thấp. Người ta có thể làm phát triển những năng lực này bằng cách tác động trực tiếp lên thể hồng trần. Tu sĩ Hatha Yoga học cách kiểm soát hơi thở, có thể đến giai đoạn ngưng thở trong một thời gian khá lâu, kiểm soát nhịp đập quả tim, làm sự tuần hoàn nhanh hay chậm tùy theo ý muốn. Do những cách thức này, họ đưa thể hồng trần vào trạng thái xuất thần, để cho thể cảm xúc tự do thoát ra khỏi thể hồng trần.....
Hệ thống thần kinh, giống như những thành phần khác của cơ thể, được tạo nên bởi nhiều tế bào. Tế bào là một thể nhỏ xác định, có màng bao bọc và những thành phần bên trong, .... Tế bào được tạo thành bởi nhiều phân tử nhỏ, và đến lượt những phân tử nhỏ này cũng do những nguyên tử hợp lại, mỗi nguyên tử là thành phần của một nguyên tố hóa học. Những nguyên tử hóa học này kết hợp theo vô số cách thức khác nhau để tạo nên chất khí, chất lỏng, và chất đặc của cơ thể đậm đặc..... Người muốn thanh lọc thể hồng trần phải tức khắc bắt đầu loại bỏ các thực phẩm không trong sạch, độc hại cho sự cấu tạo những phần tử trong cơ thể..... Rượu là thực phẩm do sự thối rữa tạo ra, tự nó không những đáng ghê tởm,.... còn hấp dẫn, thu hút ma quỷ nghiện ngập lang thang ở Cõi Trung giới ... cố gắng thâm nhập vào người nghiện ... => Cơ thể nặng lề, thô kệch.... Cũng thế, những thể xác được nuôi sống bằng thịt các loài thú vật, loài bò sát, chim, cá v.v… không thể nào nhạy cảm, thanh nhẹ, quân bình, khỏe mạnh và bền chắc như thép đã được tôi luyện,....
* Chúng ta bước sang phần thanh nhẹ hơn của thể hồng trần, tức thể dĩ thái kép, thường được gọi là thể dĩ thái.
Thu nạp vào thể xác vật chất của những cõi phụ cao và loại trừ những chất thô của các cõi phụ thấp. Điều này cần thiết bởi vì người có các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao..... Có nghĩa là có 4 yếu tố "cần ăn chay - Sạch sẽ - Ánh nắng - Ngủ đủ".... Khi thực hiện đầy đủ thì một tiến trình thải trừ rõ rệt sẽ tiếp diễn, và trong vòng vài năm toàn bộ xác thân sẽ từ từ chuyển sự phân cực lên cao hơn để rốt cuộc chúng ta có được một thể xác cấu tạo bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử. . . . . . Việc này có thể cần nhiều kiếp sống,....
Dùng ánh sáng màu chiếu vào cơ thể, tạo tiến trình thải bỏ tạp chất và đồng thời kích thích các nguyên tử. Việc này chỉ có thể được thực hiện khi có kiến thức về các Cung.
Sự kích thích bằng âm nhạc. Một số âm thanh có thể làm tan rã và đổ vỡ....
Tôi muốn nói thêm một điểm nữa là sự vận dụng điện lực có ẩn bí quyết làm sinh động các thể, đặc biệt là đối với thể dĩ thái hiện nay. Công dụng chính của mặt trời là làm sinh động thể dĩ thái. Sức nóng của mặt trời là điện lực đã được chuyển hóa thích ứng cho nhu cầu của đại đa số các sinh vật trung bình trong mọi giới của thiên nhiên. .... Với các Thể Cảm dục, Trí tuệ thì phương pháp còn là Bí mật điểm đạo.(Nguồn: Cấu tạo con người-Minhtrietmoi)
+ Thể dĩ thái, vốn là một mô phỏng đúng y như đối phần trọng trược của nó, là cơ quan của lửa linh hoạt hay lửa bức xạ, và, như được biết rõ, đó là hiện thể của prana. Chức năng của nó là tích chứa các tia sáng bức xạ và nhiệt nhận được từ mặt trời và truyền chúng, qua lá lách, đến mọi phần của thể xác => Xương sống và Lá lách cực kỳ quan trọng cho sức khỏe thể xác con người. Khi lò lửa vật chất cháy sáng và khi nhiên liệu của thể xác (tức tia prana) được đồng hoá một cách thích ứng, xác thân con người sẽ vận hành như ý muốn (LVLCK, 75)
+ Cấu tạo Thể Dĩ thái: b/ Điều hơi kỳ lạ là trong giới nhân loại và chỉ giới nhân loại, thể dĩ thái ngày nay được tạo thành bằng 4 loại chất dĩ thái.... Chất liệu vận hà/ ống vận chuyển làm bằng prana hành tinh, tức năng lượng đem lại sự sống, sức khỏe chính hành tinh. Các ống này có thể chuyên chở tất cả hoặc bất cứ năng lượng có thể có nào – thuộc tình cảm, trí tuệ, Chân ngã, thượng trí, bồ đề hay thuộc niết bàn, tùy theo trình độ tiến hóa mà người có liên hệ đã đạt đến (Chân Sư DK)
+ Thể Dĩ Thái:
- Khái niệm, nằm sau các lý thuyết chiêm tinh học, là thể dĩ thái của bất kỳ hình hài nào cũng tạo thành một phần của thể dĩ thái của thái-dương-hệ, và do đó là trung gian cho việc truyền các năng lượng của mặt trời, của các lực hành tinh, và của các xung lực ngoài thái dương hệ hay vũ trụ, mà về mặt nội môn được gọi là “các linh khí”. Các lực và năng lượng này của các tia vũ trụ không ngừng luân lưu và đi theo các đường lối rõ ràng xuyên qua tất cả các phần trong dĩ thái không gian, và do đó liên tục đi qua các thể dĩ thái của mọi hình hài thông thường. Đây là một chân lý cơ bản và phải được ghi nhớ kỹ,
- Ý tưởng cơ bản thứ hai là sự đáp ứng của hiện thể dĩ thái của tất cả các hình hài và khả năng của nó để chiếm hữu, để sử dụng, và để truyền tải, đều phụ thuộc vào điều kiện của các bí huyệt, tức là của các luân xa như chúng được gọi ở Phương Đông. Chúng bao gồm không chỉ bảy bí huyệt chính được biết rõ mà còn vô số các xoáy lực nhỏ mà cho đến nay chưa được đặt tên và chưa biết đến ở Phương Tây. Nó cũng phụ thuộc vào tính chất của hiện thể dĩ-thái, vào tính sinh động của nó, và cũng phụ thuộc vào mạng lưới xen kẽ mà các bí huyệt tọa lạc ở đó, và tất cả được gọi là “mạng lưới” (“web”) hay “kim bôi” (“golden bowl”). Nếu lưới này sạch hết những trở ngại và chất lắng đọng (sediment), và nếu các vận hà (channels) của nó không bị tắc nghẽn thì các tia sáng, các năng lượng và các thần lực đang lưu thông có thể tìm thấy một phương tiện dễ dàng và có thể lưu thông không bị cản trở xuyên suốt toàn bộ cơ thể. Khi đó chúng có thể sử dụng các bí huyệt này, vốn đáp ứng với các rung động của chúng, và có thể được tiếp tục đi xuyên qua các hình hài trong các giới khác hoặc cùng giới trong thiên nhiên. Ở đây ẩn chứa bí mật của mọi việc chữa trị khoa học và huyền bí. Các nhà chữa trị đang thử nghiệm với thể dĩ thái và tuy vậy, họ ít có hiểu biết thực sự. Họ biết rất ít hoặc không biết gì về các bí huyệt trong chính cơ thể của họ, mà qua đó các luồng từ lực hoặc các luồng khác phải chảy qua; họ không biết về tình trạng của các bí huyệt dĩ thái của những người mà họ tìm cách chữa trị và về bản chất của các lực mà họ muốn vận dụng. Tất cả những gì họ có thể làm là gìn giữ giới luật trong đời sống của họ, và kiểm soát những ham muốn của họ sao cho họ tạo ra một cơ thể lành mạnh, và cung cấp các vận hà thông thoáng cho đường đi của các mãnh lực từ họ và xuyên qua họ đến những người khác.
Khái niệm thứ ba phải được lưu ý, đó là các hình hài đó, cho đến nay chủ yếu đáp ứng với các lực vốn đến với chúng từ các hình hài khác trên hành tinh, với bảy loại năng lượng cơ bản phát ra từ bảy hành tinh, và cũng với tia sáng mặt trời ban phát sự sống. Mọi hình hài trong cả bốn giới đang đáp ứng với nhiều mãnh lực này, với bảy năng lượng này và với tia (ray) duy nhất. Gia đình nhân loại cũng đáp ứng với các năng lượng khác và với các tia mặt trời – tuy nhiên tất cả đều bị nhuốm màu bởi mãnh lực được tạo ra trong vòng giới hạn thái dương (solar ring-pass-not). (LVHLT, 290-291)
+ Nói chung, công việc của giới nhân loại là để truyền năng lượng cho các giới thấp trong Thiên Nhiên, Thánh đoàn cho nhân loại (Các năng lượng này khi hạ thấp xuống để truyền đi, sẽ phân hóa thành các mãnh lực) (LVHLT, 291)
+ Thể Dĩ Thái: Chức năng quan trọng nhất của thể dĩ thái là dẫn truyền năng lượng sống hay sinh lực từ trường vũ trụ sang trường cá nhân, và từ đó đến cơ thể vật lý. Đó là mối liên hệ chính yếu với đại dương năng lượng sống duy trì toàn bộ thế giới tự nhiên... Với phương Đông, sinh lực, được gọi là prana, luôn luôn được coi là lực vũ trụ trong tự nhiên liên quan mật thiết đến hô hấp và hơi thở.
Đối với những người có nhãn thông, thể dĩ thái ở một người khỏe mạnh trông giống như một mạng lưới các đường từ lực sáng trắng tinh tế, vuông góc với bề mặt da. .. Mỗi bộ phận của cơ thể đều có đối phần tương ứng ở thể dĩ thái, qua đó năng lượng dĩ thái tuần hoàn liên tục.
Màu sắc của thể dĩ thái là màu xám-xanh lơ nhạt hay là màu xám-tím, chói sáng một cách lờ mờ, trông giống như làn không khí nóng dợn sóng trên mặt đường trong những ngày trời nóng. Ở một người bình thường, thể dĩ thái ló ra khỏi cơ thể từ năm đến bảy centimet (2-3 inch) và hòa lẫn vào trường năng lượng dĩ thái xung quanh - Một đại dương năng lượng thường xuyên chuyển động một cách lẹ làng nhanh chóng, bao quanh thể dĩ thái giống như bầu không khí bao quanh quả đất
Thể dĩ thái không phải là một dẫn thể của tâm thức, nó giữ vai trò dẫn truyền tâm thức đến bộ óc xác thịt, và nếu vì lý do gì đó thể dĩ thái bị tách rời khỏi thể vật lý, kết quả sẽ tạo ra những rối loạn và bệnh tật cho cơ thể.
[Nguyên nhân của nghiện ngập] Có một mạng lưới dĩ thái .. như một lớp lá chắn tự nhiên giữa thể dĩ thái và thể cảm dục, và bảo vệ con người khỏi sự liên thông giữa hai thể này quá sớm. .. Nó có tác dụng như một thiết bị bảo vệ, và những tổn thương của nó đều gây nên những hậu quả nghiêm trọng, vì điều này mở ra cánh cửa đến với các nguồn lực vượt quá sự kiểm soát của cá nhân... nếu bị rách lưới dĩ thái ..., là nguồn cơn của thói nghiện rượu, sử dụng ma túy và các chất kích thích tương tự. (Nguồn: Luân xa và năng lượng)
+ Thể dĩ thái Địa cầu: Có một trạng thái năng lượng mà nhà chiêm tinh học hiện đại rất ít để tâm đến, tuy thế nó lại vô cùng quan trọng. Đây là năng lượng phát ra hay là xạ ra từ chính Địa Cầu. Linh hoạt như tất cả mọi con người đang sống trên bề mặt của Địa Cầu và do đó được phóng vào thể dĩ thái của hành tinh (vì lý do là “con người đứng thẳng”) thân thể con người lúc nào cũng ngập trong các phóng xuất và các phát xạ của Địa Cầu chúng ta và trong tính chất toàn vẹn của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta khi Ngài phát ra và truyền năng lượng bên trong vùng chung quanh hành tinh của Ngài. Các nhà chiêm tinh học luôn luôn nhấn mạnh vào các ảnh hưởng và các năng lượng đang đi đến khi chúng đập mạnh vào (beat upon) và tác động qua hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia đã bỏ quên không xem xét thích đáng các tính chất và các lực phát ra vốn là sự đóng góp của thể dĩ thái của Địa Cầu chúng ta vào tổng thể lớn hơn. Chúng ta sẽ xem xét điều này sau, nhưng Tôi cảm thấy cần kêu gọi sự chú ý của các bạn vào lúc này. (Nguồn: Chiêm tinh học NM)
+ Thể sinh lực: Tính chất - Các trung tâm lực - Tương ứng
Xem thêm: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem thêm: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Dĩ thái không gian Điểm kế tiếp mà mỗi người trong các bạn cần hiểu rõ đó là sự kiện dĩ thái của không gian chính là lĩnh vực mà trong và qua đó các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Vì lẽ đó chúng ta chỉ đề cập tới thể dĩ thái của hành tinh, của thái dương hệ và của bảy thái dương hệ mà trong đó thái dương hệ của chúng ta là một, cũng như bàn đến thể dĩ thái rộng lớn hơn của vũ trụ mà chúng ta đang nằm trong đó. Ở đây Tôi sử dụng từ ngữ “located” (“nằm”, “có vị trí”…) một cách có cân nhắc và vì các suy đoán mà thuật ngữ đó dẫn đến. Lĩnh vực rộng lớn này, cũng như các lĩnh vực nhỏ hơn và có giới hạn hơn, cung cấp môi trường truyền chuyển (medium of transmission) cho tất cả các năng lượng đang tác động trên và qua thái dương hệ chúng ta, các bầu hành tinh chúng ta và mọi hình thức, sự sống trên các bầu này. Nó tạo thành một lĩnh vực hoạt động liên tục trong một chuyển động liên miên không dứt – một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng. (CTHNM, 17)
+ Con người bị chìm ngập trong các mãnh lực mà đối với y như là nước của không gian đối với thái-dương-hệ chúng ta. Con người nhận thấy bản thân y, giống như mặt trời và các hành tinh đi kèm mặt trời cũng nhận thấy như thế, tạo nên một phần của một tổng thể, và giống như thái-dương-hệ của chúng ta chỉ là một trong bảy thái-dương-hệ, được thu hút lại nhau tạo thành một thể (body), ...(LVHLT, 275)
+ Vật chất không gian (matter of space): Theo cách gọi một cách thực tế (graphically) của Ấn giáo thì đối với mỗi Thái Dương Hệ, vật chất không gian chung quanh nó là Cội nguồn của Vật chất (Root of Matter), hay Hỗn nguyên khí (Mulaprakriti) của Thái Dương Hệ đó. (KCVTT, 16)
+ Trường không gian (Field of space): Bản chất của trường không gian là dĩ thái, và thể sinh lực của nó được tạo bằng tổng số các thể dĩ thái của tất cả các chòm sao, các Thái Dương Hệ và các hành tinh nằm trong đó. Toàn bộ mạng lưới quý báu của vũ trụ này có một sự lưu chuyển không ngừng của các năng lượng và các thần lực, điều này tạo thành nền tảng khoa học của các thuyết chiêm tinh học. Giống như các thần lực của hành tinh và của chân nhân (chỉ ghi nhận một trong số nhiều yếu tố) đang tuôn đổ qua thể dĩ thái của từng người trên cõi trần và chi phối ngoại hiện của con người, các hoạt động và các tính chất của y, cũng thế, các thần lực khác nhau của vũ trụ đang tuôn đổ qua mọi phần thể dĩ thái của thực thể mà chúng ta gọi là không gian, rồi chi phối, định đoạt phần ngoại hiện, các hoạt động và các tính chất của mọi hình hài nằm trong chu vi vũ trụ. (CTHNM, 11)
+ Không gian bao quanh Thái Dương Hệ chúng ta: Cuộc chiến vĩ đại đầu tiên để đạt đến việc Tự ý thức trọn vẹn bắt đầu trên Cõi Hồng Trần.
Cõi hồng trần vũ trụ. Đây là lực (ngoài và trong) của chính thái dương hệ và của không gian bao quanh. Nó có thể được xem như các lực của prana, tuôn đổ qua thể dĩ thái của Thượng Đế (bốn cõi phụ cao của chúng ta) vốn là dương so với ba cõi thấp hơn, đang thấm nhuần ba cõi thấp này (một phản ảnh trong vật chất, hay là trong trạng thái Brahma, của sự hợp nhất của Phụ-Mẫu) và tạo ra biểu lộ cụ thể thuần túy. Điều này giải thích tại sao thể xác có sự kiềm chế như thế trong các giai đoạn dài của sự tiến hóa của con người, vì mãnh lực thuộc loại năng lượng này tất nhiên được cảm nhận mạnh hơn nhiều so với các lực khác. Chính mãnh lực thiên thần, và vật chất, vốn rất gần gũi với chúng ta cũng như lừa dối chúng ta một cách mạnh mẽ. Ở đây có tàng ẩn bí mật của ảo lực (maya), và cũng ở đây được thấy bí ẩn của ảo tưởng (illusion). Đối với con người, nơi đây chứa giai đoạn lớn thứ nhất của trận chiến cho ngã thức đầy đủ, và cho việc huyền đồng (identification) với phương diện - Chúa (God-aspect), chớ không phải với phương diện-vật chất. Ở đây ẩn tàng lý do huyền linh giải thích tại sao con người được gọi bằng tên của cha chớ không phải tên của mẹ của y. Khi con người đã chi phối được các tinh hoa thiên thần của cõi trần, thì y kiểm soát kế tiếp các tinh hoa thiên thần của cõi cảm dục và chi phối các tinh hoa cõi trí. Nhờ đạt được điều này trong bản thể riêng của mình, bấy giờ y có thể an toàn trở thành một nhà huyền thuật và tiếp xúc, kiểm soát và hoạt động với các devas có liên quan đến các kế hoạch của Hành Tinh Thượng Đế. Khi nhận ra ba loại thần lực này, con người sẽ tìm được chìa khóa đưa đến cái bí ẩn về các trung tâm lực của mình. (TCF - Luận Về Lửa Vũ Trụ, tr 625)
+ Lưới dĩ thái (Etheric web):
- Theo nghĩa đen, lưới dĩ thái là mạng lưới tinh anh với các tuyến lửa trải rộng qua trung tâm và tạo thành một diện tích có kích thước khá rộng. Nó tách biệt 2 thể cảm dục và thể xác. (LVLCK, 944)
- Các lưới dĩ thái thực ra là dĩa (disks), đang quay tròn với các tốc độ riêng biệt, khác nhau tùy theo loại trung tâm lực và tùy theo mức độ tiến hóa của hệ thống trung tâm lực liên hệ. Chỉ khi nào các lưới này bị thiêu rụi bởi các luồng hỏa đi lên và đi xuống, người ta mới thật sự thấy đúng được các trung tâm lực. Nhiều người có nhãn thông lầm lẫn các trung tâm lực và các đối phần bảo vệ của chúng, vì các đối phần này (counterpart) có độ tỏa chiếu và ánh sáng riêng của chúng. (LVHLT, 592)
- Tấm màn ngăn cách cõi cảm dục khỏi cõi trần. (TLHNM I, 102)
+ Nhãn thông dĩ thái (Etheric vision): Đây là năng khiếu đang phát triển nhanh chóng của mắt người, mà sau rốt, nó nhìn thấy hào quang sức khỏe của mọi hình hài trong 4 giới của thiên nhiên, sẽ đưa tới việc nhận biết được các phóng phát sinh lực prana của mọi trung tâm lực sinh động và sẽ cho thấy tình trạng của các trung tâm lực này. (ASCLH, 68) …
+ Nhãn thông dĩ thái là loại nhãn thông nhìn thấy được loại vật chất tinh anh hơn (finer matter) của cõi trần, tức là nhìn thấy những gì được gọi là các chất dĩ thái (ethers). (TTCNT, 132)
+ Phát triển nhãn thông dĩ thái: Tôi không định nói nhiều về sự phát triển của con người như đã ám chỉ đến trong các trang trước, và một cách nói bóng gió cũng đủ cho người nghiên cứu đúng đắn, nhưng có thể phát biểu các nét lớn về các phát triển sắp tới, và để kê ra các kết quả nên mong muốn. Các gợi ý chỉ nói được phần nào mà thôi.
Phát triển nhãn thông dĩ thái (etheric vision) một cách rộng rãi. Điều này do bởi 2 nguyên nhân :
Thứ 1. Nhận thức khoa học về sự hiện hữu của các cõi phụ dĩ thái, do đó tháo gỡ cho con người thoát khỏi trách nhiệm của dư luận quần chúng trái ngược, và giúp cho họ khám phá những gì họ đã hiểu được một cách riêng rẽ trước kia. Nhãn thông dĩ thái hiện nay tương đối phổ biến. Nhưng lời giải thích liên quan đến nó thì còn ít, vì sợ bị chỉ trích.
Thứ 2. Hoạt động được tăng cường của các thiên thần dĩ thái đang đưa chất liệu của các cõi phụ dĩ thái vào rung động linh hoạt hơn, với tác động phản xạ tất nhiên dưới mắt con người.
Hoạt động trí tuệ tăng gia và sự mở rộng giáo dục (của loại trí cụ thể) khắp nơi. Điều này sẽ tạo ra kết quả trong:
* Đua tranh tăng gia giữa các đơn vị và giữa các nhóm.
* Tổ chức công việc theo các đường lối cho đến nay không ai ngờ đến.
* Thành lập các nhóm và các tập hợp của nhóm mà mục đích độc nhất sẽ là tổng hợp mọi đường lối nỗ lực của con người, và như vậy đem lại sự hợp nhất cho nỗ lực, và tiết kiệm sức mạnh trong giới khoa học, doanh thương, triết học, giáo dục và giới tôn giáo.
* Việc thành lập các trường y khoa theo các đường lối mới mà mục đích sẽ là nghiên cứu về thể dĩ thái, mối liên hệ của nó với nhục thể và chức năng của nó với tư cách là nơi thu nhận, tồn trữ và truyền đạt lưu chất sinh lực của thái dương hệ. .......
.... Nhà huyền linh học chân chính là một nhà khoa học và một người sùng tín, và nơi nào mà 2 điều này không được phối hợp nhau, chúng ta có nhà thần bí học (the mystic), và con người có nguy cơ thiên về hắc đạo (black magic), bị chi phối bởi trí năng (intellect) chứ không phải bởi lòng vị tha; cũng có nhiều nguy hiểm gắn liền vào cách tiếp xúc với sự tiến hóa thiên thần, và sự hiểu biết về các quyền năng và sức mạnh hiện có qua lực gây tác dụng của chúng. Việc tiến vào luân hồi của nhiều thuật sĩ và các nhà huyền linh học thời cổ, và do đó có sự tăng lên nhanh chóng các huyền năng tâm thông đã được nhận ra trong con người. Tâm thông thuật (psychism) được nhuốm màu bằng trí lực chớ không phải bằng tính chất thuần túy cảm dục, thậm chí còn nguy hiểm hơn là thời Atlantis, vì mặt sau của thuật đó sẽ thuộc về một trình độ ý chí, mục tiêu hữu thức, và sự lĩnh hội trí tuệ nào đó, và trừ phi điều này được diễn ra song song bởi sự tăng trưởng của nhận thức tinh thần và bởi sự nắm giữ chắc chắn của Chân ngã đối với phàm ngã, một giai đoạn thực sự nguy hiểm có thể xảy ra sau đó. Do đó cần nêu ra và cần nhận thức mối đe dọa, sao cho sự thật về cuộc sống nội tâm và nhu cầu phụng sự nhân loại như là một điều thiết yếu để có thể tiến xa hơn. (Luận về lửa càn khôn, Tr 454)
+ Quả tim dĩ thái (Etheric heart): Như bạn đã biết, đạo sinh thường được dạy là nên hình dung ra chính mình và Chân Sư – có kích thước vào khoảng ¼ inche (0.635 cm) – trong chu vi của quả tim dĩ thái. Y được dạy rằng, vào cuối buổi thiền, hãy hình dung ra trái tim bằng chất dĩ thái, trong đó y tạo ra các hình nhỏ của Chân Sư, tức là Đấng mà y được thu hút tới, và hình của chính y. Hằng ngày, đạo sinh tiếp tục hình dung ra các hình này với sự chăm chú công phu và thật đúng, với sự trợ giúp của trí tưởng tượng và cố gắng trìu mến (loving effort), cho đến khi chúng trở nên rất thực đối với y, và việc tạo hình này hầu như trở thành tự động trong cách hành thiền của y. Để rồi đến một ngày (thường thường khi các điều kiện thiên văn trở nên thích hợp và đến kỳ trăng tròn), y biết được từ trong trí rằng các hình ảnh này không phải là các búp bê nhỏ bé như y tưởng nữa, mà là y đang ở trong hình ảnh tượng trưng cho chính y và theo nghĩa đen đích thực là y đang đứng trước Chân Sư. Lúc đầu, việc này ít khi xảy ra và ý thức về sự kiện này được duy trì chỉ trong vài giây ngắn ngủi; khi đạo sinh tiến hóa hơn và khi mỗi cơ cấu (deparment) trong bản thể y (his nature) và việc phụng sự của y tăng thêm, thì kinh nghiệm này sẽ xảy đến thường hơn, kéo dài hơn cho đến một lúc mà đạo sinh có thể liên kết dễ dàng với Sư Phụ của mình theo cách này, giống như trước kia, y đã tạo ra các hình ảnh vậy.
+ Cung Thể xác – Dĩ thái: Hoặc cung 3 hoặc cung 7
Hãy nhìn vào cơ thể của bạn. Có phải nó có cơ bắp, mạnh mẽ hay chắc nịch, rất năng động và bận rộn (3) hoặc mảnh khảnh hơn (7)? Duyên dáng khi di chuyển và nhảy múa (7), hoặc cường tráng hơn và lực lưỡng, có lẽ cùng với việc không khéo sắp xếp thời gian (3)? Cơ thể có thể được thúc đẩy làm việc nhiều giờ mà không cần ăn, có thể ngủ bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào (3), hay nó cần những bữa ăn đều đặn, và hoạt động tốt hơn với trình tự, nghi lễ (7)? (Trích từ năng lượng 7 cung - Khóa học GQ/ MF)
+ Tóm lược Sách: Viễn Cảm và Thể Dĩ Thái - Telepathy and the Etheric Vehicle (VCVTDT/ TEV)
+ Chất liệu:
+ Là năng lượng (energy). (ĐĐTKNM–II, 437)
+ Là mãnh lực (force). (LVHLT, 565)
+ Chất liệu vũ trụ = Dĩ thái: Theo chuyên môn và huyền bí, thực ra chất liệu là chất dĩ thái vũ trụ (cosmic etheric matter) hay là chất tạo thành bốn cõi cao trong số 7 cõi (planes) của chúng ta. (VCVTDT, 189)
+ Chất liệu là chất dĩ thái (ether) thuộc một trong nhiều thứ bậc của dĩ thái và là những gì ẩn sau chính vật chất (matter). (TTCNT, 37)
+ Thực tướng của sự vật (things–in–themselves) tức là chất liệu. (GLBN II, 43)
+ Vật chất và chất liệu (Matter and Substance): Để cho thật chính xác, để cho khỏi lẫn lộn và quan niệm lầm lạc (misconception), nên dùng thuật ngữ:
* “Vật chất” (“Matter) để chỉ tập hợp các vật (objects) có thể tri giác được, còn thuật ngữ
* “Chất liệu” (Substance”) để chỉ Thực Tướng (Noumena). (GLBN II, 42)
+ Tiên thiên khí: Chất liệu nguyên thủy (Primordial Substance, Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí) còn được gọi là Chất liệu Vũ trụ, tức Vật chất (Matter).
- Vật chất, tức là Đầu (Alpha) và Cuối (Omega) của Hiện Tồn, chỉ là 2 phương diện (facets) của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất (the one Absolute Existence). (GLBN II, 39)
+ Phân hóa Vật chất: Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ Akasha: Tinh tú quang (Vật chất nguyên thuỷ) hay Linh hồn vũ trụ; cái Khuôn của vũ trụ; Bí Nhiệm Huyền Linh từ đó mọi vật vốn hiện tồn được sinh ra do sự phân ly hay biến phân. (LVLCK, 58) (Xem phân biệt: Tinh tú quang và Cảm dục quang)
+ Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ Đại: Phong, Hỏa, Thủy, Địa. (LVLCK, 43)
+ Với Nội Tại - Cung nguyên thủy biểu lộ ra Lửa hoạt nhiệt. Trên cõi cao nhất, sự phối hợp của 3 yếu tố (hoạt nhiệt, tiềm nhiệt và chất liệu nguyên thuỷ mà chúng làm cho linh động) được biết dưới dạng thức ‘biển lửa’, trong đó Tiên thiên khí là biến phân thứ nhất của vật chất tiền căn nguyên. (LVLCK, 57)
+ Dĩ Thái: Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Tiên Thiên Khí (Akasha). (GLBN I, 78)
+ DĨ THÁI KHÔNG GIAN - NƯỚC CỦA KHÔNG GIAN - Ether. Chúng ta đã tạo ra một thuật ngữ mà chúng ta gọi là dĩ thái (ether). Nói theo huyền linh học, đây là cách hiện đại để diễn đạt “nước của không gian” (“waters of space”), vốn là khối nước của ham muốn (waters of desire), mà chúng ta bị chìm ngập trong đó. Nó lên xuống liên tục và là luồng sự sống, được tạo thành với 49 loại năng lượng, đang tuôn đổ qua hoa sen chân ngã vũ trụ, và (tỏa ra từ nó) cung cấp theo mức độ của nó để nuôi dưỡng hình tướng – thuộc thái dương, thuộc hành tinh, hoặc thuộc con người − mà nó chịu trách nhiệm. Điều này được bàn đến trong bộ sách “Luận Về Lửa Càn Khôn”. (LVHLT, 275)
+ Dĩ thái: Trong và qua Dĩ thái của không gian, các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Thể dĩ thái của hành tinh, thái dương hệ và 7 thái dương hệ (Có thái dương hệ chúng ta)... cung cấp môi trường truyền chuyển cho tất cả các năng lượng đang tác động trên và qua thái dương hệ .... Nó chuyển động liên miên không dứt- một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng.
* Dĩ thái không gian, Dĩ thái hành tinh, Dĩ thái trong con người ........ mời xem tại (CTHNM, 16)
+ Chất dĩ thái sẽ hoàn toàn thấy được đối với nhiều người vào cuối thế kỷ (XX-ND) này (LVHLT, 374)
+ Có 4 loại chất dĩ thái của các cõi phụ của Cõi trần (Cõi Hồng Trần Vũ Trụ Biểu Lộ này là 01 biến phân của Cõi Bảy - Cõi Hồng Trần Vũ Trụ, là Cõi thấp nhất của Bảy Cõi Vũ Trụ Hệ thống/ Gốc) (LVLCK, 320, 326):
a. Cõi phụ 1 - Cõi trần (cõi phụ cao nhất) chứa chất dĩ thái thứ 1.
b. Cõi phụ 2 - Cõi trần, chất dĩ thái 2, ánh sáng cõi trần sử dụng làm phương tiện truyền đi.
c. Âm thanh tác động qua Cõi phụ 3 - Chất dĩ thái 3.
d. Màu sắc có liên kết với Cõi phụ 4 - Chất dĩ thái 4. (Dĩ thái 4 là chất mà nhờ đó, đa số thể dĩ thái của con người được tạo thành)
+ Dĩ thái lực tức là sinh lực. (TLHNM II, 309)
+ Huyền linh học nhìn nhận có 7 Bản Tố Vũ Trụ, 4 hoàn toàn thuộc về vật chất, bản tố thứ 5, Dĩ Thái, bán vật chất, sẽ trở nên thấy được trong không khí vào cuối Cuộc Tuần Hoàn thứ 4. (GLBN I, 78)
+ Khoa học khám phá Dĩ thái: Còn Vật lý học với các khám phá về quark đã bước vào cõi phụ dĩ thái (etheric) của cõi trần. Trong tương lai, nếu khoa học có thể khám phá ra cách làm việc với các cõi phụ dĩ thái theo cách như hiện nay đang làm việc với thế giới vật lý (ba cõi phụ 5,6,7) thì có lẽ đó là một trong những tiến bộ vĩ đại nhất.
+ Dĩ thái/ Akasha là Prdhna dưới một dạng khác. (GLBN I, 300)
+ Dĩ thái: Là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) trên cõi sự sống Chân Thần, cõi Đại Niết Bàn.
+ Dĩ thái/ Akasha là dĩ thái vũ trụ thứ 2 ở cõi Chân Thần (Cõi Đại Niết Bàn). (LVLCK, 626)
* Xem thêm: Dĩ thái - Tiên thiên khí - Akasha. nhantrachoc
* Xem thêm: Điểm 6 - Quy Luật 5 - CT Con Người 13- Thể Hồng Trần- minhtrietmoi.org
+ Vật chất và chất liệu (Matter and Substance): Để cho thật chính xác, để cho khỏi lẫn lộn và quan niệm lầm lạc (misconception), nên dùng thuật ngữ:
* “Vật chất” (“Matter) để chỉ tập hợp các vật (objects) có thể tri giác được, còn thuật ngữ
* “Chất liệu” (Substance”) để chỉ Thực Tướng (Noumena). (GLBN II, 42)
+ Tiên thiên khí: Chất liệu nguyên thủy (Primordial Substance, Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí) còn được gọi là Chất liệu Vũ trụ, tức Vật chất (Matter).
- Vật chất, tức là Đầu (Alpha) và Cuối (Omega) của Hiện Tồn, chỉ là 2 phương diện (facets) của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất (the one Absolute Existence). (GLBN II, 39)
+ Vật chất (matter hay material): Vật chất là tinh thần (spirit) ở mức độ biểu hiện (point of expression) thấp nhất. (CTNM, 589)
+ Nói về mặt nội môn, từ ngữ “vật chất” được dành để chỉ mọi hình tướng (forms) trong ba cõi thấp. (CVVTDT, 189)
+ Nên nhớ rằng, đối với nhà huyền linh học (occultist), vật chất (matter) là toàn thể các vật tồn tại (totality of existence) trong vũ trụ vốn có thể tri giác được trên bất luận cõi giới nào. (GLBN II, 238)
+ Vật Chất Biểu Lộ (substance):
- Chưa biến phân là Mulaprakriti. [Vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và Khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba/ Ngôi ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất_TCF/ LVLVT, 118]
- Đã biểu lộ là Prakriti. (Thư của Chân Sư 379)
+ Prakriti (Vật chất): Danh xưng này có nguồn gốc do chức năng của nó như là nguyên nhân thuộc vật chất (material cause) của cuộc tiến hóa đầu tiên của vũ trụ. Có thể nói nó được cấu tạo bằng 2 ngữ căn: “pra” là biểu hiện (to manifest) và “krita” là khiến cho (make); có nghĩa là những gì khiến cho vũ trụ tự biểu hiện. (ĐĐTNLVTD, 222)
- Prakriti (vật chất) bao giờ cũng bị gọi là Hão Huyền (My), Ảo tưởng (Illusion) và có số phận chịu diệt vong (is doomed to disappear) với mọi cái khác, kể cả các thần (the Gods) vào Chu Kỳ Quy Nguyên (Pralaya). (GLBN I, 299)
+ Tiên thiên khí (Akasha) (LVLCK, 43):
- Là tổng hợp của dĩ thái (ether).
- Là Nguyên thể (tính chất) của dĩ thái.
- Là dĩ thái nguyên thủy.
- Là Thượng Đế Ngôi 3 đang biểu hiện.
+ Akasha: Còn có 8 danh xưng khác.
7) Mulaprakriti (Vật chất chưa biến phân) ..... Dĩ thái với 4 tiểu phân: là Phong, hoả, thuỷ, địa
8) Vật chất tiền căn nguyên (LVLCK, 58)
+ Dĩ Thái: Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Tiên Thiên Khí (Akasha). (GLBN I, 78)
+ Dĩ thái lực tức là sinh lực. (TLHNM II, 309)
+ Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ Đại: Phong, Hỏa, Thủy, Địa. (LVLCK, 43)
+ Hậu Thiên Khí: Aether - Hậu Thiên Khí.
+ Hậu thiên khí: Là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) trên cõi Tinh thần, tức cõi Niết Bàn. - Là dĩ thái cõi thứ 3 của vũ trụ. (LVLCK, 43, 626)
- Thái dương hệ hiện tại sẽ chứng kiến sự vượt trội 3 cõi hồng trần vũ trụ kế tiếp, chất hậu thiên khí cõi thứ tư, thứ ba và thứ hai cùng sự phối kết của thể dĩ thái vũ trụ (LVLCK, 157)
+ Hậu thiên khí: Là không khí, lửa, nước, điện, dĩ thái, sinh khí và các tên gọi đại loại như vậy. (Với lửa hoạt nhiệt. Trên cõi cao nhất, sự phối hợp của 3 yếu tố (hoạt nhiệt, tiềm nhiệt và chất liệu nguyên thuỷ mà chúng làm cho linh động) được biết dưới dạng thức ‘biển lửa’, trong đó Tiên thiên khí (Akasha) là biến phân thứ nhất của vật chất tiền căn nguyên. Trong lúc biểu lộ, Akasha tự biểu hiện ra dưới hình thức Fohat hay năng lượng thiêng liêng và Fohat trên các cõi khác nhau được biết như là Hậu thiên khí) (LVLCK, 57)
+ Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và Khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba/ Ngôi ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ Cõi Vật Chất: Tập hợp các cõi vật chất, tức là cõi hồng trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí (lower mental plane); (GLTNVT, 104)
* Xem thêm: Dĩ Thái - Các đại - Nước của không gian - Tiên Thiên Khí - Akasha - Tinh tú quang - Biển lửa - Điện năng.
+ Chất liệu Nguyên thủy là Akasha, Hiện Thể của Tư Tưởng Thiêng liêng (the Updhi of Divine Thought). Chất liệu Nguyên thủy được gọi là Chất liệu Vũ trụ (Cosmic Substance), tức là Vật chất (Matter). (GLBN II, 39)
+ Chất liệu nguyên thủy: Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí, là Chất liệu Vũ trụ tức Vật chất. Vật chất, tức là Đầu và Cuối của hiện tồn, chỉ là 2 phương diện của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất. (GLBN II, 39)
+ Akasha có các từ đồng nghĩa - Cùng danh xưng: Chất liệu nguyên thủy - Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí, là Chất liệu Vũ trụ tức Vật chất. Vật chất, tức là Đầu và Cuối của hiện tồn, chỉ là 2 phương diện của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất. (GLBN II, 39)
+ Akasha - Tiên thiên khí [8 danh xưng khác]:
1) Vật chất nguyên thuỷ ....Tinh tú quang
2) Dĩ thái nguyên thuỷ ..... Biển lửa
3) TT N.Thuỷ mang điện ... Điện năng
4) Akasha .................... Prakriti
5) Siêu tinh quang .......... Vật chất Nguyên Tử
6) Hoả xà ...................... Tà xà
7) Mulaprakriti ..... Dĩ thái với 4 tiểu phân: là Phong, hoả, thuỷ, địa
8) Vật chất tiền căn nguyên (LVLCK, 58)
+ Tiên thiên khí - Akasha (LVLCK, 43):
- Là tổng hợp của dĩ thái (ether).
- Là Nguyên thể (tính chất) của dĩ thái.
- Là dĩ thái nguyên thủy.
- Là Thượng Đế Ngôi 3 đang biểu hiện.
+ Định nghĩa Akasha: Tinh tú quang - Akasha (Vật chất nguyên thuỷ) hay Linh hồn vũ trụ; cái Khuôn của vũ trụ; Bí Nhiệm Huyền Linh từ đó mọi vật vốn hiện tồn được sinh ra do sự phân ly hay biến phân. (LVLCK, 58) (Xem phân biệt: Tinh tú quang và Cảm dục quang)
+ Vật chất vũ trụ: Vốn là akasa [Tiên thiên khí], tức môi trường nguyên thủy (primeval), không phải là môi trường dễ uốn nắn thứ hai (secondary plastic medium), tức là chất Ether mà Khoa Học phỏng đoán/ nghi ngờ (suspected) theo bản năng mà không chứng minh phần còn lại. (Thư của Ch. S, 63)
+ Vật chất vũ trụ: Vốn là akasa [Tiên thiên khí], tức môi trường nguyên thủy (primeval), không phải là môi trường dễ uốn nắn thứ hai (secondary plastic medium), tức là chất Ether mà Khoa Học phỏng đoán/ nghi ngờ (suspected) theo bản năng mà không chứng minh phần còn lại. (Thư của Ch. S, 63)
+ Nguyên tố vũ trụ: Khoa học huyền bí (occult Science) nhìn nhận rằng có bảy bản tố vũ trụ (7 cosmic elements), bốn cái hoàn toàn vật chất, còn cái thứ năm, dĩ thái (ether) thì bán vật chất (semi– material). Vào cuối cuộc tuần hoàn thứ tư của chúng ta, chất dĩ thái sẽ trở nên hữu hình trong không khí, để ngự trị trên các chất khác trong suốt cuộc tuần hoàn thứ năm. Hai bản tố còn lại cho đến nay vẫn còn hoàn toàn ngoài tầm nhận thức của con người. Tuy nhiên, chúng sẽ xuất hiện trong giống dân thứ sáu và thứ bảy của cuộc tuần hoàn này và sẽ trở nên được biết tới lần lượt trong cuộc tuần hoàn thứ sáu và thứ bảy. Bảy bản tố này cùng với vô số các bản tố phụ (sub–elements), nhiều hơn số mà khoa học biết được, chỉ là các biến thể phụ thuộc (conditional modifications) và các trạng thái phụ của cái Duy Nhất (the One) và bản tố duy nhất (Only Element). Bản tố duy nhất này không phải là Dĩ Thái, cũng không phải là Akasha mà là cội nguồn (source) của cả hai. Bản tố thứ năm này (hiện nay được khoa học sẵn sàng nhìn nhận) không phải là chất Dĩ Thái theo giả tưởng của Sir Isaac Newton – mặc dù ông này dùng danh xưng dĩ thái để gọi bản tố đó, có lẽ là lúc ấy ở trong trí ông liên kết bản tố Ether với Aether, “Phụ Mẫu” của thời xưa. Do trực giác mà Newton nói: “Thiên nhiên là tay tạo tác liên hoàn (perpetual circulatory Worker) tạo ra chất lỏng từ chất đặc, chất đặc từ chất hơi, chất hơi từ chất đặc, chất tinh anh từ chất thô trược, chất thô trược từ chất tinh anh… Như vậy, có lẽ mọi vật đều có nguồn gốc từ Ether”. (GLBN I, 78–79)
+ Chất liệu tuyệt đối/ vật chất tuyệt đối có nghĩa là điểm ngưng hoạt động (point of cessation of action) của nguyên khí hoạt động (active principle). (Thư của Ch.S. 64)
+ Cõi giới: Toàn bộ tiến trình này liên quan đến sự thâm nhập của bảy cung kết hợp thông qua tất cả những trạng thái của tâm thức như được chỉ ra bởi bảy cõi vật chất. Khái niệm “cõi giới” liên hệ với ý tưởng về vật chất hay chất liệu gần như là không thể thay đổi được. Điều này về cơ bản là đúng, nhưng sự nhấn mạnh phải dựa trên phương diện tâm thức bởi vì chính tâm thức thông tin cho vật chất. Hiệu ứng xâm nhập mà chúng ta đang làm việc với nó là dựa trên nhiều dạng tâm thức khác nhau biểu đạt bản thân chúng thông qua bảy dạng vật chất. Những năng lượng kết hợp thông qua trung gian giai đoạn ý thức hữu thức này sang giai đoạn ý thức hữu thức khác; dù vậy, chúng chỉ tác động đến những hình thể của sự sống phản ứng một cách bản năng với tác động của chúng. (NĐTTKNM/ DINA II 427)
+ Đời sống ở cõi giới xám sau khi chết là do sự vướng mắc của thể tình cảm và thể sinh lực. Nhiều người không có đức tin rõ rệt nào vào sự sống bên kia cửa tử, tuy thế họ lại khao khát muốn tiếp tục sự sống. Họ thường nói một cách mơ hồ với bạn rằng họ tin có trạng thái hậu tử (an after–state), nhưng rốt lại họ rất nghi ngờ. Vì không có sự sống nào trừ sự sống hồng trần là có ý nghĩa đối với họ, họ liều lĩnh bám chặt vào xác thân đến mức mà sau khi chết, chất dĩ thái không thể rút hết ra khỏi chất hồng trần trọng trược (dense physical matter) như các trường hợp thông thường. Bấy giờ, một lúc lâu sau khi chết, con người vẫn còn ở tình trạng không phải là cõi trần, mà cũng không phải là cõi sau khi chết. Người ấy còn giữ lại một số lớn chất dĩ thái (etheric matter), chất này ngăn không cho y vận dụng các giác quan thuộc thể cảm dục (astral senses) một cách trọn vẹn đầy đủ, cho nên y không thể chuyển qua cõi cảm dục theo ý muốn, mặt khác, y không thể ở lại cõi trần vì y đã mất liên lạc với cõi ấy mặc dù vẫn còn một số chất dĩ thái ở lại quanh y. Thế là y bị treo trong cái đôi khi được gọi là cõi giới xám. Trong tình trạng này, y chỉ có đôi chút ấn tượng của mỗi cõi, nhưng y ở trong tình trạng rất không ổn định, luôn luôn tranh chấp để có được cuộc sống đầy đủ ở nơi này hoặc nơi kia. Mọi điều đó đều có thể rời khỏi y trong thoáng chốc nếu y chịu buông ra, nhưng thường thường phải mất một thời gian dài trước khi y có thể làm được thế. (GLASTĐĐ, 389)
+ Định luật về Chất Liệu (Law of Substance): Định luật này đặt vị đệ tử vào vị thế sử dụng kho dự trữ của vũ trụ một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất (matter) và làm cho nó hợp với các lực tương tác của cung và cầu. (TVTTHL, 204)
+ Vật chất vi tử (atomic matter, tattva): X. Yếu tố.
+ Vi tử thường tồn hạ trí (Mental unit): Vi tử thường tồn hạ trí cũng ở trên cõi trí. (ĐNLVTD, 222)
+ Vi tử thường tồn hạ trí chỉ có 4 vòng xoắn ốc (spirillae, loa tuyến); (LVLCK, 775)
+ Vi tử thường tồn Bồ Đề (Buddhic permanent atom): Vi tử thường tồn Bồ Đề tức là hiện thể trực giác của vị đệ tử tiến hóa. (ĐĐTKNM, 764)
+ Vi tử thường tồn cảm dục (Astral permanent atom): Vi tử thường tồn cảm dục ở trong hoa sen Chân Ngã. (ĐĐTKNM, 764)
+ Vi tử thường tồn Niết Bàn (Atmic permanent atom): Tức là điểm tập trung của ý chí tinh thần, trạng thái thứ nhất của Tam Thượng Thể Tinh thần. (ĐĐTKNM, 756)
+ Vi tử thường tồn thượng trí: Trạng thái thấp nhất của Tam Thượng Thể Tinh thần hay của linh hồn. (ASCLH, 14)
+ Vi tử nguyên hình (archetypal atom): Vi tử hồng trần (physical atom) chứa trong chu vi của nó 14 ngàn triệu (14.109) vi tử nguyên hình, tuy nhiên, vô số các vi tử này biểu lộ như là một. (LVLCK, 246)
+ Vi tử thường tồn hồng trần (Physical permanent atom): Nằm trong hoa sen Chân Ngã. Ở trên cảnh giới dĩ thái. (CTHNM, 303)
+ Vi tử thường tồn hồng trần (Physical permanent atom): Nằm trong hoa sen Chân Ngã. Ở trên cảnh giới dĩ thái. (CTHNM, 303)
+ Vi tử nguyên hình (archetypal atom): Vi tử hồng trần (physical atom) chứa trong chu vi của nó 14 ngàn triệu (14.109) vi tử nguyên hình, tuy nhiên, vô số các vi tử này biểu lộ như là một. (LVLCK, 246)
+ Vi tử thường tồn, công dụng (The use of the permanent atoms): Công dụng của các vi tử thường tồn là để bảo tồn trong chính chúng - dưới hình thức khả năng rung động (vibratory powers) - các kết quả của tất cả mọi kinh nghiệm mà chúng đã trải qua. (KCVTT, 75)
+ Chứng quả vị A La Hán thành tựu các Pháp
(X) (170) Gắn Liền Cột Chặt
1. Một thời, Tôn giả Ananda sống ở Kosàmbi, tại khu vườn Ghosita. Tại đấy, Tôn giả Ananda gọi các Tỷ-kheo:
- Thưa các Hiền giả Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả. Tôn giả Ananda nói như sau:
1. Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này. Thế nào là bốn?
2. Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập quán có chỉ đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
3. Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu tập chỉ có quán đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
4. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
5. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo với các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn.
Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt. Này chư Hiền, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này. (Nguồn: Phẩm đạo hạnh - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Các quả vị A La Hán của Hàng Thanh văn tu:
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Trong Kinh Kim Cang đức Phật thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v... Chẳng biết thế nào là bốn câu kệ?
Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.
Tại sao? Chúng sanh thường mê không giác ngộ cho nên nhiều kiếp đọa lạc. Chư Phật thường giác ngộ chẳng mê cho nên thành Phật đạo. Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật, công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ: là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh.
Tại sao?
Nếu ngộ đặng Sắc không, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Dự lưu Tu đà hoàn;
Ngộ đặng Tâm không, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Nhứt lai Tư đà hàm;
Ngộ đặng Tánh không, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất lai A na hàm;
Ngộ đặng Pháp không, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Vô sanh A la hán.
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Quả vị A La Hán của Hàng Thăn văn: Gồm hai loại hữu lậu và vô lậu học
+ Hàng Hữu lậu: Trích Đức Phật giảng cho ngài A Nan trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật trả lời: Cũng là giúp cho hàng hữu lậu trong tương lai chứng được quả vị bồ-đề.
HT Tuyên Hóa giảng:
“Hàng hữu lậu trong tương lai” bao gồm cả chúng ta, những người đang ngồi học trong pháp hội nầy. Chúng ta bây giờ chính là “Hàng hữu lậu trong tương lai” được đề cập lúc ấy. Ai cũng phải trải qua quá trình “hữu lậu” trước khi được công nhận là chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán. “Hữu lậu” có nghĩa là những điều sai lầm. Chẳng hạn, nếu có ai thích uống rượu, người ấy được gọi là tửu lậu, nếu có ai thích hút thuốc, người ấy được gọi là yên lậu, nếu có ai thích ăn ngon, người ấy được gọi là thực lậu, nếu có ai thích mặc đẹp, người ấy được gọi là y lậu. Nếu những ví dụ nầy chưa được rõ ràng, tôi sẽ nói theo cách khác. Nói chung, bất luận quý vị thích cái gì nhất thì đó gọi là lậu.
Quý vị sẽ có ý kiến: “Tôi thích ngồi thiền nhất, nên được gọi là thiền lậu chăng?”
Điều ấy khác hẳn. Thiền định giúp quý vị hướng thượng. Khi tôi nói đến cái gì quý vị thích nhất, đó là những thứ gì làm quý vị chìm đắm. Nếu quý vị thích những thứ khiến mình bị chìm đắm, thì đó gọi là lậu.
Hữu lậu không chỉ có nghĩa là những việc quý vị đã làm trong quá khứ. Nếu có một vọng niệm cứ khuấy động trong tâm, quý vị nghĩ rằng “ta vốn đã có sai lầm như vậy, nay ta đã thay đổi, nhưng ta vẫn nghĩ về nó và muốn tái phạm lại.” Đó là một ý tưởng hữu lậu. Nên nó thật là mãnh liệt. Lúc ấy quý vị chỉ biết để mặc cho vọng niệm khuấy động tâm mình, và quý vị sẽ bị chìm đắm. Còn nếu tâm quý vị bất động, thì quý vị sẽ được thăng hoa.
Quả vị thứ nhất, thứ hai, và thứ ba của hàng A-la-hán chưa được gọi là vô lậu, khi chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán rồi mới được gọi là vô lậu.
Làm sao để chứng được quả vị bồ-đề? Quý vị cần phải đạt được vô lậu. Nếu quý vị còn hữu lậu, thì không thể nào mong chứng được quả vị bồ-đề. Quý vị có muốn thử chẳng? Quý vị đã là kẻ hữu lậu vì quý vị đã thử từ vô thuỷ đến nay rồi. Thế nên đừng tiếp tục mê mờ nữa. Đừng hành xử như thể chưa từng bao giờ nghe tôi giảng, rồi cho rằng: “Có lẽ Sư phụ chẳng đề cập đến sai trái của mình. Ở đây có rất nhiều người nên chắc chắn sư phụ nói về một người nào đó. Lỗi lầm nhỏ nhặt của mình đâu có vấn đề gì nghiêm trọng. Ta còn yêu thích thói quen ấy và chưa muốn từ bỏ nó. Sao vậy? Vì sư phụ chưa đề cập đến mình. Có lẽ sư phụ nói đến người nào khác. "Nhưng quý vị không nên tự mình làm trò ngu xuẩn, vì quý vị sẽ đánh mất cơ hội thành Phật. Từ vô thuỷ đến nay, quý vị đã trôi lăn sinh tử trong cõi ta-bà nầy, sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, lang thang mãi không thấy lối quay về. Thật là điên đảo. Nay quý vị đã gặp được Phật pháp, quý vị nên nhanh chóng quay đầu, dũng mãnh và tinh tấn thức tỉnh. Đừng tiếp tục rong ruổi lang thang mà quên đường về. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Quả vị A La Hán của Hàng Thanh văn tu hành Phật đạo
Nay xin giới thiệu tóm tắt các pháp của ba thừa để quý vị mới tu học tham khảo.
I. Pháp Tứ đế của hàng La-hán.
Thanh văn, hai chữ này nghĩa là nghe lời thuyết giảng của Ðức Thích-ca về pháp Tứ đế mà ngộ đạo (thanh là thanh âm, văn là nghe). Thanh văn hay quả A-la-hán, gồm bốn quả vị.
1. Thứ nhất là sơ quả a-la-hán, quả này đã đoạn trừ kiến hoặc của tam giới, nhập vào "giòng pháp tánh của thánh nhân, nghịch với giòng lục trần của phàm phu;" quả này còn phải chịu bẩy lần sanh tử nữa.
2. Quả thứ nhì a-la-hán thì đã đoạn trừ kiến hoặc của tam giới, cũng đoạn trừ luôn sáu phẩm đầu về tư hoặc của tam giới. Quả này phải chịu hai lần sanh tử nữa, một lần sanh ở tầng trời, một lần ở thế gian.
3. Quả thứ ba a-la-hán thì đoạn trừ được ba phẩm sau về tư hoặc của dục giới, và hãy còn một lần sanh tử nữa, nhưng không sanh vào tầng dục giới mà sanh vào các tầng sắc giới hay vô sắc giới.
4. Quả thứ tư a-la-hán thì đoạn trừ hết tám mươi mốt phẩm tư hoặc của tam giới, không còn bị sanh tử nữa; nói cho đúng là không bị phân đoạn sanh tử, nhưng vẫn còn trong biến dịch sanh tử.
Hàng Thanh văn tuy gọi là ngộ đạo, nhưng ngộ đạo cũng có loại nông sâu khác nhau, có loại rốt ráo có loại không rốt ráo, nghĩa là trình độ không đồng đều. Pháp tu của hàng Thanh văn là khổ, tập, diệt, đạo. Quán về khổ thì hết thảy là khổ. Khổ chia ra tam khổ và bát khổ. Pháp tu của họ là đoạn tập, mộ diệt, tu đạo (đoạn tập khí, mến mộ Niết-bàn và tu đạo). Ba yếu tố này liên quan mật thiết với nhau, như khổ thì sanh ra phiền não và có phiền não thì phải đoạn trừ. Ðoạn trừ như thế nào? Phải đoạn trừ kiến hoặc, tư hoặc và các phiền não lâu nay tích tụ lại. Phải hâm mộ pháp Niết-bàn, tức bốn tánh của nó là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (Niết-bàn tứ đức). Từ bến sanh tử qua giòng phiền não để đến bờ bên kia, là cả một quá trình tu tập ba mươi bẩy phẩm đạo mới thành công được. Trong các pháp này có bát chánh đạo.
Những pháp này chung cho cả Ðại Tiểu thừa. (Nguồn: Khai thị 4 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hiểu về Kim luân - Tu bất thoái chuyển: HỎI: Tại sao chúng con có nhiều vọng tưởng quá vậy. Tại sao tu pháp nào chúng con cũng không có tâm nhẫn nại, cũng không có tâm hằng thường, cũng không có tâm thành khẩn và tâm kiên cố?
ĐÁP: Đó là vì chưa hiểu rõ “Kim Luân”. Bây giờ chúng ta biết được tật bệnh của mình ở đâu rồi thì không nên lơ là và xem thường nó nữa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị - Q.3);
* Kim luân: Xem để hiểu rõ "Bệnh chưa hiểu rõ "Kim luân" nghĩa là người tu nên hành Bồ tát đạo, phát Bồ đề Tâm, phát nguyện tu hành tinh tấn, dũng mãnh, bền bỉ, kiên cố .... cho đến thành tựu Ấn pháp Bất thối Kim luân Thủ (Xem Tooltip: Kim luân)
+ Bất thối chuyển - Bất thoái chuyển: Đắc "Bất thoái chuyển" thì quý vị thuộc vào địa vị Thánh Nhân.... Có ba loại Bất Thoái:
1. Thứ nhất là Vị Bất Thoái, tức là địa vị chẳng bị lui sụt - Chính là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. Ngài học lớp Một, chẳng bị lùi xuống nữa.
Đức Phật bảo chúng ta: Đoạn sạch 88 phẩm Kiến Hoặc là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. Tuy vẫn chưa thoát khỏi tam giới, quyết định chẳng đọa ác đạo. Từ đấy trở đi, vị Bồ Tát ấy chỉ có tiến lên, chẳng lui sụt, đã được bảo đảm.
Sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới dẫu là Hạ Hạ phẩm phàm phu cũng thuộc địa vị Bất Thoái..... tức là địa vị không bị lui sụt.
2. Thứ hai là Hạnh Bất Thoái: Là từ A La Hán trở lên, Tứ Quả La Hán, trong địa vị Bồ Tát thì là Đệ Thất Tín. Vị Bất Thoái là Sơ Tín, Hạnh Bất Thoái là Đệ Thất Tín, bằng với địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo.
3. Loại thứ ba là Niệm Bất Thoái: Minh tâm kiến tánh, trong Viên Giáo là từ Sơ Trụ Bồ Tát trở lên.
Người Hạ Phẩm Hạ Sanh là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái, nói cách khác, trong một đời có thể bằng với Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, quả thật tuyệt diệu ! So với A La Hán và Bích Chi Phật, cao hơn quá nhiều!
A La Hán, Bích Chi Phật chỉ bằng với Đệ Thất Tín Bồ Tát. Bằng là nói về mức độ đoạn phiền não giống nhau, chứ trí huệ khác nhau. Trí huệ của họ (A La Hán, Bích Chi Phật) kém xa trí huệ của Thất Tín Bồ Tát.
Do vậy, sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới là thành tựu !.... (Nguồn: Sanh Tây Phương - Thành tựu viên mãn ...PS Tịnh Không)
+ Tâm Bồ Đề Kiên Cố: Nếu bỏ mất tâm Bồ đề mà mong ngày thành đạo thì không khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việc ma vậy”.
Về bất thối chuyển, có ba dạng:
- Thứ nhất là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A la hán tồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa, Nếu hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn rơi lại hàng A la hán nữa. Nếu hành giả đã chứng đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi muốn hiện thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn toàn đúng.
- Thứ hai là niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma vương rất vui khi người tu hành khởi niệm lui sụt.
Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.
Niệm bất thối là tâm lượng của hành giả không còn bị trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”, không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn luôn đi với hạnh bất thối.
- Thứ ba là hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối. Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không thể nghĩ bàn.
Đứng trên nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn ấn pháp (Tay Ấn số 38 trong 42 Tay Ấn của Chú Đại Bi), thì từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành trì! (Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi, câu chú số 46. Bồ đề dạ - Bồ đề dạ)
+ Xem thêm Tooltip (Muốn Giác đạo cần Giác tâm trước): Tu Tâm Kim cang kiên cố
+ Chứng Sơ quả A La Hán - Trí tuệ chân chính: Trích ... Khi quý vị chứng được sơ quả a-la-hán, đoạn diệt được tám mươi tám món kiến hoặc thì sẽ có được trí tuệ chân chính. Lúc ấy quý vị có thể thấy được các niệm vô minh sinh khởi phiền não trong mình cũng nhiều như cát sông Hằng. Mặt trời trí tuệ chiếu soi vào khách trần phiền não. Trí tuệ chân chính ví như ánh sáng mặt trời chiếu qua khe cửa. Hang động âm u của vô minh sẽ được chiếu sáng, lúc ấy quý vị sẽ nhận ra khách trần phiền não, và quý vị sẽ được giác ngộ.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần chánh văn_Mục 118)
+ Chứng Quả Tu Đà Hoàn:
Đức Phật bảo A-nan, “Nay ông đã chứng quả Tu-đà-hoàn. Đã diệt trừ được kiến hoặc[7] của chúng sinh và thế gian trong tam giới. Nhưng do chưa biết rõ những tập khí hư vọng chứa nhóm trong căn từ vô thủy. Các tập khí ấy phải do nhờ tu nhân mới trừ hết được. Huống gì trong đó, còn phải chịu sanh trụ dị diệt và nhiều chi tiết về sanh trụ dị diệt?
Giảng giải:
Đức Phật bảo A-nan, “Nay ông đã chứng quả Tu-đà-hoàn, quả vị thứ nhất của hàng A-la-hán. Tu-đà-hoàn có nghĩa là ‘nhập lưu’–nhập vào dòng pháp tánh của các bậc thánh đã giác ngộ. Cũng có nghĩa là “nghịch lưu”– đối với sáu trần mà hàng phàm phu trải qua. Trong kinh Kim Cương giải thích về bốn quả vị A-la-hán nầy rất rõ ràng. Kinh nói rằng người đã chứng quả vị ‘nhập lưu’ có nghĩa là vị ấy không còn nhập vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. ‘Không nhập’ có nghĩa là không bị xoay chuyển bởi sáu trần. Các bậc nầy dù thấy cái gì đẹp hoặc xấu, tâm các vị cũng không dao động, vì họ đã đoạn trừ được 88 thứ kiến hoặc. Các ngài không còn bị lay động bởi thấy nghe, ngửi hoặc các cảm nhận khác. Giai vị nầy của hàng A-la-hán còn được gọi là Dự lưu–dự vào dòng Thánh.
Đã diệt trừ được kiến hoặc của chúng sinh và thế gian trong tam giới. Điều nầy chỉ cho 88 thứ kiến hoặc. Nhưng do chưa biết rõ những tập khi hư vọng chứa nhóm trong căn từ vô thủy. Những tập khí nầy đã được chứa nhóm từ vô thỉ đến nay. Các tập khí ấy phải do nhờ tu nhân mới trừ hết được. Huống gì trong đó, còn phải chịu sanh trụ dị diệt và nhiều chi tiết về sanh trụ dị diệt? Còn có các thứ phân biệt pháp chấp, câu sanh pháp chấp cùng trần sa hoặc, sinh trụ dị diệt. Sinh trụ dị diệt tức là bốn tướng vô minh, tại một niệm bất giác mà sinh ra tam tế. Có nghĩa là phải chịu chi phối bởi nhiều mối tương quan, hoàn cảnh, nhân duyên. Chỉ bằng tu tập mới có thể đoạn trừ những tập khí từ vô thủy kiếp nầy.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ Chứng quả Tu đà hoàn - Sơ quả A La hán: “Càn nguyên đạo thể nhân trung thánh, (Càn nguyên đạo thể thánh giữa người)”.
Khi chứng sơ quả A La Hán, thân thể chư vị tràn ngập khí dương. Càn là số dương trong kinh dịch, nên gọi là càn nguyên. Ðạo thể là thể chất của việc tu đạo. Trung nhân thánh là thánh nhân trong loài người.
“Bất hoại kim khu thế thượng hy, (vàng chẳng hoại diệt thế gian hiếm)”.
Khi chứng sơ quả Tu Ðà Hoàn, chư vị cắt đứt được tám mươi tám phần kiến hoặc. Thân thể chư vị bất hoại như vàng ròng, trên thế gian rất hiếm có.
“Thoát sanh hà thuận thiên niên dược, (thoát sanh tử cần chi thuốc tiên)”.
Xưa, vua Thái Thủy đến đảo Bồng Lai tìm thuốc trẻ mãi không già, giải thoát sanh tử. Chư vị không cần thiết phải đi tìm thuốc trẻ mãi không già, chỉ nên độ thoát hết tất cả khổ ách. Khi đó muốn sống thì sống, muốn chết thì chết. Chết sống do tự chính mình. Vua Diêm La không thể cai quản được, giống như tổ Bồ Ðề Ðạt Ma. (HT Tuyên Hóa giảng Tâm Kinh Bát Nhã)
+ An Vị Tượng Bồ Tát: Câu Hỏi 39: Khi an vị tượng Bồ Tát, chúng con có phải lựa ngày và chọn phương hướng hay không?
Đáp: Không cần phải chọn ngày và lựa chỗ. Quý vị nên đặt tượng Bồ Tát ở chỗ cao, cao khoảng nửa thân phía trên của mình là được. Coi ngày, xem hướng đều là tư tưởng của bọn yêu ma quỷ quái. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Vi tử, cách tạo lập (formation of the atom): Có ba giai đoạn tạo lập vi tử (nguyên tử):
1- Ấn định ranh giới (limit) trong đó sự sống phú linh (ensouling life) - tức Sự sống của Thượng Đế trong nguyên tử - sẽ rung động. Về mặt kỹ thuật, việc hạn chế và quy định bước sóng (wave length) của rung động được gọi là “số đo thiêng liêng” (“the divine measure”); việc này mang lại cho nguyên tử của một cõi tính chất đặc thù (pecularity) riêng cho chúng.
2- Theo “số đo thiêng liêng”, Thượng Đế vạch ra các đường (lines) để xác định hình dạng (shape) của nguyên tử, các trục tăng trưởng căn bản (fundamental axes of growth), liên hệ góc (angular relation) của các trục này, chính liên hệ này định đoạt hình dạng (form) vốn là hình dạng của nguyên tử vũ trụ tương ứng. Sự tương đồng gần nhất với các trục này là các trục của các tinh thể (crystals).
3- Do mức độ của rung động và liên hệ góc của các trục tăng trưởng với nhau, kích cở và hình dạng của bề mặt, chúng ta có thể nói là bề mặt hay vách của nguyên tử đã được ấn định.
Như vậy, trong mỗi nguyên tử, chúng ta có mức độ (measure) của sự sống phú linh của nó, các trục tăng trưởng của nó và bề mặt hay vách bao bọc của nó. (KCVTT, 15)
+ Vi tử thường tồn (Permanent atom, nguyên tử thường tồn): Thực ra, vi tử thường tồn chỉ là một đơn vị năng lượng nằm trong phạm vi ảnh hưởng của cung linh hồn mà bất cứ lúc nào cũng có thể “tìm ra được” (nếu tôi có thể dùng một câu nói thiếu êm tai như thế). Trong các vi tử này, ký ức đã qua của Phàm Ngã (personal self) được tích chứa lại; các vi tử này có bản chất là các “tế bào ký ức” (“memory cells”) và là các kho chứa của kinh nghiệm đã qua, của tính chất đã hoạch đắc được và của nốt đặc biệt mà thể xác chính là cái nhân đã đạt được. Chúng có bản chất là vật chất, chỉ liên quan với trạng thái sắc tướng và được thấm nhuần với tính chất của tâm thức tới mức tối đa mà linh hồn đã đạt được trong lúc tiến hóa ở ba cõi thấp. (CTHNM, 303)
+ Nhà kiến tạo dĩ thái (The ethereal builder): Nhà kiến tạo dĩ thái tức là Tinh linh (elemental) phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
+ Phần 1. Học thuyết tạng phủ
1. Đại cương lục phủ - ngũ tạng
– Học thuyết tạng tượng là học thuyết nghiên cứu công năng sinh lý và quá trình biến hoá bệnh lý của tạng phủ. “tạng ” là chỉ sự tàng trữ bên trong của nội tạng, “ tượng “ là chỉ công năng sinh lý và hiện tượng bệnh lý biểu hiện ra bên ngoài.
– Căn cứ vào công năng sinh lý mà phân ra tạng- phủ- phủ kỳ hằng.
+ Ngũ tạng gồm: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận.
+ Lục phủ gồm: Đởm, vị, tiểu trường, đại trường, tam tiêu, bàng quang.
+ Phủ kỳ hằng: não, tuỷ, cốt, mạch, đởm, tử cung.
– Tạng có chức năng hoá sinh và tàng trữ tinh khí, luôn duy trì tàng trữ ở bên trong mà không bài xuất ra ngoài.
– Phủ có chức năng thu nạp và chuyển hoá thuỷ cốc, luôn đảm bảo công năng bài xuất ra ngoài mà không tàng trữ lại ở bên trong. (Nguồn: Thuyết tạng phủ - Bệnh thường gặp)
+ Hệ thần kinh: Hệ thần kinh được tạo ra để biểu lộ các quyền năng tâm linh trên cõi trần.
Hoạt động: Hệ thần kinh giao cảm có liên quan trực tiếp với trạng thái Ý Chí, dưới hình thức Dục vọng, còn hệ thần kinh não tủy có liên quan trực tiếp hơn với trạng thái Hiểu Biết và trạng thái Ý Chí thuần túy. Hệ thần kinh giao cảm chi phối các tiến trình thiết yếu cho sự sống, như sự hoạt động của tim, phổi, bộ máy tiêu hóa. Bí huyệt nhật tùng nằm ở cao giữa 2 sương sườn thấp nhất (Không phải solar plexus, bí huyệt đan điền nằm dưới rốn) là bí huyệt (trung tâm) quan trọng nhất của hệ thần kinh giao cảm. (KCVTT, 334–335)
+ Thần kinh lực: Thần kinh lực được người Ấn Độ gọi là Prana. Nó được trí tuệ kềm chế xuyên qua não bộ. Nó là sinh lực (vitality) khơi hoạt các cơ quan cảm giác và tạo ra sự sống hướng ngoại của con người. Nó có phương tiện phân phối là hệ thần kinh, xuyên qua một vài trung tâm phân phối lớn gọi là các bí huyệt (plexi) hay liên hoa (lotuses).(ASCLH, 328)
+ Bí huyệt sinh lực: Vital plexi - X. Hạch thần kinh [ Hạch thần kinh mà y học chính thống biết được là các phản ảnh (reflections) hay các hình bóng (shadows) của các bí huyệt sinh lực (vital plexi) chứ không còn gì khác. (ASCLH, 328–329)]
+ Trung tâm lực tức là bí huyệt (chakra).(LVHLT, 362)
+ Trung tâm lực (Force centres): Toàn thể các dây thần kinh với hàng triệu từ lực đạo (nadis) hay “đối phần tuyến” (“thread counterparts”) trong thể dĩ thái, tạo thành một đơn vị, theo giáo huấn của Minh Triết Vô Thủy (Ageless Wisdom), đơn vị này có trong nó các điểm tập trung cho các loại năng lượng khác nhau. Các điểm tập trung này được gọi là “các trung tâm lực”, kinh nghiệm sống của linh hồn cùng biểu hiện của nó dựa vào các trung tâm lực này chứ không dựa vào thể xác. Chúng là các yếu tố chi phối hệ thống tuyến của cơ thể. (TLHNM–II, 64)
+ Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Các hệ thống trong cơ thể:
1. Hệ tuần hoàn. (Tim, Máu, mạch máu - Hệ thống Bạch huyết gồm tuyến ức, A my dan, Lá lách ... giúp lưu thông máu)
2. Hệ hô hấp. (mũi, thanh quản, hầu, khí quản, phế quản và phổi ...)
3. Hệ thống tiêu hóa (miệng, thực quản, dạ dày, gan, ruột non, ruột già, túi mật, tuyến tụy, hậu môn ...)
4. Hệ thống xương. ...
5. Hệ vận động/ hệ cơ (Cơ tim, Cơ xương, cơ trơn), xương, khớp ...
6. Hệ thần kinh (Não bộ và tủy sống. ...)
7. Hệ thống bài tiết. (thận, ống dẫn nước tiểu, bàng quang..., lọc và đào thải ra ngoài, duy trì nước đầy đủ )
8. Hệ nội tiết.( tuyến yên, tuyến giáp, tuyến trên thận, tuyến tùng và các tuyến sinh dục ..., cân bằng hoạt động sinh lý)
9. Hệ vỏ bọc: da, tóc, mỡ, và Móng (động vật).
10. Hệ sinh dục: gồm các cơ quan sinh dục, như là buồng trứng, vòi tử cung, tử cung, âm đạo, tuyến vú, tinh hoàn, ống dẫn tinh, túi tinh và tuyến tiền liệt
+ Chi tiết:
1- Hệ tuần hoàn
Hệ thống tuần hoàn là một mạng lưới cơ thể toàn máu, mạch máu, và bạch huyết. Được cung cấp bởi tim, đó là hệ thống phân phối oxy, hormone và các chất dinh dưỡng thiết yếu đến các cơ quan, giúp nó hoạt động tốt.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống tuần hoàn: Tim. Phổi. Óc. Thận.
2- Hệ hô hấp
Mỗi mô trong cơ thể đều cần oxy để hoạt động. Hệ thống hô hấp, trong đó bao gồm đường dẫn khí, mạch phổi, phổi, và cơ, cung cấp oxy máu đến các mô cơ thể và loại bỏ khí thải.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống hô hấp: Mũi. Phổi. Hầu họng. Phế quản.
3- Hệ thống tiêu hóa
Hệ thống tiêu hóa giúp cơ thể chuyển hóa thức ăn thành các chất dinh dưỡng có thể sử dụng thông qua một quá trình phân hủy hóa học. Điều này xảy ra thông qua một hệ thống các cơ quan giống như ống, bao gồm thực quản, dạ dày, gan, tuyến tụy và ruột.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống tiêu hóa: Miệng. Lưỡi. Răng. Cổ họng. Cơ hoành. Dạ dày. Lách. Gan. Túi mật. Tuyến tụy. Ruột non.
4- Hệ thống cơ - xương
Hệ thống xương cho cơ thể khuôn khổ cơ bản của nó, xây dựng cấu trúc, bảo vệ, và chuyển động. 206 xương trong cơ thể cũng tạo ra các tế bào máu, lưu trữ các khoáng chất quan trọng và giải phóng các hormone cần thiết cho sự sống.
Hệ cơ
Hệ thống cơ bao gồm tổng số cơ khắp cơ thể theo bộ xương, duy trì tư thế ổn định, và tạo ra nhiệt thông qua sự trao đổi chất của tế bào. Con người có ba loại cơ bắp.
5- Hệ thần kinh
Hệ thống thần kinh cho phép chúng ta nhận thức, hiểu và đáp ứng với thế giới xung quanh chúng ta. Hệ thống thần kinh cũng vận hành các chức năng sinh lý thiết yếu của cơ thể, chẳng hạn như thở và tiêu hóa.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống thần kinh: Não. Tủy sống. Màng não. Màng cứng.
6- Hệ thống sinh sản (nữ)
Hệ thống sinh sản nữ bao gồm tất cả các bộ phận phụ nữ cần thiết để thụ thai và sinh một đứa trẻ.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống sinh sản nữ: Âm đạo. Cổ tử cung. Buồng trứng. Tử cung.
Hệ thống sinh sản (nam)
Hệ thống sinh sản nam bao gồm một loạt các cơ quan sử dụng trong quan hệ tình dục và sinh sản. Các cơ quan chính là tuyến sinh dục, sản xuất ra tinh trùng. Ở nam giới, đây là những tinh hoàn.
Các bộ phận cơ thể trong hệ thống sinh sản nam giới: Dương vật. Tinh hoàn. Mào tinh hoàn. Ống dẫn tinh.
* Xem nguồn: Hệ thống trong cơ thể
+ Phàm nhân tiến hóa/ Phàm ngã tiến hóa: ... Một nguyệt tinh quân nổi trội kiểm soát, là cái mà chúng ta hiểu theo thuật ngữ “phàm ngã”; Y (nếu đại từ nhân xưng có thể được sử dụng cho nó) là tổng thể `của các tinh linh hồng trần, cảm dục và trí tuệ, và chính là mãnh lực này hiện nay buộc các năng lượng bốc lửa ‘của cơ thể nuôi dưỡng ba trung tâm lực [luân xa] thấp. Thể dĩ thái có một vị trí độc nhất đáng ngạc nhiên, đơn giản chỉ là khí cụ của prana hay sự sống và luân xa mà nó sử dụng tồn tại trong một phạm trù riêng của chính nó. [Nguồn: Các Cung và Điểm đạo, trang 10].
(Nên xem thêm Tooltip: Các đấng tạo hóa; Các Nguyệt Tinh Quân; Kiến tạo Tứ Hạ Thể; Các Vi Tử; Các Nguyên Tử)
+ Sự phát triển (Ý THỨC) tuần tự của nhân loại, bạn có các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn ý thức động vật.
2. Cá nhân được an trụ vào tình cảm, có tính ích kỷ và bị chi phối bởi dục vọng.
3. Hai giai đoạn trên, cộng với một hiểu biết trí tuệ ngày càng tăng về các tình huống chung quanh.
4. Giai đoạn có trách nhiệm với gia đình hoặc bạn bè.
5. Giai đoạn của tham vọng và của sự khao khát đối với ảnh hưởng và quyền lực trong một lĩnh vực biểu hiện nào đó của con người. Điều này dẫn đến nỗ lực mới.
6. Sự phối-kết năng lực phàm-ngã dưới tác nhân kích thích ở trên.
7. Giai đoạn ảnh hưởng được vận dụng một cách ích kỷ và thường có tính chất phá hoại, bởi vì cho đến nay những vấn đề cao siêu không được ghi nhận.
8. Giai đoạn có một ý thức tập thể phát triển đều đặn.
Giai đoạn này được xem như là:
a/ Một lĩnh vực cho cơ hội.
b/ Một địa hạt phụng sự.
c/ Một nơi mà trong đó sự hy sinh vì lợi ích của mọi người trở nên có thể xảy ra một cách vinh quang.
Giai đoạn sau cùng này đặt một người lên con đường đệ-tử, không cần phải nói rằng nó bao gồm giai đoạn của thời kỳ trước đó, là thời kỳ dự bị hay thử thách. (LVHLT, 397)
+ Phàm Ngã tiến hóa qua 6 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Tương ứng 1 - 7 tuổi, con người thoát kiếp thú trở thành một sinh linh biết suy nghĩ. Người Lemuria và thời đầu dân Atlantis. Học chế ngự thể xác bằng thể cảm dục. Sống cho thú tính mà thôi. Luân xa đáy xương sống hoạt động mạnh, 3 chiều.
- Giai đoạn 2: Từ 7 - 14 tuổi, thoát kiếp thú, biết suy nghĩ, tương ứng dân Atlantis. Chỉnh hợp thể xác với cảm dục. Bắt đầu có nhận thức, biết thương yêu, mến thích vội vàng, thiếu suy xét hoặc có sự oán ghét vô lý và không cân nhắc do vì thiếu trí năng và sự thăng bằng. Y dễ có thái độ cực đoan. Kundalini kích thích LX Tùng thái dương và LX tương ứng trong thể tình cảm hoạt động chậm.
- Giai đoạn 3: Từ 14 - 28 tuổi, dài hơn vì có nhiều việc phải làm. Thể trí bắt đầu phát triển, mỗi kiếp y lại tạo một thể xác tốt hơn. Thể tình cảm ngày càng tinh luyện. Y biết niềm vui trí tuệ và luôn cố gắng cho thể trí kiện toàn. Y sống hướng lên cao và dần thành chí nguyện, phát triển trí tuệ, trừu tượng và tổng hợp hơn. Chân ngã tỉnh thức và ngày càng quan tâm đến cuộc sống của Phàm ngã. Ngọn lửa thiêng lên đến luân xa tim, và cả 3 luân xa đều xoay trong sự hòa hợp, nhịp nhàng và trật tự, trong luân xa đầu có 7 trung tâm (3 chính và 4 phụ) khi nhận kích thích có hoạt động tương ứng.
- Giai đoạn 4: Từ 28 - 35 tuổi, phàm ngã hoàn toàn điều hợp, tìm ra được lối hoạt động cho mình, tự biết mình với con người thật của y. Y bắt đầu tham thiền thần bí (GĐ 5 sang huyền môn). Y nói “Tôi sẽ vươn lên và về với Cha tôi.”. Y có tình cảm sâu đậm, biết suy nghĩ và chủ động, đạt mức sung mãn trong đời sống Phàm ngã, hữu thức chuyển sang Chân ngã. Y đang ở trên Con đường Đệ tử hay Dự bị, hoặc chí nguyện. Y bắt đầu siêu hóa một cách khó nhọc, đau khổ và thận trọng ... bằng mọi giá và do đó phải trả giá rất đắt để kiến tạo đường dẫn truyền cần thiết. Ánh sáng nội tâm bắt đầu chói rạng ra ngoài thể nguyên nhân, bỗng nhiên bừng lên thành ngọn lửa ở trong tầm nhìn của Chân sư thiết tha tìm kiếm. Kích thích rõ rệt luân xa cổ họng - Hoạt động sáng tạo của 3 trạng thái phàm nhân – xác thân, tình cảm và trí tuệ – đều hướng đến phụng sự. Các luân xa ngày càng điều hợp, xoay nhanh và hình dạng thay đổi, nở lớn, chuyển động xoay theo bề đo thứ 4 (tự quay vào bên trong chính nó), 4 trung tâm phụ tương ứng ở đầu cũng sinh động như vậy.
- Giai đoạn 5: Từ 35 - 42 tuổi, chuyển phân cực từ phàm ngã đến chân ngã, nhập vào tam nguyên (Kỳ điểm đạo 3). Chính tham thiền thần bí (Giai đoạn 4) đã đưa Y đến tham thiền huyền môn ở giai đoạn 5, mang lại kết quả đúng định luật và đúng đường hướng cung của mình. Nhờ tham thiền Y cảm được sự rung động của Chân ngã, tìm cách đưa tâm thức Chân ngã xuống ngày càng nhiều, đến mức tâm thức đó bao gồm cả cõi trần một cách ý thức. Chính nhờ tham thiền... đến khi tất cả đều bị thiêu hủy, chỉ còn lại lửa mà thôi, Y nhập vào tâm thức của Chân ngã, và trở thành Chân ngã. Ở giai đoạn 5 - Con đường Điểm đạo, hoàn toàn chuyển từ Phàm ngã đến Chân ngã, đến cuối Y được hoàn toàn tự do và giải thoát, trở thành một Chân sư Minh triết, tượng trưng ở tuổi 42, mức trưởng thành hoàn hảo trong Thái dương hệ. Trước điểm đạo, tất cả luân xa xoay tròn 4 chiều, sau điểm đạo chúng là bánh xe rực lửa, xem bằng nhãn thông tốt đẹp lạ lùng. Bấy giờ, luồng Hỏa hậu (Kundalini) được đánh thức và tiến lên theo những vòng xoắn cần thiết. Vào cuộc điểm đạo thứ 2, các luân xa của thể cảm dục cũng được thức động tương tự. Điểm đạo thứ 3, các luân xa của thể trí mới được chạm đến. Bấy giờ vị điểm đạo đồ có thể diện kiến Đức Huyền môn Đại đế, Đấng Điểm đạo Duy nhất.
Giai đoạn 6: Con người chưa thể hiểu
* Tóm lược: Phàm ngã tiến hóa Tâm linh qua 5 giai đoạn ở Thái DH: (I)- Thoát kiếp thú (Đến 7 tuổi); (II)- Dân Atlantic - Chỉnh hợp (7 - 14 tuổi); (III)- Trí phát triển (14 - 28); (IV)- Thiền thần bí từ Phàm ngã => Chân ngã, LX cổ họng PT (28 - 35); (V)- Thiền huyền môn, Phàm ngã là Chân ngã = Chân sư (Tuổi 42), mức trưởng thành hoàn hảo trong Thái dương hệ; (VI)- Điểm đạo lần 6 và 7 cao cùng tột (42 - 49 tuổi) (Nguồn: Cấu tạo con người 7 - Các GĐTH của Phàm Ngã)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
+ Kiến tạo Tứ hạ thể - Hình vuông: Thể xác - Dĩ thái - Cảm dục - Thể trí
Trong bài trước, chúng ta đã tìm hiểu về các Elementals của phàm ngã qua giảng dạy của Ông C.W. Leadbeater và bà Annie Besant. Trong phần giảng lý của hai vị trên, chúng ta cũng học hỏi được những cách để kiểm soát các elemental đó, chủ yếu là kiểm soát tinh linh dục vọng => Cần vun bồi đức tính trái ngược của tật xấu mà ta muốn kiểm soát, thay vì suy nghĩ tập trung vào tật xấu đó, càng suy nghĩ đến tật xấu thì càng làm cho nó mạnh thêm mà thôi.
=> Tiếp theo, xin trích một đoạn trong sách của Chân sư DK nói về các Elementals của Phàm ngã:
Nếu năng lượng thấp của tập hợp các nguyên tử hình tướng là yếu tố kiểm soát thì ba điều sẽ diễn ra:
Các hình tướng tự nó sẽ phát triển dần lên và ngày càng mạnh hơn, cho đến khi tiếng nói chi phối của các Nguyệt tinh quân (lunar lords) của nó sẽ bóp nghẹt mọi tiếng nói khác và con người bị cuốn trở lại: Sự trì trệ - Sự mù quáng - Sự nô lệ
Nhiều người không chỉ chịu sự kiểm soát của một trong các hình tướng này, mà còn là tù nhân của cả ba. Trong khi nghiên cứu con người tam phân thấp hơn và các nguồn năng lượng, các sinh linh tìm cách kiểm soát y, chúng ta nên nhớ rằng chúng được chia làm ba loại:
Các sinh linh (sự sống) cá nhân nhỏ bé mà chúng ta gọi là các nguyên tử hoặc các tế bào của cơ thể. Chúng tồn tại trong ba nhóm và cấu tạo thành bốn thể tương ứng: thể hồng trần đậm đặc, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí.
Tập hợp của những sinh linh này trong tổng thể tạo thành bốn loại tinh linh khác nhau, là các thực thể gắn kết riêng biệt, mặc dù chưa tự ý thức. Bốn nguyệt tinh quân (lunar lords) này tạo thành cái mà Minh triết Ngàn đời gọi là “bốn cạnh của hình vuông.” Chúng là “Tứ Nguyên (Quaternary) thấp”, “các hình lập phương giam hãm,” hay là thập tự giá mà Con người Tinh thần bên trong phải chịu đóng đinh trên đó. Bốn tinh linh này có một trí thông minh riêng của chúng và chúng ở trên con đường giáng hạ tiến hóa, tuân theo định luật riêng của chúng khi chúng có xu hướng trở nên mạnh mẽ, và do đó thể hiện hoàn toàn nhưng gì ở trong chúng.
Một nguyệt tinh quân nổi trội kiểm soát, là cái mà chúng ta hiểu theo thuật ngữ “phàm ngã”; Y (nếu đại từ nhân xưng có thể được sử dụng cho nó) là tổng thể `của các tinh linh hồng trần, cảm dục và trí tuệ, và chính là mãnh lực này hiện nay buộc các năng lượng bốc lửa ‘của cơ thể nuôi dưỡng ba trung tâm lực [luân xa] thấp. Thể dĩ thái có một vị trí độc nhất đáng ngạc nhiên, đơn giản chỉ là khí cụ của prana hay sự sống và luân xa mà nó sử dụng tồn tại trong một phạm trù riêng của chính nó.
Tất cả các hình tướng dưới nhân loại trong tổng hợp của chúng là một yếu tố ngăn cản mạnh mẽ của tiến trình hướng tới sự giải thoát của Chân nhân. Chúng tạo thành điều ngược lại với những gì mà chúng ta hiểu thế giới của Chân sư, và cả hai là đối cực trực tiếp với nhau từ quan điểm của những người tầm đạo.
Vị Chân sư có thể bước vào thế giới hình tướng, có thể tiếp xúc nó, làm việc ở trong đó mà không bị ảnh hưởng bởi nó, bởi vì bên trong Ngài không có gì đáp ứng được với nó. Ngài nhìn xuyên qua những ảo tưởng đến thực tại đằng sau và, tự biết vị trí mà Ngài đứng, và không có chi trong sự hấp dẫn và nhu cầu của các nguyệt tinh quân này thu hút được Ngài. Ngài đứng giữa các cặp đối lập. Trong việc nhận thức các tính chất của thế giới hình tướng này, trong việc hiểu các sinh linh cấu thành nó, và trong khả năng nghe được tiếng nói của “Đấng Duy Nhất Vô Hình sắc” ở trên sự xung đột của tất cả những tiếng nói thấp hơn, người chí nguyện có cơ hội để thoát khỏi sự thống trị của vật chất. [Các Cung và Điểm đạo, trang 10]
Nguồn - Hình vuông Tứ hạ thể: Thể xác - Dĩ thái - Cảm dục - Thể trí
- Chất liệu giáng hạ tiến hóa (involutionary substance) tức là chất liệu nguyên tử. Chất liệu nguyên tử này là chất sống (living substance). (LVLCK, 888)
+ Dĩ thái thứ nhất (first ether) tức là chất liệu nguyên tử. (LVLCK, 910)
+ Phân biệt giữa nguyên tử thường tồn với chất liệu nguyên tử (distinction between permanent atome and atomic matter):
a/ Nguyên tử thường tồn là nguyên tử đã được dành riêng cho một trong các sinh linh đang tạo thành các trung tâm lực trong cơ thể của một Thái Dương Tinh Quân, trong khi chất liệu nguyên tử tinh anh tạo thành các phần khác của thể ánh sáng (body of light) vĩ đại của Ngài.
b/ Nguyên tử thường tồn là nguyên tử xuất hiện dưới mãnh lực hút của Ngôi hai, trong khi chất liệu nguyên tử chính nó được làm linh hoạt bởi sự sống của Ngôi Ba.
c/ Một nguyên tử thường tồn tuân theo đường lối dễ dàng nhất của thần lực, và đang vượt qua khỏi sự kiềm chế của Tinh Quân Thiên Thần và đến dưới sự kềm chế của sự sống tích cực. Điều này liên quan với sự tiến hóa của ý thức trong vật chất.
d/ Một nguyên tử thường tồn tiến đến dưới sự chi phối trực tiếp của nhóm dưới trong số ba nhóm các Nghiệp Quả Tinh Quân và là tác nhân mà qua đó các Ngài tác động dưới sự áp đặt của nghiệp quả lên thực thể riêng biệt đang sử dụng nó. Các Ngài hoạt động trực tiếp với các vi tử thường tồn của con người và tạo ra các kết quả qua sự tác động của hình hài cho đến khi chúng đã khai thác hết năng lực rung động của bất cứ vi tử đặc biệt nào. Khi xảy ra trường hợp này, nguyên tử chuyển vào giai đoạn quy nguyên như là nguyên khí thứ bảy của bất cứ thể nào đang làm. Nó tiến vào dưới ảnh hưởng của Ngôi Một, biểu lộ như Đấng Hủy Diệt. (LVLCK, 517)
+ Nội tuần hoàn (the inner round): Cuộc nội tuần hoàn là một chu kỳ huyền bí ít được nói tới. Nó không liên quan đến biểu hiện qua 7 hệ thống hành tinh hay các bầu hành tinh, nhưng có liên quan đến một vài khía cạnh của sự sống nội tâm hay linh hồn. (LVLCK, 211)
+ Ngoại tuần hoàn (Outer round, vòng tiến hóa ngoài): Theo ngôn từ huyền linh, các hành tinh không thánh thiện ngoại môn được gọi là “ngoại tuần hoàn” tức là giới đạo đồ bên ngoài (outer circle of initiates). Địa cầu chúng ta là một trong số các hành tinh không thánh thiện này, nhưng nó đang được chỉnh hợp một cách đặc biệt với một số bầu hành tinh ở vòng tiến hóa trong. (LVLCK, 1175)
+ Năng lượng Sự sống tiến hóa - Quy nguyên: Một nguyên tử thường tồn tiến đến dưới sự chi phối trực tiếp của nhóm dưới trong số ba nhóm các Nghiệp Quả Tinh Quân và là tác nhân mà qua đó các Ngài tác động dưới sự áp đặt của nghiệp quả lên thực thể riêng biệt đang sử dụng nó. Các Ngài hoạt động trực tiếp với các vi tử thường tồn của con người và tạo ra các kết quả qua sự tác động của hình hài cho đến khi chúng đã khai thác hết năng lực rung động của bất cứ vi tử đặc biệt nào. Khi xảy ra trường hợp này, nguyên tử chuyển vào giai đoạn quy nguyên như là nguyên khí thứ bảy của bất cứ thể nào đang làm. Nó tiến vào dưới ảnh hưởng của Ngôi Một, biểu lộ như Đấng Hủy Diệt. (LVLCK, 517)
+ Vi tử (Atom, nguyên tử):
1- Một vi tử gồm có một hình cầu chứa trong chính nó hạt nhân sự sống.
2- Một vi tử chứa trong chính nó các phân tử đã biến phân (differentiated molecules) mà toàn bộ hợp thành chính vi tử. Thí dụ chúng ta được dạy rằng vi tử vật chất / Vi tử hồng trần chứa trong chu vi của nó 14 ngàn triệu (14 tỷ) các vi tử nguyên hình, tuy nhiên, hàng tỷ vi tử nguyên hình biểu lộ như là một.
3- Một vi tử được phân biệt bằng hoạt động và cho thấy các tính chất của: Chuyển động quay - Khả năng phân biện - Năng lực phát triển.
1- Chúng ta được dạy, một vi tử chứa trong chính nó ba vòng xoắn ốc chính và bảy vòng phụ, tất cả 10 vòng đang trong tiến trình được làm linh hoạt, nhưng chưa đạt đến hoạt động đầy đủ. Ở giai đoạn này chỉ có 4 vòng đang hoạt động, vòng thứ năm đang trong tiến trình phát triển.
2- Một vi tử bị chi phối bởi Định luật Tiết kiệm. đang từ từ tiến vào dưới Định luật Hút và sau rốt ở dưới Định luật Tổng hợp.
3- Vi tử có trong mọi hình hài; chính tập hợp các vi tử tạo ra hình hài.
4- Nó đáp ứng với kích thích từ ngoài:
- Kích thích điện, có ảnh hưởng tới hình hài bên ngoài của nó.
- Kích thích từ, tác động vào sự sống bên trong của nó.
Hiệu quả kết hợp của hai kích thích tạo ra sự tăng trưởng và phát triển bên trong. (LVLCK, 246–247)
* Giáo lý bí nhiệm nói về vi tử như sau:
1- Sự thông tuệ tuyệt đối làm chấn động khắp mọi vi tử – SD–I, 298.
2- Bất cứ nơi nào có một vi tử vật chất là có sự sống – SD–I, 245, 269, 279.
3- Vi tử là biểu lộ cụ thể của năng lượng vũ trụ – SD–I, 281.
4- Các sự sống vô hình tạo ra các vi tử – SD–I,132.
5- Mọi vi tử trong vũ trụ đều có tiềm năng ngã thức – SD–I, 132.
6- Vi tử và linh hồn đồng nghĩa nhau trong ngôn ngữ của đệ tử điểm đạo – SD–I, 620, 622.
7- Vi tử hoàn toàn thuộc vào địa hạt của siêu hình học – SD–I,559.
8- Mọi vi tử đều có thiên tính – SD–I, 89, 183.
9- Mọi vi tử đều chịu sự biến phân không ngừng – SD–I, 167.
10- Mục tiêu tiến hóa của vi tử là con người.
11- Ở trung tâm của mọi vi tử đều có cái mầm mống – SD–I, 87.
12- Trong mọi vi tử đều có sức nóng (heat) – SD–I, 112.
13- Mọi vi tử đều có 7 cõi hiện tồn – SD–I, 174.
14- Vi tử đều là rung động –SD–I, 694.(LVLCK, 246–247)
+ Mỗi vi tử là một điểm tập trung của lực, lực của chính vật chất, sự sống hay sức sống (vitality) của trạng thái thứ ba, sự sống của Thực thể Thông linh Vũ trụ, mà đối với Thượng Đế, Đấng này là trạng thái âm của điện. (LVLCK, 527–528)
+ Một nguyên tử (vi tử, atom) là một “sự sống”, có tâm thức là tâm thức của Thượng Đế Ngôi Ba (Third Logos). (KCVTT, 119)
I- Theo Minh triết mới
+ Tâm Thức: Đặc trưng là tình thương (ASCLH, 54)
+ Đơn vị Tâm thức: X. Chân Thần. Cấu tạo và đặc tính (Nguồn)
+ Tinh thần (Spirit) và tâm thức (consciousness) là các tên gọi đồng nghĩa. (LVLCK, 278)
+ Tâm thức tương ứng biểu lộ 3 ngôi
Ý chí….. Minh triết –Bác ái .…Trí tuệ linh hoạt.
Tinh thần ..... Tâm thức ……….……Vật chất.
Cha ……….... Con ………….……… Mẹ.
Chân Thần …. Chân Ngã ………...... Phàm Ngã.
Và còn nhiều thuật ngữ tương ứng, định nghĩa khác (LVLCK, 244)
+ Tinh thần và tâm thức là các tên gọi đồng nghĩa. (SD I, 43, 125, 349, 593.)
* Tinh Thần = Tâm thức - Ý Thức
+ Tâm thức và ngã thức: Chính ở trên cõi trần mà tâm thức, trước tiên phải tiến hóa thành Ngã thức. (KCVTT, 93)
+ Mỗi sinh vật là 1 với Tâm thức Vũ trụ: Ví như 1 sóng biển là một với đại dương (nguồn)
+ Định đề 2 - Tâm Thức: Sự sống duy nhất khi biểu lộ qua vật chất, tạo ra yếu tố thứ 3, đó là TÂM THỨC - Sự hợp nhất của 2 cực Tinh Thần - Vật Chất, là Linh hồn của vạn vật, thấm nhuần mọi chất liệu hay năng lượng khách quan, nó nằm dưới mọi hình hài, dù đó là đơn vị nguyên tử hay 1 con người, 1 hành tinh hoặc 1 Thái dương hệ. Đây là Lý Thuyết Quyền Tự Quyết (LVHLT, 21)
+ TÂM THỨC theo sát nghĩa là phản ứng của trí thông tuệ sinh động đối với mô hình. Ngày nay, cứ như thể chúng ta đang đáp ứng một cách hữu thức, và với một mục đích ngày càng thông minh đối với thiết kế được Đấng Kiến Tạo Bậc Thầy đặt ra trên bản vẽ. Cho đến nay, chúng ta không và không thể nhập vào Thể Trí Vũ trụ đó và rung động trong sự hòa hợp hữu thức với Ý Tưởng thiêng liêng, cũng không hiểu được Thiên Cơ như nó được cảm nhận và được nhìn thấy bởi Đấng Tư Tưởng vũ trụ. Chúng ta phải làm việc với bản thiết kế, với mô hình, và với Thiên Cơ (Tài liệu Trích TLHNM-GQ-MF)
+ Mỗi sinh vật là 1 với Tâm thức Vũ trụ: Ví như 1 sóng biển là một với đại dương (nguồn)
+ Tâm thức (Ý thức): Tâm thức là Tâm hay là Linh hồn, đang tạo ra sự sống tâm thông, là nhận thức: Dưới nhân loại/ nhân loại và thiêng liêng (TLHNM–II, 232)
+ Tâm Thức: Sát nghĩa là phản ứng của trí thông tuệ sinh động đối với mô hình (Tâm LH, Mô hình-Quy định)
+ Cấp độ Tâm Thức: Phàm ngã, Linh hồn, Chân Thần. Đây là ba cấp độ rộng lớn của tâm thức, vốn phản ánh ba trạng thái thiêng liêng của Thượng Đế.(Trích Topic 1- GQ1- Các trích dẫn TLHNM)
1. Tâm thức phàm ngã: Là tâm thức của trạng thái thứ ba thiêng liêng, trạng thái sáng tạo.
2. Tâm thức chân ngã là tâm thức của trạng thái thiêng liêng thứ hai, tức tâm thức của linh hồn, tự thể hiện chính nó như là phẩm tính và như là “sắc thái” thể hiện bên trong của những vẻ ngoài.
3. Tâm thức chân thần là tâm thức của trạng thái thiêng liêng thứ nhất, cái vốn tiêu biểu cho sự sống thiêng liêng – mục đích và ý định, và dùng linh hồn để thể hiện Thiên Ý cố hữu qua linh hồn. Chính điều này mới xác định phẩm tính. (Nguồn: Tổng hợp chi tiết về tâm thức)
+ Hình thành Tâm thức: Sự phối hợp năng lượng sự sống và năng lượng của thể trí trong con người tạo ra tâm thức – trước tiên là ngã thức và sau rốt là tập thể thức (TLHNM–II, 67)
+ Chiêm Tinh Học Bí Truyền: (Trích GQ1.6-Làm quen CTH)
- Có 3 trình độ nơi con người: Phàm ngã/ Linh Hồn/ Tinh Thần - Ảnh hưởng của cung hoàng đạo và hành tinh hoạt động ở 3 cấp độ này.
- Ba Cung tối quan trọng: Mặt Trăng - Mặt Trời - Cung Mọc để ước định công việc sẽ được thực hiện trong tâm thức mỗi kiếp sống.
- Tâm thức qua Chiêm TH: Năng lượng dẫn truyền qua các Cung Hoàng và Hành tinh và chức năng tiến hóa Tâm Thức của các Cung Hoàng Đạo với Người thường/ Chí nguyện (Đệ Tử) / Điểm Đạo Đồ, với sự chỉ dẫn của các Kỳ Công, ta có thể dự đoán....
- Các Cung Hoàng Đạo ở 3 Cấp Độ Tâm Thức (Chiêm THNM, 332)
+ Các trạng thái nối tiếp của Tâm thức:
1. Thực ra, Vũ trụ chỉ là một tập hợp bao la của các trạng thái tâm thức. SD II, 633; I, 70, 626.
2. Tinh thần và tâm thức là các tên gọi đồng nghĩa. SD I, 43, 125, 349, 593.
3. Mọi nguyên tử trong vũ trụ đều được phú cho tâm thức. SD I, 105.
* Sáu loại tâm thức được biểu hiện trong Giới Thiên Nhiên trên 5 cõi tiến hóa của nhân loại. SD I, 123; II, 678.
+ Trình độ T.Thức - Bảng kê: Người chưa tiến hóa - Người bình thường, Người Chí nguyện - Đệ tử, Điểm đạo đồ, Chân Sư và cao hơn nữ.
+ Khởi vô minh: Sự tuôn trào và những nguyên tử và tâm thức— Outpourings and atoms and consciousness:
- Sự tuôn đổ vĩ đại đầu tiên từ Thượng Đế đã làm sinh động chất liệu vũ trụ và khiến cho mỗi nguyên tử vật chất bên trong “vòng-không-được-vượt-qua” của hệ thống của Ngài rung động theo bảy phương thức rung động khác nhau.
- Sự tuôn đổ thứ hai đã tạo nên những sự kết hợp của các phân tử, vì thế tạo nên sáu cõi phụ bên dưới cõi nguyên tử của mỗi cõi chính, và tạo nên dạng hình tướng. Chính là vào thời điểm tuôn đổ thứ hai mà mỗi trung tâm của những trung tâm tâm thức thiêng liêng đưa ra một sợi bản thể vào trong một nguyên tử của các cõi phụ cao nhất của các cõi giới atma, bồ đề, và cõi trí,— những nguyên tử có định mệnh là hạt nhân của những thể tương lai, mỗi cái ở trong từng cõi giới tương ứng của nó, ba cái tạo nên tam nguyên thượng mà ta thường nghe nhắc đến.(TLHNM/ EP II 167-8)
II- Tâm Thức theo Phật giáo
+ Chữ "TÂM" - Pháp Trần: ... đức Phật bảo, A Nan các pháp trần nầy tức do Tâm sinh ra, hay là rời tâm có chỗ riêng biệt?
HT Tuyên Hóa giảng:
"Có phải ông cho rằng các pháp do tâm sở duyên là phát sinh ra ngay từ trong tâm (ý căn)? Các pháp trần nầy tức do tâm sinh ra, hay là rời tâm có chỗ riêng biệt?" "Tâm" ở đây có nghĩa là thức thứ 6.
A-nan, nếu tức nơi tâm, thì pháp trần không phải là trần cảnh nữa, thế nên nó không phải là sở duyên của tâm, làm sao thành một xứ được?
Giảng:
"A-nan, nếu tức nơi tâm–nếu ông đơn giản cho rằng các pháp phát sinh từ tâm, rằng nó phát sinh từ thức thứ 6 – Thì pháp trần không phải là trần cảnh nữa. Các pháp trần mà do tâm sở duyên sinh khởi không còn là trần cảnh (đối tượng của ý thức) nữa."
Nếu rời tâm mà riêng có một chỗ riêng biệt, thì tự tính của pháp trần là biết hay không biết?
Nếu có biết thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải là trần cảnh thì cũng như tâm của người khác. Còn nếu nó tức là ông và cũng là tâm, thì làm sao cái tâm nơi ông lại thành hai được?
Lại nếu như không có biết, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không, thì nó sẽ ở chỗ nào?
Nay nơi sắc không, chẳng thể nào chỉ nó ra được. Không lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài hư không? Chẳng có cảnh sở duyên, thì ý căn do đâu mà lập thành một xứ được?
Vì vậy nên biết pháp trần cùng ý căn đều không có xứ sở; tức ý căn cùng với pháp trần, hai xứ đều là hư vọng, không thật; vốn không phải tính nhân duyên, cũng chẳng phải tính tự nhiên.
Giảng:
" Vì vậy A-nan, vì đạo lý nầy – "nên biết pháp trần cùng ý căn đều không có xứ sở". Cả hai cái nầy đều không tìm thấy được nơi chốn. "Tức ý căn cùng với pháp trần, hai xứ đều là hư vọng, không thật." Theo đạo lý về các pháp do tâm sở duyên, cả hai đều là hư giả, luống dối. "Vốn không phải tính nhân duyên, cũng chẳng phải tính tự nhiên." Cả hai đều chỉ là danh tướng hư vọng, như hoa đốm giữa hư không, hoàn toàn không có thực thể, chỉ là sự biểu hiện từ tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng. (Nguồn: Kinh Thủ LN- Q.3)
+ Chữ Thức: ... Vì bạn có phân biệt, chấp trước nên nhất chân mới chuyển biến thành những hoàn cảnh rất phức tạp, biến thành thập pháp giới, biến thành lục đạo, biến thành tam đồ. Biến như thế nào? là do thức sở biến. Cái gì gọi là thức? trong Kinh Hoa Nghiêm giảng về thức rất cụ thể: vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là thức. Hiện nay, chúng ta đều có đủ, có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. vì vậy đã biến nhất chân pháp giới thành lục đạo luân hồi, đã biến thành lục đạo.
Nếu trong 3 thứ này chúng ta đoạn được một thứ, đã đoạn được chấp trước, trong tất cả Pháp, Pháp thế gian và Pháp xuất thế gian mà thật sự không còn chấp trước nữa, xin thưa với quý vị lục đạo không còn nữa. Lục đạo là do chấp trước biến hiện ra. Không còn chấp trước thì bạn ra khỏi lục đạo.
Ra khỏi lục đạo rồi đi đâu? bởi vì bạn còn có phân biệt nên còn có tứ thánh pháp giới tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. ..... Thập pháp giới do đây mà có, nếu không còn phân biệt thì siêu việt thập pháp giới bạn mới có thể phản bổn hoàn nguyên, trở về chân thật, tức nhập nhất chân pháp giới. Trong nhất chân pháp giới những địa vị của Bồ Tát cũng không đều. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói 41 vị Pháp thân đại sĩ trình độ cao thấp của những bậc Bồ Tát chia thành 41 đẳng cấp .
41 đẳng cấp này là do vọng tưởng mà có, vọng tưởng nhưng rất nhẹ, cũng gọi là vô minh. Nếu đoạn hết vô minh thì đã đoạn hết 41 phẩm vô minh thì bạn chứng được quả vị cứu cánh viên mãn. Tức là chân ngã của chính mình, đã hoàn toàn khôi phục lại, thì bản lai diện mục hoàn toàn hiện ra. Đó tức là viên giáo Phật quả. (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Tâm lượng - Chân tâm: Tâm thức chân thật hay Tâm bản nguyên. Phật nói với chúng ta: “Tận hư không khắp pháp giới, tất cả chúng sanh là một pháp thân”. Cho nên, kinh điển thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”, đạo lý là ở chỗ này. Tâm lượng chúng ta nhất định phải lớn, bao trùm hưu không pháp giới (Nguồn: Tập 17 - Thập Thiện Nghiệp_PS Tịnh Không)
+ Đạo Tâm: Tâm của Phật là tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng là Phật, tâm lục độ là Bồ-tát, tâm tứ đế là Thanh Văn, tâm nhân duyên là Duyên Giác. Phật ở trong kinh nói quá nhiều, quá rõ ràng rồi. Hai chữ “bình đẳng” rất quan trọng (PS Tịnh Không giảng - Tập 42 - Kinh TTNĐ)
+ Các trạng thái Tâm thức:
Phàm ngã: gồm Tâm thức vị ngã cần chuyển hóa thành tâm thức vị tha
Linh Hồn: Tâm thức Vô ngã
Chân Thần: Tâm thức bất nhị (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Tâm thức theo Duy thức học - Xem: Tâm và Các Thức-TT Thích Viên Thông)
+ Sanh cơ - Mầm sống - Sự sống ẩn tàng:
HỎI: Sanh cơ hay mầm sống là gì?
ĐÁP: Bất luận là chủng tử gì đi nữa, bên trong đều có sanh cơ mầm sống. Sanh cơ tức là vitamin mà chúng ta thường nói đến. Nhân loại tạo ra các loại vitamin như vitamin A, B, C... thì có hình dáng; còn như bên trong chủng tử của sanh cơ hay mầm sống thì không có hình tướng.
Tuy nói mầm sống bên trong chủng tử, thật ra nó là một cái tánh, cũng tức là tinh hoa; nó có thể giúp cho con người hồi phục sức khỏe vốn có của mình. (Nguồn: links: https://www.dharmasite.net/.../Gay-Kim-Cang-Het_Quyen-3...)
+ Sản sinh sự sống - Mầm sống [Trích: Giáo lý bí nhiệm nói về Vi tử]:
1- Sự thông tuệ tuyệt đối làm chấn động khắp mọi vi tử – SD–I, 298.
2- Bất cứ nơi nào có một vi tử vật chất là có sự sống – SD–I, 245, 269, 279.
3- Vi tử là biểu lộ cụ thể của năng lượng vũ trụ – SD–I, 281.
4- Các sự sống vô hình tạo ra các vi tử – SD–I,132.
5- Mọi vi tử trong vũ trụ đều có tiềm năng ngã thức – SD–I, 132.
6- Vi tử và linh hồn đồng nghĩa nhau trong ngôn ngữ của đệ tử điểm đạo – SD–I, 620, 622.
7- Vi tử hoàn toàn thuộc vào địa hạt của siêu hình học – SD–I,559.
8- Mọi vi tử đều có thiên tính – SD–I, 89, 183.
9- Mọi vi tử đều chịu sự biến phân không ngừng – SD–I, 167.
10- Mục tiêu tiến hóa của vi tử là con người.
11- Ở trung tâm của mọi vi tử đều có cái mầm mống – SD–I, 87.
12- Trong mọi vi tử đều có sức nóng (heat) – SD–I, 112.
13- Mọi vi tử đều có 7 cõi hiện tồn – SD–I, 174.
14- Vi tử đều là rung động –SD–I, 694.(LVLCK, 246–247)
+ Có sự sống: Bất cứ nơi nào có một vi tử vật chất là có sự sống – SD–I, 245, 269, 279.
+ Sự sống và các sự sống (the life and the lives): Trong bộ GLBN, H.P.B. có nói: “Huyền linh học không chấp nhận bất cứ cái gì vô cơ (inorganic) trong Đại Vũ trụ (Kosmos). Cách diễn tả được khoa học dùng như “chất vô cơ” (“inorganic substance”) chỉ hàm ý là sự sống tiềm tàng, đang ngưng trệ (slumbering) trong các phân tử của cái được gọi là “vật chất trơ” (“inert matter”) thì không thể nhận biết được. Tất cả đều là sự sống, mọi nguyên tử của ngay cả bụi khoáng chất (mineral dust) cũng có sự sống, mặc dù vượt ngoài sự hiểu biết và nhận thức của chúng ta ... Do đó, sự sống có khắp nơi trong vũ trụ ... bất cứ nơi đâu có một nguyên tử vật chất, một hạt (particle) hay một phân tử (molecule), ngay cả ở trong tình trạng loãng nhất, cũng đều có sự sống bên trong, tuy tiềm tàng và vô thức.” – GLBN–I, 269, 281, 282
+ Có sự sống: Bất cứ nơi nào có một vi tử vật chất là có sự sống – SD–I, 245, 269, 279.
+ Sự Sống thiêng liêng có thể được xem như diễn đạt qua 3 cách biểu lộ:
- Thứ nhất, vũ trụ biểu lộ hay hữu hình;
- Thứ hai, thế giới nội tâm hay sắc tướng;
- Thứ ba, trạng thái Tinh thần phải được tìm thấy ở tâm mọi vật (LVLCK, 56).
+ Năng lượng sự sống: Ý chí hay năng lượng của sự sống là các thuật ngữ đồng nghĩa. (TLHNM I, 43)
+ Năng lượng của Sự sống: Khả năng hội nhập, phối kết. Mãnh lực của thể sinh lực hay thể dĩ thái. Phản ảnh của hoạt động thông tuệ hay chuyển động thiêng liêng. Xung lực hành động, tích năng lượng, theo Định luật Tiết Kiệm.
+ Nguyên tử hạ cấp: (Debased atoms, Nguyên tử thấp kém) “…..Khi con đã quyết tâm nhận chịu việc cố gắng hóa giải các lỗi lầm thuộc các kiếp trước của con; thì con phải đưa vào (incorporate) trong con một số lớn các nguyên tử bị xuống cấp liên quan đến kiếp trước đó đi vào mỗi một trong các thể thuộc phàm ngã (physical bodies) của con; các nguyên tử thấp kém này làm cho con trở thành yếu ớt (delicate), kém sức khỏe (unhealthy), đồng thời chúng cũng ngăn chận, không để cho con có được một cố gắng cật lực nào, mãi cho tới khi con đã thành công trong việc chuyển hóa (transmuting) được một tỉ lệ nào đó các nguyên tử bị xuống cấp ấy. (VLH, 123)
+ Nguyên tử: ... Các sinh linh (sự sống) cá nhân nhỏ bé mà chúng ta gọi là các nguyên tử hoặc các tế bào của cơ thể. Chúng tồn tại trong ba nhóm và cấu tạo thành bốn thể tương ứng: thể hồng trần đậm đặc, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí. (Nguồn: Kiến tạo Tứ hạ thể)
+ Nguyên tử: ... Sự chuyển hóa liên hệ đến sự sống của nguyên tử và được che giấu trong sự am hiểu về các định luật đang chế ngự tính phóng xạ. Thật là lý thú khi ghi nhận xem khoa học diễn tả “tính phóng xạ” (“radioactivity”) ra sao, chúng ta có quan niệm đông phương về Vishnu-Brahma, hay là các Tia của Linh Quang đang rung động qua vật chất. Do đó, sự diễn dịch thường được chấp nhận về thuật ngữ “nguyên tử” phải được nới rộng từ sự diễn dịch của nguyên tử hóa học để bao gồm:
a. Mọi nguyên tử hay là khối cầu trên cõi trần.
b. Mọi nguyên tử hay là khối cầu trên cõi cảm dục và cõi hạ trí.
c. Con người đang lâm phàm trong thể xác.
d. Thể nguyên nhân của con người trên cõi riêng của nó.
e. Tất cả các cõi dưới hình thức các lãnh vực đã thực thể hóa.
f. Tất cả các hành tinh, các dãy và bầu bên trong thái dương hệ.
g. Tất cả các Chân Thần trên cõi riêng của chúng, dù là các Chân Thần nhân loại hay các Hành Tinh Thượng Đế.
h. Vòng giới hạn thái dương, tập hợp tất cả các nguyên tử thứ yếu.
Trong mọi nguyên tử này, vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, tiểu thiên địa hay đại thiên địa, sự sống trung ương tương ứng với điện tích dương của điện lực đã được khoa học tiên đoán, cho dù đó là sự sống của một Thực Thể Thông Linh vũ trụ như là một Thái Dương Thượng Đế hoặc là sự sống hành khí nhỏ bé trong một nguyên tử vật chất. Các nguyên tử nhỏ đang xoay quanh trung tâm dương của chúng, và hiện nay chúng được khoa học gọi là âm điện tử, là trạng thái âm và điều này không những đúng với nguyên tử trên cõi trần, mà còn đối với các nguyên tử con người nữa, được duy trì đối với điểm thu hút trung ương của chúng, tức một Hành Tinh Thượng Đế, hay là các dạng thức nguyên tử mà trong tập hợp của chúng hợp thành Thái dương hệ đã được nhận thức.
Mọi hình hài được kiến tạo theo một cách thức tương tự như nhau và chỉ có sự dị biệt – như sách giáo khoa giảng dạy – trong sự sắp xếp và số của các âm điện tử ( ).
Chính âm điện tử sau rốt sẽ được xem như là một sự sống hành khí vô cùng bé nhỏ (an elemental, tiny life).
Điểm thứ 2 mà hiện nay tôi đang tìm cách trình bày là: bức xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình hoàn thành. Sự chuyển hóa vốn là sự phóng thích của tinh chất (liberation of the essence) để cho nó có thể tìm thấy một trung tâm mới, tiến trình có thể được nhận thức như là tính phóng xạ hiểu về mặt kỹ thuật, và được áp dụng cho tất cả các thể của nguyên tử mà không có sự ngoại trừ nào cả.
Chỉ mới gần đây khoa học mới biết đến chất radium (một thí dụ về tiến trình biến tố) chỉ là khuyết điểm của khoa học. Khi điều này được hiểu rõ hơn, người ta sẽ thấy rằng mọi bức xạ, như là từ lực (magnetism) hay là sự phóng phát tâm linh (psychic exhalation), chỉ là tiến trình chuyển hóa tiến hành trên một mức độ rộng lớn. Ở đây, điểm cần phải hiểu rõ là tiến trình chuyển hóa khi có hiệu quả là kết quả ở ngoài mặt của các ngoại yếu tố. Về phương diện căn bản, đó là kết quả của hạt nhân dương bên trong của mãnh lực hay là sự sống đang đạt tới một tốc độ rung động khủng khiếp đến đổi sau rốt, nó sẽ tung rải các electrons hay các điểm âm (negative points) đang tạo thành vùng ảnh hưởng của nó, và tung rải chúng đến một khoảng cách mà Định Luật Đẩy đang thống ngự. Lúc bấy giờ, chúng không còn bị thu hút đến trung tâm nguyên thủy của chúng mà tìm kiếm một trung tâm khác. Khối cầu nguyên tử (atomic sphere), tôi tạm diễn tả như thế, tan biến đi, các âm điện tử tiến vào dưới Định Luật Đẩy, tinh hoa trung ương thoát ra và tìm kiếm một khối cầu mới, hiểu theo phương diện huyền linh.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng tất cả những gì bên trong thái dương hệ đều là lưỡng nguyên (dual) và có cả hai mặt âm và dương trong chính nó: dương đối với hình thức riêng của nó, còn âm đối với lĩnh vực lớn hơn. Do đó mọi nguyên tử đều dương lẫn âm - chính một âm điện tử cũng là một nguyên tử.
Do đó tiến trình biến tố có hai phần, và cần có một giai đoạn sơ bộ áp dụng các yếu tố bên ngoài, một sự kích hoạt (a fanning), chăm sóc và phát triển hạt nhân dương bên trong, một giai đoạn triển khai hay bảo dưỡng có phương pháp lửa bên trong, và một sự tăng gia điện thế. Kế tiếp là giai đoạn thứ hai, khi đó các yếu tố bên ngoài không được kể đến nhiều như thế, khi đó trung tâm năng lượng bên trong của nguyên tử có thể bị bỏ lại để làm công tác riêng của nó. Các yếu tố này có thể được áp dụng đồng đều cho mọi nguyên tử; đối với các nguyên tử khoáng chất đang lôi cuốn sự lưu tâm của các nhà luyện kim đan nhiều như thế, đối với nguyên tử, mệnh danh là con người, kẻ đang theo đuổi cùng một diễn trình tổng quát vốn bị chi phối bởi cùng các định luật; và đối với các nguyên tử lớn hơn, như là một Hành Tinh Thượng Đế hay Thái Dương Thượng Đế.
Diễn tiến có thể được kê ra như sau :
1. Cuộc sống khoác lấy hình hài nguyên thủy.
2. Hình hài tùy thuộc vào nhiệt bên ngoài.
3. Nhiệt, khi tác động trên hình hài, sẽ tạo nên sự phát tiết (exudation) và yếu tố ẩm ướt chợt đến.
4. Sự ẩm ướt và nhiệt thực hiện chức năng của chúng trong sự hợp nhất.
5. Các sinh linh hành khí hướng về mọi sinh linh thứ yếu.
6. Các thiên thần hợp tác theo qui luật, trật tự và âm thanh.
7. Nội nhiệt của nguyên tử tăng gia.
8. Nhiệt của nguyên tử tăng lên một cách nhanh chóng và vượt quá ngoại nhiệt của môi trường chung quanh nó.
9. Nguyên tử phát xạ.
10. Bức tường gần như hình cầu của nguyên tử sau rốt sụp đổ xuống.
11. Các âm điện tử hay các đơn vị âm tìm kiếm một trung tâm mới.
12. Sự sống trung ương thoát ra để hòa nhập với đối cực của nó, chính nó trở thành cực âm và tìm kiếm cực dương.
13. Đây là theo ý nghĩa huyền linh, ánh sáng tạm thời tắt đi, cho đến khi nó hiện trở lại và bừng lên.
Ở đây không thể đưa ra giải thích chi tiết hơn, vả lại cũng không thích hợp.
Do đó, điều hiển nhiên là, theo quan điểm của mỗi giới trong thiên nhiên, nên giúp vào tiến trình chuyển hóa của tất cả các nguyên tử thứ yếu. Điều này diễn ra như thế, cho dù chính nó không được nhận biết; chỉ khi nào giới nhân loại đã đạt đến điều đó, thì một thực thể, một cách hữu thức và một cách sáng suốt, có thể thực hiện hai việc :
Thứ 1. Giúp vào sự chuyển hóa trung tâm nguyên tử dương của riêng nó từ giới nhân loại đến giới tinh thần.
Thứ 2. Tham dự vào việc chuyển hóa.
a. Từ các hình thể khoáng chất thấp kém đến các hình thể cao hơn.
b. Từ các hình thức khoáng chất đến các hình thức thực vật,
c. Từ các hình thức thực vật đến hình thức động vật.
d. Từ các hình thức động vật đến con người hay là xảy ra sự thoát kiếp thú một cách hữu thức và dứt khoát.
Cho đến nay không làm được điều đó do bởi sự nguy hiểm của việc truyền đạt kiến thức cần thiết. (Nguồn: Luận về lửa càn khôn, Tr 478)
+ Nguyên tử: ... Các sinh linh (sự sống) cá nhân nhỏ bé mà chúng ta gọi là các nguyên tử hoặc các tế bào của cơ thể. Chúng tồn tại trong ba nhóm và cấu tạo thành bốn thể tương ứng: thể hồng trần đậm đặc, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí. (Nguồn: Kiến tạo Tứ hạ thể)
+ Nguyên tử thường tồn: Vi tử thường tồn.
+ Mỗi thể hay hình hài mà Tinh Thần hoạt động trong đó (Nguyên Tử Thường Tồn), với điểm tập trung của nó trên mỗi cõi, đều có một nguyên tử làm bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử của mỗi cõi chính, như một trung tâm để phân phối thần lực, để bảo tồn năng lực, để đồng hoá kinh nghiệm và để bảo tồn ký ức. Các nguyên tử này có liên lạc trực tiếp với một hay các nguyên tử khác trong 3 cung lớn liên hệ với tiểu vũ trụ:
a/ Cung Chân Thần, tức cung tổng hợp của tiểu thiên địa.
b/ Cung Chân ngã
c/ Cung phàm ngã .....
Sự liên quan giữa 3 cung này và các nguyên tử thường tồn:
- Cung Phàm ngã có tác động trực tiếp trên nguyên tử thường tồn hồng trần.
- Cung Chân ngã có tác động tương tự trên nguyên tử thường tồn cảm dục.
- Cung Chân Thần có liên hệ chặt chẽ với nguyên tử thường tồn hạ trí
+ Tác dụng của chúng gồm 3 mặt...Thần lực tam phân này được cảm thấy theo cách sau:
- Thứ 1. Nó tác động lên bức tường của nguyên tử dưới hình thức một lực bên ngoài và ảnh hưởng đến tác động quay vòng và rung động của nguyên tử đó.
- Thứ 2. Nó kích thích lửa bên trong của nguyên tử và làm cho ánh sáng của nguyên tử đó chiếu ngày càng chói lọi.
- Thứ 3. Nó tác động lên các loa tuyến và đưa chúng dần dần đi vào hoạt động (LVLCK, 93)
+ Nguyên tử thường tồn: Một điểm chiếm hữu của nguyên tử vật chất. Một trung tâm lực rất nhỏ hợp thành yếu tố trung ương và cơ chế phương tiện thu hút xung quanh đó các thể của Chân Thần lâm phàm được thành lập. Các thể này được xỏ xâu như các viên ngọc trên sutratma hay là sợi chỉ (LVLCK, 90).
+ Nguyên tử: ... Các sinh linh (sự sống) cá nhân nhỏ bé mà chúng ta gọi là các nguyên tử hoặc các tế bào của cơ thể. Chúng tồn tại trong ba nhóm và cấu tạo thành bốn thể tương ứng: thể hồng trần đậm đặc, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí. (Nguồn: Kiến tạo Tứ hạ thể)
+ Nguyên tử thức (Atomic consciousness), biểu hiện qua các trạng thái đẩy và hút nối tiếp nhau. Trong định nghĩa cuối cùng này có tàng ẩn chìa khóa cho các trạng thái tâm thức khác. (LVLCK, 279)
* Tâm thức có thể được định nghĩa như là năng lực thấu hiểu. Trước tiên, nó có dính líu đến mối liên hệ của Ngã với Phi Ngã, của Chủ thể Nhận thức với Điều được Nhận thức và của Chủ thể Tư Tưởng với những gì được tưởng nghĩ đến.
+ Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành - Bốn hoằng thệ nguyện :
Đạo Phật cao hơn hết thề nguyền tu đến thành công, nghĩa là đã thường hạ được cái tâm (giữ hạnh khiêm cung), làm việc chơn chánh, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát nhã, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo.
Thường thường tưởng đến việc tu hành là cái chánh pháp tạo nên sức mạnh của thệ nguyện (nguyện lực) vậy.
Giảng:
Tứ hoằng thệ nguyện chính là những nguyện mà Bồ Tát cần phải phát.
Thường hành hạ tâm, chính là Kinh Địa Tạng nói, nếu có quốc vương, tể tướng, đại thần, bá quan dân chúng, hoặc là trưởng giả, cư sĩ, bà la môn, sát đế lợi, gặp những người bần cùng khốn khổ, tàn tật câm điếc, năng tự tay mình bố thí, tươi cười, lời nói hiền hòa an ủi, khiến cho họ có cảm giác an lạc, công đức này giống như cúng dường hằng hà sa số Phật. Cho nên muốn Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành, thì phải giống như tòa lầu cao trăm trượng từ đất khởi.
Có một người sau khi trở về Hương Cảng nói những lời không hợp lôgích, ông ta nói: "Những nhà trọc trời ở Nữu Ước không phải từ mặt đất xây dựng lên, mà xây nền móng trong không trung." Ông ta phao ra những lời đồn nhảm nhí như thế, chỉ có thể mê hoặc một số người ngu muội mà thôi.
Lại có người đưa ra một lời đồn khác: "Nước Mỹ thật là đẹp a! Cầu vòng ở nước Mỹ không giống cầu vòng ở Trung Quốc, nó rất sặc sỡ màu gì cũng có." Lại nói: "Mặt trăng ở nước Mỹ không phải hình tròn mà là hình tam giác, mặt trời ở nước Mỹ hình vuông." Ông có tin những lời này không? Cho nên thành Phật cần phải có tâm khiêm hạ khiêm cung, không nên cống cao ngã mạn, nói: các anh xem tôi như thế như thế..., mà cần phải êm đềm lời nói, diệu hòa sắc mặt, hành chân pháp, hành chánh pháp, hành pháp chân chánh, ly khai mê, ly khai giác. Giác này là chỉ giác của giác quan, là ác giác chứ không phải chánh giác. Giác có sự phân biệt giữa chánh giác và tà giác. Tà giác giống như có một số người, quý vị kêu họ học chánh pháp, họ học hoài học mãi cũng không thông, nhưng vừa học bàng môn tả đạo thì học rất nhanh. Giống như đánh bài, họ vừa nhìn là biết chơi liền, không cần phải dạy. Những thứ không chánh đáng thì học rất nhanh, đó gọi là ác giác. Người tu học đạo, cần phải ly khai ác giác.
Như thế nào là ly khai ác giác? Cần phải thường sanh Bát nhã, Bát nhã chính là trí huệ, trí huệ tức là sáng suốt hiểu rõ, sáng suốt chính là giác.
Trừ chân trừ vọng, chân này là chỉ cái chân đối đãi của chân và vọng, không phải là chân của chân chánh. Nếu trừ đi cái chân, cũng trừ luôn cái vọng, thì đó là tự tánh Chân như bổn lai của chính mình. Tự tánh Chân như không phải chân hoặc vọng, vì có chân nên có vọng, có vọng nên có chân, nếu không có vọng thì cũng không có chân, cho nên tự tánh Chân như không vọng cũng không chân. Kinh Lăng Nghiêm nói: Vọng hiển chư chân, vọng chân đồng thị. Vọng chính là để hiển chân, vọng và chân đều là vọng, cần biết chân chân thì không có đối đãi, không có một cái chân cũng không có một cái giả. Cho nên chân cần phải trừ, vọng cũng cần phải trừ. Nên nói: "Chân bất lập, vọng bổn không, hữu vô cụ di bất không không." Chân cũng không lập, vọng cũng vốn không, có và không đều không cần đến, lúc đó bất không cũng là không. Quý vị được như thế, thì có thể nhìn thấy Phật tánh của chính mình, lập tức thành tựu Phật đạo. Thường niệm niệm tu hành, thường tu tứ hoằng thệ nguyện. Có nguyện có thệ, mới có thể có tu có hành. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Pháp môn vô lượng thệ nguyện học - Bốn hoằng thệ nguyện :
Tất cả các pháp môn kể không hết đều thề nguyền học cả, nghĩa là tự mình phải thấy tánh, thường thực hành các chánh pháp. Thế mới gọi là thiệt học..... Thường thường tưởng đến việc tu hành là cái chánh pháp tạo nên sức mạnh của thệ nguyện (nguyện lực) vậy.
Giảng:
Cái gì gọi là pháp môn vô tận thệ nguyện học? Quý vị cần phải nhận thức bổn tâm của chính mình, nhìn thấy bổn tánh của mình, thường y theo chánh pháp tu hành, không nên hành tà pháp, đó chính là chân chánh học Phật pháp. Nếu quý vị chỉ học mà không hành, học Phật pháp rất nhiều, nhưng trên thực tế không ứng dụng thực hành, đó không phải là chân học Phật pháp. Người chân học cần phải thực hành, giống như có một vài người, đến Phật Giáo Giảng Đường học Phật pháp, lúc chưa học thì hút thuốc, uống rượu, ma túy, tật xấu nào cũng có, nhưng sau khi học Phật pháp, thuốc cũng không hút, rượu cũng không uống, thịt cũng không ăn, ma túy thì không cần nói đến. Lại nữa, lúc trước rất làm biếng, từ sớm ngủ đến tối, không có việc làm liền đi ngủ, nhưng nay nếu không xem Kinh thì đánh máy, nghe Kinh, ngồi thiền. Nếu không phải chân học, thì không làm những việc nhọc nhằn như thế.
Tứ hoằng thệ nguyện chính là những nguyện mà Bồ Tát cần phải phát.(Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn - Bốn hoằng thệ nguyện :
Tất cả các điều phiền não chẳng xiết kể đều thề nguyền dứt bỏ, nghĩa là đem Trí Bát nhã của tánh mình mà dứt bỏ lòng nghĩ tưởng giả dối. Thế mới gọi là thiệt độ.
Tất cả các pháp môn kể không hết đều thề nguyền học cả, nghĩa là tự mình phải thấy tánh, thường thực hành các chánh pháp. Thế mới gọi là thiệt học.
Đạo Phật cao hơn hết thề nguyền tu đến thành công, nghĩa là đã thường hạ được cái tâm (giữ hạnh khiêm cung), làm việc chơn chánh, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát nhã, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo.
Thường thường tưởng đến việc tu hành là cái chánh pháp tạo nên sức mạnh của thệ nguyện (nguyện lực) vậy.
Giảng:
Phiền não thì không có lúc cùng tận, nhưng quý vị cần đoạn nó, nói là đoạn nhưng thực ra là biến, làm sao biến? Tức biến phiền não thành Bồ đề, vì phiền não tức Bồ đề, nếu đoạn phiền não, cũng chính là đoạn luôn Bồ đề, cho nên không nên đoạn tận, cần lưu lại chút chút. Nếu đoạn tận phiền não cũng là thành Phật, nay vì không muốn thành Phật nhanh như vậy, bèn lưu lại một chút ít phiền não như sợi lông cọng tóc, mà biến những phiền não còn lại thành Bồ đề. Lúc Bồ đề nhiều rồi thì có thể đem những phiền não chút chút đó biến thành Bồ đề luôn. Cái gì gọi là đoạn phiền não? Tức dùng trí huệ tự tánh chân chánh, trừ đi những tư tưởng hư vọng – vọng tưởng, cũng chính là tà niệm, vô minh của quý vị. Trừ vô minh, chính là đoạn phiền não. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tình thương (Love, là Bác ái, Thuật ngữ bác Khá):
* Tình yêu: Nhân ái - Hy sinh - Tha thứ - Bao dung - Cảm thông => Bác Ái: Giác ngộ - Từ Bi - Tự tại (Người mẹ => Giác ngộ là Mẹ Quan Âm Bồ Tát)
+ Tâm từ bi: Theo hiện tại mà nói, là lòng yêu thương một chiều, như Mẹ yêu con, không có vấn vương, đòi hỏi, mưu cầu ....PS Tịnh Không.
+ Bác ái - Minh Triết: Đặc điểm của Cung 2 là sự thu hút hay hấp dẫn, từ tính. Hai khía cạnh của Cung 2 (Lưỡng tính) là
- Bác ái (Love - Tình thương biểu lộ Minh triết ở cõi cảm dục), nhấn mạnh về phương diện “Tâm, Chữa lành, Cứu Rỗi”, và khía cạnh
- Minh triết (Wisdom) nhấn mạnh phương diện “Trí”, giáo dục, chân lý thuần khiết. (Nguồn: Năng lượng 7 cung/ Khóa học GQ-MF)
+ Trạng thái Bác ái: Linh hồn tức là trạng thái Bác ái (LVHLT, 382)
+ Định luật Bác Ái: Thực ra chỉ là định luật của Thái Dương Hệ đang biểu hiện trên tất cả các cõi.
+ Ý chí Bác ái (ý muốn thương yêu): Ý chí bác ái tự biểu lộ bằng năng lực hấp thu rộng rãi các yếu tố khác nhau, tuy nhiên, vẫn đưa ra cơ hội đồng đều cho tất cả.(SHLCTĐ, 131)
+ Tình thương là biểu lộ của Minh Triết trên cõi cảm dục.(KCVTT, 244)
+ Tình thương về thực chất, là một mãnh lực hay năng lượng khách quan vì hiệu quả của nó tùy thuộc vào loại hình thức mà nó tiếp xúc và tùy thuộc vào những gì mà nó đang tác động. (SHLCTĐ, 265)
+ Tình thương không phải là xúc cảm hay tình cảm và không có liên quan gì với thương cảm (vốn là sự lệch lạc của tình thương đích thực) mà là sự quyết tâm không lay chuyển để làm những gì lợi ích nhất cho toàn thể nhân loại hay cho tập thể (nếu bạn không thể có được ý niệm rộng lớn hơn) và làm điều này với bất cứ giá nào của riêng mình và bằng cách hy sinh tối đa. (SHLCTĐ, 277)
+ Tình thương không phải là một tình cảm hay một cảm xúc, nó cũng không phải là một dục vọng hay một động cơ ích kỷ để làm điều phải trong đời sống hàng ngày. Tình thương là sự phát động một sức mạnh nó làm vận chuyển bầu thế giới, nó đưa đến sự hội, sự kết hợp sự đoàn kết, chính nó là cái động lực thúc đẩy Thượng Đế hành động, sáng tạo. Tình thương là một vật khó vun trồng, vì tính chất con người vốn ích kỷ…(Huấn thị đầu tiên của Chân Sư DK)
+ Tình thương là năng lượng và đó là một chất có thật như vật chất trọng trược. Chất đó có thể được dùng để xua đuổi mô bị bệnh và cung cấp chất thay thế lành mạnh vào chỗ của chất liệu nhiễm bệnh để chất này bị loại ra.(CTNM, 102)
+ Tình thương là biểu hiện sự sống của chính Thượng Đế, tình thương là mãnh lực kết hợp làm cho mọi vật thành tổng thể (Tôi muốn bạn suy ngẫm câu này) và tình thương là tất cả những gì hiện hữu.(CTNM, 356)
+ Tình thương là sự cảm thông tinh tế, năng lực để nhận thức những gì đã tạo ra tình trạng hiện tại và do đó, không có sự chỉ trích; nó bao hàm sự im lặng do từ tâm vốn dĩ đưa tới việc sẵn sàng hàn gắn và chỉ biểu lộ khi không có trạng thái gò bó của sự im lặng và con người không còn phải làm tĩnh lặng bản chất thấp của mình nữa và làm êm dịu tiếng nói của ý kiến riêng của mình ngõ hầu cảm thông và đạt được sự đồng nhất hóa với những gì phải được yêu thương. (SHLCTĐ, 99)
+ Tình thương của Thượng Đế: Thực ra, đó là mãnh lực thu hút bằng từ điện, đang đưa mỗi kẻ hành hương hướng về Ngôi Nhà của Từ Phụ. Chính mãnh lực này được khơi dậy (stir) trong tâm nhân loại và biểu hiện qua trung gian các Đấng Hóa Thân của thế gian, qua sự khát khao huyền bí học hiện hữu nơi mọi người, qua mọi phong trào nhắm mục tiêu tạo phúc lợi cho nhân loại, qua các khuynh hướng từ thiện và giáo dục đủ loại và (trong điều được gọi là thế giới tự nhiên) qua bản năng che chở của tình mẫu tử. (LVHLT, 321)
+ Đức Phật dạy Phật tử phải tu tập tứ vô lượng tâm:
Tâm “Từ” là (Nhân từ - Mộc/ Vui mừng khánh chúc) khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác.(Với người có duyên/ Cùng thể tánh)
Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt (Đặc biệt - Hành bố thí với người không có duyên).
Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới.
Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị.
Xả có bốn thứ:
- Xả Tài/ Thí Tài: Đem cho người ta đồ vật, của cải thời gọi là “tài xả”;
- Xả pháp/ Thí Pháp: Đem giáo pháp, giáo lý cho người thời gọi là “pháp xả”.
- Xả vô úy/ Thí vô úy: Đem đức không sợ hãi cho người thời gọi là “vô uý xả”.
- Xả phiền não: Còn tự mình xả bỏ tất cả các mối phiền não thời gọi là “phiền não xả”.
+ Bồ Tát đại diện Từ bi - Hỷ xả: Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỷ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh (thường trong sạch) tức là Thích Ca, lòng bình trực (bình đẳng chánh trực) tức là Di Đà. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.
4. Xả là tâm buông xả. Chúng ta có tâm buông xả không? Nếu có, vậy là lớn hay nhỏ? Là nhất thời hay là vĩnh viễn? Xả cái gì? Là phát tâm cho chúng sanh sự vui vẻ, bạt trừ cái khổ của chúng sanh và giúp họ trong hoàn cảnh nguy khốn. Nếu làm được như thế, chúng ta sẽ sanh lòng hoan hỷ đến mức vô hạn, nhưng chúng ta đừng nên chấp vào đó - làm xong việc rồi nên quên hết chứ đừng lưu giữ trong tâm thức. Nếu chúng ta chấp mà không quên được, đó không phải là hạnh nguyện của Bồ Tát. Chúng ta nên có tinh thần thi ân bất cầu báo thì mới được xem là người Phật tử chân chánh. Xả có bốn thứ "Tài - Pháp - Vô úy - Phiền lão".... (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
Xem: Tổng hợp về Bái ái - Minh Triết
Xem Tứ vô lượng tâm;
Xem: TH về Từ Bi Hỷ Xả và Tình thương Bác Ái
+ Phiền lão Trược (Có hai loại giải thích cần phân biệt)
Sự giải thích về ngũ trược mà tôi có lần đã nói ở trước là hoàn toàn khác với ở đoạn nầy. Đoạn kinh trước là nói về ngũ trược trong phạm trù thế giới, còn ở đây ngũ trược được giải thích trong phạm trù thân thể của mình. Thực vậy, cái hỗn trược bên ngoài sở dĩ có là do ngũ trược bên trong. Vì vậy nên quý vị nên tịnh hoá các ngũ trược cụ thể hữu hình, thì các ngũ trược bên ngoài sẽ được tiêu trừ. Như vậy có hai loại
a- Ngũ trược trong phạm trù thế giới: cũng gồm Kiếp trược - Kiến trược - Phiền lão trược - Chúng sanh trược - mạng trược;
3) Phiền Não Trược. Mọi người đều có phiền não - quý vị có phiền não, tôi cũng có phiền não - phiền não của chúng ta trộn lẫn, xen lộn với nhau, không cách nào phân định cho rõ được.
Có người nói: "Tôi thừa biết rằng phiền não của tôi là của tôi, phiền não của Thầy tức là của Thầy - của ai cứ nấy!" Nếu nói như thế thì tại sao quý vị lại có thể gây phiền não cho tôi được? Nếu quả thật phiền não là của tôi thì đáng lẽ không cần quý vị gây ra mới phải; còn nếu đó đích thật là của quý vị, thì tất nhiên cũng không cần tôi gây ra, không cần tôi làm cho quý vị sanh phiền não mới đúng chứ?! Như vậy, xét ra thì phiền não cũng không có ranh giới rõ rệt và cũng là một hỗn hợp ô trược, bất tịnh. (Nguồn: Kinh Địa tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phiền Lão Trược trong Ngũ trược - Nguồn cơ của sáu Trần của Con Người
Lại nữa, trong tâm ông do sự nhớ biết học tập mà tánh phát ra thấy biết. Dung nạp sáu trần, rời tiền trần thì không có tướng, rời cái biết thì không có tánh. Những điều đó đan dệt nhau, hư dối mà thành. Đây là lớp thứ ba gọi là phiền não trược.
Giảng giải:
"Lại nữa, trong tâm ông do sự nhớ biết học tập mà tánh phát ra thấy biết". Tụng tập hay học tập ở đây có nghĩa là học tập nghiệp chướng cả kinh điển Phật pháp lẫn kinh luận thế gian. Dung nạp sáu trần. Những tác dụng nầy làm thành cái thấy biết – nhận biết được những thứ vốn mình chưa hề hay biết– và quan niệm, nhận thức– hiểu những điều mà mình chưa từng hiểu. Nhưng kiến thức thu thập được từ sách vở lại thuộc về trí thế gian, chưa phải là rốt ráo, chưa phải là sự khai mở chân thực của tự tánh. Khi mình đã có hiểu biết, thì sáu trần–sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp–liền thành hình. Rời tiền trần thì không có tướng. Nếu quý vị tách rời trần lao ra, thì chẳng có thực thể hoặc tướng trạng. Rời cái biết thì không có tánh. Đan dệt nhau, hư dối mà thành. Nếu chúng không kết hợp với nhau, thì chẳng có gì hư vọng. Một khi đã có chân thì liền có vọng. Không có chân thì không có vọng. Khi có vọng, thì sẽ có chân. Chân và vọng là hai khái niệm đối đãi, thuộc phạm trù tương đối. Như Lão Tử đã từng nói:
Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa, 大道廢有仁義
Trí huệ xuất, hữu đại nguỵ, 智慧出有大偽
Lục thân bất hòa, hữu hiếu từ, 六親不和有 孝慈
Quốc gia hỗn loạn, hữu trung thần. 國家昏亂有忠臣.
Khi đại đạo đã tiêu trầm thì người ta mới nói về nhân nghĩa. Khi đại đạo vẫn còn lưu hành thì chẳng có ai cần đến điều nhân nghĩa. Khi mọi người đang tu đạo, ai cũng biết rõ là không nên làm cho người khác sinh khởi phiền não. Mọi người đều biết phải tôn trọng chính mình và tôn trọng người khác, thế nên không cần phải nói về nhân nghĩa nữa.
Khi con người đều thông minh trên mức trung bình một tí, thì chẳng có ai trong đó có thể lừa gạt người khác. Chỉ khi nào có người thông minh xuất hiện và nhận thấy rằng những người chung quanh mình sao quá ngu mê. Do sự so sánh như vậy, họ liền quyết định làm trò lừa dối các người kia, ngoại trừ những người thông minh như họ ra, chẳng có ai nhận biết được chuyện đó. Thế nên khi có kẻ thông minh xuất hiện, thì có sự xảo trá hư nguỵ. Nếu họ thực hành đạo ngũ luân, năm đạo lý tôn trọng lẫn nhau giữa:
1. Vua và quần thần.
2. Cha và con.
3. Vợ và chồng.
4. Anh và em.
5. Bằng hữu,
thì chẳng có ai đả động tới chuyện cha hiền con hiếu. Nhưng khi cha không hiền, con phải tỏ ra có hiếu hơn; thì đây là lúc chữ hiếu được nói tới. Hoặc nếu khi con bất hiếu, thì cha phải càng hiền từ hơn. Do vậy, ‘khi lục thân bất hòa, thì mới cần người con có hiếu.”
Làm sao có thể biết được ai là trung thần trong thời kỳ đất nước yên bình? Ai là người phản nghịch? Khi đất nước yên bình những kẻ trung thần không bao giờ mang áp phích cổ động với dòng chữ “trung thần,” cũng không ai chụp vào mình cái mũ phản quốc. Nhưng khi quốc gia bị xáo trộn, lòng trung thành trong mỗi vị trung thần tự nổi dậy. Đó là lý do tại sao người thời nay đánh giá rất cao Nhạc Phi 岳飛. Vì khi đất nước bị xâm lăng, ông dám đương đầu chống trả.
Đạo lý trong đoạn kinh nầy cũng giống như điều của Lão Tử muốn nói. Nếu chỉ có một yếu tố, thì sẽ không có gì trở nên hỗn trược. Nhất chân pháp giới, hoặc Như Lai tạng, hoặc hư không – không bao giờ sinh khởi thành hỗn trược. Nhưng vì chúng kết hợp với nhau và hình thành một khối, nên hư vọng sanh khởi. Điều nầy chứng minh rằng trong mọi pháp, đều có cái chân cái nguỵ, cái giả cái thật. Thế nên, ngay cả trong Như Lai tạng, cũng có cái hư vọng phát sinh từ cái chân thật. Cũng tương tự như vậy, trong thân thể con người vốn là vật hữu hình, thể rắn; nhưng bên cạnh đó chúng ta còn có một cái bóng. Trong pháp ẩn dụ, cái bóng biểu tượng cho hư vọng sinh khởi từ cái chân thật; cái bóng biểu tượng cho vô minh. Từ vô minh mà các vấn đề khác phát sinh. Và ở đây, cái hư vọng phát sinh từ lớp thứ ba, được gọi là phiền não trược. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4- Ch.IV)
+ Phiền não trược: lấy năm độn sử làm bản thể của nó. Năm độn sử là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, lấy phiền não bức bách làm tướng. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Phiền lão chướng: Bản thân của phiền não là chướng ngại, làm chướng ngại Niết Bàn gọi là phiền não chướng. Sở tri cũng là chướng ngại, làm chướng ngại Bồ đề. Đây là danh từ thuật ngữ trong Phật học vẫn phải giải thích thì bạn mới rõ ràng, mới có thể minh bạch. Cái gì gọi là Niết Bàn? Niết Bàn là tiếng Phạn tức nghĩa là không sanh, không diệt. Quý vị nên biết tự chúng ta không sanh, không diệt nhưng bây giờ lại có sanh diệt. Vì sao lại có sanh có diệt? là bởi vì bạn có nghiệp chướng nên đã làm chướng ngại Niết Bàn, không sanh không diệt, không sanh không diệt biến thành sanh diệt. Đây là điều bất hạnh. Tất cả phàm phu có sanh diệt, có sanh tử là vì họ có phiền não. Nếu đoạn hết phiền não thì không còn sanh diệt nữa hay nói cách khác tức không còn sanh tử nữa. Vốn là không sanh, không chết, vốn là không có sanh tử, cái đạo lý này rất sâu, rất sâu. Cái hiện tượng này cũng rất là vi tế. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối)
+ Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ - Bốn hoằng thệ nguyện :
Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ.
Giảng:
Chúng sanh trong tâm mình, có thiện, có ác. Chúng sanh thiện tự biết cầu Vô thượng đạo, phát Bồ đề tâm, nhưng chúng sanh ác thì nương vào quý vị độ nó. Cho nên cần phải phát nguyện độ chúng sanh trong tâm mình. Giảng đến đây, chúng ta mỗi người đều nên hồi quang phản chiếu, tự mình phản tỉnh quan sát một chút: " Chúng sanh trong tự tâm tôi đã độ chưa? Tư tưởng của tôi có thuần chân không? Hành vi có cao thượng không? Tôi có tâm tật đố, tâm chướng ngại, và muôn vàn tâm vô minh không?" Chúng sanh trong tâm mình vốn vô lượng, vô biên, nay đưa ra những điểm quan trọng: chúng sanh tà mê cần phải dùng trí huệ chân chánh độ. Cần dùng tâm khiêm cung, tâm chân thật độ chúng sanh cuống vọng, kiêu mạn. Cần dùng tâm thiện độ chúng sanh có tâm ác. Cần dùng tâm cung kính độ tâm tật đố. Nếu tật đố người này hay giỏi hơn tôi, thì cần phải dùng tâm cung kính hóa giải. Tâm ác độc, ở đây đưa ra ví dụ, giống như Bồ Đề Lưu Chi dùng thuốc độc đầu độc sát hại Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, đó là tâm ác độc. Quý vị nghe kinh cần phải hồi quang phản chiếu, tự hỏi mình có những tật xấu này không. Kinh nói độ chúng sanh, vậy trong tâm tôi có những chúng sanh này không? Nếu có thì tìm cách độ nó. Nếu quý vị không độ nó, nó liền kéo quý vị xuống địa ngục, mà chịu khổ vô cùng không ra khỏi được.
Trên đây đã giảng các loại tâm, đó là chúng sanh, quý vị mỗi người cần phải độ những chúng sanh này đến lúc rốt ráo mới được ngừng nghỉ, không nên đã biết mà vẫn cố phạm, đó mới là chân độ chúng sanh.
Sao gọi dùng tánh mình mà độ lấy mình (tự tánh tự độ)? Nghĩa là các chúng sanh trong tâm là tà kiến, phiền não, ngu si, phải đem chánh kiến mà hóa độ các tánh xấu ấy. Đã có sẵn chánh kiến thì phải dùng trí Bát nhã để đánh dẹp các chúng sanh ngu si, mê vọng. Mỗi mỗi mình phải độ lấy mình: Tà đến lấy chánh độ; mê lại, dùng ngộ mà độ; ngu đến, lấy trí mà độ; dữ lại dùng lành mà độ. Độ như thế, mới gọi là thiệt độ.
Giảng:
Cái gì gọi là tự tánh tự độ? Tức những chúng sanh tà kiến, phiền não, ngu si trong tâm mình, quý vị cần phải dùng chánh kiến giáo hóa chúng nó. Quý vị đã có chánh kiến, thì dùng Bát nhã trí huệ đánh chết những chúng sanh mê vọng, ngu si.
Có người nói:
– Đánh chết chúng sanh (Trong tâm mình) không phải phạm giới sao?
Phạm giới này, một chút xíu cũng không quan trọng. Lúc không nên phạm giới thì quý vị không sợ phạm, lúc không phạm giới thì quý vị nói đã phạm – Loại người như quý vị thật khó giáo hóa! Những chúng sanh xấu xa trong tự tánh quý vị, cần phải trừ đi. Trừ đi những chúng sanh xấu, những chúng sanh tốt sẽ được an lạc, cho nên có thể giết, có thể đánh chết nó.
Quý vị mỗi một người cần phải tự tánh tự độ. Lúc chúng sanh tà đến, cần dùng chúng sanh chánh độ nó. Chúng sanh mê lại thì dùng chúng sanh ngộ độ. Chúng sanh ngu si đến, quý vị dùng trí huệ độ, chúng sanh ác đến thì dùng chúng sanh thiện độ. Độ chúng sanh như thế, mới gọi là chân chánh độ chúng sanh.... (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thấy sự phát nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát:
"Này Văn Thù Sư Lợi! Bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả nhân đó liền phát nguyện rằng: ‘Từ nay cho đến tận vị lai kiếp chẳng thể tính đếm về sau, tôi sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà quảng thiết nhiều phương tiện, làm cho họ được giải thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.’
Bởi đã ở trước Ðức Phật đó mà lập đại nguyện như thế, nên đến nay đã trăm ngàn vạn ức na-do-tha không thể nói hết số kiếp, mà vẫn còn làm vị Bồ Tát."
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi Bồ Tát Văn Thù: "Này Văn Thù Sư Lợi! Bấy giờ, con trai vị Trưởng Giả nhân đó liền phát nguyện rằng: ‘Từ nay cho đến tận vị lai kiếp chẳng thể tính đếm về sau ...’"
"Tận vị lai kiếp" tức là chỉ cho vô số vô lượng kiếp về sau, tận cùng của số kiếp trong đời vị lai, đến hết kiếp vị lai. Kiếp vị lai vì sao lại có thể hết được? Kiếp vị lai vốn chẳng thể hết hay cùng tận được; song ở đây nói "hết" là ám chỉ quãng thời gian dài bất tận, lâu dài đến nỗi không thể nào tính xuể là bao nhiêu kiếp.
Sau khi được nghe Ðức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai giải thích xong, con trai ông Trưởng Giả bèn phát tâm lập nguyện rằng: "Kể từ bây giờ cho đến tột số kiếp chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà quảng thiết nhiều phương tiện..." Bởi chúng sanh ở thế giới Ta Bà cử tâm động niệm không chi là không tội, không chi là không nghiệp, cho nên họ được mệnh danh là "những chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo."
"Lục Ðạo" tức là sáu nẻo đường-Trời, Người, A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh.
"Quảng" là rộng rãi; "thiết" là thiết lập, đặt ra. Vậy, "quảng thiết nhiều phương tiện" tức là tùy nghi mà đặt ra vô số pháp môn phương tiện, chứ chẳng phải chỉ có một mà thôi.
"‘Làm cho họ được giải thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.’" Trưởng Giả tử nguyện rằng đến khi nào mọi chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo đều lìa khổ được vui và đều thành Phật cả rồi, thì bấy giờ anh ta mới thành Phật; nếu còn sót một chúng sanh chưa thành Phật, thì vị Trưởng Giả tử này cũng sẽ chưa thành Phật!
Có câu:
"Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn."
(Nếu còn một kẻ chưa thành Phật,
Tôi quyết không về cõi Nê Hoàn.)
(Kinh Lăng Nghiêm, quyển 3)
Nghĩa là giả sử còn một chúng sanh chưa thành Phật, thì tôi dứt khoát chưa vào Niết Bàn. ("Nê Hoàn" tức là Niết Bàn.)
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: "Này Văn Thù Sư Lợi! Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bởi đã ở trước Ðức Phật đó mà lập đại nguyện như thế, nên đến nay đã trăm ngàn vạn ức na-do-tha bất khả thuyết kiếp, mà vẫn còn làm vị Bồ Tát."
"Na-do-tha" là một con số rất lớn của Ấn Ðộ. "Bất khả thuyết" cũng ám chỉ một con số lớn vô kể. Do đó, "na-do-tha bất khả thuyết kiếp" có nghĩa là số kiếp nhiều đến nỗi không thể nói hết.
Trưởng Giả tử-tiền thân của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát-đã đối trước Ðức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai mà phát lời đại nguyện đó, và từ ấy đến nay đã trải qua quãng thời gian lâu dài tới cả trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp như thế, mà Ngài Ðịa Tạng vẫn còn làm vị Bồ Tát, chứ chưa thành Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Đức Phật thấy sự - Phát lời nguyện: ... Còn có một ngoại đạo khác tên Thân Mục 申目 ( Shen Jih) trộn chất độc trong thức ăn rồi đem dâng cho Đức Phật. Khi Đức Phật thấy thức ăn, ngài nghĩ, “Nguyện rằng, như trong tâm ta chẳng có gì độc địa, thì khi ăn thực phẩm nầy, nó sẽ chẳng hại gì mình.” Rồi ăn thực phẩm ấy. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phát nguyện tu Bồ Tát Đạo: Thiện nam tử, bồ tát chỉ lấy đại bi làm phương tiện mà vào các thế giới luân hồi, khai phát cho những người chưa tỏ ngộ. Đến nỗi biểu hiện thân thể đủ mọi thứ hình tướng, biểu hiện cảnh ngộ đủ mọi sự thuận nghịch , biểu hiện đồng việc với họ mà giáo hóa cho họ trở thành Phật đà. Tất cả sự biểu hiện này toàn là sức mạnh của đại nguyện xuất từ đại bi.
Những người thời kỳ cuối cùng, nếu nổi lên tâm chí tăng thượng đối với đại viên giác, thì phải phát đại nguyện trong sáng của bồ tát. Nên nói như vầy: Cầu nguyện cho con nay đứng trong viên giác của Phật, tìm và gặp được thầy bạn tốt, không gặp phải ngoại đạo và nhị thừa. Rồi y theo đại nguyện như vậy mà tu tập, thì dần dần hủy diệt hai chướng ngại. Hai chướng ngại hủy diệt hết cả thì đại nguyện tròn đầy, thế là bước lên chánh điện trong sáng của đại giải thoát, nhập vào thành trì tráng lệ của đại viên giác. (Nguồn: Kinh Viên Giác - Di Lặc hỏi)
+ Tam nguyên/ Tam phân: - Tam nguyên: Là tinh thần, linh hồn và thân thể. (TLHNM II, 391)
+ Tam nguyên tinh thần của con người. - Sự sống, ý thức và hình hài. (LVHLT, 21)
+ Tam nguyên - Ba Thập Giá của vòng Hoàng đạo phản ánh Tam Nguyên được tất cả các tôn giáo công nhận, và thể hiện ba giai đoạn của cuộc sống hoặc các khía cạnh của cuộc sống. Shiva, Vishnu, Brahma là ba thể hiện của người Hindu về ý chí, mong muốn và hoạt động. Shiva đại diện cho ý chí. Ngài được cho là nhảy múa để đưa vũ trụ vào hiện hữu. Vishnu được biết đến như là Người Giữ Gìn; và Brahma là người đứng đàng sau công việc của mọi thứ trong Vũ trụ và được xem là Thần Sáng tạo.
Ba Vị là 3 phương diện: Thứ nhất, thứ hai và thứ ba của Thượng đế. Trong Cơ Đốc Giáo, 3 Phương diện này là Cha, Con và Chúa Thánh Thần. Cha là ý chí thuần túy, Con muốn đem ánh sáng vào thế gian, và Đức Thánh Linh thể hiện tinh thần tích cực di chuyển trên thế giới. (Nguồn: Chiêm THNM 17)
+ Tam giác và hình vuông
- Tam nguyên Tinh thần: Có đỉnh là Atma, 2 cạnh là Buddhi và Manas
- Tứ hạ thể - Tứ nguyên hạ: là hình vuông, trên là Hạ trí, 2 cạnh là Dĩ thái và Cảm xúc, dưới là Thể xác (Nguồn: Con người và các thể - Thông thiên học)
+ Tứ Nguyên Huyền Bí trong Con Người: Một nhận xét trong khi nghiên cứu cung Hoàng đạo Leo - Sư Tử, rất thú vị của Chân Sư DK, với Mercury - Thủy Tinh, Ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến tứ nguyên của con người – Tinh thần, Linh hồn, Trí tuệ và Bộ óc. Năng lượng này nó chuẩn bị cho người tìm đạo được điểm đạo. Tứ nguyên cao cấp này, bạn có:
Sirius Leo Mercury Saturn
Tinh Thần ... Linh hồn .... Trí tuệ ....... Bộ óc
Sự sống ..... Tính chất ... Giác ngộ ... Sắc tướng
Hít vào ........Tạm nghỉ ... Thở ra ...... Tạm nghỉ
- Bảng trên mang lại cho bạn manh mối cho thực tại căn bản, và việc cần thiết thiền định như được thực hành bởi đệ tử và điểm đạo đồ (CTHNM, 338)
Xem Sơ đồ: Tam nguyên Tinh thần - Kiến tạo Tứ Hạ thể
+ Thần, Thiên thần (Devas): Devas là các thực thể tiến hóa (progressing entities) của một chu kỳ hành tinh trước. (GLBN III, 235)
+ Thần chất (Deva substance, chất liệu của Thiên thần):
Tinh chất kiến tạo (building essence) tức là thần chất.
Vật chất được các Agnishvatta làm linh hoạt (vitalised). (LVLCK, 936, 774)
+ Định nghĩa “Agnishvatta” có gốc từ tiếng Phạn:
Agni = Lửa + Shvatta = “Được nếm trải / được tôi luyện” ===> Có nghĩa: “Những kẻ đã được lửa tinh luyện”.
Trong huyền học, Agnishvattas là một loại Pitris (Tiên phụ, Tổ tiên vũ trụ) – tức các Đấng kiến tạo.
Họ không xây dựng thể xác, mà ban cho con người ngọn lửa trí tuệ (manas), tức là tâm trí và tự ý thức.
=> Như vậy: Agnishvatta là “Cha của Linh hồn”. Là chủ thể hỏa tinh thần, không dính trực tiếp vào việc xây thân xác. Gọi là
Solar Pitris (Tiên phụ Thái Dương)
Fathers of the Ego (Cha của Chân Ngã)
Linh hồn nhóm gieo mầm cho nhân loại
=> còn Lunar Lords là “Cha của thân xác”.
+ Thuật ngữ Huyền học: Agnishvatta có gốc từ tiếng Phạn:
Agni = Lửa và Shvatta = “Được nếm trải / được tôi luyện” = > Có nghĩa: “Những kẻ đã được lửa tinh luyện”.
Agnishvatta là một loại Pitris (Tiên phụ, Tổ tiên vũ trụ) – tức các Đấng kiến tạo. Họ không xây dựng thể xác, mà ban cho con người ngọn lửa trí tuệ (manas), tức là tâm trí và tự ý thức. Về vị trí - Hai nhóm Pitris chính:
a. Barhishad Pitris (Nguyệt Tinh Quân xây thể thấp: thể xác – thể dĩ thái – thể vía).
b. Agnishvatta Pitris (các Pitris hỏa).
=>>> Agnishvatta là “Cha của Linh hồn” - Liên hệ đến Mặt Trời (cung Lửa, Sao Kim), còn Lunar Lords là “Cha của thân xác” - Liên hệ đến Mặt Trăng. (GPT tổng hợp)
+ Nguyệt Tinh Quân - Lunar lords: Chân sư DK nói về các Elementals (Tinh linh) của Phàm ngã - Nếu năng lượng thấp của tập hợp các nguyên tử hình tướng là yếu tố kiểm soát thì ba điều sẽ diễn ra:
Các hình tướng tự nó sẽ phát triển dần lên và ngày càng mạnh hơn, cho đến khi tiếng nói chi phối của các nguyệt tinh quân (lunar lords) của nó sẽ bóp nghẹt mọi tiếng nói khác và con người bị cuốn trở lại Sự trì trệ - Sự mù quáng - Sự nô lệ. Nhiều người không chỉ chịu sự kiểm soát của một trong các hình tướng này, mà còn là tù nhân của cả ba. ... Các sinh linh tìm cách kiểm soát y, được chia làm ba loại:
Các sinh linh (sự sống) cá nhân nhỏ bé mà chúng ta gọi là các nguyên tử hoặc các tế bào của cơ thể. Chúng tồn tại trong ba nhóm và cấu tạo thành bốn thể tương ứng: thể hồng trần đậm đặc, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí.
Tập hợp của những sinh linh này trong tổng thể tạo thành bốn loại tinh linh khác nhau, là các thực thể gắn kết riêng biệt, mặc dù chưa tự ý thức. Bốn nguyệt tinh quân (lunar lords) này tạo thành cái mà Minh triết Ngàn đời gọi là “bốn cạnh của hình vuông.” Chúng là “Tứ Nguyên (Quaternary) thấp”, “các hình lập phương giam hãm,” hay là thập tự giá mà Con người Tinh thần bên trong phải chịu đóng đinh trên đó. Bốn tinh linh này có một trí thông minh riêng của chúng và chúng ở trên con đường giáng hạ tiến hóa, tuân theo định luật riêng của chúng khi chúng có xu hướng trở nên mạnh mẽ, và do đó thể hiện hoàn toàn nhưng gì ở trong chúng.
Một nguyệt tinh quân nổi trội kiểm soát, là cái mà chúng ta hiểu theo thuật ngữ “phàm ngã”; y (nếu đại từ nhân xưng có thể được sử dụng cho nó) là tổng thể của các tinh linh hồng trần, cảm dục và trí tuệ, và chính là mãnh lực này hiện nay buộc các năng lượng bốc lửa ‘của cơ thể nuôi dưỡng ba trung tâm lực [luân xa] thấp. Thể dĩ thái có một vị trí độc nhất đáng ngạc nhiên, đơn giản chỉ là khí cụ của prana hay sự sống và luân xa mà nó sử dụng tồn tại trong một phạm trù riêng của chính nó.
Tất cả các hình tướng dưới nhân loại trong tổng hợp của chúng là một yếu tố ngăn cản mạnh mẽ của tiến trình hướng tới sự giải thoát của Chân nhân. Chúng tạo thành điều ngược lại với những gì mà chúng ta hiểu thế giới của Chân sư, và cả hai là đối cực trực tiếp với nhau từ quan điểm của những người tầm đạo. [Nguồn: Các Cung và Điểm đạo, trang 10]
+ 7. Tóm lược 'Đấng sáng tạo Linh hồn"
Agnishvatta = Pitris Thái Dương, Chủ thể Hỏa
Không xây thân thể, mà gieo trí tuệ (Manas) → giúp con người trở thành Linh hồn cá nhân / Hoa Sen Chân Ngã.
Có nguồn gốc liên hệ Sao Kim – Lửa – Trí tuệ.
Được coi là “Cha tinh thần” của nhân loại.
* Agnishvatta chính là những Đấng đã “thổi hồn trí tuệ” vào hình hài do Lunar Lords / Nguyệt Tinh Quân [Đấng sáng tạo Tứ hạ thể/ Phàm nhân của con người - Liên hệ Mặt Trăng (chu kỳ cũ)] dựng nên.(GPT tổng hợp theo Minh triết Chân Sư)
* Sơ đồ so sánh Barhishad Pitris ↔ Agnishvatta Pitris để thấy rõ: ai xây phần nào trong con người không?
+ Nguyệt tổ phụ (Lunar Pitris, Barhishad Pitris): Có các chức năng như sau:
1. Các Ngài là tổ tiên con người. (SD–II, 107)
2. Các Ngài là kẻ tạo mẫu (Fashioners) cho hình hài con người.
3. Các Ngài sở đắc được lửa sáng tạo vật chất.
4. Các Ngài chỉ có thể bọc lấy (cloth) Chân Thần con người.
5. Các Ngài không thể làm cho con người trở nên giống các Ngài.
6. Các Ngài không thể mang lại thể trí cho con người. SD–II, 82.
7. Các Ngài tạo hình thể bên ngoài của con người
8. Các Ngài ban cho các nguyên khí thấp – SD, 92. (LVLCK, 618)
9. Lunar Pitris là tất cả các Tinh linh Thiên nhiên (Nature Spirits). (LVLCK, 681)
* 1. Định nghĩa Barhishad Pitris
Barhishad Pitris là một loại Pitris (Tiên phụ) – tức những Thực thể xây dựng (Builders) trong huyền học.
Họ còn được gọi là Lunar Pitris hay Nguyệt Tinh Quân.
Vai trò: xây dựng các thể thấp của con người (thể xác – thể dĩ thái – thể cảm dục) để linh hồn có phương tiện biểu hiện trong tam giới.
Có thể coi họ là “cha của hình thể” (Fathers of the Form).
2. Nguồn gốc
Barhishad Pitris xuất thân từ chu kỳ Mặt Trăng trước đây (Lunar Chain), đã hoàn tất tiến hóa trong chu kỳ đó.
Khi Mặt Trăng chết, họ “chuyển di” sang chu kỳ Trái Đất để tiếp tục xây hình hài cho nhân loại.
Vì thế họ được gọi là Lunar Lords – “Nguyệt Tinh Quân”.
3. Vai trò trong con người
| Cấu phần con người |
Ai kiến tạo? |
| Thể xác – dĩ thái |
Barhishad Pitris |
| Thể cảm dục (vía) |
Barhishad Pitris (nhóm phụ) |
| Thể trí (Manas) |
Agnishvatta Pitris (Pitris Thái Dương) |
| Linh hồn (Ego) |
Sự kết hợp: Linh hồn Thái Dương + hình thể Lunar |
Như vậy, Barhishad Pitris chịu trách nhiệm cho cái vỏ phàm ngã, trong khi Agnishvatta Pitris ban ngọn lửa trí tuệ để phàm ngã trở thành con người thực thụ.
4. Các cấp Barhishad Pitris
Trong sách huyền học có mô tả nhiều cấp độ (cao – trung – thấp), tương ứng với:
Cấp cao: xây dựng thể dĩ thái (etheric double)
Cấp trung: xây dựng thể vật chất thô (dense body)
Cấp thấp: hỗ trợ tiến trình dục vọng – cảm xúc trong thể vía
5. Khía cạnh huyền linh
Barhishad Pitris hoạt động theo lửa hỏa tinh chất thấp (fire of matter).
Họ gắn với Maya – Ảo tưởng trong tam giới, vì họ chính là sự sống cấu thành phàm ngã.
Trong tu tập, con người phải chế ngự Barhishad Pitris để không bị các thể thấp (thân xác, dục vọng) chi phối.
“Barhishad Pitris là các Pitris Nguyệt, tổ tiên của thể xác và thể cảm dục của con người. Họ là những kẻ cung cấp hình thể vật chất, nhưng không phải là những đấng ban cho trí tuệ.”
7. Tóm lược
Barhishad Pitris = Nguyệt Tinh Quân, cha của thể thấp.
Xuất phát từ chu kỳ Mặt Trăng.
Xây dựng thể xác – dĩ thái – cảm dục cho con người.
Không ban trí tuệ → việc đó thuộc về Agnishvatta Pitris (Pitris Thái Dương).
Trong tiến hóa, con người phải vượt lên trên sự chi phối của họ, để phàm ngã trở thành công cụ phục vụ cho Linh hồn.
* Sơ đồ so sánh Barhishad Pitris ↔ Agnishvatta Pitris để thấy rõ: ai xây phần nào trong con người không?
+ Xem thêm: Nguyệt tinh quân của Phàm ngã - 1
+ Đấng Kiến tạo (the Builders): Các Đấng Kiến Tạo là một danh xưng bao gồm vô số các Đấng Thông Tuệ (Intelligences), các huyền giai (hierarchies) gồm các Đấng có tâm thức và quyền năng phân cấp theo thang bậc (graduated). Trên mỗi cõi, các Ngài tiến hành việc kiến tạo ra các hình hài hiện có. Các vị ở cấp cao thì điều khiển (direct) và kiểm soát (control), trong khi các vị ở cấp thấp lo thiết kế (fashion) các vật liệu (materials) theo các mô hình (models) được cung cấp. (MTNX, 356)
+ Biệt lập ngã tính - Cá thể hóa: Khi người thú (animal–man) đã đến trình độ thích hợp, khi thể xác của y được phối kết đầy đủ, khi y đã có một bản chất xúc cảm hay dục vọng đủ mạnh để tạo một nền tảng cho sự tồn tại và để hướng dẫn nó nhờ vào bản năng, và khi mầm mống của trí tuệ được gieo rắc đầy đủ để phú cho y ký ức theo bản năng và cách liên kết các ý tưởng vốn có thể nhìn thấy nơi loài thú bậc trung đã được thuần hóa, lúc bấy giờ, tinh thần giáng xuống (tinh thần này đã chiếm lấy một vi tử trên cõi trí) vì đã phán quyết rằng đến lúc chiếm hữu các hiện thể thấp. Các Hỏa tinh quân được triệu thỉnh đến và các Ngài thực hiện sự chuyển di cách an trụ từ vi tử thấp của Tam Thượng Thể sang vi tử thấp nhất của Phàm ngã. Ngay lúc bấy giờ, ngọn lửa nội tại cũng không thể xuống thấp hơn phân cảnh thứ ba của cảnh trí. Nơi đó, cả hai gặp nhau, hợp nhất lại và linh hồn thể được tạo ra ... Do đó, bạn có thời điểm biệt lập ngã tính, đó là tên gọi được dùng để diễn tả giờ phút tiếp xúc trên phân cảnh thứ ba của cảnh trí, một điểm sáng bao quanh ba vi tử và chính nó bị bọc trong một vỏ bằng chất trí. (TVTTHL, 30)
+ Vào lúc biệt lập ngã tính, con người ra khỏi giới thú vật (animal kingdom) đi vào giới nhân loại (ĐĐNLVTD, 10)
+ Sự biệt ngã hóa của Tinh Thần (spirit), tức là việc ẩn náu (incasing) của Tinh Thần trong hình tướng (in form), và Tinh Thần được bọc trong thể nguyên nhân này là linh hồn, tức chân nhân (real man). (MTNX, 213)
+ Có nhiều yếu tố định đoạt việc biệt lập ngã tính, có thể kể ra như sau:
1/ Sự đáp ứng của bản năng tính của con vật đối với bầu không khí trí tuệ của con người, hay các sinh vật, đang bao quanh con vật.
2/ Tình thương và sự lưu tâm đang tuôn ra của con người mà con vật được ràng buộc vào bởi các mối liên kết của tình cảm hay của việc phụng sự.
3/ Các xung lực của cung được kích hoạt vào bất cứ lúc nào. Đó là:
a. Cung của chính con vật. Loài voi ở trên cung một; loài chó là các biểu hiện của cung hai; mèo là biểu hiện sự sống của cung ba, còn ngựa thuộc cung sáu. Các động vật trên các cung khác thì chưa sẵn sàng cho việc Biệt lập ngã tính.
b. Cung của một hay nhiều người đặc biệt mà con vật được kết hợp vào.
c/ Một cung hay nhiều cung thuộc chu kỳ đặc biệt. (TLHNM–I, 259–260)
+ Đại biến cố biệt lập ngã tính xảy ra cách đây 21 triệu năm (LVHLT, 440)
+ 7. Tóm lược 'Đấng sáng tạo Linh hồn"
Agnishvatta = Pitris Thái Dương, Chủ thể Hỏa
Không xây thân thể, mà gieo trí tuệ (Manas) → giúp con người trở thành Linh hồn cá nhân / Hoa Sen Chân Ngã.
Có nguồn gốc liên hệ Sao Kim – Lửa – Trí tuệ.
Được coi là “Cha tinh thần” của nhân loại.
* Agnishvatta chính là những Đấng đã “thổi hồn trí tuệ” vào hình hài do Lunar Lords / Nguyệt Tinh Quân [Đấng sáng tạo Tứ hạ thể/ Phàm nhân của con người - Liên hệ Mặt Trăng (chu kỳ cũ)] dựng nên.(GPT tổng hợp theo Minh triết Chân Sư)
+ Tổ phụ của nhân loại (Pitris, Fathers of mankind): Các vị tổ tiên (ancestors) hay các Đấng sáng tạo nhân loại. Các tổ phụ này chia làm 7 loại, 3 loại không có hình hài và 4 có hình hài. Các vị này thường được gọi là Lunar Pitris hay Nguyệt Tổ phụ (Lunar Ancestors) và đừng nên lộn với Solar Pitris hay Thái Dương Thiên thần (Solar Angels). Các vị này ban cho con người thể trí (mind) và tạo ra thể tương đối thường tồn của Chân Ngã hay Thượng ngã.(LVLCK, 614)
+ Tổ tiên của nhân loại (Progenitors of Man): Các Tổ tiên của nhân loại, ở Ấn Độ, được gọi là Tổ Phụ (Fathers), Pitaras hay Pitris, là các “Đấng Sáng Tạo” (“Creators”) của các thể (bodies) và các nguyên khí thấp (lower principles) của chúng ta. Các Ngài là chính chúng ta, với tư cách là các phàm ngã đầu tiên, và chúng ta là các Ngài. Con người nguyên thủy (primeval) ắt hẵn phải có “xương và thịt của các Ngài”, nếu các Ngài có xương và thịt. Như đã nói, các Ngài là các “Nguyệt Tổ Phụ” (“Lunar Beings”). (GLBN III, 97)
+ Định nghĩa “Agnishvatta” có gốc từ tiếng Phạn:
Agni = Lửa + Shvatta = “Được nếm trải / được tôi luyện” ===> Có nghĩa: “Những kẻ đã được lửa tinh luyện”.
Trong huyền học, Agnishvattas là một loại Pitris (Tiên phụ, Tổ tiên vũ trụ) – tức các Đấng kiến tạo.
Họ không xây dựng thể xác, mà ban cho con người ngọn lửa trí tuệ (manas), tức là tâm trí và tự ý thức.
- Vị trí - Hai nhóm Pitris chính:
Barhishad Pitris (Nguyệt Tinh Quân xây thể thấp: thể xác – thể dĩ thái – thể vía).
Agnishvatta Pitris (các Pitris hỏa).
| Nhóm Pitris |
Vai trò |
Liên hệ |
| Barhishad (Lunar Lords) |
Kiến tạo hình tướng phàm ngã |
Liên hệ Mặt Trăng (chu kỳ cũ) |
| Agnishvatta (Pitris hỏa) |
Ban trí tuệ, khơi dậy ngọn lửa Manas |
Liên hệ Thái Dương (cung Lửa, Sao Kim) |
=> Như vậy: Agnishvatta là “Cha của Linh hồn”, còn Lunar Lords là “Cha của thân xác”.
3. Nguồn gốc của Agnishvatta
Họ đến từ các chu kỳ hành tinh trước (không phải từ Mặt Trăng), đặc biệt có liên hệ với Sao Kim và Cung 5 (Khoa học – Trí tuệ cụ thể).
Trong căn chủng 3 (Lemuria) → thời điểm Con Người trở thành Người là khi:
Lunar Lords đã xây thể phàm ngã.
Agnishvatta Pitris “gieo tia lửa manas” vào não bộ con người → giúp khởi phát tư duy và tự ý thức.
Đây chính là sự kiện được gọi trong Huyền học là: “Individualisation – Sự cá thể hóa / Biệt lập ngã tính”.
4. Đặc tính của Agnishvatta
Là chủ thể hỏa tinh thần, không dính trực tiếp vào việc xây thân xác.
Họ hoạt động ở cõi trí (mental plane).
Được gọi là:
Solar Pitris (Tiên phụ Thái Dương)
Fathers of the Ego (Cha của Chân Ngã)
Linh hồn nhóm gieo mầm cho nhân loại
5. Vai trò trong Con Người
| Thể |
Ai xây dựng? |
Nguồn |
| Thể xác – dĩ thái – cảm dục |
Barhishad Pitris (Nguyệt Tinh Quân) |
Chu kỳ Mặt Trăng |
| Thể trí (Manas) |
Agnishvatta Pitris |
Chu kỳ Sao Kim – Thái Dương |
| Linh hồn (Ego) |
Do Agnishvatta kích hoạt – “ngọn lửa” từ Thái Dương |
Nguồn vũ trụ cao |
=> Vì vậy: Agnishvatta chính là những Đấng đã “thổi hồn trí tuệ” vào hình hài do Lunar Lords dựng nên.
6. Trích dẫn thêm: “Agnishvattas là các Tiên phụ Thái Dương, những đấng ban trí tuệ cho con người, và là tác nhân tạo ra sự cá thể hóa của con người-động vật.”
7. Tóm lược
Agnishvatta = Pitris Thái Dương, Chủ thể Hỏa
Không xây thân thể, mà gieo trí tuệ (Manas) → giúp con người trở thành Linh hồn cá nhân / Hoa Sen Chân Ngã.
Có nguồn gốc liên hệ Sao Kim – Lửa – Trí tuệ.
Được coi là “Cha tinh thần” của nhân loại. (GPT tổng hợp theo Minh triết Chân Sư)
+ Thiên thần Devas: Trong trường hợp của các devas, tình thương là làm tròn thiên luật mà không đau khổ hoặc phiền não. Đó là con đường dễ nhất đối với họ, vì họ là trạng thái mẹ, phương diện âm của biểu lộ, và con đường dễ dàng cho họ là cống hiến, bảo dưỡng và chăm sóc. (LVLCK, Tr 903)
+ Thần, Thiên thần (Devas): Devas là các thực thể tiến hóa (progressing entities) của một chu kỳ hành tinh trước. (GLBN III, 235)
+ Thần chất (Deva substance, chất liệu của Thiên thần):
- Tinh chất kiến tạo (building essence) tức là Thần chất.
- Vật chất được các Agnishvatta làm linh hoạt (vitalised). (LVLCK, 936, 774)
+ Thiên Thần ban Từ lực: Ban giải cho con người Từ lực (Prana) để chữa trị. Thiên thần gìn giữ Prana, Từ lực và Sinh lực (Như con người là kẻ gìn giữ Nguyên khí thứ 5 = Trí tuệ)- TTHM,183
+ Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo (TVTTHM, 185)
* Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy (TVTTHM, 174)
+ Các Sinh linh - Biểu lộ vật chất thấp nhất: Gồm 2 loại chi phối sự sống bên ngoài/ Sắc tướng ở cõi Trần: (i) - Các Sinh linh / Thiên thần/ Devas; (ii) - Các Tinh linh Ngũ hành.
.... Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. Vì vậy, một số bạn vốn đã nghiên cứu bộ Luận Về Lửa Càn Khôn có thể nhận thấy các chi tiết sau là đáng chú ý:
1. Các loại devas thấp nhất hay các nhà kiến tạo trên Con Đường Tiến Hóa thăng thượng là các thiên thần màu tím; kế tiếp là các thiên thần màu xanh lá cây, và cuối cùng là các thiên thần trắng (white devas). Tất cả các thiên thần này đều bị chi phối bởi một nhóm đặc biệt thứ tư. Các Thiên thần này kiểm soát các tiến trình bên ngoài của sự sống ở cõi trần.
2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là Hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên Trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (Hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. Loại bỏ những sản phẩm được kiểm soát bởi nhiệt (heat) và bạn sẽ đưa nền văn minh của chúng ta đến một trạng thái dừng lại, bạn sẽ đưa mọi phương tiện vận chuyển đến một kết thúc cùng với mọi phương cách chiếu sáng; bạn sẽ vứt bỏ tất cả các nhà máy chế tạo. Ngoài ra, về cơ bản, những sinh linh lửa (fiery lives) này, được tìm thấy trong tất cả những gì bốc cháy, và trong sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Sinh Linh kiến tạo Hình tướng: Bộ Giáo Lý Bí Truyền bảo rằng Prana là những sinh linh “vô hình”, “bốc lửa”, cung cấp “năng lượng kiến tạo sự sống” cho các con vi trùng, như vậy khiến cho chúng xây dựng được các tế bào của thể xác, kích thước của con vi khuẩn nhỏ nhất so với kích thước của “sinh linh bốc lửa” cũng giống như con voi so với loài trích trùng nhỏ nhất. “Mọi vật hữu hình trong vũ trụ đều được những sinh linh ấy kiến tạo, từ con người nguyên thủy thiêng liêng và hữu thức xuống mãi tới những tác nhân vô thức kiến tạo vật chất”. Do sự biểu lộ của Prana, tinh thần vốn không biết nói xuất hiện thành ra người biết nói.
Như vậy, trọn cả Sinh Khí kiến tạo trong vũ trụ và nơi con người được tổng kết thành Prana.
Nguyên tử là một “sinh linh” nhưng tâm thức của nó là thuộc về Thượng Đế Ngôi Ba.
Vi trùng là một “sinh linh” có tâm thức thuộc Thượng Đế Ngôi Hai, đã được Hành Tinh Thượng Đế và “Tinh Linh Trái Đất” chiếm hữu rồi biến đổi đi.
Giáo Lý Bí Truyền cũng nói tới một “giáo điều căn bản” của khoa học huyền bí, theo đó Mặt Trời là kho chứa Sinh Lực và từ Mặt Trời xạ ra những dòng sinh khí phập phồng chạy qua không gian, cũng như cơ thể của mọi sinh vật trên trần thế.
Paracelsus đề cập tới Prana như sau: “Toàn thể Tiểu vũ trụ được chứa đựng tiềm tàng trong Nước Hằng Sống, một lưu chất thần kinh . . . trong đó bao hàm bản chất, phẩm tính, tính tình và bản chất của vạn vật”. Paracelsus cũng gọi nó là Archaeus. Bác sĩ B. Richardson, Hội viên Hội Hoàng Gia gọi nó là “ether thần kinh”. Những lá liễu Nasmyth là kho chứa sinh năng của Mặt Trời; Mặt Trời thực ẩn đằng sau Mặt Trời hữu hình và sản sinh ra lưu chất sinh khí vốn chu lưu trong Thái Dương Hệ với chu kỳ 10 năm. (Con người hoạt động trên 5 Cõi giới_NTH) (Nguồn: Prana - Sinh khí Thái dương hệ)
+ Phàm ngã: Là một con người vốn mang bản sắc riêng, có tính chia rẻ và ích kỷ (CTHNM, 12)
+ Nói Phàm ngã: ... Một Nguyệt Tinh Quân nổi trội kiểm soát, là cái mà chúng ta hiểu theo thuật ngữ “phàm ngã” - Thì Y/ Phàm ngã là tổng thể của các tinh linh hồng trần, cảm dục và trí tuệ, và chính là mãnh lực này hiện nay buộc các năng lượng bốc lửa ‘của cơ thể nuôi dưỡng ba trung tâm lực [luân xa] thấp. Thể dĩ thái có một vị trí độc nhất đáng ngạc nhiên, đơn giản chỉ là khí cụ của prana hay sự sống và luân xa mà nó sử dụng tồn tại trong một phạm trù riêng của chính nó.
Tất cả các hình tướng dưới nhân loại trong tổng hợp của chúng là một yếu tố ngăn cản mạnh mẽ của tiến trình hướng tới sự giải thoát của Chân nhân. Chúng tạo thành điều ngược lại với những gì mà chúng ta hiểu thế giới của Chân sư, và cả hai là đối cực trực tiếp với nhau từ quan điểm của những người tầm đạo. [Nguồn: Các Cung và Điểm đạo, trang 10]. Xem thêm: Nguyệt tinh quân của Phàm ngã - 1;
+ Cảm giác của phàm ngã: Là do sự đồng nhất của người hiểu biết với những công cụ của tri thức. Tâm thức của bạn bị quyến rũ bởi “cảm giác của phàm ngã”. Sự nỗ lực thiết lập bản thân như “người hiểu biết”, cố gắng nhìn thấy cách thức trong đó bạn, như người hiểu biết, đồng hóa bản thân với những công cụ của tri thức => Tìm kiếm, như một người hiểu biết, để không đồng nhất bản thân với những công cụ của tri thức. Cần chống lại “cảm giác của phàm ngã” mà bạn phát hiện trong chính mình thông qua việc tạo nên một “thái độ tâm trí đối nghịch” và tham thiền trụ vào trong thái độ đó.(MF-QU1- 100.2)
+ Phàm ngã vốn mang bản sắc riêng, có tính chia rẻ và ích kỷ, sẽ càng lúc càng lùi vào phía sau, còn linh hồn, vốn không chia rẻ, có ý thức tập thể và có tính bao quát, sẽ ngày càng trở nên nổi bật (CTHNM, 13)
+ Phàm ngã là kẻ hoạt động với sự phối kết, nhờ bởi thiên tư của mình và sự ổn định tương đối của bản chất tình cảm của mình và các tuyến nội tiết lành mạnh và còn nguyên vẹn của mình.
- Phàm ngã là một người có ý thức về số mệnh.
- Phàm ngã là một con người hội nhập đầy đủ.
* Phàm ngã thực sự: Một người mà khi trạng thái hình hài và bản chất linh hồn được nhất quán.(TLHNM–II, 264–267)
+ Phàm ngã phối kết: Sự kết hợp 3 phần Năng lượng, tạo ấn tượng và tuyệt đối kềm chế trạng thái thứ 4 là thể xác (TLHNM–II, 8):
1. Xác/ thể dĩ thái: Năng lượng, sinh lực, chức năng sinh lý, hình thái học, hệ thần kinh, bộ não.
2. Thể Cảm dục: Các dục vọng, cảm giác - như lo sợ, vui vẻ, hi vọng, nhạy cảm, điểm nhạy cảm, lo âu, sự cưỡng bách, bám víu, đang yêu.
3. Thể trí: Cách ta suy nghĩ, xử lý thông tin, tổ chức sự vật ( hợp lý, tuần tự, vòng quanh, linh hoạt, khác nhau ), nguồn gốc của quan năng hình dung và trí tưởng tượng sáng tạo.
+ Phàm ngã và sự phát triển tinh thần (Tài liệu khóa MQ tổng hợp/ Học MF)
|
|
Sự Phát Triển Tinh Thần
|
|
|
Phàm ngã rối loạn/ Phối kết Dysfunctional Personality
|
Ích kỷ - Độc ác Không ổn định
|
Đáp ứng bản năng cho những ham muốn thấp kém
|
|
Phàm ngã gắn kết (integrated personality)
|
Sáng tạo - Hiệu quả Thành công
|
Chấp nhận mù quáng ý tưởng của đám đông
|
|
Phàm ngã được Linh hồn ảnh hưởng
|
Trận chiến bên trong “Đêm Tối của Linh hồn”
|
Tự quyết và tự yêu thương
|
|
Phàm ngã hoà nhập với Linh hồn
|
Thể hiện đầy đủ phẩm chất của
Linh hồn qua Phàm ngã Cuộc sống thể hiện Linh hồn
|
Chưa bị kiểm soát bợi linh hồn.
|
+ Phàm ngã có ba loại (Trích Topic1 - GQ1 - Trích TLHNM)
1. Các phàm ngã phối kết/ Đang "Biệt ngã hóa" - Bản chất Dục vọng: Các phàm ngã rối loạn/ Phàm ngã phối kết (Người thường/ Đa số nhân loại) - đang nhanh chóng chuyển sang loại "các linh hồn qui định", tức loại Phàm ngã hợp nhất 3 thể thấp ... vốn để cho chủ thể (cho dù đó là một người hay một chủng tộc, hay một nền văn minh) tự do ... cung cấp ảnh hưởng và các điều kiện nơi mà những người tốt nhất trong giống dân có thể phát triển hoàn toàn đến một tình trạng hoàn hảo.
2. Các phàm ngã được tích hợp/ Gắn kết - Khát vọng (Hòa nhịp và hợp tác với Linh hồn), những người nam và nữ được phối kết, nhưng chưa ở dưới ảnh hưởng của linh hồn. "Sự bướng bỉnh và lòng tự ái" của họ là một yếu tố mạnh mẽ trong cuộc sống của họ đến nỗi họ có một ảnh hưởng quyết định lên môi trường chung quanh của họ.
3. Các phàm ngã thức tỉnh/ Hòa nhập - Phụng sự theo phẩm tính của Linh hồn.
+ Phàm Ngã và tương ứng Thượng Ngã- Linh Ngã (LVLCK, 64)
Cha ................... Con .................. Mẹ
Tinh thần .......... Linh hồn ........... Xác thân
Sự Sống ......... Tâm thứ............ Sắc tướng
Chân Thần ..... Chân ngã ........... Phàm ngã
Linh ngã ....... Thượng ngã ......... Phàm ngã
Tinh thần ......... Biệt ngã…......... Phàm ngã
Điểm ............. Tam nguyên….... Tứ nguyên
Chân thần ... T.Dương T.Thần... Nguyệt T. Quân
Xem: Các Động lực của Linh hồn - Phàm ngã
+ KIẾN TẠO CÁC HẠ THỂ; Thể Xác - Thể dục vọng - Thể trí và Phàm ngã
* Nguyệt Tinh Quân - Lunar lords là nhà kiến tạo Ba thể thấp thuộc Phàm ngã của con người. [Nguồn: Xem Tooltip Nguyệt tinh quân]
1. Kiến tạo Phàm ngã - Ba thể thấp: ... Chân sư DK nói về các Elementals (Tinh linh) của Phàm ngã - Nếu năng lượng thấp của tập hợp các nguyên tử hình tướng là yếu tố kiểm soát thì ba điều sẽ diễn ra:
Các hình tướng tự nó sẽ phát triển dần lên và ngày càng mạnh hơn, cho đến khi tiếng nói chi phối của các nguyệt tinh quân (lunar lords) của nó sẽ bóp nghẹt mọi tiếng nói khác và con người bị cuốn trở lại Sự trì trệ - Sự mù quáng - Sự nô lệ. Nhiều người không chỉ chịu sự kiểm soát của một trong các hình tướng này, mà còn là tù nhân của cả ba. ... Các sinh linh tìm cách kiểm soát y, được chia làm ba loại:
Các sinh linh (sự sống) cá nhân nhỏ bé mà chúng ta gọi là các nguyên tử hoặc các tế bào của cơ thể. Chúng tồn tại trong ba nhóm và cấu tạo thành bốn thể tương ứng: thể hồng trần đậm đặc, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí.
Tập hợp của những sinh linh này trong tổng thể tạo thành bốn loại tinh linh khác nhau, là các thực thể gắn kết riêng biệt, mặc dù chưa tự ý thức. Bốn nguyệt tinh quân (lunar lords) này tạo thành cái mà Minh triết Ngàn đời gọi là “bốn cạnh của hình vuông.” Chúng là “Tứ Nguyên (Quaternary) thấp”, “các hình lập phương giam hãm,” hay là thập tự giá mà Con người Tinh thần bên trong phải chịu đóng đinh trên đó. Bốn tinh linh này có một trí thông minh riêng của chúng và chúng ở trên con đường giáng hạ tiến hóa, tuân theo định luật riêng của chúng khi chúng có xu hướng trở nên mạnh mẽ, và do đó thể hiện hoàn toàn nhưng gì ở trong chúng.
Một nguyệt tinh quân nổi trội kiểm soát, là cái mà chúng ta hiểu theo thuật ngữ “phàm ngã”; y (nếu đại từ nhân xưng có thể được sử dụng cho nó) là tổng thể của các tinh linh hồng trần, cảm dục và trí tuệ, và chính là mãnh lực này hiện nay buộc các năng lượng bốc lửa ‘của cơ thể nuôi dưỡng ba trung tâm lực [luân xa] thấp. Thể dĩ thái có một vị trí độc nhất đáng ngạc nhiên, đơn giản chỉ là khí cụ của prana hay sự sống và luân xa mà nó sử dụng tồn tại trong một phạm trù riêng của chính nó.
Tất cả các hình tướng dưới nhân loại trong tổng hợp của chúng là một yếu tố ngăn cản mạnh mẽ của tiến trình hướng tới sự giải thoát của Chân nhân. Chúng tạo thành điều ngược lại với những gì mà chúng ta hiểu thế giới của Chân sư, và cả hai là đối cực trực tiếp với nhau từ quan điểm của những người tầm đạo. [Nguồn: Các Cung và Điểm đạo, trang 10]. Xem thêm: Nguyệt tinh quân của Phàm ngã - 1;
+ Kiến tạo hình hài - Sắc tướng - Thể xác: ... Điều này phải được xem xét kỹ liên quan với mọi hình hài vì nó nắm giữ chìa khóa cho nhiều bí ẩn.
Trong vấn đề chuyển di sự sống từ hình hài đến hình hài này, chúng ta đã thấy công việc diễn tiến theo qui tắc và trật tự như thế nào và đạt được hiệu quả nhờ sự hợp tác của các devas trong trường hợp thứ nhất, và việc áp đặt các tác nhân bên ngoài vào nguyên tử hoặc hình hài có liên hệ, và trong chỗ thứ 2 (liên quan đến giai đoạn quan trọng nhất và kéo dài nhất của cách hành động), qua phản ứng tiếp theo sau trong chính nguyên tử, nó tạo ra một sự tăng gia của trung tâm dương đang bùng cháy và sự thoát ra sau đó (qua phóng xạ) của tinh chất dễ bay hơi.
Ở tất cả các giai đoạn khác nhau, các hỏa tinh linh hoàn thành được phần việc của chúng nhờ sự trợ giúp của các hỏa thiên thần, các thần này là các tác nhân kiểm soát. Điều này diễn ra như thế trên mọi cõi giới có liên hệ trước tiên với chúng ta trong ba cõi thấp – các nhóm devas khác nhau bắt đầu tác động tùy theo bản chất của hình hài có liên hệ, và cõi mà trên đó xảy ra sự chuyển hóa. Lửa điện chuyển từ nguyên tử này đến nguyên tử khác đúng theo thiên luật, và “lửa do ma sát” đáp ứng, vốn là lửa tiềm tàng của nguyên tử, hay là trạng thái âm của nó; tiến trình được xúc tiến qua trung gian của lửa thái dương và nơi đây chứa bí ẩn của sự chuyển hóa và khía cạnh bí hiểm nhất của nó. Lửa do ma sát, điện âm của chất liệu nguyên thủy, trong một thời gian đã là vấn đề chú tâm của khoa học công truyền, và sự tìm tòi về bản chất của điện dương trở nên khả hữu qua sự khám phá ra chất radium (một chất phóng xạ tự nhiên, mạnh hơn cả uranium, ND).......
Yếu tố chính của lửa thái dương trong công cuộc chuyển hóa sẽ bắt đầu được hiểu rõ qua sự khảo cứu các hỏa thiên thần và các hỏa tinh linh, chúng vốn là lửa và trong chính chúng (một cách chính yếu và xuyên qua bức xạ từ linh hoạt), nhiệt bên ngoài hay rung động đang tạo ra:
Mãnh lực đang tác động trên vách hình cầu của nguyên tử.
Sự đáp ứng bên trong nguyên tử đang tạo ra bức xạ hay là sự thoát ra của tinh chất không ổn định (volatile essence).
Nói về mặt vũ trụ và xem thái dương hệ như chính là một nguyên tử của vũ trụ, chúng ta thấy rằng: “Các abstraction hay các entities ẩn trong hình hài chính là “lửa điện”. Chất liệu của vật chất đang nằm trong vòng giới hạn được xem như là một tổng thể đồng nhất, là “lửa do ma sát”.
Các hỏa thiên thần từ cõi trí vũ trụ (trong đó Agni và Indra là các tác nhân tiêu biểu cùng với một vị mà danh xưng không được nêu ra) là các tác nhân bên ngoài, chính các Ngài mang lại sự chuyển hóa của vũ trụ.
Ba điều nói trên đây có thể được áp dụng cho một hệ hành tinh, một dãy hay cũng cho một bầu hành tinh, luôn luôn nhớ rằng trong mối liên hệ với con người, lửa vốn là trạng thái thứ ba của con người xuất phát từ trí tuệ của thái dương hệ. (LVLCK, tr 492)
+ Thuật ngữ Trí huệ: Theo Phật giáo, Trí tuệ xem như Mặt Trời, Trí huệ xem như Mặt trăng chiếu sáng Tâm tối tăm (Tooltip Trí Huệ)
+ Nguyệt cầu (The Moon): Vệ tinh của chúng ta đang tuôn đổ vào bầu thấp nhất của dãy hành tinh chúng ta (bầu D, tức Địa cầu) tất cả các năng lượng và sức mạnh của nó; và đã dời chuyển chúng qua một trung tâm mới, hầu như trở thành một hành tinh chết, trong đó, từ lúc bầu hành tinh của chúng ta ra đời, việc quay đã ngưng lại.” (LVLCK, 154–155)
+ Mặt Trăng: Mặt Trăng là hình hài chết, không có tính chất nào của chính nó, nó không có một phóng phát năng lượng nào cả, nó không thể truyền cho Địa cầu bất cứ thứ gì cả. Hành tinh ẩn dấu của Vulcan hoặc Uranus, sử dụng như sau:
(i)- Với người kém tiến hóa hay trung bình thì dùng Vulcan,
(ii)- Với Người tiến hóa cao thì làm việc với Uranus (CTHNM III, 21);
- Chân Sư DK: Khi Nói Mặt Trăng chủ thể cai quản 1 cung là Mặt trời hay Mặt trăng, tôi sẽ nói đến 2 Hành tinh ẩn giấu là Vulcan và Uranus. Các Hành tinh này có thể thay thế lẫn nhau ở công dụng của chúng. Do đó, về nội môn, Tôi nhắc đến Uranus (CTHNM, 113),
- Mặt Trăng che dấu cả Vulcan lẫn Neptune - Đặc biệt quan trọng ở trạng thái liên kết hình hài với Tâm thức (CTHNM, 308)
+ Thủy tinh và Mặt trăng truyền dẫn Cung 4, Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người)
+ Cung Mặt trăng: Tính khí, nhà, bản chất trong nhà, phẩm chất nuôi dưỡng. (Xem nguồn)
+ Mặt Trăng Là Bậc Nhất Trong các Tinh tú: Cũng như trong các ngọn núi, Tu di sơn vương là bậc nhất. Cũng như trong các dòng suối, biển lớn thu nhập nước, biển lớn là bậc nhất. .... Cũng như giữa các vì tinh tú trong hư không, mặt trăng là bậc nhất. .. trong các hội chúng, Như Lai là bậc nhất, là tối đại, là tối thượng, là tối cao, là tối tôn, là tối diệu. (Nguồn: mục 489- Trung A Hàm, Phẩm 11, số 141)
+ Kinh nghiệm thất bại từ Nguyệt cầu: Mục tiêu mỗi kiếp sống là sự phát triển của một hình hài thích hợp hơn để cho tinh thần sử dụng; và khi mục tiêu này được đạt đến, lúc bấy giờ Chủ Thể Nội Tâm xoay sự chú ý của mình đi nơi khác, sự chết đến và hình hài sẽ tan rã sau khi đã được dùng cho nhu cầu của Chủ Thể đó. Điều này không phải lúc nào cũng xảy ra trong mọi kiếp sống con người, mà cũng không nằm trong mỗi chu kỳ hành tinh. Bí mật của nguyệt cầu là bí mật về sự thất bại, điều này khi được hiểu rõ sẽ đưa đến một đời sống xứng đáng và đem lại một mục tiêu xứng đáng cho nỗ lực có hiệu quả nhất của chúng ta. Khi nào khía cạnh chân lý này được nhận thức một cách rộng rải, cũng như khi sự sáng suốt của nhân loại đã đầy đủ, lúc bấy giờ sự tiến hoá sẽ tiếp diễn một cách chắc chắn và sự thất bại sẽ ít đi. (LVLCK, 171)
+ Hành Tinh Mặt Trăng (che khuất một hành tinh - Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Ngày nay Mặt Trăng là khối lạnh lẽo còn sót lại, ... Hiện nay nó bị bắt buộc phải theo sau trái đất trong các thời kỳ dài, nó hút Trái Đất và bị Trái Đất hút lại. Luôn luôn bị con mình (tức Trái Đất - ND) rút rỉa (vampirized), nó chống trả lại bằng cách đem hết ảnh hưởng độc hại, vô hình, xấu xa vốn xuất phát từ khía cạnh huyền bí của bản chất của nó, chỉ vì Mặt Trăng là một xác chết, tuy là một thể sống (for she is a dead, yet a living body). Những mảnh vụn của xác chết đang tan rã của nó có đầy sự sống sinh động và phá hoại, dù xác thân mà chúng đã được tạo thành thì không hồn và không có sự sống (souless and lifeless).” (180)
2. “Địa Cầu là một vệ tinh của Mặt Trăng”. (I, 212) (nghĩa là giống như linh hồn ngày nay là vệ tinh của hình hài).
3. “Mặt Trăng là biểu tượng của xấu xa”. (I, 246)
4. “Mặt Trăng không phải là hành tinh thánh thiện”. (II, 36)
5. “Mặt Trăng là vua của các hành tinh”. (II, 401, chú thích)
6. “Mặt Trăng là Chúa (sovereign) của thế giới thực vật (vegetable world)”. (II, 528)
7. “Mặt Trăng là thể thấp kém (inferior body)”. (II, 48)
8. “Mặt Trăng là Trí, còn Mặt Trời là sự hiểu biết”. (II, 675 - Chú thích) (Trích dẫn Shankacharya).
9. “Mặt Trăng là một hành tinh chết mà tất cả các nguyên khí đều đi khỏi nó. Đó là một thay thế cho một hành tinh mà dường như đã biến mất khỏi tầm mắt”. (III, 459). Các tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn (Về nội môn, Mặt trăng che dấu Vulcan dẫn truyền cung 1)
10. “Mặt Trăng đã chết và không thể bảo bọc sự sống vì nhân loại và các thiên thần kiến tạo đã tách ra khỏi vùng ảnh hưởng của Mặt Trăng”. (93)
11. “Mặt Trăng đang ở vào tiến trình tan biến và chỉ có một thể đang tan rã là còn lại. Sự sống của Thượng Đế Ngôi Một và Thượng Đế Ngôi Hai đã triệt thoái, và chỉ có sự sống tiềm tàng của chính vật chất là còn lại”. (415)
12. “Mặt Trăng là:
a/ Vị trí của thất bại thái dương hệ.
b/ Liên kết với các nguyên khí thấp.
c/ Cội nguồn của bất hạnh tính dục được trải qua trên hành tinh chúng ta.
d/ Bị ngăn chặn trong sự tiến hoá của nó bởi sự can thiệp đúng lúc của Thái Dương Thượng Đế.
e/ Cội nguồn của hận thù giữa các lực của ánh sáng và bóng tối… có thể được truy nguyên đến Mặt Trăng”. (985. Chú thích)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Xem thêm: Nguyệt tinh quân của Phàm ngã - 1
và phần hai: Nguyệt tinh quân của Phàm ngã - 2
+ Thuyết âm dương: Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng tất cả những gì bên trong thái dương hệ đều là lưỡng nguyên (dual) và có cả hai mặt âm và dương trong chính nó: dương đối với hình thức riêng của nó, còn âm đối với lĩnh vực lớn hơn. Do đó mọi nguyên tử đều dương lẫn âm - chính một âm điện tử cũng là một nguyên tử. (LVLCK, 480)
* Âm dương động tịnh: Trong Kinh Kim Cang có nói : « Bậc Như Lai, chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai ». Như là tĩnh, Lai là động. Tr 42 (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thuật ngữ Càn Khôn - Âm Dương:
- Âm Dương: Xuất phát từ Thái cực sinh lưỡng nghi - Gọi là âm dương, ký hiệu Dương một vạch liền, âm một vạch đứt. Đạo âm Dương có trước, sau đó mới đến đạo Càn Khôn
* Quy nạp Đạo âm dương: Vạn sự vạn vật trong trời đất đều không ngoài âm dương, cũng gọi là Đạo âm dương, biểu hiện ở Thiên đạo - Địa đạo - Nhân đạo, tùy theo trình độ phát triển Tâm thức/ Linh hồn tiến hóa mà giảng nói, tiếp thu mức hiểu biết tương ứng. Vậy nên các tôn giáo như Nho giáo - Đạo giáo - Phật giáo ... đều có thể giảng nói về chữ Đạo thâm sâu vi diệu này mãi không hết. Đức Lão Tử giảng nói trong Thanh Tịnh Kinh rất sâu xa về Ðại đạo vô hình: Sinh dục thiên địa - Vận hành nhật nguyệt (Sinh ra tiết hậu) - Trưởng dưỡng vạn vật - Thanh trược Động tịnh cực điểm thì hóa, là tánh tự nhiên (Một dương với một âm là đạo). Giáng bổn lưu mạt, nhi sanh vạn vật (Vạn vật vô tình, hữu tình cái gì cũng có cả)
* Thiên thanh địa trược, thiên động địa tĩnh: Trời thì thanh, khí thanh bốc lên tạo thành bầu trời; đất thì trược, khí trược chìm xuống thành ra đất. Trời thì động, có mặt trăng mặt trời vận hành, các sao di động, đều là động cả. Ðất thì tĩnh, núi sông, đất rộng, và nhà cửa đều ở trạng thái tĩnh.
* Nhật Nguyệt: Mặt trời là tinh hoa của yếu tố dương, mặt trăng là tinh hoa của âm, cả hai đều vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo, do đó mới có bốn mùa là xuân, hạ, thu, đông, chi tiết hơn thì phân ra thành hai mươi bốn tiết, bẩy mươi hai hậu. Tiết và hậu đều phát sinh từ sự vận hành của mặt trăng và mặt trời vậy.
* Nam thanh nữ trược, nam động nữ tĩnh: Phái nam thì thuộc về thể thanh tịnh, phái nữ thì thuộc thể ô trược. Nam thì động, chủ về phía ngoài, gây dựng sự nghiệp, đi bôn ba khắp nơi. Nữ thì tĩnh, chủ về bên trong, giúp chồng dạy con, quản lý gia đình. (Nay thì nam nữ nghịch đạo). (Nguồn: Tóm lược HT Tuyên Hóa giảng TTK)
* Càn - Trời: "Trời" có nghĩa là gì? Không có nghĩa gì cả; bởi nếu có nghĩa thì đã không gọi là "trời"! Vì sao không có nghĩa? "Trời" lấy "tự nhiên" làm nghĩa; "tự nhiên" là ý nghĩa của "trời". (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nhật - Nguyệt: 8. “Mặt Trăng là Trí, còn Mặt Trời là sự hiểu biết”. (II, 675 - Chú thích) (Trích dẫn Shankacharya). [Trích ghi chú trong Giáo Lý Bí Nhiệm]
+ Tiên thiên - Hậu thiên:
- Số tiên thiên: Đại biểu cho quá trình vũ trụ đang trong quá trình phân dã - Hòa hợp nên chưa hình thành hoàn chỉnh Thiên Địa và vạn vật. Theo đó, sự vận hành các chu kỳ vũ trụ như năm tháng ngày giờ ... đều gắn với con số (Khi chiêm đoán dùng số lập Quẻ tiên thiên, ví như theo ngày giờ, theo chữ, theo âm thanh ... đoán cát hung ...).
- Số hậu thiên: Đại biểu cho quá trình vũ trụ đã hòa hợp thành Sắc tướng vạn vật vô tình như cái bàn, cái nghế, cây hoa ..., sinh ra các chúng sinh hữu tình có Thân tướng hoạt động tương tục trong thế giới sắc tướng. Vạn vật vô tình đều có Số sinh tử, chúng sinh hữu tình cũng vậy, tất cả đều phải tuân theo quy luật bao trùm là "Thành - Trụ - Hoại - Không". (Khi dụng xem Quẻ, vi như 8 phương vị đã định tướng ứng 8 Quẻ. Người già trẻ hay vật vuông tròn quy nạp vào Quẻ tương ứng, kết hợp lại lập Quẻ dự đoán gọi là Quẻ có trước quy ra số => Theo hậu thiên)
- Càn Khôn bát quái: Xuất phát từ Kinh dịch, gồm tám Quẻ, mỗi quẻ ba hào do hào âm và hào dương kết hợp lại thành Quẻ. Quẻ CÀN do 3 hào dương chông lên nhau. Quẻ KHÔN do 3 hào âm chồng lên nhau. Càn - Khôn khi phối các quẻ phân âm dương thì hiểu như sau:
- Càn - Dương - Nam giới - Vật có tính dương: 3 hào của quẻ Càn bao hàm và tương ứng ba quẻ thuộc Dương là (i)- Hào thượng là quẻ Cấn; (ii)- Hào giữa là quả Khảm; (iii)- Hào dưới là quẻ Chấn
- Khôn - Âm - Nữ giới - Vật có tính âm: 3 hào của quẻ Khôn bao hàm và tương ứng ba Quẻ thuộc Âm là (i)- Hào thượng là quẻ Đoài; (ii)- Hào giữa là quẻ Ly; (iii)- Hào dưới là quẻ Tốn.
+ Ngũ hành: Mộc và Hỏa là khí, là động. Thủy và Kim là hình tướng, là Tĩnh. Có phân mức độ động tĩnh khác nhau.
-Can Chi: Thiên can là khí - Là dương - Là động; Địa chi là âm, là Tĩnh.
+ Xem thêm: Nguyệt tinh quân của Phàm ngã - 1
và phần hai: Nguyệt tinh quân của Phàm ngã - 2
Phàm ngã đi từ NGOÀI vào TRONG, trong khi đó Linh hồn hoạt động từ TRONG ra NGOÀI. Sự tương phản giữa phẩm tính tâm thức của linh hồn và phàm ngã PHÀM NGÃ LINH HỒN Thương thân xót phận Từ ái Vô min Thông hiểu và Minh triết Chia rẽ Bao gồm Tự cao tri thức Thông tuệ Sáng tạo Giảo hoạt Nhân ái Ưa tranh cãi Hòa giải Tính khí thất thường Điềm tĩnh Tầm nhìn hạn hẹp Chuyên gia – Chuyên viên Nghi ngờ Khám phá chân lý Nhắm mắt tin theo Nhìn xa trông rộng Không thỏa hiệp Tập trung Không chịu thay đổi Hợp tác Chỉnh chu quá mức Tổ chức đúng mục đích
Nguồn: Tâm thức Phàm ngã và Linh hồn - Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Bảy bậc Thiện nhân tu hành Thấy được đạo nhưng các mức tu thành tựu tương ứng sâu nông khác nhau và đều có Kiêu mạn thì chưa trừ hết.
52. BẢY BẬC THIỆN NHÂN ĐẾN VÔ DƯ NIẾT BÀN
1) Tỳ-kheo nên thực hành như vầy: ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đốt trấu, vừa nhen đã tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng thế, chút ít mạn chưa trừ hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Trung Bát-niết-bàn.
Đó là nơi đi đến của bậc thiện nhân thứ nhất, thế gian quả thực có người như vậy.
2) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không; vừa lên liền tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng lại như vậy; còn chút mạn chưa trừ hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Trung Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ hai, thế gian quả thực có người như vậy.
3) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi từ không rơi trở lại; rơi chưa đến đất liền tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Trung Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ ba, thế gian quả thực có người như vậy.
4) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống, tới đất thì tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Sanh Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ tư, thế gian quả thực có người như vậy.
5) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhúm cỏ, liền bốc khói hoặc phụt cháy; cháy hết mới tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Hành Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ năm, thế gian quả thực có người như vậy.
6) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhiều đám cỏ, liền bốc khói hoặc phụt cháy, cháy hết mới tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kiết đã đoạn hết, chứng Vô hành Bát-niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ sáu, thế gian quả thực có người như vậy.
7) ‘Ta không có ta, cũng không có cái của ta. Trong tương lai không có ta, cũng không có cái của ta. Cái đã có thì đoạn’. Sau khi đoạn, chứng đắc xả. Có lạc mà không nhiễm, hiệp hội mà không đắm trước. Thực hành như thế, sẽ do tuệ mà thấy được đạo lộ tịch tĩnh vô thượng, nhưng vẫn chưa được chứng ngộ. Tỳ-kheo thực hành như thế sẽ đi đến đâu? Ví như đem sắt đốt cháy hừng hực rồi lấy búa đập, lửa đóm tung lên không, rồi rơi xuống trên nhiều đám cỏ, liền bốc khói hoặc phụt cháy, cháy luôn cả thôn ấp, thành quách, rừng núi, đồng nội, hoặc đến đường đi, hoặc mé nước, cho đến đất bằng thì tắt. Nên biết, Tỳ-kheo kia cũng giống như thế, còn chút mạn chưa đoạn hết, nhưng năm hạ phần kết đã đoạn hết, chứng Thượng lưu A-ca-nị-trá Niết-bàn.
Đó là chỗ đi đến của bậc thiện nhân thứ bảy, thế gian quả thực có người như vậy.
(Trung A Hàm, Kinh Thiện Nhân Vãng, Phẩm 1, số 6)
+ Phàm ngã thức là tâm thức của Ngôi Ba của thánh linh, tức trạng thái sáng tạo (creator aspect). Tâm thức này tác động trong vật chất và chất liệu để tạo ra các hình hài mà nhờ đó các tính chất có thể tự biểu hiện, và như thế cho thấy bản chất của thánh linh trên cõi sắc tướng. Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Phàm ngã hội nhập: X. thêm Con người, phân loại. - Tạo ra một nhịp cầu giữa não bộ – thể trí – linh hồn, như thế là tạo ra một phàm ngã hội nhập, đó là một biểu lộ đang phát triển một cách vững chắc của linh hồn bên trong. (GDTKNM, 6)
- Nối liền lổ hổng giữa các trạng thái khác nhau của phàm ngã để cho một phàm ngã hội nhập xuất hiện. (GDTKNM, 26)
+ Phàm nhân tiến hóa - Xem Tooltip: Các giai đoạn tiến hóa của phàm ngã
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Hoạt động các giác quan và Sự hiển lộ “Bản tính Thiêng liêng.”
... Qua các giai đoạn sau của chu kỳ luân hồi, khi hành giả dao động với các cặp đối cực, và nhờ phân biện, trở nên ý thức được điều chân, lẽ giả, trong trí y có sự nhận thức ngày càng tăng, rằng y chính là Sự Sống bất tử, một vị Thượng Đế vĩnh cửu, và là một phần của Nguồn Sống Vô Cùng. Mối liên kết con người ở cõi trần và vị Chúa tể nội tâm ngày càng sáng tỏ hơn cho đến khi sự hiển lộ quan trọng xảy ra. Rồi đến một lúc nào đó trong cuộc sống, hành giả hữu thức đối diện với Đại Ngã thực sự của y và biết y chính thực là Đại Ngã đó chứ không chỉ trong lý thuyết; y trở nên ý thức được Thượng Đế nội tâm, không qua thính giác, hoặc nhờ chú ý vào sự điều khiển và hướng dẫn của tiếng nói nội tâm, gọi là “tiếng nói của lương tâm.” Lần này, y nhận biết bằng thị giác và trực kiến. Nay, y không chỉ đáp ứng với những gì nghe được, mà còn đáp ứng với những gì y thấy được.
Chúng ta biết rằng các giác quan đầu tiên được phát triển nơi đứa trẻ là thính giác, xúc giác, và thị giác; đứa bé sơ sinh nhận biết âm thanh và quay đầu về hướng đó, nó cảm giác và sờ soạng; cuối cùng nó nhìn thấy một cách ý thức, và phàm ngã được phối kết trong ba giác quan này. Đây là ba giác quan thiết yếu. Vị giác và khứu giác phát triển sau, nhưng chúng ta có thể sống mà không có hai giác quan này, và nếu thiếu chúng, con người vẫn thực sự không bị trở ngại trong các giao tiếp ở cõi trần. Trên đường phát triển nội tâm, trình tự cũng giống như vậy.
Thính giác−đáp ứng với tiếng nói của lương tâm, khi nó hướng dẫn, điều khiển và chế ngự. Điều này bao gồm thời kỳ tiến hoá hoàn toàn bình thường.
Xúc giác−đáp ứng với các hướng dẫn hay rung động, và nhận [114] biết được những gì ở bên ngoài cá nhân trên cảnh giới hồng trần. Điều này bao gồm thời kỳ tuần tự khai mở tinh thần, Con Đường Dự Bị và Con Đường Đệ Tử, thẳng lên đến cửa điểm đạo. Hành giả tiếp xúc từng lúc với những gì cao siêu hơn chính y; y dần dần ý thức được “sự tiếp xúc” với Chân sư, với rung động của chân nhân và với tập thể, và qua xúc giác huyền bí này y làm quen với những điều nội tại và tinh tế. Y vươn lên tìm kiếm những gì liên quan đến chân ngã, và nhờ tiếp xúc với những điều chưa thấy được, y trở nên quen thuộc với chúng.
Cuối cùng là Thị giác−là nội nhãn thông tạo được qua tiến trình điểm đạo, tuy nhiên đó vẫn chỉ là việc nhận ra một quan năng luôn luôn hiện hữu nhưng chưa được biết. Như đứa trẻ từ lúc mới sinh đã có đôi mắt hoàn toàn tốt và trong sáng, nhưng phải đến một ngày nào đó lần đầu tiên nó mới hữu ý nhận thức, ghi nhận được những điều nó thấy, thì con người trải qua cuộc phát triển tinh thần cũng vậy. Cơ quan của nội nhãn vẫn luôn luôn hiện hữu, và những điều có thể thấy vẫn luôn luôn có sẵn, nhưng phần đông người ta vẫn chưa nhận ra được. (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại và Thái dương hệ)
+ Cung Phàm ngã - Cung 7: Cứng nhắc và đề kháng với sự thay đổi, bị tiêm nhiễm theo các phương pháp và thủ tục bên ngoài, bị khóa chặt vào các lề thói, các thói quen cá nhân, các phong tục và các qui ước. Loại người Hải Vương Tinh (Uranian) có thể khác thường một cách cứng nhắc, bác bỏ nguyên trạng. Nó bận tâm với và xét đoán bởi những vẻ ngoài. Tác nhân thu hút sự chú ý chính của nó là sự hiệu quả, và tính chất ‘tốt đẹp’. Phàm ngã của bạn là cung bảy – cung của sự hoàn mãn, cung này biểu lộ một cách đầy đủ trên cõi trần hình tướng mà qua đó linh hồn – có bản chất là bác ái – có thể tự thể hiện chính nó. (DNA 574)
+ “Y đã tìm cách đưa thế giới rối loạn, mà y ở trong đó, vào trong một loại trật tự nào đó. Y đã lang thang rất xa vào những nơi sâu nhất và trở nên bị đắm chìm trong hỗn loạn và rối loạn.” EPII 38,39
+ Tôi đứng ở trung tâm, người hoạt động trong lĩnh vực huyền thuật. Tôi biết một số quy tắc, một số quyền năng kiểm soát huyền thuật, một số Quyền Lực Từ, một số mãnh lực mà tôi có thể điều khiển. Tôi nên làm gì? Có sự nguy hiểm. Các nhiệm vụ mà tôi đã đảm trách không dễ dàng hoàn thành, nhưng tôi yêu thích quyền năng. Tôi thích nhìn thấy các hình tướng xuất hiện, được tạo ra bởi thể trí của tôi, và làm công việc của chúng, thực hiện kế hoạch và biến mất. Tôi có thể sáng tạo. Tôi biết các nghi lễ của Ngôi Đền của Chúa. Tôi sẽ hoạt động như thế nào? (EPII 375).
+ Các tính chất: Tà thuật, hoặc việc sử dụng các quyền năng huyền thuật cho các mục tiêu ích kỷ, Quyền năng để “ở vị trí trung lập” cho đến khi các giá trị ích kỷ xuất hiện, Sự rối loạn và hỗn loạn, do sự hiểu lầm Thiên Cơ, Việc sử dụng sai ngôn ngữ để đưa đến các mục tiêu được chọn, Sự giả dối, Ma thuật tính dục, Sử dụng sai lệch các quyền năng của linh hồn theo hướng ích kỷ, dẫn đến:
Huyền thuật chính đạo, việc sử dụng các quyền năng linh hồn cho các mục tiêu tinh thần, Sự đồng nhất hóa bản thân với thực tại, Trật tự đúng đắn nhờ huyền thuật chân chính, Quyền năng hợp tác với Tổng Thể, Sự hiểu biết Thiên Cơ, Công tác thể hiện huyền thuật, Sự biểu lộ thiên tính.
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Cung Phàm ngã - Cung 6: Bị thu hút quá nhiệt tình và quá đáng vào việc theo đuổi nhất tâm cho những ham muốn riêng của nó, về mặt cảm xúc thì mãnh liệt, cực đoan, cuồng tín và cứng nhắc. Bị ám ảnh trong lúc nhiệt tình, nó cố gắng để áp đặt những niềm tin của nó vào người khác – “Nếu bạn không theo tôi, thì là bạn chống lại tôi.” Nó thu hút sự chú ý vào nó qua các hành vi trung thành với sự nghiệp và vị đại sư (guru) của nó. Đừng quan tâm vào cuộc sống phàm ngã của bạn, vào những sự tiếp xúc và các vấn đề của nó, thay thế bằng một sự quan tâm năng động vào công việc của thế gian. Đừng đạt đến sự dứt bỏ này bằng việc tăng cường các thái độ của phàm ngã cung sáu của bạn; chúng tôi không mong muốn có những kẻ cuồng tín cộng tác với chúng tôi. Hãy đạt nó thông qua việc đào sâu vào bản chất bác ái của bạn vì nó bao gồm những người khác và ngăn chận bản chất thấp kém của riêng bạn.
Tôi tuyên bố với bạn: Hãy làm việc với sự dứt bỏ, và, vì bạn đang không đòi hỏi gì cho bản ngã chia rẻ, do đó, tất cả mọi thứ sẽ đến với bạn. Bấy giờ bạn sẽ không đứng một mình mà sẽ hoạt động như một đơn vị có từ tính hấp dẫn trong việc phụng sự tập thể. Do đó vấn đề trước mắt của bạn nằm ở đây. Bạn phải học cách để được phân quyền và bước ra khỏi trung tâm của hình ảnh riêng của bạn. Bạn phải học để có tính thu hút và để xây dựng chứ không phải để phá hủy. Hãy suy ngẫm về những lời đề nghị này và hãy làm việc một cách giản dị, kín đáo và vui vẻ với vấn đề của bạn. (DNA I 245)
+ Thể cảm dục của bạn là một vấn đề khó khăn thực sự vì nó tăng cường cung phàm ngã; nó cũng ở trên cung sáu .. cũng như cung thứ sáu – được biểu lộ trong phàm ngã của bạn – có thể dẫn đến sự đi theo lý tưởng (bất cứ điều gì có thể có ý nghĩa với bạn) một cách cuồng tín, nên cung tương tự trong thể cảm dục tạo ra sự biểu lộcủa lòng sùng tín. Trong trường hợp của bạn, lòng sùng tín này tạo ra cho bạn hạt giống của lòng vị tha. Lòng sùng tín này mà bạn đang quan tâm không phải là sự tận tụy với các lợi ích ích kỷ của bạn, nhưng nó là một yếu tố hướng ngoại quan trọng đối với bạn. Nó dẫn bạn theo con đường phụng sự. Tuy nhiên, khi hai khí cụ, hay hai hiện thể, và linh hồn ở trên cùng một cung, bấy giờ các vấn đề về việc làm cân bằng đúng đắn các mãnh lực xuất hiện, và điều này đã trở nên rất thực trong trường hợp của bạn, có phải vậy không? (DNA I, 255)
+ [Y] đã bắt được viễn kiến về Thánh Đạo, và đã đi theo Thánh Đạo mà không thận trọng. Sự thịnh nộ đã là đặc điểm cho các nỗ lực của y.” (EPII 38)
+ Tôi thấy một viễn kiến. Nó đáp ứng sự mong muốn; nó nuôi dưỡng và kích thích sự tăng trưởng của nó. Tôi đặt cuộc đời của tôi trên bệ ham muốn – những gì được thấy, được cảm nhận, những gì hấp dẫn tôi, sự thỏa mãn nhu cầu của tôi, một nhu cầu đối với những gì là vật chất, đối với những gì nuôi dưỡng cảm xúc, làm thỏa mãn thể trí, đáp ứng đòi hỏi của tôi về chân lý, về việc phụng sự, và viễn kiến của tôi về mục tiêu. Đó là viễn kiến mà tôi thấy, giấc mơ mà tôi hình dung, chân lý mà tôi gìn giữ, hình thức hoạt động đáp ứng với nhu cầu của tôi, những gì mà tôi nắm bắt và hiểu được. Chân lý của tôi, sự an bình của tôi, mong muốn được thỏa mãn của tôi, giấc mơ của tôi, viễn kiến của tôi về thực tại, lý tưởng còn hạn chế của tôi, tư tưởng hữu hạn của tôi về Thượng Đế; – tôi đấu tranh, chiến đấu và chết vì những điều này’ (EPII 371)
+ Các tính chất: Bạo lực. Cuồng tín, Sự tuân thủ ngoan cố với một lý tưởng, Sự mù quáng thiển cận, Chủ nghĩa quân phiệt và một xu hướng gây rắc rối cho người khác và cho các tập thể, Không có năng lực nhìn thấy quan điểm nào khác trừ quan điểm của chính mình, Sự nghi ngờ về động cơ của con người, Phản ứng nhanh chóng với ảo cảm và ảo tưởng, Sự tận tụy đối với tình cảm và chủ nghĩa lý tưởng mất phương hướng, Phạm vi hoạt động rung động giữa các cặp đối lập, Khả năng mãnh liệt là tính cá nhân và nhấn mạnh vào các phàm ngã, dẫn đến:
Chủ nghĩa lý tưởng được hướng dẫn, có tính bao gồm, Sự kiên định nhận thức thông qua việc mở rộng tâm thức, Phản ứng và cảm thông với quan điểm của người khác, Sẵn lòng để thấy công việc của người khác tiến triển theo các đường lối mà họ đã chọn, Việc lựa chọn trung đạo, Hòa bình chứ không phải chiến tranh, Điều tốt đẹp cho Tổng Thể chứ không phải cho phần tử.
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Cung Phàm ngã - Cung 5: Loại phàm ngã này tập trung một cách hẹp hòi và độc quyền vào các quan tâm hoàn toàn về trí tuệ, chuyên môn và kỹ thuật riêng của nó, không có lợi cho việc thấy và tham gia vào toàn cảnh rộng lớn hơn. Nó quá duy lý, quá chia rẻ và lãnh đạm, và loại bỏ các tình cảm của con người. Nó muốn là chuyên gia trong lĩnh vực của nó. Do đó, điều gì tạo nên khó khăn chính của bạn, vì bạn không thỏa mãn với sự tiến bộ của bạn, và có phải đúng vậy không? Lý do chính nằm trong phàm ngã cung nămcủa bạn, trong đó sự chú trọng được đặt trên thể trí hay chỉ trích và phân tích. Điều này khiến bạn giám sát, và chỉ trích, và tranh luận với chính mình và với các hoàn cảnh. (DNA I, 198)
+ [Y] đã tiến tới trong sự vô minh. Y đã lang thang trong bóng tối sâu thẳm của tinh thần. Y đã tìm kiếm trong số nhiều sợi chỉ vốn dệt nên y phục bên ngoài của Thượng Đế, và nhận thấy có nhiều cách dẫn đến trung tâm của mạng lưới vĩnh cửu. Các hình tướng mà mạng lưới đó dệt che giấu thực tại thiêng liêng. Y đã đánh mất chính y.” (EPII 37, 38)
+ Với tôi, tôi vẽ bộ y phục của Thượng Đế của tôi. Tôi thấy và biết hình tướng của Ngài. Tôi may bộ y phục đó, từng mảnh một. Tôi biết hình dạng và màu sắc của nó, hình thức và kiểu mẫu của nó, các thành phần cấu thành của nó, và các mục đích và cách sử dụng nó. Tôi vẫn ngạc nhiên, tôi không thấy gì khác. Tôi thâm nhập vào những bí ẩn (mysteries) của hình tướng, nhưng không phải là Đại Bí Nhiệm (Mystery). Tôi thấy bộ y phục của Thượng Đế của tôi. Tôi không thấy gì khác.” (EPII 368)
+ Các tính chất: Năng lượng của sự vô minh, Tính chỉ trích, Năng lực duy lý hóa và phá hủy, Sự chia rẻ về trí tuệ, Sự ham muốn tri thức, Điều này dẫn đến hoạt động vật chất, Phân tích tỉ mỉ, Tính duy vật mãnh liệt và sự phủ định Thượng Đế nhất thời, Sự tăng cường năng lực cô lập, Những hàm ý về sự chú trọng sai lầm, các quan điểm lệch lạc về chân lý, Sự hiến dâng trí tuệ cho hình tướng và hoạt động của hình tướng, Thuyết thần học, dẫn đến:
Một tri thức về thực tại, Việc nhận thức linh hồn và các tiềm năng của nó, Năng lực nhận biết và tiếp xúc với Thiên thần Bản Lai Diện Mục, Sự nhạy cảm với Thượng Đế, với ánh sáng và với minh triết, sự hiến dâng về tinh thần và trí tuệ, Năng lực để được điểm đạo. (Đây là một điểm quan trọng thực sự.)
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Cung Phàm ngã - Cung 4: Loại phàm ngã này thiếu tính tự kiểm soát, bị lôi kéo vào các sự kiện xúc động cá nhân, tính khí thay đổi, mâu thuẩn nhau, quá sẵn sàng thoả hiệp, chiến đấu với bản thân và những người khác, thiếu tính kiên định. Tôi muốn nhắc bạn rằng cung thứ tư, khi là một phần trang bị của mãnh lực phàm ngã, thì là sự biểu hiện của ý muốn yêu thương (trong trường hợp này theo ý nghĩa vật chất). Do đó, nó có quan hệ với cung thứ nhất, thông qua sự chú trọng về ý chí của nó. Do đó, sẽ không quá khó khăn cho bạn để chuyển sự chú trọng của linh hồn bạn vào “khu vực thể trí” (“mind area”) và từ đó kiểm soát thể xác thay vì kiểm soát nó (như trường hợp bây giờ) bằng một nỗ lực rất lớn của sự kiểm soát của linh hồn từ các phân cảnh của linh hồn . Đây là một gợi ý cho cách giải thoát đối với bạn. (DNA 258)
+ Bị chi phối bởi một nguyên tố có bản chất hoặc tính chất của cung bốn và do đó, hoạt động có tính sáng tạo, nghệ thuật là đường lối ít đối kháng nhất. Lúc bấy giờ chúng ta có một người với một khuynh hướng nghệ thuật, hay chúng ta có một thiên tài theo một đường lối hoạt động sáng tạo nào đó. Khi, cùng một lúc, (cung thể trí và) linh hồn hay phàm ngã cũng ở trên cung thứ tư, bấy giờ chúng ta sẽ tìm thấy một Leonardo da Vinci hay một Shakespeare. (EPII 292)
+ [Y] xông ra để chiến đấu. Y đã nhìn thấy sự sống như hai mãnh lực xung khắc, và chiến đấu chống lại cả hai. Được trang bị với bộ áo giáp của chiến tranh, y đứng ở giữa chừng, nhìn ra hai hướng. Cuộc xung đột của trận chiến, y đã học cách sử dụng nhiều vũ khí, không phải là sự khao khát chiến đấu, sự chấn động tinh thần khi nhận thấy những người mà y đã chống lại chỉ là những huynh đệ và chính y, sự đau khổ của thất bại, khải hoàn ca chiến thắng của y..” (EPII 37)
+ Tôi đứng ở giữa, giữa các mãnh lực chống đối nhau. Tôi khao khát sự hòa hợp và hòa bình, và vẻ đẹp vốn bắt nguồn từ sự thống nhất. Tôi nhìn thấy cả hai. Tôi không thấy gì khác, trừ những mãnh lực được sắp xếp đối lập, và tôi, người đang đứng ở trung tâm vòng tròn. Tôi đòi hỏi hòa bình. Thể trí của tôi được tập trung vào nó. Tôi tìm kiếm sự đồng nhất với tất cả, nhưng hình thức thì lại tách ra. Tôi nhận thấy chiến tranh ở mọi mặt, và sự chia rẻ. Tôi đứng một mình và cô độc. Tôi biết quá nhiều. (EPII 363)
Phàm ngã Cung Bốn – thể cảm dục cung sáu: y có lý tưởng thực sự; sẽ chiến đấu một cách thông minh để đạt được (mục tiêu của y) , nhưng cũng có tính cách cuồng tín. (EPII 444)
+ Các tính chất: Cuộc chiến đấu lộn xộn, Sự nhận thức những gì là cao và những gì là thấp, Bóng tối đi trước sự biểu lộ của hình tướng, Sự che đậy trực giác, Cảm giácvề sự thiếu hài hòa, và sự hợp tác với phần tử chứ không phải với tổng thể, Sự đồng nhất hóa với nhân loại, tức Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, Sự thùa nhận quá mức đối với những gì được tạo ra bằng lời nói, Sự nhạy cảm bất thường đối với những gì là Phi Ngã, Các điểm khủng hoảng liên tục, dẫn đến:
Sự thống nhất và hài hòa. Sự gợi lên của trực giác, sự phán đoán đúng đắn và lý trí thuần túy, Minh triết hoạt động thông qua Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục.
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Cung Phàm ngã - Cung 3: Loại phàm ngã này bị vướng trong vô số các kế hoạch, quá tích cực, hiếu động, đãng trí, hay thay đổi, thiếu tính liên tục, không chính xác, hay quanh co, quỷ quyệt, không chân thật, phê bình quá nghiêm khắc, có niềm tự hào về trí tuệ, một tính lãnh đạm, tìm cách cô lập. Nó cần trở thành ‘người thông minh nhất’, và uốn cong tất cả các quy tắc cho phù hợp với bản thân. Y đã tự giấu mình đằng sau một bức màn. Y cuộn mình trong tấm màn đó, và giấu thật sâu khuôn mặt của mình. Không gì có thể được nhìn thấy ngoại trừ những gì đã bị che, và sự chuyển động tích cực. Bên trong bức màn là tư tưởng tiềm ẩn. Tư tưởng vươn ra: “Tôi đứng sau bức màn ảo ảnh..” (EPII, 37)
+ Kéo các sợi chỉ của Sự Sống, tôi đứng, vướng trong ảo cảm do tôi tạo ra. Tôi bị bao quanh bởi tấm vải mà tôi đã dệt. Tôi không thấy gì khác. (EPII 360)
+ Các tính chất: Việc vận dụng mãnh lực qua ham muốn ích kỷ, việc sử dụng mãnh lực thông minh với động cơ sai trái, Hoạt động vật chất và trí tuệ mãnh liệt, Sự thể hiện của năng lượng là một mục tiêu trong chính nó, Sự khao khát vinh quang, vẻ đẹp và những mục tiêu vật chất, Sự chìm ngập trong ảo tưởng, ảo cảm, và ảo ảnh, dẫn đến:
Việc vận dụng năng lượng để tiết lộ vẻ đẹp và chân lý, Việc sử dụng mãnh lực một cách thông minh cho việc xúc tiến Thiên Cơ, Hoạt động nhịp nhàng có trật tự trong sự phối hợp với Tổng Thể, Sự mong muốn đối với sự mặc khải chân chính của thiên tính và ánh sáng, Sự tuân thủ hành động chân chính, Sự mặc khải của vinh quang và thiện chí.
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Cung Phàm ngã - Cung 2: Loại Phàm ngã này yếu đuối, nhút nhát, nhát sợ, quá gắn bó với tiện nghi cá nhân, lo lắng và quá nhạy cảm. Loại ‘tình yêu’ cần được ngưỡng mộ và được yêu, có thể là một vị tử đạo đau khổ. Loại ‘trí tuệ’ có thể lạnh lùng, thờ ơ, có tính coi thường đối với những hạn chế về trí tuệ ở những người khác.
+ [Y] đã xây dựng cho y một chiếc thuyền lớn. Y đã xây dựng nó hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, và đã trôi bồng bềnh trên lòng biển. Y tự giấu mình thật sâu, và ánh sáng của y đã không còn được thấy nữa, – chỉ còn chiếc thuyền đang trôi của y. ” (EPII 36)
+ Tình yêu vì tình yêu phải thống trị.. Năng lực thu hút đối với chính mình phải chiếm ưu thế. (EPII 355)
+ Các tính chất : năng lực xây dựng cho các mục đích ích kỷ; khả năng cảm nhận được Tổng Thề và vẫn tách rời; việc vun bồi một tinh thần chia rẻ; ánh sáng bị che giấu; việc thực hiện mong muốn ích kỷ; khao khát hạnh phúc vật chất; tính ích kỷ, và sự lệ thuộc của tất cả các quyền năng linh hồn vào mục đích này, dẫn đến:
Việc xây dựng một cách khôn ngoan, liên quan đến Thiên Cơ; tính bao gồm; một sự khao khát đối với minh triết và chân lý; sự nhạy cảm với Tổng Thể, sự chống đối đối với đại tà thuyết chia rẻ; sự mặc khải ánh sáng; sự giác ngộ chân chính; chánh ngữ do minh triết tạo ra.
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Cung Phàm ngã - Cung 1: Bất chấp luật lệ, tự hào, tham vọng về quyền lực, ngoan cố, cứng rắn, kiêu ngạo, bướng bỉnh, nóng giận, có ảnh hưởng lớn, đầy tính ta đây, muốn kiểm soát người khác. Nó thích sự cô lập, quyết tâm làm những việc hoàn toàn một mình nó, theo cách của nó, và sẽ chịu đựng không có sự can thiệp. Họ đe dọa người khác bởi chính sự hiện diện của họ. Kêu gọi sự chú ý đến bản ngã bởi là người đứng đầu và giỏi nhất về mọi thứ, bởi việc nhận lãnh trách nhiệm – một cách đáng chú ý, vênh váo ‘cái ngữ’ của họ một cách ngạo mạn. Phàm ngã cung một thật sự, làm việc để đáp ứng với ảnh hưởng Shamballa này, sẽ gìn giữ trân trọng lợi ích tối hậu của nhóm sâu trong tâm thức và tâm hồn của y; y sẽ suy nghĩ về tổng thể chứ không phải về phần tử. Đó là điều mà y sẽ cố gắng để gây ấn tượng lên tâm thức chủng tộc. Điều này đôi khi có thể dẫn tới sự tàn nhẫn và độc ác nếu phàm ngã của cá nhân chưa được kiểm soát bởi xung lực của linh hồn. Người ta có thể thường thấy các trường hợp như thế. (DN 15-16)
+ Phàm ngã cung 1- Cung Ý Chí hay Quyền Lực. Cung đó trong thời gian lâu dài đã kém quan trọng so với cung linh hồn của bạn trong quá khứ, đó là sự tận tâm với linh hồn, với Thánh Đoàn, với nhân loại, cũng như với chính bạn. Vấn đề của bạn về tầm quan trọng của phàm ngã đã thay đổi từ vấn đề về việc gây ấn tượng liên tục về các thái độ của phàm ngã, các ý tưởng và các mong muốn của bạn lên môi trường của bạn (như trường hợp trong kiếp sống cuối cùng của bạn) tới một sự nhấn mạnh thỉnh thoảng theo chu kỳ và gần như dữ dội lên một cá nhân nào đó. Điều này bây giờ chỉ còn thỉnh thoảng (nói một cách tương đối). Bạn đang học cách để cho những người khác được tự do – một bài học khó khăn cho một phàm ngã cung một, như bài học của bạn, được sinh động bởi tri thức và thiện chí. (DINA I, 219)
+ [Y] “.. huỷ hoại (hoặc làm vỡ) .. Y khẳng định: Quyền năng của tôi thì vĩ đại, tôi sẽ tiêu diệt tất cả những trở ngại. Không có gì có thể ngăn chặn sự tiến tới mục tiêu của tôi. Xung quanh tôi là những gì mà tôi đã phá hủy.” (EPII 36)
+ Tình yêu quyền lực phải chiếm ưu thế. (EPII 351)
Các tính chất: Sự nhất tâm năng động, Năng lượng hủy diệt, Năng lực được thực hiện một cách ích kỷ, Không có tình yêu, Cô lập, Một sự khao khát quyền lực và quyền hành, Muốn thống trị, Sức mạnh và sự bướng bỉnh được biểu lộ, dẫn đến: Việc sử dụng năng lượng năng động cho việc thực hiện Thiên Cơ, Việc sử dụng các mãnh lực hủy diệt nhằm dọn đường cho các Đấng Kiến Tạo, Muốn có quyền lực để hợp tác, Quyền lực được nhận thức như là vũ khí chính của bác ái, Sự đồng nhất hóa với nhịp điệu của Tổng Thể, Chấm dứt sự cô lập.
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
+ Ba Trạng Thái Thiêng Liêng: Phàm ngã, Linh hồn, Chân Thần
+ Tâm Thức Phàm Nhân hay Phàm Ngã: Là tâm thức của trạng thái thứ ba thiêng liêng, trạng thái sáng tạo. Trạng thái này tác động trong vật chất và chất liệu để tạo ra các hình tướng mà qua đó phẩm tính có thể tự biểu lộ, và nhờ thế thể hiện bản chất thiêng liêng trên cõi hiện tượng. Chúng ta sẽ đề cập ... đến tâm thức đúng thật là con người khi nó bắt đầu với quá trình biệt lập ngã tính và kết thúc trong phàm ngã nổi bật. Con người trung bình, là một tổng số của những khuynh hướng chia rẻ, của các mãnh lực không kiểm soát được, và của các nguồn năng lượng không thống nhất, từ từ và dần dần trở thành được phối kết, hợp nhất, và pha trộn trong phàm ngã riêng biệt. [7](GQ1.1, tr 17, Trích dẫn TLHNM)
+ Mỗi sinh vật là một với Tâm thức Vũ trụ: Ví như sóng là một với đại dương, sự tách biệt của nó chỉ là danh và hình dạng mà không phải là sự kiện có thực, thế thì mỗi sinh vật là một với Tâm thức Vũ trụ, tuy nói về tên và hình dáng thì nó dường như phân rẽ. Mà không phải sóng chỉ là một với đại dương, hệ quả là nó nối liền với những sóng khác, dù có cá tính riêng của nó, không có hai làn sóng giống y nhau. Chuyện cũng tương tự với nhân loại, vì tuy mỗi đơn vị tâm thức có cá tính riêng, nó lại nối kết với tất cả những đơn vị khác mà như đã nói, trong việc là tất cả tâm thức là một.(nguồn)
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
Xem: Tổng hợp chi tiết về tâm thức
+ Biệt Ngã hóa: Con người bắt đầu hành trình của y trong Giới Nhân loại vào lúc “biệt ngã hóa”, khi y bước lên từ Giới Động vật dưới ảnh hưởng của linh hồn. Đầu tiên, y hơn một con vật một chút, và chỉ có các ham muốn vật chất của y. Sau đó, dần dần bản chất thấp của y – khía cạnh thiêng liêng thứ ba, được phối hợp với khía cạnh thiêng liêng thứ hai của linh hồn nhờ tiến trình “điểm đạo"; để qua rất nhiều kiếp sống, tâm thức Christ nội tại được đánh thức đi vào hoạt động nhờ kinh nghiệm trong hình tướng. Tiến trình này lên đến đỉnh điểm với “sự đồng nhất hóa” với Chân Ngã.
- Con người với Thiên Cơ – biệt ngã hóa, điểm đạo và đồng nhất hóa, gồm toàn bộ quá trình sự nghiệp của con người, từ lúc y xuất hiện vào trong giới nhân loại cho đến khi y chuyển ra khỏi nó ở cuộc điểm đạo thứ ba, và hoạt động tự do trong giới thứ năm, giới Thần Thánh (God). Tác động của linh hồn mang lại sự tiến hóa này. (Trích TLHNM)
+ Phàm ngã hay sự "Sự Biệt Ngã Phàm ngã" hoàn toàn:
- "Các Phàm ngã" được tích hợp, phối kết, và chưa chịu ảnh hưởng của linh hồn. "Tính bướng bĩnh và tự ái" của họ rất mạnh mẽ.
- Các Phàm ngã tách biệt và chia rẽ: và đây là định nghĩa thông dụng nhất cho "phàm ngã". Định nghĩa này xem mỗi con người như là một nhân vật. Nhưng thực ra, nhiều người chỉ là những con vật với các xung lực cao còn mơ hồ; trong khi những người khác là những người trung bình, bị ảnh hưởng bởi bản chất ham muốn của họ hoặc bởi những ý tưởng vốn không phải là của riêng họ.
- Các Phàm ngã là những người được phối kết và được tích hợp. Họ khỏe mạnh về thể chất, có sự kiểm soát cảm xúc, phát triển về trí tuệ, và đã hoàn chỉnh công cụ tuyến (glandular). Các tính chất thể xác, tình cảm và trí tuệ được hợp nhất và hoạt động như là một, tạo ra một bộ máy lệ thuộc vào ý chí của phàm ngã. Chính ở giai đoạn này xảy ra một khuynh hướng thiên về chính đạo hoặc thiên về tả đạo.
- Phàm ngã là những người của vận mệnh: họ có đủ sức mạnh ý chí để rèn luyện bản chất thấp sao cho họ có thể thực hiện một vận mệnh mà họ nhận thức một cách vô thức. Họ được chia thành hai nhóm: Những người không có sự tiếp xúc với linh hồn: họ bị thôi thúc tiến đến vận mệnh của họ bởi một ý thức về quyền lực, tự ái, tham vọng cao quý, một phức hợp tự tôn, và sự quyết tâm đạt đến đỉnh cao nhất của ngành nghề cụ thể của họ. Những người tiếp xúc với linh hồn ở mức độ nhỏ, mà phương pháp và động cơ của họ là một hỗn hợp của tính ích kỷ và tầm nhìn tâm linh.
- Tác động 2 của Linh hồn : Con người Yêu cầu Giúp đỡ: Các Linh hồn thức tỉnh: Sự Tiếp Xúc Mặc Nhận này làm cho tâm thức nhận ra mục đích của kinh nghiệm, và đem nhóm người này vào dưới ảnh hưởng ngày càng tăng của linh hồn của họ.
- Tâm Thức Arya: Con người Thông minh – Sự Biệt Ngã Phàm ngã Người tiến bộ có thể trí hoạt động ở nền văn minh phương Tây. Năng lượng cung của thể trí bắt đầu đổ vào, và từ từ tự khẳng định nó. Ý thức não bộ bắt đầu tổ chức và tiêu điểm của các năng lượng bắt đầu chuyển dần dần ra khỏi các luân xa thấp vào các luân xa cao. Phàm ngã tích hợp xuất hiện. (Nguồn: GQ1.Con người và tâm thức)
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
Ánh sáng của phàm ngã nằm ở vùng tuyến yên (pituitary body) hoạt động thông qua mắt trái. (TLHNM II, 611)
+ Thủy Thiên Như Lai: Nguyệt Quang đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật rồi bạch Phật rằng, “Con nhớ hằng hà sa kiếp từ trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Thuỷ Thiên, dạy cho các hàng Bồ-tát tu pháp quán về nước để nhập chánh định. ”.
Giảng giải: Nguyệt Quang đồng tử nhập đạo khi còn tuổi thiếu niên. Ngài xuất gia khi còn nhỏ tuổi. Tuy nhiên, bây giờ, khi ngài trình bày về viên thông, thì ngài không còn là một đồng tử nữa, mà là một vị trưởng lão trong hàng Bồ-tát. Đại chúng gọi người là Đồng tử vì ngài nhập đạo khi còn nhỏ tuổi và hoàn toàn thanh tịnh. Ngài Nguyệt Quang đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật rồi bạch Phật rằng, “Con nhớ hằng hà sa kiếp từ trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Thuỷ Thiên, dạy cho các hàng Bồ-tát tu pháp quán về nước để nhập chánh định.” Ngài tu tập chánh định bằng cách quán tưởng về nước.
Kinh văn: Quán sát trong thân, tính nước không xâm đoạt lẫn nhau. Ban đầu từ nước mũi, nước dãi, cho đến các thứ tân dịch tinh huyết, đại tiện, nước tiểu, châu lưu trong thân đều cùng một thể tính. Con quán sát thấy nước trong thân cùng nước trong các biển hương thuỷ trong quốc độ của Phù Tràng Vương đều không sai biệt.
Giảng giải: Quán sát trong thân, tính nước không xâm đoạt lẫn nhau–nó không xung đột lẫn nhau. Ban đầu từ nước mũi, nước dãi, cho đến–quán sát chi tiết các thứ tân dịch tinh huyết, đại tiện, nước tiểu, châu lưu trong thân đều cùng một thể tính. Nó chảy luân lưu khắp cơ thể bắt đầu và kết thúc liên tục như chúng luân lưu. Suốt khắp các bộ phận, bản tính của nước là cùng một thể. Con quán sát thấy nước trong thân cùng nước trong các biển hương thuỷ trong quốc độ của Phù Tràng Vương đều không sai biệt. quốc độ của Phù Tràng Vương là chỉ cho nền tảng của núi Tu-di (s: sumeru). Tất cả các thứ nước đều có thể tính giống nhau. Chẳng có gì khác biệt giữa chúng.
Kinh văn: Lúc ấy, ban đầu con mới thành tựu được phép quán nầy, chỉ thấy được nước, chưa đạt được chỗ không thấy có thân.
Giảng giải: Lúc ấy, ban đầu con mới thành tựu được phép quán nầy, chỉ thấy được nước. Tất cả các thứ nước trong thân con đều hợp nhất thành một, và nước trong thần cùng nước ngoài thế giới cũng hoà thành một. Nhưng con chưa đạt được chỗ không thấy có thân. Con vẫn thấy mình còn có thân. Con chưa chứng được cảnh giới thấy mình chẳng có thân.
Kinh văn: Lúc ấy con là vị tỷ-khưu đang ngồi thiền trong thất. Có vị đệ tử khi nhìn qua cửa sổ, thấy trong phòng chỉ toàn nước trong, chứ không thấy gì khác.
Giảng giải: Lúc ấy con là vị tỷ-khưu đang ngồi thiền trong thất. Con đang ngồi toạ thiền trong thất, quán tưởng về nước – Có vị đệ tử khi nhìn qua cửa sổ, thấy trong phòng chỉ toàn nước trong, chứ không thấy gì khác. Chú đệ tử chuyên quét sân, lau nhà, nấu ăn, hộ thất cho vị tỷ-khưu. “Ngày nọ chú nhìn vào trong thất nhưng chẳng thấy gì ngoài nước đang tràn ngập cả căn phòng. Ngoài nước ra chẳng thầy gì khác.”
Kinh văn: Đồng tử không biết, lấy miếng ngói ném vào trong nước, rơi xuống nước phát ra tiếng, chú nhìn quanh rồi bỏ đi. Sau khi con xuất định, mới thấy đau tim, như Xá-lợi-phất bị quỷ Vi hại đánh.
Giảng giải: Đồng tử không biết, lấy miếng ngói ném vào trong nước. Chú đệ tử còn nhỏ tuổi và chưa hiểu biết gì nhiều. Chú lấy viên gạch ném vào trong phòng đầy nước. Rơi xuống nước phát ra tiếng, chú nhìn quanh rồi bỏ đi. Chú đứng đó nhìn quanh một lát và tự hỏi, “Thầy mình ngồi thành trong phòng, tại sao trong phòng ngập đầy nước?” Rồi chú ném viên gạch vào trong nước, nhìn quanh, rồi bỏ đi. Sau khi con xuất định, mới thấy đau tim, như Xá-lợi-phất bị quỷ Vi hại đánh.
Nguyệt Quang đồng tử nhớ đến lúc Xá-lợi-phất đang nhập định, có hai con quỷ từ trên không đi đến. Một con tên là Vi Hại 違害鬼, một con tên là Phục Hại–復害鬼. Quỷ Vi Hại nói với quỷ Phục Hại, “Nếu ta đánh vào đầu vị sa-môn đó thì sao nhỉ–người đang ngồi thiền đó?”
Quỷ Phục Hại nói, “Đừng! Không nên đánh một vị sa-môn. Tốt nhất là không nên quấy rối người đang tu đạo.” Sau khi Quỷ Phục Hại đi rồi, Quỷ Vi Hại không nghe lời khuyên, nó lấy khúc cây đánh vào đầu Xá-lợi-phất. Khi Xá-lợi-phất xuất định, ngài nghĩ rằng, “mình đã chứng quả A-la-hán, mình chẳng còn bệnh, tại sao đầu đau như thế nầy?” Rồi ngài đến thưa hỏi Đức Phật chuyện ấy.
Đức Phật bảo, “Ông vừa bị quỷ Vi Hại đánh vào đầu, quả báo là nó sẽ bị đoạ vào địa ngục vô gián–tức địa ngục A-tì. Sức lực của nó rất mạnh có thể khiến cho núi Tu-di vỡ đôi. Rất may, nhờ ông có định lực. Nếu không ông đã bị nát thành bụi.” Đó là lí do Xá-lợi-phất bị nhức đầu. Bây giờ chú đệ tử của Nguyệt Quang đồng tử ném viên ngói vào trong nước do ông quán tưởng khi nhập định, và khi ông xuất định, tim ông thấy bị đau.
Kinh văn: Con tự nghĩ, nay con đã thành bậc A-la-hán, đã lâu không còn bệnh duyên, tại sao hôm nay bỗng dưng đau tim? Phải chăng đã bị thối thất?
Giảng giải: Bồ-tát Nguyệt Quang tự nghĩ, nay con đã thành bậc A-la-hán, đã lâu không còn bệnh duyên. Con không mắc bệnh, thế tại sao hôm nay bỗng dưng đau tim? Phải chăng đã bị thối thất? Có phải con đã mất quả vị A-la-hán mà con đã chứng được? Có phải con đã lui sụt sự phát tâm từ ban đầu?
Kinh văn: Lúc bấy giờ, chú đệ tử đi đến, kể lại những việc như trước. Con bảo chú rằng, về sau khi nào lại thấy nước trong phòng thì hãy mở cửa, vào trong nước lấy viên ngói ra. Chú đệ tử theo lời con dặn, khi con nhập định, chú thấy viên ngói trong nước rõ ràng. Chú mở cửa vào lấy viên ngói đi. Sau khi con xuất định, thân thể bình thường như trước.
Giảng giải: Lúc bấy giờ, chú đệ tử đi đến, kể lại những việc như trước. Con bảo chú rằng, về sau khi nào lại thấy nước trong phòng thì hãy mở cửa, vào trong nước lấy viên ngói ra. Chú đệ tử theo lời con dặn, khi con nhập định, chú thấy viên ngói trong nước rõ ràng.
Khi Bồ-tát Nguyệt Quang nhập định, chú đệ tử lại thấy trong nước có viên ngói rõ ràng. Chú mở cửa vào lấy viên ngói đi. Chú đi vào phòng và nhặt viên ngói ra. Sau khi con xuất định, thân thể bình thường như trước. Tim con không còn thấy đau nữa.
Kinh văn: Con đã gặp được vô lượng chư Phật, cho đến khi gặp Đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, con mới chứng được không thân, cùng với thể tánh của nước biển hương thuỷ trong mười phương cùng thể nhập với chân không, chẳng hai chẳng khác. Nay ở trong pháp hội của Như Lai, con được danh hiệu là Đồng chân, được dự vào chúng hội của hàng Bồ-tát.
Giảng giải: Con đã gặp được vô lượng chư Phật, cho đến khi gặp Đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai. Con tu tập theo pháp quán nước như vậy trải qua vô số vô lượng chư được Như Lai. Cho đến khi Đức Phật Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai thị hiện ra đời, con mới chứng được không thân. Đến mức độ trong định khi quán tưởng về nước, con thấy nước ở bên ngoài và nước trong thân con là đồng một thể, và thân con biến mất. Cùng với thể tánh của nước biển hương thuỷ trong mười phương cùng thể nhập với chân không, chẳng hai chẳng khác.
Khi Bồ-tát Nguyệt Quang thành tựu đại định do thuỷ quán, ngài thấy thể tánh mình đồng nhất với thể tánh của nước.
Nay ở trong pháp hội của Như Lai, con được danh hiệu là Đồng chân, được dự vào chúng hội của hàng Bồ-tát.
Nay đối trước Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, con công nhận là Đồng chân nhập đạo và được dự trong chúng hội của hàng Bồ-tát.
Kinh văn: Đức Phật hỏi về viên thông, con do quán tánh nước lưu thông thuần một vị, nên chứng được vô sinh nhẫn, viên mãn đạo quả bồ-đề. Đây là phương pháp thứ nhất.
Giảng giải: Nay Đức Phật hỏi các đệ tử về phương pháp tu tập để đạt viên thông mà họ đã được thành tựu. Con do quán tánh nước lưu thông thuần một vị. Con dùng pháp quán tánh nước–về thể tánh cuả nước–nhận ra tánh nước chỉ thuần một vị châu lưu khắp mọi nơi. Nên chứng được vô sinh nhẫn, viên mãn đạo quả bồ-đề. Đây là phương pháp thứ nhất. Theo ý kiến của con, quán nước là phương pháp thù thắng nhất. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Những điều quái dị - Điềm chẳng lành
“Tai nạn khởi lên”, khi trong nước gặp những tai nạn như hạn hán, lụt lội, gió bão; “như là dịch nạn”, bệnh ôn dịch gây nhiều chết chóc trong dân chúng; “nước khác xâm lấn”, hoặc nạn xâm lấn do nước láng giềng hay một nước khác mang quân tới, “phản nghịch trong nước”, hoặc giả trong nước có phần tử phiến loạn nổi lên chống lại quốc vương;
“Nạn về tinh tú, sao xấu mọc ra”, đây là nói các sao trên trời biến đổi hình dáng một cách khác thường. Có khi người ta thấy vì sao nào đó như bốc hỏa, có vì sao thì nổ tan, có khi sao băng đầy trời, hoặc trường hợp sao chổi tiến sát địa cầu. Những sự biến dạng kỳ quái này thường là nguyên nhân sanh ra các tai nạn như đao binh, hỏa tai, thủy nạn, ôn dịch lưu hành trên trái đất.
“Nhật thực nguyệt thực”, nạn nhật thực và nguyệt thực. Mặt trời hay mặt trăng đương soi sáng rồi bỗng nhiên biến mất, đó là nhật thực và nguyệt thực. Mặt trời vốn nóng, khi nhật thực thì đổi thành mát; ánh trăng thì đương mát đổi thành nóng. Đó chính là những sự tình bất thường.
“Mưa gió trái mùa, đến mùa chẳng mưa”, Chưa cần có mưa thì trời lại đổ mưa, không muốn có gió thì trời lại nổi gió. Khi mưa thì mưa lớn, còn gió thì làm đổ nhà đổ cửa. Gió mưa như vậy là trái mùa, không đúng thời tiết, là một tai nạn. Đến khi cần mưa thì lại xảy ra cảnh hạn hán, lại cũng là một cái nạn.|
Trong Kinh văn nói rằng, nếu lãnh đạo quốc gia lễ kính Phật Dược Sư đúng Pháp, có thể hóa giải tai ương hoạn nạn sắp sảy đến. Mời xem chi tiết trong Kinh. (Nguồn: Kinh Dược Sư - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Điều quái dị - các điềm chẳng lành:
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Sau khi Ta diệt độ, trong đời ác năm trược sẽ có những Thanh Tín Nam, Thanh Tín Nữ tin theo tà kiến điên đảo, không tin Chánh Pháp trong Kinh điển Đại Thừa. Các chúng sanh như thế, cho dù được sở hữu vô lượng trăm ngàn vàng bạc đi nữa thì vẫn ôm lòng bỏn xẻn. Họ chỉ tham cầu tiền tài danh lợi, không thể bố thí, hoặc tương cứu những ai nghèo khổ túng thiếu. Lại không thể biên chép, thọ trì, và đọc tụng 12 Bộ Kinh. Họ sẽ không bao giờ thoát ra khỏi khổ ách vô thường của đường ác. Những người như vậy, cảnh nhà sa sút: chim đậu ở dưới bếp lò, rắn bò vào phòng, chó thình lình trèo lên nóc nhà, chuột kêu hàng trăm tiếng lạ khác nhau, các loài cầm thú hoang dã tranh nhau vào nhà, hoặc hàng trăm loại yêu tinh quỷ quái xuất hiện nơi cư trú. Bởi thấy những điều quái dị như thế nên trong lòng sanh phiền não. Do phiền não tích tập nên họ bị đoản mạng. Nhưng nếu họ có thể biên chép, thọ trì, lưu thông, và đọc tụng Kinh này thì sẽ liền có thể tồi phá các điều quái dị như thế và sẽ được trường thọ. (Nguồn: Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé)
1_ Nhật Quang Bồ Tát, tên Phạn là Sūrya-prabha, dịch âm là Tô Lợi Gia Bát La Bà. Lại xưng là Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Nhật Diệu Bồ Tát hay Nhật Quang Phổ Chiếu Bồ Tát.
Danh hiệu Nhật Quang Bồ Tát được lấy từ ý tưởng: “Mặt trời phóng ra ngàn ánh sáng chiếu khắp thiên hạ, phá mọi ám tối”. Vị Bồ Tát này y theo Bản guyện Từ Bi, Tam Muội Phổ Thí chiếu diệu Pháp Giới, bụi thế tục… phá nát sự tối tăm của sinh tử giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thế gian, cho nên có tên này.
Nhật Quang Bồ Tát vị đứng hầu bên trái Đức Phật Dược Sư, cùng với vị Nguyệt Quang Bồ Tát đứng hầu bên phải, là hai vị Đại Phụ Tá của Đức Phật Dược Sư trong quốc thổ Tịnh Lưu Ly ở phương Đông. Đây là hai vị Bồ Tát thượng thủ của vô lượng chúng Bồ Tát, thọ trì kho báu Chính Pháp của Đức Dược Sư Như Lai.
+ Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đại Bi Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát có quan hệ mật thiết. Người trì tụng Đại Bi Chú được Nhật Quang Bồ Tát hợp với vô lượng Thần Nhân đi đến chứng minh kèm tăng thêm hiệu nghiệm. Phàm người trì tụng Chú Đại Bi nếu hay trì tiếp Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni ắt hay tịch trừ Ma Chướng, được quả báo tốt lành chẳng thể nghĩ bàn.
_Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn ... ghi rằng: Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha) vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà La Ni, nói Đại Thần Chú để ủng hộ là:
“Nam mô bột đà cù na mê (1) Nam mô đạt ma mạc ha đê (2) Nam mô tăng già đa dạ nê (3) Để lý bộ tất tát đốt diêm nạp ma”.
Tụng Chú này diệt được tất cả tội, cũng hay đuổi được Ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng một biến, lễ Phật bái, Như vậy mỗi ngày, riêng ba Thời tụng Chú lễ Phật thì trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân sẽ được mỗi một tướng mạo đoan chính, được quả báo đáng vui mừng”
2_Nguyệt Quang Bồ Tát, tên Phạn là Candra-prabha, dịch âm là Tán Nại La Bát La Bà. Lại xưng là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Xuất xứ của Nguyệt Quang Bồ Tát có nhiều Thuyết chẳng đồng nhau, thông thường có ba loại giải thích:
1_ Ngài là vị Đế Vương cổ xưa của Ấn Độ, tức là tiền thân của Đức Thích Ca tu Bồ Tát Hạnh ở đời quá khứ.
Kinh Hiền Ngu, quyển 6_Kinh Nguyệt Quang Bồ Tát_Kinh Đại Bảo Tích, quyển 80… ghi chép là: “Vị vua này có Đại Uy Đức, sau này bố thí cái đầu cho Bà La Môn Lao Độ Sai để đầy đủ Hạnh Đàn Ba La Mật. Lại xưng là Nguyệt Quang Bồ Tát”
2_Nguyệt Quang là tên gọi khác của Ba Tư Nặc (Prasenajit) là vua của nước Xá Vệ (Śrāvastī) ở Trung Ấn Độ khi Đức Phật còn tại thế.
Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật, quyển Thượng nói rằng: “Chủ của nước Xá Vệ là vua Ba Tư Nặc có tên gọi là Nguyệt Quang”
3_Nguyệt Quang Bồ Tát là vị hầu cận bên phải Đức Phật Dược Sư (Bhaiṣaijyaguru-buddha) tại Thế Giới Tịnh Lưu Ly (Vaiḍurya) ở phương Đông cùng với vị hầu cận bên trái Đức Phật Dược Sư là Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha). Cả ba vị này được hợp xưng là Đông Phương Tam Thánh.
Trong Phật Pháp thì Nguyệt Quang Bồ Tát biểu thị cho sự lắng tâm tĩnh lự nhập vào Thiền Định (tĩnh định), ánh sáng trong suốt rực rỡ có thể dung nhiếp mỗi một chúng sinh trong Đại Thiên khiến cho miễn trừ được sự bức não của ba Độc Tham, Sân, Si
Căn cứ vào sự ghi chép trong Kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện thời Nguyệt Quang Bồ Tát cùng với Nhật Quang Bồ Tát đồng là bậc thượng thủ của vô lượng vô số chúng Bồ Tát, Thứ Bổ Phật Xứ (Vị Bồ Tát chờ thành Phật) thọ trì kho báu Chính Pháp của Đức Dược Sư Như Lai
_Nguyệt Quang Bồ Tát lại được xưng là Nguyệt Thần (Thần mặt trăng) là vị Thần Tiên được lưu truyền rất rộng trong dân gian Trung Quốc
_Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi nhận bài Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni là:
“Thâm đê đế đồ tô tra (1) A nhược mật đế ô đô tra (2) Thâm kỳ tra (3) Ba lại đế (4) Gia di nhược tra ô đô tra (5) Câu la đế tra kỳ ma tra (6) sa bà ha”.
Tụng Chú này năm biến, lấy chỉ ngũ sắc làm sợi dây Chú (Chú Sách) rồi cột buộc ở chỗ bị đau nhức. Chú này do bốn mươi hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói, nay tôi cũng nói, vì các Hành Nhân mà làm ủng hộ để trừ tất cả chướng nạn, trừ sự đau nhức của tất cả bệnh ác, thành tựu tất cả Pháp lành, xa lìa tất cả các sự sợ hãi.
Đức Phật bảo: “Này A Nan ! Ông nên dùng Tâm sâu xa trong sạch mà thọ trì Đà La Ni này, rộng nói lưu truyền nơi cõi Diêm Phù Đề đừng để cho đoạn tuyệt. Đà La Ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong ba cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, dùng Đà La Ni này mà trị thì không có bệnh nào chẳng khỏi.
Dùng Đại Thần Chú chú vào cây khô héo thì cây ấy còn được sinh cành lá, hoa quả huống chi hữu tình là chúng sanh Thức. Nếu thân có bệnh hoạn, dùng Chú này trị
mà chẳng lành, ắt không có chuyện đó Thiện Nam Tử! Sức uy thần của Đà La Ni này chẳng thể luận bàn! Chẳng thể luận bàn! Khen ngợi không thể hết được! Nếu chẳng phải là người từ đời quá khứ lâu xa đến nay đã rộng gieo căn lành, thì cho đến tên gọi còn chẳng được nghe, huống chi là được thấy! Đại Chúng các ông, Trời, Người, Rồng,Thần… nghe Ta khen ngợi đều nên tùy vui”. (Nguồn: Kinh Dược Sư)
+ 159. A rị gia đa ra.
Nhật Quang Thiên Tử chiếu đại thiên
Tứ phương tứ ngung tứ vô biên
Nguyệt cung thường nga thanh lương tản
Nhị thập bát tú thị hậu tiền.
Dịch: Nhựt Quang Thiên Tử chiếu các cõi. Bốn phương bốn hướng bốn vô biên. Nguyệt Cung Hằng Nga rất thanh lương. Nhị Thập Bát Tú hầu trước sau.
Giảng giải: ‘’Nhựt Quang Thiên Tử chiếu các cõi.’’ Bạn xem đây là mặt trời, không nhất định là chỉ mặt trời. Nhưng có một vị Bồ Tát gọi là Nhựt Quang Bồ Tát. Có một bài Chú Nhựt Quang Ðà La Ni, chuyên môn trị tất cả bệnh, Chú này hộ trì Chú Ðại Bi. Chú Nguyệt Quang Ðà La Ni cũng ủng hộ Chú Ðại Bi. Hai bài Chú này rất linh nghiệm. Ðại Bi Ðà La Ni Kinh có ghi rất nhiều, diệu không thể nghĩ bàn.
Nhựt Quang Thiên Tử chiếu sáng đại thiên. Ðại thiên đây là bao quát bốn phương đông, tây, nam, bắc; bốn hướng là đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, lại
bao quát trên và dưới, cũng bao quát Bốn Vô Biên Xứ: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Những nơi này đều chiếu khắp. Cho nên nói: ‘’Bốn phương bốn hướng bốn vô biên.’’ ‘’Nguyệt cung Hằng Nga rất thanh lương.’’
Trong cung trăng có mỹ nữ, ở đó rất là thanh lương mát mẻ.
‘’Nhị Thập Bát Tú hầu trước sau.’’ Nhị Thập Bát Tú là hai mươi tám vì sao, hầu trước sau. Hai mươi tám vì sao có thể dùng hai mươi tám chữ để biểu thị, đó là: Giác Kháng Thị Phòng Tâm Vĩ Ky, Đẩu Ngưu Nữ Hư Nguy ốc Bích; Khuê Lâu Vị Lão Tất Tuy Sâm, Tỉnh Quỷ Liễu Tinh Trương Dực Chẩn. (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - Google Drive; Tr 348)
+ Lipika là các Tinh quân của Vũ trụ. Các Ngài có liên hệ với Luật Nhân quả (Karma) và các ghi nhận của luật ấy. Chữ Lipika xuất phát từ “Lipi” nghĩa là viết (writing). (LVLCK, 75)
+ Bốn vị Maharajas hay là bốn Nghiệp Quả Tinh Quân (Lord of Karma) trong Thái Dương Hệ đặc biệt lưu tâm đến công cuộc tiến hóa hiện nay của giới nhân loại. Bốn Đấng này lo về việc:
1./ Phân phối nghiệp quả hay vận mệnh (destiny) của con người khi nó tác động đến các cá nhân, và thông qua các cá nhân đến các nhóm.
2./ Trông coi và sắp xếp các tiên thiên ký ảnh (akashic records). Các Ngài trông nom các Phòng Ký Ảnh (Halls of Records) hoặc là lo việc “tàng trữ sổ bộ” (“keeping of the books)” theo cách gọi của Thánh kinh Cơ Đốc giáo. Trong giới Cơ Đốc giáo, các Ngài được biết đến như là các thiên thần ghi chép (recording angels).
3./ Tham dự vào các Hội đồng trong Thái Dương Hệ (solar councils). Trong chu kỳ thế giới hiện nay, chỉ có các Ngài mới có quyền vượt quá phạm vi của hành tinh hệ và tham dự vào các Hội đồng của Thái Dương Thượng Đế. Như vậy, nói một cách chính xác, các Ngài là các Đấng trung gian của hành tinh (planetary mediators), đại diện cho Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta và tất cả những gì có liên quan đến Đấng này trong kế hoạch vĩ đại hơn mà Ngài chỉ là một phần trong đó. (ĐĐNLVTD, 40–42)
+ Các “Nghiệp Quả Tinh Quân” (“Lords of Karma”) là các Đấng Thông Tuệ Tinh thần vĩ đại (great spiritual Intelligences). Các Ngài giữ các ký ảnh về nghiệp quả (kàmic records) và hiệu chỉnh các tác động phức tạp của định luật nghiệp quả (kàrmic Law). Trong bộ sách Giáo Lý Bí Nhiệm, bà H.P.Blavatsky mô tả các Ngài như là các vị Lipika, tức các Đấng Ghi chép Nghiệp Quả (Recorders of Karma) và các vị Màhàràjas (Mahdevas hay Chaturdevas của Ấn Giáo) cùng đạo binh (hosts) của các Ngài, các vị này là “các vị thừa hành Nghiệp Quả trên cõi trần” (“the agents of Karma upon earth). Lipika là các Đấng thấu suốt được ký ảnh nghiệp quả của mỗi người, nhờ có minh triết toàn tri (omniscient wisdom), các Ngài chọn lựa và phối kết các phần của ký ảnh đó để tạo ra sơ đồ (plan) dành cho mỗi một kiếp sống riêng biệt (a single life). Các Ngài ban ra “ý tưởng” (“idea”) về loại xác thân phải có để làm lớp áo (garment) cho linh hồn tái nhập thế để có thể biểu lộ được các năng lực và các giới hạn của linh hồn đó. Ý tưởng này được các Mahrjas tiếp nhận và tạo thành mô hình chi tiết (detailed model), mô hình này được ủy thác cho một trong các vị thừa hành cấp dưới (inferior agents) của các Ngài để được sao chép lại. Bản sao này chính là thể dĩ thái (etheric double) tức cái khuôn (matrix) của thể xác trọng trược, chất liệu của các thể này được rút ra từ người mẹ và lệ thuộc vào sự di truyền của thể xác. Nòi giống, xứ sở, cha mẹ được lựa chọn sao cho chúng có khả năng cung cấp các chất liệu thích hợp cho thể xác của linh hồn đang đến và môi trường thích hợp cho sự sống lúc ban đầu của linh hồn đó. Sự di truyền về thể chất của gia đình cũng cung cấp một vài kiểu mẫu và đã phát triển được một số tính chất đặc trưng của các kết hợp vật chất; các bệnh di truyền, các tinh tế do di truyền của cơ cấu thần kinh, kéo theo các hợp chất nhất định của chất hồng trần (physical matter), có khả năng truyền chuyển. Một linh hồn đã phát triển được các tính chất đặc trưng trong thể hạ trí và thể cảm dục của mình cũng cần có các tính chất đặc trưng riêng biệt của thể xác để cho chúng biểu lộ, linh hồn đó được dẫn dắt đến những cha mẹ nào mà tính chất di truyền thể chất cho phép chúng đáp ứng với các đòi hỏi này. Như thế, một linh hồn có các năng khiếu nghệ thuật cao siêu say mê về âm nhạc sẽ được dẫn dắt để đầu thai vào trong một gia đình thiên về âm nhạc, trong đó, các chất liệu được cung cấp để tạo ra thể dĩ thái và thể xác được tạo ra sẵn sàng để chính chúng thích ứng được với các nhu cầu của linh hồn, còn kiểu mẫu di truyền của hệ thần kinh sẽ cung ứng bộ máy tinh tế cần cho việc biểu lộ các năng lực của linh hồn này. Một linh hồn thuộc loại rất xấu xa sẽ được dẫn dắt đến một gia đình thô lổ hèn kém để cho các hạ thể của linh hồn này được tạo ra bằng các hợp chất thô trược nhất, có như vậy mới tạo được một cơ thể có khả năng đáp ứng với các thôi thúc từ thể hạ trí và thể cảm dục của linh hồn này. Một linh hồn đã để cho thể hạ trí và thể cảm dục của mình đưa mình tới chỗ quá độ, thí dụ rượu chè say sưa, sẽ được dẫn dắt để đầu thai trong một gia đình mà hệ thần kinh bị suy nhược do quá độ và sẽ do cha mẹ say sưa sinh ra, cha mẹ này sẽ cung cấp chất liệu bệnh hoạn cho cái vỏ xác thân của linh hồn này. Như vậy, sự chỉ đạo của các Nghiệp Quả Tinh Quân hiệu chỉnh phương tiện đưa tới mục đích và đảm bảo được việc thực thi lẽ công bằng. Linh hồn mang theo với mình các sở đắc về nghiệp quả gồm các năng khiếu và dục vọng, và linh hồn nhận lại một xác thân thích hợp để làm thể biểu lộ của chúng. (MTNX, 293–295)
+ Các Đấng Thừa Hành Nghiệp Quả dưới Nghiệp Quả Tinh Quân. Các vị này lại được chia thành các nhóm sau đây:
1/ Ba vị Thừa Hành Nghiệp Quả chịu trách nhiệm trước các Nghiệp Quả Tinh Quân (Karmic Lords) đối với công việc trên ba cõi (three planes).
2/ Năm vị Nghiệp Quả Tinh Quân công tác chặt chẽ với Đức Bàn Cổ (Manus) của các giống dân khác nhau, các Ngài chịu trách nhiệm về việc kiến tạo một cách chính xác các kiểu mẫu giống dân khác nhau.
3/ Các vị Thừa Hành Nghiệp Quả chịu trách nhiệm đối với các kiểu mẫu giống dân phụ (subrace types) hiện nay.
4/ Một vài vị Thừa Hành trung gian (intermediary agents) đại diện (trong ba nhóm này) cho bảy kiểu mẫu Cung.
5/ Các Đấng Thừa Hành Thiên Luật (god Law) này có liên quan một cách đặc biệt với công việc của các trung tâm lực dĩ thái và sự đáp ứng của chúng với các trung tâm lực khác của hành tinh.
6/ Các Đấng Bảo Quản ký ảnh (keepers of the records). (LVLCK, 942–943)
+ Thái Dương Thiên Thần (Solar Angels): Các Đấng phú cho con người Chân Ngã hữu thức bất tử là các “Thái Dương Thiên Thần” – dù là xét về mặt ẩn dụ (metaphorically) hay theo nghĩa đen (literally). (GLBN III, 97)
+ Solar Angels/ Thần Thái Dương: ..... 4/ Bằng cách kích thích các Chân Ngã thể của con người, để cho các Solar Angels có thể xúc tiến với độ chính xác cao và thúc ép sự va chạm của các Ngài với các lunar gods (nguyệt thần). Đây là cuộc chiến thực sự ở trên trời (heaven). Vì các Thần Thái Dương (1) luôn luôn xuống gần cõi trần, và trong khi giáng xuống, các Ngài đảm trách việc kiểm soát ngày càng nhiều các bản chất của nguyệt thần, tất nhiên các tư tưởng và dục vọng của con người được tinh lọc và thanh luyện. Các lửa thái dương dập tắt ánh sáng thái âm, nên bản chất thấp sau rốt được thanh lọc và chuyển hóa. Vào đúng lúc, các Solar Angels (Thái Dương Thiên Thần) chiếu diệu với tất cả vẻ huy hoàng của các Ngài qua phương tiện phàm ngã trên cõi trần, phàm ngã đó cung cấp nhiên liệu cho các ngọn Lửa. Thế là “Kẻ Chận Ngõ” đáng ghét dần dần bị diệt vì thiếu thức ăn, và tan rã vì thiếu sinh khí, con người được giải thoát.
(1) - Thần Thái Dương (LVLCK, tr 951)
1 Các Solar Gods (Thần Thái Dương, Nhật Thần) là các “Thiên Thần Sa Đọa” (“Fallen Angels”). GLBN II, 287.
a. Các Ngài làm ấm các bóng tối … các cơ thể con người.
b. Đến lượt các Ngài được làm ấm bằng Monad, hay Atma. GLBN II, 116, 117.
c. Các Ngài là các Minh Triết Xà. GLBN II, 240.
d. Bản chất các Ngài là Tri Thức và Bác Ái. GLBN II, 527.
e. Các Ngài đến từ cõi trí vũ trụ. GLBN III, 540.
* Ego tức là Solar Angel bị giam nhốt. GLBN I, 621.
a. Nó phải tự giải thoát khỏi vòng kềm tỏa của tri giác, thuộc giác quan.
b. Nó phải thấy bằng ánh sáng của Thực Tại duy nhất.
c. Xem GLBN II, 578.
d. Để đền bù cho nhân loại (to redeem humanity). GLBN II, 257.
e. Để phú cho (endow) nhân loại các tình thương (affections) và các hoài bão. GLBN II, 257
f. Các Ngài trao cho nhân loại trí thông minh và tâm thức. GLBN I, 204.
+ Nhật Thần (Solar Gods):
- Ban cho con người hạ trí và thượng trí. (LVLCK, 614)
- Nhật Tinh Quân là các “Thiên Thần Sa Đọa” – SD–II, 287.
a/ Các Ngài sưởi ấm các bóng... các thể con người.
b/ Đến phiên các Ngài được sưởi ấm bởi Chân Thần hay Atma.
c/ Các Ngài là Minh triết xà.
d/ Bản chất của các Ngài là Tri thức và Bác Ái.
e/ Các Ngài đến từ cõi trí vũ trụ. (LVLCK, 950)
+ Nhật Tinh Quân (Solar Lord):
- Chân Ngã (Ego) tức là Nhật Tinh Quân. (ĐĐNLVTD, 136)
- Solar Lord tức sun god, tức linh hồn. (CTNM, 342)
+ Thái Dương Tinh Quân: (Manasa-Dhyanis, Solar Devas, Agnishvatta Pitris) là các Đấng Ban Phát (givers) trí tuệ và tâm thức cho con người. (GLBN I, 233)
+ Thái Dương Tinh Quân: (Manasa-Dhyanis, Solar Devas, Agnishvatta Pitris) là các Đấng Ban Phát (givers) trí tuệ và tâm thức cho con người. (GLBN I, 233)
+ Tinh Quân Giải thoát (Lord of Liberation): Tất cả các ý tưởng và quan niệm đang chi phối sự sống của con người và đã tạo ra nền văn minh của chúng ta đều bắt nguồn từ một vài Đấng Cao cả, chính các Ngài là một biểu hiện của Thiên Ý (divine Idea). Đó là các Tinh Quân Giải thoát. Có cả thảy 3 vị, một Vị thì gần gủi với Cõi Trần và với nhân loại hơn là hai vị kia. Ngài có thể được đạt tới bởi những ai hiểu được bản chất của tự do và những ai mong muốn dẹp bỏ chuyện đời để được giải thoát và thấy những người bị áp bức và bị làm nô lệ trên thế giới cũng được giải thoát. (SHLCTĐ, 266–267)
+ Sao Nam Đẩu còn gọi là Nam Đẩu tinh hoặc tên tiếng Trung Quốc đầy đủ Nam Đẩu lục tinh (南斗六星) là một mảng sao gồm sáu ngôi sao trên bầu trời Nam bán cầu.
Mảng các ngôi sao này tạo nên hình ảnh giống cái đấu (đẩu) hay cái gàu sòng hoặc cái thùng, thìa và nằm ở hướng Nam, ngược hướng lại với chòm sao Bắc Đẩu. Người Trung Quốc cổ đại xếp chòm sao này vào Nhị thập bát tú và theo thần thoại Trung Hoa, có 6 vị thần tương ứng với 6 ngôi sao chòm Nam Đẩu này, và gọi chung là Nam Đẩu tinh quân, (còn gọi là Nam Tào, nhưng đừng nhầm lẫn với sao Nam Tào) tương ứng với 6 ngôi sao chòm Nam Đẩu, bao gồm:
1. Đệ nhất Thiên Phủ cung: Ty Mệnh tinh quân
2. Đệ nhị Thiên Lương cung: Ty Lộc tinh quân
3. Đệ tam Thiên Cơ cung: Duyên Thọ tinh quân
4. Đệ tứ Thiên Đồng cung: Ích Toán tinh quân
5. Đệ ngũ Thiên Tướng cung: Độ Ách tinh quân
6. Đệ lục Thất Sát cung: Thượng Sinh tinh quân
=> Chòm Nam đầu và Bắc đẩu tổng có 13 Tinh Tú/ Sao/ Tinh quân (Nguồn: wikipedia.org)
+ Linh hồn của các Hành Tố. Các sinh vật tiến hóa trong 4 giới hay 4 Hành/ 4 Đại – Địa, Phong, Hỏa và Thủy.
Tín đồ Do Thái Bí giáo gọi các tạo vật này là Thổ tinh linh (thuộc về đất), Phong tinh linh (thuộc về không khí), Hỏa tinh linh ( thuộc về lửa) và Thủy tinh linh (thuộc về nước).
Ngoại trừ một vài loại cao cấp và các vị điều khiển của chúng, các tạo vật này là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. Với vai trò là các tác nhân thấp kém của các nhà Huyền linh học, các mãnh lực này có thể tạo ra các hiệu quả khác nhau. Nhưng nếu được các “Âm ma” sử dụng – trong trường hợp chúng bắt đồng tử phục tùng – chúng sẽ lừa gạt người dễ tin.
Tất cả các sinh linh vô hình thấp kém được tạo ra trên cõi thứ 5, 6 và 7 của bầu khí quyển trái đất chúng ta được gọi là các Elementals (tinh linh): Peris, Devas, Djins, Sylvans, Satyrs, Fauns, Elves, Dwarfs, Trolls, Kobolds, Brownies, Nixies, Goblins, Pinkies, Banshees, Moss People, White Ladies, Spooks, Fairies, vv… và vv… (NGMTTL, 111–112)
+ Nguồn gốc tinh linh: 7. Kinh văn: Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh nên hòa hợp với ức, thành ra 84.000 loạn tưởng tiềm kết, vậy nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước, thần quỷ tinh linh, các loài rất nhiều.
Giảng giải: Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh. Phần này bàn về các chúng sinh hữu tưởng, nhưng vô sắc. Các chúng sinh ấy như là thần, quỷ, tinh linh. ... Quỷ và thần có loại tinh quái, và loại cư xử rất đúng mực. Có một số quỷ vương thị hiện chư Bồ tát, có quỷ vương cũng khó lường. Tinh linh là các loài sơn thần, hải thần, thành hoàng… các chúng có nhiều và ở khắp nơi.
8. Kinh văn: Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si nên hòa hợp với ngoan, thành ra 84.000 loạn tưởng khô cảo; vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loại rất nhiều.
Giảng giải: Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si mê. ... Ý tưởng hoàn toàn cạn kiệt, vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loại rất nhiều. Vì tư tưởng của họ khô héo nên tinh và thần chuyển hóa thành đất, gỗ, kim loại hoặc đá. Loại này có ở nhiều nơi. Và, tại sao tinh và thần lại biến thành như vậy? ... thật khó tin rằng cái tinh thần của con người lại có thể biến thành gỗ, đá – nhưng đó là sự thực. ....
10. Kinh văn: Nhân trong thế giới có tướng dẫn luân hồi, điên đảo về tính nên hòa hợp với chú, thành ra 84.000 loạn tưởng hô triệu, vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều.
Giảng giải: ... Gần đây tôi đã nói về pháp “Câu triệu”, pháp “Hô triệu” này cũng có dạng như vậy. Hô là gọi tên ai đó. Thường thì mọi người không thấy gì, nhưng khi tụng niệm chú thì đối tượng sẽ hiện đến, lúc đó chúng ta có thể thấy được. Mặc dù chúng ta gọi đó là quỷ, thần, nhưng họ đều là một loại thần thức đặc biệt - vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, Quỷ, thần ở đây là loại phi vô sắc – là những thần hộ pháp. Họ dùng chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều. Trong Mật giáo có nhiều loại chú này. (Nguồn: 12 Loại chúng sinh - Kinh Thủ LN 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Xem thêm: Tổng hợp về Tinh linh - Sinh linh Ngũ hành - Hành tố
+ Tinh linh nhân tạo hay hình tư tưởng: Những tư tưởng mơ hồ, lỏng lẻo (loose) phần lớn được tạo ra do các thể trí chưa phát triển, gom lại chung quanh chúng những đám mây tinh chất Hành khí rời rạc khi đến cõi cảm dục, và trôi vật vờ, bị hút vào các đám mây khác ở khắp nơi và có bản chất tương tự, rồi bám quanh các thể cảm dục của những ai có từ điển – hoặc tốt hoặc xấu – thu hút lấy chúng, và sau một thời gian sẽ tan rã, để lại tạo nên thành phần của bầu khí chung của loài tinh chất Hành khí. Khi nào chúng còn duy trì sự sống riêng biệt (separate existence) thì chúng là các thực thể linh hoạt (living entities), có cơ thể (bodies) bằng tinh chất Hành khí, còn các tư tưởng có vai trò như là các sinh vật tạo linh hồn (ensouling lives), và lúc bấy giờ, chúng được gọi là các tinh linh nhân tạo (artificial elementals) hay là hình tư tưởng (thought–forms). (MTNX, 66–67)
Nơi kẻ thường nhân, tinh linh nhân tạo do cảm xúc (feelings) hoặc dục vọng (desire) tạo ra thì mạnh mẽ và rõ ràng hơn là tinh linh nhân tạo do tư tưởng (thought) tạo ra. Như vậy, một cơn giận bùng lên sẽ tạo ra một tia chớp đỏ mạnh mẽ và có đường nét rõ ràng, và nếu cơn giận kéo dài, nó sẽ tạo ra một tinh linh nhân tạo nguy hiểm, có màu đỏ, sắc nhọn, có ngạnh (barbed), nói khác đi, có mang tính chất làm hại. Tình thương, tùy theo tính chất của nó, sẽ tạo ra các hình thể ít hay nhiều gì cũng có màu sắc đẹp đẽ, đủ mọi sắc thái, từ đỏ thẫm đến hồng dịu, vô cùng tinh tế, giống như màu hồng thật nhạt của hoàng hôn hay bình minh, tình thương cũng tạo ra các đám mây hay các hình dạng có tính bảo vệ mạnh mẽ. (Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân)
+ Hình tư tưởng (Thought form): Hình tư tưởng được con người tạo nên, là sự kết hợp của bức xạ dương (positive emanation) và bức xạ âm. Cả hai đều là bức xạ của một Nhất thể (Unity), tức là Chủ thể Tư Tưởng cố kết (coherent Thinker). (LVLCK, 560)
+ Hình tư tưởng là các sự vật có thực chất (substantial things). (ACMVĐCTG, 72)
+ Định nghĩa HÌNH TƯ TƯỞNG: MỘT THỰC THỂ SỐNG ngay khi nó được tạo ra, nó không còn phụ thuộc vào người tạo ra nó (Không thay đổi được), nó có sự thông minh sơ khai, TỒN TẠI phụ thuộc năng lượng người tạo ra nó (Sự tập chung, lặp lại) > Tạo năng lượng), luôn tìm cách thu thêm năng lượng để kéo dài sự sống của nó ở CÕI TRUNG GIỚI; MẠNH có thể hiện hình ở cõi HẠ GIỚI. Phụ thuộc vào 3 yêu tố:
(i) - Phẩm chất của tư tưởng quyết định Mầu sắc;
(ii) - Năng lượng lớn – Tư tưởng càng sắc nét, rõ rệt;
(iii) - Bản chất mỗi tư tưởng mang hình dạng riêng biệt;
* Bản thân: Chân sư DK dạy tham thiền lập hạnh rất tốt cho bản thân (Chỉ Nghĩ về đức tính tốt của bản thân, nó luôn ở quanh ta và phát huy tác dụng với ta và cả người xung quanh => Một người Tu cả nhà được hưởng
- Người thường (Kém tiến hóa, trí tuệ chưa phát triển = Dục vọng nhiều): Tư tưởng tạo ra chủ yếu quanh quẩn, không thoát ra khỏi Hào quang người đó => Không hại cho người xung quanh nhiều.
* Người ảnh hưởng: Tính toán, suy nghĩ, vận dụng năng lực trí năng > Tạo ra Hình Tư Tưởng > Sức sống riêng, có ảnh hưởng tốt, xấu đến người khác theo quy luật, nó liên kết với người tạo ra nó bằng “Từ điện” > Nhà Huyền thuật muốn tách nó ra khỏi người tạo ra tư tưởng, cần niệm một từ Huyền bí ... (Tiếng Phạn) >
- Đức DK dạy: Mỗi người cần tìm và luyện cho mình một cụm từ huyền bí để tách tư tưởng của mình tạo ra khỏi Hào quang của mình - nếu muốn). Bạn là người khởi niệm tìm chọn để LÀM công việc Thiện > Bạn được hưởng Quả đó, nếu có người gợi ý thì Quả được chia cho người gợi ý Ý tưởng bạn sẽ làm => Tự mình cần suy ngẫm, tìm chọn để nói, hành động về việc Thiện (Nguồn: Cứu rỗi khỏi các hình tư tưởng)
+ Hình tư tưởng = Mặt trăng: Trong chiêm tinh học huyền bí, ảnh hưởng của mặt trăng được ghi nhận dưới hình thức một ảnh hưởng của tư tưởng và như kết quả của một hình tư tưởng mạnh mẽ và cổ xưa nhất; tuy nhiên mặt trăng không có tính chất nào của chính nó và không thể truyền qua cho Địa Cầu thứ gì cả. Tôi xin lặp lại: mặt trăng là một hình hài chết; nó không có một phóng phát nào cả. Đó là lý do giải thích tại sao mặt trăng được nói đến trong giáo lý cổ xưa như là “đang che phủ hoặc là hành tinh Vulcan, hoặc là hành tinh Uranus”. Ẩn dụ hoặc suy đoán này luôn luôn nằm ở chỗ này và các chiêm tinh gia sẽ thành công khi làm thí nghiệm với gợi ý đó mà Tôi đã đưa ra về mặt trăng và (thay vì hành động với mặt trăng) hãy để họ hoạt động với Vulcan khi liên quan đến người kém tiến hóa hay người bình thường và hoạt động với Uranus khi xét đến người phát triển cao. Họ sẽ rút ra được một vài kết quả lý thú và có tính thuyết phục. (Nguồn: Chiêm tinh HNM)
+ Đồng nghĩa: Mãnh lực Thiên nhiên tức là Tinh linh thiên nhiên, cũng tức là các Tinh linh Ngũ hành có khả năng thông linh. (GLBN I, 202)
+ Hiện diện 4 hành: Ở Thái dương hệ này, Hỏa Tinh linh đông nhất, nhì đến Tinh Linh Không khí hiện diện khắp các cõi. Thủy hay Thổ tinh linh ít hơn nhiều, chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số Hành tinh của Thái dương hệ (CTHNM, 188)
+ Tinh linh các bản tố / Tạo vật: Địa (Earth), Phong (Air), Hỏa (Fire), và Thủy (Water). Phần lớn (Trừ cấp Quản lý), chúng là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. (ĐĐTNLVTD, 217)
+ Tinh Linh Thiên Nhiên/ Các Hành: Gồm các Tiên nữ, thổ thần, thần. Hiện diện trong chất dĩ thái, trong các thể bằng chất hơi, chất lỏng. Các sinh linh bé nhỏ bận rộn này thường che các hoạt động ở cõi trần trọng trược của chúng nhờ ảo cảm và phủ lớp màn che giấu biểu lộ bên ngoài của chúng. (LVLCK, 892)
+ Tinh linh là các thực thể còn phải tiến hóa thành người vào một thời gian trong tương lai. (GLBN III, 235)
+ Tinh linh là các mãnh lực bán-thông-tuệ của các giới. (GLTNVT, 311)
+ Các tinh linh có bản chất dưới nhân loại. Đang tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có mặt trên mọi cõi giới, riêng các loại tinh linh dĩ thái – như là Thần lùn, Thổ tinh linh, Thổ tiểu tiên thì được biết rõ hơn. Chia thành 4 nhóm Tinh linh: Đất / Thổ - Nước / Thủy - Không khí ≅ Phong - Lửa / Hỏa; Chúng là tinh hoa của mọi vật/ loài tinh hoa của thái dương hệ, có 4 cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu.( TVTTHL, 174)
+ Các nhà kiến tạo dĩ thái, tức là tinh linh phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
* Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy(TVTTHM, 174)
+ Sự sống Tinh Linh: Được tạo thành chủ yếu ở 3 Luân xa thấp (SSTL; EP II 290. 304):
1. LX xương cùng, - SSTL trí tuệ => LX cổ họng.
2. LX tùng T.Dương- SSTL cảm dục => Luân xa tim.
3. LX đáy cột sống, - SSTL hồng trần => Luân xa đầu. [304]
+ Các sinh vật tiến hóa trong 4 giới / 4 Hành – địa, phong, hỏa và thủy. Tín đồ Do Thái Bí giáo gọi là Thổ tinh linh / Đất), Phong tinh linh / Không khí), Hỏa tinh linh / Lửa) và Thủy tinh linh / Nước). Ngoại trừ một vài loại cao cấp và các vị điều khiển của chúng, các tạo vật này là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. .... Tất cả các sinh linh vô hình thấp kém được tạo ra trên cõi thứ 5, 6 và 7 của bầu khí quyển trái đất chúng ta được gọi là các Elementals (Tinh linh): Peris, Devas, Djins, .. v..v.... rất nhiều (NGMTTL, 111–112)
+ Các Tinh linh thiên nhiên thuộc các phân cảnh dĩ thái (DT), xét 4 phân cảnh cao nhất của cảnh giới hồng trần - Là các mức độ vật chất của cõi trần thuộc loại hiếm hơn và được tinh luyện hơn tuy thuộc về cõi trần - Thường có tên: DT 1 / Chất liệu (CL) Vi tử - DT 2 / CL Á vi tử - DT 3 / CL Siêu dĩ thái - DT 4 / Dĩ thái đơn thuần. Hiện dĩ thái 4 là chất duy nhất được các nhà khoa học nhận biết và là đề mục trong các tìm tòi - Đã hiểu chút ít.
+ Tinh linh sinh lực (Pranic elementals): Các tinh chất nhỏ bé của Lửa này (minute fiery essences) có khả năng thẩm thấu (permeate) qua cấu trúc (texture) của cơ thể con người, của một thân cây hay của tất cả những gì có thể có trong giới nhân loại, giới thực vật và động vật, và hòa hợp với lửa của hệ thống tiểu thiên địa.(LVLCK, 67)
+ TL hồng trần: là tên gọi dành cho sự sống đã hội nhập của thể xác.(CTNM, 462)
+ TL hồng trần là toàn thể các nguyên tử sinh động của phàm ngã (body nature) (LVLCK, 118)
+ Tinh linh của lửa: Các hình hài trọng trược hơn của cuộc sống thể hơi, thường được gọi là hỏa tinh linh, tinh linh của lửa. Chúng trực tiếp ở dưới sự kiềm chế của Hỏa tinh quân, Tinh quân của cõi trí.(LVHLT, 389)
+ Tinh linh nhân tạo - Hình tư tưởng: Những tư tưởng mơ hồ, lỏng lẻo tạo ra do các thể trí chưa phát triển => Thành đám mây tinh chất Hành khí rời rạc khi đến cõi cảm dục, ... rồi bám quanh các thể cảm dục của những ai có từ điển tốt hoặc xấu - thu hút lấy chúng, và sau một thời gian sẽ tan rã, để lại tạo nên thành phần của bầu khí chung của loài tinh chất Hành khí. Khi nào chúng còn duy trì sự sống riêng biệt, có cơ thể bằng tinh chất Hành khí, các tư tưởng như là các sinh vật tạo linh hồn => Gọi là các tinh linh nhân tạo / là hình tư tưởng (MTNX, 66–67). Xem chi tiết hơn: Tại đây
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.(CTHNM, 188)
+ Hoả tinh linh (Cõi Trần), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của lò sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy (LVLCK, 87)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn ; Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Tinh linh của không khí (Elemental of the air): Tinh linh của không khí được hiểu một cách tượng trưng là lớp nền (substratum) của năng lượng đang tác động qua các hình hài của thể dĩ thái. (LVHLT, 216)
+ Tinh linh của đất (Elemental of earth): Là toàn thể nhiều sinh linh tạo thành thể xác. (LVHLT, 215)
+ Tinh linh cảm dục (Astral elemental, Desire–elementals): Sự sống giáng hạ tiến hóa bé nhỏ tạo thành Tinh linh cảm dục của chúng ta. (LVHLT, 311)
- Các tinh linh thiên nhiên có liên quan đến việc tạo ra thể cảm dục của loài vật và loài người được dành cho tên gọi đặc biệt là tinh linh cảm dục (còn gọi là “thần cảm dục“ – desire–gods) vì chúng được làm cho sinh động một cách mạnh mẽ bằng đủ loại dục vọng và luôn luôn dự vào việc kiến tạo thể cảm dục của con vật lẫn con người. (MTNX, 76)
+ Các tinh linh thiên nhiên của vật chất trọng trược nhất - là các tác nhân hoạt động và tác nhân kiến tạo có liên hệ đến phần hữu hình - Theo nghĩa đen, toàn bộ những gì mà con người có thể đụng tới, nhìn thấy và tiếp xúc được trên cõi trần. … Trong số các thần, có sự sống ngầm dưới đất / tận trong lòng đất có sự tiến hóa của loại tinh linh đặc biệt rất giống với con người......
Các tinh linh thiên nhiên và các thiên thần thứ yếu của chất lỏng. Nhiều nhóm thủy thần như nữ thủy tiên, nữ nhân ngư ... mọi giọt nước trong chính nó là một sự sống bé nhỏ, ... Xem thêm: Tinh linh thiên nhiên
+ Các Tinh linh cõi trần - Các thiên thần chia 3 nhóm: (1). Truyền đạt ý chí Thượng đế; (2). Các tác nhân vận dụng năng lượng được triển khai; (3). Các tác nhân tích chứa thần lực.
+ Sinh linh và Tinh linh - Biểu lộ vật chất thấp nhất: Gồm 2 loại chi phối sự sống bên ngoài/ Sắc tướng ở cõi Trần: (i) - Các Sinh linh / Thiên thần/ Devas; (ii) - Các Tinh linh Ngũ hành .... Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. (LVHLT, 389)
+ Xem thêm: Tổng Hợp Các Tinh Linh
+ Các tinh linh thiên nhiên của vật chất trọng trược nhất (The elementals of densest matter). Đây là các tác nhân hoạt động và tác nhân kiến tạo có liên hệ đến phần hữu hình và biểu hiện ra bên ngoài của mọi biểu lộ. Theo nghĩa đen, toàn bộ chúng hợp thành những gì mà con người có thể đụng tới, nhìn thấy và tiếp xúc được trên cõi trần. … Trong số các thần hoạt động thuộc phân cảnh thấp nhất của cõi trần, người ta thấy có một số hình thức sự sống ngầm dưới đất mà các sách huyền linh cổ có nói tới. Người ta thấy tận trong lòng đất có sự tiến hóa của loại tinh linh đặc biệt rất giống với con người. Các vị này có thân thể thuộc loại đặc biệt thô kệch, không thể được xem như thể xác một cách rõ ràng theo tên gọi mà chúng ta hiểu. Họ cư trú trong các vùng đất cố định, hoặc là các nhóm, dưới một hình thức cai trị thích hợp với nhu cầu của họ trong các hang động trung ương sâu nhiều dặm dưới lớp vỏ địa cầu. Công việc của các thần này có liên quan chặt chẽ với giới khoáng chất, và các “Hỏa thiên thần” (“agnichaitans”) của các đám cháy lớn đều ở dưới sự kiểm soát của các thần này. Các thể của họ được cấu tạo để cho có thể chịu nổi áp suất lớn. Họ không tùy thuộc vào luồng khí lưu chuyển tự do như con người, mà cũng không bực bội vì sức nóng cao độ có bên trong địa cầu. Ở đây, chỉ có thể nói ít về các sự sống này, vì các thần này có liên hệ với các phần ít quan trọng của thể xác của Hành Tinh Thượng Đế, có sự tương ứng về mặt tiểu vũ trụ nơi chân và giò (feet and legs) của con người. Các thần này là một trong các yếu tố gây ra chuyển động vừa quay tròn vừa tiến tới của một hành tinh.
+ Các tinh linh thiên nhiên và các thiên thần thứ yếu của chất lỏng (Elementals and lesser devas of liquid matter). Nhiều nhóm Thủy thần (water devas) thuộc loại hoạt động đã được các văn sĩ viết thần thoại tập hợp một cách sơ sài dưới các tên gọi nữ thủy tiên (undines), nữ nhân ngư (mermaids) và các cách diễn tả khác, còn nhiều nữa, và điều này tất nhiên rõ ràng thôi khi nhớ rằng tổng số nước trên địa cầu (biển lớn, biển nhỏ, sông, hồ và suối) vượt xa phần khô hay đất liền, và mọi giọt nước trong chính nó là một sự sống bé nhỏ, làm tròn chức năng của nó và chạy suốt chu kỳ của nó. Các hình thức thần thoại nói ở trên chỉ là vô số sự sống tạo thành một hình hài mà qua đó, vị thần đang tiến hóa tìm cách biểu lộ.
Nguồn: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân.
- Các tinh linh thiên nhiên có liên quan đến việc tạo ra thể cảm dục của loài vật và loài người được dành cho tên gọi đặc biệt là tinh linh cảm dục (còn gọi là “thần cảm dục“ – desire–gods) vì chúng được làm cho sinh động một cách mạnh mẽ bằng đủ loại dục vọng và luôn luôn dự vào việc kiến tạo thể cảm dục của con vật lẫn con người. (MTNX, 76)
+ Các tinh linh thiên nhiên của vật chất trọng trược nhất (The elementals of densest matter). Đây là các tác nhân hoạt động và tác nhân kiến tạo có liên hệ đến phần hữu hình và biểu hiện ra bên ngoài của mọi biểu lộ. Theo nghĩa đen, toàn bộ chúng hợp thành những gì mà con người có thể đụng tới, nhìn thấy và tiếp xúc được trên cõi trần. … Trong số các thần hoạt động thuộc phân cảnh thấp nhất của cõi trần, người ta thấy có một số hình thức sự sống ngầm dưới đất mà các sách huyền linh cổ có nói tới. Người ta thấy tận trong lòng đất có sự tiến hóa của loại tinh linh đặc biệt rất giống với con người. Các vị này có thân thể thuộc loại đặc biệt thô kệch, không thể được xem như thể xác một cách rõ ràng theo tên gọi mà chúng ta hiểu. Họ cư trú trong các vùng đất cố định, hoặc là các nhóm, dưới một hình thức cai trị thích hợp với nhu cầu của họ trong các hang động trung ương sâu nhiều dặm dưới lớp vỏ địa cầu. Công việc của các thần này có liên quan chặt chẽ với giới khoáng chất, và các “hỏa thiên thần” (“agnichaitans”) của các đám cháy lớn đều ở dưới sự kiểm soát của các thần này. Các thể của họ được cấu tạo để cho có thể chịu nỗi áp suất lớn. Họ không tùy thuộc vào luồng khí lưu chuyển tự do như con người, mà cũng không bực bội vì sức nóng cao độ có bên trong địa cầu. Ở đây, chỉ có thể nói ít về các sự sống này, vì các thần này có liên hệ với các phần ít quan trọng của thể xác của Hành Tinh Thượng Đế, có sự tương ứng về mặt tiểu vũ trụ nơi chân và giò (feet and legs) của con người. Các thần này là một trong các yếu tố gây ra chuyển động vừa quay tròn vừa tiến tới của một hành tinh.
+ Các tinh linh thiên nhiên và các thiên thần thứ yếu của chất lỏng (Elementals and lesser devas of liquid matter). Nhiều nhóm thủy thần (water devas) thuộc loại hoạt động đã được các văn sĩ viết thần thoại tập hợp một cách sơ sài dưới các tên gọi nữ thủy tiên (undines), nữ nhân ngư (mermaids) và các cách diễn tả khác, còn nhiều nữa, và điều này tất nhiên rõ ràng thôi khi nhớ rằng tổng số nước trên địa cầu (biển lớn, biển nhỏ, sông, hồ và suối) vượt xa phần khô hay đất liền, và mọi giọt nước trong chính nó là một sự sống bé nhỏ, làm tròn chức năng của nó và chạy suốt chu kỳ của nó. Các hình thức thần thoại nói ở trên chỉ là vô số sự sống tạo thành một hình hài mà qua đó, vị thần đang tiến hóa tìm cách biểu lộ.
+ Nguồn gốc tinh linh: Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh. Phần này bàn về các chúng sinh hữu tưởng, nhưng vô sắc. Các chúng sinh ấy như là thần, quỷ, tinh linh. ... Quỷ và thần có loại tinh quái, và loại cư xử rất đúng mực. Có một số quỷ vương thị hiện chư Bồ tát, có quỷ vương cũng khó lường. Tinh linh là các loài sơn thần, hải thần, thành hoàng… các chúng có nhiều và ở khắp nơi.
Gần đây tôi đã nói về pháp “Câu triệu”, pháp “Hô triệu” này cũng có dạng như vậy. Hô là gọi tên ai đó. Thường thì mọi người không thấy gì, nhưng khi tụng niệm chú thì đối tượng sẽ hiện đến, lúc đó chúng ta có thể thấy được. Mặc dù chúng ta gọi đó là quỷ, thần, nhưng họ đều là một loại thần thức đặc biệt - vậy nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, Quỷ, thần ở đây là loại phi vô sắc – là những thần hộ pháp. Họ dùng chú trớ, yếm sinh, các loài rất nhiều. Trong Mật giáo có nhiều loại chú này. (Nguồn: 12 Loại chúng sinh - Kinh Thủ LN 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Xem thêm: Tổng Hợp Các Tinh Linh
+ Các Tinh linh cõi trần (Physical plane Elementals). Các thiên thần có thể được chia thành ba nhóm trên cõi trần:
1. Các tác nhân truyền đạt Ý chí của Thượng Đế.
2. Các tác nhân vận dụng năng lượng được triển khai.
3. Các tác nhân tích chứa thần lực.
+ Tinh linh hồng trần:
- Tinh linh hồng trần là tên gọi dành cho sự sống đã hội nhập của thể xác.(CTNM, 462)
- Là toàn thể các nguyên tử sinh động của phàm ngã (body nature)(LVLCK, 118)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Tứ diệu đế - Bốn chân lý (ASCLH, 141) ; (TLHNM–II, 155):
1. Chân lý về Khổ (Ill). Cuộc sống trong thế giới hiện tượng không thể tách khỏi đau khổ và phiền não/ Là thực trạng đau khổ của con người
2. Phát sinh cái khổ – (Tập). Nguyên nhân của đau khổ là ham muốn cuộc sống trong thế giới hiện tượng/ Là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ.
3. Chấm dứt cái khổ – (Diệt). Việc diệt khổ chỉ đạt được bằng cách diệt trừ ham muốn sống trong cõi hiện tượng/ Là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau
4. Con đường đưa đến Diệt Khổ – (Đạo). Con đường đưa đến diệt khổ là bát chánh đạo / Là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau. (Nguồn: Tứ diệu đế)
+ Tứ diệu đế: Giảng giải rất chi tiết đầy đủ (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tứ Diệu đế: ... 17. - “Này các đệ tử, đối với bốn chân lý thánh, nếu có chỗ nào chưa thấu đáo, thì nên thưa hỏi, Như Lai sẽ chỉ bày cho các con.” Thế Tôn khuyên nhắc ba lần như vậy, bốn chúng đều im lặng, không ai còn thắc mắc.
Lúc ấy, tôn giả A-nậu-lâu-đà bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có thể trở nên nóng, mặt trời có trở nên lạnh, nhưng Bốn Chân Lý Thánh mà Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi được. Khổ đế là thực trạng đau khổ của cuộc đời: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thù ghét mà phải gặp mặt là khổ, thương yêu mà phải chia lìa là khổ, chấp vào năm nhóm nhân thể là khổ. Diệt đế là trạng thái hết sạch mọi đau khổ và nguyên nhân đau khổ, là an lạc, Niết-bàn. Đạo đế là con đường dẫn đến an lạc, là tám chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác. Bạch Thế Tôn, cả bốn chúng đều không còn thắc mắc gì về bốn chân lý cao thượng nầy nữa. (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
+ Khổ đế trong Tứ diệu đế: Theo Phật giáo Tây Tạng chia Khổ đế thành 12 tầng thứ/ Mức độ khổ. Đây cũng là trình tự tiến hóa tâm linh từ hàng Phàm phu sơ cơ cho đến địa vị Bồ tát Địa thập, từ người nhận thức thô sơ cho đến Trí tuệ Bồ tát viên mãn.
Tâng 1: Khổ khổ [Ai cũng thấy nhưng cứ né chánh, tìm vui thú thế gian khỏa lấp];
Tâng 2: Hoại khổ/ Khổ do mất đi hoặc đổi thay [Niềm vui qua đi thì tiếc nuối, nuôi dưỡng bám chấp vào lạc thú];
Tâng 3: Khổ do mong cầu. Hành giả thấy được tham cầu không được và sợ mất điều đã có => Nhận biết tâm vọng động là nguyên nhân gây ra sự bất an
Tâng 4: Khổ vì bám víu vào Ta. Hành giả thấy mình Ngã chấp khiến mình tổn thương, tự ái, danh dự cái tôi bị xúc phạm sinh ra phiền lão khổ.
Tâng 5: Khổ do nghiệp chi phối. Hành giả nhận ra Nghiệp quá khứ tạo hoàn cảnh hiện tại, chính mình đang tạo nghiệp mới để tiếp tục luân hồi
Tâng 6: Khổ do vô minh, Hành giả thấy gốc khổ không chỉ là Tham, Sân, mà là Vô minh về thực tướng, chưa thấy các pháp vô ngã nên khổ còn luân hồi.
Tâng 7: Khổ ẩn tàng, hành khổ: Hành giả thấy rõ sự hiện hữu của Thân Tâm này là khổ, vẫn còn bị nghiệp và phiền lão điều khiển/ chi phối
Tâng 8: Khổ vi tế tâm phân biệt. Người tu đã vào Định nhưng thấy Pháp có 5 Sở, có người tu và Pháp để tu. [Vi tế chấp pháp, là nhân khổ. Đến đây, người tu đã đi được rất xa, chuẩn bị bước vào hàng Bồ tát]
Tâng 9: Khổ vi tế của Bồ tát Sơ địa, dù đã phá được phần lớn Vô minh ...
Tâng 10: Khổ cái thấy nhị nguyên ... chưa tan hoàn toàn
Tâng 11: Khổ vi tế của trí bát nhã chưa viên mãn.
Tâng 12: Thấy Khổ dốt giáo được nhận biết và chuyển hóa Địa thập. Nền tảng nhập Phật quả.
* Then chốt:
Từ tầng 1 - 3: Thấy khổ qua hiện tượng - Ai cũng biết;
Từ tầng 4 - 6: Thấy khổ qua nguyên nhân Tâm lý và Nghiệp lực;
Từ tầng 7 - 9: Thấy khổ vi tế của hiện hữu điều kiện và tâm nhị nguyên;
Từ tầng 10 - 12: Thấy khổ từ góc nhìn đại bi và Trí bát nhã.
Nguồn: Đức Đại Lai Lạt Ma giảng
+ Thuật dưỡng sinh - Đạo dưỡng sinh:
I- Danh y Hoa Đà đúc kết 38 bí quyết vàng về sức khỏe: Sau 18 thế kỷ vẫn còn vô cùng giá trị
Danh y Hoa Đà là 1 trong 4 nhân vật nổi tiếng nhất trong ngành Đông y TQ. 38 bí quyết này từng được xem là "phương châm sống thọ" của rất nhiều người. Bạn có thể tham khảo áp dụng.
Muốn sống khỏe mạnh thì phải dựa vào dưỡng sinh Danh y Hoa Đà (145 – 208) là một thầy thuốc nổi tiếng thời cuối Đông Hán và đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông được xưng tụng như một Thần y nổi tiếng không chỉ ở nội bộ đất nước Trung Quốc mà còn được biết đến rất nhiều trong các nước đồng văn hóa như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc, được xem là một trong những ông tổ của Đông Y. Ông cùng Đổng Phụng và Trương Trọng Cảnh được xưng tụng làm Kiến An tam Thần y, đồng thời cùng với Biển Thước, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được xem là 4 vị đại danh y nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc nói riêng và các nước có nền Đông y phát triển nói chung. Sau đây là 38 lời dạy của Hoa Đà về sức khỏe và dưỡng sinh, được người xưa coi là "bí quyết vàng". Nếu làm được, bạn sẽ hạn chế được bệnh tật phát sinh, cơ thể khỏe mạnh và tuổi thọ được kéo dài..... (Nguồn: Xem nghệ thuật sống dưỡng sinh)
+ Đạo Dưỡng Sinh cần đi đôi với Đạo Tâm Thanh tịnh: Bạn chỉ thực hành được Đạo dưỡng sinh, tuy rất tốt nhưng Tâm bệnh vẫn đang mang, nguồn Bệnh tật là đây (PS Tịnh Không Giảng)
+ 1. Ngủ là yếu tố quan trọng nhất. Thời gian ngủ nên từ 21h đến 3h sáng;
+ 20. “Nằm lâu hại khí”, “Ngồi lâu hại thịt”, “Nhàn hạ ắt khí ứ đọng”;
+ 21. Thầy giáo dạy người, bác sỹ trị bệnh, kỳ thực chính là đang chỉ ra cái “cơ” này của bạn, khiến cái “cơ” này của bạn khai mở. cái “cơ” này có lúc cũng gọi là “then chốt”,
+ 49. Tâm thuộc tính Hỏa, Thận thuộc tính Thủy, Tâm Thận liên hệ tương hỗ. Hỏa cần giáng hạ, Thủy cần thăng lên, Thủy Hỏa tương tề, ắt khí trong thân thể sẽ bộc phát.
71. Khoa học chân chính - Chính là nhân duyên quả báo. Không tin nhân quả, thì không phải là khoa học chân chính.
53. Trường hợp Dưỡng sinh tốt - Chết sớm: Là vì quá yêu quý cái thân xác này, sợ phải chịu xấu hổ, sợ bị nuông chiều, sợ chịu thiệt, sợ bị mắc lừa, lo trước lo sau, nhìn ngang nhìn dọc, lo lắng hốt hoảng, tính toán thiệt hơn …Càng sợ chết, càng chết nhanh/ Tâm luôn nghĩ muốn trường sinh, trái lại càng nhanh chết.
90. Tình chí (7 loại tình cảm của con người) đối với bệnh tật có mối tương quan mật thiết với nhau, có một số bệnh tật là do tình chí gây ra, bạn dùng thuốc trị liệu, trị mãi mà vẫn không khỏi, đối với loại bệnh tật này, muốn cởi chuông thì phải tìm người buộc chuông. Ngũ chí có thể gây bệnh, ngũ chí cũng có thể giải trừ bệnh.
91. Dưỡng sinh phải không được sợ chết. Người sợ chết dương khí không đủ, dương khí không đủ, tử thần sẽ tìm ra được bạn. Đạo gia giảng, người tu luyện cần có một khí chất anh hùng. Nhân, trí, dũng không thể thiếu một trong ba.
Xem: Danh Y Hoa Đà; 100 Lời dậy Danh Y Cổ và 100 Lời dạy của Danh Y 112 tuổi
51. PP dưỡng tĩnh: an tọa (nằm) trên giường, đặt thân tâm nhất tề hạ xuống, toàn thân như hòa tan, không được phép dùng một chút khí lực nào, như thể không có cái thân thể này vậy, hô hấp tùy theo tự nhiên, tâm cũng không được phép dùng lực, một niệm khởi lên cũng là đang dùng lực. Để tâm đặt xuống tận dưới bàn chân, như thế có thể dẫn hỏa đi xuống, dẫn thủy đi lên, tự nhiên toàn thân khí huyết sẽ thông thuận.
52. Yếu quyết tu luyện: Tĩnh lặng theo dõi, tránh dùng lực (Cần xem chi tiết)_Danh Y 112 Tuổi.
69. Tùy kỳ tự nhiên là cảnh giới cao nhất của dưỡng sinh. Một người khi sinh ra, vận mệnh của anh ta căn bản là đã có định số rồi. Anh ta nên làm gì, không nên làm gì, nên ăn gì, không nên ăn gì, nếu như có thể thuận theo vận số của bản thân mà làm, thì sẽ có thể được bình an vô sự. Cho nên dưỡng sinh tuyệt đối không đơn giản là bắt trước, bảo sao làm vậy..... Cần làm được thuận theo tự nhiên của đại tự nhiên bên ngoài, ngoài ra còn phải thuận theo lẽ tự nhiên của vận mệnh bên trong bản thân, hai điều này đều không thể thiếu được.
78. Đối với bác sỹ mà nói, tâm định thần nhất, người được chữa bệnh có tín tâm kiên định, lưỡng tâm tương hợp, có thể trị được bách bệnh.
80. Trung Dung, là nguyên tắc căn bản của dưỡng sinh. Khí huyết trong cơ thể người cũng là một cặp âm dương, huyết là âm là thể, khí là dương là dụng. huyết là mẹ của khí, khí là chủ tướng của huyết. Khí không đủ, dễ mắc các bệnh do ứ trệ tạo nên như mọc u, tắc động mạch; khí quá độ; dễ mắc các bệnh về xuất huyết não. Cho nên, chỉ khi khí huyết cân bằng, con người mới có thể khỏe mạnh.
93. Tập trung tinh thần định khí, quên đi cả bản thân và mọi sự vật. Đó là cốt lõi của dưỡng sinh.
99. Nếu ngẫu nhiên bị đau bụng, hắt hơi, ho, phát sốt v.v… đều là hệ thống phục hồi thân thể của chúng ta đang hoạt động, đừng có quá lạm dụng thuốc khi vừa mới xuất hiện bệnh trạng, nếu không chính thuốc ấy sẽ phá hoại chức năng phục hồi thân thể của bạn, khi mà chức năng phục hồi của bạn bị suy yếu hoặc mất đi, thế thì bạn đã giao vận mệnh của mình cho thuốc rồi. Nên nhớ rằng, nếu bệnh trạng không nghiêm trọng, biện pháp tốt nhất là dưỡng tĩnh, an tâm tĩnh khí có thể khiến hệ thống sữa chữa của bản thân hoàn thành được công tác phục hồi. Cần thận trọng khi dùng thuốc, để cho hệ thống hồi phục chức năng của cơ thể được khôi phục, đây mới chính là đạo chân chính trong việc giữ gìn sức khỏe.
Xem: Danh Y Hoa Đà; 100 Lời dậy Danh Y Cổ và 100 Lời dạy của Danh Y 112 tuổi
+ Người Xuất Gia: Đức Phật dậy. Người xuất gia ngủ bốn giờ, nhằm lúc trung dạ. Ở Ấn Độ thời gian được chia thành ba thời ban ngày, ba thời ban đêm, một ngày ở Ấn Độ thời cổ là sáu thời. Trung dạ là từ mười giờ đêm đến hai giờ sáng, đó là thời gian để người xuất gia ngủ nghỉ, hai giờ sáng thức dậy tụng khóa sáng, một ngày chỉ ngủ bốn tiếng đồng hồ. Hiện tại, chúng ta nghiệp chướng nặng nề, người Tây phương đề xướng ngủ tám tiếng. Ngủ hơn tám tiếng là chẳng như pháp! Nếu có thể giảm bớt một, hai tiếng, tôi cho rằng ngủ sáu tiếng là được lắm rồi. Một phần quang âm là một phần thọ mạng đấy nhé! (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm_PS Tịnh Không)
+ Ăn uống đúng cách - Hợp bốn mùa: Xem Kinh Phật Thuyết Y Kinh _ Rất tuyệt
+ Ngủ nhiều: Người ngủ li bì mãi không đủ giấc, người rễ hôn trầm là do Tưởng ấm của người đó chưa phá được, nêm tâm u mê hôn trầm nặng lề khó phá. Nếu tu thành tựu phá tưởng ấm thì tâm trí tỉnh táo, sáng suốt, minh mẫn, thức ngủ là một, tuy ngủ nhưng vẫn nge biết ai nói gì ... Hiểu rộng tổng quan Tinh - Khí - Thần, thì người mà Tinh đủ thì không thấy lạnh, Khí đủ thì không thấy đói, Thần đủ thì không buồn ngủ (Hòa thượng Tuyên Hóa khai thị)
+ Tưởng ấm và Hành ấm: Trích Đức Phật giảng cho ngài A Nan. .... Do vậy nên biết tưởng ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Giảng:
Nếu tưởng ấm chẳng phải từ nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên, thì rốt ráo tánh của nó là gì?
Đó là tánh Như Lai tạng, là diệu chân như tánh của Như Lai tạng. Do vậy nên biết– ông nên phải biết tưởng ấm không thật. Tưởng ấm, một trong ngũ ấm, là hư vọng, không thật, hư vọng sinh ra rồi hư vọng diệt mất.
Cội nguồn sinh khởi của cái hư vọng nầy là gì? Nó sinh khởi từ trong diệu chân như tánh của Như Lai tạng. Từ chân mà khởi vọng. Thế nên các tướng hư vọng hiện ra. Các lý lẽ về miệng tiết ra nước bọt (Khi nghĩ về me chua) và lòng bàn chân có cảm giác rờn rợn (Khi đứng trên cao) phát sinh từ đâu? Chúng phát sinh từ hư vọng. Hư vọng từ đâu sinh ra? Nó sinh ra từ diệu chân như tánh của Như Lai tạng. Do vậy nó vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
"A-nan, ví như dòng nước chảy mạnh, các làn sóng nối tiếp, lớp trước lớp sau chẳng vượt khỏi nhau."
Giảng:
Trên đã giảng về tưởng ấm. Phần nầy của kinh văn sẽ nói về hành ấm. Trong tiếng Hán, chữ hành - 行 còn đọc là heng. Hành ấm giống như một dòng nước chảy xiết. A-nan, ví như dòng nước chảy mạnh, các làn sóng nối tiếp, lớp trước lớp sau chẳng vượt khỏi nhau. Các ngọn sóng chồm lên phía trước, phía sau vô số các ngọn sóng khác liên tục phủ lên nhau. Khi quý vị nhìn vào sóng, quý vị thấy sóng chồm về bên phải, rồi chồm về bên trái, rồi nghĩ rằng chẳng có ai theo dõi đến chúng, sóng rất có trật tự. Phần lớn, sóng chỉ có một dạng, nhưng ngọn sóng lớn lại phát tán ra thành nhiều ngọn sóng trong cùng một lúc. Những ngọn sóng ấy giống như các niệm tưởng trong tâm của con người. Trong tâm thức, trong thức thứ tám, niệm nầy sinh khởi, niệm khác hoại diệt theo sau các niệm khác dấy khởi. Sự sinh khởi và hoại diệt của các niệm trong tâm thức cũng giống như sóng trên mặt nước. Nó liên tục nối tiếp nhau, ngọn nầy kế tiếp ngọn kia, giống như niệm tưởng trong tâm con người vậy: niệm nầy dừng, niệm khác sinh khởi, niệm kia dừng, liền có niệm kế tiếp nối theo. Một niệm vừa diệt, niệm khác liền sinh, niệm kia vừa sinh, niệm sau liền diệt. Nó liên tục trình hiện như sóng, không bao giờ vượt qua nhau. Ngọn sóng đi sau không bao giờ phủ lên đầu ngọn sóng trước. Cũng vậy, niệm tưởng sau của quý vị không bao giờ phóng vọt lên trước niệm hiện tiền. Thế nên giữa các niệm có một hoạt động rất trật tự, không một chút sai lầm. Mới nhìn qua thấy các ngọn sóng tưởng như không có ranh giới, nhưng thực ra sóng di chuyển từng ngọn từng ngọn rất có trật tự và liên tục không bao giờ dừng nghỉ (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Nghệ thuật sống - Nghệ thuật làm chủ Tâm Thức:
1- Mỗi khi cảm thấy hoang mang và mất tự tin thì hãy nghĩ ngay đến các phẩm năng tuyệt vời của con người mà mình đang có, các phẩm năng ấy của quý vị chỉ mong sao được nẩy nở thêm. Vậy hãy giữ lòng hân hoan nhìn vào kho tàng quý giá đó đang được cất dấu bên trong nội tâm của quý vị: Hân hoan là một sức mạnh, vì vậy quý vị hãy phát huy nó.
2- Điều cốt yếu có thể mang lại hạnh phúc cho quý vị chính là biết hài lòng với những gì đang là chính mình trong những giây phút hiện tại. Sự toại nguyện bên trong nội tâm đó sẽ biến cải cảm quan của quý vị khi phóng nhìn vào vạn vật chung quanh, và nhất định quý vị sẽ tìm thấy sự an bình trong tâm thức.
3- Khi có kẻ gây ra tổn thương cho mình thì không nên do dự một chút nào cả, hãy tha thứ cho họ. Lý do là vì nếu nghĩ đến những gì đã thúc đẩy họ hành động như vậy thì quý vị tất sẽ thấy rằng đấy chính là những thứ khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, chứ không phải là do họ quyết tâm và cố tình làm tổn thương và gây tai hại cho quý vị. Tha thứ là một cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, chứ không hề là một việc bỏ qua cho xong chuyện. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận thực trạng của những tình huống xảy ra với mình.
4- Hãy bố thí cho kẻ khác mà không mong đợi một sự hồi đáp nào và cũng không tính toán gì cả. Không vì mong muốn tìm sự thích thú mà bố thí hay là để người khác yêu quý mình, thì như thế mới đúng thật là một hành động bố thí mang lại niềm hạnh phúc cho mình. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều duy nhất có thể mang tất cả chúng sinh có giác cảm đến gần với nhau chính là tình Thương Yêu.
5- Hãy cám ơn kẻ thù của quý vị vì họ là những vị thầy quan trọng nhất của mình. Họ tập cho quý vị đương đầu với khổ đau và phát huy sự nhẫn nhục, sự bao dung và lòng từ bi. Họ không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.
Mời đọc bài viết: 108 Lời Dậy Của Đức Đại Lai Lạt Ma
+ Kiến thức Minh triết giúp ta có nghệ thuật sống đúng Đạo:
- Hiểu về Nhân quả - Luân hồi - Tái sanh: Chúng ta có Nhân Quả, trải qua bao kiếp sống chúng ta đã gieo vô lượng vô biên nhân lành dữ, do đó chúng ta bị bắt buộc phải tái sanh theo Luật vũ trụ. Do Vô minh nên các kiếp sống khổ đau thì nhiều, sung sướng hành phúc chẳng bao nhiêu.... mời đọc bài viết Nhân quả - Luân hồi - Tái sanh: Ta là ai - Từ đâu đến - Chết đi về đâu?
- Số mệnh không phải là định mệnh, có thể thay đổi được: Mời đọc Nhân quả và Số mệnh
- Nghệ thuật sống: Cuốn sách tổng hợp các phương pháp sống thiện lành từ nguồn giáo lý minh triết mà Thành hiền đã dậy, để giúp con người có được hạnh phúc ngay trong hiện tại và cả tương lai nhiều kiếp sống sau này, gồm:
- Tin Sâu Nhân Quả - Luân Hồi: Nhân Quả Tạo Ra Số Mệnh - Hoàn Toàn Có Thể Thay Đổi Qua Tu Hành Cải Mệnh
- Học Phật Pháp: Xóa Vô Minh - Xa Lìa Tà Kiến. Sống Giác ngộ với Trí tuệ Phân biện
- Chữ Hiếu - Sống Hiếu thảo - Người Có Hiếu -Biết Báo Hiếu Với Lòng hiếu với Cha Mẹ là lẽ sống mang lại nhiều Phúc đức và cả sự Nhiệm mầu
- Nạo Phá Thai - Tội Giết Người. Người cố ý thì không thể Sám Hối
- Hiểu Về Nhẫn Nhục Và Thuật Ngữ Tu Hành Cải Mệnh Thông Dụng
- Hai Mươi Tám điều về Đạo Làm Người Thiện Nam - Tín Nữ. Xứng Danh Người Quân Tử Trọng Nghĩa Khinh Tài
- Vì Sao Không Tương Ưng Với Ðạo - Nghệ thuật sống tương ưng với Đạo
- Pháp Cải Mệnh Tùy Bệnh - Cho Thuốc. HÓA GIẢI ÂU LO - BỆNH NẠN ĐỂ KHỎE VÀ GIẦU SANG - HẠNH PHÚC - GIẢI THOÁT
- Đức Phật dậy về giải quyết bất hòa trong cuộc sống
- Người Quân Tử hiểu về Thuật Số và Phong Thủy, Tướng mạo, Xem Tinh tú để không bị mê tín dị đoan quá. Vì Vận Mạng do mình làm chủ - Có thể thay đổi được;
- Làm Sao Để Phát Tài Giầu Có và Làm Chủ Tiền Tài - Hạn Chế Khổ Đau Phát Sinh Từ Sự Giầu Có
- Kinh Thiện Sinh: Kính Lễ Sáu Phương và Đối Nhân Sử Thế Trong Đời Sống
- Kinh Hiền Nhân
- Con Người sinh ra và Chết đi trong hồ đồ - Không biết Mình là ai - Từ đâu đến - Chết đi về đâu. Làm sao để có thể tự do Sanh Tử đây?
- Người nhà chẳng tin, họ còn muốn ăn thịt, mỗi ngày đều phải cắt xẻ cho họ, vẫn còn chặt thịt cá, vẫn phải nấu nướng phục vụ cho họ thì phải làm sao?
- Làm sao để được tự do sanh tử - Hãy thực hành theo sáu đại tông chỉ: Không tranh - Không tham - Không mong cầu - Không ích kỷ - Không tự lợi - Không vọng ngữ (Nguồn: Sách Nghệ Thuật Sống)
+ Trị lành bách bệnh: .... chỉ là xem cái tâm của bạn có thể buông xuống được không, tất cả bệnh tật đều từ tâm sinh, tất cả bệnh tật cũng đều từ tâm mà trị. ... Con người không trị được bệnh, cần phải nhờ Thần trị; Thần trị không khỏi bệnh thì phải nhờ Phật trị. Phật giảng điều gì? Điều Phật giảng là tâm ... (Điểm 64, 65 - 100 lời Danh Y)
+ Trị bệnh ác tâm: Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật. A Nan hỏi Phật: “Đó là bệnh gì?” (Xem: Bệnh không thấy Phật_Tooltip)
+ Chữa trị bệnh theo Tâm linh: Kinh văn: “Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại và vị lai, nếu những chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa.
Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phục v. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài.
Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.” (Nguồn: Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện)
+ Thần chú trị nhiều bệnh: Đức Phật nói rằng: Người nào tụng trì Đà La Ni nầy, nếu đêm ăn không tiêu, hoặc bị sốc rết, bệnh dịch, phong hàn, đàm ẫm, bệnh tim, bệnh trĩ, bệnh lậu, bệnh xuyển, ho hen, hàn nhiệt, nhức đầu, đau bụng, bị Ma quỷ nhập, đều được trừ khỏi... (Nguồn: Kinh Phật Thuyết Trừ Nhứt Thiết Tật bệnh)
+ Tu niệm, đọc tụng kinh chú chữa trị bệnh - nạn: Phật pháp nhiệm mầu, có rất nhiều pháp chữa trị bệnh, nạn rất vi diệu nhiệm mầu, chỉ cần các Thiện nam - Tín nữ tu đúng như Pháp thọ trì thì chắc chắn có cảm ứng nhiệm mầu, đại khái gồm:
- Tu đọc tụng Kinh Phật: Ví như đọc Kinh Địa Tạng sẽ không bị các nạn quỷ thần chướng ngại, gồm cả bệnh truyền nhiễm do hành bệnh quỷ Vương điều khiển. Đọc tụng Kinh Dược Sư ... đều rất nhiệm mầu. Có rất nhiều Kinh chữa trị bệnh nhiệm mầu. (Xem ví dụ: Kinh Dược Sư trị bệnh; Xem: KINH PHẬT THUYẾT LIỆU TRĨ BỆNH; Nguồn: Kinh Phật Thuyết Trừ Nhứt Thiết Tật bệnh; nguồn: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt; Nguồn: HT Thích Thiện Thông dịch Kinh Chiêm Sát.)
- Tu đọc tụng Thần chú: Ví như các thần Chú Đại Bi, Chú Lăng Nghiêm ... chữa bách bệnh thế gian, không có một bệnh gì là không khỏi, chỉ là xem bạn tu đúng như Pháp thọ trì đến đâu. (Xem thêm: Thần chú có quyền năng; Xem thêm: Thần chú phá ác nghiệp chướng; Xem thêm: Các thần chú chữa bệnh; Xem thêm: Thần chú tiêu trừ bệnh)
- Tu lễ lạy Phật, Bồ Tát, Thánh hiền với thiện Tâm thanh tịnh, chí thành, khẩn thiết cũng được bách bệnh, nạn tiêu trừ, căn lành tăng trưởng ...
- Tu niệm Phật, Bồ Tát cũng chữa trị bệnh nạn nhiệm mầu: Ví như dù máy bay đang rơi, chết đến nơi nếu thành tâm chí thành khẩn thiết niệm Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm thì đều được cứu, rất nhiệm mầu ... (Theo HT Tuyên Hóa giảng)
- Niệm Chú và bắt Ấn trị bệnh nạn: Pháp giành cho người thượng căn, trí tuệ Giác ngộ tu tập tâm linh, tối thiểu đã thành tựu Đạo làm người quân tử, giữ nghiêm ngũ giới, tu thập thiện và bát chánh đạo, các phẩm trợ đạo. Tu thiền định tinh tấn dũng mãnh đúng NHƯ PHÁP thọ trì mới nên tu hành Ấn Pháp Mật Tông nhiệm mầu này. (Xem: Tổng hợp pháp tu trì chú - Bắt ấn_Tooltip); Xem thêm: Trì chú vào nước chữa bệnh
+ Tu sám hối tiêu trừ bệnh nạn: Căn bản là hồi đầu đoạn ác tu thiện, làm lành lánh dữ KHÔNG tái phạm, sám hối rất nhiệm mầu (Xem: Pháp sám hối_Tooltip)
+ Hóa giải - Tiêu trừ bệnh nghiệp: Gặp họa và Hóa giải về Nghiệp Quả - Giải Nghiệp Tai Nạn - Bệnh tật - Không bị Tai Ách - Ác duyên như Không bị trộm cướp. Hóa giải tai nạn - Phật pháp nhiệm mầu ... (Xem: Tổng hợp _ Tooltip)
+ Nước cam lồ: Người thiện lành tu ngổi thiền sanh nước cam lồ chữa lành bệnh (Xem: Cam lồ chữa bệnh_Tooltip)
+ Trị bệnh chết uổng - Chết chưa hết số - Chết không đúng thời: Có rất nhiều loại bệnh, nạn gây ra cái chết chưa hết số .... (Xem: Tổng hợp Tooltip: Chết uổng)
+ Trị bệnh buồn ngủ: Trong tu hành, người nghiệp nặng khi ngồi vào tu tập thường buồn ngủ, tâm trí mơ màng, nặng thì lắm truyện chướng ngại sảy đến làm cản trở đường tu, rễ sanh bỏ cuộc, người như thế nên tu pháp Sám hối (Ví như Sám Hối Chiêm Sát ...) để trị. Đức Phật dậy cách chống buồn ngủ, xem: Tại đây
+ Trị bệnh trí nhớ kém: ... Con Bò ngửi Kinh Phật thì kiếp sau làm người, học thuộc được Kinh; Thày Pháp sư giỏi kinh văn không chịu dạy người, kiếp sau ngu đần, trí nhớ kém.... (Nguồn: Kinh TLN - Q5-HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cách chữa trị cảm xúc đau đớn dày vò thân tâm: (Nguồn: Giảng về sự đau đớn - Kinh Mũi tên)
+ Chữa bệnh Tâm vọng tưởng điên đảo: Pháp quán sát hơi thở và tâm trí để thanh luyện thân tâm thanh tịnh, sạch sẽ tâm linh. (Nguồn: Kinh Niệm Xứ)
+ Trị bệnh nạn do nghiệp chướng: Thần chú đức Phật ban cho, hiệu nghiệp với trẻ nhỏ, bào thai (Nguồn: Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé)
+ Thần chú trị bệnh dịch: Thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát giúp giải trừ dịch bệnh quái ác trong dân chúng. (Nguồn: Kinh chú Đà La Ni Thỉnh Bồ Tát Quán Thế Âm Tiêu Phục Độc Hại)
+ Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng: Thọ trì để chữa trị nhiều bệnh nạn (Nguồn: Phật Nói Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng);
+ Pháp tu thiền tuệ tri: Pháp an tịnh tâm, phát triển trí tuệ ... (Nguồn: 19.Kinh Song Tâm)
+ Bảy giác tri trị bệnh Tâm linh: 2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh....... Bạch Thế Tôn, xả giác chi do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Bạch Thế Tôn, bảy giác chi này do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn......
6) Tôn giả Mahà Cunda thuyết như vậy, bậc Đạo Sư chấp nhận. Và Thế Tôn thoát khỏi bệnh ấy. Bệnh ấy của Thế Tôn được đoạn tận như vậy. (Nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi)
+ Nghiệp chướng sinh bệnh: Sử dụng phương pháp Niệm Phật, .. dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng, tin tưởng, nguyện thiết tha, quý vị sẽ có cảm ứng rất nhanh. .... cái tâm của chính mình thanh tịnh, phiền não ít đi, sẽ cảm giác rất vui sướng, thậm chí thân thể quý vị có bệnh, bệnh chẳng còn nữa. ... Khi thanh tịnh đến cùng cực, thân thể sẽ tỏa mùi thơm. Thân có mùi hôi, có tật bệnh, đều là nghiệp chướng. (Nguồn: Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện - PS Tịnh Không)
+ Gia Trì Chữa Bệnh Cho Người Khác:
Câu Hỏi 123: Làm thế nào để gia trì cho người bệnh?
Đáp: Nếu muốn trị bệnh cho người thì trước tiên hãy chữa bệnh cho chính mình rồi hãy nói? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
Có người hỏi tôi : Khi tới Tây Phương, Thầy làm sao hoằng dương Phật pháp ?.
Tôi xin đáp rằng : Tôi hoàn toàn dựa vào Quán Thế Ân Bồ Tát, Chú Đại Bi và Chú Lăng Nghiêm.
Hỏi : Như có một số cư sĩ tại gia nói với chúng con rằng : "Nghiệp chướng mà đến rồi thì mình không tiến bộ được và còn muốn thoái lùi nữa". Nhưng nếu đó là định nghiệp thì chúng con nên trả lời họ như thế nào ? Chúng con có nên ép buộc họ tiếp tục tinh tấn không ?.
Đáp : Nên xem tình hình lúc đó, tùy người cho thuốc, tùy theo chứng bệnh cho thuốc. Phiền não và Bồ Đề giống như nước và băng - Phiền não tức là Bồ Đề. Có lúc mình bị đặt vào chỗ chết nhưng rồi lại được sống sót; gặp việc không thể nhẫn mà mình phải nhẫn, chuyện khó qua cũng phải vượt qua thì mới đúng. Không cần phải tự chui đầu vào rọ, không có đường cùng đâu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q4 )
+ V- CHỮA BỆNH HUYỀN MÔN
Những hình thức thiền để chữa bệnh cho thể xác. Chắc chắn các bạn ngạc nhiên khi thấy rằng ít khi phải dùng hình thức thiền loại này, và vì thế chúng không có nhiều. Lý do là ít có bệnh tật nào của xác thân lại phát sinh từ chính nó. Một vài bệnh bắt nguồn từ thể dĩ thái, nhưng ở giai đoạn tiến hóa này thì đa số các bệnh tật đều phát sinh từ thể cảm dục, và phần còn lại từ thể trí. Chúng ta có thể nói khái quát như sau: [159] - 25% bệnh tật thể xác phát sinh từ thể dĩ thái. - 25% do thể trí. - 50% bắt nguồn từ thể tình cảm. Theo đó có cách chữa trị tương ứng cho từng Thể...(Xem: Tổng hợp chữa trị _Tooltip)
+ Trị bệnh Ung thư bằng tâm linh: ... bệnh ung thư, chỉ có thể chữa được trong các giai đoạn mới phát này và bấy giờ, việc chữa trị mới có hiệu quả, nhưng lại chỉ khi nào ý chí của người bệnh được cầu viện đến, nói chung rất khó vì nó đòi hòi người bệnh cũng cần có ý trí và đức hạnh tương ứng ... (Xem: Trị bệnh ung thư_Minh triết mới)
+ Nghiệp quả trị bệnh cứu người: Tất cả đều phụ thuộc vào dụng Tâm thiện ác mà chiêu quả báo. (Xem: Quả báo trị bệnh cứu người_Tootip)
I- NGUYÊN TẮC CHUNG TRONG PHÒNG - CHỮA TRỊ BỆNH TẬT
Dù là phương pháp nào, thì một điểm chung là mỗi người cần chú trọng phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nếu làm tốt bước này thì mọi người đều có cơ hội sống hết số mệnh, tránh được việc chết vì bệnh nạn mà chưa hết số, mà ngày nay, vì lo lắng cho cuộc sống hiện đại quay cuồng đang làm cho đa số mọi người đều có nguy cơ chết mà chưa hưởng hết số mệnh đã an bài.
Khi đã áp dụng Y khoa hiện đại hay Đông y cổ truyền mà bệnh tật không giảm hoặc không có khả năng chữa trị khỏi bệnh hoàn toàn, thì người bệnh nếu mắc bệnh Nan y như Ung thư ... nên đến với Phật Pháp, vì Phật Pháp nhiệm mầu có thể chữa lành mọi bệnh trên thế gian, không có bệnh gì là không khỏi.
- Trang giới thiệu về nguyên nhân bệnh tật và các phương pháp chữa trị: Xem tại đây
- Nguyên nhân và Chữa trị các loại bệnh Sinh lý - Nghiệp chướng và Quỷ thần: Xem tại đây
II- CHỮA BỆNH BẰNG KHOA HỌC - Y HỌC HIỆN ĐẠI
Khi có bệnh, đầu tiên người bệnh phải đến bác sỹ để được khám, điều trị. Phương pháp này ưu điểm là với một số bệnh chữa khỏi nhanh, nhưng thường chữa ngọn, cho lên không khỏi tận gốc bệnh, rễ tái phát.
III- CHỮA TRỊ BỆNH BẰNG ĐÔNG Y - DƯỠNG SINH
Chữa trị theo Đông Y có là truyền thống lâu đời. Phương pháp chữa trị này tuy lâu khỏi, nhưng là phương pháp lành vì ít có phản ứng phụ, ít gây nguy hại cho người bệnh. (Phương pháp phòng - Trị bệnh tận gốc: Xem tại đây)
+ Đạo Dưỡng Sinh - Sống Thuận Theo Tự Nhiên: Sống đúng đạo thì đời sống của ta được sung sướng vô cùng, nhất thế gian, người hạnh phúc nhất, người mỹ mãn nhất. Ta không có thứ khác, ta hoàn toàn tuân thủ quy luật của đại tự nhiên, nhất quyết không chống lại quy luật của đại tự nhiên. Quy luật của đại tự nhiên là chí thiện, chí thiện có thể hóa giải tất cả tai nạn. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
I- LỜI DẬY CHO NGƯỜI CHỮA BỆNH VÀ TRỊ BỆNH
+ Trong trời đất, con người là quý, đầu đội trời, chân đạp đất, thân thể do cha mẹ để lại nên phải quý. (Hải Thượng Lãn Ông)
1. Hãy nhớ kỹ: Ngủ là yếu tố quan trọng nhất của dưỡng sinh. Ngủ từ 21h đến 3h sáng - Mùa đông trong ngày, mùa đông chủ yếu là ẩn náu, mùa đông mà không ẩn náu thì mùa xuân, hạ sẽ không thể sinh trưởng, sang ngày hôm sau sẽ không có tinh thần.
8. Khí huyết đầy đủ do: sự đầy đủ về thức ăn + dịch mật + bắt buộc trong khoảng thời gian (sau khi trời tối đến 1h40 sáng) có thể ngủ ngon giấc (thời gian này đại não hoàn toàn không làm việc, đều do thần kinh thực vật làm chủ đạo) + có thói quen sinh hoạt lành mạnh.
15. Vì sức khỏe của bạn, bạn hãy tu Phật, là sự hưởng thụ tối cao của đời người.
24. Giận nhiều hại gan, dâm nhiều hại thận, ăn nhiều hại ruột, ưu tư hại lá lách, phẫn nộ hại gan, sầu muộn hại tinh thần.
28. Khí để thông huyết, huyết để bổ khí, tuy hai là một. Nhìn nhiều ắt tổn thương huyết, nằm nhiều tổn thương khí, ngồi nhiều tổn thương thịt, đứng nhiều tổn thương xương, đi nhiều tổn thương gân, thất tình lục dục quá độ ắt tổn thương nguyên khí, hại tới tâm thận. Như ngọn lửa cháy mạnh mẽ, bị hao tổn dương khí.
29. Trị bệnh về ngũ tạng, đầu tiên cần bổ khí. Thận là cấp bách nhất. Bổ khí nghiêm cấm động tâm, động tâm ắt nóng gan, các mạch bị chấn động, chân thủy sẽ hao tổn. Tâm bị động, sẽ dẫn khởi phong. Phong động ắt hỏa vượng, hỏa vượng ắt thủy can, thủy can ắt địa tổn.
32. Cảnh giới cao nhất của Đông y là dưỡng sinh, dưỡng sinh là dưỡng tâm. Hạ sỹ dưỡng thân, trung sỹ dưỡng khí, thượng sỹ dưỡng tâm. Nhìn tướng không bằng nhìn khí, nhìn khí không bằng nhìn tâm.
50. Phương pháp tự cứu khi lâm đại bệnh:
Một: Không sợ chết, tin tưởng rằng bệnh có thể khỏi, mà thân thể có thể trở nên đặc biệt khỏe mạnh, sống lâu trường thọ, vì tự cơ thể có năng lực này thật sự, không phải tự an ủi.
Hai: Tin tưởng không cần dùng thuốc hoặc dựa vào bất kỳ thực phẩm dưỡng sinh nào, nhất định bản thân tự có khả năng trừ bệnh kéo dài tuổi thọ.
Ba là bắt đầu từ hôm nay, phải quyết định không được lại động tới thân bệnh của bản thân, không được nghĩ tới bệnh, tốt hay xấu đều không được suy tính về nó, chỉ làm một người vô tư.
Bốn là trong khoảng thời gian chữa trị, không được nghĩ tới hay hối hận về công việc và thời gian đã mất, chuyên tâm nhất trí, nếu không sẽ lại chậm trễ có khi hỏng việc.
53. .....Càng sợ chết, càng chết nhanh. Nếu bạn muốn dưỡng sinh, thì phải không sợ chết. Chỉ có không sợ chết, mới có thể cách xa cái chết.
64. Con người không trị được bệnh, thì cần phải nhờ Thần trị; Thần trị không khỏi bệnh thì phải nhờ Phật trị. Phật giảng điều gì? Điều Phật giảng là tâm.
65. Bị ung thư - Bị dọa chết, là bị áp lực tinh thần dày vò đến chết. Sự thực mà nói, không có bệnh gì là trị không khỏi. Chỉ cần bạn vẫn còn sống và buông xuống vạn sự, bạn vẫn còn cơ hội.
75. Buông xả vạn sự: Danh khó nhất ngũ dục, sắc đứng thứ hai, tiếp theo là tài, sau đó là ăn và ngủ. Tâm về danh không bỏ, thì không có cách nào nhập Đạo.
77. Trị bệnh về ngũ tạng, đầu tiên cần phải bổ khí. Khi bổ khí cấm động tâm, tâm động ắt gan vượng, gây chấn động mạch, chân thủy sẽ hao tổn. Tâm là quạt, sẽ dẫn khởi gió. gió động ắt hỏa vượng, hoặc vượng ắt thủy cạn, thủy can ắt địa tổn.
78. Đối với bác sỹ mà nói, tâm định thần nhất, người được chữa bệnh có tín tâm kiên định, lưỡng tâm tương hợp, có thể trị được bách bệnh.
79. Với bệnh cứng đầu: Không thể tấn công cứng nhắc từ chính diện, cần đột phá từ những phương diện khác có liên quan.
80. Trung Dung - Nguyên tắc dưỡng sinh. Khí huyết, cặp âm dương, huyết là âm là thể, khí là dương là dụng. huyết là mẹ của khí, khí là chủ tướng của huyết. Khí không đủ, dễ mắc các bệnh do ứ trệ tạo nên như mọc u, tắc động mạch; khí quá độ; dễ mắc các bệnh về xuất huyết não. Cần khí huyết cân bằng, người mới khỏe mạnh.
91. Dưỡng sinh, trọng yếu là không được sợ chết. Người sợ chết dương khí không đủ, dương khí không đủ, tử thần sẽ tìm ra được bạn. Vậy Nhân, trí, dũng không thể thiếu một trong ba.
95. Ứng dụng ngũ hành sinh khắc: Mọi bệnh đều có thể dùng ngũ hành tương sinh khắc để trị. (Nguồn: 100 Lời dậy Danh Y Cổ)
Xem bản đầy đủ: Danh Y Hoa Đà; 100 Lời dậy Danh Y Cổ và 100 Lời dạy của Danh Y 112 tuổi
IV- CHỮA BỆNH VÀ TRỊ BỆNH BẰNG PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU
+ Bệnh về Tâm: Lục độ Ba La Mật có thể được sử dụng để chữa sáu loại bệnh trong Phật giáo:
1) Rộng lượng chữa trị tham lam,
2) Trì giới chữa trị phạm giới,
3) Nhẫn nhục chữa trị hận thù,
4) Tinh tấn chữa trị giải đãi,
5) Thiền định chữa trị tâm nhiễu loạn, và
6) Bát Nhã (trí tuệ) chữa trị vô minh.
Y dược của lục độ Ba La Mật cho phép chúng ta điều phục tâm và kiến tạo ra mối an bình và hòa hợp với tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Khi chấp nhận lấy Phật Pháp, chúng ta có thể giải quyết những xung đột trong cuộc sống thường ngày một cách dễ dàng hơn, và phát triển một tâm trí lành mạnh và một cá tính độ lượng. (Nguồn: Phật giáo với y học và sức khỏe)
+ Thọ trì đọc tụng Kinh Chú Chữa Bệnh: Người Tu chân chính, thọ trì đọc tụng Kinh Chú như lý như Pháp được vô lượng công đức, có thể giải vô lượng nghiệp chướng, chữa trị mọi loại bệnh trên thế gian, không có bệnh nào là không khỏi.
* Trì Chú Đại Bi không lành bệnh: Tín tâm chân thành, cung kính tin tưởng tuyệt đối không chút nghi ngờ vào Thần Chú, vào Phật, Bồ Tát, tin chính mình luôn có cảm ứng tâm linh với các Ngài, tin bản thân mình luôn là đường dẫn năng lượng cảm ứng tâm linh đáng tin cậy của các Ngài là cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành bại của việc ứng dụng Phật Pháp nhiệm mầu. Còn một chút nghi ngờ vì bất cứ lý do gì thì cũng không linh nghiệm. Tất nhiên điều kiện cần là bạn phải tu đúng Như Pháp Thọ Trì như đã thực hành thanh luyện Thân - Tâm theo Cánh Đạo, hàng ngày Phát khởi tình thương rộng mở không phân biệt đến chúng sinh. Nếu muốn tu trì để chữa nhanh bệnh cho mình và cho người, thì cần tinh tấn thực hành Thập thiện nghiệp đạo và Bát Chánh đạo để giữ mối liên hệ với Chư Phật, Bồ Tát, Thánh hiền để ngày càng tương ứng là Hóa thân của các Ngài.(Tóm lược lời giảng của HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
- Kinh và Chú Dược Sư: Trong Kinh Dược Sư, Đức Phật giảng. Nếu hay vì người bệnh này, quy y Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy, như Pháp cúng dường, liền được bình phục. Khi Thần thức của người này được quay trở lại thời như từ mộng tỉnh giấc, tự mình nhớ biết. Hoặc trải qua 7 ngày, hoặc 21 ngày, 35 ngày, 49 ngày... Thần Thức quay về xong, thì nhớ đủ hết thảy nghiệp báo lành dữ. Do tự mình chứng biết cho nên dù phải bị mất mạng cũng chẳng dám tạo nghiệp ác nữa. Chính vì thế cho nên kẻ trai lành, người nữ thiện có lòng tin, cần phải cúng dường Đức Dược Sư Như Lai".(Nguồn: Xem Kinh Dược Sư ...)
Mời tham khảo chỉ dẫn ứng dụng các phương pháp chữa bệnh Cải mệnh mạnh mẽ, dưới đây là vài trang điển hình:
- Phòng bệnh - Chữa Mệnh toàn diện: Xem tại đây
- Cải mệnh - Phòng bệnh để khỏe và giầu sang: Xem tại đây
- Chữa bệnh - Cải mệnh bằng Thần Chú nhiệm mầu: Xem tại đây
- Những truyện ứng dụng Phật Pháp nhiệm mầu khỏi bệnh nan y: Xem tại đây
+ Tu Tám chánh đạo.
1. Thứ nhất là chánh kiến. Kiến tức là ý kiến. Nơi ý niệm có một kiến (thấy). Kiến này phải nên chân chánh, nghĩa là kiến giải phải chánh xác. Nếu không có chánh kiến thì dễ dàng lạc vào đường tà. Nếu kiến giải chân chánh thì đi được trên đường thẳng. Tại sao gọi là chánh kiến, tà kiến ? Nếu bảo rằng phải nên học Phật pháp. Phật pháp là chân chánh, phải nên học. Đó là chánh kiến. Nếu như học đánh cờ bạc, chơi bời, làm biếng, hại người, đó gọi là tà kiến. Vì vậy chánh kiến rất quan trọng.
2. Nếu có chánh kiến rồi thì có chánh tư duy. Có kiến giải rồi thì phải có suy nghĩ; suy nghĩ việc này việc nọ là đúng hay không đúng. Học Phật pháp là một công việc tối thượng nhất trên thế gian. Không sai trái tức là chánh tư duy. Tà tư duy nghĩa là khi học Phật pháp cho rằng không có lợi ích chi. Họ nghĩ :"Trong thời đại khoa học, Phật pháp giảng đến giảng lui chỉ khuyên người làm việc thiện, làm người tốt thôi. Hiện nay ai là người tốt ? Không có ai là người tốt hết, chỉ toàn là người xấu không thôi. Tôi thấy ông A kia, chuyên tạo việc xấu, mà lại có tiền, có rượu để uống, cái gì cũng có."
Suy nghĩ rằng học Phật pháp không có ích chi như thế, tức là tà kiến, đi trên đường tà. Nếu có chánh tư duy thì không lạc vào đường tà.
3. Có chánh tư duy thì kế tiếp là có chánh ngữ. Chánh ngữ tức là lời nói nào cũng đều chính xác, không nói lời say sưa, cáu tiết, không dẫn người lạc vào đường tà. Nói lời chân chánh, chánh xác, khiến ai ai cũng đều vui thích lắng nghe, vui thích làm theo.
4. Có chánh ngữ rồi thì có chánh nghiệp, tức tự tìm, hành nghề chân chánh. Ai ai cũng biết rõ nghề nghiệp chân chánh là gì, chớ nên làm những nghề nghiệp phạm pháp.
5. Thứ năm là chánh mạng. Có chánh nghiệp thì sanh mạng chân chánh.
6. Thứ sáu là chánh tinh tấn. Tạo chánh nghiệp thì phải nên tinh tấn. Chớ nên tinh tấn tạo những nghiệp bất chánh.
7. Thứ bảy là chánh niệm.
8. Thứ tám là chánh định.
Đó là tám chánh đạo.
Bốn như ý túc tức là dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, tư duy như ý túc.
Bốn niệm xứ tức là thân, thọ, tâm, pháp. Quán thân bất tịnh. Quán thọ là khổ. Quán tâm vô thường. Quán pháp vô ngã. Bốn chánh cần là điều lành chưa sanh khiến cho sanh khởi, điều lành đã sanh khiến cho tăng trưởng. Đó là giảng về phương diện điều lành. Những điều ác chưa khiến cho không sanh khởi. Những điều ác đã sanh khởi khiến cho chúng đoạn diệt. Đó là nói về phương diện điều ác.
Năm căn là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Năm căn này phát sinh ra năm lực. Tín có tín lực. Tấn có tấn lực. Niệm có niệm lực. Định có định lực. Huệ có huệ lực.
* Cộng năm căn năm lực lại thành mười. Bốn niệm xứ, bốn như ý túc, bảy phần bồ đề, tám chánh đạo cộng chung là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
"Nhất đản quán thông thành thánh quả, (một lần quán thông thành thánh quả)".
Chư vị tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thì một ngày nào đó sẽ đột nhiên quán thông, minh bạch, hiểu rõ. Lúc ấy, chư vị chứng được quả thánh.
"Thiên chân hữu dư nãi hoá thành, (lệch chân hữu dư nãi hóa thành)".
Chư vị chớ nghiêng trụ tại niết bàn hữu dư, thiên chân hữu dư, niết bàn chính là hóa thành, nghĩa là thành này do biến hóa mà có, không phải là thật. Đạt đến thiên chân hữu dư niết bàn, tức là không phải niết bàn cứu cánh, nên phải còn tu thêm nữa. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Con đường tu Bát chánh đạo - Chuyển hóa Tham Sân Si - Đạt Giới Định Tuệ hay Huệ tiến đến giải thoát:
Ở trong Bát Chánh Đạo có:
- Chánh kiến: là thấy đúng, cái thấy tương tức, cái thấy không kỳ thị
- Chánh tư duy: tư duy đi theo chiều hướng của hiểu và của thương
- Chánh ngữ: lời nói đi theo chiều hướng của hiểu và thương
- Chánh nghiệp: hành động cũng đi theo chiều hướng hiểu và thương.
- Chánh tinh tấn: bỏ công phu ra tu tập, luyện cho mình có được một cái thấy chính xác.
- Chánh mạng: có nghề nghiệp, có phương tiện sinh sống mà nó không đi trái với chánh kiến. Nghề nghiệp của mình không đem lại sự tàn hại cho con người, cho những loài khác và cho môi trường của sự sống
- Chánh niệm: ý thức được những gì đang xảy ra trong mình và xung quanh mình
- Chánh định: duy trì được cái thấy chính xác
Nhưng tất cả đều được soi sáng bởi chánh kiến. Tập thành đạo kiến là luyện tập như thế nào để thấy được con đường Bát Chánh Đạo. Chánh kiến tức là tuệ, là hoa trái của sự thực tập. Mình ngồi thiền, mình tu tập để đạt tới cái thấy chính xác, đó gọi là chánh kiến, là trí tuệ, là bát nhã. Cái thấy đó là cái thấy không kỳ thị, không lưỡng nguyên, một khi có cái thấy đó thì không còn tham đắm, giận hờn, ganh tỵ nữa. Cái đó gọi là Bát Nhã Ba La Mật, tức là trí tuệ đưa tới bờ bên kia.
Có chánh kiến rồi sẽ có chánh tư duy. Tư duy trên căn bản chánh kiến thì tư duy này cũng không kỳ thị, không lưỡng nguyên, tư duy theo tuệ giác tương tức. Tư duy như vậy thì sẽ không còn tham, sân, si. Có chánh kiến sẽ có chánh ngữ: lời nói này tạo ra sự hòa hợp mà không gây chia rẽ. Có chánh kiến rồi sẽ có chánh nghiệp: hành động của mình mang tính cách che chở, bảo hộ, cứu trợ, nó không tàn sát, kỳ thị nữa. Có chánh kiến thì mới có chánh tinh tấn, chánh mạng. Có chánh kiến thì mới có chánh niệm và chánh định. Tóm lại chánh kiến đưa tới bảy cái chánh kia.
Niệm, định càng hùng hậu thì tuệ giác càng lớn. Vì vậy cho nên chúng ta biết rằng trái tim của sự thực tập đạo Bụt là tam vô lậu học, tức là niệm, định, tuệ. Niệm, định, tuệ là tam học (the three kinds of trainings). Chánh niệm hùng hậu thì có chánh định. Chánh niệm và chánh định hùng hậu thì có chánh kiến, tức là tuệ giác, tức là có cái thấy rất là sáng rõ. Có cái thấy sáng rồi thì tư duy cũng đúng, nói năng cũng đúng và hành động cũng đúng, càng sáng thì làm càng đúng. Vì vậy cho nên trái tim của sự thực tập đạo Bụt là niệm (smrti), định (samadhi), tuệ (prajna).
Đặt vấn đề là làm sao giải quyết được vấn nạn của xã hội, của gia đình, của trái đất thì câu trả lời là phải sử dụng Bát Chánh Đạo và phải sử dụng Bát Chánh Đạo một cách thông minh, có phương pháp thì tự nhiên ta đối phó được với những chất độc tiết ra từ trong tâm của mình. Trước hết là sự thèm khát, mình phải đối trị được với thèm khát. Thứ đến là sự giận hờn, si mê, bạo động, nó đốt cháy thế gian, nó đốt cháy con người của mình do đó mình phải có trí tuệ, phải có từ bi để xử lý nó. Làm sao có từ bi nếu không có trí tuệ? Tất cả đều nằm ở chỗ này: năng tập thành đạo kiến, làm thế nào luyện tập, để có cái thấy về Tứ Diệu Đế, về Bát Chánh Đạo? (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức/ Điềm lành - HT Thích Nhất Hạnh)
+ Tu tứ diệu đế: Phương Pháp tu của Hàng Thanh Văn tu - Pháp tu Tiểu thừa lên Trung thừa. Giảng giải rất chi tiết đầy đủ (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Con đường Tu tứ diệu đế: Phương Pháp tu của Hàng Thanh Văn tu - Pháp tu Tiểu thừa lên Trung thừa.
"Vô khổ tập diệt đạo, (không có khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế)".
* Tu Tứ Diệu Đế.
I- Thứ nhất là khổ đế. Chư vị hãy nói xem khổ có thật hay là giả ? Đế nghĩa là chân thật; khổ là chân thật. Như một đệ tử của tôi nói : "Nầy các khách trần ! Các ngươi hãy mau đi khỏi ! Nếu các ngươi không đi, Ta thật rất khổ."....(Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Con đường tu Tứ Diệu Đế là con đường đạo, cần tu cùng với tu Bát chánh đạo để được giải thoát luân hồi.
a/ Theo Thiền Sư Thích Nhất Hạnh giảng: Trích doạn
Biết xa lìa tham dục
Sân hận và si mê
Thường tu tập để mong đạt được chánh kiến
Đó là điềm lành lớn nhất.
Thường dục ly tham dâm: Có nghĩa là mình luôn luôn muốn lìa bỏ cái ham muốn và nhất là cái ham muốn về sắc dục. Mỗi khi có ham muốn, si mê và sân hận phát khởi thì mình phải nhận diện được nó. Chữ ngộ này có nghĩa là gặp.
Năng tập thành đạo kiến: Nhờ đó mà thấy được con đường thực tập, con đường Tứ Diệu Đế. Mình biết rằng tham, sân và si gây ra khổ đau, nhìn vào những khổ đau để thấy được gốc rễ của nó, thấy gốc rễ rồi thì sẽ thấy được con đường để chuyển hóa, đó là đạo kiến. Đạo kiến là thấy được con đường Bát Chánh, thấy được Tứ Diệu Đế......
Đặt vấn đề là làm sao giải quyết được vấn nạn của xã hội, của gia đình, của trái đất thì câu trả lời là phải sử dụng Bát Chánh Đạo và phải sử dụng Bát Chánh Đạo một cách thông minh, có phương pháp thì tự nhiên ta đối phó được với những chất độc tiết ra từ trong tâm của mình. Trước hết là sự thèm khát, mình phải đối trị được với thèm khát. Thứ đến là sự giận hờn, si mê, bạo động, nó đốt cháy thế gian, nó đốt cháy con người của mình do đó mình phải có trí tuệ, phải có từ bi để xử lý nó. Làm sao có từ bi nếu không có trí tuệ? Tất cả đều nằm ở chỗ này: năng tập thành đạo kiến, làm thế nào luyện tập, để có cái thấy về Tứ Diệu Đế, về Bát Chánh Đạo? (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức/ Điềm lành - HT Thích Nhất Hạnh)
+ Tổng hợp chi tiết pháp tu Tứ đế của Nhân Trắc Học: Xem tại đây
IV- Đạo đế. Diệt tức là phải chứng đắc.
Đạo là phải nên tu hành. Bàn về vấn đề đạo, đầu tiên chúng ta hãy giải thích chữ đạo trước. Chữ đạo dùng chữ tẩu (đi), tức là chư vị phải đi, phải hành. Nói đến đạo là phải tu hành. Nếu không tu hành thì có lợi ích chi. Phải bước đi mà tu hành. Thế nên, đạo là hành. Không hành thì không phải là đạo....
Đối với chữ "thủ (đầu)", chúng ta hãy phân tích thêm. Trên chữ đầu có hai điểm, nhưng nay tạm để qua một bên, không giảng ngay, mà chỉ giảng về chữ "tự". Tự tức là tự kỷ, nghĩa là phải tự chính mình tu đạo, không thể bảo người khác tu giùm mình. Không thể chỉ nói tu hành mà cắt đứt được sanh tử. Chư vị phải thật sự tạo đức, tự tu, tự lo lắng những việc quan trọng của mình. Trên chữ "tự" có một đường ngang, để dùng chi ? Mọi người trên thế gian đều chỉ có một lần sanh ra. Bắt đầu từ đâu ?
Bắt đầu từ một. Có một thì sau này mới có hai. Có hai rồi lại có ba, có bốn, có năm, cho đến vô số trăm ngàn, muôn vạn v.v..., đều từ một mà phát xuất ra. Vì vậy, một là vô số, vô số là một. Nếu không có một thì không có vô số. Nếu không có vô số thì không có một. Tôi giảng như vầy thì cho dầu ai đi nữa cũng không có thể phản đối được. Tại sao ? Vì tôi biết rằng con số trong toán học bắt đầu bằng số một.
Một là vô số, vô số là nhiều. Hiện tại, chúng ta không phải một cũng không phải nhiều, không phải nhiều cũng không phải một. Tại sao biến đổi như thế ? Thật ra cũng không có biến đổi thành số một. Số một này cũng tượng trưng cho một vòng tròn, tiếng Anh là số không. Số không bao hàm xum la vạn tượng. Chân không và diệu hữu đều nằm trong số không. Số không này phát xuất từ đâu ? Nó là biến tướng của số một hay chữ nhất. Chữ nhất này vẽ cong thành một vòng tròn, uốn thẳng lại thành chữ nhất. Số không hay vòng tròn là bổn thể của chữ nhất, lại là bổn thể của tất cả vạn vật trên thế gian, cũng là tạng đại quang minh, tánh Như Lai tạng, và Phật tánh. Phật tánh cũng là chữ nhất và chữ o. Chữ o cũng đại biểu cho tất cả sanh sanh hóa hóa ở trên thế gian, tức chân không diệu hữu, diệu hữu và chân không. Chữ o này không có điểm khởi đầu, cũng không có điểm cuối. Nếu phá chữ không này thì nó liền biến thành chữ nhất (gạch ngang). Gạch ngang (chữ nhất) là gì ? Tức là vô minh. Có một gạch ngang tức là có một phần vô minh. Khi không có gạch ngang thì đó là một vòng tròn. Khi vòng tròn đó không phá được thì đó là tánh tạng Như Lai. Chữ nhất (gạch ngang) là bắt nguồn của sự vô minh, nên bảo rằng một là nhiều, nhiều là một. Một điểm phiền não xuất sanh vô số phiền não. Vô số phiền não xuất sanh từ một điểm phiền não. Tại sao chư vị lại tạo bao việc vụng dại ? Chỉ vì một điểm vô minh. Tạo bao việc vụng dại tức là tạo bao nghiệp tội, mà phiền não cũng từ đó phát sanh ra. Vì thế, chư vị nếu muốn tu đạo thì phải uốn nắn chữ nhất (gạch ngang) thành chữ o, tức vòng tròn, phản bổn hoàn nguyên (xoay về cội gốc). Lúc đó, chư vị có thể xoay về tạng tánh Như Lai, đạt đến chân không diệu hữu.
Một chữ nhất có hai điểm. Hai điểm này là một âm và một dương. Kinh Dịch giảng một âm một dương chính là đạo. Thiếu âm thiếu dương gọi là bịnh. Thuần âm là quỷ. Thuần dương là thần, nên gọi thiếu âm, thiếu dương là bịnh.
Lại phân tích rõ hai điểm đó. Từ vô minh phát sanh ra kiến hoặc và tư hoặc, nên gọi hai điểm đó là kiến hoặc và tư hoặc. Có kiến hoặc và tư hoặc rồi thì phát sanh ra vô lượng vô số hoặc. Bao phiền não đều từ chữ nhất này khởi lên. Nếu muốn xoay về cội gốc thì phải uốn nắn chữ nhất này thành chữ o. Làm thế nào ? Không khó, chư vị chỉ việc dụng công tu hành hằng ngày, tham thiền đả tọa, thì mới uốn nắn chữ nhất thành chữ o, cũng biến thành tánh tạng đại quang minh. Chư vị bảo rằng không thể tin tưởng được những cảnh giới đó, chỉ vì tâm còn ám muội. Chư vị phải nên tin tưởng, thì mới hoàn phục được tánh tạng đại quang minh đó. Vì không tin pháp này nên mỗi ngày từ sáng đến tối không thể xa rời phiền não được. Vô minh phiền não nếu không thể xa rời, thì chư vị sẽ biến thành lóng tre đen, (là thuật ngữ của thiền tông). Một cây tre có nhiều lóng tre đen. Chư vị phải tin tưởng pháp này thì mới khôi phục lại trí huệ vốn có sẵn, xoay về lại cội gốc, đạt đến tánh tạng đại quang minh, cũng là đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quán sắc trí, thành sở hữu trí.
Tôi chỉ giảng một ít điểm trong muôn phần của chữ đạo. Nếu giảng tường tận vi tế thì sợ mất rất nhiều thời gian, vì chữ "đạo" này rất vi diệu, nên giảng hoài giảng mãi vẫn không hết. Đại sư Trí Giả giảng chữ "Diệu" trong kinh Pháp Hoa cả chín tuần. Giảng về chữ đạo, nếu nói tường tận rõ ràng thì không phải chỉ là chín mươi ngày mà cho đến chín mươi năm sợ vẫn chưa hết. Đời tôi ngắn ngủi nên chỉ giảng một vài điểm thôi.
Lại giảng thêm về chữ "đạo" này chút ít. Chúng ta vừa bàn ở trên về một âm một dương. Một âm một dương là chữ "nhân (người)". Tức bảo rằng đạo không phải ở trên trời hay ở dưới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, mà là nơi con người. Mỗi người đều có thể tu đạo, không phải từ bên ngoài vào. Ai ai cũng có thể thành đạo được hết. Tu thành đạo này tức là thành Phật. Hiện tại chư vị chưa tu thành đạo, vậy đạo này có mất không ? Không có mất. Trong mình ai ai cũng có đầy đủ đạo này hết.
Hai điểm chính là từ trên trời, có thể nói là mặt trời và mặt trăng. Một điểm là mặt trời; một điểm là mặt trăng.
* "Thị đạo ưng tu ngộ pháp không, (là đạo nên tu ngộ pháp không)".
Chư vị phải dùng mắt trí huệ để tu đạo. Người ngu si không thể tu đạo này. Có trí huệ thì mới tu được đạo này. Xoay về cội gốc tức là uốn chữ nhất (gạch ngang), thành chữ o (vòng tròn). Chữ o này chính là tạng tánh Như Lai, là tạng đại quang minh, là Phật tánh của chúng ta. Nếu có thể khôi phục lại Phật tánh tức là hiện đời thành Phật, không cần đợi trải qua ba a tăng kỳ kiếp mà tu phước huệ, trăm kiếp tu tướng hảo. Không cần đợi thời gian lâu xa như thế, mà tức khắc liền thành Phật. Vì sao chư vị vẫn chưa thành Phật ? Vì chư vị chưa biết "đạo" này, chưa tu đạo này, và không có ai dạy cho mình đạo này. Do đó, cho đến hôm nay, chư vị vẫn sanh rồi chết, chết rồi sanh, trong sáu cõi luân hồi, bị lưu chuyển tới chuyển lui. Chư vị chạy mãi trong sáu đường luân hồi thì chữ o (vòng tròn) liền biến mất. Lưu chuyển tới, lưu chuyển lui trong sáu đường luân hồi, đột nhiên sanh lên trời, đột nhiên sanh xuống đất, đột nhiên vào địa ngục, đột nhiên làm thú vật, chợt tại thiên đường, chợt xuống địa ngục, chợt vào A Tu La, chợt làm người. Bị lưu chuyển như thế, không thể thoát ra khỏi vòng luân hồi. Nếu thoát khỏi vòng luân hồi thì phá được chữ nhất này, xoay về cội gốc, đạt đến tạng quang minh Như Lai, chính là quê hương nhà cửa, đất đai của mình. Ai ai cũng tu đạo được. Có tu đạo thì mới ngộ nhân không pháp không, nhân pháp đều không, không còn chấp trước, nên bảo rằng khổ tập diệt đạo đều không.
"Tam chuyển tứ đế pháp luân vận, (ba lần chuyển xe pháp tứ đế)".
Ba lần chuyển bánh xe pháp tứ đế, bên trên tôi đã giảng rõ rồi. Chuyển vận bánh luân tức là xoay qua chuyển lại pháp môn tứ đế.
"Thất giác bát chánh ý niệm cần, (bảy phần giác, tám chánh đạo, ý niệm cần tu)".
Bảy giác tức là bảy phần giác chi, cũng gọi là bảy phần bồ đề. Tám chánh tức là tám chánh đạo. Bao trùm hết bảy giác chi, tám chánh đạo, năm căn, năm lực, bốn như ý túc, bốn chánh cần, hợp lại thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Bảy phần bồ đề là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, niệm, định giác phần. Tu hành y chiếu theo bảy phương pháp.
1. Sao gọi là trạch pháp giác phần ? Trạch tức là tuyển trạch. Pháp tức là phương pháp. Giác là minh bạch, hiểu rõ, cũng là giác ngộ. Đối với pháp tu hành, chư vị phải nên chọn lựa, tuyển trạch, tức là phải có trạch pháp nhãn (con mắt chọn lựa pháp), thì chư vị mới biết gì là pháp, gì là không phải pháp, gì là pháp thiện, gì là pháp ác, biết pháp trắng pháp đen, phải có sức chọn lựa tuyển trạch như thế. Không nên lấy đúng làm sai, lấy đen làm trắng, lấy lành làm ác. Nếu làm như thế thì không phải là trạch pháp giác phần. Sau khi chọn lựa, tuyển trạch xong, thì phải y theo pháp mà tu hành.
2. Y pháp tu hành tức phải tinh tấn, nên giác phần thứ hai là tinh tấn. Chư vị phải chánh tinh tấn, chớ nên tà tinh tấn. Chánh tinh tấn tức là hoặc ngồi thiền, trì chú, học giáo điển, trì giới luật, tu nhẫn nhục, tất cả pháp đó đều phải tinh tấn. Nếu không tinh tấn như hôm nay ngồi thiền, ngày mai không ngồi, hôm nay trì giới ngày mai không trì giới, hôm nay tu hạnh nhẫn nhục ngày mai lại không tu, đó không phải là tinh tấn giác phần. Có tinh tấn giác phần tức là ngày đêm sáng tối sáu thời đều hằng tinh tấn. Sáng ba thời, tối ba thời đều tinh tấn không nghỉ ngơi.
3. Sau khi tinh tấn được rồi thì có thiền duyệt (vui trong thiền định). Thiền duyệt tức là hỷ giác phần. Ví như, khi ngồi thiền, công phu ngồi đến một giờ thì tự cảm giác an lạc, tự tại, vừa ý vô cùng; hút thuốc á phiện chỉ vui thích trong chốc lát, còn khi ấy làm bất cứ việc gì chư vị đều cảm giác an lạc vui thích hết cả. Đạt đến an lạc này, gọi là hỷ giác phần.
4. Trừ giác phần- Lại nữa, khi ngồi thiền, đạt đến cảnh giới khinh an thì tâm rất là an lạc. Nhưng cảnh giới này có lúc thì sanh khởi giống như trên, có lúc thì dễ dàng sanh tẩu hỏa nhập ma. Tại sao tẩu hỏa nhập ma ? Khi sanh tâm chấp trước, tức truy cầu nắm giữ cảnh giới vừa thấy, thì ma vương liền nhập vào tâm. Nếu chư vị không chấp trước, thì ma vương không có cách nào để nhập vào. Chư vị nếu chấp vào cảnh giới nào thì ma liền hiện ra cảnh giới đó. Làm thế nào để giải ? Lúc đó phải dùng trừ giác phần. Trừ tức là thẩm tra, dọ xét các ác giác quán. Phải tẩy trừ các ác giác quán, còn chánh giác quán thì phải bảo tồn.
5. Khi chư vị trừ bỏ chấp trước thì là xả giác phần. Xả này tức là xả bỏ vọng tưởng chấp trước. Nếu không thể xả bỏ vọng tưởng chấp trước thì không đắc được tam muội và đạt đến bảy phần bồ đề.
6. Niệm giác phần - Sau khi xả được vọng tưởng chấp trước thì bảo tồn được niệm tinh tấn, mà đã bàn ở bên trên. Chớ để quên mất, niệm này đeo đuổi niệm kia (niệm huyền tại huyền), niệm niệm không quên, tu tinh tấn.
7. Định giác phần - Tu tinh tấn thì sau này đắc được định giác phần, tức thuộc bảy bồ đề phần hay bảy giác phần.
+ Tám chánh đạo.
1. Thứ nhất là chánh kiến. Kiến tức là ý kiến. Nơi ý niệm có một kiến (thấy). Kiến này phải nên chân chánh, nghĩa là kiến giải phải chánh xác. Nếu không có chánh kiến thì dễ dàng lạc vào đường tà. Nếu kiến giải chân chánh thì đi được trên đường thẳng. Tại sao gọi là chánh kiến, tà kiến ? Nếu bảo rằng phải nên học Phật pháp. Phật pháp là chân chánh, phải nên học. Đó là chánh kiến. Nếu như học đánh cờ bạc, chơi bời, làm biếng, hại người, đó gọi là tà kiến. Vì vậy chánh kiến rất quan trọng.
2. Nếu có chánh kiến rồi thì có chánh tư duy. Có kiến giải rồi thì phải có suy nghĩ; suy nghĩ việc này việc nọ là đúng hay không đúng. Học Phật pháp là một công việc tối thượng nhất trên thế gian. Không sai trái tức là chánh tư duy. Tà tư duy nghĩa là khi học Phật pháp cho rằng không có lợi ích chi. Họ nghĩ :"Trong thời đại khoa học, Phật pháp giảng đến giảng lui chỉ khuyên người làm việc thiện, làm người tốt thôi. Hiện nay ai là người tốt ? Không có ai là người tốt hết, chỉ toàn là người xấu không thôi. Tôi thấy ông A kia, chuyên tạo việc xấu, mà lại có tiền, có rượu để uống, cái gì cũng có."
Suy nghĩ rằng học Phật pháp không có ích chi như thế, tức là tà kiến, đi trên đường tà. Nếu có chánh tư duy thì không lạc vào đường tà.
3. Có chánh tư duy thì kế tiếp là có chánh ngữ. Chánh ngữ tức là lời nói nào cũng đều chính xác, không nói lời say sưa, cáu tiết, không dẫn người lạc vào đường tà. Nói lời chân chánh, chánh xác, khiến ai ai cũng đều vui thích lắng nghe, vui thích làm theo.
4. Có chánh ngữ rồi thì có chánh nghiệp, tức tự tìm, hành nghề chân chánh. Ai ai cũng biết rõ nghề nghiệp chân chánh là gì, chớ nên làm những nghề nghiệp phạm pháp.
5. Thứ năm là chánh mạng. Có chánh nghiệp thì sanh mạng chân chánh.
6. Thứ sáu là chánh tinh tấn. Tạo chánh nghiệp thì phải nên tinh tấn. Chớ nên tinh tấn tạo những nghiệp bất chánh.
7. Thứ bảy là chánh niệm.
8. Thứ tám là chánh định.
Đó là tám chánh đạo.
Bốn như ý túc tức là dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, tư duy như ý túc.
Bốn niệm xứ tức là thân, thọ, tâm, pháp. Quán thân bất tịnh. Quán thọ là khổ. Quán tâm vô thường. Quán pháp vô ngã. Bốn chánh cần là điều lành chưa sanh khiến cho sanh khởi, điều lành đã sanh khiến cho tăng trưởng. Đó là giảng về phương diện điều lành. Những điều ác chưa khiến cho không sanh khởi. Những điều ác đã sanh khởi khiến cho chúng đoạn diệt. Đó là nói về phương diện điều ác.
Năm căn là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Năm căn này phát sinh ra năm lực. Tín có tín lực. Tấn có tấn lực. Niệm có niệm lực. Định có định lực. Huệ có huệ lực.
* Cộng năm căn năm lực lại thành mười. Bốn niệm xứ, bốn như ý túc, bảy phần bồ đề, tám chánh đạo cộng chung là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
"Nhất đản quán thông thành thánh quả, (một lần quán thông thành thánh quả)".
Chư vị tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thì một ngày nào đó sẽ đột nhiên quán thông, minh bạch, hiểu rõ. Lúc ấy, chư vị chứng được quả thánh.
"Thiên chân hữu dư nãi hoá thành, (lệch chân hữu dư nãi hóa thành)".
Chư vị chớ nghiêng trụ tại niết bàn hữu dư, thiên chân hữu dư, niết bàn chính là hóa thành, nghĩa là thành này do biến hóa mà có, không phải là thật. Đạt đến thiên chân hữu dư niết bàn, tức là không phải niết bàn cứu cánh, nên phải còn tu thêm nữa. Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng
III- Diệt đế. Diệt đế nghĩa là như như bất động.
"Tánh diệt khả chứng cứu cánh lạc, (tánh diệt khả chứng tột an lạc)".
Nếu chứng được diệt đế tức là chứng đạt chân đế an lạc, gọi là bốn đức của niết bàn, nghĩa là thường lạc ngã tịnh. Đạt đến thường lạc ngã tịnh thì cũng là chứng được quả diệt đế. Nhưng chứng đến quả vị này chỉ là quả vị tiểu thừa của A La Hán, mới đoạn được phần đoạn sanh tử thôi, chưa đoạn hết biến dịch sanh tử, và chỉ chứng được một phần chân lý, mà không phải là diệu quả rốt ráo đại thừa.
1. Phần đoạn sanh tử là gì ? Phần tức là tôi có một phần, chư vị có một phần, mỗi người đều có một phần. Đoạn tức là tôi và chư vị, mỗi người có riêng một đoạn thân, như thân cao một thước sáu, thước bảy, thước tám v.v...Thế nên, thân của mỗi người cao thấp khác nhau. Từ sanh đến chết gọi là đoạn lạc; từ hôm nay đến ngày mai cũng gọi là đoạn lạc (từng đoạn). Tất cả phàm phu đều có đầy đủ phần đoạn sanh tử này. Người tiểu thừa đã cắt đứt phần đoạn sanh tử nên chứng quả an lạc tịch diệt. Khi chứng đắc quả tịch diệt thì phá được kiến hoặc và tư hoặc. Sao gọi là kiến ? Do chư vị đối trước cảnh giới mà sanh tâm tham lam luyến ái, bị cảnh giới làm mê hoặc. Sao gọi là tư hoặc ? Không hiểu đạo lý nên khởi tâm phân biệt. Đối với đạo lý mà không minh bạch nên sanh tâm phân biệt. Càng phân biệt chừng nào thì càng đi xa chừng đó. Càng đi xa chừng nào thì phân biệt thêm nhiều chừng đó, nên gọi là đi lạc đường.
Chứng đắc quả an lạc tịch diệt thì cắt đoạn được kiến hoặc và tư hoặc, nhưng chưa đoạn hết vô minh, mà chỉ mới hàng phục được thôi. Không những chư A La Hán chưa đoạn được vô minh mà cho đến bồ tát Đẳng Giác vẫn còn một phần sanh tướng vô minh chưa phá hẳn. Thế nên chứng đạt quả vị vô thượng tịch diệt, mà vô minh vẫn còn. Tuy cắt đứt phần đoạn sanh tử mà biến dịch sanh tử vẫn còn tồn tại.
2. Sao gọi là biến dịch sanh tử ? Biến dịch là tâm niệm sanh khởi của chúng ta. Niệm sau theo niệm trước. Niệm niệm không ngừng. Niệm niệm lưu chuyển. Một niệm sanh khởi tức một lần sanh. Một niệm diệt tức một lần chết. Đó gọi là biến dịch sanh tử. Biến dịch sanh tử này, niệm niệm không dừng, có phải gọi là sanh tử không ? Vì cảnh giới này chưa đạt đến thiền định chân chánh. Định chân chánh nghĩa là một niệm lự cũng không còn. Cảnh giới sơ thiền, tim không còn đập. Cảnh giới nhị thiền không còn hô hấp. Cảnh giới tam thiền, niệm lự đình chỉ. Cảnh giới tứ thiền, dứt niệm, không còn niệm lự, nhưng cảnh giới tứ thiền này cũng chưa phải là chứng quả, bất quá chỉ là quá trình tu đạo thôi, và không phải là tầng bậc cao siêu. Phổ thông, người tu đạo đa số có thể đạt đến cảnh giới này.
Mời xem chi tiết bài giảng đầy đủ tại: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng
+ Khổ đế: ... Đức Phật ẩn pháp đại thừa mà thị hiện pháp tiểu thừa, nên chỉ hiện thân lão tỳ kheo một thước sáu tấc để thuyết pháp Tứ Diệu Đế. Pháp Tứ Diệu Đế là khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
Thứ nhất là khổ đế. Chư vị hãy nói xem khổ có thật hay là giả ? Đế nghĩa là chân thật; khổ là chân thật. Như một đệ tử của tôi nói : "Nầy các khách trần ! Các ngươi hãy mau đi khỏi ! Nếu các ngươi không đi, Ta thật rất khổ."
Khách trần nếu không đi khỏi thì mình phải chịu khổ. Khách trần nếu đi khỏi thì khổ giảm thiểu dần dần.
Khổ có ba loại khổ, tức khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Lại có tám khổ, tức sanh già bệnh chết khổ (bốn loại khổ này từ thân phát xuất). Bên ngoài cũng có bốn loại khổ tức là khổ vì thương nhau mà xa lìa, khổ vì gần những người mình oán ghét, khổ vì cầu không được, khổ vì năm ấm tăng giảm hừng thạnh. Ảnh hưởng cảnh bên ngoài lại có vô số khổ đau.
"Chư khổ bức bách các tương công".
Khổ đế thật rất nhiều, chúng luôn công kích, gây chiến tranh, nên khiến cho con người bị bức bách không thể nhẫn chịu được, cơ hồ khí lực đều bị khổ chặt đứt đoạn. Khách trần đến, cái gì cũng đến, bảy tầng tám lớp. Sáu trần bên ngoài cùng sáu thức bên trong đồng đến tấn công chư vị. Mỗi việc khổ đều khiến chư vị quá khổ rồi, mà khổ lại chồng chất lên khổ. Ba loại khổ cũng đến bức bách, vô số khổ cũng đến bức bách. Tất cả khổ đều đến bức bách con người, nên gọi là "chư khổ bức bách các tương công, (bao khổ bức bách đồng công kích)".
Mời xem chi tiết bài giảng đầy đủ tại: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng
+ Phân biệt 3 chữ Thủy:
1. Thủy tinh (Mercury – Hành tinh)
2. Hành tố Thủy (Water – Nguyên tố vũ trụ)
3. Ngũ hành Thủy (Âm Dương – Ngũ hành)
- Hành tố Thủy và Ngũ hành Thủy: => Hai cách nhìn khác nhau về cùng một nguyên lý nước, là giữa: Vũ trụ – tâm lý với Tự nhiên – xã hội. Đều cùng chia sẻ phẩm chất căn bản là lưu động, mềm mại, tiềm thức, cảm xúc. Nhưng có phân biệt:
* Hành tố Thủy (Water element – Tây phương/ Tứ đại): phổ quát, mang tính vũ trụ và tâm lý học (liên quan cảm xúc, trực giác).
* Ngũ hành Thủy (Đông phương): Mang tính khí tượng – sinh học – xã hội (mùa đông, phương bắc, sự co rút, trí tuệ).
+ Phân biệt Hành tinh và Hành tố:
- Hành tinh biểu thị một trung tâm năng lượng cụ thể, có tính chất tâm lý, tinh thần và nghiệp lực.
- Hành tố (Ngũ hành) là nền tảng nguyên tố vũ trụ, mang tính bản chất phổ quát: Khí (Air), Nước (Water), Lửa (Fire), Đất (Earth).
Sự khác biệt chính:
- Hành tinh = Cá thể hóa, năng lượng cụ thể (ví dụ: Sao Hỏa = chiến đấu, nhiệt huyết).
- Hành tố = Mẫu số chung, nền tảng tự nhiên (ví dụ: Lửa = động lực, ánh sáng, sự bùng nổ).
* Các nội dung trên xem thêm chi tiết đầy đủ hơn: Tổng hợp phân biệt Hành tinh và Hành tố
+ Tinh chất Hành khí [xem như bao gồm các tập hợp vật chất, ở một trong sáu cõi phụ phi nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục - KHÔNG được dùng làm hình hài]: Nếu chúng ta muốn đi sâu vào đề tài Tinh chất hành khí, chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong các sách của bà Annie Besant và ông CW Leadbeater. Trong tất cả các sách của Chân sư DK, thuật ngữ Elemental Essence được nhắc đến mười lần, và chỉ một lần nó được định nghĩa như sau:
- Tinh chất Chân thần (Monadic Essence), là vật chất của cõi phụ nguyên tử (hay cõi phụ cao nhất) của mỗi cõi chính.
- Tinh chất Hành khí (Elemental Essence), tức vật chất của sáu cõi phụ phi nguyên tử. Đó là vật chất phân tử.
" Chúng ta có thể định nghĩa Tinh chất Chân thần là vật chất nguyên tử được tạo thành bởi sự sống của [69] Thượng đế thứ hai. Đó là y phục của Ngài nhằm linh hoạt hoá và kết hợp các hình tướng lại với nhau; Ngài được bao phủ bởi vật chất nguyên tử. Với cương vị Thượng Đế, Sự Sống của chính Ngài tách biệt với sự sống của Atma-Buddhi-Manas trong con người, tách biệt với bất cứ sự sống nào trên cõi giới đó - mặc dầu Ngài truyền sức mạnh, thấm nhuần, và bao gồm tất cả các sự sống kia - chỉ được bao bọc trong vật chất nguyên tử, và chính điều này là ý nghĩa của thuật ngữ Tinh chất Chân thần. Vật chất của cõi đó, do bản chất của các nguyên tử của cõi đó, có khả năng đáp ứng bằng các rung động với các thay đổi linh hoạt của tư tưởng, được Làn Sóng Sinh Hoạt Thứ Hai đưa vào các kết hợp vật chất thích hợp để biểu lộ các tư tưởng - các tư tưởng trừu tượng ở trong vật chất tinh anh hơn, còn tư tưởng cụ thể ở trong vật chất thô thiển hơn.
- Các kết hợp vật chất của cõi phụ cao thứ hai và thứ ba tạo ra Giới Hành Khí Thứ Nhất.
- Các kết hợp vật chất trên bốn cõi phụ thấp tạo ra Giới Hành Khí Thứ Hai.
- Vật chất được giữ lại trong các phức hợp vật chất như thế được gọi là Tinh chất hành khí và dễ nhạy cảm để được tạo hình thành các hình tư tưởng.
Đạo sinh đừng nên nhầm lẫn Tinh chất hành khí với Tinh chất Chân thần (Monadic Essence); một bên [70] có cấu tạo nguyên tử, bên kia có cấu tạo phân tử_Annie Besant "
+ Tinh chất hành khí được xem như bao gồm các tập hợp vật chất, ở một trong sáu cõi phụ phi nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục - các tập hợp mà bản thân chúng không được dùng làm các hình hài dành cho bất cứ thực thể nào trú ngụ, mà là vật liệu nhờ đó các hình hài này có thể được tạo dựng.
... Làn sóng sinh hoạt thứ 2 [Ngôi II] - Nguyên tử trở thành Tinh chất Chân thần như đã giải thích ở trên. Làn sóng sinh hoạt tiếp tục hướng tới, tạo ra trên mỗi cõi phụ các kết hợp vật chất thích hợp để biểu lộ các cảm giác. Các kết hợp vật chất này tạo thành Giới Hành Khí Thứ Ba, và vật chất được giữ trong phức hợp như thế được gọi là Tinh chất hành khí, như trên, và trên cõi thứ sáu này, dễ nhạy cảm để được nắn tạo thành các hình-dục vọng.
Như thế ta thấy Tinh chất hành khí gồm có các tập hợp vật chất ở trên mỗi một trong số sáu cõi phụ phi-nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục, các tập hợp này chính chúng không dùng như các hình hài cho bất cứ thực thể nào trú ngụ, mà như [71] các vật chất mà từ đó, các hình hài như thế có thể được kiến tạo..... Làn sóng sinh hoạt lại tiến tới, tạo ra trên mỗi cõi phụ các kết hợp vật chất thích hợp để tạo thành thể xác, các nguyên tố hóa học trong tương lai, như chúng được gọi thế trên ba cõi phụ thấp.....
Bà Annie Besant giải thích Tinh chất hành khí này. Làn Sóng Ba chuẩn bị các nguyên tử với Sự sống của Thượng đế Ngôi Ba, trong khi Làn Sóng hai kết hợp các nguyên tử này thành tập hợp các nguyên tử để được kiến tạo thành các hình tướng cho các thực thể sinh sống: ... Chúng ta thấy rằng việc đi xuống của làn sóng này có liên quan đến những gì có thể được gọi một cách gần đúng là việc tạo ra các mô (tissues) đầu tiên, từ đó các thể tinh anh và các thể trọng trược sẽ được "Đan dệt" tạo thành tiếp theo đó.
"Các loại Tinh Chất Hành Khí" được Ông CW Leadbeater cho rằng có 2401 loại tinh chất hành khí khác nhau trên cõi trung giới, nhưng về cơ bản chúng là một “giới” (kingdom—vương quốc), “một kho chứa khổng lồ các tinh chất hành khí, nhạy cảm tuyệt vời với những suy nghĩ thoáng qua nhất của con người, chúng đáp ứng một cách rất tinh vi, nhanh chóng từng sát-na, đối với một rung động phát ra từ ý muốn hoặc dục vọng của con người, dù ý muốn hay dục vọng này chỉ xảy ra trong vô thức. Điều này có nghĩa rằng chúng luôn ở trong trạng thái “căng thẳng”, sẵn sàng kết tụ lại thành một hình thể dưới sự thúc đẩy của một suy nghĩ hoặc một mong muốn thoáng qua, hoặc sự kết hợp của cả hai. ...... Kể từ đó, nó bị tách ra khỏi kho chứa nguyên tố khổng lồ và trở thành một thực thể biệt lập được gọi là một tinh linh "Nhân tạo".
"Tính chất của tinh chất hành khí" - Chúng là những trung tâm của mãnh lực hoặc năng lượng được chúng ta tác động lên khi suy nghĩ và trong các chuyển động cơ thể khác. Chúng ta cũng tác động lên chúng, ban cho chúng một hình thể bởi kiểu suy nghĩ mà chúng ta không nhận ra được. ....., nếu anh ta thiết lập một luồng tư tưởng mạnh mẽ, anh ta thu hút các tinh linh với số lượng lớn hơn, và tất cả chúng đều mang một khuynh hướng hoặc màu sắc nổi bật, sao cho tất cả những tinh linh mới đến đều tìm thấy một màu sắc hoặc hình ảnh đồng nhất mà chúng ngay lập tức khoác lấy.
Thế giới tinh linh đã trở thành một nhân tố mạnh mẽ trong Nghiệp Quả của con người. Là vô thức, tự động và hoàn toàn ‘chụp ảnh’, nó khoác lấy màu sắc của chính gia đình nhân loại...... thế giới elemental, là lực lượng vô thức, quay trở lại hoặc phản ứng với nhân loại chính xác như cách con người đã hành động với nó [Nghiệp quả], .......
Khái lược "PHÂN LOẠI TINH CHẤT HÀNH KHÍ"....... chúng được chia thành 7 nhóm [Tinh chất Hành khí] chính, liên hệ đến bảy trạng thái của vật chất: đất, nước, không khí, và lửa; chuyển dịch từ biểu tượng thời trung cổ sang từ ngữ hiện đại là: chất đặc, chất lỏng, chất hơi, và 4 trạng thái của chất dĩ thái.........
+ Trong mỗi phân tử chất đặc đều có chứa một số lượng tinh chất hành khí sống động của đất tương ứng;
+ Trong mỗi phân tử của vật chất ở trạng thái lỏng, hơi, và dĩ thái đều chứa tinh hoa chất của nước, không khí, và lửa.
Như thế, loài tinh hoa chất thứ ba được phân chia nhiều loại - Xếp theo hàng ngang, mỗi phân loại lại chia thành bảy tiểu phân loại, tất cả khác biệt về độ đậm đặc, tuy mỗi bậc có sự chênh lệch rất nhỏ, như chúng ta cũng thấy rõ là có nhiều độ đậm đặc khác nhau trong các chất đặc, lỏng và hơi..... => tạo thành 7 × 7 = 49 phần theo chiều ngang (phân chia theo chiều dọc hoặc phân Hạng theo chiều dọc - Đều khó hiểu hơn). ..... Sự khác biệt giữa chúng không còn là vấn đề độ đậm đặc của vật chất, mà là giữa tính chất và hấp dẫn lực của chúng...... Ta có:
7 phân chia theo chiều ngang x 7 phân chia phụ x 7 phân chia dọc x 7 phân chia phụ theo chiều dọc = 2401 loại tinh chất hành khí.
...... Chuyển sang gáio lý của Chân sư Đ.K, Ngài dường như sử dụng từ Tinh Linh Elementals, theo một nghĩa nào đó, để chỉ bất kỳ sự sống giáng hạ tiến hoá bất kì được xây dựng từ các tinh chất hành khí như vậy:
Các tinh linh (elementals), trong bản chất chủ yếu, là nhóm dưới nhân loại. ..... Có thể tìm gặp chúng trên tất cả các cõi, và những hình thể tinh linh dĩ thái—chẳng hạn như các tiểu thần (brownies), các thần lùn (gnomes) và các tiên đồng (pixies)—rất nổi tiếng. Tạm chia làm 4 nhóm:
1.- Tinh linh đất; 2.- Tinh linh nước; 3.- Tinh linh không khí; 4.- Tinh linh lửa. [Chúng là tinh hoa của mọi vật, nếu bạn có thể nhận ra điều đó].
Chân sư DK đã nói rõ rằng: Thứ hai. Nhiều devas chuyển ra khỏi nhóm các sự sống thụ động với cố gắng trở thành các sự sống điều hành xuyên qua giới chim muông, và trước khi trở thành tiên nữ, thảo tinh linh, thổ tinh linh hoặc các tinh linh thiên nhiên khác, chúng trải qua một số chu kỳ trong loài chim....... (Nguồn: Sự tiến hóa giới Thiên thần Giáng hạ và Thăng thượng)
Xem thêm chi tiết: Tổng hợp về Hành khí và Phẩm tính biểu lộ
+ Không gian là một thực thể và toàn bộ “vòm trời” (như nó được gọi một cách thi vị) là cái bề ngoài hiện tượng (phenomenal appearance) của thực thể đó. Bạn nên để ý rằng Tôi không nói bề ngoài vật chất (material appearance) mà nói bề ngoài hiện tượng. Việc suy đoán về bản chất, lịch sử và tung tích / chân tướng (identity) của thực thể đó là vô dụng và không có giá trị. Ý tưởng mơ hồ nào đó, cung cấp sự giống nhau dù cho khi vượt quá các đặc điểm, có thể trở thành có lợi, nếu bạn cố gắng suy tưởng về gia đình nhân loại, tức giới thứ tư trong thiên nhiên, dưới hình thức một thực thể, khi tạo thành một đơn vị đơn độc, tự biểu lộ qua biết bao dạng thức biến cải của con người. Với tư cách một cá nhân, bạn là một phần nguyên vẹn của nhân loại, tuy thế bạn sống cuộc sống riêng của chính bạn, bạn phản ứng lại với các ấn tượng của chính bạn, bạn đáp ứng với các ảnh hưởng và các tác động bên ngoài, và đến lượt bạn, bạn phóng xuất ra các ảnh hưởng, đưa ra một hình thức phóng phát cá tính nào đó và lộ ra một hoặc nhiều đặc tính nào đó. Bằng cách ấy và ở một phạm vi nào đó, bạn tạo ảnh hưởng lên chung quanh bạn và những người mà bạn tiếp xúc. Tuy nhiên, suốt thời gian đó bạn vẫn là một phần của một thực thể hiện tượng (phenomenal entity) mà chúng ta gán cho tên gọi là nhân loại. Bây giờ, nới rộng ý tưởng này đến một thực thể hiện tượng vĩ đại hơn, tức là một thái dương hệ. Chính thực thể này là một phần nguyên vẹn của một Sự Sống còn vĩ đại hơn đang tự biểu lộ qua bảy thái dương hệ, mà thái dương hệ của chúng ta là một. Giá mà bạn có thể hiểu được ý tưởng này, một minh họa mơ hồ về một chân lý vĩ đại đang nằm dưới chân lý huyền bí sẽ xuất hiện trong tâm thức của bạn. Chính sự sống và ảnh hưởng, các bức xạ (radiations) và các phóng phát (emanations) của thực thể này, và ảnh hưởng hợp nhất của chúng trên sự sống hành tinh chúng ta, các giới trong thiên nhiên và các nền văn minh đang khai mở của nhân loại, mà chúng ta sẽ phải xem xét một cách vắn tắt.
Đề tài quá rộng lớn đến nỗi Tôi đã đối mặt với khó khăn của phương pháp hữu hiệu nhất để nhờ đó mà vận dụng nó. Tôi lựa chọn sự ngắn gọn, việc giải trình chính xác các sự kiện (các sự kiện đối với những ai trong chúng ta đang hoạt động ở khía cạnh nội môn của sự sống, nhưng chúng phải hữu lý chỉ ở các giả thuyết đối với bạn) đồng thời tránh đi vào chi tiết và bàn thảo tỉ mỉ. Chúng ta sẽ cố gắng hoạt động từ cái phổ quát đến cái đặc thù, và từ khái quát đến cụ thể, nhưng trọng điểm của chúng ta sẽ luôn luôn ở trên cái phổ quát và khái quát, chứ không dựa vào cái đặc thù và cụ thể. Nó sẽ dựa vào những ai trong các bạn vốn là các nhà nghiên cứu chiêm tinh học để áp dụng đúng chân lý cho cái đặc thù.
Chắc chắn là về điều này, chiêm tinh học hiện đại đã đi lạc đường. Nó đã đảo ngược phương pháp chân thực và đúng đắn và đã nhấn mạnh vào cái đặc thù và riêng biệt; dựa vào lá số cá nhân và mệnh số cá biệt, và đã không nhấn mạnh vào các năng lượng vĩ đại và Cội Nguồn các năng lượng đó. Các cội nguồn này đều chịu trách nhiệm tối hậu cho sự biểu lộ của cái đặc thù. Lập trường và cách trình bày chân lý này phải được thay đổi.
Do đó, trong chiêm tinh học huyền bí, chúng ta bàn đến Sự Sống và Các Sự Sống đang làm linh hoạt (inform) “các điểm ánh sáng” bên trong Sự Sống vũ trụ (universal Life). ...... Còn dài, mời xem sách Chiêm tinh học nội môn, trang 15./.
+ Trong Không gian: Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ 7 đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. ... Tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến).
7 Đại là địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại (nhận thức tư duy, phân biệt). Các Đại ở Đại Thái cực/ Nhất nguyên/ Như Lai Tạng thì Tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau, vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến). Khi biến hiện (Lưỡng Nghi/ Âm Dương) thì thành vạn vật.
Đức Phật dạy "Tánh Sắc chân không - Tánh không chân Sắc", cũng gọi "Tánh Thủy chơn không, Tánh không chơn Thủy" ...... (Nguồn: Chương thứ bảy - Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ Các Tâm: ... Thế Tôn nói ... Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh, tại chỗ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân. Nếu không tu hành thì không thể ngộ được bản lai diện mục..... (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Tâm tánh phàm nhân: Là Tâm nhị nguyên - Tâm phân biệt. Chủ về Yêu Ghét - Thích và không thích, tương ứng của nó là Ái và Dục như trong Kinh Viên Giác, Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử, vô thỉ đến giờ, chúng sinh vì có mọi thứ ái dục nên có luân hồi (qua 4 kiểu sanh). Do đó mà biết gốc rễ luân hồi là ái. Ái được dục hỗ trợ nên làm cho sinh tử liên tục: dục do ái, mạng do dục; chúng sinh ái mạng nên quay lại ái dục, ái dục là nhân, ái mạng là quả.
Vì đối với đối cảnh của dục mà nổi dậy sự chống đối hay sự thích ứng. Đối cảnh trái với ái thì chống đối bằng sự ghét bỏ, gây ra mọi thứ nghiệp ác, đó là lý do có địa ngục, có ngạ quỉ, có súc sinh. Biết dục đáng chán ghét, ái sự chán ghét ba đường đi của nghiệp ác, ghét bỏ nghiệp ác mà ưa thích nghiệp lành, nên có chư thiên, có nhân loại. Lại biết mọi sự ái đều đáng ghét bỏ, ghét bỏ cái ái và ưa thích cái bỏ, nghĩa là vẫn trở lại thêm cho gốc ái, nên có những thiện quả hơn lên, và vẫn là nghiệp tạo ra, nên toàn là luân hồi, không thành đường đi của các vị thánh giả.
Vì vậy, chúng sinh muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi thì trước hết phải hủy diệt dục và ái. Còn bồ tát sinh trong luân hồi thì không phải do ái mà là do từ bi, muốn làm cho chúng sinh bỏ ái nên mượn dục để vào lại sinh tử luân hồi. Những người thời kỳ cuối cùng bỏ được dục, trừ được ái gồm cả sự ghét bỏ và sự ưa thích của nó, hủy diệt luân hồi vĩnh viễn, bằng cách siêng cầu viên giác của Như lai chứng ngộ, thì thế là đối với tâm thể trong sáng ấy họ được tỏ ngộ.
Thiện nam tử, chúng sinh do ái dục phát triển vô minh mà hình thành năm chủng tánh khác nhau, và do hai chướng ngại mà trình bày sâu cạn. Hai chướng ngại là gì? Một là chướng ngại chân lý, chướng ngại cho sự thấy biết chính xác. Hai là chướng ngại sự dụng, tiếp nối cho sự sinh tử luân hồi. Năm chủng tánh là gì? Nếu cả hai chướng ngại chưa được hủy diệt, thì gọi là những kẻ chưa thành Phật đà. Nếu vĩnh viễn loại bỏ ái dục, hủy diệt chướng ngại sự dụng mà chưa hủy diệt chướng ngại chân lý, thì chỉ nhập vào thanh văn duyên giác, chưa nhập vào bồ tát. Nếu muốn du nhập biển cả viên giác vĩ đại của Như lai chứng ngộ nên trước đó lập chí nỗ lực hủy diệt hai chướng ngại, hai chướng ngại đã hàng phục thì nhập vào bồ tát ẫ còn hai chướng ngại đã hủy diệt vĩnh viễn thì nhập vào viên giác của Như lai, tròn đầy đại bồ đề và đại niết bàn. Tất cả chúng sinh đều có khả năng chứng ngộ viên giác, nhưng gặp thầy bạn tốt, và tu tập theo pháp hạnh căn bản sơ khởi của họ, nên sự tu tập ấy có liền liền và có dần dần dẫn nếu gặp Như lai chỉ dẫn con đường tu tập chính xác về tuệ giác vô thượng, thì bất kể trình độ cao thấp, toàn là thành tựu quả vị Phật đà. Nếu người nào dẫu cũng đi tìm thầy bạn tốt, nhưng gặp phải kẻ kiến thức sai lầm, thì người ấy chưa được tỏ ngộ chính xác, như thế gọi là chủng tánh ngoại đạo, và đó là lỗi của thầy bạn sai lầm, không phải lỗi ở người ấy. Như thế đó gọi là năm chủng tánh khác nhau của chúng sinh. (Nguồn: Kinh Viên Giác - Di Lặc hỏi)
+ Tâm Phan Duyên - Tâm Thức nhị nguyên: Con người thường dùng với Tâm thức nhị nguyên - Tâm phan duyên chứ không phải Chân Tâm, cần phân biệt Chân Tâm và Tâm nhị nguyên mà đa số nhân loại đang sống băng tâm nhị nguyên này. Loài Người Có Căn Tánh - Bản Tánh - Tánh Người - Tâm Tánh và cả Tánh Phật trong Con Người. Xin trích đoạn ngài A Nan hỏi Đức Phật Tâm trụ ở đâu: ... Đức Phật: Con người đều do không biết hai món căn bản, nên tu tập sai lầm.
HT Tuyên Hóa giảng: ... Và do vì họ không hiểu được nên họ bị sai lầm trong khi tu tập. Kết quả thành ra mê mờ. Họ không biết làm sao hành trì cho đúng pháp chân chính. Ví dụ như ở Ấn Độ có một phái ngoại đạo chuyên thực hành pháp tu khổ hạnh bằng cách ngủ trên giường đinh. Họ cho rằng người ta sẽ được công đức nhờ dám tu tập hạnh khổ nhọc như vậy. Có công đức gì trong việc làm ấy? Dù quý vị có ngủ trên dao đi nữa, cũng vô ích mà thôi. Có một số người khác cố làm cho được những thói quen của loài bò và loài chó. Họ bắt chước y hệt cử chỉ của các loài vật này. Tại sao vậy? Đó cũng như là tình trạng nhầm lẫn mê mờ phương pháp tu hành chân chính. Họ thực hành lối tu khổ hạnh vô ích chẳng đạt được kết quả gì cả, dù họ có tu hành khổ nhọc đến đâu đi nữa.
Bây giờ Đức Phật mới đưa ra một ví dụ. Họ cũng như người nấu cát mà mong muốn thành cơm. Dù có trải qua nhiều kiếp như vi trần nhưng rốt ráo vẫn không thể đạt được những gì mong muốn.
Cát hoàn toàn chỉ biến thành cát, cát không thể biến thành thức ăn được. Những người này không hiểu được hai món căn bản nên mê mờ, nhầm lẫn trong công phu tu tập. Chung quy sẽ dẫn đến những việc tương tự như vậy. Những gì là hai món căn bản?
Một là căn bản sinh tử, từ vô thỉ, chính là tâm phan duyên mà hiện nay ông và toàn thể chúng sinh nhận làm tự tánh.
HT Tuyên Hóa giảng: "Nhận lấy tâm phan duyên này, quý vị lầm cho rằng đó chính là tự tánh. Quý vị nhận lầm tâm phàm phu làm bản tâm của mình, vậy nên làm sao mà chẳng bị luân hồi trong sinh tử?
Quý vị không nhận ra được bản tâm là gì, thay vì vậy, quý vị nhận giặc làm con, trong tương lai nó sẽ lấy sạch châu báu trong nhà cửa của quý vị. Đó chẳng gì khác hơn là vọng tưởng, nó khiến cho quý vị nghĩ rằng mình có chút thành tựu bởi đã dùng tâm phan duyên. Đây chính là sai lầm mà A-nan đã mắc phải."
Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ-đề niết-bàn từ vô thỉ. Đó chính là cái thức tinh nguyên minh của ông. Hiện nay hay sinh khởi các duyên bị ông quên mất.
HT Tuyên Hóa giảng: Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ-đề niết-bàn từ vô thỉ.
Chẳng có khởi đầu nên Đức Phật gọi là “vô thỉ”; ngay cả những gì xảy ra trước lúc khởi đầu.
Bồ-đề là tiếng Phạn (bodhi), dịch nghĩa là giác ngộ được đạo lý. Có ba nghĩa:
1. Chơn tánh bồ-đề: tức là Phật tánh mà mọi chúng sanh đều vốn có sẵn. Thông thường mọi chúng sanh đều có chơn tánh bồ-đề này.
2. Thật trí bồ-đề: tức là trí tuệ chân chính chẳng phải là tà tuệ.
3. Phương tiện bồ-đề: Tức là phương tiện của những người sau khi đã chứng đạo, họ quán sát căn cơ, nghiệp lực của chúng sinh mà có phương cách thích hợp để giáo hóa.
Ba dạng bồ-đề này có thể xem là một, phân ra gọi là ba, thực ra chỉ là một. Cả ba chính là chân tánh bồ-đề và do nơi chân tánh bồ-đề mà có được Thật trí bồ-đề và phương tiện bồ-đề.
Rốt ráo, bồ-đề do đâu mà có? Bồ-đề chẳng từ đâu mà có mà cũng chẳng đi về đâu. Mỗi người chúng ta xưa nay vốn đã từng có sẵn tánh bồ-đề trong mình rồi. Chẳng người nào có tánh bồ-đề ít hơn hay nhiều hơn người kia. Tánh bồ-đề ấy không tăng thêm không giảm bớt; không sinh ra, không mất đi chẳng thanh tịnh, chẳng dơ uế.
Có một số người học Phật có cái nhìn chưa rõ ràng, cho rằng niết-bàn chính là chết nhưng niết-bàn là còn nhấn mạnh đến cái không phải chết. Những ai vướng mắc vào quan điểm này chưa phải là người thông hiểu Phật pháp.
Giảng về: Đó chính là thức tinh nguyên minh của ông.
Chữ “nguyên” có nghĩa là cội gốc của bản thể thanh tịnh. Nghĩa là cái mà chẳng phải nhiễm ơ, chẳng phải thanh tịnh, không thêm, không bớt. Ánh sáng của nó vốn thường soi chiếu khắp nơi. Chữ “thức” ở đây không phải là tám thức, chẳng phải mạt-na hay a-lại-da thức. Nó chẳng liên quan gì đến tám thức ấy cả. Nó chính là cái tối tinh, tối diệu của thức, thể tánh của nó bản nguyên thanh tịnh, nó chỉ là tên gọi khác của bồ-đề niết-bàn. Cụm từ được dùng ở đây là nhờ vào lối văn chương bóng bẩy tránh sự lặp lại. Nó chính là khía cạnh rất tinh vi và mầu nhiệm của thức, của Phật tánh bản hữu của chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể.
Giảng về: Hiện nay hay sinh khởi các duyên mà bị ông quên mất.
Vì những nhân duyên này sinh khởi, nên quý vị phải bị đẩy đi xa, xa mãi nơi quý vị muốn trở thành, cũng giống như người càng chạy càng xa mãi nơi mình đứng. Tôi đã từng nói trước rằng A-nan càng trả lời những vấn nạn của Đức Phật thì càng đi xa dần mục tiêu cần nhắm đến đó sao?
Tất cả các duyên này đều lưu xuất từ thức tinh nguyên minh mà có, nhưng sau một thời gian dài chấp giữ các duyên này, nên dường như bỏ quên mất thức tinh nguyên minh.
Cái gì bị bỏ quên?
Chẳng cái gì cả. Thực vậy. Thức tinh nguyên minh dường như bị bỏ quên nhưng không phải như vậy. Bản thể bổn nguyên vốn thanh tịnh. Bồ-đề niết-bàn là của báu chân thực trong nhà quý vị. Cơ bản là nó ở ngay bên cạnh quý vị nhưng quý vị không biết cách sử dụng nó để làm lợi ích cho mình. Bởi vì quý vị không biết cách sử dụng của báu ấy nên nó dường như bị bỏ quên. Như thể quý vị có một viên ngọc quý vô giá mà quý vị đem cất giấu vào nơi rất kín đến nỗi sau một thời gian dài quý vị không còn nhớ mình cất giấu viên ngọc ở đâu nữa. Khi quý vị đã quên không biết nó ở đâu thì không thể biết cách sử dụng nó cho có lợi ích. Mặc dù quý vị bị khốn quẫn nhưng không thể nào sử dụng được viên ngọc và hưởng được lợi ích từ viên ngọc quý ấy. Cũng giống như thể viên ngọc không có ở trong nhà quý vị vậy. Nên quý vị phải dùng thứ gì để thay thế? Quý vị dùng vọng tưởng của quý vị, dùng tâm phan duyên của mình để thay thế. Trong khi quý vị quên mất chơn tâm của mình và một khi chơn tâm đã bị bỏ quên thì nó cũng hoàn toàn giống như bị mất. Đây chính là lý do tại sao quý vị không thể thành Phật, thay vì vậy lại bị trói buộc trong vòng sinh tử, do vì quý vị không nhận ra chơn tâm.
"Do các chúng sinh bỏ quên tánh bản minh này, tuy trọn ngày mình sử dụng nó mà chẳng tự biết, nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi".
HT Tuyên Hóa giảng: Chúng sinh sống trong thể tánh thanh tịnh, trong chân tâm thường trú hằng ngày. Bởi vì vọng tưởng vốn xuất phát từ chơn tâm, đó chính là tâm phan duyên lưu xuất từ một niệm sinh khởi từ vô thỉ. Tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là sự biểu hiện từ chân tâm và niệm khởi này theo sát quý vị từ sáng đến tối, nhưng quý vị không thể nào nhận biết được niệm ấy. Quý vị chỉ biết làm thế nào để vận dụng tâm vọng tưởng của mình mà thôi.
Chơn tâm - Phật Tánh được biểu hiện qua tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh biết (Xúc chạm), Nhạy bén linh lợi.
Đó là cách thế tự nhiên như khi tay mình cầm đồ vật. Tất cả những điều này đều là biểu hiện sự vi tế, bất khả tư nghì của chân tâm. Nhưng không ai biết được điều này. Bây giờ A-nan vẫn còn mê mờ, thế nên Đức Phật dùng rất nhiều cách ví dụ để giảng giải cho A-nan.
"Nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi".
HT Tuyên Hóa giảng: Vì chúng sinh mãi chấp cứng vào tâm phan duyên nên phải trôi lăn vào trong các cõi mà chẳng biết những nghiệp mình tạo ra hằng ngày. Nơi thọ sanh là nơi mà quý vị mong mỏi nhắm đến. Quý vị đi thẳng một mạch đến đó. Rồi quý vị sẽ kết thúc đời mình ở nơi đâu? ở trong các cõi. Đó là trong sáu nẻo luân hồi. Có ba cảnh giới lành là: cõi trời, a-tu-la và cõi người. Có ba cảnh giới không lành là súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Bất kỳ quý vị tạo ra nghiệp gì, thì quý vị phải nhận chịu quả báo của việc ấy. Do không nhận ra được chân tâm bổn tánh, nên chấm dứt đời mình trong sáu nẻo luân hồi, dù không muốn vào đó mà cũng vẫn phải vào.(Nguồn: mục 77- HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Tâm Trí - Nghĩa Bồ Tát: “Thế nào là Bồ tát nghĩa? Thế nào là Bồ tát trí?"
Văn Thù Sư Lợi đáp rằng: “Thiện nam tử, “nghĩa” là vô dụng. “Trí” là hữu dụng. Tại sao lại gọi “nghĩa” là vô dụng? “Nghĩa” là vô vi. Là vô vi pháp, nên đối với pháp, vô dụng phi dụng".
“Lại nữa, “nghĩa”, chẳng phải là nhiễm tướng, chẳng phải ly tướng, “nghĩa” đối với pháp, vô dụng phi dụng".
“Lại nữa, “nghĩa” là không tăng, không giảm, nên đối với pháp nó là vô dụng phi dụng".
“Thiên tử, sao gọi là “trí”? Trí là nhẫn đạo (20), sở dụng của tâm, chẳng phải vô dụng, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Công năng của Trí quy về nơi “đoạn”, cho nên, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng. Trí biết năm Ấm (21), biết mười hai Nhập (22), biết mười tám Giới (23), mười hai Nhân duyên (24), là xứ phi xứ, vì vậy, Trí là hữu dụng, chẳng phải vô dụng."
“Lại nữa, Thiên tử, các vị Bồ tát chứng được mười trí. Một là, nhân trí. Hai là, quả trí. Ba là, nghĩa trí. Bốn là, phương tiện trí. Năm là, tuệ trí. Sáu là, nhiếp trí. Bảy là, ba la mật trí. Tám là, đại bi trí. Chín là, thành tựu chúng sinh trí. Mười là, bất trước nhất thiết pháp trí. (25)
“Lại nữa Thiên tử, các vị bồ tát chứng được mười phát. Những gì là mười? Một là, thân phát, vì muốn chúng sinh thân nghiệp thanh tịnh. Hai là khẩu phát, vì muốn chúng sinh khẩu nghiệp thanh tịnh. Ba là, ý phát, vì muốn chúng sinh ý nghiệp thanh tịnh. Bốn là, nội phát: hết thảy nội vật không còn tham trước. Năm là, ngoại phát, vì muốn chúng sinh trụ trong chính hạnh. Sáu là, trí phát: đầy đủ Phật trí. Bảy là, từ phát: nghĩ đến hết thảy công đức trang nghiêm. Tám là, chúng sinh thành thục trí phát, nghĩa là, giữ gìn phương thuốc trí tuệ. Chín là, hữu vi trí phát: đầy đủ các định. Mười là, vô vi trí phát: tâm không dính chặt vào trong ba cõi."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát chứng được mười hạnh. Những gì là mười?
Một là, ba la mật hạnh. Hai là, nhiếp-phục hạnh. Ba là, trí-tuệ hạnh. Bốn là, phương-tiện hạnh. Năm là, đại bi hạnh. Sáu là, cầu trợ tuệ pháp hạnh. Bảy là, cầu trợ trí pháp hạnh. Tám là, tâm thanh-tịnh hạnh. Chín là, quán chư đế hạnh (26). Mười là, nhất thiết sở thụ vô tham trước hạnh (tất cả cảm-thụ không có tham-trước)".
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười tư duy về lẽ cùng tận. Những gì là mười? Một là, tư duy về lẽ cùng tận của sự. Hai là, tư duy về lẽ cùng tận của ái. Ba là, tư duy về lẽ cùng tận của pháp. Bốn là, tư duy về lẽ cùng tận của các phiền não. Năm là, tư duy về lẽ cùng tận của sự thấy biết. Sáu là, tư duy về lẽ cùng tận của các cảm-thụ. Tám là, tư duy về lẽ cùng tận của sự không chấp. Chín là, tư duy về lẽ cùng tận của các kết sử (27). Mười là, tư duy về lẽ cùng tận của trợ đạo hạnh (28)".
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười pháp trị. Những gì là mười? Một là, mưa bố thí, trị tâm xan tham. Hai là, thanh tịnh ba pháp (29) trị tâm phá giới. Ba là, tu hạnh từ nhẫn, trị tâm giận tức. Bốn là, cần cầu Phật pháp không biết chán mỏi, trị tâm biếng nhác. Năm là, muốn được thiền định, giải thoát tự tại, trị tâm không khéo giác quán. Sáu là, muốn sinh trợ pháp quyết định bát nhã ba la mật đa, trị tâm ngu si. Bảy là, muốn sinh các pháp trợ đạo, điều trị các tâm phiền não. Tám là, muốn tu trợ pháp tứ đế (30), cần trị đạo tâm điên đảo. Chín là, muốn thời, phi thời, kinh hành tự tại, trị tâm chấp trước. Mười là, quán pháp vô ngã, để trị cái Ta."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát có mười thiện địa. Những gì là mười? Một là, thân thiện: xa lìa ba ác nơi thân (31). Hai là, khẩu thiện: xa lìa bốn ác nơi miệng (32). Ba là, ý thiện: xa lìa ba ác nơi tâm (33). Bốn là, nội thiện: không chấp thân kiến (34). Năm là, ngoại thiện: không chấp các pháp. Sáu là, bất trước trợ trí thiện: không tham đắm vào các pháp trợ đạo. Bảy là, bất tự cao thiện: luôn luôn nghĩ về thể tính Thánh đạo. Tám là, trừ thân thiện: tu tập bát nhã ba la mật đa. Chín là, ly điên đảo thiện: không lừa chúng sinh. Mười là, không tiếc thân mệnh thiện: đem tâm đại bi hóa độ chúng sinh."
“Lại nữa Thiên tử, các vị Bồ tát quý sự thực hành theo đúng chính pháp, chứng được bồ đề, không phải không quý về sự thực hành theo đúng chính pháp. Làm theo chính pháp, là nói mà làm. Làm sai chính pháp, chỉ nói, không làm theo như lời nói".
"Lại nữa Thiên tử, vị Bồ tát có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, hành đạo. Hai là, hành đoạn. Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, thân tự tu thiện. Hai là, giáo hóa chúng sinh. Lại có hai tùy pháp hành.
Những gì là hai? Một là, hành trí hành (làm theo trí tuệ). Hai là, bất hành trí hành (không làm theo trí). Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, phân biệt các địa. Hai là, không có phân biệt các địa, phi địa (35). Lại có hai tùy pháp hành. Những gì là hai? Một là, biết các quả địa cùng sự chuyển tiến. Hai là, khéo biết đầy đủ địa này, địa kia. Lại có hai tùy pháp hành.
Những gì là hai? Một là, biết đạo Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật. Hai là, biết rõ Phật đạo, hành không thoái chuyển."
Bấy giờ đức Phật khen ngợi Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử rằng: "Hay thay, hay thay, ông luôn luôn vì các Đại bồ tát nói về căn-bản nghiệp-đạo.
Và, nghiệp-đạo ấy, đúng như ông nói". (Nguồn: Kinh Văn Thù Sư Lợi Thỉnh Vấn Bồ Đề)
+ Tâm Trí con người: Về mặt huyền bí, nơi gặp nhau giữa các đại Đất + Nước là ở luân xa Tùng Thái dương. Và nơi gắp nhau giữa Đất + Nước + Gió là ở trong đầu (Minh triết Chân sư). Sự phức tạp của Tâm biểu hiện qua các tên gọi.
a/ Tâm ta: Bao gồm hai phần là Tình và Tưởng (Đức Phật dậy)
b/ Tâm thức: Bao gồm 8 thức (Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
c/ Tâm trí: Theo Dịch học, Thủy chủ về Trí tuệ. Bộ lão là nơi Trí tuệ hoạt động. Kinh Lăng Nghiêm nói, khi Đất và Nước gặp nhau thì các Đại mất đi tánh thanh tịnh vốn có => Sự vẩn đục là do thường xuyên khởi tâm (Động tâm/ Khởi Gió) hình thành Vọng tưởng lối tiếp như sóng biển lớp lớp không ngừng nghỉ, sự Phân biệt Ta - Người và chúng sinh là do có sự khởi tâm Vô minh này.
d/ Tâm địa: Đất và Nước cũng là nơi lưu giữ mọi "hạt giống" do Tâm động mà có. Nơi tâm, mọi hạt giống Thiện hay Ác đều đã gieo (Động tâm) thì đều có Quả báo tương ứng. Trong Tâm địa, tùy theo mức Vọng tưởng Phân biệt mà hình thành đẳng cấp quả báo lành dữ khác nhau. Theo đó, Tâm càng thanh tịnh, tức càng ít Vọng tưởng Phân biệt thì Đức hạnh và Trí tuệ càng viên mãn, theo đó quả báo cũng thù thắng hay hung họa tương ứng.
=> Bản chất đời sống tiến hóa của con người, là sự tiến hóa của Tâm Thức. Càng trở về gần "Chân Tâm" thì vọng tưởng, Phân biệt càng vi tế. Cũng tức là Sóng yên - Biển lặng và Trăng tròn hiện nguyên hình trong Tâm Địa = Từng con "sông trong Tâm" đều có Trăng tròn soi chiếu. Trăng (Phật tánh) chỉ có một, nhưng hiện ở muôn Sông/ Tâm chúng sinh, soi sáng muôn nới ... (Nhân trắc học tổng hợp từ các Tooltip/ Kinh điển)
+ Trí tuệ như Hải - Biển trí tuệ: Sóng lặng nơi biển trí vời vợi bao hàm vạn tượng, vầng trăng tánh không vằng vặc chóng hiện ở muôn sông. Không rời khỏi thọ vương mà bao trùm bảy chỗ nơi Pháp Giới, không trái hậu tế mà thông suốt chín hội nơi sơ thành. Thấu tận huyền tông rộng lớn bủa khắp hải hội khó nghĩ bàn. Viên âm làu làu bao hàm mười cõi, chủ bạn trùng trùng tận đến mười phương cùng thời xướng.
Đoạn văn trên là đoạn nói về “Phương thức kinh thuyết trùm khắp”, tức là cái phương thức mà giáo nghĩa của Kinh này được diễn bày là trùm khắp Pháp Giới.
Trạm trí hải chi trừng ba: Trạm là trạm tịch. Trí hải nghĩa là trí huệ giống như biển cả, nhưng là trạm tịch, là bất động, là yên tĩnh. Trừng ba nghĩa là sóng biển yên tĩnh trong lặng, tại sao không có một chút sóng mòi nào cả? Không có làn sóng nào cũng chính là không còn chút phiền não nào nữa. Vì không còn làn sóng, cho nên nói “Sóng lặng nơi biển trí vời vợi”.
Hư hàm vạn tượng: Ở trong biển trí giống như hư không bao hàm vạn tượng, cho nên đối với tất cả đạo lý Phật đều thấu suốt, không một pháp nào Ngài không biết, không một vật nào Ngài không rõ.
Hiệu tánh không chi mãn nguyệt: Hiệu nghĩa là tinh khiết, thanh tịnh. Tánh không là chỉ cho Phật tánh nó giống như mặt trăng tròn giữa bầu trời quang đãng. Mãn nguyệt chính là chỉ cho ánh trăng đêm rằm.
Đốn lạc bách xuyên: Bách xuyên chính là chỉ cho những nơi có nước. Đốn lạc, nghĩa là như ánh trăng rằm giữa hư không, ánh sáng vằng vặc kia chiếu thẳng xuống tất cả những nơi có nước đọng, tất cả những nơi có nước đều có ánh trăng. Đó gọi là “Ngàn sông có nước ngàn sông hiện” (thiên đàm hữu nguyệt thiên đàm hiện). Đàm chính là ao sâu, cũng có nghĩa là những nơi có nước thì có ánh trăng hiện trong đó. Đây chính là một câu trong “Chứng Đạo Ca của Đại sư Vĩnh Gia” nói rằng: “Một ánh trăng chiếu khắp tất cả muôn sông, tất cả ngàn sông trăng đều nhiếp vào một ánh trăng” (nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy; nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp). Một vầng trăng ở giữa hư không hay ở trong tất cả dòng sông, ánh sáng bủa khắp rồi cũng hiện ra vầng trăng này. Có phải có nhiều vầng trăng như vậy không? Không phải. Vì tất cả ánh trăng trong mỗi dòng sông đều từ một vầng trăng này hiện ra, chiếu khắp. Tuy có trăm nghìn vạn dòng sông và hiện ra trăm nghìn ánh trăng, nhưng bản thể của trăng chỉ là một mà thôi.
“Hiệu tánh không chi mãn nguyệt”: Tự tánh trong sáng được ví như ánh trăng giữa bầu trời không vậy. “Đốn lạc bách xuyên” trong cái chớp nhoáng đều tỏa xuống mọi dòng sông. Cũng vậy trong tâm của tất cả chúng sanh đều có dòng sông, trong Phật tánh thì có ánh trăng chiếu vào trong dòng nước tâm của chúng sanh chúng ta. “Hồ nước tâm chúng sanh thanh tịnh thì Bồ-đề ngày càng tăng trưởng”. Cho nên nói “chóng hiện ở muôn sông” cũng chính là ý này. Nếu hồ nước tâm của chúng ta thanh tịnh rồi thì quang minh của Phật cũng chiếu soi vào trong đó. Nếu tâm chúng ta không thanh tịnh thì dù có ánh sáng Phật tánh cũng không thể chiếu vào được. Giống như hồ nước, nếu nước trong đó vẩn đục, thì không thể hiện bóng trăng. Nếu nước lặng trong thì sẽ thấy một vầng trăng chiếu trong đó.......
Sao gọi là Hải Ấn tam muội? Hải nghĩa là chỉ cho biển nước thơm (Hương Thủy Hải). Biển này vốn lặng trong không hề có một gợn sóng. Nhưng hiển hiện sắc thân của hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới, giống như dùng con dấu, ấn vào một vật nào đó. Tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới, loài có hình có sắc đều hiện bóng mình trong biển này, giống như con dấu – mình lấy con dấu đóng vào trang giấy, thì có dấu hiện ra. Vì chúng sanh trong mười phương ở trong biển Hương Thủy đều có một con dấu ấn hiện ra, cho nên gọi là Hải Ấn. Và khi Phật nhập vào tam muội này dùng Hải Ấn Tam Muội để nói pháp, cho nên gọi là “Bị nan tư chi hải hội” (bủa khắp hải hội khó nghĩ bàn). (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT T.Hóa giảng)
+ Cấu tạo Tâm: Trong Minh triết Ấn Độ gọi là 5 lớp vỏ. Phật giáo gọi là 5 Ấm hay 5 Uẩn là những cái tích tụ, chất đầy, bao phủ che lấp, như Đức Phật dậy 5 lớp màn che/ Mây mù che lấp mặt trời Chân Tâm:
1- Sắc: Kinh nghiệm của thân xác. Ví như bị bệnh đau thật khó tu, chứ nói chi đến Chân Tâm
2- Thọ: Kinh nghiệm của cảm tình, cảm xúc. Ví dụ khi giận hợp oán trách ... chẳng thể tu, nói gì quán ánh sáng Tâm.
3- Tưởng: Kinh nghiệm của tư duy, quan niệm. Ví như cứ ngồi nghĩ vẫn vơ sao có thể tham thiền, tu định ... để an định Tâm.
4- Hành: Kinh nghiệm của tập khí, thói quen. Ví như không chịu đúng thời tu hành, chẳng thể tiến tu.
5- Thức: Kinh nghiệm của sự nhận tri, nhận biết. Thể trí thường suy nghĩ lầm lạc, vì chúng luôn ở trong trạng thái nhị nguyên.
Cho nên, sự mầu nhiệm của sự tu hành là mình bắt đầu tìm được thời gian, thay đổi tập quán, thay đổi tư tưởng, thay đổi tình cảm, cảm xúc, thay đổi quan niệm và cuối cùng là mình thay đổi thân xác - Nói là Tu tâm nhưng thật sự ra là mình tu tất cả mọi chuyện .. v.v… Đâu có dễ đâu (Nguồn: Xem Thầy Hằng Trường giảng)
+ Đức Phật thường dạy chân lý: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”.
- Theo cách nghĩ của bạn người chết đều thành quỷ. Bạn có ý nghĩ, quan điểm như vậy thì nhất định bạn đi làm quỷ rồi! Có bao nhiêu người suy nghĩ sau khi chết được làm người, hoặc sinh lên cõi trời hay làm Phật, Bồ-tát; điều này rất ít nghe nói đến, chỉ có nghe người chết đều bị làm quỷ. ... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Hoạt dụng của tâm: Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ.
Thân Tâm: Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm. Tại sao vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học, đức do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm ra, họa do tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành Phật, tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm ác là người của La Sát, nên cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm mình, làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật.
Phật nói: Cho nên Phật cùng chúng sanh tâm tánh như nhau, tại người tu và không tu, tin cùng chẳng tin, nên có người làm Phật có người làm chúng sanh.
Tâm Tánh hay Tâm Kinh Cang: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Sao gọi là Kinh Kim Cang?
Đức Thế Tôn nói: Kim Cang là thí dụ tánh của mình, còn Kinh thì thí dụ tâm của mình. Nếu người rõ tâm mình, thấy tánh mình, người này tự trong thân có Kinh, trên sáu căn thường hiện ra hào quang sáng suốt, chói lòa trời đất, đầy đủ công đức như số cát sông Hằng, sanh ra tứ quả tứ tướng, thập thánh tam hiền nhẩn đến ba mươi hai tướng của đức Như lai và tám mươi việc tốt. Hết thảy công đức đều từ nơi mình, do tâm địa mà ra chứ không phải tìm nơi ngoài mà được.
Dụng Tâm Phật - Chân Tâm: Nếu có người minh tâm kiến tánh thường nghe tâm Phật của mình, thường thường nói pháp, thường thường độ chúng sanh, thường thường hiện thần thông, thường thường làm việc Phật, hiểu được lý như vậy mới gọi là thọ trì Kinh Kim Cang, mới gọi là Kim cang bất hoại thân........
Thường quán sát tâm của mình chẳng sanh chẳng diệt, chí thánh chí linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay biết được chân tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng tưởng kéo dắt, chỉ nương chân tánh làm chủ, gọi là ngộ Tâm không, câu kệ thứ hai.
Lại quán sát tánh của mình thường lặng yên không lay động, nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là ngộ Tánh không, câu kệ thứ ba. (Nguồn: Kinh Kim Cang)
+ TÂM CHÚNG SINH: ... Trích đoạn Kinh Đức Phật GIẢNG VỀ TỨ ĐẠI cho ngài A Nan.
Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ TÂM CHÚNG SINH.
Giảng:
"Ông vốn không biết, A-nan, trong Như Lai tạng–Như Lai tạng là Chân tâm, là Thật tướng. Ông không biết rằng nếu ông cứu xét kỹ cho đến tận nguồn cội hư không và lân hư trần, ông sẽ thấy rằng mình không thể nào biết được nó cả. Mà đạo lý ấy lại được tìm thấy trong Như Lai tạng: tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Ở điểm rốt ráo, sắc tướng chính là chơn không; và tánh không cũng chính là chơn sắc. Nó vốn không nhiễm ô, không thanh tịnh, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm. Cơ bản là bất biến. Tự tánh của nó vốn là thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, chẳng có gì làm cho nó tăng thêm, cũng chẳng bớt đi chút nào.
"Tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc." Đây là một hoạt dụng vi diệu "tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh." Nó đáp ứng tuỳ theo mọi năng lực nhận thức từ TÂM CHÚNG SINH: mức độ của sự nhiệm mầu sẽ hiển bày tương ứng với năng lực nhận thức của mỗi chúng sinh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ Vạn Pháp Đều Do Tâm Tạo
Hỏi câu 190: Làm thế nào để kềm giữ tâm mình, nhất là người tại gia khi sống trong cảnh lục trần? Sống trong xã hội mà có nhiều sự cám dỗ, vậy chúng con nên tu trì pháp môn nào mới chánh đáng?
Đáp: Pháp môn này là muốn cho quý vị tự mình phải có chí khí, phải có sự cứng rắn và tự nói là sẽ không bị ngoại cảnh cám dỗ, dù cho có chuyện gì tới cũng không động tâm. Là vậy thôi chớ không có pháp môn gì cả. Không có một bài chú nào có thể khiến quý vị đừng bị ngoại cảnh lôi cuốn, cũng không có bộ kinh nào có thể kềm chế được tâm vượn ý mã của quý vị. Cho nên cũng vẫn là tự mình phải ra công phu và tự mình phải lập ý chí. Vạn pháp đều do tâm tạo, bởi thế nếu trong tâm quý vị không muốn bị ngoại cảnh lay chuyển thì cũng không ai lay động quý vị được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Ý Thức - Hiểu Biết của Tâm Thức: Định đề này xuất phát từ định đề 1 (Trong 4 định đề). Sự sống Duy Nhất, biểu lộ qua vật chất, tạo ra một yếu tố thứ 3 đó là ý thức. Ý thức này, vốn dĩ là kết quả của sự hợp nhất của hai cực tinh thần và vật chất, là linh hồn của vạn vật; nó thấm nhuần mọi chất liệu hay năng lượng biểu lộ ra bên ngoài; nó nằm dưới mọi hình hài, dù cho đó là hình hài của đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là một nguyên tử, hay là hình hài của con người, một hành tinh hay một Thượng Đế. Đây là Tự Định Thuyết (LVHLT, 8–10).
+ Tâm thức và ngã thức: Chính ở trên cõi trần mà tâm thức, trước tiên phải tiến hóa thành Ngã thức. (KCVTT, 93)
+ Ý thức/ tâm thức: nghĩa đen là “những gì giúp cho chúng ta biết”. (TTCNT, 99)
+ Ba cung hoàng đạo (với tâm thức) có liên quan chặt chẽ nhưng lại tách biệt và khác nhau nhiều về hiệu quả (CTHNM, 352).
1. Cancer - Ý thức quần chúng- hiểu biết bản năng
2. Leo - Ý thức tự tri - hiểu biết do sáng suốt
3. Aquarius - Ý thức tập thể - hiểu biết do trực giác
+ Phật giáo dạy ta 3 mức độ của sự hiểu biết:
- Hiểu biết qua sách vở, danh từ
- Hiểu biết qua sự suy nghĩ, luận giải
- Hiểu biết nhờ sự thâm nhập thấu đạt thực trạng của sự vật. Trí tuệ trực giác nầy chỉ có được khi tâm đã được gột rửa mọi bợn nhơ, lậu hoặc (Nguồn: Thuyết nhân duyên)
+ Ý thức (Thức thứ sáu) và độc đầu ý thức "Tu thiền định - Trong định đạt được Cảnh giới “thanh thản lặng lẽ” bên trong ấy chỉ là hoạt dụng của thức thứ sáu (ý thức) và tâm thức. Chữ pháp ở trong chánh văn có nghĩa là đối tượng của tâm ý thức. Đến đây thì năm thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) biến mất. Cái nghe và cái thấy không còn hướng ra bên ngoài nữa, tánh ngửi và tánh nếm không còn tác động đến quý vị nữa và thân xác không còn bị ảnh hưởng bởi sự xúc chạm nữa. Thức thứ sáu (ý thức) lúc này được gọi là “độc đầu ý thức.” Nó chỉ hoạt động khi năm thức trước ngưng hoạt động.) là cái dễ dàng dẫn quý vị đến con đường tẻ và sự sai lầm".
Độc đầu ý thức có bốn loại/ Trạng thái:
Tán vị độc đầu: Tâm tán loạn hàng ngày thường sinh khởi niệm phân biệt.
Cuồng loạn độc đầu: Khi có người phát điên và nói năng cuồng loạn. Thức thứ sáu (ý thức) của họ lúc ấy ở trong sự cuồng loạn, họ không điều khiển ý thức được nữa.
Mộng trung độc đầu: Khi trong mơ, quý vị thấy mọi thứ với đầy đủ sắc màu và những vật kỳ dị là độc đầu ý thức đang tác yêu tác quái.
Định trung độc đầu: Đó là trạng thái “thanh thản lặng lẽ” mà Kinh văn đang nói đến (Trong định đạt được). Trong đó cái thấy, nghe, hiểu, biết hoàn toàn vắng bặt, nhưng định trung độc đầu ý thức vẫn đang còn hoạt dụng. (Nguồn: mục 95 HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN)
+ Các Thức hoạt động: Nghiên cứu của khoa học, nói rằng giữa vũ trụ thực chất chỉ có ba thứ, tạo ra vũ trụ này. Ba thứ này, đầu tiên chính là năng lượng, thứ hai là tín hiệu, thứ ba là vật chất, ba thứ này giống như Phật pháp đã nói - Mười pháp giới Y Chánh trang nghiêm, đó chính là nói đến vũ trụ, mười pháp giới từ đâu mà có? Là do A-lại-da biến hóa ra, tam tế tướng [Một niệm Vô minh sinh tạo Nghiệp tướng => Chuyển tướng => Hiện tướng] của A-lại-da chính là những gì họ nói đến, nghiệp tướng của A-lại-da khoa học gọi là năng lượng, chuyển tướng của A-lại-da chính là tín hiệu, tướng cảnh giới của A-lại-da chính là vật chất; hoặc chúng ta nói tứ phần, tự chứng phần của A-lại-da là năng lượng, kiến phần của A-lại-da là tín hiệu, tướng phần của A-lại-da là vật chất. A-lại-da ở đâu? Ngay trước mắt chúng ta, có người nhìn thấy không? Không có. Phật và pháp thân Bồ tát có thể thấy.
Những gì mà mắt tai mũi lưỡi chúng ta có thể tiếp xúc được, đó chính là tướng phần của A-lại-da, nhưng Quý vị không cảm nhận được. Thức thứ sáu, thức thứ bảy, thức thứ tám, thức thứ tám là biến hiện, thức thứ sáu, thứ bảy không thể thấy, thức thứ sáu thứ bảy duyên đến A-lại-da, không duyên đến bên ngoài. Làm sao Quý vị có thể thấy được? Trên thực tế nhìn thấy, cũng giống như ống kính máy quay phim bây giờ, hiện trường là A-lại-da, tướng phần của A-lại-da là hiện trường, chúng ta không ở hiện trường, chúng ta nhìn thấy ở trên ti vi. Vì vậy nhãn thức chụp qua ống kính, biến thành tứ phần của nhãn thức, nhãn thức có tướng phần, tướng phần của nhãn thức truyền đến ý thức thứ 6, truyền phát đến, ý thức thứ sáu lại truyền cho thức thứ 7, nó cứ truyền phát qua như thế, vì vậy nó vĩnh viễn chỉ nhìn thấy màn hình, không thấy được hiện trường. Nếu nói chúng ta đang nhìn hiện trường, sai rồi, chúng ta mãi mãi không nhìn thấy hiện trường. Điều này rất khó hiểu. Khoa học bây giờ đã chứng minh rồi, khoa học chứng minh thật sự có chuyện này. Năm thức mắt tai mũi lưỡi thân này của chúng ta thật sự chỉ chiếu kiến, nó không phân tích, tức là nó không có phân biệt, nó không có chấp trước, phân biệt là ý thức thứ 6, chấp trước là thức thứ 7. Thức thứ 7 là nhiễm ô, tất cả nhiễm ô đều được sinh ra từ đây, gọi là nhiễm ô ý, thức thứ 7 là ô nhiễm. Đây là một việc không hề đơn giản chút nào. ... Bát địa Bồ tát. Bát địa là bất động địa, chân chính không khởi tân, không động niệm, thì có thể nhìn thấy chân tướng sự việc. (Nguồn: Tịnh Độ Đại Kinh ... PS Tịnh Không)
+ Mỗi sinh vật là 1 với Tâm thức Vũ trụ: Ví như 1 sóng biển là một với đại dương (nguồn)
+ Ý thức (mind consciousness) là thức đầu tiên, sử dụng hầu hết năng lượng của chúng ta. Ý thức là thức hoạt động, là một phần của thức, nó phán xét, lo lắng, phân tích và lên kế hoạch. Khi nói về ý thức, chúng ta cũng nói đến thân thức, bởi vì ý thức không thể có mặt nếu không có não. Thân và tâm đơn giản là hai mặt của cùng một thực tại. Thân mà không có thức thì không phải là một thân thể thực sự, một thân thể sống. Ngược lại nếu không có thân thì thức cũng không thể tự biểu hiện được.
Chúng ta có thể tự luyện tập để lấy đi cái phân biệt sai lầm giữa não và thức. Chúng ta không nên nói thức được sinh ra từ não, bởi vì nếu nói ngược lại là: “não được sinh ra từ thức” thì điều đó cũng đúng. Não chỉ chiếm hai phần trăm trọng lượng cơ thể, nhưng lại tiêu thụ tới hai mươi phần trăm năng lượng của cơ thể. Vì vậy, sử dụng ý thức làm hao tốn nhiều năng lượng. Suy nghĩ, lo lắng, lên kế hoạch lấy đi rất nhiều năng lượng của chúng ta.
Chúng ta có thể tiết kiệm năng lượng bằng cách luyện cho ý thức của mình có thói quen chánh niệm. Chánh niệm giúp chúng ta có mặt trong giây phút hiện tại, cho phép ý thức của chúng ta thư giãn và buông bỏ được những lo lắng về quá khứ hoặc những dự đoán cho tương lai. (Nguồn: Thiền sư Thích Nhất Hạnh giảng về Ý thức)
Xem: TH về Tâm Thức và trình độ khác nhau
Xem: Tổng hợp chi tiết về tâm thức
+ Phát nội Nhiệt (heat): Các nội hỏa làm linh hoạt và đem lại sinh lực, tự biểu lộ theo 2 cách:
- Thứ nhất là tiềm nhiệt. Đây là nền tảng của chuyển động quay và là nguyên nhân của biểu lộ cố kết của dạng hình cầu của mọi sự sống, từ vi tử của Thượng Đế, vòng giới hạn của thái dương, xuống đến nguyên tử nhỏ nhất của nhà hóa học hoặc nhà vật lý học.
- Thứ hai là hoạt nhiệt. Điều này đưa đến kết quả là sự hoạt động và thôi thúc hướng tới của công cuộc tiến hóa vật chất. (LCVCK, 41–42)
+ Diễn tả hiệu quả các hỏa thực thể (Lửa bên trong vật chất, VD: Trong Thái dương hệ, trong hành tinh, trong con người gồm có
+ 3) với môi trường bao quanh là: NHIỆT VÀ PHÁT XẠ (LVLCK, 70)
+ X. Phát xạ. Bức xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình thành toàn (process of accomplishment). (TBĐC, 148)
+ Phát xạ - Phóng quang - Khí: ..... các môn sinh nên nhớ rằng trong tất cả những gì liên quan đến sự phát xạ, (Phật giáo gọi là phóng quang, Đạo giáo gọi là Khí trong Tinh - Khí - Thần_HT Tịnh Không) giống như trong mọi hiện tượng khác, sẽ có những giai đoạn im lìm, và những giai đoạn hoạt động mãnh liệt. Điều này sẽ được thấy khá rõ ràng liên quan với GIỚI THỨ TƯ của thiên nhiên. (LVLCK 2, 1078)
+ Phát xạ (Bức xạ, Radiation): Phát xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình hoàn thành. Chuyển hóa vốn là sự giải thoát của tinh chất ngõ hầu nó có thể tìm được một trung tâm mới, tiến trình có thể được hiểu như là tính chất phóng xạ, hiểu theo mặt chuyên môn và áp dụng cho tất cả các thể nguyên tử, không trừ một thể nào. Chỉ gần đây, khoa học mới biết đến chất radium (một thí dụ của tiến trình chuyển hóa) chỉ là lỗi lầm của khoa học. Khi điều này được hiểu rõ hơn, người ta sẽ thấy rằng mọi bức xạ, như là từ lực (magnetism) hay phóng phát tâm thông chỉ là diễn trình chuyển hóa đang tiến hành trên một mức rộng lớn. Ở đây, điểm cần phải hiểu là tiến trình chuyển hóa khi có hiệu quả, nhìn theo bề ngoài, là kết quả của các yếu tố bên ngoài. Về căn bản thì đó là kết quả của hạt nhân tích cực bên trong của mãnh lực hay sự sống đang đạt tới một mức rung động khủng khiếp đến nỗi sau rốt, nó phân tán các điện tử hay các điểm âm (negative points) vốn tạo thành khối cầu ảnh hưởng của nó và phân tán chúng ở khoảng cách xa đến mức mà Định luật Đẩy chi phối. Bấy giờ, chúng không còn bị hút vào trung tâm ban đầu nữa mà tìm kiếm một trung tâm khác. Khối cầu nguyên tử, nếu tôi có thể nói như thế, tan rả ra, các điện tử chịu ảnh hưởng của Định luật Đẩy, tinh chất trung ương thoát ra và tìm kiếm một khối cầu mới, hiểu về mặt huyền linh. (LVLCK, 478)
+ Định luật Phát xạ: Một ĐL quan trọng, chi phối mọi nguyên tử tiến hóa Sinh ra - Phát triển - Hoàn nguyên. Phát xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình hoàn thành. Chuyển hóa vốn là sự giải thoát của tinh chất ngõ hầu nó có thể tìm được một trung tâm mới, tiến trình có thể được hiểu như là tính chất phóng xạ, hiểu theo mặt chuyên môn và áp dụng cho tất cả các thể nguyên tử, không trừ một thể nào.
Mặt trăng là một thí dụ lý thú của tiến trình chuyển hóa hay là tiến trình giải phóng được hoàn tất thực sự trong một bầu: sự sống chính yếu của giới nhân loại đã triệt thoái và đã tìm thấy một lĩnh vực biểu lộ mới. Mọi sự sống động vật cũng được hấp thụ bởi một trung tâm vĩ đại hơn trong một dãy khác. Một cách thực tế, cùng một sự việc cũng có thể được nói về giới thực vật trên mặt trăng mặc dù có một vài các hình thức thấp kém của sự sống thực vật (thuộc một loại mà chúng ta không thể nhận biết được) vẫn còn được tìm thấy ở đó. Trong khi giới khoáng chất bị phóng xạ và tinh hoa của mọi hình hài khoáng chất đang nhanh chóng thoát ra.(Nguồn: Định Luật Phát Xạ / Bức xạ)
+ CÁC HÀNH: Trong Minh triết Chân sư, ta cần phân biệt rõ giữa Hành tinh/ Ngũ tinh và Hành tố/ Ngũ hành/ Ngũ đại:
+ Hành tinh (Planetary Logos): Là các trung tâm năng lượng lớn trong Thái Dương hệ, mỗi hành tinh là một "Thực thể sống" .
+ Hành tố (Elements/ Các Hành/ Các đại): Là những trạng thái căn bản của thần chất (substance) và cũng là biểu tượng cho các cấp độ rung động trong thế giới hiện tượng. Căn bản gồm Ngũ hành/ Ngũ đại: Đất/ Earth - Nước/ Water - Lửa/ Fire - Gió/ Air - Dĩ thái/ Ether
Cụ thể xem thêm chi tiết: Bảng Tổng hợp phân biệt giữa Hành tinh và Hành tố
I- Hành tố theo Dịch học
+ Nguồn gốc ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ là tên gọi của 5 Hành tinh thuộc Thái dương hệ chúng ta. Có hai đẳng cấp các Hành, trong đó ngũ hành này chỉ là lớp vật chất thấp nhất/ đậm đặc nhất (màn che) trong các Cảnh giới vũ trụ. Nếu chỉ nghiên cứu về ngũ hành sẽ có nhiều thiếu sót, vì không thấu hiểu sự thật phía sau chúng, và do đó khó mà ứng dụng sâu xa trong đời sống và khoa học.
+ Ngũ hành Can Chi: Sự biến phân của các hành tinh cơ bản hình thành Khí / Thiên can và Hình/ Địa chi.
1. Gồm 10 Thiên Can: Giáp - Ất - Bính - Đinh - Mậu - Kỷ - Canh - Tân - Nhâm - Quý
2. Gồm 12 Địa chi: Tý - Sửu - Dần - Mão - Thìn - Tị - Ngọ - Mùi- Thân - Dậu - Tuấn - Hợi
* Các Thiên can và địa chi là ngũ hành cơ bản thuộc biến dịch từ các Hành tinh thuộc Thái dương hệ và Địa cầu chúng ta sống, nên chúng biểu lộ ở mọi lĩnh vực đời sống ở mức vật chất đậm đặc nhất [Vật chất vi tế tương ứng biểu lộ ra ngũ hành là các biến phân/ Đồng dạng với Tứ đại]. Các can chi được phối hợp với nhiều bộ môn dự đoán thiên cơ, chúng là vật chất căn bản tạo lên Thể xác hồng trần của muôn loài vật. Nói chung là đây cũng là loại tri thức phức tạp với đa số nhân loại, bởi Dịch là biến, vạn sự vật luôn luôn động biến tạo ra muôn hình vạn trạng, cái gì cũng có, ngoài sức tưởng tượng của nhân loại.
+ Ví dụ về ứng dụng trong Phong thủy: Phong thủy phối các hành
II- Theo Minh triết và Phật pháp
1- Biểu lộ vật chất cõi Hồng trần thấp nhất - Đậm đặc nhất: Chúng ta đề cập 2 loại biểu hiện thấp nhất
+ .... Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. Vì vậy, một số bạn vốn đã nghiên cứu bộ Luận Về Lửa Càn Khôn có thể nhận thấy các chi tiết sau là đáng chú ý:
1. Các loại devas thấp nhất hay các nhà kiến tạo trên Con Đường Tiến Hóa thăng thượng là các thiên thần màu tím; kế tiếp là các thiên thần màu xanh lá cây, và cuối cùng là các thiên thần trắng (white devas). Tất cả các thiên thần này đều bị chi phối bởi một nhóm đặc biệt thứ tư. Các thiên thần này kiểm soát các tiến trình bên ngoài của sự sống ở cõi trần.
2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là Hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của Cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên Trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (Hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. Loại bỏ những sản phẩm được kiểm soát bởi nhiệt (heat) và bạn sẽ đưa nền văn minh của chúng ta đến một trạng thái dừng lại, bạn sẽ đưa mọi phương tiện vận chuyển đến một kết thúc cùng với mọi phương cách chiếu sáng; bạn sẽ vứt bỏ tất cả các nhà máy chế tạo. Ngoài ra, về cơ bản, những sinh linh Lửa (fiery lives) này, được tìm thấy trong tất cả những gì bốc cháy, và trong sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Mỗi Hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Cần nhớ: Không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, Lửa quyết định sự tồn tại của mọi sự sống,.... sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Các Hành tinh thuộc Thái dương hệ (Chi phối ngoại môn) gồm: 1-Mặt trời; 2-Mặt trăng; 3-Thuỷ tinh; 4-Kim tinh; 5-Hoả tinh; 6-Mộc tinh; 7-Thổ Tinh. Các Hành tinh đại diện bốn hướng chính trong không gian là, ở Bán cầu Nam là Thổ Tinh; Đông là Hỏa Tinh; Bắc là Mặt trăng; Tây là Kim Tinh => Có bốn mùa, bốn hướng chính, bốn yếu tố, bốn mặt của một kim tự tháp, và bốn loại tâm lý.... (Nguồn: Các phẩm tính của Hành tinh)
+ Lời Nhân trắc học (Tham khảo):
- Các hành tương ứng Tứ đại: Hành hỏa - Hành Thủy - Hành Phong - Hành Khí. Bậc cao hơn của các Hành này là các chủng tử thuộc Tứ đại gồm các tên Hỏa đại - Thủy đại - Phong đại - Không đại. Ngoài ra còn các chất Dĩ thái bậc cao hơn, chi phối các hành này.
Biến thể các đại ở thể vật chất đậm đặc biểu lộ trong cõi trần này có tên là Đất - Nước - Gió - Lửa. Theo đó, tất cả các hình tướng của muôn loài vật chỉ bao gồm bốn thứ đại này hòa hợp làm thành hình tướng (Theo đó, hành Kim trong dịch học đông phương nhiếp thuộc Địa đại, cũng thuộc Đất).
- Các Hành tố: Thuật ngữ chỉ các Cung năng lượng vũ trụ biến hóa biểu lộ ở cảnh giới Hồng trần vũ trụ thấp nhất - Cõi thứ 7. Bao gồm tứ đại gồm Đất - Nước - Gió - Lửa biểu hiện thành 4 Hành tố là Hành Thổ - Hành Thủy - Hành hỏa - Hành khí (Hành tố thứ 5 là Hư không). Xét trong phạm vi Không gian - Thời gian của Địa cầu, các Hành tố chi phối sắc tướng biểu lộ thì ngũ hành của Hành tinh là Mạnh nhất, quyết định trực tiếp nhất với mọi sự sống biểu lộ nơi Địa cầu. Đây là các Hành tố nguồn gốc của ngũ hành trong Dịch học, cũng là cơ sở của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành gồm 10 Thiên Can và 12 Địa Chi mà các pháp môn Nhân Mệnh (Tử vi - Tứ trụ - Chiêm tinh nội và ngoại môn ...) và Phong thủy Địa lý ứng dụng. Theo đó, những người tiến hóa thấp và trung bình trong nhân loại thì xem như bị ngũ hành này chi phối hoàn toàn. Ngũ hành này có đại diện là 12 Hành tinh chính yếu thuộc Thái dương hệ, trong đó có 5 Ác tinh và 7 Thiện tinh. Địa cầu là một trong 5 ác tinh đó, Địa cầu tiếp nhận, chuyển hóa, truyền chuyển và phóng phát ra vô số năng lượng mà con người hàng ngày tiếp xúc tràn ngập thân thể để duy tri sự sống. (Khái lược dựa theo Minh triết mới)
+ Xem thêm: Tổng hợp phân biệt Hành tinh và Hành tố
+ Xem thêm: Các đại và các hành
+ Ở đây có thể là hữu ích nếu Tôi diễn tả thật đơn giản các yêu cầu cần thiết để mang lại sự biểu lộ của mục đích tâm linh cá nhân, hoặc mục đích tâm linh tập thể. Các điều này có thể được tóm gọn trong ba chữ:
1. Quyền năng (Power).
2. Tính dứt bỏ (Detachment).
3. Tính không chỉ trích (Non-criticism).
Những từ đơn giản rất thường được dùng vì ý nghĩa quen thuộc của chúng, còn ý nghĩa thực sự và giá trị huyền bí của chúng thì bị mất đi.
- Quyền năng phụ thuộc vào 2 yếu tố để biểu lộ:
a/ Sự chuyên tâm (singleness of purpose): Các đạo sinh sẽ ngạc nhiên nếu họ có thể nhìn thấy các động cơ của họ khi chúng ta thấy chúng vốn hướng dẫn ở khía cạnh chủ quan của kinh nghiệm. Động cơ hỗn hợp là phổ quát. Động cơ thuần nhất thì hiếm có và nơi nào mà nó tồn tại thì bao giờ cũng có sự thành công và thành tựu;
b/ Thiếu những trở ngại (lack of impediments).
- Yêu cầu thứ hai là tính dứt bỏ : Bí quyết cho mọi người tìm đạo là trau dồi thái độ của kẻ bàng quan và của người quan sát im lặng, và, Tôi xin nhấn mạnh từ im lặng (silent). Nhiều hoạt động huyền thuật chân chính đi đến con số không (naught) do người hoạt động và người kiến tạo trong vật chất không giữ im lặng. Do lời nói sớm và nói quá nhiều, y giết chết những gì mà y đã cố gắng để tạo ra, đứa con tư tưởng của y bị chết non... Việc vun bồi một thái độ dứt bỏ thuộc về cá nhân, với thái độ gắn bó thuộc về tinh thần, sẽ cắt tận gốc rễ cuộc sống của con người; nhưng nó sẽ hoàn lại gấp một ngàn lần cho tất cả những gì mà nó cắt đi.
Tính không chỉ trích (non-criticism) là yêu cầu thứ ba. Tôi sẽ nói gì về điều đó? Tại sao nó được coi là một yêu cầu rất thiết yếu? Bởi vì tính chỉ trích (phân tích và, hậu quả tất nhiên là sự chia rẽ) là đặc tính nổi bật của loại tâm trí và cũng của mọi phàm-ngã phối kết. Bởi vì tính chỉ trích là một yếu tố mạnh mẽ trong việc đưa đẩy chất trí và chất tình cảm vào hoạt động, và vì thế, tạo ấn tượng mạnh mẽ lên các tế bào não và thể hiện ra thành lời... Trong áp lực của cơ hội hiện tại, không có thời gian cho tính chỉ trích tồn tại giữa những người phụng sự. Họ cản trở lẫn nhau và họ gây trở ngại cho công việc.
Vào lúc này, Tôi đang có một cảm giác về sự cấp bách. Tôi khẩn thiết kêu gọi tất cả những ai đọc được các Huấn Dụ này hãy quên đi các điều ưa thích và không ưa thích của họ, và bỏ qua những chướng ngại thuộc về phàm-ngã, vốn chắc chắn đang tồn tại trong chính họ và trong tất cả những ai đang hoạt động trên cõi trần, do phàm ngã gây cản trở (LVHLT, 558)
+ Việc chỉ trích có thể được dựa vào nhiều sự kiện, nhưng thường có nguồn gốc từ sự ganh ghét, tham vọng bị cản trở hay kiêu hãnh vì trí tuệ cá nhân. Nên nhớ rằng chỉ trích là một liều thuốc độc hại (virulent poison). Trong mọi trường hợp, cuối cùng, nó gây tổn thương cho kẻ chỉ trích – do việc định hướng của lời nói được phát ra – nó còn làm hại nhiều hơn cho kẻ bị chỉ trích. Khi nào sự chỉ trích là do động lực trong sạch, tình thương chân chính và mức độ lớn lao của tính vô tư (detachment), thì các thể tinh anh của kẻ bị công kích có thể vẫn không bị tác động (remain immune), nhưng các hiệu quả đối với thể xác nhất định là có, và khi nào có bất cứ chỗ yếu hay thiếu sót nào trên thể xác thì nơi đó sẽ là vùng bị nhiễm độc (locasition of the projected poison). Loại chỉ trích không phát thành lời (unvoiced criticism) thì rất nguy hại vì nó được tập trung một cách mạnh mẽ và dữ dội, mặc dù không được hướng vào cá nhân nào. Nó liên tục phát ra và theo một luồng ổn định, được phóng ra bằng sự ganh tỵ, tham vọng, tự phụ bằng sự hiểu biết riêng về một tình huống được giả dụ xảy ra và một tin tưởng rằng kẻ chỉ trích đang ở vào vị thế hiểu biết chính xác và có thể – lựa đúng cơ hội – chọn đúng hành động. Khi nào việc chỉ trích được thốt ra thành lời, tất nhiên nó được củng cố bằng sự hợp tác của những người bị tác động bởi sự chỉ trích và các ảnh hưởng của ý tưởng tập thể được định hướng này có thể đưa đến kết quả trong việc hủy hoại thể chất và gây rối loạn (disruption) thể xác của những người lãnh đạo. Đây có thể là một ý tưởng mới đối với một số người và có thể sẽ làm cho nhiều người trong các nhóm thuộc Kỷ Nguyên Mới chận đứng các ý tưởng của họ và nhờ thế giải thoát cho các nhà lãnh đạo của họ thoát khỏi ảnh hưởng tai hại do việc chỉ trích của họ gây ra. (TLHNM–II, 617–618)
Nhóm A: Chia rẽ - Hợp nhất - Kích thích; Tất cả nhân loại phải trải qua ảnh hưởng Nhóm B: Nhà thần bí - Đệ tử; Người sống cuộc đời tâm linh mới trải qua
+ Chia rẽ: Phân chia trong bản chất, tranh đấu lẫn nhau; Ở đây chúng ta gặp phải vấn đề chia rẽ trong bản chất giữa thể linh hồn, thể trí, thể tình cảm và thể xác do tất cả những thể này là những năng lượng khác nhau và là bản chất của phàm ngã và chúng xung đột với nhau; Chừng nào chúng ta còn chưa đạt đến giai đoạn giác ngộ với sự hợp nhất trọn vẹn, khi linh hồn hoàn toàn kiểm soát toàn bộ phàm ngã, thì chúng ta vẫn sẽ chưa thể giải quyết hết vấn đề xung đột năng lượng; (Nguồn GQ2.2); Xem: Vấn đề chia rẽ
+ Một trong những điều đầu tiên xảy ra khi một người đã thành công trong việc hàn gắn hoặc khắc phục những Sự Chia Rẻ nhất định là việc nhận ra ý nghĩa trước mắt về sự khỏe mạnh và về nhu cầu biểu lộ. Điều này, đến lượt nó, mang những vấn đề riêng của nó. (EP II 437);
Tình trạng này là một cảm giác quyền lực, vốn làm cho người đó ít nhất là tạm thời, ích kỷ, nổi bật, chắc chắn về bản thân và đầy kiêu ngạo. Y biết bản thân y đang đối mặt với một thế giới lớn hơn, một chân trời rộng hơn, và những cơ hội quan trọng hơn. Cảm giác lớn hơn này do đó có thể mang lại những rắc rối và khó khăn nghiêm trọng. Xem thêm: Chia rẽ - Tích hợp (Hợp nhất) - Kích thích
+ Nghiệp Quả Của Chia Rẽ: Thực ra, nếu bạn có hỏi tôi rằng, điều gì nằm sau mọi bệnh tật, mọi thất bại, sai lầm, và thiếu biểu lộ thiêng liêng trong ba cõi thấp, thì tôi sẽ nói đó là tính chia rẽ, nó tạo ra các khó khăn chính khởi sinh trong thể dĩ thái, cộng với sự bất lực của ngoại thể hữu hình không đáp ứng được một cách thích hợp với các xung lực tinh vi ở bên trong. Đây là nguyên nhân (nguyên nhân thứ yếu, như tôi đã nêu ra ở trên) của phần lớn các bệnh tật. (TLNM/ AH, 88)
+ Quẻ Phong Thủy Hoán: Hoán là thời kỳ ly tan, chia rẽ, tưởng chừng như mọi sự sẽ đi đến chỗ bế tắc. Những bậc quân vương, có thể giải tỏa được bế tắc ấy, có thể đem lại sự đoàn kết cho dân, làm cho tình thế lại trở nên thông suốt.
- Đại tượng truyện: Sự ích kỷ và sự tàn ác làm cho lòng con người trở nên cứng rắn, làm cho con người ly tán nhau.
- Muốn giải quyết tình trạng chia rẽ, thời phải áp dụng cả cương lẫn nhu, vua tôi phải đồng lao, cộng tác, trên dưới phải dựa nương lẫn vào nhau. Muốn liên kết mọi người, nhà vua cần phải dùng tín ngưỡng, dùng đạo giáo làm chiêu bài để thu phục nhân tâm. Lúc nhân tâm chia rẽ, cũng nên đề xướng ra những đại công trình để mọi người có mấu chốt mà bám víu, có lý do để đồng lao, cộng tác. Xem các Hào từ và ý nghĩa:
* Hào 1 - Bắt đầu thời kỳ hoán. Sự ly tán vừa chớm nở, cần phải được ngăn chặn ngay.
* Hào 2 - Sống trong thời kỳ Hoán tán, chia ly, 2 cách:
a). Phải có một lý tưởng để bám víu, lý tưởng đó là niềm tin nơi con người;
b). Phải biết dựa nương vào người khác. Hào ở giữa quẻ Khảm, tức ở giữa cơn nguy hiểm, nên phải nương tựa Hào Sơ (Vây cánh, nhóm)
* Hào 3: Sinh ra chia rẽ là lòng vị kỷ => Cần phải diệt trừ lòng vị kỷ (là quên mình vì người). Có vậy mới khỏi hối hận, phàn nàn.
* Hào 4: Nạn bè phái - Trước hết phải dẹp nạn này, mới là vẹn hảo, toàn dân mới trở thành một khối duy nhất, bao la hơn, vĩ đại hơn.
* Hào 5: Lãnh đạo phải ban bố những mệnh lệnh mạnh mẽ, mà còn phải biết tung tiền tài, phát của cải, lúa gạo, để thu phục nhân tâm nữa
* Hào 6: Phải làm sao tránh được điều họa hại, sự tàn sát lẫn nhau, sự lưu huyết, cũng như đánh tan được mọi sự hãi hùng. (Nguồn: Hạ Kinh - Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê)
+ Tiến đến Hợp nhất (unity): Hợp nhất có thể được xem như là sự thích nghi hữu thức của vị đệ tử được điểm đạo vào tổng thể lớn hơn, vì sự thu hút của vị đệ tử vào nhóm nhờ việc tuân thủ vào các định luật của linh hồn và với tư cách chi phối thái độ của y đối với những gì mà vị này đang sống, hoạt động và hiện tồn. (LV7C, 265)
+ 12 Nhân Duyên khiến Con người luân hồi: Vô minh => Hành => Thức => Danh Sắc => Lục Nhập => Xúc => Thụ => Ái => Thủ => Hữu => Sinh, Lão bệnh tử (Nguồn 12 nhân duyên)
+ HƯ KHÔNG - ÂM DƯƠNG ĐỒNG DỊ
I- THEO DỊCH HỌC ĐÔNG PHƯƠNG -
II- THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Định Đề 1 - Nhị Nguyên hay Âm Dương (LVHLT, 21):
- Tinh Thần ....... Vật Chất Sự Sống
- Sắc Tướng Cha ...... Mẹ
- Dương/ Tích Cực .... Âm/ Tiêu Cực
- Bóng Tối ..... Ánh Sáng
+ Ion âm và dương: Các ion âm và dương mà nhà khoa học nói tới, có bản chất là dĩ thái, và do đó, thuộc về cõi trần. Các hạt nhỏ không thấy được này của vật chất chỉ có thể được dò ra nhờ các hiệu quả của chúng và nhờ sự can thiệp vào các hoạt động của chúng, vốn là các hạt chuyển động nhanh, có liên quan với nhau và đồng thời, chính bản thân chúng bị tác động bởi một yếu tố kềm chế quan trọng hơn đang giữ cho chúng chuyển động như thế. (CTNM, 369–370)
+ Tứ đại thì lay động - Hình thành vật chất: Tất cả vật chất trong vũ trụ đều do bốn tính chất (Tứ đại: Đất nước gió lửa) này hòa hợp theo những tỷ lệ khác nhau mà tạo thành. Thân thể con người cũng không phải ngoại lệ, nên được gọi là thân tứ đại. Vì thân tứ đại là cội nguồn của mọi sự tham dục, khổ não nên người tu tập nên quán xét nó như là con rắn độc (tứ đại độc xà).(Nguồn: Định nghĩa tứ đại)
III - THEO PHẬT GIÁO
+ Các Đại Ở Hư Không Có Thể Hòa đồng: Phật bảo - Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau... Mặt trời soi sáng, Cái Sáng không phải mặt trời, cũng không phải hư không nhưng không nằm ngoài Mặt trời và Hư không; - Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng: Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn: “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong…cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.
- Phật dậy: Trong bản tánh minh diệu của Như Lai Tạng, ông cần phát minh hư không thì có hư không hiện ra. Ví như một dòng nước in bóng mặt trăng. Hai người cùng trông thấy bóng mặt trăng in đáy nước. Rồi người đi về Đông, người đi về Tây cả hai đều thấy có mặt trăng theo mình mà không có chuẩn đích cho mặt trăng cố định. Trước sự kiện đó không nên gạn hỏi : Mặt trăng là một, sao có thể đi theo hai hướng khác nhau? Cũng không được hỏi: Mặt trăng đã thành hai, sao trước kia hiện ra có một? => Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậy mà Như Lai dạy: "Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh không chơn sắc…” Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình. (Nguồn: Xem mục Giác không sinh mê ...)
+ Âm Dương Dị Đồng: Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”
HT Tuyên Hóa giảng giải:
Đoạn kinh văn nầy mở đầu cho phần cực kỳ quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Vì nội dung đoạn kinh này sẽ giải thích tại sao con người trở thành người.....
Ông chẳng thường nghe Như Lai giảng bày, tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu hay sao? ....
Khác với cái khác kia, nhân cái khác đó mà lập cái đồng. Đã phát minh cái đồng cái khác rồi, nhân đó lại lập cái không đồng không khác.
Giảng giải:
Dị bỉ sở dị: Chữ dị trước là hoạt tự, mang tính linh động, có nghĩa là bất đồng, không giống. Chữ dị sau là thật tự, mang nghĩa thật, tức là cảnh giới của dị tướng. Có nghĩa là đối với cái khác bất đồng thì tức thời thành ra tướng của cảnh giới.
Nhân dị lập đồng: Nhân đối với cảnh giới của dị tướng, lại lập nên tướng đồng của hư không, tức là nương nơi năng kiến mà vọng sinh có hư không và thế giới.
Đồng dị phát minh: Hư không là tướng đồng, thế giới là tướng dị, một đồng một dị cùng nhau phát minh, thành ra có chúng sinh giới.
Nhân thử phục lập vô đồng vô dị: Cảnh giới của chúng sinh vốn không giống nhau, hình mạo của chúng sinh đều khác nhau nên gọi bất đồng......
.....Tám vạn bốn ngàn trần lao chính là tám vạn bốn ngàn phiền não. Từ những điều kiện khác nhau vừa bàn đến, phiền não sinh khởi. Cùng với phiền não là sự sinh khởi của núi sông đất liền.
Nổi lên thì thành thế giới, lắng đọng thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi.
Phần nầy giải thích tướng trạng thứ 6 của lục thô, đó là nghiệp hệ khổ tướng. Nổi lên thì thành thế giới. Khởi là lưu xuất ra–là chuyển dịch, là động. Lắng đọng thì thành hư không. Lắng đọng là tĩnh–không chuyển dịch. Hư không là đồng, thế giới là dị....
.... Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mê muội, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Nên có phong luân nắm giữ thế giới....
.... Nhân hư không mà có sự lay động, phát minh ra tánh cứng, thành ra có ngăn ngại. Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng. Thế nên có kim luân để bảo trì quốc độ.....
..... Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ biết cái lay động thì khiến cho phong đại phát ra. Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, nên có ánh sáng của lửa (hoả đại) làm tính biến hoá.....
..... Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt. Nên có thủy luân trùm khắp mười phương cõi giới. .....
.....Lửa thì bốc lên, nước thì sa xuống; giao xen nhau, phát ra thành tánh cứng. Chỗ ướt thành biển lớn, chỗ khô thành gò nổi. .......
...... Do nghĩa ấy, nên trong biển lớn kia, thường phát ra ánh lửa; trong đất liền kia, sông ngòi thường chảy.
Thế nước kém thế lửa thì kết thành núi cao. Thế nên khi đập đá núi thì nháng tia lửa, khi nấu thì chảy ra nước.
Thế đất kém thế nước, vươn ra thành cỏ cây. Thế nên rừng cây bị đốt thì thành đất, vắt đất ra thì thành nước. .......
Vọng tưởng giao xen phát sinh, lần lượt làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên đó mà thế giới tương tục.... (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Âm Dương Dị Đồng - Lê Sỹ Minh Tùng giảng: Phật dậy A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện thành thế giới hữu vi. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; Những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
- Bản thể của hiện tượng là Như Lai Tạng thì bao trùm khắp 10 phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắp mà biến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong tiến trình bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Nói cách khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến hiện thành ra thế giới hữu vi.
- Phẩm Tính Âm Dương Đối Chọi: Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có 3 trường hợp về tánh đồng và dị:
1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì việc kéo rất dễ dàng.
- Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội - Làm giảm bớt, hao tổn sức mạnh. Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn.
2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống/ Tánh thì khắc nhau (Tương khắc, đẩy nhau) và Dị tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau (Tương hợp, hút nhau). Thí dụ hai người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương thì nó sẽ hút lại.
3) Đồng chủng/ Loài tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại thì phụ cho nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay.
- Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật củ mất đi để hình thành sự vật mới nối tiếp.
- Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện chớp, có đó rồi mất đó. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Ch 7)
I- Thế Giới Tương Tục - Phật bảo rằng:
-Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động. Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì. Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn. Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó, trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau. Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào.
II- Chúng Sinh Tương Tục:
Lại nữa, Phú Lâu Na! “Vọng minh” không phải là cái khác lạ. Do vì chúng sinh dùng cái kiến minh tri để minh tánh giác mà có sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh, tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sáu vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”. Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì hấp dẫn lúc hợp lúc ly, khi tình khi tưởng. Tánh thấy “năng minh” có thì đương nhiên có sắc sở minh hiển hiện. Chủ thế đối tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy.........
III- Nghiệp Quả Tương Tục - Phật bảo :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục......
IV- Chỉ Các Đại Có Thể Dung Nhau
- Phật bảo: Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau. (Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục). (Nguồn: Xem mục Dùng Phật nhãn nhìn lên ....)
Xem mục Chương 7 - Phật thuyết các Đại vốn không ngăn ngại ...
Nguồn: Phần 1: Phân biệt các Giới: Đại chủng bốn giới - Tứ đại
* Phật giảng về Thế giới chúng sinh tương tục - HT Tuyên Hóa giảng, Nhân Trắc Học tổng hợp trong bài viết: Thế giới chúng sinh tương tục - Vòng luân hồi
320. KHÔNG CÓ NIỆM - Không có dục - Không bỏn xẻn ganh tị ...
- Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không có niệm thì không có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và không yêu. Nếu không có yêu và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị. Nếu không có bỏn sẻn và ganh tị thì không có dao gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt. (Nguồn: 320 - Trung A Hàm, Kinh Thích Vấn, Phẩm 11, số 134)
+ Nhân nguyên sống trong hận thù: Tật đố và san tham hay Đố kị và ích kỷ là nguồn gốc phát sanh.
1. Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi đầu tiên:
- Bạch Thế Tôn, do kiết sử gì, các loài ..., dân chúng ao ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù?
Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:
- Do tật đố (Đố kị) và xan tham (Ích kỷ/ Bỏn xẻn/ Keo kiệt của Tâm tham lam).
- Này Thiên chủ, tật đố và xan tham do ưa ghét làm nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét khiến chúng sanh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện hữu, ưa ghét có mặt thì tật đố, xan tham có mặt; ưa ghét không có mặt thì tật đố, xan tham không có mặt.....
- Này Thiên chủ, ưa ghét do dục làm nhân duyên, do dục làm tập khởi, dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng hiện hữu. Dục có mặt thì ưa ghét có mặt; dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt.....
- Này Thiên chủ, dục do tầm/ Suy nghĩ làm nhân duyên, do tầm làm tập khởi; tầm khiến dục sanh khởi, tầm khiến dục hiện hữu. Tầm/ Suy nghĩ có mặt thì dục có mặt; tầm không có mặt thì dục không có mặt. (Khi tâm suy nghĩ về một đối tượng thì tham dục sinh khởi, khi tâm không suy nghĩ gì thì tham dục không sinh khởi)....
- Này Thiên chủ, tầm lấy cái loại vọng tưởng hý luận làm nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tướng hý luận khiến tầm sanh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm hiện hữu. Do các loại vọng tưởng hý luận có mặt thì tầm có mặt. Do các loại vọng tưởng hý luận không có mặt thì tầm/ Suy nghĩ không có mặt". (Trường Bộ Kinh II, 21.Đế Thích Sở Vấn)
+ Đại Nhân Duyên (Phật giảng nói về một phần trong 12 Nhân duyên):
2. Này Ananda, nếu có ai hỏi:
"Già và chết do duyên nào không?" Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi:
"Già và chết do duyên gì?" Hãy đáp: "Già và chết do duyên sanh".
"Sanh do duyên gì?" Hãy đáp: "Sanh do duyên hữu".
"Hữu do duyên gì?" Hãy đáp: "Hữu do duyên thủ".
"Thủ do duyên gì?" Hãy đáp: "Thủ do duyên ái".
"Ái do duyên gì?" Hãy đáp: "Ái do duyên thọ".
"Thọ do duyên gì?" Hãy đáp: "Thọ do duyên xúc".
"Xúc do duyên gì?" Hãy đáp: "Xúc do duyên danh sắc".
"Danh sắc do duyên gì? Hãy đáp: "Danh sắc do duyên thức".
"Thức do duyên gì?" Hãy đáp: "Thức do duyên danh sắc".
3. Này Ananda, như vậy do duyên danh sắc, thức sanh; do duyên thức, danh sắc sanh; do duyên danh sắc, xúc sanh; do duyên xúc, thọ sanh; do duyên thọ; ái sanh; do duyên ái, thủ sanh; do duyên thủ, hữu sanh; do duyên hữu, sanh sanh; do duyên sanh, lão tử sanh, do duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu não sanh. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn tập khởi. (Nguồn: Kinh Đại duyên - Kinh Trường Bộ - Đại Tạng Kinh - HT Thích Minh Châu dịch)
+ Mười hai xứ - Mười hai nhập: "Vốn chỉ có mười tám giới nay thành ra có mười chín giới. Giới vừa mới phát sinh thêm, như ông vừa lập luận, là do tâm ông hiện hữu. Mười tám giới là gì? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là sáu căn cộng với sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sẽ sinh ra khởi sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Tổng cộng là mười tám giới. Sáu căn và sáu trần tiếp xúc nhau gọi là mười hai xứ (thập nhị xứ) hay mười hai lối vào (thập nhị nhập)."(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Sáu Căn tiếp xúc với sáu trần - Thập nhị xứ: Như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt. Giảng:
“Như vậy.” Tại sao Như Lai nói rằng các tướng huyễn hóa sinh khởi hư vọng? Đạo lý mà Như Lai đã giảng giải cũng giống như vậy đối với mọi phần loại khác nhau của
ngũ ấm– sắc, thọ, tưởng, hành, thức – lục nhập– có nghĩa là 6 căn , mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – từ thập nhị xứ – 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với 6 trần: sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp– cho đến thập bát giới– 6 căn, 6 trần và 6 thức phát sinh ra do khi căn và trần tiếp xúc nhau: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức. Sáu căn và 6 trần kết hợp thành 12 xứ, cùng với 6 thức tạo thành 18 giới. Các thứ sắc pháp và tâm pháp nầy, đều do nhân duyên hòa hợp mà hư vọng sinh ra, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt. Khi nhân duyên không hòa hợp thì hư vọng diệt mất. Đây là tánh của sinh diệt. Các sắc pháp và tâm pháp nầy đều chỉ biến hiện từ tâm. Nên Đức Phật bảo A-nan: “Thân tâm của ông, đều là vật biến hiện từ trong diệu minh chân tâm.” Lại nữa: “Ông không biết rằng sắc thân của ông, cho đến núi sông, hư không, đất liền đều là vật bao hàm trong diệu minh chân tâm.”(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Thập Nhị Xứ - 12 Xứ: Trích Đức Phật dậy... Lại nữa, A-nan, vì sao bản tính của 12 xứ vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng? Giảng:
“Lại nữa, A-nan, Như Lai sẽ giảng giải rõ hơn cho ông. Ông phải lắng nghe cho kỹ. Tại sao Như Lai nói rằng bản tính của 12 xứ vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?” “Xứ” là chỉ cho một vị trí đặc biệt. Mười hai vị trí đặc biệt nầy là gì? Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý– và sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp– Có khi chúng được gọi là 12 nhập (thập nhị nhập), cũng như lục nhập đề cập ở trên, Nhưng, 12 nhập còn có thêm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sự phối hợp của sáu căn và sáu trần được gọi là 12 xứ.
SẮC TRẦN: A-nan, ông hãy xem rừng cây Kỳ-đà và các suối hồ nầy.
Ý ông nghĩ sao. Có phải những sắc trần nầy sinh ra cái thấy, hay cái thấy sinh ra sắc tướng?
A-nan, nếu cái thấy sinh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không chẳng có sắc tướng, lẽ ra tính thấy sinh ra sắc tướng đã tiêu mất rồi. Đã tiêu mất thì hiển bày rõ hết thảy đều không. Sắc tướng đã không, thì lấy gì rõ bày tướng không? Đối với hư không cũng lại như vậy.
Lại nữa nếu sắc trần[10] sinh ra cái thấy, khi thấy hư không chẳng có sắc tướng, thì cái thấy liền bị tiêu mất. Tiêu rồi thì tất cả đều không, còn ai để rõ được không và sắc tướng?
Do vậy nên biết rằng cái thấy cùng sắc không đều chẳng có nơi chốn. Tức là sắc trần cùng với cái thấy, hai xứ đó đều là hư vọng không thật, vốn chẳng phải tính nhân duyên, cũng chẳng phải tính tự nhiên.
A-nan, ông hãy nghe trong vườn Kỳ-đà nầy, khi bữa ăn được bày dọn xong thì đánh trống, đại chúng sẽ nhóm lại khi nghe tiếng chuông. Tiếng chuông trống trước sau theo nhau.
Giảng: Đoạn kinh nầy giải thích về hai xứ của tai (nhĩ căn) và âm thanh.
Ý ông nghĩ sao? Như thế là âm thanh đến bên cái nghe, hay cái nghe đến chỗ âm thanh?
A-nan, nếu như âm thanh đến bên cái nghe, như khi Như Lai khất thực trong thành Thất-la-phiệt, thì ở rừng Kỳ-đà ắt là không có Như Lai. Âm thanh đó đã đến bên cái nghe của A-nan, thì lẽ ra ông Mục-kiền-liên, ông Ca-diếp đều không cùng nghe được. Huống gì trong đây có đến 1250 sa-môn, một khi nghe được tiếng chuông, họ đều cùng đến trai đường cả.
Lại nếu như cái nghe của ông đến bên âm thanh, cũng như khi Như Lai về ở trong rừng Kỳ-đà rồi, thì trong thành Thất-la-phiệt ắt là không có Như Lai nữa. Vậy khi ông nghe tiếng trống, cái nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi tiếng chuông cùng phát ra, lẽ ra ông không thể nghe được cả hai thứ, huống gì ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều thứ âm thanh khác quanh ông.
Còn nếu (cái nghe) không chạy đi chạy lại, thì cũng không có cái nghe.
Giảng:
Rốt ráo đạo lý nầy muốn chỉ bày điều gì? Chỉ ra rằng tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng vốn không sinh không diệt. Nó bao trùm mọi nơi, có trong mọi vật. Nó không như một con người, khi ở một nơi nào đó thì gọi là có mặt, và khi ông ta rời khỏi chỗ đó rồi thì gọi là không hiện hữu ở đó nữa. Đúng hơn, tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng là không sinh không diệt. Điều ấy chỉ ra rằng căn tánh vốn là chân thật và vọng tưởng là hư vọng, không thật.
Do vậy nên biết rằng cái nghe và âm thanh đều không có nơi chốn; tức cái nghe và thanh trần hai thứ đều là hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên, chẳng phải tính tự nhiên.
MÙI HƯƠNG: A-nan, ông hãy ngửi mùi hương chiên đàn trong lò, hương ấy nếu đốt đến một thù, thì cả thành Thất-la-phiệt trong khoảng 40 dặm đều ngửi được mùi thơm. Giảng:
Bây giờ sẽ đề cập đến mùi hương và lỗ mũi với tính biết ngửi....
Ý ông nghĩ như thế nào? Mùi hương ấy sinh ra do cây chiên đàn, do nơi mũi ông hay do hư không?
A-nan, nếu như mùi hương ấy sinh ra do từ mũi ông, nói do mũi sinh ra thì hương phải từ mũi phát ra, mà lỗ mũi không phải là chiên-đàn, làm sao trong mũi lại có hương chiên-đàn? Còn nói rằng ông ngửi được mùi hương thì mùi thơm phải đi vào trong mũi ông. Còn như trong mũi đã phát ra mùi hương, mà nói do mũi ngửi được thì không đúng nghĩa.
... Đức Phật cố ý gạn hỏi A-nan như vậy để xem thử A-nan trả lời ra sao. Tuy nhiên, mặc dù mùi thơm phát sinh từ hương chiên-đàn, nhưng tánh biết ngửi lại xuất phát từ Như Lai tạng. Thế nên ý chính là chỉ ra nó không phải do mùi hương, mà do tánh ngửi. Tánh ngửi nầy bao trùm khắp và không sinh không diệt. Đó là điểm then chốt.
Thế nên biết rằng hương trần và cái ngửi đều không có nơi chốn. Tức là nơi phát sinh cái ngửi và hương trần đều là hư vọng, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên.
VỊ TRẦN: A-nan, ông thường ở trong chúng, hai thời mang bình bát khất thực. Trong đó, khi gặp tô, lạc, đề hồ, gọi là những món quý.
Ý ông nghĩ thế nào? Vị ấy sinh ra do trong hư không, do nơi lưỡi hay do thức ăn?
Lại nữa A-nan, nếu vị ấy sinh ra do lưỡi của ông, thì trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi; cái lưỡi ấy bấy giờ đã thành vị tô rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra cái vị phải không thay đổi.
Nếu không dời đổi, thì không được gọi là biết vị. Còn nếu dời đổi, thì lưỡi không có nhiều tự thể, làm sao một lưỡi mà biết nhiều vị được?
Nếu sinh ra do thức ăn, thì thức ăn không có tri giác, làm sao tự biết được vị? Còn nếu thức ăn tự biết, Tức giống như người khác ăn, có dính dáng gì đến ông?
Nếu sinh ra do hư không, thì ông hãy nếm hư không xem nó có vị gì? Nếu hư không có vị mặn, thì nó đã làm mặn cái lưỡi của ông, và cũng làm mặn cái mặt của ông; ắt mọi người trong cõi giới nầy cũng giống như cá biển, đã thường chịu cái mặn, không còn biết thế nào là mặn nữa. Nếu đã không biết nhạt, thì cũng không biết mặn; làm sao được gọi là biết vị?
Vậy nên biết rằng mùi vị và cái lưỡi biết nếm đều là không có xứ sở. Tức là tính biết nếm cùng với mùi vị, hai thứ đều là hư vọng, không thật; vốn chẳng phải tính nhân duyên, chẳng phải tính tự nhiên. Giảng:
"Vậy nên biết rằng mùi vị và cái lưỡi biết niếm đều là không có xứ sở." Nó đều không có một nơi chốn nhất định. "Tức là tính biết nếm cùng với mùi vị, hai thứ đều là hư vọng, không thật." Tính biết nếm và mùi vị– cả hai cái nầy đều không có gốc gác– đều là không thật, đều là hư giả, hư vọng sinh khởi và hư vọng biến diệt. Nó chẳng phải sinh khởi từ tính nhân duyên. Nó cũng chẳng phải sinh khởi từ tính tự nhiên. Nó đều là biểu hiện cho sự lưu xuất từ tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng chớ không có gì khác hơn."
XÚC TRẦN: A-nan, ông thường mỗi sáng, lấy tay xoa đầu.
Ý ông nghĩ sao? Trong sự biết xoa ấy, lấy gì làm biết cảm xúc? Cái biết ấy do nơi tay hay nơi đầu?
Nếu nó ở nơi tay, ắt là đầu không biết, thì làm sao thành cảm xúc ấy? Còn nếu nó ở nơi đầu, ắt là tay vô dụng, làm sao gọi là cảm xúc được?
Nếu cả đầu và tay, mỗi cái đều có biết; thì A-nan, một mình ông có đến hai thân.
Nếu đầu và tay đều do một cảm xúc sinh ra, thì tay và đầu lẽ ra chỉ có một tự thể. Nếu chỉ có một tự thể, thì không thành cảm xúc được.
Còn nếu là hai thể, thì cảm xúc do ở đâu? Nếu ở bên năng thì không có bên sở, nếu ở bên sở thì không có bên năng. Không lẽ giữa hư không và ông mà tạo thành cảm xúc?
Vậy nên biết rằng cảm xúc và thân đều không xứ sở. Tức là thân biết cảm xúc và cái cảm xúc, cả hai đều là hư vọng, không thật, vốn không phải tánh nhân duyên, không phải tánh tự nhiên. Giảng:
... Tức là thân biết cảm xúc và cái cảm xúc– nơi chốn của thân và nơi chốn của cảm xúc – cả hai đều là hư vọng." Nó đều không thật. Đừng trở nên dính mắc vào đối tượng của sự xúc chạm. Đừng trở nên chấp trước rồi nghĩ:
"Như thế nầy như thế kia là điều tuyệt diệu nhất," rồi sinh khởi tham luyến. Nó hoàn toàn hư giả, không thật, thế nên ông khởi tâm đắm chấp chúng làm gì?
"Cũng chẳng phải tự nhiên chúng phát sinh từ trong hư không. Nó lưu xuất từ tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng. Nhưng, chúng cũng hư vọng và không thực như nhau. Đừng đắm chấp với nó. Quý vị phải phản bổn hoàn nguyên, quay về lại với tánh chân như nhiệm mầu từ Như Lai tạng của chính mình. Hãy buông bỏ những tướng hư vọng nầy vả quay về nhận ra chân tánh bản hữu của mình. Đó chính là của báu trong nhà, là bổn địa phong quang."
(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Hình thành Thái Dương Hệ - Quy luật Thành Trụ Hoại Không: .... Thật vậy, trong bài kinh “Khởi Thế Nhân Bổn”, bài kinh giải thích về sự hình thành thế giới và con người, Đấng A La Hán, Thế Gian Giải đã mô tả rất cụ thể:
“11. Này Vàsettha, lúc bấy giờ, vạn vật trở thành một thế giới toàn nước đen sẫm, một màu đen khiến mắt phải mù. Mặt trăng, mặt trời không hiện ra; sao và chòm sao không hiện ra; không có ngày đêm; không có tháng và nửa tháng; không có năm và thời tiết; không có đàn bà, đàn ông. Các loài hữu tình chỉ được xem là loài hữu tình mà thôi.
Này Vàsettha, đối với các loài hữu tình ấy, sau một thời gian rất lâu, vị đất tan ra trong nước. Như bọt nổi lên trên mặt cháo sữa nóng đang nguội dần, cũng vậy đất hiện ra. Ðất này có màu sắc, có hương và có vị. Màu sắc của đất giống như đề hồ hay thuần túy như tô, vị của đất như mật ong thuần tịnh” (Kinh số 27, Trường bộ 2 = [So.51.11] (1)). (Xem: Vũ trụ theo Phật giáo - P2)
PHẬT DẠY VỀ TƯỚNG TƯƠNG TỤC
I- Thế Giới Tương Tục - Phật bảo rằng:
-Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động. Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì. Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn. Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó, trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau. Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào.
II- Chúng Sinh Tương Tục:
Lại nữa, Phú Lâu Na! “Vọng minh” không phải là cái khác lạ. Do vì chúng sinh dùng cái kiến minh tri để minh tánh giác mà có sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh, tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sáu vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”. Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì hấp dẫn lúc hợp lúc ly, khi tình khi tưởng. Tánh thấy “năng minh” có thì đương nhiên có sắc sở minh hiển hiện. Chủ thế đối tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy.........
III- Nghiệp Quả Tương Tục - Phật bảo :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục......
GIÁC KHÔNG SINH MÊ THẤT ĐẠI DUNG ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ TRỞ NGẠI
I- Giác không sinh mê:
- Phú Lâu Na! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng rồng. Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại cũng như gỗ đã đốt thành tro, tro không thể hoàn nguyên thành gỗ được.
- Phú Lâu Na! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp mắc các hiện tượng hữu vi.
=> Và cũng không có việc Như Lai sanh lậu hoặc trở lại.
II- Chỉ Các Đại Có Thể Dung Nhau
- Phật bảo: Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau. (Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục). (Nguồn: Xem mục Dùng Phật nhãn nhìn lên ....)
* Mời đọc các trích đoạn đức Phật giảng về Thế giới chúng sinh tương tục - HT Tuyên Hóa giảng, Nhân Trắc Học tổng hợp trong bài viết: Thế giới chúng sinh tương tục - Vòng luân hồi
Nguồn: Tất cả nội dung trên đều ở trang nguồn: Xem mục Chương 7 - Phật thuyết các Đại vốn không ngăn ngại ...
Nguồn: Phần 1: Phân biệt các Giới: Đại chủng bốn giới - Tứ đại: Đất nước Gió Lửa
+ Chúng sinh tương tác - Con người tương tác tâm thức Tương tác tư tưởng tương tác
Trích đoạn trong Kinh: ... Hào quang ấy đồng thời từ các cõi nước kia, đến rừng Kỳ-đà, rót xuống đảnh Đức Như Lai. Tất cả đại chúng ở đây đều được điều chưa từng có.
HT Tuyên Hóa giảng:
Hào quang ấy đồng thời, hào quang mà Đức Như Lai nhiều như số vi trần phóng ra từ đỉnh đầu các ngài, từ các cõi nước kia–từ quốc độ mà các Đức Phật đang trú trì–đến rừng Kỳ-đà. Lưu ý rằng đó là các đạo hào quang phóng đến rừng Kỳ-đà, không phải là chính chư Phật. Hào quang từ mỗi Đức Như Lai nhiều như cát sông Hằng và nhiều như vi trần, đến rót xuống đảnh Đức Như Lai, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Điều nầy biểu tượng cho giáo pháp của các Đức Như Lai đều đồng như nhau. Giáo pháp Đức Phật nầy giảng nói cũng là giáo pháp mà Đức Phật nầy tuyên bày. Là đồng nhất như nhau. Ánh sáng thì tương tức tương nhập và tâm chúng sinh cũng tương nhập. Hào quang của chư Phật vốn tương tức tương nhập nên hào quang chính là Phật tâm. Đồng một thể tánh với tâm chúng sinh. Nếu quý vị có tâm bực bội người nào đó, thì người ấy sẽ nhận biết ngay, dù quý vị không nói một lời nào. Chẳng phải người ấy biết một cách có chủ ý, trên bình diện thức thứ sáu (ý thức) thì vốn có sự phân biệt, nhưng có sự cảm ứng từ trong thức thứ 8. Người kia có cái biết từ bình diện thức thứ 8 vì tâm con người vốn có tính tương tức tương nhập. Khoa học ngày nay đã khám phá ra điều nầy, rằng có một mối tương quan vô hình, như điện tín, có thể liên lạc với nhau rất nhanh dù cách nhau rất xa. Và tâm con người có một hệ thống điện báo hỗ tương lẫn nhau. Điều ấy không thể nhìn thấy được qua mắt thường, nhưng nếu quý vị chân thực có được sự viên thông và đạt được Phật nhãn vô ngại, thì quý vị sẽ thấy rõ tại sao mình biết được niệm tưởng sinh khởi trong tâm người khác. Đó là vì người kia đã gửi đi một bức điện tín. Nếu quý vị đã mở được Phật nhãn hoặc huệ nhãn, thì quý vị tự nhiên sẽ nhận biết và có thể thấy được điều ấy.
Vì những bức điện tín nầy mà người ta nhận ra được ngay khi quý vị có niệm tưởng bất bình với họ. Bức điện tín của quý vị đến, và đến lúc nó cũng trở nên bực dọc cùng với quý vị. Có người có thiện cảm với người khác, và điều ấy cũng như vậy, người kia cũng nhân biết được sự thiện cảm ấy, nhưng điều ấy được đáp lại chậm hơn. Nếu quý vị muốn có sự ảnh hưởng đến người khác để có sự chuyển hoá bằng phương tiện tác động tích cực, thì quý vị nên dùng những ý tưởng tốt để tác động đến họ, nhưng tiến trình sẽ chậm từng bước một. Dần dần quý vị sẽ khiến cho họ thức tỉnh. Khi họ thức tỉnh, trở lại sự ứng xử của họ sẽ theo hướng tích cực.
Nay tôi đã giải thích hệ thống điện tín nầy vận hành giữa hai người, sẽ có người không tin những gì tôi nói. Tuy nhiên, đó là sự thực. Trong tương lai, khi quý vị thực sự mở được Phật nhãn, quý vị sẽ không còn hoài nghi gì về giáo lý nầy nữa. Lúc ấy quý vị sẽ nhận ra rằng, “Ồ! Lúc ấy tôi chẳng tin, nhưng đó là sự thực.” Các hào quang đều rót xuống đảnh đầu Đức Như Lai biểu tượng cho sự đồng nhất giáo pháp của chư Phật và sự phóng chiếu hào quang giữa các Đức Phật. Pháp tối thượng mà chư Phật giảng nói là đồng nhất.
Tất cả đại chúng ở đây đều được điều chưa từng có. Không ai hiểu ra được họ thấy điều gì đang xảy ra. “À! Tại sao chư Phật trong 10 phương phóng quang rồi rót xuống đảnh đầu Đức Phật chúng ta? Trong đó biểu tượng điều gì?” Quý vị có thể nào tưởng tượng ra tại sao lại có vô số hào quang được phóng ra bởi các Đức Phật Như Lai nhiều như vi trần? Hào quang nhiều vô số, không thể tính kể được. Nhưng cũng chẳng lẫn lộn chút nào. Mỗi đạo hào quang đều chiếu soi rất rõ vào đảnh đầu của Như Lai. Những ai đã mở được Phật nhãn, những ai đã chứng được ba quả vị đầu của hàng A-la-hán thì không hiểu được những gì họ thấy. Ngay cả những vị đã chứng được quả vị thứ tư cũng không hiểu được tường tận. Nguyên do họ không hiểu được là vì họ chưa bao giờ thấy việc này xảy ra trước đây. “Được điều chưa từng có” có nghĩa là họ chưa từng thấy điều như thế nầy xảy ra bao giờ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.5)
185. VÌ SAO CÓ SÔNG NGÒI?
Vì mặt trời mặt trăng có độ nóng. Do độ nóng này mà có nung đốt. Do có nung đốt nên có mồ hôi. Do mồ hôi mà thành sông ngòi. Do đó thế gian có sông ngòi. (Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
187. VÌ SAO MẶT TRĂNG CÓ BÓNG ĐEN?
Do bóng cây Diêm phù in vào trong mặt trăng, nên mặt trăng có bóng. (Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
188. VÌ SAO MẶT TRĂNG KHUYẾT?
Vì duyên gì mà cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít? Có ba nhân duyên nên cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít:
Mặt trăng phát xuất từ phương góc.
Trong cung điện mặt trăng có các đại thần đều mặc y phục màu xanh, theo thứ tự mà lên, trú xứ cũng trở thành xanh, cho nên mặt trăng bị tổn giảm.
Cung điện mặt trời có sáu mươi tia sáng, tia sáng này chiếu vào cung điện mặt trăng, ánh chiếu khiến cho không hiện, do đó nơi có ánh chiếu, nơi ấy của mặt trăng bị tổn giảm. (Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
189. VÌ SAO MẶT TRĂNG TRÒN DẦN?
Lại nữa, vì duyên gì mà ánh sáng cung điện mặt trăng đầy dần? Có ba nhân duyên khiến cho ánh sáng mặt trăng đầy dần:
Mặt trăng hướng về phương vị chánh cho nên ánh sáng mặt trăng đầy.
Các thần cung điện mặt trăng hết thảy đều mặt y phục màu xanh, và Thiên tử mặt Trăng vào ngày rằm ngồi vào giữa, cùng nhau hưởng lạc, ánh sáng chiếu khắp, lấn át ánh sáng chư thiên, nên ánh sáng đầy khắp. Giống như bó đuốc lớn được đốt lên trong đám đèn đuốc, sẽ át hẳn ánh sáng các ngọn đèn. Thiên tử mặt trăng cũng lại như vậy. Vào ngày rằm, ở giữa chúng chư thiên, át hẳn tất cả các ánh sáng khác, chỉ có ánh sáng của ông độc chiếu, cũng như vậy.
Thiên tử mặt trời tuy đã có 60 tia sáng chiếu soi cung điện mặt trăng, nhưng trong vào ngày rằm, thiên tử mặt trăng cũng có thể dùng ánh sáng chiếu nghịch lại, khiến cho nó không thể che khuất được. (Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
190. VÌ SAO MẶT TRỜI NÓNG?
Vì duyên gì nên ánh sáng mặt trời nóng bức? Có mười nhân duyên:
1) Ngoài núi Tu-di có núi Khư-đà-la cao bốn vạn hai nghìn do-tuần, rộng bốn vạn hai nghìn do-tuần, biên núi không ước lượng được; núi được tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
2) Bên ngoài núi Khư-đà-la có núi Y-sa-đà cao hai vạn một nghìn do-tuần, rộng cũng hai vạn một nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi ánh sáng chiếu đến núi này, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
3) Bên ngoài núi Y-sa-đà có núi Thọ-đề-đà-la, bên trên cao một vạn hai nghìn do-tuần, rộng một vạn hai nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
4) Ở ngoài cách núi Thọ-đề-đa-la không xa có núi gọi là Thiện kiến, cao sáu nghìn do-tuần, rộng sáu nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt.
5) Ở ngoài núi Thiện kiến có núi Mã tự cao ba nghìn do-tuần, ngang rộng cũng ba nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt.
6) Ở ngoài cách núi Mã tự không xa có núi Ni-di-đà-la, cao một nghìn hai trăm do-tuần, rộng một nghìn hai trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt.
7) Ở ngoài cách núi Ni-di-đà-la không xa có núi Điều phục, cao sáu trăm do-tuần, rộng cũng sáu trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi áng sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt.
8) Ở ngoài núi Điều phục có núi Kim cương luân, cao ba trăm do-tuần, rộng ba trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát ra nhiệt.
9) Bên trên một vạn do-tuần có cung điện Trời gọi là Tinh tú, tạo thành bởi lưu ly. Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào nó, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
10) Ánh sáng cung điện mặt trời chiếu xuống đại địa, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
(Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 12.Thế Bổn Duyên, số 30)
+ Nguồn các mục trên: TH Lời Phật dậy - Kinh Trường A Hàm
+ Định luật Tiến hóa (Law of Evolution) hay Định luật Tiến hóa Thái Dương: Theo như cách hiểu thông thường – có liên quan đến sự tiến hóa của khía cạnh sắc tướng khi nó dần dần thích hợp để trở thành một tác nhân hay là một biểu hiện của năng lượng linh hồn, và sau đó của năng lượng Chân Thần. (CTNM, 659)
+ Ba Nguyên Lý này cùng nhau tạo thành các yếu tố căn bản của Định Luật Tiến Hóa như con người gọi nó (LVHLT, 534):
1. Nguyên Lý Hạn Định (Principle of Limitation).
2. Nguyên Lý Biểu Lộ theo Chu Kỳ (Principle of Periodic Manifestion).
3. Nguyên Lý Mở Rộng (Principle of Expansion).
– Chúng đưa đến sự giam cầm Sự Sống theo các vẻ ngoài (appearances) hoặc các trạng thái đa dạng của nó; chúng tạo ra các hình thức vây quanh, và chúng dẫn các sự sống bị giam cầm tiếp tục vào các nhà tù ngày càng có giáo dục hơn. Cuối cùng đến lúc mà Nguyên Lý Giải Thoát trở nên linh hoạt và một sự chuyển đổi được thực hiện bên ngoài một nhà tù vốn đang kìm hãm và biến dạng thành một nhà tù cung cấp điều kiện thích hợp cho sự phát triển kế tiếp của tâm thức.
Ở đây, thật là thú vị khi ghi nhận rằng cái chết bị chế ngự bởi Nguyên Lý Giải Thoát, chứ không phải bởi Nguyên Lý Hạn Định. Cái chết chỉ được ghi nhận như một yếu tố được đề cập đến bởi các sự sống hữu ngã thức, và chỉ bị hiểu sai bởi những người, vốn bị mê hoặc (glamoured) nhất và bị lừa dối nhất trong số tất cả các sự sống nhập thể.
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
I- KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Không gian: Minh Triết Cổ dạy rằng “Không gian là một thực thể." Chiêm tinh học nội môn liên quan đến đời sống của thực thể này và đến những mãnh lực và những năng lượng, những xung động và nhịp điệu, những chu kỳ và thời gian và mùa tiết Chiêm tinh học bàn đến.” (CTHNM, 14)
+ Không gian (Space):
- Không gian chính là Thái Uyên (The Deep). (Thư của Ch.S. 379).
- Không gian và vật chất (substance) là các thuật ngữ đồng nghĩa; vật chất là tập hợp các sự sống nguyên tử, nhờ đó mà mọi hình hài được kiến tạo. (CVĐĐ, 105)
- Chân Sư thoát khỏi các giới hạn của thời gian, mặc dù không thoát được các giới hạn của không gian, bởi vì không gian là một Thực Thể vĩnh hằng (eternal Entity) (CVĐĐ, 437)
- Đối với Thái Dương Thượng Đế, không gian, theo sát nghĩa, là dạng thức (form) mà trong đó, các hoạt động hữu thức và mục tiêu của Ngài được hoàn thành – vòng giới hạn Thái Dương. Một cách tương tự, không gian mà trong đó một Hành Tinh Thượng Đế thực thi các kế hoạch của Ngài chẳng khác gì so với không gian thái dương khi tâm thức của Ngài đủ mở rộng để sử dụng. (LVLCK, 281)
+ Thời gian (time):
- Thời gian chính là trình tự các biến thái (modifications) (hay hoạt động – activities, ASCLH, 17) của thể trí, thời gian cũng kết liễu nhường chỗ cho Hiện tại Vĩnh cửu. (ASCLH, 428)
- Thời gian là chuỗi của các sự việc xảy ra (sequence of events) và của các trạng thái ý thức theo sự ghi nhận của bộ óc xác thân. Nơi nào không có bộ óc của thể xác thì những gì mà nhân loại hiểu theo ý nghĩa thời gian (by time) không còn nữa (non–existent). Việc gỡ bỏ các ngăn trở (barriers) của hình hài, hết giai đoạn này đến giai đoạn khác sẽ đưa đến nhận thức ngày càng tăng về Hiện Tại Vĩnh Cửu (Eternal Now). (CTNM, 403–404)
- Trên cõi trí, không có thời gian. (LVHLT, 480)
- “Thời gian” chỉ là một ảo tưởng phát sinh do sự nối tiếp của các trạng thái tâm thức khi chúng ta trải qua kỳ gian Vĩnh Hằng, nơi nào không có tâm thức để cho ảo tưởng có thể phát sinh thì nơi đó sẽ không có thời gian, thời gian “yên nghỉ”. (GLBN I, 110)
- Thời gian và Nghiệp quả là 2 từ đồng nghĩa (Chân Sư DK)
II- KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN THEO PHẬT HỌC
+ Không - Thời gian: Chúng sinh là không gian - Thọ giả là thời gian. Không gian và Thời gian đều không có, đều chẳng tồn tại. Vậy nên Thân xác Ta là giả không phải thật là Ta. Đức Phật dậy Vô ngã tướng - Vô nhân tướng - Vô chúng sanh tướng - Vô thọ giả tướng là vậy. (PS Tịnh Không)
+ Phật dậy Hư Không Là Đồng Và Thế Giới Là Dị: A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
+ Định nghĩa Hư Không - Không Gian
- Hư Không tức Không gian: Khái niệm quan trọng trong đạo Phật. Hư không được hiểu là » không gian « Có 2 thứ không gian:
1. Không gian do sắc thể quy định mà thành và
2. Không gian vô cùng tận - Hư Không.
* Khái niệm đầu thuộc sắc thể (Ngũ uẩn), khái niệm sau là một trong 6 yếu tố (Giới), không có tự tính nhưng lại là cơ sở của mọi sắc thể và của Tứ đại chủng là đất, nước, gió, lửa. Hư không (khái niệm thứ hai) là tính Không, rời mọi sắc thể, thường còn và không thể mô tả nghĩ bàn;
- Hư Không - Khoảng không bao la, gồm có 5 nghĩa: Trùm khắp, thường hằng, không bị ngăn ngại, không phân biệt, dung nạp hết thảy muôn vật. Hoặc:
- Theo Tông kính lục quyển 6, thì Hư không có 10 nghĩa: Không chướng ngại, cùng khắp, bình đẳng, rộng lớn, vô tướng, thanh tịnh, bất động, hữu không, không không, vô đắc; (Nguồn: Định nghĩa Hư Không)
+ Trong không gian vũ trụ này thì chỗ nào cũng có 7 Đại là địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại (nhận thức tư duy, phân biệt). (Nguồn: Chương thứ bảy - Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ Ý nghĩa không gian và Thời gian theo Phật giáo có thể chia làm hai mặt:
- Không gian: Nếu đứng về phương diện không gian thì đạo Phật chủ trương rằng vạn pháp là do nhân duyên hòa hợp mà thành.
- Thời gian: Còn đứng về phương diện thời gian thì vạn pháp là do nhân và quả mà thành tựu.(Nguồn: Mục Lại rơi vào thuyết nhân duyên đối đãi ....)
+ Chữ "kiếp": "Kiếp" chỉ thời gian, ví như các tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp. Chữ kiếp trong Kiếp trược - Thuộc "Ác ngũ trược" cũng hiểu là Thời gian; (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Chữ "Kiếp" trong Ngũ trược Chánh báo/ Thân thể người: Gọi là Thời phần (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.IV)
+ Thời gian Tiểu Kiếp - Trung Kiếp - Đại Kiếp:... Đức Phật bảo A Nan: Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp và không hòa hợp, thì diệt trừ được các nhân sinh tử, đó chính là tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt, chính là chân tâm bản giác thanh tịnh thường trú. HT Tuyên Hóa giảng:
Văn trên đã nói về y báo và chánh báo. “Y báo” là núi sông, đất bằng, nhà cửa, lầu các, phòng xá. “Chính báo” là thân người.
Y báo thì phải chịu trải qua các tiến trình thành, trụ, họai, không. Chánh báo thì phải trải qua các tiến trình sinh, lão, bệnh, tử.... (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.1)
+ Thời gian một kiếp - Tiểu - Trung - Đại Kiếp: Trích ngài A Nan tán thán Đức Phật trong Kinh, sau đoạn giảng về Thức đại. HT Tuyên Hóa giảng Kinh:
Trừ vọng tưởng điên đảo của con từ ức kiếp.
Chẳng trải qua nhiều a-tăng-kỳ kiếp mà được pháp thân. Giảng:
"Trừ– làm tiêu tan vọng tưởng điên đảo của con từ ức kiếp." Một kiếp là 139.600 năm,[125] một ngàn kiếp là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Bốn trung kiếp là một đại kiếp. Ức kiếp ở đây biểu tượng cho con số không thể tính đếm được về thời gian. Từ vô thủy đến nay, vọng tưởng điên đảo đã tiêu tan sạch, từ ngày nay hoặc ngày mai sẽ không còn sinh khởi nữa. Nó sinh khởi cách đây từ vô lượng vô lượng kiếp, tích lũy dần dần từng chút. Đó là những tập khí. Tập khí là bản chất của vọng tưởng điên đảo. Tập khí làm cho vọng tưởng điên đảo sinh khởi. 'Điên đảo' có nghĩa là xem cái thật thành cái giả và nhận cái giả làm cái thật. Họ nhận cái đen làm trắng. Quý vị nói với họ cái ấy trắng thì họ bảo là đen.
Họ làm mọi chuyện đảo ngược. Người ta nghĩ một đường, thì kẻ điên đảo nghĩ một đường khác. Họ luôn luôn muốn có một cách khác người.
Khiến cho con "Chẳng trải qua nhiều a-tăng-kỳ kiếp mà được pháp thân."
'A-tăng-kỳ[126]' là tiếng Sanskrit có nghĩa là 'vô số lượng.' Phải cần đến ba đại a-tăng-kỳ kiếp mới thành tựu Phật quả. Từ sơ phát tâm đến hàng Sơ địa Bồ-tát phải cần một a-tăng-kỳ kiếp. Từ Sơ địa Bồ-tát đến Thập địa Bồ-tát phải trải qua một a-tăng-kỳ kiếp nữa. Từ Bát địa Bồ-tát đến quả vị Diệu giác, thành tựu quả vị Phật phải cần một a-tăng-kỳ kiếp nữa là ba. Thời gian ba kiếp dài vô số lượng nầy là bao nhiêu? Thật là con số lớn lao vô cùng.
A-nan nghe được pháp môn vi diệu mà Đức Phật vừa khai thị, đã khiến cho A-nan được khai ngộ. Do A-nan đã khai ngộ, nên không cần phải trải qua một thời gian dài ba đại a-tăng-kỳ kiếp như vậy mới thấy được Pháp thân.
Nhưng 'thấy được' pháp thân ở đây không phải là chứng ngộ. Đó chỉ là nhận ra được đạo lý về pháp thân. A-nan còn phải tu hành nhiều hơn nữa mới thực sự gọi là chứng được pháp thân. A-nan phải tinh tấn trong công phu nhiều hơn nữa. A-nan đã biết rằng mình không cần phải trải qua một thời gian dài ba đại a-tăng-kỳ kiếp trước khi tu tập thành Phật. A-nan biết rằng chân tâm thường trú thanh tịnh sáng suốt. A-nan biết rằng chính mình và mọi sắc tướng đều là chân tâm sáng suốt nhiệm mầu của Như Lai tạng. Do A-nan đã nhận ra như vậy, ngài biết rằng mình sẽ nhanh chóng thành tựu Phật quả. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Xem thêm: Bàn về thời gian qua Phật giáo
+ Các loại thực thể ám ảnh: Nếu nói chi tiết thì có rất nhiều loại, nhưng tôi chỉ kể ra đây vài loại thôi (Người ít tiến hóa thì có cấu tạo yếu kém nên không thể chống lại được sự ám ảnh này)
1. Những sinh linh hạng thấp đã từ trần, đang chờ đầu thai, có ý muốn và chực chờ cơ hội ám ảnh, ở trường hợp một và hai.
2. Những người tự tử, đang băn khoăn muốn chuộc lại hành động sai lầm này và muốn trở lại cõi trần.
3. Những vong linh quyến luyến cõi trần, dù tốt hay xấu, họ đang khắc khoải âu lo cho những người thân yêu của họ, về công việc làm ăn, hay nóng lòng muốn làm một việc quấy hoặc chuộc lại một hành động độc ác nào đó, họ xâm nhập để chiếm thể xác như trong trường hợp một và hai.
4. Các vị Hắc đạo thường lợi dụng các trường hợp ba và bốn như tôi đã nói. Họ cần những thể đã phát triển cao, chứ không dùng những thể yếu ớt hay chưa được tinh luyện. Trong trường hợp ba, sự yếu kém chỉ là tương đối, do quá chú ý đến thể trí.
5. Những loài tinh linh và những sinh linh thấp kém hơn con người, có tính độc ác, chúng rình rập bất cứ cơ hội cỏn con nào và ở nơi nào chúng thấy có sự rung động tương ứng.
6. Vài loại thiên thần bậc thấp, vô hại nhưng ưa phá khuấy, vì tinh nghịch và đùa giỡn mà tìm cách nhập vào một cơ thể khác giống như trẻ con ưa mặc quần áo lạ kiểu để làm trò.
7. Những du khách từ các hành tinh khác, đôi khi đến và nhập vào một số cơ thể tiến hóa cao vì mục đích riêng. Nhưng trường hợp này rất, rất hiếm hoi…
Giờ đây tôi chỉ cho các bạn một vài phương pháp mà rốt cuộc sẽ là những cố gắng đầu tiên để chữa trị (TVTTHM, 126)
+ Bản chất thông linh hạ đẳng - Lower psychic nature: Bản chất thông linh hạ đẳng là thuật ngữ được dùng trong huyền linh học để chỉ các tiến trình của hạ trí (lower mind processes) cũng như là chỉ các phản ứng tình cảm hay cảm dục (astral or emotional reactions). (ASCLH, 14)
+ Thực Thể Thông Linh (Entity): Sự Sống, Đấng (Being). (TLHNM I, 430)
+ Thực Thể Thông Linh kết hợp: Ba trạng thái này của Thượng Đế, tức Thái Dương hệ tam phân này được mô tả bằng có 3 trạng thái, hay là (theo như Thần học Cơ Đốc giáo) là 3 Ngôi, gồm:
- LỬA ĐIỆN hay TINH THẦN: Ngôi 1: Chúa Cha, Sự Sống. Ý chí. Thiên Ý. Năng lượng dương
- LỬA THÁI DƯƠNG hay LINH HỒN: Ngôi 2: Chúa Con. Tâm Thức. Bác Ái Minh Triết. Năng lượng thăng bằng.
- LỬA do Ma Sát hay Xác Thể hay Vật Chất: Ngôi 3: Chúa Thánh Thần. Sắc tướng. Thông tuệ hoạt động. Năng lượng âm Ba năng lượng của Thái Dương hệ tam phân, tức Thái Dương Thượng Đế, còn gọi là Năng Lượng Trung Ương hay Thần Lực (vì đều đồng nghĩa về phương diện huyền linh) biểu lộ xuyên qua 7 trung tâm lực, gồm 3 trung tâm lực chính yếu và 4 trung tâm lực thứ yếu. Bảy trung tâm này của Thiên Lực được tạo nên để hợp thành các Thực Thể Thông Linh kết hợp. Các Đấng này được biết dưới danh xưng:
a. Bảy Hành Tinh Thượng Đế.
b. Bảy Tinh Quân trước Thiên Toà.
c. Bảy Cung (Rays).
d. Bảy Thiên Đế (Heavenly Men). (Nguồn: LVLCK, 30)
+ TAM PHÂN hay BA NGÔI VÀ CÁC TƯƠNG ỨNG "TRÊN SAO DƯỚI VẬY"
+ Đấng sáng tạo Tam phân theo 3 tiêu trí: Mục đích - Chức năng tam phân - Hoạt động tam phân.....
-Thượng đế Ngôi ba - Brahma, được tiêu biểu bằng trí tuệ linh hoạt; phương cách hành động của Ngài là những gì mà chúng ta gọi là sự quay, hay sự xoay vòng có tính toán của vật chất thuộc Thái dương hệ, trước nhất dưới hình thức một tổng thể vĩ đại, phát khởi chuyển động loại vật chất bị hạn chế bởi toàn bộ vòng giới hạn và thứ hai là phân hoá nó, theo bảy tốc độ hay bảy mức rung động thành ra bảy cõi.....
a. Mục tiêu của Ngài là phối hợp hoàn hảo giữa Tinh thần và vật chất.
b. Chức năng của Ngài là vận dụng vật chất đã biểu lộ (prakriti) để làm cho nó thích hợp hay tương xứng với sự đòi hỏi và các nhu cầu của Tinh thần.
c. Phương cách hành động của Ngài là nhờ chuyển động quay (rotary) hay là nhờ sự xoay (revolution) của vật chất để tăng thêm tính linh động/ tính hoạt động và nhờ đó khiến cho vật chất dễ uốn nắn hơn( ).
Tất cả ba quan niệm này đều do Định luật Tiết Kiệm/ Tương tác hài hòa chi phối, đó là Định luật Thích Nghi (Law of Adap-tation) trong thời gian và không gian, hay là cách làm dễ nhất.....
Chính Ngài tận dụng chuyển động quay của mọi nguyên tử, Ngài đưa thêm vào đó hình thức chuyển động riêng của Ngài hay là chuyển động xoắn ốc có định kỳ, và do sự tuần hoàn theo một quỹ đạo hay là một đường gần hình cầu (đường này chạy vòng theo một điểm tập trung ở giữa bằng một vòng xoắn ốc bao giờ cũng đi lên), hai kết quả được tạo ra:
a. Ngài tập hợp các nguyên tử lại thành hình hài.
b. Nhờ bởi các hình hài này, Ngài có được sự tiếp xúc cần thiết và phát triển tâm thức đầy đủ trên năm cõi tiến hoá của con người, dần dần cải thiện và thanh luyện các hình hài khi mà Tinh Thần Bác Ái hay là Ngọn Lửa Thiêng bao giờ cũng tiến lên theo hình xoắn ốc, hướng về mục tiêu của nó, mục tiêu đó cũng chính là cội nguồn từ đó nó phát xuất......
-Thượng Đế Ngôi Hai tức là Vishnu, Cung Minh Triết Thiêng Liêng, nguyên khí Bồ đề vĩ đại đang tìm cách phối hợp với nguyên khí Thông Tuệ được đặc trưng bởi Bác Ái. Hoạt động của Ngài là hoạt động mà chúng ta có thể gọi là xoắn ốc theo chu kỳ (spiral cyclic). Chính Ngài tận dụng chuyển động quay của mọi nguyên tử, Ngài đưa thêm vào đó hình thức chuyển động riêng của Ngài hay là chuyển động xoắn ốc có định kỳ, và do sự tuần hoàn theo một quỹ đạo hay là một đường gần hình cầu (đường này chạy vòng theo một điểm tập trung ở giữa bằng một vòng xoắn ốc bao giờ cũng đi lên), hai kết quả được tạo ra:
a. Ngài tập hợp các nguyên tử lại thành hình hài.
b. Nhờ bởi các hình hài này, Ngài có được sự tiếp xúc cần thiết và phát triển tâm thức đầy đủ trên năm cõi tiến hoá của con người, dần dần cải thiện và thanh luyện các hình hài khi mà Tinh Thần Bác Ái hay là Ngọn Lửa Thiêng bao giờ cũng tiến lên theo hình xoắn ốc, hướng về mục tiêu của nó, mục tiêu đó cũng chính là cội nguồn từ đó nó phát xuất.
Các hình hài này là toàn thể mọi khối cầu (spheres) hay các nguyên tử trong Thái dương hệ hay trong vòng giới hạn thái dương và trong bảy biến phân chính yếu của chúng, chúng là các bầu của bảy Chơn Linh (Spirits), hay bảy Hành Tinh Thượng Đế.
Tất cả các bầu nhỏ hơn ở cấp độ dưới các bầu chính yếu này, gồm mọi mức độ biểu lộ xuống đến tinh hoa hành khí trên cung giáng hạ tiến hoá ( ).
Chúng ta cần nhớ rằng trên Đường Tiến Hoá giáng hạ, tác động của Brahma được cảm nhận đầu tiên, khi đang tìm kiếm con đường dễ nhất. Trên Đường Tiến Hoá Thăng Thượng, công việc của Thượng Đế Ngôi Hai được cảm nhận bắt đầu từ một điểm trong thời gian và không gian đang ẩn giấu bí nhiệm của dãy thứ hai,....... Do đó :
a. Mục tiêu của Thượng Đế Ngôi Hai là tạo ra tâm thức, phải được hoàn thành trong việc hợp tác với Thượng Đế Ngôi Ba.
b. Chức năng của Ngài là kiến tạo các hình hài để trở thành các dụng cụ thu thập kinh nghiệm của Ngài.
c. Phương cách hành động của Ngài là tiến hành công việc theo chu kỳ và theo đường xoắn ốc, vòng quay của bánh xe sự sống trong các chu kỳ được sắp xếp sẵn cho một mục đích đặc biệt và sự tiến triển của các bầu vật chất này chung quanh một trung tâm cố định, bên trong phạm vi thái dương.
Ba quan niệm này do Định luật Hút chế ngự hay là định luật đang chế ngự sự tương tác, hay là tác động và phản tác động.
-Thượng Đế Ngôi Một (The First Logos). Thượng Đế Ngôi Một là Cung Ý Chí Vũ Trụ. Phương cách hoạt động của Ngài theo nghĩa đen là tiến về trước của vòng giới hạn thái dương xuyên qua không gian, và cho đến cuối kỳ đại khai nguyên này hay ngày của Brahma (chu kỳ Thượng Đế) chúng ta sẽ không thể nhận thức được trạng thái thứ nhất tức trạng thái ý chí hay quyền năng theo đúng bản chất của nó. Ngày nay, chúng ta biết trạng thái đó dưới hình thức ý chí tồn tại (will to exist), biểu lộ qua vật chất của các hình hài (Cung Nguyên Thuỷ và Cung Thiêng Liêng),.... trong kỳ biểu lộ hiện tại của Đấng Con, hay trạng thái Vishnu, chúng ta liên hệ chặt chẽ hơn với Chòm Sao Rua (Pleiades) và ảnh hưởng của chúng xuyên qua Thái dương, và liên hệ với hành tinh chúng ta qua Kim Tinh (Venus).... Thượng Đế Ngôi Một biểu hiện cho “ý chí muốn sống”(“will to live”) .... Ngài là nguyên khí sinh động; trạng thái ý chí muốn sống của bảy Huyền giai. Tuy nhiên, bảy Huyền giai này (như bà Blavatsky nói) là tia sáng minh triết thất phân, con rồng dưới bảy dạng thể (GLBN I, 100-108) ( ). Đây là một bí nhiệm sâu xa ..... Trạng thái Đại Thiên Thần hay Thượng Đế Ngôi Một (biểu hiện cho ý chí vũ trụ) được kiểm soát bởi Định Luật Tổng Hợp, tức định luật vũ trụ chi phối khuynh hướng hợp nhất;....
Do đó, liên quan đến Thượng Đế Ngôi Một, chúng ta có thể tóm tắt như đã tóm tắt với các Thượng Đế Ngôi khác :
a. Mục tiêu của Ngài là tổng hợp các Chơn Linh (Spirits) đang hoạch đắc tâm thức qua sự biểu lộ, còn Ngài, nhờ kinh nghiệm trong vật chất, đang có được phẩm đức (quality).
b. Chức năng của Ngài là nhờ vào ý chí, giữ cho các Chơn Linh đó biểu lộ trong thời kỳ mong muốn, và sau đó tách các Chơn Linh này ra, và phối hợp lại với nguồn cội tinh thần của các Ngài. Do đó về căn bản, cần nhớ rằng Thượng Đế Ngôi Một kiểm soát các Thực Thể vũ trụ hay các Thực Thể ngoài Thái dương hệ; Thượng Đế Ngôi Hai kiểm soát các thực thể thuộc thái dương (solar entities), Thượng Đế Ngôi Ba kiểm soát các thực thể thuộc thái âm (lunar entities) và các thực thể tương ứng của các thực thể này ở nơi khác trong Thái dương hệ......
c. Cách hành động của Ngài là luỹ tiến; ý chí nằm sau sự phát triển tiến hoá là ý chí của Ngài và chính Ngài hướng dẫn Tinh Thần tiến lên thông qua vật chất cho đến khi rốt cuộc Tinh Thần thoát khỏi vật chất, nhờ hoàn thành được hai việc:
Thứ nhất, gia thêm phẩm chất vào phẩm chất, và do đó nổi bật lên, cộng thêm với khả năng thu lượm được mà kinh nghiệm đã sản sinh ra.
Thứ hai, tăng gia độ rung động của chính vật chất bằng năng lượng riêng của nó, để cho vật chất vào thời qui nguyên và lẩn khuất sẽ có được hai đặc tính chính, - đó là tính hoạt động, tức là kết quả của Định Luật Tiết Kiệm và tính thu hút kép (dual magnetism), vốn sẽ là kết quả của Định Luật Thu Hút.
Cả ba quan niệm này đều do Định Luật Tổng Hợp chế ngự, đó là định luật về ý chí hiện tồn có mạch lạc, không những kéo dài trong thời gian và không gian mà còn trong một chu kỳ rộng lớn hơn. ........
Thượng Đế Ngôi Ba là lửa trong vật chất. Ngài cháy bằng sự ma sát và đạt tốc độ và gia tốc mức rung động bằng sự quay của các khối cầu, như vậy, sự tương tác của chúng tạo nên sự ma sát lẫn nhau.
Thượng Đế Ngôi Hai là lửa Thái Dương. Ngài là lửa của vật chất và lửa điện của Tinh Thần, được trộn lẫn, tạo ra trong thời gian và không gian, loại lửa mà chúng ta gọi là lửa thái dương. Ngài là đặc tính của lửa ngọn (flame), hay là ngọn lửa chính yếu được tạo ra bởi sự phối hợp này. Sự tương ứng với lửa này có thể nhận thấy được trong lửa bức xạ của vật chất, thí dụ, trong sự phóng phát từ mặt trời trung ương, từ một hành tinh hay từ con người, mà sự phóng phát sau cùng này được chúng ta gọi là từ điển. Sự phóng phát của con người, hay rung động đặc biệt, là kết quả của sự phối hợp tinh thần và vật chất, cùng với sự thích ứng tương đối của vật chất, hay hình hài, đối với sự sống bên trong. Thái dương hệ biểu lộ hay mặt trời đang biểu lộ là kết quả sự phối hợp của Tinh Thần (lửa điện) với vật chất (lửa do ma sát) và sự phóng phát của Đấng Con, trong thời gian và không gian, thì tuỳ thuộc vào sự thích ứng của vật chất và của hình hài đối với sự sống bên trong.
Thượng Đế Ngôi Một là lửa điện, lửa của Tinh Thần thuần khiết. Tuy nhiên, trong lúc biểu lộ, Ngài là Đấng Con, do sự phối hợp với vật chất (Mẹ) Con được tạo ra bởi Đấng ta đã biết. “Ta và Cha Ta là Một” (Thánh Kinh. John 10:30) ..... (LVLCK, 142 - 150)
I- THEO ĐẠO ĐỜI - ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Quốc Gia: Lập pháp - Hành pháp - Tư Pháp
2. Gia Đình: Cha - Mẹ - Con
II- THEO MINH TRIẾT MỚI
1. Thượng Đế Tam Phân (LVLCK, 64)
2. Thái dương hệ Tam phân (LVLCK, 30)
3. Con Người Tam Phân
+ Nguy hiểm trong tham thiền với Tam phân: (i) Bộ não; (ii) Hệ thần kinh: (iii) Các cơ quan sinh dục. (TTHM)
III- THEO PHẬT GIÁO
1. Phật - Pháp - Tăng = Tam Tạng Kinh điển hay Tam tạng Tỳ kheo
2. Kinh - Luật - Luận = Thường gọi Giới Định Huệ
3. Giới - Định - Huệ/Tuệ
Xem: Tổng hợp các tương ứng của vũ trụ và con người
+ Tóm lược Sách: Tâm Thức Nguyên Tử - Consciousness of the Atom (TTNT/ COA)
+ Lá số sinh: Mỗi người, mỗi tổ chức, đơn vị, mỗi quốc gia đều có Lá số sinh mệnh lập theo ngày giờ sinh ra đời, ngày giờ Quyết định, công bố thành lập tổ chức, đơn vị.
Lá số sinh biểu lộ những năng lượng vũ trụ theo chu kỳ tuần hoàn mà tại thời điểm Ký quyết định và công bố mang tổ hợp năng lượng Thần lực vũ trụ nhất định, mà mỗi loại năng lượng đại diện cho mộ loại phẩm tính và Thần lực. Ở con người là ngũ luân và ngũ thường. Thần lực biểu lộ ngũ phúc.
Có nhiều loại Lá số sinh mệnh: Lá số Tử vi - Tứ trụ/ Bát tự - Chiêm tinh ...
Dự đoán sinh mệnh theo Lá số phân làm hai loại người:
+ Sinh mệnh ngoại môn (Tứ trụ, Tử vi ...): Dùng dự đoán cho nhóm đa số nhân loại hiện nay, những Người chưa tiến hóa hoặc tiến hóa mức trung bình. Họ chưa hình thành Phàm ngã phối kết, các Thể vẫn hoạt động hướng ngoại theo dục vọng Vật chất. Dùng để Dự đoán Vận mệnh của cá nhân, tổ chức, đơn vị ... theo sự tiến hóa Vật chất (Ngoại môn - Tiến hóa xác thân). Mục tiêu số của họ là Tiền tài danh vọng địa vị nơi thế tục, lấy đó là tiêu chuẩn của hạnh phúc án vui. Họ là những người tin họ là Thân xác vật chất, họ xem như chất là hết, họ không tin nhân quả luân hồi tái sanh. Họ tiến hóa qua khổ đau nhiều kiếp sống trước khi có sự Giác ngộ - Tin vào Luân hồi tái sanh là có. Từ đây họ dần từ bỏ con đường Vật chất, tiến dần vào con đường tinh thần.
+ Sinh mệnh nội môn (Chiêm tinh nội môn): Dùng chung Lá số Chiêm tinh ngoại môn, nhưng có thay thế các Hành tinh KHÔNG thánh thiện bằng các Hành tinh Thánh thiện. Pháp này giành cho người tiến hóa trung cao trở nên trong nhân loại, bởi họ đã hình thành Phàm ngã phối kết, Thân Tâm họ đã bắt đầu thoát khỏi các năng lượng của các Ác tinh và thu nhận năng lượng của các Thiện tinh. Họ là những người Chí nguyện sắp bước vào con đường Đệ tử - Con đường đạo hướng đến phụng sự vô kỷ nhân loại qua nhiều kiếp sống, từng bước tiến đến giải thoát luân hồi sinh tử.
* Lá số tử vi của quần chúng: .... Bạn cũng có ba cung quyết định/chuyển biến (signs of crisis) nhờ đó mà mức tiến hóa được định đoạt. Trong mối liên hệ này, cần nên chú ý:
1. Leo-Libra-Capricorn. Tạo thành tam giác của Chúa Cha tức trạng thái ý chí; chúng đánh dấu các mức độ thành đạt, nhờ chuyển biến (crisis) được đáp ứng và đạt được thành công.
2. Cancer-Virgo-Pisces. Tạo thành tam giác của Mẹ tức trạng thái vật chất, được chi phối bởi hoạt động sáng suốt. Chúng báo hiệu các thời điểm của dịp thuận tiện thuộc một loại bên trong nơi mà tâm thức có liên hệ, và do đó bạn có nhận thức về ý thức quần chúng, ý thức cá nhân và tập thể thức.
Một nghiên cứu chặt chẽ về các ý tưởng nói trên sẽ tỏ ra bổ ích trong việc thiết lập các phương pháp và các mối liên hệ; chúng cũng sẽ nêu ra chủ điểm mà các chiêm tinh gia có thể vận dụng khi tìm cách soạn thảo các lá số tử vi của quần chúng. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn)
+ Đây sẽ là một điểm quan trọng cần phải tính đến, vì nhóm các thần bí gia này đang mỗi năm mỗi trở nên mạnh mẽ hơn.
Các Năng Lượng Hành Tinh phát ra từ: 7 hành tinh và Trái Đất và Mặt trăng => Tổng là 9 Hành tinh: Chỉ có một vài điều có thể được lưu ý về tiết đoạn nói về các năng lượng này và về tiết đoạn kế tiếp, vì đây là một loạt các hướng dẫn cho người tìm đạo chứ không phải là một luận thuyết về năng lượng.
- Năng Lượng Mặt Trời (Nơi đầu tiên tiếp nhận các năng lượng vũ trụ đến Thái dương hệ rồi phóng phát tới các Hành tinh) phát ra từ :
a/ Mặt trời vật chất.
b/ Các nguồn vũ trụ.
Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. Vì vậy, một số bạn vốn đã nghiên cứu bộ Luận Về Lửa Càn Khôn có thể nhận thấy các chi tiết sau là đáng chú ý:
1. Các loại devas thấp nhất hay các nhà kiến tạo trên Con Đường Tiến Hóa thăng thượng là các thiên thần màu tím; kế tiếp là các thiên thần màu xanh lá cây, và cuối cùng là các thiên thần trắng (white devas). Tất cả các thiên thần này đều bị chi phối bởi một nhóm đặc biệt thứ tư. Các thiên thần này kiểm soát các tiến trình bên ngoài của sự sống ở cõi trần.
2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. Loại bỏ những sản phẩm được kiểm soát bởi nhiệt (heat) và bạn sẽ đưa nền văn minh của chúng ta đến một trạng thái dừng lại, bạn sẽ đưa mọi phương tiện vận chuyển đến một kết thúc cùng với mọi phương cách chiếu sáng; bạn sẽ vứt bỏ tất cả các nhà máy chế tạo. Ngoài ra, về cơ bản, những sinh linh lửa (fiery lives) này, được tìm thấy trong tất cả những gì bốc cháy, và trong sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Sự sống các Hành: Theo Tooltip "sự sống", thì tất cả vật chất đều có sự sống dù ẩn tàng [Tinh thần ở trung tâm nguyên tử].
Xem thêm: Các phẩm tính của hành tinh Chủ về - Chi phối - Dẫn truyền Cung NL - Quản 4 phương
Xem thêm: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Lửa trong Đại Thiên Địa - Lửa do ma sát (cọ xát) hay lửa sinh động nội tại: Các lửa này làm linh hoạt và đem lại sức sống cho Thái Dương hệ đang biểu lộ. Chúng là toàn bộ hoả xà của Thượng Đế khi hoạt động của Thái Dương hệ được đầy đủ (LVLCK, 51)
+ Lửa do ma sát: Theo ý nghĩa siêu hình là sự kết hợp giữa Tuệ giác hay nguyên khí thứ 6 với Trí tuệ hay nguyên khí thứ 5. Nhờ sự kết hợp hay gắn chặt vào nhau này mà nguyên khí thứ 5 hỗn hợp một phần nào và trở nên thành phần của Chân Thần. Theo ý nghĩa vật chất thì lửa do ma sát có liên quan với tia lửa sáng tạo hay mầm sống vốn khai sinh và tạo ra con người. (GLBN III, 250)
+ Lửa do ma sát (Lửa bên trong của vật chất): Chúng là một hậu quả trứ không phải nguyên nhân. Nó được tạo ra bởi 2 thứ lửa Tinh thần và Trí tuệ (Lửa điện và lửa thái dương) tiếp xúc với nhau qua trung gian vật chất. Biểu lộ trong vật chất như lửa bên trong mặt trời hay các hành tinh hay trong con người. (LVLCK, 68)
- Sự tồn tại: Khi sự tiến hoá chấm dứt, lửa của vật chất (Lửa ma sát) thì không thể nhận biết được. Nó chỉ tồn tại khi 2 thứ lửa kia được kết hợp lại và nó không tồn tại khi chính nó tách ra khỏi chính vật chất.(LVLCK, 68)
+ Nirmathana: Lửa do ma sát, như sự ma sát của hai miếng gỗ. (LVLCK, 602)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
I- Theo Minh Triết Thiêng Liêng:
+ Đại Thiên Thần (Mahadeva): Mahadeva theo nghĩa đen là “Đại Thiên Thần” (“Great Deva”). Thuật ngữ này được áp dụng cho Ngôi Thứ Nhất của Tam Vị Nhất Thể biểu lộ, cho Shiva, trạng thái Hủy Diệt, Đấng Sáng tạo. (LVLCK, 39–40)
+ Đại Thiên Vương: X. Maharaja. + Vishnu: Cái nhập vào vạn hữu, vishanti, là Vishnu; + Brahnu: Đấng bao hàm, vây bọc, đảm trách tất cả là Brahma; + Shiva: Đấng tiềm ẩn trong mọi vật là Shiva. Shiva hôn thụy, ẩn tàng trong mọi vật dưới hình thức mối liên hệ (nexus), ràng buộc, đây là bản chất của dục vọng. Vriniti có nghĩa là bao bọc, phủ bằng một lớp vỏ, ranh giới của các giới hạn hay là chu vi, và như thế có sự hình thành hoặc sáng tạo (của mọi hình hài); và đây là tác động do Brahma chủ trì. Vishanti sarvani chỉ rằng vạn vật nhập vào Nó (It) và Nó nhập vào vạn vật, và đó là Bản Ngã (Self) nối tiếp với nhận thức và Vishnu. Toàn thể của những cái này là Maha-Vishnu. “Maha-Vishnu” là “Chúa tể” của mọi hệ thống thế giới này, được mô tả như là Ishvara, màu trắng, có bốn tay, trang điểm bằng vỏ ốc tù và, cái dĩa, cây gậy, hoa sen, vòng hoa và viên ngọc Kanstubha, toả chiếu phủ xanh và vàng, hình hài bất diệt, vô thuộc tính tuy có linh hồn và ẩn dưới mọi thuộc tính.(LVLCK, 51)
II- Theo Phật pháp: Phật bảo Tỳ-kheo “Có bốn loại Đại Thiên thần, đó là:
“1. Địa thần - 2. Thủy thần - 3. Phong thần - 4. Hỏa thần".
Xưa kia Địa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong đất không có nước, lửa và gió. Lúc đó Ta biết rõ tâm niệm của thần đất này, liền đến bảo rằng: Ngươi đang nảy sanh ra ý nghĩ: Trong đất không có nước, lửa và gió phải không? Địa thần đáp: Trong đất quả thực không có nước, lửa và gió. Lúc ấy Ta bảo rằng: Ngươi chớ nảy sanh ý niệm này là trong đất không có nước, lửa và gió. Vì sao? Vì trong đất có nước, lửa và gió, chỉ vì yếu tố đất nhiều nên lấy đất mà gọi tên.” ... Trong Nước cũng có Đất - Lửa - Gió; Trong Gió cũng có Đất - Lửa - Nước; Trong Lửa cũng có Đất - Nước - Gió. (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Các Thần tứ đại (Thần Chú Lăng Nghiêm): .... Tam muội hải ấn mây quang minh - Sâm la vạn tượng hiện ở trong - Như mộng như huyễn như bọt nước - Hãy quán như sương cũng như điện.
Giảng giải: Chỗ này nói về những vị, Thần gió, Thần nước, Thần không, Thần lửa, Thần đất, đừng cho rằng những vị Thần nầy địa vị nhỏ, phải biết những vị Thần nầy, đều do Phật thị hiện, như :
Thần đất là Phật Tỳ Lô Giá Na (Trung ương) thị hiện,
Thần gió là Phật Thành Tựu ở phương Bắc thị hiện,
Thần lửa là Phật A Di Ðà ở phương Tây thị hiện,
Thần nước là Phật A Súc ở phương Ðông thị hiện,
Thần không là Phật Bảo Sinh ở phương Nam thị hiện.
Vì những vị thần nầy đều là do các đức Phật thị hiện, do đó chúng ta không thể có tâm khinh mạn đối với những vị thần nầy. Vì vậy phải quy mạng kính lễ, đừng cho rằng mình là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, không nên lễ bái các bậc ấy, đó là kiêu mạn tự mãn..... (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa)
+ Các Đại Thiên Thần: Phật bảo Tỳ-kheo “Có bốn loại Đại Thiên thần, đó là: “1. Địa thần. / “2. Thủy thần. / “3. Phong thần./ “4. Hỏa thần. (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Các Thần tứ đại (Thần Chú Lăng Nghiêm): Tam muội hải ấn mây quang minh - Sâm la vạn tượng hiện ở trong - Như mộng như huyễn như bọt nước - Hãy quán như sương cũng như điện.
Giảng giải: Chỗ này nói về những vị, Thần gió, Thần nước, Thần không, Thần lửa, Thần đất, đừng cho rằng những vị Thần nầy địa vị nhỏ, phải biết những vị Thần nầy, đều do Phật thị hiện, như :
Thần đất là Phật Tỳ Lô Giá Na (Trung ương) thị hiện,
Thần gió là Phật Thành Tựu ở phương Bắc thị hiện,
Thần lửa là Phật A Di Ðà ở phương Tây thị hiện,
Thần nước là Phật A Súc ở phương Ðông thị hiện,
Thần không là Phật Bảo Sinh ở phương Nam thị hiện.
Vì những vị thần nầy đều là do các đức Phật thị hiện, do đó chúng ta không thể có tâm khinh mạn đối với những vị thần nầy. Vì vậy phải quy mạng kính lễ, đừng cho rằng mình là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, không nên lễ bái các bậc ấy, đó là kiêu mạn tự mãn.
Bây giờ nói về Thần hải ấn, hải ấn phát quang là cảnh giới một giai đoạn của Thiền tông, khi bạn chứng được hải ấn phát quang tam muội, thì hết thảy hết thảy đều là hình ảnh hải ấn đến trong định của bạn, cho nên nói : ‘’Tam muội hải ấn mây quang minh.’’ Nhập được hải ấn tam muội nầy thì ‘’Sum la vạn tượng hiện ở trong.’’ Tất cả sum la vạn tượng trên thế giới, đều hiển hiện ra tựa như sấm sét, lại tựa như vệ tinh thăm dò không gian, những sự việc khắp nơi toàn thế giới đều hiện ra, cảnh giới này cũng có thể nói như nằm mộng, cũng có thể nói giống như hư huyễn, vì trong đó là pháp hữu vi. Trong Kinh Kim Cang có nói: ‘’Như mộng như huyễn như bọt nước - Hãy quán như sương cũng như điện.’’ Giống như sương vào buổi sáng, cũng như điện quang, như lửa đá, đều không lâu bền, nên nghiên cứu như thế, cho hết lẽ hết tính.......
131. Nan giá na xá ni.
Thuỷ thần danh tự diệu vô cùng
Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công
Năng trừ sinh lão bệnh tử nạn
Nhất thiết tai ương hoá vi trần.
Tạm dịch: Tên của Thủy Thần diệu vô cùng. Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công. Hay trừ nạn sinh già bệnh chết. Tất cả tai ương hóa thành bụi.
132. Bí sa xá.
Hư không diệu dược trị ôn ma
Phong hàn thử thấp táo hoả a
Thời khí lưu hành chuyên nhiễm bệnh
Trì Chú tiêu trừ Ta Bà Ha.
Tạm dịch: Hư không thuốc hay trị ôn ma. Bệnh phong hàn nắng ướt khô lửa. Thời khí lưu hành truyền nhiễm bệnh. Trì Chú tiêu trừ Ta Bà Ha.
133. Tất đát ra.
Kiên trì Địa Thần hộ Ta Bà
Sơn băng thổ liệt tai nạn đa
Tăng tổn bệnh hoạn giai hoạch dũ
Tâm Chú gia bị trừ bách a.
Tạm dịch: Kiên trì Ðịa Thần hộ Ta Bà. Núi lở đất nứt nhiều tai nạn. Bệnh hoạn tăng tổn đều lành hẳn. Tâm Chú gia bị trừ bách bệnh.
134. A kiết ni.
Hoả thần phát nguyện diệt hoả độc
Nhất thiết nhiệt bệnh tận quyên trừ
Phiền não sân hận vô tông ảnh
Thanh lương cam liệt khánh hữu dư.
Tạm dịch: Thần Lửa phát nguyện diệt lửa độc. Tất cả bệnh nhiệt trừ khử sạch. Phiền não sân hận không dấu vết. Cam lồ mát mẻ cứu sống lại.
135. Ô đà ca la nhã xà.
Giải trừ thuỷ độc phong thấp chứng
Ung hoán hư nuy thận tràng anh
Bàn thũng bì phu giới lại tiển
Nhất thiết thống khổ hoá cát trưng.
Tạm dịch: Giải trừ nước độc chứng phong thấp. Tê liệt bại xụi thận ruột bứu. Phù thủng ghẻ lở và cùi hủi. Tất cả thống khổ hóa cát tường.
Giảng giải: ‘’Giải trừ nước độc chứng phong thấp.’’ Nước độc, phong thấp, gió độc, đều có thể giải trừ được.
‘’Tê liệt bại xụi thận ruột bứu.’’ Tê liệt tức là bán thân bất toại, trúng gió không nói được .v.v... Bại xụi là người rất suy nhược, yếu đuối. Thận ruột bứu là tạng thận sinh bứu, hoặc là ruột sinh bứu.
‘’Phù thủng ghẻ lở và cùi hủi.’’ Bị phù thủng, bị bệnh ghẻ và bệnh cùi hủi.
‘’Hết thảy thống khổ hóa cát tường.’’ Tất cả thống khổ đều chẳng còn nữa, đều hóa thành cát tường.
Cho nên thành tâm niệm Chú Lăng Nghiêm, thì bệnh gì cũng đều khỏi, so với Chú Ðại Bi trị bệnh diệu hơn nhiều.
Trong Chú Lăng Nghiêm có các câu Thần chú của Hư Không - Thủy thần - Thổ thần - Hỏa thần - Phong thần (Trang 300) đều dùng để đặc trị các bệnh của con người cũng như bệnh của Trời Đất .... (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa)
Xem thêm: Các vị thần - Bộ thần linh hộ pháp
+ Như Lai tùy thuận Thế gian thị hiện: ........ Tất cả chúng sanh không có thể suy lường đến được. Nay ông làm thế nào biết Như Lai gần nơi ái dục sanh La Hầu La?
Nầy Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn , thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Diêm Phù Đề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện nhập niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ.
Nầy Ca Diếp! Nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thị hiện từ nơi mẹ là Ma-Gia sanh ra, vừa sanh liền đi qua hướng đông bảy bước xướng lên rằng: — trong hàng trời, người, A Tu La, ta là bực tôn thượng hơn cả.
Cha mẹ và trời người thấy thế vừa sợ vừa mừng cho rằng hi hữu. Mà mọi người nói là đứa trẻ nhỏ. Nhưng chính thiệt thời thân của Như Lai đã lìa cách trên đây từ vô lượng kiếp.
Thân của Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương tủy hiệp thành. Vì thuận cách sanh của chúng sanh mà thị hiện làm đứa trẻ.
Đi qua hướng Nam bảy bước là thị hiện muốn làm phước điền vô thượng cho chúng sanh.
Đi qua hướng Tây bảy bước là thị hiện thân nầy là thân cuối cùng không còn sanh tử nữa.
Đi qua hướng Bắc bảy bước là thị hiện đã qua khỏi sự sanh tử của các cõi.
Đi qua hướng Đông bảy bước là thị hiện làm đạo sư cho chúng sanh.
Đi qua bốn hướng cạnh bảy bước là thị hiện dứt diệt các thứ phiền não và bốn loài ma, mà thành đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Đi lên bảy bước là thị hiện không bị vật dơ làm ô nhiễm, như hư không.
Đi xuống bảy bước, là thị hiện rưới mưa pháp dập tắt lửa địa ngục, cho chúng sanh hưởng vui an ổn.
Nơi Diêm Phù Đề, sau khi sanh bảy ngày lại thị hiện cạo tóc, mọi người đều cho rằng Như Lai là đứa trẻ mới cạo tóc lần đầu. Kỳ thiệt, tất cả trời, người, ma vương, Sa môn, Bà la môn, không một ai có thể thấy được đảnh tướng của Như Lai, huống là có người cầm dao đến cạo tóc được. Trong vô lượng kiếp lâu xa về trước, Như Lai đã cạo bỏ râu tóc rồi. Vì muốn tuỳ thuận theo pháp thế gian, nên Như Lai thị hiện cạo tóc.
Cha mẹ đem ta đến miếu thờ trời, ra mắt Đại Tự Thiên. Lúc Đại Tự Thiên thấy Như Lai, liền chấp tay cung kính đứng qua một bên. Từ lâu xa vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa cách vào miếu trời, nhưng vì tuỳ thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
— Diêm Phù Đề, Như Lai thị hiện xỏ lỗ tai, kỳ thiệt, tất cả chúng sanh không ai có thể xỏ lỗ tai Như Lai được, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Lại lấy các châu báu làm bông tai sư tử để đeo vào, kỳ thiệt từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa đồ trang điểm, nhưng vì muốn tuỳ thuận thế gian mà thị hiện việc như vậy.
Rồi vào học đường học tập chữ nghĩa, võ nghệ, nghề nghiệp v.v... kỳ thiệt từ vô lượng kiếp Như Lai đã hoàn toàn rành rẽ tất cả những môn ấy. Xem khắp cả ba cõi, không một ai có khả năng làm thầy của Như Lai được, vì muốn tùy thuận thế gian mà thị hiện vào học đường. Vì thế nên gọi là đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
— cõi Diêm Phù Đề, tùy thuận thế gian mà thị hiện làm Thái Tử, mọi người đều thấy Như Lai là Thái Tử con trai lớn vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia, hưởng sự vui sướng trong cảnh ngũ dục (41). Kỳ thiệt trong vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa sự vui ngũ dục rồi.
Nhà tướng số đoán rằng Thái Tử nếu chẳng xuất gia thời sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương cai trị Diêm Phù Đề, mọi người đều tin lời đoán ấy. Kỳ thiệt, từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ vị Chuyển Luân Thánh Vương mà làm bực Pháp Vương.
Thị hiện nhằm lìa cảnh vui ngũ dục, dạo thành gặp người già, bịnh, chết cùng vị Sa môn, rồi vượt thành xuất gia hành đạo. Mọi người đều cho rằng Thái Tử Sĩ Đạt Đa mới xuất gia. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã xuất gia hành đạo rồi.
Thị hiện thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành đạo, chứng quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Mọi người thấy vậy đều nói quả A La Hán d¬ được không khó. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã thành tựu quả A La Hán rồi.
Vì muốn độ thoát mọi loài chúng sanh, mà thị hiện trải cỏ làm tòa, ngồi nơi đạo tràng dưới cội Bồ Đề hàng phục Ma quân. Đại chúng đều cho rằng Như Lai mới thành đạo, hàng phục Ma quân. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã hàng phục Ma quân rồi. Vì muốn hàng phục chúng sanh cang cường nên thị hiện như vậy.
Như Lai lại thị hiện đại tiện, tiểu tiện, thở ra, hít vào. Mọi người đều cho rằng Như Lai có đại tiện, tiểu tiện và thở. Kỳ thiệt thân của Như Lai đây đều không có những việc ấy, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Lại thị hiện thọ thực phẩm của người dưng cúng, nhưng thiệt ra thân của Như Lai đều không có sự đói khát. Lại thị hiện ngủ nghỉ đồng như chúng sanh, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đầy đủ trí huệ thâm diệu, xa lìa tất cả những sự thế gian như đi, đứng, nằm, ngồi, đau đầu, đau bụng, đau lưng, rửa tay, rửa mặt, súc miệng v.v..., mọi người đều cho rằng Như Lai có các oai nghi như vậy. Nhưng thân của Như Lai đều không có những sự ấy, tay chơn trong sạch như hoa sen, hơi miệng thơm sạch như mùi thơm ưu-bát-la.
Đại chúng cho rằng Như Lai là nhơn loại, mà thiệt thời Như Lai không phải nhơn loại.
Lại thị hiện nhận lấy y phấn tảo, giặt giủ may nhuộm, nhưng từ lâu Như Lai chẳng cần đến cái y ấy.
Nầy Ca Diếp! Dầu Như Lai luôn thị hiện nhập niết bàn tại Diêm Phù Đề nầy. Kỳ thiệt Như Lai chẳng rốt ráo nhập niết bàn, mà chúng sanh cho rằng Như Lai thiệt diệt độ. Phải biết tánh Như Lai thiệt chẳng diệt hẳn, là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi.
Nầy Ca Diếp! Đại Niết bàn là pháp giới của Phật Như Lai.
Như Lai thị hiện ra đời thành Phật, chúng sanh đều nói Như Lai mới thành Phật; nhưng thiệt ra Như Lai chỗ làm đã xong từ vô lượng kiếp rồi, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Nầy Ca Diếp! — Diêm Phù Đề có lúc Như Lai thị hiện chẳng giữ giới cấm, phạm tứ trọng tội, nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai giữ chặt cấm giới chẳng một mảy thiếu xót.
Có lúc thị hiện làm gã nhứt-xiển-đề, nhưng thiệt ra không phải nhứt-xiển-đề. Làm gì có nhứt-xiển-đề mà thành bực vô thượng chánh giác!
Có lúc thị hiện phá hoà hiệp tăng, có lúc thị hiện hộ trì chánh pháp, mọi người đều phải kinh quái.
Có lúc thị hiện làm Ma vương Ba tuần, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đã lìa ma sự, trong sạch không nhi¬m như hoa sen.
Có lúc thị hiện thân gái thành Phật, mọi người đều nói, rất lạ cho người nữ mà có thể thành Phật. Phải biết Như Lai trọn hẳn không thọ thân gái, vì muốn điều phục vô lượng chúng sanh nên hiện thân gái. Và cũng vì thương xót chúng sanh mà hiện nhiều thứ thân, cho đến hiện thân A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục, để độ chúng sanh trong các loài ấy.
Lại thị hiện làm Phạm Thiên Vương để cho người thờ Phạm Thiên vào trong chánh pháp, nhẫn đến thị hiện các thân trời khắp các miếu trời cũng vì mục đích ấy. Nhưng thiệt ra Như Lai không phải Phạm Thiên, không phải thân trời.
Có lúc thị hiện vào nhà gái dâm, nhưng Như Lai thiệt không có niệm dục, lòng Như Lai trong sạch không nhiểm ô như hoa sen, vào đấy để tuyên thuyết diệu pháp cho hạng người say mê sắc dục.
Lại thị hiện vào nhà thanh y, để giáo hóa hạng nô tỳ cho chúng nó được trụ nơi chánh pháp.
Lại thị hiện làm bác sĩ để dạy học trò, thị hiện chơi bài bạc để độ hạng người bài bạc, thị hiện thân chim thứu để độ loài thứu, lại thị hiện làm trưởng giả để an lập mọi người trụ nơi chánh pháp, thị hiện làm vua, làm quan, để dìu dắt nhơn dân tu chánh pháp.
Lại thị hiện tật dịch (42) tại nơi Diêm Phù đề, rồi trước thí thuốc cho bịnh nhơn, sau giảng dạy đạo pháp. Lại thị hiện cơ cẩn tai, trước bố thí cơm áo, sau tuyên truyền diệu pháp. Lại thị hiện đao binh tai, rồi thuyết diệu pháp.
Lại thị hiện vì hạng chấp thường mà giảng pháp vô thường, vì hạng chấp lạc mà giảng pháp khổ, vì hạng chấp ngã mà giảng pháp vô ngã, vì hạng chấp tịnh mà giảng pháp bất tịnh. Vì người tham chấp ba cõi, mà thuyết pháp cho họ xa lìa ba cõi, vì độ chúng sanh mà tuyên thuyết diệu pháp vô thượng, trồng cây pháp dược vô thượng để thay cây phiền não, di¬n nói chánh pháp để cứu bọn ngoại đạo tà kiến. Dầu thị hiện làm thầy chúng sanh, nhưng Như Lai trọn không có quan niệm là Thầy.
Đức Như Lai chánh giác an trụ đại bát niết bàn như vậy, nên gọi là thường trụ không biến đổi.
Cũng như thị hiện ở Diêm Phù Đề, ở Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu, nhẫn đến ở khắp cõi đại thiên, Như Lai đều thị hiện như vậy. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói rộng. Vì lẽ ấy nên gọi là đại bát niết bàn.
Nếu có vị đại Bồ Tát an trụ đại bát niết bàn như vậy, thời có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hóa như trên, mà trọn không có chút chướng ngại cùng e sợ.
Nầy Ca Diếp! Do nhơn duyên trên đây, ông chẳng nên nói rằng La Hầu La là con trai của Phật, vì từ vô lượng kiếp. Như Lai đã lìa hẵn dục nhiễm, nên Như Lai gọi thường trụ không biến đổi". (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Chiêm tinh - Chiêm đoán Thiên thời - Đại Thiên thần:
Phật bảo Tỳ-kheo “Có bốn loại Đại Thiên thần, đó là: “1. Địa thần. / “2. Thủy thần. / “3. Phong thần./ “4. Hỏa thần.
Xưa kia Địa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong đất không có nước, lửa và gió. Lúc đó Ta biết rõ tâm niệm của thần đất này, liền đến bảo rằng: Ngươi đang nảy sanh ra ý nghĩ: Trong đất không có nước, lửa và gió phải không? Địa thần đáp: Trong đất quả thực không có nước, lửa và gió. Lúc ấy Ta bảo rằng: Ngươi chớ nảy sanh ý niệm này là trong đất không có nước, lửa và gió. Vì sao? Vì trong đất có nước, lửa và gió, chỉ vì yếu tố đất nhiều nên lấy đất mà gọi tên.” ... Trong Nước cũng có Đất - Lửa - Gió; Trong Gió cũng có Đất - Lửa - Nước; Trong Lửa cũng có Đất - Nước - Gió.
Mây có bốn thứ: một là màu trắng; hai là màu đen; ba là màu đỏ; bốn là màu hồng.
- Mây có màu trắng vì yếu tố đất đặc biệt nhiều;
- Mây có màu đen vì yếu tố nước đặc biệt nhiều hơn;
- Mây có màu đỏ vì yếu tố lửa đặc biệt nhiều hơn;
- Mây có màu hồng vì yếu tố gió đặc biệt nhiều hơn.
Mây cách mặt đất từ 20 dặm, 30 dặm, 40 dặm, cho đến bốn ngàn dặm; ngoại trừ kiếp sơ, còn sau đó thì mây lên đến cõi Quang âm thiên.
Chớp có bốn loại: Chớp ở phương Đông gọi là thân quang; chớp ở phương Nam gọi là Nan hủy; chớp ở phương Tây gọi là Lưu diễm; chớp ở phương Bắc gọi là Định minh. Có lúc Chớp các phương chạm nhau, vì những nhân duyên này nên mây giữa hư không sinh ra ánh chớp.
Vì sao mây ở giữa hư không lại sinh ra sấm chớp? Vì ở giữa hư không có khi địa đại cùng với thủy đại chạm nhau, có khi địa đại cùng với hỏa đại chạm nhau, có khi địa đại cùng với phong đại chạm nhau, có khi thủy đại cùng với hỏa đại chạm nhau, có khi thủy đại cùng với phong đại chạm nhau; vì những nhân duyên này mà mây giữa hư không sinh ra sấm chớp.
Thầy Tướng đoán thời tiết sai: “Có năm lý do mà các thầy tướng không thể tiên đoán và không thể biết được một cách chắc chắn về mưa nên dẫn đến việc sai lầm trong lúc đoán:
1- Trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa; nhưng vì hỏa đại nhiều nên nó thiêu hủy mây đi, vì vậy mà không mưa. Đó là lý do thứ nhất khiến cho các thầy tướng đoán sai lầm.
2- Trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng vì phong đại nổi lên, thổi mây bay tứ tán vào trong các núi, vì lý do này nên khiến cho các thầy tướng đoán sai lầm.
3- Trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng bấy giờ Đại A-tu-luân (A Tu La) đem phù vân (Đám mây nổi tụ tán, biến hóa khó lường) đặt giữa biển cả, vì lý do này mà thầy tướng đoán sai lầm.
4- Trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng vì thần mây, thần mưa đang buông lung dâm loạn, nên rốt cùng không làm mưa, vì lý do này nên thầy tướng đoán sai lầm.
5- Trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng vì mọi người trong thế gian hành động buông lung phi pháp, làm hạnh bất tịnh, tham lam, keo kiệt, ghen ghét, kiến giải điên đảo, nên khiến trời không mưa xuống, vì lý do này nên thầy tướng đoán sai. Đó là năm lý do làm cho các thầy tướng không thể biết để đoán mưa một cách chắc chắn được.” (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Lá số sinh mệnh:
A- Với người chưa tiến hóa - Sống thuận theo vật chất
I- Theo Dịch học đông phương - Pháp công truyền.
1. Lá số Tử vi (Ví dụ): ..... Chính trong mối liên hệ với các hành tinh đang chi phối Sagittarius, về mặt ngoại môn lẫn nội môn, và nhớ rằng cùng các luồng năng lượng căn bản sẽ phải được ghi nhận liên quan với mọi cung khác mà một người có thể chọn lâm phàm trong đó. Chúng ta thấy rằng chúng ta sẽ phải xét:
1. Cung Thái Dương (Sun sign) ‒ Trong trường hợp này Sagittarius chi phối các trường hợp, báo hiệu sự kế thừa và thúc đẩy hoàn cảnh để minh giải về chủ thể.
2. Cung mệnh (Rising sign) – Sự thăng tiến (ascendent) có thể ở một trong số mười một cung khác.
3. Thập Giá Khả Biến ‒ Bốn năng lượng đang gặp nhau “ở điểm giữa” và có một ảnh hưởng hợp nhất và rõ rệt trên chủ thể. Cách diễn đạt trên cũng áp dụng cho hai Thập Giá kia.
4. Các Hành Tinh Chính Thống (Orthodox Planets). Các hành tinh này có ảnh hưởng tới phàm ngã. Trong trường hợp này chúng ta có Mercury và Jupiter. Mười hai cung (houses) được chi phối bởi các hành tinh cũng có tầm quan trọng hàng đầu theo quan điểm của năng lượng truyền đạt.
5. Các Hành Tinh Nội Môn (Esoteric Planets). Các Hành Tinh này mang lại năng lượng hành tinh đổi mới ngày càng tăng và năng lượng cung theo một cách năng động hơn. [Trong trường hợp của Sagittarius, các năng lượng này là Venus, Mặt Trăng, Địa Cầu và Pluto]
2. Lá số Tứ trụ/ Bát tự:
II- Theo Chiêm tinh học công truyền/ Thông thường và bí truyền
Lá số Chiêm Tinh (horoscope): của một người là bản đồ thể hiện vị trí các hành tinh và các Cung Hoàng đạo trên bầu trời vào thời điểm một người được sinh ra đời, nhìn từ trái đất (địa tâm).
Cung Mặt trời: Ba yếu tố quan trọng trong lá số chiêm tinh nội môn là Cung Mặt Trời (Sun Sign), Cung Mọc (Ascendant hay Rising Sign), và Cung Mặt trăng (Moon Sign).
Cung Mặt trăng: Là Cung Hoàng Đạo mà Mặt trăng ở trong đó vào thời điểm một người sinh ra đời.
Cung Mọc (Rising Sign): Là Cung hoàng đạo xuất hiện trên đường chân trời vào lúc một người sinh ra đời.
Vị trí các hành tinh của thái dương hệ như Kim tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh … trong lá số chiêm tinh đều có ý nghĩa khác nhau.
Khi nào dùng chiêm tinh học nội môn và khi nào dùng chiêm tinh học thông thường? Mỗi môn đều có ứng dụng khác nhau và bổ sung cho nhau trong việc nghiên cứu con người ... chiêm tinh học ngoại môn liên quan đến cuộc sống, đến phàm ngã. Khi bạn muốn tìm hiểu nghể nghiệp thích hợp của ai đó, ngày tốt, xấu, bệnh tật, tai nạn, gia đình, hoàn cảnh thì bạn dùng chiêm tinh học ngoại môn. Khi bạn nghiên cứu về mục đích của linh hồn trong kiếp sống, những điểm yếu mà bạn cần khắc phục, những điểm bạn cần trau dồi để ngày càng tiếp xúc hơn với linh hồn của bạn, bạn dùng chiêm tinh học nội môn. Cả hai môn học đều dùng chung lá số nhưng cách giải thích sẽ khác nhau.
Chiêm tinh học nội môn bắt đầu với quyển sách Esoteric Astrology của Chân sư DK, và từ đó đến nay rất nhiều người đã nghiên cứu để áp dụng vào việc giải thích lá số chiêm tinh theo quan điểm nội môn.
Chiêm tinh học Chính thống hay Công truyền chỉ quan tâm đến cuộc sống bên ngoài của phàm ngã. Nó thường được tham khảo để “tư vấn về vận mệnh“ của cá nhân, để có được thông tin có thể được sử dụng để làm cho một cuộc sống trần gian sung túc và hạnh phúc hơn. Nó đề cập với các sự kiện, diễn biến, và hoàn cảnh của môi trường xung quanh.
Bạn có thể nói nó là chiêm tinh học của đời sống vật chất, và là phương pháp chiêm tinh học đúng đắn để sử dụng cho những người bình thường, người chưa có sự tiếp xúc có ý thức với linh hồn của mình.
Chiêm tinh học Công truyền tập trung vào cuộc sống của phàm ngã, được đại diện bởi Cung Mặt trời. Mặt trời là trung tâm của lá số chiêm tinh công truyền, giống như phàm ngã chi phối tất cả và mạnh mẽ vào giai đoạn đầu của con đường tiến hóa. Các mãnh lực phàm ngã được phân phối qua các thể thấp, được đại diện bởi Mặt trăng, Thủy tinh, Kim tinh và Hỏa tinh, và các mãnh lực kết hợp của chúng được phân phối vào môi trường, được tượng trưng bằng các nhà (houses). Các hành tinh công truyền nhóm lại xung quanh Mặt trời, đại diện cho tâm thức về bản chất phàm ngã.
Việc khảo sát lá số chiêm tinh sẽ chỉ tập trung vào những hành tinh này (và cũng bao gồm cả sao Mộc tinh và Thổ tinh) sẽ chỉ ra chính xác các tình huống đời sống bên ngoài, số phận và định mệnh của một người chưa bước vào Con đường phát triển Tinh thần.
Một người như thế vẫn còn phải tích hợp các thể trở thành một tổng thể mạnh mẽ (phàm ngã), và y còn thiếu một ý chí mạnh mẽ để phát triển. Như một hệ quả, họ không thể có tác động mạnh mẽ lên cuộc sống. Thay vào đó, họ bị định hình bởi hoàn cảnh mà họ được sinh ra, bởi môi trường mà họ đang sống. Họ thường ít di chuyển, chết gần với nơi sinh ra. Tâm thức của họ là tâm thức bầy đàn, và có định hướng gia đình. Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi phàm ngã phát triển. Nhưng chừng nào mà tâm điểm còn là vật chất, lá số công truyền là hướng dẫn chính xác nhất cho cuộc sống.
Chiêm tinh bí truyền là khoa học của linh hồn. Linh hồn đại diện cho khía cạnh Bác ái và Minh triết của Thượng đế và luôn luôn hướng tới điều tốt đẹp hơn. Chiêm tinh học bí truyền tiết lộ cho ta công việc phải được thực hiện trong tâm thức, để những điều tốt đẹp hơn này được tiết lộ, và nhờ đó mà mang lại lợi ích cho cộng đồng rộng lớn hơn. Xác định mục đích của linh hồn thông qua việc nhận dạng của Cung Linh hồn, và thông qua chiêm tinh học, thực hiện mục đích này vào cuộc sống.
B- Với người đã tiến hóa - Sống hướng đến tinh thần, buông xả vật chất, phụng sự thế gian
Hiện chỉ có pháp môn Chiêm Tinh Học Bí Truyền của Chân Sư DK mới là pháp có liên hệ và định hướng đến Linh hồn. Những người tiến hóa họ dần thoát khỏi sự chi phối năng lượng của các Hành tinh không thánh thiện, nhận năng lượng từ các Hành tinh Thánh thiện để tiến bước trên con đường đạo, hướng đến giải thoát luân hồi (Nguồn: Trích tài liệu MFVN)
+ Chu kỳ Tinh đẩu: Đúng là các Chu kỳ ngoại môn của mọi quốc gia đều được chính xác dẫn xuất từ và tỏ ra tùy thuộc vào các chuyển động tinh đẩu. Các chuyển động tinh đẩu có liên hệ bất khả phân ly với số phận của các quốc gia và nhân loại.
Nhưng theo ý nghĩa thuần túy vật chất, ...* Các tinh cầu chính tâm và tâm sai, nguệch ngoạc qua các chu kỳ và ngoại luân. (GLBN, Tr 685)
+ Dụng tâm với Hành tố - Lửa nóng giận: ... Chẳng hạn, một người có tánh rất nóng, một khi ngọn lửa tự tánh của người ấy bộc phát mạnh thì thực chất của anh ta dễ dàng biến thành than ngay. Lửa của tự tánh rất mạnh, nó có sức nóng thật khủng khiếp, và như vậy, thực chất cũng dễ bị đốt cháy. Con người bao gồm các yếu tố kim loại, gỗ, nước, lửa và đất, nếu họ thường xuyên tiếp xúc và dốc hết tâm ý vào một yếu tố nào thì họ sẽ biến thành yếu tố đó. Điều đó xảy ra là do tư tưởng cố chấp tham trước... (Nguồn: Kinh Thủ LN 7- HT Tuyên Hóa)
+ Lửa nóng giận - Lửa tự tánh: ... Chẳng hạn, một người có tánh rất nóng, một khi ngọn lửa tự tánh của người ấy bộc phát mạnh thì thực chất của anh ta dễ dàng biến thành than ngay. Lửa của tự tánh rất mạnh, nó có sức nóng thật khủng khiếp, và như vậy, thực chất cũng dễ bị đốt cháy. Con người bao gồm các yếu tố kim loại, gỗ, nước, lửa và đất, nếu họ thường xuyên tiếp xúc và dốc hết tâm ý vào một yếu tố nào thì họ sẽ biến thành yếu tố đó. Điều đó xảy ra là do tư tưởng cố chấp tham trước... (Nguồn: Kinh Thủ LN 7- HT Tuyên Hóa)
+ Giới giáng hạ tiến hóa (Involutionary kingdom): Giới Tinh linh (elemental kingdom) tức là giới giáng hạ tiến hóa. (LVHLT, 466)
+ Cung giáng hạ tiến hóa: Là thuật ngữ được dùng để chỉ phần đầu của diễn trình tiến hóa. Nó bao hàm “con đường đi xuống” hay giáng xuống của Tinh thần vào vật chất trọng trược từ trước đến giờ cho đến khi đạt tới điểm thấp nhất, điểm cố kết trọng trược nhất. (LVLCK, 95)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
+ Con đường quy nguyên: Như người ta biết rõ, nhà huyền linh học hoạt động theo khía cạnh tiến hóa thăng thượng hay liên quan đến Con đường Qui Nguyên.(LVLCK, 987)
+ Bốn giai đoạn của Con đường Qui Nguyên:
a/ Chính giai đoạn tiến hóa.
b/ Giai đoạn Con đường Dự
c/ Giai đoạn Con đường Đệ tử.
d/ Giai đoạn Con đường Điểm đạo.(CVĐĐ, 476)
+ Nhờ con đường Quy nguyên, nhân loại được rút ra khỏi sự chú trọng vào ngoại cảnh, bắt đầu nhận ra và ghi nhận các tri thức hữu thức nội tâm của những gì không có tính chất hiện tượng, để rồi, nhờ vào diễn trình tiến hóa, đạt được một trình độ phát triển mà trong đó một số người có thể noi theo con đường này từ ý thức hồng trần (physical consciousness) đến ý thức tình cảm và từ ý thức tình cảm (emotional consciousness) đến ý thức trí tuệ (mental consciousness). (GDTKNM, 27)
+ Con đường ly nguyên đưa vào vật chất. (CTHNM, 569)
+ Con đường ly nguyên: Huynh đệ hắc đạo dồn hết thì giờ vào các mãnh lực giáng hạ tiến hóa, hay là Con Đường Ly Nguyên. (LVLCK, 987)
+ Cung thăng thượng: Nửa sau của diễn trình tiến hóa được gọi là cung thăng thượng tiến hóa và đánh dấu việc tiến lên hay quay về của Tinh thần đến cội nguồn xuất phát của nó, cộng với các thu thập được của diễn trình tiến hóa. (LVLCK, 95) Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
Giống như trong mọi biểu lộ (manifestation), diễn trình tiến hóa là kết quả của ý muốn (desire), tác động lên các khả năng sáng tạo (creative faculities) và tạo ra những gì biểu lộ ra ngoại cảnh (objective). (LVLCK, 924)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
+ Đần độn, khờ khạo và già lẫn (Imbecility, idiocy and senil decay): … Nên nhớ rằng, trong các trường hợp đần độn, khờ khạo và trong giai đoạn luống tuổi mà chúng ta gọi là già lẫn, đường dây (thread) gắn chặt vào não bị triệt thóai (withdrawn) trong khi đường dây chuyển (convey) xung lực sự sống vẫn còn bám trụ vào tim. Có sự sống nhưng không có hiểu biết sáng suốt; có sự hoạt động (movement) nhưng không có định hướng khôn ngoan. Trong trường hợp già lẫn, có lúc dường như có một bộ máy thuộc loại cao cấp được vận dụng trong đời sống, dường như có hoạt động sáng suốt, nhưng đó là một ảo tưởng do bởi thói quen cũ và do nhịp điệu đã được thiết lập từ xưa mà không phải do ý định (purpose) có phối kết chặt chẽ tạo ra. (LVHLT, 497)
- Người sơ khai: Các nhà huyền linh học vốn vững tin vào các giáo lý của Minh triết Nguyên thủy đã bác bỏ các bài bác của các nhà thần học lẫn các nhà khoa học. Các nhà huyền linh học chủ trương rằng ngay vào thời kỳ mà trái đất còn nóng bỏng, thậm chí ở hai cực nữa, với những cơn ngập lụt liên tiếp làm xáo trộn các thung lũng và thường xuyên tạo ra thay đổi của các vùng nước và biển mênh mông, các tình trạng đó cũng không thể gây trở ngại cho sự sống và cơ cấu đối với con người sơ khai. Tính chất hỗn tạp của môi trường chung quanh, đầy dẫy các chất khí độc hại cũng như các hiểm họa của lớp vỏ địa cầu vừa mới đông đặc, tất cả đều không thể ngăn được Giống Dân Thứ Nhất và Thứ Hai xuất hiện, ngay cả trong Kỷ Thạch Thán (cách nay 360 triệu–295 triệu năm–ND) hay chính Kỷ Silur (cách nay 435 triệu–410 triệu năm–ND). (GLBN III, 157–158)
+ Người chưa tiến hóa: Nơi người kém tiến hóa, thể hạ trí ít có đường nét rõ ràng, đó là một số lượng nhỏ chất trí ô hợp, nhất là của các cõi phụ thấp nhất của cõi trí (cõi phụ thứ bảy–ND). Thể này vẫn hầu như bất động trừ khi nó bị kích động bởi các rung động của thể cảm dục, ngay cả khi bị kích thích, nó cũng đáp ứng lại một cách lờ đờ… Thể hạ trí pha trộn chặt chẽ với thể cảm dục đến nỗi hai thể tác động như là một thể đơn độc.
Người tiến hóa chưa bước vào đường Đạo, gồm: người có Tâm Thức Arya: Con người Thông minh – Sự Biệt Ngã Phàm ngã: Nơi những người tiến bộ hơn của thế giới ngày nay, chúng ta có sự hoạt động của thể trí; điều này được nhận thấy trong một quy mô lớn ở nền văn minh phương Tây của chúng ta .... Và: Những người chí nguyện: Họ đang trở nên ý thức với loại năng lượng cơ bản thứ năm – là năng lượng của linh hồn..... (Nguồn: GQ1. Con người và Tâm thức. Xem: Tổng hợp về Tiến hóa)
+ Tâm Thức Lemuria: Con người Vật Chất Chưa Tiến Hóa
1. Cuộc hành trình bắt đầu. Ở trình độ này, con người chủ yếu là một con vật không thông minh. Trạng thái rời rạc của linh hồn (con người) ngự bên trong và thấm nhuần hình thể con người, và cung cấp cho con người bất kỳ ý thức con người thực sự nào đó – là trì trệ, còn phôi thai và chưa được tổ chức. Nó thiếu trí tuệ như chúng ta hiểu về điều đó, và chỉ được nhận ra bởi một sự đồng hóa hoàn toàn với hình thể vật chất cùng các hoạt động của nó. Tâm thức này bao gồm những người man dã cấp thấp và nhiều nông dân thuần túy nông nghiệp, những người không ở dưới nền giáo dục hiện đại. Con người ở giai đoạn này tốt đẹp hơn một con vật một chút và bị chi phối bởi những ham muốn và bản năng vật chất. Có một vài người còn lại trên trái đất. 2. Hết kiếp này đến kiết khác trôi qua, và từ từ năng lực đồng hóa hữu thức gia tăng, với một ham muốn ngày càng tăng đối với một phạm vi thỏa mãn lớn hơn. Toàn bộ các mãnh lực của sự sống được tập trung vào thể xác, và các ham muốn được biểu lộ lúc đó là những ham muốn vật chất; đồng thời có một xu hướng ngày càng tăng hướng tới những ham muốn tinh tế hơn, đó là những ham muốn do thể cảm dục gợi lên. Dần dần, sự đồng hóa của linh hồn với hình tướng chuyển từ bản chất xác thịt sang bản chất cảm dục. Không có gì có mặt tại thời điểm này có thể được gọi là một phàm ngã cả. Chỉ có một thể xác đang sống, hoạt động, với các đòi hỏi và ham muốn của nó, các nhu cầu và các thèm khát của nó, kèm theo một sự chuyển di tâm thức rất chậm nhưng đều đặn ra khỏi hiện thể vật chất vào trong hiện thể cảm dục. (Xem: Tổng hợp chi tiết về tâm thức)
+ Định nghĩa Tiến hóa (Tiến hóa thăng thượng - THTT):
+ Như là “khai mở năng lực đáp ứng luôn luôn tăng tiến” hoặc như là “sự phát triển theo chu kỳ” hoặc như là thay đổi có sắp xếp và không ngừng biến đổi. (TTCNT, 20, 22, 23)
+ TH Thăng Thượng để diễn tả sự phát triển từ từ trong thời gian và không gian của khả năng nội tại của một con người, của một Hành Tinh Thượng Đế và của Thái Dương Thượng Đế. (LVLCK, 234)
+ Là sự nhạy cảm với ánh sáng và sự giác ngộ ngày càng tăng thêm đều đặn. (LV7C, 642)
+ Phương pháp THTT chỉ là phương pháp điều chỉnh khía cạnh vật chất cho thích ứng với khía cạnh tinh thần ngõ hầu khía cạnh vật chất tỏ ra hoàn toàn thích hợp là một thể biểu hiện cho khía cạnh tinh thần. (LVLCK, 231)
+ Mọi Linh hồn đều tương tự với Đại hồn (LVLCK, 32)
+ Mục tiêu của tiến hóa (LVLCK, 33):
- Mục tiêu tiến hoá của nguyên tử là ngã thức như được minh hoạ trong giới nhân loại.
- Mục tiêu tiến hoá của con người là tập thể thức như được tiêu biểu bởi một Hành Tinh Thượng Đế.
- Mục tiêu đối với Hành Tinh Thượng Đế là Thiên Thức / Thượng Đế thức, như được tiêu biểu bởi Thái Dương Thượng Đế.
- Thái Dương Thượng Đế là toàn thể mọi trạng thái tâm thức trong Thái dương hệ
+ Mục đích của tiến hóa là đạt được tâm thức trên tất cả các cõi (LVLCK, 286)
+ Mục đích của tiến hóa: Xét về con người trên cõi hồng trần, mục đích của tiến hóa là trở thành con người hoàn toàn quân bình, có đủ các nam tính như ý chí và minh triết cùng các nữ tính như trực giác và tình thương. (VLH, 144)
+ Phương pháp tiến hóa (Method of evolution): Phương pháp tiến hóa được xem như là một phương pháp kép. Con người được dạy rằng y tiến hóa và trở nên hiểu biết trước tiên nhờ có năm giác quan, sau đó, nhờ sự phát triển khả năng phân biện (faculty of discrimination), kết hợp với lòng vô sở dục (coupled with dispassion). (TTCNT, 106)
+ Vạn vật đều có nguồn cội từ Tinh thần – thoạt tiên, sự tiến hóa bắt đầu từ trên và tiến xuống dưới, thay vì ngược lại như thuyết của Darwin đã giảng dạy.(GLBN III,177)
- Giai đoạn chế ngự của nốt Tinh Thần là giai đoạn Tiến hóa thăng thượng thuộc các cõi cao. (LVLCK, 275)
+ TIẾN HÓA LÀ NỖ LỰC ĐI LÊN— EVOLUTION IS STRIVING UPWARDS
+ Nếu Bản Ngã tồn tại - và điều này phải được thể hiện - và nó là Linh Hồn ý thức thiêng liêng, liệu nó có thể không ý thức về cõi hồng trần cũng như những liên hệ thiêng liêng của nó? Nếu nó là năng lượng chủ đạo, tạo nên tất cả biểu hiện—và điều này cũng phải được chứng minh—liệu năng lượng đó có thể không thích ứng với cấu trúc [Trang 29] mà nó sử dụng theo một cách thông tuệ và quan trọng để có thể đạt được những kết quả tốt nhất? Liệu những kiến thức khoa học của phương Tây về sắc tướng, và minh triết phương Đông được tích lũy và thừa hưởng về bản chất của Linh Hồn có thể được kết hợp lại cùng với nhau một cách thông minh để cho biểu đạt hoàn hảo của Linh Hồn có thể được tạo ra qua trung gian của cơ chế đó? Liệu vật chất có thể tiến lên hướng đến tâm trí và Linh Hồn và Tinh Thần - hãy gọi nó bằng tên nào bạn muốn - và liệu Tinh Thần có thể, hỗ trợ sự thúc giục tiến lên đó, hoàn thiện phương tiện mà thông qua đó nó thể hiện, và vì thế chiếu sáng rạng rỡ hơn? (LHVCCCCN/ SAM 29)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
+ Các giác quan: Có 10 giác quan gồm hai loại:
a. 5 cơ quan cảm giác ........ Jnanendriya
1. Tai .............................. Thính giác
2. Da ............................... Cảm nhận bằng xúc giác
3. Mắt ............................ Thị giác
4. Lưỡi ............................ Vị giác
5. Mũi ............................ Khứu giác
b. 5 cơ quan hành động ....... Karmendriya
1. Miệng ............................ Nói
2. Tay ............................. Nắm
3. Chân ............................. Đi
4. Hậu môn ......................... Bài tiết
5. Bộ phận sinh dục ............... Sinh sản (LVLCK, 194)
+ TIẾN HOÁ GIÁC QUAN TRONG TIỂU THIÊN ĐỊA (LVLCK, 188; 5 Cõi phụ lớn_Hương ghi chú)
Cõi Hồng trần…
1. Thính giác……......... thứ 5…..... thể hơi
2. Xúc giác, cảm giác.... thứ 4…… dĩ thái 1
3. Thị giác ...........……. thứ 3……. siêu dĩ thái
4. Vị giác …..........…... thứ 2…….. á nguyên tử
5. Khứu giác … ........... thứ 1 …… nguyên tử
Cõi cảm dục…
1. Nhĩ thông…………… thứ 5
2. Trắc lượng tâm lý….. thứ 4
3. Nhãn thông ………… thứ 3
4. Tưởng tượng ……….. thứ 2
5. Lý tưởng cảm xúc ….. thứ 1
Trí tuệ…
1. Nhĩ thông bậc cao …………............ thứ 7
2. Trắc lượng tâm lý hành tinh … ….thứ 6 sắc
3. Nhãn thông bậc cao …………..…. thứ 5 tướng
4. Phân biện ………………………. .. thứ 4
5. Phân biện tinh thần ………….. thứ 3 vô
6. Đáp ứng với rung động tập thể…. thứ 2 sắc
7. Viễn cảm tinh thần ………………. thứ 1 tướng
Bồ đề…
1. Thấu hiểu (comprehension)….. thứ 7
2. Hàn gắn (healing) ……………. thứ 6
3. Huệ nhãn thông (Divine vision)... thứ 5
4. Trực giác …………………… thứ 4
5. Chủ nghĩa lý tưởng (Idealism) … thứ 3
Niết bàn…(Atmic)
1. Toàn phúc ………………… thứ 7
2. Phụng sự linh hoạt ……….. thứ 6
3. Hiện thực ……………..…… thứ 5
4. Hoàn thiện ………………… thứ 4
5. Toàn tri (all knowledge) …. thứ 3
Với mục đích làm sáng tỏ, chúng ta có thể nêu lên ở đây biểu đồ về năm trạng thái khác nhau của 5 giác quan trên năm cõi, để cho các tương đồng của chúng có thể sẵn sàng hình dung được bằng cách dùng bảng trên làm cơ sở:
+ Tiến hóa của giác quan trong tiểu thiên địa: Hai nội dung .... / .... ghép 2 sách ASCLH, 325/ LVLCK, 190
a/ Giác quan thứ 1...... ...... … Thính giác
1. Thính giác hồng trần ........... Cõi hồng trần.
2. Nhĩ thông .......................... Cõi cảm dục.
3. Nhĩ thông cao ................... Cõi trí.
4. Lĩnh hội / với bốn âm thanh..... Cõi Bồ Đề
5. Toàn phúc ........................ Cõi Niết Bàn.
b/ Giác quan thứ 2 .... Xúc giác hay cảm xúc.
1. Xúc giác hồng trần ............ Cõi hồng trần.
2. Trắc tâm thuật/ Trắc lượng tâm lý...... Cõi cảm dục.
3. Trắc tâm hành tinh ............. Cõi trí.
4. Chữa trị (Healing)/ Hàn gắn ............... Cõi Bồ Đề.
5. Phụng sự linh hoạt ............ Cõi Niết Bàn.
c/ Giác quan thứ 3 ............... Thị giác
1. Thị giác hồng trần ............... Cõi hồng trần.
2. Nhãn thông ...................... Cõi cảm dục.
3. Nhãn thông cao................... Cõi trí.
4. Linh thị thiêng liêng/ Huệ nhãn thông..... Cõi Bồ Đề.
5. Chân thức/ Nhận thức............... Cõi Niết Bàn.
d/ Giác quan thứ 4 ............... Vị giác
1. Vị giác hồng trần ................. Cõi hồng trần.
2. Sự Tưởng tượng/ Trí tưởng tượng..... Cõi cảm dục.
3. Sự Phân biện ...................... Cõi trí
4. Trực giác ............................. Cõi Bồ Đề.
5. Sự hoàn thiện ...................... Cõi Niết Bàn.
e/ Giác quan thứ 5 .............. Khứu giác
1. Khứu giác hồng trần.............. Cõi hồng trần.
2. Chủ nghĩa lý tưởng tình cảm/ Xúc cảm ... Cõi cảm dục.
3. Biệt biện tâm linh/ Nhận thức tinh thần.......... Cõi trí.
4. Chủ nghĩa lý tưởng ............ Cõi Bồ Đề.
5. Toàn thức/ Toàn tri..... Cõi Niết Bàn.
Giờ chúng ta hãy đi vào từng chi tiết một trong các giác quan này (LVLCK, 190): Xem trong sách.
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
+ Tiến hóa giáng hạ (Involution):
- Tiến hóa giáng hạ tức là sự chìm ngập (submergence) trong vật chất của Sự sống hay Tinh thần.
- Tiến hóa giáng hạ là sự phân ly (separation) của vật chất hay là “nhất bổn tán vạn thù” (the one becoming the many). Các giác quan được phát triển và bộ máy được Chân Ngã làm cho hoàn thiện để sử dụng vật chất. Điều này nằm dưới Định luật Tiết Kiệm.
- Giai đoạn chế ngự của nốt hình hài là giai đoạn tiến hóa giáng hạ.
- Trong thời kỳ tiến hóa giáng hạ, các âm điện tử của vật chất vượt trội hơn. Tỷ lệ bách phân của các âm điện tử (negative/feminine electrons) là một trong các bí mật của điểm đạo và trong giai đoạn tiến hóa giáng hạ, tỷ lệ đó lớn đến nỗi sự khan hiếm của các nguyên tử dương rất đáng để ý; chúng hiếm đến độ chỉ dùng để giữ cho cả khối kết dính lại (LVLCK, 1029, 199, 275, 321)
TINH THẦN VƯƠN XUỐNG DƯỚI - SPIRIT REACHES DOWNWARDS
+ … khi con người tinh thần, chân ngã hay người tư duy trên cõi riêng của mình tham dự vào phần tiến trình giải thoát của mình và hai giai đoạn cuối được xảy ra từ trên xuống dưới. (ASCLH/ LOS 179-180)
+ Sau đó, năng lượng từ phương diện tinh thần, phương diện đầu tiên của Cha, sẽ trở nên sẵn có và sẽ tuôn đổ thông qua luân xa đầu đến luân xa ajna, kết hợp năng lượng phàm ngã và năng lượng linh hồn. Sau đó, bằng hành động của ý chí, nó sẽ được phóng chiếu xuống cột sống, qua trung tâm alta chính, tác động đến tuyến động mạch cảnh. Khi nó đi xuống cột sống, nó tiếp sức sống cho hai phương diện của các luân xa; khi [Trang 211] nó đi tới luân xa gốc, nó kết hợp với năng lượng tiềm ẩn của vật chất của chính nó, và vì thế, bạn có được sự hợp nhất của ba năng lượng thiêng liêng và sự biểu hiện trong con người ba phương diện thiêng liêng. (TLNM/ EH 210-1)
+ Trong trung tâm não bộ, ngự trị trong tuyến tùng, chúng ta được nghe bảo là tòa nhà của linh hồn, một tiền đồn của đời sống Thượng Đế, một tia sáng của ngọn lửa tinh thần thuần khiết. Đây là điểm thấp nhất mà đời sống tinh thần thuần khiết trực tiếp từ Chân Thần, Cha chúng ta trên Thiên Đàng, tiếp xúc hay chạm đến.(ASCLH/ LOS 318-9)
+ Khi lửa kundalini và sinh lực sống prana tiến hành công việc của mình, và kênh nối ngày càng trở nên rõ ràng hơn, các luân xa sẽ càng hoạt động tích cực hơn, và cơ thể tinh khiết hơn, ngọn lửa [Trang 125] của tinh thần, hay ngọn lửa từ Chân Ngã, đổ xuống tích cực hơn cho đến khi một ngọn lửa sáng rỡ thực sự tỏa ra từ đỉnh đầu.(LVLCK/ TCF 124)
+ [Trong] giống dân Aryan — một giống dân sẽ chứng kiến thấy nhiều người điểm đạo hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại, và sẽ, theo một ý nghĩa đặc biệt, chứng kiến sự giáng hạ của Vương Quốc Thượng Đế đến Trái Đất như là kết quả của rất nhiều người trên bậc thang tiến hóa. Cũng giống như người đệ tử [Trang 593] hay bậc điểm đạo đồ là một phàm ngã thấm đẫm linh hồn, nhân loại sẽ - trên cõi hồng trần - cũng thấm đẫm linh hồn, vì thế kết tinh Thiên Quốc và tạo nên một vương quốc mới trong tự nhiên. Sự giáng hạ tinh thần vĩ đại này sẽ là phần mở đầu (nếu tôi có thể sử dụng từ đó) cho sự xuất hiện của Đấng Christ giữa các dân tộc trên thế giới và bởi một dòng chảy kỳ diệu của bác ái - minh triết.(CCVĐĐ/ RI 592-3)
+ Tiến hóa thuận chiều theo Vật chất - Công truyền/ Ngoại môn
+ Giai đoạn 1: Cung Thái Dương (Mặt Trời) Chi phối con người(Phàm Ngã), con người dần dần thích hợp để sau đó đáp ứng với Linh Hồn. Qua hiệu ứng của năng lượng tuôn đổ từ các Cung Hoàng Đạo, Y chuyển thuận từ Dương Cưu đến Kim Ngưu xuyên qua Nhân Mã, Hải Sư, Bắc Giải. (* Khi con người tiến hóa với năng lượng Linh Hồn chi phối, con người được chuẩn bị cho BƯỚC NGOẶT VỀ ĐỊNH HƯỚNG, trong đó con người từ từ và dần dần ĐẢO NGƯỢC CÁCH THỨC TIẾN BỘ DƯA TRÊN VÒNG SINH HÓA. Lúc bấy giờ, Y đi từ Dương Cưu đến Song Ngư xuyên qua Kim Ngưu, Hổ Cáp, Ma Kết thay vì đi "Thuận" theo chiều tiến hóa con người tiến vào vật chất.)
* Bộ 3 của các Chòm sao nói trên trong 2 lộ trình lớn này chung quanh Hoàng Đạo có một hiệu quả rõ rệt và quan trọng(Gọi là Cung có ảnh hưởng tối thượng) (CTHNM, 64)
+ Cung Giáng hạ tiến hóa: Là thuật ngữ được dùng để chỉ phần đầu của diễn trình tiến hóa. Nó bao hàm “con đường đi xuống” hay giáng xuống của Tinh thần vào vật chất trọng trược từ trước đến giờ cho đến khi đạt tới điểm thấp nhất, điểm cố kết trọng trược nhất. (LVLCK, 95)
+ Ba cách tiến hóa (Thuận chiều và Nghịch chiều)_Chân Sư DK (CTHNM, 295):
1. Giai đoạn quá khứ xa xăm đã qua - Không xét: Sự tiến bộ của nhân loại từ Aries đến Pisces, qua Taurus.
2. Ý nghĩa thuận chiều Vật chất - Tiến Hóa Công Truyền (Ngoại Môn = Hiện Tại): Tiến bộ của con người cá biệt diễn ra ngược lại với tiến bộ của tập thể; ở giai đoạn này, cá nhân tiến theo chiều kim đồng hồ từ Aries đến Taurus, xuyên qua Pisces. Sự sống của y lúc đó và về lâu về dài hầu hết là ngược với xã hội (anti-social) theo ý nghĩa tâm linh; y trở nên ích kỷ (selfish) và duy ngã (self-centred, trụ vào bản ngã). Các cố gắng của y đều dành cho chính y, cho sự thỏa mãn của y, riêng y và các hoạt động của phàm ngã trở nên ngày càng mạnh. Đây là tình trạng hiện tại đối với quần chúng.
3. Ý nghĩa Nghịch chiều/ Đảo Ngược - Tiến Hóa Bí Truyền (Nội Môn = Tương Lai): Cùng chiều với "giai đoạn 1". Tiến bộ của con người được tái định-hướng từ Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus. Trong giai đoạn cuối cùng này, y quay trở lại cùng phương pháp được hướng dẫn, tức nhịp điệu và chừng mực của hoạt động quần chúng trước kia nhưng lần này với các thái độ được thay đổi và đang thay đổi của việc phụng sự không ích kỷ, một phàm ngã được hiến dâng cho việc phụng sự nhân loại và với một sự tái định hướng tự ý của các năng lực của y sao cho chúng được hướng đến việc tạo ra sự tổng hợp và cảm thông. Việc này sẽ là tình huống trong tương lai đối với quần chúng.
* Nhà chiêm tinh học của tương lai sẽ phải ghi nhớ cẩn thận ba cách tiến hóa này. Đó là Thiên Cơ như hiện tại chúng ta có thể nhận biết được nó.
* Ví dụ với Cung Xử Nữ: Là cung thứ 6 xét theo này của Hoàng đạo (chiều Nghịch/ Đảo ngược) - Cung thứ 7 nếu người ta không xét vòng đảo ngược (Chân Sư DK_CTHNM, 285)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
+ Tâm trí đệ tử: Chúng ta nên nhớ rằng các đệ tử thuộc cung một hiểu con đường đạo phần lớn trong phạm vi năng lượng, mãnh lực hay hoạt động, trong khi các đệ tử thuộc cung hai hiểu con đường đạo nhiều hơn trong phạm vi tâm thức hay điểm đạo. Vì thế mà có sự khác biệt trong những lối phát biểu thường dùng và thiếu sự thông cảm giữa các nhà tư tưởng. Hẳn là hữu ích khi chúng ta phát biểu ý niệm về con đường đệ tử trong phạm vi các cung khác nhau—theo đó cho thấy ý nghĩa của con đường đệ tử như nó biểu hiện trong cuộc phụng sự trên cảnh giới hồng trần:
Cung 1...Mãnh lực............Năng lượng ...Hành động.........Nhà Huyền bí học.
Cung 2...Tâm thức............Triển khai......Điểm đạo............Nhà thần thông chân chính.
Cung 3...Tính thích nghi...Phát triển ......Tiến hoá.............Thuật sĩ.
Cung 4...Rung động .........Ứng đáp ........Phát biểu...........Nghệ sĩ.
Cung 5...Trí năng ............ Kiến thứ c .....Khoa học............Nhà khoa học.
Cung 6...Sùng tín............. Họat động......Theo đuổi..........Người sùng tín. trừu tượng Lý tưởng
Cung 7...Thần chú............Pháp thuật .....Nghi thức..........Nhà nghi thức. [81]
Xin nhớ kỹ rằng ở đây chúng ta đang bàn đến các đệ tử. Về sau, khi họ tiến bộ, thì nhiều đường lối khác nhau sẽ trở nên tương tự và hoà hợp. Có một thời tất cả đã là thuật sĩ vì mọi người đều đã trải qua cung ba. Vấn đề này hiện nay liên quan đến nhà thần bí học và nhà huyền bí học, và sự tổng hợp chung cuộc của họ. Khi nghiên cứu kỹ các điều nói trên, chúng ta sẽ nhận biết rằng sở dĩ có những nỗi khó khăn giữa các nhà tư tưởng và giữa những người đệ tử trong tất cả các nhóm, vì họ tự đồng hoá với một hình thức nào đó, và vì họ không thể thông cảm được các quan điểm khác của tha nhân. Theo thời gian, khi họ liên lạc mật thiết hơn với hai vị Chân sư mà họ có quan hệ (vị Thượng Đế ở nội tâm là Chân sư của cá nhân họ), thì họ sẽ không còn thiếu khả năng cộng tác và hoà hợp quyền lợi của mình trong lợi ích tập thể, và nỗ lực chung, mục đích giống nhau, cùng nhau hợp tác, sẽ thay thế cho các dị biệt, là những gì quá thường thấy hiện nay. Chúng ta đáng nên suy gẫm kỹ điều này vì nó soi tỏ được nhiều điều đang gây nan giải và đau khổ cho biết bao người. (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Cung đang biểu lộ - Ngày Cơ hội: Câu hỏi có thể dặt ra ở đây là kiến thức này có phần nào giá trị đối với môn sinh chăng. Để minh giải điều này, các môn sinh nên khôn ngoan suy gẫm kỹ ý nghĩa sự giáng nhập của Cung hiện nay, là cung Định luật Nghi lễ hay Pháp thuật. Đó là cung vận dụng các mãnh lực kiến tạo của thiên nhiên, liên quan đến việc trạng thái sự sống sử dụng hình thể một cách thông minh. Đây chính yếu là cung của công tác chấp hành, có mục đích kiến tạo, phối hợp và tạo sự nối kết trong bốn giới thấp của thiên nhiên. Nó được phân biệt chính yếu bởi năng lượng tự biểu hiện trong nghi lễ, nhưng từ nghi lễ này không được thu hẹp đến mức sử dụng hiện nay của nó trong nghi lễ của hội Tam Điểm hay tôn giáo. Áp dụng của nó thì rộng lớn hơn rất nhiều, và gồm các phương pháp tổ chức được phô diễn trong tất cả các cộng đồng văn minh, như trong giới thương mại hay tài chính, và các tổ chức kinh doanh lớn ở khắp nơi. Trên hết mọi sự, điều thú vị ở chỗ đây là cung mang cơ hội đến cho các giống dân Tây phương, và qua trung gian của mãnh lực sự sống của tổ chức thừa hành, của sự quản trị bằng luật lệ và trật tự, bằng tiết điệu và nghi thức, sẽ đến lúc các chủng tộc Tây phương (với trí tuệ cụ thể, tích cực và năng lực làm việc rộng lớn của họ) có thể được điểm đạo - một cuộc điểm đạo mà chúng ta phải nhớ là trên một cung tạm thời được thừa nhận là một cung chính. Phần đông các điểm đạo [183] đồ và những vị đã đạt được trình độ Chân sư trong chu kỳ trước, là người Đông phương và trong xác thân người Ấn. Chu kỳ đó đã do cung sáu cùng hai cung trước thống ngự, và đang trôi qua. Để giữ thế quân bình, nay sẽ đến một thời kỳ thành đạt của người Tây phương, trên một cung thích hợp với loại trí tuệ của họ. Nên ghi nhận điều thú vị là mẫu người Đông phương đạt mục tiêu của họ qua tham thiền, với một phần nhỏ tổ chức chấp hành và nghi thức, còn người Tây phương sẽ thành đạt phần lớn qua tổ chức mà hạ trí tạo ra, và một lối tham thiền mà sự tập trung cao độ trong công việc có thể xem là một ví dụ. Sự áp dụng trí tuệ chuyên nhất của một thương gia người U hay người Mỹ có thể được xem là một loại tham thiền. Nếu sự áp dụng này dựa trên động lực nội tâm trong sạch, thời cơ tốt đẹp sẽ đến với người Tây phương. (Sách điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Tinh linh của đất (Elemental of earth): Là toàn thể nhiều sinh linh tạo thành thể xác. (LVHLT, 215)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí. (CTHNM, 188)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Nhận dạng biểu đồ cung là quan trọng:
1. Những cung nào, lớn và nhỏ, đang quy định và quyết định bản chất của con người, và gợi lên tính chất cuộc sống hàng ngày của y.
2. Năng lượng nào trong 5 năng lượng này là (tại thời điểm khó khăn) năng lượng chiếm ưu thế nhất, và nó được tập trung qua thể hay hiện thể nào.
3. Năng lượng cung nào trong các năng lượng cung này đang đấu tranh chống lại sự thống trị áp đặt, được đề cập ở trên. Các năng lượng cung này có thể hoặc là:
+ Các khía cạnh khác nhau của cùng một năng lượng trong lĩnh vực cụ thể riêng của chúng.
+ Các năng lượng cao đang nỗ lực để kiểm soát các năng lượng thấp hơn và do đó đang biểu thị một sự phân cắt trong bản chất của con người.
+ Năng lượng của chính quá trình hợp nhất, vốn hợp nhất các nguồn năng lượng thấp vào một phàm ngã hoạt động.
+ Việc điều chỉnh quá trình bắt cầu giữa hai nguồn năng lượng lớn. Điều này sẽ dẫn đến sự nhất quán của linh hồn và phàm ngã. >>> Những điều này tạo thành các lĩnh vực khó khăn lớn hơn, và trong mỗi lĩnh vực này của các năng lượng đang xung đột có các trung tâm xung đột nhỏ hơn. Những điều này thường xuyên xảy ra do các hoàn cảnh và các sự kiện xung quanh. [444-5]
4. Hãy khảo cứu điều kiện vật lý một cách cẩn thận, và nơi nào cần sự chú ý thì hãy thấy rằng sự quan tâm thích đáng được đưa ra. Đồng thời, hãy lưu ý hệ thống tuyến, nghiên cứu nó từ quan điểm của mối quan hệ của nó với bảy trung tâm lực chính trong cơ thể.Trong nhiều trường hợp, các tuyến biểu thị tình trạng của các luân xa. Vì vậy, một sự hiểu biết về hệ thống lực của bệnh nhân sẽ xảy ra. [EPII 479-480]
Xem thêm: Xem Phóng To Ảnh Biểu Đồ Cung
Xem thêm: Tổng Hợp Xem Lá Số Chiêm Tinh
Xem chi tiết: Thiết lập Biểu đồ cung và nhận dạng Cung
+ Số đo thiêng liêng (divine measure): X. Vi tử, cách tạo lập.
+ Sơ đồ tâm: SƠ ĐỒ CHỨC NĂNG CỦA TÂM THỨC
Như biểu diễn trong sơ đồ, tâm trí con người bao gồm tám chức năng sau đây:
1/ Nhãn thức (nhìn) là chức năng cảm biết của mắt: nhìn thấy (ánh sáng, mầu sắc).
2/ Nhĩ thức (nghe) là chức năng cảm biết của tai: nghe thấy (âm thanh).
3/ Tỉ thức (ngửi) là chức năng cảm biết của mũi: ngửi thấy (mùi).
4/ Thiệt thức (nếm) là chức năng cảm biết của lưỡi: nếm thấy (vị).
5/ Thân thức (sờ chạm) là chức năng cảm biết của thể xác: sờ chạm thấy (gợn).
6/ Ý thức (nghĩ tính) là chức năng biết suy nghĩ, tính toán (mang tính vị kỉ chủ động).
7/ Mạt-na (tiềm thức) là kênh lọc, có chức năng thu gom tạm thời dữ kiện, chọn lựa và thúc giục hành động (mang tính vị kỉ kín đáo), rồi đưa ra dùng hoặc đưa vào tàng thức.
8/ A-lay-ia (tàng thức) đóng vai trò kho chính (lâu dài), có chức năng lưu giữ các kinh nghiệm tri giác và cảm giác của con người.


Nguồn: Tâm trạng và sơ đồ chức năng của Tâm
Xem thêm Tooltip: Cấu tạo Tâm
I. CÁCH XÁC ĐỊNH CUNG: Hãy bắt đầu với các thể thấp trước, sau đó bạn tiến vào trong đến Cung Linh hồn. Thông tin dưới đây cung cấp lời chỉ bảo, các trích dẫn và thông tin khác sẽ giúp bạn tìm thấy các cung của bạn. Một khi bạn có một biểu đồ, hãy làm việc với nó trong nhiều tháng và nhiều năm sắp tới để xác định tính chính xác của nó, qua việc tự quan sát. Các cung được đưa ra dưới đây là những cung vốn thường chi phối bản chất, mặc dù, khi một người đang trên đường Đạo, thì linh hồn có thể chọn các cung kỳ lạ hay bất thường cho các hiện thể để hoàn chỉnh bản chất.
BIỂU ĐỒ CỦA CUNG PHÀM NGÃ, GỒM 5 CUNG:
1. Trước nhất hãy tìm Cung của Thể xác - Dĩ thái. Cung này thường sẽ là Cung 3 hoặc Cung 7.
Hãy quan sát bản chất và các thói quen của bạn về mặt thể chất; hoàn thành bản danh sách kiểm tra về Cung Thể xác.
2. Tìm Cung Thể tình cảm. Cung này thường sẽ là Cung 2 hoặc Cung 6. Cung 6 sẽ ở lợi thế; chỉ những người đang đến gần con đường đệ tử tỏ ra có thể cảm dục Cung 2.
Hãy quan sát những thể hiện cảm xúc của bạn; hoàn tất biểu đồ danh sách kiểm tra Cung của Thể tình cảm.
3. Tìm Cung Thể Trí. Cung này sẽ là một trong các cung 1, cung 4 hoặc cung 5.
Hãy quan sát các quá trình xây dựng hình tư tưởng của bạn; hoàn tất biểu đồ danh sách kiểm tra Cung của Thể Trí.
4. Tìm Cung Phàm ngã. Lĩnh vực này đã hình thành chưa? Hãy kiểm tra các đặc tính của “một phàm ngã” trong Tiết Đoạn về Sự Tiến Hóa Của Tâm Thức.
Hãy hoàn tất biểu đồ danh sách kiểm tra Cung Phàm ngã. Hãy tự kiểm tra.
5. Tìm Cung Linh Hồn
Cung này có thể là bất kỳ cung nào trong bảy cung, nhưng ít có khả năng là Cung 4, vì cung này chỉ mới bắt đầu nhập thể.
+ Khi phân tích cung của một cá nhân ta cần nắm vững các nguyên tắc sau đây:
* Phân tích từ “ngoài vào trong”, nghĩa là từ các thể trọng trược nhất đến thể tinh anh nhất. Phương pháp này giống như khi chúng ta bóc tách một củ hành.
* Ngoại lệ: đối với đệ tử, điểm đạo đồ, người tiến hóa cao, các cung của hạ thể có thể nằm ngoài qui luật thông thường trên và có thể có bất kỳ cung nào.
* Khi con người tiến hóa đủ cao, đã trở thành một “phàm ngã thực thụ” thì cung phàm ngã sẽ xuất hiện. Cung phàm ngã có thể ở trên bất kỳ cung nào và khác với cung của Linh hồn.
II. Các Cung Của Nhân Loại (EP I, 332):
Các ảnh hưởng làm cho một người là chính y, và quyết định tính chất bề ngoài của y … [các ảnh hưởng này] là cung cá nhân và cung linh hồn của riêng y, vốn tác động trên y và ảnh hưởng tâm thức của y, tìm lối vào khí cụ hình tướng của y nhờ các đơn vị năng lượng mà hình tướng đó được tạo nên.
Ngoài ra, các ảnh hưởng quyết định khác là những yếu tố thái dương, vũ trụ và môi trường vốn cũng tác động trên y.
1. Cung của chính thái dương hệ.
2. Cung của Hành Tinh Thượng Đế của hành tinh chng ta.
3. Cung của chính giới nhân loại.
4. Cung chủng tộc đặc biệt của chúng ta, cung xác định giống dân Aryan.
5. Các cung chi phối bất kỳ chu kỳ đặc biệt nào.
6. Cung quốc gia, hay ảnh hưởng cung vốn đang ảnh hưởng đặc biệt đến một quốc gia cụ thể.
7. Cung linh hồn, hay chân ngã.
8. Cung phàm ngã.
9. Các cung chi phối:
a. Thể trí.
b. Thể cảm xúc hay cảm dục.
c. Thể xác.
Các Cung chi phối các mức độ Linh Hồn, phàm ngã, thể trí, thể tình cảm và thể xác
- Cung Linh hồn con người, hay ego được nhận thấy ở một trong 7 cung.
- Cung phàm ngã có thể ở trên bất kỳ cung nào của 7 cung.
- Cung thể trí: Bản chất trí tuệ và thể trí được chi phối bởi Cung 1, 4 và 5.
- Cung thể Cảm dục: Bản chất và hình thái tình cảm bị chi phối bởi Rays 2 và 6
- Cung Thể xác (Sinh khí / Dĩ thái và thể xác) bị chi phối bởi Rays 3 và 7.
* Cung 4 và 5 - Hai cung có hiệu lực đặc biệt trong việc đưa giới nhân loại vào sự biểu lộ (EP I, 320):
- Cung bốn hay Cung của sự Hài Hòa, sự mỹ lệ và sự thống nhất, đạt được thông qua xung đột.
- Cung năm hay Cung Kiến Thức Cụ Thể, hoặc năng lực hiểu biết.
Cung thứ tư là là cung đặc biệt chi phối nhân loại ......
Xem nguồn: năng lượng của 7 cung/ khóa GQ
+ Ba lửa hạnh phúc: Đối nghịch với ba lửa Tham - Sân - Si./.
Thế Tôn nói: .... "Quả thế, này người Bà-la-môn, phải buông bỏ ba ngọn lửa ấy, phải gạt đi ba ngọn lửa ấy, phải tránh xa ba ngọn lửa ấy (Tham - Sân - Si).
"[Thế nhưng] này người Bà-la-môn, cũng có ba thứ ngọn lửa mang lại hạnh phúc một khi biết kính trọng, tôn vinh và sùng kính các ngọn lửa ấy. Vậy thì ba ngọn lửa ấy là gì? Đấy là ngọn lửa của những người xứng đáng được kính trọng, là ngọn lửa của những người chủ gia đình và là ngọn lửa của những người xứng đáng nhận được sự hiến dâng.
"Vậy ngọn lửa xứng đáng nhận được sự kính trọng: Người biết tôn kính mẹ mình và cha mình. Người mẹ và người cha ấy được xem như "ngọn lửa của những người đáng được kính trọng". Tại sao lại như thế? Bởi vì từ nơi họ ngọn lửa (của lòng hiếu thảo) sẽ bùng lên. Vì thế nếu biết kính trọng, tôn vinh và sùng kính ngọn lửa của những người xứng đáng được kính trọng ấy, thì tất sẽ mang lại hạnh phúc cho mình.
"Vậy ngọn lửa của những người chủ gia đình": Một người biết cư xử đúng đắn với vợ con mình, với tôi tớ và những người giúp việc cho mình, những người làm công cho mình. Những kẻ ấy được xem như "ngọn lửa của những người chủ gia đình". Vì thế, này người Bà-la-môn, nếu biết kính trọng, tôn vinh và sùng kính ngọn lửa của những người chủ gia đình ấy, thì tất sẽ mang lại hạnh phúc cho mình.
"Vậy ngọn lửa của những người xứng đáng nhận được sự hiến dâng là gì? Này người Bà-la-môn, những người tu hành, các vị đạo sĩ không hề màng đến vinh quang hão huyền, không kiêu hãnh cũng không biếng nhác, đủ sức chịu đựng được tất cả, nhưng lúc nào cũng giữ được sự kiên nhẫn và thanh thản, có lúc thì bằng cách tự khắc phục mình, có lúc thì nhờ vào thể dạng thoát tục mà mình đạt được. Những người ấy được xem như "ngọn lửa của những người xứng đáng nhận được sự hiến dâng". Vì thế, này Người Bà-la-môn, nếu biết kính trọng, tôn vinh và sùng kính ngọn lửa của những người xứng đáng nhận được sự hiến dâng ấy, thi tất sẽ mang lại hạnh phúc cho mình.
"Quả thế, này người Bà-la-môn, nếu biết kính trọng, tôn vinh và sùng kính ba ngọn lửa ấy thì tất sẽ mang lại hạnh phúc cho mình. (Nguồn: 11 Loại Lửa - Kinh về Lửa)
+ Tiên đoán (Prediction): Tiên đoán là một kỹ năng (asset) của linh hồn thức và con người tạm thời có dự phần vào đó. (CTNM, 497)
+ Tiên đoán Thiên cơ Vận mệnh: ... Nhưng nên lưu ý rằng không điều tiên đoán nào hoàn toàn tách rời khỏi quá khứ, và bao giờ cũng phải ẩn chứa mầm mống của sự thật. Luật Nhân Quả bao giờ cũng đúng, và đặc biệt đúng trong phạm vi nhận thức tinh thần (hiện đang phát triển mau lẹ). Nó giúp người có tầm nhìn tinh thần có thể thấy được những gì khả hữu trong tương lai, và dự báo các tình huống có thể sẽ xảy ra. Trong ba thế kỷ tới đây, có thể tiên đoán một số đường lối khả dĩ phát triển trong nhân loại:
1. Qua sự phát triển giao tiếp với linh hồn trong số những người tiến hóa cao trong nhân loại ....;
2. Qua sự phát triển khoa chiêm tinh – một khoa học cho đến nay vẫn còn non trẻ. Nó còn dựa vào quá nhiều yếu tố bất định, đến đỗi người môn sinh khó tìm ra những chỉ báo đích thực cho thấy đúng về tương lai. Thường thì có thể đoán được các đặc điểm trong tính tình, và những điều nhỏ nhặt xảy ra trong cuộc sống phàm nhân. Thế nhưng, nói chung cho đến nay vấn đề vẫn còn quá mơ hồ, chưa đáng tin cậy. Về sau, tôi sẽ đề cập đến vấn đề này, và sẽ nêu rõ những đường hướng nên tiến hành khảo cứu trong tương lai.
3. Với sự trở lại của “thuật tiên tri” và sự tái xuất hiện “của những người báo tin cho nhân loại” ngày xưa, được gọi là “các thầy bói” vào thời kỳ La Mã. Những đồng tử này (thực sự họ đã là như vậy) sẽ được huấn luyện bởi các phụng sự viên của cung bảy, để nói lên theo nguồn cảm hứng của Thánh Đoàn. Sự tiên tri của các Ngài dù có xa về tương lai nhưng cũng không hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên, các đồng tử này sẽ chỉ được dùng theo sự hướng dẫn, sau khi đã huấn luyện thuần thục, và chỉ hai lần mỗi năm vào các cuộc lễ Trăng Tròn tháng Năm và tháng Sáu. ... (Vận mệnh các quốc gia - Tr 27)
+ Dự đoán Vận mệnh các quốc gia: ... Trong những ngày tháng này, khi thế giới chịu nhiều khó khăn và xáo trộn, thật quá nguy hiểm nếu tôi nói rõ hơn về những đường hướng phát triển trong tương lai. Vận mệnh và hoạt động của các quốc gia trong tương lai tiềm ẩn trong những hành xử hiện nay của họ. Đa số các độc giả của tôi quá nặng mang chủ nghĩa dân tộc trong suy nghĩ, và quá bận tâm đến tầm quan trọng chính yếu cũng như ý nghĩa tối thượng của quốc gia mình. Cho nên, tôi chỉ có thể nói tổng quát và nêu lên những đường hướng chính trong tiến bộ. Làm kẻ tiên tri là điều nguy hiểm, vì vận mệnh nằm trong tay dân chúng, và không ai biết chắc họ sẽ làm gì khi đã tỉnh ngộ và được giáo dục. Chưa đến lúc đa số dân chúng trong mỗi quốc gia có thể thấy được toàn thể bức tranh, hay được phép biết chính xác phận sự mà quốc gia họ phải làm tròn trong lịch sử các quốc gia. Quốc gia nào cũng có những đức tốt và tật xấu riêng, tùy theo trình độ tiến hóa, mức độ chi phối của cung phàm nhân, sự chế ngự ngày càng tăng của cung linh hồn, và mối quan tâm chung của quốc gia đó.
Cũng cần nên hiểu rằng một số quốc gia có nữ tính và tiêu cực, trong khi những quốc gia khác thì có nam tính và tích cực. Ấn Độ, Pháp, Hoa Kỳ, Nga và Brazil tất cả đều mang nữ tính, nên có phương diện bảo dưỡng của người mẹ. Họ có nữ tính trong tâm lý – với năng khiếu trực giác, thần bí, quyến rũ, xinh đẹp, thích phô trương và màu sắc. Đồng thời họ cũng có các nhược điểm thuộc về nữ tính, như quá chú trọng vào các khía cạnh vật chất trong đời sống, những màn trình diễn ngoạn mục, thích sở hữu, tiền bạc, hay những thứ tương tự, tương trưng cho phương diện hình hài sắc tướng của cuộc sống. Họ chăm lo và nuôi dưỡng nền văn minh cũng như các ý tưởng.
Trung Quốc, Đức, Anh và Ý có nam tính và tích cực. Các quốc gia này thiên về trí tuệ, chính trị, thống trị, chuẩn hóa, có ý thức tập thể, có khuynh hướng huyền môn, thích gây hấn, thái độ đường bệ, quan tâm đến luật pháp, chú trọng vào chủng tộc và đế chế. Nhưng họ có tính bao gồm nhiều hơn và suy tư trong phạm vi rộng lớn hơn các phương diện nữ tính của biểu hiện thiêng liêng. (Vận mệnh các quốc gia)
+ Đức Phật dự đoán Số phận nhân loại vào thời kỳ mạt pháp: Kinh Ngọn Đèn Sáng Tỏ
+ Dự đoán số mệnh theo tứ trụ: Một người khi cất tiếng khóc chào đời chính là thời khắc bẩm thụ khí trời đất, mà "thước đo Khí Trời Đất theo Thời gian và luôn tuân theo các quy luật vũ trụ, bao gồm luật chu kỳ và luật tuần hoàn ...", biểu lộ qua Năm -Tháng - Ngày - Giờ. Mà Năm Tháng Ngày, Giờ được thể hiện bằng 4 trụ được tạo bởi các cặp Thiên Can - Địa Chi với tổng số 60 cặp (Bắt đầu từ Giáp Tý, Ất Sửu ......). Chỉ với 60 cặp Can chi này mà hàng ngàn năm nay, con người tìm tòi để ứng dụng trong các môn dự đoán vạn sự trên đời, thì phải nói là chúng ta đã phần nào nắm bắt được quy luật Vận hành của trời đất để ứng dụng vào đời sống xã hội, có được những kết quả mong muốn nhất định nói chung, và môn dự đoán theo Tứ trụ nói riêng.
Giáo lý giảng rằng, Số phận được hình thành thông qua ngày giờ sinh là do các định luật chính yếu gồm Nhân quả - Luân hồi - Tái sanh và nhiều luật vũ trụ khác. Thời gian và Nghiệp quả là hai từ đồng nghĩa là vậy. Tháng sinh ra ta ở kiếp này thường là tháng tử vong của tiền kiếp, chính là để ta buộc phải tiếp lối dòng nhân quả của chính ta đã gieo trong bao kiếp sống luân hồi. Như thế chết KHÔNG phải là hết, Nghiệp quả vĩnh viễn không bao giờ mất, nó bắt buộc ta buộc phải trải qua vô lượng kiếp luân hồi là để nhận lại những gì ta đã gieo dù là nhân lành hay nhân dữ là vậy.
Chỉ có tu hành Cải mệnh ĐÚNG NHƯ PHÁP THỌ TRÌ là phương pháp duy nhất có thể hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng khi chúng chưa trổ quả báo, theo đó có thể chánh được khổ đau bệnh nạn, sống trong an vui hạnh phúc hơn.
+ Mời xem thông tin chi tiết bổ trợ về Số mệnh và Cải mệnh Xem tại đây
+ Trí Huệ - Đại trí huệ
Tiếng Trí Huệ. "Trí huệ" là gì? Trí huệ "độ" ngu si - có trí huệ thì không có ngu si, có ngu si thì không có trí huệ - hai thứ này không thể đi đôi với nhau. Bây giờ tôi cho quý vị biết thêm một điều tương đối dễ hiểu hơn; đó là: "Trí huệ chính là ngu si, ngu si chính là trí huệ!"
Có người nói rằng: "Tôi bây giờ ngu si, mà như thế tức là có trí huệ; vậy tôi cứ việc dung túng cái ngu si của mình!" Nếu quý vị có thể hết sức ngu si, ngu si đến cực điểm, thì đó chính là trí huệ chân chánh vậy!
Lại có người nói: "Pháp Sư! Lý lẽ mà Thầy vừa nêu thật là khó chấp nhận! Thầy nói rằng trí huệ là ngu si và ngu si là trí huệ; thế nhưng tôi nhận thấy người ngu si thì toàn làm những chuyện hồ đồ, còn người có trí huệ thì làm những việc đúng đắn, sáng suốt."
Ðúng vậy, quý vị nói rất đúng, còn tôi thì nói không được đúng! Vì sao ư? Bởi vì ngu si có thể biến thành trí huệ, cho nên tôi nói "ngu si chính là trí huệ"; song trí huệ cũng có thể biến thành ngu si, cho nên tôi nói "trí huệ chính là ngu si" vậy. Mấy hôm trước, lúc giảng bài kệ "thông minh sáng dạ nhờ âm đức," tôi đã giải thích điều này rồi; bây giờ chẳng qua là nêu ra lại mà thôi.
Người có trí huệ là người có được tự do chân chánh, và cũng chân chánh đạt được sự giải thoát. Tại sao nói vậy? Người có trí huệ thì không làm việc hồ đồ; còn người ngu si thì toàn làm những việc hồ đồ, không làm những việc thông minh. Ngoài ra, người ngu si không có được sự tự do, lại toàn ở thế "bị động." Trong khi đó, người có trí huệ thì trái lại, không bao giờ phải ở thế "bị động"; bởi họ có chủ tể chân chánh, trí huệ chân chánh, và bất luận sự việc nào xảy đến với họ, họ đều nhận thức được điểm tốt xấu của vấn đề - tốt thì nên làm, không tốt thì không làm. Nói chung, họ có được sức phán đoán chân chánh và trạch pháp nhãn (con mắt chọn lựa pháp) chân chánh.
Người ngu si thì không như thế - họ biết rõ ràng là không đúng mà vẫn cứ làm. Thí dụ chúng ta đều biết cờ bạc là không tốt, nhưng những kẻ ngu si lại cho rằng đó là một cơ hội hiếm có trong muôn một, nếu thắng thì phát tài lớn! Chính vì một niệm tham lam vô minh, muốn phát "vô minh tài" này, mà tất cả tài sản của họ đều không cánh mà bay! Thua "cháy túi" mà họ vẫn chưa tỉnh ngộ, còn toan tính: "Mình phải thử thời vận thêm lần nữa, biết đâu phen này mình sẽ thắng, sẽ giàu to!"
Như có người mua số đề, một đồng mua được tám chữ, nếu trúng thì được hơn một ngàn đồng, nhưng chẳng may sai mất một chữ nên không được tiền; người ấy lại cho rằng nếu mua lần nữa thì chắc chắn sẽ được trúng! Quý vị nghĩ xem, như thế có phải là ngu si không? Nếu những người đánh bạc đều thắng, thì người bày ra trò cờ bạc đỏ đen không cách gì phát tài được cả!
Lại còn những người nghiện thuốc phiện nữa: Ai ai cũng công nhận rằng hút thuốc phiện là có hại, nhưng người ngu si thì nói: "Ðể tôi thử xem!" Thử một lần cảm thấy chưa thỏa mãn, bèn thử thêm lần thứ hai, rồi lần thứ ba, thứ tư..., cứ thế mà "thử" hết lần này sang lần khác. Một lần "thử" thôi là đã bị nghiện rồi, nếu không "thử" nữa thì chịu không nổi. Quý vị nói xem, như thế có phải là ngu si hay không?
Một người bình thường thì đàng hoàng, lịch sự là thế, mà đến khi lên cơn ghiền, bị sự chi phối của thuốc phiện thì ôi thôi, nước mắt, nước mũi lòng thòng, toàn thân bứt rứt xốn xang, thật là khổ sở vô vàn, bèn phải vội vã kiếm tiền đi mua thứ thuốc đó về dùng để "nâng đỡ" tinh thần của mình. Ðây đều do sự ngu si gây ra, khiến cho họ không được tự do. Tại sao không được tự do? Những người hút thuốc phiện cho rằng hút thuốc phiện là một thứ tự do, cứ mải mê hút cho thỏa thích; thế nhưng, khi đến cữ nghiện mà không có thuốc để hút, thì họ có còn được tự do hay không?
Vậy, quý vị làm việc gì mà lẽ ra mình không nên làm, thì đều là ngu si, không có trí huệ. Nếu có trí huệ thì quý vị sẽ không điên đảo, không làm những việc mà mình không nên làm!
Tiếng Ðại Trí Huệ. Người có đại trí huệ vừa nhìn qua sự việc thì có thể thấy được điểm then chốt của vấn đề, không cần phải đợi đến khi sự việc diễn tiến rồi mới phát hiện ra. Do có đại trí đại huệ nên họ có thể tiên liệu được việc nào không nên làm và nếu làm thì kết quả ra sao, nhờ đó họ mới không làm những việc hồ đồ. Thế nào là đại trí, đại huệ? Nghiên cứu Phật Pháp là đại trí đại huệ. Phải nghiên cứu Phật Pháp thì mới có thể đạt được tự do chân chánh, cho nên đó là đại trí huệ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Kinh Ngọn Đèn Sáng Tỏ - Một Sự Tiên Tri Về Tương Lai của Đức Phật
Một thời, khi Đức Thế Tôn đang ngồi dưới cội bồ đề và đang quán chiếu đến vô lượng vô biên chúng sinh ở cõi Ta Bà, Ngài đã thấy rằng vào cuối của chu kỳ năm trăm năm, một thời kỳ đại ác sẽ xuất hiện.
Khi đề cập về những hành động và tư tưởng của hết thẩy hữu tình chúng sinh, Ngài đã dạy rằng tất cả chúng sinh phải thực hành theo mười điều thiện lành. Những chúng sinh có công đức lớn sẽ được tiếp xúc với bản Kinh giáo Pháp này, trong khi những chúng sinh không có sự kết nối thì sẽ tích luỹ ít công đức. Nỗi khổ đau từ những cảm xúc phiền não thực sự càng trở nên lớn mạnh, bởi vì con người sống trên trái đất sẽ như bị vật chất lấy đi sự sống của họ.
Và Tôn giả Anan đã khẩn nguyện đến Đức Thế Tôn:
“Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy chỉ dạy cho chúng con một giải pháp với lòng đại bi vô lượng, bằng cách nào có thể độ thoát chúng sinh khỏi những thống khổ này?”
Khi đó Đức Thế Tôn trả lời rằng:
“Này Anan, Như Lai sẽ nói cho ông. Khi Như Lai đang an trú trong không gian hư không, Như Lai luôn quán sát và dõi nhìn các chúng sinh ở cõi Ta Bà. Vì vậy, các ông hãy lắng nghe lời khuyên của Như Lai. Giáo Pháp này sẽ đem đến lợi lạc trong thời điểm mà thời kỳ đen tối khởi sinh. Vào thời điểm ác trược đó, nếu ai đọc tụng và ghi chép giáo Pháp này, cầu nguyện, thực hành thiền định, trì tụng và quán tưởng về hạnh từ bi của Đấng Đại Bi (Đại Bồ tát Quán Thế Âm) thì những bất tịnh, u ám sẽ được thanh tịnh nhanh chóng. Nếu một ai hết lòng tôn kính bản Kinh giáo Pháp thiêng liêng này, giữ gìn một cách thanh tịnh bằng cách cúng dường với hoa và hương thì tất cả chúng sinh sẽ được nhiều lợi lạc.
Qua việc thọ trì đọc tụng Kinh văn này và biên chép lại, chúng sinh đó sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp từ thế hệ này đến các thế hệ vị lai.
Khi đó, cạnh gốc cây, có một hồ nước lớn. Bên bờ hồ, hoá hiện Đấng Đại Bi (Đại Bồ tát Quán Thế Âm) đang tọa thiền. Trong lúc hướng tâm đại bi đến hữu tình chúng sinh, Ngài bắt đầu đầm đìa nước mắt. Bấy giờ, Đức Thế Tôn mới dạy rằng:
“Này Thiện Nam tử, hãy lắng nghe kỹ đây, Đại Bồ tát Quán Thế Âm. Ông đâu nhất thiết phải rơi lệ, hãy chú ý thật kỹ vào giáo Pháp này. Trong tháng Dần đầu năm mới, Như Lai sẽ đến cõi Thế Gian.
Vào thời điểm của thời kỳ suy đồi đó, tất cả chúng sinh hữu tình đều sẽ được giải thoát khỏi đại dương khổ đau.
Tất cả mọi nghiệp tiêu cực sẽ được tịnh hoá, thậm chí Như Lai sẽ độ thoát chúng sanh ra khỏi địa ngục mà họ đã bị đọa sinh.
Lúc đó, giáo Pháp thiêng liêng này sẽ được công bố và được biết đến. Và những ai viết lại, sao chép và đọc tụng bản Kinh này thì sẽ được thoát khỏi mọi bệnh tật.
Nếu được ghi chép lại bởi một người, thì sẽ mang lại lợi lạc đến cho cả một thành phố. Nếu được cả thành phố kính tin, thì tất cả các quốc gia đều được hưởng lợi. Công đức của loài người sẽ được tăng trưởng và những ảnh hưởng tiêu cực từ những vấn đề không mong đợi và các chướng nạn sẽ được thanh tịnh hoá. Tất cả những chướng ngại xấu xa sẽ được giải thoát khỏi khổ ngục. Điều đó sẽ đem lại lợi ích cho cả hiện đời này và các đời vị lai. Giáo Pháp này thực sự là con đường vô cùng lợi lạc cho chúng sinh trong sáu cõi luân hồi. Ví như, nó giống như chiếc thuyền giúp vượt qua dòng sông hay đại dương.
Đây thực sự là một giáo Pháp rất quan trọng, kính ngưỡng và đặt tín tâm vào Pháp này, [điều này] sẽ cực kỳ lợi lạc cho đến khi Đức Di Lặc thị hiện cõi Thế Gian. Qua sự ghi chép bản Kinh và truyền đến các nơi khác, công đức sẽ tăng trưởng vô lượng vô biên trong đời sống hiện tại và thân này. [Nó khiến cho] cả một đại dương đẫm máu của vòng luân hồi sinh tử sẽ phải khô cạn.
Thứ nhất, bởi vì tâm trí luôn khởi tâm hành theo mười điều bất thiện, chúng sinh sẽ sống dưới sự kiểm soát của các cảm xúc bất hoà và xung đột.
Ôi, đáng thương thay cho hữu tình chúng sinh!
Kế đến, thứ hai, cõi loài người như một thung lũng ngập máu.
Thứ ba, người nông dân trồng trọt nhưng không thể thu hoạch thành quả của chính mình [mùa màng thất thu].
Thứ tư, nỗi khổ đau của con người sẽ trở nên to lớn vô cùng.
Thứ năm, con người có thể sẽ không nhận thức được con đường của chính mình.
Thứ sáu, các thành phố sẽ xuất hiện đầy các loài thú ăn thịt.
Thứ bảy, các căn nhà ở các quốc gia sẽ bị bỏ trống không.
Thứ tám, những loài thú hoang ăn thịt sẽ được thấy [chúng] lang thang đầy rẫy khắp mọi nơi.
Thứ chín, trong các thành phố và quốc gia, mặc dù vẫn còn một số người sót lại, tuy nhiên họ không dám ở đó.
Thứ mười, loài ngạ quỷ đói khát xuất hiện đầy khắp các thôn xóm.
Từ việc hành mười điều bất thiện sẽ dẫn đến những việc như vậy. Khi đó, con người sẽ không thể khen hay ca ngợi người khác; mà chỉ toàn tự đề cao mình và chê bai người khác. Sẽ có bốn tầng lớp giai cấp xã hội: quý tộc (hoàng gia), thương gia, lao động và các tu sĩ, học giả (Brahmin[1]). Nếu tất cả những người này đều đặt niềm tin, hết lòng tôn kính giáo Pháp này thì thời kỳ đó sẽ trở nên an lạc, tốt đẹp”.
Nhưng, Đức Thế Tôn nói tiếp:
“Nếu chúng sinh mê lầm không tin vào giáo Pháp thiêng liêng này, thì họ sẽ lần lượt theo nhau rơi thẳng vào địa ngục Vô gián. Nơi đó, họ sẽ chẳng thể nghe được chánh Pháp và những tiếng kêu van, than khóc thống khổ sẽ vang dội khắp đất trời.
Thời kỳ đại dịch sẽ đến liên tiếp trên Cõi Địa Cầu.
Ngay sau khi chúng sinh biết về giáo Pháp này và lập tức nó sẽ giúp khắc phục mọi dịch bệnh và nạn đói. Mọi người sẽ có được một cuộc sống an vui tốt đẹp.
Lại nữa, còn có bảy loại khổ đau mà loài người có thể sẽ nếm trải:
Trước hết, là loại khổ đau từ các cõi địa ngục.
Thứ nhì, là loại khổ đau như đói khát của loài quỷ đói.
Thứ ba, là loại khổ đau về tranh chấp và chiến tranh như những vị Atula (Cõi Bán Thiên) trải nghiệm.
Thứ tư, là loại khổ đau vì không có sự nhàn rỗi, và khổ đau vì đói khát, bần cùng.
Thứ năm, là loại khổ đau bởi nắm giữ những tà kiến.
Thứ sáu, nỗi khổ đau vì có cuộc sống quá dài lâu giống như các vị Trời (Cõi Chư Thiên)[2].
Thứ bảy, sự khổ đau của giai đoạn thân trung ấm[3] (giai đoạn sau khi chết) trong cõi luân hồi.
Bởi vì tất cả những nỗi thống khổ này [và] để đem lại lợi lạc cho những ai kính tin bản văn giáo Pháp này thì sẽ đạt được quả lành trong bất kỳ mọi ước nguyện mong cầu. Tất cả các bệnh tật sẽ được khắc chế, và thời gian an lạc sẽ trở lại như trước. Tại sao lại như vậy? Cụ thể là như thế này:
Vào năm Hoả Ngọ đực, tận trên không gian hư không, một thiên thạch lớn sẽ rơi xuống Cõi Địa Cầu cực mạnh, bên bờ một đại dương. Và khi thiên thạch vỡ ra, giáo Pháp thiêng liêng này sẽ được hiển lộ. Khi Kinh văn này xuất hiện, điều hết sức quan trọng là không được giữ bí mật cho riêng mình mà phải phổ biến và truyền bá đến cho những người khác. Điều này không chỉ dành cho một hoặc hai cá nhân mà Pháp này được tuyên thuyết vì lợi ích cho tất cả hữu tình chúng sinh.
Nguyện cho mọi khổ đau trên thế gian này được chấm dứt!
Vào cuối giai đoạn năm trăm năm sẽ là thời điểm mà giáo Pháp Phật đà sẽ dần biến mất.
Thời gian khi tu sĩ không thể giữ gìn giới nguyện của họ.
Thời gian mà tâm ngập tràn những suy nghĩ tiêu cực.
Thời gian mà những lời thệ nguyện và các ác hạnh được sử dụng như là thực phẩm.
Thời gian mà loài người chỉ hành theo mười điều bất thiện.
Và khoảng thời gian mà các hành giả Mật thừa cũng sẽ thực hành sai trái, họ chỉ trì tụng những tà thuật.
Thời gian mà năm độc sẽ được nuôi dưỡng từ sâu bên trong.
Đó sẽ là khoảng thời gian khi mà thân và khẩu sẽ đi vào lầm lạc.
Giá trị của giáo pháp tâm linh sẽ bị suy thoái.
Thời gian khi lông chim sẽ trải đầy trên những ngọn núi.[4]
Thời điểm mà gỗ và sắt được chứa đựng trong các hộp.[5]
Tất cả chúng sinh sẽ bắt đầu phạm các ác nghiệp, thực hiện những điều tồi tệ, tạo ra những việc làm tai hại là thời điểm của sự sợ hãi và thống khổ hiển lộ một cách rõ ràng nhất.
Giáo Pháp này sẽ giúp xua tan những ác nghiệp xấu xa trong thời điểm suy đồi đó. Giáo Pháp thiêng liêng này sẽ cứu vớt tất cả. Khi nhìn thấy Kinh văn này, đọc tụng và ghi chép lại, thì một điều chắc chắn [là] thời mạt Pháp với những ảnh hưởng tệ hại sẽ phải kết thúc. Chính điều này đủ để phân biệt được đâu là sự thật và đâu là hư vọng.
Đó là để nói cho chúng sinh biết rõ sự thật này. Còn những chúng sinh nào nói rằng điều này không đúng sự thật và không tin vào giáo Pháp này, thì từ đỉnh đầu cho đến tận cùng các ngón chân của họ, sẽ phải gánh chịu bởi các loại tật bệnh xảy ra trên cơ thể.”
Sau khi Đức Thế Tôn nói xong những lời này, Đức Quán Thế Âm, Đức Di Lặc, Tôn giả Anan, các vị Trời, Atula, Người, Càn Thát Bà, tất cả đều hoan hỉ tán dương giáo Pháp Đức Phật vừa tuyên thuyết.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đặt bàn tay phải của Ngài, được điểm tô bởi thân kim dung với các tướng tốt trang nghiêm, chạm xuống đất, nhờ vào thần lực này đã khuất phục được các thế lực đen tối của ma vương cùng quân ma. [Người ta] phải rèn luyện trong sự hoàn hảo siêu việt của điều này, điều đem đến niềm hoan hỷ không thể nghĩ bàn cùng sự an định trong tâm. Để đánh bại và an dịu tất cả mọi loại tật bệnh và các thế lực ma vương phải thực hành Pháp Ba La Mật (Paramita) này.
Vào lúc bấy giờ Đức Thế Tôn trở lại nhập chánh định “Vô Lượng Nghĩa Xứ”, và sau đó Ngài tuyên thuyết giáo Pháp ngắn này như là sự tóm tắt của tất cả giáo lý siêu việt của Kinh điển.
Một lần nữa, Tôn giả Anan lại bạch với Đức Thế Tôn: “Bạch Đức Thế Tôn, kể từ khi Ngài tuyên thuyết những lời dạy này, sự giảng giải về giáo Pháp này [như] có sức mạnh chuyển hoá những chướng ngại, khổ đau trong luân hồi.
Trong năm Thổ Thân đực, một trận dịch bệnh sẽ xảy đến và tầm ảnh hưởng của nó sẽ rất lớn và rộng khắp nên phải mạnh mẽ tinh tấn trong việc thực hành này.
Nếu tất cả các chúng sinh hữu tình không nghĩ rằng đây đúng là sự thật, vẫn mê lầm không tin nhận và không có khả năng để truyền bá rộng rãi giáo Pháp này, thì các uy lực âm binh xấu ác của ma vương sẽ được mãn nguyện.
Nếu bản Kinh này được sao chép với sự kính tin trong sáng, thì phúc lạc tuyệt diệu sẽ trổ lên. Lợi ích to lớn cuối cùng sẽ đến từ giáo Pháp thiêng liêng này.”
[Đức Thế Tôn đáp:] “Lành thay! Lành thay! (Thật đúng như ông nói.)
[Điều này] đã được tán thán ngay từ đầu.
Và tất cả mọi thiện hạnh sẽ được trổ lên.
Mọi đức hạnh và mọi công đức tốt lành sẽ luôn tăng trưởng!
Điều này đã được tuyên thuyết bởi tất cả chư Như Lai.
Này Hoan Hỷ Long Vương (Ghawo[6]) và Thiện Hoan Hỷ Long Vương (Nyergha[7]) cả hai ông phải hết sức hộ trì bản Kinh giáo pháp này để mang lại lợi ích cho hết thẩy hữu tình chúng sinh.
Trong tương lai, vào thời khắc cuối cùng, những phẩm chất của giáo Pháp này sẽ vượt ra ngoài sức tưởng tượng. Đối với những ai đặt tín tâm vào Kinh văn này, thì tất cả những ước nguyện mong cầu sẽ thành tựu. Và sẽ được độ thoát khỏi các tình trạng bất thiện và những chướng ngại.
Người đặt niềm tin kính ngưỡng vào giáo Pháp của Đấng Phật đà phải biết cúng dường với hoa và hương.”
Ngay khi đó, Đức Di Lặc nhìn xuống từ khoảng không phía trên, Ngài đã thấy máu chảy ra từ con mắt của loài người vì vậy Ngài đã đến thưa với Đức Thế Tôn:
“Bạch Đức Thế Tôn, con cúi xin Ngài, giảng dạy cho chúng con một giáo Pháp ngắn gọn với quyền năng gia trì vô lượng cho tất cả hữu tình chúng sinh trong tương lai.”
Đức Thế Tôn đáp:
“Lành thay! Đại Bồ Tát Di Lặc. Ông hãy lắng nghe lời Ta. Như Lai giáo hoá Pháp này vì lợi ích cho các Phạm Thiên, Đế Thích và cũng như lợi ích cho hết thẩy hữu tình chúng sinh.
Để mang đến lợi lạc cho tất cả chúng sinh hữu tình, [các ông] sẽ phải truyền đạt lại như lời của Như Lai.
Và vì vậy, cần phải cố gắng nỗ lực tinh tấn và trân quý giáo Pháp này vì nó sẽ giúp tích tập vô biên công đức, thiện hạnh và phúc lạc.
Trong mùa thu năm Hỏa Ngọ đực và trong năm Thổ Thân đực, tất cả những người hành ác, những người không có niềm tin và tín tâm vào giáo Pháp này, đã tích lũy nhiều ác nghiệp nên khi đó họ sẽ phải chết, họ sẽ phải rời bỏ cuộc đời này.
Nhưng, nếu một ai đó đọc tụng và ghi chép bản Kinh này thì người đó sẽ sống thọ, tiêu trừ được tật bệnh, và công đức sẽ tăng trưởng rất lớn. Vào thời kỳ ác trược đó, các thế lực âm binh xấu ác sẽ tụ tập nhanh chóng ở nhiều quốc gia. Chúng sẽ chạy và ẩn mình, để loài người sẽ không thể nhìn thấy nơi chúng ẩn nấp. Khi đó, thần lực gia trì thù thắng của bản Kinh thiêng liêng này sẽ khiến cho các chướng nạn và quỷ dữ biến mất. Điều đó nhờ vào quyền năng gia trì nhiệm mầu của giáo Pháp này.
Chính vì vậy, điều quan trọng là không có bất cứ nghi ngờ nào và phải phổ biến rộng rãi Kinh văn này đến khắp mọi nơi, mọi quốc gia. [Chúng sinh] không được có bất kỳ sự hoài nghi và nghĩ rằng giáo Pháp này không đúng sự thật. Nên biết rằng đây là lời của Đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Những ai không có sự kính tin đối với bản Kinh này sẽ phải trải qua một trận động đất lớn trong năm Hỏa Ngọ.
Khi thời kỳ đại ác đến vào năm Hỏa Mùi cái sẽ có rất nhiều cái chết, họ sẽ mất mạng cùng nhau bởi những trận lũ lụt. Một số sẽ chết bởi tai nạn khi đang du hành, một số chết vì bệnh tim.
Trong năm Thổ Thân đực sẽ có một trận lũ lụt khủng khiếp. Vào mùa hè, những cái chết do nạn đói gây ra.
Vào lúc đó, loài quỷ dữ sẽ hiển lộ ở khắp các thành phố.
Nếu người nào đọc tụng và ghi chép bản Kinh thiêng liêng này, thì sẽ được độ thoát khỏi mọi tai họa từ các chướng nghịch hoặc quỷ dữ.
Trong năm Thổ Dậu cái, sẽ không có tai họa xảy ra. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng sinh không được ăn các loại thịt, nên ăn chay và thực hành tinh tấn trong việc tuân thủ giữ gìn giới luật.
Trong năm Kim Tuất đực tất cả các thành phố và các khu vực lân cận sẽ bị tràn ngập bởi các loài thú ăn thịt như hổ, báo, gấu, chó hoang, chó sói, và những động vật tương tự như thế.
Lúc đó, điều hết sức quan trọng là phải viết và đọc tụng bản Kinh này như một phương tiện cứu cánh để cứu giúp loài người.
Đến năm Kim Mùi cái, tất cả chúng sinh sẽ như bị mất tự chủ, và sẽ như giấy bị thổi bay trong gió, hoặc như thể bị cuốn trôi trong một trận lụt. Sau đó, những ai thiếu đức tin vào giáo Pháp này sẽ chết.”
Tiếp theo, Đức Thế Tôn quay ra nói với Đức Quán Thế Âm:
“Trong suốt thời gian của năm Tý, một âm thanh huyền bí sẽ vang dội từ trên hư không. Và, giống như ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, điều có thể tỏa rạng mọi phía xung quanh bởi thần lực gia trì và quyền năng vô thượng thù thắng của Đấng Như Lai. Nếu ai đó đọc tụng và ghi chép giáo Pháp này, [thì] năng lực gia trì của bản kinh sẽ chiếu sáng tất cả bốn phương và tám hướng, và như thế giáo pháp này sẽ đem lại lợi lạc cho đến khi Đức Di Lặc giáng Thế. Nếu có ai ghi chép và đọc tụng Kinh văn này, [thì] người đó sẽ có được công đức to lớn tựa núi.
Tại cung điện Potala, nơi ngự và hoá hiện kim khẩu của Đấng Đại Giác Ngộ, vây quanh Ngài bởi một đoàn tùy tùng là chư Bồ Tát. Tất cả chúng sinh, phương trên và phương dưới, trong tất cả mười phương, đều được sống trong an lạc. Nhờ vào những thiện ý từ bi của Đấng Đại Bi (Đại Bồ tát Quán Thế Âm) ban phát và gia trì cho hết thẩy hữu tình chúng sinh.
Những ai có suy nghĩ rằng điều này không đúng sự thật, hoặc nảy sinh những sự hoài nghi, thì sẽ có một thời kỳ dịch bệnh lan tràn xuất hiện vào giữa mùa hè. Loài người sẽ chết từ lúc bình minh cho đến lúc chạng vạng tối. Vào thời điểm đó, tính từ khi giai đoạn tà ác tăng trưởng, thì tất cả các khu rừng sinh thái sẽ sụp đổ.
Tất cả các núi đá sẽ bị hủy hoại tận gốc và trái đất sẽ rúng động, không gì có thể sống nổi tại đó. Cứ mỗi mười người, chỉ còn một người sống sót. Nếu có ai nghĩ rằng điều này không đúng sự thật, hãy biết đây là lời của Đức Thế Tôn.
Ôi, thật đáng thương thay cho vô lượng hữu tình chúng sinh!
Vào năm Hỏa Mùi cái và trong năm Thổ Thân đực, giai đoạn năm trăm năm tà ác sẽ bắt đầu hiển lộ.
Tình trạng chiến tranh, xung đột sẽ đến từ bốn phương tám hướng. Nhân loại sẽ trở nên tàn nhẫn hơn bởi những tranh chấp không ngừng nghỉ.
Trong suốt thời kỳ ác trược, để độ thoát [chúng sinh] thoát ly khỏi giai đoạn tồi tệ đó bằng cách chỉ cần bất cứ ai kính tin vào bản Kinh giáo Pháp này. Khi nhìn thấy, lập tức sao chép và thọ trì thì tình hình chiến tranh xung đột sẽ lắng xuống và [điều này] giải cứu cả thế giới.
Nếu người nào đọc tụng, ghi xuống và sao chép Kinh văn này thì công đức vô lượng vô biên sẽ đến với họ và [họ] sẽ được độ thoát khỏi mọi sự lo âu sợ hãi. Giáo Pháp thiêng liêng này không phải chỉ dành cho một hoặc hai cá nhân mà nó được tuyên thuyết vì lợi lạc cho mọi hữu tình chúng sinh.
Bản Kinh thiêng liêng này được truyền bá nguyên vẹn đến khắp mọi nơi trên cả nước, thì tất cả mọi người sẽ được hưởng an lạc. Nguyện cho các chúng sinh sống với đạo đức sẽ có một cuộc sống an yên hạnh phúc!
Nếu ai đó không tinh tấn trong việc trì tụng giáo Pháp này trong suốt năm hoặc sáu tháng, thì họ sẽ phải trải qua một thời kỳ đau ốm bệnh hoạn.
Một số sẽ chết vì sốt, một số vì cảm lạnh, một số chết vì điên loạn và suy sụp tinh thần. Một số sẽ chết vì bị chấn thương, vì bệnh tim, vì căn bệnh về cổ họng, một số sẽ chết vì bệnh gan. Thậm chí mặc dù vẫn có phương thuốc chữa trị cho các căn bệnh ấy.
Nếu không muốn bị ảnh hưởng từ các tác nhân gây hại, có một giải pháp. Nếu những thiện nam hoặc thiện nữ nào buộc câu Minh chú này vào người của họ, câu Minh chú này sẽ bảo vệ họ và sẽ giúp họ tránh khỏi được các căn bệnh truyền nhiễm và các tác hại của loài Rồng (Nagas), các hung thần, quỷ dữ và âm binh. Đó là: Nam giới thì đeo bên phải và nữ giới thì đeo bên trái. Nếu có ai đó làm điều này, thì người đó sẽ tránh được các bệnh tật và các bệnh truyền nhiễm, và họ sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp và sự tái sinh tốt lành.
Nếu một ai đó đọc tụng, ghi chép và đặt hết tín tâm mà không có bất cứ hoài nghi nào, thì tác dụng của giáo Pháp này sẽ đem đến sự tự do giải thoát khỏi biển máu khổ đau của luân hồi.
Ôi đáng thương thay cho hữu tình chúng sinh sống giữa trời và đất!
Nguyện cho mọi khổ đau, cái chết phi thời, đều được hoàn toàn tịnh hóa!
Nguyện cho những thời gian tốt đẹp sẽ lại được như trước!
Nguyện cho chúng sinh tích lũy kho tàng công đức vô biên!
Đối với tất cả những ai không tin vào bản Kinh thiêng liêng này, như đã nói trước đây, họ sẽ không có cơ hội để tin được nữa, và như vậy bệnh tật sẽ trỗi lên ở khắp mọi nơi trong các thành phố. Thậm chí, dù cho dự trữ sẵn thực phẩm dinh dưỡng, vào thời điểm đó, chúng sinh cũng sẽ không thể ăn được.”
Và khi đó, Đấng Đại Bi (Đại Bồ tát Quán Thế Âm) đã thốt lên lời Pháp để phát khởi bồ đề tâm trong tâm của hữu tình chúng sinh:
“Con khẩn nguyện Đức Thế Tôn, con xin Ngài ban gia trì cho giáo Pháp thiêng liêng này bằng định lực của Ngài để nhiếp phục đại chúng.”
Một lần nữa, Đức Thế Tôn lại dạy rằng:
“Nếu một ai đó, kính ngưỡng và đặt tín tâm trong sáng vào Kinh văn này thì thời kỳ tà ác sẽ dừng lại. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các loại bệnh tật và tích lũy vô biên công đức.
Nguyện cho tất cả mọi người đang sống trên Cõi Địa Cầu sẽ được thoát khỏi thời kỳ tà ác, chiến tranh và mọi sự bất an. Và họ sẽ lại được tận hưởng khoảng thời gian an lạc như trước.
Trên phương diện tích cực về việc đưa ra một lời nguyện như thế này, thì lượng công đức một người làm được điều này, đặc biệt là trong các tháng Mẹo và tháng Ngọ, sẽ đem đến vô biên phúc lạc.
Nếu có người ghi chép bản Kinh này và truyền bá, họ sẽ đạt được một cuộc sống trường thọ, không bệnh tật, và sẽ có được sự hạnh phúc và thịnh vượng. Ngay cả nếu họ chỉ viết một đoạn của giáo Pháp này, thì nó cũng làm an dịu tất cả các chướng nạn, xấu xa trong thời kỳ vũ trụ ác trược.
Bản Kinh này đã từng xuất hiện trước đây và sẽ lại một lần nữa tiếp tục được phát tán trong năm Thìn. Kinh văn này sẽ tự hiển lộ, nhưng sẽ không thể lan ra rộng rãi trên khắp các cõi thế gian bởi vì thời kỳ tà ác đang tăng trưởng. Sau đó, vào năm Hỏa Ngọ đực giáo Pháp này sẽ mới được lan truyền rộng khắp.
Giáo Pháp thiêng liêng này là phương pháp giúp độ thoát khỏi thời kỳ tà ác. Nếu như không được truyền bá đến tất cả các quốc gia, thì mùa màng sẽ bị hủy hoại hoàn toàn bởi ba trận giá rét và mưa đá. Thứ nhì, nạn đói khủng khiếp sẽ diễn ra, căn bệnh không rõ nguyên nhân xuất hiện, sẽ có rất nhiều sự khổ đau và bất hạnh. Nhưng, nếu bất kỳ ai đọc tụng và ghi chép bản Kinh này, thì điều bất khả tư nghì rằng người đó sẽ thoát khỏi mọi thống khổ. Cho đến khi Đức Di Lặc thị hiện cõi Thế Gian, giáo Pháp này sẽ là phương tiện cứu cánh che chở cho các chúng sinh. Nếu một ai đó tôn trọng với sự tín tâm trong sáng đối với Kinh văn giáo Pháp này [thì họ] sẽ được tịnh trừ các bất thiện nghiệp, các che chướng sẽ được tẩy sạch và được thanh tịnh hoá.
Ngưỡng nguyện mọi chúng sinh được sống trong thế giới an lạc!
Nguyện mọi sự trân quý và mong cầu đều được thành tựu!
Nguyện tất cả các quốc gia đều được phước lành!
Nguyện lợi lạc khắp quần sinh!
Khi tình trạng bất ổn [thiên tai, chiến tranh], bệnh tật, nạn đói ở tất cả các nước nhanh chóng được khắc chế, nguyện cho có được một cơn mưa cát tường đem lại lợi ích cho các loại mùa màng, và nguyện cho chúng sinh đạt được mọi ước nguyện viên thành!
Nguyện cho sự giàu có, thịnh vượng của các dân tộc được tăng trưởng rộng rãi!
Nguyện cho bánh xe giáo Pháp thiêng liêng được duy trì trường tồn mãi mãi!”
Sau khi Đức Thế Tôn tuyên thuyết, Đức Quán Thế Âm, Đức Di Lặc, Tôn giả Anan, Trời, Người, Atula, Càn thát bà và vô lượng chúng sinh khắp các cõi giới đều vui mừng, tán thán giáo Pháp Đức Phật vừa tuyên thuyết.
Kinh Ngọn Đèn Sáng Tỏ - Sự Tiên Tri Về Tương Lai kết thúc ở đây. (Nguồn: Kinh Ngọn Đèn Sáng Tỏ)
+ Xem quẻ dịch: Trong bộ sách của nhà Chu ấy ghi chép rằng:
Nghĩa là: Đức Phật ra đời vào năm thứ 26 của triều đại Chu Vương 4, và năm ấy là năm Giáp-dần. Lúc bấy giờ, tức là khi Đức Phật đản sanh, thì mực nước ở các sông hồ đều dâng cao và chảy tràn ra khỏi bờ, cả mặt đất đều rung chuyển. Đồng thời, trên trời có đạo hào quang năm màu báo điềm lành phóng xuyên qua sao Thái Vi.
Đương thời có viên quan Thái-sử (Thái-sử là chức quan trông coi về Thiên-văn học và khoa Toán-số) tên Tô Do. Thái-sử Tô Do dùng Kinh Dịch để bói quẻ; và vừa gieo thì được ngay quẻ Càn Cửu-ngũ, tức là quẻ Phi long tại thiên" (rồng bay giữa trời). Căn cứ vào quẻ này, quan Thái-sử chiêm đoán rằng có bậc Thánh nhân vĩ đại ra đời tại nước Ần Độ và sau khi xuất thế, vị Thánh nhân này sẽ đi truyền bá một giáo pháp mà khoảng một ngàn năm sau, giáo pháp ấy sẽ được truyền đến Trung Hoa. Vua Chu-Chiêu-Vương liền sai người ghi chép và khắc những dữ kiện ấy vào đá, rồi truyền đem chôn ở cổng thành phía nam. Nhà vua dự tính rằng như thế đời sau sẽ có bằng chứng để kiểm nghiệm, xem có đúng là một ngàn năm nữa thì giáo pháp ấy (tức là Phật giáo) sẽ được truyền đến Trung Hoa hay không.
Đến đời vua Chu-Mục-Vương, một hôm, cả đại địa bỗng nhiên rung chuyển và trên trời xuất hiện mười hai đạo bạch-hồng (chữ "hồng" này tức là chữ "hồng" trong từ ngữ "hồng-nghê" có được đề cập đến trong Kinh Lăng Nghiêm, và có nghĩa là mống vòng cầu). Đây là hiện tượng "bạch hồng quán nhật" tức là giữa ban ngày bỗng có mười hai mống cầu vòng màu trắng hiện ra, nằm bắt qua mặt trời; và hiện tượng này xảy ra lúc Đức Phật viên tịch. Tuy rằng Đức Phật viên tịch tại Ần Độ nhưng ở Trung Hoa cũng thấy được hiện tượng ấy. Như vậy, sự xuất thế của Đức Phật không phải là chuyện ngẫu nhiên hay tình cờ! Khi Đức Phật ra đời tại nước Ần Độ, thì ở Trung Hoa, mực nước của các sông, hồ đều dâng cao và chảy lênh láng ra khỏi bờ, toàn thể đại địa đều rung chuyển. Rồi đến khi Đức Phật viên tịch, ở Trung Hoa cũng thấy có mười hai mống cầu vòng màu trắng bắt qua mặt trời.
Lúc bấy giờ có viên Thái-sử tên Hỗ Đa cũng dùng Kinh Dịch để chiêm đoán. Sau khi gieo quẻ, Thái-sử Hỗ Đa thốt lên: "Ôi! Vị đại Thánh nhân ở Tây-Vực đã nhập diệt rồi!" Tức là, vị đại Thánh nhân ra đời tại nước Ần Độ vào năm Giáp-dần, đời vua Chu-Chiêu-Vương thứ 26 trước đây, nay đã nhập diệt đã vào cõi Niết-bàn rồi! Như vậy, tuy sự xuất thế và nhập diệt của Đức Phật đều xảy ra ở Ần Độ một quốc gia nằm cách nước Trung Hoa rất xa, nhưng ở Trung Hoa đều biết được cả. Đó là nhờ người Trung Hoa đương thời đã hiểu về Toán-số, nên đã có thể đoán biết được tình hình lúc ấy.
Tính từ đời vua Chu-Mục-Vương đến vua Minh-Đế nhà Hậu-Hán, thời gian cách nhau ước khoảng 1.000 năm. Nằm mộng thấy Đức Phật vào năm Vĩnh-Bình thứ 3, thì đến niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 7, nhằm năm Giáp-tý, Hán-Minh-Đế truyền lệnh cho ba người là Thái-Ấm, Tần-Cảnh, và Vương-Tuân mang theo 18 người khác nữa, cùng nhau sang Ần Độ tìm cầu Phật pháp. Tại Trung Ần, họ gặp được Tôn giả Ca-Diếp-Ma-Đằng và Tôn giả Trúc-Pháp-Lan. Sau đó, hai tôn giả cùng theo phái đoàn của Thái-Ấm, Tần-Cảnh và Vương-Tuân trở về Trung Hoa. Tất cả về đến kinh đô Lạc-dương vào niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 10, tức năm Đinh-mão. Vì lúc đến hai Ngài dùng ngựa trắng để chở kinh sách, nên vua Hán-Minh-Đế cho cất một ngôi chùa đặt tên là chùa Ngựa Trắng (Bạch Mã Tự).
Đến ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 14, thì nhóm đạo sĩ từ dãy Ngũ-nhạc-sơn5 của Trung Hoa rầm rộ kéo tới gây trở ngại cho Phật giáo. Và như đã tường thuật ở trên, họ đòi thiêu đốt kinh sách của đôi bên. Kết quả là tất cả kinh sách của Đạo giáo đều bị cháy sạch, trong khi kinh sách của Phật giáo thì lại không hề hấn gì cả! Xá lợi của Đức Phật còn phóng ra hào quang năm màu sáng rực cả bầu trời; và từ trên không trung, các đạo hào quang ấy kết tụ lại trông như một cái tàn khổng lồ bằng ánh sáng bao trùm lấy đại chúng! Trước cảnh tượng kỳ diệu ấy, mọi người đều đồng lòng kính tin Phật giáo. (Nguồn: Kinh 42 chương - HT Tuyên Hóa)
+ Pháp tu bố thí hữu ích: Ứng dụng dự đoán quẻ dịch để Xu cát - Tị hung/ Pháp tìm cát tránh hung này nếu thực hành thuần thục với độ chính xác cao thì cũng giúp làm giảm lo lắng sợ hãi và mang lại bình an cho người xem đang gặp Hoạnh nghịch - Nghịch cảnh lo buồn.
* Ví dụ HT Tuyên Hóa bố thí An ủi: Loại bố thí thứ ba là vô úy thí. Bố thí vô úy là gì? Ðó là an ủi, khuyên giải những người đang gặp chuyện không may, tai bay họa gởi, hoặc những việc hoạnh nghịch. Hoạnh nghịch là gì? Ðó là những việc cướp bóc, hỏa tai, hoặc những việc sợ hãi kinh hoàng. Lúc người ta bị kinh hoàng sợ hãi, mình cho người ta sự an ủi giúp đỡ, khuyên giải: “Anh không nên sanh lòng lo lắng, bất cứ việc gì cũng có thể từ từ giải quyết!”; đó chính là vô úy thí vậy.
Hôm nọ có một người đánh mất ví tiền, tôi nhìn thấy vẻ mặt bà ta rất lo lắng, bà hỏi tôi rằng: “Ôi! Con đã làm mất túi tiền, làm sao bây giờ?”
Tôi bảo: “Bà không nên lo lắng, bà sẽ tìm lại được túi tiền.”
Kết quả lời tôi nói quả nhiên ứng nghiệm, bà về lại chỗ cũ và tìm được, vẫn chưa mất. Ðó cũng là vô úy thí - khiến người khác giảm nhẹ nỗi sợ hãi lo âu. Ở đây tôi chỉ đưa ra những vấn đề nhỏ để làm thí dụ, những vấn đề lớn thì rất nhiều; nhưng nếu chúng ta biết được những vấn đề nhỏ, thì những vấn đề lớn cũng dễ dàng hiểu rõ. (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm)
+ Xem Quẻ là pháp môn của thế gian.
* Đức Phật không khuyến khích Phật tử học pháp gieo quẻ dịch này. Ai tu hành ăn chay trường giữ ngũ giới hành thập thiện thì nên tu học Pháp Gieo Mộc Luân của ngài Địa Tạng Bồ Tát, pháp này do chính đức Phật bảo ngài Địa Tạng Bồ Tát tuyên thuyết trong pháp hội giảng pháp của ngài.
Danh mục các chuyên mục Hỏi - Đáp gồm:
0.02. Hỏi: Chọn ngày giờ tốt đẹp - Xem để tìm thời điểm để khởi sự công việc quan trọng cho thuận Thiên cơ
0.03. Hỏi: Tìm Cát Tránh Hung - Là xem Quẻ để biết tiến trình công việc để giúp tìm Cát tránh Hung họa
1.01. Học nghiệp chọn đời - Là đánh giá khả năng/ Năng khiếu tiềm ẩn trong bạn theo lĩnh vực nào thuận nhất.
1.02. Nghiên Cứu Kinh Điển - Là đánh giá khả năng/ Năng khiếu tiềm ẩn trong bạn theo lĩnh vực nào thuận nhất
1.03. Mời Thầy dậy học - Là đánh giá năng lực và nhân duyên với quí Thầy bạn dự định học hỏi hay nhờ vả.
1.04. Thi Cử Học Nghiệp - Là đánh giá mức độ thành tựu trong học tập hay học nghề để lượng sức mình. Học tập các cấp học - Thi cử - Kỹ năng - Danh hiệu đạt được.
1.05. Hỏi: Cầu Công Danh - Là xem Thiên cơ về Nhân Duyên con đường Công Danh trong kiếp sống
1.06. Thi Tuyển dụng- Bổ nhiệm - Là xem khả năng đậu xin việc hay việc làm ổn định trong tương lai gần
1.07. Xem Ngày Đăng Quang - Là xem ngày nào thì nhận được văn bản và công bố chính thức
1.08. Hỏi: Thăng Quan – Bổ nhiệm - Là xem Thiên cơ về Nhân Duyên con đường Công Danh trong kiếp sống
1.09. Thuyên chuyển Chức Nghiệp - là xem kế hoặc thuyên chuyển trong thời gian gần
1.10. Tại nhiệm cát hung - Là xem Cát Hung vị trí hiện tại để sửa chữa sai lầm (Nếu có), hoặc an vui chấp nhận
và còn nhiều chuyên mục khác nữa, nếu dùng Quẻ có thể dự đoán. (Mời xem: Các chuyên mục dự đoán quẻ dịch)
Mời xem thêm trang chuyên đề về xem quẻ dịch dự đoán cát hung
+ Thể nguyên nhân: X. Thể nhân khởi, Chân Ngã thể.
+ Thể nhân khởi (causal body, linh hồn thể, thể nguyên nhân) (LVLCK, 391)
+ Chân Ngã Thể: Theo quan điểm cõi trần, thể này không phải là một thể, dù là nội tâm hay ngoại cảnh. Tuy nhiên, đó là trung tâm của Chân Ngã thức (egoic consciousness) và được tạo thành bằng sự kết hợp của tuệ giác thể (buddhi) và thượng trí (manas). Thể này tương đối trường cửu và kéo dài suốt chu kỳ dài của các lần luân hồi, và chỉ bị tan rã sau cuộc điểm đạo thứ tư, khi con người không cần tái sinh thêm nữa. (ĐĐNLVTD, 217)
- Chân Ngã thể đôi khi được gọi (dù không chính xác) là “Karana sarira”, nằm ở cõi phụ (phân cảnh) thứ ba của cõi (cảnh) trí, tức cõi trừu tượng thấp nhất. (LVLCK, 707)
– Chân Ngã thể của thường nhân (average causal body) ở cõi phụ thứ ba của cõi trí (TVTTHL, 3)
– Chân Ngã thể được tạo ra nhờ vào sự sống hay lửa dương (positive life, or fire) của Tinh thần (lửa điện) gặp gỡ lửa âm (negative fire) của vật chất hay “lửa do ma sát”, sự kiện này tạo ra sự bừng sáng của lửa thái dương. … Chân Ngã thể (linh hồn thể) là lớp vỏ (sheath) bằng chất trí, được tạo ra vào lúc biệt lập ngã tính do sự tiếp xúc của hai lửa. Lực hay năng lượng tuôn đổ qua từ các cõi cao (hơi thở của Chân Thần, nếu bạn đồng ý gọi thế) tạo ra một chân không (vacum) hay một cái gì tương tự với một bọt hỗn nguyên (bubble in Koilon) và lớp vỏ của linh hồn thể – vòng giới hạn của Sự sống trung ương được tạo ra. Bên trong lớp vỏ này có ba nguyên tử được đặt tên là nguyên tử thường tồn hạ trí (mental unit), nguyên tử thường tồn cảm dục và nguyên tử thường tồn hồng trần… (LVLCK, 506–507)
– Chân Ngã thể là hiện thể (vehicle) của Chân Ngã. (TVTTHL, 3)
– Chân Ngã thể được tạo thành bằng sự kết hợp của luồng sóng sinh hoạt thứ hai và thứ ba. (LVLCK, 94)
Mục tiêu tiến hóa của con người trong ba cõi thấp – hồng trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí – là chỉnh hợp (alignment) Phàm Ngã tam phân với Chân Ngã thể cho đến khi trở thành đường thẳng duy nhất và con người trở nên Đấng Duy Nhất (One). (TVTTHL, 5)
- Chân Ngã thể tức là thể biểu lộ (body of manifestation) của Chân Ngã. (LVLCK, 803)
- Sau khi được điểm đạo, Chân Ngã thể ở trên cõi phụ thứ hai của cõi trí, và bấy giờ, Chân Thần mới bắt đầu kềm chế. (LVLCK, 578)
- Body egoic tức là causal body (LVLCK, 261)
- Chân Ngã thể chỉ là lớp vỏ (sheath) của Chân Ngã (Ego). (LVLCK, 179)
- Tinh thần được bọc (incased) trong Linh hồn thể được gọi là linh hồn, con người cá biệt (individual), chân nhân. (MTNX, 213)
+ Karana sarira: Tức là linh hồn thể (egoic body). (ASCLH, 14)
+ Thể nguyên nhân: Thể nhân khởi, Chân Ngã thể.
+ Thể nhân khởi (causal body, linh hồn thể, thể nguyên nhân): Về mặt chuyên môn, mầm mống này được gọi là Karana Sarira, tức thể nguyên nhân, vì nó là nguyên nhân (cause) của việc hưởng phúc lạc (enjoyment) hoặc hứng chịu đau khổ (suffering) của con người. Thể nhân khởi này được tạo bằng thể (Kosa) thứ năm (Anandamaya) của con người và gắn liền (adhere) với linh hồn bao lâu mà linh hồn còn bị bao bọc trong thể thô trược hoặc thể tinh anh (Sthula or Sukshma Sarira) và tiêu tan hoàn toàn khi linh hồn tự giải thoát (extricates itself) khỏi các hạn chế (trammels) của hai thể nói trên, vì lúc bấy giờ, khi linh hồn đạt đến sự thanh khiết nguyên thủy của nó và có thể nói là đốt cháy hết mọi dấu vết pha trộn của nó với thể xác (body), kể cả thể nguyên nhân (Karana Sarira). Điều này xảy ra khi linh hồn được chuẩn bị cho lần giải thoát cuối cùng, Moksha. Dĩ nhiên, cho đến lúc đó, Karana Sharira, mầm mống (seed), kết quả của các hành động trước kia, vẫn còn hiệu lực và khẳng định một ảnh hưởng chi phối mạnh mẽ lên trên các hành vi của con người. (X. thêm “Chân Ngã thể”) (LVLCK, 391)
+ Linh hồn thể chưa hư hoại ở Devachan, trở thành nơi chứa (receptacle) các đặc tính (qualities) của con người và đưa các đặc tính đó phát triển thêm trong kiếp tới ở cõi trần… Nếu không có linh hồn thể thì các kinh nghiệm trí tuệ và đạo đức (thường hiện ra dưới hình thức khả năng) không chứa lại được. (MTNX, 220)
+ Theo Nghiệp tái sanh: Khi chúng ta có lòng tin, có sự thực hành thật trọn vẹn đối với giáo pháp của đức Phật, chắc chắn lúc mạng chung, những nghiệp thiện mà chúng ta đã tạo sẽ hướng chúng ta đến cảnh giới tốt đẹp. Giống như bơ hay dầu, dù chúng ta đổ ở dưới đáy, cũng sẽ nổi lên mặt nước. Hoặc giống như một cái cây, hướng về phía nào thì sẽ đổ về phía đó.
Trong Tương Ưng Bộ Kinh, bài kinh số 21: Mahanama hỏi đức Phật [Khi con gặp cảnh ác loạn nguy hiểm đến tính mạng]. Lúc đó con bị hoang mang, không còn giữ được chánh niệm, không nhớ đến Phật, không nhớ đến Pháp, không nhớ đến Tăng. Giả sử, lúc đó con mạng chung thì sẽ sinh về cõi nào?
Đức Phật dạy: Chớ có sợ, này Mahanama, ai đã lâu ngày có lòng tin trong sạch, chí thành, thâm sâu và tu tập trọn vẹn về tín, giới, văn, thí, tuệ, với bất cứ cái chết nào, người đó cũng sinh về cảnh giới tốt đẹp. Tiếp đó, đức Phật lấy một ví dụ rất hay:
– Ví như, này Mahanama, một người nhận chìm một ghè bơ, hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu và đập bể cái ghè ấy thì các mảnh ghè sẽ chìm xuống nước, nhưng bơ hay dầu sẽ nổi lên trên. Cũng như thế, một người đã lâu ngày có lòng tin trong sạch, chí thành, thâm sâu và tu tập trọn vẹn về tín, giới, văn, thí, tuệ thì trong bất cứ hoàn cảnh nào, sau khi mạng chung, cũng sẽ sinh về cảnh giới tốt đẹp.[4]
Ngài cũng dạy Mahanama rằng: Người nào thành tựu niềm tin trong sạch, bất động đối với Phật, Pháp, Tăng và thành tựu các tịnh giới thì sẽ nghiêng về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn. Tiếp đó, đức Phật cũng lấy một ví dụ rất hay:
– Ví như, này Mahanama, một cái cây nghiêng về phía Đông, hướng về phía Đông, xuôi về phía Đông, nếu bị chặt đứt từ gốc rễ, nó sẽ đổ về phía nào?
Mahanama thưa: Bạch đức Thế Tôn, nó sẽ đổ về phía Đông.
Đức Phật nói: Cũng vậy, người nào thành tựu niềm tin trong sạch, bất động đối với Phật, Pháp, Tăng và thành tựu các tịnh giới thì sẽ nghiêng về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn.[5]
* Cấp Cô Độc Tái Sanh: .... Thăm hỏi và hướng dẫn phương pháp tu tập cho Cấp Cô Độc xong, Xá-lợi-phất và A-nan trở về tinh xá. Không lâu sau, Cấp Cô Độc thân hoại mạng chung, ra đi một cách an nhiên. Sau khi nhắm mắt, ông sinh về cõi trời Đâu-suất. Vừa hóa sinh, ông liền xuống lại vườn Kỳ-đà, nơi đức Phật đang trú ngụ. Bây giờ, ông là một thiên tử với dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực. Khi ông xuất hiện, dù trời còn tối, cả khu vườn Kỳ-đà sáng lên rạng rỡ. Ông đến đảnh lễ đức Phật, đọc một bài kệ tán thán Ngài, rồi biến mất.
Sáng hôm sau, đức Phật nói với đại chúng Tỳ-kheo rằng, hồi đêm có một vị thiên tử dung mạo xinh đẹp, hào quang sáng rực cả khu vườn đến thăm Ta. Lúc đó, A-nan hỏi đức Phật: Bạch đức Thế Tôn, vị thiên tử đó có phải là Cấp Cô Độc không?
Đức Phật nói: Đúng, vị thiên tử đó chính là Cấp Cô Độc.[3] (Nguồn: Chi tiết cư sỹ Cấp Cô Độc)
+ Cộng nghiệp tái sanh - Sám hối thay: Chúng sanh theo nghiệp mà thọ sanh. Nếu cha mẹ, ông bà tạo ác nghiệp, con cháu thừa hưởng phước báo nhưng cũng gánh phần dư báo. Vì tâm thức liên tục chuyển biến, nghiệp lực nối tiếp nhau thành dòng cộng nghiệp. [Dòng nghiệp lực = tập khí + oán nghiệp + cộng nghiệp. Ví dụ: tổ tiên tạo nghiệp sát, con cháu hoặc cùng làm nghề sát sinh, hoặc bị bệnh tật, tai nạn. Nếu không đoạn, dòng này tiếp diễn vô tận] (HT Tuyên Hóa - Pháp Ngữ, Q.3)
Muốn thoát nghiệp tổ tiên, trước hết phải nhận biết, rồi chí thành sám hối thay cho họ và chính mình. Vì khi sám hối, mình thay đổi tâm thức, cắt đứt dòng nghiệp. (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng, tập 2)
[ Hành trì: Tụng Kinh Địa Tạng, vì kinh này có công năng cứu khổ, giải oán, báo ân. Trước khi tụng, phát nguyện sám hối thay cho tổ tiên: Con nguyện thay mặt cha mẹ, ông bà nhiều đời, xin sám hối các ác nghiệp sát, đạo, dâm, vọng, nhị khẩu, ác khẩu, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, tham, sân, si đã gây tạo. Nguyện nhờ công đức tụng kinh, mà oán thù đều tiêu tan, nghiệp báo được hóa giải.
Hồi hướng cho oan gia trái chủ. [Giảng: Nếu oan gia trái chủ của tổ tiên chưa được siêu độ, họ theo báo con cháu. Khi tụng kinh, niệm Phật, phải hồi hướng cho họ. Đó là tự cứu mình. (HT Tuyên Hóa - Pháp Ngữ, Q.4)
Hành trì: Mỗi lần tụng kinh, niệm Phật, cúng dường, phóng sanh đều hồi hướng "Nguyện đem công đức này, hồi hướng cho tất cả các chúng sanh và cho các oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp của con và tổ tiên. Nguyện họ lìa khổ được vui, phát tâm Bồ đề, đồng sanh Tịnh độ."
+ Kinh tiểu nghiệp phân biệt:
289. ... thanh niên Subha Todeyyaputta bạch Thế Tôn: Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gi, do duyên gì, giữa loài người với nhau khi họ là loài người, lại thấy có người liệt, có người ưu?........
297. Ở dây, này thanh niên, con đường đưa đến đoản thọ, dẫn đến đoản thọ; con đường đưa đến trường thọ, dẫn đến trường thọ; con đường đưa đến nhiều bệnh, dẫn đến nhiều bệnh; con đường đưa đến ít bệnh, dẫn đến ít bệnh; con đường đưa đến xấu sắc, dẫn đến xấu sắc; con đường đưa đến đẹp sắc, dẫn đến đẹp sắc; con đường đưa đên Quyền thế nhỏ, dân đên quyên thê nhỏ; con đường đưa đên quyền thê lớn, dẫn đên quyên thê lớn; con đường đưa đên tài sản nhỏ? dẫn đến tài sản nhỏ; con đường đưa đến tài sản lớn, dẫn đến tài sản lớn; con đường đưa đến gia đình hạ liệt, dẫn đến gia đình hạ liệt; con đường đưa đến gia đình cao quý, dẫn đến gia đình cao quý; con đường đưa đến trí tuệ yếu kém dẫn đến trí tuệ yếu kém; con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ, dẫn đến trí tuệ đầy đủ.
Này thanh niên các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng? nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Subha Todeyyaputta nói với Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thaỵ! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuông, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy? [Chánh] pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, guy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đên mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. (Mời xem bản đầy đủ: Kinh tiểu nghiệp phân biệt)
+ Cộng nghiệp tái sanh - Tu sám hối thay: Chúng sanh theo nghiệp mà thọ sanh. Nếu cha mẹ, ông bà tạo ác nghiệp, con cháu thừa hưởng phước báo nhưng cũng gánh phần dư báo. Vì tâm thức liên tục chuyển biến, nghiệp lực nối tiếp nhau thành dòng cộng nghiệp. [Dòng nghiệp lực = tập khí + oán nghiệp + cộng nghiệp. Ví dụ: tổ tiên tạo nghiệp sát, con cháu hoặc cùng làm nghề sát sinh, hoặc bị bệnh tật, tai nạn. Nếu không đoạn, dòng này tiếp diễn vô tận] (HT Tuyên Hóa - Pháp Ngữ, Q.3)
Muốn thoát nghiệp tổ tiên, trước hết phải nhận biết, rồi chí thành sám hối thay cho họ và chính mình. Vì khi sám hối, mình thay đổi tâm thức, cắt đứt dòng nghiệp. (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng, tập 2)
[ Hành trì: Tụng Kinh Địa Tạng, vì kinh này có công năng cứu khổ, giải oán, báo ân. Trước khi tụng, phát nguyện sám hối thay cho tổ tiên: Con nguyện thay mặt cha mẹ, ông bà nhiều đời, xin sám hối các ác nghiệp sát, đạo, dâm, vọng, nhị khẩu, ác khẩu, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, tham, sân, si đã gây tạo. Nguyện nhờ công đức tụng kinh, mà oán thù đều tiêu tan, nghiệp báo được hóa giải.
Hồi hướng cho oan gia trái chủ. [Giảng: Nếu oan gia trái chủ của tổ tiên chưa được siêu độ, họ theo báo con cháu. Khi tụng kinh, niệm Phật, phải hồi hướng cho họ. Đó là tự cứu mình. (HT Tuyên Hóa - Pháp Ngữ, Q.4)
Hành trì: Mỗi lần tụng kinh, niệm Phật, cúng dường, phóng sanh đều hồi hướng "Nguyện đem công đức này, hồi hướng cho tất cả các chúng sanh và cho các oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp của con và tổ tiên. Nguyện họ lìa khổ được vui, phát tâm Bồ đề, đồng sanh Tịnh độ."
+ Samsara: X. Vòng luân hồi.
I- VÒNG LUÂN HỒI THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Vòng luân hồi - Chỉ bánh xe vĩ đại của kiếp sống vô thường mà con người bị cuốn vào trong đó…(LVLCK, 1083).
+ Việc xoay chuyển của vòng luân hồi tức là việc một thực thể đi xuống luân hồi xuyên qua ba cõi thấp rồi quay trở lên.(LVLCK, 277)
+ Vòng tái sinh/ luân hồi: Trên vòng tái sinh, linh hồn được đưa xuống lâm phàm, sau đó trở lên và ra khỏi tù ngục của linh hồn. Nhờ việc xoay chuyển vòng luân hồi, con người học được các bài học cần thiết cho mình, theo chu kỳ, tạo ra các hiện thể biểu lộ của mình trong ba cõi thấp và theo cách này, ở dưới sự dẫn dắt của linh hồn và được Thánh Đoàn và các trường của Thánh Đoàn giúp đỡ, con người đạt được sự hoàn thiện (CVĐĐ, 92)
II- VÒNG LUÂN HỒI THEO PHẬT GIÁO
1. Nhân luân hồi - 12 nhân duyên cho ta biết:
* Hai nhân gốc của Nhân luân hồi:
- Quá khứ Vô Minh khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hành).
- Hiện tại Ái dục cũng khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hữu) Vô Minh là cha, Ái dục là mẹ, khổ đau là con.(sư Giác Tuệ)
* Hai sự thật: Theo chiều thuận từ Vô Minh đến Lão Tử: - Vô Minh, Hành => là Tập Đế quá khứ; - Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ => là Khổ Đế hiện tại; - Ái, Thủ, Hữu => là Tập Đế hiện tại; - Sanh, Lão Tử => là Khổ Đế vị lai; (Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục...)
2. Vòng luân hồi: Có mười pháp giới, trong đó chúng sình thường bắt buộc luân hồi sáu cõi theo nghiệp. Ba pháp giới Thanh văn - Duyên giác - Bồ tát chỉ tái sinh theo nguyện lực, mà không Phải tái sinh bắt buộc, họ tu hành cho đến khi thành Phật.
+ NGUYÊN NHÂN CỦA LUÂN HỒI VÀ SỰ TRỞ VỀ CHÂN TÂM - NHƯ LAI TẠNG - MINH GIÁC DIỆU MINH
... Đức Phật cũng như muôn chúng sinh, ban đầu từ Hư không do mê lầm muốn lấy "Cái Sáng chồng lên cái Sáng diệu minh đã sẵn có trong Hư không" nên sinh ra Mê mờ điên đảo trong Luân hồi sinh tử.
Trích đoạn trong Kinh ngài Phú Lâu Na hỏi Đức Phật khi Minh Giác - Trở về Chân Tâm/ Như Lai Tạng ... rồi thì còn phải tiếp tục vòng luân hồi mới không như dưới đây:
Đức Phật bảo: Chính ba thứ sát đạo dâm là căn bản. Do nhân duyên đó, nghiệp quả tương tục.
Phú-lâu-na, ba thứ tương tục điên đảo ấy, đều là do tánh sáng hư vọng muốn soi rõ tánh giác. Nhân cái liễu tri mà phát ra cảnh tướng, theo vọng tưởng mà kiến chấp phát sinh. Các tướng núi sông đất liền thứ lớp dời đổi. Do hư vọng nầy mà xoay vần không cùng tận.
Nếu cái diệu giác dó, vốn bản tính là diệu minh, cùng với tâm Như Lai không tăng không diệt. Không có cớ gì bỗng nhiên phát sanh các tướng hữu vi, núi sông đất liền. Như Lai nay đã chứng được bản giác diệu không, thế thì núi sông đất liền, các tập khí hữu lậu hữu vi, có còn sanh khởi trở lại hay không?
Đức Phật bảo Phú-lâu-na, ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm hướng nam thành hướng bắc, thì cái mê nầy do mê mà có, hay do ngộ mà ra? Phú-lâu-na bạch: “Người mê như vậy, cũng không do nơi mê, cũng chẳng do nơi ngộ. Sao vậy? Mê vốn không có gốc, làm sao do nơi mê được? Ngộ chẳng sinh ra mê, làm sao lại do nơi ngộ?”
Đức Phật dạy, “Nếu người mê kia, chính lúc đang mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ sao? Người ấy qua được cái mê, đối với xóm làng đó, có còn sanh mê nữa không?” Bạch Thế tôn, không.
Phú-lâu-na, các Đức Như Lai trong cả mười phương cũng đều như vậy. Cái mê ấy không có gốc, tánh nó rốt ráo là không. Xưa vốn chẳng có mê, tựa như có mê có giác. Giác ngộ được cái mê rồi thì cái mê ấy không còn nữa, cái giác ấy không sinh ra cái mê. (Xem nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4)
Xem chi tiết tại trang: Tổng hợp về Luân hồi - Chết và Tái sinh
+ Sanh Tử khổ đau: Bát khổ là gì? Ðó là: Sinh, lão, bịnh, tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ, Ngũ ấợm xí thạnh khổ, Cầu bất đắc khổ. Tám cái khổ này làm hại con người trên thế gian nhiều lắm.
1. Sanh khổ: Con người sinh ra là đã chịu khổ nạn vô cùng rồi. Khi còn trong bụng mẹ, mẹ ăn đồ lạnh thì con cảm giác như là ở trong núi tuyết vậy; mẹ ăn đồ nóng thì con tưởng như ở trong núi lửa vậy. Rồi đủ chuyện không như ý phát sinh. Ðến lúc sinh ra thì cũng như bi ép giữa hai hòn núi vậy; nên con nít sinh ra là khóc oa oa: "Khổ quá! Khổ quá!" Ðó là vì con nít muốn than khổ nhưng không biết nói nên chỉ khóc.
Nếu con người không có thân thể thì không có cảm giác đau khổ gì cả, nhưng khi có thân thể thì có đủ thứ cảm giác thống khổ. Nên lúc sinh ra cũng giống như lúc con rùa bị rứt khỏi mu vậy. Thống khổ khó mà nhẫn nại được.
2. Tử khổ: Có sinh thì phải có chết. Lúc chết thì Tứ Ðại phân tán, bị gió nghiệp thổi đi. Ðau khổ đó thật khó mà diễn bày được. (HT Tuyên Hóa khai thị Q.2)
560. SANH LÀ KHỔ
Nói sanh là khổ; nói thế là vì lẽ gì? Này chư Hiền, sanh là chúng sanh kia, với chủng loại sai biệt của chúng sanh kia, sanh thì sanh, xuất hiện thì xuất hiện, thành hình thì thành hình, hiện khởi năm uẩn rồi liền có mạng căn. Như vậy gọi là sanh.
Sanh là khổ, đó là chúng sanh khi sanh thân cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác toàn diện.
Tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện.
Thân tâm cảm nghiệm khổ, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác khổ, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện.
Tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện.
Thân tâm cảm nghiệm nóng, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác nóng, cảm giác toàn diện. Thân cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện.
Tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện.
Thân tâm cảm nghiệm sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm nghiệm toàn diện; cảm giác sự nóng hực, sự bức rức, ưu sầu buồn bã, cảm giác toàn diện. Này chư Hiền, vì lẽ ấy mà nói sanh là khổ. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, Phẩm 3, số 31); (Trung A Hàm, Kinh Niệm, Phẩm 9, số 102)
+ Vua Thần Nông (Trung Hoa) - Thân tái sinh của Bồ Tát Dược Vương - Pháp vương tử Dược Vương
Hai vị Pháp vương tử Dược vương, Dược thượng cùng với năm trăm vị Phạm thiên trong chúng hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật rồi bạch Phật rằng, “Từ vô thuỷ kiếp đến nay, chúng con làm lương y trong thế gian, miệng thường nếm các thứ cỏ cây, đá, kim loại trong cõi giới ta-bà nầy, số mục có đến tám vạn bốn ngàn thứ. Chúng con biết hết các vị đắng, chua, mặn, nhạt, ngọt, cay..., cùng sự hoà hợp và biến đổi từ các vị ấy sinh ra. Thứ nào là lạnh, thứ nào tính nóng, thứ nào độc, thứ nào không độc, chúng con đều biết rõ.”
Giảng giải:
Hương Nghiêm đồng tử ngộ đạo là do quán sát hương trần. Ưu-ba-ni-sa-đà ngộ đạo là nhờ quán sát sắc trần. Kiều-trần-na ngộ đạo là do quán sát thanh trần. Hai vị Bồ-tát Dược vương, Dược thượng ngộ đạo là nhờ quán sát vị trần.
Hai vị Bồ-tát Dược vương, Dược thượng là hai anh em. Trong thời quá khứ, Bồ-tát Dược vương có phát lời nguyện sẽ làm vị lương y cho thế gian, thế nên ai đến gặp ngài đều được chữa lành bệnh, bất luận họ bị bệnh nặng đến mức nào. Ngài phát lời nguyện này vào thời Đức Phật Lưu ly quang Như Lai. Có tỷ-khưu Nhật Tạng giảng nói diệu pháp, trong pháp hội có vị trưởng giả tên là Tinh tú quang, nghe pháp sanh lòng vui mừng, nên đã cùng với người em của mình phát nguyện như vậy trước tỷ-khưu Nhật Tạng.
Ở Trung Hoa, có Vua Thần Nông (Emperor Shen Neng) cũng nếm được 100 loại thảo mộc và phát minh ra cách trị bệnh bằng dược thảo. Dạ dày của ông giống như tấm gương, có thể thấy được thức ăn là độc hay hiền. Nhưng không may, dân Trung Hoa ngày nay hoàn toàn không hiểu được những tinh tuý từ lịch sử như thế nầy, họ cho rằng đó chỉ là những truyền thuyết. Thực ra, đây là những sự kiện rất bình thường, đều có ghi trong các tài liệu y học của Trung Hoa. Nhưng sinh viên Trung Hoa thời hiện đại không đọc những sách cổ, thế nên họ không hiểu được những chuyện nầy. Chính tôi đã đọc được chuyện nầy, tôi tin rằng Vua Thần Nông là thân tái sinh của Bồ-tát Dược vương, ngài thị hiện ở Trung Hoa để giúp cho nền tảng nghiên cứu y học ở đó.
Hai vị Pháp vương tử Dược vương, Dược thượng cùng với năm trăm vị Phạm thiên trong chúng hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy.
Đức Phật là Pháp vương, nên tên gọi dành cho các vị Bồ-tát là Pháp vương tử.
Hai vị Bồ-tát cùng năm trăm đồ chúng của họ liền từ chỗ ngồi của mình đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật rồi bạch Phật rằng, “Từ vô thuỷ kiếp đến nay, chúng con làm lương y trong thế gian, miệng thường nếm các thứ cỏ cây, đá, kim loại trong cõi giới ta-bà nầy, số mục có đến tám vạn bốn ngàn thứ.”
Vào thời đó, ở Ấn Độ các chất của thuốc được hoà hiệp từ bốn thứ, cỏ, cây, kim loại và đá. Chúng con biết hết các vị đắng, chua, mặn, nhạt, ngọt, cay..., cùng sự hoà hợp và biến đổi từ các vị ấy sinh ra. Chúng con biết rõ vị nào thích hợp vị nào không. Vị nào có thể hoà hiệp để trị một số bệnh, vị nào không thể hoà hiệp, nhưng khác với loại trước, có thể gây chết người nếu khi hoà hiệp chúng lại. Thế nên trong Dược tính bộ có nói, “Căn bản về thảo mộc, có mười tám loại độc và 19 loại hiền. Ô đầu tương kị với các thứ Bán hạ, Bạch liễm, Qua lâu. Cam thảo được trình bày trong Dược tính bộ như là thảo dược có ưu thế hoà hiệp với nhiều thứ thuốc khác, nhưng nếu đem cam thảo dùng chung với Hải tảo (海藻hai zao), Đại kích (大戟da ji), Cam toại (甘遂 gan sui), Nguyên hoa (元花yuan hua) mà cho bệnh nhân dùng thì họ có thể chết. Lê lô (蔾蘆Li lo) và Tế tân (細莘xi xin) dùng chung cũng có thể làm chết người. Nhưng Tế tân dùng riêng thì có thể chữa được bệnh nhức đầu.
Chúng con biết rõ những dược thứ thuốc nầy thích hợp hay nghịch nhau khi chúng hoà hiệp lại, và thứ nào sẽ biến đổi tính chất, hoặc điều gì sẽ xảy ra khi chúng hoà hiệp với những thứ có độc tính, cũng như biết được thứ nào là lạnh, thứ nào tính nóng, thứ nào độc, thứ nào không độc, chúng con đều biết rõ.”
Dược tính của nó có thể là hàn, nhiệt, ôn, bình. Những người tánh hàn thì không thể dùng thuốc có vị hàn, những người có tánh ôn thì không thể nào chịu được thuốc có vị ôn. Hai vị Bồ-tát đều biết rõ tính độc của từng vị thuốc như thế nào trong từng loại dược thảo. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Q 5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người được hồi hướng nhận được bao nhiêu phần?
Kinh Địa Tạng dạy: “Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.”
+ Tại sao phải hồi hướng mới có Quả báo lớn chân thật: Lại có nghiệp hay khiến chúng sinh quyết định thọ quả báo.
Nếu người ở chỗ Phật Pháp Tăng và người trì giới dùng tâm tăng thượng sâu dày (rất quý kính) mà bố thí. Do nghiệp thiện này phát nguyện hồi hướng tức được vãng sinh vào cõi lành. Đó gọi là quyết định có quả báo.
Lại có nghiệp hay khiến chúng sinh không quyết định có thọ quả báo.
Nếu nghiệp chẳng phải là tâm dũng mãnh tăng thượng (chí thành chí thiết), làm rồi chẳng tu tập thêm, lại chẳng phát nguyện hồi hướng thọ sinh. Đó gọi là không nhất định có được quả báo. (Nguồn: Phật nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ Hồi hướng cho người thân đã chết: Người đã chết, thần thức chưa hẳn đi đầu thai ngay, hoặc họ thọ sanh vào cảnh giới nào đó theo nghiệp lực. Dù họ đã tái sinh, thì công đức của con cháu vẫn có thể cảm ứng, giúp họ giảm khổ hoặc tăng phước báo ở đời sau. (Tuyên Hóa Thượng Nhân Pháp Ngữ, quyển 2)
[Kinh Địa Tạng - phẩm thứ 7: Nếu có chúng sanh nào vì cha mẹ quyến thuộc mà tu phước bố thí, tụng kinh, niệm Phật, thì người chết được ba phần công đức]. HT Tuyên Hóa giải thêm: Cha mẹ sanh ta ra thân này, dù họ không còn nữa, nhưng linh tánh vẫn tiếp tục trong lục đạo. Mình tụng kinh, họ cảm được, vì tâm thức vốn tương thông. Đó cũng là cách báo ân tối thắng. (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng, tập 2)
2. Đọc kinh để hồi hướng cho các oan gia trái chủ của ông bà tổ tiên – vì sao? HTTH giảng rõ: “Chúng ta và tổ tiên thường có cộng nghiệp. Nếu họ tạo oán nghiệp, các oan gia trái chủ đó cũng ảnh hưởng đến con cháu, vì cùng một dòng nghiệp lực. Khi tụng kinh sám hối, mình giải oan cho họ, cũng tự giải oán cho mình.” (Tuyên Hóa Thượng Nhân Pháp Ngữ, quyển 3)
“Người mất dù ở đâu cũng cần nhân duyên Tam Bảo. Không nên chỉ khóc lóc mà hãy tụng kinh, phóng sanh, in kinh, cúng dường Tăng, lập bài vị để giúp họ sớm thoát khổ, vãng sanh.” (Tuyên Hóa Thượng Nhân Pháp Ngữ, quyển 4)
+ Phật dạy Minh Thiên về Hồi Hướng:
- Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Và ở chỗ tất cả chúng sanh đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Được quả báo công đức, hồi hướng Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Minh Thiên ! Bồ tát nào hồi hướng như vậy, gọi là Bồ tát tu thiện ít mà được quả báo to lớn, tạo nhiều công đức, phước báo vô lượng.
- Khi Bồ tát này thành tựu vô lượng công đức, đem công đức ấy hồi hướng trí huệ vô lượng. Lại cùng tất cả chúng sanh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề. Ba loại công đức này có ba loại hồi hướng. Những gì là ba? Là quá khứ không, đương lai không, hiện tại không. Không có người hồi hướng, không có pháp hồi hướng, không có chỗ hồi hướng. Đại Bồ tát nên làm hồi hướng này. Khi làm việc hồi hướng này, ba chỗ đều thanh tịnh. Đem công đức thanh tịnh này hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Làm việc hồi hướng này, không có phàm phu và pháp phàm phu, cũng không có tín hành, cũng không có pháp hành, không có tám hạng người, không có Tu đà hoàn hướng, Tu đà hoàn, không có Tư đà hàm hướng, Tư đà hàm, không có A na hàm hướng, A na hàm, không có A la hán hướng, A la hán, không có Bích Chi Phật hướng, Bích Chi Phật, không có Phật và người hướng Phật. Vì sao? Vì pháp tánh không duyên bất sanh bất diệt, không chỗ trú. Cho nên Đại Bồ tát dùng ba loại hồi hướng này ba loại công đức thanh tịnh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Bồ tát này hồi hướng rồi, lại nguyện: “Tôi sanh ra chỗ nào cũng thường gặp tam muội thậm thâm của chư Phật, thấy vô lượng Phật, thành tựu đa văn, trí huệ thanh tịnh. Thề không bỏ tất cả chúng sanh”. Khi thuyết như vậy, trăm ngàn trời người đều nguyện muốn vãng sanh về nước Phật A Súc.
- Nếu có thiện nam, thiện nữ nào học kinh hồi hướng này, nên biết người này ắt đắc pháp Vô sanh nhẫn, có thể độ người chưa độ, trăm ngàn vô lượng chúng sanh an lạc. (Nguồn: Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng)
+ Hồi hướng: Là đem công đức tu học của mình phân ra cho tất cả chúng sanh cùng hưởng. Bản thân ta không cần nữa thì phân ra cho tất cả chúng sanh hưởng. Bản thân ta nếu vẫn có một chút “ta cùng hưởng chung với tất cả chúng sanh”, thì “ngã” vẫn chưa xả hết, vẫn còn chấp ngã ở bên trong. Nếu chúng ta đem công đức phân cho tất cả chúng sanh hưởng, bên trong không có “ngã”, thì bạn mới có thể đi trên đường Bồ-đề. (Nguồn: Xem Kinh Thập thiện - Tập 40 - PS Tịnh Không giảng)
+ Thệ nguyện hồi hướng: Phật dạy Bát quan trai xong, lại dạy thính chúng phát nguyện: “Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào ba đường dữ, không rơi vào bát nạn, không ở biên địa, không rơi vào chỗ hung ác, không theo ác tri thức, thờ phụng cha mẹ, không tu tập tà kiến, sinh vào trung tâm quốc gia nghe pháp lành này. Phân biệt suy nghĩ thành tựu từng pháp. Đem công đức giữ gìn trai pháp này nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sinh. Đem công đức này bố thí cho người, khiến cho tất cả cùng thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Cũng đem phước báu thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam thừa, khiến không thối chuyển nửa chừng” (Xem nguồn)
+ Hồi hướng công đức đúng: Lại nữa, này Ðịa Tạng! Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào ở trong Phật Pháp đã gieo trồng thiện căn—hoặc là bố thí cúng dường, hoặc là tu bổ chùa tháp, hoặc sửa sang kinh điển, cho đến chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước...; những thiện sự như thế mà đều có thể đem hồi hướng cho Pháp Giới, thì công đức của người này sẽ là trong trăm ngàn đời đều được hưởng sự vui sướng vi diệu, tối thượng.
Còn như chỉ hồi hướng cho thân quyến trong gia đình hoặc cho lợi ích của riêng mình, thì quả báo là sẽ được hưởng sự vui sướng trong ba đời, cứ thí xả một thì được báo đáp vạn lần trội hơn.
Cho nên, này Ðịa Tạng! Những nhân duyên của sự bố thí là như thế!" (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P10 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hồi hướng: Bấy giờ Đế thích lại thưa, bạch đức Thế tôn, thiện nam thiện nữ vì cầu vô thượng bồ đề mà tu tập đạo hạnh của cả tam thừa, thì công đức họ có được làm sao hồi hướng về trí Nhất thế trí? Phật dạy Đế thích, thiện nam tử, ai cầu vô thượng bồ đề, tu tập đạo hạnh tam thừa, có bao công đức mà nguyện hồi hướng, thì ngày đêm sáu thời, thiết tha chí thành, tác bạch như vầy, con từ vô thỉ đến nay, nơi Tam bảo con tu hành được bao công đức, cho đến cho loài bàng sinh một chút thực phẩm, hoặc khéo lời hòa giải tranh chấp, hoặc lãnh thọ ba pháp qui y và các giới pháp, hoặc sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, tất cả công đức trên đây, nay con tác ý, thu góp lại hết, xoay về hiến cho hết thảy chúng sinh, không có tâm lý tiếc lẫn, và đó là công đức thống thuộc phần giải thoát. Như chư vị Thế tôn thấy biết thì không thể cân lường, trong sáng vô ngại, có bao nhiêu công đức đều đem xoay lại hiến cho tất cả chúng sinh, không trú tướng cũng không xả tướng (41) , ..... Rồi do công đức này mà xuất sinh ra nữa vô lượng công đức, và cũng hồi hướng vô thượng bồ đề. ...(Nguồn: Kinh Kim Quang Minh/ Ánh Sáng Hoàng Kim)
+ Phát Bồ Đề tâm: Người tu hành nếu không phát Bồ Đề Tâm, thì dù tu hành vạn kiếp cũng chỉ lo tự lợi, không thể thành tựu quả Bồ Tát hay Phật. Phát Bồ Đề Tâm là nền tảng của đạo Bồ Tát. (HT Tuyên Hóa - Pháp Ngữ, tập 1)
- Không phát Bồ Đề Tâm thì tu hành chỉ được phước báo nhân thiên, khó ra khỏi sanh tử. Phát Bồ Đề Tâm mới siêu xuất tam giới.” (HT Tuyên Hóa - Pháp Ngữ, tập 2)
- Phát Bồ Đề Tâm mà phá giới thì giống như có hạt giống quý nhưng không biết vun trồng, sẽ bị cỏ dại lấn át. Nhưng không phát Bồ Đề Tâm thì không có hạt giống giác ngộ, chỉ hưởng phước hữu lậu, không ra khỏi luân hồi.” (HT Tuyên Hóa - Pháp Ngữ, tập 3)
- Kinh Hoa Nghiêm nói: “Quên mất Bồ Đề Tâm mà tu hành các thiện pháp là hành động của ma.” (Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới)
+ Phải "Phát Bồ Đề Tâm": Phải “phát Bồ Đề tâm”. Trên tu cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sanh. Nói cụ thể sẽ là Tứ Hoằng Thệ Nguyện*. Tứ Hoằng Thệ Nguyện là Bồ Đề tâm, phải thật sự phát tâm độ chúng sanh........ Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, thệ nguyện thứ nhất là Bồ Tát nguyện, nguyện thứ hai và thứ ba là Bồ Tát hạnh, nguyện thứ tư là quả vị Bồ Tát. Đã phát nguyện rồi, thực hiện từ nơi đâu? Thực hiện từ đoạn phiền não. Chẳng đoạn phiền não, chính mình chẳng thể thành tựu, mà cũng chẳng thể hóa độ chúng sanh. Đã đoạn phiền não rồi mới học pháp môn. (Nguồn: Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện - PS Tịnh Không)
+ Phát tâm bồ đề: Trong tam phước - Phước thứ ba là nền tảng của Bồ Tát Đại Thừa. “Phát tâm Bồ Đề - Tin sâu nhân quả - Đọc tụng Đại thừa - Khuyến tấn hành giả”. “Phát tâm Bồ Đề” chính là phát tứ hoằng thệ nguyện. Nguyện phát rồi phải thực hiện thì cái nguyện đó không phải nguyện suông, phải làm được. Cho nên, Bồ Tát có tâm hổ thẹn; hổ thẹn đang thúc đẩy động viên họ, khiến họ có thể quyết chí hướng thượng, dũng mãnh tin tấn. Hổ thẹn là đạo. Không hổ không thẹn, không biết xấu hổ, đó là phi đạo. (Nguồn: Tịnh Nghiệp Tam Phước - PS Tịnh Không)
+ Bồ Tát tri ân báo ân - Phát Đại nguyện - Phát Thệ nguyện: Bồ Tát Hỷ Vương hỏi:
- Nếu phát tâm Bồ Đề, sẽ phải phát như thế nào? Và nhân đâu mà có thể phát được? Phật nói:
- Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát, khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề phải lập đại nguyện, và nói như thế này: “Nếu tôi chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tôi sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh được an trụ trong cảnh đại Niết Bàn, lại sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh, thảy đều được đầy đủ bát nhã ba la mật”. Như thế gọi là tự lợi cũng gọi là lợi tha.
Cho nên Bồ Tát khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề, thời được gọi là Bồ Đề nhân duyên, chúng sinh nhân duyên, chính nghĩa nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp nhân duyên, thâu nhiếp tất cả cỗi gốc thiện pháp.
Cho nên Bồ Tát được gọi là bậc Đại Thiện, cũng gọi là cỗi gốc lành của tất cả chúng sinh, vì vậy mà Bồ Tát có thể phá trừ ba nghiệp ác ở nơi thân, khẩu, ý v.v… cho tất cả chúng sinh.
Tất cả những thệ nguyện của thế gian, tất cả thệ nguyện của xuất thế gian, không có thệ nguyện nào bằng được thệ nguyện Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Thệ nguyện như thế, thực không gì hơn được, không gì trên được nữa.
Bồ Tát khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề, có năm việc: Một là tín - Hai là hạnh - Ba là cảnh giới - Bốn là công đức - Năm là tăng tưởng.
Bồ Tát nếu hay phát được tâm Bồ Đề, thì được gọi là Ma Ha Tát, quyết định sẽ chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, trọn Đại thừa hạnh.
Cho nên khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề, tức hay thâu nhiếp được tất cả thiện pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát phát tâm Bồ Đề, tu hành mong được quả vị Vô thượng Chính đẳng Chính giác, nếu không phát tâm quyết không thể nào thành được, cho nên phát tâm, là cỗi gốc của quả vị Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Bồ Tát Ma Ha Tát coi thấy chúng sinh phải chịu những sự khổ não, thì lòng sinh thương xót, nên Bồ Tát, nhân tâm từ bi, mà phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác;
Nhân phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, mà hay tu tập ba mươi bảy trợ đạo pháp, nhân tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp, mà chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác;
Cho nên phát tâm là cỗi gốc của đạo Vô thượng Bồ Đề, do phát tâm Bồ Đề, mới hay hành trì được Bồ Tát giới.
Cho nên phát tâm gọi là gốc, gọi là nhân, gọi là nhành, gọi là lá, cũng gọi là hoa, lần lượt gọi là quả, cũng gọi là hạt.
Bồ Tát phát tâm, cũng có người thì được rốt ráo, có người thì không được rốt ráo, người được rốt ráo thì mãi mãi cho đến khi chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, trọn không bao giờ thoái chuyển.
Còn người không được rốt ráo, là trong tâm đã có sự thoái chuyển.
Thoái chuyển có hai thứ: Một là thoái chuyển rốt ráo, hai là thoái chuyển không rốt ráo.
Người thoái chuyển rốt ráo, là người trọn không thể phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, không thể suy tìm, tu tập pháp đó được.
Người thoái chuyển không rốt ráo, là người thường cầu phát tâm Bồ Đề, thường tu tập pháp đó.
Phát tâm Bồ Đề có bốn thứ:
- Một là, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, hoặc được coi thấy, nghe thấy những việc bất khả tư nghị của chư Phật, Bồ Tát, liền sinh tâm cung kính, và nghĩ rằng: “Những sự của Phật, Bồ Tát là bất khả tư nghị, nếu Phật, Bồ Tát chứng được sự bất khả tư nghị ấy, thì ta đây cũng quyết sẽ chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, cho nên ta dốc lòng, nhớ nghĩ đạo Bồ Đề, và phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
- Hai là, lại có người không được coi thấy những sự bất tư nghị của chư Phật, Bồ Tát mà chỉ nghe thấy cái tạng bí mật của chư Phật, Bồ Tát liền sinh tâm cung kính tin tưởng, cầu đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, và Ma Ha Bát Nhã, cho nên phát tâm Bồ Đề.
- Ba là, lại có người không được coi thấy những việc bất tư nghị của chư Phật, Bồ Tát cũng không được nghe pháp, mà do vì khi coi thấy pháp diệt, rồi trong lòng nghĩ rằng: “Vô thượng Phật pháp, hay diệt trừ được vô lượng khổ não cho chúng sinh, làm ích lợi lớn lao cho chúng sinh, chỉ có chư Phật, Bồ Tát, mới hay làm cho Phật pháp được trường tồn bất diệt, ta ngày nay cũng nên phải phát tâm Bồ Đề, khiến cho các chúng sinh, xa lìa phiền não, thệ nguyện thân này của ta, dầu cho phải chịu mọi sự đại khổ não đi chăng nữa, ta quyết giữ gìn Phật pháp, khiến cho Phật pháp được trường tồn mãi mãi ở thế gian, cho nên ta phát tâm Bồ Đề.
- Bốn là, lại có người không được coi thấy chư Phật, Bồ Tát, không được nghe pháp, khi pháp diệt cũng không được thấy, mà chỉ thấy tất cả chúng sinh ở trong đời ác trược, đủ mọi thứ phiền não, tham dục, giận tức, ngu si, không thẹn, không hổ, bỏn xẻn, tật đố, ganh ghét, nghi ngờ, lười biến v.v…
Thấy như thế rồi, liền nghĩ rằng: “Trong đời ác trược này, chúng sinh chẳng chịu tu thiện, tâm Nhị thừa còn không phát, nữa là tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, ta nay phải nên phát tâm Bồ Đề, phát tâm Bồ Đề rồi, liền dạy bảo tất cả chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác”.
Bấy giờ Ngài Hỷ Vương Bồ Tát, lại bạch Phật rằng:
- Lạy Đức Thế Tôn! Bồ Tát tri ân báo ân bằng cách tự phát tâm Bồ Đề và dạy bảo tất cả chúng sinh đều phát tâm Bồ Đề. Song Đức Như Lai thuở xưa khi còn phải sinh tử, thoạt mới phát tâm Bồ Đề, là do nhân duyên gì? Phật dạy:
- Thiện nam tử! Về đời quá khứ lâu xa, kiếp số nhiều không thể kể tính được, khi ta còn ở trong vòng sinh tử, do phiền não trọng chướng, tạo nên những nghiệp ác ở nơi thân, khẩu, ý, nên phải đọa lạc vào các địa ngục như: Địa ngục A ha ha, địa ngục A ba ba, địa ngục A đạt đa, địa ngục Đồng phủ, địa ngục Đại đồng phủ, địa ngục Hắc thạch, địa ngục Đại hắc thạch, cho đến địa ngục Hỏa xa.
Ta nhớ khi ta phải đọa vào địa ngục Hỏa xa, ta cùng với hai người bạn phải kéo một cái xe lửa, bốc cháy ngùn ngụt, quỷ đầu trâu tên là A Bàng, ngồi ở trên xe, mắm miệng, nghiến răng, trợn mắt, miệng, mắt, tai, mũi đều phun ra khói lửa, thân thể to lớn, tay chân gân guốc, hình sắc tía đen, tay cầm gậy sắt, đánh đập luôn luôn, mặc dầu ta bị đánh đập đau đớn, nhưng vẫn cố sức kéo, lúc đó hai người bạn của ta, vì hơi sức yếu đuối, kéo không nổi, nên bị quỷ đầu trâu A Bàng, lấy đinh ba bằng sắt, đâm vào bụng, lấy gậy bằng sắt đập vào lưng, máu phun ra như suối chảy, đau đớn khó nhẫn, những người ấy cất tiếng kêu gào rất thảm thiết, người thì kêu cha mẹ, người thì kêu vợ con. Nhưng dầu có kêu gào như thế, cũng chẳng ích lợi gì đối với mình. Lúc ấy, ta thấy những người bạn của ta chịu sự khổ não như vậy, lòng ta sinh ra thương xót. Nhân lòng sinh tưởng thương xót ấy, cho nên ta phát tâm Bồ Đề, vì những người chịu tội ấy, mà khuyên bảo quỷ đầu trâu A Bàng rằng:
- Những người phải chịu tội đây, thực đáng thương xót, xin ông hãy rũ lòng nới tay, đừng nên đánh đập họ tội nghiệp.
Lúc ấy quỷ đầu trâu A Bàng, nghe ta nói như thế, lòng sinh giận tức, dùng đinh ba bằng sắt đâm vào cổ ta, chết liền tại chỗ, ta liền được thoát khỏi cái tội trăm kiếp phải đọa lạc ở nơi địa ngục Hỏa xa, chính vì lúc đó ta phát được tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác vậy.
Phật bảo Ngài Bồ Tát Hỷ Vương: Người kéo xe lửa tức là thân ta ngày nay, nhân phát tâm Bồ Đề, mà chóng được thành Phật.
Thế nên biết: Tất cả chúng sinh phát tâm Bồ Đề, sự đó chẳng phải một, hoặc nhân lòng từ bi, hoặc nhân lòng giận tức, hoặc nhân lòng bố thí, hoặc nhân lòng bỏn xẻn, hoặc nhân lòng vui mừng, hoặc nhân phiền não, hoặc nhân ân ái ly biệt, hoặc nhân sự oán ghét gặp gỡ, hoặc nhân gần gũi bạn lành, hoặc nhân bạn ác, hoặc nhân được coi thấy Phật, hoặc nhân được nghe pháp… cho nên biết: Tất cả chúng sinh, phát tâm Bồ Đề, mỗi mỗi chẳng phải đồng nhất.
Hỷ Vương nên biết! Bồ Tát Ma Ha Tát, tri ân báo ân, sự đó như thế. (Nguồn: Phẩm Phát Tâm Bồ Đề 4 - Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
+ Công đức Sơ Phát Tâm Bồ Đề: ... Thưa Phật-tử! Bồ-Tát sơ phát bồ-đề tâm được bao nhiêu công-đức? ... Giả sử có người đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở mười phương trọn một kiếp; rồi sau đó dạy họ thọ-trì ngũ-giới thanh-tịnh.
Cứ theo ý ông, công-đức của người này nhiều chăng? Thiên-Đế thưa: 'Công-đức của người này, trừ Phật ra, không ai có thể lường được.
Pháp-Huệ Bồ-Tát nói: 'Này Phật-tử! Công-đức của người này đem so với công-đức sơ-phát-tâm của Bồ-Tát chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ngàn na-do-tha ức, một phần số, một phần ca-la, một phần toán, một phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải vì chỉ muốn biết bao nhiêu tri-giải của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà vì muốn biết những tri-giải của các chúng-sanh trong tất cả thế-giới. ... (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Sơ Phát Tâm công đức)
+ Bệnh nghiệp Chướng: Nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống, cầu chết cũng chẳng thể được, đây là bệnh nghiệp Chướng. Chẳng có cách gì hết, thuốc men bác sĩ cũng chẳng giúp gì được, siêu độ, tiêu tai miễn nạn cũng chẳng được, tiêu chẳng nổi.
Nhờ sức lực của người khác tiêu không nổi, nhờ tự mình sám hối, sức mạnh của sự sám hối này rất lớn, rất lớn! Chúng sanh tạo ác nghiệp, đây là nguồn gốc thực sự của bệnh tật.
- Có tới mấy loại nguyên nhân của Bệnh:
1. Một loại là oán gia chủ nợ của họ lúc đó thưa kiện với Diêm La Vương, họ đến đó biện luận, sự việc này còn Chưa định án, nên bệnh này của họ chẳng thấy khỏe hơn, đây là một loại, đích thật có.
2. Loại thứ nhì Hoặc khó chết, tức là việc tôi vừa nói kẻ ấy còn phước báo, Chưa hưởng hết, phước báo của họ chẳng chịu xả, nếu họ chịu xả thì vấn đề sẽ được giải quyết nhưng họ chẳng chịu xả.
- Họ vẫn còn muốn hưởng phước tiếp nên chỉ còn cách nằm trên giường bệnh mà hưởng, họ chẳng chịu xả, chẳng buông xuống nổi, đây là một loại.
3. Loại thứ ba là Hoặc là khó lành, trong loại này nhất định có một số nguyên nhân sai khác, bệnh của họ chẳng lành nhưng cũng chẳng chết được. (Xem nguồn: PS Tịnh Không)
+ Làm sao phân biệt được, thế nào là bệnh nghiệp chướng (Câu Hỏi 125):
Đáp: Là chứng bệnh rất kỳ quái, không nguyên cớ gì mà đột nhiên lại phát sanh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Tật Bệnh Cùng Nghiệp Chướng
Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa.
Đó đều là do nghiệp chướng quỷ tác quái. Bởi con người có nghiệp chướng từ lâu đời, cho nên đến thời đến lúc thì quỷ tới đòi nợ. Mà cũng bởi vì con người không đủ dương khí, tức âm thịnh dương suy, cho nên quỷ mới có thể tùy tiện được. Nếu quý vị thường không phiền não và trí huệ luôn hiện tiền, thì sẽ không có sơ hở để ma quỷ thừa cơ lợi dụng.
Nhưng một khi quý vị khởi dục niệm và vô minh, quỷ bèn thừa cơ hội mà lẻn vào một cách dễ dàng.
Từ đó suy ra, tám vạn bốn ngàn tật bệnh là đều có tiền nhân hậu quả cả. Thậm chí khi quý vị bị con muỗi cắn, con ong chích, cho đến tất cả những tai nạn mà quý vị gặp phải, đều là do nhân quả đan dệt với nhau. Người hiểu rõ đạo lý nầy thì một chút lầm lỗi cũng không dám làm, vì hễ có lỗi là tự mình phải chịu báo ứng. Nhất là những ai tu Lục Độ Vạn Hạnh, họ càng phải chân thật khi dụng công, chẳng chút tơ hào hư dối. Cho nên nói: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc,” gieo nhân không ngay thật thì gặt quả cong vẹo. Và đến lúc quả đã thành rồi thì có rất nhiều phiền phức.
Bởi vậy quý vị nên “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo nghiệp ương mới” và không được có một chút nào buông thả trong mọi hành động. Dù lúc nào hay nơi đâu, mọi người cũng nên đề cao cảnh giác. Nếu không làm hại người và chỉ làm lợi cho người, vậy là mình sẽ không sanh bệnh gì cả, mà ma quỷ cũng không tìm được mình đâu.
Nói đến quỷ thì hôm qua có con quỷ “khai ngộ” từ San Jose đến tìm tôi. Quỷ đó nhập vào một bà và bà tự cho rằng mình đã khai ngộ. .... Bà nầy đã quy y tôi năm 1980 .....
- Bà là sinh viên tốt nghiệp đại học ở Nam Dương. Có phải là bà không cần học mà được tốt nghiệp chăng? - Không phải!
- Tu đạo cũng như vậy. Ngay đến cửa mà bà còn chưa bước vào được, vậy nếu bà không tu hành thì làm sao đắc đạo chớ? Có phải bà không đi học mà biết được chữ không?.... (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng 30 / 7 / 1985)
+ Toàn giác (Full illumination): Con người tâm linh (spiritual man, Chân nhân) chiêm ngưỡng (contemplation), nghiên cứu và tham thiền về thế giới nguyên nhân, về “các sự việc của Thượng Đế” (“things of God”). Lúc bấy giờ, Chân nhân sử dụng khí cụ đã được kiềm chế của mình, tức trí tuệ (được kiềm chế nhờ thực hành việc định trí và tham thiền), để chuyển cho bộ óc hồng trần, xuyên qua ngân quang tuyến (sutratma), tức là tuyến đang đi xuống qua ba thể thấp tới tận não bộ, những gì mà linh hồn biết được, thấy được và hiểu được. Điều này tạo ra sự toàn giác. (ASCLH, 184)
+ Hình Tư Tưởng Và Việc Mang Thai Thai Nhi: Hình Tư Tưởng...... Điều này diễn ra khá sớm trong công việc và sau khi diễn trình định hướng công việc kiến tạo tiến hành, vì hình tư-tưởng vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc sống độc lập. Có một tương đồng thực sự giữa thời kỳ thai nghén của trẻ sơ sinh, với thời kỳ phát triển của một hình-tư-tưởng. Tầm quan trọng của việc sắp xếp đúng đắn đứa trẻ trong dạ-con không bao giờ bị bỏ sót bởi một bác sĩ giỏi, và một cách tương tự, khi có vị trí sai trên con đường phải được noi theo trong sự sống biểu lộ, thì cái chết và sự rắc rối thường hay xảy ra.(Xem thêm Tooltip Hình thành Thai nhi để rõ hơn) (LVHLT, 273)
+ Hóa giải nghiệp oán kết: ...đức Phật nói, "Lại nữa, này Phổ Quảng! Như trong đời vị lai, nơi cõi Diêm Phù Ðề, trong hàng Sát Lợi, Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ, tất cả các hạng người và những chủng tộc dòng họ khác, có người nào mới sinh được con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ đó mà tụng Kinh điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Bồ Tát đủ một vạn biến; thì đứa trẻ mới sinh đó, hoặc trai hoặc gái, nếu đời trước có ương báo thì đều được giải trừ, lại thêm an ổn, vui vẻ, dễ nuôi, thọ mạng tăng trưởng, còn nếu là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thì đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn."
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bồ Tát Phổ Quảng rằng: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Như trong đời vị lai, nơi cõi Diêm Phù Ðề..." Cõi Diêm Phù Ðề còn có tên là Nam Thiệm Bộ Châu, và là một trong bốn châu thuộc Tứ Ðại Bộ Châu. Con người ở Bắc Câu Lô Châu được sinh ra dưới gốc cây, và người mẹ sinh nở rất dễ dàng, giống như con gà đẻ trứng vậy, không đau đớn gì cả; khác hẳn với cõi Nam Diêm Phù Ðề là người mẹ phải chịu nhiều đau đớn. Còn ở Ðông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu thì người ta hoàn toàn không chú trọng đến việc sinh đẻ, mức sanh sản ở đây rất thấp. Ðó là vì lòng dâm dục của con người ở hai châu này rất nhẹ; bởi dục niệm ít cho nên mức độ sanh sản cũng rất thấp. Duy chỉ có chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề là muốn con cái đông đúc, cho rằng con đàn cháu đống là tốt, mặc dù việc sinh nở vô cùng đau đớn cho người mẹ.
"Trong hàng Sát Lợi, Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ, tất cả các hạng người và những chủng tộc dòng họ khác..."
"Sát Lợi" hay "Sát Ðế Lợi" là một dòng dõi quý tộc ở Ấn Ðộ. "Bà La Môn" cũng là dòng dõi quý tộc, và được gọi là "Tịnh Duệ," có nghĩa là dòng dõi thanh tịnh, trong sạch. "Trưởng giả" là người giàu có lớn. Ở đây, trưởng giả và cư sĩ là những người có tiền của mà không có lộc vị, vì họ không ra làm quan nên họ có "phú" (giàu) mà không có "quý" (sang). Còn dòng Bà La Môn và Sát Ðế Lợi thì vừa có "quý" lại vừa có "phú."
Như vậy, ở đời sau, trong toàn thể nhân loại, bao gồm tất cả những người thuộc mọi quốc gia và mọi chủng tộc, giả sử "có người nào mới sinh được con trai hoặc con gái..." Ở cõi Diêm Phù Ðề của chúng ta thì người mẹ phải chịu nhiều đau đớn khi sinh nở, lắm lúc còn nguy hiểm tới tánh mạng, đặc biệt là trong các trường hợp sanh khó như đẻ ngang, đẻ ngược. "Ðẻ ngang" tức là đứa bé ra đời trong tư thế nằm ngang (mông đít ra trước); còn "đẻ ngược" tức là đứa bé được sanh ra trong tư thế lộn ngược (hai chân ra trước). Lại có một trường hợp sanh nở khác cũng rất khó khăn, đó là một chân của đứa bé thò ra trước. Ngoài ra, có trường hợp sanh khó gọi là "bàn tràng" (nhao quấn), tức là khi đứa bé lọt lòng mẹ thì kéo cả dạ con của người mẹ ra theo.
Các trường hợp sanh khó thì rất nhiều, tuy nhiên, cho dù khó khăn trắc trở thế nào chăng nữa, nếu trước khi sanh, "nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ đó mà tụng Kinh điển không thể nghĩ bàn này - Kinh Ðịa Tạng, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Bồ Tát - Nam mô Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát - đủ một vạn biến, thì đứa trẻ mới sinh đó, hoặc trai hoặc gái, nếu đời trước có ương báo - nghiệp tội, quả báo xấu ác - thì đều được giải trừ, lại thêm an ổn, vui vẻ, dễ nuôi, thọ mạng tăng trưởng."
"Còn nếu là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thì đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn." Giả sử đứa bé sơ sinh đó không có tội báo, được sinh ra là nhờ ở phước báo, thì đời của đứa bé đó càng được an lạc và thọ mạng càng lâu dài hơn.
Cho nên, cái khổ cái sướng của đời người thì không nhất định, tuổi thọ của con người cũng chẳng có gì nhất định cả. Như có người được thầy tướng số đoán là chỉ sống đến ba mươi tuổi, thế mà đến bốn mươi tuổi anh ta vẫn còn sống nhăn; vì sao? Bởi vì thọ mạng của con người thì linh động, chứ không cứng nhắc cố định - nếu quý vị làm việc tốt thì thọ mạng của quý vị được lâu dài hơn, còn làm việc xấu thì tuổi thọ bị thu ngắn lại. Do đó, hết thảy mọi việc đều không có gì là nhất định cả.
Như trong Kinh đã nói, một người vốn đã gây nhiều tội lỗi, sanh ra trong đời này đáng phải gánh chịu nhiều đau khổ, thế nhưng, nhờ được người khác đọc tụng Kinh Ðịa Tạng và niệm danh hiệu của Bồ Tát Ðịa Tạng để trợ giúp cho, nên bao nhiêu thống khổ người ấy đáng phải nhận lãnh đều được tiêu tan. Chẳng những thế, người ấy sẽ là một đứa bé vui vẻ, dễ nuôi, tuổi thọ cũng gia tăng. Từ những điều này, quý vị có thể suy biết rằng đời người chẳng có gì là nhất định - tất cả đều tùy theo cách hành xử của chính mình mà thôi!
Tốt nhất là ngay lúc mang thai bèn đọc. Mỗi ngày đọc một bộ Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh, hoặc niệm một ngàn danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, phải dùng tâm chân thành, cung kính để tụng niệm thì phước báo sẽ rất lớn. Cho dù đứa con trong thai đến để báo oán, là oán gia chủ nợ đến, nếu bạn có thể chăm sóc nó như vậy thì oán kết ấy sẽ được hóa giải.
Bạn có ân đối với nó thì nó sẽ chẳng báo oán, nó sẽ đến cảm ơn, chuyển biến phải bắt đầu từ lúc ban đầu. Ở đây nói ít nhất phải là 7 ngày trước khi sanh, đương nhiên càng sớm thì càng tốt. Cho nên khi chúng ta hiểu đạo lý này, biết phương Pháp này, tốt nhất là khi mang thai bèn đọc, bèn tu tập theo phương Pháp này.
Người làm mẹ, tâm bình khí hòa, chân thành cung kính, thanh tịnh bình đẳng, khởi tâm động niệm gì cũng tuyệt đối sẽ ảnh hưởng đến đứa bé trong thai. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ví dụ cách giải oán nghiệp bất hiếu:
Hỏi: Con trai và con dâu con đối xử với con rất là bất hiếu, cầu xin Hòa Thượng khai thị cho con.
Đáp: Mỗi ngày bà nên tâm niệm, âm thầm sám hối với chúng nó về những nghiệp tội bà đã gây tạo trong quá khứ. Vì nhân đời trước mới gặt quả kiếp này là vậy. Bà nên thường niệm Quán Thế Âm Bồ Tát và đừng có sân hận, như vậy từ từ bà sẽ giải mở được các oán hờn. (HT Tuyên Hóa giải đáp - links: https://www.dharmasite.net/.../Gay-Kim-Cang-Het_Quyen-2...)
+ 8. KINH ÐOẠN GIẢM (Sallekha Sutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Maha Cunda, vào buổi chiều từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng dậy, đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Maha Cunda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, có những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận. Bạch Thế Tôn, đối với một Tỷ-kheo, có tác ý ngay từ ban đầu, thời có thể đoạn trừ những sở kiến ấy hay không, có thể xả ly những sở kiến ấy hay không?
-- Này Cunda, những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận, - chỗ nào những sở kiến này tiềm ẩn, và chỗ nào những sở kiến này hiện hành, chỉ có cách như thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cài này không phải tự ngã của tôi", có vậy thời có sự đoạn trừ những sở kiến ấy, có sự xả ly những sở kiến ấy. (Nguồn: Kinh Đoạn Giảm)
+ Pháp đối trị: 305. PHƯƠNG THUỐC ĐỐI TRỊ BẢY SỬ
Do bảy sử này mà có ba đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Do bảy sử này nên không thể vượt qua được cảnh giới tệ ma. Nhưng pháp bảy sử này lại có bảy phương thuốc. Những là bảy?
1) Sử tham dục, dùng niệm giác chi để trị.
2) Sử sân hận, dùng trạch pháp giác chi để trị.
3) Sử tà kiến, dùng tinh tấn giác chi để trị.
4) Sử tham đắm thế gian, dùng hỷ giác chi để trị.
5) Sử kiêu mạn dùng khinh an giác chi để trị.
6) Sử nghi, dùng định giác chi để trị.
7) Sử vô minh, dùng xả giác chi để trị.
Xưa khi Ta chưa thành Phật,.... Ta cũng bị bảy sử này trói, không giải thóat được.’ Rồi Ta lại nghĩ: ‘Lấy gì để trị bảy sử này?’ Ta lại suy nghĩ: ‘Bảy sử này nên dùng bảy giác chi để trị. Ta hãy tư duy về bảy giác chi.’ Khi tư duy bảy giác chi, tâm dứt sạch hữu lậu, liền được giải thoát. Sau khi thành Đạo Vô thượng chánh chơn, trong bảy ngày ngồi kiết già, Ta tư duy thêm nữa bảy giác chi này. Cho nên, các Tỳ-kheo, muốn dứt trừ bảy sử thì phải tu tập pháp bảy giác chi. (Tăng Nhất A Hàm, Bảy Pháp, 40. Phẩm Bảy Ngày, Kinh số 3)
+ Pháp môn đoạn giảm - Pháp môn khởi tâm - Pháp môn đối trị dung tư tưởng gốc đối nghịch - Pháp môn hướng thượng
Trích: (Ðoạn giảm)
Này Cunda, ở đây đoạn giảm được các Người thực hiện khi các Người nghĩ:
(1) "Những kẻ khác có thể là những người làm hại, chúng ta ở đây không thể là những người làm hại", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(2) "Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát sanh", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(3) "Những kẻ khác có thể lấy của không cho, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ lấy của không cho", như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(4) "Những kẻ khác có thể không phạm hạnh, chúng ta ở đây sẽ sống phạm hạnh", như vậy... (như trên)... thực hiện.
(5) "Những kẻ khác có thể nói láo, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói láo",... (như trên)...
(6) "Những kẻ khác có thể nói hai lưỡi, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói hai lưỡi",... (như trên)...
(7) "Những kẻ khác có thể nói lời độc ác", chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói lời độc ác", ... (như trên)...
(8) "Những kẻ khác có thể nói lời phù phiếm, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói lời phù phiếm",... (như trên)...
(9) "Những kẻ khác có thể tham dục, chúng ta ở đây không tham dục",... (như trên)...
(10) "Những kẻ khác có thể có sân tâm, chúng ta ở đây sẽ không có sân tâm",... (như trên)...
(11) "Những kẻ khác có thể có tà kiến, chúng ta ở đây sẽ có chánh kiến,... (như trên)...
(12) "Những kẻ khác có thể có tà tư duy, chúng ta ở đây sẽ có chánh tư duy",... (như trên)...
(13) "Những kẻ khác có thể có tà ngữ, chúng ta ở đây sẽ có chánh ngữ",... (như trên)...
(14) "Những kẻ khác có thể có tà nghiệp, chúng ta ở đây sẽ có chánh nghiệp",... (như trên)...
(15) "Những kẻ khác có thể có tà mạng, chúng ta ở đây sẽ có chánh mạng",... (như trên)...
(16) "Những kẻ khác có thể có tà tinh tấn, chúng ta ở đây sẽ có chánh tinh tấn",... (như trên)...
(17) "Những kẻ khác có thể có tà niệm, chúng ta ở đây sẽ có chánh niệm",... (như trên)...
(18) "Những kẻ khác có thể có tà định, chúng ta ở đây sẽ có chánh định",... (như trên)...
(19) "Những kẻ khác có thể có tà trí, chúng ta ở đây sẽ có chánh trí",... (như trên)...
(20) "Những kẻ khác có thể có tà giải thoát, chúng ta ở đây sẽ có chánh giải thoát",... (như trên)...
(21) "Những kẻ khác có thể bị hôn trầm thụy miên chi phối, chúng ta ở đây sẽ không có hôn trầm thụy miên chi phối",... (như trên)...
(22) "Những kẻ khác có thể có trạo hối, chúng ta ở đây sẽ không có trạo hối",... (như trên)...
(23) "Những kẻ khác có thể nghi hoặc, chúng ta ở đây sẽ trừ diệt nghi hoặc",... (như trên)...
(24) "Những kẻ khác có thể phẫn nộ, chúng ta ở đây sẽ không có phẫn nộ",... (như trên)...
(25) "Những kẻ khác có thể oán hận, chúng ta ở đây sẽ không có oán hận",... (như trên)...
(26) "Những kẻ khác có thể hư ngụy, chúng ta ở đây sẽ không hư ngụy",... (như trên)...
(27) "Những kẻ khác có thể não hại, chúng ta ở đây sẽ không não hại",... (như trên)...
(28) "Những kẻ khác có thể tật đố, chúng ta ở đây sẽ không tật đố",... (như trên)...
(29) "Những kẻ khác có thể xan tham, chúng ta ở đây sẽ không xan tham",... (như trên)...
(30) "Những kẻ khác có thể man trá, chúng ta ở đây sẽ không man trá,... (như trên)...
(31) "Những kẻ khác có thể khi cuống, chúng ta ở đây sẽ không khi cuống",... (như trên)...
(32) "Những kẻ khác có thể ngoan cố, chúng ta ở đây không thể ngoan cố",... (như trên)...
(33) "Những kẻ khác có thể cấp tháo, chúng ta ở đây không thể cấp tháo",... (như trên)...
(34) "Những kẻ khác có thể khó nói (nan thuyết), chúng ta ở đây sẽ dễ nói",... (như trên)...
(35) "Những kẻ khác có thể là ác hữu, chúng ta ở đây sẽ là thiện hữu",... (như trên)...
(36) "Những kẻ khác có thể phóng dật, chúng ta ở đây sẽ không phóng dật",... (như trên)...
(37) "Những kẻ khác có thể là bất tín, chúng ta ở đây sẽ có tín tâm",... (như trên)...
(38) "Những kẻ khác có thể không xấu hổ, chúng ta ở đây sẽ có xấu hổ",... (như trên)...
(39) "Những kẻ khác có thể không sợ hãi, chúng ta ở đây sẽ có sợ hãi",... (như trên)...
(40) "Những kẻ khác có thể nghe ít, chúng ta ở đây sẽ nghe nhiều"... (như trên)...
(41) "Những kẻ khác có thể biếng nhác, chúng ta ở đây sẽ siêng năng",... (như trên)...
(42) "Những kẻ khác có thể thất niệm, chúng ta ở đây sẽ an trú niệm",... (như trên)...
(43) "Những kẻ khác có thể liệt tuệ, chúng ta ở đây thành tựu tuệ",... (như trên)...
(44) "Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả" như vậy đoạn giảm được thực hiện.
(Khởi tâm)
Này Cunda, Ta nói rằng sự khởi tâm rất có lợi ích cho các thiện pháp, còn nói gì thân nghiệp, khẩu nghiệp phù hợp (với tâm ý). Do vậy, này Cunda:
(1) "Những kẻ khác có thể làm hại, chúng ta ở đây sẽ không làm hại", cần phải khởi tâm như vậy.
(2) "Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát sanh", cần phải khởi tâm như vậy... (như trên)...
(3-43) "Những kẻ khác... (như trên)...
(44) "Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả", cần phải phát tâm như vậy.
(Từ bỏ)
Này Cunda, giống như một con đường không bằng phẳng, có một con đường bằng phẳng khác đối trị.
Này Cunda, giống như một bến nước không bằng phẳng, có một bến nước bằng phẳng khác đối trị.
Cũng vậy này Cunda:
(1) Ðối với con người làm hại, có sự không làm hại đối trị.
(2) Ðối với con người sát sanh, có từ bỏ sát sanh đối trị.
(3) Ðối với con người lấy của không cho, có từ bỏ lấy của không cho đối trị.
(4-43) ..., không phạm hạnh, có phạm hạnh...; nói láo, có từ bỏ nói láo...; nói hai lưỡi, có từ bỏ nói hai lưỡi...; nói ác khẩu, có từ bỏ nói ác khẩu; nói phù phiếm, có từ bỏ nói phù phiếm...;... tham dục, có không tham dục...;... sân tâm, có không sân tâm...;... tà kiến, có chánh kiến...;... tà tư duy, có chánh tư duy...;... tà ngữ, có chánh ngữ...;... tà nghiệp, có chánh nghiệp...;... tà mạng, có chánh mạng...;... tà tinh tấn, có chánh tinh tấn...;... tà niệm, có chánh niệm...;... tà định, có chánh định...;... tà trí, có chánh trí...;... tà giải thoát, có chánh giải thoát...;... bị hôn trầm thụy miên chi phối, có không bị hôn trầm thụy miên chi phối...;... trạo hối, có không trạo hối...;... nghi hoặc, có trừ diệt nghi hoặc...;... phẫn nộ, có không phẫn nộ...;... oán hận, có không oán hận...;... hư ngụy, có không hư ngụy...;... não hại, có không não hại...;... tật đố, có không tật đố...;... xan tham, có không xan tham...;... man trá, có không man trá...;... khi cuống, có không khi cuống...;... ngoan cố, có không ngoan cố... cấp tháo, có không cấp tháo...;... khó nói, có không khó nói...;... ác hữu, có thiện hữu...;... phóng dật, có không phóng dật...;... bất tín, có tín
tâm...;... không xấu hổ, có xấu hổ...;... không sợ hãi, có sợ hãi...;... nghe ít, có nghe nhiều...;... biếng nhác, có siêng năng...;... thất niệm, có an trú niệm...;... liệt tuệ, có thành tựu tuệ....
(44) Ðối với con người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, có không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả đối trị.
(Hướng thượng)
Này Cunda, ví như các bất thiện pháp, tất cả đều hướng hạ, còn các thiện pháp, tất cả đều hướng thượng.
Cũng vậy, này Cunda:
(1) Con người không làm hại, hướng thượng đối với người làm hại, con người từ bỏ sát sanh, hướng thượng đối với người sát sanh.
(2) Con người từ bỏ lấy của không cho, hướng thượng đối với người lấy của không cho.
(3-43) Con người ... (như trên)...
(44) Con người không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả, hướng thượng đối với người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả.
(Pháp môn giải thoát)
Này Cunda, con người tự mình bị rơi vào bùn lầy có thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy, sự tình ấy không thể xảy ra. Này Cunda, con người tự mình không rơi vào bùn lầy, có thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy, sự tình ấy có thể xảy ra. Này Cunda, con người tự mình không được nhiếp phục, không được huấn luyện, không được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn luyện và hoàn toàn giải thoát người khác, sự tình ấy không xảy ra. Một người được nhiếp phục, được huấn luyện, được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn luyện, hoàn toàn giải thoát người khác, sự tình ấy xảy ra. Cũng vậy, này Cunda:
(1) Ðối với người làm hại, không làm hại đưa đến hoàn toàn giải thoát; đối với con người sát sanh, từ bỏ sát sanh đưa đến hoàn toàn giải thoát.
(2) Ðối với con người lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho đưa đến hoàn toàn giải thoát.
(3-43) Ðối với con người không phạm hạnh, sống phạm hạnh...; đối với con người nói láo, từ bỏ nói láo...; đối với con người nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi...; đối với con người ác khẩu, từ bỏ nói ác khẩu...; đối với con người nói phù phiếm, từ bỏ nói phù phiếm...; đối với con người có tham dục, không tham dục...; đối với con người có sân tâm, không sân tâm...; đối với con người có tà kiến, chánh kiến...; đối với con người có tà tư duy, chánh tư duy...; đối với con người có tà ngữ, chánh ngữ...; đối với con người có tà nghiệp, chánh nghiệp...; đối với con người có tà mạng, chánh mạng...; đối với con người có tà tinh tấn, chánh tinh tấn...; đối với con người có tà niệm, chánh niệm...; đối với con người có tà định, chánh định...; đối với con người có tà trí, chánh trí...; đối với con người có tà giải thoát, chánh giải
thoát...; đối với con người bị hôn trầm thụy miên chi phối, không bị hôn trầm thụy miên chi phối...; đối với con người trạo hối, không trạo hối...; đối với con người nghi hoặc, không nghi hoặc...; đối với con người phẫn nộ, không phẫn nộ...; đối với con người oán hận, không oán hận...; đối với con người hư ngụy, không hư ngụy...; đối với con người não hại, không não hại...; đối với con người tật đố, không tật đố...; đối với con người xan tham, không xan tham...; đối với con người man trá, không man trá...; đối với con người khi cuống, không khi cuống...; đối với con người ngoan cố, không ngoan cố....; đối với con người cấp tháo, không cấp tháo ...; đối với con người khó nói, dễ nói...; đối với con người ác hữu, thiện hữu...; đối với con người phóng dật, không phóng dật...; đối với con người bất tín, tín tâm...; đối với con người không xấu hổ, có xấu hổ...; đối với con người không sợ hãi, có sợ hãi...; đối với con người nghe ít, nghe nhiều...; đối với con người biếng nhác, siêng năng...; đối với con người thất niệm, an trú niệm...; đối với con người liệt tuệ, thành tựu trí tuệ...
(44) Ðối với con người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả, đưa đến hoàn toàn giải thoát.
Này Cunda, như vậy Ta đã giảng pháp môn đoạn giảm, đã giảng pháp môn khởi tâm, đã giảng pháp môn đối trị, đã giảng pháp môn hướng thượng, đã giảng pháp môn giải thoát hoàn toàn.
Này Cunda, những gì bậc Ðạo Sư phải làm, vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy Ta đã làm, vì lòng thương tưởng cho các Người. Này Cunda, đây là những gốc cây, đây là những nhà không tịnh. Này Cunda, hãy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau. Ðó là lời giáo huấn của Ta cho các Người.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Maha Cunda hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn (Nguồn: Kinh Đoạn Giảm)
+ Tu một ngày đêm ở Cõi Ta Bà này:
.... hàng ngày có Oan hồn cứ theo bà. Bà đành từ xa dùng tâm hỏi phụ nữ ấy rằng:
– Bà là ai vậy? Tại sao cứ đi theo tôi mãi như thế?
Oan hồn ấy đáp ( tâm truyền tâm):
– Kiếp trước bà và tôi cùng làm thiếp cho một phú ông danh tiếng, bà ganh tôi được ông ấy cưng chiều, nên vu khống tôi đã gian dâm với người đàn ông khác. Vì thế mà tôi bị ông ấy giết chết trong ẩn khuất đầy oán hận. Do vậy, đời này tôi tìm bà để trả thù, nhưng trớ trêu thay, đời này bà là người dâu hiếu thảo thường được nhiều vị thiện thần đi theo bảo vệ, tôi không thể đến gần để báo thù được.
Vì thế, ngày nào tôi cũng đi theo bà để tìm cơ hội tốt. Nhưng với sự bảo hộ của thiện thần như vậy, chắc có lẽ không bao giờ tôi báo thù được. Vậy thì, tôi đề nghị với bà, hãy phát tâm niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà một vạn câu hồi hướng công đức ấy cho tôi, để vừa giải oán thù, vừa giúp tôi siêu thoát.”
Bà ấy nghe vậy rất vui mừng, liền phát tâm niệm Phật, bà niệm một câu thì thấy vong hồn người phụ nữ ấy lạy một lạy, khi niệm xong một vạn câu thì không thấy phụ nữ ấy nữa! Sự kiện này, do bà ấy khi về già thuật lại vậy.
Đức Phật dạy trong kinh Vô Lượng Thọ: “ … tu một ngày một đêm ở cõi Ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ (Các Cõi nước Phật) cả trăm năm. Tại sao vậy?
Cõi nước của đức Phật đó đều hành thiện tích đức, không có một chút ác. Tu thiện ở Ta bà mười ngày đêm hơn làm lành ngàn năm ở các cõi Phật khác.
Tại sao vậy?
Vì cõi nước Phật ở phương khác thì phước đức tự nhiên có, không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới Ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là khổ độc chưa từng ngừng nghỉ…”
Nếu bạn hiểu ra được Nghịch lý này rồi, vậy xin chúc mừng bạn! Bạn đã có được một kim chỉ nam vô cùng quý giá để chỉ lối cho mình biết phải đi về đâu, trong khi đa số nhân loại vẫn đang lòng vòng trong một mê cung danh lợi đua chen không lối thoát.
Hãy đem công sức, thời gian, vận dụng tối đa những gì bạn có thể để siêng năng tu tập, tích lũy công đức, để một ngày kia chắc chắn phải đến, khi mà mắt nhắm, tay xuôi, khi mà phước nghiệp cả đời đến lúc kết sổ, quyết định sẽ sinh về đâu, bạn có thể mỉm cười mãn nguyện, vì đã không uổng phí một kiếp người. (Nguồn: Thân người là quý)
+ Hóa giải - Gải trừ báo oán và Nghiệp sát: Trong ngoặc dưới đây nói là “Như vua Lưu Ly vì trả oán thù xưa, mà muốn tiêu diệt dòng tộc họ Thích”. Trong kinh có chuyện này, vua Lưu Ly, Phật Thích Ca Mâu Ni tại thế, ông là đại quốc vương, ông có oan thù với dòng tộc Thích Ca. Oán này là có từ kiếp trước, điều này trong Thích Ca Phổ đều có ghi lại, không phải kiếp trước, cũng không phải là kiếp trước nữa, đây là thời gian rất lâu rất lâu trước đây. Nhóm người của vua Lưu Ly, lúc đó họ ở cõi súc sanh, ở trong một bể cá, họ là một bầy cá. Vua Lưu Ly chính là con đầu đàn trong bầy cá này. Tộc Thích Ca vào lúc đó là những người ngư phu, người đánh cá, có một lần họ muốn bắt hết tất cả những con cá trong bể cá này, liền xả hết nước trong bể cá này, toàn bộ cá bị chết hết. Những con cá trong bầy cá này, oán hận mãi không nguôi, đời đời kiếp kiếp đều ghi nhớ phải báo thù. Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, sanh ra từ dòng tộc Thích Ca này; Những con cá đó thì sao? Cá bây giờ biến thành người, vua Lưu Ly dòng tộc này. Với oán hận vô lượng của kiếp trước, những chuyện rất nhỏ bé xé thành chuyện to, rồi thành chiến tranh. Phật Thích Ca Mâu Ni muốn ngăn chặn cuộc chiến tranh này, nhưng không thể được. Như thị nhân, như thị nghiệp, như thị quả, như thị báo, cứu không được, khuyên thế nào cũng không nghe, không tiếp thu, nhất định phải diệt cho hết dòng tộc này. Cuối cùng Phật Thích Ca Mâu Ni khuyên mọi người trốn chạy, vì thế gia tộc của ngài chạy đến Tây Tạng, ở Hậu Tạng, về sau không trở về nữa, liền định cư tại Tây Tạng. Vì vậy Phật Thích Ca Mâu Ni cũng xem như là người Trung Quốc. Sự việc này, hồi xưa Chương Gia đại sư có nói với tôi, cả dòng tộc Thích Ca Mâu Ni chạy đến Hậu Tạng. Ở đây muốn đem những chuyện này để nói cho chúng ta rằng, oan gia nên giải không nên kết. Dù oán hận đến mấy cũng phải nhìn thấu, phải hoá giải, chớ đừng nên gây oán, hậu quả của việc gây oán quá thê thảm, đời này đến đời khác biết bao đời đều không thể giải quyết, càng gây càng thù, ngay cả Phật Bồ Tát cũng phải bó tay.
Vì vậy ở đây nói, là chỉ cho việc báo oán của thế gian, gây nên họa hại. Đã tạo nghiệp nhân, ắt kết ác quả, báo ứng tuy không lập tức hiển hiện, nên nói tuy không ngay lúc đó, nhưng nhân quả bất hư, chắc chắn đời sau phải đền trả. Việc này rất phiền phức, quả báo có thể giáng xuống vào thời điểm đó là thuộc loại nhẹ, càng tích càng nặng. Điều này chúng ta đã nhìn thấy trong lịch sử, chắc chắn đời sau phải đền trả. Chuyện của Từ Hy Thái Hậu, là ví dụ rõ ràng nhất. Bà là báo tư thù, tư thù báo rồi, bà lại tạo nghiệp mới. Nghiệp mới này là chuyện gì? Huỷ hoại văn hoá truyền thống, gây ra nghiệp tội càng nghiêm trọng hơn. Tư thù là có từ thời trước khi triều Thanh chiếm trung nguyên, cũng có nghĩa là vào thời triều Thanh, sống gần với họ có một bộ lạc nhỏ, là Diệp Hách Na La Thị, họ tiêu diệt bộ lạc này, dòng tộc này bị tiêu diệt. Thống lĩnh của Diệp Hách Na La Thị, trước khi chết thề với trời rằng: Trong dòng tộc của ta cho dù có sót lại một bé gái, cũng phải báo thù. Đưa ra lời thề này. Vì vậy người Mãn sau khi làm chủ Trung Quốc, làm Hoàng đế ở Trung Quốc, liền đưa ra một luật, chỉ cần là người Diệp Hách Na La Thị kiên quyết không được vào cung, phải cách ly. Mãi cho đến đời Hàm Phong hơn 200 năm trôi qua, hai trăm năm đều không sao. Vậy Hàm Phong liệu có biết Từ Hy là người Diệp Hách Na La Thị không? Quá biết, cho rằng cô gái này có gì là ghê gớm đâu, làm sao phải sợ cô ta? Vì thế liền phong bà làm quý phi. Về sau không ngờ được rằng bà quá là lợi hại, sau khi Hàm Phong chết bà chiếm quyền hết, vì sao vậy? Vì bà sanh được một người con trai, chỉ có một người con trai, chỉ có nó kế thừa vương vị, bà liền trở thành thái hậu. Con trai tuổi còn nhỏ, Thái hậu buông rèm nhiếp chính, vì thế mọi quyền hành của quốc gia này đều nằm trong tay bà, thích làm gì thì làm, tiêu diệt triều Thanh, báo thù được rồi. Nhưng mà thủ đoạn này, đã xoá bỏ mọi văn hoá đạo đức luân lý mấy ngàn năm của dân tộc Hán. Coi thường Phật pháp, tự xưng mình là Lão Phật gia, tất cả Bồ Tát đều đứng bên cạnh bà. Các Đế vương triều Thanh đều tín phụng Phật pháp, rất nhiều vị cao tăng trong Phật môn được phong làm Quốc sư, tự xưng là đệ tử của Phật. Chỉ có Bà tự xưng là Lão Phật gia, cái tội này quá nặng, đúng là vào địa ngục, bà muốn thoát khỏi địa ngục thật không dễ, không ai cứu bà, tâm thì quá ác, thủ đoạn quá độc.
Ngoài ra hiện nay trong xã hội, chúng ta cũng thường trông thấy, ở trong nước, nước ngoài đều có, phá gia chi tử, đây là cái gì? Con cái và cha mẹ có bốn nhân duyên, đây là báo oán. Vì vậy hiện nay có biết bao cha mẹ, người mà chúng tôi từng tiếp xúc, họ đều nói con cái không dễ dạy. Giáo viên, chúng tôi cũng thường gặp họ, giáo viên đến nói với chúng tôi, học sinh bây giờ khó dạy. Chúng tôi biết được nguyên nhân. Ngày nay người trong thế gian này, liệu có mấy người đối xử với người khác với cái tâm nhân từ? Quý vị đối xử với mọi người bằng cái tâm nhân từ, quý vị có ân với người khác, họ đến nhà quý vị làm con quý vị, họ đến để báo ân. Quý vị không có ân huệ với người khác, khởi tâm động niệm là hại người lợi mình, hay nói cách khác, quý vị gây cho người khác đều là oán, vậy con cái của quý vị là đều là oan gia trái chủ. Vì vậy chúng ta cũng phải ghi nhớ cho kỹ, Cổ đức dạy bảo chúng ta, tuyệt đối không được kết oán thù với người, oán oán tương báo không bao giờ hết. Phải kết ân với người, không được kết oán, phải cố gắng xả mình vì người, không được lợi dụng người khác. Nếu có ý niệm lợi dụng người khác, thì ý niệm này là trộm, trộm trong tâm, mặc dù quý vị không có hành động, tâm quý vị đã phạm giới ăn trộm, trong giới Bồ Tát gọi là phá giới. Giới tiểu thừa Tì Kheo luận sự bất luận tâm, dễ giữ; Bồ Tát giới khó giữ, giới Bồ Tát là luận tâm bất luận sự, việc kết tội là từ khởi tâm động niệm, nó không phải hành vi. Vì vậy Bồ Tát cao hơn nhiều so với Thanh Văn, cùng một điều giới, Bồ Tát so với Thanh Văn khó hơn nhiều, không khởi tâm, không động niệm.
Hiện nay chúng ta nhìn thấy trong xã hội này, cha mẹ giết con cái, con cái giết cha mẹ, anh em tàn sát lẫn nhau, đây đã là không phải tin văn nữa, đúng là quá nhiều quá nhiều, đây là cái gi? Đây chính là oan oan tương báo.
Còn nữa hiện nay phụ nữ phá thai, phá thai là việc gì? Chúng đến với nhà quý vị quý vị đem giết đi. Thế chúng có trở về lại không? Có, khi chúng trở về sẽ giết quý vị, chúng đến để báo thù. Nếu như đứa trẻ này là đến để báo ân, quý vị phá thai đem giết đi rồi, quý vị lấy ân biến thành thù; nếu như chúng đến để báo thù, quý vị lại giết chúng đi, đã thù lại thêm thù hận. Chúng đến đòi nợ đến trả nợ, món nợ, quý vị giết chúng đi rồi, không những thiếu nợ còn nợ mạng người. Nghĩ đến đây quý vị dám làm không? Không phải gây ra rồi là không sao, sau khi gây ra thì phiền phức càng lớn hơn, Phật Bồ Tát đều không thể giải quyết cho quý vị, những việc như thế này không thể không biết. ....Nghĩ đến hậu quả/ Quả báo đã sợ rồi, thì ý niệm của quý vị tự nhiên được dừng lại. Giáo dục nhân quả rất quan trọng, quan trọng hơn bất cứ điều gì. Trung Quốc mấy ngàn năm qua, quốc gia này xã hội trị an lâu dài, dựa vào điều gì? Nói thực là dựa vào giáo dục nhân quả, ít nhất là 70%, luân lý đạo đức chỉ có thể chiếm 30 %. .... PS Tịnh Không giảng: Đời sống vô thường - Chết đi về đâu
+ Ngọc hoàn thủ. 42 Thủ nhãn Ấn pháp Chú đại Bi
Kinh thiên động địa dịch quỉ thần
Hô phong hoán vũ đàm tiếu trung
Nam cung nữ kính đồng lễ bái
Tân chủ hòa hợp đạo đại hưng.
Phiên dịch:
Khiến thần sai quỷ động đất trời
Gọi gió kêu mưa lúc nói cười
Trai gái một lòng cung kính lạy
Hợp hòa chủ khách đạo vun bồi. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
+ Tương Bồ Đề Tâm: Văn-Thù Sư-Lợi, Tướng của bồ-đề qua pháp thế-tục, ra ngoài ba cõi, đường ngôn-ngữ dứt, diệt cả sự phát và sự không phát, là phát bồ- đề. Văn-Thù Sư Lợi, thế nên Bồ-tát cần diệt các phát, phát tâm bồ-đề, như như pháp tính, tướng như thực tế, không sinh phân biệt, không duyên thân tâm, là phát bồđề. Không dính các pháp, không thêm không bớt, không khác không một, là phát bồ-đề. Như dáng trong gương, như là ánh nắng trong mùa viêm-nhiệt, như bóng như vang, như trăng trong nước, cần nên phát tâm bồ-đề như thế." (Nguồn: BT Văn Thù hỏi Phật về Tâm Bồ Đề)
+ Tướng Trạng của Tâm
Nhưng tâm nguyện vốn có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không chỉ ra thì làm sao biết mà xu hướng đến. Nay xin vì đại chúng mà ước lược trình bày. Sự phát tâm lập nguyện gồm tám tướng là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên. Như thế nào là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên?
Ðời có kẻ tu hành mà từ trước đến nay chỉ một bề hành theo sự tướng, không biết tham cứu tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc mong cầu lợi dưỡng, hoặc ưa thích hư danh, hoặc ham dục lạc hiện đời, hoặc mong cầu phước báo mai sau, phát tâm như vậy gọi là tà.
Ðã không mong cầu hư danh lợi dưỡng, lại không ham quả báu dục lạc đời sau, chỉ vì mong liễu thoát sinh tử, vì chứng đắc Bồ đề, phát tâm như vậy gọi là chánh.
Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh, nghe con đường thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp sợ, thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận đỉnh, như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột nóc, phát tâm như vậy gọi là chân.
Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong trược ngoài thanh, trước siêng năng sau biếng lười, dù có tâm tốt phần lớn cũng bị danh lợi xen lẫn, dù tu thiện pháp phần nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm, phát tâm như vậy gọi là ngụy.
Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành, phát tâm như vậy gọi là đại.
Xét xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người, phát tâm như vậy gọi là tiểu.
Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh mình nguyện độ, có Phật đạo nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tiêu mất, phát tâm như vậy gọi là thiên. Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo nên nguyện viên thành, không thấy một pháp nào lìa tâm mà riêng có, lấy cái tâm hư không phát cái nguyện như hư không, làm cái hạnh như hư không, chứng cái quả hư không, cũng không có cái tướng hư không có thể đắc được, phát tâm như vậy gọi là viên.
Biết tám tướng trạng khác nhau trên đây là biết quán xét kỹ càng, biết quán xét kỹ càng thì biết lấy bỏ, biết lấy bỏ thì có thể phát tâm. Quán xét như thế nào? Là xem sự phát tâm của ta, trong tám tướng trạng trên đây, là tà hay chánh, chân hay ngụy, đại hay tiểu, thiên hay viên. Lấy bỏ như thế nào? Là bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên, lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như vậy mới được gọi là chân chánh phát Tâm Bồ đề.
Sự phát tâm lập nguyện gồm tám tướng: Tướng trạng này tổng quát thì có tám loại. Tám loại là gì ? là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên: Có tà, có chánh, có chân có ngụy, có đại có tiểu, có thiên có viên.
Thế nào gọi là tà? Chính là lòng ích kỷ, chỉ biết lợi ích riêng mình.
Thế nào gọi là chánh? Chính là không ích kỷ.
Thế nào gọi là chân? Chính là lợi người không lợi mình.
Còn ngụy chính là lợi mình không lợi người.
Quý vị dùng sáu đại tông chỉ (1) để xem thì có thể hiểu rõ.
Tiểu chính là vì mình, đại là vì đại chúng.
Nên nói “Vì người không vì mình, cuối cùng là Phật thể; vì mình không vì đại chúng, rốt cuộc uổng phí cuộc đời“. Dù có bỏ cả sanh mạng mình, cũng không có ích dụng gì. Ðại là phát tâm quảng đại, cũng chính là hành Bồ tát đạo. Vậy nếu không phát đại tâm mà phát tiểu tâm thì sao ? Chính là không hành Bồ tát đạo, ích kỷ tự lợi, tranh giành, tham lam, ham cầu, chỉ tính toán cho mình, đó đều là tiểu. Nếu lo toan cho đại chúng, chí công vô tư, chánh trực không thiên vị, khắp cùng cúng dường, lấy pháp giới làm thể, lấy hư không làm dụng, đó gọi là đại.
Thiên là thiên về một bên, vào một chỗ nhỏ, không có viên dung. Viên là bao la vạn hữu, chính là viên mãn Bồ đề, không có chỗ nào mà không bao bọc, chẳng có chỗ nào mà không dung chứa. Tôi có một bài kệ tụng có thể dùng để hình dung cái “viên” này :
Pháp giới là thể có chi ngoài,
Hư không là dụng đều dung chứa.
Vạn vật bình đẳng lìa phân biệt,
Một niệm không sanh bặt ngữ ngôn.
Viên, chính là “Pháp giới là thể có chi ngoài“, lấy pháp giới làm thể, thì có cái gì ở bên ngoài pháp giới đâu ?
“Hư không là dụng đều dung chứa” hư không là một đại dụng thì không có gì không bao bọc bên trong.
“Vạn vật bình đẳng lìa phân biệt”, đối với vạn sự vạn vật đều xem bình đẳng.
“Một niệm không sanh bặt ngữ ngôn“, một niệm không sanh đường ngôn ngữ tuyệt, đây có thể nói là “viên” ! Ở đoạn văn sau Ðại sư Tỉnh Am sẽ giải thích “thiên viên”, ở đây tôi chiếu theo ý nghĩa đại khái của chữ để giải thích mà thôi. Bài “Văn khuyên phát tâm Bồ đề” của Ðại sư Tỉnh Am, nếu kết hợp với sáu đại tông chỉ của chúng ta, thì như áo trời không thấy vết chỉ may, thật là hoàn hảo toàn mỹ!
Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh, nghe con đường thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp sợ, thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận đỉnh, như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột nóc, phát tâm như vậy gọi là chân. Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong trược ngoài thanh, trước siêng năng sau biếng lười, dù có tâm tốt phần lớn cũng bị danh lợi xen lẫn, dù tu thiện pháp phần nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm, phát tâm như vậy gọi là ngụy. Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành, phát tâm như vậy gọi là đại. Xét xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người, phát tâm như vậy gọi là tiểu. (Nguồn: Văn Khuyên Phát Tâm Bồ Đề tu Bồ Tát Đạo) và Chính văn (Nguồn: Khuyên Phát Tâm Bồ Đề - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Lục Độ Ba La Mật hay đại khái còn gọi là: Đáo Bỉ Ngạn - Siêu Nhiên - Siêu Hoàn hảo - Siêu Hoàn Thiện - Đạo hạnh siêu phàm - Trí tuệ siêu việt - phẩm tính Siêu nhiên chỉ phẩm tính tu Bổ Tát đạo thành tựu.
Sáu đức hạnh Ba-la-mật là :
1- Sự hào phóng siêu nhiên, (danaparamita), còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.
2- Giới hạnh siêu nhiên, (silaparamita), còn gọi là Trì giới Ba-la-mật.
3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên, (kshantiparamita), còn gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật.
4- Nghị lực siêu nhiên (viryaparamita), còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.
5- Sự chú tâm (tập trung tâm thức) siêu nhiên (dhynaparamita), còn gọi là « Thiền định » Ba-la-mật.
6- Sự hiểu biết siêu nhiên (prajnaparamita), còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. (Nguồn: Lục độ Ba la mật)
+ Bồ Tát Đạo: .... Bồ Tát Đạo ấy là Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ không Định, Ngũ thần thông, Tam phước nghiệp, Tam học, Lục ưng kính, Lục niệm, Tứ nhiếp pháp, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh Đạo phần, Tam giải thoát môn, biết Ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết Nhập phương tiện, biết Tứ Đế phương tiện, biết Nhơn duyên phương tiện. (Nguồn: Hư Không Tạng BT vấn Phật)
+ Đáo bỉ ngạn - Pháp Giới Bồ Tát: Bồ Tát nghĩa là những bậc tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác tha, hành lục độ vạn hạnh, tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, sáu pháp ba-la-mật. Ba-la-mật là tiếng Ấn độ, dịch sang tiếng Trung Hoa là đáo bỉ ngạn. Đáo bỉ ngạn giống như đi qua biển, từ San Francisco đến Oakland. Đây gọi là đến bờ kia, thời buổi bây giờ có cầu thì đi trên cầu, không cần chèo thuyền thì cũng phải đi từ bên này sang bên kia, tức là đáo bỉ ngạn vậy. Dù quý vị làm bất cứ việc gì, làm xong, làm tốt chính là đến bờ kia, giống như đang đói bụng khi ăn no rồi thì không còn cảm giác đói nữa. Đây gọi là đến bờ kia, cũng vậy khi khát nước, quý vị uống vào một ly nước mát hay nước trái cây chẳng hạn hoặc uống một loại nước nào đó làm quý vị không còn khát nữa, mà cảm giác không khát đó chính là đến bờ kia. Còn như trước đây không bố thí, bây giờ tôi bố thí, đây chính là đáo bỉ ngạn; trước đây không trì giới, bây giờ trì giới, trì giới là đáo bỉ ngạn, trước kia không nhẫn nhục, bây giờ nhẫn nhục, đây cũng gọi là đến bờ kia, trước đây không tinh tấn, bây giờ tinh tấn đây cũng gọi là đến bờ kia, trước kia không tu thiền định, bây giờ thiền định, bây giờ cũng gọi đến bờ kia, trước đây không tu trí huệ, bây giờ phát tâm tu, cũng gọi là đến bờ kia. Bồ Tát chính là những vị tu sáu pháp ba-la-mật này. Sáu phương pháp đến bờ kia, các Ngài hoàn tất việc lợi mình rồi còn đem làm lợi ích cho người. Đây gọi là tự lợi lợi tha, tự độ độ tha. Nhưng trước tiên phải độ mình nên nói:
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn
Tự tánh Pháp môn thệ nguyện học
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành
Bồ Tát luôn phát bốn nguyện rộng lớn này, nguyện độ tự tánh của mình, mà độ tự tánh của mình thì tùy theo đó cũng chính là độ người. Vì tự và tha luôn có một mối quan hệ hỗ tương, bất khả phân ly......
Vì vậy người hành Bồ Tát đạo chính là người phát tâm Bồ-đề rộng lớn, đem tâm Pháp Giới để tu hạnh Pháp Giới, hành đạo Pháp Giới chính là Bồ Tát vậy. (Nguồn: Giảng lời tựa Kinh Hoa Nghiêm - HT T.Hóa)
* Mời xem thêm bài viết: Lục độ Ba La Mật
+ Bồ Tát Sơ Phát Tâm - Mới Phát Tâm tu hành hạnh Bồ Tát Đạo có Lòng tin và sự hiểu biết
Lòng tin và sự hiểu biết (Chú thích (28): Đây là nói đến các vị Bồ Tát sơ phát tâm, và các Bồ Tát thuộc Tam hiền. Lòng tin là nói hàng Thập tín. Sự hiểu biết là nói bậc Giải hạnh phát tâm. Hiểu biết thực hành mà phát tâm. Bậc Giải hạnh phát tâm gồm có 30 ngôi vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi hướng.
Về Thập Tín, theo Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, nêu 10 thứ tâm như sau:
1. Tín tâm: Một lòng quyết định ưa muốn thành tựu.
2. Niệm tâm: Thường tu sáu niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên.
3. Tinh tiến tâm: Nghe tạng Pháp Bồ Tát, tinh cần tu tập thiện nghiệp không gián đoạn.
4. Định tâm: Đối với sự, đối với nghĩa, buộc tâm an trú, xa lìa tất cả hư ngụy, khinh tháo, lìa nhớ tưởng phân biệt.
5. Huệ tâm: Nghe tạng Pháp Bồ Tát, suy lường quán sát, biết tất cả Pháp không ta không người, tự tính rỗng lặng.
6. Giới tâm: Thọ trì Luật nghi thanh tịnh của Bồ Tát, thân, khẩu, ý thanh tịnh, chẳng phạm các lỗi, có phạm liền sám hối.
7. Hồi hướng tâm: Tu được căn lành nào đều hồi hướng Bồ đề, không nguyện hưởng quả báo nơi các cõi, hồi hướng cho chúng sinh, chẳng chuyên vì mình, không vướng mắc danh tướng.
8. Hộ pháp tâm: Phòng hộ tâm mình, chẳng khởi phiền não và tu năm thứ hộ tâm.
9. Xả tâm: Chẳng tiếc thân mạng, tài sản, những gì có được thường hay thí xả.
10. Nguyện tâm: Tùy lúc mà tu tập các thứ tịnh nguyện.
Lại như Ngài Cưu Ma La Thập dịch Kinh Nhân Vương, ở quyển thượng nơi Phẩm Bồ Tát giáo hóa, trình bày 10 thứ tâm là: Tín tâm, tinh tấn tâm, niệm tâm, huệ tâm, định tâm, thí tâm, giới tâm, hộ tâm, nguyện tâm, hồi hướng tâm, lấy đó làm 10 thứ tâm thuộc tập chủng tính.
Kinh Phạm Võng quyển thượng trình bày 10 tâm là: Xả tâm, giới tâm, nhẫn tâm, tiến tâm, định tâm, huệ tâm, nguyện tâm, hộ tâm, hỷ tâm, đỉnh tâm. Lấy 10 tâm này gọi là Thập phát thú tâm trong bậc Kiên Tín nhẫn. Ngoài ra còn một vài thuyết nữa, chúng tôi xin lược bớt. Về phần Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi hướng, sẽ chú thích ở đoạn sau.
Chú thích (32) Kiên Tín: Như đã giải sơ ở phần chú thích số 28. Các vị Bồ Tát sơ phát tâm thành tựu 10 đức tin mà được vào bậc Thập trụ, gọi là Tập chủng tính. Đến đây đức tin về Đại thừa đã vững chắc, không bị lay chuyển, cho nên gọi là Kiên Tín. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Công đức Sơ Phát Tâm Bồ Đề: ... Thưa Phật-tử! Bồ-Tát sơ phát bồ-đề tâm được bao nhiêu công-đức? Pháp-Huệ Bồ-Tát nói: Nghĩa đó rất sâu, khó nói, khó biết, khó phân-biệt, khó tin hiểu, khó chứng, khó làm, khó thông-đạt, khó tư-duy, khó đạt-lượng, khó thu nhập. Tuy nhiên, thừa oai-thần của đức Phật, tôi sẽ nói cho ông.
Này Phật-tử! Giả sử có người đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở mười phương trọn một kiếp; rồi sau đó dạy họ thọ-trì ngũ-giới thanh-tịnh.
Cứ theo ý ông, công-đức của người này nhiều chăng? Thiên-Đế thưa: 'Công-đức của người này, trừ Phật ra, không ai có thể lường được.
Pháp-Huệ Bồ-Tát nói: 'Này Phật-tử! Công-đức của người này đem so với công-đức sơ-phát-tâm của Bồ-Tát chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ngàn na-do-tha ức, một phần số, một phần ca-la, một phần toán, một phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà. Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải vì chỉ muốn biết bao nhiêu tri-giải của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà vì muốn biết những tri-giải của các chúng-sanh trong tất cả thế-giới. ........
.... Thập phương thế-giới chư Như-Lai
Đều đồng tán-thán sơ-phát-tâm
Tâm này vô-lượng đức trang-nghiêm
Đến được bờ kia đồng với Phật.
Như số chúng-sanh ngần ấy kiếp
Nói công-đức đó chẳng thể hết
Bởi ở nhà lớn của Như-Lai
Các pháp thế-gian không dụ được.
Muốn biết tất cả các phật-pháp
Phải nên mau phát bồ-đề-tâm
Tâm này hơn hết trong công-đức
Tất được Như-Lai vô-ngại-trí.
Chúng-sanh tâm hành đếm biết được
Quốc-độ vi-trần cũng đếm được
Ngằn mé hư-không có thể lường
Phát tâm công-đức không lường được.
Xuất-sanh tam-thế tất cả Phật
Thành-tựu thế-gian tất cả vui
Tăng-trưởng tất cả thắng công-đức
Dứt hẳn tất cả các nghi hoặc.
Khai-thị tất cả diệu cảnh-giới
Trừ hết tất cả các chướng-ngại
Thành-tựu tất cả cõi thanh-tịnh
Xuất-sanh tất cả trí Như-Lai.
Muốn thấy thập-phương tất cả Phật
Muốn ban vô tận công-đức tạng
Muốn diệt chúng-sanh tất cả khổ
Phải nên mau phát bồ-đề-tâm.(Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Sơ Phát Tâm công đức)
+ Pháp tu nhẫn nhục - Tu Nhẫn Ba La mật: Đức Phật dạy, nầy Hư Không Tạng ! Như trăng trong nước không có trì giới phá giới, Bồ Tát rõ biết tất cả các pháp như thủy nguyệt không có trì giới phá giới củng như vậy. Đây là Bồ Tát hành Giới Ba La mật bình Đẳng với hư không vậy. Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành nhẩn Ba la mật bình Đẳng với hư không:
Nếu Bồ Tát bị người mắng chửi chẳng báo lại vì biết rõ vô ngã, bị người Đánh chẳng báo lại vì biết rõ không nhơn, bị ngườì giận ghét chẳng báo lại vì lìa thấy có, bị người oán thù chẳng báo lại vì bỏ lìa hai kiến chấp. Đây gọi là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành Nhẫn Ba la mật bình Đẳng với hư không.
Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tự tám pháp thì cò thể tịnh Nhẫn Ba la mật:
Bồ Tát khéo tịnh nội thuần chí mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát khéo tịnh ngoại chẳng hy vọng mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát nơi thượng trung hạ cứu cánh vô ngại tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát tùy thuận pháp tánh không bị nhiễm trước mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát lìa tất cả kiến chấp Đồng hư không mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát dứt tất cả giác quán Đồng vô tướng mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát bỏ tất cả nguyện Đồng vô nguyện mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát trừ tất cả các hành Đồng vô hành mà tu Nhẫn Ba la mật . Đây gọi là Đại Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Nhẫn Ba la mật vậy.
Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không không có ghét không có thương, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật không có ghét thương cũng như vậy . Như hư không không có biến Đổi, Bồ Tát tâm cứu cánh không biến Đổi tu Nhẫn Ba la mật cũng như vậy . Như hư không không có kém tổn, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm cứu cánh không có kém tổn cũng như vậy . Như hư không không có sanh không có khởi, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm không có sanh khởi cũng như vậy . Như hư không không có hí luận, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm không có hí luận cũng như vậy . Như hư không không có ân báo, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật với tất cả chúng sanh chẳng mong quả báo cũng như vậy . Như hư không vô lậu vô hệ phược, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật lìa tất cả lậu chẳng hệ phược tam giới cũng như vậy.
Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát lúc hành Nhẫn Ba la mật chẳng có quan niệm họ Đến mắng tôi tôi có thể nhịn chịu, cũng chẳng thấy người mắng kẻ bị mắng và cách mắng, chẳng quan niệm ấy, chẳng hí luận rằng họ rỗng không tôi cũng rỗng không, cũng chẳng suy nghĩ rằng âm thanh như vang do gì mà phát ra, cũng chẳng quan niệm rằng tôi phải còn họ thì quấy, cũng chẳng quan niệm rằng họ vô thường tôi cũng vô thường, cũng chẳng nghĩ rằng họ ngu tôi trí, cũng chẳng tưởng rằng chúng ta nên hành nhẫn nhục.
Nầy Hư Không Tạng ! Như có người vì cầu nhánh cây sa la nên cầm búa bén vào rừng sa la, Đến một cây sa la lớn chặt lấy một nhánh, các nhánh sa la khác chẳng nghĩ rằng họ chặt nhánh ấy mà chẳng chặt tôi, nhánh bị chặt cũng chẳng nghĩ rằng tôi Đã bị chặt các nhánh khác không bị chặt, tất cả nhánh bị chặt cùng chẳng bị chặt Đều chẳng có quan niệm ghét thương . Lúc hành Nhẫn Ba la mật, Đại Bồ Tát quán biết tất cả pháp tánh như cỏ cây tường vách ngói Đá, mà thị thân thể bị chặt chém Đứt rời Để giáo hóa chúng sanh, không có giận ghét, không có thương yêu, hoàn toàn không có nhớ nghĩ phân biệt . Đây là Bồ Tát hành Nhẫn Ba la mật bình Đẳng với hư không. (Nguồn: Phẩm Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi Phật)
+ Cõi Súc sinh có nguyên nhân hình thành chủ yếu bởi tâm vô minh, si mê. Chúng sinh trong cõi này chịu khổ đau vì đói rét, ngược đãi, giết hại lẫn nhau và bị con người nhẫn tâm đoạt mạng. (Xem nguồn)
+ Tánh khí súc sinh/ Súc sanh:
Hỏi: Tại sao HT (Tuyên Hóa) nói người thọ Bồ tát giới không nên nuôi dưỡng chó mèo, và gia súc?
Đáp: Đây là giải thích chi tiết và trích dẫn từ giáo lý HT Tuyên Hóa và kinh điển về việc người thọ Bồ tát giới không nên nuôi chó, mèo, gia súc, cá kiểng, dựa trên nhân – quả – tập khí – giới luật:
1. Lời dạy của HT Tuyên Hóa: Khi giảng Kinh Phạm Võng (Brahma Net Sutra) Commentary: “Người xuất gia và người giữ giới Bồ Tát không nên nuôi chó mèo, vì tâm sẽ bị nhiễm tập khí của chúng.
Mèo là loại động vật mang nghiệp sát nặng;
Chó thì có tính sân, chấp, thích tranh cãi và bảo vệ lãnh thổ. Nếu nuôi, lâu ngày người cũng học tập khí của nó mà không hay biết. (VM Hsuan Hua, 1996, Vol. 2, p. 65)
Ngài cũng dạy: Nuôi chó mèo cũng dễ sanh tâm tham ái và phân tâm, khiến đạo nghiệp thối thất. Chúng khiến tâm từ bi sai lệch, chỉ giới hạn vào thú cưng mà quên đại bi đối với tất cả chúng sanh.
2. Lý do về nghiệp sát và tập khí của mèo
- Mèo là loài sát nghiệp nặng vì săn bắt, giết chim, chuột liên tục để sống.
* Trong Hoa Nghiêm Kinh, mèo thường được ví như loại có tâm tham dục và lén lút (ẩn dụ cho loạn dâm và tham).
• Nuôi mèo = gần gũi với chủng tử sát, tham, tà dâm, dễ kết duyên tập khí này.
3. Nuôi Chó: Lý do về tập khí Asura của chó: Chó có tánh Asura (a tu la):
- Tập khí sân giận, đấu tranh, tranh giành lãnh thổ
- Tánh chấp trước: bảo vệ, giữ của, dễ sanh tâm “của ta”
- Sủa nhiều = khẩu nghiệp nặng (âm thanh sân, tạo sợ hãi)
HT nói: “Người nuôi chó lâu ngày sẽ giống tính chó, thích tranh cãi, ưa sân nộ, và bảo thủ chấp trước.”
4. Nuôi gia súc (bò, dê, heo): Thường dẫn đến tâm tham, vì:
- Bán thịt, bán sữa, bán con của chúng → chia rẽ tình mẫu tử, không từ bi.
- Tạo nghiệp sát hoặc gián tiếp sát (nhờ người giết).
- Hạn chế từ bi bình đẳng, vì xem chúng như tài sản.
5. Nuôi cá kiểng: Trong Kinh Pháp Cú cũng như Kinh Thiện Ác Nhân Quả, dạy rằng nuôi cá kiểng:
- Giam cầm sinh mạng trong không gian nhỏ
- Tạo nghiệp trồng nhân tù tội, vì cá bị nhốt làm trò tiêu khiển
HT giảng: Nếu chúng ta bắt cá nhốt trong hồ nhỏ để ngắm, thì cũng giống như chúng ta bị nhốt trong nhà tù mà người ta đến ngắm, có khác gì đâu? (VM Hsuan Hua, 1995)
+ Đọa làm súc sinh - Họa từ miệng mà ra (Mời xem Kinh văn gốc):
a- Đoại làm con Lai: .... Bấy giờ tôn giả A Nam bạch Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn! Đức Ma Gia phu nhân đời quá khứ, làm hạnh nghiệp gì, mà phải sinh trong loài súc sinh, làm thân Lộc Nữ? Phật bảo Ngài A Nam rằng: Nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông, phân biệt giải nói về nhân duyên hành nghiệp đời trước của Đức Ma Gia phu nhân.
.... Ngày ngày theo thường lệ; bà vẫn đem thức ăn về cho con ăn. Nhân một bữa nọ, vì sự chậm trễ của mẹ nàng, chưa kịp đem về cho nàng, hơn nữa vì sự đói khát bức bách, nên nàng sinh ra tức giận nói rằng: Mẹ ta ngày nay, không biết vì lẽ gì, mà không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta như thế này?
Và vì quá phiền muộn, nên nàng nhắc đi nhắc lại đến ba lần như vậy, rồi lại còn nói rằng:
- Mẹ ta ngày nay, không bằng loài súc sinh; ta thấy loài súc sinh như con hươu, một khi con nó bị đói khát, lòng nó còn chẳng nỡ rời bỏ nữa là mẹ ta!.........
Phật bảo tôn giả A Nan:
- Người con gái lúc bấy giờ, về sau là Lộc Mẫu phu nhân, bởi cúng dàng vị Phật Bích Chi một bữa ăn, và hoa mà trong năm trăm đời, được hưởng phúc báo tôn vinh hào quý, y phục thức ăn uống, không thiếu một thứ gì, nếu đi tới đâu, lại có hoa sen mọc theo dấu chân đi, vì có nhân duyên như thế, mà nay được gặp năm trăm vị Phật Bích Chi, lễ bái cúng dàng, nhưng chỉ vì một lời nói ác, chẳng biết ân đức, hủy báng mẹ: Chẳng bằng loài súc sinh, mà trong năm trăm kiếp, phải sinh làm loài hươu.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
...... Vì thế A Nan! Tất cả chúng sinh, họa từ trong miệng mà sinh ra. Vả miệng lưỡi thực là cái búa sắc tự bổ mình, là cái họa để tự diệt mình vậy.
b- Đọa làm đại trùng: ... Bấy giờ Đức Thế Tôn, cùng với Ngài A Nan, vào thành Vương Xá khuất thực.
Khi trở về đến ngoài thành, thấy có một vũng nước rất lớn và sâu, nên người ở trong thành Vương Xá, thường đem những thứ đại tiểu tiện ô uế, đổ bỏ vào trong cái vũng ấy, và khi trời mưa thì tất cả nước dơ dáy ở khắp các nơi cũng chảy dồn cả vào trong vũng đó.
Lúc ấy, ở trong vũng nước đó, có một con đại trùng, hình thù giống như người, nhưng chân tay lại rất nhiều. Con đại trùng ấy xa coi thấy Đức Như Lai, liền ngóc đầu lên khỏi mặt nước, trông nhìn Đức Như Lai, mà nước mắt tuôn trào.
Đức Như Lai coi thấy rồi, Ngài rất tỏ vẻ thảm thương không vui, liền trở về núi Kỳ Xà Quật......
- Lạy Đức Thế Tôn! Con trùng ở trong vũng nước vừa rồi coi thấy đó, đời trước làm nghiệp ác gì mà phải sinh ở trong cái vũng nước ấy? Với thời gian là bao nhiêu? Và đến thời nào mới được giải thoát?
Phật bảo Ngài A Nan - Về đời quá khứ,...... có một người Bà La Môn, lập tịnh thất cúng dàng chúng tăng. Nhân có một người đàn việt, thường dâng dầu tô để cúng dàng chúng tăng.
Lúc ấy có khách Tỷ Khưu tới, vị Duy Na thấy vậy, sinh lòng giận tức, hiềm khách Tăng tới, nên đem giấu giếm tất cả những thứ dầu tô ấy mà không cho khách Tăng.
Khách Tăng mới nói rằng: Sao Ngài không đem vị dầu tô để cúng dàng chúng Tăng?
Vị Duy Na đáp rằng: Vì ông là Khách Tăng, tôi là cựu trụ, vì thế mà tôi không cúng dàng.
Tỷ Khưu khách nói rằng: Đó là đàn việt cúng dàng Tăng hiện tiền.
Lúc ấy, người Duy Na kia, lộ vẻ hung ác đáng sợ, liềm mắng khách Tăng rằng:
- Sao ông không ăn phẩm giải mà lại cứ theo tôi đòi vị tô đó hoài vậy?
Bởi lời nói ác ấy, cho nên từ khi ấy đến nay, đã trải qua mười ức kiếp, thường phải sinh trong vũng phân. Người Duy Na lúc bấy giờ, nay là con trùng ở trong vũng nước ấy. Do đời quá khứ, phát ra một lời nói ác, hủy mắng chúng Tăng, mà trải vô lượng kiếp cứ phải sinh vào nơi phân giải nhơ nhớp!....
c- Đọa làm thân Chó: .... Lúc ấy có một vị Tỷ Khưu già, thân hình xấu xí, nhân tướng bất cụ, hơn nữa giọng tiếng lại không được tốt, nhưng thường ưa đọc tụng tán thán công đức của Tam Bảo. Bấy giờ, vị Tam Tạng Tỷ Khưu tuổi trẻ, thấy vị Tỷ Khưu già, giọng tiếng không được tốt, liền sinh tâm hủy nhục, mà nói rằng: Giọng tiếng như thế, chẳng khác gì tiếng chó sủa!
Lúc đó vị Tỷ Khưu già nói rằng: Sao ngươi lại hủy nhục ta như vậy? Ngươi có biết ta chăng?
Vị Tam Tạng Tỷ khưu tuổi trẻ nói rằng: Tôi có biết ông chớ, ông là người Tỷ Khưu già Ma Ha La, trong thời kỳ chính pháp của Phật Tỳ Bà Thi, sao tôi lại không biết?
Ma Ha La nói: Ta nay chỗ sở tác đã xong, phạm hạnh đã lập, và không còn phải chịu thân sinh tử hậu hữu nữa.
Vì Tam Tạng Tỷ Khưu tuổi trẻ nghe nói rồi, lòng sinh kinh hãi, dựng cả chân lông.
Bấy giờ Ma Ha La, liền đưa tay bên phải phóng ra ánh sáng hào quang rất lớn soi khắp cả mười phương.
Bấy giờ Tam Tạng, liền cúi đầu lễ bái, cầu xin sám hối:
- Tôi là người ngu si, không biết phân biệt Hiền Thánh, nên gây ra nghiệp ác ấy, xin cho tôi đời sau, được gần gũi bạn lành gặp gỡ Thánh sư, bao nhiêu phiền não đều được sạch hết, cũng như Đại Đức. Phật bảo Ngài A Nan rằng:
Tam Tạng Tỷ Khưu trẻ tuổi ấy, vì một lời nói ác hủy mắng Thượng Tọa, mà sau trong năm trăm kiếp, thường phải quả báo làm thân chó.
d- Đọa làm chim nhạn:.... Phật bảo A Xà Thế: ... Cách đây không biết bao nhiêu kiếp, có một ông Vua chỉ thích ăn thịt chim nhạn. Nhà Vua sai một người chuyên đi thả lưới bắt chim. Lúc ấy, một đàn năm trăm chim nhạn từ phương Bắc bay qua phía Nam, con đầu đàn rủi ro sa lưới. Người đánh bẫy vui mừng, từ trong khóm lá chạy ra vồ lấy con nhạn.
Khi đó một con nhạn khác, kêu than thảm thiết, quanh quẩn không bay đi. Người đánh bẫy liền giương cung bắn, không những không sợ cung tên, mà con nhạn ấy còn đáp xuống rồi lăn vào con nhạn đầu đàn. Còn bầy nhạn trên không cũng bồi hồi lui tới, nhất định không bay đi.
Người đánh bẫy thấy con nhạn kêu than thảm thiết, miệng trào ra máu, mới tự nghĩ rằng: “Loài chim muôn mà còn biết thương mến nhau, đến nỗi không tiếc thân mệnh như thế này, sao ta lại có thể nhẫn tâm giết hại chúng được?” Nghĩ như thế rồi, liền mở lưới thả chim nhạn ra.
Sau khi được thả, hai con nhạn cất tiếng kêu vui mừng, vỗ cánh bay lên, rồi cùng với bầy nhạn trên không, quấn quít lấy nhau mà bay đi.
Bấy giờ người đánh bẫy về tâu Vua rằng:
- Tâu Bệ hạ! Hôn nay thần bẫy được một con nhạn đầu đàn, lẽ phải đem về dâng Bệ hạ, nhưng một con nhạn khác, kêu than thảm thiết, đến trào máu miệng, không sợ cung tên, bồi hồi không đi.
Thần thấy cảnh ấy, mủi lòng, thương xót, liền thả chúng ra. Khi được thả ra, nhạn liền ca hót vui mừng, rồi cùng bầy nhạn, quấn quyện với nhau mà bay đi.
Nghe xong, nhà Vua tỏ vẻ buồn thảm, tự nghĩ: “Loài chim thú mà còn biết thương yêu, che chở nhau như thế.”
Nghĩ rồi, liền phát từ tâm và từ đó nhà Vua thề không ăn thịt nhạn và không sai bắt chim nữa.
Đại vương nên biết, nhà Vua bấy giờ, nay chính là Đại vương vậy; người bẫy chim bấy giờ, nay là Đề Bà Đạt Đa; con nhạn kêu thương thảm thiết đến trào máu miệng, nay là A Nan; bầy nhạn trên không nay là năm trăm vị La Hán, còn con nhạn đầu đàn bấy giờ chính là thân Như Lai vậy.
e- Làm thân con giận: ...... Phật nói, vị Tỷ khưu tọa thiền bấy giờ nay là Đại Ca Diếp, con vắt này là Đề Bà Đạt Đa, còn con rận này là thân Ta vậy.
Xưa kia, vì lợi dưỡng mà Đề Bà Đạt Đa muốn làm hại Ta, cho đến ngày nay Ta đã thành Phật, cũng vì ham danh lợi, mà Đề Bà Đạt Đa làm cho thân Phật chảy máu, nên mặc dầu đang còn sống mà phải đọa vào địa ngục. Đề Bà Đạt Đa thường mang lòng thâm độc, hủy hại Như Lai, nếu nói cho đầy đủ việc đó, thì cùng kiếp cũng không hết được. Thế mà lúc nào Ta cũng đem lòng từ bi, thương xót Đề Bà Đạt Đa, vì chính Ta thường gặp Đề Bà Đạt Đa nên mới chóng chứng đạo Bồ Đề. Bởi nhớ trọng ơn ấy nên Ta thường đem lòng tha thứ. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân)
g- Bị đọa làm Lợn: Kinh Chiết Phục nói: Một vị Thiên tử, trên trời Đao Lợi, khi hưởng hết phúc, năm tướng suy hiện, thấy sau khi chết, đọa làm kiếp lợn, sầu muộn vô cùng. Ngay trong khi ấy, trên Trời có tiếng: “Phật có thể cứu tội của nhà ngươi, mau đến cầu Phật, xin Ngài cứu cho!” Khi đến trước Phật, Ngài bảo Thiên tử: “Hết thảy các pháp, đều là vô thường, nên biết như thế, lo buồn làm gì?”
Thiên tử bạch Phật: “ Bạch đức Thế Tôn, làm sao thoát được, thân hình kiếp lợn?” Phật bảo Thiên tử: “Nếu muốn như thế, phải quy y Tam Bảo, hướng về Bồ Đề”. Vị Thiên tử đó, liền quy y Phật, tu pháp Đại Thừa, ngày đêm chăm chỉ. Trong bảy ngày sau, ông bèn mệnh chung, sinh xuống một nước, tên Duy Gia Ly, nhà trưởng giả nọ, ở trong thai mẹ, ngày đêm quy y, khi vừa sinh ra, cũng quỳ quy y. Cả nhà đều sợ, cho là ma quái, muốn đem giết chết, nhưng chỉ người cha, biết rõ việc ấy, nên ông nói rằng, đứa trẻ thơ này, là người phi phàm, vì người đời này, sống lâu trăm tuổi, mà còn không biết, quy y Tam Bảo, huống chi mới sinh đã niệm Tam Bảo. Vì thế nên biết, nó là phi phàm.
Khi lên bảy tuổi, thụ trì ngũ giới, đến khi lớn lên, bẩm với cha mẹ, xin cho xuất gia, tu các phạm hạnh, được Phật thụ ký, liền chứng Sơ quả. (Nguồn: Mục Liên Sám Pháp)
h- Đọa làm thân chồn 500 kiếp: Ngày nọ, sau khi tổ Bá Trượng giảng kinh xong, mọi người đều giải tán, nhưng chỉ còn lại một ông lão chưa chịu ra về. Tổ Bá Trượng thấy vậy liền hỏi nguyên do. Ông lão liền đáp: Con chẳng phải là người, mà vốn là Hồ ly tinh.........
- Nhờ lời dạy của Hòa Thượng, nay con đã thoát được thân hồ ly tinh. Con vốn ở trong hang đá sau núi. Xin thỉnh Hòa Thượng ngày mai làm lễ theo cách thức an táng một vị tăng.
Qua hôm sau, tổ Bá Trượng ra hang sau núi, thấy xác chết của một con hồ ly tinh, nên liền làm lễ an táng giống như một vị tăng. (Nguồn: Vị tăng đọa làm trồn)
+ Chúng sinh cõi Diêm Phù Đề cang cường, khó dạy - Thường lấy Tam ác đạo làm nhà:
Bấy giờ, Thiên Tử Diêm La chiêm lễ Ðức Thế Tôn và ngoái nhìn Bồ Tát Ðịa Tạng, rồi bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét Bồ Tát Ðịa Tạng ở trong sáu đường dùng trăm ngàn phương chước để cứu độ những chúng sanh mắc phải tội khổ, chẳng từ mệt nhọc. Vị Ðại Bồ Tát này có những sự thần thông bất khả tư nghì như thế, nhưng chư chúng sanh vừa được thoát khỏi tội báo, chẳng bao lâu lại phải đọa vào ác đạo nữa.
“Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đã có thần lực bất khả tư nghì như thế, cớ sao hàng chúng sanh chẳng chịu nương về thiện đạo để được giải thoát mãi mãi? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy rõ việc đó cho chúng con.”
Ðức Phật bảo Thiên Tử Diêm La: “Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề tánh tình cang cường, khó điều khó phục. Ðại Bồ Tát đây trong trăm ngàn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó, làm cho họ sớm được giải thoát.
“Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường đại ác, Bồ Tát dùng sức phương tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, làm cho họ hiểu được các việc đời trước. Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng, vừa ra khỏi lại trở vào, làm nhọc cho Bồ Tát phải trải qua nhiều số kiếp để độ thoát.
“Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào đường hiểm; trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp. Người mê muội đó ở trong đường hiểm chỉ chừng giây lát là sẽ gặp các thứ độc.”
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Thiên Tử Diêm La: “Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề tánh tình cang cường, khó điều khó phục.” Chúng sanh ở Nam Thiệm Bộ Châu tánh tình đều rất ương ngạnh bướng bỉnh, chứ không được nhu hòa hiền dịu, cho nên rất khó điều phục, khó uốn nắn. Do đó, muốn dạy dỗ, khiến cho họ chịu tuân theo quy củ phép tắc hoặc giữ gìn giới luật, là một việc không dễ dàng chút nào!
Hiện nay có nhiều người nói rằng việc tuân thủ quy củ là không hay, không tốt; vì sao họ nói như thế? Bởi vì bản thân họ không muốn tuân giữ quy củ, nên họ mới “xướng” lên như vậy. Kỳ thật, không có khuôn tròn và thước vuông thì không thể nào vẽ được hình tròn, ô vuông; cũng vậy, con người nếu không có quy luật phép tắc thì chẳng thể nào thành mẫu mực được!
Ở phần trước, Quỷ Vương và Thiên Tử Diêm La thắc mắc rằng Bồ Tát Ðịa Tạng đã có sức thần thông lớn lao đến thế, cớ sao chúng sanh không nghe theo lời khuyên răn, dạy bảo của Ngài; thậm chí có kẻ đã được ra khỏi ác đạo rồi nhưng sau đó lại bị đọa vào ác đạo lần nữa. Cho nên, bây giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích rằng: “Ðại Bồ Tát đây trong trăm ngàn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó, làm cho họ sớm được giải thoát.” Trải qua thời gian lâu dài có đến trăm ngàn vạn kiếp, Ðại Bồ Tát Ðịa Tạng cứ hết lần này sang lần khác, lần nọ đến lần kia mải miết cứu độ chúng sanh—cứu xong một lần này rồi lại cứu lần nữa. Hạng chúng sanh như thế đã sớm được Bồ Tát Ðịa Tạng giúp cho giải thoát từ lâu lắm rồi!
“Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường đại ác, Bồ Tát dùng sức phương tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, làm cho họ hiểu được các việc đời trước.” Những chúng sanh có ác nghiệp tội báo, thậm chí do khởi hoặc, tạo nghiệp mà thọ báo, thì sẽ bị đọa vào đường đại ác. “Ðường đại ác” tức là ba ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bồ Tát Ðịa Tạng dùng vô số pháp môn phương tiện, cùng sức phương tiện, để trừ sạch nguyên nhân căn bản của sự gây tạo nghiệp tội của các chúng sanh ấy, tức là nhổ bật gốc rễ của nhân duyên “khởi hoặc, tạo nghiệp,” khiến cho họ trở nên giác ngộ, hiểu rõ việc đời trước của mình.
“Nhưng vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết ác tập nặng.” “Kết” tức là dồn lại, kết dính lại với nhau. Nghiệp từ đời trước liên kết với nghiệp của đời này, nghiệp của đời này lại dây dưa liên lụy tới đời sau—đời đời kiếp kiếp, các nghiệp báo này nối kết nhau liên miên không dứt, giống như sợi dây kết liền thành một mối vậy; nên gọi là “kết ác tập nặng.” Những “ác tập” (thói quen xấu ác) này là những gì? Có mười tập khí xấu ác gọi là Thập Ác Tập:
1) Dâm dục. Thói xấu thứ nhất là dâm dục. Tất cả chúng sanh đều như nhau—ai nấy đều có lòng dâm dục. Ðây là mối phiền toái thứ nhất, cũng là điều rất khó đoạn trừ. Việc đoạn dứt dâm dục còn khó hơn lên trời nữa! Do đó, nếu chúng ta điều phục được lòng dâm dục—tức là người nữ thấy người nam thì không khởi tâm ham muốn, và người nam thấy người nữ thì chẳng sanh lòng tà vạy—thì gọi là “hàng hổ” hoặc “phục hổ,” tức là đã đánh thắng loài cọp dữ, khiến chúng phải đầu hàng quy phục. Lại thêm, nếu chúng ta cũng không còn phiền não, thì có thể nói rằng chúng ta đã hàng phục được cả loài rồng rồi vậy. Phiền não vô minh thì giống như con rồng vậy—rồng có khả năng biến hóa vô cùng, không thể đoán trước được lúc nào nó sẽ thình lình xuất hiện.
Vậy, việc phải làm trước nhất là đoạn trừ lòng dâm dục. Qua sự việc này có thể thấy được quý vị có công phu tu hành, có đạo đức, có thật sự dụng công hay không. Quý vị có thể tự thử nghiệm chính mình, tự tìm hiểu chính mình. Nếu quý vị đã đoạn trừ được dâm tâm rồi tức là quý vị có công phu tu tập; lòng dâm chưa dứt thì quý vị vẫn còn lậu thoát. Cho nên, tu “vô lậu” tức là dứt bỏ lòng dâm dục—còn dâm tâm là còn “hữu lậu,” hết dâm tâm mới là “vô lậu.”
2) Tham. Ác tập thứ hai là tham lam. Vì sao có lòng dâm dục? Chính là vì có lòng tham—ham muốn cảm giác, khao khát thỏa mãn dục niệm của chính mình.
3) Mạn. “Mạn” tức là kiêu mạn, và đây là thói xấu thứ ba. Thế nào gọi là “kiêu mạn”? Bản thân mình vốn chưa hẳn là thông minh hơn người, nhưng lúc nào cũng cho rằng mình thông minh xuất chúng, khinh thường tất cả những người khác, đến đâu cũng muốn mình là “số một”; đó chính là lòng kiêu mạn đang tác quái!
4) Sân. Ðây là thói xấu thứ tư. Kẻ mang lòng sân hận thì đối với bất cứ ai cũng sanh tâm oán ghét, lúc nào cũng hằn học: “Mày không tốt với tao, tao phải tìm cách giết mày để báo thù!”
5) Trá. Ác tập thứ năm là “trá,” tức là xảo trá, lường gạt, làm những việc giả dối hư ngụy.
6) Cuống. “Cuống” tức là nói dối, vọng ngữ. “Trá” tức là bản thân vốn là người xấu, song bề ngoài lại làm ra vẻ người tốt, khéo che đậy khiến kẻ khác không nhận ra được. Còn “cuống” tức là nói dối, bịp bợm, nói sai sự thật, bất cứ chuyện gì cũng nói dối một cách trơn tru, trót lọt được cả.
7) Oán. “Oán” tức là việc gì cũng oán trách người khác; rõ ràng là mình sai, là lỗi của mình, nhưng lại đổ lỗi cho người khác: “Nếu hắn không bảo tôi làm như thế thì tôi đâu có làm. Chuyện này không thể trách tôi được. Ðó là lỗi của hắn. Hắn mới là người có lỗi.” Cho nên, kẻ ôm lòng hờn oán thì bất cứ tội lỗi gì cũng trút lên đầu lên cổ người khác cả!
8) Tà kiến. Ðây là thói xấu thứ tám. “Tà kiến” tức là tà tri tà kiến, cái nhìn sai lầm hoặc sự hiểu biết lệch lạc, dẫn dắt con người đi vào con đường bất chánh, tà vạy.
9) Uổng. “Uổng” có nghĩa là cong vạy, không ngay thẳng.
10) Tụng. Ác tập thứ mười là tố tụng, tức là thích kiện cáo, tranh cãi hơn thua. Có những kẻ vốn sai quấy, có lỗi, thế mà lại muốn kiện cáo, thưa với quan tòa là lỗi của người khác, rồi buộc đối phương phải bồi thường tiền bạc cho mình. Nói tóm lại, bản thân mình vốn là vô lý mà lại vu khống, tìm cách làm cho người khác bị hàm oan, đó gọi là “tụng.”
Mười thói quen xấu hay Mười Ác Tập này trong Kinh Lăng Nghiêm (quyển tám) gọi là Mười Tập Nhân, tức là mười nguyên nhân tập khí xấu dẫn đến các quả báo khổ sở trong sáu đường (Lục Giao Báo). Chính vì chúng sanh tiêm nhiễm mười tập khí này nên nói là “kết ác tập nặng.”
“Vừa ra khỏi lại trở vào.” Chính vì ác nghiệp của Mười Tập Nhân mà chúng sanh gây ra vô số tội lỗi, nên mới vừa thoát khỏi ba ác đạo chưa được bao lâu thì liền bị đọa về lại. Ðời này được ra khỏi ba ác đạo thì đời sau lại trở vào lần nữa; đợi đến đời sau nữa được ra khỏi ba nẻo ác rồi thì đời kế sau đó nữa cũng quay về lại—đó gọi là “vừa ra khỏi lại trở vào” vậy. Chúng sanh cứ lẩn quẩn như vậy, được thoát ra rồi lại trở vào, “làm nhọc cho Bồ Tát phải trải qua nhiều số kiếp để độ thoát.” Các chúng sanh như thế làm cho Bồ Tát Ðịa Tạng vô cùng vất vả, phải nhọc nhằn lo việc cứu độ trong rất nhiều kiếp.
“Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào đường hiểm; trong con đường hiểm đó có rất nhiều quỷ Dạ-xoa.” Ðến đây, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa ra một tỷ dụ. Ðức Phật ví dụ rằng có một người bị lạc đường, tìm không ra nhà của mình; người đó vì không thông thạo đường sá nên lạc bước vào một con đường đầy dẫy những sự nguy hiểm—trong con đường ấy có rất nhiều quỷ Dạ-xoa đang rình rập. “Dạ-xoa” ở đây là dụ cho mối “nghi” trong Ngũ Ðộn Sử. “Nghi” tức là không có lòng tin, việc gì cũng hoài nghi, ngờ vực cả.
“Cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.” Trong con đường ấy, ngoài quỷ Dạ-xoa ra còn có cả cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp cũng đang rình chờ nữa. “Cọp” là dụ cho lòng tham, tham lam như cọp. Do đó, điều phục được lòng dâm dục tức là thuần phục được cọp; điều phục không nổi lòng dâm dục tức là chưa hàng phục được cọp vậy.
“Sói” là dụ cho cái gì? Ðó là dụ cho lòng sân hận. Loài sói rất lợi hại; lòng sân hận và loài lang sói thì đều đáng sợ như nhau.
“Sư tử” là dụ cho sự ngu si.
“Rắn độc, bò cạp” là dụ cho tánh kiêu mạn.
“Tham, sân, si, mạn, nghi,” gọi chung là Ngũ Ðộn Sử.
“Người mê muội đó ở trong đường hiểm chỉ chừng giây lát là sẽ gặp các thứ độc.” Hạng người mê muội thì chẳng mấy chốc sẽ bị Ngũ Ðộn Sử—tham, sân si, mạn, nghi—tác hại, khiến họ tạo ra nhiều nghiệp tội, phải đọa vào ba đường ác. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cảm giác:
- Cảm giác là phản xạ của dục vọng (LVLCK, 661)
- Trạng thái Hoạt Động (Activity-aspect) của Chân Thần tự biểu lộ trên cõi cảm dục dưới hình thức cảm giác (sensation). (KCVTT 244)
+ Hệ thống cảm giác - Thần kinh: .... Bản thân các trung khu thần kinh dĩ nhiên do thể xác tức “cái túi cơm” cung ứng, nhưng Prana là năng lượng kềm chế tác động thông qua các trung khu thần kinh, khiến cho cái túi cơm ấy phải vâng lời và uốn nắn nó theo mục đích yêu cầu của bản ngã vốn ngự trong trí tuệ cao siêu.
Thật quan trọng mà lưu ý thấy rằng mặc dù các dây thần kinh ở trong thể xác nhưng tự thân thể xác không có khả năng cảm giác. Với vai trò là một lớp vỏ, thể xác không hề cảm giác: nó chỉ tiếp nhận các ấn tượng thôi. Cơ thể nơi ngoại giới tiếp nhận tác động, nhưng khả năng cảm nhận đau khổ và vui sướng ở nơi chính các tế bào, ngoại trừ thể hiện một cách rất mơ hồ, đờ đẫn và mang tính “tập thể”, sinh ra những cảm giác lơ mơ bàng bạc, chẳng hạn như cảm giác mệt mỏi nói chung.
Những sự tiếp xúc của thể xác được Prana truyền vào bên trong, những tiếp xúc ấy thật sắc xảo, đau nhói, nhức nhối, chuyên biệt, khác hẳn với những cảm giác bàng bạc nặng nề bắt nguồn từ chính các tế bào. Như vậy là trong mọi trường hợp Prana đều sinh ra hoạt động cảm giác cho các cơ quan của thể xác, nó truyền rung động từ bên ngoài tới cho các trung khu cảm giác vốn ở nơi Kāma, tức lớp vỏ kế tiếp với Prana, đó là Manomayakosha. Chính nhờ có thể Phách thì Prana mới chạy dọc theo các dây thần kinh trong cơ thể, khiến cho chúng có thể tác động chẳng những chuyển di các tác động từ bên ngoài mà còn chuyển tiếp lực phát động bắt nguồn từ bên trong.
Chính tác động của các dòng Sinh khí trong thể Phách của các loài khoáng vật, thực vật và động vật đã khiến cho vật chất cõi Trung giới tham gia vào cấu trúc của phân tử và nguyên tử chuyển từ dạng tiềm tàng sang dạng hoạt động; nhờ vậy nó tạo ra một “sự rung rẩy” khiến cho Chơn Thần trong hình tướng thu hút được các vật liệu cõi Trung giới, vốn được các tinh linh thiên nhiên xây dựng thành ra một khối có cấu tạo lỏng lẻo tức là thể Vía trong tương lai.
Nơi loài khoáng vật, vật chất cõi Trung giới ít hoạt động đến nỗi không nhận thức được tác động từ cõi Trung giới lên cõi Hồng trần. Nơi loài thực vật cao cấp hoạt động tăng cường của vật chất Trung giới ảnh hưởng tới thể Phách và thông qua đó tác dụng lên vật chất thô trược. Nơi loài động vật, tâm thức cõi Trung giới còn lớn hơn nữa, ảnh hưởng tới thể Phách của chúng nhờ vào những rung động trong cõi dĩ thái mới xây dựng được hệ thần kinh bị kích thích mà ở loài thực vật mới chỉ lờ mờ được báo trước thôi.
Như vậy, chính những xung lực do tâm thức phát động – sẵn lòng trải nghiệm – để gây ra những rung động trên cõi Trung giới, đến lượt chúng tạo ra các rung động trong vật chất cõi dĩ thái: xung lực vốn từ tâm thức mà ra, nhưng việc thực sự xây dựng hệ thần kinh (mà tâm thức ở giai đoạn này không thể đảm đương được) là do các tinh linh thiên nhiên của cõi dĩ thái thực hiện dưới quyền điều động của các Đấng Quang Minh thuộc giới Tinh hoa Ngũ hành thứ Ba và Thượng Đế hoạt động thông qua Hồn Khóm.....
Như ta thấy, hệ thần kinh giao cảm được các xung lực xây dựng trước hết từ các tế bào thần kinh này, đó là xung lực bắt nguồn từ cõi Trung giới; sau này thì hệ thần kinh não tủy được xây dựng do các xung lực bắt nguồn từ cõi Trí tuệ.
Hệ thần kinh giao cảm luôn luôn vẫn còn có quan hệ trực tiếp với các trung tâm lực của thể Vía; nhưng điều quan trọng mà ta cần lưu ý là các trung tâm lực của thể Vía này không phải là các luân xa của thể Vía (sau này ta sẽ nói tới các luân xa ấy) mà chỉ là khối tập hợp trong thể Vía tạo thành phần sơ khởi của những trung tâm lực vốn sẽ kiến tạo nên các cơ quan trong thể xác. Mãi cho tới một thời kỳ rất lâu sau này trong cơ tiến hóa thì các luân xa của thể Vía mới được tạo dựng.
Thế là từ các trung tâm lực này – không phải là các luân xa – mười cơ quan của thể xác được tạo thành: năm cơ quan để tiếp nhận ấn tượng tức Jnanendriyas, “giác quan hiểu biết”, tức trung tâm cảm giác của bộ óc, rốt cuộc có liên quan tới mắt, tai, lưỡi, mũi và da cùng với năm cơ quan chuyển rung động từ tâm thức ra ngoại giới, Karmendriyas, “giác quan hành động”, tức trung tâm cảm nhận gây ra tác động; đó chính là các trung khu vận động trong bộ óc, có liên quan tới các cơ quan cảm giác ở tay, chân, cổ họng, cơ quan sinh dục và cơ quan bài tiết.
Học viên phải cẩn thận lưu ý là Prana chạy dọc theo các dây thần kinh vốn khác hẳn và riêng biệt với cái gọi là từ khí hoặc lưu chất thần kinh của con người, lưu chất này được sản sinh ra trong nội bộ cơ thể y. Lưu chất thần kinh tức từ khí này giữ cho vật chất dĩ thái lưu chuyển dọc theo các dây thần kinh hoặc nói chính xác hơn, là dọc theo một lớp vỏ bằng chất dĩ thái bao xung quanh mỗi dây thần kinh cũng giống như máu tuần hoàn qua các tĩnh mạch. Và cũng như dòng máu chuyển oxy tới cho cơ thể, cũng vậy dòng lưu chất thần kinh chuyển Prana.
Vả lại, cũng giống như các hạt của xác phàm thường xuyên thay đổi và được thay thế bằng những hạt mới rút ra từ thức ăn, nước và không khí; cũng vậy các hạt của thể Phách thường xuyên thay đổi và bị thay thế bởi các hạt dĩ thái mới mẻ, những hạt này được thu nhận vào trong cơ thể qua thức ăn, qua những khí hít vào và qua Prana dưới dạng mà ta gọi là Sinh Khí Cầu, và bây giờ ta sẽ miêu tả.
Prana tức Sinh Khí tồn tại trên mọi cõi: cõi trần, cõi Trung giới, cõi Trí tuệ v.v. . . Prana là Sự Sống Nhất Như, là cái “trục bánh xe có gắn bảy cái căm của bánh xe vũ trụ”. (Thánh Ca về Prana trong Artharva Veda XI, 4). Tuy nhiên, ở đây ta chỉ quan tâm tới dáng vẻ và phương thức hoạt động của nó trên cõi thấp nhất tức cõi Hồng trần.
Ta cũng phải lưu ý rằng Prana trên cõi Hồng trần vốn thất bội, nghĩa là có bảy biến thể của nó.
Ta đã thấy rằng nó hoàn toàn riêng biệt và riêng rẽ với ánh sáng, nhiệt v.v. . . ; tuy nhiên biểu lộ của nó trên cõi Hồng trần dường như tùy thuộc vào ánh nắng mặt trời bởi vì khi ánh nắng chói chang thì dường như Prana cũng xuất hiện nhiều còn khi thiếu ánh nắng thì Prana cũng bị thiếu hụt.
Prana xuất hiện từ mặt trời rồi nhập vào một số cực vi tử hồng trần vốn trôi nổi hằng hà sa số trong bầu khí quyển của trái đất. Mặc dù ta bảo rằng lực Prana này “nhập vào” nguyên tử cõi trần, nhưng nó không từ bên ngoài nhập vào: nó nhập vào từ một chiều đo cao hơn, chiều đo thứ tư, và như vậy nhà thần nhãn thấy nó có vẻ trào dâng từ bên trong nguyên tử.
Như vậy có hai lực nhập vào nguyên tử từ bên trong: 1- lực Ý Chí của Thượng Đế giữ nguyên tử lại đúng hình dạng của nó; 2- lực Prana. Ta nên lưu ý rằng Prana xuất phát từ Ngôi Hai của Thái Dương Thượng Đế, trong khi lực Ý Chí xuất phát từ Ngôi Ba.
Tác dụng của Prana đối với các nguyên tử khác hẳn tác dụng của điện, ánh sáng, nhiệt hoặc các biểu hiện khác của Fohat. Khi điện lướt xẹt qua các nguyên tử thì nó làm lệch hướng các nguyên tử giữ chúng lại theo một cách nào đó, cũng như truyền cho chúng một nhịp độ rung động riêng biệt và cá biệt. Bất cứ biến thể nào của Fohat chẳng hạn như điện, ánh sáng hoặc nhiệt, đều gây ra một dao động của nguyên tử xét chung, dao động ấy có kích thước khổng lồ so với kích thước của chính nguyên tử, dĩ nhiên các lực ấy tác động lên nguyên tử từ bên ngoài.
Học viên huyền bí học ắt đã quen thuộc với hình dáng và cấu trúc của cực vi tử hồng trần, tức hạt vật chất nhỏ nhất trên cõi hồng trần, tổng hợp của nó tạo ra đủ thứ chất mà ta gọi là chất đặc, chất lỏng, chất hơi v.v. . . Vì vậy trong những hình vẽ của tài liệu này người ta chỉ phác họa các cực vi tử hồng trần thôi.
Bấy giờ lực Prana xạ ra từ mặt trời, nhập vào một số nguyên tử trong bầu khí quyển và gây cho chúng chói sáng. Như vậy, một nguyên tử được tích thêm sự sống, có năng lực hấp dẫn lục bội, sao cho nó ngay tức khắc thu hút sáu nguyên tử khác xung quanh mình. Nó sắp xếp những thứ này theo một hình dạng nhất định, tạo ra cái được gọi là một siêu việt sơ nguyên tố (a hyper-meta-proto-element) trong Hóa Học Huyền Bí, tức là một tổ hợp vật chất trên cảnh giới dưới nguyên tử. Tuy nhiên, tổ hợp này khác với mọi tổ hợp khác đã được quan sát cho đến nay ở chỗ lực tạo ra nó và giữ nó lại với nhau xuất phát từ Ngôi Hai của Thái Dương Thượng Đế thay vì từ Ngôi Ba. Dạng này được gọi là Sinh Khí Cầu và được trình bày trong hình vẽ đính kèm theo đây vốn là hình mở rộng của hình ở trang 45 của quyển Hóa Học Huyền Bí. (Nguồn: Prana - Sinh khí vũ trụ)
+ Tâm bình đẳng trong Phật pháp: Kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka Sūtra) dạy: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, bình đẳng về Tánh. Nhưng do nghiệp lực và giới hạnh sai khác, quả báo sai khác.
HT Tuyên Hóa giảng: Bình đẳng trong Phật pháp là bình đẳng về Pháp tánh và Phật tánh, không phải bình đẳng về oai nghi và thanh tịnh giới phẩm. Nếu Tăng không giữ phạm vi riêng, thì Tăng-già sẽ không còn uy nghi, và cư sĩ cũng không biết cung kính Tam Bảo.
Phật pháp dạy bình đẳng về Phật tánh, nhưng phải có thứ lớp về giới hạnh và oai nghi để duy trì đạo. (Tuyên Hóa Thượng Nhân Pháp Ngữ, tập 2)
+ DIỄN GIẢI THÊM VỚI NGƯỜI TU ĐẠO
3. Luật tạng quy định
3.1. Luật Tứ Phần (Dharmaguptaka Vinaya):
• Cư sĩ không được ngồi cùng chiếu (mặt đất hoặc bồ đoàn) với Tăng Ni khi thọ trai hoặc khi Tăng Ni đang tụng kinh, giảng pháp.
• Lý do:
• Giữ sự tôn kính Tam Bảo (Buddha – Dharma – Sangha).
• Tránh khiến Tăng Ni phạm giới (ví dụ ngồi gần người khác phái gây động tâm).
• Giữ thứ lớp trong đại chúng để huân tập tâm cung kính, tạo phước điền cho cư sĩ.
- Luật Tứ Phần, Phẩm 47: “Nếu Tỳ kheo ngồi lẫn lộn với cư sĩ để thọ thực, phạm Đột kiết la.”
3.2. Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya), chương Tám Pháp
Phật dạy: “Có tám pháp khiến Tỳ kheo bị coi thường… [trong đó có] ngồi chung cùng cư sĩ để ăn, không phân biệt oai nghi.” (AN 8.8)
4. Ý nghĩa thực hành: Không cùng ngồi ăn không có nghĩa Tăng Ni “cao hơn” cư sĩ, mà vì:
1. Tăng Ni thọ thực với tâm quán bất tịnh thực (asubha), quán “ăn để nuôi thân tu đạo”, tránh tạp thoại và phân tán tâm.
2. Cư sĩ thọ thực vì duy trì mạng sống, chưa phát tâm xuất thế, chưa thọ giới cụ túc.
3. Nếu ngồi chung:
• Tăng Ni dễ bị phan duyên, mất uy nghi.
• Cư sĩ dễ khởi tâm “bằng vai với Tăng Ni”, tổn giảm phước đức.
HT Tuyên Hóa giảng thêm: Tất cả chúng sanh bình đẳng về tánh, nhưng nhân quả không bình đẳng. Người giữ giới thanh tịnh là ruộng phước của trời người. Nếu không có thứ lớp Tăng – tục, thì Phật pháp sẽ diệt vong. Đừng hiểu sai ‘bình đẳng’ thành hỗn loạn.
+ Tu Mật tông - Pháp mật tông: Một số người chầm mê mật tông. Mật tông chú trọng trì chú, có chú sao là mật? Mật chân chính thì không có âm thanh, lại không có hình sắc. Không dơi vào sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần mới là mật. Tôi nói với bạn tức chẳng phải mật. Một số người bị mật tông mê hoặc, cho mật tông là pháp trên hết. Cho nên, "pháp thì bình đẳng, không có cao thấp". Pháp nào tương ứng với bạn tức là pháp diệu, không tương ứng với bạn tức chẳng phải pháp diệu. Đừng cho rằng pháp đó không phải pháp diệu, mà là không hợp với bạn mà thội.
Người phát tâm bồ đề phổ độ chúng sinh thì thấy tham thiền là diệu pháp. Không phát tâm, không thấy hay thì không diệu. Nên diệu hay không diệu đều là tâm vọng tưởng điên đảo của chúng sinh, là vô minh. Diệu hay không mỗi cái đều có cái diệu của nó, chỗ diệu không giống nhau mà thôi. Như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngang cũng diệu mà dọc cũng diệu. Mỗi người có thể tự thưởng thức, thể nghiệm sự diệu dụng, cảm thọ sở đắc. Như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Ai ăn người ấy lo (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 39 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Mật Tông: Câu hỏi: Đệ tử tu học Mật Tông, phát hiện có rất nhiều đồng tu học tập Tịnh Tông có sự bài xích rất mạnh mẽ đối với Mật Tông, thậm chí nói lời bất kính. Xin hỏi Mật Tông không phải cũng là pháp môn mà Đức Phật truyền xuống hay sao? Tịnh Tông nói niệm Phật vãng sanh, mà Mật Tông cũng nói niệm Lục Tự Đại Minh Chú có thể vãng sanh. Vì sao mọi người có tâm phân biệt lớn như vậy?
Câu hỏi này hỏi rất hay. Phàm là có phân biệt chấp trước thì đều không thể vãng sanh, vì sao vậy? Điều kiện vãng sanh, Phật đã nói trong Kinh rất rõ ràng, tâm tịnh ắt cõi Phật tịnh. .... Cho nên pháp môn đều là do Phật truyền. Trong “Kinh Kim Cang” nói được rất hay: “Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chúng ta chỉ có thể chọn một loại để học tập. Tiêu chuẩn lựa chọn nhất định phải xem căn tánh của chính mình, người căn tánh lanh lợi thì có thể tu học hết thảy pháp môn Đại thừa, người căn tánh thông thường tốt nhất là học pháp môn niệm Phật, vô cùng đáng tin. Cho nên đối với các pháp môn khác nhau thì phải tôn kính, không được bài xích, không được hủy báng. Hủy báng chính là báng Phật, bài xích chính là bài xích chánh pháp. Điều này vô cùng quan trọng.
Lão sư hướng dẫn của tôi là Đại sư Chương Gia, đây là Đại đức Mật Tông. Tôi theo Ngài ba năm, Ngài không truyền Mật pháp cho tôi, Ngài cho rằng điều kiện của tôi không đủ. Đây là thật không phải giả, cho nên đây là Đại Đức Mật Tông chân thật. Trình độ của họ là Tiểu học, nếu bạn truyền khóa trình của lớp Tiến sĩ cho họ thì làm sao họ tiếp nhận được? Họ không tiếp nhận nổi. Cho nên Đại sư Chương Gia dạy tôi, thứ nhất là nhận thức Thích Ca Mâu Ni Phật, thứ hai là y theo giới luật để xây dựng nền tảng tu học. Đây đều là rất như pháp, sau này tôi xem Kinh Đại thừa thấy là cách nói như vậy. Mật giáo là xây dựng trên nền tảng của Hiển giáo, không có nền tảng của Hiển giáo thì không thể học Mật. Cho nên Mật pháp Tạng truyền, hiện nay tôi không hiểu, trước đây Đại Sư Chương Gia nói với tôi, trước tiên học Hiển giáo, kỳ hạn là mười năm, còn phải trải qua thi cử, thi cử đạt tiêu chuẩn thì có học vị gọi là Geshe (gê-xê), sau khi lấy được học vị Geshe thì có thể tiếp nhận truyền thừa Mật pháp. Có thể thấy đó là như pháp. Nếu Hiển giáo của chúng ta chưa có nền tảng thì Mật giáo thật sự là khó khăn. Nói tóm lại, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là nương vào Giác Chánh Tịnh để vào cửa, không có ngoại lệ, đi đến sau cùng chính là ba cánh cửa này.
Chúng ta biết Thiền Tông, Tánh Tông đi cửa Giác, Giác mà không Mê, đây là người thế nào? Là người thượng thượng căn, đây không phải là người thông thường. Loại thứ hai chiếm đại đa số, đây là người bậc trung, học Giáo thì Đại khai viên giải, đây là cửa Chánh, chánh tri chánh kiến, từ cửa này mà thành Phật. Thứ ba chính là tu Tịnh. Nói một cách khác, bạn không phải là người thượng thượng căn thì học Giáo cũng có khó khăn, Kinh điển của Giáo quá nhiều, giống như đi học vậy, bạn học từ Tiểu học, Trung học, Đại học đến Nghiên cứu sinh, thời gian rất dài. Loại thứ ba là tu tâm thanh tịnh, cửa này gọi là độ khắp ba căn, lợi độn đều thâu. Hai tông phái chuyên tu tâm thanh tịnh là Mật Tông và Tịnh Độ Tông, hai tông này đều là tu tâm thanh tịnh. Nhưng Mật cao hơn Tịnh. Tịnh là gì? Tịnh là lìa hết thảy ô nhiễm, tránh xa để được tâm thanh tịnh, là dùng phương pháp này. Mật thì không cần, không cần phải tránh xa, ở trong môi trường không thanh tịnh để tu tâm thanh tịnh. Pháp này cao, cho nên đây cũng không phải người thông thường có thể làm được. Trong Mật có cạn sâu khác nhau, đó là Mật pháp thậm thâm. Cho nên trong Mật Tông có “tu song thân”, trong dâm dục mà đoạn dâm dục, bạn có bản lĩnh này không? Không có bản lĩnh này thì sẽ đọa địa ngục, có bản lĩnh này thì sẽ thành Phật.
Cho nên thanh tịnh của Mật Tông không có ở lưng chừng, tức là chỉ có một điểm cao nhất, điểm còn lại là đọa địa ngục. Nó không giống như Tịnh Độ, Tịnh Độ là ta phải tránh xa ô nhiễm, ta tu thanh tịnh, pháp này có lợi ích rất lớn đối với căn tánh trung hạ. Mật Tông không có lợi ích đối với căn tánh trung hạ, nếu căn tánh trung hạ mà đi học Mật thì chắc chắn đoạ tam đồ, chúng ta phải biết điều này. Nhưng Mật Tông là pháp cao nhất. Ở trong Kinh, chúng tôi học Kinh giáo nên hiểu rõ, đúng là Phật nói như vậy, không tu Mật pháp thì không thể thành Phật. Người nào mới thật sự là học trò chính thức của Mật Tông? Người minh tâm kiến tánh, chính là chúng ta ngày nay gọi là Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên, các Ngài phải bắt đầu tu Mật. Vì sao vậy? Các Ngài chịu đựng được khảo nghiệm, các Ngài là Tam Luân Thể Không, các Ngài đã buông xuống toàn bộ vọng tưởng phân biệt chấp trước, cho nên các Ngài có thể tùy duyên mà không phan duyên. Tùy duyên là trong bất kỳ cảnh giới nào cũng có thể tùy thuận, không mất tâm thanh tịnh, cũng chính là nói các Ngài không khởi tâm động niệm, đây là Mật chân thật, đây không phải giả; Bạn vẫn còn khởi tâm động niệm thì không được. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
Xem thêm: Clip PS Tịnh Không giảng Người cực thiện mới đủ tiêu chuẩn tu Mật Tông
+ Pháp bình đẳng là gì ? Tức là chẳng có tâm tham, chẳng có tâm sân, chẳng có tâm si. Biến tham sân si ba độc, thành giới định huệ ba học, do đó có câu: "Siêng tu giới định huệ, Diệt trừ tham sân si".
Mười chữ này là pháp căn bản của người tu đạo. Ai làm được thì người đó có tư cách xưng là Sa môn.
Các vị đã từng nghe Kinh nhiều rồi, riêng pháp cơ bản quên mất rồi. Bây giờ tự hỏi mình, còn tâm tham chăng ? Còn tâm sân chăng ? Còn tâm si chăng ? Nếu còn thì có thể dùng pháp bố thí để trị tâm tham, dùng pháp môn từ bi để trị tâm sân, dùng pháp môn Bát Nhã để trị tâm si, đó là pháp bình đẳng.
Lúc này có người hỏi :"Nói về bình đẳng, phải chăng xem tâm tham có bao nhiêu ? Bố thí bao nhiêu ? Nếu nhiều, nửa tâm tham nửa bố thí, như vậy là bình đẳng chăng" ! Chẳng phải. Nếu bỏn xẻn và bố thí bình đẳng, sân hận và từ bi bình đẳng, ngu si và Bát nhã bình đẳng đó là giả bình đẳng chớ chẳng phải là chân thật bình đẳng. Tại sao ? Vì nửa âm nửa dương, phải hoàn toàn thuộc về dương thì mới là chân chánh bình đẳng. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Thí cúng (Bố thí - Cúng dường) - Cho đi là còn mãi: Lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương II)
+ Bố thí: Xuất Tâm hoan hỷ mong cầu được Bố thí, cho dù Bố thí bất cứ vật gì đều có được công đức rất lớn. Một ví dụ sinh động và nhiệm mầu về câu truyện một cậu bé Xuất Tâm Bố thí khi gặp Đức Phật Kinh hành đến, cậu bé bốc một lắm đất dâng lên Ngài với Tâm lượng chân thành, Đức Phật đã nhận đất cho vào Bảo Bát mang theo, Phật dặn Ngài A Nan Đà mang đất này về để ở Phòng của Ngài - Đức Phật dạy rằng, khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, cậu bé sẽ được làm Vua tên A Dục, hộ trì tránh pháp. Thực tế đúng như vậy. (Nguồn: Theo Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh)
+ Thế Tôn cả đời tu thiện là tu ba loại bố thí
- Bố thí Tài: Thế Tôn không có tiền của, dùng thân thể, dùng thể lực (thân thể là nội tài) vì xã hội phục vụ, đây là thuộc về bố thí tài. Mỗi ngày đi dạy học khắp nơi, giáo hóa chúng sanh. Đây là bố thí nội tài.
- Bố thí Pháp: Nội dung dạy học là giúp người khai ngộ, giúp đỡ người, chỉ dạy người khác đoạn ác tu thiện, chỉ dạy người phá mê khai ngộ, đây là bố thí pháp.
- Bố thí Vô Úy: An ủi một phần chúng sanh khổ nạn, hòa lẫn thành một khối với đời sống của họ, khiến họ sinh tâm hoan hỷ, đây là bố thí vô úy.
* Đức Phật trong Kinh dạy: "Tu tài bố thí thì sẽ có tiền của. Tu pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ. Tu vô úy bố thí thì được khoẻ mạnh sống lâu" (Kinh TTNĐ-Tập 54_PS Tịnh Không)
* Không thể dùng cái nhân bất tịnh tạo thành quả tịnh. Tiền trộm cắp, tiền tà hạnh, dù dùng để bố thí, cúng dường, vẫn tạo nghiệp xấu, chỉ thêm phước báo nhỏ nhưng nghiệp ác vẫn không tiêu trừ. Giống như lấy đầu này đắp đầu kia, cuối cùng vẫn phải trả, vì nhân quả không thể lừa dối. (宣化上人, 1994 - HT Tuyên Hóa giảng)
* Quả báo cúng dường Tăng chúng: Phước báu không ở nhiều hay ít Tăng chúng, mà ở tâm cung kính và hành vi đúng pháp. Nếu thỉnh nhiều Tăng mà không hiểu luật, khiến Tăng phạm giới, thì tội nặng hơn phước. Nếu thỉnh một vị Tỳ kheo thanh tịnh, cung kính cúng dường đúng pháp, thì công đức vô lượng.” (Pháp ngữ HT Tuyên Hóa, tập 3)
* Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy: “Dù đắp vải đẹp trên rác hôi, vẫn không làm nó thơm.” (Dhammapada, verse 235)
+ Tài vật bố thí cho hành khất, theo nghĩa đen, “nhân đức”, cái thứ nhất trong sáu ba–la–mật của Phật giáo. (NGMTTL, 96)
+ BỐ THÍ - GỐC LÀ XUẤT TÂM LƯỢNG TỪ BI HỶ XẢ THÌ CÓ LỢI ÍCH NHIỆM MẦU
Xuất Tâm hoan hỷ mong cầu được Bố thí, cho dù Bố thí bất cứ vật gì đều có được công đức rất lớn. Một ví dụ sinh động và nhiệm mầu về câu truyện một cậu bé Xuất Tâm Bố thí khi gặp Đức Phật Kinh hành đến, cậu bé bốc một lắm đất dâng lên Ngài với Tâm lượng chân thành, Đức Phật đã nhận đất cho vào Bảo Bát mang theo, Phật dặn Ngài A Nan Đà mang đất này về để ở Phòng của Ngài - Đức Phật dạy rằng, khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, cậu bé sẽ được làm Vua tên A Dục, hộ trì tránh pháp. Thực tế đúng như vậy. (Nguồn: Theo Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh)
+ Lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương II)
+ Bố Thí Độ (dana paramita): Là phép tu cúng dường, hiến tặng. Khi hiến tặng, ta được sinh qua bờ bên kia liền lập tức. Khi giận một người nào ta liền đau khổ. Nếu ta thực tập hiến tặng (bố thí), thì niềm sân hận trong ta được chuyển hóa và ta vượt sang được bờ bên kia ngay tức khắc, đó là bờ của vô sân, của an lạc, hạnh phúc và từ bi. Ta có ý muốn dâng tặng niềm vui cho người kia, muốn giúp người kia sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Điều này rất dễ thực tập. Ta biết trong chiều sâu tâm thức ta có hạt giống của sự độ lượng, sẵn lòng muốn làm cho người khác hạnh phúc. Những hạt giống và tâm hành này luôn luôn có mặt trong ta. Khi buồn giận, ta vung vãi sự buồn giận, bạo động và khổ đau lên những người quanh ta. Vậy điều thiết yếu trước tiên là trở về chăm sóc chính mình, thực tập tiếp xúc với hạt giống hiểu biết và thương yêu nơi tự thân. Thời gian đầu của mối liên hệ, ta cam kết là sẽ làm bất cứ điều gì cho người thương của ta hạnh phúc. Nhưng có lẽ bây giờ ta đang làm ngược lại với lời cam kết ấy. Vậy sự thực tập là trở về với cái tâm ban đầu, tiếp xúc với hạt giống thương yêu trong ta và làm đúng theo những lời mà ta đã cam kết, thì thế nào ta cũng làm cho người thương của ta hạnh phúc. ...........
Quý vị cũng đã được học về giáo lý tánh Không (the teaching on the nature of emptiness) trong sự bố thí. Theo tinh thần của giáo lý tánh Không, thì chúng ta phải thực tập bố thí theo tinh thần vô phân biệt, không kỳ thị và không đặt điều kiện. Đây là hành động cao siêu nhất của sự bố thí. Nếu quý vị bố thí theo tinh thần Bồ Tát, nghĩa là bố thí mà không thấy có người bố thí, người tiếp nhận sự bố thí và phẩm vật bố thí, thì công đức vô lượng và hạnh phúc sẽ rất lớn. Xin quý vị học hỏi sâu thêm về giáo lý này để phép thực tập bố thí đạt tới hiệu quả lớn hơn. Càng bố thí ta càng hạnh phúc và ta làm cho nhiều người chung quanh ta hạnh phúc. (Nguồn: Thiền Sư Thích Nhất hạnh giảng Bố Thí)
+ Hiểu rõ về Bố thí: Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Bố là khắp, thí là cho. Bố thí là cho khắp tất cả. Nếu nói như vậy thì hơi đơn giản và mơ hồ. Vì cho khắp tất cả có nghĩa là cho khắp tất cả những gì mình có, hay cho khắp tất cả chúng sinh?
Khi ta đi đường gặp một kẻ nghèo khó đứng xin ăn, ta lấy năm đồng hay một cắc ra cho họ, thì ta gọi đó là bố thí cho kẻ nghèo. Trong gia đình khi ta cho con cái vật gì thì ta chỉ gọi đó là cho. Đối với những người có địa vị xã hội cao hơn ta, hay đối với hàng ông bà chú bác thì ta không gọi là cho mà gọi là Tặng hay Biếu. Rồi khi vào chùa đối với Tam Bảo ta lại có tiếng gọi khác là cúng dường. Cũng là một hành động cho mà lại có nhiều tên gọi khác nhau vì đó là tùy ở nơi đối tượng của sự cho, tức là người nhận. Mùa Xuân Tết đến, ta không thể đem một món quà đến gặp ông chủ của mình mà nói rằng: 'Tôi xin bố thí cho ông chủ món quà', hoặc gặp một vị Thầy ta nói: 'Con xin bố thí cho Thầy', hoặc ta cũng không thể nói: 'Ba cúng dường cho con một hộp bánh', v...v... Tiếng Việt của ta rắc rối lắm, không phải dễ dàng đâu! Nếu không chú ý cẩn thận một chút là ta có thể gây phiền phức cho chính mình và cả người khác nữa.
Như ta đã thấy Bố thí gồm có nhiều nghĩa: cho, tặng, biếu, cúng dường, bố thí. Nhưng để giản tiện bớt cho những trang sau, ta tạm gọi tất cả những cái đó là Bố thí.
Lợi ích bố thí: Bố thí là một kho tàng phước đức luôn luôn đi theo người chủ (tức người cho) đời này sang đời khác; bố thí xây dựng hạnh phúc và tiêu trừ đau khổ; người biết bố thí thì ai cũng thương mến; bố thí làm cho tâm (người cho) được an vui, khi gần chết tâm không sợ hãi; bố thí tiêu trừ lòng tham lam bỏn xẻn; người biết bố thí thì chư Thiên ủng hộ; bố thí là con đường trong sạch mà tất cả Thánh nhân đều đã đi qua; bố thí là một thiện nghiệp sẽ cho ra quả báo tốt; bố thí là hành động của những người hùng; bố thí sẽ tiêu trừ sự nghèo và đóng cửa dẫn đến ba đường ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh); bố thí giữ gìn công đức; bố thí là điều kiện đầu tiên của con đường dẫn đến Niết Bàn; bố thí là gốc rễ của tất cả thiện pháp; bố thí là nhà ở của những người cao quý, là thú vui của những bậc Thánh (Arya) và Vĩ nhân; bố thí là một cái gương sáng đáng để cho những người thiếu phước đức và trí huệ noi theo......... Mời xem giảng giải chi tiết tại: Pháp Bố thí lục độ
Xem thêm: Phật Thích Ca nói về bố thí trong các Kinh Tạng
+ Mạt pháp: X. Kali Yuga.
+ Thời gian thời mạt pháp: Điều này đối với chúng sanh 9000 năm trong thời mạt pháp mà nói, là đại ân đại đức, bản này chúng ta càng đọc càng thích. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Các Thời pháp: “Thời Chánh pháp lấy giới luật làm thầy, thời Tượng pháp lấy thiền định làm thầy, thời Mạt pháp lấy ấn tống kinh sách làm thầy. Đó là sự suy giảm của căn cơ. Chánh Pháp – Tượng Pháp – Mạt Pháp giống như ba khoen xích nối liền nhau, không thể tách rời. Chánh Pháp thịnh, Tượng Pháp tất đến; Tượng Pháp hưng, Mạt Pháp tất tới. [Mạt pháp: Khắc tượng Phật khắp nơi nhưng tâm hám danh, khoe công đức → giới luật bị xem nhẹ, trí tuệ không tăng trưởng => Đó là mầm mống suy thoái, báo hiệu Mạt Pháp. Trong Kinh Pháp Diệt Tận, Phật dạy: “Tỳ-kheo không trì giới, cư sĩ không giữ ngũ giới, Tam bảo chỉ còn hình thức, con người sống buông lung, Mạt Pháp tràn khắp thế gian.”] (Tuyên Hóa, 1992, “Pháp Ngữ”, Vạn Phật Thánh Thành)
* Nhưng bóng tối tạo điều kiện cho hạt giống sáng => HT Tuyên Hóa giải thích: Khi thế gian u ám, chỉ cần một ngọn đèn cũng chiếu sáng khắp nơi. Mạt Pháp là thời mạt, nhưng cũng là lúc hiển lộ đạo tâm chân thật của những người thật tu hành. Nghịch cảnh (Phiền lão, đau khổ, vấp ngã ...) chính là cơn mưa rào "Cơ hội" cho mầm non Giới – Định – Tuệ vươn lên. Người thật tu thời Mạt Pháp công đức gấp trăm ngàn lần thời Chánh Pháp, vì vượt được thế lực tà ma ngoại đạo. (Tuyên Hóa, 1996, “Kinh Lăng Nghiêm Giảng Nghĩa”, Vạn Phật Thánh Thành)
+ Thời Mạt Pháp: Thời kỳ Đức Phật còn tại thế được gọi là thời kỳ chính pháp. Thời kỳ nầy kéo dài 1000 năm, thời ấy mọi người siêng năng tu tập thiền định. Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn và 1000 năm chánh pháp đã qua là đến thời kỳ tượng pháp. Thời kỳ nầy cũng kéo dài 1000 năm. Trong thời kỳ nầy, con người thích xây dựng chùa chiền tự viện kiên cố. Họ không thích tu tập thiền định, nhưng thích mong cầu phước báo. Khi Đức Phật còn tại thế, người ta mong cầu trí huệ, nhưng vào thời kỳ tượng pháp, thì người ta lại bỏ gốc theo ngọn. Sau thời tượng pháp, là thời kỳ mạt pháp, lúc đó người ta chẳng tu tập thiền định, cũng chẳng xây dựng chùa tháp kiên cố. Họ thích đấu tranh kiên cố. Bất kỳ quý vị đi đâu trong thời nầy, cũng thấy người ta tranh cãi nhau, gia đình đấu tranh với gia đình, quốc gia đấu tranh với quốc gia. Trong mỗi nơi chốn nào trên thế giới cũng đều có sự tranh đua náo động. Thế nên bây giờ, khi chúng ta ngồi thiền và nghe giảng kinh, chẳng khác gì hơn là thời kỳ chính pháp trong thời mạt pháp vậy. Nhưng chúng ta phải thật sự thực hành, thật sự tu tập những gì trong kinh dạy, không một chút lơi lỏng. Nếu chúng ta đi từng bước vững chắc và thực hành kiên trì, chắc chắn sẽ có kết quả tốt đẹp.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ Hộ trì chánh pháp thời mạt - Pháp diệt tận: .... Những ai đã học Phật pháp chắc chắn phải nên tham cứu kỹ Kinh Thủ Lăng Nghiêm và phải thông đạt nghĩa lý kinh nầy. Kinh Thủ Lăng Nghiêm khiến phát sinh đại trí huệ. Nếu quý vị muốn có chánh tri chánh kiến và khai mở đại trí huệ thì dứt khóat phải thông đạt kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tác dụng của kinh Thủ Lăng Nghiêm là phá tà hiển chánh. Kinh phá trừ sạch mọi loài thiên ma ngoại đạo, cùng khai thị năng lực chánh tri chánh kiến vốn có trong mỗi chúng sinh. Nhưng vào thời kỳ Phật pháp sắp hoại diệt thì Kinh Thủ Lăng Nghiêm sẽ bị tiêu hủy trước hết. Thế nên nếu chúng ta muốn hộ trì chánh pháp thì chúng ta nên tham cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm. Để được thông đạt và thấm nhập kinh Thủ Lăng Nghiêm, và hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm. Khi đến thời kỳ Phật pháp sắp hoại diệt, thì yêu ma quỷ quái hiện hành ở thế gian nầy, cùng với những người có tà tri tà kiến. Chúng rất thông thạo pháp thế gian, nó có rất nhiều năng lực biện tài và rất thông minh lanh lợi. Nó dùng lý lẽ để thuyết phục mọi người rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là giả mạo – ngụy tạo – và bảo mọi người đừng tin kinh nầy.
Vì sao nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm là giả mạo?
Vì Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rõ về những sai lầm của chúng. Vì kinh nói về những tà tri tà kiến của chúng. Nếu Kinh Thủ Lăng Nghiêm còn lưu hành ở thế gian, thì sẽ không có ai tin vào tà tri tà kiến. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm không còn được lưu hành nữa, thì những tà tri tà kiến nầy của chúng tiếp tục làm mê hoặc con người. Thế nên họ cho rằng Kinh Thủ Lăng Nghiêm là nguỵ tạo. Điều này là hiện tướng của ma vương. Những ai đã tu học Phật pháp đặc biệt phải chú ý điểm nầy. Hãy hết sức thận trọng, đừng để mình bị tà tri tà kiến của ma vương kia xoay chuyển. Đừng để cho ma vương thay đổi tư tưởng và quan niệm của quý vị.
Có quý vị nào có ý kiến gì muốn hỏi không? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Nhớ thọ trì 4 câu kệ: Bốn câu kệ đức Phật thường giảng nói. Pháp tu giải thoát cho các hàng thừa. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Trong Kinh Kim Cang đức Phật thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v... giảng nói cho người khác nghe thì phước đức ấy còn hơn là phước đức đem bảy báu chất đầy Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên dưới hư không ra bố thí, lại hơn phước ngày đầu, ngày giữa, ngày sau nhẩn đến trăm nghìn kiếp đem thân mạng như số cát sông Hằng mà bố thí. Chẳng biết thế nào là bốn câu kệ?
Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.
Tại sao? Chúng sanh thường mê không giác ngộ cho nên nhiều kiếp đọa lạc. Chư Phật thường giác ngộ chẳng mê cho nên thành Phật đạo. Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật, công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ: là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp.
Sao gọi là không thân? Vì thân này do cha mẹ sanh ra đầy đủ khí huyết của cha mẹ, chín khiếu thường chảy những vật không sạch, bốn đại giả hiệp, sau rồi cũng tan rã; như người trai lành gái tín tin có trí huệ biết thân này là giả, thì khi chưa chết tưởng như thân này đã chết/ Không có, mượn thân giả này mà học Phật tu hành, gọi là Sắc không, câu kệ thứ nhất.
Thường quán sát tâm [Linh hồn] của mình chẳng sanh chẳng diệt [Bất tử], chí thánh chí linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay biết được chân tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng tưởng kéo dắt, chỉ nương chân tánh làm chủ, gọi là ngộ Tâm không, câu kệ thứ hai.
Lại quán sát tánh của mình thường lặng yên không lay động, nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là ngộ Tánh không, câu kệ thứ ba.
Lại quán sát đức Như lai giảng nói kinh pháp đều phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào cửa pháp, như nước rửa bụi, như bịnh gặp thuốc, nay chứng được tâm không, pháp không, như bịnh mạnh thì thuốc không dùng nữa, gọi là ngộ Pháp không, câu kệ thứ tư.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh. Tại sao?
Nếu ngộ đặng ý câu kệ thứ nhất, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Dự lưu Tu đà hoàn;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ hai, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Nhứt lai Tư đà hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ ba, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất lai A na hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ tư, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Vô sanh A la hán.
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.
Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật trước Phật sau cũng đồng một thể, đều tại mỗi người tự mình minh tâm kiến tánh mà thành công đắc quả, vì Phật tánh người sẵn có, nếu không y theo Phật mà tu hành thì chẳng đặng thành Phật.
Tại vì sao? Vì chưa có công đức gì ở trong Phật pháp. Nếu muốn cầu đặng bậc Phật, phải y theo mười điều dưới đây:
1.- Phải dùng trai giới làm nền tảng đi đến bậc Phật.
2.- Tìm minh sư chỉ dạy công phu.
3.- Phải biết tâm tánh rốt ráo tỏ rõ.
4.- Phải làm các phuớc lành giúp cho gốc đạo được sung túc.
5.- Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày mỗi thêm lớn.
6.- Rõ nhân quả việc làm đừng có vọng động.
7.- Trừ tà ma xa lìa ngoại đạo.
8.- Phải thông chơn lý chớ chấp hữu vi.
9.- Phải tinh tấn theo đức hạnh Phật.
10.- Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt.
Nếu đủ mười điều công đức này thì mau đặng thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi! Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều chúng sanh căn trí thấp kém, tâm ý mê say, trí tính mờ tối, tuy có trì trai giữ giới đều không trí huệ, cái tâm ngu mê cống cao ngã mạn, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ tâm mình để cầu thầy học hỏi những pháp chân chánh, khư khư chấp trước, nhận giả làm thiệt,hoặc chấp trước kinh sách văn tự, hoặc chấp trước tụng trì cho nhiều số, hoặc học được hai câu nói của Phật thì cho là hoàn toàn. Chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, căn lành tu ít mà muốn quả to, thiệt người ngu mê không hiểu ý Phật, tự mình điên cuồng tự dối mình, tuy có nhân lành mà khó tránh họa dữ. Tại sao? Hột giống không chắc, khó mà kết trái Bồ đề, một khi mất thân người, muôn kiếp khó phục hồi đặng. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang luận)
+ Tóm lược về Ngài A Nan - Đệ tử gần gữi của Đức Phật Thích Ca mâu Ni
Ngài A Nan nói với Đức Phật: Con thường tự suy nghĩ những tướng tốt này không phải do ái dục mà sanh ra. Sao vậy? Vì dục khí thì thô nặng và dơ bẩ̉n. Từ sự uế tạp và thối tha ấy giao hợp với nhau tạo thành một thứ tinh huyết hỗn tạp. Từ đó không thể sinh ra một thân thể thù thắng, thanh tịnh, sáng chói vi diệu như khối vàng tía này, do đó mà con khá́t ngưỡng, theo Phật xuất gia. Giảng:
Khi A-nan thường tự suy nghĩ những tướng tốt này không thể do ái dục sinh ra.
A-nan thường dùng tâm thức phân biệt của hàng phàm phu, tâm phàm phu là chủ thể của sự sinh diệt. A-nan nghĩ : làm sao mà ba mươi hai tướng tốt kia lại có thể được sinh ra từ sự đam mê, dâm dục và tình yêu luyến ái được?
A-nan đã từ bỏ một thứ tình yêu, đó là tình luyến ái của gia đình để lấy một tình yêu khác đó là yêu vẻ đẹp phát ra từ thân tướng trang nghiêm vi diệu của Đức Phật. Đó là lý do khiến A-nan xuất gia.
Ngay đây, A-nan đã phát khởi sai lầm.
A-nan xuất gia không phải vì ước nguyện chân chính là tu tập đạo lý nên sau khi xuất gia rồi, A-nan chỉ tập trung vào việc học tập kinh điển.
Nhưng vì A-nan chỉ quan tâm duy nhất đến tình yêu nơi thân thể của Đức Phật, nên không lo tu tập định lực. A-nan nghĩ rằng “Đức Phật là anh em chú bác với con, trong tương lai Đức Phật sẽ trao cho con định lực.” A-nan không nhận ra rằng chẳng ai có thể thay thế cho mình trong khi tu tập, cả thân lẫn tâm. A-nan rất thông minh, có lẽ còn thông minh hơn bất kỳ người nào ở đây. Nhưng khi A-nan tập trung vào việc học tập kinh điển thay vì phí thời giờ vào việc thiền định, tư chất A-nan lại tỏ ra quá lanh lợi. A-nan thông thạo ngôn từ nhưng đó không phải là cốt tủy. A-nan có thể thuộc lòng tất cả các bài pháp Đức Phật đã giảng dạy không hề sai một chữ, nhưng chẳng có được chút định lực nào cả, nên A-nan đã bị hàng phục bởi tà chú “Tiên phạm thiên” của con gái Ma-đăng-già̀.
Thay vì học hỏi từ trí tuệ, học hỏi sự tỉnh giác, đạo đức của Đức Phật, A-nan chỉ tự mình mô phỏng theo hình tướng của Như Lai. Trong đời trước, có lẽ A-nan quá đắm chấp vào hình tướng, thế nên A-nan chỉ chú ý vào khía cạnh hời hợt của sự vật. Mặc dù A-nan thuộc lòng các kinh Đức Phật đã giảng, nhưng không chú tâm vào chỉ thú Kinh muốn nhắm đến. A-nan quá bận tâm đến hình tướng của Đức Phật đến nỗi ngày nào mà không được nhìn thấy Đức Phật thì ngày đó A-nan không được vui.
Tâm bình đẳng mới khế hợp với đạo. Vì A-nan ưa thích thân tướng trang nghiêm của Đức Phật, nên A-nan có thể từ bỏ sức hấp dẫn sâu đậm của tình ái thế tục và xả bỏ râu tóc để xuất gia. Khi Đức Phật còn tại thế, những vị theo Phật xuất gia, không cần phải cạo tóc. Đức Phật chỉ cần nói : “Lành thay, lành thay, ông nay đã từ bỏ cuộc sống thế tục, để sống đời xuất gia; hãy để cho râu tóc tự rụng và đắp y hoại sắc vào người.”
Ngay sau khi Đức Phật nói xong, râu tóc của vị tỷ-khưu ấy tự rơi xuống, vì Đức Phật đã dùng thần thông khiến cho râu tóc tự rụng. Nay Đức Phật đã nhập niết-bàn, chúng ta phải phát nguyện thọ giới tại giới đàn. Nhưng khi Đức Phật còn tại thế, các tỷ-khưu có được giới thể ngay sau khi Đức Phật nói những lời vắn tắt “Thiện lai! Tỷ-khưu,” họ được đắp giới y liền.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ A Nan-đà: Tôn giả A Nan là em chú Bác của Phật. A Nan-đà là tiếng Phạn, dịch là Khánh Hỷ, vì ngài ra đời đúng vào ngày Phật thành đạo. Khi Phật chứng quả, mọi người đều vui mừng, cho nên cha ngài lấy điều khánh hỷ đặt tên cho ngài.
Trong hàng các đệ tử thì Tôn giả A Nan là người đa văn bậc nhất. Những kinh điển Phật nói ra đều do ngài A Nan kiết tập mà thành; những pháp mà Phật nói ra, Tôn giả A Nan đều ghi nhớ rất rõ ràng, mãi mãi không quên sót. Tôn giả A Nan chẳng những có trí nhớ phi thường mà định lực của ngài cũng không kém. Ngài có tám thứ cảnh giới bất khả tư nghì.
1. Không thọ thỉnh riêng. Sao gọi là thỉnh riêng? Tức là một vị trong chúng tăng đơn độc đến nhà thí chủ để tiếp nhận cúng dường. Trong Kinh Lăng Nghiêm từng thuật lại việc ngài A Nan tiếp nhận thỉnh riêng mà gặp Ma-đăng-già nữ trước hết dùng chú thuật của Phạm thiên sai sử ngài, suýt nữa mất cả đạo hạnh. Sau khi Phật nói chú Lăng Nghiêm, sai Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đem thần chú này cứu ngài A Nan về. Từ đó về sau ngài không còn dám thọ thỉnh riêng nữa. Lần trước sau khi được giáo huấn, ngài không muốn lại còn có những việc tương tự như thế. Trong luật, Phật dạy: "Bất cứ Tỳ-kheo nào cũng không được thọ thỉnh riêng." Thí dụ: Có mười vị Tỳ-kheo, có vị cư sĩ đặc biệt thích một vị trong số đó và chỉ thỉnh một vị ấy đi ứng cúng, việc ấy không thể được. Trái lại, cả mười người cùng đi ứng cúng thì được cho phép. Ngài A Nan nhơn vì trước đây thọ thỉnh riêng mà gặp phải việc đáng tiếc, nên sau đó không tiếp nhận bất cứ việc thỉnh riêng nào khác. Ðó là một thứ cảnh giới bất khả tư nghì.
2. Không nhận y cũ của Phật. Có một số Tỳ-kheo đều muốn giành nhau mặc y cũ của Phật, vì họ cho rằng đắp mặc y cũ của Phật có thể sanh trí huệ, diệt tội nghiệp, kỳ thực đó đều là biểu hiện một thứ tâm tham. Tôn giả A Nan thì không chịu đắp mặc y cũ của Phật. Ðó là thứ cảnh giới bất khả tư nghì thứ hai của ngài.
3. Không gặp mặt phi thời. Tức là lúc không đáng thăm thì ngài không thăm, lúc đáng thăm thì ngài mới thăm hỏi. Tức là hợp với quy củ mới thăm viếng, không hợp với quy củ thì không thăm viếng.
4. Không sanh tâm nhiễm. Tôn giả A Nan theo Phật lên trời, đến Long cung, hoặc cung điện A-tu-la, thấy rất nhiều Thiên nữ, A-tu-la nữ và Long nữ, tất cả đều đẹp đẽ vô song, nhưng ngài chưa bao giờ có sanh tâm dâm dục, nên nói rằng không sanh tâm nhiễm.
5. Biết cảnh định của Phật. Tôn giả A Nan biết Phật nhập vào định gì mà các Tỳ-kheo khác đều không biết được. Ðó là cảnh giới bất khả tư nghì thứ năm.
6. Biết chúng sanh nghe pháp được lợi ích như thế nào. Tôn giả A Nan biết Phật ở trong định giáo hóa tất cả chúng sanh và tất cả chúng sanh được những lợi ích gì ngài đều biết rõ.
7. Hiểu rõ pháp Phật. Tôn giả A Nan hoàn toàn hiểu rõ tất cả pháp Phật nói. Ðây là cảnh giới bất khả tư nghì thứ bảy của ngài.
8. Nghe pháp không hỏi lại. Tôn giả A Nan nghe qua pháp Phật rồi ghi nhớ mãi mãi không cần phải thưa hỏi lại.
Ðó là Tôn giả A Nan có tám cảnh giới bất tư nghì mà các Tôn giả khác không có được.(Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Ngài A Nan gặp nạn Dâm nữ: Trích HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm: ... Sao còn phải nhờ Phật đảnh thần chú của Như Lai, khiến cho lửa dâm trong tâm Ma-đăng-già dứt sạch và chứng quả A-na-hàm. Thành rừng tinh tấn trong pháp của Như Lai. Sông ái khô cạn, khiến cho ông được giải thoát.
Giảng giải:
Đức Phật bảo, “Ông học Phật pháp rất nhiều, nhưng tâm ông bối rối khi gặp phụ nữ. Ông mất tự chủ, và theo người phụ nữ vào nhà cô ta, và khi đã đến đó rồi thì ông đã đến bên bờ vực của những việc làm không thể nào tưởng tượng nỗi. Điều gì khiến ông như vậy?” Lúc đó, Đức Phật như một quan toà buộc tội A-nan. Sao còn phải nhờ Phật đảnh thần chú của Như Lai và nhờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mang đi cứu ông? Chính ông nhớ được rất nhiều về mười hai bộ kinh, tại sao ông không đọc khi gặp cô ta? Tại sao ông mất tự chủ? Ông thấy phụ nữ rồi quên tất cả mọi thứ. Cách ông nhìn như vậy, điều còn lại chăng trên thế gian chỉ là phụ nữ.
"Khiến cho lửa dâm trong tâm Ma-đăng-già dứt sạch". Vô minh, lửa dâm dục trong tâm cô ta tức thì dứt sạch, và chứng quả A-na-hàm, quả vị thứ ba của hàng A-la-hán. A-nan trở thành người quan trọng đối với cô hơn là cuộc sống của riêng cô. Cô về nhà nói với bà mẹ rằng bà phải đánh bẫy A-nan cho cô ta. Mẹ cô ta tụng thần chú ‘Tiên Phạm thiên’ và A-nan trở nên tối tăm mặt mũi. Nhưng tà thuật không thể chế ngự A-nan hoàn toàn. Nếu A-nan chẳng có chút nào để ý đến con gái của Ma-đăng-già, thì thần chú ấy chẳng có tác dụng gì. Chắc chắn rằng con gái của Ma-đăng-già đã hớp hồn A-nan. A-nan đã nhìn trộm cô ta vài lần rồi. “Cô gái quá đẹp!” Định không nhìn nữa, A-nan quay đầu đi nơi khác nhưng lại nhìn lui. Sau khi nhìn trộm cô ta vài lần như thế, lòng mơ tưởng về sắc đẹp của cô con gái Ma-đăng-già đã hình thành trong tâm A-nan. Thế nên khi bà mẹ đọc chú, A-nan liền bị mê muội trong nháy mắt. Nếu không có tâm mơ tưởng sắc đẹp con gái Ma-đăng-già, A-nan sẽ không bị đi theo cô gái.
Đức Phật nhận thấy rằng A-nan đang ở bên bờ vực của sự huỷ phạm giới thể, nên ngài liền nói thần chú Phật đảnh Thủ-lăng-nghiêm. Ngài sai Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mang thần chú đi cứu hộ A-nan. Khi Văn-thù-sư-lợi đến nhà Ma-đăng-già đọc thần chú, tâm A-nan liền sáng rỡ. “Sao ta lại ở đây? A-nan tự hỏi, rồi A-nan liền trở về Kỳ viên của ông Cấp Cô Độc. A-nan đã ở ngay ranh giới sự quan hệ với con gái của Ma-đăng-già. Khi Văn-thù-sư-lợi đến đọc thần chú Phật đảnh Thủ-lăng-nghiêm, A-nan bất thần nhảy lên, cầm lấy y phục và chạy về Kỳ viên. Khi con gái của Ma-đăng-già thấy A-nan đã bỏ chạy, cô ta đuổi theo, hỏi A-nan, “Sao chàng lại bỏ đi vào lúc quan trọng như thế nầy?” Cô ta khóc lóc. Thế là A-nan chạy về Kỳ viên cùng với con gái của Ma-đăng-già đang đuổi theo sau lưng. Khi vừa đến nơi, Đức Phật hỏi cô ta, “Cô đến đây có chuyện gì?”
Cô trả lời, “Con yêu A-nan.”
“A-nan có điều gì khiến cô yêu?” Đức Phật hỏi.
Cô ta đáp, “Con yêu cái mũi của A-nan.”
“Ta sẽ bảo A-nan cắt cái mũi trao cho cô.” Đức Phật liền trả lời.
Cô ta tiếp tục , “Con yêu đôi mắt của A-nan.”
“Ta sẽ bảo A-nan móc đôi mắt ấy trao cho cô.” Đức Phật ngắt lời.
Cô ta đòi tiếp, “Con yêu khuôn mặt của A-nan.”
“Điều ấy rất dễ,” Đức Phật đáp, “Ta sẽ bảo A-nan lạng nó ra và cô có thể mang về.”
“Nhưng nếu ngài cắt nó đi, thì khuôn mặt ấy sẽ không còn vẻ yêu kiều nữa,” cô ta phản đối.
“Nếu nó không còn vẻ yêu kiều nữa, thế tại sao cô thấy được vẻ yêu kiều của nó ngay khi chưa bị thay đổi?”
Ngay lúc cô suy nghĩ tìm cách trả lời thì chứng ngộ, đạt đến quả vị thứ ba của hàng A-la-hán. Vì cô quá yêu A-nan, nên cô ta chứng ngộ ngay tức thì khi Đức Phật khai thị cho cô ta.
"Thành rừng tinh tấn trong pháp của Như Lai."
Tôi sẽ nói cho quý vị biết, bây giờ thì quý vị chưa biết sợ việc quan hệ tính phái nam nữ; điều mà tất cả quý vị cần phải làm là tỉnh thức và thực sự nhận ra chung quanh mình hiện là gì? Lúc ấy sẽ có vài tia hy vọng cho quý vị. Chỉ sợ là quý vị không chịu tỉnh thức. Nhưng sẽ hoàn toàn là mê muội và tụt hậu nếu nghĩ rằng đó là nguồn hạnh phúc. Trong thực tế, đó thực sự là điều khổ đau. Nếu quý vị thực sự nhận ra, thì sẽ không bao giờ mắc phải lần nữa. Nếu không, quý vị vẫn nghĩ về điều ấy ngay khi còn thức và mơ tưởng khi ngủ và sẽ không bao giờ dứt bỏ nó được.
"Sông ái khô cạn". Ái tình như dòng nước chảy xiết không bao giờ ngừng, xoáy tít quanh mình. Nhưng khi con gái của Ma-đăng-già nghe Đức Phật giảng pháp, trong lòng cô ta, dòng sông ái đó khô mất. Lửa tình ái chuyển thành thân kim cương bất hoại. Khiến cho ông được giải thoát. Vì con gái của Ma-đăng-già đã chứng được quả vị thứ ba của hàng A-la-hán, cô không còn muốn giữ tình yêu ấy với A-nan nữa, nên A-nan bây giờ được tự do.
Đến lúc nầy, A-nan vẫn là người mới chứng được quả vị sơ quả A-la-hán. Chưa được quả vị thứ hai, Nhưng con gái của Ma-đăng-già đã vượt qua A-nan, cô ta đã chứng được quả vị thứ ba của hàng A-la-hán.
Trong 500 đời trước, A-nan và con gái của Ma-đăng-già đã là vợ chồng của nhau. Thế nên khi cô ta thấy A-nan, liền phải lòng – cô ta đã gặp lại chồng mình trong những đời trước. Tình yêu của cô ta đối với A-nan là không thể nào tránh khỏi được. Thực vậy, có lẽ họ đã có lời thề nguyền trong những kiếp trước. Trong kiếp sống sau cùng gần nhất, cô ta có lẽ đã nói với A-nan, “Trong tương lai, chúng ta sẽ làm vợ chồng nhau mãi mãi. Đừng bao giờ xa nhau.” Đó là lý do tại sao tình yêu giữa hai người quá mạnh đến mức họ yêu nhau ngay khi vừa thấy nhau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Đức Phật bảo ngài A Nan ở lại cõi Ta Bà giúp đỡ chúng sinh
KINH VĂN: A-nan, ông nay chưa nên vội vào niết-bàn, dù ông đã đạt được quả vị vô học. Hãy lưu giữ lời nguyện đi vào cõi đời mạt pháp kia, phát lòng đại bi cứu độ các chúng sanh có lòng tin chân chánh sâu xa, khiến cho họ không mắc vào tà ma, giúp cho họ có được chánh tri kiến. Nay Như Lai đã giúp ông thoát ra khỏi sinh tử. Nay ông vâng lời Phật dạy, đó gọi là báo ơn Phật. GIẢNG:
A-nan, ông nay chưa nên vội vào niết-bàn, chưa nên nhập niết-bàn sớm. Hãy thay Như Lai, ở lại cõi ta-bà này mà giáo hóa chúng sanh.
Mặc dù ông đã đạt được quả vị vô học. Hãy lưu giữ lời nguyện đi vào cõi đời mạt pháp kia. Dù nay ông đã đạt được quả vị vô học (Lúc ấy A-nan đã chứng được quả vị thứ nhì của hàng a-la-hán, chưa chính thức đạt được quả vị vô học. Tuy vậy, con đường công phu tu tập dẫn đến việc chứng ngộ của A-nan rất sáng sủa, thế nên ngài được xem như người đã đạt được quả vị ấy).
Đức Phật dạy: Ông nên nhớ lấy lời nguyện đại từ bi, khi thời kỳ chánh pháp đã qua, thời tượng pháp không còn nữa, thời mạt pháp sẽ đến. Lúc ấy hãy phát lòng đại từ bi cứu độ các chúng sanh có lòng tin chân chánh sâu xa. A-nan, ông hãy phát tâm đại từ đại bi cứu độ tất cả chúng sanh có lòng tin chân chánh ở trong thời mạt pháp.
Khiến họ không mắc vào tà ma. Hãy cứu độ chúng sanh, khiến họ phát khởi niềm tin vào nơi ông, để họ khỏi bị mê hoặc bởi ma vương, khiến họ không theo ma vương, dùng phương tiện của ma nhiễu hại chúng sanh nữa.
Giúp họ, những chúng sanh trong thời mạt pháp có được chánh tri kiến. Có nghĩa là ông và tôi, và những chúng sanh ngay bây giờ chớ không ai khác. Quý vị nên nhắc nhở thức tỉnh lấy mình, tự mình phải có chánh tri kiến.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại dạy:
Này A-nan, Như Lai đã giúp ông ra khỏi sanh tử. Ông đã chấm dứt được sanh tử luân hồi, ông đã chứng được quả vị thứ hai của hàng a-la-hán, và ông đã biết được con đường đi đến quả vị thứ tư. Vì thế qua kết quả công phu tu hành của ông, có thể nói rằng ông sẽ vượt qua sanh tử.
Nay ông vâng lời Phật dạy, đó gọi là báo ơn Phật. (Nguồn: Kinh Thủ LN -Q9 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu giải thoát luân hồi: ... đức Phật dạy, hàng hữu học các ông chưa dứt được luân hồi, phát lòng chí thành tu chứng quả A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, nếu không trì chú này (Tâm Chú Lăng Nghiêm) mà ngồi vào đạo tràng, mong muốn cho thân tâm xa rời được các ma sự thì không thể được. (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa giảng - Q7)
+ Bồ tát tu và Duyên giác tu hay Đại thừa tu khác Tiểu thừa:
4. Thứ tư là thể pháp không quán: Duyên Giác/ Tiểu thừa tu thể pháp không quán
5. Thứ năm là diệu hữu không quán: Bồ Tát/ Đại thừa tu diệu hữu không quán
Chân không diệu hữu.
Lúc Bồ Tát Quán Thế Âm hành thâm bát nhã ba la, Ngài soi thấy năm uẩn đều không. Đó là đắc được công năng tu hành bát nhã ba la mật đa. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -1- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đức Phật dạy Về Pháp Của Ngài “Chư Tỳ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt qua sông, không phải để nắm giữ lấy”, qua sông rồi thì phải bỏ bè (Trung Bộ Kinh 1, Kinh Ví Dụ Con Rắn, trang 305).
+ Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy: Giáo pháp của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng, là phương tiện để đạt đến chân lý, cho nên đừng lầm ngón tay là mặt trăng, chân lý không nằm trong kinh điển .....
+ Học Pháp và Tu hành: Trích Đức Phật bảo: ... Thế nên A-nan, tuy ông trải qua nhiều kiếp ghi nhớ những pháp bí mật diệu nghiêm của Như Lai (Ngài A Nan đa văn bậc nhất), cũng chẳng bằng một ngày tu pháp vô lậu, xa lìa hai cái khổ yêu ghét ở thế gian. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Ch.III)
+ Tu Bồ Tát Đạo - Pháp Đại Thừa: Trích Đức Phật bảo A Nan:
Nghĩa thứ hai, các ông chắc muốn phát tâm bồ-đề, sanh tâm đại dõng mãnh với bồ-tát thừa, quyết định rời bỏ các tướng hữu vi.
Giảng: "Quyết định rời bỏ các tướng hữu vi". Hãy dứt khoát, không do dự. Đừng dao động giữa Đại thừa và Tiểu thừa, đừng như A-nan, tâm không quyết định được. A-nan muốn phát tâm cầu Đại thừa, nhưng không thể nào bỏ được pháp nhân duyên. A-nan nói, “Đức Phật giảng pháp nhân duyên rất hay. Sao Đức Phật quyết định bác bỏ nó, thậm chí còn khuyên chúng con đừng tu pháp đó?” Khi quý vị quyết định điều gì, hãy thật kiên định. Đừng đứng mỗi chân mỗi thuyền. Trung Hoa có ngạn ngữ:
+ Mười Thứ lớp trong tu hành không thể đảo lộn khi hành Bồ Tát Đạo: 1. Bố Thí - 2. Trì giới - 3. Nhẫn nhục - 4. Tinh tấn - 5. Thiền định - 6. Trí huệ bát nhã - 7. Phương tiện - 8. Đại nguyện - 9. Đại lực - 10. Đại trí. (Những thứ lớp này cũng tương ứng với thứ tự của 10 Tay Ấn Pháp trong Chú Đại Bi. Mỗi lớp có 10 Tay Ấn, 4 lớp tương ứng 40 Tay Ấn, cộng với 2 Tay ấn 41 và 42 là 6 lớp tất cả). (Nguồn: Thầy Hằng Trương giảng Chú Đại Bi)
+ Bồ Tát Đạo: Ai muốn tìm cầu giác ngộ, giải thoát để thành Phật rộng độ chúng sinh thì Người chỉ pháp tu hạnh Bồ-tát đạo:
- Bồ Tát là người giác ngộ, không vì lợi ích riêng tư, luôn mở rộng tấm lòng thương yêu bình đẳng đến với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ hay chia sẻ những gì mình đang có, từ vật chất cho đến tinh thần, lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui cho chính mình. Bồ Tát tu 6 pháp Ba-la-mật để diệt trừ phiền não khổ đau.
- Bồ tát thấy rõ tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ, keo kiệt, hiểm độc là nhân nghèo khổ thiếu thốn khó khăn, cho nên Bồ-tát tu hạnh bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia để chuyển hoá lòng tham.
- Thấy người ăn không ngồi rồi, buông lung sa đọa, cống cao ngã mạn làm cho đạo đức nhân cách băng hoại thì Bồ-tát tu trì giới để khuyên mọi người không sát sinh hại vật, không gian tham trộm cướp, không tà dâm, không nói dối hại người và không dung các chất gây say nghiện như là rượu, xì ke ma tuý cho nên nói “trì giới độ phá giới”.
- Thấy người nóng giận là nhân gây thù chuốc oán, rồi dẫn đến chửi mắng, đánh đập cuối cùng giết hại, tạo ra nhiều tội lỗi mà làm cho mình và người phiền muộn khổ đau, cho nên Bồ-tát tu hạnh nhẫn, nhịn, nhường để chuyển hóa cơn giận dữ, cho nên nói “nhẫn nhục độ nóng giận”.
- Thấy người lười biếng hưởng thụ bê tha là nhân dẫn đến hao tài tốn của, hư thân mất nết, chẳng giúp ích gì được cho ai Bồ-tát tu hạnh tinh tấn chuyên cần để chuyễn hóa ăn không ngồi rồi, nhàn cư vi bất thiện.
- Thấy tâm tư lăng xăng, điên đảo, vọng tưởng là nhân dẫn đến bất an, lo sợ, Bồ-tát tu thiền định để dừng lắng mọi tâm tư vọng tưởng xấu ác có tính cách hại người vật, để sống trở lại với tâm thanh tịnh sáng suốt, cho nên nói “thiền định độ tán loạn”.
- Thấy nhân ngu si là bị đọa vào ba đường xấu, nhất là các loài súc sinh Bồ-tát tu hạnh từ bi, trí tuệ để chiếu phá tối tăm, mờ mịt cho nên nói “trí tuệ độ ngu si”.
Ngoài việc biết tích lũy phước báo và siêng tu trí tuệ để cứu giúp chúng sinh, Bồ-tát còn phải tu sáu pháp Ba-la-mật để loại trừ các thói quen tật xấu, cho đến khi viên tròn quả mãn thì Bồ-tát thành Phật. (Nguồn: Nhân Quả và số phận con người)
+ Bồ Tát Đạo - Hạnh Bồ Tát: Do nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ – tát thường siêng năng làm các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề. Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ – tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự cho rằng:
“Tôi đã cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”.
Chính vì chư vị Bồ – tát không có tâm niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng, để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ được giải thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô thượng bồ - đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm. (Nguồn: Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng câu 23. Ma ha bồ đề tát đoả trong Thần Chú Đại Bi)
+ Đạo là gì - Bồ Tát đạo theo Phật giáo: .... Đức Phật dậy: Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm Đạo ?
Bồ Tát Đại thệ trang nghiêm và thừa Đại thừa rồi xả bỏ tất cả tà Đạo. Xả bỏ tà Đạo rồi hướng Đến chánh Đạo chơn thiệt Đến Nhứt thiết trí.
Sao gọi là chánh Đạo ? Đó là chẳng bỏ thiện pháp vậy, là hành Đại nguyện chẳng thối chuyển Bồ Đề Đạo vậy, là siêng tu tinh tiến căn lành chẳng mất vậy, là hành bất phóng dật bất Động thuần chí, chẳng chìm nơi sở tác quyết có thể cứu cánh ngưỡng nắm lấy pháp trên, cầu công Đức tư lương chẳng hề cho là Đầy Đủ, cầu trí huệ tư lương trọn chẳng phế bỏ, Đây là Bồ Tát chánh Đạo vậy.
Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát Đạo ấy là Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ không Định, Ngũ thần thông, Tam phước nghiệp, Tam học, Lục ưng kính, Lục niệm, Tứ nhiếp pháp, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh Đạo phần, Tam giải thoát môn, biết Ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết Nhập phương tiện, biết Tứ Đế phương tiện, biết Nhơn duyên phương tiện, Đây gọi là Đạo. ........
Tại sao gọi Đó là xuất thế gian ư ?
Nầy Hư Không Tạng ! Ngũ thọ ấm gọi là thế gian. Bồ Tát khéo phân biệt ngũ ấm, quán nó vô thường nhẫn Đến như tánh Niết bàn rồi, biết trong Đạo ấy không có thế gian và pháp thế gian, biết Đạo ấy là vô lậu là xuất thế gian không có buộc dính, Đây gọi là xuất thế gian. Đây gọi là Bồ Tát Đạo vậy. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH.
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới.
Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng:
1. Xét về nhãn: căn thì mắt chỉ thấy phía trước và một phần của hai bên. Cho nên luận về mắt chỉ được 800 công đức.
2. Xét về nhĩ căn, lỗ tai có ba đức ưu việt. Viên, Thông và Thường. Luận về nhĩ căn thì có 1200 công đức.
3. Xét về tỷ căn, lỗ mũi tương tục chỉ có thở ra và hít vào. Điểm giao tiếp giữa hít và thở gián đoạn. Luận về tỷ căn có được 800 công đức.
4. Xét về thiệt căn thì lưỡi có thể phô diễn cùng tột trí thế gian và xuất thế gian. Ngữ ngôn tuy hữu hạn mà diệu lý diễn đạt vô cùng. Luận về thiệt căn thì có được 1200 công đức.
5. Xét về thân căn, thân thì biết xúc. Có thể xúc thuận xúc nghịch, nhưng khi hợp thì biết, lúc ly thì không. Luận về thân căn chỉ có 800 công đức.
6. Xét về ý căn, ý căn thầm lặng mà dung nạp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian mười phương ba đời, thành phàm không pháp nào không bao dung cùng tột. Luận về ý căn có đủ 1200 công đức.
=> A Nan! Ông muốn ngược dòng sinh tử hãy xét 6 căn ông hiện thọ dụng. Cái nào hợp, cái nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên thông, căn nào không viên thông. Nếu khai ngộ được một căn viên thông thì đảo ngược tất cả dòng nghiệp vô thỉ. Đối với hiệu quả tu hành, bấy giờ một ngày bằng một kiếp.
Tôi nay đã chỉ rõ cho ông: Sáu căn, căn nào cũng trong sáng và đều có số lượng công năng. Tùy ông chọn lựa. Thích hợp căn nào tôi sẽ hướng dẫn cho ông để ngày thêm tăng tiến.
Mười phương Như Lai, căn, trần, thức, 18 giới đều là công cụ để viên mãn Vô thượng Bồ-Đề. Căn cơ trí tuệ còn non nớt, ông cần đi sâu tu tập một căn. Một căn thanh tịnh thì sáu căn đồng thời được tháo mở hoàn toàn thanh thoát.
Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...)
+ DÙNG TÂM NHỊ NGUYÊN - TÂM NHÂN ĐỊA TU GIẢI THOÁT NIẾT BÀN
Trích Đức Phật dậy ngài A Nan tu Pháp Đại thừa - Giải thoát Niết Bàn trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
... Không theo cái thường, chỉ đuổi theo sanh diệt. Do vậy phải sanh mãi và chịu tạp nhiễm khi lưu chuyển.
Nếu trừ bỏ sanh diệt, giữ tính chân thường, tính sáng suốt chân thường hiện tiền. Các thứ căn trần, thức tâm phân biệt đều tiêu mất.
Tướng của vọng tưởng là trần, thức tình phân biệt là cấu nhiễm. Cả hai đều rời bỏ, làm sao không thành Vô thượng trí giác? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.V)
+ PHÁP TU GIẢI THOÁT NIẾT BÀN DUY NHẤT - CHƯ PHẬT MƯỜI PHƯƠNG ĐỒNG TU TẬP
... Vì thức thứ 8 là thức đầu tiên khởi niệm tưởng phân biệt. Tất cả đều bắt nguồn từ thức thứ 8. Ngũ uẩn và thức thứ 8 kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành nút buộc luân hồi sinh tử. Vì nó bắt đầu từ thức thứ 8, nên khi mở, phải bắt đầu từ sắc uẩn (2 nút). Thứ tự nầy cũng giống như khi cởi áo quần, phải cởi từ lớp ngoài trước rồi lớp trong. ... Như trong bài kệ nói:
Khi sáu nút đã được mở, thì một cũng không còn. Khi sáu căn, tức là sáu nút đã được tự tại, thì cái một cũng biến mất luôn. Điều nầy sẽ được giải thích chi tiết trong đoạn văn sau.
Nơi các căn, hãy chọn tính viên thông. Phương pháp tu tập là áp dụng nỗ lực ngay từ cửa ngõ của sáu căn. Có nghĩa là, mắt không bị xoay chuyển bởi hình sắc, tai không bị xoay chuyển bởi âm thanh, mũi không bị xoay chuyển bởi hương thơm, lưỡi không bị xoay chuyển bởi mùi vị, thân không bị xoay chuyển bởi sự xúc chạm, thức không bị xoay chuyển bởi các pháp. Quý vị chuyển hoá ngay những gì xuất hiện nơi cửa của sáu căn. Quý vị hồi quang phản chiếu, không cần phải tìm cầu bên ngoài. Chỉ cần phòng hộ thân và tâm. Hãy tự tìm cầu ở trong chính mình
Để tu tập nơi sáu căn, quý vị phải chọn một căn để dẫn đến viên thông. Đức Phật đã đặt nền móng cho phương pháp nầy. Ngài đã giảng giải về 1200 công dụng của mỗi căn và chỉ cho A-nan thấy căn nào hoàn chỉnh nhất. Chẳng hạn, nhãn căn là không hoàn chỉnh, nhưng nhĩ căn thì được. Thiệt căn và ý căn cũng là những căn hoàn chỉnh. Có những căn hoàn chỉnh và có những căn thì không. Quý vị phải chọn một căn và phát huy công phu tu tập trên căn đó. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã ngầm ý bảo rằng nhĩ căn sẽ dẫn đến viên thông. Đức Phật mong A-nan tự quyết định trong sự lựa chon; Đức Phật muốn A-nan tự mình tìm ra sự quyết định.
Tự chọn ra một căn viên thông và được vào dòng, tức thành chánh giác.
Nhập vào dòng pháp giới của bậc thánh. Nghịch với dòng sanh tử của phàm phu.
Sau khi đã vào dòng (Nhập lưu) được rồi, mới có thể thành tựu chánh đẳng chánh giác. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.5)
+ Mời xem trang chuyên đề về: Pháp Tu Bồ Tát Đạo/ Thánh Đạo
+ Hành đạo Bồ tát - Mình là Bồ tát?
Hỏi: Kính thưa lão Pháp sư, Ngài thường nói: “Trước tiên phải độ mình rồi mới có thể độ người, chỉ có Bồ Tát thật sự mới có thể độ người”. Lại nói, “Vừa chuyển đổi ý niệm, chỉ cần vì chúng sanh thì chính là Bồ Tát”, ở đây phải chăng có sự mâu thuẫn?
Hòa Thượng Tịnh Không trả lời: Nghi hoặc của bạn không sai, đúng là có nghi hoặc như thế. Tuy nhiên phải hiểu rằng “Trước tiên phải độ chính mình rồi sau mới độ người khác”, đây là việc của Bồ Tát. Không có năng lực độ chính mình mà đi độ người khác cũng là sự nghiệp của Bồ Tát. Hai loại người này đều là Bồ Tát, nhưng bên trong có sự khác biệt. Không thể độ mình mà đi độ người thì chưa đáng tin cậy, bạn cho rằng đó là độ người nhưng thật sự có phải là độ người hay không? Bạn độ họ đi đến đâu? Trong mười pháp giới bạn độ họ đến pháp giới nào? Nếu như độ họ vào cõi ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh thì đó cũng là độ, không phải là không độ. “Độ” nghĩa là giúp đỡ, bạn giúp họ đến pháp giới nào? Cho nên, chính mình phải độ mình trước, bản thân bạn nhận biết đường đi, bạn biết phương hướng rồi thì bạn sẽ không dẫn dắt chúng sanh đi sai đường. Vì sao vậy? Bạn là người từng trải, việc này sẽ không sai. Bạn chưa độ được mình, cũng không phải là người từng trải, con đường phía trước như thế nào bạn không biết! Không biết đường mà tùy tiện chỉ đường thì đây là việc làm nguy hiểm.
Tuy nhiên, trong Tịnh Tông (Tịnh Độ) có một phương tiện. Tịnh Tông là chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, việc này chắc chắn là chính xác. Tuy chưa độ được mình nhưng người này đi khuyên người khác thì nhất định là không sai, chư Phật Như Lai đã chỉ như vậy thì làm sao mà sai được. Chỉ có con đường này là chính xác, bản thân mình tuy chưa được độ nhưng có thể độ người. Còn 84.000 pháp môn khác thì không hề dễ dàng, không đơn giản. Nếu bản thân bạn chưa được độ thì nhất định không thể độ người. Pháp môn Tịnh Độ (pháp môn Niệm Phật) thì mình chưa được độ vẫn có thể độ người, việc này chúng ta cần phải phân biệt rõ. Giới thiệu cho mọi người về A Di Đà Phật, giới thiệu một cách nhiệt tình, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì người này là Bồ Tát. Bản thân Bồ Tát có thể vãng sanh hay không? Chưa chắc! Có rất nhiều Bồ Tát không thể vãng sanh. Bồ Tát trên danh nghĩa, Bồ Tát hữu danh vô thực thì không thể vãng sanh. Bản thân họ không thể vãng sanh nhưng họ khuyên người, nếu người đó thật sự chịu tin thì người đó vãng sanh. Nếu họ khuyên rất nhiều người, khuyên được mấy mươi người, mấy trăm người đều vãng sanh, tuy bản thân họ chưa được vãng sanh cũng không sao, đến lúc họ mạng chung thì những người bạn đã vãng sanh đến thế giới Cực Lạc nhất định sẽ nói với A Di Đà Phật: “Chúng con có thể đến thế giới Cực Lạc đều nhờ người này khuyên chúng con”. Họ kéo A Di Đà Phật: “Chúng ta hãy đi tiếp dẫn người này vãng sanh”. Các bạn nghĩ xem có được hay không? Có thể được! Chỉ cần đến lúc đó họ nhìn thấy A Di Đà Phật, thật sự muốn đi thì họ sẽ đi. Nếu gặp A Di Đà Phật mà họ không muốn đi thì không có cách nào. Cho nên Đại Từ Bồ Tát nói rất hay: “Khuyên hai người niệm Phật [vãng sanh] thì còn hơn chúng ta tinh tấn”, khuyên được mười mấy người thì phước báo của bạn rất lớn. Đây là sự thật, bạn đã tu được đại phước báo. Bạn có thể khuyên mấy trăm người, mấy ngàn người thì bạn là Bồ Tát thật. Bạn có thể khuyên hơn một vạn người niệm Phật thì bạn chính là hóa thân của A Di Đà Phật. Đây là Đại Từ Bồ Tát nói, khuyến khích chúng ta đem pháp môn Tịnh Tông giới thiệu phổ biến cho mọi người. Bạn đã hiểu rõ lý của những việc này rồi thì nghi hoặc của bạn sẽ được giải trừ. (Nguồn: Tuyển Chọn Học Phật Vấn Đáp với PS Tịnh Không)
+ Tu Bồ tát đạo - Hạnh Bồ tát: “Muốn tu Bồ Tát đạo thì cần thành tựu định lực Bất động tam muội, vì nếu không có định lực bất động, sẽ bị cảnh duyên làm lung lay, không thể thành tựu hạnh Bồ Tát được. Đây là nền tảng của Bồ Tát đạo” (宣化上人, 1998b - HT Tuyên Hóa giảng). [Bất động tam muội là định lực không dao động bởi tám gió (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc; Là trạng thái định lực kiên cố, bất động trước mọi cảnh duyên, thuận cũng không sinh tham, nghịch cũng không sinh sân, tâm hoàn toàn bình đẳng vô ngã.). Đây là căn bản của Bồ Tát đạo, vì nếu tâm không định, sẽ không thể thực hành Bồ Tát hạnh.” (宣化上人, 1998a).].
Vậy, “Muốn vãng sanh về Đông Phương Cực Lạc, trước tiên phải có Bồ Tát tâm, nguyện hành Bồ Tát đạo, vì cõi đó là thế giới của Bồ Tát hộ trì Dược Sư Phật để giáo hóa chúng sanh.”
+ Lục Độ với giáo pháp Tiểu thừa và Đại Thừa
- Tu Lục Độ với Tiểu thừa: Cho các hàng tu hành thành tựu đến Thanh Văn - Duyên Giác. Thế nào gọi là lục độ ?
1. Bố thí,
2. Trì giới,
3. Nhẫn nhục,
4. Tinh tấn,
5. Thiền định,
6. Trí huệ.
Bố thí độ tham lận, trì giới độ phạm lỗi, nhẫn nhục độ giận hờn, tinh tấn độ lười biếng, thiền định độ tán loạn, trí huệ độ ngu si.
Phàm những ai phát Bồ-đề tâm, hành đạo Bồ-tát đều phải tu sáu pháp môn này; khi công đức viên mãn thì tới được bờ bên kia (đáo bỉ ngạn). (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Lục Độ Ba La Mật hay đại khái còn gọi là: Đáo Bỉ Ngạn - Siêu Nhiên - Siêu Hoàn hảo - Siêu Hoàn Thiện - Đạo hạnh siêu phàm - Trí tuệ siêu việt - phẩm tính Siêu nhiên chỉ phẩm tính tu Bổ Tát đạo thành tựu.
Sáu đức hạnh Ba-la-mật là :
1- Sự hào phóng siêu nhiên, (danaparamita), còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.
2- Giới hạnh siêu nhiên, (silaparamita), còn gọi là Trì giới Ba-la-mật.
3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên, (kshantiparamita), còn gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật.
4- Nghị lực siêu nhiên (viryaparamita), còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.
5- Sự chú tâm (tập trung tâm thức) siêu nhiên (dhynaparamita), còn gọi là « Thiền định » Ba-la-mật.
6- Sự hiểu biết siêu nhiên (prajnaparamita), còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. (Mời xem chi tiết trên bài viết: Lục độ Ba La Mật)
+ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tu làm sao đặng chứng sáu pháp Ba la mật?
Thế Tôn nói:
- Bằng có chúng sanh nào bỏ được rượu thịt chẳng ăn, bỏ tài lợi chẳng tham, bỏ đặng ái ân chẳng mến, bỏ đặng việc ác chẳng làm, bỏ đặng nhân ngã chẳng tranh, thì đặng thứ nhất Bố thí Ba la mật.
- Có chúng sanh giữ đặng giới Phật, tập đặng uy nghi Phật, hàng lục tặc, dứt đặng việc tà mị, thì đặng thứ hai Trì giới Ba la mật. - Có chúng sanh nào hay chịu đặng người chê nhơ nhớp, hay nhịn đặng người mắng chửi, người nói lời chẳng phải lấy lời khuyên giải, việc nghịch đem đến lòng thuận chịu liền không oán hận, trái lại còn tìm phương độ thoát, thì đặng thứ ba Nhẫn nhục Ba la mật.
- Có những chúng sanh nào học đặng mười hai bộ kinh của Như Lai, thọ trì đọc tụng, biên chép giảng nói chưa thông học cho thông, chưa chứng học cho chứng, thì đặng thứ tư Tinh tấn Ba la mật.
- Có chúng sanh nào đoạn được trần duyên, dứt đặng vọng niệm, trừ đặng mê muội tán loạn, tập đặng thiền định, sức định như núi Tu di, Ma vương phá khuyấy không rối loạn, thì đặng thứ năm Thiền định Ba la mật.
- Có chúng sanh phá được vô minh không còn các tướng, lýsự đều không, thị phi dẹp hết, lời nói đứng đắn, mỗi chữ rành rõ, thì đặng thứ sáu Trí huệ Ba la mật.
Nếu người nào đặng sáu pháp Ba la mật thì người ấy đặng ra khỏi sanh tử, đặng đến bỉ ngạn, đặng siêu tam giới, đặng lên thập địa và đặng thành Phật. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Tu Lục Độ Ba La Mật - Hàng Bồ tát - Hàng Đại thừa tu:
"Vô trí diệc vô đắc, (không trí cũng không đắc)".
Tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ
Tròn tu diệu giác lý rõ ràng
Vô trí phá chấp không các tướng
Không đắc không chứng rõ pháp dung
Nơi một đầu lông hiện bảo tòa
Ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân
Lời nói ra người liền tin ngay
Nào hay tri âm có mấy ai".
Không trí cũng không đắc. Trí là trí huệ. Đắc là chứng đắc quả vị. Đạt đến cảnh giới đó, trí huệ cũng không cần, quả vị chứng đắc cũng không có, hy vọng điều gì cũng không có. Chúng ta học Phật pháp, đều muốn đạt được trí huệ; có trí huệ rồi thì chứng đắc được quả vị Phật. Nay trí bát nhã cũng không có, muốn đắc được Phật quả cũng không thể đắc. Đấy là lạc vào không à ? Không phải vậy. Chẳng đạt được trí huệ, chẳng chứng đắc được tức là trí huệ không chấp trước. Không có chấp trước rằng mình có chỗ chứng đắc.
Tạng giáo Bồ Tát sự lục độ, (tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ)".
Tạng giáo Bồ Tát tức là ba tạng kinh điển giáo huấn Bồ Tát. Pháp tu hành của Bồ Tát là pháp môn có trí huệ, có chứng đắc. Hành sáu pháp ba la mật tức có chấp trước. Chấp chúng sanh có thể độ được, tức là có trí huệ. Chấp trước Phật đạo có thể thành được, tức là có chứng đắc. Sáu độ là
1. Hành bố thí thì cứu độ tham lam. Phải hành bố thí thì mới không còn tham lam. Một lần bố thí thì là một lần dẹp bỏ tham lam.
2. Trì giới thì độ hủy phạm. Chư vị trì giới thì tâm được thanh tịnh, như ánh sánh tinh khiết trong sạch của hạt minh châu. Trì giới thì không có ô nhiễm. Ô nhiễm thì dơ bẩn, không tinh khiết, không trong sạch. Không trì giới giống như tờ giấy trắng bị lấm mực đen, càng lấm chừng nào thì càng đen chừng đó. Chư vị trì giới tức phải như tờ giấy, xưa nay vốn đã trắng sạch.
3. Nhẫn nhục độ sân hận. Chư vị tu nhẫn nhục thì không có nóng giận. Nếu có nóng giận thì không có nhẫn nhục. Chư vị tu nhẫn nhục thì sân hận sẽ không còn.
4. Tinh tấn độ giải đãi, làm biếng. Phải nên tinh tấn hằng ngày, luôn luôn tinh tấn, dũng mãnh tinh tấn. tinh tấn thì không có giải đãi làm biếng.
5. Thiền định độ tán loạn. Ngồi thiền hồi lâu thì có công phu tức là định trụ. Có định lực rồi thì không có tán loạn.
6. Bát nhã độ ngu si. Bát nhã khiến dẹp trừ ngu si.
Đấy là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
Trên là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
"Viên tu diệu giác lý đốn minh, (tròn tu diệu giác lý rõ ràng)".
Viên giáo Bồ Tát tu hành sáu độ. Viên giáo Bồ Tát tức là Diệu Giác Bồ Tát. Biệt giáo Bồ Tát cũng tu hành sáu độ. Sáu độ chỉ có lý, không có sự tướng, không có chấp trước. Gọi lý đốn minh (lý lẽ chỉ rõ minh bạch), nghĩa là tức khắc minh bạch, hiểu rõ đạo lý bố thí mà chưa từng bố thí, hành sáu độ mà chưa từng hành, vốn không chấp trước vào sự của sáu độ. Không chấp trước vào chi hết, nên gọi là không trí cũng không đắc.
Lý sáu độ có nhiều loại. Tu theo viên giáo không tạo sáu độ, làm bất cứ việc gì cũng không chấp trước, tạo việc gì ra cũng như không tạo. Tuy nhiên, chưa tạo việc thì không thể nói đã tạo việc. Nói thí mà chưa thí. "Tôi chưa bố thí mà cũng như đã bố thí".
Không thể nói như thế được. Chỉ có bố thí rồi thì mới nói rằng chưa có bố thí, mà không thể bảo rằng chưa bố thí cũng là đã bố thí.
"Vô trí phá chấp không chư tướng, (vô trí phá chấp không các tướng)".
Vô trí phá chấp tức là phá chấp trước về những phần còn lại của bát nhã. Không chư tướng tức là tất cả tướng đều là không. Mọi tướng đều là không, nên bảo rằng vô trí cũng vô đắc.
"Bất đắc phi chứng liễu pháp dung, (không đắc không chứng rõ pháp dung)".
Bất đắc tức là không có chi để chứng đắc, cũng là không chấp trước vào chứng đắc quả vị Phật. Trên, không Phật đạo có thể thành. Dưới, không chúng sanh có thể độ. Chẳng phải nói rằng không chúng sanh có thể độ, nhưng là độ mà chưa từng thấy có độ. Tuy diệt độ hết tất cả chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được diệt độ hết. Chẳng phải là không chúng sanh đã được độ, mà là không có chấp trước. Không nên chấp trước vào trí huệ và chứng đắc. Không này cũng chính là đại viên cảnh trí, mà trong đó không có chấp trước nào hết, nên liễu đạt pháp dung.
"Ư nhất mao đoan hiện bảo sát, (nơi một đầu lông hiện bảo tòa)".
Chứng đắc được cảnh giới này rồi thì chỉ vừa ngồi xuống liền xuất hiện một tòa bảo vương. Trong tiểu hiển đại.
"Tọa vi trần biểu chuyển pháp luân, (ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân)".
Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân. Đó là đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.
"Thử ngôn thuyết xuất tiên thành tín, (lời nói ra người liền tin tưởng)".
Lời này vừa nói ra thì ít nhiều người đều tin tưởng.
"Vi tất tri âm hữu cơ nhân, (nào hay tri âm có mấy ai)".
Một vài người tin tưởng rồi thì không biết có bao nhiêu người tri âm (nhớ tưởng), lại cũng không có bao nhiêu người hiểu rõ đạo lý. Hư Vân lão hòa thượng bảo :
"Lên tận cõi trời tìm tri kỷ
Vẫn chưa biết được kẻ tri âm".
Thiên nhai tức là cõi trời. Tri kỷ tức là bạn thân của mình. Lên tận cõi trời tìm tri kỷ, mà không biết ai là người tri âm. Sao gọi là tri âm ? Tức là hiểu được ý phát xuất từ lời nói của mình. Không có tri âm, tức là mình có nói ra lời gì nhưng không có ai hiểu hết. Có người hiểu lời mình tức là có người tri âm.
Chư vị bảo :" Pháp sư ! Ngài giảng con đều hiểu cả. Ngài là người bạn tri âm của con. Ngài thuyết mà con không hiểu rõ, nên không phải là người tri âm. Ngài thuyết, con không hiểu và lại hiểu, con tri âm và lại không tri âm".
Tri âm và không tri âm xuất phát từ đâu ? Tôi thuyết một bài kệ, ai y chiếu theo đó mà tu hành thì người đó là tri âm. Ai không y chiếu theo đó mà tu hành thì không phải là tri âm. Tin lời tôi nói đạo lý tức là tri âm, còn ngược lại thì không phải là tri âm. Đạo lý gì ? Nơi một cọng lông, ngồi xuống liền hiện bảo sát. Ngồi trên hạt bụi, chuyển đại pháp luân. Ngồi trên một cọng lông, xuất hiện các cõi Phật. Bảo vương sát tức là cõi nước mà Phật thường giáo hóa chúng sanh. Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Cảnh giới này là trong tiểu mà hiển đại. Chư vị nếu hiểu rõ cảnh giới này thì là tri âm. Chư vị không hiểu rõ nhưng lại muốn tu hành. Đợi khi chư vị ngồi trên hạt bụi mà chuyển pháp luân thì liền hiểu rõ. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Lục độ với Đại Thừa: Khi tu hành với Hàng Bồ Tát: Trích đoạn trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Kinh Pháp cho hàng Đại thừa tu tiến đến quả vị Bồ đề - Như Lai. Đức Phật bảo ngài Phú Lâu Na.
Không phải là bố thí, trì giới, không phải là tinh tấn, nhẫn nhục; không phải là thiền định, trí tuệ; không phải là ba-la-mật-đa.
HT Tuyên Hóa giảng giải:
Trong Như Lai tạng, lục độ cũng không. Trong đoạn kinh trước, tứ đế đã được giảng giải là không. Ngay sau khi chứng ngộ, Đức Phật liền giảng tứ đế và tam chuyển.[11] Không tứ đế và không thập nhị nhân duyên khiến cho giáo pháp cuả hàng Thanh văn và Duyên giác cũng trở thành không. Bây giờ không lục độ khiến cho pháp của hàng Bồ-tát cũng trở thành không.
- Đầu tiên trong lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.
- Tiếp đến là thi-la, tiếng Sanskrit là śīla, Hán dịch là giới hạnh.[12] Có năm giới, tám giới, mười giới, 250 giới của tỷ-khưu và 348 giới của tỷ-khưu ni. Còn có mười giới trọng và 48 giới khinh của hàng Bồ-tát.
- Tỳ-lê-da gốc tiếng Sanskrit là vīrya,[13] Hán dịch là tinh tấn, tinh cần. Có thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Khi tâm quý vị tinh tấn, thì quý vị sẽ tìm cầu Phật pháp mọi lúc. Khi thân tinh tấn, thì minh tu tập Phật pháp mọi lúc mọi nơi.
- Sàn-đề gốc tiếng Sanskrit là kṣānti,[14] Hán dịch là nhẫn nhục. Chúng ta nói rằng mình đang tu học Phật pháp, và không đến nỗi khó khăn lắm khi giữ giới. Điều khó là thực hành các điều giới ấy. Nhiều người tập hạnh nhẫn nhục bằng cách bảo người khác hãy nhẫn nhục đối với chính họ, và chẳng cần nhẫn nhục đối với người khác. Thế nên họ nói vớí những người không nhẫn nhục đối với họ rằng, “Anh phải học Phật pháp thật nhiều, lẽ ra anh phải nhẫn nhục hơn. Tại sao anh nổi nóng khi tôi chỉ mới nói đến anh?” Họ quở trách người khác không nhẫn nhục, nhưng chính họ lại không thể nhẫn nhục. Và tại sao họ lại duy lý như vậy? Họ tự cho rằng, “Tôi đã hiểu Phật pháp, tôi hầu như đã đạt đến vô ngã. Thế nên tôi không cần phải nhẫn. Tôi không có quan niệm về ngã, không có ngã tướng, thế nên khi nào cần phải nhẫn, đó là anh cần phải nhẫn chớ không phải tôi.” Nhưng khi đến giờ ăn, họ không nghĩ là mình có quan niệm về sự hiện hữu của con người, không có nhân tướng, thế nên họ cho rằng không cần phải có gì đó cho người khác ăn. Khi có việc cần làm, hoặc khi gặp khó khăn, họ nhớ lại rằng mình không có quan niệm có một bản ngã, thế nên họ nói rằng chẳng cần để ý đến những việc ấy. Và, nếu họ giết người, họ sẽ biện minh, “Chẳng hề gì, vì chẳng có chỗ khởi đầu của chúng sinh. Thế nên thực sự tôi chẳng giết họ.” Hoặc là vô cớ họ đánh người, khi hỏi tại sao lại làm vậy?, họ đáp, “Chẳng có cái gì gọi là chúng sinh tướng, và anh thuộc về dạng đó, thế nên tôi thực sự chẳng đánh ai cả!” Đó là loại tà tư tà kiến nơi họ. Khi ăn thịt, họ nói, “Không sao, các ông chẳng nghe nói chúng sinh có đặc tính là không có thọ giả tướng [15] đó sao? Vì nó không có thọ giả tướng, nên nó có thể chết bất kỳ lúc nào, thế nên tôi tha hồ ăn thịt nó. Lại nữa, một khi nó chết rồi, thịt nó cũng thối rữa, nếu tôi không ăn thịt nó.” Đó là luận điệu của đệ tử ngoại đạo. Họ cho rằng gia súc được nuôi chủ yếu là để cho người ăn thịt, nếu không ăn, thì chúng sẽ sinh sôi nẩy nở chật cả thế giới. “Nếu người không ăn bò, dê, heo, thì chúng sẽ nhiều vô số kể cho đến khi tràn ngập cả thế giới.” Nhưng hãy nhớ rằng, con người không ăn thịt mèo, nhưng trên thế giới chưa bị tràn ngập bởi loài mèo. Thực vậy, khi con người không ăn thịt động vật, thì không tạo ra nghiệp sát nhiều, và súc vật không sinh sôi nẩy nở nhanh chóng. Thế nên có người giải thích đạo lý sai lạc, như ý nghĩa của nhẫn nhục, và cho rằng mọi người nên nhẫn nhục với họ, nhưng chính họ lại không nhẫn nhục với người khác.
- Thiền-na gốc tiếng Sanskrit là dhyāna,[16] Hán dịch là tư duy tu, tĩnh lự. Có nhiều loại thiền. Nhưng bây giờ Đức Phật dạy rằng cũng chẳng có thiền nào cả.
- Bát-nhã, gốc tiếng Sanskrit là Prajñā,[17] Hán dịch là trí huệ. Có ba loại bát-nhã: Văn tự bát-nhã, Quán chiếu bát-nhã, và Thực tướng bát-nhã. Như vậy lục độ, hay sáu ba-la-mật-đa đều là không.
- Ba-la-mật-đa, gốc tiếng Sanskrit là pāramitā,[18] Hán dịch là đáo bỉ ngạn, qua đến bờ bên kia. Chỉ cho sự hoàn thành viên mãn một việc nào đó. Chúng ta phát tâm tu tập và thành Phật, tiến trình chuyển hoá từ phàm phu sang giác ngộ là ba-la-mật-đa. Từ phàm phu trở thành Bồ-tát cũng là một dạng của ba-la-mật-đa. Đi từ Cựu Kim Sơn sang Oakland cũng là một dạng khác của ba-la-mật-đa. Bây giờ tất cả pháp nầy trong Như Lai tạng được Đức Phật giảng là không hiện hữu. Chúng hoàn toàn là không. Trước đây khi chúng ta nói rằng trong hư không chẳng loại trừ hay ngăn ngại một tướng nào, đó là đang nói về Như Lai tạng vốn là bất không. Ở đây chúng ta đang nói về cái không của Như Lai tạng. Để diễn tả tính không của Như Lai tạng, phải dùng đến chữ không, nhưng đó không phải là hoàn toàn phủ định. Trong đó, vẫn có cái đang hiện hữu, đó là bổn diệu viên tâm. Nhưng tâm ấy không được gọi bằng tên ấy. Thế là ở đây đã mô tả không Như Lai tạng rồi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Tu Lục Độ Ba La Mật - Hàng Bồ tát - Hàng Đại thừa tu:
"Vô trí diệc vô đắc, (không trí cũng không đắc)".
Tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ
Tròn tu diệu giác lý rõ ràng
Vô trí phá chấp không các tướng
Không đắc không chứng rõ pháp dung
Nơi một đầu lông hiện bảo tòa
Ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân
Lời nói ra người liền tin ngay
Nào hay tri âm có mấy ai".
Không trí cũng không đắc. Trí là trí huệ. Đắc là chứng đắc quả vị. Đạt đến cảnh giới đó, trí huệ cũng không cần, quả vị chứng đắc cũng không có, hy vọng điều gì cũng không có. Chúng ta học Phật pháp, đều muốn đạt được trí huệ; có trí huệ rồi thì chứng đắc được quả vị Phật. Nay trí bát nhã cũng không có, muốn đắc được Phật quả cũng không thể đắc. Đấy là lạc vào không à ? Không phải vậy. Chẳng đạt được trí huệ, chẳng chứng đắc được tức là trí huệ không chấp trước. Không có chấp trước rằng mình có chỗ chứng đắc.
Tạng giáo Bồ Tát sự lục độ, (tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ)".
Tạng giáo Bồ Tát tức là ba tạng kinh điển giáo huấn Bồ Tát. Pháp tu hành của Bồ Tát là pháp môn có trí huệ, có chứng đắc. Hành sáu pháp ba la mật tức có chấp trước. Chấp chúng sanh có thể độ được, tức là có trí huệ. Chấp trước Phật đạo có thể thành được, tức là có chứng đắc. Sáu độ là
1. Hành bố thí thì cứu độ tham lam. Phải hành bố thí thì mới không còn tham lam. Một lần bố thí thì là một lần dẹp bỏ tham lam.
2. Trì giới thì độ hủy phạm. Chư vị trì giới thì tâm được thanh tịnh, như ánh sánh tinh khiết trong sạch của hạt minh châu. Trì giới thì không có ô nhiễm. Ô nhiễm thì dơ bẩn, không tinh khiết, không trong sạch. Không trì giới giống như tờ giấy trắng bị lấm mực đen, càng lấm chừng nào thì càng đen chừng đó. Chư vị trì giới tức phải như tờ giấy, xưa nay vốn đã trắng sạch.
3. Nhẫn nhục độ sân hận. Chư vị tu nhẫn nhục thì không có nóng giận. Nếu có nóng giận thì không có nhẫn nhục. Chư vị tu nhẫn nhục thì sân hận sẽ không còn.
4. Tinh tấn độ giải đãi, làm biếng. Phải nên tinh tấn hằng ngày, luôn luôn tinh tấn, dũng mãnh tinh tấn. tinh tấn thì không có giải đãi làm biếng.
5. Thiền định độ tán loạn. Ngồi thiền hồi lâu thì có công phu tức là định trụ. Có định lực rồi thì không có tán loạn.
6. Bát nhã độ ngu si. Bát nhã khiến dẹp trừ ngu si.
Đấy là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
Trên là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
"Viên tu diệu giác lý đốn minh, (tròn tu diệu giác lý rõ ràng)".
Viên giáo Bồ Tát tu hành sáu độ. Viên giáo Bồ Tát tức là Diệu Giác Bồ Tát. Biệt giáo Bồ Tát cũng tu hành sáu độ. Sáu độ chỉ có lý, không có sự tướng, không có chấp trước. Gọi lý đốn minh (lý lẽ chỉ rõ minh bạch), nghĩa là tức khắc minh bạch, hiểu rõ đạo lý bố thí mà chưa từng bố thí, hành sáu độ mà chưa từng hành, vốn không chấp trước vào sự của sáu độ. Không chấp trước vào chi hết, nên gọi là không trí cũng không đắc.
Lý sáu độ có nhiều loại. Tu theo viên giáo không tạo sáu độ, làm bất cứ việc gì cũng không chấp trước, tạo việc gì ra cũng như không tạo. Tuy nhiên, chưa tạo việc thì không thể nói đã tạo việc. Nói thí mà chưa thí. "Tôi chưa bố thí mà cũng như đã bố thí".
Không thể nói như thế được. Chỉ có bố thí rồi thì mới nói rằng chưa có bố thí, mà không thể bảo rằng chưa bố thí cũng là đã bố thí.
"Vô trí phá chấp không chư tướng, (vô trí phá chấp không các tướng)".
Vô trí phá chấp tức là phá chấp trước về những phần còn lại của bát nhã. Không chư tướng tức là tất cả tướng đều là không. Mọi tướng đều là không, nên bảo rằng vô trí cũng vô đắc.
"Bất đắc phi chứng liễu pháp dung, (không đắc không chứng rõ pháp dung)".
Bất đắc tức là không có chi để chứng đắc, cũng là không chấp trước vào chứng đắc quả vị Phật. Trên, không Phật đạo có thể thành. Dưới, không chúng sanh có thể độ. Chẳng phải nói rằng không chúng sanh có thể độ, nhưng là độ mà chưa từng thấy có độ. Tuy diệt độ hết tất cả chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được diệt độ hết. Chẳng phải là không chúng sanh đã được độ, mà là không có chấp trước. Không nên chấp trước vào trí huệ và chứng đắc. Không này cũng chính là đại viên cảnh trí, mà trong đó không có chấp trước nào hết, nên liễu đạt pháp dung.
"Ư nhất mao đoan hiện bảo sát, (nơi một đầu lông hiện bảo tòa)".
Chứng đắc được cảnh giới này rồi thì chỉ vừa ngồi xuống liền xuất hiện một tòa bảo vương. Trong tiểu hiển đại.
"Tọa vi trần biểu chuyển pháp luân, (ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân)".
Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân. Đó là đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.
"Thử ngôn thuyết xuất tiên thành tín, (lời nói ra người liền tin tưởng)".
Lời này vừa nói ra thì ít nhiều người đều tin tưởng.
"Vi tất tri âm hữu cơ nhân, (nào hay tri âm có mấy ai)".
Một vài người tin tưởng rồi thì không biết có bao nhiêu người tri âm (nhớ tưởng), lại cũng không có bao nhiêu người hiểu rõ đạo lý. Hư Vân lão hòa thượng bảo :
"Lên tận cõi trời tìm tri kỷ
Vẫn chưa biết được kẻ tri âm".
Thiên nhai tức là cõi trời. Tri kỷ tức là bạn thân của mình. Lên tận cõi trời tìm tri kỷ, mà không biết ai là người tri âm. Sao gọi là tri âm ? Tức là hiểu được ý phát xuất từ lời nói của mình. Không có tri âm, tức là mình có nói ra lời gì nhưng không có ai hiểu hết. Có người hiểu lời mình tức là có người tri âm.
Chư vị bảo :" Pháp sư ! Ngài giảng con đều hiểu cả. Ngài là người bạn tri âm của con. Ngài thuyết mà con không hiểu rõ, nên không phải là người tri âm. Ngài thuyết, con không hiểu và lại hiểu, con tri âm và lại không tri âm".
Tri âm và không tri âm xuất phát từ đâu ? Tôi thuyết một bài kệ, ai y chiếu theo đó mà tu hành thì người đó là tri âm. Ai không y chiếu theo đó mà tu hành thì không phải là tri âm. Tin lời tôi nói đạo lý tức là tri âm, còn ngược lại thì không phải là tri âm. Đạo lý gì ? Nơi một cọng lông, ngồi xuống liền hiện bảo sát. Ngồi trên hạt bụi, chuyển đại pháp luân. Ngồi trên một cọng lông, xuất hiện các cõi Phật. Bảo vương sát tức là cõi nước mà Phật thường giáo hóa chúng sanh. Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Cảnh giới này là trong tiểu mà hiển đại. Chư vị nếu hiểu rõ cảnh giới này thì là tri âm. Chư vị không hiểu rõ nhưng lại muốn tu hành. Đợi khi chư vị ngồi trên hạt bụi mà chuyển pháp luân thì liền hiểu rõ. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mời đọc bài viết để có phương pháp học Phật pháp hiệu quả: Hướng dẫn tu học Phật pháp như Phật dậy
+ Thuật ngữ: Tín nhẫn - Kiên tu - Thuận nhẫn
(35) Tín nhẫn: Một trong sáu nhẫn Pháp, tương ưng với giai vị của Bồ Tát. Các vị Bồ Tát bực Thập trụ của Biệt giáo tu tập Pháp quán không, tin tất cả các Pháp đều rỗng lặng, đối với Pháp không, có thể nhẫn, có thể chứng, cho nên gọi là Tín nhẫn.
(36) Kiên tu: Một trong sáu Kiên Pháp của các giai vị Bồ Tát. Kiên tu là chỉ cho giai vị Bồ Tát Thập Hồi Hướng của Biệt giáo, các bậc này tu tập Pháp Trung quán, rõ biết tất cả Pháp, không Pháp nào chẳng là trung đạo, không thể nào hủy hoại, do đó bậc Thập Hồi Hướng gọi là Kiên tu.
(37) Thuận nhẫn: Một trong năm nhẫn của các giai vị Bồ Tát gồm 42 địa vị. Năm nhẫn là: Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sinh nhẫn và Tịch diệt nhẫn. Bốn nhẫn trước mỗi nhẫn có thượng, trung, hạ thành ra 12 nhẫn. Nhẫn thứ năm (Tịch diệt nhẫn chia làm hai, là thượng và hạ). 1.Phục nhẫn: các vị Bồ Tát tiền địa (Tam hiền) chưa được trí tuệ vô lậu, phiền não chưa đoạn, chỉ thể hàng phục trụ địa phiền não, làm cho chẳng khởi mà thôi (chưa thể diệt). Trong đó Thập Trụ thuộc về Phục nhẫn bậc hạ. Thập Hạnh thuộc về Phục nhẫn bậc trung. Thập Hồi hướng thuộc Phục nhẫn bậc thượng. 2. Tín Nhẫn: Bồ Tát từ sơ địa trở lên, được Vô lậu tín, tùy thuận không nghi, trong đó Sơ địa là Hạ phẩm, Nhị địa là Trung phẩm, Tam địa là Thượng phẩm tín nhẫn. 3.Thuận nhẫn: Bồ Tát thuận Vô thượng Bồ đề đạo, hướng đến vô sinh quả, trong đó đệ tứ địa là Hạ phẩm Thuận nhẫn, ngũ địa là Trung phẩm, Lục địa là Thượng phẩm của Thuận nhẫn. 4. Vô sinh nhẫn: Bậc Bồ Tát đã hết vọng hoặc, biết rõ tất cả Pháp đều chẳng sinh, trong đó Thất địa là Hạ phẩm, Bát địa là Trung phẩm, Cửu địa là Thượng phẩm của Vô sinh nhẫn. 5. Tịch diệt nhẫn: các hoặc đã hết, thanh tịnh vô vi, lòng trong lặng lẽ, trong đây Thập địa là Hạ phẩm, Phật quả là Thượng phẩm (Kinh Nhân Vương, Kinh Bát Nhã…)
(38) Chánh chân vị: Chỉ cho bậc đã đạt ngộ Pháp tính, đã phục diệt phiền não. Đó là bậc Bồ Tát Thượng địa, từ Sơ địa trở lên đến Thập địa. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Bất động tam muội: Bất động Tam muội (不動三昧) có nghĩa là: Trạng thái định lực kiên cố, bất động trước mọi cảnh duyên, thuận cũng không sinh tham, nghịch cũng không sinh sân, tâm hoàn toàn bình đẳng vô ngã.
Kinh Duy Ma Cật (維摩詰經): Bồ Tát trú bất động tam muội thì thông đạt chân như, bình đẳng pháp giới, không lay chuyển trước các pháp. HT Tuyên Hóa giảng:
“Bất động tam muội là định lực không dao động bởi tám gió (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc). Đây là căn bản của Bồ Tát đạo, vì nếu tâm không định, sẽ không thể thực hành Bồ Tát hạnh.” (宣化上人, 1998a).
+ "Như như bất động tâm quân thái, (như như bất động tâm thư thái)".
Như như bất động tức là không pháp nào mà không như như. Tất cả pháp đều là như pháp. Mọi phiền não, chướng ngại đều không có. Như như bất động cũng là định lực. Tâm quân thái nghĩa là tâm luôn luôn thư thái an nhiên.
Kinh Pháp Hoa nói :"Kỳ tâm thái nhiên (tâm thư thái an nhiên này)". (Nguồn tại: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chữ ái: Tham ái, Dục vọng. Ái = dính mắc vào đối tượng "sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp", Dục "ăn ngon, hưởng thụ, lời khen, tình dục...". Ái và Quyền lực song hành, Ái tăng trưởng "Ái quyền, ái danh, ái lợi, ái tình ...." khi Quyền lực lên cao => Ngã mạn và tham dục tăng mạnh => Đức hạnh suy đồi. Vậy nên, muốn trói buộc một người nào đó thì thỏa mãn nhu cầu của người đó. Đó là kích thích “Ái” trong chuỗi 12 nhân duyên. Muốn phá đạo hạnh của một người nào đó, thì cho hắn ta chút quyền lực. Ai cũng muốn bành trướng thế lực vì bị con ma “Ái” che mờ trí tuệ. Cho nên nói vô minh còn có thể chữa khỏi, nhưng Ái thì chỉ như con ruồi chết vì mật. “Nếu không phá vô minh, ái dục, ngã mạn, tà kiến, thì dù có tu ngàn kiếp cũng chỉ xây lâu đài trên cát, gặp sóng liền đổ sập.” (HT Tuyên Hóa, Vấn Đáp Phật Pháp, 1994)
+ Chân Ái: ... Cứu vớt địa cầu - Tiến sĩ người Anh Toynbee (Arnold J. Toynbee) nói, cần có hai yếu tố là học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc và Phật pháp đại thừa mới có thể cứu vớt địa cầu.
Trong học thuyết Khổng Mạnh thì Ái chủ yếu là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, còn trong Phật pháp đại thừa thì chính là sự chân thành, đức từ bi, thực hiện Tịnh Nghiệp Tam Phước, Ngũ Giới, Thập Thiện, Lục Hòa, Lục Độ bao nhiêu đó cũng đã đủ,.....
.... Ái, xuất phát từ tâm, lấy sự cảm thọ chân tâm làm nghĩa. Sự cảm thọ chân thành chính là ái (tình yêu thương). ... Ái chính là thực hiện viên mãn thập thiện nghiệp đạo, đệ tử quy, ... Ái chính là chân tâm, chân tánh, chân như, pháp tánh.
Ái chính là bổn tánh, bổn thiện, thuần tịnh, thuần thiện. Ái chính là chân lý, chân đế, sinh mệnh, vĩnh hằng. Ái chính là thần thánh, thượng đế, chân chủ, thánh linh. Ái (Tình yêu thương) sinh thành và dưỡng dục nên vạn vật trong vũ trụ, không một thứ gì không được sinh ra và lớn lên từ lòng yêu thương. Ái là căn nguyên của vạn phước, vạn năng, vạn đức. .....
Tam tai là quả, tam độc là nhân. Thủy tai là quả, tham dục là nhân. Hỏa tai là quả, sân hoạn là nhân. Phong tai là quả, ngu si là nhân. Địa chấn là quả, ngạo mạn là nhân. Cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si Tâm bình khí hóa, tai nạn tự tức ... tự nhiên sẽ không khởi tam tai chư nạn. (Nguồn: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú - PS Tịnh Không)
+ Ái nhiễm ô - Gốc luân hồi tái sanh: ... 8/ Thọ duyên Ái (vedana-paccaya Tanha): Ái là tham lam, ham muốn, khao khát, tâm mong cầu. Là sự thể hiện của tâm Tham qua 6 cửa : Sắc ái, Thinh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái. Chúng ta muốn nhìn thấy màu sắc, hình ảnh đẹp mắt, muốn nghe những âm thanh êm dịu, muốn ngửi những mùi hương nông nàn, muốn ăn những món ngon béo, muốn sờ đụng những vật mịn màng, muốn hay biết những điều thú vị. tham đắm các dục lạc thế gian ... Theo quan điểm triết học Ái có 2 loại :
a- Hữu Ái (bhava tanha) : sự ham muốn hiện hữu (désir ardent pour l’existence). Hữu ái được phân chia làm 3 loại nữa :
- Dục ái (kamatanha) tham đắm các dục lạc thế gian
- Sắc ái (rupatanha) : tham đắm trong cõi sắc giới
- Vô sắc ái (arupatanha) : tham đắm trong cõi vô sắc giới
b- Phi hữu ái (vibhavatanha), hay đoạn ái : ham muốn không hiện hữu
Trong định luật duyên khởi, đây là cái khâu (II) quan trọng nhất để thoát khỏi vòng luân hồi. .....
* Khi ta cảm nhận một cảm giác vui thích hoặc khoái lạc tức khắc Ái sẽ sanh lên. Đó là một thói quen tập nhiễm lâu đời, Ái là tâm tham. Chúng ta muốn 6 trần phải êm ái, dễ chịu theo ý thích của mình và càng ngày càng có nhiều hơn nữa.
* Khi ta cảm nhận một cảm giác đau đớn, khổ sở (Thọ khổ, Thọ ưu) tức khắc Vô Ái (không thích) sẽ sanh lên. Vô Ái là sự bực bội, bức rức, bất bình, chối bỏ, tức giận đó là tâm Sân. Hoặc một loại Ái khác sanh lên là muốn đừng đau đớn khổ sở nữa. Như vậy ta thấy rõ ràng là THỌ duyên cho ÁI. [Chỉ có thiền Tứ Niệm Xứ mới giúp ta làm được việc nầy, .....]. Nói tóm lại :
- Bản chất của Ái : là tâm tham hợp với các sở hữu thuộc tham và những sở hữu khác.
- Thể hiện : sự ham muốn qua 6 cửa
- Kết quả : nghiệp bất thiện nuôi dưỡng sự luân hồi
- Nguyên nhân : do THỌ . (Nguồn: Bàn về Thuyết Nhân Duyên của Tuệ thiện Nguyễn Tối Thiện)
+ Tam tai: Nhân gì Phát Sanh Tam Tai?
(i)- Đại tam tai là ba tai ách lớn về lửa, nước và gió. (ii)- Tiểu tam tai là ba tai ách nhỏ về đao binh, mất mùa và bệnh dịch. Đó cũng tức là tai kiếp. Trong một đại kiếp có bốn trung kiếp gồm: thành, trụ, hoại, và không. Mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên nhân phát sanh đại tam tai.
Bởi con người có tâm tham mới phát sanh ra hỏa tai; con người có tâm sân hận mới sanh ra thủy tai; con người có tâm ngu si mới sanh ra phong tai. Cho nên tam tai đều là do tam độc mà sanh khởi. Trong tâm chúng ta, ai ai cũng có đầy đủ cả ba độc. ....
Tam tai phát sanh cũng có thứ lớp, bởi con người có thất tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tức là vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn. Bảy loại tình cảm nầy dần dần phát triển rộng ra. Và mỗi một loại tình sẽ phát sanh một lần tai nạn, cho nên mới hình thành bảy lần hỏa tai. Sau bảy lần hỏa tai thì sẽ phát sanh một lần thủy tai. Trong bảy tình, mỗi một tình lại chia ra làm bảy, cho nên mỗi cái “thất hỏa nhất thủy” nầy sẽ theo thứ tự mà lập đi lập lại bảy lần. Rồi lại trải qua bảy lần hỏa tai. Đến lúc sau cùng phong tai phát sanh và hủy diệt toàn cả thế giới.
Khi hỏa tai phát sanh, nó có thể thiêu đốt đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới, tức gồm cõi: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên.
Lúc thủy tai phát sanh thì có thể ngập đến tầng trời Nhị thiền của Sắc giới, .....
Khi phong tai phát sanh thì có thể thổi đến các tầng trời Tam thiền của Sắc giới, ....
Phong tai từ đâu tới? Nó đến từ sự tổng kết của bảy thứ tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phong tai thì tượng trưng cho si độc. Khi con người đã lâm vào tình cảnh ngu si, thời cái gì cũng quên sạch nhẵn. Do đó đại phong phát khởi, rồi từ trên trời Tam Thiền đến dưới tận địa ngục, cái chi cũng không còn, tất cả đều bị quét sạch. Dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, nhưng nội viện cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của Phật và Bồ Tát. Hiện nay, Bồ Tát Di Lặc đang ngự tại nội viện trên cung trời Đâu Suất, chờ đến khi trụ kiếp thứ mười trong thời kỳ Hiền Kiếp, Ngài mới giáng lâm thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh (hiện tại đang là Giảm Kiếp của Trụ Kiếp thứ chín).
Tham sân si hình thành biết bao loại ác khí, giống như nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng bom nguyên tử do tự chúng ta phát sanh từ lửa tam muội lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử nầy không phải đến từ bên ngoài, mà nó vốn đã có sẵn trong tự tánh. Chân hỏa tam muội trong tự tánh chúng ta vốn thuần là dương, nhưng vì bị ta lạm dụng nên nó biến thành lửa dục.
Trong thân người có tam tiêu hỏa là: thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa nầy có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả. Bởi bên trong có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm nầy.
Trong tâm có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh, bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy. Giảng ngày 29 / 7 /1985 (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị 6)
+ Lửa tự tánh - Lửa nóng giận: ... Chẳng hạn, một người có tánh rất nóng, một khi ngọn lửa tự tánh của người ấy bộc phát mạnh thì thực chất của anh ta dễ dàng biến thành than ngay. Lửa của tự tánh rất mạnh, nó có sức nóng thật khủng khiếp, và như vậy, thực chất cũng dễ bị đốt cháy. Con người bao gồm các yếu tố kim loại, gỗ, nước, lửa và đất, nếu họ thường xuyên tiếp xúc và dốc hết tâm ý vào một yếu tố nào thì họ sẽ biến thành yếu tố đó. Điều đó xảy ra là do tư tưởng cố chấp tham trước... (Nguồn: Kinh Thủ LN 7- HT Tuyên Hóa)
+ Ái sinh thủ trong 12 nhân duyên: “Muốn trói buộc một người nào đó thì thỏa mãn nhu cầu của người đó. Đó là kích thích “Ái” - Mắt xích chủ đạo trong chuỗi 12 nhân duyên (Ái = dính mắc vào đối tượng "sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp"). Muốn phá đạo hạnh của một người nào đó, thì cho hắn ta chút quyền lực. Ai cũng muốn bành trướng thế lực vì bị con ma “Ái” che mờ trí tuệ. Cho nên nói vô minh còn có thể chữa khỏi, nhưng Ái thì chỉ như con ruồi chết vì mật. => Trói buộc trong luân hồi. Muốn phá ái, phải: Quán vô thường – khổ – không – vô ngã. Quán bất tịnh. Hành bố thí xả ly. (HT Tuyên Hóa, Vấn Đáp Phật Pháp, 1994)
+ Tham dục [Tham ái và Dục vọng]: Chánh kinh: Một là tham dục; hai là nóng giận; ba là hôn trầm say ngủ; bốn là lao chao, hối hận; năm là ngờ vực. Năm thứ cái chướng này phải nên trừ dứt
“Cái” là che đậy. “Chướng” là chướng ngại. Nói cách khác, năm thứ trên che đậy cái tâm thanh tịnh của chúng ta, khiến tâm thanh tịnh chẳng thể hiện tiền, hoàn toàn bị chướng ngại, chứ nào phải chẳng có tâm thanh tịnh. Do vậy, nhất định phải trừ khử năm thứ này. Tiếp theo đây, chúng ta bàn về từng thứ.
Thứ nhất là tham dục. [Khi nói] Tham thì đại đa số là nói về thuận cảnh. Con người gặp lúc vừa lòng xứng ý, chẳng cần biết là hoàn cảnh tinh thần hay hoàn cảnh vật chất, cứ hễ cái gì thuận theo ý mình bèn khởi tâm tham ái. Dục là dục vọng; nhà Phật gọi là Ngũ Dục, thế gian gọi là Thất Tình. Thất Tình Ngũ Dục người đời có ai chẳng tham ái hay chăng? Bởi tham ái Thất Tình Ngũ Dục nên chẳng thể thoát khỏi luân hồi, học Phật cũng chẳng thể thành tựu, học Thiền cũng chẳng thể “đắc Định”, niệm Phật thì hãy khoan nói đến “nhất tâm bất loạn”, dù chỉ “công phu thành phiến” cũng vẫn chẳng thể thành công, học Giáo chẳng thể “khai ngộ”, nguyên nhân chỉ vì chẳng thể buông Ngũ Dục Thất Tình xuống được. (Nguồn: Phật thuyết thanh tinh tâm kinh-PS Tịnh Không giảng)
+ Tham lam và Vô minh: Tâm bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát. Tâm bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập. => Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Lời Phật dậy: Hỏi: Nếu con người không “tham” thì xã hội làm sao tiến bộ? Không “si” thì làm sao có hằng tâm2? Không “sân” thì làm sao có sức bi phẫn?
Ðáp: Bạn đừng lầm lẫn nhé! Chấn-tác có nghĩa là làm cho tốt hơn, chứ không phải là tham lam. Ðó là sự nỗ lực làm việc mà chẳng có chút vọng tham, vọng cầu. Si là gì? Si tức là làm những việc ngu si như cờ bạc, chơi xổ số, đánh lô-tô, v.v… Sân tức là nổi giận. Tất cả đều là những hành vi ngu si. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp)
+ Tham Lam: Theo Phật pháp, tham là sự đắm say, sự ham muốn, sự đam mê một điều gì đó. Cốt lõi của lòng tham nằm ở 5 nhu cầu của con người: Tài (tài sản), sắc (sắc đẹp, hình thức bên ngoài), danh (danh thơm, tiếng tốt), thực (ăn uống), thùy (ngủ nghỉ). Khi ham muốn về 1 trong thứ này dâng lên cao hơn mức bình thường, con người sẽ nảy sinh lòng tham và được hiển hiện với những hành động, lời nói của mình.
- Phật nói: “Lòng tham càng lớn, phúc đức lại càng tiêu tán”. Vì sao? Tham thường đi liền với ác. Người tham muốn đoạt được thứ mình muốn, lại sinh làm điều ác để thỏa mãn cho mình. Những dẫn dụ về lòng tham luôn đầy rẫy trong cuộc sống hằng ngày:
Người vì lòng tham mà cố gắng gầy dựng sự nghiệp, khi có của ăn của để rồi lại ưu tư lo nghĩ sợ trộm cắp.
Người giàu sang có tiền của bo bo giữ gìn, sống ích kỷ với kẻ ăn người làm, tằn tiện bố thí, khi bị mất của thì đám ngực khóc than, mất ăn mất ngủ. Lại có người giàu có bạc vạn mà chỉ chăm chút để dành, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc.
Quan lại, người có chức tước vì lòng tham mà bớt xén của công, ăn của hối lộ, bóc lột sức lao động người khác.
Người vì lòng tham mà lao vào cờ bạc, cá độ, lô đề, dẫn đến tán gia bại sản. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tham lam - Theo Minh triết mới: Điều này có liên quan đến tội hám lợi, mà theo nghĩa đen là ăn cắp trên cõi hạ trí. Tội tham lam có thể đưa tới bất kỳ tội lỗi nào trên cõi trần và rất mạnh mẽ. Nó liên quan tới trí lực (mental force) và là một thuật ngữ phổ cập bao hàm các ước muốn mãnh liệt mà vị trí của chúng không những ở nơi thể cảm dục mà còn ở trong thể hạ trí nữa. Thánh Paul đã đưa ra giới không tham lam khi nói rằng: “Trong bất cứ tình huống nào, ta vẫn học cách toại nguyện (content)”. Cần phải đạt được trạng thái đó trước khi thể trí được tịch lặng đến mức mà mọi sự việc của linh hồn có thể thấu nhập được.(ASCLH, 186)
+ Tham lam: Yama (hay năm giới răn: Không gây tổn hại, chân thật với cả chúng sinh, không trộm cắp, không buông lung tình dục và không tham vọng) là bổn phận chung của mọi người, dù họ thuộc giống dân nào, đang ở đâu, vào thời gian hay tình trạng khẩn trương thế nào. Khi hoàn toàn không tham lam, hành giả thấu hiểu luật tái sinh (Tài liệu MF-QU1- 100.3)
1. THAM LAM - ĐỐI TRỊ= GIỮ GIỚI TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ:
+ “Tham” là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu.
+ Đối trị: Nếu có tâm tham thời phải “tu tâm” ngay, phải tập tính “thiểu dục tri túc”. Thiểu dục là muốn ít, tri túc là biết đủ. Người thiểu dục, tri túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn vì biết đủ với những thứ mình đã có. Bỏ dần lòng tham đi để đạt tới được “vô tham”. Vô tham là không tham lam.
+ Đức Phật dạy rất thực tế: “Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn”
Lòng tham của con người giống như cái túi không có đáy, cái túi không có đáy thì dù có đựng bao nhiêu vàng bạc của quý cũng không thể nào đầy được. Cũng vậy, lòng tham của con người thì vô độ nên không có điểm dừng, không có giới hạn, mà lại vô hạn…
Tham lam không phải bản chất của con người, Phật dạy rằng, bất kể ai sinh ra đều như tờ giấy trắng, đều có trái tim thuần hậu và thiện lương. Nỗi tham lớn dần lên theo năm tháng, theo những điều mà con người muốn sở hữu và đang sở hữu. Càng có nhiều càng tham nhiều, càng mong nhiều lại càng tham nữa.
Dục vọng không bao giờ dừng lại, lòng tham tạo nên dục vọng và dục vọng phóng đại lòng tham. Nếu không biết tiết chế, kìm nén lòng tham thì chắc chắn con người sẽ rơi vào tai họa. Vì như Phật đã nói, lòng tham nổi lên, phúc đức tiêu tán. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Buông bỏ Lửa tham: "Này người Bà-la-môn, tại sao lại phải buông bỏ, gạt đi và tránh xa ngọn lửa tham lam? Nếu tâm thức bị ám ảnh bởi tham lam, khống chế bởi tham lam, say đắm bởi tham lam, thì sẽ là cách bước vào con đường đưa đến các "hành động" thân xác tai hại, các "hành động" ngôn từ tai hại, các "hành động" tâm thần tai hại. Vì thế khi cái chết xảy đến, thân xác tan rã, thì sẽ tái sinh trong cõi địa ngục, gánh chịu phần số bất hạnh, lâm vào cảnh khốn cùng nơi địa ngục. (Nguồn: 11 Loại Lửa - Kinh về Lửa)
+ Mời xem: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si
+ Mời xem: PS Tịnh Không Giảng Tham - Sân - Si Và Ái dục)
+ Xem thêm: HT Tuyên Hóa khai thị về Ái Dục
+ Xem tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
+ Chấp Ngã là gốc Kiêu mạn: “Người tu nếu không buông bỏ ngã chấp, thì càng tu càng tăng ngã mạn. Ngã mạn là cội rễ của sanh tử luân hồi, là chướng ngại lớn nhất của Chánh Pháp.” Ngài ví dụ: “Nếu trong tâm có ngã mạn, tu phước cũng thành phước ngã mạn, tu định cũng thành định ngã mạn, học pháp cũng thành pháp ngã mạn. Đó là căn bản khiến người tu rơi vào tà kiến, ma đạo.”
“Cây 3 chỉa: tín – nguyện – hành phá Ngã mạn”: Trong Tịnh Độ tông, tín – nguyện – hành là ba gốc rễ vững chắc (Tam Tư Lương), cũng giống cây 3 chỉa xới gốc, đào bỏ rễ ngã mạn tà kiến, giúp ánh sáng Chánh Pháp soi rọi trở lại. (Tổng hợp HT Tuyên Hóa, Vấn Đáp Phật Pháp, 1994)
- “Có người nói: ‘Con tu giỏi, con có thần thông, con tụng được vạn biến chú.’ Đó là tự hại mình. Người tu chân chính, càng tu càng thấy mình ngu si, càng học càng thấy chưa đủ. Ngã mạn là thuốc độc giết đạo tâm, là rào chắn chánh pháp, là mầm mống ma sự.” (HT Tuyên Hóa, Kinh Lăng Nghiêm giảng ký, 1975)
+ 4- KIÊU MẠN - KIÊU CĂNG CỐNG CAO - NGẠO MẠN CÓ GỐC LÀ DO CHẤP NGÃ:
+ Họ tự cho mình thông minh, khôn ngoan hơn người nên họ kiêu mạn - Là TỰ TÔN và do đó họ tự cao (cao ngạo), tự đại, tự kiêu (kiêu ngạo, kiêu mạn - kiêu căng ngạo mạn), khinh mạn (khinh khi người thấp hèn hơn mình), ganh ghét, đố kị, hiếu thắng hay thành tựu hơn người. Khổng tử nói, hạng người này không cần nhắc đến, là giả, không phải thật, hoàn toàn là giả. Chúng ta cần tự phản tỉnh, tôi có tâm tự đại - đố kỵ - hiếu thắng hay muốn thành tựu chăng? Nếu có những ý niệm này thì không phải quân tử, nhà Nho gọi là tiểu nhân. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ 321. KHÔNG CỐNG CAO Ta còn nhớ khi xưa, lúc Ta ... chứng đắc được Sơ thiền, thành tựu và an trụ. Ta nghĩ rằng: ‘Phàm phu ngu si không đa văn, tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh, nhưng thấy người tật bệnh thì ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, mà không tự quán sát mình’. Rồi Ta lại nghĩ: ‘Ta tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh. Nếu Ta thấy người tật bệnh mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, Ta không nên như vậy, vì Ta cũng có trường hợp này’. Quán sát như vậy rồi thì tâm cống cao phát khởi do không có tật bệnh liền tự tiêu diệt. (Nguồn mục 321- Trung A Hàm, Kinh Nhu Nhuyến, Phẩm 11, số 117)
+ Kiêu mạn - Sở chi chướng:
- Phiền não chướng sinh khởi do chấp ngã. Khi chấp ngã, sẽ làm sinh khởi nên phiền não chướng. Bất luận điều gì xảy ra, quý vị đều không thể nào nhìn được thông suốt về nó cả, quý vị chẳng phóng xả sự việc đó được, vì thế nên quý vị bị vướng mắc với chúng. Và một khi sự vướng mắc sinh khởi, thì phiền não chướng theo sau liền. Đó là phiền não chướng.
- Sở tri chướng sinh khởi do chấp pháp. Về sở tri chướng, nếu quý vị nghĩ: “Tôi biết rất nhiều” thì đó là một chướng ngại. Chẳng phải là người ta càng học thì hiểu biết càng gia tăng đâu, mà trái lại họ càng học nhiều thì họ lại càng bị chướng ngại bởi những gì họ biết. Vì sao mà kiến thức là chướng ngại? Vì nó làm cho người ta kiêu ngạo và thường nghĩ: “Quý vị nhìn tôi xem. Tôi biết mọi thứ mà không ai trong các ông biết được. Tôi vượt xa các ông. Tôi chẳng thể nào so sánh với các ông được. Các ông đều là kẻ ngu đần. Nhưng còn tôi, tại sao sở học của tôi lại có một không hai trên thế gian này, đời này thật là hiếm có.” Ngay khi tâm kiêu mạn này trổi dậy thì đó chính là sở tri chướng.....
* Phiền não là ma quỷ, quý vị có thể tìm thấy yêu tinh ma quỷ nơi đâu? Nói đơn giản, hễ có phiền não là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại, kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn)
+ Trừ Tâm Ngã mạn: Này các Tỳ Kheo, ai trừ tâm ngã mạn, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho không còn hiện hữu lại, người ấy là bậc thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không còn bất cứ một hệ luỵ nào. Do đó, dứt trừ tâm ngã mạn là việc khó làm_ Đức Phật dậy.
+ 39. Kiêu Mạn - Có ba: Kiêu mạn của tuổi trẻ, Kiêu mạn của không bệnh, Kiêu mạn của sự sống.
Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. ... sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Say sưa trong Kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân...., về ý . .... sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Say sưa trong Kiêu mạn của sự sống, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. .... sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục..... (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương ba pháp)
+ Người kiêu mạn rễ chết uổng: Thế nào là bức ngặt, và không bức ngặt ? Như người phàm ngã-mạn tự cao cho rằng không ai hại được mình, bèn ở chung với rắn cọp độc trùng, nên biết người nầy sẽ bị hoạnh tử. Đây là bức ngặt. Trong chơn giải thoát không có việc như vậy. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết Bàn - Chương 7)
+ Chướng ngại: Có hai loại Phiền Lão chướng và Sở chi chướng
+ Phiền não chướng sinh khởi do chấp ngã. Khi chấp ngã, sẽ làm sinh khởi nên phiền não chướng.
* Phiền não là ma quỷ: ... Hễ có phiền não là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại, kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu.
+ Sở tri chướng sinh khởi do chấp pháp. Về sở tri chướng, nếu quý vị nghĩ: “Tôi biết rất nhiều” thì đó là một chướng ngại. Ngay khi tâm kiêu mạn này trổi dậy thì đó chính là sở tri chướng. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn)
+ Chướng ngại không thấy Đạo: Chỉ cần Bạn có 1 trong 6 thứ sau thì bạn chẳng thể thấy đạo, đừng nói là chứng đạo, thấy cũng thấy không được: ‘Tham, sân, si, mạn, nghi’, sau đó là ‘ác kiến’, tức là ‘thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến’, hợp lại gọi là ác kiến, 6 phiền não căn bản là chướng ngại lớn nhất (Nguồn)
* Kiêu mạn (Kiêu hãnh - Ngã mạn hay Kiêu căng - Ngạo mạn): Tự cao - Tự Đại - Tự tôn - Tự mãn - Tự phụ
+ Ba chướng: Thứ tư là luận bàn về dụng.
"Lực dụng khu trừ tam trược, (dùng lực dẹp trừ ba chướng trược".
Dùng lực gì ? Ðể làm gì ? Dùng tâm kinh bát nhã ba la mật đa để làm chi ?
Tức là dùng lực dụng của kinh này để phá trừ ba chướng.
Một là báo chướng. Hai là nghiệp chướng. Ba là phiền não chướng. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chướng ngại: Tổng kết những điều vừa nói trên, đức Phật nói năm thứ chướng ngại:
a) Thứ nhất, tham dục chướng ngại sự bố thí, trì giới đại viên mãn của tự tánh. Do có tâm tham dục, nhất định chẳng có tâm bố thí; có ba độc Tham - Sân - Si, tâm địa chẳng thanh tịnh. Tâm chẳng thể thanh tịnh thì còn nói gì đến trì giới nữa đây?
b) Thứ hai, Sân Khuể chướng ngại từ bi, nhẫn nhục đại viên mãn nơi tự tánh.
c) Thứ ba, ngủ nghê chướng ngại tinh tấn đại viên mãn nơi tự tánh.
d) Thứ tư, Trạo Hối chướng ngại thiền định đại viên mãn của tự tánh.
e) Thứ năm, Nghi chướng ngại trí huệ đại viên mãn của tự tánh.
Chúng ta muốn viên mãn sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi đầu từ chỗ này. Ngoài ra, còn có bảy điều chúng ta phải tu tập. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh _ PS Tịnh Không giảng)
+ Chướng Ngại - Là Thói quen, tập khí nhiều kiếp trước = > Có thể thay đổi:
Hỏi : Rinpoche nói rằng phạm các giới khinh là do nơi nghiệp của các đời trước. Rinpoche có thể vui lòng cho các thí dụ về việc phạm các giới trung tội và trọng tội, và có phải chăng chúng cũng đều do nghiệp của các đời trước ?
Rinpoche: Có hai điều cần phải lìa xa: các nghiệp ác và các chướng nạn. Nếu các nghiệp thân, khẩu, và ý của chúng ta làm hại các hữu tình khác, dù trực tiếp hay gián tiếp, các nghiệp này là các nghiệp ác bất thiện. Các nghiệp này chẳng có liên quan gì với karma đời trước hay tập khí đời trước, mà đúng hơn chúng có liên hệ với các ý muốn hiện tại. Khởi lên một ý muốn sát hay trộm là chỉ tùy theo chính mình và chúng ta có công năng để ngưng mình lại không cho làm các hành động ấy.
Các chướng ngại, vốn thuộc về tâm, cũng không hề do nơi karma, mà do nơi các thói quen của chúng ta. Từ vô thủy đến nay, tất cả chúng ta quen thói các phiền não tham, sân, và si. Có người thì tham mạnh, có người sân mạnh, và có người thì si mạnh, tùy theo họ quen thói các phiền não ấy nhiều ít thế nào. Các thói quen này cần phải được lìa bỏ. Có hai chữ mà hầu như là đồng nghĩa với nhau trong Tạng ngữ. Đó là chữ gom (viết theo Tạng ngữ là sgom) có nghĩa là tu tập hay thiền định, và chữ khom (viết là goms) có nghĩa là các thói quen tập khí. Khi chúng ta tu tập hết sức tinh cần và sự tu tập của chúng ta có lực, thì đó là gom, tức thiền định. Khi chúng ta không hết lòng tu tập, không ra sức tu tập, thì nó trở thành khom, tức chỉ là một thói quen. Vì thế để lìa xa các chướng ngại, chúng ta phải thay thế khom bằng gom.
Về ba cấp độ phạm giới thì phạm giới khinh đôi khi chưa chín thành ác nghiệp nhưng sau đó có thể trở thành chủng tử của ác nghiệp. Chẳng hạn, vài vị tu sĩ không mặc y dưới, sham thab cho đàng hoàng. Vào lúc ấy, nó không phải là một ác nghiệp, nhưng nó có thể từ từ chín dần thành một ác nghiệp thực sự.
+ Hỏi Chướng ngại "Bí mật": ... Nhiều dịch giả đã dịch chữ sang của Tạng ngữ là "bí mật" thế nên vajrayana được dịch là "mantrayana bí mật". Nhưng dịch thế không được đúng lắm...... (Nguồn: Xem tại đây)
+ Sở di chướng là gì? Chúng ta dùng lời hiện nay mà nói là kiến giải, tức là bạn có tri, có kiến. Nói rõ thêm một chút tức là bạn có tư tưởng, bạn có kiến giải. Có những thứ này rất phiền phức. Đã có những thứ này khiến cho trí huệ, bát nhã vốn có trong tự tánh của bạn bị chướng ngại. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói tất cả chúng sanh đều có Như Lai Trí Huệ đức tướng, đức tướng tức là đại Niết Bàn. Không sanh, không diệt là đức tướng. Nếu chúng ta có tư tưởng, có kiến giải thì hư rồi.... Biến thành cái gì? Biến thành tà tri, tà kiến. Tư tưởng và kiến giải hoàn toàn không tương ứng với chân tướng sự thật, đã biến thành sai lệch như vậy. Là bởi vì có thị phi nhân ngã, có tham, sân, si, mạng khiến cho đức tướng biến thành sanh tử luân hồi, biến thành chúng sanh tướng của thập pháp giới. Nếu Đức Thế Tôn không ra đời thì ai biết được chân tướng sự thật này. .. Ngài vì chúng ta nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Sau khi chúng ta nghe rồi thì quả nhiên đại ngộ. .. Làm thế nào để khôi phục trí huệ đức tướng viên mãn của chúng ta? .. Hạnh Phổ Hiền là hành Pháp cứu cánh viên mãn...... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối)
+ Chướng ngại - Thử thách trong tu hành:
Nay tôi muốn nói với quý vị về một vấn đề rất kỳ lạ—trong nhiều gia đình, mặc dù con cái có khuynh hướng học đòi, bắt chước những điều không tốt, nhưng các bậc làm cha mẹ lại chẳng hề lo âu ngăn cản; họ cho rằng: "Không sao! Ðể chúng được tự do, tùy ý chúng!"
Thoạt nhìn thì thấy các bậc cha mẹ ấy chẳng có gì gọi là khắt khe cả, đối đãi với con cái dường như rất cảm thông, dễ dãi. Ðợi đến khi con cái họ muốn học điều tốt, vừa muốn học Phật Pháp, thì họ lại đùng đùng nổi giận, la mắng con cái rằng thế này là không đúng, thế kia là không phải... Trước kia, lúc con cái họ dùng ma-túy, uống rượu (rượu mê hồn), hút cần sa, con người lúc nào cũng lừ đừ dã dượi, yếu ớt bạc nhược, thì họ đều có thể "nhìn mà không thấy," cứ nghĩ rằng để từ từ chờ cơ hội, từ từ rồi con cái mình sẽ biết theo điều tốt. Song le, đến khi con cái của họ biết tu tỉnh, biết theo điều hay lẽ phải rồi, thì họ lại nổi nóng, trách mắng: "Các cô các cậu muốn học làm điều tốt chứ gì? Vậy thì phải biết ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ. Bây giờ tao phải mắng chúng mày, đánh chúng mày một trận nên thân mới được!"
Quý vị nói xem, phen này có phải là sẽ có chuyện phiền phức xảy ra không? Ðó chẳng qua là để thử thách quý vị - Những kẻ làm con - Là khảo nghiệm quý vị, xem rốt ráo quý vị có phải là chân thật muốn học điều tốt hay không mà thôi! Nếu quý vị chân thật muốn học làm người tốt thì càng bị mắng quý vị càng phải vui mừng, càng bị đòn quý vị càng phải hoan hỷ, và nhớ đừng khóc lóc than van. Các bậc cha mẹ ấy thấy quý vị tươi cười hoan hỷ, thì bao nhiêu hờn giận phiền muộn trong lòng đều tiêu tan cả; còn nếu quý vị không làm được như vậy, thì phiền não của quý vị sẽ càng gia tăng mà thôi.
Quý vị cần phải thấy được rằng hết thảy mọi việc đều là thử thách, đều là để khảo nghiệm bản thân mình, xem mình rốt cuộc có áp dụng được những kiến thức Phật Pháp đã học hay không—có thực hành hạnh nhẫn nhục, có trì giới, có bố thí, có tinh tấn, có thiền định, có trí huệ Bát Nhã hay không. Tất cả đều là thử thách—nếu đạt yêu cầu, vượt qua được thử thách, thì sẽ được lợi ích vô cùng; nếu không vượt qua được, thì lại phải cần cù học thêm nữa.
Phải nhớ rằng: "Ma Ha Tát, chẳng biết người khác, Di Ðà Phật, thân ai nấy lo!"
Vậy, quý vị hãy tự kiểm soát chính mình, OK? (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cõi Trời - Kiêu Mạn - Kiêu hãnh và Ngã mạn hay Kiêu căng và Ngạo mạn: Phía trên của vòng Khổ là cõi Trời với đặc điểm là đời sống hoan hỷ đủ đầy với mạng sống kéo dài. Chúng sinh được sinh vào đây do 10 thiện nghiệp, đó là không sát đạo dâm vọng (ác khẩu, hai lưỡi, thêu dệt, nói dối), tham sân si. Tuy nhiên, chư Thiên phải chịu nỗi đau khổ cùng cực khi phúc báo hết, họ phải đối diện với cái chết và sự đọa lạc xuống các cõi thấp. Cõi này được biểu trưng bằng tâm kiêu mạn. Làm việc thiện song thiếu trí tuệ, vẫn chấp vào việc mình làm là nhân dẫn đến tái sinh ở cõi này.(Xem nguồn)
+ Cõi Trời và Chúng sinh: ...Trích đoạn ngài A Nan hỏi Đức Phật trả lời: Những người tu hành không thành được đạo vô thượng bồ-đề, mà chỉ thành thanh văn, duyên giác hoặc thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma…
HT Tuyên Hóa Giảng:
Những người tu hành không thành được đạo Vô thượng bồ-đề.
Ở đây bao gồm tất cả hàng ngoại đạo cũng như hàng Phật tử. Những người khi tu đạo mà mong cầu chứng được điều gì đó, thành tựu điều gì đó. Những gì họ mong cầu là đạt được quả vị Vô thượng bồ-đề. Bồ-đề là sự thành tựu Phật quả. Bồ-tát được gọi là bậc Thượng sĩ, còn Đức Phật được gọi là Vô thượng sĩ và Vô thượng bồ-đề là cảnh giới đã thành tựu quả vị Phật.
Mà chỉ thành Thanh văn, Duyên giác.
Liệu những người tu hành có thể đạt được quả vị nào khác Phật quả? Thanh văn là những người nghe Phật thuyết pháp mà giác ngộ. Họ tu tập pháp Tứ diệu đế. Duyên giác là những người tu tập theo pháp Thập nhị nhân duyên.
Hoặc thành ngoại đạo, chư Thiên, Ma vương và quyến thuộc của ma…
Thế nào nghĩa là ngoại đạo? Từ này rất thường được đề cập trong kinh này. Những ai mà “mong cầu ở ngoài tâm có pháp” thì được xem như ngoại đạo. Thực vậy, những người mà chưa đạt được sự giác ngộ hay chưa chứng được Phật quả có thể nói theo một ý nghĩa khác, là còn ở bên ngoài đạo.
Có rất nhiều cõi trời, cõi trời gần chúng ta nhất là cõi trời Tứ thiên vương.[46] Cõi trời này nằm phía trên núi Tu-di, bao trùm một nửa núi Tu-di, ở bốn phía Đông - Nam - Tây - Bắc. Bốn vị vua cai quản các cõi trời này là Trì Quốc Thiên vương, Tăng Trưởng Thiên vương, Quảng Mục Thiên vương và Đa Văn Thiên vương. Thọ mạng của chư Thiên trong các cõi trời này là năm trăm năm. Thế nên đối với loài người chúng ta, năm mươi năm chỉ bằng một ngày một đêm nơi các cõi trời này.
Phía trên cõi trời Tứ thiên vương là cõi trời Tam thập tam thiên.[47] Thọ mạng của chư Thiên cõi trời này là một nghìn năm. Cõi nhân gian một trăm năm tương đương một ngày một đêm trên cõi trời này. Có tất cả ba mươi ba cõi trời hết thảy, mỗi phương Nam, Bắc, Đông, Tây của núi Tu-di có tám cõi trời – tất cả là ba mươi hai và cõi trời thứ ba mươi ba nằm trên núi Tu-di.
Chủ của cõi trời Tam thập tam thiên nguyên là một phụ nữ. Một hôm bà ta thấy tượng Phật ở trong một ngôi chùa bị dột nát. Bà ta phát tâm lợp lại mái chùa khiến cho mưa không giọt xuống tượng Phật nữa. Bà ta vốn là một người nghèo, nhưng bà khuyến khích ba mươi hai người bạn của bà cùng phát tâm cúng dường lo việc sửa chùa. Do phước đức phát sinh từ hạnh nguyện này khiến cho ba mươi ba người này được sinh vào cõi trời và trở thành thiên chủ của ba mươi ba cõi trời này.
Trong thần chú Thủ-lăng-nghiêm, câu “Nam mô nhân đà ra da.” “Nam mô” nghĩa là quy y, “Nhân đà ra da” nghĩa là thiên chủ của cõi trời Tam thập tam thiên.[48]
Cõi Trời Tứ thiên vương và cõi trời Tam thập tam thiên vương là hai cõi trời đầu tiên ở Lục dục thiên. Các cõi trời còn lại sẽ được giải thích chi tiết ở phần sau.
Ma vương cư ngụ ở Lục dục thiên. ở đó không chỉ có Ma vương mà toàn bộ ma dân cũng cư ngụ ở đó gồm: ma nữ, ma con, ma cháu và rất nhiều quyến thuộc. Ma quỷ cũng có quyến thuộc, con cháu, đồ đệ. Nó làm bá chủ một cõi trời, lập thành ma cung. Phần nhiều những người tu theo ngoại đạo đều dẫn đến kết cuộc là sinh trong các cõi này. Bậc thượng thì làm Ma vương, bậc trung thì làm ma dân, bậc hạ thì làm ma nữ. Ma nữ đặc biệt là rất đẹp và rất quyến rũ. Bất lụân quý vị là ai, như A-nan chẳng hạn dù đã chứng được quả vị thứ nhất của hàng a-la-hán, mà cũng không có đủ định lực để làm chủ mình khi nhìn thấy một ma nữ, nên A-nan đã gần như muốn thử bất cứ món gì. Ma nữ rất có quyền lực. Quý vị là những người tu đạo nên hết sức cẩn trọng đừng để loài ma này quyến rũ mình.
Điều đó có ý nghĩa như thế nào?
Nếu quý vị không có đủ định lực thì quý vị sẽ không thể duy trì được sự an định, khi gặp tình huống này sẽ bị ma xoay chuyển và quý vị sẽ thấy mình bị kéo lê lết theo sau một con ma nữ rồi rơi xuống hố ma.
Nếu tôi nói nhiều ma vương sẽ than phiền: “Ngài nói nhiều quá và cứ phơi bày xấu xa của chúng tôi.”. Thế nên tôi xin dừng. Nói chung là hãy nên thận trọng, hãy phát huy định lực tối cao, lúc ấy chẳng có gì để sợ hãi. Đây là sự thử nghiệm tuyệt duyệt nhất mà tôi xin ban tặng cho quý vị.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Lăng Nghiêm)
+ Hào quang (Aura): Hào quang của con người có hình dáng bên ngoài là một lùm mây sáng có hình trứng (egg-shaped luminous cloud), ở giữa đám mây là nhục thân (dense physical body). Do cái hình dáng bên ngoài đó mà hào quang thường được nói đến như là không có gì khác hơn là một đám mây. Những gì thường được gọi là hào quang chỉ là những thành phần của các thể tinh anh kéo dài ra và vượt quá chu vi của nhục thân. Mỗi thể tinh anh đó đều còn nguyên vẹn và xuyên thấu qua các thể thô đặc hơn nó. Thể tinh anh này lớn hoặc nhỏ tùy theo mức phát triển của nó, và mọi phần của nó đang phủ lên mặt ngoài của nhục thân được đặt tên là hào quang (aura).
+ Hào quang sức khỏe (Health aura): Có một vùng của thể dĩ thái luôn luôn bao quanh nhưng lại không xuyên thấu vào thể xác trọng trược. Vùng này đôi khi được gọi một cách sai lầm là hào quang sức khỏe và nó có thể được chụp hình một cách dễ dàng và thành công trong lúc diễn ra sự hấp hối hơn là bất cứ lúc nào khác, do bởi việc tích tụ lại (accumulation) của các lực bị rút ra bên ngoài thể xác hữu hình độ vài inches. (CTNM, 466)
+ Hào quang noãn bậc thấp (lower auric egg): Tức là linh hồn thể (causal body). (TVTTHL, 16)
+ Hào quang noãn (Auric egg): Tên gọi để chỉ linh hồn thể do hình dạng của thể này. (ĐĐNLVTD, 216)
+ Hào quang: “Ai cũng có hào quang, nhưng tại sao không chiếu sáng? Vì có quá nhiều vọng tưởng (tham, sân, si, ngã mạn, nghi) như những tấm màn, lớp vải dày che mất ánh sáng trí huệ của mình. Giống như viên minh châu giấu trong áo, không biết nó tồn tại thì không thể dùng nó được. Chỉ khi nào người đó biết và lấy ra dùng thì châu báu mới chiếu sáng. Tu hành cũng vậy, phải phá vọng tưởng, phá cái tôi, mới thấy được tự tánh => Chỉ có qua Thiền định để lau bụi/ Phá màn che thì Hào quang mới tự tỏa sáng” [Tổng hợp từ HT Tuyên Hóa giảng Kinh Pháp Hoa (1970s)]
+ Phân biệt Vầng hào quan: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, giảng về 50 ấm Ma thì Thiên ma, ngoài đạo cũng có vầng hào quang như đức Phật tỏa sáng nơi quanh đầu, chỉ khác biệt là Hào quang của đức Phật thì thanh sạch mát mẻ, mang đến cho người nhìn và trong vùng Hào quang của Ngài có được sự An lạc vô biên nên dù nhìn mãi vẫn an lạc, càng nhìn càng an, nếu còn niệm Phật thì càng niệm Hào quang Phật càng sáng chói rực rỡ vi diệu hơn. Còn Hào quang của Ma thì nóng bức như nhìn vào Mặt trời, khó chịu nên khó nhìn lâu .... vì họ còn Tham Sân Si Mạn Nghi nhất định, nên nếu khi đó ta niệm Phật tinh tấn thì hình ảnh dần mờ đi và biến mất. ĐÂY LÀ SỰ KHÁC BIỆT mà Thánh hiền giảng kinh vẫn nói.
+ Chữ tin - Đức tin - Tín căn: Tín trong "Tín, Giải, Hành, Chứng”: ... Chư Phật mười phương đều từ nơi Tín mà vào đạo. Có lòng tin rồi mới phát tâm học, rồi mới thực hành, sau đó mới có thể chứng quả. Nếu chỉ tin mà không hành thì là tà tín, không phải chánh tín. (Hòa Thượng Tuyên Hóa, Pháp Bảo Đàn Kinh Giảng Nghĩa)
+ Đức Tin: Đạo Phật gọi niềm tin là tín căn, một trong năm căn lành để thực hành đường lối tu tập hướng đến mục tiêu giác ngộ (niềm tin, tinh tấn, ghi nhớ, thiền định, trí tuệ), là một trong bảy tài sản của bậc Thánh: “Niềm tin, giới hạnh, hổ mình, thẹn với người, học rộng, bố thí, trí huệ; đó là bảy thánh tài”....
Đức Phật dậy trong Kinh Hoa Nghiêm “Niềm tin là căn nguyên/ Nguồn của đạo, là mẹ của mọi công đức, nuôi lớn hết thảy thiện pháp, đoạn trừ lưới nghi, đưa người vượt qua dòng nước ái dục, khai thị con đường tối thượng dẫn đến Niết-bàn" (Nguồn: Niềm tin và lòng tự tín)
- Giảng câu "Tin là mẹ đẻ của công đức", ý này rất sâu rất rộng. Chúng ta luôn luôn là qua loa sơ ý xem qua, việc này dường như là rất thông thường. Việc thường hay nói, trẻ nhỏ ba tuổi đều biết thì việc này có gì hiếm lạ đâu? Chúng ta không biết được, then chốt của thành công hay thất bại chính ngay trong đó....chữ Tín trong “Tín-Nguyện-Hạnh” => Cầu nguyện đượi lợi ích. Có tín mà không có nguyện, hạnh thì đều là giả. Đây cũng giống như tòa lầu ba tầng, tin là tầng thứ nhất, nguyện là tầng thứ hai, hạnh là tầng thứ ba.....Phương pháp duy nhất có thể giúp chúng ta đoạn những ô nhiễm này chính là "đọc tụng đại thừa, vì người diễn nói". (Kinh Thập Thiện - Tập 36_PS Tịnh Không)
+ Tin Phật: Trong kinh Nikaya đức Phật dạy " Người nào tin Ta mà không hiểu Ta, tức là phỉ báng Ta"
+ Niềm tin chưa đầy đủ cũng đồng nghĩa với không có niềm tin ... (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN, Q 1)
[Người tin Phật thì phải lạy Phật, cho đến Phật mà không lạy, thì làm sao nói đến lòng tin được? Do đó chúng ta phải lễ lạy tượng Phật. Tượng Phật tuy làm bằng gỗ, vậy chúng ta lạy Ngài có lợi ích gì ? Tượng Phật đó cũng chẳng phải Phật, Phật thì đầy khắp tất cả mọi nơi, chẳng có một nơi nào mà chẳng có pháp thân của Phật ở tại đó. Tượng gỗ chỉ bất quá là một thứ biểu pháp mà thôi, cũng là đại biểu cho Phật. Tr 31-HT Tuyên Hóa giảng Kinh Pháp Hoa]
+ Tin ở mình: Kinh Niết-Bàn, đức Phật đã dạy: “Hãy tự xem mình là hải đảo của mình. Hãy tự xem mình là chỗ nương tựa của mình. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác”. Và “các ông phải tự mình nỗ lực (Giác ngộ), các đấng Như Lai chỉ là người thầy dẫn đường”. (Kinh Pháp Cú, 276)
+ Đức tin (Faith): Sức mạnh của đức tin có thể làm khởi động (set in motion) các năng lượng cao siêu (superior energies), các năng lượng này có thể vô hiệu hóa (negate) hay làm cản trở (retard) bệnh tật. Toàn thể chủ đề về đức tin, ý nghĩa thiết yếu và mãnh lực của nó đều ít được hiểu, giống như là Luật Nghiệp Quả. Đây là một chủ đề bao la và tôi không thể quảng diễn thêm nữa. Nhưng tôi đã nói đủ để giúp bạn tài liệu suy đoán. (CTNM, 350)
+ Đức tin chân chính: (Real faith, pistis). Đức tin chân chính tức là pistis của người Hy Lạp, là “đức tin dựa vào tri thức” (“ belief based on knowledge”) dù cho tri thức đó được cung cấp bởi bằng chứng của các giác quan vật chất hay tinh thần. (CKMTTL, 169)
+ Niềm tin chân chính: Ðức Phật dạy, tin là căn bản của sự thành công và là nguồn gốc để phát sinh muôn hạnh lành; nhưng lòng tin của người phật tử không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, bốc đồng, mà không có suy xét, kiểm chứng qua sự thực hành. Ðức Phật đã từng nói: “Ta chỉ là vị thầy dẫn đường giúp cho mọi người đi đến con đường bình yên, hạnh phúc; ta không phải là một vị thần linh hay một đấng tối cao có quyền ban phước, giáng hoạ”.... (Nguồn: Niềm tin chân chính_Thích Đạt Ma Phổ Giác)
+ Đức tin - Lòng tin: "Đức Phật có nói: Rằng chúng ta đừng nên tin vào một điều gì được nói ra chỉ vì nó được nói mà thôi; đừng tin vào các truyền thống vì chúng đã được truyền xuống từ thời xa xưa; đừng tin vào các đồn đãi như thế; cũng không tin vào các câu viết của các vị thánh, vì các thánh đó đã viết ra các câu ấy; cũng đừng tưởng rằng chúng ta có thể nghi ngờ khi được một Thiên Thần gợi hứng nơi chúng ta (nghĩa là, trong những gì được cho là có chứa hứng cảm tâm linh); cũng đừng tin vào các suy đoán được rút ra từ một giả định không cẩn trọng nào đó mà chúng ta có thể đưa ra; cũng như không vì những gì có vẻ như một sự tương đồng tất yếu; cũng không chỉ dựa vào thẩm quyền của các huấn sư hoặc các bậc thầy của chúng ta. Nhưng chúng ta PHẢI TIN khi nào bài viết, lý thuyết hoặc châm ngôn được chứng thực bằng chính lý lẽ và ý thức của chúng ta. Để kết luận, Ngài nói: “Vì lẽ đó, ta khuyên con đừng nên tin chỉ vì con đã nghe, mà hãy nên TIN vào ý thức của con, rồi hãy hành động cho thật phù hợp với điều đã biết”. (Trích: Giáo Lý Bí Nhiệm III, 401")
+ Chữ tín - Chữ tin: Dưới đây là đại khái 6 lối tin về Tịnh độ.
Tin tự: Tin chắc rằng mình có Phật tánh sáng suốt, đủ vô lượng công đức. Nếu mình cố công lo niệm Phật thì quyết có thể chứng ngộ được.
Tin tha: Công nhận rằng lời dạy của Đức Phật Thích Ca không luống dối; Đức Phật A Di Đà luôn luôn nhiếp thọ tùy theo cơ cảm của mình mà ứng.
Tin nhơn: Đinh ninh công hạnh niệm Phật hiện tại của mình có năng lực giải thoát.
Tin quả: Tin chắc ở chín phẩm sen vàng là nơi sẽ về của ta sau này.
Về được đó thì dù hạng nào cũng không thối chuyển.
Tin sự: Xác nhận ngoài cõi Ta-Bà có một cõi Cực-Lạc đúng như lời Phật nói.
Tin lý: Tin tự tâm ta cũng tức là Tịnh-Độ, nếu một khi nó đã được trong sạch.Sự và lý viên dung không tách biệt.
Tóm lại, không tin thì thôi, nếu có tin cần phải tin sâu, tin chắc, và tin rồi phải thực hành.
Hạnh: Là thực hành, phải cho kiên nhẫn và đúng pháp. (Nguồn: Tín nguyện hạnh - HT Thích Thiền Tâm)
- Đọc thêm: Niềm tin chánh đạo của người Phật tử
Chữ Tâm với con người:
+ Các Tâm: ... Thế Tôn nói ... Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh, tại chỗ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân. Nếu không tu hành thì không thể ngộ được bản lai diện mục..... (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Chữ Tâm: Đức Phật nói rằng Tâm bao hàm 2 thứ, chính vì cái tình và cái tưởng đó mà chúng ta mới có thế giới nội tâm. Thế giới nội tâm này là chủ thể và lúc nào nó cũng cần một đối tượng. Chủ thể và đối tượng/ Tâm nhị nguyên này làm cho chúng ta khó mà nhận ra được Chân tâm. Vọng Tâm nhị nguyên tới chỗ Chân Tâm là con đường tu hành của người phật giáo.
+ Tâm Ta: HT Tuyên Hóa trả lời câu hỏi phân biệt Tánh - Thức - Ý và Tâm: Tánh của Tâm ví như đứa trẻ mới sinh ra, cái gì cùng không - Không người, không ta, không chúng sinh, không thọ giả ... Nhưng khi nó uống sữa thì Thức bắt đầu xuất hiện dần dần. Khi nó thấy đói và đòi ăn là cái Ý "Biết" đã xuất hiện. Khi đứa trẻ lớn lên nó muốn cái này, muốn cái kia và tìm cách đáp ứng cái ham muốn đó ấy là Tâm đang phát tác. Như vậy, Tâm bao gồm 4 thứ nhưng tất cả là một, không thể tách dời được. Ngài dạy, cốt lõi hoạt động của Tâm vẫn là do Nghiệp tác quái mà ra cả. (Hỏi - Đáp Gậy Kim Cang Hét)
+ Các Vọng của tâm:
a/ Nguồn gốc phát sinh của các “vọng”. Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng rõ trong Kinh Lăng Nghiêm Giảng Nghĩa:
- Vọng tưởng từ đâu mà ra? Từ vô minh bất giác, một niệm chẳng rõ chân tâm, liền khởi vọng niệm. Vọng tâm nối tiếp nhau mà thành dòng sanh tử.” (Tuyên Hóa, 2003, quyển 1, tr. 132)
[ Một niệm bất giác → sinh ra vọng tâm → vọng tâm tạo ra vọng tưởng → vọng tưởng tích tập thành vọng tánh (ngũ ấm ma). Đây chính là quá trình “nhất niệm sanh tam tế” được nói trong Kinh Lăng Nghiêm.]
III. Làm sao đối trị những vọng này? Hòa Thượng Tuyên Hóa luôn nhấn mạnh: không thể dùng vọng để trừ vọng, mà phải phản vọng hoàn nguyên — quay trở lại chân tâm thường trụ.
1. Phản văn văn tự tánh – Tu Nhĩ Căn Viên Thông: “Quán Âm Bồ Tát tu hành pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông, tức là từ vọng tâm mà phản chiếu trở lại, nghe lại tự tánh của mình, đó là ‘phản văn’. Đến khi không còn nghe gì nữa, thì vọng tưởng cũng không còn.” (Tuyên Hóa, Kinh Lăng Nghiêm Giảng Nghĩa, Q.6, 2003)
2. Giới – Định – Tuệ là lửa luyện vàng: “Muốn dứt vọng tưởng thì phải giữ giới, sinh định, phát tuệ. Không giữ giới thì tâm không thanh tịnh, vọng niệm kéo đến liên miên. Giữ giới là cắt nguồn vọng tưởng.” (Tuyên Hóa, Pháp Ngữ, tr. 148)
3. Dùng Chánh Niệm để trừ Tà Niệm: “Dùng một niệm chánh để phá trừ vạn niệm vọng. Niệm Phật, trì chú, quán chiếu – đều là phương tiện đối trị. Nhưng chớ chấp vào cảnh giới, phải biết bỏ thuyền khi qua sông.” (Tuyên Hóa, 2003, Kinh Lăng Nghiêm Giảng Nghĩa)
Tóm tắt cốt lõi [Đệ tử của Hòa thượng]:
• Vọng tánh là bản chất hư dối hình thành từ tích tụ vọng tưởng và chấp trước.
• Vọng tâm là dòng tâm thức trôi nổi theo cảnh.
• Vọng tưởng là từng niệm khởi lên trong tâm, không thực.
• Đối trị: Giữ giới – Phản văn tự tánh – Dùng chánh niệm phá vọng niệm – Quán Không, Vô Ngã.
b/ Hình tượng hóa các Vọng tâm: Vọng Tâm như mảnh đất, Vọng Tưởng như những hạt đậu, và Vọng Tánh như hạt giống phát triển thành cây to nếu gặp môi trường thích hợp - là một cách hình tượng hóa rất gần gũi với tinh thần Phật giáo Đại thừa, đặc biệt phù hợp với Kinh Lăng Nghiêm và lời giảng của Hòa Thượng Tuyên Hóa.
Chúng ta sẽ đi vào phân tích từng phần để thấy mối liên hệ nhân-duyên-quả giữa các “vọng” và cách điều phục chúng. Tóm tắt:
Một niệm vọng tưởng nhỏ (hạt đậu) nếu rơi vào “vọng tâm” (mảnh đất màu mỡ của vô minh, không tỉnh giác) sẽ nảy mầm, lớn lên thành “vọng tánh” – tức ngã chấp sâu dày, khó gỡ.
II. Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thế nào?
1. Vọng tưởng là khởi điểm, vọng tâm là môi trường tiếp sức. “Một niệm bất giác sanh ra ba tướng vi tế, sáu thô tướng theo đó mà hiện. Nếu không có mảnh đất của tâm thì vọng tưởng không thể sinh ra. Vọng tưởng là gốc của sanh tử.” (HT Tuyên Hóa, Kinh Lăng Nghiêm Giảng Nghĩa, Q.1, 2003)
“Tâm như đất, chủng tử như hạt giống. Gieo nhân gì thì gặt quả đó. Nếu gieo vọng tưởng, thì sẽ sinh ra vọng tánh.” (HT Tuyên Hóa, Pháp Ngữ)
2. Vọng tánh là tích lũy lâu ngày – trở thành “ngã”. “Vọng tánh là kết tinh của vô minh và vọng tưởng. Lâu ngày thành nghiệp tánh, ngã chấp càng sâu, càng khó phá.” (HT Tuyên Hóa, Kinh Lăng Nghiêm Giảng Nghĩa, Q.4)
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Tất cả vọng tưởng là do chúng sanh trong tâm không giác, vọng động mà sanh. Nếu dừng được vọng tâm thì tánh chân thật hiện tiền.”
III. Làm sao hóa giải hạt giống vọng tưởng không trở thành cây vọng tánh?
1. Thay “mảnh đất vọng tâm” bằng “mảnh đất chánh niệm”: “Phải chuyển đất mê thành đất giác. Nghĩa là tâm mê thì vọng tưởng sinh, tâm giác thì vọng tưởng không có chỗ bám.” (HT Tuyên Hóa, Pháp Ngữ)
2. Không gieo hạt (tức đoạn vọng tưởng từ đầu): “Từ một niệm vọng tưởng khởi, nếu không chạy theo nó thì nó tự tiêu. Đừng tiếp xúc, đừng để ý, đừng nuôi dưỡng nó.” (HT Tuyên Hóa, Lăng Nghiêm Giảng Nghĩa)
3. Tưới tẩm “chủng tử Phật tánh” bằng Giới – Định – Tuệ: “Tâm địa nếu không thanh tịnh thì hạt giống tốt cũng không nảy mầm được. Phải dùng Giới để bảo hộ đất tâm, Định để giữ ẩm, và Tuệ để chiếu soi hạt giống chân tâm.” (HT Tuyên Hóa, Giới Luật Giảng Nghĩa)
“Nếu đất tâm không tiếp nhận, thì hạt giống vọng tưởng không thể nảy mầm. Người tu hành chân thật là người ngăn vọng nơi đầu nguồn.” (HT Tuyên Hóa)
+ Vọng Tâm là giả - Như bóng dưới mặt trời: Trong cuộc sống hằng ngày, trong công việc, trong xử sự, đãi người tiếp vật, học chẳng dùng vọng tâm. Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước đều là vọng tâm. Nếu quý vị chẳng dùng vọng tâm thì dùng gì? Đừng dùng vọng tâm, hãy dùng chân tâm. Chân tâm là gì? Chân tâm là trí huệ Bát Nhã sẵn có trong tự tánh. Chúng ta dùng vọng tâm, chân tâm chẳng hiển lộ, chẳng tỏ lộ ra được. Chẳng dùng vọng tâm, chân tâm sẽ hiển lộ. Vọng là giả, chẳng thật!
Có cần phải trừ khử vọng tâm hay không? Không cần! Quý vị trừ nó thì vẫn là vọng. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã nêu tỷ dụ, chúng ta đứng dưới mặt trời, coi chúng ta như chân tâm, cái bóng do thân ta bị nắng chiếu là vọng tâm, quý vị có cần trừ bỏ cái bóng ấy hay không? Quyết định chẳng xóa được cái bóng. Quý vị trừ khử cái bóng chỉ mất công, càng làm càng hỏng bét, đã vọng lại càng thêm vọng! Đối với vọng tâm thì như thế nào? Mặc kệ nó! Không dùng đến nó thì thôi, hết chuyện, đừng ngó ngàng tới nó! Nó có gây trở ngại hay không? Chẳng trở ngại! .... Cần gì phải bận tâm tới nó? Vì thế, sử dụng chân tâm. Thích Ca Mâu Ni Phật đã vì chúng ta thị hiện dùng chân tâm, dùng ngay trong cuộc sống hằng ngày, dùng trong mặc áo, trì bát, khất thực, dùng trong tọa Thiền, dùng trong giảng kinh, dạy học, dùng trong ứng đối, Ngài dùng rất tự tại! Chúng ta phải học điều này, học Phật phải học từ chỗ này: Chẳng có vọng tâm, chẳng có phiền não, chẳng có ưu lự, chẳng có vướng mắc. Vì sao? “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp”. Đó là nói về căn bản thì mộng, huyễn, bọt, bóng chẳng tồn tại, quý vị bận tâm đến chúng để làm gì? Hơn nữa, chúng chẳng gây chẳng trở ngại. Chẳng trở ngại thì sao lại biến thành trở ngại? Hễ quý vị phân biệt, chấp trước trong ấy, liền bị trở ngại. Chẳng tăng thêm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chuyện gì cũng chẳng bị trở ngại, vì sao? Chúng là giả, đúng là giống như bóng dáng. Có thể thấy là trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta đã hoàn toàn sử dụng sai cái tâm, sử dụng vọng tâm, chẳng biết dùng chân tâm. .... Dùng vọng tâm bèn chẳng thấy chân tâm, phải chú tâm thì mới thấu hiểu đạo lý này... (Nguồn: PS Tịnh Không - Đại Kinh giải ... T 125)
+ Vọng Tâm - Tâm vọng tưởng điên đảo do Tâm phân biệt mà có: Lúc bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát: 'Phật-tử! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác?
Những là: Đến đường lành nẻo dữ, căn thân có đủ có thiếu, thọ sanh đồng và khác, đẹp-đẽ cùng xấu-xí, nào vui nào khổ, nghiệp không biết tâm, mà tâm cũng chẳng biết nghiệp, thọ không rõ báo mà báo cũng chẳng rõ thọ, tâm chẳng biết thọ mà thọ cũng không biết tâm, nhơn không biết duyên mà duyên cũng chẳng biết nhơn, trí chẳng biết cảnh mà cảnh cũng chẳng biết trí. Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp: Nay ngài hỏi nghĩa này - Vì Liễu-ngộ quần-mông - Cứ tánh kia, tôi đáp - Xin ngài lóng nghe cho:
Các pháp không tác dụng
Cũng không có thể tánh
Vì thế nên các pháp
Đều chẳng biết được nhau.
Ví như nước trong sông
Các dòng đua nhau chảy
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại cũng như đống lửa
Đồng thời phát ngọn to
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại như gió lớn thổi
Xao động các cảnh vật
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại như các địa-giới
Xây vần nương tựa nhau
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân
Tâm-ý sáu tình-căn
Do dây thường lưu-chuyển
Nhưng vẫn không năng-chuyển.
Pháp-tánh vốn vô-sanh
Thị hiện mà có sanh
Trong đây không năng hiện
Cũng không vật sở-hiện.
Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân
Tâm-ý sáu tình-căn
Tất cả rỗng vô-tánh
Vọng phân-biệt mà có.
Cứ đúng lý quan-sát
Tất cả đều vô-tánh
Pháp-nhãn bất-tư-nghì
Đây là thấy chơn thật.
Hoặc vọng hay chẳng vọng
Hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt
Thế-gian cùng xuất-thế
Chỉ là giả ngôn-thuyết. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm BT Vấn Minh)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt.
* Sanh sinh già chết:
11. Sinh/ Sanh: ... Thế nào là sanh: Loại chúng sanh khác bị sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sanh. (Nhân đã hình thành thì chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả, là sự tái sinh khi nhân duyên chín muồi; Sinh: là sự hình thành kết quả khi nguyên nhân điều kiện đầy đủ, chín muồi. Kết quả đó được biểu hiện như một cơ thể mới mang theo ham muốn mới để tiếp tục vòng quay miên viễn của luân hồi. Hình ảnh tượng trưng cho mắt xích này là một người phụ nữ sinh con.)
12. Già chết/ Lão bệnh tử: Sự từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn hư hoại, thân thể vứt bỏ. Đây gọi là chết / già chết. (Đã có sinh khởi, hình thành một đời sống ắt sẽ có già, bệnh, chết, vì thế nên gọi là “Sinh duyên Lão, Bệnh, Tử”)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Địa đại: .... Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”....
- Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mê muội, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Nên có phong luân nắm giữ thế giới.
- Nhân hư không mà có sự lay động, phát minh ra tánh cứng, thành ra có ngăn ngại. Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng. Thế nên có kim luân để bảo trì quốc độ.
Giảng: ... sự lay động và tạo thành gió ..... thành ra tướng cứng chắc ngăn ngại của địa đại (yếu tố đất). Đây tức là lấy cái mê muội làm hư không, và trong thể hư không mê muội ấy, kết cái u tối hỗn trược thành sắc. "Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng". Tất cả các loại vàng bạc và các khoáng chất quý giá đều là tinh tuý trong lòng đất (địa đại), mà tánh chất của đất thì cứng chắc và ngăn ngại còn hơn cả kim loại. Nương nơi cái biết hư vọng của vô minh mà có ra tướng cứng chắc và ngăn ngại, như trong thế gian có người si tình mà hoá thành đá vậy.
[Vậy cần phân biệt giữa Địa đại với Đất = Ứng với Kim bảo cứng chắc hơn Kim cương. Như vậy, khi nói đến Địa đại là nói đến Y báo - Lớp bên ngoài của Địa cầu chúng ta đang sống, trong Địa đại có tinh túy là Kim loại, khoáng chất. Địa đại này hình thành do "Con người" dụng Tâm khi sinh sống nơi Địa cầu qua thời gian rất dài như đức Phật dạy về nguồn gốc con người nơi Địa cầu]
- Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ biết cái lay động thì khiến cho phong đại phát ra. Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, nên có ánh sáng của lửa (hoả đại) làm tính biến hoá.
- Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt. Nên có Thủy luân trùm khắp mười phương cõi giới...... (Nguồn: Tứ đại - Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa)
+ Tâm Địa: ... 6. Tâm giống như đại địa, thứ gì cũng đều có thể nhẫn. Nói thật ra, học Phật thì đầu tiên phải là học nhẫn nhục. Vì thế, trong tứ đại Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát được xếp đầu tiên. Địa biểu thị đại địa. Tâm chúng ta phải giống như đại địa, có thể nhẫn, có thể hứng chịu, tốt cũng hứng chịu, xấu cũng hứng chịu, lại còn hứng chịu bình đẳng, học những điều này. Học những điều ấy thì sau đó mới có thể đắc Định, mới có thể đắc tâm thanh tịnh. Chẳng thể nhẫn nhục thì người ấy tu học Phật pháp, tối đa là trong tương lai làm một nhà Phật học mà thôi, có thể nói đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, nhưng trong tương lai đáng nên luân hồi như thế nào thì vẫn luân hồi đúng như thế ấy, chẳng có tác dụng gì cả. Đúng như sư Tu Vô đã nói: “Nói được, chẳng làm được; chẳng phải trí huệ thật”. Căn bản là chẳng có trí huệ chân thật. Vì vậy, phải tu nhẫn nhục, biết nhẫn nhục hết sức trọng yếu. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Tâm Địa: Bài tụng 1: Đất tâm
Tâm là đất gieo hạt
Mọi hạt giống chứa đầy
Tâm địa cũng chính là
Toàn thể hạt giống ấy.
Các Kinh nói rất nhiều về hạt giống (chủng tử – bīja). Hạt giống biểu trưng cho khả năng tiếp tục của các pháp. ....
Tâm là đất gieo hạt/ Cất chứa....
Đất có khả năng giữ gìn, bảo trì những hạt giống. Tâm cũng có khả năng giữ gìn, bảo trì những hạt giống.... Đất là một hình ảnh vi diệu để mô tả tính năng tàng chứa của Tâm.
Mở đầu kinh Địa Tạng .... Đất có nghĩa là chắc chắn, vững bền và dày dặn. Đất có khả năng bao trùm và gìn giữ rất rộng rãi - Tâm địa (đất tâm).
Một hôm Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (720-814) giảng dạy .... Khi đất tâm được thông suốt thì mặt trời trí tuệ tự nhiên chiếu tới.
Thiền sư Tăng Hội .... có ví tâm như biển (tâm hải). Ngàn sông đều chảy về biển cả. Tất cả những gì chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, đau khổ, vui sướng đều trở về biển cả của tâm. Tâm chứa nước của muôn sông. Nhiều người khác nói về tâm như đất nhưng biển là một hình ảnh đặc thù nói về tâm mà ta chỉ thấy ở giáo lý của Thầy Tăng Hội.
Mọi hạt giống chứa đầy. Tâm có thể chứa đủ tất cả các loại hạt giống. Hạt giống Ma, hạt giống Bụt. Hạt giống thánh nhân, hạt giống phàm phu. Hạt giống của sự trung kiên, hạt giống của sự phản bội. ... thành thánh nhân hay đạo tặc ... trung kiên hay phản bội ... cởi mở tha thứ hay hận thù và nhỏ nhen. (Nguồn: Duy Biểu Học_Đất Tâm)
+ Chữ Địa - Giới địa và Thế gian: Giới (dhātu) là cõi mà chúng ta ở. Giới cũng do tâm thức biểu hiện. Phật giáo nói tới ba giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Cõi dục hay dục giới (kāmadhātu) là cõi có ham muốn, sân si, ngạo mạn và ảo tưởng. Chúng sinh trong cõi dục rất đau khổ vì họ luôn luôn chạy theo chuyện gì đó. Khi chúng ta chọn lối sống giản dị, bỏ bớt ham muốn đi, là chúng ta sống trong sắc giới. Cõi sắc (rūpadhātu) là cõi vật chất nhưng nhẹ nhàng hơn cõi dục.
Địa (bhūmi): là những cõi mà các vị bồ tát đi ngang qua. Có tất cả mười địa (1). Cõi đầu là hoan hỉ địa. Nếu mới bước vào Làng Mai mà nghe vui và khỏe liền, nếu Làng Mai mà tạo được không khí tươi mát thì Làng Mai có thể gọi là một hoan hỉ địa, sơ địa của bồ tát. Chúng ta sẽ từ từ đi ngang qua những địa như là viễn hành địa, pháp vân địa trong đó có rất nhiều hạnh phúc, rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi.... (Nguồn: Bài 3- Thân tâm và Thế gian - Duy Biểu học)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.(LVHLT, 250)
+ Tương ứng các phương: Tổng hợp các tương ứng và quá trình Thanh tịnh hóa Ngũ Đại - Ngũ phương và ngũ Trí Phật - Bồ tát các phương .... Theo Phật giáo, những si mê, phiền não thông thường chia thành 5 loại / Ngũ độc, gồm vô minh, sân giận, kiêu ngạo, tham ái và đố kỵ. Đạo Phật cho rằng chúng là toàn bộ những yếu tố khiến chúng ta mê đắm trong khổ đau luân hồi và chưa thể đạt được giác ngộ. Song ngược lại, giáo pháp Đức Phật cũng khẳng định với niềm tin xác đáng rằng tâm con người có khả năng chuyển biến những xúc tình và biểu hiện tiêu cực thành những đức tính và phẩm hạnh tích cực.
Năm bộ Phật hay 5 bộ giác ngộ chỉ cho 5 khía cạnh của thực tại khi đã tịnh hóa các xúc tình tiêu cực kể trên. Trong mối tương quan chuyển hóa từ thân tâm của chúng sinh thành thân tâm Phật, Năm bộ Phật hay Năm bộ giác ngộ là những thực tại hoàn thiện đã tịnh hóa hoàn toàn của năm uẩn, năm đại, sáu căn, sáu thức và sáu trần.
Mỗi bộ trong số Năm bộ Phật bao gồm một Đức Phật trung tâm, đại diện cho 1 trong 5 uẩn đã tịnh hóa và một Phật Mẫu tượng trưng cho 1 trong những Đại đã được tịnh hóa. Bên cạnh đó, 4 trong số 5 bộ Phật đều có các vị Bồ tát đứng ở xung quanh, tượng trưng cho 6 căn 6 thức đã được tịnh hóa. Năm vị Phật lần lượt tương ứng với 5 loại trí tuệ... Xem trích Bảng 1: Tổng hợp Ngũ trí Phật và tương ứng
| Ngũ trí Phật |
Đại Nhật NL Phật |
A Di Đà Phật [Tây] |
Bất Động P A Xúc Bệ |
Bảo Sinh Phật [Nam] |
Bất Không Thành Tựu Phật |
| Ngũ trí |
Pháp giới thể tính trí |
Diệu quan sát trí |
Đại viên cảnh trí |
Bình đẳng tính trí |
Thành sở tác trí |
| Các Bộ |
Phật bộ |
Liên hoa |
Kim cương |
Bảo sinh bộ |
Nghiệp bộ |
| Biểu tượng |
Pháp luân |
Hoa sen |
Chày kim cương đơn |
Bảo châu |
Chày kim cương kép |
| Màu sắc |
Sắc trắng |
Sắc đỏ |
Xanh dương |
Sắc vàng |
Sắc xanh lục |
| 5 Phương |
Trung tâm |
Tây |
Đông |
Nam |
Bắc |
| Chủng tử |
OM |
AH |
HUNG |
SVA |
HA |
| Thủ Ấn |
Pháp luân |
Thiền định |
Ấn xúc địa |
Ấn thí nguyện |
Ấn Vô úy |
| Độc tố phiền não |
Vô minh |
Tham muốn |
Sân giận |
Kiêu mạn |
Ghen tỵ |
| Đại |
Không đại |
Hoả đại |
Thủy đại |
Địa đại |
Phong đạị |
| Uẩn |
Thức |
Tưởng |
Sắc |
Thụ |
Hành |
| G. Quan |
Nếm |
Thấy |
Nghe |
Ngửi |
Xúc chạm |
| Phật Mẫu đã Thanh tịnh Đại |
|
Thanh tịnh Hỏa đại hoàn hảo |
Thanh tịnh Thủy đại hoàn hảo |
Thanh tịnh Địa đại hoàn hảo |
Thanh tịnh Phong đại hoàn hảo |
Sự chuyển hóa năm đại thành năm Phật Mẫu: Thực hành chân ngôn bí mật chú trọng đến sự hợp nhất trí tuệ và phương tiện thiện xảo, biểu trưng bằng 5 Đức Phật Phụ tính và trí tuệ được biểu trưng là 5 Đức Phật Mẫu tính. Tại mức độ thanh tịnh hoàn toàn => 5 chủ của 5 bộ Phật là thể hiện bản chất thanh tịnh của xúc tình phiền não. Tương tự như vậy, 5 trí tuệ được thể hiện là 5 đại thanh tịnh.
Nói chung, nền tảng cho sự xuất hiện thế gian hiển diện đối với chúng sinh là 5 đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Không đại => Biểu lộ cho:
Đức Bất Động Phật, sự hiện thân của tâm sân giận đã hoàn toàn được tịnh hóa. Minh phi Trí tuệ của Ngài là Phật Mẫu Mamaki, thể hiện sự thanh tịnh của yếu tố Thủy đại....
Đức Phật Bảo Sinh là sự thể hiện khía cạnh tịnh hóa của niềm kiêu hãnh. Minh phi Trí tuệ của Ngài là Phật Mẫu Buddha Locana - Phật Nhãn Phật mẫu, là sự thanh tịnh hoàn hảo của Địa đại. Nói chung, Địa đại có tính chất rắn, chắc và bất động. Địa đại là mảnh đất lành tạo tiềm năng phát triển và nơi an trú cho vạn vật. Ở mặt trái, Địa đại có khả năng tàn phá mạnh mẽ. Khía cạnh tiêu cực của kiêu mạn là khi phiền não hoành hành, nó sẽ nhậm vận tự nhiên tạo nên nguyên nhân căn bản dẫn đến hành động tổn hại. Khía cạnh tích cực của kiêu mạn là phẩm chất can đảm và quyết tâm, trở thành cội nguồn của tính ổn định giống như phẩm chất của đất. Vì bản chất của đất là ổn định cho nên yếu tố thanh tịnh của Địa đại được thể hiện dưới sắc thân Phật Nhãn Phật mẫu.
Mọi ái kết tham muốn được tịnh hóa thanh tịnh hiển lộ là sắc thân Đức Phật A Di Đà. Minh phi Trí tuệ của Ngài, Đức Phật Mẫu Pandaravasini, là sự thanh tịnh của yếu tố Hỏa đại. Lửa có tính chất nóng, đốt cháy và có thể gây ra nhiều hậu quả tổn hại to lớn. Sự bám chấp tạo ra nhiều lớp đau khổ luân hồi. Tuy nhiên, khía cạnh tích cực của Hỏa đại chính là hơi nóng có sức mạnh làm cho chín muồi, sự bám chấp tạo ra năng lực kiểm soát. Vì vậy, Phật mẫu Varavasini là sự hiện thân thanh tịnh của yếu tố Hỏa đại.
Trí tuệ thứ tư là Samaya Tara Trinh Tín Độ Phật mẫu, yếu tố thanh tịnh của Phong đại. Ngài là Minh phi Trí tuệ của Đức Phật Bất Không Thành Tựu, hiện thân của sự ghen tỵ được tịnh hóa hoàn toàn. Ghen tỵ là xúc tình tiêu cực cần phải loại bỏ nhưng cũng là khía cạnh tích cực đem lại sự can đảm và quyết tâm thành tựu tất cả các công hạnh. Làm thế nào để Phong đại thực sự có hiệu quả? Những trận cuồng phong có thể phá hủy và phá tan mọi thứ. Tuy nhiên, trong sự hiện thân tích cực, gió tạo ra sự phát triển và bao trùm tất cả các hoạt động/ Vận động. ... Vì vậy, KHÍ là tinh túy của công hạnh giác ngộ để viên mãn mọi công hạnh, sự hiện thân trí tuệ mẫu tính của Đức Phật Bất Không Thành Tựu đã viên mãn mọi công hạnh là Phật Mẫu Samaya Tara, sự thanh tịnh của yếu tố Phong đại.
Bậc chủ của bộ Phật thứ năm là Đức Phật Đại Nhật Như lai, hiện thân của Pháp giới thể tính trí, tịnh hóa hoàn toàn được vô minh ảo tưởng. Bậc Minh phi Trí tuệ của Ngài, Phật Mẫu Dhatvishvari, nêu biểu yếu tố Không đại được thanh tịnh hoàn toàn. Toàn bộ các cõi được thiết lập trong không gian vì không gian có bản chất tính không. Tuy nhiên dựa trên nền tảng tính không, vạn pháp hiển lộ, tăng trưởng, phát triển và trải rộng. Bạn có thể di chuyển tới bất cứ đâu bạn muốn bởi vẫn có không gian để di chuyển. .... Một khi tịnh hóa tất cả phiền não, vô minh hay những tinh thần ám độn thì chúng ta chứng ngộ ý nghĩa của tính không. Từ quan điểm tuyệt đối này, có thể nói không có tính không thì không thể làm được điều gì. Tính không cho phép mọi thứ diễn ra. Đó là khía cạnh thanh tịnh trong sắc tướng Phật Mẫu Dhatvishvari.
Năm đại này cấu thành thế giới bên ngoài và thế giới bên trong. Khi các đại cân bằng, mọi thứ diễn ra một cách trôi chảy và không phiền nhiễu. Ngược lại, nó sẽ là nguyên nhân sản sinh ra những vấn đề tiêu cực. Khi những năng lượng các đại cấu thành thân vật chất chảy một cách đều đặn và cân bằng, thân sẽ ổn định và khỏe mạnh không có ốm đau. Tuy nhiên khi mất cân bằng, chúng sẽ gây phiền nhiễu và năng lực suy giảm, thân trở nên bệnh tật. [Nguồn: Ngũ trí Phật và tương ứng]
a/ Xem các trang:
+ Xem thêm: Ngũ phương Phật_HT Tuyên Hóa giảng Tâm Chú Lăng Nghiêm
+ Xem thêm: Luận về Ngũ phương Phật_Đại Bảo Tháp Tây Thiên
+ Xem thêm: Ngũ phương Phật_Vạn Phật Thánh Thành)
+ Xem thêm: Tổng hợp ngũ phương Phật _ Nhân Trắc Học
b/ Xem Tooltip:
1.Xem Tooltip: Phật ngũ phương - Ngũ Trí Phật [Chuyển Thức thành Trí];
1.Xem Tooltip: Bồ Tát các phương [Mười phương]
1.Xem Tooltip: Tam Thánh các phương [Bồ Tát tương ứng các đức Phật]
1.Xem Tooltip: Thần quản lý các phương hướng [Ngũ hành thịnh vượng-Tứ thông bát đạt]
1.Xem Tooltip: Thần các Đại - Các Hành quản các phương hướng do Phật biểu lộ
I- TỔNG HỢP TƯƠNG ỨNG CÁC CON SỐ
+ Các Tương ứng số Nhân Trắc Học thống kê
- Thống kê tương ứng với số 01
- Thống kê tương ứng với số 02
- Thống kê tương ứng với số 03
- Thống kê tương ứng với số 04
- Thống kê tương ứng với số 05
- Thống kê tương ứng với số 06
- Thống kê tương ứng với số 07
- Thống kê tương ứng với số 08
- Thống kê tương ứng với số 09
- Thống kê tương ứng với số 10
- Thống kê tương ứng với số 12
- Thống kê tương ứng với các số khác
Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo
Xem: Trang tổng hợp thống kê tương ưng số
Xem: Trang tổng hợp tương ứng đối ứng
II- Theo Phật Pháp
+ Kinh Tương Ưng: Mời xem nguồn: Xem Kinh Tương Ưng
+ Các Tương Ứng Số Đức Phật dậy xem mục từ khoảng 140 - 160 tại đây
+ Phật ngũ phương: Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ: Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương :
1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ.
2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ.
3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ.
4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ.
5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Phật Thành Tựu là chủ. (Bộ sổ ghi nghiệp của chúng sanh được giữ bởi những vị “Cai Quản Nhân Quả” hay Minh Quan trong địa ngục_Từ điển thuvienhoasen.org)
+ Phật phương giữa: ‘’Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm’’ Chính giữa là Phật bộ, thuộc về thổ (đất). Ðất sanh ra vạn vật, đất thịnh vượng cả bốn mùa, một năm bốn mùa đất đều thịnh vượng, Xuân hạ thu đông. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Một năm chỉ có bốn mùa, nhưng lại có 5 ngũ hành, thì sắp xếp như thế nào ? Vì thổ là ở chính giữa, kim mộc thủy hỏa là bốn bên, cho nên xuân hạ thu đông là bốn mùa. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Quý vị xem, mùa đông nơi đây thì ẩm ướt, không chỉ là một chút xíu, người Quảng Đông gọi là “Hồi Nam” có nghĩa là mùa ẩm ướt.
Nếu Thổ không có trong bốn mùa thì như thế nào ? Thổ thịnh vượng trong cả bốn mùa, mùa xuân ba tháng, trong ba tháng có chín mươi ngày, có thổ thì có thể sanh sôi nảy nở. Mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đều có thổ. Cho nên ở chính giữa là Mậu Kỷ thuộc thổ, phương đông là Giáp Ất thuộc mộc, phương nam là Bính Ðinh thuộc hỏa, phương tây là Canh Tân thuộc kim, phương bắc là Nhâm Quý thuộc thủy. Ðây là ngũ hành tương sanh tương khắc...... (Nguồn: Tỳ Lô Giá Na Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật Bộ/ Bộ Phật: ....Câu La Gia này phần trước đã giảng qua mấy lần tức là "quyến thuộc", quyến thuộc của Kim Cang Bộ tức là tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát của Kim Cang Bộ, đến ủng hộ người trì Chú. Cho nên nói "Chủ Kim Cang Bộ là Phật A Súc" Phần trước giảng Phật Bộ là Phật Tỳ Lô Giá Na là Bộ Chủ. Liên Hoa Bộ thi Phật A Di Ðà là Bộ Chủ. Bây giờ giảng về phương đông. Phương đông là Kim Cang Bộ, Phật A Súc tức là bộ chủ Kim Cang Bộ. Có hai mươi Đại tướng Dược Xoa. “Ðại tướng Dược Xoa khắp tuần tra”. Phật Dược Sư có hai mươi Đại tướng Dược Xoa chuyên đi khắp nơi xem xét, xem có thiên ma ngoại đạo nào không giữ quy củ, cũng giống như cảnh sát đi tìm bắt, đi chế phục, đi tuần tra. Cảnh sát của chúng ta là Kim Cang hữu hình, còn Đại tướng Dược Xoa là vô hình, nhìn không thấy, nhưng chắc chắn là có, quý vị không nên hoài nghi. (Nguồn: Phật Dược Sư - HT Tuyên Hóa)
+ Ngũ phương Phật: Ngũ Phương Phật cũng được gọi là Ngũ Trí Phật hay Ngũ Trí Như Lai. Nếu có thể chuyển thức thành trí, tức là chúng ta có thể “nhập Phật tri kiến”, và đó cũng là cách ủng hộ tốt nhất vậy.... Ngũ Phương Phật còn được tôn xưng là Ngũ Trí Như Lai, và cũng được biết đến như là năm vị Phật của trí huệ. Ngũ Phương Phật được xem là tượng trưng cho Ngũ Trí Như Lai (1):
+ Ở phương chính giữa là Pháp Thân Phật - Đức Tỳ Lô Giá Na Phật - Pháp Giới Thể Tánh Trí;
+ Ở phương đông là Đức A Súc Bệ Phật (Bất Động Phật), giáo chủ cõi Hỷ Duyệt Tịnh Độ - Đại Viên Kính Trí;
- Ngài giúp chúng sinh tăng phước thọ, tiêu trừ tai nạn. Phật Dược Sư thuộc Kim Cang Bộ ở phía Đông, và Bộ này chú trọng Pháp Hàng Phục. Pháp này chuyên hàng phục thiên ma, ngoại đạo.
+ Ở phương nam là Đức Bảo Sanh Phật, giáo chủ cõi Cụ Đức Tịnh Độ - Bình Đẳng Tánh Trí;
+ Ở phương tây là Đức Phật A Di Đà, giáo chủ cõi Cực Lạc Thế Giới - Diệu Quán Sát Trí;
- Ngài có thể tiếp dẫn chúng ta mang theo nghiệp mà sanh về thế giới Cực lạc, “hoa nở liền trông thấy Phật, ngộ được pháp Vô sanh nhẫn.
+ Ở phương bắc là Đức Bất Không Thành Tựu Phật, giáo chủ cõi Thắng Nghiệp Tịnh Độ - Thành Sở Tác Trí.
Đó cũng chính là chuyển hóa năm thức đầu tiên thành những nỗ lực và hành vi tạo tác đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.
[Phật A-súc, tức Phật Dược Sư, và Phật Di-đà đều giáo hóa chúng sanh tại thế giới Ta-bà. Hai vị Phật, một vị ở phương Đông, một vị ở phương Tây, nhưng cả hai đều có nhân duyên rất sâu đậm với chúng ta nơi cõi Ta-bà, do đó Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật chính là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, còn Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật chính là A-di-đà Như Lai.
Nếu có ai niệm danh hiệu của Đức Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư thì người đó được giải trừ tai nạn, bệnh tật tiêu tan, tội diệt, phước sanh, tâm ý mãn nguyện. Vậy, vị Phật giúp các chúng sanh kéo dài mạng sống chính là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư.
Còn đức Phật A-di-đà thì sao? Ở đây là vấn đề vãng sanh. Như có ai muốn về thế giới Cực Lạc, thì phải niệm danh hiệu của đức Phật A-di-đà. Nếu quý vị muốn sanh về cõi Lưu Ly, tức là thế giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì hãy niệm danh hiệu của Ngài Dược Sư]. (Nguồn HT Tuyên Hóa giảng: Ngũ phương Phật_John Chu và giảng Ngũ phương Phật_Kinh Dược Sư)
+ Xem thêm: Ngũ phương Phật_HT Tuyên Hóa giảng Tâm Chú Lăng Nghiêm
+ Xem thêm: Luận về Ngũ phương Phật_Đại Bảo Tháp Tây Thiên
+ Xem thêm: Ngũ phương Phật_Vạn Phật Thánh Thành):
+ Xem thêm: Tổng hợp ngũ phương Phật _Bảo Tháp MĐL Tây Thiên
I. Theo trục đối xứng [Theo Tiết khí: Tức không phải theo tháng âm lịch do có nhuận]
1. Trục Bạch Dương – Thiên Bình [Tiết khí] là xung đột giữa xung lực và hòa hợp; cái tôi và xã hội.
Đây là quá trình thiết lập sự cân bằng / linh hồn kiểm soát phàm ngã
2. Trục Kim Ngưu – Bọ Cạp [Tiết khí] là thực tế đối lập với tính cưỡng chế; chiếm hữu đối lập với mãnh liệt.
Đây là quá trình dùng minh triết của linh hồn để thiết lập các mối quan hệ đúng đắn.
3. Trục Song Tử – Nhân Mã [Tiết khí] là linh hoạt đối lập với sự quá độ; tri thức đối lập với minh triết.
Đây là quá trình kiểm soát các cặp đối cực thông qua hành động tâm linh.
4. Trục Cự Giải – Ma Kết [Tiết khí] là nuôi dưỡng đối lập với quyền lực; nhạy cảm đối lập với trách nhiệm.
Đây là quá trình nuôi dưỡng trực giác của linh hồn để chuẩn bị cho điểm đạo.
5. Trục Sư Tử – Bảo Bình [Tiết khí] là cái tôi cá nhân đối lập với cái tôi vô ngã; sáng tạo đối lập với phi truyền thống.
Đây là sự làm chủ bản thân dẫn đến nhận thức nhóm và phụng sự thế giới vô ngã.
6. Trục Xử Nữ – Song Ngư [Tiết khí] là phân tích đối lập với lý tưởng; phân biệt đối lập với cuồng tín.
Đây là quá trình nuôi dưỡng Đấng Christ bên trong trái tim và ý thức biểu hiện Ngài ra bên ngoài
II. Theo từng cung [Theo Tiết khí: Thiên bàn theo Mặt trời, Ngũ hành tinh (10 Thiên Can) và Nhật, Nguyệt ]
1. Bạch Dương [Tiết khí] – môi trường không khuyến khích sự tự biểu lộ, tính hiếu thắng, khởi xướng và độc lập. Hãy nhu mì và dịu dàng – đừng thử những điều mới.
2. Kim Ngưu [Tiết khí] – Môi trường không cung cấp đủ tình yêu, sự trìu mến, ấm áp, sự công nhận, nhu cầu vật chất hay cảm giác về giá trị bản thân. Bị ngăn cản trong việc trở nên chiếm hữu, bị xem nhẹ và coi thường.
3. Song Tử [Tiết khí] – Cơ sở học tập không đầy đủ. Việc học bị gián đoạn – do bệnh tật, khó khăn trong học tập, chăm sóc anh chị em, v.v.
4. Cự Giải [Tiết khí] – Có quá nhiều hoặc quá ít sự an toàn về cảm xúc/vật chất.
5. Sư Tử [Tiết khí] – Sự sáng tạo bị đè nén. Bị ngăn cản trong việc có bạn tình lãng mạn hoặc con cái. Những mối tình và đời sống xã hội không thoả mãn.
6. Xử Nữ [Tiết khí] – Môi trường hay chỉ trích nói rằng bạn không bao giờ làm đúng điều gì. Đừng hỏi, cứ làm – không được phép phân tích.
7. Thiên Bình [Tiết khí] – Không có cơ hội để kết nối với người khác. Bị ngăn cản trong việc giao tiếp xã hội. Vì không có tính hiếu thắng và độc lập, bạn ở nhà.
8. Bò Cạp [Tiết khí] – Tính dục và cảm xúc mạnh mẽ (giận dữ, ghen tuông) bị dồn nén. Môi trường có thể không mang lại cho ta sự thấu hiểu bản thân hay các giá trị của người khác. Có nhu cầu sâu sắc được dấn thân vào các môn huyền bí hoặc nghiên cứu siêu hình. Bị chặn dòng thừa kế.
9. Nhân Mã [Tiết khí] – Không được tạo điều kiện để học sau trung học. Bị ngăn cản trong việc chấp nhận rủi ro. Được nuôi dạy trong môi trường tôn giáo nghiêm khắc hoặc khác biệt.
10. Ma Kết [Tiết khí] – Không được tôn trọng, công nhận, có địa vị và giúp đỡ để đạt mục tiêu. Thiếu cơ hội việc làm. Bị ngăn cản trong việc theo đuổi mục tiêu.
11. Bảo Bình [Tiết khí] – Môi trường không khuyến khích tính cá nhân, không khuyến khích có bạn bè – quá cứng nhắc với bạn. Cảm thấy bị giam hãm và cần được tự do.
12. Song Ngư [Tiết khí] – Môi trường không khuyến khích bạn tin tưởng vào bản thân, kết nối với trực giác hay theo đuổi giấc mơ của mình.
Nguồn: Xem tài liệu MFVN
+ Giác Tâm - Giác ngộ (Illumination): Thánh hiền thường dạy, Tu đạo với bất cứ pháp môn nào, quí vị cần Giác Tâm trước mới không xem là tu mù, luyện tối rất rễ gặp họa tai, đọa lạc tam đồ ác đạo. Đây là do khi chưa học Minh triết - Phật pháp để Giác tâm trước giúp hiểu biết những nguy hiểm, chướng nạn trong tu hành, thì rất thường đường quang không đi, đi quàng vào bụi dậm lầy lội, hầm hố nhiều nguy hiểm hoạn nạn. Như thế tu không tiến lên được, rễ phát sinh bệnh nạn do tu sai thứ tự KHÔNG NHƯ PHÁP TU HÀNH, rất rễ lầm lạc xa lầy vào đường tà đạo dước họa vào thân, sai một ly đi một dặm vì tạo duyên nghiệp với tà đạo, ngoại đạo, xa dời chánh đạo biết bao giờ mới thoát ra được (Như Thánh hiền thường cảnh báo Thày trò cùng nhau đọa lạc tam đồ ác đạo). Vậy nên, chỉ khi Tâm đã giác ngộ mới có thể tu Đạo an toàn, sớm có thành tựu, đặc biệt với các pháp tu đại thừa như tu Thiền định, đọc tụng kinh và trì các Thần chú như Chú Đại Bi, Chú Lăng Nghiêm mới dần thành tựu viên mãn, có Tâm Bất thối chuyển như câu "Bồ đề dạ" trong Chú Đại Bi, tương ứng Tay Ấn pháp Bất Thối Kim Luân Thủ Nhãn. (Nguồn: Bất Thối Kim Luân Thủ Nhãn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Sự giác ngộ và ánh sáng của tri thức có thể được xem như là các thuật ngữ đồng nghĩa.(ACMVDCTG, 144)
+ Sự giác ngộ và nhận thức chân lý cũng là các thuật ngữ đồng nghĩa, nhưng cần nhớ rằng trong trường hợp này, chân lý không phải là chân lý trên các cõi trừu tượng mà là chân lý cụ thể và khả tri – tức là chân lý có thể được trình bày và diễn tả bằng các hình thức và thuật ngữ cụ thể. (ACMVDCTG, 145)
+ Sự giác ngộ: Đây là một từ ngữ nên được dùng một cách dứt khoát để chỉ tâm thức siêu nhân loại. Bản năng thiêng liêng này khiến cho một người nhận biết được cái tổng thể mà y là một phần trong đó. Sự giác ngộ tác động xuyên qua linh hồn của con người bằng cách dùng bí huyệt đầu, và sau rốt làm tràn ngập mọi bí huyệt bằng ánh sáng hay năng lượng, như vậy, liên kết một người bằng tâm thức với tất cả các phần tương ứng của Tổng thể thiêng liêng. (TLHNM–II, 233)
+ Giác ngộ tám điều: Là đệ tử Phật thì phải thường cả ngày lẫn đêm hết lòng thành kính đọc và nghĩ nhớ tám điều giác ngộ này:
1- Giác ngộ rằng cuộc đời là vô thường;
2- Giác ngộ rằng càng lắm ham muốn thì lại càng nhiều khổ đau
3- Giác ngộ rằng vì tâm ta rong ruổi chạy theo danh lợi không bao giờ biết chán,
4- Giác ngộ rằng tính lười biếng đưa đến chỗ đọa lạc;
5- Giác ngộ rằng chính vì vô minh nên mới bị giam hãm trong cõi sinh tử.
6- Giác ngộ rằng vì nghèo khổ cho nên người ta sinh ra nhiều oán hận và căm thù, và vì thế lại tạo thêm những nhân xấu.
7- Giác ngộ rằng năm thứ dục vọng [5] đã gây nên tội lỗi và hoạn nạn
8- Giác ngộ rằng vì lửa sinh tử cháy bừng cho nên mọi loài đang chịu biết bao niềm thống khổ
Tám điều như vậy đều là chỗ giác ngộ của chư Phật, Bồ Tát, bậc Đại Nhân.... (Nguồn HT Thích Nhất Hạnh giảng: Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác)
+ Kinh Bát Đại Nhân Giác: ... Kinh này dung hợp cả đạo Bụt Nguyên Thủy và đạo Bụt Đại Thừa. Tám điều mà kinh văn nói đến có thể coi như tám đề tài thiền quán.. .. Nhà khoa học nếu chịu quán niệm thường trực về vô ngã nơi tự thân và nơi sự vật như thế thì cũng có ngày đạt ngộ dễ dàng vậy. (Nguôn: Kinh Bát Đại Nhân Giác_TS Thích Nhất Hạnh)
+ Xóa vô minh - Thêm Giác ngộ: Nếu chúng ta biết nhận thức mỗi loại pháp rõ ràng và ra công thêm thì mới có thể trị liệu được. Nghĩa là dứt được một phần vô minh tức là chứng được một phần pháp tánh. Từ những giác ngộ nhỏ mà dần dần đi lần đến chỗ giác ngộ lớn và tiến thẳng đến đạo quả vô thượng Bồ-đề... (HT Tuyên Hóa giảng Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn))
+ Các mức độ Giác ngộ: Đức Phật nói "Như thế cho đến...". HT Tuyên Hóa giảng: Có nghĩa là các mức độ của giác ngộ, từ lục độ cho đến thập trụ, thập tín, thập hạnh, thập hồi hướng và thập địa; cho đến cả quả vị Phật, đều được bao gồm trong không Như Lai tạng. Từ các giai vị của hàng Bồ-tát đến quả vị Phật phải cần rất nhiều thời gian, và cần rất nhiều công hạnh tu tập, nhưng tất cả đều là không, quả vị Phật cũng là không.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Hình thức Giác ngộ: Trong ba hình thức giác ngộ. Sự giác ngộ của hàng A-la-hán và Bích-chi Phật[1] là để phân biệt họ với hàng phàm phu chưa giác ngộ.
Bích-chi Phật ngộ đạo thông qua tu tập mười hai nhân duyên.
Hàng A-la-hán ngộ đạo nhờ tu tập Tứ diệu đế.
Chư vị Bồ-tát khác hẳn hàng Bích-chi Phật và A-la-hán. Họ kiên quyết giúp cho mọi chúng sinh được giác ngộ, và cũng được gọi là làm lợi lạc quần sinh.
Nói tóm lại, A-la-hán, Bích-chi Phật, Bồ-tát là người đã tu tập giác ngộ. Ở đây, chúng ta có thể nói một người tu tập lần lượt đạt được các quả vị A-la-hán, rồi Bích-chi Phật, rồi đến quả vị bồ-tát thông qua phương tiện Lục độ ba-la-mật và vô số công hạnh. Như một người hiện thân ở cả ba trình độ tu tập khác nhau.
Ba hình thức giác ngộ có thể thảo luận rất dài. Còn nếu muốn thực hành thì có rất nhiều sự sai biệt. Trong mỗi trình độ lại có nhiều cấp độ khác nhau. Trong sự phân biệt lại có thêm nhiều phân biệt. Tiến trình của hình thức giác ngộ này rất nhiều giai đoạn. Cho đến khi ba hình thức giác ngộ này được viên mãn mới gọi là hoàn thành. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh - Quyển 1)
[Đại Nhân: Theo đạo Phật, người chưa biết tu gọi là phàm phu. Người nghe lời Phật dạy, phát tâm tu chứng từ Sơ quả Tu-đà-hoàn, đến Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, thì gọi là Thanh văn. Còn người phát tâm tu Lục độ vạn hạnh chứng từ Thập tín… lên Sơ địa tiến dần đến Thập địa, gọi là Bồ-tát. Và khi công hạnh tự giác giác tha của Bồ-tát đã viên mãn thì thành Phật. Như vậy, hàng Bồ-tát, Phật gọi là đại nhân. (HT Thích Thanh Từ giảng Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác)]
+ Chấm dứt biệt nghiệp: X. Ước muốn giải thoát.
+ Ước muốn/ nguyện giải thoát: Khi một người bắt đầu ước muốn giải thoát thì y được dạy thực hành “từ bỏ các thành quả của hành động”; nghĩa là y từ từ xóa bỏ trong chính mình ý muốn chiếm hữu bất cứ đối tượng nào. Một cách tự nguyện và có cân nhắc, trước tiên, chính y khước từ đối tượng đó và như vậy, tập cho chính mình quen hành động một cách mãn nguyện mà không cần có nó. Sau một thời gian, y không còn nhớ đến nó nữa và y thấy lòng ưa thích đối tượng đó biến mất khỏi tâm trí y. Trong giai đoạn này, y phải rất thận trọng, không xao lảng bất cứ việc gì thuộc về nhiệm vụ của mình, vì y đã trở nên lãnh đạm trước kết quả mà việc đó mang lại cho y, và y tập làm tròn mọi bổn phận với sự chú tâm cần trọng, trong khi vẫn hoàn toàn dửng dưng trước các kết quả đưa đến. Khi nào đạt được mức hoàn hảo trong việc này, không còn ưa thích mà cũng không ghét bỏ bất cứ đối tượng nào nữa, lúc đó, y không còn tạo ra nghiệp nữa. Do không còn mong cầu bất cứ điều gì nơi cõi trần hoặc nơi Devachan, y không còn bị lôi cuốn vào nơi đâu cả; y không còn ham muốn gì, mà cũng không còn gì có thể ban phát được cho y, mọi khoen nối giữa chính y với chúng đều bị tách rời hết. Đây là cách chấm dứt biệt nghiệp, nếu xét về mặt làm phát sinh nghiệp mới. (MTNX, 297-298)
+ Giải thoát phải có Trí huệ và Định lực: - Trí huệ là quán sát minh liễu - Định lực là chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc => Phải đến cảnh giới này thì con người mới không tạo nghiệp (Trích: A DI ĐÀ PHẬT-KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN tập 10- LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG GIẢNG GIẢI)
+ Cầu đạo Giác Ngộ - Cầu Đạo Giải Thoát - Cầu Đạo Vô Thượng Bồ Đề: Trích đoạn Phật dạy về Cầu đạo trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật bảo Phú Lâu Na:
Do vì không siêng năng cầu đạo giác ngộ vô thượng. Chỉ thích nghĩ đến Tiểu thừa, được một ít liền cho là đủ. Giảng giải:
Ở đây Đức Phật quở trách Phú-lâu-na rất nặng. “Tại sao ông không trừ được trần lao phiền não? Tại sao tâm ông dao động để cho được trần lao phiền não khởi dậy? Đó là do vì không siêng năng cầu đạo giác ngộ vô thượng. Ông không thường lưu tâm đến việc tu tập đạo giác ngộ vô thượng, nhưng chỉ thích nghĩ đến Tiểu thừa, được một ít liền cho là đủ. Ông chỉ ham thích giáo lý của hàng Nhị thừa và hài lòng với sự chứng đắc các quả vị thấp nhỏ.”
Phần này trong kinh văn rất quan trọng. Mọi người nên tự phản tỉnh nơi chính mình. Tự hỏi rằng mình có thực tâm tinh tấn cầu đạo giác ngộ vô thượng không? Quý vị có chân thực cần cầu Phật pháp không? Nếu quý vị thực tâm muốn thâm nhập Phật pháp, quý vị cần phải siêng năng cầu đạo vô thượng bồ-đề. Hàng ngày quý vị hãy tự hỏi rằng mình đang làm gì ở đây? “Có phải là chỉ theo đám đông? Họ cười thì tôi cười, Họ nói thì tôi nói chăng?” Nếu quý vị là người chỉ theo đám đông, thì quý vị chưa phải là người đang tu tập công phu. Nếu quý vị thực tâm hạ thủ công phu, thì thậm chí khi người bên cạnh nói, quý vị cũng chẳng biết họ nói gì. Nếu có người đi qua, quý vị cũng không thấy.
“Tôi không phải là người điếc, Tôi chẳng phải là người câm,” quý vị nói. “Tại sao tôi không thấy được họ? Tại sao tôi không nghe họ nói?”
Nếu quý vị không thấy và không nghe, dù quý vị chẳng phải là người điếc hoặc người mù, thì đó là điều vi diệu. Thế là quý vị thực sự đạt được điều gì đó rồi. Quý vị không mù, không điếc, nhưng:
Nhãn quán hình sắc nội bất hữu
Nhĩ thính trần sự tâm bất tri.
Nếu quý vị có thể được như vậy, thì tôi biết ngay là quý vị đang siêng năng cầu đạo vô thượng bồ-đề. Nếu không được như vậy, thì quý vị phải dũng mãnh lên, thực tâm đặt mình trên con đường đạo, cần cầu đạo giác ngộ vô thượng.
Một hôm có người hỏi tôi, “Ở đây chẳng có nơi nào yên tĩnh cả.” Nếu trong mình tự yên tĩnh, thì mọi nơi đều yên tĩnh. Nếu tự trong mình không được yên tĩnh, thì nơi nào cũng rối loạn cả. Nếu trong tâm quý vị không được yên tĩnh và bị xoay chuyển bởi ngoại cảnh, thì đi đâu quý vị cũng có ngoại cảnh đi theo. Bất luận quý vị đi đâu–lên núi, xuống biển, ở ngoài trời, trong nhà, trong cốc, ngoài hiên nhà–bất luận đi đâu quý vị cũng không được yên tĩnh. Vì quý vị thậm chí không được hòa hợp với chính mình. Quý vị trở nên bực dọc với chính mình. Tại sao vậy? Vì quý vị không thể làm chủ được hoàn cảnh chung quanh mình. Quý vị đã bị nó tác động.
Khi có ai đi ngang qua một người đang tinh tấn hành trì, thì người đang tu đạo ấy chẳng để ý người đi qua; nếu có ai nói điều gì đó ở bên cạnh, người ấy cũng không nghe.
Quý vị có thể phản đối, “Thầy luôn luôn khuyến khích làm những việc khó làm. Con không thể nào làm được.”
Nếu quý vị tìm ra cách để làm cho được cái việc khó làm ấy, thì đó là điều đáng nói. Tất cả mọi chuyện đều là vô nghĩa nếu quý vị chứng đạo. Nếu quý vị có thể chuyển thành phố ồn ào thành như núi rừng yên tĩnh, thì quý vị đã có chút công phu.
Thế thì, hãy tự hỏi mình đã tinh tấn cầu đạo vô thượng bồ-đề chưa. Hay chỉ đến đây để tìm lỗi người khác? “Thế này thì hoàn toàn đúng, nhưng thế nọ thì hoàn toàn sai.” Có phải quý vị chỉ chỉa máy quay phim về phía bên ngoài để thu hình người khác chứ không phải của chính mình? Quý vị nên tự hồi quang phản chiếu, quay cái nhìn lại bên trong mình. Quý vị có thực sự tu hành trong suốt thời gian mình đang ở đây để học Phật pháp hay không? Nếu không được như vậy, có nghĩa là quý vị đã lãng phí thời gian. Nếu quý vị thật sự tu hành nghiêm chỉnh, hãy tự hỏi mình thử mình đã có được những lợi lạc gì? Nếu chưa có được điều gì cả, thì nên nỗ lực tinh cần hơn. Hãy lấy ví dụ học chú Thủ-lăng-nghiêm. Quý vị đã làm được gì? Quý vị có tụng thuộc lòng được chăng? Rốt ráo, Kinh Thủ-lăng-nghiêm được nói là nhân có chú Thủ-lăng-nghiêm. Nếu không có chú Thủ-lăng-nghiêm, thì cũng sẽ không có Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Thế nên nếu quý vị không hiểu được nội dung Kinh Thủ-lăng-nghiêm, gọi là tạm được nếu như quý vị tụng thuộc lòng chú Thủ-lăng-nghiêm. Nhưng đừng bận tâm đến điều nầy nhiều quá. Quý vị vẫn ăn khi đói và vẫn ngủ khi mệt. Đừng quá quan tâm đến chuyện học thuộc lòng chú Thủ-lăng-nghiêm đến mức không thể nuốt nổi thức ăn và bị chứng mất ngủ. Nếu quý vị lo lắng thái quá, đến mức sẽ giảm khả năng học chú.
Tôi đã bảo quý vị là hãy nhìn mà đừng thấy, lắng nghe chứ đừng nghe tiếng. Nhưng mọi người đều bị xoay chuyển bởi hoàn cảnh mà không tự kiềm chế được. Quý vị để ý nhiều đến việc gì khi lần đầu thấy chúng. Nhưng thời gian sau thì quên ngay, và sự việc ấy không còn tồn tại trong quý vị nữa. Lấy cái đồng hồ làm ví dụ. Đồng hồ cũ thường kêu “tick, tock” rồi đổ chuông. Nếu quý vị có một cái đồng hồ như vậy, thì ban đầu quý vị còn chú ý đến tiếng “tick, tock” của nó, nhưng sau khi quen rồi, quý vị chẳng còn nghe gì nữa cả. Nếu để ý đến, thì vẫn nghe tiếng “tick, tock,” nhưng nếu không để ý, như thể chẳng nghe gì cả. Điều nầy chứng minh rằng nếu tâm mình chẳng vướng mắc vào thứ gì, thì chẳng có gì tồn tại. Đó là ý nghĩa câu trên: ...
Khi quý vị theo đại chúng đi ngồi thiền, nhưng rồi than phiền có người cục cựa miết. Người bên cạnh mình cử động, nhưng đừng trách cứ họ. Đó chỉ là do mình chưa có nhiều định lực. Nếu mình có định lực, dù bất luận người bên cạnh có cử động đến mức nào, mình cũng chẳng biết. Vì sao quý vị biết được người bên cạnh cử động? Vì chính mình đang động. Tâm mình đang động.
Đó là một việc. Có việc lớn, việc nhỏ, việc xấu, việc tốt. Việc quý vị cần phải làm là cách thế nào để vận dụng Phật pháp mà tu hành, còn những việc khác chẳng có vấn đề gì.
Quý vị sẽ phản đối, “Nhưng con không thể nào vận dụng được.” Nếu quý vị không thể vận dụng được, quý vị phải nghĩ ra cách để làm. Quý vị phải duy trì công phu vào một hướng. Khi công phu đã sâu, tự nhiên quý vị hoàn toàn không bị xoay chuyển bởi hoàn cảnh. Khi đã có được định lực, chẳng có cảnh giới nào làm động tâm mình được. ....
Con người thường cư xử bốc đồng do họ thiếu học vấn. Nếu định lực mình sung mãn, thì dù có việc gì quá xấu, quý vị vẫn có thể tác động đến nó khiến trở thành tốt hơn. Chẳng hạn, tôi từng kể cho quý vị nghe, hễ khi nào tôi ở Cựu Kim Sơn thì ở đó không xảy ra động đất. Những ai chưa thâm hiểu Phật pháp thì cho đó là điều khó tin nỗi. Nhưng nếu quý vị thâm nhập Phật pháp và thực hành công phu cho đến chừng nào có được định lực, sẽ thấy bất kì mình đến đâu, đại địa đều bình an. Hoàn toàn chắc chắn ở đó không có vấn đề gì. Nên bây giờ chúng ta đang tu tập định lực, đến khi chúng ta thực sự có được định lực, thì sẽ có sự bình an bất kì mình đến nơi đâu. Nếu chúng ta không có định lực, thì dù có ở nơi an ổn vẫn không được an ổn, vì tâm mình đang dao động. Với định lực, quý vị có thể xoay chuyển hoàn cảnh chung quanh mình. Điều nầy rất quan trọng.
Do vây, trước hết, quý vị phải học thuộc lòng chú Thủ-lăng-nghiêm, rồi còn phải tu tập Thủ-lăng-nghiêm đại định. Với Thủ-lăng-nghiêm đại định, chúng ta chẳng còn lo ngại điều gì cả; quý vị thật sự thấy mình vững chãi. Thế nên bây giờ khi tôi đang nói đây thì mặt đất ở Cựu Kim Sơn vẫn vững chãi, và dù bom nguyên tử có rơi xuống đây, cũng chẳng hề gì, nó sẽ không nổ. Quý vị phải có niềm tin và đừng sợ. Với chú Thủ-lăng-nghiêm, và với thực tế là chúng ta đang nghe giảng Kinh Thủ-lăng-nghiêm thì chẳng có gì để sợ cả. Chư Phật và Bồ-tát chắc chắn sẽ che chở cho chúng ta khi đang học Phật pháp ở đây, nên quý vị đừng bận tâm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Các mức độ Giác ngộ: Đức Phật nói "Như thế cho đến...". HT Tuyên Hóa giảng: Có nghĩa là các mức độ của giác ngộ, từ Lục độ cho đến thập trụ, thập tín, thập hạnh, thập hồi hướng và thập địa; cho đến cả quả vị Phật, đều được bao gồm trong không Như Lai tạng. Từ các giai vị của hàng Bồ-tát đến quả vị Phật phải cần rất nhiều thời gian, và cần rất nhiều công hạnh tu tập, nhưng tất cả đều là không, quả vị Phật cũng là không.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Thập trụ: Trong kinh Hoa Nghiêm có phẩm giảng về Thập Trụ, mục Trị Địa Trụ_HT Tuyên Hóa (Nguồn: Xem tại đây).
+ Tu Thập Trụ Trong Tâm Thức Vị Tha/ Tầng thứ 2 để khai mở Tâm thức (Trụ = An trụ trong tâm thức khai mở):
* Giới thiệu về Thập Trụ: Có 4 tầng tâm thức từ dưới lên, người tu đi từ Vị ngã => Vị tha => Vô ngã => Bất nhị.
Tầng thứ 1: Tâm thức Vị ngã/ thuộc Phàm nhân chưa tu - Đa số nhân loại. Người tu chuyển hóa từ vị ngã sang vị tha.
Tầng thứ 2: Tâm thức vị tha này có 3 bậc (từ dưới lên) - Bồ Tát đạo: Thập trụ - Thập hạnh - Thập hồi hướng
Tầng thứ 3: Tâm thức Vô ngã có 2 phần (Dưới lên): Từ Sơ địa Bồ Tát - Nhị địa Bồ Tát .... Thất địa Bồ Tát
Tầng thứ 4: Tâm thức Bất nhị có ... (Dưới lên): Từ Bát địa Bồ Tát đến Thập địa Bồ Tát
* Kinh Hoa Nghiêm nói: TU MỘT LÀ TẤT CẢ, đây là Mô hình Viên Dung/ Mô hình mới phù hợp trí tuệ phát triển - Tức là thành tựu Sơ địa Bồ Tát sẽ ứng với Tâm Phật, Bồ Tát không khác. Pháp tu này ứng với Chân Tâm được mở rộng/ Vòng tâm thức liên tục, liên tục lan tỏa ra vô cùng vô tận, tuy là nó mở rộng trên cùng một mặt phẳng (Như giọt nước lan tỏa), cho đến khi tương ứng với Tâm thức Phật, Bồ Tát, vì Tâm Bất nhị của Phật, Bồ Tát nằm ở tất cả các tầng mức từ thấp đến cao, cho lên thành tựu Tâm bất nhị ở tầng thấp, cũng tương ứng với Tâm Phật Bồ Tát, xem như Tâm Phật, Bồ Tát đã bao trùm đồng nhất với Tâm thức của người tu. Điều này khác biệt hoàn toàn với Mô hình Hành Bố, là cách tu tiến hóa lên từng bậc thang tiến hóa, là phép tu thời xưa cách này ngàn năm.(Nguồn: Xem tại đây)
Mời xem các Clip Thầy Hằng Trường giảng chi tiết dưới đây:
1. Sơ Phát Tâm Vị Tha - Thập Trụ: Khởi đầu từ Tâm thức Vị ngã tiến lên Vị tha, là khởi phát tâm làm lành lánh giữ, noi gương Thánh nhân chánh đạo mà tu, ví như Phật, Bồ Tát. (Nguồn: Sơ Phát Tâm Tu Thập Trụ 1-2-3-4-5)
2. Tâm Vị Tha - Trị Địa Trụ: Tu sửa đổi tâm vị ngã thành vị tha, tức thay tâm vì mình thành vị tha - Lợi mình tức là lợi tha. (Nguồn: Tu Trị Địa Trụ 1-2-3)
3. Tâm Vị Tha - Tu Hành Trụ: Tu tâm rộng mở, tuy còn tán loạn, từng bước cân bằng để an trụ bất động, tiến tới tu nhập thất rất quan trọng để có thành tựu. Thay đổi hoàn toàn tâm thức vị ngã thành vị tha. Nhận thức vạn sự Vô thường, Vô ngã, không còn phân biệt (Để thành tựu cần trên dưới 10 năm tu hành và tham thiền đều đặn hàng ngày). Thoát khỏi ngũ ấm. nhận thức được thân thể không thật, là ảo ảnh. Tu hành là phải tìm sự khó khăn, khổ hạnh, khổ đau. Còn nếu Tu hành để tìm sự an toàn thì là bản năng của Bản ngã, không tiến hóa được, dậm chân tại chỗ. (Nguồn: Tu Hành Trụ 1-2-3-4-5-6-7);
4. Tâm Vị Tha - Tu Hành Trụ lên Sinh quý trụ: Khi nhập thất tu tâm thiền định, trong định sẽ nhận thấy Vạn sự như Pháp giới, chúng sinh giới, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành ... là Không; Địa, thủy, hỏa, Phong đều không ... Khi xuất định Nhập Thế - Như mình Sinh ra một lần nữa với mức tiến hóa cao tột, thay đổi toàn diện cả Thân Tâm. Khi đó, ta sẽ có cái nhìn cuộc sống Vô thường, đúng thật là ảo ảnh ... => Thay đổi tầm nhìn từ Chánh Pháp, dùng Pháp Xuất thế gian kiến giải Pháp thế gian như Đức Phật dạy như đứng trên đỉnh tòa nhà cao nhìn xuống ngã tư đường - Nhìn toàn cảnh (Nguồn: Tu Hành Trụ)
4.1. Tâm Vị Tha - Tu Hành Trụ lên sinh quý trụ: Tổng hợp lại, cần tu thiền Nhập thất mỗi năn vài lần ngắn ngày cho đến đủ 1000 ngày càng tốt, để có định lực để giữ Tâm luôn trong định - Tĩnh lặng nhìn đời và thực hành ban giải tình thương ... (Nguồn: Tu Hành Trụ - Sinh Quý Trụ);
* Tổng kết ba trụ đầu tiên: Người tu khởi đầu là thay đổi tâm lượng bao trùm của mình, giúp đỡ chúng sinh theo gương các vị Bồ Tát, từ đó mang lại hạnh phúc cho chính mình. Tu thiền giúp an định, mở tâm vô vi vững chắc, thấy được thực chất của ngũ ấm (Nguồn: Nhìn lại ba trụ đầu)
4.2. Tâm Vị Tha - Sinh Quý trụ tiếp: Cần tu nhập thất để tiến hóa Tâm thức. Ra thất - Nhập Thế Phụng sự chúng sinh vô kỷ, từng bước giải thoát luân hồi sống trên đời mà không bị đời chuyển, thực hành phụng sự theo cách hiểu Chánh Pháp xuất thế gian, nhìn thấu bản chất con người Vô minh và luôn tha thứ và từng bước giúp họ giải thoát... Cần chủ động tạo nhiều duyên lành với chúng sinh, vì KHÔNG CÓ DUYÊN THÌ KHÔNG ĐỘ ĐƯỢC, (Nguồn: Tu Hành Trụ - Sinh Quý Trụ 1,2,3)
5. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Cụ túc phương tiện: Khi Tu thành tựu nhập thất, vị Bồ Tát bất thối chuyển, luôn độ hóa cứu độ chúng sinh vô điều kiện, với lòng hy sinh vị tha vô bờ; (Clip 4) - Vị Bồ tát dùng Phương Tiện thiện sảo giúp làm lợi ích chúng sinh, thay đổi số mệnh với người có duyên, giúp chúng sinh mở lòng, không bị kẹt trong Vô minh để hướng thượng. Độ là ĐẢ THÔNG MỌI TẮC NGHẼN trong vạn sự cho chúng sinh. (Nguồn: Cụ Túc Phương Tiện Trụ 1, 2, 3, 4, 5, 6 )
* Tổng kết nhìn lại năm trụ: Hiện không xem được, bị lỗi (Nguồn: Nhìn lại năm trụ)
6. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Chính Tâm Trụ: Định lực/ Từ Bi lực nếu mình thành tựu không gì phá được. Việc tiếp xúc với chúng sinh rất quan trọng, vì là cơ hội trả nghiệp, chỉ có gặp chướng duyên khuấy động quấy phá lên thì Ta mới dùng Tâm trong Định từ bi hóa giải để triệt tiêu nghiệp đó đi, làm trong sạch Tâm thức đang lắng đọng (Vì tâm định chúng không sinh động) trong tâm (Nguồn: Chính Tâm Trụ 1, 2, 3, 4, 5, )
7. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Bất Thối Trụ: Mời xem trực tiếp (Nguồn: Bất Thối Trụ 1, 2 )
8. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Đồng Chơn Trụ: Mời xem trực tiếp (Nguồn: Đồng Chơn Trụ...1, 2, 3, 4)
9. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Pháp Vương Tử Trụ: Mời xem trực tiếp (Nguồn: Pháp Vương Tử Trụ 1, 2, 3, 4, 5, 6)
10. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Quán Đỉnh Trụ: Mời xem trực tiếp (Nguồn: Quán Đỉnh Trụ...1, 2, cuối)
+ Tu Năm T - Con Đường Khai Mở Tâm thức: Mời xem trực tiếp (Tu năm T có 10 Clip)
Xem danh sách tất cả các Clip - Bài giảng của Thầy Hằng Trường về Thập trụ: Xem tại đây
+ Người trí nhớ kém Tu vẫn giác ngộ.
Châu-lợi-bàn-đà-già (Tiểu Ðịa Ðạo) cùng với Bàn-đà-già (Ðịa Ðạo) là hai anh em. ... Anh sanh ra như thế nào thì em cũng sanh ra đúng như thế đó, cách sanh thì giống nhau, nhưng trí huệ thì lại khác nhau xa. Người anh thì thông minh tuyệt đỉnh, còn người em thì ngu si quá mức. Ngu si đến cỡ nào? Ngu si đến nỗi nửa bài kệ học cũng không thuộc. Phật bảo năm trăm vị La-hán dạy cho ông một bài kệ:
Giữ miệng, nhiếp tâm, thân không phạm,
Chớ hại tất cả loài hữu tình,
Khổ hạnh vô ích nên xa lánh,
Hành giả như thế mới độ sanh.
Giữ miệng, nhiếp tâm không cho buông lung, thân không phạm giới, đó là giữ ba nghiệp thanh tịnh. Ðối với bất cứ chúng sanh nào cũng không nên làm cho họ sanh phiền não, là chẳng nên để cho họ vì mình mà sanh phiền não....
Năm trăm vị La-hán mỗi ngày thay phiên nhau dạy Châu-lợi-bàn-đà-già học bài kệ tụng này, học rất lâu mà ông vẫn không thuộc. Dù năm trăm vị La-hán đều có thần thông dạy ông đọc một lần, hai lần, ba lần, bốn lần, năm lần, sáu lần..., dạy rồi hỏi ông, ông lại cũng không nhớ. Vì thế người anh ông nổi giận mới bảo ông hoàn tục, không nên đi tu nữa. Nhưng Tiểu Ðịa Ðạo trí nhớ quá kém cõi mà tánh giận hờn lại quá lớn, mới nói với anh rằng: "Anh không cho tôi xuất gia thì tôi chết cho anh xem!" Nhơn đó ông ra sau vườn hoa định treo cổ. Bấy giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni biến thành vị thần cây, nói với ông: "Anh là phần anh, còn ông ở đây tu hành có sao đâu."
Tiểu Ðịa Ðạo nghe nói nghĩ thầm: "Phải đấy! Anh là anh, ta là ta. Anh không có quyền bảo ta không thể xuất gia."
Ðức Phật lại nói: "Bây giờ ta dạy ông một câu Chửu tảo, tức là quét đất, quét tâm của ông, quét sạch những bụi bặm trong tâm của ông."
Tiểu Ðịa Ðạo nghe nói nghĩ thầm: "Phải đó! Quét những bụi dơ trong tâm mình cho sạch." Tuy nhiên, ông nhớ được chữ Chửu thì quên mất chữ Tảo; nhớ được chữ Tảo lại quên mất chữ Chửu; giống như chúng ta niệm Phật, càng niệm vọng tưởng càng nhiều. Nhưng ông ta là người cố gắng không biếng lười, từ sáng tới chiều "Chửu tảo" quét tâm mình. Niệm tới niệm lui mãi, không đầy một tuần lễ, được hoát nhiên khai ngộ. Một khi đã khai ngộ thì cái gì cũng rõ biết hết, thông đạt được thật tướng các pháp, so với anh ông thì ông thông minh gấp nhiều lần. Cho nên người ngu si chỉ cần dụng công tu hành thì ai cũng có thể khai ngộ được. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Pháp tu cho người trí nhớ kém - Nghiệp chướng sâu dày => Thành trí sáng - Nhớ dai:
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng, dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được; những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng.”
Lược giảng:
“Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa—các sách kinh Phật và điển chương—sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng ...” “Đọc” tức là nhìn vào sách mà đọc; còn “tụng” là đọc mà không cần nhìn vào sách bởi đã thuộc nằm lòng.
Những người đó vừa nhìn thấy các kinh điển Đại Thừa thì nâng niu, trân quý hơn bất kỳ báu vật nào khác, và liền phát tâm Đại Thừa không thể nghĩ bàn mà lập nguyện rằng: “Tôi nhất quyết phải đọc tụng bộ kinh này. Bất luận thế nào tôi cũng phải học thuộc bộ kinh này!” Thế nhưng, “dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được.” Những người đó phát tâm bất khả tư nghì, có chí nguyện muốn đọc tụng các kinh điển Đại Thừa, và còn gặp được bậc minh sư tận tâm dạy cho cách đọc kinh, xem kinh nữa. Tuy nhiên, họ cứ học thuộc rồi lại quên. Mặc dù họ chăm chỉ cần cù học tập trong suốt một thời gian dài—có thể là trong vài tháng mà cũng có thể là trong một năm hoặc nhiều năm—họ vẫn không thể nào đọc cho trôi chảy, tụng cho nhuần nhuyễn được! Vì sao họ cứ học rồi lại quên, phải học đi học lại mãi như thế?
“Những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch ...” Đó là do bị nghiệp chướng từ đời trước ngăn che, khiến họ không thể nào thuộc được kinh điển. Vì nghiệp chướng, mà họ cảm thấy lười biếng, không muốn tụng kinh. Vì nghiệp chướng, mà lúc họ học kinh thì cơn buồn ngủ ập đến. Vì nghiệp chướng, mà lúc họ muốn đọc tụng thì đầu óc lại hôn trầm. Tuy nhiên, cũng thật là kỳ lạ, khi không tụng kinh thì họ thấy đầu óc rất tỉnh táo, nhưng hễ tụng kinh thì họ lại cảm thấy buồn ngủ—cứ đặt quyển kinh xuống, không tụng nữa, thì con ma ngủ bỏ đi; mà hễ cầm quyển kinh lên để tụng thì con ma ngủ lại kéo tới!
Tôi tin rằng vài người trong quý vị đã có kinh nghiệm về việc này. Quý vị muốn nghe kinh ư? Ngay tức khắc cơn buồn ngủ xâm chiếm quý vị! Ngược lại, nếu quý vị nói chuyện thị phi, nói những chuyện vô ích, thì càng nói càng hăng say, càng nói càng hào hứng, nói đến nỗi nước miếng văng tới tấp như mưa vậy mà cũng chẳng thấy mệt mỏi hoặc buồn ngủ chút nào!
“Cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng.” Do vì nghiệp chướng chưa được tiêu trừ nên họ không có khả năng đọc tụng, không có được sức nhớ dai, không thể học thuộc kinh điển Đại Thừa.
Kinh văn:
“Những hạng người này, khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thì nên đem hết bổn tâm mà cung kính bày tỏ; rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, cùng tất cả đồ chơi cúng dường Bồ Tát. Lại đem một chén nước trong đặt trước Bồ Tát một ngày một đêm, sau đó chắp tay thỉnh để uống, mặt day về hướng Nam; khi nước sắp vào miệng phải chí tâm trịnh trọng. Uống nước xong, phải kiêng cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày. Những người thiện nam thiện nữ này, trong giấc chiêm bao sẽ thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên đến chỗ họ ở mà rưới nước quán đảnh cho. Những người này thức dậy liền được thông minh, các kinh điển một phen lọt vào nhĩ căn thì liền nhớ mãi, không còn quên một câu kinh hay một bài kệ nữa!”
Lược giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Những hạng người này, khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thì nên đem hết bổn tâm mà cung kính bày tỏ ...” “Bày tỏ” tức là trình bày, nói rõ ý kiến của mình. Bày tỏ ý kiến gì?
Những người đó chớ nên buồn bã ưu sầu vì sự kém nhớ dễ quên, học đâu quên đó của mình, chỉ cần khi họ nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, trông thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, họ nên dốc trọn vẹn bổn tâm—tức là “diệu minh chân tâm,” cái tâm chân thật, vi diệu, sáng suốt của chính mình chứ không phải cái tâm gian dối xảo trá— mà cung kính thưa trình với Địa Tạng Vương Bồ Tát, khấn nguyện rằng: “Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát! Xin Ngài từ bi giúp con dẹp trừ con ma ngủ, xua tan mọi ma chướng đang ngăn che trí nhớ của con, để cho đầu óc con được sáng suốt minh mẫn, có khả năng ghi nhớ thật tốt!”
“Rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, cùng tất cả đồ chơi cúng dường Bồ Tát.” “Thức uống” ở đây không phải là rượu, mà là nước lọc, nước đã đun sôi để uống. Quý vị chớ lầm “thức uống” này là rượu; không phải vậy đâu! Nếu quý vị uống rượu thì trí nhớ của quý vị sẽ càng tệ hại hơn nữa đấy!
Quý vị đem các món đồ chơi cúng dường Bồ Tát để làm gì? Bồ Tát cũng cần đồ chơi sao? Bồ Tát cũng thích đồ chơi sao? Thật ra, ngay cả các đồ chơi, như trái banh của trẻ con, đều có thể đem cúng dường cho Bồ Tát Địa Tạng được cả. Địa Tạng Vương Bồ Tát không nhất thiết là sẽ chơi đá banh, nhưng nếu quý vị đem những đồ vật mà mình yêu thích đến cúng dường Ngài, thì Ngài rất hoan hỷ.
“Lại đem một chén nước trong—phải là thứ nước thật tinh khiết, không được dùng nước dơ—đặt trước Bồ Tát một ngày một đêm. Những người đó nên lấy một chén nước trong đặt trước mặt Địa Tạng Vương Bồ Tát để cúng dường suốt một ngày và một đêm. Sau đó chắp tay thỉnh để uống, mặt day về hướng Nam; khi nước sắp vào miệng phải chí tâm trịnh trọng.” Lúc uống chén nước này, họ phải ngoảnh mặt về hướng Nam và phải hết sức cung kính, trân trọng, phải đem lòng chí thành khẩn thiết mà quán tưởng rằng Địa Tạng Vương Bồ Tát đã gia trì chén nước này—tôi nhận thấy rằng điều này vô cùng quan trọng.
“Uống nước xong, phải cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ cùng các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày.” Sau khi uống chén nước đó rồi, thì đừng ăn năm thứ có mùi vị hăng nồng gọi là “ngũ tân”—tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén (hưng cừ). Năm thứ này đều làm gia tăng sự hôn trầm, khiến con người trở nên ngu si thêm và tâm dâm dục càng lớn mạnh hơn, cho nên chúng ta cần phải kiêng cữ. “Cữ” tức là kiêng cữ, không nên dùng—những người đó phải cẩn thận tránh dùng năm món hăng nồng này, đừng dùng rượu thịt, đừng có hành vi sắc dục, đừng nói dối, và đừng làm những việc giết hại.
Sau khi kiêng cữ, ngăn ngừa như thế trong một tuần lễ hoặc ba tuần lễ, “những người thiện nam thiện nữ này, trong giấc chiêm bao sẽ thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên—Pháp thân vô biên—đến chỗ họ ở mà rưới nước quán đảnh cho.” “Rưới nước quán đảnh cho” tức là Bồ Tát Địa Tạng rưới nước cam lồ trên đỉnh đầu của các thiện nam tín nữ đó.
Trong Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn có một ấn pháp gọi là “Tay Cam Lồ” (Cam Lồ Thủ)—đây chính là ấn pháp Bồ Tát dùng để quán đảnh cho quý vị. Tay Cam Lồ này hễ duỗi ra thì quý vị sẽ cảm thấy như được tắm mát, có nước xối xuống đầu mình gột rửa mọi cấu trược, trừ sạch hết thảy nghiệp chướng. Nếu quý vị tu tập ấn pháp Tay Cam Lồ đến chỗ thành tựu, thì trong tương lai quý vị cũng có thể quán đảnh cho người khác. Người tu tập theo pháp môn này quyết không được lười biếng—một ngày cũng không được gián đoạn, một ngày cũng không được trễ nãi việc tu tập; nếu bỏ sót một ngày không tu, thì phải lập lại lần nữa.
“Những người này thức dậy liền được thông minh.” Quý vị thấy có kỳ lạ không? Họ ngủ một giấc, nằm mộng thấy mình được quán đảnh, và khi thức dậy thì trở nên thông minh mẫn tiệp; quý vị nói có tuyệt diệu hay không chứ? Quý vị có muốn mình cũng được như thế không? Nếu muốn được như thế thì quý vị hãy làm thử xem sao!
“Các kinh điển một phen lọt vào nhĩ căn thì liền nhớ mãi, không còn quên một câu kinh hay một bài kệ nữa!” Trước kia thì họ hay quên, song bây giờ thì không còn quên nữa; cho dù họ muốn quên cũng chẳng thể nào quên được! Những người này ngay cả một câu kinh, một bài kệ tụng cũng không hề quên. Quý vị xem đấy, thật là mầu nhiệm không thể nói được!
Cũng như có người tìm cách để đừng đến Phật Giáo Giảng Đường nữa, song không nghĩ ra cách nào cả, nên vẫn cứ đến đều đặn—kỳ lạ như thế đấy! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác: Làm người phải biết
Là đệ tử Phật thì phải thường cả ngày lẫn đêm hết lòng thành kính đọc và nghĩ nhớ tám điều giác ngộ này:
1- Phải biết thế gian là vô thường; quốc độ thì mong manh không bền chắc; bốn đại là khổ, là không; năm ấm là vô ngã, hay sinh diệt đổi dời, nó giả dối không thật cũng không chủ; tâm là nguồn gốc của mọi điều ác; thân là chỗ tu tập nhiều điều tội lỗi. Nếu đúng như vậy mà quán xét thì xa dần sinh tử.
2- Phải biết nhiều dục là khổ; sanh tử nhọc nhằn mỏi mệt đều là do tâm tham dục mà phát sinh. Vậy phải bớt cái lòng tham dục mà học Đạo Giác Ngộ Giải Thoát thì thân tâm mới được an vui tự tại.
3- Phải biết tâm người thì không bao giờ biết đủ, ngược lại chỉ mong cầu được nhiều nên càng thêm lớn nhiều tội ác. Còn người tu hạnh Bồ Tát thì chẳng phải vậy, vì họ thường nghĩ nhớ về pháp biết đủ, sống an vui trong cảnh nghèo khó mà giữ Đạo, và chỉ lấy Trí Tuệ làm sự nghiệp duy nhứt cho đời tu của mình.
4- Phải biết lười biếng thì đọa lạc; nếu thường tu hành tinh tấn thì có thể phá trừ các nghiệp ác phiền não, phá vỡ và hàng phục bốn ma, ra khỏi nhà tù của năm ấm và mười tám giới.
5- Phải biết do ngu si (vô minh) mà có sinh tử. Do vậy người tu hạnh Bồ Tát thì thường nhớ học rộng nghe nhiều, để thêm lớn Trí Tuệ, thành tựu được cái tài nói pháp thông suốt và lưu loát, hầu giáo hóa tất cả chúng sanh, và khiến họ đều được vui lớn.
6- Phải biết nghèo khổ thì thường sanh nhiều thù hận, nên dễ kết nhiều duyên xấu ác. Do vậy người tu hạnh Bồ Tát thì nên nhớ bình đẳng mà bố thí dù người đó có là kẻ oán hay người thân của mình; không nhớ những lỗi lầm xưa, cũng không ghét người ác.
7- Phải biết năm dục là lỗi lầm tai họa. Vậy cho nên tuy còn là người thế tục, cũng đừng nên đắm nhiễm những dục lạc của thế gian. Phải thường nhớ nghĩ đến ba Y, một Bát khất thực, và những dụng cụ đúng pháp của người xuất gia để nuôi lớn chí nguyện xuất gia, giữ cái đạo trong sạch, sống một đời sống phạm hạnh cao vời, và từ bi với tất cả chúng sanh.
8- Phải biết sanh tử không ngừng thiêu đốt nên khổ não cũng không số lượng. Do vậy cần phải phát khởi cái Tâm Đại Thừa, mới có thể cứu giúp khắp tất cả chúng sanh, nguyện thay thế cho chúng sanh chịu vô lượng khổ, và khiến cho các chúng sanh rốt ráo được an vui lớn.
Tám điều như vậy đều là chỗ giác ngộ của chư Phật, Bồ Tát, bậc Đại Nhân; do nhờ tinh tấn hành đạo, tu hạnh từ bi và trí tuệ, mà các ngài ngồi thuyền pháp thân đến bờ Niết Bàn, lại vào sinh tử dùng tám điều này mà khai đạo cho tất cả chúng sanh, khiến cho các chúng sanh thấu rõ được cái khổ sinh tử, mà xa rời năm dục, tu tâm theo con đường Hướng Thượng của chư Phật chư Tổ. Nếu là người đệ tử Phật thì nên đọc tám điều này trong từng mỗi niệm, để diệt vô lượng tội, tiến đến Bồ Đề, tốc lên ngôi Chánh Giác, vĩnh viễn chấm dứt sinh tử, và thường ở trong an lạc. (Nguồn: Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác)
+ Xem thêm giảng kinh của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh rễ hiểu: Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác
71. BIẾT NIỆM BẤT THIỆN KHỞI LÊN
Tỳ-kheo khi sanh niệm ác, bất thiện, liền bằng niệm thiện pháp để đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như người thợ mộc hoặc học trò thợ mộc kéo thẳng dây mực, búng thẳng lên thân cây, rồi dùng búa bén mà đẽo cho thẳng. Cũng vậy, Tỳ-kheo khi sanh niệm ác bất thiện, liền niệm thiện pháp để đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như vậy, Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết trên như thật. Tỳ-kheo như thế, sống cô độc, viễn ly, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ các tai hoạn của tâm và được định tâm. Được định tâm rồi thì biết trên như thật. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Thân, Phẩm 7, số 81)
222. ĐỐI TRỊ NỘI TÂM
Ta sanh niệm vô dục, và tư niệm nhiều. Sanh niệm vô nhuế, niệm vô hại, và tư niệm nhiều. Ta lại suy nghĩ như vầy: ‘Nếu tư niệm quá nhiều thì thân mệt, mất hỷ, tâm liền bị tổn hại. Ta hãy đối trị nội tâm, khiến thường an trú bên trong, tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định để tâm không bị tổn hại’. Sau đó, Ta liền đối trị nội tâm, khiến thường an trú bên trong, tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định mà tâm không bị tổn hại.
Ta đã sanh khởi niệm vô dục, rồi lại sanh khởi suy niệm về hướng pháp, thứ pháp, sanh khởi niệm vô nhuế, niệm vô hại, rồi lại cũng sanh khởi suy niệm về hướng pháp, thứ pháp. Vì sao vậy? Vì Ta không thấy nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện.
Ví như vào tháng cuối thu, đã gặt hết lúa, khi đó đứa chăn bò thả bò nơi đồng ruộng mà nghĩ rằng: ‘Bò ta ở trong bầy’. Vì sao vậy? Vì đứa chăn bò không thấy rằng nhân nơi đó mà có lỗi lầm là sẽ bị chửi, bị đánh, bị trói. Do đó đứa chăn bò nghĩ ‘Bò ta ở trong bầy’ và không thấy rằng nhân nơi đó mà có lỗi lầm là sẽ bị chửi, bị đánh, bị trói, có mất mát. Ta cũng như vậy, sanh niệm vô dục rồi lại sanh niệm hướng pháp, thứ pháp, sanh niệm vô nhuế, niệm vô hại, rồi lại cũng sanh niệm hướng pháp, thứ pháp. Vì sao vậy? Vì Ta không thấy nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện. (Trung A Hàm, Kinh Niệm, Phẩm 9, số 102)
260. HÀNG PHỤC TÂM
Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng, tương ưng với thiện mà sanh niệm bất thiện, khi quán niệm ác có tai họa mà cũng sanh niệm bất thiện, khi không suy niệm về niệm ác cũng sanh tiếp niệm bất thiện, và khi phải dùng hành tướng của tư duy để giảm dần niệm ấy, cũng lại sanh tiếp về niệm bất thiện nữa; Tỳ-kheo đó nên quán như vầy. Tỳ-kheo, vì nhân niệm này mà sanh niệm bất thiện, Tỳ-kheo đó liền ngậm khít răng lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm để tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm, khiến không niệm ác bất thiện.
Khi vị Tỳ-kheo đó dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm thì niệm bất thiện đã sanh liền được trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định. Như hai lực sĩ bắt một người yếu, nắm vững và hàng phục nó, Tỳ-kheo cũng vậy, răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm để không sanh niệm ác bất thiện. Khi vị Tỳ-kheo đó dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, bên trong tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định. (Trung A Hàm, Kinh Tăng Thượng Tâm, Phẩm 9, số 101)
+ Ảo giác: ...... Tại sao lại phải buông bỏ, gạt đi và tránh xa ngọn lửa của những thứ ảo giác? Nếu tâm thức bị ám ảnh bởi những thứ ảo giáo, khống chế bởi những thứ ảo giác, say đắm bởi những thứ ảo giác, thì sẽ là cách bước vào con đường đưa đến các "hành động" thân xác tai hại , các "hành động" ngôn từ tai hại, các "hành động" tâm thần tai hại. Vì thế khi cái chết xảy đến, thân xác tan rã, thì sẽ tái sinh trong cõi địa ngục, gánh chịu phần số bất hạnh, lâm vào cảnh khốn cùng nơi địa ngục. (Nguồn: 11 Loại Lửa - Kinh về Lửa)
+ Linh thị (Vision): Thực ra, linh thị thực sự (true vision) là hình ảnh cảm dục (astral reflection) của Thiên Cơ, được phản chiếu vào các phân cảnh cao của cảm dục thức (astral consciousness) của hành tinh và ở đó được tiếp xúc và nhận thức được bởi những người mà mức tập trung của họ trong đời sống ở độ rất cao. (TLHNM II, 605)
+ Ảo giác (Hallucination): Một trạng thái đôi khi do các rối loạn sinh lý gây ra, đôi khi do các trạng thái đồng cốt (mediumship) và đôi khi do tình trạng say rượu. Nhưng nguyên nhân tạo ra các linh thị phải được tìm kiếm sâu xa hơn là sinh lý học. Mọi hiện tượng như thế, đặc biệt là khi được tạo ra qua trạng thái đồng cốt, đều được đi trước bằng một sự nới lỏng (relaxation) của hệ thần kinh, việc nới lỏng này bao giờ cũng sinh ra một tình trạng từ điện bất bình thường (abnormal magnetic condition) vốn dĩ thu hút đến nạn nhân các làn sóng tinh tú quang. Chính các sóng tinh tú quang này mới mang lại các ảo giác khác nhau, tuy nhiên không phải như cách giải thích của các nhà y học, ảo giác không phải luôn luôn chỉ là các giấc mơ trống rỗng và không xác thực. Không một ai có thể thấy được điều gì vốn không hiện hữu – nghĩa là điều gì không tạo được ấn tượng - trong hoặc trên các làn sóng tinh tú quang (astral waves). Nhưng người có linh thị (seer) có thể cảm nhận được cá đối tượng và quang cảnh (scenes) (dù cho thuộc về quá khứ, hiện tại hay tương lai) vốn không có mối liên hệ bất kể như thế nào với chính y. Hơn nữa, y còn cảm nhận được nhiều điều hoàn toàn không có liên quan với nhau ở cùng một lúc, đến mức tạo ra các kết hợp vô lý và quái dị nhất. Người say rượu và người có linh thị, người đồng cốt và vị cao đồ đều thấy được các linh thị (visions) của họ thuộc riêng từng người trong tinh tú quang; chỉ có điều là trong khi người say rượu, người bị bệnh tâm thần (madman) và người đồng tử không được luyện tập, hoặc người đang bị viêm não (brain fever) tuy thấy (bởi vì họ không thể cản lại việc thấy đó) và nhắc lại các linh thị lộn xộn đó một cách vô ý thức cho chính họ mà không thể kiểm soát được chúng, thì vị cao đồ và nhà Thấu Thị (Seer) có tập luyện cũng thấy nhưng có sự lựa chọn và kiểm soát các linh thị như thế. Họ biết cần tập trung nhân lực của họ nơi đâu, biết được cách nào để làm ổn định các cảnh tượng mà họ muốn quan sát, và biết làm cách nào để thấy được phía bên kia các lớp phủ bên trên và bên ngoài của tinh tú quang. Đối với hạng người trước, các thoáng thấy như thế vào các sóng (của tinh tú quang – ND) đúng là các ảo giác; còn đối với hạng người sau, chúng trở thành sự tái tạo đáng tin cậy của những gì thực sự đã xảy ra, đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra. Các thoáng nhìn một cách ngẫu nhiên đó do người đồng tử nhận được và các linh thị chập chờn của y dưới ánh sáng dễ nhầm lẫn, thì dưới ý chí có điều khiển của các vị cao đồ và người có nhãn thông, chúng được chuyển ra thành hình ảnh vững vàng, thành cách trình bày trung thực về những gì mà vị này muốn thấy bên trong điểm tập trung sự nhận thức của mình. (CKMTTL, 255 – 256)
+ Linh thị (Vision): Thực ra, linh thị thực sự (true vision) là hình ảnh cảm dục (astral reflection) của Thiên Cơ, được phản chiếu vào các phân cảnh cao của cảm dục thức (astral consciousness) của hành tinh và ở đó được tiếp xúc và nhận thức được bởi những người mà mức tập trung của họ trong đời sống ở độ rất cao. (TLHNM II, 605)
+ Ái dục: Ái là Tham. Dục là danh từ chung để chỉ “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ” => Ái dục: Tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi, phiền phức bèn xảy đến. Lòng tham khôn cùng, chẳng đáng sợ ư? Chúng ta nhìn thấy trong xã hội hiện thời, dòng sông ái dục sâu rộng, nhiễm bệnh quá sâu, truyền nhiễm quá rộng. (Nguồn: PS Tịnh Không Giảng Ái dục)
+ Ái dục: Chữ Ái này gồm 2 phần Chân ái vô nhiễm và Ái nhiễm ô dục vọng, cũng là Tâm tham dục, bản chất Tâm ta như đức Phật dậy "Tất cả pháp lấy Dục làm căn bản", đây là nguyên nhân, gốc rễ của Luân hồi được dạy rõ nghĩa trong pháp 12 Duyên sinh. (Xem thêm: Chữ ái)
I- Ái dục - Đức Phật dậy:
* “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. "Có thân yêu là có khổ đau đi kèm"
* “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục.
=> Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có 3 loại ái dục:
1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta.
2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại.
3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thú và tài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn. (Nguồn: Phật dậy về Ái dục)
5. ÁI DỤC: Trích Phật dậy toàn diện về Ái Dục.... Tỳ-kheo biết như thật về ái, biết như thật về tập của ái, diệt của ái và diệt đạo của ái.
Biết như thật về ái? Có ba ái: dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
Biết như thật về tập của ái? Do thọ mà có ái.
Biết như thật về diệt của ái? Thọ diệt tức ái diệt.
Biết như thật về diệt đạo của ái? Tám chi Thánh đạo từ chánh kiến cho đến chánh định là tám.
Đó là Tỳ-kheo đã thành tựu kiến, được chánh kiến, đối với pháp được bất hoại tịnh và thể nhập chánh pháp.
Yêu và không yêu là nhân nơi dục và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có. Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy. Kinh nhiều nội dung giành cho người trí tu. (Nguồn: mục 453- Phật dậy Toàn diện về Ái Dục - Trung A Hàm)
+ Ái dục: Đức Phật dạy: "Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục." Ở đây, "ái dục" tức là ái tình và dục vọng. Sắc dục tức là tâm dâm dục. Trong tất cả, không có gì đáng ngại bằng nữ sắc
* Tứ dục (bốn ý muốn của chúng sanh trong cõi Dục-giới từ loài ở nơi đất (địa cư), loài ở hư không, cho đến chư thiên sáu cảnh Lục-dục):
1) Tình dục (lòng ham tình). Chúng sanh phần nhiều đối với cảnh tình ái trai gái, khởi lòng ham muốn.
2) Sắc dục (lòng muốn sắc đẹp). Chúng sanh phần nhiều đối với cảnh tình ái cái sắc mềm mại, xinh đẹp của trai gái, khởi lòng ham muốn.
3) Thực dục (lòng muốn ăn). Chúng sanh phần nhiều đối với món ăn ngon, khởi lòng ham muốn.
4) Dâm dục (lòng muốn dâm). Chúng sanh phần nhiều đối với chỗ đụng chạm nhiễm trước trong đám trai gái, khởi lòng ham muốn. (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Lòng dâm từ lửa dục: Tại sao con người lại có lòng dâm dục mạnh mẽ? Vì nó đến từ ‘lửa dục–fire of desire’ trong thân thể. Thế nên Đức Phật Không Vương– King of Emptiness, đã dạy Ô-sô-sắc-ma xoay trở lại tánh sáng suốt và nhìn vào tính lửa trong thân thể. Ô-sô-sắc-ma đã thấy được lửa dục trong mình. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Lửa tự tánh/ Tam muội: Tham sân si hình thành biết bao loại ÁC KHÍ, giống như nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng bom nguyên tử do tự chúng ta phát sanh từ lửa tam muội lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử nầy không phải đến từ bên ngoài, mà nó vốn đã có sẵn trong tự tánh. Chân hỏa tam muội trong tự tánh chúng ta vốn thuần là dương, nhưng vì bị ta lạm dụng nên nó biến thành lửa dục.
Trong thân người có tam tiêu hỏa là: thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa nầy có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả. Bởi bên trong có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm nầy.
Trong tâm có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh, bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị).
+ Ái dục trong Pháp 12 Nhân Duyên: ... Với ái, có thân yêu là có đau khổ. Khi Visakhà đến than với đức Phật có đứa cháu trai mới chết, đức Phật đã nói : "Những ai có 100 quả thân yêu là có 100 đau khổ; 90 người thân yêu là 90 người đau khổ... cho đến 1 người thân yêu là 1 người đau khổ." ... Dục và ái đã có mặt, thời có sanh y, có sự tiếp nối một đời sống, nên có sanh y là có đau khổ :(VIII, 8) (Nguồn: Kinh Phật Tự Thuyết - HT Thích Minh Châu dịch giảng)
Xem thêm: HT Tuyên Hóa khai thị về Ái Dục
Xem tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
1. Vô minh: Không rõ biết Khổ, không rõ biết Khổ tập, không rõ biết Khổ diệt, không rõ biết Con đường đưa đến Khổ diệt. (Vô minh là sự mê mờ, không có trí tuệ, không hiểu thấu chân lý tự nhiên gồm 3 khía cạnh: thân, tâm và cảnh. Chúng ta nhận lầm Thân là “cái tôi”, nhà của tôi, tài sản của tôi,... là vô minh - Gốc Luân hồi. Nên nhớ: Xóa bỏ vô minh tức là Minh hiện - Hết luân hồi.)
2. Hành: Có 3: Thân hành (Nam nữ giao cấu), khẩu hành, ý hành. (Vô minh - hành động sai lầm, với động cơ (thiện, bất thiện hoặc vô ký), tạo nên nghiệp tương ứng. Thân khẩu ý đã tạo hiện tại hay trong quá khứ, đều nhận quả tương ứng trong hiện tại và tương lai. Được tích lũy trong Tạng thức, đó là năng lực nghiệp tiềm ẩn dẫn dắt hành trình sinh khởi sau này.)
3. Thức: Là 6 thức trong con người gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. (Toàn thể tâm thức gồm 8 thức tâm vương, chỉ cho sự hiểu biết phân biệt còn nằm trong trạng thái mê lầm. Trong vòng quay sinh tử, dưới sự dẫn dắt của Nghiệp lực, thần thức đi tìm bụng mẹ để tái sinh, tìm cho mình một đời sống mới. Sau khi nhập mẫu thai, Tạng thức có trước nhất, sau đó lần lượt nảy sinh 7 thức còn lại. Thức tạo nên vô số kiếp tái sinh trong luân hồi.)
+ Do Vô minh duyên Hành: Vì vô minh nên có bao loại hành vi chủng tánh nam nữ. Hành vi bản tánh này do tâm mê loạn phát khởi. Có hành vi bản tánh đó rồi thì sanh ra ý thức ngu mê. Thức này chính là Thân trung ấm. Sau khi có hành vi bản tánh nam nữ rồi thì kết một lằn ánh sáng. Thân trung ấm tuy xa muôn ngàn vạn dặm nhưng vì có nhân duyên làm quyến thuộc với cha mẹ nó, nên khi thấy lằn ánh sáng đó liền nhập vào thai mẹ. Sau khi thần thức đầu thai thì lại có danh sắc. Danh tức là bốn uẩn, thọ tưởng hành thức. Sắc uẩn cũng gọi là sắc. Thọ tưởng hành thức khi còn trong thai mẹ chỉ có bốn loại danh thức, nhưng chưa thành thục. Đợi cho đến khi có danh sắc rồi thì mới có sáu nhập. Sáu nhập cũng do sáu căn sanh ra sáu tánh như thấy nghe, ngũi, nếm, giác, biết. (Bát nhã tâm kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
1. Vô minh: Không rõ biết Khổ, không rõ biết Khổ tập, không rõ biết Khổ diệt, không rõ biết Con đường đưa đến Khổ diệt. (Vô minh là sự mê mờ, không có trí tuệ, không hiểu thấu chân lý tự nhiên gồm 3 khía cạnh: thân, tâm và cảnh. Chúng ta nhận lầm Thân là “cái tôi”, nhà của tôi, tài sản của tôi,... là vô minh - Gốc Luân hồi. Nên nhớ: Xóa bỏ vô minh tức là Minh hiện - Hết luân hồi.)
2. Hành: Có 3: Thân hành (Nam nữ giao cấu), khẩu hành, ý hành. (Vô minh - hành động sai lầm, với động cơ (thiện, bất thiện hoặc vô ký), tạo nên nghiệp tương ứng. Thân khẩu ý đã tạo hiện tại hay trong quá khứ, đều nhận quả tương ứng trong hiện tại và tương lai. Được tích lũy trong Tạng thức, đó là năng lực nghiệp tiềm ẩn dẫn dắt hành trình sinh khởi sau này.)
3. Thức: Là 6 thức trong con người gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. (Toàn thể tâm thức gồm 8 thức tâm vương, chỉ cho sự hiểu biết phân biệt còn nằm trong trạng thái mê lầm. Trong vòng quay sinh tử, dưới sự dẫn dắt của Nghiệp lực, thần thức đi tìm bụng mẹ để tái sinh, tìm cho mình một đời sống mới. Sau khi nhập mẫu thai, Tạng thức có trước nhất, sau đó lần lượt nảy sinh 7 thức còn lại. Thức tạo nên vô số kiếp tái sinh trong luân hồi.)
+ Thức này là Thân trung ấm: Vì vô minh nên có bao loại hành vi chủng tánh nam nữ. Hành vi bản tánh này do tâm mê loạn phát khởi. Có hành vi bản tánh đó rồi thì sanh ra ý thức ngu mê. Thức này chính là Thân trung ấm. Sau khi có hành vi bản tánh nam nữ rồi thì kết một lằn ánh sáng. Thân trung ấm tuy xa muôn ngàn vạn dặm nhưng vì có nhân duyên làm quyến thuộc với cha mẹ nó, nên khi thấy lằn ánh sáng đó liền nhập vào thai mẹ. Sau khi thần thức đầu thai thì lại có danh sắc. Danh tức là bốn uẩn, thọ tưởng hành thức. Sắc uẩn cũng gọi là sắc. Thọ tưởng hành thức khi còn trong thai mẹ chỉ có bốn loại danh thức, nhưng chưa thành thục. Đợi cho đến khi có danh sắc rồi thì mới có sáu nhập. Sáu nhập cũng do sáu căn sanh ra sáu tánh như thấy nghe, ngũi, nếm, giác, biết. (Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thức này là Thân trung ấm:
+ Yêu Ghét - Nguyên nhân của sự đầu thai như thế nào?
Thật ra chúng sinh trong loài tứ sinh cũng đều do một niệm vô minh mà hình thành. Chúng sinh vì tạo vọng nghiệp nên sau khi chết đi vào thân trung ấm, sắc thân không còn mà chỉ còn ngũ thông nên mắt nhìn thấy rất xa. Do tập khí ái nhiễm nên thần thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu, cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi chiêu cảm cảnh ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình thành.
Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. Bây giờ “tưởng” bám vào tinh cha huyết mẹ mà lập thành chấp ngã. Do “nghiệp ái làm nhân, cảnh ái làm duyên” mà ở trong thai bảy ngày nên gọi là yết-ma-lam. Được hai tuần thì bào thai gọi là Át-bồ-đàm. Ba tuần thì gọi là Tế-thi. Kiện nam là bốn tuần và Bát-la-xa là hình thể khoảng 35 ngày. Sau 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ. (Nguồn: Kinh Thủ LN_HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thân trung ấm: Trước khi thức thứ tám ra đi, thân thể con người vẫn còn hơi ấm. Khi thức thứ tám đi rồi, thân xác trở nên lạnh. Khi thức thứ tám ra đi đầu thai, nó trở thành thân trung ấm.[13] Nếu đầu thai làm người, thì thân trung ấm có hình tướng người; nếu đầu thai làm súc sinh, thì thân trung ấm có hình tướng súc sinh. Giống như được mô phỏng từ một cái khuôn. Bất luận có ở nơi xa với cha mẹ trong tiềm thức bao nhiêu, thức thứ tám nầy cũng tìm đến được nếu nó có nhân duyên với họ. Đối với thân trung ấm, mọi thứ đều là một màu đen tuyền. Chúng ta có được ánh sáng đèn điện, ánh sáng mặt trời, mặt trăng; nhưng thân trung ấm thì không thấy được các thứ ánh sáng ấy. Nó chỉ thấy được một màu đen như mực. Thế nên khi cha mẹ trong tiềm thức của nó giao cấu nhau, nó sẽ thấy được một chút ánh sáng nhỏ như đầu kim loé lên, bởi vì nó có mối tương quan với họ. Soi rõ sự thấy thì có cái tưởng. Ngay lúc thấy ánh sáng loé lên, thì cái tưởng liền hiện hữu. Tưởng điều gì? Suy nghĩ, phân biệt. Ý kiến khác nhau thành có cái ghét. Khi người ta không đồng quan điểm với mình, thì mình ghét họ. Cái tưởng đồng nhau thành có luyến ái. Khi có người dù có những sai lầm giống như mình, mình cũng yêu thích họ.
Nếu thân trung ấm là nam, nó sẽ yêu mẹ mà ghét cha. Nó sẽ có ý muốn đánh đuổi cha nó đi để lấy mẹ nó. Nó muốn giao hợp với mẹ nó. Thế nên cội nguồn xuất phát của con người rất là tồi tệ. Yêu mẹ nó và ghét cha nó, bằng một niệm vô minh như vậy, nó liền nhập vào thai mẹ. Lưu giữ tính ái thành có chủng tử, thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai.
Nếu thân trung ấm là nữ, nó sẽ yêu cha và ghét mẹ. Đó là cách hình thành niệm tưởng....
“Tưởng” ở đây là chỉ cho thức thứ tám– tức là thân trung ấm....
“Vô minh duyên hành.” Hành ở đây chính là sự giao cấu.
“Hành duyên thức.” Tức là thức thứ tám được đề cập ở đoạn kinh trên, “thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai.” Thức chính là thân trung ấm nhập vào bào thai. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương I)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
* Thức duyên Danh sắc
3. Thức: Là 6 thức trong con người gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. (Toàn thể tâm thức gồm 8 thức tâm vương, chỉ cho sự hiểu biết phân biệt còn nằm trong trạng thái mê lầm. Trong vòng quay sinh tử, dưới sự dẫn dắt của Nghiệp lực, thần thức đi tìm bụng mẹ để tái sinh, tìm cho mình một đời sống mới. Sau khi nhập mẫu thai, Tạng thức có trước nhất, sau đó lần lượt nảy sinh 7 thức còn lại. Thức tạo nên vô số kiếp tái sinh trong luân hồi.)
4. Danh sắc: Là ngũ ấm: Sắc - Thọ - Tưởng/ Tư - Hành - Thức/ Tác ý. Là Tinh thần và Thể xác con người. (Danh chỉ cho yếu tố tâm lý, tinh thần. Sắc chỉ cho yếu tố sinh lý, vật chất. Trong hành trình tái sinh, thần thức hoan hỷ khi thấy hình ảnh cha mẹ tương lai giao hội và lập tức vào bụng mẹ, bám chấp vào sự hòa quyện của giọt tinh cha và giọt huyết mẹ, hình thành bào thai và tạo nên một đời sống mới. Thần thức là Danh và tinh cha huyết mẹ là Sắc.)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
* Danh sắc duyên lục nhập/ Sáu xứ
4. Danh sắc: Là ngũ ấm: Sắc - Thọ - Tưởng/ Tư - Hành - Thức/ Tác ý. Là Tinh thần và Thể xác con người. (Danh chỉ cho yếu tố tâm lý, tinh thần. Sắc chỉ cho yếu tố sinh lý, vật chất. Trong hành trình tái sinh, thần thức hoan hỷ khi thấy hình ảnh cha mẹ tương lai giao hội và lập tức vào bụng mẹ, bám chấp vào sự hòa quyện của giọt tinh cha và giọt huyết mẹ, hình thành bào thai và tạo nên một đời sống mới. Thần thức là Danh và tinh cha huyết mẹ là Sắc.)
5. Xứ/ Lục nhập: Sáu xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. (Chỉ sự hình thành 6 giác quan (6 căn) là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Khi đậu thai sẽ có sự phát triển các giác quan; 6 căn giống như 6 cửa trực tiếp đón nhận những đối tượng của nhận thức như hình ảnh, màu sắc, hương vị... (tức 6 trần), được biểu thị bằng hình ảnh một ngôi nhà có 6 cửa.)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
* Lục nhập duyên xúc
5. Xứ/ Lục nhập: Sáu xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. (Chỉ sự hình thành 6 giác quan (6 căn) là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Khi đậu thai sẽ có sự phát triển các giác quan; 6 căn giống như 6 cửa trực tiếp đón nhận những đối tượng của nhận thức như hình ảnh, màu sắc, hương vị... (tức 6 trần), được biểu thị bằng hình ảnh một ngôi nhà có 6 cửa.)
6. Xúc: Có 6 xúc thân này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. (Sự tiếp xúc với ngoại cảnh thông qua 6 giác quan: mắt nhìn hình sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm nhận sự xúc chạm, ý tư duy về các pháp; Nguy hiểm nhất là nam nữ 2 thân xúc chạm - Nguồn luân hồi.)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
* Xúc duyên Thọ:
6. Xúc: Có 6 xúc thân này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. (Sự tiếp xúc với ngoại cảnh thông qua 6 giác quan: mắt nhìn hình sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm nhận sự xúc chạm, ý tư duy về các pháp; Nguy hiểm nhất là nam nữ 2 thân xúc chạm - Nguồn luân hồi.)
7. Thụ/ Thọ: Có 6 thọ thân này: thọ do nhãn xúc sanh/ nhĩ xúc sanh/ tỷ xúc sanh/ thiệt xúc sanh/ thân xúc sanh/ ý xúc sanh.(Thụ là cảm giác, cảm thụ 3 loại chính là cảm giác vui sướng (lạc thụ), đau khổ (khổ thụ) và không vui không buồn do tâm si mê đem lại. Khi 6 giác quan tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài và có nhận thức sẽ dẫn đến cảm thụ;)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
* Thọ duyên Ái
7. Thụ/ Thọ: Có 6 thọ thân này: thọ do nhãn xúc sanh/ nhĩ xúc sanh/ tỷ xúc sanh/ thiệt xúc sanh/ thân xúc sanh/ ý xúc sanh.(Thụ là cảm giác, cảm thụ 3 loại chính là cảm giác vui sướng (lạc thụ), đau khổ (khổ thụ) và không vui không buồn do tâm si mê đem lại. Khi 6 giác quan tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài và có nhận thức sẽ dẫn đến cảm thụ;)
8. Ái: Gồm 6 là: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. (Khi có cảm thụ buồn vui sẽ nảy sinh tâm ham muốn, luyến ái hay chối bỏ. Có ghét bỏ sẽ có ái luyến và ngược lại, có ái luyến tất có ghét bỏ. Cảm giác vui sướng dễ chịu dẫn đến tâm ham muốn. Cảm giác khó chịu dẫn đến tâm ghét bỏ. Với ái, luyến ái nam nữ là mãnh liệt và nguy hiểm hơn cả, là bản năng sâu kín của con người. Đằng sau tình yêu thương là động cơ muốn chiếm đoạt, sở hữu và sự thôi thúc âm thầm của lòng dục, nguồn máy làm xoay chuyển không ngừng nghỉ bánh xe luân hồi. Ái - Hình ảnh người đàn ông đang uống rượu, càng uống càng khát, mê say;)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
* Ái duyên Thủ:
8. Ái: Gồm 6 là: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. (Khi có cảm thụ buồn vui sẽ nảy sinh tâm ham muốn, luyến ái hay chối bỏ. Có ghét bỏ sẽ có ái luyến và ngược lại, có ái luyến tất có ghét bỏ. Cảm giác vui sướng dễ chịu dẫn đến tâm ham muốn. Cảm giác khó chịu dẫn đến tâm ghét bỏ. Với ái, luyến ái nam nữ là mãnh liệt và nguy hiểm hơn cả, là bản năng sâu kín của con người. Đằng sau tình yêu thương là động cơ muốn chiếm đoạt, sở hữu và sự thôi thúc âm thầm của lòng dục, nguồn máy làm xoay chuyển không ngừng nghỉ bánh xe luân hồi. Ái - Hình ảnh người đàn ông đang uống rượu, càng uống càng khát, mê say;)
9. Thủ: Gồm dục thủ/ Ái, kiến thủ/ Tà kiến, giới cấm thủ, ngã luận thủ. (Là nắm chặt, giữ chặt, gây nên ràng buộc. Vì yêu thích, ái luyến nên nảy sinh lòng bám giữ, tâm chấp thủ; Tâm chấp thủ đó thể hiện rõ rệt nhất ở sự chấp ngã, yêu mến cái tôi, nhận ngũ uẩn là tôi. Hình ảnh người phụ nữ đang hái trái cây mà quả của nó có thể là độc hay lành. Thủ: Chấp vào “cái tôi”, các tri kiến cá nhân, những đối tượng ngoại cảnh,..)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đây cũng là:
* Thủ duyên hữu
9. Thủ: Gồm dục thủ/ Ái, kiến thủ/ Tà kiến, giới cấm thủ, ngã luận thủ. (Là nắm chặt, giữ chặt, gây nên ràng buộc. Vì yêu thích, ái luyến nên nảy sinh lòng bám giữ, tâm chấp thủ; Tâm chấp thủ đó thể hiện rõ rệt nhất ở sự chấp ngã, yêu mến cái tôi, nhận ngũ uẩn là tôi. Hình ảnh người phụ nữ đang hái trái cây mà quả của nó có thể là độc hay lành. Thủ: Chấp vào “cái tôi”, các tri kiến cá nhân, những đối tượng ngoại cảnh,..)
10. Hữu: Gồm Dục hữu - Sắc hữu - Vô sắc hữu (Đồng nghĩa 3 cõi Dục/ Sắc/ Vô sắc). (Là có, tồn tại hay sự sống. Vì thủ chấp ắt tạo nghiệp, là động lực cho sự tái sinh, là một sự tồn tại mới hay một đời sống mới. Tâm chấp thủ gieo vào Tạng thức một nhân là cơ sở cho sự hình thành ở đời sau; Hữu: Hình ảnh người nữ có mang biểu trưng rằng Hữu là nhân, giống như cái thai, sau này hình thành một cuộc đời mới. Nhân được làm người là giữ 5 giới, 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô sắc giới.)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: ... Thế Tôn nói lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt.
* Hữu duyên Sanh:
10. Hữu: Gồm Dục hữu - Sắc hữu - Vô sắc hữu (Đồng nghĩa 3 cõi Dục/ Sắc/ Vô sắc). (Là có, tồn tại hay sự sống. Vì thủ chấp ắt tạo nghiệp, là động lực cho sự tái sinh, là một sự tồn tại mới hay một đời sống mới. Tâm chấp thủ gieo vào Tạng thức một nhân là cơ sở cho sự hình thành ở đời sau; Hữu: Hình ảnh người nữ có mang biểu trưng rằng Hữu là nhân, giống như cái thai, sau này hình thành một cuộc đời mới. Nhân được làm người là giữ 5 giới, 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô sắc giới.)
11. Sinh/ Sanh: ... Thế nào là sanh: Loại chúng sanh khác bị sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sanh. (Nhân đã hình thành thì chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả, là sự tái sinh khi nhân duyên chín muồi; Sinh: là sự hình thành kết quả khi nguyên nhân điều kiện đầy đủ, chín muồi. Kết quả đó được biểu hiện như một cơ thể mới mang theo ham muốn mới để tiếp tục vòng quay miên viễn của luân hồi. Hình ảnh tượng trưng cho mắt xích này là một người phụ nữ sinh con.)
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Người Thấy Phật: Trong kinh Trung bộ Đức Phật dạy: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được ta”. Như vậy Đức Phật khẳng định rằng duyên khởi là chân lý, là pháp thường trụ của thế gian, nó liên hệ đến đời sống thường nhật của con người. Nếu ai thông hiểu được pháp nhân duyên này, cũng đồng nghĩa với việc thông đạt được Khổ-Tập-Diệt-Đạo, thì người ấy sẽ được giác ngộ giải thoát, tức là thấy được Phật. Nếu Tiểu thừa chấp nhận giác ngộ giáo lý Tứ đế là thấy Phật, thì Đại thừa chấp nhận quan điểm phải ngộ tánh Không các pháp, vì khi thông hiểu tánh Không các pháp sẽ rõ được Tứ đế. Vậy không có lý do gì chấp nhận giáo lý Tứ đế mà không chấp nhận tánh Không. Như thế, tánh Không của Trung quán luận đồng nghĩa với Pháp tánh, Phật tánh, Chân như tánh, Duyên khởi tánh (Nguồn: Tánh không)
+ 467. NIỆM NHƯ LAI
Đó là bạch y Thánh đệ tử (Thiện nam, Tín nữ) niệm tưởng Như Lai / Phật, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Nhớ nghĩ Như Lai như vậy rồi, nếu có những ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử nương vào Như Lai, tâm tịnh được hỷ, nếu có những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt.
Như vậy, bạch y Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ nhất, hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không phải khó được. (Trung A Hàm, Kinh Ưu-bà-tắc, Phẩm 11, số 128)
+ Nhớ Phật - Bồ Tát nhiệm mầu: ... Đức Đại Thế Chí Pháp Vương Tử, có năm mươi hai vị Bồ Tát đồng hàng với Ngài, liền từ tòa ngồi đứng dậy, lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: Con nhớ về hằng hà sa kiếp xưa kia, có đức Phật ra đời, hiệu là Vô Lượng Quang, trong một kiếp mười hai đức Như Lai nối nhau ra đời. Đức Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Ngài dạy con pháp niệm Phật Tam muội.
Ví như có người: một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế, dù có gặp nhau, cũng như không gặp, hoặc có thấy nhau, cũng như không thấy. Hai người nhớ nhau, thời hai nhớ in sâu, cứ như thế mãi, từ kiếp này qua kiếp khác, như bóng in hình, chẳng xa trái nhau.
Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh, như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh, mẹ nhớ ích gì? Con nhớ mẹ, như khi mẹ nhớ con, mẹ con trải qua nhiều kiếp chẳng xa trái nhau.
Nếu tâm chúng sinh, nhớ Phật niệm Phật, đời này đời sau, quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng phải nhờ phép phương tiện, mà tự mở ngộ tâm mình. Ví như người nhiễm mùi hương, mình có hơi hương, như thế gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Nhân địa con xưa, nhờ tâm niệm Phật, được vào pháp Nhẫn Vô Sinh. Nay ở cõi này, tiếp người niệm Phật về cõi tịnh.
Đức Phật hỏi pháp Viên Thông, con không hề lựa chọn, mà chỉ thu nhiếp sáu căn, nối liền tịnh niệm, được vào nơi chính định, đó là bậc nhất. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiệm - Chương Niệm Phật của Đại Thế Chí Bồ Tát)
+ Nhớ Phật Niệm Phật hay Bồ Tát tương lai nhất định thấy Phật, Bồ Tát hay Thánh Nhân:
Bồ Tát Đại Thế Chí nói : ‘’ Lúc nào bạn nghĩ nhớ Phật thì sẽ thấy Phật, trừ khi quên nghĩ nhớ thì không thấy Phật.’’ Pháp môn niệm Phật ví như mẹ con hai người, người niệm Phật là con, sở niệm Phật là người mẹ. Mẹ con sinh sống với nhau rất sung sướng, nhưng người con không giữ quy cụ, thích chơi đùa, chạy ra bên ngoài, không ở với người mẹ, lang thang phiêu bạt bên ngoài, chẳng có nghề nghiệp chính đáng. Lúc này, người mẹ luôn luôn tưởng nhớ con, có câu rằng : ‘’ Con đi ngàn dặm mẹ âu lo,’’ hôm nay nghĩ, ngày mai nghĩ, nghĩ không ngừng, nhưng người con không nghĩ đến người mẹ, lang thang bên ngoài không nhớ trở về. Trải qua nhiều năm sau đó, người con hốt nhiên nghĩ nhớ người mẹ, sinh ra hồi tưởng nhớ lại. Con nghĩ tưởng mẹ, mẹ nghĩ tưởng con, cùng nhau nghĩ tưởng, khởi lên tâm điện tác dụng tương thông, do đó :‘’ tâm điện cảm ứng ‘’, người con bèn trở về nhà cố hương của mình. Do đó : "Nhớ Phật niệm Phật, Hiện tiền tương lai, Nhất định thấy Phật".
Chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thì Phật tiếp dẫn chúng ta trở về cõi Phật. Chúng ta phiêu bạt lang thang bên ngoài làm người lưu lãng, không biết trở về nhà gặp mẹ. Vị Thiên Vương này nói : ‘’ Bất cứ lúc nào, bạn nhớ Phật niệm Phật, hoặc hiện tại thấy được Phật, hoặc là vị lai sẽ thấy được Phật.’’ Bạn niệm Phật không thấy Phật, bèn sinh tâm hoài nghi, cho rằng Kinh Phật nói không linh nghiệm. Phật thì không nói dối, pháp của Phật nói đều viên dung vô ngại. Bây giờ không thấy Phật, tương lai sẽ thấy Phật, hoặc là đời sau sẽ thấy Phật, nếu tâm thật niệm Phật thì hiện tại sẽ thấy Phật, tương lai sẽ thành Phật. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Thuyết 12 Nhân Duyên: Vô Minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão bệnh tử.
3) Thế Tôn nói như sau: Này các Tỷ-kheo, thế nào là lý Duyên khởi? Vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ/ Lục nhập; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ KHỔ UẨN này TẬP KHỞI - Cũng là LÝ DUYÊN KHỞI
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh (Làm hiển Minh Giác) một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ/ Lục nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt. Đay cũng là
1. Vô minh: Không rõ biết Khổ, không rõ biết Khổ tập, không rõ biết Khổ diệt, không rõ biết Con đường đưa đến Khổ diệt. (Vô minh là sự mê mờ, không có trí tuệ, không hiểu thấu chân lý tự nhiên gồm 3 khía cạnh: thân, tâm và cảnh. Chúng ta nhận lầm Thân là “cái tôi”, nhà của tôi, tài sản của tôi,... là vô minh - Gốc Luân hồi. Nên nhớ: Xóa bỏ vô minh tức là Minh hiện - Hết luân hồi.)
2. Hành: Có 3: Thân hành (Nam nữ giao cấu), khẩu hành, ý hành. (Vô minh - hành động sai lầm, với động cơ (thiện, bất thiện hoặc vô ký), tạo nên nghiệp tương ứng. Thân khẩu ý đã tạo hiện tại hay trong quá khứ, đều nhận quả tương ứng trong hiện tại và tương lai. Được tích lũy trong Tạng thức, đó là năng lực nghiệp tiềm ẩn dẫn dắt hành trình sinh khởi sau này.)
3. Thức: Là 6 thức trong con người gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. (Toàn thể tâm thức gồm 8 thức tâm vương, chỉ cho sự hiểu biết phân biệt còn nằm trong trạng thái mê lầm. Trong vòng quay sinh tử, dưới sự dẫn dắt của Nghiệp lực, thần thức đi tìm bụng mẹ để tái sinh, tìm cho mình một đời sống mới. Sau khi nhập mẫu thai, Tạng thức có trước nhất, sau đó lần lượt nảy sinh 7 thức còn lại. Thức tạo nên vô số kiếp tái sinh trong luân hồi.)
4. Danh sắc: Là ngũ ấm: Sắc - Thọ - Tưởng/ Tư - Hành - Thức/ Tác ý. Là Tinh thần và Thể xác con người. (Danh chỉ cho yếu tố tâm lý, tinh thần. Sắc chỉ cho yếu tố sinh lý, vật chất. Trong hành trình tái sinh, thần thức hoan hỷ khi thấy hình ảnh cha mẹ tương lai giao hội và lập tức vào bụng mẹ, bám chấp vào sự hòa quyện của giọt tinh cha và giọt huyết mẹ, hình thành bào thai và tạo nên một đời sống mới. Thần thức là Danh và tinh cha huyết mẹ là Sắc.)
5. Xứ/ Lục nhập: Sáu xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. (Chỉ sự hình thành 6 giác quan (6 căn) là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Khi đậu thai sẽ có sự phát triển các giác quan; 6 căn giống như 6 cửa trực tiếp đón nhận những đối tượng của nhận thức như hình ảnh, màu sắc, hương vị... (tức 6 trần), được biểu thị bằng hình ảnh một ngôi nhà có 6 cửa.)
6. Xúc: Có 6 xúc thân này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. (Sự tiếp xúc với ngoại cảnh thông qua 6 giác quan: mắt nhìn hình sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm nhận sự xúc chạm, ý tư duy về các pháp; Nguy hiểm nhất là nam nữ 2 thân xúc chạm - Nguồn luân hồi.)
7. Thụ/ Thọ: Có 6 thọ thân này: thọ do nhãn xúc sanh/ nhĩ xúc sanh/ tỷ xúc sanh/ thiệt xúc sanh/ thân xúc sanh/ ý xúc sanh.(Thụ là cảm giác, cảm thụ 3 loại chính là cảm giác vui sướng (lạc thụ), đau khổ (khổ thụ) và không vui không buồn do tâm si mê đem lại. Khi 6 giác quan tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài và có nhận thức sẽ dẫn đến cảm thụ;)
8. Ái: Gồm 6 là: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. (Khi có cảm thụ buồn vui sẽ nảy sinh tâm ham muốn, luyến ái hay chối bỏ. Có ghét bỏ sẽ có ái luyến và ngược lại, có ái luyến tất có ghét bỏ. Cảm giác vui sướng dễ chịu dẫn đến tâm ham muốn. Cảm giác khó chịu dẫn đến tâm ghét bỏ. Với ái, luyến ái nam nữ là mãnh liệt và nguy hiểm hơn cả, là bản năng sâu kín của con người. Đằng sau tình yêu thương là động cơ muốn chiếm đoạt, sở hữu và sự thôi thúc âm thầm của lòng dục, nguồn máy làm xoay chuyển không ngừng nghỉ bánh xe luân hồi. Ái - Hình ảnh người đàn ông đang uống rượu, càng uống càng khát, mê say;)
9. Thủ: Gồm dục thủ/ Ái, kiến thủ/ Tà kiến, giới cấm thủ, ngã luận thủ. (Là nắm chặt, giữ chặt, gây nên ràng buộc. Vì yêu thích, ái luyến nên nảy sinh lòng bám giữ, tâm chấp thủ; Tâm chấp thủ đó thể hiện rõ rệt nhất ở sự chấp ngã, yêu mến cái tôi, nhận ngũ uẩn là tôi. Hình ảnh người phụ nữ đang hái trái cây mà quả của nó có thể là độc hay lành. Thủ: Chấp vào “cái tôi”, các tri kiến cá nhân, những đối tượng ngoại cảnh,..)
10. Hữu: Gồm Dục hữu - Sắc hữu - Vô sắc hữu (Đồng nghĩa 3 cõi Dục/ Sắc/ Vô sắc). (Là có, tồn tại hay sự sống. Vì thủ chấp ắt tạo nghiệp, là động lực cho sự tái sinh, là một sự tồn tại mới hay một đời sống mới. Tâm chấp thủ gieo vào Tạng thức một nhân là cơ sở cho sự hình thành ở đời sau; Hữu: Hình ảnh người nữ có mang biểu trưng rằng Hữu là nhân, giống như cái thai, sau này hình thành một cuộc đời mới. Nhân được làm người là giữ 5 giới, 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô sắc giới.)
11. Sinh/ Sanh: ... Thế nào là sanh: Loại chúng sanh khác bị sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sanh. (Nhân đã hình thành thì chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả, là sự tái sinh khi nhân duyên chín muồi; Sinh: là sự hình thành kết quả khi nguyên nhân điều kiện đầy đủ, chín muồi. Kết quả đó được biểu hiện như một cơ thể mới mang theo ham muốn mới để tiếp tục vòng quay miên viễn của luân hồi. Hình ảnh tượng trưng cho mắt xích này là một người phụ nữ sinh con.)
12. Già chết/ Lão bệnh tử: Sự từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn hư hoại, thân thể vứt bỏ. Đây gọi là chết / già chết. (Đã có sinh khởi, hình thành một đời sống ắt sẽ có già, bệnh, chết, vì thế nên gọi là “Sinh duyên Lão, Bệnh, Tử”)
16) Như vậy này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
Nhưng do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
Tóm lại, Nhân duyên (Nội nhân-Ngoại duyên) sinh diệt:
- Chiều thuận: Cái này có, cái kia có - Cái này sinh, cái kia sinh
- Chiều nghich: Cái này không, cái kia không - Cái này diệt, cái kia diệt
* Nhân Duyên hòa hợp sinh vạn vật: VD như hạt lúa là nhân - Duyên là đất, nước, ánh sáng, gieo trồng ... trợ duyên => Cây lúa (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Mười hai nhân duyên)
+ Thuyết Lý mười hai nhân duyên và Bát Nhà Tâm Kinh
"Không có vô minh, cũng không tận hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết".
Mười hai nhân duyên này là tu theo thừa Duyên Giác. Có mười hai loại duyên làm trợ duyên, tức trợ giúp con người sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh. Các ngài Duyên Giác do tu pháp mười hai nhân duyên mà hiểu rõ bao đạo lý nhân sanh, khai ngộ, chứng được quả Bích Chi Phật. Đó gọi là trung thừa. Thanh Văn là tiểu thừa. Bích Chi Phật là trung thừa. Bồ Tát là đại thừa.
Sao gọi là vô minh ? Vô minh nghĩa là không minh bạch; thế gian gọi là mù mờ, tức là không hiểu rõ đạo lý, mù mù mờ mờ. Vì không minh bạch nên mới có hành vi mê mê mờ mờ, cũng chính là vọng hành (làm sai trái), nghĩa là việc không nên làm mà lại làm. Khi đã làm sai thì nhận thức hư vọng, dẫn đến mê mờ vì danh lợi sắc tướng, lại biến thành nhập mù mờ, xúc mù mờ, thọ xúc mù mờ, hưởng thọ mù mờ, ái mù mờ, mong cầu chấp giữ mù mờ, rồi muốn đạt được mù mờ, dẫn đến có sanh, lại có già, chết. Những nhân duyên này do vì mê mờ trong buổi ban đầu, nên kết quả mới bị mê mờ. Mê mờ mờ sống qua một đời. Đời sau lại mê mê mờ mờ. Thế nên mười hai nhân duyên cũng là mười hai nhân duyên mê mờ mà phàm phu không thể minh bạch hiểu rõ.
"Vô vô minh tận bổn tánh không, (không tận vô minh, không bổn tánh)".
Mười hai nhân duyên này, lúc ban đầu là mê mờ. Bao loại tham dục của con người, hoặc tham ăn, hoặc tham sắc v.v... chúng phát sanh từ đâu? Đều phát sanh từ vô minh. Trong mười hai nhân duyên, bàn về thọ sanh như thế nào, chết như thế nào ?
Vì vô minh nên có bao loại hành vi chủng tánh nam nữ. Hành vi bản tánh này do tâm mê loạn phát khởi. Có hành vi bản tánh đó rồi thì sanh ra ý thức ngu mê. Thức này chính là thân trung ấm. Sau khi có hành vi bản tánh nam nữ rồi thì kết một lằn ánh sáng. Thân trung ấm tuy xa muôn ngàn vạn dặm nhưng vì có nhân duyên làm quyến thuộc với cha mẹ nó, nên khi thấy lằn ánh sáng đó liền nhập vào thai mẹ. Sau khi thần thức đầu thai thì lại có danh sắc. Danh tức là bốn uẩn, thọ tưởng hành thức. Sắc uẩn cũng gọi là sắc. Thọ tưởng hành thức khi còn trong thai mẹ chỉ có bốn loại danh thức, nhưng chưa thành thục. Đợi cho đến khi có danh sắc rồi thì mới có sáu nhập. Sáu nhập cũng do sáu căn sanh ra sáu tánh như thấy nghe, ngũi, nếm, giác, biết. Có sáu nhập rồi thì đứa bé liền có xúc giác, nên nói sáu nhập duyên xúc. Có xúc giác thì lại có lãnh thọ. Có lãnh thọ nên sanh ra tâm luyến ái. Có tâm luyến ái nên sau này muốn mong cầu, giữ gìn. Vì vậy cảm thọ duyên chấp thủ. Luyến ái, mong cầu chấp thủ rồi lại muốn có được. Vì muốn có được nên mới có sanh. Có sanh nên mới có mười hai nhân duyên. Nếu không có vô minh thì không có hành. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh già bệnh chết diệt. Đó là diệt được mười hai nhân duyên. Thế nên, bảo rằng vô minh mà tận hết thì bổn tánh không. Bổn tánh không rồi thì không còn vô minh nữa.
"Vọng hành liễu biệt danh sắc tùng, (hiểu rõ hành vọng từ danh sắc)".
Hành tức là vọng hành. Thức là liễu biệt. Sau khi có thức rồi thì có danh sắc.
"Lục nhập xúc thọ ái thủ hữu, (sáu nhập xúc thọ ái thủ hữu)".
Kế tiếp danh sắc là sáu nhập. Sau sáu nhập là xúc, đến thọ, đến ái, đến thủ, đến hữu.
"Lai sanh lão tử tận tương đồng, (đến sanh già chết tận tương đồng)".
Có hữu thì có sanh. Có sanh thì có già chết. Do đó, bảo rằng sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, cho đến sanh già chết đều tương đồng tận hết.
"Vạn lý tình không tuyệt vân ảnh, (trời trong muôn dặm tuyệt áng mây)".
Mười hai nhân duyên nối tiếp, liên hệ chằng chịt với nhau, nhưng tất cả vốn không, giống như trời trong muôn dặm, chẳng có một áng mây hồng.
"Mãn đầm trừng thủy hiển nguyệt minh, (nước trong trăng hiện rõ khắp hồ)".
Ví như hồ nước trong thì ánh trăng rằm hiện rõ.
"Như nhân kiết ẩm tri lãnh noãn, (như lúc uống ăn biết lạnh nóng)".
Chư vị nếu liễu ngộ (hiểu rõ) pháp mười hai nhân duyên, tức là có công phu tu hành, thì khi ấy giống như lúc ăn cơm uống nước, tự biết là lạnh hay nóng.
"Thuyết thực trợ trường tổng phập công, (nói ăn mà chẳng ăn, phí công)".
Nếu chư vị không thật sự tu hành, tham ngộ mười hai nhân duyên, mà chỉ nói mười hai nhân duyên này là không-không-không. Bảo rằng chúng là không, mà không thể hội được ý nghĩa không của chúng, không chân chánh chứng đắc được lý không này, cũng giống như người chỉ nói ăn mà thực sự không ăn. Kinh Lăng Nghiêm nói :
"Thí như thuyết thực chung bất năng bảo, (thí như nói ăn mà cuối cùng không no được".
Dầu cho chư vị có nói bao ngày đi nữa, nhưng vẫn không no được. (Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phật Giảng về 12 Nhân Duyên: Ta sẽ thuyết Mười Hai Nhân Duyên mà chư Phật quá khứ cũng đã dạy.
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết và các ưu sầu khổ não.
Khi vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già chết và các ưu sầu khổ não diệt.
Mười Hai Nhân Duyên này là bí tạng của chư Phật. Nếu ai lưu thông cúng dường và niệm niệm tu hành, họ sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và không gì có thể chướng ngại hay phá hoại người ấy. Họ sẽ không bao giờ bị chết yểu hay bị chết đột ngột.”(Nguồn: Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé)
+ Thuyết duyên khởi: Duyên khởi là căn bản của Chánh Kiến. Có Chánh Kiến tức là cái thấy sâu sắc và đứng đắn về Duyên Khởi. Chúng ta đã biết Vô Thường và Vô Ngã cũng chỉ có nghĩa Duyên Khởi. Chữ Duyên tiếng Phạn là pratyaya, tiếng Pali là paccaya. Trong kinh Bụt thường nói rất đơn giản về Duyên Khởi. Ngài nói: ‘‘cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt.’’ Có khi Ngài dùng hình ảnh của một bó lau: một cọng lau, hai cọng lau, ba cọng lau nương vào nhau mà đứng vững. Khi một trong những cọng lau đổ xuống thì các cọng lau kia cũng đổ theo..... (Nguồn: Thích Nhất hạnh)
Xem thêm: 12 nhân duyên và Tổng hợp theo số 12
Xem: Thuyết Nhân Duyên
+ Biểu hiện của đức hạnh: ... Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đó gọi là Ngũ-thường. Hễ mình có đầy đủ Ngũ-thường này tức là có đạo, có đức. Cho nên đạo đức là do từ nơi tâm sinh ra. Nhưng khi phát ra thì nó có nhiều hình thái: có xanh, vàng, đỏ, trắng, và đen. Ðó là biểu hiện của đức hạnh, là ánh sáng của đức hạnh. Cho nên ông Hàn Dũ trong bài Nguyên Ðạo có một đoạn văn nói rằng: "Nghĩa là lòng bác ái tức là lòng Nhân. Lòng nhân đúng cách (hợp lẽ) thì gọi là Nghĩa. Nhờ đó mà tiến tới gọi là Ðạo. Ðầy đủ nơi mình không dựa vào bên ngoài nên gọi là Ðức." Ông Mạnh Tử cũng nói rằng: Nghĩa là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí sinh gốc rễ trong tâm mình. Màu sắc của nó chiếu soi nơi vẻ mặt, sáng soi nơi lưng, vận dụng nơi tay chân. Tứ thể không cần nói nhưng biểu hiện đã rõ. Người có đức thì không những biểu hiện nơi khuôn mặt của mình, mà ngay trên lưng của mình cũng lưu lộ ánh sáng đức độ, thậm chí cho đến tay chân cũng có thể biểu hiện ra đạo đức đó. Ðức tướng nầy không cần nói mà tự nó phát hiện ra, khiến ai ai cũng thấy một cách rõ ràng. Sự biểu hiện của đức hạnh chân chính đó là do công phu dụng công. Ðức hạnh nầy mình không thể giả trang được, nếu như hư dối thì chỉ tạm thời thôi, chớ không thể vĩnh viễn lừa dối người khác được.... (Nguồn: Biểu Hiện của Đức Hạnh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đức hạnh: Đức hạnh là yếu tố cơ bản để làm người, cũng chính là luân lý đạo đức mà chúng ta thường đề cập. Nếu vứt bỏ luân lý đạo đức, con người sẽ không khác gì loài động vật, mà cổ nhân thường ví von: “cầm thú mặc quần áo”. Thân tướng con người, mặc y phục con người, đội nón người,… nhưng tâm hạnh lại chẳng khác gì các loại động vật; đối với chân tướng của vũ trụ nhân sinh, không hề biết một tí gì. Nhà Phật gọi hiện tượng đó là “thọ báo”, người không những bị thọ báo mà còn tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, quả khổ không thể nào ước lượng được. Việc này chỉ cần tỉ mỉ quán sát, chúng ta có thể nhận ra và khẳng định. Do đó “giáo dục đức hạnh” là căn bản của giáo dục...... Tiểu học chú trọng đến giáo dục đời sống, dạy cách tưới nước quét nhà, dạy tôn kính sư trưởng, hiếu thuận cha mẹ, thương yêu anh em, dạy điều cơ bản của luân thường, dạy về “trung hiếu tiết nghĩa”, “ngũ luân bát đức”...(Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Bực đại hiền có 12 hạnh tốt:
1. Một là học rộng hiểu nhiều;
2. Hai là không phạm giới luật trong kinh dạy;
3. Ba là kính thờ Tam Bảo;
4. Bốn là thọ lãnh pháp lành không quên;
5. Năm là kiềm chế được tham sân si;
6. Sáu là tu tập được pháp tứ đẳng tâm;
7. Bảy là ưa làm việc ân đức;
8. Tám là không nhiễu hại chúng sanh;
9. Chín là hay hóa độ được người bất nghĩa;
10. Mười là không lầm lộn việc lành việc ác.
Kinh dạy: "Gặp được bực đại hiền rất khó - Như ít có lắm vậy - Các bực ấy ở đâu thì bà con quyến thuộc và người chung quanh đều được nhờ cậy." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Thành tựu đức hạnh - Hạnh Bồ Tát Phổ Hiền - Bắc phương: ‘’Thành tựu đạo tràng đức là gốc.’’ Ðây là phương bắc Phật Thành Tựu, cũng là Yết Ma bộ. ... Nếu bạn không có đức hạnh thì bất cứ làm gì, thành tựu gì, cũng chẳng có ý nghĩa. Hơn nữa là người tu đạo nhất định phải có đức hạnh. Gì gọi là đức hạnh ? Ðức hạnh tức là chịu thiệt thòi, chịu nhẫn nại, không chiếm tiện nghi, thường lợi người.
Ý nghĩa lợi người, tức là tài bồi phước của bạn, tài bồi huệ của bạn, tài bồi đạo của bạn, tài bồi đức của bạn. Nếu bạn cứ chiếm tiểu tiện nghi của người, không chịu thiệt thòi, đó là biểu thị đức hạnh chẳng đủ. Chúng ta người tu đạo càng nên tài bồi đức hạnh, không có đức hạnh thì giống như trên thân chẳng có khí huyết, người sẽ khô héo. Ðức hạnh là gốc rễ, tiền tài là ngọn ngành. (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - Google Drive; tr 369)
+ Các Sắc trần gồm: Sắc - Thanh - Hương - Vị - Xúc
+ Các loại sắc: Âm thanh quy về nơi sắc trần. Nơi năm ấm, sắc thọ tưởng hành thức, chung quy về sắc.
+ Ngũ ấm/ Ngũ uẩn hay năm lớp vỏ/ màn che trong Minh triết Ấn Độ (Phật giáo gọi là ngũ Ấm hay ngũ Uẩn) là những cái tích tụ, chất đầy, bao phủ che lấp lên, như Đức Phật dậy 5 lớp màn che/ Bóng tối che lấp mặt trời Chân Tâm. Giảng về chữ Tâm Ta - Dụng Tâm trong tu hành.... (Nguồn: Xem Thầy Hằng Trường giảng)
+ Các ấm: Như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt.
Mà ông chẳng biết sinh, diệt, đến, đi, vốn là Như Lai tạng thường trú sáng suốt nhiệm mầu, là tánh chân như vi diệu tròn khắp, không lay động. Trong tánh chân thường ấy mà cầu những cái đến đi, mê ngộ, sinh tử hoàn toàn không thể được. A-nan, tại sao ngũ ấm vốn là Như Lai tạng, là tánh chân như nhiệm mầu? ......
Do vậy nên biết sắc ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Do vậy nên biết thọ ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
+ Ngũ uẩn/ Ngũ ấm: (five skandhas):
1. Sắc uẩn (Rupa) các tính chất hoặc các thuộc tính vật chất.
2. Thọ uẩn (Vedana): các cảm giác (sensations).
3. Tưởng uẩn (sanna): các ý tưởng trừu tượng (abctract ideas).
4. Hành uẩn (samkara): Các khuynh hướng cả về mặt xác thân (physical) lẫn mặt trí tuệ (mental), và
5. Thức uẩn (Vinnana): các quyền năng trí tuệ, khuếch đại của uẩn thứ 4, nghĩa là các thiên hướng về tâm trí, xác thân và đạo đức. (Thư của Ch. S., 199)
+ Ngũ Uẩn của Tâm Nhị Nguyên - Nguồn gốc của Vọng tâm
Đức Phật nói rằng Tâm bao hàm 2 thứ, chính vì cái tình và cái tưởng đó mà chúng ta mới có thế giới nội tâm. Thế giới nội tâm này là chủ thể và lúc nào nó cũng cần một đối tượng. Chủ thể và đối tượng/ Tâm nhị nguyên này làm cho chúng ta khó mà nhận ra được Chân tâm. Tu từ Vọng Tâm nhị nguyên tới chỗ Chân Tâm là con đường tu hành của người phật giáo.
Trong Minh triết Ấn Độ gọi là 5 lớp vỏ. Phật giáo gọi là 5 Ấm hay 5 Uẩn là những cái tích tụ, chất đầy, bao phủ che lấp lên, chúng gồm như Đức Phật dậy 5 lớp màn che/ Bóng tối che lấp mặt trời Chân Tâm:
1- Sắc: Kinh nghiệm của thân xác. Ví như bị bệnh đau thật khó tu, chứ nói chi đến Chân Tâm
2- Thọ: Kinh nghiệm của cảm tình, cảm xúc. Ví dụ khi giận hợp oán trách ... chẳng thể tu, nói gì quán ánh sáng Tâm.
3- Tưởng: Kinh nghiệm của tư duy, quan niệm. Ví như cứ ngồi nghĩ vẫn vơ sao có thể tham thiền, tu định ... để an định Tâm.
4- Hành: Kinh nghiệm của tập khí, thói quen. Ví như không chịu đúng thời tu hành, chẳng thể tiến tu.
5- Thức: Kinh nghiệm của sự nhận tri, nhận biết. Thể trí thường suy nghĩ lầm lạc, vì chúng luôn ở trong trạng thái nhị nguyên.
Cho nên, sự mầu nhiệm của sự tu hành là mình bắt đầu tìm được thời gian, thay đổi tập quán, thay đổi tư tưởng, thay đổi tình cảm, cảm xúc, thay đổi quan niệm và cuối cùng là mình thay đổi thân xác - Nói là tu tâm nhưng thật sự ra là mình tu tất cả mọi chuyện .. v.v…Đâu có dễ đâu (Nguồn: Xem tại đây)
+ Năm lớp vỏ - Ngũ Ấm - Ngũ uẩn:
Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm đã được trình bày, bây giờ sẽ giải thích về thức ấm. Trước hết tôi sẽ tóm lược lại về 4 ấm đầu tiên.
- Sắc ấm đề cập đến những cái có hình tướng, có vật thể. Khi mắt trừng trừng nhìn vào hư không, thì thấy xuất hiện những hoa đốm. Dù những hoa đốm ấy là hư vọng, không có thực, nhưng nó vẫn có hình sắc.
- Thọ ấm là sự tiếp nhận, lĩnh hội. Khi hai bàn tay xoa vào nhau sẽ làm phát sinh các cảm giác thô ráp, trơn mịn, hoặc lạnh, nóng.
- Tưởng ấm đơn thuần là do niệm tưởng. Chẳng hạn, khi tai quý vị nghe ai nói về me chua, rồi quý vị bắt đầu nghĩ tưởng về me. Ngay khi quý vị nghĩ tưởng, thì trong miệng liền tiết ra nước bọt. Đây là kết quả của tưởng ấm. Nghĩ tưởng ở đây có nghĩa là vọng tưởng.
- Hành ấm có nghĩa là sự biến dịch, vận động. Nó không dừng nghỉ. Đầu tiên con người trẻ trung, rồi trở thành trung niên, rồi già và chết. Niệm nầy sinh khởi tiếp theo sau niệm kia diệt mất, niệm nầy nối tiếp niệm kia không dừng nghỉ. Đó là hành ấm.
- Thức ấm có liên quan đến sự phân biệt. Nó nhận rõ sự khác nhau giữa các sự việc; nó xem xét, suy tính, và tìm kiếm sự lợi thế trong mọi hòan cảnh. Chẳng hạn như A-nan, không phát huy công phu tu tập, không có được định lực, nhưng ham thích đa văn, có nghĩa là tìm cầu lợi thế trong hòan cảnh. Sự hoạt dụng của tâm tìm cầu lợi thế trong hòan cảnh là không có thực.
... Người trong ví dụ của Đức Phật bịt kín hai đầu lại. Anh ta nút kín hai lỗ ở hai đầu của chiếc bình tần-già lại. Trong đó đựng đầy hư không, đem đi xa ngàn dặm, đến cho nước khác... thời đó, muốn vượt một ngàn dặm thì chỉ bằng cách đi bộ. Anh ta làm gì với hư không trong bình tần-già? Anh ta mang tặng cho nước láng giềng. Quý vị nghĩ xem việc nầy hợp lý chăng?
"Nên biết thức ấm cũng lại như vậy."
Thức ấm, tâm phân biệt, cũng giống như câu chuyện cất giữ hư không rồi đem đi xa ngàn dặm tặng cho người khác vậy.
Do vậy nên biết hành ấm không thật, vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên. Nguồn gốc phát sinh của nó vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngũ ấm/ Ngũ uẩn là Tánh Như Lai Tạng: Như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, từ thập nhị xứ cho đến thập bát giới, khi nhân duyên hòa hợp thì hư vọng sinh ra, khi nhân duyên tách rời, hư vọng gọi là diệt.
Mà ông chẳng biết sinh, diệt, đến, đi, vốn là Như Lai tạng thường trú sáng suốt nhiệm mầu, là tánh chân như vi diệu tròn khắp, không lay động. Trong tánh chân thường ấy mà cầu những cái đến đi, mê ngộ, sinh tử hoàn toàn không thể được.
A-nan, tại sao ngũ ấm vốn là Như Lai tạng, là tánh chân như nhiệm mầu?
GIẢNG VỀ NGŨ ẤM: SẮC THỌ TƯỞNG HÀNH THỨC
Sắc: A-nan, thí như có người dùng mắt thanh tịnh để nhìn bầu trời quang đãng, chỉ thấy một khoảng không trong vắt.
Người kia vô cớ nhìn sững chẳng nháy mắt, nhìn lâu phát ra mỏi mệt, nên trong hư không riêng thấy có hoa đốm lăng xăng và tất cả các tướng giả dối không thật......
Thọ: Như 2 tay xoa vào nhau cũng vậy - Trơn, Rít, lạnh, Nóng đều hư vọng không thật;
Tưởng: Nghĩ đến Me chua/ Chân đứng chỏm vách đá cao;
Hành: Định nghĩa Hành giống như dòng nước chảy xiết. Đức Phật dậy: A-nan, ví như dòng nước chảy mạnh, các làn sóng nối tiếp, lớp trước lớp sau chẳng vượt khỏi nhau. (Giảng: Những ngọn sóng ấy giống như các niệm tưởng trong tâm của con người. Trong tâm thức, trong thức thứ tám, niệm nầy sinh khởi, niệm khác hoại diệt theo sau các niệm khác dấy khởi cũng giống như sóng trên mặt nước... Cũng vậy, niệm tưởng sau của quý vị không bao giờ phóng vọt lên trước niệm hiện tiền. Thế nên giữa các niệm có một hoạt động rất trật tự, không một chút sai lầm. Mới nhìn qua thấy các ngọn sóng tưởng như không có ranh giới, nhưng thực ra sóng di chuyển từng ngọn từng ngọn rất có trật tự và liên tục không bao giờ dừng nghỉ). A-nan, tánh của dòng nước như vậy chẳng do hư không sinh ra, chẳng phải do nước mà có, cũng chẳng phải tánh nước, cũng chẳng lìa hư không và nước... Nếu do nước mà có thì dòng nước nầy tánh nó lẽ ra không phải là nước nữa, và hiện nay có thể chỉ ra tướng của nước và dòng nước khác nhau[80]. Nếu dòng nước tức là tánh nước thì khi nước trong lặng, sẽ không còn là thể của nước nữa? (Tướng của Nước và Dòng chảy là khác nhau = Tánh của dòng chảy Không phái là tánh của Nước. Sự thay đổi về tánh chất tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi về thực thể.)
Thức: A-nan, ví như có người lấy một cái bình tần già, bịt kín hai đầu lại, trong đó đựng đầy hư không, đem đi xa ngàn dặm, đến cho nước khác. Nên biết thức ấm (Thức tâm phân biệt) cũng lại như vậy.
Tóm lược về 5 Ấm:
- Sắc ấm đề cập đến những cái có hình tướng, có vật thể. Khi mắt trừng trừng nhìn vào hư không, thì thấy xuất hiện những hoa đốm. Dù những hoa đốm ấy là hư vọng, không có thực, nhưng nó vẫn có hình sắc.
- Thọ ấm là sự tiếp nhận, lĩnh hội. Khi hai bàn tay xoa vào nhau sẽ làm phát sinh các cảm giác thô ráp, trơn mịn, hoặc lạnh, nóng.
- Tưởng ấm đơn thuần là do niệm tưởng. Chẳng hạn, khi tai quý vị nghe ai nói về me chua, rồi quý vị bắt đầu nghĩ tưởng về me. Ngay khi quý vị nghĩ tưởng, thì trong miệng liền tiết ra nước bọt. Đây là kết quả của tưởng ấm. Nghĩ tưởng ở đây có nghĩa là vọng tưởng.
- Hành ấm có nghĩa là sự biến dịch, vận động. Nó không dừng nghỉ. Đầu tiên con người trẻ trung, rồi trở thành trung niên, rồi già và chết. Niệm nầy sinh khởi tiếp theo sau niệm kia diệt mất, niệm nầy nối tiếp niệm kia không dừng nghỉ. Đó là hành ấm.
- Thức ấm có liên quan đến sự phân biệt/ Thức Tâm phân biệt. Nó nhận rõ sự khác nhau giữa các sự việc; nó xem xét, suy tính, và tìm kiếm sự lợi thế trong mọi hòan cảnh. Chẳng hạn như A-nan, không phát huy công phu tu tập, không có được định lực, nhưng ham thích đa văn, có nghĩa là tìm cầu lợi thế trong hòan cảnh. Sự hoạt dụng của tâm tìm cầu lợi thế trong hòan cảnh là không có thực.
=> Ngũ Ấm sanh khởi từ Như Lai Tạng - Từ Chân khởi Vọng - Vốn Chẳng phải Nhân duyên/ Chẳng phải Tự nhiên.
Tương tự, Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới – tất cả các pháp nầy đều không sinh khởi do nhân duyên, cũng chẳng sinh khởi do tự nhiên. (Nguồn: Tóm lược Kinh Thủ LN - Q1,2,3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Bát Nhã Ba La Mật để thấy CÁC UẨN ĐỀU KHÔNG:
"Vọng tưởng quyện lưu hạnh nghiệp an bài, (vọng tưởng chuyển lưu, nghiệp an bài)".
Vọng tưởng là tưởng uẩn. Quyện lưu tức là hành uẩn. Hành nghiệp an bài là hành uẩn được an bài cùng hành nghiệp.
"Thức nãi liễu biệt ngũ âm cụ, (Thức cũng liễu biệt đủ năm ấm)".
Liễu biệt là thức uẩn. Phân biệt đầy đủ năm ấm. Năm ấm là sắc thọ tưởng hành thức.
"Cảnh hoa thủy nguyệt liễu trần ai, (hoa gương trăng nước tuyệt bụi trần)".
Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giống như hoa hiện trong gương, như trăng hiện trên mặt nước. Tuyệt bụi trần tức là không còn một vết ô nhiễm bụi trần. Nói lên ý nghĩa là năm uẩn đều không.
"Không nhi bất không minh đại dụng, (không mà chẳng không rõ đại dụng)".
Chư vị phải hiểu rõ năm uẩn đều không. Lúc không hiểu rõ năm uẩn là không thì có nhiều phiền não, vọng tưởng. Hiểu rõ được thì chuyển thức thành trí. Khi ấy đắc đại diệu dụng phi thường. Hiểu rõ diệu dụng này tức thấy mà như chưa thấy thì an lạc sung sướng.
"Kiến do vị kiến lạc khoái tai, (thấy như chưa thấy, vui vô vàn)".
Nơi chân không xuất sanh ra diệu hữu, cùng đại dụng. Khi ấy chư vị thấy rõ mà cũng đồng như chưa thấy. Không bị cảnh giới chuyển. Có thế, chư vị mới đắc được an lạc chân chánh. Vì vậy nói rằng vui vẻ vô vàn. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
I - THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ Con người là một tiểu vũ trụ: Sự tương ứng/ Tương đồng giữa cơ thể con người với Vũ trụ. Theo đó hệ thống vật chất biểu lộ trong vũ trụ thì có sự tương ứng trong con người. Ví dụ: ... Đạo sinh đừng bao giờ quên Định Luật Tương Đồng như là một tác nhân giải thích. Huyền bí học dạy rằng đang ẩn dưới xác thân và hệ thống thần kinh phức tạp và bao quát của nó, là một thể sinh lực hay thể dĩ thái vốn là đối phần và là hình hài đích thực của trạng thái hữu hình bên ngoài của cõi hiện tượng. Đó cũng là môi trường/ phương tiện (medium) chuyển thần lực đến tất cả các phần của thân thể con người và là tác nhân thừa hành của sự sống nội tại và tâm thức. Nó qui định và chi phối thể xác, vì chính nó là nơi lưu trữ và nơi truyền chuyển năng lượng từ các trạng thái bên trong khác nhau của con người và cũng từ môi trường mà trong đó con người đều có được sở trường. (Nguồn: Chiêm tinh học Nội môn)
+ Con người đứng giữa hai nhóm và đang ở điểm thăng bằng; cái khó khăn của con người nằm ở đây. Con người không tham dự toàn thể các khía cạnh vật chất của cuộc tiến hoá, y cũng không là toàn thể sự biểu lộ của Thượng Đế Ngôi Ba, trạng thái Brahma, Ngài là biểu hiện của năng lượng thuần tuý hay sự thông tuệ, đang thúc đẩy cái mà ta gọi là chất liệu nguyên thuỷ (subtance). Con người không phải là toàn thể Tinh Thần, biểu hiện của Thượng Đế Ngôi Một, trạng thái Mahadeva, vốn là một biểu lộ của ý chí thuần khiết hay dục vọng cấp thiết, đang thúc đẩy biểu lộ. Đó chính là động cơ căn bản hay ý chí hiện tồn vĩ đại. Con người là sản phẩm của sự hợp nhất cả hai; y là nơi hội tụ của vật chất hay chất liệu trí tuệ linh hoạt và của Tinh Thần hay ý chí căn bản. Y là con sơ sinh của cuộc phối ngẫu của cả hai hay là sự nhất quán. Y khoác lấy tính khách quan để biểu lộ những gì ở trong mỗi một của hai đối cực, cộng thêm kết quả sự hoà nhập của chúng trong chính y.(LVLCK, 241)
+ CON NGƯỜI: Nói chung, con người là những gì mà thể cảm dục của y tạo ra cho y. Sau nữa, “con người tưởng nghĩ như thế nào thì y trở nên thế ấy”. Thể cảm dục, với các mong mỏi, các thèm muốn, các tâm trạng, các cảm xúc và các khao khát của nó đúc nặn nên thể xác nhờ các lực thu hút tuôn chảy qua nó, và như thế dắt dẫn con người một cách chính xác để thực hiện các ham muốn của y. Nếu các khao khát của bản chất tri giác có tính thú vật vượt trội trong mục tiêu của chúng, chúng ta sẽ có con người với các thèm muốn mạnh mẽ, sống một cuộc đời dành hết nỗ lực để làm thỏa mãn chúng. Nếu sự khát khao để có tiện nghi và hạnh phúc, chúng ta sẽ có con người có tính khí thiên về giác quan, yêu cái đẹp và thích khoái lạc, về thực tế thì bị chi phối hoàn toàn bởi sự nỗ lực ích kỷ. Vì vậy, nó đi suốt tất cả các cấp độ ham muốn, tốt, xấu, và thông thường, cho đến khi sự tái-định-hướng xảy ra, nó tái-tập-trung (refocusses) các năng lượng cảm dục sao cho chúng được chuyển theo một hướng khác. Ham muốn (desire) trở thành nguyện vọng (aspiration). Như vậy, việc giải thoát khỏi bánh xe sinh tử được mang lại và một người được thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh. Khi đó thì lá số tử vi, như được hiểu hiện nay, tỏ ra vô ích, sai và vô dụng, còn thuật ngữ đôi khi được dùng, nhưng không đúng, là “lá số tử vi của chân ngã (ego) hay linh hồn”, thì không có ý nghĩa gì hết. Linh hồn không có vận mệnh cá nhân nào cả, mà được chìm vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của nó là vận-mệnh của tập thể, và của Tổng Thể (the Whole); mong muốn của nó là thể-hiện Thiên Cơ vĩ đại, và ý chí của nó là sự tôn vinh Thượng Đế nhập thể (the incarnated Logos). (LVHLT, 296)
+ Có bốn loại hình hài trong kỷ nguyên của vòng tuần hoàn thứ tư này:
1. Hình Hài của Phàm-Ngã, hiện thể đó bằng chất hồng trần, chất cảm dục và chất trí, vốn cung cấp phương tiện tiếp xúc trong ba cõi thấp
2. Hình Thức của Môi Trường. Đây thực sự là sự thực hiện tiến hóa thăng thượng của hồn khóm tiến hóa giáng hạ (involutionary).
3. Hình Thức của Người Thành Tâm (Devotee). Vâng, Tôi chỉ muốn nói từ ngữ đó, vì nó diễn đạt một ý tưởng trừu tượng.
4. Hình tướng của Thể Nguyên Nhân. Đây là hiện thể của Tâm thức cao siêu, đền thờ của Thượng Đế nội tại, vốn dường như có một vẻ đẹp rất hiếm có, và một sự ổn định có bản chất quá chắc chắn đến nỗi khi sự tan rã cuối cùng của ngay cả kiệt tác đó của nhiều kiếp sống xảy ra, thì cốc phải uống thực sự là cay đắng, và đơn vị tâm thức dường như bị mất đi một cách không thể diễn tả bằng lời được (LVHLT, 263)
II - THEO PHẬT PHÁP (Con người là nửa âm nửa dương_HT Tuyên Hóa giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Đức Phật dạy: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa”. Tất cả chúng sinh đều mang theo nghiệp của chính. Chính vì nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sinh.(Xem nguồn)
+ Con người: Ngày nay, tuy đời sống vật chất phong phú nhưng lại thiếu kém về mặt tinh thần, tâm linh trống rỗng, không nơi nương tựa. Giáo dục cổ nhân Ngạn ngữ Trung Quốc có câu "con người là động vật, cầm thú cũng là động vật".
Con người và cầm thú khác biệt nhau chính ở giáo dục, hay nói cách khác, nếu con người không được giáo dục, đời sống sẽ không bằng cầm thú. ....
Con người là vạn vật chí linh, điều đáng quý nhất là chúng ta có năng lực tiếp nhận sự giáo dục, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, biết cách sống hòa thuận với nhau và với những loài động vật khác, hòa mình cùng đại tự nhiên. .... Giáo dục nhà nho, đầu tiên là đức hạnh.
Giáo dục Đức hạnh là yếu tố cơ bản, là luân lý đạo đức.... Nếu vứt bỏ luân lý đạo đức... cổ nhân thường ví von: “cầm thú mặc quần áo”. ...
... Tiểu học, dạy cách tưới nước quét nhà, dạy tôn kính sư trưởng, hiếu thuận cha mẹ, thương yêu anh em, dạy điều cơ bản của luân thường, dạy về “trung hiếu tiết nghĩa”, “ngũ luân bát đức”.... Thầy phân loại trò tư chất hơn kém yêu cầu mức học giáo lý nhiều ít cho phù hợp.
Đức Phật dạy, bổn phận của người xuất gia là “thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói”. “Thọ trì” là tuân thủ lời giáo huấn của Phật trong kinh điển, y giáo phụng hành. “Đọc tụng”, là mỗi ngày ôn tập lời giáo huấn ấy, không thể quên được. “Vì người diễn nói” là biểu diễn, làm gương cho kẻ khác; vì người khác giảng giải. “Tận phân”, chúng ta phải dốc hết bổn phận, làm từ thiện, thức tỉnh chúng sinh giác ngộ. Giúp đỡ chúng sinh giác ngộ mới thật là từ bi cứu giúp.
“Từ tế” ... “Vì người diễn nói” là đại từ tế. .... nhà Phật rất chú trọng hai chữ “giác ngộ”.... đề xướng bốn tốt: “Nói lời tốt, làm việc tốt, làm người tốt, giữ tâm tốt”, “tâm tốt” chính là: “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. ...
...Số Mạng có hay không? Có! Do trong đời quá khứ chúng ta đã tạo tác nghiệp thiện ác mà hình thành. ... cát hung họa phúc đều là như Phật dậy "mình làm mình chịu", ngay đến thiên địa quỷ thần, Phật Bồ Tát, cùng thượng đế cũng không liên hệ.. .. Người chân thật thông hiểu sự lý này dù gặp tai nạn to lớn đến đâu, họ cũng sẽ không oán trời trách người. ... Nhân quả thông qua nhiều đời, không chỉ một đời.... Thời gian của hậu báo có lúc rất lâu dài. Cho nên Phật pháp thừa nhận, mỗi chúng sinh đều có vận mạng, nhưng không gọi là “Túc mạng”
Cũng chính vì vận mạng có thể tùy thời thay đổi, ... giác ngộ thì phải phải đoạn ác tu thiện - Hành thiện lánh dữ... Người ta đi đoán mạng, xem tướng đều có thể xem được rất chuẩn là vì, vận mạng tuy là biến số nhưng mức độ thay đổi không lớn, cự ly tiêu chuẩn lên xuống không đáng kể, do đó chúng ta xem được tương đối chuẩn. Nếu người đó hành đại thiện hay đại ác, biến số dao động quá lớn, sẽ không đoán được. ...
Phong thủy cũng có, là “hoàn cảnh cư trú cùng với sự tu dưỡng của chính mình”, tâm tình đều có quan hệ. Mỗi người một ý thích, không tương đồng, người thích nước mà buộc lên núi ở, thì phong thủy của người đó không tốt, hoặc ngược lại, người thích núi bị buộc sống cạnh nước, phong thủy cũng không tốt. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Các trần gồm 6 là: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp - Đối tượng/ các Tướng của 6 Căn: Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân, Ý
+ Các loại sắc: Âm thanh quy về nơi sắc trần. Nơi năm ấm, sắc thọ tưởng hành thức, chung quy về sắc.
+ Ngũ ấm - Ngũ uẩn hay Năm lớp vỏ/ màn che trong Minh triết Ấn Độ (Phật giáo gọi là ngũ Ấm hay ngũ Uẩn) là những cái tích tụ, chất đầy, bao phủ che lấp lên, như Đức Phật dậy 5 lớp màn che/ Bóng tối che lấp mặt trời Chân Tâm., gồm Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Pháp Trần: ... Nếu nhân pháp trần sinh ra, thì các pháp trong thế gian, không ngoài năm trần. Ông hãy xem các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng trạng rõ ràng đối với năm căn, đều không thuộc về phần thu nhiếp của ý căn.... Các pháp trần đều không thể nhìn thấy được. Thế nên quý vị có thể tìm kiếm tướng trạng của chúng, nhưng không thể nào nhìn ra được. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Pháp trần: Trong tâm duyên pháp. Tâm pháp có 8, sắc pháp có 11. tâm sở pháp có 51, pháp bất tương ưng có 24, vô vi pháp có 6, cộng thành 100 pháp. Tâm duyên pháp trần khiến tự tính không được thanh tịnh. ...... Con người chánh chết đuối lại nhảy vào lửa mà chết. Chết đuối - Chết thiêu tương ưng với Tham tài thì bị tài sản chôn vùi, tài tương ưng với nước, giống như chết đuối. Tham sắc - Lòng tham muốn/ Lửa thiêu đốt thân. Nước lửa là ví dụ Tài Sắc. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 197 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các Pháp: Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất rằng hãy nên chú ý lắng nghe cho kỹ. "Thị chư pháp không tướng vô tánh, (các pháp vốn không tướng vô tánh)".......
.... Thọ tưởng hành thức như không sắc
Lại nữa Xá Lợi nên lắng nghe kỹ
Các pháp đều không tướng vô tánh
Không sanh không diệt, thông tịch nhiên
Không nhơ không sạch xa nhiễm ô
Không tăng không giảm ngộ trong huyền
Thâm sâu cực tĩnh vượt tạo hóa
Đốn giác ngã pháp vốn viên dung."
Bên trên giảng sắc không khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc.
Sắc này có nhiều loại sắc pháp, nhưng tổng quát không ngoài ba loại, tức là khả đối khả kiến sắc, khả đối bất khả kiến sắc, bất khả bất đối kiến sắc.
Sao gọi là khả đối khả kiến sắc ? Khả đối tức là có thể đối mặt. Khả kiến tức là có thể thấy. Khả đối bất khả kiến sắc là có thể đối đãi, nhưng không thể nhìn thấy. Lại bất khả đối bất khả kiến sắc là chư vị có đối đãi cũng không có đối đãi, thấy cũng không thể thấy sắc. Loại sắc này xuất phát từ đâu ? Do phân biệt từ cảnh giới sáu trần như hình sắc, âm thanh, hương vị, xúc chạm, pháp.
Sao gọi là khả đối khả kiến sắc ? Thí như nhân, ngã, tha, chúng sanh, núi non, sông hồ, đất đai... vạn tượng bao la, đều có hình sắc, có sắc tướng, có hình chất nên có thể thấy. Do đó đều gọi là khả kiến khả đối sắc (có thể thấy, sắc có thể đối đãi), tức chung quy nơi sắc pháp.
Lại nữa, chung quy nơi sắc pháp mà khả đối bất khả kiến (sắc có thể đối đãi mà không thể thấy). Đối là có thể đối đãi, nhưng chư vị không thể nhìn thấy, chỉ có thể nghe thôi. Tại sao ? Nay nói về âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm. Đối với thanh trần, tức âm thanh mà chư vị có thể nghe. A ! Âm thanh hoặc hay hoặc dở, chư vị có thể đối trước với nó mà sanh tâm thức phân biệt, nhưng không thể thấy được âm thanh. Hãy nói, âm thanh là sắc gì, là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng ? Nó không có hình sắc. Âm thanh này hình dáng ra sao, hình tròn, hình tam giác, hình dài ? Chư vị không thể biết, không thể thấy. Không thể thấy được thể tướng của thanh trần, nên gọi là khả đối bất khả kiến sắc (có thể đối trước, nhưng không thể thấy). Âm thanh này chung quy nơi sắc trần. Nơi năm ấm, sắc thọ tưởng hành thức, chung quy về sắc.....
Bên trên, giảng về ba loại sắc, tức là sắc có thể đối có thể thấy, sắc có thể đối không thể thấy, sắc không thể đối không thể thấy. Đó là mười một loại sắc pháp. Tại sao thế ? năm căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý, lại thêm sáu trần sắc, thanh hương vị xúc pháp. Năm căn đối với sáu trần sanh ra 11 loại sắc pháp. Mười một loại này cũng được phân tách từ ba loại sắc ở bên trên, tức là sắc có thể đối có thể thấy, sắc có thể đối không thể thấy, sắc không thể đối không thể thấy.
Có thể đối có thể thấy, tôi đã giảng ở phần trên rồi, tức là tất cả vật có hình tướng, hiển lộ hình sắc trước mắt chư vị. Có thể đối không thể thấy tức là bốn loại âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm. Âm thanh có thể nghe nhưng không thể thấy. Hương vị xúc cũng như thế, chỉ có cảm giác mà không thể thấy. Không thể đối không thể thấy tức là pháp trần, cũng chung quy nơi sắc pháp. Sắc pháp này không thể thấy được, cũng không thể cảm giác được, nhưng trong ý niệm lại biết đến. Sao gọi là sắc pháp ? Vì nó là ảnh tử của năm trần lưu lại trong tâm thức. Loại ảnh trần này cũng thuộc về sắc pháp. Đó là một loại sắc trong ý thức. Bên trên đã nói sắc tức là không. Thọ tưởng hành thức cũng đều không, cũng lại đồng dạng với sắc trần. Sắc trần từ đâu đến ? Sắc trần đối với sáu căn sanh ra sáu thức, nên biến thành sắc trần....
Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất rằng hãy nên chú ý lắng nghe cho kỹ.
"Thị chư pháp không tướng vô tánh, (các pháp vốn không tướng vô tánh)".
Tánh của sáu căn, thấy, nghe, ngữi, nếm, giác, tri vốn là không.
Sắc do tánh mà hiển. Sắc cũng là không. Chẳng thể bỏ rời sắc mà giữ được không. Bàn về sắc và kiến tánh, chư vị bảo rằng sắc có trước hay kiến tánh có trước ? Nếu nói sắc có trước thì chưa thấy gì mà sao lại hiển xuất ra sắc? Nếu nói đầu tiên có kiến tánh, thì khi không có sắc có thể đối thì kiến tánh (thấy tánh) chỗ nào ? Không có sắc mà chư vị kiến tánh (thấy tánh) thì không ích lợi gì. Thế nên phải thấy tánh vốn là không. Sắc cũng là không. Chư vị chớ khởi ra loại biến kế chấp tánh. Chấp trước có tức là có, không tức là không. Không và có vốn không hai. Chấp thấy có tức nhất định là có, thì không thể liễu giải (hiểu rõ) đạo lý không hai của có và không.
Vì vậy, nếu hướng ngoại truy cầu, thì đem đầu đặt lên đầu, chấp trước khởi vọng. Vì thế, Phật thuyết "Tâm Kinh" tức là thuyết về đạo lý không hai của có và không. Diệu pháp không hai của có và không. Thọ tưởng hành thức cũng đồng với không và sắc. Chư pháp vốn không tướng vô tánh.
Tất cả năm uẩn pháp, sắc, thọ tưởng hành thức đều là tổng hợp các pháp, tức là mười một loại sắc pháp, tám tâm pháp, năm mươi mốt tâm sở pháp, hai mươi bốn bất tương ưng pháp, sáu vô vi pháp, thành một trăm pháp. Mười một sắc pháp tức là mười một loại sắc trần vừa giảng ở trên, cũng là năm căn đối với sáu trần. Năm căn là năm loại sắc pháp. Sáu trần là sáu loại sắc pháp. Cộng thành mười một loại sắc pháp. Tám tâm pháp tức là nhãn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na hức, cùng a lại da thức, cộng thành tám tâm pháp. Năm mươi mốt tâm sở pháp nghĩa là thọ và tưởng phân tích tường tận ra thành năm mươi mốt loại tâm sở pháp. Hành tức là hai mươi bốn bất tương ưng pháp. Thức cũng là tám thức đã nói ở trên. Lại thêm sáu vô vi pháp, tổng cộng thành một trăm pháp.
Một trăm pháp này do hai vị bồ tát Thiên Thân, Vô Trước tóm gọn sáu trăm sáu mươi pháp của bồ tát Di Lặc phân thành một trăm pháp. Bồ tát Di Lặc lấy thời số một đời thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni mà biên thành sáu trăm sáu mươi loại pháp. Vì sáu trăm sáu mươi pháp quá nhiều, nên sau này, bồ tát Thiên Thân và Vô Trước nghiên cứu tóm thâu lại thành một trăm pháp. Do đó nói rằng các pháp vốn không tướng, vô tánh, tức bảo rằng năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức đều là không, chẳng có tự tánh. (Nguồn: Bát Nhã Ba Đa Mật Đa Tâm Kinh_HT Tuyên Hóa giảng)
+ Pháp tổng quát với Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa là Pháp Năm uẩn - Pháp Ngũ uẩn
"Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới,
Dịch nghĩa: Cho đến trong không chẳng có sắc, chẳng có thọ tưởng hành thức, chẳng có mắt tay mũi lưỡi thân ý, chẳng có sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng có nhãn giới, cho đến chẳng có ý thức giới.
"Thị cố không trung vô sắc tướng
Thọ tưởng hành thức diệc vong trược
Lục căn trần tịnh lục thức
Tam tâm chỉ thấu tam quan
Bạch ngưu đại xa lân lân chuyển
Hoàng kiểm tiểu nhi khiêu khiêu toản
Nhược vấn cá trung hà chỉ thú
Tiền tam tam tiếp hậu tam tam
Dịch :
Do đó trong không chẳng có sắc
Thọ tưởng hành thức cũng không trược
Sáu căn sáu trần cùng sáu thức
Ba tâm ba chỉ thấu ba cửa
Trâu trắng xe lớn, chuyển từ từ
Bé mặt vàng đập đến đập lui
Nếu hỏi đường hướng như thế nào
Trước ba ba tiếp, sau ba ba".
"Chân không bát nhã chính là diệu hữu - Diệu hữu phi hữu chính là chân không"
Trong không chẳng có sắc. Đó là bàn tiếp về đoạn văn ở trên. Bên trên, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Vì chân không chẳng có sắc thọ tưởng hành thức. Bổn thể của thọ tưởng hành thức vốn là không. Sáu căn, mắt tai mũi lưõi thân ý cũng không có. Sáu trần, sắc thanh hương vị xúc pháp chẳng có luôn. Sáu thức, thức của mắt tai mũi lưỡi thân ý đều là không. Tâm kinh này đàm luận về lý không tức chân không bát nhã. Chân không bát nhã chính là diệu hữu. Diệu hữu phi hữu tức là chân không. Do đó bảo rằng chân không không ngăn ngại diệu hữu, diệu hữu không ngăn ngại chân không, chân không là diệu hữu, diệu hữu cũng là chân không. Vì thế, bên trên kinh cũng nói rằng sắc không khác không, không chẳng khác sắc.
Sáu căn, sáu trần, sáu thức, hợp lại thành mười tám giới. Sáu căn cộng với sáu trần gọi là mười hai xứ. Sáu căn cũng là sáu nhập. Mười tám giới cũng là không. Sao thuyết ra pháp đó ? Đối với phàm phu thì có pháp này, còn đối với thánh nhân thì là không. Do đó, nói kệ :
"Thị cố không trung vô sắc tướng, (do đó trong không chẳng có sắc)".
Vì bên trên đã nói rõ lý này, tức trong không, không có sắc.
"Thọ tưởng hành thức diệc vong trược. (Thọ tưởng hành thức cũng không trược)".
Thọ tưởng hành thức cũng không ô trược.
"Lục căn lục trần tịnh lục thức, (sáu căn sáu trần cùng sáu thức)".
Sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Sáu trần là đối xứng với sáu căn mà có như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Căn tăng trưởng xuất sanh. Trần y theo đó mà bị ô nhiễm. Do sáu căn đối với sáu trần khởi phân biệt nên sanh ra sáu thức; thức của mắt tai mũi lưỡi thân ý. Tất cả hợp thành 18 giới.(Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Xem bản dịch của đại đức Thích Nhất Hạnh. Mời xem bản dịch Bát nhã ba la mật
+ Uẩn (skandas): Khi biểu lộ trên cõi trần thì trong mọi sự sống đều có ẩn tàng các mầm hay chủng tử phải kết thành quả, và chính các chủng tử (seeds) tiềm tàng này là cái nhân có hiệu quả đưa đến việc xuất hiện của hình hài. Vào một lúc nào đó, các chủng tử được gieo xuống và phải kết thành quả. Đó là các nguyên nhân (causes) hay uẩn sẽ tạo nên các thể (bodies) mà quả báo phải thể hiện trong đó. Đó là các dục vọng, các thôi thúc và các nghĩa vụ giữ chặt con người vào vòng luân hồi, đưa con người vào cuộc sống hồng trần, nơi sẽ tựu thành kết quả tối đa của các chủng tử này, mà theo định luật, y có thể thanh toán trong bất kỳ kiếp sống nào. (ASCLH, 393)
Xem thêm Tooltip: Ngũ uẩn
+ THÁI CỰC: Bản thể Thái cực cũng phân thành hai khí Âm - Dương. Từ Thái cực Sinh khởi Nhị nguyên Tinh thần và Vật chất; Trời và Đất ....v...v...
+ Thái cực: Lão Tử viết, có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.... Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu. [Thái cực là đồng. Phật giáo nói Hư không là đồng - Thế giới là dị => Thái cực đồng nghĩa Hư không_Lời Nhân trắc học]
Lão Tử giảng về chữ Đạo và chữ Đức của Pháp Thế gian và Xuất thế gian. (Nguồn: Đạo là gì - HT Tuyên Hóa)
+ Vô cực sinh Thái cực: Thái cực sinh Lưỡng nghi => Sinh Tứ tượng => Sinh Bát quái ... Sinh không ngừng, vô cùng tận => Tạo ra sự khác biệt từ MỘT THỂ TÁNH.
2- Nhị nguyên nguyên thủy và thứ cấp: Trên nguyên tắc là một Thực Thể (Không gian là một Thực thể), không dính dấp gì đến những liên hệ nhân quả của Thế giới hiện tượng. Chỉ khi nào đề cập đến Linh Hồn của vũ trụ nội tại (intra-cosmic Soul), tức Vũ Trụ lý tưởng còn trong Tư Tưởng Thiêng Liêng bất biến, ta mới có thể nói rằng: “Nó không bao giờ có lúc khởi thủy và cũng không bao giờ có lúc cáo chung”. Còn nói về phần sắc tướng hay tổ chức cơ cấu của vũ trụ, tuy người ta không thể nói rằng trong dĩ vãng đã từng có một cuộc tạo dựng đầu tiên, hoặc trong tương lai sẽ có một cuộc tạo dựng cuối cùng, nhưng ở vào mỗi chu kỳ Khai Nguyên mới (Manvantara), cơ cấu tổ chức của vũ trụ có thể coi như một cơ cấu mới mẻ nhất và cũng độc đáo nhất vì mỗi lần như vậy, nó lại tiến hóa trên một cõi cao hơn. (Giáo lý bí nhiệm - Q1)
- Nguyên thủy (Primordial duality): Tinh thần và vật chất (Spirit and matter).
- Thứ cấp (Secondary duality): Linh hồn và thể xác (Soul and body). (TLHNM II, 381)
+ Tánh Giác sinh Nhị nguyên: .... A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng. (chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà TÁNH GIÁC ấy biến thành Vọng giác và Vọng minh – kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám_HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4)
+ Xem thêm: Tương tác các cặp đối nghịch và đối hợp
+ Vô cực sinh Thái cực: Thái cực sinh Lưỡng nghi => Sinh Tứ tượng => Sinh Bát quái ... Sinh không ngừng, vô cùng tận => Tạo ra sự khác biệt từ MỘT THỂ TÁNH.
2- Nhị nguyên:
- Nguyên thủy (Primordial duality): Tinh thần và vật chất (Spirit and matter).
- Thứ cấp (Secondary duality): Linh hồn và thể xác (Soul and body). (TLHNM II, 381)
* Cặp Nhị nguyên: Theo triết học Đông phương thì trong thiên nhiên, mọi vật đều có tiềm phục hai yếu tố đối hợp như: nóng với lạnh; nước với lửa; không với có; âm với dương; tịnh với động vv… Các yếu tố đối hợp này va chạm nhau, xô đẩy nhau, tìm kiếm nhau để rồi điều hòa với nhau mà hợp lại, sinh ra cái mới. Hợp thể mới này dần dần phân hóa, tạo ra hai thể mới để lại tác động nhau, rồi hợp lại với nhau, cứ diễn biến như thế mãi để đưa tới tiến hóa.
Chú ý: Đối hợp không phải là đối lập hay mâu thuẩn. Đối lập hay mâu thuẩn thường hàm ý là chống đối nhau, còn đối hợp chẳng những không chống đối, mâu thuẩn nhau mà còn sóng đôi nhau, nương tựa nhau, hòa hợp nhau để tạo ra cái mới. (Chú thích của người dịch)
+ Năng lượng 7 cung biểu lộ nhị nguyên: Một khái niệm về xung đột lâu đời, về bảy nguồn năng lượng lớn biểu hiện dưới dạng nhị nguyên và tạo ra khi neo giữ trong một cơ thể (cho dù đó là một hành tinh, một con người hay một nguyên tử) một khu vực hoặc chu kỳ đau khổ, như người ta gọi; [295] .... Những năng lượng này chảy qua bảy trung tâm của cơ thể hành tinh và - theo như chúng ta biết - là bảy năng lượng tia. .... (Nguồn: Chữa bệnh nội môn)
3- Hư không nhị nguyên: .. Phật nói về Tánh giác (Bất nhị) sinh năng sở (Nhị nguyên: Vọng năng/ Năng minh và Vọng sở/ Sở minh). "Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng/ Năng minh nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …(Nhị nguyên lập)
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới.... có kim luân giữ gìn cõi nước ...có hỏa đại..... có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh. (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên hay tự nhiên - Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Xem thêm: Tương tác các cặp đối nghịch và đối hợp
+ Đức hạnh (virtue) : X. Tính tốt.
+ Nhân cách: Người là trung hiếu nhân nghĩa, còn như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là không phải người => Mất Nhân cách (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Nhân cách: ... Bây giờ là thời gian để các em học tập: ở trong lớp thì các em trau giồi kiến thức và kỷ năng, ở ngoài lớp thì các em rèn luyện đạo đức và nhân cách....
Bây giờ chính là lúc các em phải xây dựng nền tảng kiên cố về cả hai phương diện học vấn và nhân cách. Nền tảng về nhân cách lại còn trọng yếu hơn nền tảng về học vấn nữa. Người có học vấn mà không có nhân cách thì sau này chỉ làm hại cho quốc gia, gây loạn lạc cho nhân loại. Vì lẽ đó các em cần phải rèn luyện nhân cách cho cao thượng để tương lai phục vụ nhân loại, đem lại lợi ích cho chúng sanh.
Ðức Mạnh Tử dạy chúng ta ba tiêu chuẩn để rèn luyện nhân cách. Ngài nói rằng:
1) Lúc mình giàu có phú quí, thì phải giữ qui củ, không được dâm loạn,
2) Lúc mình nghèo hèn thì đừng thay đổi chí khí tức là không bị hoàn cảnh làm cho thay đổi chí hướng,
3) Lúc mình bị thế lực chèn ép thì không khuất phục, không đầu hàng, tức là không bị lợi lộc, vật chất làm cho mất hết danh tiết. Nếu các em có được chí khí cương trực hào hùng như vậy thì mới có thể trở thành những người hữu dụng sau này. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Một nhân cách: Là một con người tách biệt... Nhiều người thực ra chỉ là những động vật với những xung động cao hơn mơ hồ... Họ bị chi phối bởi ý thức đại chúng và tiếp nhận mà không suy nghĩ. Phân nhóm nhân cách phổ thông - Đa số nhân loại hiện nay vẫn ở giai đoạn động vật, với các phản ứng bản năng và trí năng đang phát triển; một nhóm nhỏ hơn gồm những người đã tích hợp nhân cách, phối hợp và hoạt động có mục đích, thể hiện một mức độ tự định hướng và mục đích thực sự (Nguồn: Sách Tâm lý học nội môn - ChatGPT MFVN tổng hợp)
* Xem thêm: Tổng hợp Đức hạnh - Nhân cách - Tính cách Con người
+ Ba Lý tưởng [Chuyên chế - Dân chủ - Cộng sản/ Cộng hòa]: Tôi xin gợi ý rằng ý thức hệ được thể hiện trong tầm nhìn của các nhà nước chuyên chế là đáp ứng sai lầm nhưng rõ rệt với ảnh hưởng của ý chí từ Shamballa (Cung 1); rằng ý thức hệ ẩn trong lý tưởng dân chủ là một đáp ứng tương tự với tinh thần đại đồng mà tình thương (Cung 2) của Thánh Đoàn thôi thúc biểu lộ ra; và rằng chủ nghĩa cộng sản (Cộng hòa) vốn phát xuất từ con người, thể hiện ý thức hệ (Cung 3) mà nhân loại đã đưa ra trong quyền hạn của riêng mình. Thế là ba phương diện của Thiên tính đang bắt đầu trở thành ba ý tưởng chính. Và những gì chúng ta thấy trên hành tinh này hiện nay là những phản ứng lệch lạc của con người với các xung lực tinh thần, phát xuất từ ba trung tâm khác nhau, nhưng tất cả đều có bản tính thiêng liêng như nhau, trong cốt yếu và tinh túy. Hãy suy ngẫm kỹ điều này (Thời nay, mỗi người chịu sự chi phối phải chọn theo đuổi 1 trong 3 lý tưởng sống này). (Nguồn: sách Điểm đạo trong nhân loại _Tr 22)
+ Lý tưởng: Khắp thế gian, đâu đâu cũng có sự khao khát đang thôi thúc con người tìm kiếm một kẻ nào đó mà đối với y là biểu hiện một lý tưởng. Ngay đến những người không chấp nhận sự hiện hữu của các Chân Sư cũng đang tìm kiếm một lý tưởng nào đó, rồi hình dung ra lý tưởng đó được thể hiện dưới hình thức nào đó trên cõi trần. Có lẽ họ mường tượng ra mình như là những người tiêu biểu cho hành động lý tưởng, hoặc hình dung ra một nhà từ tâm nổi danh nào đó, một khoa học gia kiệt xuất, một nhà mỹ thuật hay nhạc sĩ tiếng tăm nào đó, xem những người này như là đang thể hiện cho quan niệm siêu tuyệt của họ. Con người – chỉ vì con người chính là mảnh nhỏ (fragmentary) và còn bất toàn (incomplete) – luôn luôn có sự thôi thúc ở nội tâm mình để tìm kiếm đối tượng khác ưu việt hơn chính mình. Chính điều này đưa con người trở lại trung tâm bản thể của mình và cũng chính điều này thôi thúc con người chọn con đường trở về với Toàn ngã (All–Self). Qua bao thiên kỷ, bao giờ Đứa Con Đi Hoang cũng đứng dậy và trở về với Từ Phụ, lúc nào trong thâm tâm cũng nhớ về ngôi nhà của Từ Phụ và cảnh huy hoàng nơi đó. Nhưng thể trí con người cần được kiện toàn đến nỗi mà việc tìm kiếm ánh sáng và lý tưởng tất phải dài lâu và vất vả. “Hiện giờ, qua khung kính, ta chỉ thấy một cách mập mờ, nhưng sau đó sẽ nhìn thấy tỏ tường”. Bây giờ, qua khung cửa sổ thoáng mở mà chúng ta vượt qua khi leo lên nấc thang tiến hóa, chúng ta bắt gặp những cái nhìn thoáng qua của những Đấng Cao Cả. Các Ngài chìa ra cho chúng ta các cánh tay giúp đỡ và lớn tiếng kêu gọi chúng ta hãy phấn đấu dũng cảm nếu chúng ta muốn đứng ở chỗ mà các Ngài đang đứng hiện giờ. (TVTTHL, 256–257)
+ Một lý tưởng (ideal) là một ý niệm cố định trong trí (fixed mental- concept) có tính chất gây cảm hứng, được tạo ra để hướng dẫn cách hành xử.(KCVTT, 262)
+ Tất cả mọi lý tưởng đều chỉ là cái bóng (shadow) của sự hoàn thiện tối hậu (final perfection). (VLH, 110)
+ Thần lực (Forces, Shaktis): Có sáu thần lực của Thiên nhiên.
a/ Chúng là các loại (types) năng lượng.
b/ Chúng là tính chất hay đặc tính năng động của một Hành Tinh Thượng Đế.
c/ Chúng là sinh lực của một Hành Tinh Thượng Đế được định hướng vào một hướng nào đó. ..... (LVHLT, 13);
* Xem thêm: Thần lực và các quyền năng
+ Kiến thức tổng hợp về dẫn truyền năng lượng bảy cung:
a/ Cung Hoàng đạo dẫn truyền Cung năng lượng: Năng lượng do Cung Hoàng đạo dẫn truyền năng lượng từ các chòm sao xa xăm chỉ chi phối những người có Linh hồn tiến hóa cao mà họ đã dần thoát khỏi 5 Hành tinh không thánh thiện. Đại khái đa số nhân loại hiện nay vẫn chưa có thể Phàm ngã hợp nhất, là điều kiện tiên quyết để năng lượng cao chi phối Phãm ngã qua Thể Linh hồn.
b/ Hành tinh dẫn truyền cung năng lượng - mầu sắc hành tinh:
+ 12 Hành tinh đang chi phối 12 Cung Hoàng đạo, có liên quan trước tiên đến biểu lộ ở cõi trần của con người, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã (CTHNM, 63)
+ Có 12 Hành tinh (7 H.Tinh thánh thiện và 5 không thánh thiện) có liên quan với sự sống bên ngoài, môi trường và các hoàn cảnh của cá nhân. Các mãnh lực biểu hiện trạng thái thiêng liêng thứ 3 - Ý muốn hiểu biết; (CTHNM, 38)
- 12 HT chi phối 12 Cung HĐ, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã con người, cộng với các tình trạng nghiệp quả kế thừa, tạo ra các trạng thái chung quanh và các hoàn cảnh sống và sau rốt việc kiểm soát khía cạnh hình tướng của sự sống (CTHNM, 63)
+ (i)- Bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh là cội nguồn xuất phát của 7 cung của thái dương hệ chúng ta. Mỗi một trong 7 năng lượng này được truyền vào Thái Dương hệ chúng ta qua 3 chòm sao (Hoàng Đạo) và các Hành tinh chi phối chúng. (Xem Bảng tổng hợp Minh triết mới)
- 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh Hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
+ Mỗi hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Hành tinh dẫn truyền:
- Cung 1, Vulcan và Diêm Vương tinh
- Cung 2, Mặt trời và Mộc tinh
- Cung 3, Trái đất và Thổ tinh
- Cung 4, Thủy tinh và Mặt trăng
- Cung 5, Kim Tinh
- Cung 6, Hỏa tinh và Hải Vương Tinh
- Cung 7, Thiên Vương Tinh
+ Thống kê và ý nghĩa Chiêm tinh học: Các quy luật và tạo lập Lá số Chiêm tinh; Định vị các Nhà; Vòng Hoàng Đạo và Mặt phẳng Hoàng đạo, đường Xích đạo Trời; Các Hành tinh có tính các Hành của nó mạnh hơn các hành cùng loại của các Cung Hoàng Đạo; Ý nghĩa các Cung Hoàng Đạo; Các Nhà; Các Góc hợp và Chủ tinh các Cung Hoàng Đạo; cũng như khái niệm về vượng, tướng, tù, tử; Cung chủ quản một Nhà; Mẫu sắc các hành; Tính điểm các hành; Các góc hợp Tam hợp, Lục hợp ....
+ Các Hành tinh chi phối Khả năng (CTHNM, 715):
- Thổ tinh“ Saturn – chi phối các khả năng mộ đạo.
- Thủy tinh Mercury – chi phối các khả năng trí tuệ.
- Mộc tinh Jupiter – điều hành các khả năng tình cảm.
- Mặt Trời – điều hành các khả năng cai trị.
- Hỏa tinh Mars – chi phối các khả năng ích kỷ.
- Kim tinh Venus – chi phối các khả năng kiên trì.
- Mặt Trăng – chi phối các bản năng”.(GLBN III, 463).
+ Mầu sắc - Mầu màn che ngoại môn (GLBN III, trang 455, Sơ đồ II)
Hành tinh Nguyên khí con người Màu sắc Ngày trong tuần
1. Mars ............ Kama-rupa ............... Đỏ ......... Thứ ba
2. Mặt Trời ..... Prana-Sự sống .......... Cam ....... Chúa nhật
3. Mercury ...... Buddhi ...................... Vàng ..... Thứ tư
4. Saturn ......... Kama-manas ............. Lục ........ Thứ bảy
5. Jupiter ......... Vỏ hào quang ........... Lam........ Thứ năm
6. Venus ......... Manas-Thượng trí ..... Chàm ..... Thứ sáu
7. Mặt Trăng .. Linga Sharira ............. Tím ........ Thứ hai
+ Các trường phái hành tinh: [Xem chi tiết: Tại đây]
1. Uranus (Thiên Vương Tinh) – 2. Địa Cầu - 3. Vulcan (Hỏa vương cầu) - 4. Jupiter (Mộc tinh) - 5. Mercury (Thủy Tinh) - 6. Venus (Kim Tinh) - 7. Mars (Hỏa Tinh) - 8. Neptune (Hải Vương Tinh);
+ Hành tinh đại diện bốn phương chính (Đông - Tây - Nam - Bắc): Chính xác nhất cho bán cầu nam là Thổ Tinh; Hỏa Tinh ở Bán cầu đông; Mặt trăng ở Bán cầu bắc; và Kim Tinh ở Bán cầu tây. Điều này là do thực tế rằng chúng cũng là những chủ tinh tự nhiên của bốn nhà góc (nhà 10, nhà 1, nhà 4 và nhà 7) tạo thành khung cơ bản cho các ngôi nhà khác của lá số chiêm tinh. Nguyên tắc tứ phân này là nguyên mẫu mà theo đó chúng ta đưa ra thực tiễn. Có bốn mùa, bốn hướng chính, bốn yếu tố, bốn mặt của một kim tự tháp, và bốn loại tâm lý.... (Nguồn: CTHNM 2)
+ Các hành tinh đại diện cho các nguyên lý trong con người [Google Việt dịch]: "Bảy Đại Sinh Mệnh tâm lý vĩ đại, được định tính bởi bảy loại lực sống, đang biểu hiện qua trung gian của bảy hành tinh... Mỗi hành tinh, giống như một con người, là sự biểu lộ của hai loại lực hoằng quang - Lực của nhân cách và lực của linh hồn."......
"Các hành tinh không Thánh thiện cai quản nhà thứ nhất, thứ tư, thứ năm và thứ tám trong hoàng đạo nhỏ. Trái Đất của chúng ta cũng là một hành tinh không Thánh thiện. Vì vậy, bạn có bốn hành tinh không linh thiêng kiểm soát hoặc cai quản một hành tinh không Thánh thiện thứ năm - Một sự tương ứng với bốn phương diện của con người hạ trí (thể xác; thể sinh lực hoặc thể dĩ thái; thể cảm dục và thể hạ trí) cùng với sự hợp nhất thành phương diện thứ năm - Nhân cách." Bảng kê tương ứng:
Phương diện ..... Hành tinh cai quản ... Nhà trong chiêm tinh
Thể xác VC ... Mars (Sao Hỏa) ...... Nhà 1 (Aries - B.Dương)
Thể SL/ Dĩ T ... Moon (Mặt Trăng) .... Nhà 4 (Cancer - Cự Giải)
Thể cảm dục ... Sun (Mặt Trời) .... Nhà 5 (Leo - Sư Tử)
Thể hạ trí .... Pluto (Diêm VT) ... Nhà 8 (Scorpio - Bọ Cạp
Sao Hỏa là kẻ truyền lực của Cung 6 và cai quản ngôi nhà của hành động. Mặt Trăng,(Che dấu Vullcan) liên quan đến Cung Bốn, cai quản ngôi nhà của hình thể và bản chất. [Mặt trăng - Chi phối Tâm thức Bản năng tiêu cực vô thức, Vullcan chi phối khi tiến hóa lên Phàm ngã phối kết]. Mặt Trời, (Che dấu Vullcan) truyền năng lượng của Cung Hai, cai quản ngôi nhà của thể nhân quả hoặc sự trỗi dậy của linh hồn. [Mặt trời - Chi phối Tâm thức Phàm ngã (Tam phân: Phàm ngã - Trái Tim - Linh hồn) chưa phối kết, Vullcan biểu lộ chi phối với người có Phàm ngã đã phối kết]. Diêm Vương Tinh, truyền năng lượng của Cung Một, cai quản ngôi nhà của cái chết và sự chia lìa trọng đại. (Chiêm tinh học NM)
+ Xem thêm các chi tiết: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Xem: Tổng hợp về mầu sắc
+ Phẩm chất con người
Phẩm Chất Là Gì?
Có thể hiểu một cách đơn giản nhất:
Phẩm là tư cách.
Chất là tính cách.
Nghĩa của từ phẩm chất là tính chất bên trong con người. Hay còn gọi là tư cách đạo đức trong con người.
Phẩm Chất Bao Gồm Những Gì?
Nhân cách được định hình bởi hệ thống những phẩm giá. Thể hiện qua các mối quan hệ của con người xuất phát từ tâm lý, tình cảm, nhân sinh quan, nhận thức về bản thân và xã hội.
Phẩm chất là đặc trưng của từng cá nhân, là bản chất thực của con người. Phía trước mọi người, trong cuộc đời, luôn có nhiều con đường. Người thiếu nhân cách sẽ mất phương hướng khi chọn con đường chính đáng cho mình.
Các yếu tố chính cấu thành nên phẩm chất là:
Ý thức
Tình cảm
Thuộc tính tâm lí
Xu hướng
Tính cách
Khí chất
Năng lực
Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Con người phải biết đặt lợi ích của cách mạng và của Tổ quốc lên trên hết.
Hiếu với dân là tin vào vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân. Sống gần gũi với dân, gắn bó với dân, hết lòng phục vụ nhân dân. Đồng thời vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cần kiệm liêm chính chí công vô tư
Cần là lao động cần cù, lao động có kế hoạch, lao động với tinh thần sáng tạo và có năng suất cao. Phải nhận thức được lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Không được lười biếng, ỷ lại, dựa dẫm.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của dân, của nước và của bản thân. Phải tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to. Không được xa xỉ, hoang phí, bừa bãi. Và không phô trương hình thức; không được liên hoan chè chén lu bù.
Liêm là trong sạch, tôn trọng giữ gìn của công và của dân. Không xâm phạm tài sản, tiền của của Nhà nước và nhân dân. Trước tiên là không tham địa vị, tiền tài. Không ham người khác tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Chính là không tà, là thẳng thắn là đứng đắn trong mội công việc quan hệ. Nhất là đối với mình không tự cao tự đại. Đối với người không nịnh hót đợ bỡ. Cuối là đối với việc không sợ khó sợ khổ.
Chí công vô tư là luôn đặt việc công lên trước việc nhà, việc tư. Khi làm bất cứ việc gì cũng không được nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau. Tức là phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Thực hành chí công vô tư phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Thương yêu con người
Tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự kế thừa từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc. Tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. (Nguồn: Các phẩm chất của con người trong tiếng Anh)
+ Các đặc điểm của cá nhân vốn đang bắt đầu hoạt động như một phàm-ngã có thể được liệt kê vắn tắt như sau. Chúng đơn giản, rõ ràng và ích kỷ một cách rõ rệt. Đừng nên quên rằng bước đầu tiên trên con đường dẫn đến tính cá nhân tất yếu là tính ích kỷ. Cũng nên nhớ kỹ rằng trở ngại đầu tiên đối với phàm-ngã tiến bộ và tiến hóa cao là tính cá nhân hay là việc kéo dài thái độ ích kỷ. Do đó, các đặc điểm theo sự phát triển tuần tự của chúng như sau:
1. Khả năng nói: Tôi là, tôi ước muốn, tôi mong muốn, tôi quyết chí.
2. Ý thức ở nơi trung tâm của vũ trụ nhỏ bé của con người. “Các Cõi Trời di chuyển xung quanh tôi, và các ngôi sao quay theo các con đường của chúng quanh tôi” là phương châm của giai đoạn này.
3. Ý thức về những biến cố (drama) và khả năng tự hình dung mình như là trung tâm của môi trường của mình.
4. Ý thức trách nhiệm và khả năng xem các thành viên xung quanh của gia đình nhân loại là phụ thuộc vào mình.
5. Ý thức về tầm quan trọng – kết quả tự nhiên của những điều ở trên. Việc này thể hiện thành sức mạnh và ảnh hưởng nơi nào có một thực thể thực sự và luôn luôn thức tỉnh đàng sau nhân vật (persona), và thể hiện thành sự khoe khoang và sự khoa trương nơi nào mà một tạo vật bé nhỏ ích kỷ hoạt động.
6. Khả năng sử dụng toàn bộ năng lực để cho thể trí và não bộ hoạt động đồng bộ, và do đó mà bản chất tình cảm bị phụ thuộc, bị ngăn chận hoặc bị kiểm soát. Điều này bao hàm sự phát triển ổn định của khả năng sử dụng tư tưởng.
7. Khả năng sống một cuộc đời được phối kết sao cho toàn bộ con người hoạt động và được hướng dẫn bởi mục đích (biểu lộ năng lượng ý chí), bởi mong muốn (biểu lộ năng lượng của bản chất tình cảm hay bản chất tâm linh), và bằng sức sống vốn lôi cuốn hiện thể vật chất đi theo mục đích và mong muốn.
8. Năng lực gây ảnh hưởng, chi phối, hướng dẫn và nắm giữ những kẻ khác trong phạm vi của mục đích cá nhân và mong muốn cá nhân.
Khi giai đoạn này đã đạt tới, ba năng lượng vốn tạo ra một phàm-ngã đã được hòa hợp và kết hợp thành công, và bộ máy hoặc khí cụ của bản ngã nội tại trở thành một tài sản tiện lợi và đáng giá. Con người là một nhân vật đầy uy lực và trở thành trung tâm của một nhóm; y nhận thấy mình là một tâm điểm cho các sự sống khác, và là một cá nhân có ảnh hưởng lôi cuốn, chi phối những người khác, phối hợp các đơn vị nhân loại thành các nhóm và các tổ chức. Y trở thành người đứng đầu của các tổ chức và của các đảng phái, của các đoàn thể tôn giáo và chính trị, và của các quốc gia trong một số trường hợp. Như thế các phàm-ngã vượt trội xuất hiện và nhận thấy sở trường của họ; do đó họ phát hiện sự dị biệt giữa trung tâm quyền lực, tức bản ngã, với khí cụ (equipment); cuối cùng họ bắt đầu ý thức về thiên hướng (vocation) theo ý nghĩa thực sự của thuật ngữ này. (LVHLT, 393)
+ Đạo làm người: Có nhiều pháp giảng về các đức hạnh của đạo làm người
- Theo Nho đạo/ Khổng Tử ...: Ngũ luân - Ngũ thường/ Bát đức. Tương ưng với Đạo
- Đạo lý làm người cơ bản: Theo HT Tuyên Hóa thì lục đại tông chỉ là một cách mô tả đạo lý cơ bản làm người, gồm KHÔNG: Tranh/ Tham/ Cầu/ Ích kỷ/ Tự lợi/ Nói dối. Có được các hạnh này cũng tức là đã trì giới. Giữ được giới là có được cái gốc để phát triển trí tuệ (Giới - Định - Tuệ). Kết hợp với bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định mà đắc được trí huệ. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr123 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Theo Phật giáo: Thập thiện là đạo làm người cao sâu rộng hơn cả. Giản lược với người tu tại gia là giữ ngũ giới.
+ Đạo làm người qua Luân Thường Đạo Lý (Hai cách nói)
Ngũ Luân: Năm đạo lý tôn trọng lẫn nhau gồm Vua Thần - Cha con - Vợ chồng - Anh em - Bằng hữu.
Ngũ Thường: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín
* Cách nói khác: Tám đức ở Trung Quốc có hai cách nói, hai cách nói trừ đi những cái giống nhau trong đó còn lại 12 chữ. “Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, Nhân, Ái, Hòa, Bình”.
Hoặc nói 12 chữ: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ; cùng với Nhân, Nghĩa, Đạo và Đức. Đó là căn bản của con người.
=> 12 chữ này là hoàn toàn tương ưng với đạo, tương ưng với nguyên tắc của tự nhiên. Không có nó - Thế giới liền loạn thôi, bạn sẽ khổ.
* Khi gia đình và xã hội sống đúng Đạo, thì vạn sự theo Đạo chẳng cần nhắc đến. Nhưng khi bất hòa phát sinh mới nói đến chữ hiếu - Đạo nghĩa - Trung thần ... Đạo lý trong đoạn kinh nầy cũng giống như điều của Lão Tử muốn nói. Nếu chỉ có một yếu tố, thì sẽ không có gì trở nên hỗn trược. Nhưng vì chúng kết hợp với nhau và hình thành một khối, nên hư vọng sanh khởi. Điều nầy chứng minh rằng trong mọi pháp, đều có cái chân cái nguỵ, cái giả cái thật. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Năm đức tính của con người quân tử theo Đạo đời:
1. Nhân: Nhân (trong "nhân hậu")
2. Nghĩa: Nghĩa (trong "chính nghĩa")
3. Lễ: Lễ (trong "lễ phép")
4. Trí: Trí (trong "trí tuệ")
5. Tín: Tín (trong "uy tín")
Mất nhân cách: Còn như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là không phải người
Người nào phạm 5 điều này thì đời sau không làm được thân người. Chúng ta làm được năm điều này thì lương tâm không có hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người. Chúng ta xem những người này trong xã hội ngày nay, lại so với mình, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm mình, tự mình có làm được hay không? Tự mình đời sau có được thân người không? Nếu như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì đời sau nhất định đọa trong ba đường ác. (Nguồn: Ba Phúc Hiếu - Phụng sự Sư trưởng - Hành thập thiện)
+ Bàn về chữ Đạo: Đạo vũ trụ, đạo trời, đạo đất và đạo người, ngài Mạnh Tử có cuốn sách Đạo Đức Kinh rất tuyệt diệu. Xin mời xem đầy đủ về chữ Đạo tại: Đạo Đức Kinh của Mạnh Tử rất tuyệt đỉnh.
+ Chữ Đạo - Đạo của tự nhiên: Cái gì là đạo? Vợ chồng là đạo, cha con là đạo, anh em là đạo, bè bạn là đạo, vua tôi là đạo, (vua là người lãnh đạo, tôi là người bị lãnh đạo), đây là “ngũ luân”. Hỏi bạn năm thứ này do ai đặc ra? Là ai phát minh? Là ai quy định? Không có! Đây là nguyên tắc tự nhiên. Cho dù bạn có văn hóa hay không, người mọi rợ họ cũng có, người văn minh cũng Đạọ làm người, bạn không thể nào thoát khỏi năm cái này, cho nên năm cái này là nguyên tắc tự nhiên, đây là "đạo", đạo của tự nhiên => Đức/ Ngũ Thường: Tùy thuận theo đạo chính là "đức". Đầy đủ là 8 đức tính của con người. Trái ngược với đạo thì tai nạn sẽ đến ngay. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
+ Tâm Tính/ Đức Tính thiện lành: Căn cứ vào Tooltip "Lợi ích của người tu tập theo Thập thiện" và Bát tránh đạo để đánh giá người có các đức tính thiện lành, Tooltip "người đại thiện" theo Đức Phật dậy => Làm căn cứ dự đoán số mệnh (Nguồn: Kinh thập thiện - PS Tịnh Không giảng)
+ Phẩm tính người Đông - Tây phương: Người Đông phương thiên về triết lý, bản tính mơ mộng, qua nhiều thế kỷ đã được tập suy tư trừu tượng, thích những biện chứng khó hiểu, tính tình yếu đuối và thái độ chậm chạp. Qua nhiều thời đại suy tưởng siêu hình, sống chay lạt, tính trì trệ, thích bảo thủ những hình thức và qui luật sống nghiêm khắc, đã tạo nên mẫu người trái ngược hẳn với người anh em phương Tây.
Người phương Tây thích thực tế, làm việc có hệ thống, năng động, hành động mau lẹ, lệ thuộc sự tổ chức (vốn là một hình thức khác của nghi lễ), được thúc đẩy bằng trí tuệ rất cụ thể, thích thu đạt, ưa chỉ trích, làm tận lực khi công việc trôi chảy mau lẹ, và dùng lý trí quyết định nhanh chóng khi cần thiết. Họ không thích những tư tưởng trừu tượng nhưng biết đánh giá khi hiểu được và khi họ có thể làm những tư tưởng [113] đó thành hiện thực ở cõi trần. Họ dùng luân xa đầu nhiều hơn luân xa tim, và luân xa cổ họng của họ thường được sinh động. Người Đông phương thì dùng luân xa tim nhiều hơn luân xa đầu và tất nhiên là dùng trung tâm ở đầu tương ứng với luân xa tim. Luân xa ở đáy xương sọ, đầu cột sống hoạt động mạnh mẽ hơn luân xa cổ họng.
Người Đông phương tiến hóa bằng cách thu tâm thức vào luân xa đầu, qua cố gắng tham thiền tích cực. Đó là luân xa y phải chế ngự. Y học hỏi bằng cách dùng các câu thần chú một cách khôn ngoan, bằng cách sống ẩn dật và tham thiền theo những phương thức đặc biệt, mỗi ngày nhiều giờ trong thời gian dài.
Người Tây phương trước hết phải nhằm rút tâm thức vào luân xa tim, vì họ đã dùng luân xa đầu quá nhiều. Họ thường sử dụng các hình thức tập thể thay vì các chú nguyện dùng riêng cho cá nhân. Họ không thường làm việc trong đơn độc như người anh em phương Đông mà phải tập trung tâm thức ngay cả trong sự náo nhiệt và quay cuồng của cuộc sống kinh doanh và trong những đám đông ở các đô thị lớn. Họ dùng những hình thức tập thể để đạt mục tiêu của mình, và việc đánh thức luân xa tim tự biểu lộ trong phụng sự. Vì vậy, người phương Tây phải chú trọng đến tham thiền ở luân xa tim và cuộc sống phụng sự sau đó. (Tham thiền huyền môn)
+ Đạo làm Người rất hay: Xem 28 Điều Lời Khai thị của Ấn Quang Đại Sư
+ Thủy Kính Hồi Thiên Lục: [Phần tựa] Chúng ta hãy lắng lòng nhìn kỹ mà xem, khắp tam thiên đại thiên thế giới ngày nay, ác nghiệp dẫy đầy, các quốc gia tàn sát nhau dẫn đến chiến tranh thế giới; nhà nhà giết hại lẫn nhau dẫn đến chiến tranh làng xóm, người người giết hại lẫn nhau tạo nên chiến tranh giữa mình và người; tự mình giết hại bản thân mình tạo thành chiến tranh trong tâm tánh; cho đến hư không cùng hư không giết hại nhau, nước cùng nước giết hại nhau, tạo thành các loại chiến tranh hữu hình và vô hình… Ôi! Thật là khổ đau và buồn thương vô hạn!
Vô lượng tai ương nạn ách đều do nghiệp sát tạo thành. Chúng ta nếu không kịp thời tỉnh thức ngăn chặn nguyên nhân sát sanh, duyên do sát sanh, phương pháp sát sanh, cùng nghiệp sát sanh, thì khó mà chuyển đổi được tai ách để được an lạc.
Tai ương ách nạn là do sát nghiệp sanh ra, sát nghiệp là do tâm sanh ra; nếu tâm không sanh lòng giết hại, lòng trộm cướp, lòng tà dâm, lòng nói dối, lòng uống rượu mà lại nghiêm trì năm giới, siêng tu tam vô lậu học (giới, định, huệ), thì tất cả ác nghiệp liền được tiêu trừ. Khi đó thì “bổn lai diện mục” không khó nhận thức, “bổn hữu trí huệ” tất tự nhiên hiện tiền. Cảnh vật ở nơi này kỳ diệu biết bao không nơi nào có được. “Bổn địa phong quang” có lý thú kỳ diệu riêng mà ý vị thật vô cùng tận! Chúng ta nếu muốn được thưởng thức cái ý vị đó thì phải phát khởi lòng hướng thiện, gạn lọc tâm tính, phát tâm đại tinh tấn dõng mãnh, lập chí tiến tu nguyện thành đạo quả, để cứu độ nhân sinh cùng tới được bờ bên kia, cùng các bậc thiện nhân cao thượng vui vầy một chỗ, mãi mãi được bầu bạn cùng các bậc Bồ Tát bất thối. Cho nên, tôi viết quyển “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” là vì mục đích này!
Tuy nhiên, nói thì dễ nhưng làm lại rất khó, nguyên nhân là do đâu ? Là bởi, chúng sinh trên bước đường tu tập điều thiện, dù được ân cần chỉ dạy năm lần bảy luợt, họ vẫn không thực hành theo; nếu gặp ác duyên, thì niệm niệm tăng trưởng, không ai dạy cho cũng tự biết làm! Kẻ lầm đường lạc lối mà biết quay lại thật ít lắm thay! Thế thì, có khác nào “ánh trăng đáy nước, bóng hoa trong gương,” tuy có ảnh mà không hình. Đây chính gọi là sự hy vọng vào việc không thể hy vọng, sự thành tựu việc không thể thành tựu, cho nên nói rằng: “Thủy Kính Hồi Thiên” là thế đấy !
“Thủy và kính” (nước và gương) ... đều là những vật có bóng dáng nhưng không có hình tướng cụ thể; trăng trong nước và hoa trong gương đều không có tự thể. Hai ví dụ trên là động cơ để tôi viết nên bộ “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” nầy, với mong ước cứu vãn phần nào tai kiếp trên thế giới hiện nay. Tai kiếp là số trời đã định; quý vị làm nhiều điều ác sẽ tự chuốc lấy quả báo, cho nên nói tự mình làm tự mình chịu. Tự làm tự chịu vốn là đạo lý rất công bằng, không có sức mạnh nào có thể cứu vãn, xoay chuyển được thiên số này. Cứu vãn là hy vọng tội đã tạo vốn phải chịu quả báo có thể được giảm nhẹ, trở lại làm một người không gây tạo tội ác nữa. Thọ quả báo vốn là nghiệp đã tạo từ trước, hôm nay phải nhận lấy hậu quả; sự việc đã như vậy, khó có thể vãn hồi. Bây giờ chúng ta muốn cứu vãn tội nghiệp của mình, việc nầy cũng giống như trăng trong nước, hoa trong gương, thật là mờ mịt, thật không thể nắm bắt. Tuy nói không thể nắm bắt, và cũng rất là mờ mịt, nhưng tôi vẫn muốn làm, biết là nó không thể nhưng vẫn cứ muốn làm, biết rõ là không dễ vãn hồi, nhưng vẫn muốn xoay chuyển ý trời.
Chữ “Hồi thiên” nầy không phải là đi lên trời, mà là muốn vãn hồi lại ý trời, muốn cứu vãn tai kiếp lớn; muốn cứu con người ra khỏi vô số những tai kiếp vốn phải chịu trên thế gian như nạn đao binh, nạn nước, lửa, bệnh dịch tràn lan v.v.. trong tam tai bát nạn. Người phải chết trong nạn đao binh cũng chính là người phải chết trong nạn chiến tranh, chúng ta đến chiến trường cứu sống những người nầy lại; nước lớn nhận chìm người, lửa dữ thiêu chết người, chúng ta cứu người từ trong nạn nước lửa nầy; trước khi con người mắc phải hay chưa mắc phải vô số những bệnh dịch tràn lan như: bệnh ôn dịch, bệnh truyền nhiễm, bệnh Aids (sida) và bệnh ung thư không trị được… chúng ta dạy họ cách phòng ngừa, giúp họ thoát khỏi tay tử thần, cứu người sắp chết sống lại, đây gọi là “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” và đây cũng là động cơ giúp tôi viết nên bộ sách này. Nói chung tuy trăng trong nước, hoa trong gương không có thật thể, nhưng trong cái hư vọng mờ mịt đó, tôi phải cố gắng hết sức mình để cứu vãn tai kiếp lớn nầy, khiến cho tai nạn không phát sanh trên thế giới của chúng ta.(Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa sáng tác Thủy Kính Hồi Thiên)
+ Họa Tam Tai - Bài viết “Thủy Kính Hồi Thiên Lục”:
“Thủy và kính” (nước và gương) trong bộ “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” nầy đều là những vật có bóng dáng nhưng không có hình tướng cụ thể; trăng trong nước và hoa trong gương đều không có tự thể. Hai ví dụ trên là động cơ để tôi viết nên bộ “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” nầy, với mong ước cứu vãn phần nào tai kiếp trên thế giới hiện nay. Tai kiếp là số trời đã định; quý vị làm nhiều điều ác sẽ tự chuốc lấy quả báo, cho nên nói tự mình làm tự mình chịu. Tự làm tự chịu vốn là đạo lý rất công bằng, không có sức mạnh nào có thể cứu vãn, xoay chuyển được thiên số này. Cứu vãn là hy vọng tội đã tạo vốn phải chịu quả báo có thể được giảm nhẹ, trở lại làm một người không gây tạo tội ác nữa. Thọ quả báo vốn là nghiệp đã tạo từ trước, hôm nay phải nhận lấy hậu quả; sự việc đã như vậy, khó có thể vãn hồi. Bây giờ chúng ta muốn cứu vãn tội nghiệp của mình, việc nầy cũng giống như trăng trong nước, hoa trong gương, thật là mờ mịt, thật không thể nắm bắt. Tuy nói không thể nắm bắt, và cũng rất là mờ mịt, nhưng tôi vẫn muốn làm, biết là nó không thể nhưng vẫn cứ muốn làm, biết rõ là không dễ vãn hồi, nhưng vẫn muốn xoay chuyển ý trời.
Chữ “Hồi thiên” nầy không phải là đi lên trời, mà là muốn vãn hồi lại ý trời, muốn cứu vãn tai kiếp lớn; muốn cứu con người ra khỏi vô số những tai kiếp vốn phải chịu trên thế gian như nạn đao binh, nạn nước, lửa, bệnh dịch tràn lan v.v.. trong tam tai bát nạn. Người phải chết trong nạn đao binh cũng chính là người phải chết trong nạn chiến tranh, chúng ta đến chiến trường cứu sống những người nầy lại; nước lớn nhận chìm người, lửa dữ thiêu chết người, chúng ta cứu người từ trong nạn nước lửa nầy; trước khi con người mắc phải hay chưa mắc phải vô số những bệnh dịch tràn lan như: bệnh ôn dịch, bệnh truyền nhiễm, bệnh Aids (sida) và bệnh ung thư không trị được… chúng ta dạy họ cách phòng ngừa, giúp họ thoát khỏi tay tử thần, cứu người sắp chết sống lại, đây gọi là “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” và đây cũng là động cơ giúp tôi viết nên bộ sách này. Nói chung tuy trăng trong nước, hoa trong gương không có thật thể, nhưng trong cái hư vọng mờ mịt đó, tôi phải cố gắng hết sức mình để cứu vãn tai kiếp lớn nầy, khiến cho tai nạn không phát sanh trên thế giới của chúng ta......
Chiến tranh trong tâm, dẫn đến chiến tranh giữa các gia đình, giữa các quốc gia. Vì có nghiệp sát như thế, nên thân làm nguyên thủ lãnh đạo quốc gia, ví dụ như làm quốc vương, tổng thống, hoàng đế sẽ đi gây chiến với nước khác. Vì giành đất mà gây chiến, sẽ giết người đầy đồng; vì tranh thành mà gây chiến, sẽ giết người ngập thành. .......
Nếu muốn vãn hồi tai kiếp nầy, muốn xoay chuyển lại ý trời, cứu vãn tất cả tai nạn, bệnh tật, vô hình trung khiến những điều trên không sanh khởi thì con người chúng ta nên giữ giới không giết hại và thực hành hạnh phóng sanh. ........
Quý vị có thể nghiêm trì năm giới, lại có thể thực hành mười điều thiện, đây chính là việc làm có thể tiêu diệt tai kiếp ác nạn trên thế gian; cho nên đang trong thời gian phòng ngừa tai họa, chúng ta nên hành trì năm giới; nếu ai cũng giữ gìn năm giới thì thế giới sẽ thái bình, con người không còn gặp phải tai nạn nữa..........
Chúng ta còn phải rộng độ chúng sanh, độ mình độ người, giác mình giác người, lợi mình lợi người, nếu có ai chưa lìa khổ được vui thì là chúng ta chưa làm hết trách nhiệm của mình; mọi người cùng nhau liễu thoát sanh tử, lìa khổ được vui, đồng đến bờ giác, cùng chư thượng thiện nhân vui hợp một chỗ, Bồ tát bất thoái luôn làm bạn của chúng ta. Sở dĩ tôi viết ra “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” chính là vì muốn làm được việc nầy; cho nên ai có thể nghiêm trì năm giới, người đó chính là chiến sĩ của “Thủy Kính Hồi Thiên Lục”.
Nhưng mà việc nầy nói ra thì dễ, làm lại rất khó. Vì sao vậy? Vì tánh thức của chúng sanh ở thế giới Ta bà vô định, khó điều phục, muốn họ làm lành, cho dù đã nhiều lần ân cần dạy dỗ, tận tâm chỉ bảo, vẫn rất khó làm cho họ tuân thủ làm theo. Nhưng vừa gặp phải ác duyên, ví dụ như đánh bạc, hút thuốc phiện, hoặc khiêu vũ, xem phim thì họ luôn khởi tâm muốn làm theo; những việc nầy không cần phải dạy, họ cũng tự biết rõ, cũng có thể nói là không thầy dạy nhưng tự biết. Trong biển nghiệp mênh mông, thực ra biết quay đầu trở lại rất ít! Cho nên việc muốn vãn hồi lại ý trời cũng giống như trăng trong nước, có bóng nhưng không hình; giống như hoa trong gương, cũng có bóng mà không có hình, không có cơ sở.
Tuy nhiên, cái hy vọng chúng ta muốn vãn hồi lại ý trời, không phải là trăng trong nước, hoa trong gương; nhưng muốn vãn hồi lại ý trời cũng giống như trăng trong nước, hoa trong gương, không có căn cứ, không có thành tựu, căn bản là có bóng nhưng không có hình, chỉ có thể thấy mà không thể với tới, chỉ có thể xem mà không thể lấy được; nhưng cho dù là việc không thể làm được, tôi cũng muốn làm, đây chính là cái được gọi là “hy vọng trong cái không thể hy vọng, thành tựu trong cái không thể thành tựu”, cho nên tôi mới đặt tên bộ sách nầy là “Thủy Kính Hồi Thiên”, có nghĩa là việc tôi muốn làm thật không dễ thực hiện. (Nguồn: Thủy Kính Hồi Thiên Lục - Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng)
+ Tam tai và tương ứng: Xem tại đây
+ Các loại bệnh - Mười hai bệnh không được thất Phật
.... Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật. A Nan hỏi Phật: “Đó là bệnh gì?” Đức Phật trả lời: “1. Không kính cha mẹ, đó là một bệnh; 2. ngu si tạo ác, đó là hai bệnh; 3. gian giảo điêu ngoa, đó là ba bệnh; 4. lời nói hại người, đó là bốn bệnh; 5. hay tìm lỗi người, là bệnh thứ năm; căn bệnh thứ sáu, 6. giết hại chúng sinh; 7. không biết hổ thẹn, đó là bảy bệnh; 8. ham mê sắc dục, là bệnh thứ tám; 9. kiêu ngạo khinh người, đó là chín bệnh; 10. phạm tội không hối, là bệnh thứ mười; 11. khen mình chê người, là bệnh mười một; 12. không biết lợi hại, là bệnh mười hai”. A Nan lại hỏi: ” Những bệnh như thế, chữa bằng cách nào?”
Đức Phật trả lời: “Dùng thuốc đúng bệnh, sẽ được thuyên giảm. 1. Từ bi hỷ xả, 2. khiêm tốn nhún nhường, 3. tán thán Đại Thừa, 4. nói lời hiền dịu, 5. có lỗi lo đổi, 6. thương người nghèo khó, 7. kính người già cả, 8. người ta chê mình, không giận không tức, 9. khen ngợi người khác, 10. nguyện độ chúng sinh, 11. có oán phải giải, 12. kính trên nhường dưới, đó là phương thuốc, trị những bệnh trên.” A Nan lại hỏi: “Những thứ thuốc đó, tìm được ở đâu?” Đức Phật trả lời: “Ở núi Tu Di”. A Nan Lại hỏi: “Tu Di là gì?” Đức Phật trả lời: “Là thân người vậy.
Hết thảy chúng sinh, đều có sáu nạn: Một là thân người khó được; hai là thân người khó đủ; ba là thiện tâm khó phát; bốn là Chính Pháp khó nghe; năm là trung quốc [Nơi trung tâm, đô thị] khó sinh; sáu là Đạo tràng khó gặp.”
Phật nói kệ rằng, giả sử tạo nghiệp, trong trăm nghìn kiếp, nghiệp cũng không mất, đến khi nhân duyên, hòa hợp đầy đủ, thì người gây nghiệp, phải chịu quả báo. Nét mặt tươi vui, đó là cúng dàng, miệng không nói dối, đó là diệu hương, lòng không sân hận, đó là Tịnh Độ, Ý không nóng nảy, đó là đạo tràng. Làm người học đạo, mà không biết nhân, suốt ngày bận bịu, ham đắm sắc trần, chỉ biết lấy nước, lau rửa mặt mình, mà không lấy thiện, gột rửa lòng mình, thôi làm mọi điều ác, đó là nhân Tịnh Độ. Dù trí hay ngu, điều cần trước nhất, là bỏ tham sân. (Nguồn: Kinh Mục Liên Sám Pháp)
+ Chiêu cảm Thiên tai - Nhân họa: ... Trong kinh Đức Phật dạy rằng:
- Tham lam chiêu cảm nên lũ lụt, nước biển dâng cao.
- Sân nhuế chiêu cảm nên hỏa hoạn, núi lửa phun trào. Nguyên nhân gì khiến nhiệt độ địa cầu tăng cao? Là sân nhuế.
- Ngu si chiêu cảm nên gió bão, rất đáng sợ.
- Ngạo mạn chiêu cảm nên động đất.
- Hoài nghi [Tâm không bình đẳng, hoài nghi là Đất] chiêu cảm còn đáng sợ hơn bốn loại trước, trên toàn thế giới gần đây chúng ta đều thấy tình hình này: Đại địa đột nhiên chìm xuống, đây là gì? Đây là hoài nghi, hoài nghi là không có lòng tin.
Đối với cá nhân mà nói, hoài nghi làm mất đi sức miễn dịch, rất dễ cảm nhiễm độc bệnh, vì đã mất sức miễn dịch. Nơi ta sống, đất đai lỏng lẻo, lỏng lẻo nên rất dễ chìm xuống. Núi lỏng lẻo, rất dễ sụp đổ. Thảm họa này không thua ở trước nói, nước biển dâng cao, núi lửa phun trào, không thua gì thiên tai đó. Vì sao lục địa chìm xuống đáy biển? Vì sao núi cao bị đổ xuống? Thế sự xoay vần, địa cầu này lại thêm một lần biến hóa lớn! Biến hóa lớn này chính là thảm họa nghiêm trọng, do đâu mà có? Là tham sân si mạn của chúng ta chiêu cảm nên, không phải thảm họa tự nhiên, thiên nhiên là tốt đẹp nhất, sao thiên nhiên lại sinh ra tai họa? (Nguồn: PS Tịnh Không - Tịnh Độ ... 256)
+ Họa Tam Tai do Lòng Dục vọng lớn: có lớn và có nhỏ. Lớn thì có nạn cháy (hỏa tai), lũ lụt (thủy tai), gió bão (phong tai); và nhỏ thì có chiến tranh, đói khát, tật dịch. Tam Tai còn được gọi là Tai Kiếp. Nguyên nhân phát sanh ba Tai Kiếp lớn là:
1. Do Lòng giận dữ của con người nên phát sanh hỏa tai;
2. Do Lòng tham lam nên phát sanh thủy tai; và
3. Do Lòng si mê nên phát sanh phong tai.
Cho nên, Tam Tai là từ Tam Ðộc mà ra. Chúng ta ai cũng có Tam Ðộc là tham, sân, si. Nếu ba tâm này ngày một lớn mạnh thêm, thì tới một lúc nào đó sẽ hình thành Ðại Tai Kiếp, họa hoạn. (Trích sách Hoa Sen Ngày Xuân - Lời HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các Tai kiếp ở trời đất do Tâm Dục lớn [Tham - Sân - Si]: Các Tai họa - Các Bệnh tật - Các Hoạn do Chúng sinh dụng Tâm tương ứng với Các Đại hay Các Hành. Nhân gì Phát Sanh Tam Tai?
Tam tai chia ra làm hai phần là: đại tam tai và tiểu tam tai.
Đại tam tai là ba tai ách lớn về lửa, nước và gió.
Tiểu tam tai là ba tai ách nhỏ về đao binh, mất mùa và bệnh dịch.
Đó cũng tức là tai kiếp.
Trong một đại kiếp có bốn trung kiếp gồm: thành, trụ, hoại, và không.
Mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên nhân phát sanh đại tam tai.
Bởi con người có Tâm tham mới phát sanh ra hỏa tai;
con người có Tâm sân hận mới sanh ra thủy tai;
con người có Tâm ngu si mới sanh ra phong tai.
(* Tâm nghi ngời, phân biệt không bình đẳng sinh động đất, nở sụt đất _ HT Tịnh Không)
Cho nên tam tai đều là do tam độc mà sanh khởi. Trong tâm chúng ta, ai ai cũng có đầy đủ cả ba độc. Tâm nầy mỗi ngày càng một khuếch đại ra và khi đến một mức độ nhất định, nó sẽ hình thành đại tai kiếp.
Tam tai phát sanh cũng có thứ lớp, bởi con người có thất tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tức là vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn. Bảy loại tình cảm nầy dần dần phát triển rộng ra. Và mỗi một loại tình sẽ phát sanh một lần tai nạn, cho nên mới hình thành bảy lần hỏa tai. Sau bảy lần hỏa tai thì sẽ phát sanh một lần thủy tai. Trong bảy tình, mỗi một tình lại chia ra làm bảy, cho nên mỗi cái “thất hỏa nhất thủy” nầy sẽ theo thứ tự mà lập đi lập lại bảy lần. Rồi lại trải qua bảy lần hỏa tai. Đến lúc sau cùng phong tai phát sanh và hủy diệt toàn cả thế giới.
Khi hỏa tai phát sanh, nó có thể thiêu đốt đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới, tức gồm cõi: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên.
Lúc thủy tai phát sanh thì có thể ngập đến tầng trời Nhị thiền của Sắc giới, tức gồm Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang và Trời Quang Âm. Khi phong tai phát sanh thì có thể thổi đến các tầng trời Tam thiền của Sắc giới, là gồm Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên và Biến Tịnh Thiên. Cho nên nói:
Cõi Trời Lục Dục có năm suy,
Cõi Trời Tam Thiền có phong tai,
Dẫu như tu đến Phi Phi Tưởng,
Không bằng về Tây rồi trở lại.
Phong tai từ đâu tới? Nó đến từ sự tổng kết của bảy thứ tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phong tai thì tượng trưng cho si độc. Khi con người đã lâm vào tình cảnh ngu si, thời cái gì cũng quên sạch nhẵn. Do đó đại phong phát khởi, rồi từ trên trời Tam Thiền đến dưới tận địa ngục, cái chi cũng không còn, tất cả đều bị quét sạch. Dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, nhưng nội viện cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của Phật và Bồ Tát. Hiện nay, Bồ Tát Di Lặc đang ngự tại nội viện trên cung trời Đâu Suất, chờ đến khi trụ kiếp thứ mười trong thời kỳ Hiền Kiếp, Ngài mới giáng lâm thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh (hiện tại đang là Giảm Kiếp của Trụ Kiếp thứ chín).
Tham sân si hình thành biết bao loại ÁC KHÍ, giống như nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng bom nguyên tử do tự chúng ta phát sanh từ lửa tam muội lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử nầy không phải đến từ bên ngoài, mà nó vốn đã có sẵn trong tự tánh. Chân hỏa tam muội trong tự tánh chúng ta vốn thuần là dương, nhưng vì bị ta lạm dụng nên nó biến thành lửa dục.
Trong thân người có tam tiêu hỏa là: thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa nầy có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả. Bởi bên trong có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm nầy.
Trong tâm có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh, bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy.
- Tật Bệnh Cùng Nghiệp Chướng
Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa.
Đó đều là do nghiệp chướng quỷ tác quái. Bởi con người có nghiệp chướng từ lâu đời, cho nên đến thời đến lúc thì quỷ tới đòi nợ. Mà cũng bởi vì con người không đủ dương khí, tức âm thịnh dương suy, cho nên quỷ mới có thể tùy tiện được. Nếu quý vị thường không phiền não và trí huệ luôn hiện tiền, thì sẽ không có sơ hở để ma quỷ thừa cơ lợi dụng.
Nhưng một khi quý vị khởi dục niệm và vô minh, quỷ bèn thừa cơ hội mà lẻn vào một cách dễ dàng.
Từ đó suy ra, tám vạn bốn ngàn tật bệnh là đều có tiền nhân hậu quả cả. Thậm chí khi quý vị bị con muỗi cắn, con ong chích, cho đến tất cả những tai nạn mà quý vị gặp phải, đều là do nhân quả đan dệt với nhau. .... Và đến lúc quả đã thành rồi thì có rất nhiều phiền phức.
Bởi vậy quý vị nên “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo nghiệp ương mới” và sống cảnh giác, không buông thả, không làm hại người và chỉ làm lợi cho người, vậy là mình sẽ không sanh bệnh gì cả, mà ma quỷ cũng không tìm được mình đâu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị).
+ Tam tai và tương ứng: Xem tại đây
+ Một cõi Phật - Tam thiên Đại thiên thế giới: 58. ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI
Này các Tỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về việc trời đất thành, hoại và quốc độ mà chúng sanh ở chăng?
Như trong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốn thiên hạ, tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới như vậy.
Trong ngàn thế giới có một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di; có bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốn ngàn chim cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác bốn ngàn đường ác lớn, bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn, ngàn Diêm-la vương, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời Đao-lợi, ngàn trời Diệm-ma, ngàn trời Đâu-suất, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn trời Phạm; đó là tiểu thiên thế giới.
Như một tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là một trung thiên thế giới.
Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới như vậy là một tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi thế giới thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật. (Trường A Hàm, Kinh Châu Diêm Phù Đề, số 30)
+ Tam thiên đại thiên thế giới
Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên. Sao gọi là cõi nước tam thiên đại thiên? Nhân vì ba ngàn (thiên) nên gọi là cõi nước tam thiên đại thiên thế giới.
Một Thế giới: Chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn: Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Ðông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. “Một” đây là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu.
=> Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới;
Một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới;
Một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới.
=> Vì có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tam thiên đại thiên thế giới: Chuyển luân thánh vương là người trị vì bốn châu thiên hạ: Đông thắng thân châu, Tây ngưu hoá châu, Nam thiêm bộ châu và Bắc-câu-lư châu. Một thế giới hệ bao gồm bốn đại châu nầy, một mặt trời, một mặt trăng và núi Tu-di. Một ngàn tiểu thiên thế giới hệ là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới được gọi là một đại thiên thế giới. Đây là ý nghĩa của Tam thiên đại thiên thế giới. Một vị Chuyển luân thánh vương cai trị một tiểu thiên thế giới. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cõi Đại Thiên: ..... Nầy Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Diêm Phù Đề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện nhập niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Hòa thượng Tuyên Hóa quán: .... Cho nên mới nói “Tĩnh quán tam thiên đại thiên thế giới” (lắng lòng nhìn kỹ khắp tam thiên đại thiên thế giới), “tĩnh” chính là bình tâm tĩnh chí, “quán” chính là xem xét, chúng ta bình tâm tĩnh chí để xem xét cái gì? Xem xét trong ba ngàn đại thiên thế giới, ác nghiệp dẫy đầy. Một núi Tu di, một mặt trời mặt trăng, một tứ đại bộ châu hợp lại thì gọi là một thế giới. Thế thì một ngàn ngọn núi tu di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ đại bộ châu hợp lại thì gọi là một tiểu thiên thế giới; hợp một ngàn tiểu thiên thế giới lại, gọi là một trung thiên thế giới; hợp một ngàn trung thiên thế giới lại, gọi là một đại thiên thế giới. Hiện tại nói ba ngàn đại thiên thế giới, chính là tập hợp của ba cái “thiên”, tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới và đại thiên thế giới, nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới. Rốt cuộc ở đây có bao nhiêu thế giới? E rằng dùng máy tính cũng không thể tính đếm hết được số thế giới nầy. (Nguồn: Thủy Kính Hồi Thiên Lục - HT Tuyên Hóa)
+ Thân Phật hiện cùng khắp hư không:
Thân Phật khắp cùng các đại hội
Đầy khắp pháp giới không cùng tận
Tịch tĩnh không tánh không thể lấy
Vì cứu thế gian mà xuất hiện.
Giảng: ‘’ Thân Phật khắp cùng các đại hội.’’ Thân Phật này là nói Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khắp cùng tức là vô tại vô bất tại (chỗ nào cũng có thân Phật), chẳng có trong một hạt bụi nào mà chẳng phải là chỗ sở tại của thân Phật. Các đại hội tức là đại pháp hội chư Phật thuyết pháp.
Phật Phật đạo đồng, Đức Phật kia thuyết pháp, Đức Phật này ủng hộ pháp hội. Đức Phật này thuyết pháp, Đức Phật kia ủng hộ pháp hội, cho nên nói thân Phật khắp cùng các đại hội.
‘’ Đầy khắp pháp giới không cùng tận.’’ Thân Phật không những biến hoá khắp các đại hội, mà còn đầy khắp tận cùng hư không biến pháp giới, tất cả thế giới vô cùng tận. Tóm lại thế giới này thế giới kia, vô lượng các thế giới ; cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước đều đầy khắp thân Phật, cho nên nói đầy khắp pháp giới không cùng tận.
‘’ Tịch tĩnh không tánh không thể lấy.’’ Thân Phật tuy nhiên khắp cùng các đại hội, đầy khắp pháp giới, nhưng Ngài là vắng lặng, vô tướng, lấy mà không thể được, xả bỏ cũng không thể được. Nói cho dễ hiểu là lấy cũng chẳng có, mà xả bỏ cũng chẳng có. Chính vì bổn lai chẳng có, cho nên chẳng có gì có thể giữ, càng chẳng có gì có thể bỏ.
Vậy, rõ là các pháp vốn thường vắng lặng, Phật lại cần gì xuất hiện ra đời ? Trong Kinh Pháp Hoa có nói : ‘’ Phật vì một đại sự nhân duyên mà hiện ra đời.’’ Đại sự gì ? Tức là vấn đề sinh tử. Phật muốn nói với chúng sinh rằng sinh từ đâu đến và chết sẽ đi về đâu, khiến cho chúng sinh chấm dứt thoát tử, đạt đến Niết Bàn bờ bên kia.
‘’ Vì cứu thế gian mà xuất hiện.’’ Phật thấy chúng sinh trầm luân trong biển ái, không cách chi ra khỏi được, mới phát tâm đại từ bi đến thế giới Ta Bà, cứu tất cả chúng sinh thế gian, khiến cho lìa khổ được vui. Nhưng chúng sinh không nghe sự giáo hóa của Phật, còn hồ đồ mê muội tham luyến sự khổ não của thế giới này. Ý niệm trước thì muốn lìa khỏi thế giới năm trược này, ý niệm sau thì chẳng muốn lìa khỏi, cuối cùng thì không lìa khỏi được. Cho nên Phật đến thế giới này, khuyến hóa và nói với chúng sinh : ‘’ Hãy mau sớm tỉnh mộng ! Sớm trở về ngôi nhà thật của mình ! Đừng lang thang ở bên ngoài ! Đừng mê hồ như thế, quên mất nguồn gốc ! ‘’(Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT Tuyên Hóa giảng-T1)
+ Thân Phật hiện khắp mười phương
Tịch tĩnh giải thoát chúa trời người
Mười phương không chỗ nào chẳng hiện
Quang minh chiếu sáng khắp thế gian
Pháp vô ngại này Nghiêm Tràng thấy.
Tịch tĩnh là nơi không ồn ào. Vì nơi tịch tĩnh mới đắc được giải thoát, đắc được giải thoát mới thật tịch tĩnh. Tên gọi này chỉ có đức Phật, mới đảm đang được, mới có tư cách xưng là, tịch tĩnh giải thoát chúa của trời, người.
‘’ Mười phương không chỗ nào chẳng hiện.’’ Pháp thân Phật, là vô tại vô sở bất tại. Mười phương thế giới, không có chỗ nào mà Phật chẳng đến, Phật chẳng đi, Phật không ở đó. Cho nên mới nói mười phương không chỗ nào không hiện.
Quang minh của Phật, chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, trí huệ quang minh đầy khắp thế gian, khiến cho chúng sinh đều đắc được lợi ích, bỏ trần lao hợp với giác ngộ, lìa khổ được vui.... (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Thân của Đức Phật khi giảng pháp: A-nan, trước đây ông đã trả lời rằng thấy nắm tay chói sáng. Vậy nắm tay này nhân đau mà có? Làm sao nắm tay trở nên sáng chói? Ông lấy cái gì để thấy?
A-nan thưa:
– Thân của Phật như vàng diêm-phù-đàn sáng ngời như núi báu, do đức tính thanh tịnh sinh ra, vậy nên có hào quang chói sáng. Con thật đã dùng mắt xem thấy năm ngón tay Phật co lại thành nắm tay, đưa lên cho mọi người xem.
HT Tuyên Hóa giảng: ... Toàn thân của Đức Phật là màu vàng của diêm-phù-đàn. Diêm-phù-đàn[63] là tiếng Phạn. Tiếng Hán dịch là Thắng kim. Ở phía Nam núi Tu-di có con sông, ở đó có loại cây diêm-phù mọc rất nhiều, quả của cây này khi chín rụng xuống sông thì cát dưới sông nhuốm thành màu vàng, màu vàng này có màu đậm hơn sắc vàng thường. Hạt sa thạch vàng này cũng nặng hơn vàng thường, khi đem một ít hạt vàng này vào để trong phòng tối thì phát ra ánh sáng như ban ngày. Thân của Đức Phật có màu vàng giống như màu của vàng ở sông diêm-phù. Màu vàng nơi thân Phật là hỗn hợp giữa màu vàng và đỏ. Thân thể Đức Phật với dạng hình tướng ấy là kết tinh từ đức tính thanh tịnh nên thân ấy phát ra ánh sáng. Con thật đã dùng mắt xem thấy. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q.1)
+ Sắc thân như lai - Sắc thân đức phật - Sắc thân của phật - Sắc thân của đức phật
Sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh
Hiện khắp mười phương không gì sánh
Thân này không tánh không chỗ nương
Thiện Tư Duy Thiên quán sát được.
‘’ Sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh.’’ Pháp thân của Như Lai là thanh tịnh, báo thân của Như Lai cũng thanh tịnh, ứng thân Như Lai cũng thanh tịnh, cho nên nói sắc thân Như Lai đẹp thanh tịnh, là sắc thân vàng tốt đẹp trang nghiêm.
‘’ Hiện khắp mười phương không gì sánh.’’ Sắc thân thanh tịnh quang minh tốt đẹp này không thể nghĩ bàn, thị hiện khắp mười phương thế giới của chư Phật. Tức là mười phương chư Phật, cũng không thể sánh được thân quang minh thanh tịnh của Phật, cho nên nói hiện khắp mười phương không thể sánh.
‘’ Thân này không tánh không chỗ nương.’’ Sắc thân Phật này đẹp thanh tịnh, chẳng có tự tánh cũng chẳng có chỗ nương tựa. Vì Phật rất tự tại, vô tại vô bất tại, vô sở bất tại (chẳng có chỗ nào mà không có thân Phật), cho nên nói thân này không tánh không chỗ nương.
‘’ Thiện Tư Duy Thiên quán sát được.’’ Cảnh giới này vị Thiện Tư Duy Quang Minh Thiên Vương thấy được. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Thân Như Lai: ..... Nầy Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Diêm Phù Đề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện nhập niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Thế Giới Chúng Sinh Với Không Gian - Thời Gian
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm 2 mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là lý nhân quả - Quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân chỉ nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc 4 phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần: (i) là 4 x 3= 12 => (ii) là 12 x 10= 120 => (iii) là 120 x 10= 1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q. 4 - Chương IV)
* Giải thích khác: Ngài Vân Thê giải thích: “Giới có 4, thế có 3, gắn bó với nhau, nên lấy ba nhân bốn, bốn nhân ba thành 12 là một lớp. Từ số 12 nầy, mỗi số biến thành 10, tức thành 120, là lớp thứ hai. Từ số 120 nầy, mỗi số đều biến thành 10, tức thành 1200, là lớp thứ ba.” (Có thể hiểu, lớp đầu là 12 là lớp cha, cấp thứ I. Trong mỗi cấp I lại có 10 lớp con là cấp II. Trong mỗi cấp II lại có 10 lớp con là cấp III => Tổng cộng có 1200 tiêu chí lớn nhỏ_Nhân trắc học). Nguồn: Giảng Kinh Thủ-lăng-nghiêm Trực chỉ- Thiền sư Đan Hà.
* Giải nghĩa thêm: Thế giới tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian.
- Thế là nói về thời gian cũng có nghĩa là nói về luật nhân quả báo ứng, sinh sinh diệt của hiện tượng vạn hữu.
- Giới là nói về không gian cũng còn có nghĩa là lý nhân duyên tức là tất cả mọi cấu tạo hình thành của vạn hữu trên thế gian này là do nhân duyên hòa hợp mà có.
* 10 phương: Khi nói về phương hướng, thông thường con người chỉ đề cập đến Đông, Tây, Nam, Bắc. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. (Nguồn: Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...); (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ Số 12: Pythagoras và sau ông, Philo Judaeus, coi số 12 là con số rất linh thiêng. Số 12 thật là toàn bích (perfect). Đó là số cung của Hoàng Đạo mà mặt trời đi qua trong mười hai tháng. Chính để tôn vinh con số này mà Moses đã chia quốc gia mình thành mười hai bộ lạc, lập nên mười hai bánh thánh và gắn mười hai viên ngọc quí vào hộ tâm kính của các vị giáo chủ. (GLBN, Tr 694)
+ Thế Giới: A-nan, thế nào gọi là chúng sinh và thế giới?
- Thế nghĩa là đổi dời;
- Giới chỉ cho phương vị/ Phương hướng
(Thế là thời gian; có nghĩa là dời đổi; Giới là không gian, tức là phương vị, nơi chốn. Hai từ nầy ghép lại gọi là thế giới_HT Tuyên Hóa)
Nay ông nên biết các phương đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới là giới; quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương vị có 10, số lưu chuyển của thời gian có 3 (các phương đông, tây, nam, bắc– bốn phương – và đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc– bốn hướng_HT Tuyên Hóa)
Hết thảy chúng sinh đan dệt cái giả dối mà thành. Sự dời đổi trong Thân và thế giới gắn bó với nhau.
Nhưng tánh của thế giới ấy dù có thiết lập tuy cả 10 phương, định vị có rõ ràng. Thì thế gian chỉ nhận 4 phương đông - tây - nam - bắc. Phương trên - dưới không có vị trí rõ ràng, ở giữa cũng không có phương vị nhất định. Số 4 đã rõ, nhân với số thế là 3. Ba lần bốn, bốn lần ba thành ra mười hai. (tam thế và tứ phương).... (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q.4 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thế giới: Gồm Thế giới Chánh báo là Thân Tâm chúng ta và Thế giới Y Báo là Sông núi đất đai nhà cừa... (HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Không gian là Chúng sinh - Thời gian là Thọ giả: ...“Khi nghe lời câu ấy (của Kinh), thậm chí ngay trong một niệm sanh lòng tin thanh tịnh, này Tu Bồ Đề, Như Lai rõ, thấy rõ những chúng sanh ấy được vô lượng phước đức. Vì sao thế? Chính vì chúng sanh ấy không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không có tướng chẳng phải pháp.... Nếu nắm giữ tướng pháp, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.... Nếu nắm giữ tướng chẳng phải pháp, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”.
Ngã là tôi; nhân: tôi là người; chúng sanh: tôi là chúng sanh; thọ giả: thọ mạng của tôi là khoảng thời gian nào đó. Đây là bốn ý tưởng cắt chia thực tại toàn thể của tôi. (Nguồn: Phước đức và Công đức)
+ Thế Giới Chúng Sinh Với Không Gian - Thời Gian
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm 2 mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là lý nhân quả - Quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. (là tất cả mọi cấu tạo hình thành của vạn hữu trên thế gian này là do nhân duyên hòa hợp mà có). Phương hướng mà người thế nhân chỉ nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc 4 phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần: (i) là 4 x 3= 12 => (ii) là 12 x 10= 120 => (iii) là 120 x 10= 1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q. 4 - Chương IV);
Xem thêm: Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...;
Xem thêm: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác
* Tham khảo giải thích khác: Ngài Vân Thê giải thích: “Giới có 4, thế có 3, gắn bó với nhau, nên lấy ba nhân bốn, bốn nhân ba thành 12 là một lớp. Từ số 12 nầy, mỗi số biến thành 10, tức thành 120, là lớp thứ hai. Từ số 120 nầy, mỗi số đều biến thành 10, tức thành 1200, là lớp thứ ba.” (Có thể hiểu, lớp đầu là 12 là lớp cha, cấp thứ I. Trong mỗi cấp I lại có 10 lớp con là cấp II. Trong mỗi cấp II lại có 10 lớp con là cấp III => Tổng cộng có 1200 tiêu chí lớn nhỏ_Nhân trắc học). Nguồn: Giảng Kinh Thủ-lăng-nghiêm Trực chỉ- Thiền sư Đan Hà.
+ Thế giới khác với Hư Không: HT Tuyên Hóa giảng
Nổi lên thì thành thế giới, lắng đọng thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là PHÁP hữu vi.
Phàn nầy giải thích tướng trạng thứ 6 của lục thô, đó là nghiệp hệ khổ tướng. Nổi lên thì thành thế giới. Khởi là lưu xuất ra–là chuyển dịch, là động. Lắng đọng thì thành hư không. Lắng đọng là tĩnh–không chuyển dịch. Hư không là đồng, thế giới là dị. Hư không giống như cái gì? Cơ bản hư không là giống với mọi thứ. Nó không khác với cái gì cả vì trong hư không chẳng có gì để phân biệt. Chỉ vì không có sự phân biệt mà được gọi là hư không. Nhưng với sự sinh khởi của thế giới thì có điểm khác nhau.
Thế giới khác với hư không vì trong thế giới có hình sắc và tướng mạo. Sự sinh khởi của núi sông đất liền đã làm nên thế giới. Điều nầy sẽ được giảng giải chi tiết trong đọan kinh tiếp theo.
"Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi."
Vốn trong hư không chẳng có gì cả để có thể nói đồng hay dị, chẳng có sự sinh khởi của:
1. Nghiệp tướng; 2. Chuyển tướng, và 3. Hiện tướng
cùng với Lục thô: 1. Trí tướng; 2. Tương tục tướng,; 3. Chấp thủ tướng; 4. Kế danh tự tướng; 5. Khởi nghiệp tướng; 6. Nghiệp hệ khổ tướng.
Chúng ta dùng từ đồng (giống) hay dị (khác) để diễn tả cho những tướng trạng vừa hiện hữu nầy. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)
+ Thế gian: Trích đoạn Đức Phật giảng cho ngài A Nan trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trong mục giảng về CÁC ĐẠI - Tứ Đại
... Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật. Giảng:
"Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu." Nó tương ưng với tâm thức của mỗi chúng sinh và biến hiện ra thành các hiện tượng tương ưng với nghiệp mà mỗi chúng sinh đã tạo. Tánh của sắc là chơn không, tánh của không là chơn sắc. Vốn hằng thanh tịnh từ trong thể tánh và bao trùm khắp pháp giới. Hoạt dụng mầu nhiệm nầy có được là do nghiệp cảm của mỗi chúng sinh và sẽ kết thành quả báo mà mỗi người sẽ nhận được.
"Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên."
Thế gian là ai? Họ là những người tu tập theo ngoại đạo và hàng phàm phu theo pháp môn quyền thừa/ Pháp Thế Gian. Họ là những người mê mờ về tánh Như Lai tạng, vốn hằng thanh tịnh từ trong thể tánh và bao trùm khắp pháp giới. Họ không nhận ra được điều nầy. Họ cho rằng nó xuất phát từ tánh nhân duyên và tự nhiên. Đây là kiến chấp của hàng Tiểu thừa: pháp nhân duyên sinh. "Hoặc tánh tự nhiên." Dính mắc vào kiến chấp của hàng ngoại đạo là tánh tự nhiên. Làm thế nào mà họ bị lừa mị vào kiến chấp nầy? "Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường." Đó là do sự dính mắc của thức tâm phân biệt suy lường trong giáo lý Tiểu thừa, của hàng ngoại đạo và của hàng phàm phu đã tạo nên sự tính toán phân biệt. Họ chỉ tưởng tượng những cái mà không hề có, họ suy nghĩ đến những thứ mà "Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật." Đó chính là thức tâm vọng tưởng, phân biệt, suy tính–dù quý vị cho nói đó là tánh nhân duyên hay tự nhiên–cũng chỉ là ngôn từ. Chẳng có thật. Trong đó chẳng có chút nào đạo lý chân thật đáng nói cả. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Thế gian: Là chỉ cho sáu cõi giới của hàng phàm phu. “Xuất thế gian” chỉ cho cảnh giới của bốn quả vị của bậc Thánh. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng. Mặt khác, các hiện tượng thế gian và xuất thế gian vốn chỉ là Như Lai tạng–vốn là minh là diệu. Nó vốn là diệu tâm, vắng lặng mà thường chiếu soi, chiếu soi mà thường rỗng lặng. Kinh văn trong đoạn nầy nói rằng Như Lai tạng là ‘không’, đoạn kinh văn: sau sẽ nói tất cả các pháp đều ‘là’ Như Lai tạng, là nguyên minh tâm diệu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.II)
+ Thế gian - Tình và Khí: Thế gian gồm có hai: Tình thế gian và khí thế gian. Tình thế gian là thế giới của loài hữu tình, nghĩa là loài người, cầm thú và cây cỏ. Xã hội loài người hay xã hội các loài khác cũng đều do tâm thức cộng đồng từ A-lại-gia mà biểu hiện. Khí thế gian là khung cảnh của núi, sông, không khí, trái đất, tầng ozone, mặt trời, mặt trăng và các thứ tương tự. Tình thế gian và khí thế gian là sáng tạo của tâm thức. Tàng thức duy trì tất cả những cái đó. Nó biểu hiện ra và nó duy trì hai thế gian đó. Tất cả đều vận hành theo một quy luật nhịp nhàng, tất cả đều phát hiện từ A-lại-gia cả. (Nguồn: Bài 3- Thân tâm và Thế gian - Duy Biểu học)
+ Thế Gian: Có 2 loại thế gian:
Thế gian hữu tình gồm các loại chúng sinh.
Khí thế gian gồm các hiện tượng và vật thể như núi, sông, đất liền và nhà cửa các loại.
Những vật này cùng với hư không và các loại trần cảnh đều được tạo thành bởi hai loại: y báo và chánh báo. Y báo là khí thế gian, gồm núi sông đất liền, chánh báo là các loại chúng sinh. Thế giới này đều tạo thành bởi hai loại này. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN - Q.1- Thích Nhuận Châu dịch)
+ Thế gian?
Thế nghĩa là thiên lưu, gian nghĩa là gian cách. Thế gian tức là thế giới, tức cũng là thời gian với không gian mà được tên. Ba đời là thời gian, mười phương là không gian.( HT Tịnh Không thì giảng "Không gian/ Mười phương là chúng sinh - Thời gian/ Ba đời là thọ giả). Thế gian phân làm ba thế gian:
- Một là hữu tình thế gian (chúng sinh thế gian).
- Hai là khí thế gian (sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc).
- Ba là trí chánh giác thế gian (giác ngộ pháp thế xuất thế gian, đầy đủ trí huệ của Như Lai).
Cho nên phải lìa hữu tình thế gian và khí thế gian, chứng nhập trí huệ chánh giác thế gian.
Thế gian có đủ thứ sự ăn uống vui chơi, tại sao phải lìa khỏi? Vì thế gian có cái vui của: Tài, sắc, danh, ăn và ngủ, năm dục, khiến cho con người sinh ra đủ thứ phiền não, làm cho con người gặp thọ quả khổ (Thọ giả), chẳng đắc được sự giải thoát, cho nên phải lìa khỏi thế gian. Làm thế nào có thể lìa khỏi thế gian? Chỉ có một phương pháp, đó là phát bồ đề tâm, tu bồ đề đạo. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm-T 19.Tr295- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Xem thêm thuật ngữ: Không gian và các chu kỳ thời gian
+ Thảo mộc - Cây cỏ
Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhơn duyên khéo Được thắng trí phương tiện rời lìa các kiến chấp nhị biên ?
Bồ Tát biết tất cả duyên sanh pháp nhiếp thuộc về cái khác : Thuộc nhơn, thuộc duyên, thuộc hòa hiệp và thuộc sở do . Các pháp ấy Đều từ cảnh giới duyên sanh Đều riêng có sở nhơn Đều riêng có sở y, các pháp mỗi mỗi Đều tự minh không có tâm không có tướng sai khác .
Như bên ngoài các cỏ cây lùm rừng Đều không có các căn không có ghi nhớ không có hay biết, vì y dựa các Đại chủng bèn Được tăng trưởng, mỗi mỗi Đều không có tướng sai khác . Các pháp bên trong cũng như vậy, y dựa gây tạo các nghiệp tăng trưởng tất cả các pháp, không có các tướng ngã nhơn chúng sanhthọ mạng, cũng không có tác giả thọ giả . Các pháp lúc sanh không có gì là năng sanh, lúc diệt không có gì là năng diệt . (Nguồn: Xem tại đây)
+ X. Saptaparna - Cây Có Bảy Lá
+ Đại Thiên Kiếp (Mahakalpa): 100 năm của Brahman, bằng với 311.040 tỷ năm của con người. (LVLCK, 39–40)
+ Nguồn gốc can chi và lục thập hoa giáp: Hoàng Đế (Hiên Viên - Tỉnh Hà Nam ngày nay, cách nay hơn 4600 năm) là một vị vua anh minh, ban hành chính sách nhân từ, lập nên những quy tắc, điều lệ, tất cả đều theo một quỷ đạo chung, thống nhất được lưu vực sông Hoàng Hà, bản đồ đất nước dần dần mở rộng. Phát minh ra La bàn chỉ hướng..... Trước thời Hoàng Đế, dân chúng chưa có đồ mặc, nhà ở, chánh phi của Hoàng Đế là Luy Tổ, tình cờ trong rừng dâu phát hiện kén của con tằm, vô ý kéo ra những sợi tơ dài, liền đem tơ tằm dệt thành vải, khâu thành áo quần, đây là bước đầu trang phục của Trung Hoa. Hoàng Đế còn dạy người dân làm nhà ở, làm mồ mả, giải quyết những vấn đề ăn ở đi đứng cho người dân và cả việc tang chế cho người đã chết. Trăm họ được sống trong sự bình an, vui với nghề nghiệp, dân tộc Trung Hoa từ đó bắt đầu bước lên con đường văn minh, công lao của Hoàng Đế thật không thể lãng quên được.
Trong triều có quan Thương Hiệt (có bốn mắt), quan sát các hiện tượng trên trời và các địa hình của đất, xem kỹ các vết tích bay nhảy của cầm thú chim muông, linh cảm sáng tạo ra chữ tượng hình và ‘Lục thư’ (xem chú thich [1]) từ đó Trung Hoa bắt đầu có chữ viết. Trước thời gian đó, người ta chỉ biết đùng giây kết bằng cỏ rồi đánh dấu cho một sự kiện, việc lớn kết làm mối lớn, việc nhỏ kết làm mối nhỏ. Bắt đầu từ đây mới dùng ký hiệu chữ để ghi chép.
Một vị quan khác tên là Đại Nạo, lại phát minh ra phương pháp dùng Thiên can Địa chi để tính tháng ngày, lập ra Giáp tử. 10 Thiên can gồm: giáp, ất, bính , đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí; 12 Địa chi gồm: tý, sữu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Lấy Thiên can phối hợp với Địa chi mà tính, 60 năm là hết một vòng chu kỳ, gọi là một Giáp tử (Sexagenary Cycle or sixty-year cycle). Dùng cách này để ghi sự xoay chuyển của tháng ngày thật là tiện lợi, cho đến hơn 4000 năm sau vẫn còn có người sử dụng cách tính toán ấy. Hoàng Đế còn sắc lệnh cho Linh Luân định ra Luật Lữ (tức là luật âm nhạc), Dung Thành tạo ra lịch pháp, Hoàng Đế còn đích thân tìm hiểu nghiên cứu y thuật với Kỳ Bá, nhà y thuật nổi tiếng thời ấy, từ đó mà có cuốn sách y học “Hoàng Đế Nội Kinh” ra đời. Từ đó chỉ dạy cho nhân dân, nước nhà càng thêm hưng thịnh, trăm họ thân cận, thiên hạ một lòng. Ân đức của Hoàng Đế thấm nhuần, đến nay đã ngót 5000 năm, con cháu dân tộc Trung Hoa vẫn còn nương nhờ đức ấy. Có thể tôn xưng là bậc thánh quân đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. ... (Nguồn: Thủy Kính Hồi Thiên Lục_HT Tuyên Hóa)
+ Âm dương hòa hợp biến hóa thành vật chất:
Ví dụ Nước có nhiều trạng thái, mầu sắc, là chất lỏng khi nhiệt độ ấm, là chất hơi khi nhiệt quá nóng, là chất đặc/ Nước đá khi nhiệt suy yếu.
Nước với nhà Hóa học là H2O. Là Hydro và O xy kết hợp lại thành nước.
Nguyên tử Hydro và Ô xy có cấu tạo nên từ điện tử dương và âm.
Con người trong không gian sống bằng Ô xy, con Cá sống bằng nước, loài ngã quỷ thấy nước là máu. Cõi Thiên thấy Nước là Lưu Ly (HT Giác Khang giảng)
Tùy theo Tâm chúng sinh mà nước nhìn thấy là vật chất khác nhau.
+ Tu là sửa mình: Đức Phật dậy, tu đạo là sửa đổi Thân Tâm mình:
• Sửa tính tham lam thành bố thí.
• Sửa tính ganh tị thành hoan hỷ.
• Sửa tính ích kỷ thành vị tha.
• Sửa tính vô tâm thành hòa nhã.
• Sửa tính cố chấp thành buông xả.
• Sửa tính khinh khi thành kính mến.
• Sửa tính cao ngạo thành khiêm tốn.
• Sửa tính hẹp hòi thành bao dung.
• Sửa tính bi quan thành tích cực.
• Sửa tính lười biếng thành siêng năng.
• Sửa tính hơn thua thành nhẫn nhịn.
• Sửa tính si mê thành trí tuệ.
+ Sửa mình - Gương soi lỗi: Vua Đường Thái Tông đã phải tiếc thương mà cảm than rằng: “Như người ta lấy đồng làm gương soi, để chỉnh sửa áo mão; lấy việc xưa làm gương soi, mà biết được việc thịnh suy ở đời; lấy người làm gương soi để thấy cái đúng cái sai của chính mình. Ta thường giữ ba thứ gương soi này để phòng cái lỗi của chính mình.... (Nguồn: Thủy Kính Hổi Thiên Lục_HT Tuyên Hóa)
+ Tu hành theo Phật pháp: ... Bởi vì, trọng tâm tu học Phật pháp là thiền định, là tâm thanh tịnh. Nếu như tâm bạn luôn nghĩ đến hoàn cảnh bên ngoài rồi phân biệt nó thì đến khi nào bạn mới đạt được định? Sẽ không bao giờ đạt được mục đích ấy!.....
Bạn muốn thành tựu thiền định, thành tựu tâm thanh tịnh thật sự thì hoàn toàn không duyên theo cảnh bên ngoài, trở lại duyên bên trong; đây là Phật pháp cao minh; vì thế Phật pháp được gọi là “nội học” là dạy bạn không phan duyên bên ngoài. Cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng được; người tốt cũng được, người xấu cũng chẳng sao, bạn không cần để ý..... Vì thế, Lục Tổ nói rất hay: Nếu người thật tu đạo - Không thấy lỗi thế gian.
Người thường thấy lỗi thế gian là tự rước họa vào thân. Ngày nay, chúng ta mắc chứng bệnh nặng này rất phổ biến; từ sáng đến tối luôn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình. Khi nào chúng ta không thấy lỗi người khác mà chỉ thấy lỗi mình thì chúng ta thành công. Công phu tu tập của bạn đạt được hiệu quả, bạn được thọ dụng thật sự.
Người khác thì thế nào? Họ tự có nhân quả của họ, quan trọng là chính mình. Nhân quả của họ, bạn không thể chịu thay cho họ, cũng không thể giúp họ thay đổi. .......
Phật, Bồ-tát giảng kinh, thuyết pháp một cách khéo léo ........ Vì thế trong kinh, luận nói lỗi lầm của hàng phàm phu rất nhiều, nhưng trên thực tế Đức Phật chẳng thấy lỗi lầm của người nào; đây là sự tài tình trong cách dạy học của Đức Phật nên Ngài chẳng mất tâm thanh tịnh.
Chúng ta phải hiểu rõ những điều này để tự mình phản tỉnh, hiểu được lòng từ bi chân thành của chư Phật, Bồ-tát thật bao la. Chỉ cần chúng ta tự nỗ lực, tu hành đúng lời dạy của các ngài, không cần quan tâm đến hoàn cảnh thì tự nhiên có Phật hộ niệm; Hộ pháp, Thiện thần ủng hộ chúng ta. ............
Chúng ta phải tin chắc có sự hộ niệm của chư Phật. Sự hộ niệm này chính là tất cả chư Phật thường nhớ nghĩ và quan tâm chúng ta; đây là sự thật. Hộ pháp, Thiện thần tôn kính, khâm phục nên luôn luôn ủng hộ chúng ta. Còn nếu mình luôn nghi ngờ thì chẳng những Đức Phật không hộ niệm mà Thiện thần, Hộ pháp cũng không che chở. Chúng ta phải tự xét kỹ, bằng không thì chịu thiệt thòi rất lớn.
Vì thế, hai chữ “tin Phật” thật không dễ dàng, tin Phật rồi, chúng ta có còn vọng tưởng không? Còn lo âu, còn bận tâm không? Tất cả đều không còn, như thế mới nhất tâm hướng về đạo. Đạo ở đâu? Đạo chính là ngay trong cuộc sống, là chuyện ăn cơm, mặc áo. ....... Kinh Kim cang nói rất hay: “Tín tâm thanh tịnh thì sinh thật tướng” tức là sinh trí tuệ thật tướng Bát-nhã. Trí tuệ thật tướng Bát-nhã hiện ra thì làm sao mà không được tự tại! Làm sao mà không viên mãn! Rốt cuộc đều do tâm thanh tịnh.
Nói về nhân duyên ở đời, như trong kinh Đức Phật dạy: “Chúng ta có thể làm được việc thế gian, nhưng không được làm theo ý thế gian”. Hai câu nói này thật là hay. Việc thế gian chúng ta có thể làm được, kinh Hoa nghiêm ghi: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Vậy chướng ngại ở đâu? Chướng ngại ở ý thế gian. Ý thế gian là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bạn phải đoạn trừ những thứ này. Ý nghĩa hai câu này rất sâu rộng.....
Đọc kinh điển thấy lời Đức Phật dạy có hay không? Rất có thứ tự, lớp lang không một chút lộn xộn; bất luận là giảng lý hay sự, đều đâu ra đó....
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật, đồng tâm đồng nguyện, đồng đức đồng tâm. Chúng ta có hiểu được ý nghĩa này không? Ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta làm được bao nhiêu phần? Đây chính là điều chúng ta tu hành. Tại sao chúng ta hành không đạt hiệu quả? Vì sao không cải thiện được cuộc sống của chúng ta? Nguyên nhân là ở tại chỗ này.......
Trong kinh Đức Phật dạy hai chữ “thọ trì”; chẳng những chúng ta không làm được mà không hiểu ý nghĩa hai chữ này, nếu có hiểu thì lại hiểu sai; cho rằng mỗi ngày tôi tụng kinh một lần là thọ trì. Chúng ta biết sai ở đâu không?
Tôi nói thật, chúng ta muốn đạt được hiệu quả công phu tu tập là cải thiện cuộc sống của chúng ta, chẳng những cải thiện đời sống hiện tại mà còn cải thiện đời sau. Cuộc sống đời sau, ý nghĩa này thật là rất dài. Theo cách sống hiện tại của chúng ta đúng như trong kinh, luận Đại, Tiểu thừa Đức Phật dạy, sau khi chúng ta mất thân người, đời sau muốn được thân người, thật là khó. Vậy chúng ta sẽ đi về đâu? Phần đông đọa trong ba đường ác .........
Đức Phật thường dạy chân lý: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Theo cách nghĩ của bạn người chết đều thành quỷ. Bạn có ý nghĩ, quan điểm như vậy thì nhất định bạn đi làm quỷ rồi! Có bao nhiêu người suy nghĩ sau khi chết được làm người, hoặc sinh lên cõi trời hay làm Phật, Bồ-tát; điều này rất ít nghe nói đến, chỉ có nghe người chết đều bị làm quỷ. Chúng ta không nên cho câu nói này là bình thường, chưa chắc là đúng. Thật ra câu nói này là đúng, câu nói này thật không bình thường.
Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh, kinh Hoa nghiêm ghi: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đây cũng là lời Đức Phật dạy, con người sau khi chết, được thân người lại rất khó; huống gì theo nguyên lý kinh Phật đã dạy, đời sau muốn được làm thân người thì nhất định phải đầy đủ điều kiện của năm giới. Năm giới với năm thường của nhà Nho ở Trung Quốc nội dung giống nhau. Năm thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. ... (Nguồn: Ba phúc-PS Tịnh Không giảng)
+ Tứ thiền: Kiến thủ kiến (Ngũ lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ kiến): ... Không phải quả chấp là quả. Không phải là quả rốt ráo, họ cho đó là quả rốt ráo. Họ cho Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Xứ là Niết bàn, đó gọi là "không phải quả chấp là quả".
Tứ Thiền: Sơ thiền thiên, Nhị thiền thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên.
- Sơ thiền: Người tọa thiền lên đến cảnh giới Sơ thiền có thể không còn thở nữa, không có sự hô hấp. Ở cảnh giới này tuy không còn hô hấp nhưng vẫn có một niệm động, một khi phát sanh niệm động này thì hô hấp sẽ trở lại. Ðó là Sơ thiền.
- Nhị thiền là mạch ngừng lại, khi hô hấp không còn nữa thì mạch cũng ngừng luôn, giống như người chết. Tuy mạch ngừng đập nhưng không phải chết. Ðó là cảnh giới của Nhị thiền.
- Tam thiền là ngồi cho đến ý niệm cũng ngừng bặt. Ở Sơ thiền, Nhị thiền không còn hô hấp nữa, mạch cũng ngừng đập, nhưng lại còn ý niệm, đến Tam thiền thì ý niệm đó cũng không còn nữa vì thường ở trong định.
- Ðến Tứ thiền thì chỉ còn thức mà thôị. Tam thiền không có ý niệm là không có ý niệm thô, nhưng ý niệm tế vẫn còn; đến Tứ thiền cả ý niệm tế cũng dứt luôn. Cảnh giới này chỉ là con đường cần phải kinh qua của người tu Thiền, chớ không phải là quả chứng. Không chỉ nói Tứ thiền, mà ngay cả Tứ không xứ: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng chẳng qua chỉ là một thứ định, chớ không phải là quả chứng; nếu có chấp lấy (Kiến thủ) thì có thể cho cảnh giới này là Niết bàn và cho là chứng đắc quả A-la-hán thứ tư. Như Vô Văn Tỳ-kheo cho Tứ thiền là Tứ quả, đó là vì y không thông hiểu. Những Kiến hoặc...ở trên là Ngũ lợi sử.
Tư hoặc... là Ngũ độn sử. Ðộn tức là đến chậm chạp. Ngũ độn sử là tham, sân, si, mạn, nghi. Tại sao người ta có phiền não? - Ðó là vì có vô minh. Sau khi Vô minh sanh ra thì có Trần sa hoặc. Trần sa hoặc còn gọi là Vô minh hoặc, tức là không có hiểu biết đứng đắn. Tư hoặc cũng có thể gọi là Vô kiến hoặc, tại vì sau khi Vô minh sanh ra bèn có tham, nghĩ rằng phải có được cái gì đó, bèn sanh ra tâm tham, rồi sanh ra các thứ phiền não; phiền não một khi sanh ra, sẽ sanh ra tâm Sân; tâm Sân một khi sanh ra thì chỉ biết về mình mà chẳng biết có người khác. Vì chỉ biết có mình, cho nên khi tâm sân hận sanh ra thì muốn hạ thấp giá trị của người khác. Có thứ tâm này chính là ngu si, không phân biệt được phải quấy trắng đen, bất kể tất cả. Nguyên do chính là không biết đạo lý, ngay đến ngu si, phải quấy, cong ngay, đen trắng đều không nhận ra. Vì ngu si mới sanh ra tâm kiêu mạn. Vì có tâm kiêu mạn nên lại sanh ra nghi ngờ, không tin đạo lý do bất cứ ai giảng giải. Thiệt cũng không tin, giả càng không tin nữa. Sanh ra mọi thứ hoài nghi, đó chính là Tư hoặc. Do Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc mà thành các thứ Vô minh phiền não. Cho nên các thứ phiền não vô cùng vô tận không có lúc nào hết. Trước tình hình này người tu hành phải nương vào Tứ đế mà phát lời thệ nguyện: "Phiền não vô tận thệ dứt trừ". (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh A Di Đà)
+ Tứ thiền và Tứ không và Diệt thọ tưởng định trong Cửu thứ đệ định - Chín bậc thiền định:
Đức Phật bảo A-nan: Tất cả mọi người tu học trong thế gian, mặc dù nay đã được cửu thứ đệ định, nhưng không hết sạch mê lầm, thành bậc a-la-hán, đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt, lầm cho đó là tính chân thực. Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa thành thánh quả.
Giảng:
Đức Phật bảo A-nan
Đức Phật thấy mọi người trong pháp hội đều bồn chồn lo lắng, hoàn toàn mất khả năng tự chủ. Họ đều như kẻ mất hồn.
Giáo lý Khổng Mạnh nói về tâm như sau:
Tâm đến và đi không có thời gian nhất định
Chẳng biết ở nơi đâu.
Nên được gọi là tâm [60]
Quý vị không thể nào biết được giờ nào thì tâm móng khởi, khi nào thì tâm lặng yên và quý vị không biết được tâm đi đâu. Có lẽ vì vậy nên nó là tâm.
Tuy nhiên cái tâm mà Khổng Tử nói đến ở đây cũng chỉ là tâm vọng tưởng, không phải là chân tâm. Đã là chân tâm thì làm sao lại có ra vào? Nó chẳng có một lối ra hoặc cổng vào nào cả.
Mạnh Tử cũng nói:
"Khi người ta có con gà, con chó bị mất, người ta tìm mọi cách để bắt về lại biết có thể tìm lại được.
Nhưng khi thoạt mất tâm mình rồi thì họ chẳng biết phải tìm kiếm nơi đâu.”[61]
Ở đây cũng vậy, Mạnh Tử đang nói về cái tâm sinh khởi vọng tưởng suốt từ sáng tới tối, cái tâm chạy đông, chạy tây, chạy tới, chạy lui. Mạnh Tử hoàn toàn chưa biết cách chiêm nghiệm kỹ vào tâm của chính mình để có thể bảo tâm ấy đừng có chạy loanh quanh nhiều đường vô ích.
Tôi đã nói với quý vị rằng cái tâm vọng tưởng có thể khiến cho quý vị chỉ trong khoảng một niệm tưởng là quý vị có mặt ngay ở Nữu Ước mà không cần phải có tiền mua vé máy bay hay tàu lửa, quý vị có thể dạo chơi trên cầu Brooklyn mà không cần phải đáp xe buýt đến đó. Thực là một cách đi du lịch mà không tốn tiền, nhưng đó là một nỗ lực rất lớn lao của tâm.
Những lời nói về tâm của Mạnh Tử cũng là đề cập đến tâm thức phân biệt, cái tâm mà đã quá quen thuộc với A-nan. Tâm thức phân biệt thì vô thường, còn chân tâm thì thường hằng.
Tất cả mọi người tu học trong thế gian mặc dù nay đã được cửu thứ đệ định. Tức là Tứ thiền: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền và Tứ không, gồm:
– Không vô biên xứ
– Thức vô biên xứ
– Vô sở hữu xứ
– Phi phi tưởng xứ
cộng thêm Diệt thọ tưởng định, thành tất cả là chín món.
Nhưng không diệt hết sạch mê lầm hay thành bậc a-la-hán, đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt.
Tại sao khi họ tu tập đã đạt được chín bậc thiền định rồi mà không vượt qua, không chuyển hóa hết sạch mọi mê lầm và chứng được a-la-hán? Đó là vì họ dính mắc quá sâu vào vọng tưởng sinh diệt.
Lầm cho đó là tánh chân thực.
Họ phạm phải lỗi lầm cho vọng tưởng là chân thực.
Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa được thành Thánh quả.
Vào thời điểm Đức Phật giảng kinh này, A-nan đã chứng được sơ quả a-la-hán, nhưng tại sao Đức Phật lại nói mặc dù A-nan đã đạt quả vị ấy cùng với học vấn uyên thâm nhưng A-nan vẫn chưa hoàn toàn chứng được quả vị Thánh? Đức Phật có ý muốn nói rằng A-nan chưa chuyển hóa sạch hết được mọi mê lầm, A-nan chưa hết sạch hữu lậu. Đối với Tiểu thừa, sơ quả a-la-hán được xem như là dự vào bậc Thánh rồi nhưng với bồ-tát thừa thì chưa. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q1-Phần Kinh văn)
+ 390. LY ÁC BẤT THIỆN PHÁP - Chứng đắc Tứ thiền
Tôi đã đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, cho đến, chứng đắc Tứ thiền, thành tựu an trụ. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Trí, Phẩm 15, số 187)
+ Tiến tu Thập địa: .... Như Lai nghĩ vậy nên liền nói cho họ khai ngộ. Họ nghe rồi chính xác ghi nhớ, phát tâm tu hành, được sức mạnh tinh tiến, loại trừ sự chướng ngại vì biếng nhác, diệt mọi tội lỗi, đối với giới pháp họ tách rời sự không tôn trọng, ngưng cả sự háo động và tiếc nuối, nên nhập vào địa thứ nhất. Do tâm của địa thứ nhất này loại trừ sự chướng ngại cho sự lợi ích chúng sinh, nên nhập vào địa thứ hai. Trong địa thứ hai này loại trừ sự chướng ngại cho sự không áp bức quấy rối chúng sinh, nên nhập vào địa thứ ba. Trong địa thứ ba này loại trừ sự chướng ngại cho tâm mềm dịu trong sáng, nên nhập vào địa thứ tư. Trong địa thứ tư này loại trừ sự chướng ngại cho phương tiện khéo léo, nên nhập vào địa thứ năm. Trong địa thứ năm này loại trừ sự chướng ngại vì thấy chân đế tục đế đối lập với nhau, nên nhập vào địa thứ sáu. Trong địa thứ sáu này loại trừ sự chướng ngại vì thấy có hành tướng, nên nhập vào địa thứ bảy. Trong địa thứ bảy này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự diệt, nên nhập vào địa thứ tám. Trong địa thứ tám này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự sinh, nên nhập vào địa thứ chín. Trong địa thứ chín này loại trừ sự chướng ngại cho lục thông, nên nhập vào địa thứ mười. Trong địa thứ mười này loại trừ sự chướng ngại vì ngu muội các pháp sở tri, loại trừ cái tâm căn bản, nên nhập vào Như lai địa....(Nguồn: Kinh Kim Quang Minh - Phẩm Ba Thân)
+ Quả Địa trong Phật giáo:
A-nan, nghĩa thứ nhất là, nếu các ông muốn xả bỏ pháp Thanh văn, tu Bồ-tát thừa, thể nhập vào tri kiến Phật, nên phải xét kỹ nhân địa lúc phát tâm và quả địa khi giác ngộ là đồng hay là khác?
Giảng giải:
A-nan, nghĩa thứ nhất là, nếu các ông muốn xả bỏ pháp Thanh văn, nếu hàng Thanh văn Duyên giác các ông muốn xả bỏ pháp Tiểu thừa và pháp Nhị thừa, tu Bồ-tát thừa, thể nhập vào tri kiến Phật, nên phải xét kỹ nhân địa lúc phát tâm và quả địa khi giác ngộ là đồng hay là khác? Ông nên quán sát thật tường tận nguyên nhân lúc mới ban đầu phát tâm bồ-đề. “Quả địa” là cảnh giới của hàng Bồ-tát. Cái nhân lúc mới phát tâm và kết quả lúc được giác ngộ là giống nhau hay khác nhau?(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch. IV)
+ Diệt trừ - Hóa giải chướng ngại tu: Có rất nhiều chướng ngại đối với người tu hành: Xin liệt kê, tậm sếp từ thấp đến cao mà trong Kinh văn Thánh nhân giảng. Căn bản có 2 nhóm là Tự mình tu/ Thân tâm mình và Ngoại cảnh/ Trần cảnh tác động. Tự mình có 2 loại là Danh và Sắc hay Thân và Tâm hành giả, trong đó tâm ý là gốc, là chủ, thân xác là gọn, là khách. Chủ thanh tịnh thì khách khác thanh tịnh. Đối cảnh Khách trần không bám chấp, giữ tâm thanh tịnh sẽ đưa hành giả đến thành tựu viên mãn trong tu hành, là giải thoát Niết Bàn:
Vô Minh:
+ Chẳng còn ngăn ngại/ Chướng ngại - HT Tuyên Hóa giảng:
Trong không thấy thân tâm,
Ngoài chẳng có thế giới.
Nếu núi Thái sơn sụp đổ trước mắt,
Cũng xin đừng ngạc nhiên.
Có nghĩa là bất luận tai họa lớn lao nào có xảy ra, dù nhà quý vị sụp đổ, cũng mặc chúng. Nếu quý vị chẳng bận tâm đến nó, thì dù nó có sập, nó sẽ chẳng làm hại đến quý vị. Vì sao quý vị bị sự việc làm hại đến mình? Vì quý vị không buông bỏ được chúng. Quý vị bị vướng bận bởi chúng. Quý vị sợ hãi, nên quý vị bị hại. Nếu quý vị chẳng sợ hãi điều gì, nếu quý vị có được sự tỉnh táo, thì dù có ở đâu cũng chẳng hề hấn gì. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Nên dứt năm pháp, nên tu tập bảy pháp sao cho viên mãn:
- Một là tham dục; hai là nóng giận; ba là hôn trầm say ngủ; bốn là lao chao, hối hận; năm là ngờ vực. Năm thứ cái chướng này phải nên trừ dứt. Tức những thứ lớp che đậy, làm lu mờ mất Chân Tâm thường hằng vi diệu giác minh thanh tịnh bao trùm. Đây là do Chấp ngã mà ra, nên cần phải Diệt trừ ngã chấp/ Buông xuống vạn duyên là khởi đầu cần phải có, nếu không thì chỉ là tu giả, chẳng thể thành tựu. (Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm)
+ Xa Lìa Chướng Ngại - Xa Lìa Gai Nhọn - Loại Bỏ Chướng Ngại: Phật dạy Bồ-tát sáu phép Ba La Mật, trong đó nhẫn nhục là quan trọng nhất. Nhẫn nhục chính là có lòng nhẫn nại, việc tốt cũng không phải là dễ dàng thành tựu, làm gì có được phước báo lớn như vậy? Cổ đức nói: "Việc tốt nhiều giày vò", giày vò là chướng ngại. Khi bạn muốn làm một việc tốt, chướng ngại đến trùng trùng, bạn phải dùng trí tuệ để ứng phó những chướng ngại này. Con đường này đi không thông, vẫn còn con đường kia; con đường kia không thông vẫn còn con đường nọ, luôn sẽ có con đường đi được thông, không thể nói không có đường để đi. Chướng ngại là nhất định không thể tránh khỏi, phải biết được cách né tránh, phải biết chờ đợi thời tiết nhân duyên. Ở ngay trong chướng ngại học tập thành tựu hậu đắc trí của chính mình, sau đó chúng ta mới ở trong tất cả cảnh giới, thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên (Hoàn cảnh nhân sự), liền có năng lực ứng biến khéo léo, nhà Phật thường nói "phương tiện khéo léo", chúng ta liền có năng lực này. Hoàn cảnh nhân sự tốt, hoàn cảnh nhân sự xấu, đối với chúng ta đều là nơi chốn học tập, chỉ cần bạn chịu dụng tâm học tập, không thể không khai trí tuệ. Người thiện là thiện tri thức của ta, người ác cũng là thiện tri thức của ta, sau đó bạn mới có thể thể hội đến được, mới có thể tường tận chư Phật Bồ-tát vĩnh viễn sống ở trong thế giới cảm ân. Không chỉ tất cả nhân sự là lão sư, tất cả vạn vật cũng là lão sư, thế gian này, hiện tại chúng ta gọi là động vật, thực vật, khoáng vật, hiện tượng tự nhiên, từng li từng tí đều đang khai phát trí tuệ Bát Nhã của chúng ta. Chỉ cần chính mình xả bỏ “tham-sân-si-mạn”, xả bỏ tự tư tự lợi, xả bỏ thành kiến, học tập khiêm tốn, thì thành tựu vô thượng Bồ-đề không cần phải ba A Tăng Kỳ kiếp. Trên kinh Phật nói tu hành chứng quả, phải thời gian dài như vậy, gian nan như vậy, nguyên nhân là gì? Chúng sanh không khéo học, không biết học, cho nên mới cần thời gian dài như vậy. Nếu như biết học thì không cần thời gian dài đến như vậy. Biết học,tiền phương tiện chính là điều kiện thứ nhất phải hiếu học, ưa thích học, chịu học, sau đó ở nơi lão sư, ở nơi thiện tri thức, bạn sẽ có được rất nhiều giáo huấn quý báo, bạn liền sẽ học được, như vậy mới có thể thành tựu. Trên kệ khai kinh nói "trăm ngàn muôn kiếp nan tao ngộ". Chúng ta nhất định trân trọng nhân duyên này, toàn lực dụng công, cố gắng học tập, thời gian ngắn sẽ thành tựu thù thắng không gì bằng.
Chướng ngại giữa người và người cũng là do ít qua lại với nhau, ít giao lưu với nhau, thế là sanh ra hiểu lầm. Do hiểu lầm mà khởi lên nghi ngại, như vậy mới tạo thành bất hòa, tạo thành đối địch, phát triển trở thành cạnh tranh, đấu tranh. Truy cứu nguyên nhân ban đầu là do không thông, cho nên người với người phải câu thông với nhau mật thiết. Tại vì sao bạn bè cả đời chơi với nhau tốt như vậy? Vì thường hay qua lại, khi có thời gian liền thăm hỏi lẫn nhau, nói chuyện, nói đến mọi chuyện thì thông suốt, liền biến thành bạn tốt. Oan gia đối đầu, tại vì sao oan kết càng kết càng sâu? Không qua lại, không qua lại thì dò xét lẫn nhau, càng dò xét càng sai. Đây là nói rõ người với người phải câu thông, giữa gia đình với gia đình phải câu thông. Hiện tại chúng ta có kém khuyết, giữa người với người có sự ngăn cách, giữa nhà với nhà, đôi bên hàng xóm không hề qua lại, vậy thì làm sao được? (Nguồn: Kinh Thập thiện - Tập 31_ PS Tịnh Không giảng)
Thiền hành: Muốn loại bỏ khái niệm có một chúng sanh, thiền sinh cần phải hành thiền Quán Sát Tứ Đại bằng cách chia chẻ thân thể này ra làm bốn thành phần và quán sát riêng biệt từng thành phần một. Mỗi thành phần như vậy gọi là Một Đại.
1. Địa Đại:
Địa đại không có nghĩa là Đất như chúng ta thường biết, mà là những gì có bên trong Đất cũng như trong các Vật Khác.
“Tính Chất Cứng Mềm” đó là đặc tính của Địa đại.
Đun tay vào nước bạn cảm thấy mềm. Sự mềm mại này là Địa đại. Bạn tìm thấy Địa đại khắp mọi nơi.
Công năng của Địa đại là làm nền tảng để những vật khác có thể đặt lên đấy.
Đối với thiền sinh hành thiền minh sát về đề mục Địa đại, thì sự biểu hiện của Địa Đại là thâu nhận hay chấp nhận.
Bởi vậy, các bạn phải hiểu Địa đại theo đặc tính, công năng sự thể hiện của nó.
Tóm lại, đặc tính của Địa đại là Cứng, Mềm. Công năng của Địa đại là Làm Nền Tảng. Và sự biểu hiện của Địa đại là Sự Thâu Nhận hay Chấp Nhận vật gì.
2. Thủy Đại:
Thủy đại ở đây không có nghĩa là Nước như chúng ta thường biết. Thủy đại có đặc tính “chảy giọt xuống”, “dính hút”, “kết hợp” hay “lỏng”. Thủy đại có mặt trong mọi vật có sự kết hợp, hay trong đất, trong gỗ, trong gạch đá, …
Sự kết hợp hay Sự dính hút làm cho vật liên kết lại với nhau là đặc tính của Thủy đại.
Công năng của Thủy đại là “làm cho mạnh lên”. Thủy đại làm cho mạnh lên những gì tiếp xúc với nó.
Sự biểu hiện của Thủy đại trong thiên nhiên là “kết hợp vật chất lại với nhau”. Khi chế nước vào bột chẳng hạn, thì ta thấy cục bột dẻo. Nước đã kết dính bột lại với nhau. Sự kết dính lại với nhau là sự biểu hiện của Thủy đại.
Khi hành thiền thỉnh thoảng sự biểu hiện này sẽ đến với bạn. Bạn sẽ thấy hay hiểu Thủy đại đôi khi qua đặc tính, đôi khi qua công năng, và đôi khi qua sự biểu hiện.
Tóm lại, đặc tính của Thủy đại là “Sự Kết Hợp” hay “Sự Dính Hút”. Công năng của Thủy đại là “Làm Cho Mạnh Lên”. Biểu hiện Thủy đại là “Kết Hợp Vật Chất Lại Với Nhau”.
3. Hỏa Đại:
Đây không phải là Lửa hiểu theo nghĩa thông thường, nhưng là trạng thái của lửa, tính chất của lửa, như sức nóng chẳng hạn. Sức nóng hay lửa làm cho vật “chín mùi, trưởng thành, hay già nua”. Nói nóng, ta cũng bao gồm cả lạnh. “Nóng”, “Lạnh” hay “Nhiệt Độ” là đặc tính của Hỏa đại.
Khi bạn cảm thấy nóng hay lạnh là bạn đang cảm giác được Hỏa đại. Và khi cơ thể trưởng thành hay già nua, đó là tác dụng của Hỏa đại.
Công năng của Hỏa đại là làm cho vật “trưởng thành”, làm cho vật “nóng” hay “lạnh”.
Sự biểu hiện của Hỏa đại là “tiếp tục cung cấp cho sự mềm dẻo”. Chẳng hạn như bạn đang nấu vật gì thì vật được nấu sẽ mềm. Cũng vậy, sức nóng trong cơ thể làm cho cơ thể bạn dẻo, do đó cơ thể bạn già nua dần.
Tóm lại, đặc tính của Hỏa đại là “Nóng, Lạnh, hay Nhiệt Độ”. Công năng của Hỏa đại là “Làm Cho Vật Nóng hay Lạnh”. Biểu hiện của Hỏa đại là “Tiếp tục cho sự mềm dẻo”.
Có bốn loại Lửa:
Nhiệt độ cơ thể làm cho cơ thể nóng, hay bạn đau thì thân nhiệt gia tăng.
Lửa làm cho cơ thể bạn trưởng thành già nua.
Lửa làm cho người hay vật nóng lên, đó là sức nóng quá độ. Khi bạn cảm cúm, cơ thể bạn rất nóng, đó là sức nóng quá độ.
Lửa tiêu hóa thức ăn, nhờ lửa này mà bốn loại thực phẩm: ăn, uống, nhai, mút được tiêu hóa. Khi bạn có lửa tiêu hóa tốt hay lửa dạ dày tốt, thì cơ thể có thể tiêu hóa tất cả những gì bạn ăn. Khi bạn không có lửa tiêu hóa tốt, thì bao tử của bạn gặp rắc rối.
4. Phong Đại:
Đặc tính của Phong đại là “bành trướng, dãn nở, hay làm phồng lên”. Khi thổi hơi vào một quả bóng, quả bóng phồng lên. Phong đại cũng làm cho bạn đứng hay ngồi thẳng không bị cong xuống. Đó là sự “nâng đỡ của gió đến từ mọi phía”.
Công năng của gió là “tạo ra sự di động”. Khi bạn di chuyển thì sự di chuyển của bạn là do Phong đại gây ra.
Sự biểu hiện của Phong đại là “sự vận chuyển”.
Tóm lại, đặc tính của Phong đại là “Bành Trướng, Dãn Nở, hay Làm Phồng Lên và Nâng Đỡ”. Công năng của của gió là “Tạo Ra Sự Di Động”. Biểu hiện của Phong đại là “Sự Vận Chuyển”.
Có sáu loại gió:
Gió hướng lên làm bạn nấc cụt hay nôn mửa.
Gió hướng xuống tống phân hay nước tiểu ra ngoài.
Gió trong bụng ngoài ruột.
Gió trong ruột.
Gió chạy trong khắp tứ chi trong thân.
Gió hơi thở ra ngoài.
Khi bạn đi hoặc co ruỗi thì Phong đại làm việc. Phong đại được gây ra bởi Tâm hay Ý muốn của bạn.
Bây giờ hãy tìm cách quán sát Tứ Đại trong khi đi.
Khi đi, trước tiên bạn dỡ chân lên. Lúc dỡ chân lên bạn thấy nhẹ. Sự nhẹ này được gây ra bởi Hỏa đại.
Khi dỡ chân lên có sự chuyển động. Sự chuyển động do Phong đại gây ra.
Khi đưa chân bước về phía trước, sự chuyển động cũng do Phong đại gây ra.
Khi hạ chân xuống, bạn thấy chân nặng, sự nặng này do sự có của Thủy đại.
Khi chân chạm đất hay chạm nền nhà, bạn cảm thấy sự cứng hay mềm của cả nền nhà lẫn chân bạn. Sự cứng mềm này là đặc tính của Địa đại.
Chỉ trong một bước đi bạn có thể phân biệt biết được Bốn Đại. Khi dỡ chân lên thì Hỏa đại và Phong đại trội hơn cả. Khi đưa chân bước về phía trước bạn nhận ra Phong đại. Khi đặt chân xuống bạn thấy được Thủy đại. Khi chân đạp lên đất bạn cảm thấy được Địa đại.
Như vậy là thiền sinh đã quán sát được cả Bốn Đại trong một bước đi, mặc dầu thoạt đầu thiền sinh không ghi nhận được sự hiện diện của tất cả Bốn Đại.
Khi thiền sinh thấy các Đại một cách rõ ràng thì ý niệm về một chúng sanh biến mất. Lúc này, thiền sinh thấy rằng chỉ có Bốn Đại mà thôi. Bốn Đại đang đi, Bốn Đại đang đứng, v.v… Khi chỉ thấy Tứ Đại đi, đứng, nằm, ngồi thì bạn sẽ không thấy có một con người đang làm tác động này; như vậy ý niệm về một chúng sanh biến mất.
Sự quán sát Tứ Đại được giảng giải trong kinh này bằng một ví dụ và chú giải đã giải thích như sau:
Khi người đồ tể nuôi một con bò, đem nó đến chổ giết thịt, cột bò vào một cột cây rồi giết bò, thì người đồ tể vẫn còn ý niệm về một con bò, một chúng sanh. Nếu có ai hỏi ông ta đang làm gì, thì đồ tể sẽ nói: “tôi cho bò ăn” hay “tôi đang giết bò”.
Ngay cả sau khi giết bò, trước khi xẻ thịt và cắt ra từng miếng, ông ta vẫn còn duy trì ý niệm rằng đó là một con bò. Nhưng sau khi xẻ bò ra, cắt thành từng miếng nhỏ và đặt lên bàn để bán ở ngã tư đường, thì người đồ tể mất hẳn ý niệm về một con bò. Nếu có ai hỏi ông ta bán gì, ông ta không thể nào trả lời “tôi bán bò”, ông ta sẽ trả lời là “tôi bán thịt bò”. Như vậy sau khi đã cắt bò ra từng miếng, người đồ tể đã mất hẳn ý niệm về một con bò.
Tương tự như vậy, khi thiền sinh cắt mình ra thành Bốn Đại – tất cả những gì trên cơ thể thiền sinh cũng chỉ là Bốn Đại – như vậy là thiền sinh sẽ mất ý niệm về một thiền sinh, một con người.
Đức Phật dạy cách hành thiền để loại bỏ ý niệm “có một chúng sinh”.
Ví dụ trên đây không thể đưa đến kết luận rằng thiền sinh phải ý niệm hóa Tứ Đại.
Tứ Đại Đức Phật dạy không phải là ý niệm chế định, mà là một phần của chân lý tuyệt đối hay “Chân Đế” gồm Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp và Niết Bàn. Đây là “Chân Đế”, khác với “Tục Đế”. Thiền sinh phải “Thấy” Tứ Đại qua việc hành thiền của mình. Thiền sinh sẽ gặt hái được nhiều lợi ích qua cách hành thiền này.
Khi bạn quán sát Tứ Đại trên thân thể của mình thì bạn đã quán sát thân trên nội thân; khi bạn bỗng nhiên suy nghĩ đến Tứ Đại trên thân thể người khác thì bạn đã quán sát thân trên ngoại thân. Khi bạn quán sát Tứ Đại trên chính thân mình rồi quán sát Tứ Đại trên thân người khác thì bạn đã quán sát cả hai, thân trên nội thân và thân trên ngoại thân.
Khi bạn thấy rằng chỉ có Tứ Đại mà chẳng có người hay chúng sanh gì cả thì bạn không dính mắc, luyến ái vào bất cứ mọi thứ gì trên cõi đời. Như vậy là bạn đã: Không chấp trước vào bất cứ một điều gì trên cõi đời do ngũ uẩn tạo thành này.
Khi không luyến ái, dính mắc thì không còn tạo ra nghiệp. Khi không có nghiệp thì sẽ không có bám víu vào đời sống và thọ thân sau, và không có tái sanh. Lúc ấy bạn sẽ đạt đến chổ chấm dứt vòng luân hồi tái sinh. Nguồn: Đức Phật dậy thiền hành quán tứ đại
+ Các pháp giành cho Thanh Thiếu Niên tu tập - Tại gia hay xuất gia:
+ 388. LỢI ÍCH CỦA TỨ THIỀN
* Đức Phật dậy: Về Tứ thiền, Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện cho đến được đệ Tứ thiền, thành tựu an trụ. Tứ thiền này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về Tứ thiền này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được hoan lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh. (Trung A Hàm, Kinh Thuyết Xứ, Phẩm 7, số 86)
+ Lợi ích của tham thiền: Tham thiền tạo ra được 4 điều:
1. Giúp cho hành giả tiếp xúc được với Chân Ngã và chỉnh hợp được ba hạ thể.
2. Đưa hành giả đến trạng thái quân bình, không thụ cảm và tiêu cực hay tích cực, mà ở điểm thăng bằng. Tạo cơ hội cho Chân Ngã, và sau đó là Chân Sư, khuấy động sự quân bình đó và điều chỉnh sự rung động trầm lặng này đến một âm điệu (note) cao hơn trước, khiến cho tâm thức rung động với mức độ mới mẻ và cao siêu hơn, và xoay chuyển vào phạm vi của Tinh thần tam phân. Bằng tham thiền liên tục, toàn thể điểm thăng bằng này ngày càng được nâng cao cho đến khi điểm thu hút thấp trong sự dao động và điều chỉnh không phải ở thể xác, không chạm đến thể cảm dục, không tiếp xúc với thể trí (ngay cả linh hồn thể nữa), mà kể từ đó, con người được an trụ vào tâm thức tinh thần.
3. Tạo thăng bằng cho các rung động thấp trên các phân cảnh thuộc cõi tình cảm và cõi trí. Thiền làm phàm ngã chỉnh hợp với rung động của phân cảnh thứ 3 ở mỗi một trong ba cõi thấp cho đến khi các phân cảnh ba đó được chế ngự. Kế đó, làm cho phàm ngã rung động đồng bộ với rung động của các phân cảnh thứ 2 của ba cõi thấp.
4. Giúp chuyển sự an trụ từ một trong các vi tử thường tồn của phàm ngã vào vi tử tương ứng trong Tam Thượng Thể tinh thần.(TVTTHL,10–11)
- Ba lợi ích:
1. Cho biết thực nghĩa bên trong của màu sắc bên ngoài.
2. Xác định những phẩm tính mà các màu sắc này che giấu. [228]
3. Tạo sự chuyển hóa cần thiết của các màu, từ Phàm nhân đến Tam nguyên, và về sau từ Tam nguyên đến Chân thần.(TTHM, 227)
Xem: Tham thiền huyền môn theo Raja yoga (GQ-MF)
Xem: TH về các P.Pháp và con đường Tham Thiền
Xem: Tổng hợp Huyền học - Huyền Bí Học - Huyên Linh học và Huyền Linh Thuật
+ Người Thiền Huyền Môn Cần Ghi Nhớ
1. Bạn hãy tự biết mình.
2. Hãy tiến hành một cách chậm rãi và luôn cảnh giác.
3. Hãy nghiên cứu các hiệu quả.
4. Vun bồi sự nhận thức rằng cuộc sống vĩnh cửu thì vô cùng lâu dài và điều gì được xây dựng một cách chậm rãi thì còn mãi.
5. Hãy nhắm tới sự đều đặn.
6. Luôn luôn nhớ rằng những hiệu quả phát triển tinh thần đích thực phải thấy được trong cuộc sống phụng sự ngoài đời.
7. Cũng nên nhớ rằng những hiện tượng thần thông không phải là dấu hiệu cho thấy sự thành công của tham thiền. Thế gian sẽ thấy những hiệu quả của [94] tham thiền và là quan toà sáng suốt hơn chính người môn sinh. Trên hết, Chân sư sẽ biết, vì Ngài thấy rõ những kết quả nơi thể nguyên nhân của môn sinh rất lâu trước khi y ý thức được một sự tiến bộ nào đó.
+ Pháp Tham thiền huyền môn: Giáo lý tham thiền này rất bao hàm rộng lớn và cao thâm, nó đòi hỏi vị Hành giả phải tu thành tưu bước đầu về Đạo làm người Thiện lành hàng ngày một cách Chân thành, tức là ưu tiên số một là lập các đức hạnh, nói như Đông phương là gồm Nhân - Nghĩa - Lễ Trí - Tín. Nói theo Phật giáo là nghiêm trì giữ ngũ giới Không: Sát - Đạo - Dâm - Vọng và uống riệu. Nói theo Minh triết Chân sư là thực hành các hạnh Không gây tổn hại - Sống chân thật - Không tà dâm - Không nói giối - Không nghiện ngập các chất gây hại. Một cách nói theo Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng, rất rễ hiểu là lập sáu hạnh: Không tranh - Không tham - Không cầu - Không ích kỷ - Không tự lợi - Không Vọng ngữ. Tiếp mới đến học các giáo lý và thực hành Tham thiền huyền môn hàng ngày một cách tinh tấn. Mời quý độc giả quan tâm xin đọc Kiến thức phổ biến về Pháp môn tuyệt vời này, bao gồm các giáo lý của đức Chân Sư DK và các vị Chân Sư thuộc Thánh Đoàn của đức Di Lặc Bồ Tát, xin mời quan tâm đọc: Pháp Tham Thiền Huyền Môn
+ Thiền - Định: ... 4. Kinh Kim Cang nói rất hay: “Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đã diễn tả hai câu này rõ hơn, nông cạn hơn đôi chút để mọi người liễu giải dễ dàng. Lục Tổ nói: “Ngoài chẳng chấp tướng, trong không động tâm”. “Ngoài không chấp tướng là Thiền, trong chẳng động tâm là Định”. Chúng tôi lại nói cách khác, càng nông cạn, rõ rệt, dễ hiểu hơn cách nói ấy: Ngoài là chẳng bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh, chẳng phải là không tiếp xúc. Đối với cảnh giới bên ngoài, có thể tiếp xúc, mắt có thể thấy, tai có thể nghe, hết thảy đều có thể tiếp xúc, tuy tiếp xúc mà như thế nào? Chẳng bị nó ảnh hưởng, nó chẳng thể ảnh hưởng quý vị. Đó là Thiền. Nội tâm như như bất động. Đó là Định. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Thiền định: Thứ năm là thiền định Ba La Mật. Thiền định có Tứ thiền Bát định. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói tới “cửu thứ đệ định” (chín bậc thiền định liên tiếp). “Tứ thiền” gồm có sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. (Nguồn: Giới thiệu Kinh Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa)
+ Tọa thiền định: Trong pháp môn nầy không có chỗ nào ngăn, không có sự gì cản. Ngoài đối với tất cả các điều lành dữ các cảnh giới, mà tâm chẳng khởi vọng niệm, gọi là tọa. Trong thấy tánh mình chẳng động, gọi là thiền."
Ngoài lìa tướng tức là thiền, trong không tán loạn tức là định. Ngoài thiền trong định, ấy là thiền định. Kinh Bồ Tát Giới nói: ‘Bổn tánh của mình vốn tự thanh tịnh.’
Chư Thiện tri thức! Trong niệm niệm tự mình thấy Bổn tánh thanh tịnh, tự mình tu, tự mình hành, tự mình thành Phật đạo."
Ngoài lìa tướng là thiền, trong không tán loạn là định. Nếu ngoài dính tướng, thì trong tâm tán loạn. Bằng ngoài lìa tướng, thì trong tâm không tán loạn. Bổn tánh vốn tự định, chỉ vì thấy cảnh rồi nghĩ cảnh, nên mới tán loạn. Nếu thấy các cảnh giới mà tâm chẳng tán loạn, thế mới là thiệt định.
Ngoài lìa tướng tức là thiền, trong không tán loạn tức là định. Ngoài thiền trong định, ấy là thiền định. Kinh Bồ Tát Giới nói: ‘Bổn tánh của mình vốn tự thanh tịnh.’
Chư Thiện tri thức! Trong niệm niệm tự mình thấy Bổn tánh thanh tịnh, tự mình tu, tự mình hành, tự mình thành Phật đạo......
Ngoài có thiền, trong có định, đó mới là thiền định chân chánh. Kinh Duy Ma Cật nói: "Lập tức hoát nhiên quán triệt, hiểu rõ bổn tâm của mình." Kinh Phạm Võng nói: "Tự tánh bổn lai của chúng ta vốn tự thanh tịnh." (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Thiền Định - Pháp tịch tĩnh:
.... Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Ông thường nghe Ta tuyên thuyết ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong Tỳ-nại-da. Đó là: Nhiếp tâm là giới, do Giới sanh Định, do Định phát Huệ. Đó gọi là Tam Vô-Lậu Học.”......
Việt dịch: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm, dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Vì sao? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn!” (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa)
+ Như Lai mở bày pháp tịch tĩnh: ... Vì chúng sinh thường bị ngu si che lấp, không tiếp thọ được sự giáo hóa của Phật, cho nên Phật vốn dùng bốn tâm vô lượng, vì chúng sinh mà thuyết pháp. Bốn tâm vô lượng là
1. Tâm từ vô lượng .
2. Tâm bi vô lượng.
3. Tâm hỷ vô lượng.
4. Tâm xả vô lượng.
Nói pháp gì ? Nói pháp tịch tĩnh - Tức là tu thiền định.
‘’ Là đèn trí huệ chiếu thế gian.’’ Phật dạy chúng sinh tu pháp tịch tĩnh, pháp tịch tĩnh tức là đèn đại trí huệ chiếu sáng khắp thế gian. Thiền tức là định, định khống chế được các vọng tưởng, đến cảnh giới một niệm không sinh thì, trí huệ quang hiện tiền sẽ khai ngộ. Cho nên nói tịch tĩnh là đèn trí huệ.
‘’ Diệu Nhãn biết được phương tiện này.’’ Vị Diệu Nghiêm Nhãn Thiên Vương minh bạch được pháp phương tiện này. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Thiền định: Tiếng Thiền Ba La Mật. "Thiền" là tiếng Phạn, gọi tắt từ chữ "Thiền Na" (Dhyana); Trung Hoa dịch là "tư duy tu," và cũng là "tịnh lự." Về Thiền Ðịnh thì có Tứ Thiền, Bát Ðịnh, và còn có Cửu Thứ Ðệ Ðịnh nữa. Ngoài ra, Thiền lại được phân làm Thế Gian Thiền, Xuất Thế Gian Thiền, và Xuất Thế Thượng Thượng Thiền.
Phàm phu chúng ta thì tu Thế Gian Thiền; trong đó bao gồm Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Vô Sắc Ðịnh. Về những cảnh giới này, tôi không giải thích cặn kẽ, bởi chỉ cần quý vị dụng công tu hành và tọa Thiền thì tự nhiên sẽ thấu rõ được tất cả. Còn Xuất Thế Thiền thì gồm có Tứ Thiền Bát Ðịnh, Bát Thắng Xứ, Bát Bội Xả.
Bây giờ tôi có giảng rõ những danh tướng này thì cũng chỉ làm cho quý vị thấy rối thêm mà thôi! Bởi vì ví dụ nói rằng món này ngon, nhưng nếu không ăn thử thì rốt cuộc quý vị cũng không biết được mùi vị của nó là ngon lành ra sao cả! Cho nên, bây giờ quý vị biết là có nhiều thứ khác nhau như Thế Gian Thiền, Xuất Thế Gian Thiền, Xuất Thế Gian Thượng Thượng Thiền, Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền... rồi; chỉ cần quý vị chịu siêng năng dụng công tu hành, sau này chắc chắn quý vị sẽ biết được "hương vị" của các thứ đó. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Pháp tu Tam Ma Đề - Pháp tu Định và Huệ
Như huyễn tam-ma-đề
Trong khoảnh khắc, vượt hàng vô học.
"Giảng giải: Còn gọi bằng một tên khác, Như huyễn tam-ma-đề. Tam-ma-đề là tiếng Sanskrit, Samāpatti; Hán dịch là đẳng trì; có nghĩa là duy trì tính quân bình của định (samadhi) và huệ. Bằng trí huệ, ta có thể mở được sáu nút. Với định, ta sẽ không tạo ra sáu nút nữa. Trong Tam-ma-đề, định huệ đẳng trì nầy, hành giả có thể