QUÂN TỬ TẠO MỆNH: ĐOÁN GIẢI THIÊN CƠ - CHIẾN THẮNG THIÊN MỆNH - NIỀM HY VỌNG VINH QUANG

CÁC DỊCH VỤ TƯ VẤN CÁ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP
KHẨU HIỂU:
TÌM CÁT TRÁNH HUNG - CẢI MỆNH NHƯ Ý - NGŨ PHÚC LÂM MÔN

+ XEM SỐ MỆNH VÀ TV PHÁP CẢI MỆNH CÁT TƯỜNG - VUN BỒI HY VỌNG: Xem tại đây

+ MỞ LỚP HỌC DỰ ĐOÁN TỨ TRỤ VÀ QUẺ DỊCH THƯỜNG XUYÊN: Xem tại đây

+ PHÁP TU PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ TOÀN DIỆN - THÀNH BẬC THIÊN TÀI. Xem tại đây

+ NHẬN TƯ VẤN THIẾT KẾ THEO PHONG THỦY VĂN PHÒNG VÀ NHÀ Ở HỢP MỆNH VẬN.

+ MỞ LỚP TU "THIỀN TRÀ" VÀ TU THIỀN LẬP HẠNH GIÚP XA LÌA TÀ DỤC THƯỜNG XUYÊN

+ HỘI QUÁN CAFE PHONG THỦY: HỎI - ĐÁP VỀ BỒI CÁT TRÁNH HUNG - GIẦU CÓ AN KHANG - XA LÌA TÀ DỤC - PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ .... 

* Dịch vụ và Hỏi - Đáp tại số 301 Minh Khai, tầng 4 tòa nhà TTTM Thanh Ngọc, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh: Xem tại đây

* TƯ VẤN MIỄN PHÍ vào Sáng thứ bảy hàng tuần, kính xin liên hệ trước để chúng tôi tiếp đón quý khách được chu đáo!

 Kính chúc quí vị luôn bình an, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý - Niềm hy vọng vinh quang!

+ Kính xin mời đọc kỹ: Hướng dẫn Dịch vụ

Thế Giới Chúng Sinh Nghiệp Quả Tương Tục

THẾ GIỚI CHÚNG SINH TƯƠNG TỤC
NGHIỆP QUẢ TƯƠNG TỤC - LUÂN HỒI TÁI SANH
(Các trích đoạn của Thánh hiền và đức Phật)

II- LUÂN HỒI THEO PHẬT GIÁO:

A- Thế giới tương tục: Vọng tưởng giao xen phát sinh, lần lượt làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên đó mà thế giới tương tục
Giảng giải:
Vọng tưởng giao xen phát sinh, lần lượt làm chủng tử cho nhau.
Giao tức giao xen với nhau. Vọng tức là tâm hư vọng và cảnh hư vọng. Ban đầu là do sai lầm muốn soi lại tánh giác (vọng minh) mà thành có u tối, hỗn trược của hư không. Cái sáng, cái tối ấy xâm đoạt nhau thành ra diêu động nên sanh ra phong đại. Chấp cứng cái vọng minh mà thành ra có địa đại. Phong đạikim luân cọ xát nhau mà thành hoả đại. Kim loạihỏa đại thiêu đốt nhau mà thành thủy đại. Nên tứ đại chính là do vọng tưởng giao xen phát sinh.
Chỉ một niệm vọng tưởng sinh khởi, lửa và nước liền thành chủng tử của núi sông do sự giao xen lẫn nhau. Do nhân duyên đó mà thế giới tương tục. Từ sự giao xen lẫn nhau nầy mà tạo nên chủng tử, thế giới hoại diệt rồi lại sinh khởi, bắt đầu rối kết thúc. Thành, trụ, hoại, không cùng vô số tướng trạng, sự tương tục của thế giới là vô cùng vô tận, tiếp diễn không bao giờ dừng nghỉ.

B- Chúng sinh tương tục: Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau. Các loài thọ nghiệp báo cũng theo nhau lên xuống. Do nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục.
Giảng giải:
Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau. Có một sự kết hợp, phân ly lẫn nhau liên tục, lần nầy qua lần khác. Và do nghiệp báo mà mỗi loài theo nhau sinh khởi rồi chìm đắm liên tục không dứt. Do phải chịu nghiệp báo, chúng sinh làm thân loài chim trên trời rồi biến thành cá dưới nước. Do nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục. Chúng sinh là những loài phải chịu trải qua mười hai loại sanh:
1. Thai sanh; 2. Noãn sanh; 3. Thấp sanh; 4. Hoá sanh; 5. Hữu sắc; 6. Vô sắc; 7. Hữu tưởng; 8. Vô tưởng; 9. Phi hữu sắc; 10. Phi vô sắc; 11. Phi hữu tưởng; 12. Phi vô tưởng.
Đây là tiến trình liên tục không dừng nghỉ của chúng sinh. Đầu tiên chúng ta thảo luận về sự tương tục của thế giới. Kế tiếp chúng ta bàn về sự tương tục của chúng sinh.

C- Nghiệp Quả Tương Tục - Trích đoạn Phật bảo Phú Lâu Na :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na! Sở dĩ có 3 thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm:
- Rằng phải nhờ lấy cái minh để minh tánh giác;
- Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu, đại địa san hà vũ trụ vạn hữu là hiện tượng hữu vi, có sinh có diệt là do kiến chấp vọng tưởng của con người. Sự thật, thể tánh của các hiện tượng vốn thanh tịnh bản nhiên là diệu dụng của Như Lai Tạng biểu hiện. Khi tư tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau thì con người trôi nổi trong sinh tử trầm luân. Lúc thì tái sinh làm cha, làm mẹ. Khi thì đầu thai làm con làm cháu, lên xuống không cùng không tận.
- Tưởng ái đồng kết lại thì lòng yêu thương không thể rời cho nên cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em… sanh nhau trong thế gian không bao giờ dứt. Cái khổ quả sinh tử này chung quy cũng tại vì lòng tham dục.
Tham và ái hổ tương cho nhau thì lòng tham không bao giờ ngừng dứt. Con người vì bị vô minh che lấp nên chạy theo ái dục mà phải chịu luân hồi.
- Thí dụ luân hồi: Bà vì quá thương cháu mà tái sinh làm con của cháu mình. Vì thế mà thế giới này mới là dục giới. Một khi tâm dục phát khởi nghĩa là lòng mình muốn chiếm hữu hay đoạt lấy vật gì thì lòng tham bắt đầu phát khởi. Một khi lòng tham phát khởi thì tất cả các loài như thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh tùy theo sức mạnh của nó mà ăn nuốt những loài khác để tạo thành sát nghiệp. Thí dụ, con cọp ăn thịt con nai yếu đuối. Loài người săn bắn giết hại vô số súc vật. Ở biển cả sông ngòi, cá lớn nuốt cá bé… Bởi cũng vì sát nghiệp mà loài người, loài vật thay nhau tái sinh để chịu quả báo luân hồi. Thí dụ con người đi săn giết hại con nai. Con nai chết tức tưởi nên một kiếp nào đó nó tái sinh làm người và cũng đi săn để giết chết con nai khác chính là người thợ săn quả báo làm nai.
Nói cách khác vì nghiệp sát sinh mà 4 loài sát hại giết chết nhau, ăn nuốt nhau và sau cùng phải thọ báo để bị thảm hại, ăn nuốt trở lại. Đời này qua, đời khác đến vô cùng vô tận biết đến chừng nào mới chấm dứt. Do đó tư tưởng Phật giáo khuyên chúng sinh nên phát triển lòng từ bi để thương yêu tất cả mọi loài và chấm dứt nghiệp sát hại thì quả báo luân hồi mới có thể chấm dứt được. Con người vì sống với lòng tham dục nên phải chạy theo sinh tử luân hồi. Cũng vì tham dục mà con người giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Chủ nhân, phú hộ muốn giàu thêm nên chèn ép người nghèo khó, thế cô. Kiếp này mình ỷ thế chèn ép người tức là cướp không của người, là nợ người vì thế sang đến đời sau phải đầu thai trả nợ cho người.
Nói chung con người có chìm đắm trong sinh tử khổ đau cũng chỉ vì chạy theo tham, sân, si. Từ đó Sát, Dâm, Đạo hình thành, sai sử khiến con người càng ngày càng lún sâu trong vòng tội nghiệp. Trong Phật giáo nghiệp sát hại là đại nghiệp vì thế người Phật tử vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, thương người như thương mình và thấy nỗi đau của chúng sinh chính là nỗi đau của mình nên không giết hại. Con người ăn thịt chúng sinh thì ngày sau chúng sinh đổi kiếp ăn thịt con người trở lại. Nếu cưỡng giết mạng chúng sinh để lấy thịt ăn thì gọi là Đạo. Mà có nợ thân mạng thì cũng là do sát tham mà ra. Do đó, nếu đền nợ cũ cho người thì gọi là đạo tham vậy. Ngày xưa tôn giả Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông, có tài thiên biến vạn hóa, thế mà trong tiền kiếp làm nghề chài lưới giết hại quá nhiều chúng sinh nên vào thời Đức Phật tuy đã tu thành Thánh mà những chúng sinh đã bị Ngài sát hại bây giờ tái sinh làm bọn ngoại đạo để sát hại Ngài.
Do đó, ngày nay ta sát hại chúng sinh thì ngày mai chúng sinh quay trở lại sát hại lại chúng ta. Vì thế nếu muốn tiêu diệt nghiệp sát sinh thì ngay bây giờ phải chấm dứt sát hại làm đau thương đến muôn loài và bồi dưỡng cũng như phát huy tình thương, lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Tuy không còn tâm sát hại, nhưng nếu vẫn còn tâm dâm thì con người vẫn bị tái sinh luân hồi vì thần thức trong thân trung ấm còn cảm nhận dục tình khi thấy cảnh ái ân của nam nữlưu vào thai mẹ để trở thành chủng tử thọ hình. Muốn thoát khỏi luân hồi thì tâm dâm phải dứt cho nên thần thức lúc nào cũng như như bất động cho dù đứng trước cảnh dục tình. Lấy của người làm người đau khổ tức là nợ của người đó rồi nên kiếp sau phải đầu thai để trả cho hết những mối nợ này. Vì thế không tham, không dâm, không sát hại, không đạo thì sẽ không còn sinh tử và dĩ nhiên chặt đứt dây luân hồi. (Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục - Cư sỹ Lê Minh Tùng...)

+ Nghiệp quả tương tục: Trích Đức Phật giảng cho ngài Phú Lâu Na:
Chính ba thứ sát đạo dâm là căn bản. Do nhân duyên đó, nghiệp quả tương tục.
Giảng giải:
Nghiệp quả do đâu mà có? Nó phát sinh từ ba thứ sát, đạo, dâm. Nếu quý vị giết hại, là mình đã tạo nghiệp sát. Nếu quý vị trộm cắp, đó là tạo nghiệp trộm đạo. Nếu quý vị tham đắm nữ sắc, đó là quý vị đã tạo nghiệp dâm. Ba nghiệp nầy còn gọi là ba món độc đối với cơ thể. Chính nó là cội gốc căn bản. Do nhân duyên đó, nghiệp quả tương tục. Sự tương tục của nghiệp báo nầy đã làm nên sự tương tục của chúng sinh, và từ sự tương tục của chúng sinh mà tạo nên sự tương tục của thế giới. Sự tương tục của thế giới trở lại tác động đến sự tương tục của nghiệp quả. Thế là vòng luân hồi tự nó hoàn chỉnh và khép kín. Nó chấm dứt rồi lại bắt đầu. Đó là cách mà thế giới hiện hữu và tồn tại. Nếu quý vị nghĩ rằng thế giới thực sự tốt đẹp–đầy hứng thú và tốt lành–thì hãy lao vào mà hưởng thụ. Nếu quý vị nghĩ rằng không phải như vậy, thì quý vị có khả năng về đến nhà mình. Ở đâu là nhà mình? Đó là quả vị Phật.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)

+ Giảng về Luân Hồi Sinh Tử: Trích Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật giảng: ... Lời chỉ dạy nầy là phần rất rất quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Nó liên quan với một điểm then chốt: vấn đề luân hồi sinh tử. Nếu quý vị hiểu được chương nầy, thì quý vị có thể nhanh chóng chấm dứt luân hồi sinh tử. Nếu quý vị chưa thể hiểu được, thì phải có gấp đôi nỗ lực và tinh tấn trong việc tu học ... Đức Phật bảo A Nan:
Hay thay, A-nan! Ông muốn biết câu sinh vô minh là đầu mối khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông chứ không phải là cái gì khác. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)

+ PHẬT DẠY VỀ TƯỚNG TƯƠNG TỤC

I- Thế Giới Tương Tục - Phật bảo rằng:
-Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động. Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì. Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn. Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó, trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
Phong đạigió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau. Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào.

II- Chúng Sinh Tương Tục:
Lại nữa, Phú Lâu Na! “Vọng minh” không phải là cái khác lạ. Do vì chúng sinh dùng cái kiến minh tri để minh tánh giác mà có sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh, tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sáu vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”. Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì hấp dẫn lúc hợp lúc ly, khi tình khi tưởng. Tánh thấy “năng minh” có thì đương nhiên có sắc sở minh hiển hiện. Chủ thế đối tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy.
Do tư duy có sự tưởng tượng nhận thức : Hễ ý kiến bị phủ nhận, sanh tâm lý ghen ghét. Tư tưởng được đồng tình, sanh tâm lý yêu thương. Dòng nước yêu thương kết thành chủng tử, thu nạp tưởng tượng hấp dẫn nghiệp đồng, tác hợp với “yết la lam” thành trạng thái của phôi trong thời gian gọi là “ngưng hoạt” (tinh trùng và noãn sào mới hợp nhau trong ba bốn tuần đầu). Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh, tuỳ nghiệp đồng và thích ứng của mỗi loài mà cảm ứng. Thai nhơn tình mà có. Noãn do tưởng mà sinh. Thấp bởi hợp mà cảm. Hóa vì ly mà ứng. Tình, tưởng, hợp, ly luôn luôn vận động đổi thay theo nghiệp sở hành mà cảm thọ : Khi đi lên, lúc đi xuống xoay vần trong sáu nẻo. Đó là nguồn gốc làm chúng sinh tương tục không dừng.
Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sinh, nhưng vì do vọng niệm từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần dần biến thành căn nguyên sinh ra chúng sinh. Do vậy vọng minh chính là vô minh và cũng từ cái vô minh này mà dần theo thời gian hình thành sở tướng của tứ đại và hấp thụ tứ đại để làm thân. Vọng tưởng sai lầm đã biến con người thành “vọng năng” và dĩ nhiên chấp nhận có “sở năng” bên ngoài. Một khi chấp có “năng sở” nghĩa là chấp có chủ thể và đối tượng tức là chấp có sự đối đãi phân biệt. Năng minh là lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở bên trong của con người và sở minh chính là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là ngoại trần. Vì thế tuy thế giới vạn pháp có bao la vô cùng vô tận, nhưng cũng không ra ngoài căn, trần cả.
Thật vậy, khi lục căn tiếp xúc với lục trần nghĩa là năng minh hòa nhập với sở minh thì ý thức vọng niệm được phát khởi. Vì nhân duyên đó mà con người chỉ nghe khi có tiếng, có âm thanh và chỉ thấy khi có sắc tướng chớ không thể thấy, nghe xa được. Nói cách khác lúc ấy kiến, văn, giác, tri nghĩa là thấy, nghe, hay, biết được hình thành. Tuy thế giới thay đổi tùy theo sở minh, nhưng tựu trung tất cả cũng nằm trong quy luật thành, trụ, hoại, không nghĩa là có đó rồi mất đó. Khi năng minh, sở minh hòa hợp thì tư tưởng phát sinh. Nếu chúng sinh đồng một tư tưởng thì thương yêu nhau, ngược lại, nếu ý bất đồng thì ghét nhau. Dòng nước ân ái yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Ba món “Căn, Trần, Thức” hòa hợp làm nhân tạo nghiệp cho nên quả khổ tứ sinh cũng bám theo. Nếu đồng nghiệp ràng buộc nhau thì hình thành vào thai sinh hay noãn sinh. Còn ly nghiệp thì hình thành vào loài thấp sinh hay hóa sinh.
Thí dụ thai sinh là con người sinh ra con người hay con bò cũng sinh ra con bò…Noãn sinh là con vật được sinh ra bằng trứng. Chẳng hạn như con gà, con vịt, con chim, con cá sấu đẻ trứng rồi trứng mới nở thành con gà..Thấp sinh là do những cơ cảm, biến đổi của thiên nhiên tạo thành. Thí dụ như con đom đóm là do hợp với khí ẩm ướt của những cây rơm, cây lúa và mưa. Do đó con đom đóm là loài thấp sinh. Còn hóa sinh là hóa hiện để sinh về một cõi tốt lành hơn mà không cần đầu thai vào người mẹ. Thí dụ, ngày xưa trưởng giả Cấp Cô Độc Tu Đạt Đa đã cúng dường tịnh xá Kỳ Viên cho Phật và chư đệ tử nên khi chết được hóa thân vào cung trời Đầu Suất (Tushita) để hưởng phước lợi.
Nhưng nguyên nhân của sự đầu thai như thế nào?
Thật ra chúng sinh trong loài tứ sinh cũng đều do một niệm vô minh mà hình thành. Chúng sinh vì tạo vọng nghiệp nên sau khi chết đi vào thân trung ấm, sắc thân không còn mà chỉ còn ngũ thông nên mắt nhìn thấy rất xa. Do tập khí ái nhiễm nên thần thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu, cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi chiêu cảm cảnh ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình thành.
Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. Bây giờ “tưởng” bám vào tinh cha huyết mẹ mà lập thành chấp ngã. Do “nghiệp ái làm nhân, cảnh ái làm duyên” mà ở trong thai bảy ngày nên gọi là yết-ma-lam. Được hai tuần thì bào thai gọi là Át-bồ-đàm. Ba tuần thì gọi là Tế-thi. Kiện nam là bốn tuần và Bát-la-xa là hình thể khoảng 35 ngày. Sau 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ.
Nói tóm lại, tùy theo nghiệp đã tạo mà cảm ứng sinh vào một trong bốn loài : thai, noãn, thấp và hóa. Đó là theo nghiệp mà lưu chuyển và do dòng nước ái ân yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Nếu hấp dẫn đồng nghiệp thì tác hợp với phôi. Phôi lớn thành thai rồi dần theo thời gian mà lục nhập, xúc, thọ, ái…được phát triển. Vì vậy thai sinh là do nhân tình mà có. Noãn sinh là do tưởng (niệm) mà sinh nghĩa là loài thú không có lòng yêu thương như con người mà chỉ có tưởng niệm về dục vọng. Thấp sinh nhờ hợp mà thành và Hóa sinh bởi phân ly mà ứng hiện. Tưởng thì nhẹ nhàng còn tình thì nặng nề. Bởi nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục.

GIÁC KHÔNG SINH MÊ
THẤT ĐẠI DUNG ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ TRỞ NGẠI

I- Giác không sinh mê:
- Phú Lâu Na! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng rồng. Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại cũng như gỗ đã đốt thành tro, tro không thể hoàn nguyên thành gỗ được.
- Phú Lâu Na! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp mắc các hiện tượng hữu vi.
=> Và cũng không có việc Như Lai sanh lậu hoặc trở lại.
II- Chỉ các Đại có thể dung nhau
- Phật bảo: Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau.

- Phú Lâu Na! Ví như hư không, không thể của nó vốn không phải hình tướng, nhưng nó không chống đối các tướng phát huy trong nó. Phú Lâu Na! Bầu hư không vô cực kia, hễ mặt trời soi thì sáng, mây ùn thì tối, gió lay thì động, trời tạnh thì trong, hơi đọng thì đục, bụi nổi thì mù, nước lặng thì lóng lánh. Phú Lâu Na! Ông hiểu thế nào? Các tướng hữu vi sai khác dường ấy. Vậy nó nhân những cái đã có kia mà tự sinh hay nhân hư không mà có? Phú Lâu Na! Nếu bảo rằng do những cái kia tự sanh, vậy khi mặt trời soi, mặt trời sáng thì mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không lại còn thấy mặt trời tròn? Nếu bảo rằng hư không sáng thì hư không tự soi lấy, cớ sao giữa lúc đêm mây mù không có ánh sáng soi? Vậy nên biết rằng : Cái sáng không phải mặt trời, không phải hư không, nhưng không ngoài hư không và mặt trời.
=> - Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng : Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn : “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong…cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.
=> Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậy mà Như Lai dạy : ”Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh không chơn sắc…Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình.
=> Tất cả vạn pháp trong thế gian hay tứ đại nói riêng đều là pháp giới tánh, đều là bản tánh chân như trong Như Lai Tạng. Mà đã là pháp giới tánh thì bao trùm khắp cả thì làm sao lại không dung được nhau.
=>>>Thật tánh của tất cả sắc, thủy, hỏa, phong là không nên trong chơn không các đại dung nạp nhau rất tự tại. Nhưng một khi nhân duyên xuất hiện thì từ trong chơn không mà diệu hữu một cách nhiệm mầu để biến thành sắc, thủy, hỏa, phong. Chơn không, pháp giới tánh thì lúc nào cũng bản nhiên thanh tịnh, nhưng pháp giới tánh duyên khởi trùng trùng vô cùng vô tận. Mỗi khi có tâm niệm thì pháp giới tánh cũng duyên theo tâm niệm ấy mà thay đổi. Nếu chúng sinh tâm niệm nước thì pháp giới tánh duyên ra thành nước. Nếu bây giờ chúng sinh tâm niệm về gió thì pháp giới tánh duyên ra thành gió. Nếu tâm niệm tất cả thì pháp giới tánh duyên ra tất cả đầy đủ đất, nước, gió, lửa. Trong hư không thì không thấy gì cả, mà thật ra cũng chính cái hư không này ngầm chứa đầy đủ các đại.
- Thí dụ như trong cái bầu trời này, nơi nào cũng có lửa, nơi nào cũng có gió, nơi nào cũng có nước, nơi nào cũng có sắc. Chúng dung nạp, nương tựa vào nhau và chỉ xuất hiện khi nào chúng sinh có tâm niệm cần đến nó mà thôi. Hiện tượng này là bất biến tùy duyên. Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới xuất hiện. Các đại cũng thế, nếu chúng sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì các đại này sẽ dần dần xuất hiện.
CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” (KHÔNG LÀ) VÀ “TỨC” (TỨC LÀ) CHỈ VỀ TRÁI VỚI GIÁC TÁNH, HỢP VỚI TRẦN TƯỚNG
- Phật bảo: Phú Lâu Na! Do nhận thức đánh giá của ông về Sắc Không của Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng theo cái nhận thức của ông mà có Sắc Không khắp cùng pháp giới. Vậy nên ông thấy gió thì động, hư không thì tịnh, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Ông và tất cả chúng sinh mê lầm, sống trái với giác tánh mình mà hợp với trần tướng cho nên sanh khởi cái nhận thức trần lao. Do đó có các tướng thế gian đối tượng.
CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỚI NHƯ LAI TẠNG
- Phật bảo: Phú Lâu Na! Như Lai sử dụng tánh giác diệu minh không sai lầm nhận thức, không đánh giá điên đảo. Như Lai Tạngtánh giác diệu minh khắp trùm pháp giới. Vậy nên đối với Như Lai: Một là tất cả, tất cả là một. Trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, ngồi tại đạo tràng bất động mà như ở khắp mười phương. Một thân mà trùm cả hư không vô tận, đầu một mảy lông mà hiển hiện ra vô vàn cõi Phật. Ngồi trong vi trần bé bỏng mà vận chuyển đại pháp luân, diệt hết nhận thức sai lầm trần tướng, sống hợp với giác tánh cho nên Như Lai nhìn đâu cũng là tánh chơn như sáng suốt nhiệm mầu.
CHỈ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” (KHÔNG LÀ) TẤT CẢ
- Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn
. Tuy nhiên, nó không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.

CHỈ NHƯ LAI TẠNG “TỨC” (LÀ) TẤT CẢ
Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh cho đến là lão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.

* Tham khảo thêm giảng về mục này của HT Tuyên Hóa giảng: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II

THỂ VÀ DỤNG: TÙY DUYÊN BẤT BIẾN - BẤT BIẾN TÙY DUYÊN

Khi ra biển ngắm những làn sóng lặn hụp lên xuống thì “sóng “là” nước hay sóng “không là” nước? Nếu nói sóng và nước thì chắc chắn sóng và nước là hai tức là sóng “không là” nước. Còn nếu nói rằng nếu sóng mà không có nước thì làm gì có sóng do đó sóng “là” nước và nước “là” sóng. Như vậy sóng là hiện tượng của nước và nước là bản thể của sóng, tuy hai nhưng mà một bất khả phân ly. Khi động (có gió) thì nước nổi thành sóng, nhưng khi tịnh (gió tan) thì sóng trở về với thể tánh yên tịnh của nước vậy thôi. Như Lai Tạng cũng vậy, là bất tức bất ly bởi vì Tạng là tổng thể trùm chứa tất cả mọi nguyên nhân và kết quả của sự vật hiện tượng. Còn Như Lai là thường hằng bất biến, nhưng trong cái thường hằng bất biến này lại tùy duyên mà phát sinh ra muôn sinh vạn vật. Đó là bất biến mà tùy duyên. Thí dụ, trong thế gian này nơi nào cũng đều có đất tức là dạng của địa đại, nhưng cũng từ đất này mà tùy duyên tạo thành nhà cửa, chén đĩa, lâu đài, thành quách….nhưng một ngày nào đó thì những sự tướng kia cũng theo thời gian mà biến đổi và cuối cùng cũng trở về lại với đất. Đây là tùy duyên mà bất biến vậy. (Nguồn: Xem mục Dùng Phật nhãn nhìn lên .... - Cư sỹ Lê Minh Tùng)
Nguồn: Phật thuyết Tứ đại tương tục - Cư sỹ Lê Minh Tùng
MỤC HỎI ĐÁP VỀ TỨ ĐẠI
+ Đại chủng là bốn giới - Tức đất, nước, lửa, gió - Khả năng và tính chất

- Luận: Đất, nước, gió, lửa có khả năng gìn giữ các tính chất riêng của mình và các sắc pháp được chúng tạo thành (sở tạo sắc) vì thế gọi là giới. Bốn giới này được gọi là đại chủng vì chúng làm chỗ dựa cho tất cả các loại sắc khác và vì thế tính vốn rộng khắp; hoặc vì đại chủng đất, nước, v.v., tập trung với số lượng lớn trong đất, nước, v.v., hoặc vì khởi đủ các loại tác dụng lớn.
- Hoạt động tương tác - Tạo nghiêp: Theo thứ tự trên, chúng có thể trì giữ, kết dính (nhiếp), làm chín và làm tăng trưởng.
* Địa giới có khả năng trì giữ, thủy giới có khả năng kết dính, hỏa giới có khả năng làm chín và phong giới có khả năng làm tăng trưởng. Nói “tăng trưởng” có nghĩa là làm chuyển dịch (prasarpaṇa) và lớn mạnh (vṛddhi).
* Các tính chất bốn Đại: cứng, ướt, nóng, động. Địa giới có tính cứng, thủy giới có tính ướt, hỏa giới có tính nóng, và phong giới có tính động. Nhờ vào tính chất động này mới có thể dẫn dắt đại chủng tạo sắc tương tục sinh khởi đến các chỗ khác; cũng giống như trường hợp của ánh đèn. Phẩm Loại Túc luận (Prakaranas) và Khế kinh (Garbhāvakrantisūtra) nói: Phong giới là gì? - Là tính chất nhẹ nhàng (laghutva). Phẩm Loại Túc luận lại nói: “Tính chất nhẹ nhàng này là một sở tạo sắc.” Vì thế một pháp có tính động (iraṇātmaka) là phong giới; tức ở đây đã dựa vào tác dụng động (iraṇātmakrman) để trình bày thể tính cho nên mới nói là “nhẹ nhàng”.
+ Những khác biệt giữa đại chủng đất, v.v., là gì? Đáp: Đất là hiển và hình; Tùy thế tục đặt tên; Nước, lửa cũng như vậy; Gió là phong giới cũng là hiển sắc và hình sắc.
- Luận: Địa là màu sắc và hình dạng, có sắc xứ làm thể, thế gian gọi như vậy. Bởi vì thế gian khi chỉ cho nhau xem đất đều dựa vào màu sắc và hình dạng của nó. Về nước và lửa cũng vậy.
+ Gió chính là phong giới, vì thế gian căn cứ vào sự chuyển động để gọi tên hoặc giống như trường hợp của đất v.v. Ở đây cũng tùy theo cách gọi của thế gian nên gọi là gió. Gió chính là màu sắc và hình dạng vì thế mới nói là “cũng như vậy” (diệc dĩ).  Như thế gian nói “gió đen,” “gió xoáy,” v.v., tức đã dựa vào màu sắc và hình dạng để chỉ cho gió.
+ CHỈ RÕ SỰ RÀNG BUỘC VÀ SIÊU THOÁT CỦA THẾ GIỚI CHÚNG SINH. Nguồn gốc con Số 12 = 3 x 4
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. Đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3=12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Xem mục Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ... - Cư sỹ Lê Minh Tùng)
Nguồn Tất cả nội dung trên đều ở trang (Nguồn: Xem mục Chương 7 - Phật thuyết các Đại vốn không ngăn ngại ...- Cư sỹ Lê Minh Tùng)
+ Nguồn: Phần 1: Phân biệt các Giới: Đại chủng bốn giới - Tứ đại: Đất nước Gió Lửa; Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh

+ Trụ vào, polarize or centrehimself – ASCLH, 251)
+ Khi bạn dùng thuật ngữ: “một người trụ vào (polarized) trong thể cảm dục của mình”, là bạn thực sự muốn nói người đó có Chân Ngã hoạt động chính yếu thông qua hiện thể này. (LVHLT, 112)
+ Tính chất an trụ (polarity) cho thấy độ thông thoáng của vận hà. Tôi xin giải rõ. Chân ngã của kẻ thường nhân có trú sở ở phân cảnh thứ ba của cõi trí. Nếu một người có thể cảm dục phần lớn cấu tạo bằng vật chất thuộc phân cảnh (cõi phụ) thứ ba của cõi cảm dục còn thể trí hầu như được tạo bằng vật chất ở phân cảnh thứ năm của cõi trí thì Chân Ngã sẽ tập trung nỗ lực vào thể cảm dục. Nếu người ấy có thể trí cấu tạo bằng chất liệu của phân cảnh thứ tư và thể cảm dục cấu tạo bằng chất liệu của phân cảnh thứ năm, thì sự an trụ (polarization) sẽ ở thể trí.
– Khi bạn nói Chân Ngã kềm chế con người nhiều hay ít là thật ra bạn muốn nói rằng người đó đã kiến tạo các thể của mình bằng chất liệu ở các phân cảnh cao. Chân Ngã chỉ kiểm soát một cách đáng kể chỉ khi nào con người hầu như hoàn toàn loại bỏ được chất liệu của các phân cảnh thứ 7, thứ 6 và thứ 5 ra khỏi các thể của mình. Khi y đã kiến tạo với một tỷ lệ nào đó chất liệu thuộc phân cảnh thứ tư thì Chân Ngã mở rộng được sự kiểm soát của Chân Ngã. Khi có được một tỷ lệ nào đó chất liệu của phân cảnh thứ ba thì lúc đó con người bước chân lên Thánh đạo. Khi chất liệu thuộc phân cảnh thứ hai vượt trội thì bấy giờ con người được điểm đạo, và khi chỉ có chất liệu nguyên tử (atomic substance) (phân cảnh I – ND) thì con người trở thành một Chân Sư. Do đó, con người ở trên phân cảnh nào là điều rất quan trọng và việc nhận biết được sự an trụ của y sẽ minh giải được kiếp sống. (LVHLT, 112–113)
- An trụ (polarise) tức là tập trung (focus). (ĐĐKNM II, 428)

+ Bảy nguyên khí: Cũng chú ý chức năng của các Thượng Đế trong việc ban cấp cho con người các nguyên khí của y, biểu lộ (objectivity) vốn cần đến sự hiện hữu của cả ba. Trong lúc biểu lộ, chúng ta có thể xem các nguyên khí như sau (GLBN I, 308):
264 Nguyên khí 1 …. Phạm vi biểu lộ, Chân thần noãn (monadic egg).
Nguyên khí 2 ….. Atma …… Ý chí
Nguyên khí 3 ….. Buddhi ….. Lý trí thuần tuý, minh triết
Nguyên khí 4 …. Manas ….. Trí thuần tuý, thượng trí
Nguyên khí 5 ….. Manas ….. Hạ trí (lower mind)
Nguyên khí 6 …. Trí cảm (Kama-manas)
Nguyên khí 7 ….. Cảm giác thuần tuý hay xúc cảm
Đây là các nguyên khí đối với tiểu thiên địa coi như đã vượt trên tất cả các thể hồng trần và như thế bảng biểu này hoàn toàn có liên hệ với sự sống bên trong hay là sự phát triển của tâm hay linh hồn .
Điều này phải được ghi nhớ kỹ, nếu không sẽ có sự lầm lẫn. Trong bảng liệt kê trên, chúng ta đã bàn đến nơi đây về khía cạnh chưa biểu lộ chớ không phải đến sắc tướng. Do đó, chúng ta đã xem xét :
a. Tính chất biểu lộ thất phân …… hình hài vật chất.
b. Tính chất chưa biểu lộ thất phân …… tiến hoá tâm linh.
c. Tính chất tâm linh thất phân …… sự sống của Thực Thể .
Chúng ta cũng sẽ ghi nhận rằng trong bảng biểu trên về sự sống tâm linh của Chân Thần, chúng ta xem nó là năm phần. Điều này rất cần trong cuộc tiến hoá có 5 phần này, nhưng 2 nguyên khí còn lại có thể được xem như :
7. Thể dĩ thái ………….....….. 1. Thể sinh lực (vital body).
6. Sinh khí thể (Prana) …......... 2. Sinh lực (vital force).
5. Cảm dục thể (kama manas).. 3. Trí dục vọng (desire mind).
1 Liệt kê các nguyên khí. GLBN II, 627, 631.
Nguyên khí 1…….. Nhục thân. Sthula sharira.
Nguyên khí 2 ….… Thể dĩ thái. Linga sharira.
Nguyên khí 3 …….. Prana. Năng lượng sinh động
Nguyên khí 4 …… Kama rupa. Năng lượng của dục vọng.
GLBN I, 136. (Đây là 4 nguyên khí thấp).
Nguyên khí 5 … Manas Năng lượng của tư tưởng Nguyên Khí giữa GLBN II, 83, 84, 332, 669.
Nguyên khí 6…. Buddhi. Năng lượng bác ái. GLBN II, 649, 676
Nguyên khí 7…. Atma. Nguyên khí tổng hợp GLBN I, 357, 201
Xem GLBN III, 201, chú thích
a. Buddhi là hiện thể đối với Atma
b. Manas là hiện thể đối với buddhi.
c. Kamarupa là hiện thể đối với manas. GLBN II, 131
d. Thể dĩ thái là hiện thể đối với prana.
Cũng nên nhớ :
Rằng thể xác (physical body) không phải là một nguyên khí GLBN II, 652, III, 652.
Rằng Linh thể (Atma) không phải là một nguyên khí.
GLBN III, 62, 63, 293.
(Các liệt kê khác, dị biệt ở một số đặc điểm sẽ thấy trong : GLBN I, 177, 181, 685. II, 669. III, 476, 560. Cái sau vẫn còn nội môn).
4. Hạ trí (lower mind)……... 4. Trí cụ thể (concret mind).
3. Thượng trí (Manas)………5. Thượng trí hay trí trừu tượng
2. Tuệ giác thể (Buddhi) ….. 6. Minh triết, mãnh lực Christ,
trực giác.
1. Linh thể (Atma) ................ 7. Ý chí tinh thần
Đây là bảng liệt kê thấp nhất cho kẻ ít tiến hoá hiện giờ.

+ Nguyên khí - Principle:
Có một số dịch giả dịch sách Chân Sư là Nguyên Lý, điều này không hợp lý.
– Các lớp vỏ (sheaths) và các hiện thể (vehicles) chỉ là các thể biểu lộ (bodies of manifestation) của vị đệ tử trên các cõi (planes) khác nhau của Thái Dương Hệ, và các lớp vỏ này phải thể hiện (express) cho cái nguyên khí vốn là đặc điểm hay tính chất nằm dưới mỗi cõi. Thí dụ 7 nguyên khí có liên quan tới con người là:
1. Prana .... Năng lượng... Thể .... Cõi (sinh khí)... sinh động ... dĩ thái hồng trần
2. Kama .... Dục vọng, ..... Thể ... Cõi cảm giác  ...cảm dục    ...  cảm dục
3. Manas ........ Trí ............ Thể ... Cõi trí thấp   ...  cụ thể   .........   hạ trí
4. Manas ........ Trí ............. Thể... Cõi trí cao    ...   trừu tượng ... Chân Ngã
5. Buddhi ....... Trực .......... Thể.... Cõi giác     .....    trực giác  .....   Bồ Đề
6. Atma ....... Ý chí .... .... Linh thể ... Cõi tinh thần
Niết bàn Và cái tương ứng với “nguyên khí bất biến vô giới hạn” (boundless immutable principle” trong đại vũ trụ (macrocosm) tức là Chân Thần (trên cõi riêng của Chân Thần) tạo thành nguyên khí thứ 7 (seventh principle). Có những cách khác để liệt kê các nguyên khí vì Subba Rao đúng ở một phương diện khi ông ấy cho rằng chỉ có 5 nguyên khí. Hai cái cao nhất, tức Atma và sự sống Chân Thần (life monadic) không phải là nguyên khí chút nào. (ASCLH, 74)

+ Sự ràng buộc vào hình hài hay là sự thu hút của hình hài đối với Tinh thần là sức thôi thúc to tát của tiến hóa giáng hạ. (ASCLH, 139)
+ Ham muốn cuộc sống hữu tình một cách mãnh liệt chính là sự ràng buộc. Nó có sẵn trong mọi hình hài, nó tự tồn tại (self–perpetuating), và thậm chí người rất sáng suốt cũng biết đến nó.
Hình thức ràng buộc này là nguyên nhân cơ bản của mọi biểu lộ. Nó có sẵn trong mối liên hệ của hai đại đối hợp: tinh thần và vật chất. Nó là yếu tố chi phối trong biểu lộ của Thượng Đế, và đây là lý do giải thích tại sao ngay cả “kẻ rất sáng suốtcũng lệ thuộc nó. Hình thức ràng buộc này là khả năng tự sinh tự tồn. Cần nên nhớ rằng việc khắc phục khuynh hướng này, ngay cả khi được vị cao đồ xúc tiến đến giai đoạn cao nhất cũng chỉ là việc khắc phục tương đối thôi. Bao giờ mà Thái Dương Thượng Đế của chúng ta hay là Tinh thần Tuyệt Đối còn lâm phàm qua một Thái Dương Hệ thì khuynh hướng này sẽ còn hiện hữu trong vị Tinh Quân Hành Tinh cao cả nhất và trong Thực Thể Tâm linh cao siêu nhất. Để khắc phục sự ràng buộc hay là diệt dục, tất cả những gì có thể làm được là phát triển năng lực làm cân bằng các cặp đối hợp trên bất cứ cảnh giới đặc biệt nào, sao cho người ta không còn bị các hình tướng của cảnh giới đó nắm giữ được nữa, và như thế mới có thể tách ra được. (ASCLH, 137)
+ Cần có sự cân bằng: Vì thế, mọi thứ sẽ rõ ràng cho người môn sinh minh triết thiêng liêng cẩn thận rằng:
1/ Phương diện Quyền Lực - Cung 1, Các cõi giới 1 và 5, và những Quy Luật về Cố Định và Rung Động, tạo thành một khối liên kết nhau.
2/ Phương diện Tình Thương - Cung 2, Các cõi giới 2, 4, 6, và những Quy Luật về Gắn Kết, Điều Khiển Điện Từ, và Tình Yêu Thương, tạo nên một đơn vị khác.
3/ Phương diện Hoạt Động—Cung 3, Các cõi giới 3 và 7, và các Quy Luật về Phân Rã, Hy Sinh và Chết, tạo nên một nhóm khác nữa.
5. Những ví dụ thêm— Further examples
+ Trong đời sống này, rung động chính của bạn chạy theo dòng 2-4-6, tạo nên sự tăng cường những phẩm chất cung thứ hai của bạn và biểu thị cho nhu cầu cần có một yếu tố cân bằng nào đó. Tuy nhiên, sự khó khăn sẽ được trợ giúp và vấn đề sẽ được hỗ trợ hướng đến giải pháp bởi sự kiện rằng cơ thể vật chất của bạn thuộc cung bảy, nó đem đến rung động của dòng năng lượng 1-5-7. Điều này là một hỗ trợ rất lớn cho bạn. Trên cõi hồng trần, vì thế, bạn có nhiệm vụ cân bằng sự vượt trội của các thuộc tính, phẩm chất và nhịp điệu của cung hai. (NĐTTKNM/ DINA I, 666)
+ Điều cần lưu ý tiếp theo là các cung phàm ngã - chỉ với một ngoại lệ - là các cung trên dòng 1- 3- 5- 7, cho ta thấy từ đó khuynh hướng bảo tồn cân bằngbù trừ lại sự điều khiển mạnh mẽ của dòng 2- 4- 6. Tôi muốn từ cân bằng này ở nhiều trong tâm trí của bạn khi bạn nghiên cứu công việc của Ashram (cộng đồng tu học) và nhóm tương quan lẫn nhau. Chỉ có người cân bằng mới có thể thật sự đáp ứng được nhu cầu của những người tin tưởng anh ta giảng dạy và có thể quản lý được với minh triết hai dòng của mãnh lực tổng hợp được hợp lại trong mỗi quá trình giảng dạy. Hai dòng này [Trang 178] là năm dòng năng lượng tạo nên thiết bị của người thầy giáo và những gì tạo nên thiết bị của người được dạy (người học). (NĐTTKNM/ DINA I 177)
+ Một trong những điều thú vị cần lưu ý (khi một người nghiên cứu khuynh hướng cung của bạn) đó là tất cả ba thể thấp của bạn ở trên dòng 1- 3- 5- 7, nhưng cung phàm ngã của bạn thuộc cung 6, trên dòng 2- 4- 6. Tại sao nó lại như vậy? Lý do đó là sự điều khiển của linh hồn bạn trong kiếp sống này có đủ quyền lực để gợi lên một phản ứng trên tất cả ba thể thấp của phàm ngã, và cung phụ thứ 6 của những cung thống trị của ba thể đó hoạt động tích cực đến nỗi nó trở thành một nhân tố chủ yếu. Vì thế bạn có một cung sáu phàm ngã. (NĐTTKNM/ DINA I 428)

+ Lâm phàm (Incarnation): Với nghĩa gốc của nó, từ ngữ “lâm phàm” truyền đạt chân lý căn bản có liên quan đến việc khoác lấy một thể xác trọng trược, còn về mặt chuyên môn, chỉ nên áp dụng cho giai đoạn biểu lộ có liên quan đến ba cõi phụ thấp của:
a/ Cõi hồng trần vũ trụ, liên quan đến một Thái Dương Thượng Đế và đến một Hành Tinh Thượng Đế.
b/ Cõi hồng trần Thái Dương Hệ, liên quan tới con người. (LVLCK, 732)
+ Lâm phàm trực tiếp (Direct incarnation): Phương pháp trực tiếp lâm phàm sẽ được một số Chân Sư và đạo đồ sử dụng qua tiến trình: 
a/ Sinh ra trên cõi trần (physical birth). 
b/ Chiếm lấy một thể thích hợp (appropriation of a suitable vehicle). 
c/ Trực tiếp sáng tạo bằng một tác động của ý chí. Cách này sẽ ít được dùng. (LVLCK, 758)

+ Chủ Tinh/ Hành Tinh Cai quản Cung Hoàng đạo có 3 mức: Công Truyền - Bí truyền - Huyền Giai
+ Chủ tinh công truyền: + Esoteric Astrology đức DK có danh sách các Chủ Tinh Nội Môn và Chủ tinh Huyền Giai áp dụng cho các đệ tử và điểm đạo đồ. - Là sự cộng hưởng. Những phẩm chất của dấu hiệu hoàng đạo tương tự hoặc hợp tác với những phẩm chất của một hành tinh cụ thể. Bằng cách này, những phẩm tính của dấu hiệu hoàng đạo đi vào hệ mặt trời của chúng ta thông qua môi giới của hành tinh có phẩm chất phù hợp với phẩm chất của dấu hiệu hoàng đạo đó.(Chiêm THNM 17)

+ Chủ tinh/ Hành tinh Cai quản Lá số chiêm tinh: Xem cung Mọc của bạn. Hành tinh cai quản Cung Mọc là hành tinh chủ quản/ Chủ tinh lá số của bạn. Ví dụ, nếu Xử Nữ là Cung Mọc - Thuỷ tinh quản Lá số. Nếu Nhân Mã là Cung Mọc - Sao Mộc chủ tinh lá số. Bây giờ hãy lưu ý cẩn thận hành tinh cai quản lá số của bạn (chủ tinh của lá số) ở cung nào, nhà số mấy. Vị trí của nó có ảnh hưởng lớn trong cuộc sống của bạn và nhuộm màu cá tính của bạn tới một mức độ rộng lớn. Bạn hãy chắc chắn tìm ra chủ tinh của bạn và kiểm tra vị trí của nó trong lá số của bạn. Đây là đầu mối quan trọng khi diễn giải một lá số.(Nguồn: CTH ngoại môn 4) - Ngoài ra còn Chủ tinh Cung Mặt Trời, Cung Mặt Trăng đều có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực nó cai quản.

+ Đại Vũ trụ hay Tứ Linh Diệu: Biểu lộ hợp nhất của cả 3 đấng: Nhất - Nhị - Tam nguyên này (LVLCK, 56)
* Cần phân biệt giữa các thuật ngữ
a. Đại Vũ Trụ: Chủ đạo nói về năng lượng vũ trụ nguyên sơ ở các cõi cao, chưa phân hóa xuống thấp đến mức được xem là Vật chất, mà vẫn gữ nguyên phẩm TINH THẦN. Thường nói đến năng lượng chưa đến các Thái Dương Hệ.
b. Đại Thiên Địa: Chủ đạo nói về năng lượng vũ trụ đã phân hóa thấp xuống được xem là Vật chất, mà phẩm tính Tinh thần xem như không còn. Thường nói đến các nguồn thần lực đã đến và truyển chuyển trong phạm vi các Thái dương hệ
+ Tứ Linh Diệu (LVLCK, 56):
- Cha - Mahadeva- T.Đế Ngôi 1 - Ý chí Tinh thần
- Con  - Vishnu - T.Đế Ngôi 2 - Bác ái Minh triết
- Mẹ  - Brahma - T.Đế Ngôi 3 - Trí tuệ Hoạt động
* Tứ Linh Diệu: Biểu lộ hợp nhất của cả 3 đấng Nhất - Nhị - Tam nguyên này
* Thái Dương Thượng Đế (TDTĐ)- Một Đấng Vũ Trụ Vĩ Đại, Ngài lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian là một Thái Dương Hệ - Là biểu lộ của năng lượng và sự sống của TDTĐ.
+ Đại Vũ Trụ và Tiểu Vũ trụ: Tiểu vũ trụ là một vũ trụ nhỏ, như một con người, trong khi Đại vũ trụ là một thực thể rộng lớn đang biểu hiện, như một thái dương hệ. Luật tương ứng giúp xác định những điểm tương đồng giữa cuộc sống và những gì cao xa hơn ở cấp hành tinh, thái dương hay vũ trụ.
- Trên sao, Dưới vậy: Vũ trụ là một THỰC THỂ vĩ đại, đang sống và thở. Trong khi đó chúng ta chỉ là nguyên tử bé nhỏ bên trong cái Toàn thể này. Câu nói cổ “trên sao, dưới vậy” bao giờ cũng đúng, và cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.
+ Có sự Tương ứng/ Tương đồng giữa Tiểu Vũ Trụ - Đại Vũ Trụ
+ Một Thái Dương Thượng Đế có hiện thể là 7 hệ thống hành tinh, có không gian là 3 cõi vũ trụ. (LVLCK, 293)
+ Chân Sư DK dạy, nghiên cứu Đại vũ trụ gồm các nội dung :
1. Nghiên cứu những định luật về điện, Vũ trụ lực (Fohat), Sinh lực (Prana),Ánh sáng tinh giới.
2. Nghiên cứu thiên văn học và chiêm tinh học.
3. Nghiên cứu vũ trụ khởi nguyên học nội môn.
4. Nghiên cứu các đẳng cấp nhân loại.
5. Nghiên cứu trường tiến hóa thiên thần.
6. Nghiên cứu các định luật của thái dương hệ.
7. Nghiên cứu thần giao cách cảm, sự sáng tạo của trí tuệ và khoa trắc lượng tâm lý. (Nguồn: Nghiên cứu Đại vũ trụ)

- Đại Vũ Trụ và Tiểu Vũ trụ: Tiểu vũ trụ là một vũ trụ nhỏ, như một con người, trong khi Đại vũ trụ là một thực thể rộng lớn đang biểu hiện, như một thái dương hệ. ĐLTU giúp xác định những điểm tương đồng giữa cuộc sống và những gì cao xa hơn ở cấp hành tinh, thái dương, vũ trụ.
- Trên sao, Dưới vậy: Vũ trụ là một THỰC THỂ vĩ đại, đang sống và thở. Trong khi đó chúng ta chỉ là nguyên tử bé nhỏ bên trong cái Toàn thể này. Câu nói cổ “trên sao, dưới vậy” bao giờ cũng đúng, và cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.
+ Tương ứng/ Tương đồng giữa Tiểu Vũ Trụ
- Đại Vũ Trụ
   Ý chí .........  Bác ái  .... Thông tuệ

Chòm Đại hùng     Sirius        Pleiades
Cung 1                 Cung 2       Cung 3
Ý chí                    Bác ái/       Thông tuệ/ và Quyền lực     
Minh triết    Linh hoạt     Shamballa    H.Giai T.thần   Nhân loại Tinh thần/  Linh hồn    Phàm nhân Chân thần Atma               Bồ-đề            Manas Cõi trí           Cõi cảm dục    Cõi trần Thể trí         Thể cảm dục     Thể xác

Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo
Xem: Trang tổng hợp thống kê tương ưng số
Xem: Trang tổng hợp tương ứng đối ứng

+ Đọc kinh chỉ nên đọc bộ Kinh Vô Lượng Thọ, hoặc là Kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ là cùng một bản, một kinh gọi là đại bổn, còn một kinh gọi là tiểu bổn. Văn tự có ít nhiều không giống nhau, nghĩa lý hoàn toàn tương đồng, cho nên thuộc về đồng bộ. Nhưng Kinh Vô Lượng Thọ nói tường tận, Kinh Di Đà nói đơn giản. Tường tận có ưu điểm, giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín, kiên định tín nguyện, có được ưu điểm này. Đọc, mỗi ngày phải đọc kinh văn, coi việc đọc kinh văn như khóa tu cần thiết của chúng ta, khóa tụng sáng và tối.
- Thực Hành Tín nguyện:
“Trong Di Đà Yếu Giải lấy ghét bỏ Ta bà, vui cầu Cực Lạc làm nguyện”, nguyện này là gì? Là nguyện sanh Tịnh độ. “Lại lấy tín nguyện trì danh làm nhất thừa nhân nhân”, tôi nguyện đi, nhưng đi như thế nào? Tín, nguyện, trì danh quý vị sẽ đi được. Trong đời này của chúng ta chỉ làm ba việc này. Làm ba việc này thông thường nói, Phần tử tri thức đọc kinh là quan trọng, nhất định phải bắt đầu từ việc đọc kinh, không có căn bản này, tín nguyện không kiên cố. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)

+ Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ Định nghĩa Akasha: Tinh tú quang hay Linh hồn vũ trụ; cái Khuôn của vũ trụ; Bí Nhiệm Huyền Linh từ đó mọi vật vốn hiện tồn được sinh ra do sự phân ly hay biến phân. (Xem phân biệt: Tinh tú quang và Cảm dục quang)
+ Akasha - 8 danh xưng khác:
1) Vật chất nguyên thuỷ ....Tinh tú quang
2) Dĩ thái nguyên thuỷ  ..... Biển lửa
3) TT N.Thuỷ mang điện ... Điện năng
4) Akasha  ....................   Prakriti
5) Siêu tinh quang .......... Vật chất N.Tử
6) Hoả xà  ...................... Tà xà
7) Mulaprakriti  ..... Dĩ thái với 4 tiểu phân: là Phong, hoả, thuỷ, địa
8) Vật chất tiền căn nguyên (LVLCK, 58)
+ Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ Đại: Phong, Hỏa, Thủy, Địa. (LVLCK, 43)
+ Chất liệu nguyên thủy: Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí, là Chất liệu Vũ trụ tức Vật chất. Vật chất, tức là Đầu và Cuối của hiện tồn, chỉ là 2 phương diện của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất. (GLBN II, 39)
+ Tiên thiên khí (Akasha) (LVLCK, 43):
- Là tổng hợp của dĩ thái (ether).
- Là Nguyên thể (tính chất) của dĩ thái.
- Là dĩ thái nguyên thủy.
- Là Thượng Đế Ngôi 3 đang biểu hiện.
+ Với Nội Tại - Cung nguyên thủy biểu lộ ra Lửa hoạt nhiệt. Trên cõi cao nhất, sự phối hợp của 3 yếu tố (hoạt nhiệt, tiềm nhiệt và chất liệu nguyên thuỷ mà chúng làm cho linh động) được biết dưới dạng thức ‘biển lửa’, trong đó Tiên thiên khí (akasha) là biến phân thứ nhất của vật chất tiền căn nguyên.(LVLCK, 57)
+ Dĩ Thái: Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Tiên Thiên Khí (Akasha). (GLBN I, 78)
+ DĨ THÁI KHÔNG GIAN - NƯỚC CỦA KHÔNG GIAN - Ether Chúng ta đã tạo ra một thuật ngữ mà chúng ta gọi là dĩ thái (ether). Nói theo huyền linh học, đây là cách hiện đại để diễn đạt “nước của không gian (“waters of space”), vốn là khối nước của ham muốn (waters of desire), mà chúng ta bị chìm ngập trong đó. Nó lên xuống liên tục và là luồng sự sống, được tạo thành với 49 loại năng lượng, đang tuôn đổ qua hoa sen chân ngã vũ trụ, và (tỏa ra từ nó) cung cấp theo mức độ của nó để nuôi dưỡng hình tướng – thuộc thái dương, thuộc hành tinh, hoặc thuộc con người − mà nó chịu trách nhiệm. Điều này được bàn đến trong bộ sách “Luận Về Lửa Càn Khôn”. (LVHLT, 275)
+ Dĩ thái: Trong và qua Dĩ thái của không gian, các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Thể dĩ thái của hành tinh, thái dương hệ và 7 thái dương hệ (Có thái dương hệ chúng ta)... cung cấp môi trường truyền chuyển cho tất cả các năng lượng đang tác động trên và qua thái dương hệ .... Nó chuyển động liên miên không dứt- một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng.
* Dĩ thái không gian, Dĩ thái hành tinh, Dĩ thái trong con người .... mời xem tại (CTHNM, 16)
+ Chất dĩ thái sẽ hoàn toàn thấy được đối với nhiều người vào cuối thế kỷ (XX-ND) này (LVHLT, 374)
+ Có 4 loại chất dĩ thái của các cõi phụ của Cõi trần (Cõi Hồng Trần Vũ Trụ Biểu Lộ này là 01 biến phân của Cõi Bảy - Cõi Hồng Trần Vũ Trụ, là Cõi thấp nhất của Bảy Cõi Vũ Trụ Hệ thống/ Gốc) (LVLCK, 320, 326):
a. Cõi phụ 1 - Cõi trần (cõi phụ cao nhất) chứa chất dĩ thái thứ 1.
b. Cõi phụ 2 - Cõi trần, chất dĩ thái 2, ánh sáng cõi trần sử dụng làm phương tiện truyền đi.
c. Âm thanh tác động qua Cõi phụ 3 - Chất dĩ thái 3.
d. Màu sắc có liên kết với Cõi phụ 4 - Chất dĩ thái 4. Dĩ thái 4 là chất mà nhờ đó, đa số thể dĩ thái của con người được tạo thành.
+ Dĩ thái lực tức là sinh lực. (TLHNM II, 309)
+ Huyền linh học nhìn nhận có 7 Bản Tố Vũ Trụ, 4 hoàn toàn thuộc về vật chất, bản tố thứ 5, Dĩ Thái, bán vật chất, sẽ trở nên thấy được trong không khí vào cuối Cuộc Tuần Hoàn thứ 4. (GLBN I, 78)
+ Khoa học khám phá Dĩ thái: Còn Vật lý học với các khám phá về quark đã bước vào cõi phụ dĩ thái (etheric) của cõi trần. Trong tương lai, nếu khoa học có thể khám phá ra cách làm việc với các cõi phụ dĩ thái theo cách như hiện nay đang làm việc với thế giới vật lý (ba cõi phụ 5,6,7) thì có lẽ đó là một trong những tiến bộ vĩ đại nhất.
+ Dĩ thái/ Akasha là Prdhna dưới một dạng khác. (GLBN I, 300)
+ Dĩ thái: Là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) trên cõi sự sống Chân Thần, cõi Đại Niết Bàn.
+ Dĩ thái/ Akasha là dĩ thái vũ trụ thứ 2 ở cõi Chân Thần (Cõi Đại Niết Bàn). (LVLCK, 626)
* Xem thêm: Dĩ thái - Tiên thiên khí - Akasha. nhantrachoc
* Xem thêm: Điểm 6 - Quy Luật 5 - CT Con Người 13- Thể Hồng Trần- minhtrietmoi.org

+ Định luật Vật chất (Law of Matter): Chi phối trong ba cõi kinh nghiệm của con người.  (CTHNM, 444)
+ Định luật Tương Tác Hài Hòa
(Có sách dịch là Tiết kiệm hay Vật Chất - Law of Economy_Theo bác Thông Thiên Học): Đây là định luật chi phối sự dàn trải (scattering) của các nguyên tử vật chất và sự tách rời (dissociation) của chúng, sự phân bố (distribution) rộng rãi, tiết tấu rung động, sự bất đồng nhất (heterogeneity) cùng với tính chất và chuyển động quay cố hữu của chúng. Định luật Tiết Kiệm này khiến cho vật chất luôn luôn đi theo đường lối dễ dàng nhất và là nền tảng của tác động phân ly của chất liệu nguyên tử. Nó chi phối vật chất, đối cực của tinh thần. (LVLCK, 215)
+ Định luật Tiết Kiệm (Law of Economy): Định luật này điều chỉnh tất cả những gì liên quan đến sự tiến hóa vật chất và tinh thần của vũ trụ cho có lợi nhất và với việc tiêu phí thần lực ít nhất.
* Định Luật này là 01 trong 03 Định Luật Vũ Trụ
* Bốn Định luật phụ của Định Luật Tiết Kiệm hay Vật Chất là:
1- Định luật Rung Động (Law of Vibration): Liên quan với chủ âm hay mức độ (measure) của vật chất của mỗi cõi. Nhờ biết được định luật  này mà vật chất của bất cứ cõi nào trong bảy biến phân của nó cũng có thể được kiểm soát.
2- Định luật Thích Nghi (Law of Adaption): Là định luật chi phối chuyển động quay của bất cứ nguyên tử nào trên mọi cõi và cõi phụ.
3- Định luật Đẩy (Law of Repulsion): Chi phối mối liên hệ giữa các nguyên tử, nó tạo ra kết quả trong việc không bám vào nhau của các nguyên tử và trong việc chúng hoàn toàn tách rời khỏi nhau; định luật này cũng giữ cho các nguyên tử quay ở các điểm cố định từ các bầu hay hình cầu của đối cực.
4- Định luật Ma Sát (Law of Friction): Chi phối trạng thái nhiệt của bất cứ nguyên tử nào, sự phát xạ (radiation) của một nguyên tử và hiệu quả của việc phát xạ đó trên bất cứ nguyên tử nào khác. (Nguồn: LVLCK, 219)

+ Thể đặc: Chúng ta nên nhớ rằng các Devas Lords (Các Thần: Agni/ Thần Lửa - Varuna/ Thần Nước - Kshiti/ Thần Đất) trong giáo lý công truyền tượng trưng cho trạng thái vật chất của thể đặc của Thượng Đế, trong khi trạng thái lực khi tuôn chảy qua thể dĩ thái của Thượng Đế được xem xét dưới các tên khác nhau, đó là Shiva, Surya, Brahma. Tuy nhiên, 2 trạng thái chỉ là một:
- Thần lửa - Agni:
Tức Hỏa Thần Quân (Thần Chủ Quản về Lửa) trong kinh Veda, Vị Thần cổ nhất và được tôn kính nhất trong số các thần ở Ấn Độ. Ngài là 3 phương diện của Lửa, do đó là toàn bộ của biểu lộ. Ngài cũng được xem như Thần Chủ Quản của cõi trí (cõi thứ 5), biểu tượng của Ngài là Lửa.

- Thần Nước - Varuna: Vị thần của Nước, theo ý nghĩa nước của không gian hay là nước của vật chất. Ngài cũng được xem là Thần Cai Quản cõi cảm dục (cõi thứ 6) biểu tượng của Ngài là nước.
- Thần Đất - Kshiti: Vị Thần của Đất theo ý nghĩa chất đặckhông phảimột thể của hành tinh; Ngài là Thần của cõi trần, cõi thứ 7; (Mục Các Thần theo công truyền - LVLCK, 766)

+ Vật chất và chất liệu (Matter and Substance): Để cho thật chính xác, để cho khỏi lẫn lộn và quan niệm lầm lạc (misconception), nên dùng thuật ngữ:
* “Vật chất” (“Matter) để chỉ tập hợp các vật (objects) có thể tri giác được, còn thuật ngữ
* “Chất liệu” (Substance”) để chỉ Thực Tướng (Noumena). (GLBN II, 42) 
+ Chất liệu nguyên thủy (Primordial Substance, Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí) còn được gọi là Chất liệu Vũ trụ, tức Vật chất (Matter).
- Vật chất, tức là Đầu (Alpha) và Cuối (Omega) của Hiện Tồn, chỉ là 2 phương diện (facets) của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất (the one Absolute Existence). (GLBN II, 39)
+ Vật chất (matter hay material): Vật chất là tinh thần (spirit) ở mức độ biểu hiện (point of expression) thấp nhất. (CTNM, 589)
+ Nói về mặt nội môn, từ ngữ “vật chất” được dành để chỉ mọi hình tướng (forms) trong ba cõi thấp. (CVVTDT, 189)
+ Nên nhớ rằng, đối với nhà huyền linh học (occultist), vật chất (matter) là toàn thể các vật tồn tại (totality of existence) trong vũ trụ vốn có thể tri giác được trên bất luận cõi giới nào. (GLBN II, 238)
+ Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệtmulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và
Khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba/ Ngôi ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ Vật Chất Biểu Lộ (substance):
- Đã biểu lộ là Prakriti.
- Chưa biến phân là Mulaprakriti. (Thư của Chân Sư 379)
Prakriti (Vật chất): Danh xưng này có nguồn gốc do chức năng của nó như là nguyên nhân thuộc vật chất (material cause) của cuộc tiến hóa đầu tiên của vũ trụ. Có thể nói nó được cấu tạo bằng 2 ngữ căn: “pra” là biểu hiện (to manifest) và “krita” là khiến cho (make); có nghĩa là những gì khiến cho vũ trụ tự biểu hiện. (ĐĐTNLVTD, 222)
-  Prakriti (vật chất) bao giờ cũng bị gọi là Hão Huyền (My), Ảo tưởng (Illusion) và có số phận chịu diệt vong (is doomed to disappear) với mọi cái khác, kể cả các thần (the Gods) vào Chu Kỳ Quy Nguyên (Pralaya). (GLBN I, 299)
+ Cõi Vật Chất: Tập hợp các cõi vật chất, tức là cõi hồng trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí (lower mental plane); (GLTNVT, 104)

+ Thượng Đế Ngôi Ba (The Third Logos): Thượng Đế Ngôi Ba tức Toàn Linh Trí (Mahat) hay Thiên Trí Sáng tạo (Divine Creative Intelligence), tức Brahma của Ấn Giáo, Văn Thù (Mandjusri) của Phật giáo Bắc Tông, Chúa Thánh Thần của Thiên Chúa Giáo. (MTNX,  123)
+ Thượng Đế thứ ba hay Brahma, nó được gọi là prakriti, hay vật chất: Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa. Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và Khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
Xem thêm: Cấu tạo con người 2;
Xem: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ

+ Biết bệnh - Cho thuốc: Lành bệnh là thuốc hay - Hợp cơ là pháp diệu.
Tôn giả Xá Lợi Phất có hai vị đệ tử tu hành nhiều năm mà chẳng thành tựu. Xá Lợi Phất hỏi đức Phật là lý do gì ? Đức Phật hỏi : ‘’ Vị đó trước khi xuất gia làm nghề ? ‘’
Xá Lợi Phất đáp: ‘’ Một là thợ bạc, một là xem mộ.’’ Đức Phật nói : ‘’ Nên dạy vị Tỳ kheo thợ bạc tu pháp sổ tức (đếm hơi thở), dạy vị Tỳ kheo xem mộ tu pháp quán xương trắng, như vậy thì có thể thành tựu.’’
Tôn giả Xá Lợi Phất trở về dạy tu theo như thế, không lâu hai vị đều chứng quả. Đó là theo căn tính thích ứng với họ mà thí giáo.
Theo bệnh cho thuốc: Chúng sinh đều có bệnh phiền não, bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh ngu si, vô minh .v.v. Thậm chí có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh. Phật pháp là thuốc thần, người thuyết pháp là bác sĩ. Bác sĩ trước hết phải xem bệnh gì? Sau đó dùng thuốc thích đáng để điều trị. Bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy mới hy vọng thuốc công hiệu chữa lành bệnh. Do đó :
"Thuốc không hay dở, lành bệnh là thuốc hay; Pháp không cao thấp, hợp cơ là pháp diệu".
Gặp chúng sinh căn lành thành thục, thì dạy họ xuất gia tu đạo. Gặp chúng sinh không có căn lành, thì dạy họ trồng căn lành tu phước đức. Gặp chúng sinh đã trồng căn lành, thì dạy họ phương pháp làm tăng trưởng căn lành.
Tóm lại, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục. Đã thành thục khiến cho giải thoát. Cho nên vì chúng sinh thuyết pháp đoạn trừ tâm nghi của họ, mà sinh ra tâm tin, đắc được môn giải thoát không chướng ngại. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Đoán Mệnh - Bốc thuốc trị bệnh - Tu hành: "Dụng nhân như dụng Mộc", mỗi người mỗi Khí - Chất, dường như mỗi khí chất có con đường thích hợp nhất để vận dụng trong đời sống, phát huy điểm mạnh, khắc chế điểm yếu để thành tựu Ngũ phúc, mà theo thứ tự quan trọng, đứng đầu là Thọ - Phú - Khang - Ninh - Chết lành. Chọn phương pháp tu, xin trích đoạn "Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: 4 x 3= 12 hay 3 x 4= 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần là 4 x 3= 12 rồi 12 x 10= 120 và sau cùng 120 x 10=1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. Vì thế, người đệ tử Phật trên con đường tu tập diệt trừ phiền não nên chọn căn nào thích hợp nhất cho mình, căn nào có công năng cao nhất thì sự thành công sẽ mau chóng hơn là chọn những căn yếu công năng. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q4 - HT Tuyên Hóa giảng)"
+ Đức Phật như lương y - Biết bệnh cho thuốc: ..... 16. Này các đệ tử, hãy thường xuyên nhớ đến các công đức để từ bỏ tất cả mọi phóng dật, như là tránh xa bọn giặc cướp tài sản thánh. Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã tuyên nói chánh pháp lợi ích rốt ráo. Về phần mình, các vị hãy nỗ lực tinh tấn thường xuyên, đừng để cuộc đời trôi qua vô ích, sau này ăn năn, hối hận đã muộn. Như Lai như là vị lương y, rõ biết bịnh lý, cho toa thuốc hợp bịnh trạng từng người. Uống hay không uống không phải là lỗi của lương y. Như Lai lại cũng như người chỉ đường, chỉ rõ đâu là con đường nên đi và hướng đến giải thoát. Biết rõ đường lành mà không chịu cất bước lên đường không phải là lỗi của vị đạo sư! (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)

7. Định luật Hấp dẫn (Law of Attraction): Định luật hấp dẫn là định luật về lửa, lửa này được tạo ra do sự phối hợp trong lúc tiến hóa của hai cực… Định luật Hấp dẫn chi phối khía cạnh linh hồn… Các định luật phụ của định luật Hấp dẫn là (LVLCK, 1168–1173):
7.1. Định luật Ái lực Hóa học (law of Chemical Affinity): Định luật này chi phối khía cạnh linh hồn trong giới khoáng chất. Nó liên quan đến sự phối hợp (marriage) của các nguyên tử và sự lôi cuốn (romance) của các nguyên tố (elements). Nó giúp duy trì sự sống của giới khoáng chất và bảo tồn sự nguyên vẹn của giới này. Đó là nguyên nhân của việc nhập vào khoáng chất (immetalisation) của Chân Thần.
7.2. Định luật Tiến bộ (Law of Progress): Định luật này được gọi như thế trong giới thực vật do sự kiện là chính trong giới này mà sự đáp ứng nhất định và khách quan đối với sự kích thích có thể được ghi nhận.
7.3. Định luật về tính dục (law of Sex): Đây là tên gọi được dùng để chỉ mãnh lực mang lại sự phối hợp thể chất của hai cực liên quan với giới động vật, và của con người khi xem con người như là đáp ứng với tiếng gọi của bản chất động vật. Tự nó có liên quan với việc bảo vệ hình hài trong chu kỳ đặc biệt này và bảo tồn hình hài đó.
7.4. Định luật Từ điện (Law of Magnetism): Đây là định luật tạo ra sự hợp nhất của một phàm ngã, và mặc dù đó là một biểu hiện của thần lực nguyệt cầu, tuy thế, lại ở đẳng cấp cao hơn là định luật tính dục hồng trần nhiều.
7.5. Định luật Phát xạ (Law of Radiation): Đây là định luật lý thú nhất trong các định luật vì nó chỉ hoạt động liên quan tới các kiểu mẫu cao nhất của các giới khác nhau, và chính nó có liên quan với sự thu hút mà một giới cao trong thiên nhiên sẽ có đối với các sinh linh cao nhất của giới thấp kế tiếp. Nó chi phối tính phóng xạ (radio activity) của các khoáng chất, các phát xạ của giới thực vật và (khá kỳ lạ) toàn bộ vấn đề về mùi thơm. Khứu giác là giác quan cao nhất trong số các giác quan thuần túy hồng trần; thế nên, trong giới thực vật, một loạt các mùi thơm nào đó là bằng chứng về sự phát xạ trong giới đó.
7.6. Định luật Hoa Sen (Law of the Lotus): Đây là danh xưng được gán cho ảnh hưởng huyền bí của định luật vũ trụ, định luật Hấp dẫn, vốn được mang đến trong các Con thiêng liêng của Trí Tuệ, và như thế liên kết hai cực Tinh thần và vật chất, tạo ra trên cõi trí cái mà chúng ta gọi là hoa sen Chân Ngã, hay là “Đoá hoa của Chân Ngã”. Đó là định luật giúp cho hoa sen rút ra từ bản chất thấp (trạng thái vật chất và trạng thái nước) hơi ẩm và sức nóng cần thiết để khai mở và đưa xuống từ các phân cảnh của Tinh thần những gì mà ánh nắng đang làm cho giới thực vật. Nó chi phối tiến trình khai mở cánh hoa, và do đó, chính nó biểu hiện như một định luật có ba phần: a/ Định luật về Nhiệt Thái dương ………..... Cánh hoa tri thức. b/ Định luật về Anh sáng Thái dương ......... Cánh hoa bác ái. c/ Định luật về Lửa Thái dương …………… Cánh hoa hy sinh.
7.7. Định luật về Màu Sắc (Law of Colour): Muốn hiểu được định luật này, các đạo sinh nên nhớ rằng màu sắc dùng vào hai mục tiêu. Nó tác động như bức màn cho những gì ẩn đàng sau, và do đó, được thu hút đến tia lửa trung ương, nó biểu hiện cho tính chất thu hút của sự sống trung ương. Do đó, mọi màu sắc đều là các trung tâm thu hút có tính bổ sung cho nhau, hoặc là đối kháng nhau, đạo sinh nào biết nghiên cứu theo các hướng này có thể tìm ra định luật và hiểu được tác động của nó nhờ hiểu được mục tiêu, cách hoạt động và sự liên quan của các màu ứng với nhau hoặc riêng cho nhau.
7.8. Định luật Trọng lực (Law of Gravitation): Đối với người nghiên cứu không thuộc giới huyền linh, đây là định luật khó hiểu và gây bối rối hơn hết. Nó tự biểu lộ ở một khía cạnh như là năng lực và sự thôi thúc mạnh mẽ mà một sự sống thiết yếu hơn có thể có được dựa vào sự sống kém cỏi hơn, như là năng lực của Tinh Quân của Địa cầu (Thực thể Thông Linh của hành tinh, không phải là Hành Tinh Thượng Đế), nắm giữ mọi hình hài vật chất vào chính Ngài và không để cho chúng “tản mác ra”. Điều này do bởi rung động mạnh mẽ hơn, thần lực tích chứa phong phú hơn và các sự sống tĩnh tại được tập hợp lại của cơ thể của Thực thể Thông linh hành tinh. Thần lực này tác động lên trạng thái âm hay trạng thái thấp nhất của mọi hình hài vật chất. Định luật trọng lực này cũng tự biểu hiện trong sự đáp ứng của linh hồn của mọi vật đối với Đại hồn, trong đó, cái thứ yếu tìm được chính nó. Do đó, định luật này tác động đến 2 hình thức thấp nhất của sự sống thiêng liêng chứ không phải hình thức cao nhất.
7.9. Định luật Ái lực Hành tinh (law of Planetary Affinity):
Thuật ngữ này được dùng trong giáo huấn huyền linh đặc biệt có liên quan đến sự tương tác của các hành tinh với nhau và sự kết hợp (marriage) sau cùng của chúng.
7.10. Định luật Hợp nhất Thái dương (Law of SolarUnion):
Khi sự tương tác của các Thái dương được bàn đến theo khía cạnh vật chất và theo khía cạnh ý thức thì thuật ngữ này được dùng theo nghĩa huyền linh. Không thể bàn rộng về định luật này mà chỉ có thể nêu ra tính phổ cập của định luật Hấp dẫn này.
7.11. Định luật về các Trường phái (Law of the Schools, Định luật Bác ái và Anh sáng):
Đây là một thuật ngữ huyền bí được dùng để che đậy định luật khi nó tác động vào các mở rộng của tâm thức mà một vị đạo đồ đang trải qua và năng lực của vị này để thu hút về chính mình nhờ sự hiểu biết: Thượng ngã của riêng mình, để tạo ra chỉnh hợp và giác ngộ.

  1. Vị Đạo sư Tinh thần của mình (Guru).
  2. Cái mà y tìm cách để biết.
  3. Cái mà y có thể sử dụng trong công việc phụng sự của mình.
  4. Các linh hồn khác mà y có thể hoạt động với họ.  (Nguồn: LVLCK, 1168–1173)

7.5. Định luật Phát xạ (Law of Radiation): Đây là định luật lý thú nhất trong các định luật vì nó chỉ hoạt động liên quan tới các kiểu mẫu cao nhất của các giới khác nhau, và chính nó có liên quan với sự thu hút mà một giới cao trong thiên nhiên sẽ có đối với các sinh linh cao nhất của giới thấp kế tiếp. Nó chi phối tính phóng xạ (radio activity) của các khoáng chất, các phát xạ của giới thực vật và (khá kỳ lạ) toàn bộ vấn đề về mùi thơm. Khứu giác là giác quan cao nhất trong số các giác quan thuần túy hồng trần; thế nên, trong giới thực vật, một loạt các mùi thơm nào đó là bằng chứng về sự phát xạ trong giới đó.
* Định luật này là Định Luật phụ của Định luật Hấp dẫn (Law of Attraction): Định luật hấp dẫn là định luật về lửa, lửa này được tạo ra do sự phối hợp trong lúc tiến hóa của hai cực… (LVLCK, 1168–1173).
Xem: Định luật trên nhantrachoc.net.vn

+ Định luật Hút và Đẩy (Law of Attraction and Repulsion): Về căn bản, định luật này diễn tả lực hút cần có để giữ cho Thái Dương Hệ chúng ta không thay đổi đối với Thái Dương Hệ Sirius, giữ cho hành tinh chúng ta quay chung quanh mặt trời của chúng ta, giữ cho các hệ thống nhỏ của chất liệu phân tử và nguyên tử luân lưu quanh một trung tâm trong hành tinh, và giữ cho vật chất của mọi thể ở cõi trần và vật chất của các thể tinh anh phối kết quanh trung tâm tiểu vũ trụ của chúng.
* Định Luật này là 01 trong 03 Định Luật Vũ Trụ (LVLCK, 219).
Xem: Định luật trên nhantrachoc.net.vn

+ Ba Thập Giá ( 3 Thể Thức; 3 Phẩm tính; 3 Tam nguyên; 3 Phương Thức): Dựa trên bộ ba ý chí, ham muốn và hoạt động (ý chí hoặc động lực, mong muốn hoặc ham muốn, hoạt động hoặc khả năng thích ứng); (Xem: Chiêm THNM - Thể Thức, Phẩm tính)
+ Ba Phương Thức: Mô tả cách thức chúng ta hoạt động, phẩm chất vật lý của các Cung. – Chúng thiết lập các trục và thập giá (chữ thập) trong lá số – – Các vấn đề được thực thi qua góc hợp đối nghịch và vuông góc (góc hợp cứng) – – Tất cả chúng ta đều có 12 cung, một số cung được nhấn mạnh hơn các cung khác. (Con Thượng đế "Christ" đang lâm phàm trong bốn Thập giá Khả biếnChrist Hành tinh, ở đây là đang xét với các Thập giá của quần chúng (Trong Thập giá cố địnhChrist cá nhân; Thập giá Cơ bảnChrist Vũ trụ)_NTH-Giảng về Song Ngư CTHNM)
+ Ba Thập Giá: Khả Biến (Chung/ Khả chuyển) - Cố Định - Cơ Bản (Chủ yếu/ Chính yếu/ Cốt lõi) (Xem: GQ2.1 - Giới thiệu chiêm tinh)
+ Ba Thập Giá: Theo Tâm thức phát triển từ thấp đến cao của 12 Cung Hoàng Đạo qua các Kỳ công theo thứ tự là: (Khả Biến - Cố Định - Cơ Bản); Xem: GQ2.1-Giới thiệu Chiêm TH);
- Ba Thập giá đều là các dòng năng lượng bắt chéo nhau (CTHNM, 290)
- Mỗi Thập giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (CTHNM, 380)
- Hành tinh quan trọng ứng thập giá: Thập giá Cố địnhSaturn/ Thổ tinh;  Thập giá Biến đổiMercury/ Thủy tinh; Thập giá Cơ bản - Jupiter/ Mộc tinh. (CTHNM, 396)

1. Các Cung Khả biến: Có tính thích nghi, linh hoạt, và phục vụ (Song TửXử NữNhân Mã và Song Ngư) – Nhưng cũng có thể quá bất nhất – Về mặt nội môn chúng giúp phát triển sự sống sắc tướng thông qua kinh nghiệm. (TG Khả biến này, Písces là một nhánh của nó, chủ yếu là Thập giá của (Các cuộc lâm phàm được lặp lại), của các thử nghiệm khác nhau dưới Cung Hoàng đạo khác nhau và các Chủ thể điều khiển chính thống và của những ai mà nhiều kinh nghiệm đang dẫn đến mở rộng Tâm thức liên tục và kế tiếp_NTH-Giảng về Song Ngư CTHNM)
2. Các Cung Cố định: Có tính vững vàng, bướng bỉnh, và quyết đoán (Kim NgưuSư TửHổ Cáp và Bảo Bình) – Nhưng cũng có thể quá cứng nhắc – Về mặt bí truyền chúng phát triển linh hồn thông qua khủng hoảng và thử thách
3. Các Cung Cơ bản: Có tính mạnh mẽ, khởi xướng, và quan trọng (Bạch DươngCự GiảiThiên Bình và Ma Kết) – Nhưng có thể thiếu sự kiên trì – Về mặt bí truyền chúng thể hiện hoạt động có định hướng, được kiểm soát bởi linh hồn
+ Ba Thập Giá của vòng Hoàng đạo phản ánh Tam Nguyên được các tôn giáo công nhận ( Shiva, Vishnu, Brahma), được xem qua các khía cạnh của cuộc sống, diễn dịch thành sinh (Ý chí), có, cho, giữ, phát triển (Mong muốn), và làm (Hoạt động) (Nguồn: Chiêm THNM 17);
Xem thêm: Tổng hợp về Ba Thập Giá;     (Xem nguồn)  và   CTHNM 4;
Xem thêm: Chiêm THNM 17)

+ Thập giá cơ bản/ Chính yếu/ Chủ yếu: Chi phối Chân Sư khi Ngài vượt qua 5 cuộc điểm đạo còn lại. Điều khá lạ lùng là cuộc điểm đạo thứ 4 không bị thập giá cố định lẫn thập giá chính yếu chi phối. - Thập Giá Chủ yếu: Các từ khoá cho là ý chí, động lực, và hành động(Sẵn sàng để thay đổi. Nhấn mạnh vào hành động. Cố gắng thay đổi môi trường. Phóng chiếu bản thân vào môi trường xung quanh). Gồm: Bạch DươngCự GiảiThiên Bình và Ma Kết. (Xem Chiêm THNM 17)
+ Nhờ việc nghiên cúu Thập Giá Cơ BảnAries, Cancer, Libra, Capricorn ‒ Chiêm tinh gia có hiểu biết rõ ràng hơn (CTHNM, 379):
a. Về con người thông thường, cá biệt.
b. Về các cội nguồn tập thể.
c. Về ý nghĩa của cuộc điểm đạo đầu tiên
+ Trên Thập Giá Cơ Bản, đó là Mặt Trời tinh thần trung ương, nó tác động tới, và lúc bấy giờ Uranus là nơi phân phối, còn bí huyệt đầu trở thành bí huyệt trong cơ thể của điểm đạo đồ qua đó phương hướng và sự kiểm soát đi đến (CTHNM, 335)
+ Thập Giá Cơ Bản ‒ có trách nhiệm trong việc mang lại một vài điểm tổng hợp lớn, theo trình tự của cả sự thay đổi lẫn sự tổng hợp. Jupiter có trách nhiệm cho việc tập trung các năng lượng ở điểm này (CTHNM, 397)
Xem thêm: Tổng hợp về Ba Thập Giá

+ Bảo Bình/ Aquarius (Thủy Bình): Hành Không Khí (Xem); (Dẫn truyền Cung 5; Xem)
- Thân thiện, năng động trong xã hội, thông minh, vô tư, đô thị; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 11, có đặc tính tương ứng: Tổ chức, câu lạc bộ, hoạt động xã hội
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thiên Vương Tinh; Cung 7 (CTHNM, 80); (Chiêm TH cổ điển dùng Thổ Tinh; Cung 3)
- Khẩu hiệu: Hãy để khao khát hình tướng là kẻ thống trị.
+ Nội Môn:
- Chủ tinh:  Mộc Tinh; Cung 2 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi là nước sự sống, tuôn đổ cho những người khát.
- Các năng lượng cảm dục phát xuất từ cung hoàng đạo mới mà hiện nay chúng ta đang tiến vào, cung Bảo Bình. Cung này, cung của người mang nước là một cung linh hoạt và là một cung thuộc tình cảm. Nhờ tác dụng của thần lực mạnh mẽ của nó, cung này sẽ kích thích các thể cảm dục của con người vào một tình trạng cố kết mới, vào tình huynh đệ của nhân loại, tình huynh đệ này không có mọi dị biệt về chủng tộc và quốc gia và sẽ đưa sự sống của nhân loại tiến vào tổng hợp và hợp nhất. (LVHLT, 313-314)

+ Ma Kết/ Capricorn (Nam Dương): Hành Thổ (Xem); (Dẫn truyền Cung 1 - Cung 3 - Cung 7; Xem)
-
Ma Kết (Đỉnh bánh xe, tầm cao, đỉnh núi thành đạt, nhìn thấy tất cả) tương ứng người Cha - Đối cực là Cự Giải (Đáy bánh xe, gốc rễ sự tồn tại của chúng ta) tương ứng người Mẹ
-
Hệ thống, theo một kế hoạch, thực tế, khách quan, có trách nhiệm, thực tế, khô khan; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 10, có đặc tính tương ứng: Sự nghiệp, vai trò trong cuộc sống
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thổ Tinh; Cung 3 (CTHNM, 80)
(Trái đất và Thổ tinh dẫn Cung 3)
- Khẩu hiệu:
+ Nội Môn:
- Chủ tinh:  Thổ Tinh; Cung 3 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu:
Tôi lạc trong ánh sáng siêu nhiên, thế nhưng tôi quay lưng lại ánh sáng đó.
+ Ba cung Hoàng đạo với 3 trạng thái sự sống thiêng liêng
(CTHNM, 277):
1. Taurus/ Kim Ngưu – giới động vật – định luật, luật tự nhiên.
2. Libra/ Thiên Bình – giới thực vật – tính dục (sex) – ái lực tự nhiên.
3. Capricorn/ Ma Kết – giới khoáng vật – tiền tài – biểu hiện cụ thể của Luật Cung Cầu. 

+ Xử Nữ/ Virgo (Thất Nữ/ Trinh Nữ): Hành Thổ (Xem); Dẫn truyền(Cung 2 - Cung 6) (Xem) -  Có phương pháp, tổ chức, cầu kỳ, chính xác, lạnh lùng, khắc nghiệt, đòi hỏi;Xem nguồn - Chủ quản Nhà thứ 6, có đặc tính tương ứng: Công việc, nỗ lực thực tế + Cung của Xử Nữ: 2,6 "Tôi Phân Biện" + Ngoại Môn/ Phàm ngã: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4 (CTHNM, 80);
(Cung của sao Thủy dẫn: Cung 4) -  Sao Thủy điều khiển thể trí, là lực chiếm ưu thế ở cấp độ phàm ngã. Đáp ứng với câu châm ngôn "Hãy để vật chất thống trị " tâm trí tràn ngập những tư tưởng về tiền bạc và tài sản. -  Cung 4 Điều Hòa trong Xung Đột thêm màu sắc chiến tranh và đối nghịch vào tâm trí của Xử Nữ. Bề ngoài của phàm ngã có vẻ cư xử tốt, nhưng tâm trí lại có một quan điểm hạn hẹp, khó khăn, xét nét, chỉ trích. -  Mặt tích cực: thúc đẩy tính phân tích cẩn trọng và chú ý đến từng chi tiết, khuyến khích phàm ngã phấn đấu để hoàn thiện trong hình thể và đời sống của phàm ngã. - Khẩu hiệu ngoại môn: “ Hãy để vật chất thống trị .” + Nội Môn: - Chủ tinh: Mặt Trăng; Cung 4 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu/ Mantram: “Tôi là Mẹ và Con; Tôi là Thượng đế, Tôi là Vật chất.”; +  Những linh hồn tiến hoá làm việc qua cung Xử Nữ là những người phụng sự thực sự, thầm lặng cống hiến cho những lý tưởng cao cả nhất, cho sự nâng cao nhân loại. Là hạt giống của Thời Đại Mới, gieo vào những người khác ánh sáng sẽ chiếu rọi khắp thế gian trong thời đại Bảo Bình. Có nhiều ở lãnh vực chữa bệnh và giáo dục, nghề nghiệp mà các Ashram Cung 2 chịu trách nhiệm. Năng lượng của Vulcan là Cung 1 rực lửa, ban tặng sức mạnh và khả năng lãnh đạo. <theo tài liệu Trường MF> 

+ Cự Giải - Bắc Giải/ Cancer: Hành Thủy (Xem); Dẫn truyền(Cung 3 - Cung 7) (Xem)
Cự Giải, (Đáy bánh xe, gốc rễ sự tồn tại của chúng ta) tương ứng người Mẹ - Đối cực là Ma Kết (Đỉnh bánh xe, tầm cao, đỉnh núi thành đạt, nhìn thấy tất cả) tương ứng người Cha
- Buồn rầu, bảo vệ, cảm xúc, có ý thức về an ninh, nặng tình cảm; ;Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 4, có đặc tính tương ứng: Điều làm bạn cảm thấy thoải mái và tự nhiên
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Mặt Trăng; Cung 4 (CTHNM, 80);
(Thủy tinh và Mặt trăng dẫn Cung 4) - Khẩu hiệu: Hãy để sự cô lập thống trị và tuy vậy đám đông vẫn tồn tại. + Nội Môn: - Chủ tinh: Hải Vương Tinh (Cung 6) (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi xây một ngôi nhà được thắp sáng và ngụ trong đó.
+ Cancer:
Trong cung này có ẩn giấu toàn bộ về Luật Luân Hồi. Sự luân hồi được bao hàm trong vũ trụ biểu lộ và là chủ đề cơ bản nằm dưới sự đập nhịp (pulsation) của thái dương hệ. (Chân Sư DK -CTHNM, 353)
+ Ba cung mà (theo quan điểm của tâm thức) có liên quan chặt chẽ nhưng lại tách biệt và khác nhau nhiều về hiệu quả(CTHNM, 352).

1. Cancer  ‒ Ý thức quần chúng‒ hiểu biết theo bản năng.
2. Leo       ‒ Ý thức tự tri          ‒ hiểu biết do sáng suốt.
3. Aquarius‒ Ý thức tập thể      ‒ hiểu biết do trực giác. 

+ Song Tử/ Gemini (Song Nam - Song Sinh): Hành Không Khí (Xem); Dẫn truyền(Cung 2) (Xem) - Ánh sáng, thoáng mát, nhiều sở thích, thông minh; ;Xem nguồn - Chủ quản Nhà thứ 3, có đặc tính tương ứng: Quan tâm về môi trường sát bên. Cách hiểu và học hỏi + Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4 (CTHNM, 80);
Kim Tinh dẫn Cung 5 - Khẩu hiệu: Hãy để sự bất ổn làm công việc của nó. + Nội Môn: - Chủ tinh:  Kim Tinh; Cung 5 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi thấy cái ngã khác của tôi và trong sự suy tàn của cái ngã đó, tôi tăng trưởng và bừng sáng.
+ Gemini là cung quan trọng nhất trong số 12 cung hoàng đạo
và ảnh hưởng của nó nằm đàng sau mỗi một trong các cung đó ‒ cho đến nay ít chiêm tinh gia nhận ra. Điều này sẽ được hiểu một cách đầy đủ hơn khi tam giác hợp bởi Gemini và hai cung đối lập được nghiên cúu. Vì Cung Bác ái-Minh triết, tức Cung 2, đang tuôn đổ qua Gemini, nên hiển nhiên là chính xác biết bao khi giáo lý huyền môn dạy rằng tình thương nằm dưới toàn thể vũ trụ. Chúng ta tin chắc rằng Thượng Đế là tình thương, và cách diễn đạt này chính xác cả về ngoại môn lẫn nội môn. Tình thương ẩn bên dưới của Thượng Đế đi đến thái dương hệ chúng ta trước tiên qua Gemini, mà cùng với chòm sao Đại Hùng và Pleiades, Gemini hợp thành một tam giác vũ trụ. Nói một cách tượng trưng và theo Cổ Luận : “Trên tam giác vàng, Christ vũ trụ xuất hiện; đầu của Ngài ở trong Gemini; một chân ở trên khu vực của bảy Từ Phụ, còn chân kia được đặt vững vàng trong khu vực của bảy Từ Mẫu(hai chòm sao này đôi khi được gọi là Bảy Huynh Đệ và Bảy Tỷ Muội ‒ A.A.B). (CTHNM, 395)

+ Kim Ngưu/ Taurus: Hành Thổ (Xem); Dẫn truyền(Cung 4) (Xem)
- Cần cù, ổn định, thực tế, bảo thủ, yêu thiên nhiên;Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 2, có đặc tính: Thái độ đối với tài sản, thân thể, vật dụng, người phối ngẫu, giá trị, đạo đức;
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5; (Kim Tinh truyền dẫn Cung 5)
- Khẩu hiệu: Hãy để cho sự đấu tranh không nao núng.
+ Nội Môn: - Chủ tinh:  Vulcan; Cung 1 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi thấy, và khi mắt mở ra, tất cả là ánh sáng.

+ Bạch Dương - Dương Cưu/ Aries / ♈: Hành Hỏa (Xem); Dẫn truyền (Cung 1 - Cung 7) (Xem)
- Tiên phong, độc lập, tự lực, không quan tâm với người khác, dễ bị rủi ro;Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 01, có đặc tính tương ứng: Thái độ cơ bản đối với cuộc sống. Tham gia ;
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Hoả tinh; Cung 6 (CTHNM, 80) (Hỏa tinh và Hải Vương Tinh dẫn Cung 6)
- Khẩu hiệu: Hãy để cho hình tướng được tìm kiếm lần nữa.
+ Nội Môn: - Chủ tinh:  Thủy Tinh; Cung 4_(CTHNM, 81)
 - Khẩu hiệu: Tôi tiến tới và từ cõi trí, tôi thống trị. 

+ Từ Bi Hỷ Xả đối trị Tam độc Tham Sân Si. Gọi là Tam độc vì chúng ví như mũi tên có tẩm thuốc độc, tuy ban đầu chỉ là vết thương rất nhỏ, nhưng chúng hoàn toàn có thể phát triển thành chất cực độc giết chết con người lúc nào không hay. Ví dụ "Chất độc" nếu bám chấp nặng nề vào chúng, lâu dài làm tâm trí u mê, trầm cảm, điên loạn, tự tử ... (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng 29 / 11 / 1985)
+ DỤC VỌNG CỦA CON NGƯỜI CÓ 5 ĐỘC: THAM - SÂN - SI - MẠN - NGHI VÀ ÁI DỤC NẶNG LỀ KHÔNG THỂ TU GIẢI THOÁT
Cần phân biệt hiểu cho đúng lời Phật dậy:
Hỏi: Nếu con người không “tham” thì xã hội làm sao tiến bộ? Không “si” thì làm sao có hằng tâm2? Không “sân” thì làm sao có sức bi phẫn?
Ðáp: Bạn đừng lầm lẫn nhé! Chấn-tác có nghĩa là làm cho tốt hơn, chứ không phải là tham lam. Ðó là sự nỗ lực làm việcchẳng có chút vọng tham, vọng cầu. Si là gì? Si tức là làm những việc ngu si như cờ bạc, chơi xổ số, đánh lô-tô, v.v… Sân tức là nổi giận. Tất cả đều là những hành vi ngu si. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp)
+ PS Tịnh Không giảng nghĩa: Trong kinh luận duy thức nói: Tứ đại phiền não thường tương tùy, nên cơ bản của Mạt na chính là tứ đại phiền não.
- Vọng Tâm: Đầu tiên là Từ Ngã kiến, Mạt na là ngã chấp, ngã kiến. Chấp trước một phần kiến phần của A lại da, kiến phần của A lại da là vô lượng vô biên vô tận vô số, nó chỉ chấp trước một phần, xem phần này là tâm của mình. Đây là vọng tâm, là gốc của phiền não.
- Ngã Ái
- Từ Vọng tâm (Ngã chấp + Ngã kiến) dấy khởi lên Ngã ái. Quý vị xem có Cái ta - Ngã kiến, liền sinh ra ngã ái (ngã ái là tham). Ngã si là ngu si. Ngã mạn, mạn là sân nhuế. Kiến ái si mạn, bốn đại phiền não này thường tương tùy không gián đoạn. Nếu như đoạn tận bốn đại phiền não này, không còn nữa, chuyển Mạt na thành bình đẳng tánh trí, đây chính là pháp thân Bồ Tát. Pháp thân Bồ Tát chuyển bát thức thành tứ trí, siêu việt mười pháp giới, không ở trong mười pháp giới nữa. Chúng ta biết, nên chuyển như thế nào? Buông bỏ bốn đại phiền não này, phá thân kiến, là trí tuệ chân thật!
+ Đốn bỏ dụng vọng:
Đức Phật nhấn mạnh thêm phải đón bỏ rừng dục vọng như tham ái, sân hận và si mê. Do rừng dục vọng mà phát sinh sợ sệt. Hãy đốn ngã cả hai thứ rừng, rừng cây to và rừng cây nhỏ của dục vọng. Ở đây, cây to là những dục vọng lớn, có nhiều mặt năng lực và cây nhỏ là những dục vọng nhỏ, ít năng lực hơn. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Tham lam - Theo Minh triết mới: Điều này có liên quan đến tội hám lợi, mà theo nghĩa đen là ăn cắp trên cõi hạ trí. Tội tham lam có thể đưa tới bất kỳ tội lỗi nào trên cõi trần và rất mạnh mẽ. Nó liên quan tới trí lực (mental force) và là một thuật ngữ phổ cập bao hàm các ước muốn mãnh liệt mà vị trí của chúng không những ở nơi thể cảm dục mà còn ở trong thể hạ trí nữa. Thánh Paul đã đưa ra giới không tham lam khi nói rằng: “Trong bất cứ tình huống nào, ta vẫn học cách toại nguyện (content)”. Cần phải đạt được trạng thái đó trước khi thể trí được tịch lặng đến mức mà mọi sự việc của linh hồn có thể thấu nhập được.(ASCLH, 186).

+ 1. THAM LAM - ĐỐI TRỊ= GIỮ GIỚI TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ:
+ “Tham” là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu.
+ Đối trị Tâm tham: Nếu có tâm tham thời phải “tu tâm” ngay, phải tập tính “thiểu dục tri túc”. Thiểu dục là muốn ít, tri túc là biết đủ. Người thiểu dục, tri túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn vì biết đủ với những thứ mình đã có. Bỏ dần lòng tham đi để đạt tới được “vô tham”. Vô tham là không tham lam.
- Ngũ trần Dục Lạc: Ở đời, có 5 món dục lạc muốn nhất là: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. “Ngũ trần dục lạc” ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Tham tiền thời phải đày đọa thân sống, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính để chiếm đoạt và khi mất thì lại đau khổ. Đối với sắc đẹp nên quán thân là bất tịnh, tham sắc thì nhiều khi lại lao vào những mưu chước tồi tệ để thỏa lòng dục vọng. Tham danh vọng, quyền tước thì phải vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí. Tham ăn uống cao lương mỹ vị thì bị nhiều bệnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham ngủ nghỉ thì trí não hóa đần độn. Ngũ trần dục lạc đó chính là những nguyên nhân ràng buộc kiếp người vào vòng sinh tử, luân hồi, sa đọa.
2. SÂN HẬN - ĐỐI TRỊ = ĐỊNH TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ
+ “Sân” là cơn giận, lòng giận dữ, nóng nảy, thù hận khi không vừa lòng, không được thỏa thích như ý muốn. Bất bình vì bị xúc phạm, nhân đó làm những chuyện sai trái. Sau cơn giận thời giữ lại lòng oán ghét tìm dịp mà trả thù.
- Sở dĩ sân sinh khởi là do lòng yêu thích “cái ta” hay thích “cái của ta”. Nếu người ta mắng nhiếc, chê bai kẻ nào khác thời ta không thấy giận, nhưng nếu ai chửi bới hoặc khiển trách ta hay người thân của ta, hoặc làm tổn hại tài sản của ta lập tức ta cảm thấy khó chịu ngay. Khi khó chịu tăng dần thời sẽ trở thành nóng giận. Nhưng nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian như Đức Phật đã từng đưa nhận xét:
+ Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.” Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”
=> Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người nào không nổi sân, thì tâm không khổ não, tâm không tranh giành, tâm nhu hòa ngay thẳng, tâm từ bi như Phật, thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sinh, thân tướng trang nghiêm được chúng sinh tôn kính và vì có đức nhẫn nhục nên sẽ được mau sinh lên cõi Phạm Thiên.
+ Nóng giận - Tạo ra độc tố: Giáo sư Elma giảng dạy tại đại học Stanford, Mỹ từng làm một thí nghiệm nổi tiếng. Ông thu thập hơi thở của người tức giận, bi thương, phiền não thở ra rồi dẫn vào một cái chai có đựng nước thuốc. Ông phát hiện màu sắc của nước ở trong chai này có sự thay đổi. Hơi thở của người tức giận làm cho nước chuyển thành màu tím, của người bi thương khiến nước chuyển thành màu xám. Sau đó ông đổ nước này lên những con chuột, một khoảng thời gian thì chúng run rẩy và chết. Thực nghiệm này chứng minh rằng, khi tức giận cơ thể sẽ sản sinh ra độc tố. (Nguồn: Tại đây)
+ Nóng giận - Hận Thù: Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau

HỎI: Ngài có thể nói với chúng tôi vấn đề ngài vượt thắng thù oán và sợ hãi như thế nào? Và ngài có thể đưa ra một ánh sáng của thiền nào đó không?
ĐÁP: Có nhiều mức độ của thù oán và nó có thể được diễn tả như một cảm nhận xấu đối với người tạo ra rắc rối, kẻ thù, hay bạn bè. Nhưng sân hận là một bộ phận cảm xúc của chúng ta, vốn mọc lên như một cơ cấu phòng vệ trong một con người khi người ấy chạm trán với những hoàn cảnh tiêu cực hay nguy hiểm. Nói một cách sinh học, các cảm xúc như sân hận, khát vọng, và dính mắc là cần thiết cho sự tồn tại => Thù oán có thể được diễn tả như dư âm của sân hận vốn duy trì và day dứt trong một thời gian dài. (Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
3. SI MÊ - NGU SI - VÔ MINH ĐỐI TRỊ= TUỆ TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ
+ “Si” là si mê, vô minh, ngu tối. Người vô minh không sáng suốt, không suy xét hiểu biết đúng lẽ phải, đúng sự thật để phán đoán việc hay dở, tốt xấu, lợi hại v.v… nên mới làm những điều nhiễm ô tội lỗi, có hại cho mình và người. Si, vô minh theo thế tục gọi là “dại” hay “ngu”. Vô minh che lấp tâm trí, làm cho con người không còn nhìn thấy được những chất bợn nhơ đang gậm nhấm từ bên trong con người khiến các thói hư tật xấu ấy sẽ tăng dần và cuối cùng đưa con người vào con đường tội lỗi triền miên. Đức Phật dạy rằng vô minh là điều ô trược tệ hại nhất. Hãy dứt bỏ vô minh để trở thành người trong sạch
- Hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên bạch với Đức Phật rằng họ không thể thuyết phục được ông thầy của họ trước kia đến gặp Đức Phật và nghe giáo pháp vì vị này còn quá luyến ái tín đồ riêng. Nhân dịp này Đức Phật giải thích sự khác biệt giữa người suy luận chân chính với người suy luận sai lầm và hậu quả dĩ nhiên của mỗi lối suy luận:
+ (Pháp Cú 11)
Những gì không thật, hão huyền
Lại cho là thật và tin vô bờ,
Những gì chân thật lại ngờ
Lại cho không thật, chỉ là giả thôi,
Nghĩ suy lầm lạc mất rồi
Thấy sao chân thật rạng nơi pháp mầu.
+ (Pháp Cú 12)
Biết đây là thật để tin
Biết kia không thật, hão huyền mà thôi
Nghĩ suy theo đúng đường rồi
Thấy ngay chân thật rạng nơi pháp mầu.
+ Lợi ích của không si mê: Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người không si mê, thì thành tựu được các pháp công đức sau đây: được ý vui chân thiện và bạn chân thiện; tin nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác; chỉ quy y Phật; tâm ngay thẳng, có chính kiến; sinh lên cõi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác; hưởng phúc huệ; không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp và khỏi bị nạn dữ v.v…
IV- TAM ĐỘC + ÁI DỤC = NGUỒN GỐC KHỔ ĐAU
+ 4. ÁI DỤC:
+ PS Tịnh Không: Ái là Tham, Dục là danh từ chung để chỉ “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ”.(Nguồn: Tham - Sân - Si Và Ái dục)
+ Đức Phật dạy Ái dục gồm: Người tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài vật xuất vốn và lời lãi, tạo tác những nghiệp có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước, đó gọi là tập. Người kia biết ái tập Khổ tập Thánh đế này. Thời quá khứ là khổ Thánh đế; thời vị lai và hiện tại là Khổ Thánh đế. Đó là điều chắc thật không hư đối, không xa rời sự thật, cũng chẳng phải điên đảo, được thẩm sát một cách chắc thật. Những gì hợp với sự chắc thật như vậy, là sở hữu của Thánh, được nhận thức bởi Thánh, được thấu suốt bởi Thánh, được thấy bởi Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân chánh của bậc Thánh. Do đó nói là Khổ Thánh đế. Nguồn: mục 119 Chân thật ...
+ Đức Phật giảng rằng, "Tam độc" sở dĩ như vậy là do những khuynh hướng, các thói quen của họ đã có từ nhiều kiếp trong quá khứ. Khi Đại đức A Nan bạch hỏi rõ lý do, Đức Phật giải thích thêm rằng đó là do 4 nguồn cội “tham, sân, si, và ái dục”:
+ Định nghĩa Ái dục: Tức sự tham ái. Đồng nghĩa với ái trước, ái nhiễm, ái chấp - Ái chấp là hưởng thụ tình ái. Ấn Độ có Ái dục kinh, là sách chỉ nam về tính ái có tiếng trên thế giới, nhân sĩ thượng lưu cũng nhờ sách chỉ nam này mà có được sự chỉ dẫn về sinh hoạt tính ái. Tính dục là một loại bản năng của con người chỉ đứng sau thực dục.
- (I) Nghĩa của Ái Dục: Luyến ái và dục vọng, hoặc tình thương yêu gia đình
- (II) Thuật ngữ Ái Dục - Những lời Phật dạy về trong Kinh Pháp Cú:
6) Những người có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ dong ruổi theo dục cảnh chẳng chút ngại ngùng, bởi vậy người đã có tâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi dạt hoài
12) Luyến ái vợ con: Đối với người trí, sự trói buộc bằng dây gai, bằng cây, bằng sắt chưa phải kiên cố, chỉ có lòng luyến ái vợ con tài sản mới thật sự là sự trói buộc chắc bền
+ Khát ái. Thô kệch hay vi tế, luôn là nguyên nhân chủ yếu những bất hạnh lớn trong đời. Ái dục làm ta bám víu vào đời sống với mọi hình thức và do đó dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi.
(Pháp Cú 251)
Lửa nào có thể sánh ngang
Lửa tham dục nọ dữ dằn vô biên,
Không còn cố chấp nào bền
Bằng tâm sân hận nổi lên cấp kỳ,
Lưới nào trói buộc dầm dề
So ra với lưới ngu si buộc ràng,
Sông nào chìm đắm cho bằng
Dòng sông ái dục cuốn phăng bao người. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng tam độc “tham, sân, si” là những nguyên nhân gây ra bất hạnh và phiền não, ưu tư cho con người. Tham, sân, si có thể được tìm thấy một cách dễ dàng nơi hành động, ngôn ngữ, và ý nghĩ của chính mình cũng như của kẻ khác. Kinh nghiệm cho ta biết bất cứ ở đâu hay lúc nào, nếu tham sân si có mặt và ngự trị thì cuộc sống riêng hay chung đều trở nên xấu xa đau khổ. Tham sân si là sản phẩm của con người và xã hội và chính chúng là nguyên nhân làm hư hại cuộc sống an lành của loài người giống như bông tre nở từ cây tre và là biểu tượng suy tàn của cây tre, nghĩa là khi tre trổ bông là lúc tre tàn lụi.
+ Không luyến ái: Đức Phật khuyên các thầy “Thực hành tâm không luyến ái vì khi nào còn rừng rậm tham, sân, si thời các thầy còn chịu đau khổ.
- Đốn bỏ dụng vọng: Đức Phật nhấn mạnh thêm phải đón bỏ rừng dục vọng như tham ái, sân hận và si mê. Do rừng dục vọng mà phát sinh sợ sệt. Hãy đốn ngã cả hai thứ rừng, rừng cây to và rừng cây nhỏ của dục vọng. Ở đây, cây to là những dục vọng lớn, có nhiều mặt năng lực và cây nhỏ là những dục vọng nhỏ, ít năng lực hơn.

+ Đối trị Dục vọng = Giới Định Tuệ: “Tham, Sân, Si” là nguyên nhân của cuộc sống đau khổ, cần phải tiêu diệt, Đức Phật cũng nói cho chúng ta biết còn có 3 pháp nữa là “Vô tham, Vô sân, Vô si” là những yếu tố tâm lý cần nên phát triển để xây dựng cuộc sống an lành. Muốn phát triển ba pháp thiện này chúng ta phải tu dưỡng theo chánh đạo gồm “Giới, Định và Tuệ”.

Các Thuật ngữ thanh luyện thể xác - Thể Dĩ Thái: 
+ Kẻ tìm đạo: Ngọn lửa thanh luyện cháy lu mờ và yếu ớt khi giới thứ ba bị hy sinh cho giới thứ tư. Do đó, vị đệ tử hãy ngưng việc giết chóc và hãy nuôi dưỡng phần thấp nhất bằng sản vật của giới thứ hai”. Phàm ngã trở nên bị trì trệ và nặng nề, còn ngọn lửa nội tâm không thể tỏa chiếu khi thịt được dùng làm thức ăn. Mỗi đệ tử cần phải ăn chay nghiêm túc, không thể bị vi phạm. Kẻ tìm đạo có thể chọn ăn thịt hay không tùy thích, nhưng đến một giai đoạn nào đó trên thánh đạo, điều thiết yếu là phải ngưng ăn mọi loại thịt và chú tâm nhiều vào việc ăn uống. Vị đệ tử phải tự giới hạn vào việc ăn rau quả, ngũ cốc loại và quả hạt (nuts). Chỉ bằng cách này, đệ tử mới tạo được loại thể xác có thể chịu đựng việc giáng nhập của Chân nhân là vị ngự trong các thể tinh anh của mình trước Đấng Điểm đạo. Nếu không làm được như thế và nếu đệ tử có thể được điểm đạo mà không tự chuẩn bị như thế thì thể xác sẽ bị xé tan bởi năng lượng đang tuôn đổ qua các bí huyệt mới được kích hoạt và mối nguy hiểm lớn lao sẽ xảy tới cho não bộ, xương sống hoặc tim. (ĐĐNLVTD, 196–197)
+ Khi hướng tới cõi giới giá trị cao siêu xảy ra thì bấy giờ dĩ thái lực hay sinh lực lại xung đột với trạng thái thấp nhất của con người, tức thể xác trọng trược, và trận chiến của các cặp đối hợp xảy ra. Trong giai đoạn này cần phải chú trọng vào việc giữ giới luật cho xác thân, vào các yếu tố kềm chế như là hoàn toàn có tiết độ, sống độc thân và theo chế độ ăn chay, chú trọng vào việc vệ sinh xác thân và tập thể dục. Nhờ các yếu tố này mà việc kềm chế sự sống bởi hình hài có thể được xóa bỏ, con người thoát khỏi cuộc chiến thực sự của các cặp đối hợp. (TLHNM II, 309) 
+ Những ai tìm cách đọc tiên thiên ký ảnh, hay những ai cố hoạt động trên cõi cảm dục mà muốn cho không có sự thất thoát nào, để tìm kiếm nơi đó hình ảnh của các biến cố trong cảm dục quang một cách chính xác, đều bắt buộc phải là người ăn chay nghiêm túc và không có ngoại lệ nào cả. Chính kho tàng tri thức cổ xưa này của thời Atlantis nằm đàng sau sự kiên trì của kẻ ăn chay về sự cần thiết của cách ăn chay vốn đem lại sức mạnh và chân lý đối với nghiêm lệnh này. Chính vì không tuân theo quy luật sáng suốt này đã tạo ra các giải thích sai lầm đối với các ký ảnh cảm dục và tiên thiên ký ảnh của nhiều nhà tâm thông hiện tại và đã tạo ra việc soi kiếp bừa bãi và thiếu chính xác. Chỉ có người nào ăn chay nghiêm nhặt trong 10 năm mới có thể hoạt động như vậy trong trạng thái có thể được gọi là “trạng thái ghi nhận ánh sáng cảm dục”. (TLHNM I, 241)
+ Rèn luyện thể xác (gồm ăn chay): Việc này gồm một số điều kiện cần thiết:
- Thu nạp vào thể xác vật chất của những cõi phụ cao và loại trừ những chất thô của các cõi phụ thấp. Điều này cần thiết bởi vì người có các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao. Chân nhân không thể nào chuyển tri thức và sự hướng dẫn từ cõi cao xuyên qua một thể xác thô kệch. Những dòng tư tưởng cao cả không thể nào ảnh hưởng đến bộ não hồng trần kém tiến hóa. Vì thế mà việc tinh luyện thể xác là điều thiết yếu...
- Ăn chay - Thực phẩm tinh khiết: Chọn lựa thực phẩm với sự phân biện khôn ngoan. Thể xác chỉ cần ăn những thứ rau quả tăng cường sinh lực...cần xem xét cẩn thận khi chọn lựa thực phẩm, sáng suốt tránh những thức ăn nặng nề khó tiêu, một ít thức ăn lành và tinh khiết được tiêu hóa hoàn toàn, thế là đủ, nó gồm Sữa, mật ong, bánh mì lức (làm bằng bột mì lức), tất cả những loại rau trồng ngoài nắng, các loại cam chanh (nhất là cam), chuối, nho khô, những hạt có chất béo, khoai tây, gạo lức, và tôi xin lặp lại là chỉ cần [335] bao nhiêu thứ đó cũng đủ bảo đảm cho sự hoạt động của người đạo sinh.
- Sự sạch sẽ. Dùng nhiều nước để gội rửa bên ngoài và bên trong cơ thể, là điều rất cần thiết.
- Giấc ngủ. Nên luôn luôn ngủ từ 10 giờ đêm đến năm giờ sáng, càng ngủ ngoài trời nhiều càng tốt.
- Ánh nắng. Rất cần nên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vì các tia nắng mang lại sinh lực cho cơ thể. Ánh nắng diệt các loại vi trùng và giúp ngăn ngừa bệnh tật.
Khi bốn yêu cầu này được chú tâm thực hiện đầy đủ thì một tiến trình thải trừ rõ rệt sẽ tiếp diễn, và trong vòng vài năm toàn bộ xác thân sẽ từ từ chuyển sự phân cực lên cao hơn để rốt cuộc chúng ta có được một thể xác cấu tạo bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử... Việc này có thể cần nhiều kiếp sống, nhưng các bạn nên nhớ rằng cứ mỗi lần đầu thai lại thì mỗi thể vẫn giữ đúng y phẩm chất (xin tạm gọi như thế) của cơ thể trước kia đã bị thải bỏ khi chết. Vì vậy, thời gian dùng để kiến tạo không hề bị mất.
Cuối cùng còn có 2 phương pháp khác có thể dùng để tinh luyện mau có hiệu quả hơn:
- Dùng ánh sáng màu. Những loại ánh sáng này được chiếu vào cơ thể của người đệ tử, tạo tiến trình thải bỏ tạp chất và đồng thời kích thích các nguyên tử. Việc này chỉ có thể được thực hiện khi có thêm kiến thức về các Cung. Khi đã biết được cung của hành giả thì có thể kích thích y bằng cách dùng màu sắc của chính y, dùng màu bổ túc của y để thu nạp những chất mới, và dùng màu tương khắc để thải bỏ những chất bất hảo. Về sau sự hiểu biết này sẽ được truyền đạt cho những đoàn thể lớn có phận sự giữ gìn các Bí nhiệm, là Giáo hội và các Hội Tam điểm. Các bạn hãy chờ đợi, vì chưa đến lúc (Hiện tại không áp dụng). Khi các Bí nhiệm được phục hồi thì một số kiến thức loại này sẽ được giao cho hai đoàn thể vừa kể.
- Sự kích thích bằng âm nhạc. Một số âm thanh có thể làm tan rã và đổ vỡ. Một số âm thanh khác lại kích thích và hấp dẫn. Khi biết được âm khóa của cuộc sống hành giả, biết được âm thanh mà y ứng đáp, thì có thể dùng âm thanh để tinh luyện. Hiện nay, tất cả những gì người phụng sự có thể làm là chú tâm vào những điều chính yếu nói trên và tìm cách tiếp xúc với những rung động thanh cao.
Tôi muốn nói thêm một điểm nữa là sự vận dụng điện lực có ẩn bí quyết làm sinh động các thể, đặc biệt là đối với thể dĩ thái hiện nay. Công dụng chính của mặt trời là làm sinh động thể dĩ thái. Sức nóng của mặt trời là điện lực đã được chuyển hóa thích ứng cho nhu cầu của đại đa số các sinh vật trung bình trong mọi giới của thiên nhiên. Khi người đạo sinh càng tiến bộ thì mãnh lực này càng được tăng cường theo từng trường hợp cá nhân. Đây cũng là một bí mật điểm đạo... (TTHM, 336)
+ Thanh luyện thể dĩ thái: Việc thanh luyện này trùng với việc thanh luyện thể xác. Phương pháp chính yếu cũng gồm cách sống dưới ánh sáng mặt trời, che chở cho khỏi lạnh và tiêu hóa một vài hỗn hợp gồm các sinh tố mà không bao lâu nữa sẽ được đưa ra cho nhân loại. .... Việc nghiên cứu các bệnh của thể dĩ thái – bệnh sung huyết (congestion) và gầy yếu (atrophy) – không bao lâu nữa sẽ là một nghiên cứu được nhận biết và sẽ đưa đến các cách chữa trị và các công thức nhất định. .. hãy làm cho thể xác nhị phân được nhạy bén là chú ý đến các quy luật nói trên và để cho thời gian đảm trách phần việc còn lại.
+ Đối với con người, bí nhiệm của sự giải thoát nằm trong việc làm cân bằng các mãnh lực và làm quân bình các cặp đối hợp. (LVHLT, 225)
+ Tuyến tùng quả là cơ quan bên ngoài, ở cõi trần của nội nhãn thông. (LVLCK, 965)
+ Hình Hài của Phàm-Ngã, hiện thể đó bằng chất hồng trần, chất cảm dục và chất trí, vốn cung cấp phương tiện tiếp xúc trong ba cõi thấp. Nó được tạo ra trong mỗi kiếp sống, chủ âm (key) rung động được thiết lập trong kiếp sống trước kiếp sống hiện tại. Hình hài đó tỏ ra thích hợp đối với người trung bình và phục vụ y cho đến khi chết. Người đang bước vào trên con đường huyền bí bắt đầu với hiện thể được cung cấp, nhưng trong khi lâm phàm, luôn kiến tạo cho y một hiện thể mới hơn và tốt đẹp hơn, và càng tiến hóa thì y càng hành động một cách có ý thức hơn. Điều đó dẫn đến sự rối loạn liên tục và sức khỏe thường không tốt ở người sơ cơ (beginner) trong đời sống huyền linh. Y cảm nhận được thiên-luật, y nhận thức sự cần thiết của việc nâng cao chủ âm (key) của y, và thường thì y bắt đầu với những sai lầm. Y bắt đầu kiến tạo thể xác của mình một lần nữa bằng chế độ ăn kiêng và giới luật, thay vì hoạt động từ trong ra ngoài. Bằng giới luật cẩn thận của tâm trí, bằng việc vận dụng chất liệu tư tưởng, và bằng sự chuyển hóa cảm xúc, đi đến việc thể hiện ra trên cõi trần. Thêm vào hai điều trên, sự thanh khiết ở cõi trần đối với thực phẩm và cách sống, và trong thời gian bảy năm, người ấy đã xây đắp cho chính mình ba thể mới xung quanh các nguyên-tử thường tồn. (LVHLT, 263)

Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạo - Điểm đạo
Xem: Đức Phật dậy Ăn chay - Ăn Thịt
Xem: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái 
Xem: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí

+ Thống nhất thuật ngữ giữa các tác giả dịch Minh triết mới:
- Từ Tập đoàn Tiên Thánh hoặc Hội đoàn Tiên thánh: Thánh đoàn.
- Từ thể phách, thể vía: Thể dĩ thái (hoặc thể sinh lực) và thể tình cảm.
- Từ Đệ tử nhập môn: Đệ tử Chính thức/ Accepted Disciple.
+ Thể sinh lực tức là thể dĩ thái (LVHLT, 206)
+ Thể dĩ thái là một mạng lưới các dòng năng lượng, các tuyến lực và ánh sáng. Dọc theo các tuyến năng lượng này, các mãnh lực vũ trụ tuôn chảy, giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và động mạch (Nguồn)
+ Thể dĩ thái: Thể xác con người có 2 phần: Nhục thể và thể dĩ thái. Nhục thể được tạo thành bằng chất liệu của 3 phân cảnh thấp nhất của cõi trần. Thể dĩ thái được tạo thành bằng chất liệu của 4 phân cảnh cao hay phân cảnh dĩ thái của cõi trần. (ĐĐNLVTD, 218)
- Ẩn dưới xác thân và hệ thống thần kinh phức tạp và bao quát của nó, là một thể sinh lực hay thể dĩ thái vốn là đối phần và là hình hài đích thực của trạng thái hữu hình bên ngoài của cõi hiện tượng. Đó cũng là môi trường/ phương tiện chuyển thần lực đến tất cả các phần của thân thể con người và là tác nhân thừa hành của sự sống nội tại và tâm thức. Nó qui định và chi phối thể xác, vì chính nó là nơi lưu trữ và nơi truyền chuyển năng lượng từ các trạng thái bên trong khác nhau của con người và cũng từ môi trường mà trong đó, cả con người bên trong lẫn con người bên ngoài đều có được sở trường. Khoa học đang chứng minh điều này (CTHNM, 17).
- Bảy trung tâm lực chính vốn là một kiểu của các tác lực phân phối và các bộ pin điện, cung cấp mãnh lực năng động và năng lượng định tính cho con người; chúng tạo ra các hiệu ứng rõ rệt lên biểu lộ vật chất bên ngoài của y. “Việc kiểm soát sắc tướng qua bộ 7 năng lượng” là một qui luật không thể thay đổi trong việc cai quản bên trong của vũ trụ chúng ta và của thái dương hệ đặc biệt của chúng ta, cũng như trong trường hợp của con người cá biệt (CTHNM, 19)
- Nhà huyền linh không bận tâm đến nhục thể. Y xem thể dĩ thái mới là hình hài đích thực còn nhục thể được xem như chỉ là vật chất dùng để lấp đầy hình hài này. Thể dĩ thái là hình hài chủ yếu đích thực, cái khung sườn, vật liệu làm giàn giáo mà nhục thể tất nhiên phải phù hợp với nó. (ASCLH, 348–349)
+ Thể dĩ thái kép là bản sao chính xác từng phần của thể hồng trần hữu hình; qua trung gian nó, mọi dòng điện và sinh lực được cung cấp cho những hoạt động của thể hồng trần (Xem nguồn)
- Thể dĩ thái, vốn là một mô phỏng đúng y như đối phần trọng trược của nó, là cơ quan của lửa linh hoạt hay lửa bức xạ, và, như được biết rõ, đó hiện thể của prana. Chức năng của nó là tích chứa các tia sáng bức xạ và nhiệt nhận được từ mặt trời và truyền chúng, qua lá lách, đến mọi phần của thể xác => Xương sống và Lá lách cực kỳ quan trọng cho sức khỏe thể xác con người. Khi lò lửa vật chất cháy sáng và khi nhiên liệu của thể xác (tức tia prana) được đồng hoá một cách thích ứng, xác thân con người sẽ vận hành như ý muốn (LVLCK, 75)
+ Cấu tạo Thể Dĩ thái: b/ Điều hơi kỳ lạ là trong giới nhân loại và chỉ giới nhân loại, thể dĩ thái ngày nay được tạo thành bằng 4 loại chất dĩ thái.... Chất liệu vận hà/ ống vận chuyển làm bằng prana hành tinh, tức năng lượng đem lại sự sống, sức khỏe chính hành tinh. Các ống này có thể chuyên chở tất cả hoặc bất cứ năng lượng có thể có nào – thuộc tình cảm, trí tuệ, Chân ngã, thượng trí, bồ đề hay thuộc niết bàn, tùy theo trình độ tiến hóa mà người có liên hệ đã đạt đến (Chân Sư DK)
+ Thể Dĩ Thái:
- Khái niệm, nằm sau các lý thuyết chiêm tinh học, là thể dĩ thái của bất kỳ hình hài nào cũng tạo thành một phần của thể dĩ thái của thái-dương-hệ, và do đó là trung gian cho việc truyền các năng lượng của mặt trời, của các lực hành tinh, và của các xung lực ngoài thái dương hệ hay vũ trụ, mà về mặt nội môn được gọi là “các linh khí”. Các lực và năng lượng này của các tia vũ trụ không ngừng luân lưu và đi theo các đường lối rõ ràng xuyên qua tất cả các phần trong dĩ thái không gian, và do đó liên tục đi qua các thể dĩ thái của mọi hình hài thông thường. Đây là một chân lý cơ bản và phải được ghi nhớ kỹ,
- Ý tưởng cơ bản thứ hai là sự đáp ứng của hiện thể dĩ thái của tất cả các hình hài và khả năng của nó để chiếm hữu, để sử dụng, và để truyền tải, đều phụ thuộc vào điều kiện của các bí huyệt, tức là của các luân xa như chúng được gọi ở Phương Đông. Chúng bao gồm không chỉ bảy bí huyệt chính được biết rõ mà còn vô số các xoáy lực nhỏ mà cho đến nay chưa được đặt tên và chưa biết đến ở Phương Tây. Nó cũng phụ thuộc vào tính chất của hiện thể dĩ-thái, vào tính sinh động của nó, và cũng phụ thuộc vào mạng lưới xen kẽ mà các bí huyệt tọa lạc ở đó, và tất cả được gọi là “mạng lưới” (“web”) hay “kim bôi” (“golden bowl”). Nếu lưới này sạch hết những trở ngại và chất lắng đọng (sediment), và nếu các vận hà (channels) của nó không bị tắc nghẽn thì các tia sáng, các năng lượng và các thần lực đang lưu thông có thể tìm thấy một phương tiện dễ dàng và có thể lưu thông không bị cản trở xuyên suốt toàn bộ cơ thể. Khi đó chúng có thể sử dụng các bí huyệt này, vốn đáp ứng với các rung động của chúng, và có thể được tiếp tục đi xuyên qua các hình hài trong các giới khác hoặc cùng giới trong thiên nhiên. Ở đây ẩn chứa bí mật của mọi việc chữa trị khoa học và huyền bí. Các nhà chữa trị đang thử nghiệm với thể dĩ thái và tuy vậy, họ ít có hiểu biết thực sự. Họ biết rất ít hoặc không biết gì về các bí huyệt trong chính cơ thể của họ, mà qua đó các luồng từ lực hoặc các luồng khác phải chảy qua; họ không biết về tình trạng của các bí huyệt dĩ thái của những người mà họ tìm cách chữa trị và về bản chất của các lực mà họ muốn vận dụng. Tất cả những gì họ có thể làm là gìn giữ giới luật trong đời sống của họ, và kiểm soát những ham muốn của họ sao cho họ tạo ra một cơ thể lành mạnh, và cung cấp các vận hà thông thoáng cho đường đi của các mãnh lực từ họ và xuyên qua họ đến những người khác.

Khái niệm thứ ba phải được lưu ý, đó là các hình hài đó, cho đến nay chủ yếu đáp ứng với các lực vốn đến với chúng từ các hình hài khác trên hành tinh, với bảy loại năng lượng cơ bản phát ra từ bảy hành tinh, và cũng với tia sáng mặt trời ban phát sự sống. Mọi hình hài trong cả bốn giới đang đáp ứng với nhiều mãnh lực này, với bảy năng lượng này và với tia (ray) duy nhất. Gia đình nhân loại cũng đáp ứng với các năng lượng khác và với các tia mặt trời – tuy nhiên tất cả đều bị nhuốm màu bởi mãnh lực được tạo ra trong vòng giới hạn thái dương (solar ring-pass-not). (LVHLT, 290-291)
+ Nói chung, công việc của giới nhân loại là để truyền năng lượng cho các giới thấp trong Thiên Nhiên, Thánh đoàn cho nhân loại (Các năng lượng này khi hạ thấp xuống để truyền đi, sẽ phân hóa thành các lực) (LVHLT, 291)
+ Thể Dĩ Thái: Chức năng quan trọng nhất của thể dĩ thái là dẫn truyền năng lượng sống hay sinh lực từ trường vũ trụ sang trường cá nhân, và từ đó đến cơ thể vật lý. Đó là mối liên hệ chính yếu với đại dương năng lượng sống duy trì toàn bộ thế giới tự nhiên... Với phương Đông, sinh lực, được gọi là prana, luôn luôn được coi là lực vũ trụ trong tự nhiên liên quan mật thiết đến hô hấp và hơi thở.
Đối với những người có nhãn thông, thể dĩ thái ở một người khỏe mạnh trông giống như một mạng lưới các đường từ lực sáng trắng tinh tế, vuông góc với bề mặt da. .. Mỗi bộ phận của cơ thể đều có đối phần tương ứng ở thể dĩ thái, qua đó năng lượng dĩ thái tuần hoàn liên tục.
Màu sắc của thể dĩ thái là màu xám-xanh lơ nhạt hay là màu xám-tím, chói sáng một cách lờ mờ, trông giống như làn không khí nóng dợn sóng trên mặt đường trong những ngày trời nóng. Ở một người bình thường, thể dĩ thái ló ra khỏi cơ thể từ năm đến bảy centimet (2-3 inch) và hòa lẫn vào trường năng lượng dĩ thái xung quanh - Một đại dương năng lượng thường xuyên chuyển động một cách lẹ làng nhanh chóng, bao quanh thể dĩ thái giống như bầu không khí bao quanh quả đất
Thể dĩ thái không phải là một dẫn thể của tâm thức, nó giữ vai trò dẫn truyền tâm thức đến bộ óc xác thịt, và nếu vì lý do gì đó thể dĩ thái bị tách rời khỏi thể vật lý, kết quả sẽ tạo ra những rối loạn và bệnh tật cho cơ thể.
Có một mạng lưới dĩ thái .. như một lớp lá chắn tự nhiên giữa thể dĩ thái và thể cảm dục, và bảo vệ con người khỏi sự liên thông giữa hai thể này quá sớm. .. Nó có tác dụng như một thiết bị bảo vệ, và những tổn thương của nó đều gây nên những hậu quả nghiêm trọng, vì điều này mở ra cánh cửa đến với các nguồn lực vượt quá sự kiểm soát của cá nhân...nếu bị rách lưới dĩ thái ..., là nguồn cơn của thói nghiện rượu, sử dụng ma túy và các chất kích thích tương tự.(Nguồn: Luân xa và năng lượng)
Xem thêm: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem thêm: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí

+ Tình trạng mất sinh lực của thể xác. Điều này do các nguyên nhân khác nhau, như là:
a/ Thể dĩ thái hay thể sinh lực suy yếu.
b/ Bệnh hoạn ở thể xác, hoặc là bẩm sinh, hoặc là mang lại từ một kiếp sống khác, ngẫu nhiên hay do các phản ứng tình cảm sai lầm, hoặc là được tạo ra theo kết quả của nghiệp quả tập thể, như là bệnh dịch.
c/ Bầu không khí. Điều này đôi khi bị bỏ qua, nhưng tình trạng của khí quyển, bản chất của khí hậu, độ dày đặc, độ ẩm hay độ khô ráo, nóng hay lạnh đều có hiệu quả nhất định vào cảnh quan tâm lý.  (LVHLT, 306–309)

+ Sinh lực (vital forces):
- Sinh lực (life force, prana, vitality) tức là từ lực (magnetism). (TVTTHL, 245)
- Sinh lực thuộc nhiều loại, đều chỉ là chất dĩ thái của không gian, chuyển động thường xuyên, đi qua lớp vỏ bên ngoài (outer sheath). (LVHLT, 289)
+ Từ lực là hiệu quả của cung thiêng liêng (Cung Bác ái ) khi biểu lộ, với cùng ý nghĩa rằng Điện năng là hiệu quả biểu lộ của cung nguyên thuỷ (Hoạt động sáng suốt) của Thông tuệ linh hoạt. Nên suy ngẫm kỹ về điều này vì nó nắm giữ một bí nhiệm (LVLCK, 59)
+ Năng lượng sinh lực hay sinh khí (Pranic energy or vitality):  Đây là sinh lực (vital force) có sẵn trong chính vật chất và mọi hình hài đều chìm ngập trong đó, vì chúng tạo thành các phần tử hoạt động của hình hài lớn hơn. Mọi hình hài đều đáp ứng với năng lượng này. Loại năng lượng này xuất phát từ mặt trời hồng trần và tác động tích cực lên các thể sinh lực của mọi hình hài trong cõi thiên nhiên (natural world), kể cả hình hài vật chất (physical form) của chính nhân loại. Theo thuật ngữ của Minh triết Vô Thủy (Ageless Wisdom), cả ba năng lượng này được gọi là lửa điện, lửa thái dương và lửa do ma sát. (LVHLT, 526)
+ Sinh lực: Theo y học Trung Hoa, sinh lực là năng lượng hay lực sinh sống được vận chuyển qua toàn thân thể; sức lực hệ trọng này lưu hành trong toàn thể vũ trụ.(Định nghĩa sinh lực - thuvienhoasen)

+ Ngài Bồ Tát Địa Tạng: Quý vị sẽ hỏi: “Tôi tưởng rằng chỉ có các bồ-tát đến từ tám hướng và phương trên. Nhưng cũng có bồ-tát đến từ phương dưới hay sao?”
Vâng, đó là Địa Tạng Bồ-tát chẳng hạn. Ngài đặc biệt chăm sóc mọi chúng sinh ở cõi ta-bà và các cõi giới ở phương dưới.
Bồ-đề tát-đỏa là người đã tự giác ngộ và giác ngộ cho mọi chúng sinh. Chính họ cũng là một hữu tình cũng giống như mọi chúng sinh khác, nhưng là người đã đạt được giác ngộ.
Bồ-tát là người đã tự mình tu tập giác ngộ và có năng lực giác ngộ cho người khác. Họ có thể làm lợi lạc cho chính mình và lợi lạc cho mọi loài chúng sinh. Nhưng họ chưa chứng quả vị Phật nên được gọi là bồ-tát. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1)
+ Công đức lế lạy ngài Địa Tạng Bồ Tát: Trong Kinh nói ngài Địa Tạng Bồ Tát "là mẹ" vô lượng chư Phật, hiểu là rất nhiều đức phật thành đạo đều do Bồ Tát Địa Tạng dạy bảo. Cho nên lễ lạy xưng danh cúng dường Địa Tạng Bồ Tát được nhiều công đức nhất, hơn cả Phổ Hiền Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Trí Bồ Tát ..., sự khác biệt là do mỗi chúng sanh chúng ta đều có duyên sâu với đức Bồ Tát Địa Tạng, vì ngài đã thành đạo Bồ tát quá lâu xa. (Nguồn: PS Định Hoằng giảng phút 119)
+ Lợi ích khi nghe, nhìn, đọc hay lễ lạy Địa tạng Vương Bồ tát cũng đều được lợi ích. Lợi ích với Thiên nhân cũng rất viên mãn:
- Chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa. Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phục v. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài. Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.”....
- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Ta lại nói cho các ông nghe về một cảnh giới không thể nghĩ bàn nữa. Vào đời vị lai, nếu có kẻ nam người nữ nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, năm tuổi, mười tuổi trở xuốngchết mất cha mẹ - cha mẹ đã qua đời hoặc bị mất tích, cho đến chết mất anh em chị em - có anh em trai hay chị em gái bị chết hoặc thất lạc, người đó khi khôn lớn thường nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng quyến thuộc, song không rõ họ lạc vào chốn nào, sanh về thế giới nào, hoặc sanh trong cõi trời nào.” Đến tuổi trưởng thành, người đó thường nhớ nghĩ và thắc mắc không biết cha mẹ, anh em, chị em cùng các thân quyến của mình đang trôi nổi lưu lạc ở nơi nào trong sáu nẻo đường—chẳng rõ họ được sanh thiên, được làm người, hoặc bị chuyển làm thân A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, hay đọa địa ngục. ...
Bất luận là nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng hay trông thấy hình tượng của Ngài, người đó đều thiết tha chiêm lễ cúng dường, thì quyến thuộc của người đó, giả dụ vì nhân duyên nghiệp chướng và căn cứ theo tội chướng mà họ đã tạo ra thì họ phải bị đọa lạc trong bốn đường ác—A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—phải trải qua đến không biết bao nhiêu đại kiếp mới được giải thoát, thì giờ đây, nhờ vào công đức đắp vẽ và chiêm lễ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng của người đó, họ sẽ được thoát khỏi mọi nghiệp tội, được sanh trong cõi người hoặc cõi trời, hưởng thọ sự vui sướng thù thắng nhất, vi diệu nhất.
- “Như người đó lại có thể trong 21 ngày nhất tâm chiêm lễ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng và niệm danh hiệu của Ngài đủ một vạn biến, thì sẽ được Bồ Tát hiện thân vô biên, mách bảo người đó cõi giới mà hàng quyến thuộc đã sanh về; hoặc trong giấc mộng, Bồ Tát hiện đại thần lực, đích thân dắt người đó đến các thế giới để thấy hàng quyến thuộc của mình.
- Nếu người đó lại có thể mỗi ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát 1000 biến, luôn đến 1000 ngày, thì người đó sẽ được Bồ Tát sai các quỷ thần và thổ địa sở tại hộ vệ trọn đời, hiện đời y phục thức ăn dư dật, không có các thứ bệnh khổ, cho đến các hoạnh sự còn không hề vào đến cửa, huống nữa là đến nơi thân! Người đó rốt ráo sẽ được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
- Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu Đạo Bồ Đề Vô Thượng, muốn ra khỏi Tam Giới; những người đó thấy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe danh hiệu, rồi chí tâm quy y, hoặc đem hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn thức uống để cúng dường chiêm lễ, thì điều nguyện cầu của các thiện nam thiện nữ đó sẽ chóng được thành tựu, vĩnh viễn không bị chướng ngại.”
-  Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức điều nguyện, trăm ngàn vạn ức sự việc về hiện tại cùng vị lai, thì nên chỉ quy y, chiêm lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; thì các điều sở nguyện sở cầu như thế tất đều thành tựu cả.
- Nếu lại cầu mong Bồ Tát Địa Tạng, đấng đầy đủ lòng đại từ bi, mãi mãi ủng hộ cho mình, thì người đó trong giấc chiêm bao liền được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
- Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng, dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được; những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng. “Những hạng người này, khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thì nên đem hết bổn tâm mà cung kính bày tỏ; rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, cùng tất cả đồ chơi cúng dường Bồ Tát. Lại đem một chén nước trong đặt trước Bồ Tát một ngày một đêm, sau đó chắp tay thỉnh để uống, mặt day về hướng Nam; khi nước sắp vào miệng phải chí tâm trịnh trọng. Uống nước xong, phải kiêng cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày. Những người thiện nam thiện nữ này, trong giấc chiêm bao sẽ thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên đến chỗ họ ở mà rưới nước quán đảnh cho. Những người này thức dậy liền được thông minh, các kinh điển một phen lọt vào nhĩ căn thì liền nhớ mãi, không còn quên một câu kinh hay một bài kệ nữa!”
- Vào đời vị lai, nếu có những người nào ăn mặc không đủ, cầu gì cũng trái nguyện, hoặc nhiều bệnh tật, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc bị phân tán, hoặc các hoạnh sự cứ xảy đến làm thiệt thân, khi ngủ thường mộng thấy điều kinh sợ; những người như thế, khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, mà chí tâm cung kính niệm đủ một vạn biến, thì những sự không như ý sẽ tiêu sạch lần lần, liền được an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an vui.”
- Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì việc công chuyện tư, hoặc vì sự sanh sự tử, hoặc vì việc khẩn cấp, phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn hoặc đi ngang hiểm đạo; người đó trước tiên nên niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến, thì đi qua nơi nào cũng có các vị quỷ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi mãi mãi được an lạc, cho đến dẫu gặp cọp, sói, sư tử... cùng tất cả mọi thứ độc hại, cũng đều không thể làm thương tổn đến được. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - Phẩm 12: Thấy nghe được loại ích)
+ Hỏi đáp về lợi ích đọc tụng, thờ cúng Địa Tạng Bồ Tát tuyệt hay:
Vạn sự việc trên đời, gần gũi với chúng sinh như ốm đau, bệnh tật, tổn thọ, sinh đẻ, phá ác nghiệp chướng, .... đều có hiệu nghiệm nhiệm mầu với người tu - trị tụng Kinh .... (Nguồn: Hỏi Đáp về Địa Tạng Bồ Tát)
+ Bồ Tát các phương, xem trích kinh Hoa Nghiêm: Bồ tát trú xứ tám phương
Thần chú Đức Địa Tạng Bồ Tát: Om Ha Ha Ha Win Sam Mo Ti So Ha ( Đọc: Ôm ha ha ha quin sam mô ti sô hà) Nguồn: Các vị Phật - Bồ tát)

+ Mùa Đông - Phương Bắc: Gồm các nhà số 4, 5 và 6, cho thấy chúng ta sẽ làm gì để tạo ra sản phẩm mang lại an ninh cho bản thân và gia đình chúng ta. Nó mô tả các phương tiện mà qua đó chúng ta có được nhiều cơ sở vững chắc hơn và thiết lập mối quan hệ với gia đình và xã hội. Góc phần tư này là nhà và nơi làm việc, những nơi đó là cơ sở cho sự an toàn của chúng tôi. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Phương Bắc chủ về: Học hỏi kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, phấn đấu lỗ lực ....

+ Góc Mùa Hạ: Đỉnh (cusp) của nhà thứ 10, Midheaven, bắt đầu góc phần tư cuối cùng. Nó đánh dấu thành tựu cá nhân cao nhất mà chúng ta có thể đạt được. Đây là nơi Mặt trời sẽ ở vào đúng trưa, ở đỉnh cao nhất của nó. Trong góc tư này, các mối quan hệ được hình thành để tiếp tục khẳng định và mở rộng sự thành công của chúng ta càng nhiều càng tốt. Đây là hy vọng thực hiện những hoài bão của chúng ta và nơi những mối quan hệ khách quan quan trọng hơn những mối quan hệ cá nhân hay chủ quan. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. (Nguồn: Chiêm tinh học)

+ Góc Mùa Xuân: Trong Chiêm tinh học gồm các Nhà 1, 2 và 3, tương ứng với mùa xuân và sự nổi lên của cá tính. Chính ở đây các giá trị và ý tưởng cơ bản được hình thành. Đây là góc phần tư của tính tự phát và cá tính lớn nhất, nơi mà trí thông minh bẩm sinh, khả năng thích ứng và truyền thông đều hoạt động vì lợi ích tốt nhất của chúng ta. Đó là góc phần tư mà chúng ta xác định những gì chúng ta muốn có trong cuộc sống. Ở đây, người mẹ và thời thơ ấu cũng là những yếu tố quan trọng. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất, Mặt trăng giống phần tư thứ hai, sao Kim giống phần tư thứ ba, và sao Thổ giống phần tư thứ tư. Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. ( Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Mùa Xuân: Quý vị xem, chuyện đốt rừng xua bắt thú, vì sao ở đây nói đến mùa xuân? Sao không nói đến mùa hè, mùa thu, phải nhất định nói về mùa xuân? Mùa xuân là thời kỳ muôn vật sinh trưởng. “Xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàng.” (Mùa xuân sinh sôi nảy nở, mùa hạ lớn lên, mùa thu thâu gồm lại, mùa đông tàng chứa.) Mùa xuân là mùa hết thảy muôn vật đều bắt đầu sinh trưởng, sao có thể nhẫn tâm giết hại? Tâm như vậy là hết sức tàn nhẫn, không có nhân từ, không có thương yêu. Chúng ta đọc qua những lời răn dạy của các bậc hiền thánh xưa, từ những chỗ như thế này thể hội được tấm lòng nhân từ bác của các ngài, cũng từ chỗ này mà học tập, mà nuôi dưỡng thành tập quán, tập quán thương người yêu vật. (Trích: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến 6 / 4 / 2000 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 187, số hồ sơ: 19-012-0187)

+ Thi ân bốn phương: Phật dậy, Ngươi phải thi ân bố thí mới có thể tránh được nạn nghèo. Ngươi không hiểu ý nghĩa của sự vái lạy 6 hướng, để ta giải cho ngươi nghe, nghảnh mặt về hướng nào thì nhớ đối tượng thi ân:

 - Hướng Đông: Cha mẹ

 - Hướng Tây: Vợ con

 - Hướng Bắc: Bằng hữu, thân thuộc.

 - Hướng Nam: Tình Sư - đệ.

 - Hướng trên/ Nhìn Trời: Các nhà Sư đã dạy dỗ ngươi về Đạo-đức.

 - Hướng dưới/ Cúi mặt xuống đất: Nhớ tới bạn bè, tôi tớ, đã giúp ngươi trong công việc làm ăn. (Nguồn: Kinh Thiện Sinh)
+ Bốn phương trời: Nhị thập bát tú 
- Phương Đông chùm sao Thanh Long có 7 sao: Giác, Đê, Cang, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.
- Phương Bắc chùm sao Huyền Vũ có 7 sao: Đẩu, Nữ, Ngưu, Hư, Nguy, Thất, Bích.
- Phương Tây chùm sao Bạch Hổ có 7 sao: Khuê, Vị, Lâu, Mão, Tất, Chủy, Sâm.
- Phương Nam chùm sao Chu Tước có 7 sao: Tỉnh, Qủy, Liễu, Tinh, Dực, Trương, Chẩn.
* Bốn hay sáu phương cũng có sự tương ứng là Tứ tượng trong phong thủy. Lục thú trong Dịch học - 12 Cung Hoàng đạo/ Chòm sao Hoàng đạo .....: Xem Nhị Thập Bát Tú

* Xem thêm: 12 cung Hoàng đạo theo Chiêm tinh phương Tây: Xem 12 cung Hoàng đạo

+ Các pháp tu hành và đoán giải bệnh nạn theo Tâm linh và số mệnh - Cải mệnh: Tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian quy nạp vào 3 loại:
1- Pháp Thế gian: Theo khoa học đời sống THUẦN TÚY, triết lý lấy "Vật chất quyết định ý thức". Cho rằng vạn sự vật "Sinh trưởng phát triển và chết đi" tuân theo quy luật tự nhiên mà có, là pháp vô thần, pháp thiên về KHÔNG, xem như CHẾT LÀ HẾT
 - Không còn gì nữa cả. Về đạo làm người qua ngũ luân, ngũ thường, bát đức ... thì có thể xem là tương ứng pháp Tiểu thừa trong Phật pháp, bởi Phật pháp là giáo dục, bao gồm tất cả các pháp Thế gian - Tâm linh trong đó. Thánh hiền dậy, Phật pháp bao gồm nhưng không chống trái pháp thế gian là vậy.
2- Pháp Khoa học - Tâm linh: Theo khoa học đời sống TÂM LINH, triết lý lấy "Ý thức quyết định vật chất". Vạn sự vật sinh ra và sự sống đều do "Nhân duyên hòa hợp" theo NHÂN NÀO QUẢ ĐẤY mà có, pháp thiên về CÓ Thần, công nhận chết KHÔNG phải là hết, tất cả do vị Thánh Thần, đức Chúa trời ... tùy theo tôn giáo quyết định "Cát hung - Họa phúc". Phật pháp công nhận có Tánh linh luân hồi chuyển kiếp tái sanh, có vô cùng nhiều loại Quỷ Thần, có thể xem ứng với pháp Trung thừa trong Phật pháp. 
3- Pháp Xuất thế gian: Minh triết Phật pháp là pháp cao siêu mầu nhiệm, căn bản nhân loại tiến bộ nhất, thông thái nhất như các nhà Bác học lừng danh cũng chỉ hiểu chút ít, nhiều là khoa học lừng danh đã công nhận triết lý của đức Phật dậy "Tất cả do Tâm tưởng sanh", vừa rất khoa học, vừa rất Tâm linh, công nhận có Nhân quả - Luân hồi - Tái sanh, công nhận sự sống chiếm lấy Vật chất theo Khoa học làm thân thể. Nhưng điểm khác là công nhận chính mình là Linh hồn/ Tánh linh luân hồi theo luật Nhân quả chứ KHÔNG có vị Thần Thánh nào can thiệp vào cuộc sống của mình, kể cả sau khi chết, thân xác tan dã. Do đó, Phật giáo giảng rằng, "Chính mình/  Linh hồn mình" chứ không phải ai khác can thiệp, quyết định số phận của mình, ban phước hay giáng học cho mình, thưởng phạt cho mình ... mà KHÔNG có vị Thần linh nào can thiệp, ban phước hay giáng họa ... cho ai cả. Đây là pháp "Tánh không", hiểu đơn giản là pháp "Vừa có - Vừa không", tức là có bao gồm 2 pháp Khoa học và Tâm linh, nhưng còn tiến lên siêu vượt hơn nữa, nói về sự Diệu nghĩa siêu vượt thượng đẳng này thì không thể dùng ngôn ngữ thế gian hay Tâm linh diễn tả được - Không thể nào.
Tiến hóa trong vũ trụ là "Tâm thức" do Vô minh mà "Sinh vô minh" để rồi đi vào luân hồi hàng tỷ năm, là để tiến hóa qua vật chất thô kệch vô tình, tiến dần tới vật chất hữu tình như cây cỏ, rồi nâng nên đến loài súc sinh có cảm xúc nhưng chưa có trí tuệ, rồi tiến đến loài người trải qua muôn kiếp phiền lão, khổ đau để dần dần phát triển trí tuệ phân biệt, đến trí phân biện, đến trí huệ bát nhà Phật gọi Trí bát nhãTánh không "Diệu Giác Minh Thanh Tịnh Sáng Suốt NHiệm Mầu Bao Trùm" khắp Pháp giới chúng sinh.
+ Dụng pháp Phật dậy thời nay: Thánh hiền thưởng giảng câu "Y Kinh giảng nghĩa - Tam thế Phật oan"? Các ngài giảng rằng, thời nay, việc giảng giải kinh Phật thời nay, nhiều vị thầy, đệ tử Phật bao gồm cả xuất gia và tại gia tu hành tinh tấn, nhưng vẫn thường giảng giải kinh Phật theo lối "Y kinh giảng nghĩa", tức là có mức độ cứng nhắc khác nhau mà chưa xét đến hoàn cảnh ra đời, đối tượng nghe kinh khi Phật thuyết pháp đó ... Các Thầy chưa xét thấu đáo tính thời đại ngày nay, nhân loại đã có trí tuệ rất phát triển, với nền khoa học siêu vượt xa thời đức Phật, và như thế, đối tượng nghe giảng pháp đã khác xa về trí tuệ so với hơn 2.600 năm về trước.
Vấn đề này cũng ứng câu HT Tuyên Hóa có giảng, đại khái "Với pháp ngoại đạo hay tà đạo, bậc Thiện tri thức ứng dụng vẫn có thể có lợi ích to lớn cho chúng sinh. Ngược lại, với pháp Chánh đạo mà người có Tâm tà dụng pháp tìm kiếm danh văn lợi dưỡng thì Chánh cũng thành Tà là vậy". Vậy nên, dụng pháp Chánh hay Tà, căn bản do con người dụng "Tâm Thiện Ác" ứng dụng mà phát huy ra kết quả "Cát hung họa phúc", không phải do Pháp mà ra. (Xem thêm: Diễn giải ứng dụng Phật pháp tu Cải mệnh)
 + Các Pháp Phật: Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật: Thế nào gọi là Phật thuyết hết thảy các pháp
Phật đáp: Phật theo căn tính của chúng sinh và tùy cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi?..... Tất cả 4 loại đó, sau kết tập thành Kinh Tạng. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân - Phẩm Ưu Ba Ly 8)

 + Cung nguyên thủy:
-Cung Nguyên thủy tức cung Trí Tuệ Linh hoạt - Cung III (Ray of Active Intelligence).
-Cung Nguyên thủy là Cung vật chất trí tuệ - Cung III (intelligent matter).
+ Cung Nguyên thủy là hiện thể của Cung Thiêng liêng. (LVLCK, 83, 146, 233)
+ Cung nguyên thủy được gọi là cung Chân Thần (Monadic ray). (TLHNM I, 169)
+ Với Nội Tại - Cung nguyên thủy biểu lộ ra Lửa hoạt nhiệt. Trên cõi cao nhất, sự phối hợp của 3 yếu tố (hoạt nhiệt, tiềm nhiệt và chất liệu nguyên thuỷ mà chúng làm cho linh động) được biết dưới dạng thức ‘biển lửa’, trong đó Tiên thiên khí (akasha) là biến phân thứ nhất của vật chất tiền căn nguyên.(LVLCK, 57)
+ Dĩ Thái: Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Tiên Thiên Khí (Akasha). (GLBN I, 78)
+ Dĩ thái: Là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) trên cõi sự sống Chân Thần, cõi Đại Niết Bàn.
+ Dĩ thái/ Akasha là dĩ thái vũ trụ thứ 2 ở cõi Chân Thần (Cõi Đại Niết Bàn). (LVLCK, 626)

+ Tinh tú quang (Astral light, cảm dục quang): Là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi cảm dục. (LVLCK, 43)
+ Tinh Tú Quang—Astral Light (Thầy Hiệu trưởng trả lời - Anh Kiệt dịch). Câu hỏi: Khi bà HBP nói về tinh tú quang (astral light), nó có nghĩa gì?
Trả lời: đó là một điều thú vị vì bà nói rằng con người đã nhầm lẫn cõi dĩ thái với cõi cảm dục,cõi dĩ thái thực sự sáng chói, tỏa sáng như những ngôi sao, còn Chân sư DK mô tả về thể cảm dục như xám đục, che dấu và không chói sáng như các tinh tú chút nào. Do đó, đã có một sự nhầm lẫn trong huyền bí học, và khi bà HPB nói về tinh tú quang, bà có ý nói về cõi dĩ thái hơn. Sau này, nó đã phát triển thành ý tưởng liên quan với cõi cảm dục. Tôi nghĩ đó là một chủ đề cần nghiên cứu kỹ (Thầy HT).
Tuy nhiên , điều thú vị là những yếu tố của kí ức liên quan đến cảm dục liên quan đến việc ăn chay nghiêm ngặt trong 10 năm. Điều thực sự đáng chú ý ở đây là Sao Kim là hành tinh liên quan đến việc làm trong sáng cõi cảm dục, và Sao Kim cũng là hành tinh có liên quan đặc biệt đến giới thực vật, chứ không liên quan đến giới động vật, ngoại trừ cuối cùng liên quan đến trí năng trong giới động vật. Do đó, khi chúng ta tuân theo phương pháp huấn luyện của sao Kim, chúng ta có thể bắt đầu phát hiện các yếu tố kí ức được tìm thấy trên cõi cảm dục hay cõi trung giới, và điều đó đòi hỏi phải ăn chay nghiêm ngặt 10 năm trước khi có thể làm bất cứ điều gì. Vì vậy, chúng ta đang đề cập đến một công việc khá nghiêm ngặt ở đây nếu chúng ta thực sự muốn thấy rõ ràng bằng cách sử dụng một số quan năng cao siêu mà hiện nay chúng ta chưa thể đạt đến với bất kỳ độ tin cậy nào.
Chúng ta hãy thừa nhận rằng Chân sư DK có một quan điểm rất bao quát, rộng lớn, vì Ngài đã làm chủ mười tám máy cõi phụ thấp, còn chúng ta thì không. Do đó, chúng ta chỉ đang bước xuyên qua chúng, con đường tế vi, ảo tưởng, dễ lạc lối, dễ nhầm lẫn, nhưng chúng ta hỏi đường, liên tục hỏi đường. Hỏi đường nghĩa là liên tục hỏi nhau, hỏi Chân sư, và nhất là hỏi linh hồn của chúng ta những câu hỏi sẽ dẫn chúng ta đến sự mặc khải, vì một câu hỏi đúng sẽ mở ra cánh cửa. Vì vậy, chúng ta hãy đặt câu hỏi và không cần phải lo lắng liệu câu hỏi đó thông minh hay không. Bạn chỉ cần đặt câu hỏi và cuối cùng mọi thứ sẽ mở ra ngày càng nhiều. Đó là những gì tôi cố gắng làm và bạn nên làm.

+ Thiên Bình/ Libra (Thiên Xứng): Hành Không khí/ Dẫn truyền Cung 3; Cần đối tác và bạn bè, dễ tính, đòi hỏi sự công bằng, khoan dung; Quản Nhà 7, có đặc tính tương ứng: Hợp tác và bạn bè
+ Ngoại Môn:
- Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5 (CTHNM, 80)
Khẩu hiệu: Hãy để sự lựa chọn được thực hiện
+ Nội Môn:
 Chủ tinh:  Thiên Vương tinh (Cung 7); Khẩu hiệu: Tôi chọn con đường dẫn giữa hai đường lực lớn
+ Chân Sư DK:
Libra có liên quan chặt chẽ với Ngôi 3 của Chúa Cha và do đó nó là cung đang cai quản và là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này. Cả 3 khía cạnh thiêng liêng... biểu lộ theo 3 cách hay là qua 3 trạng thái thứ yếu,... Chính là qua việc nghiên cứu Libra mà ánh sáng đối với trạng thái thứ 3 sẽ đến. Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, dưới hình thức lập pháp, tính hợp pháp, công lý; Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục; Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ ba là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Toàn bộ tiến trình được giải thích bằng hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn (Xem thêm về Tam giác lực với Libra ở đỉnh; CTHNM, 275)

+ Chức Nghiệp (Chức Vụ - Nghề Nghiệp) Người Cung 2: Cung này được gọi là cung minh triết do ham muốn đặc trưng của nó đối với tri thức thuần túy và chân lý tuyệt đối – lạnh lùng và ích kỷ, nếu không có bác ái, và thụ động nếu không có nghị lực. Khi cả quyền lựcbác ái đều có mặt, bấy giờ bạn có cung của chư Phật và của tất cả các đại huấn sư của nhân loại, – những vị, đã đạt được minh triết vì lợi ích của người khác, dành cuộc đời các Ngài cho việc ban phát nó ra. Môn sinh trên cung này luôn không thỏa mãn với những thành tựu cao nhất của y; bất kể kiến thức của y lớn lao như thế nào, tâm trí của y vẫn cố định vào những gì chưa biết, xa hơn nữa, và vào những đỉnh cao mà cho đến nay chưa ai trèo lên. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)

+ Chức Nghiệp (Chức Vụ - Nghề Nghiệp) Người Cung 1: Điều này đã được nói về cung quyền lực, và được gọi một cách chính xác như thế, nhưng nếu nó là quyền lực một mình, mà không có minh triếtbác ái, thì một mãnh lực có tính phá hoại và gây tan rã sẽ xảy ra. Tuy nhiên, khi ba đặc điểm được kết hợp, nó sẽ trở thành một cung sáng tạo và chi phối. Những người trên cung này có năng lực ý chí mạnh mẽ, đối với điều tốt hay xấu, vì là điều tốt khi ý chí được điều khiển bởi minh triết và thành vị tha bởi bác ái. Người cung 1 sẽ luôn “nổi bật” trong đường lối riêng của y. Y có thể là kẻ trộm hay vị thẩm phán lên án y, nhưng trong cả hai trường hợp, y sẽ ở đầu trong giới của mình. Y là nhà lãnh đạo bẩm sinh trong bất kỳ và trong mọi sự nghiệp công, một người để tin tưởng và dựa vào, một người để bảo vệ những người yếu đuối và dẹp đi sự áp bức, không sợ những hậu quả và hoàn toàn thờ ơ với sự phê bình. Mặt khác, cung một nguyên thủy có thể tạo ra một người tàn ác có bản chất không biết thương xót và khắc nghiệt. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)

+ Chức Nghiệp (Chức Vụ - Nghề Nghiệp) Người Cung 3: Đây là cung của nhà tư tưởng trừu tượng, của triết gia và nhà siêu hình học, của người yêu thích toán học cao cấp, nhưng người này sẽ có thể gặp rắc rối để giữ các giải trình của y một cách chính xác trừ phi y được sửa đổi bởi một cung thực tế nào đó. Khả năng tưởng tượng của y sẽ được phát triển cao độ, tức là, y có thể, nhờ năng lực tưởng tượng của mình, nắm bắt được cốt lõi của một chân lý; lý tưởng của y thường sẽ rất mạnh; y là một người mơ mộng và một nhà lý luận, và từ các quan điểm rộng rãi của mình và sự cẩn trọng lớn lao, y thấy mọi khía cạnh [Trang 205] của một vấn đề rõ ràng như nhau. Điều này đôi khi làm tê liệt hoạt động của y. Y sẽ làm một nhà kinh doanh giỏi; là một người lính, y sẽ vạch ra tỉ mỉ một vấn đề về chiến thuật ở bàn giấy của mình, nhưng hiếm khi y giỏi giang ở chiến trường. Là một nghệ sĩ, kỹ thuật của y không điêu luyện, nhưng các đối tượng của y sẽ đầy suy tư và thú vị. Y sẽ yêu thích âm nhạc, nhưng nếu không được ảnh hưởng của cung 4, thì y sẽ không tạo ra nó. Trong mọi lĩnh vực hoạt động, y có đầy đủ các ý tưởng, nhưng lại quá thiếu thực tế để thực hiện chúng. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)

+ Chức Nghiệp (Chức Vụ - Nghề Nghiệp) Người Cung 4: Cung này đã được gọi là “cung đấu tranh” vì trên cung này, những tính chất của rajas (sự hoạt động) và tamas (tính ì) tương đương rất kỳ lạ về tỷ lệ đến nỗi bản chất của người cung thứ tư bị giằng xé do sự chiến đấu của chúng, và kết quả, khi đạt yêu cầu, được nói đến như là “Sự Sinh ra của Horus,” của Christ, được sinh ra từ những cơn đau của sự đau đớn và đau khổ liên tục. Tamas đem lại tình yêu dễ dàng và niềm vui, một sự căm ghét việc gây đau đớn chung quy là tính sợ chống đối, sự lười biếng, sự trì hoãn, một mong muốn để cho mọi thứ vẫn vậy, để nghỉ ngơi, và để không nghĩ về ngày mai. Rajas thì nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, luôn luôn thúc giục hành động. Các mãnh lực tương phản này trong bản chất tạo nên cuộc sống đầy xung đột liên tục và sự bất ổn cho người cung thứ tư; sự va chạm và kinh nghiệm thu được từ đó có thể tạo ra sự tiến hóa rất nhanh chóng, nhưng người này có thể dễ dàng trở thành một người vừa lười vừa vô trách nhiệm, cũng như một anh hùng. Đó là cung của nhà lãnh đạo kỵ binh hăng hái, không để ý đến những rủi ro cho chính y hay những người theo y. Đó là cung của người sẽ dẫn đến một hy vọng hão huyền, vì trong khoảnh khắc của sự phấn khích, người cung thứ tư hoàn toàn bị chi phối bởi rajas; là cung của nhà đầu cơ và con bạc ngông cuồng, đầy nhiệt tình và dự định, dễ dàng bị áp đảo bởi nỗi buồn hay thất bại, nhưng cũng nhanh chóng phục hồi từ tất cả các vận rủi và những điều bất hạnh. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)

+ Chức Nghiệp (Chức Vụ - Nghề Nghiệp) Người Cung 5: Đây là cung khoa học và nghiên cứu. Người cung này sẽ có trí tuệ sắc sảo, tính chính xác cao trong từng chi tiết, và [trang 208] sẽ thực hiện những nỗ lực không mệt mỏi để truy ra sự thật nhỏ nhất đến tận nguồn cội của nó, và để xác minh mọi lý thuyết. Y thường sẽ vô cùng trung thực, đầy đủ lời giải thích dễ hiểu về các sự kiện, mặc dù đôi khi có vẻ như đầy mô phạm và đáng chán từ sự khẳng định của y do việc nói ra những chi tiết vụn vặt tầm thường và không cần thiết. Y sẽ có tính ngăn nắp, đúng giờ, tháo vát, không thích nhận những ưu đãi hoặc sự nịnh hót. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)

+ Chức Nghiệp (Chức Vụ - Nghề Nghiệp) Người Cung 6:
Đây được gọi là cung sùng tín. Người thuộc cung này có đầy các bản năng và các xung lực tôn giáo, và có cảm giác cá nhân mãnh liệt; không có vẻ trầm tĩnh. Tất cả mọi thứ, trong mắt y, hoặc là hoàn hảo, hoặc không thể chịu nổi; bạn bè của y là những thiên thần, kẻ thù của y thì rất là trái ngược; quan điểm của y trong cả hai trường hợp, được hình thành không phải dựa vào giá trị nội tại của một trong hai nhóm, nhưng theo cách mà những người yêu cầu y, hoặc do sự thiện cảm hay thiếu thiện cảm mà chúng tỏ ra đối với các thần tượng yêu thích của y, cho dù những thần tượng này cụ thể hay trừu tượng, vì y đầy lòng sùng kinh, có thể là với một người, hoặc với một nguyên nhân. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)

+ Chức Nghiệp (Chức Vụ - Nghề Nghiệp) Người Cung 7:
Đây là cung nghi lễ, cung vốn làm cho một người thích thú với “mọi thứ được thực hiện một cách tươm tất và trong trật tự”, và theo quy luật và tiền lệ. Đó là cung của vị thượng tế và quan thị vệ của tòa án, của nhà quân sự vốn là một thiên tài bẩm sinh trong việc tổ chức, sĩ quan quân nhu lý tưởng vốn bày biện và nuôi quân theo cách tốt nhất có thể. Đó là cung của y tá hoàn hảo đối với người bệnh, cẩn thận trong từng chi tiết nhỏ nhất, mặc dù đôi khi quá có khuynh hướng không để ý đến khí chất của các bệnh nhân và cố dồn ép họ trong sự khắc nghiệt sắt đá của thói quen thường ngày. Đó là cung của hình thức, của các nhà điêu khắc hoàn hảo vốn nhìn thấy và tạo vẻ đẹp lý tưởng, của nhà thiết kế những hình thức và mô hình đẹp đẽ thuộc bất kỳ loại nào; nhưng một người như vậy sẽ không thể thành công [Trang 211] với cương vị một họa sĩ, trừ khi cung ảnh hưởng của y là cung thứ tư. Sự kết hợp của cung bốn với cung bảy sẽ tạo ra loại nghệ sĩ cao cấp nhất, cả hình thức và màu sắc đều nổi trội. Tác phẩm văn học của người cung bảy sẽ đáng chú ý vì phong cách cực kỳ tao nhã của nó, và một nhà văn như vậy sẽ nghĩ xa hơn về phong cách so với nội dung trong tác phẩm của mình, nhưng sẽ luôn luôn trôi chảy cả trong viết và nói. Người cung bảy thường sẽ có tính bè phái. Y sẽ vui thích với các nghi thức và các lễ lạc cố định, với các cuộc diễu hành và trình diễn lớn, với các cuộc thao diễn quân và tàu chiến, với các cây phả hệ, và với các quy tắc về quyền ưu tiên. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)

+ 5 Hành tinh không thánh thiện, gồm:
1. Hỏa tinh (Mars) …………… Cung 6

2. Địa cầu (Earth) ………….… Cung 3
3. Diêm vương tinh (Pluto) .…. Cung 1
4. Nguyệt cầu (Moon), che khuất 1 HT ẩn tàng ... Cung 4
5. Mặt trời (Sun), che khuất 1 HT ẩn tàng ...
+ Tương ứng cung Hoàng đạo và Phàm ngã: Thật là lý thú, các hành tinh không thánh thiện chi phối các cung thứ nhất, thứ tư, thứ năm và thứ tám trong hoàng đạo nhỏ và Địa Cầu - Hành tinh không thánh thiện => Bạn có 4 hành tinh không thánh thiện, đang kiểm soát hay chi phối 01 hành tinh không thánh thiện thứ 5 – Một tương ứng với 4 trạng thái của phàm ngã:
(i)- Xác thân bên ngoài
(ii)- Thể dĩ thái hay là thể sinh lực
(iii)- Thể cảm dục và
(iiii)- Thể hạ trí, cộng với sự dung hợp với thể thứ 5, tức Phàm ngã (CTHNM, 567)

+ Một hành tinh không thánh thiện như là Địa Cầu thì vẫn còn tuân phục vào cung Phàm ngã của Đấng (Life) đang làm cho nó linh hoạt, còn phần tương ứng với cung Chân Thần nội môn thì chưa hữu hiệu. (CTHNM, 363)
-  Thượng Đế của hành tinh không thánh thiện nhận được 3 cuộc điểm đạo vũ trụ.(CTHNM, 504)
+ Các ác tinh: 
A Nan, chúng sinh trong cõi nước, chỗ nào nơi nào có được chú này, thì thiên long vui mừng, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa, chúng dân an vui.
Lại có thể trấn được tất cả các ác tinh, chúng tùy nơi mà biến ra nhiều điều quái dị, tai chướng không khởi lên, người không chết bất ngờ, chết yểu, gông cùm, xiềng xích không mang vào thân, ngày đêm ngủ yên, thường không ác mộng.
A Nan, cõi ta bà này có 84 nghìn ác tinh tai biến, 28 đại ác tinh làm thượng thủ, lại có 8 đại ác tinh làm chủ, xuất hiện trên đời với nhiều hình dạng, có thể sinh ra các tai nạn kỳ dị cho chúng sinh.
Giảng: ... Ở Trung Quốc, hai mươi tám chòm sao phân chia thành bốn hướng mỗi hướng có bảy sao. Theo thiên văn Trung Quốc, các chòm sao được đặt định tương ứng với thời gian ngày, giờ. Mỗi chu kỳ là hai mươi tám ngày – theo tháng Âm lịch. Nếu một người thiện, các sao dữ sẽ biến thành thiện. Nếu như người ở nơi dữ thì các thiện tinh cũng sẽ biến thành hung tinh. Do đó, không có vì sao nào nhất định là hung, là cát – điều đó còn tùy thuộc ở nghiệp quả và các hành vi thiện – ác. Ở đây nói đến các ác tinh, và chú lăng Nghiêm có công năng hóa giải. Theo bản kinh, những ác tinh đó là điềm xấu, chỉ mang lại bất hạnh. Đối với các ác tinh – biểu hiện cho điềm dữ, nếu một người thiếu đi thiện căn, hoặc kém phúc đức, dĩ nhiên, người đó sẽ gặp nhiều điều bất lợi. Nhưng nếu anh ta trì tụng chú Lăng Nghiêm, những bất lợi kia sẽ biến thành lợi lạc cho người đó.
Lược kê 28 sao và 8 đại ác tinh là các Hành tinh: Mộc - Hỏa - Thổ - Kim - Thủy - La hầu - Kế đô. (Xem Nhị thập bát tú trong kinh). (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên hóa giảng)

+ Kim luân (Kim luân không nên hiểu là Kim loại/ Hành kim):
I. Kim Luân. Cũng gọi Kim tính địa luân, Địa luân, Địa giới. Một trong 3 luân (phong, thủy, kim), hoặc 1 trong 4 luân (không, phong, thủy, kim). Vũ trụ luận của Ấn độ đời xưa cho rằng lớp dưới cùng của thế giới là hư không, trên hư không có phong luân, trên phong luân lại có thủy luân, trên thủy luân lại có kim luân. Do sức nghiệp của loài hữu tình khuấy động thủy luân, nên trên mặt thủy luân kết thành kim luân (lớp vàng rất dày). Các thế giới hiện thực như: Núi, biển, đảo, v.v... đều kiến lập và tồn tại trên kim luân. Phía dưới cùng của kim luân gọi là Kim luân tế (mé kim luân)
II. Kim Luân. Gọi đủ: Kim luân bảo. Cũng gọi: Luân, Luân bảo. Vũ khí hình bánh xe làm bằng kim cương (một trong 7 thứ báu) là vật cầm tay của vua Chuyển luân Thánh vương. Truyền thuyết cho rằng tùy theo luân bảo chuyển động xoay về hướng nào thì nơi ấy đều qui phục. Chuyển luân Thánh vương cầm Kim luân bảo gọi là Kim luân vương (gọi tắt là Kim luân). Trong 40 tay của bồ tát Thiên thủ Quan âm, tay cầm Kim luân được gọi là Kim luân thủ.
(1) Nơi sâu tận cùng của thế giới là Phong Luân, Phong Luân này nương vào hư không.... Trên Phong Luân có Thủy Luân, ... Trên Thủy Luân có Kim Luân, ... được hình thành từ kim cang hình vòng tròn. Trên Kim Luân này lại có chín núi tám biển, gọi là Địa Luân. ... Địa Luân rất dày. Như vậy Kim Luân này còn có nghĩa là đại địa, vũ trụ, thế giới.
(2) Là tên gọi của một trong 7 loại báu do Chuyển Luân Thánh Vương cảm đắc được. ... Cụ thể xem thêm nguồn: Kim luân - thuvienhoasen.
+ Kim luân - Thành lập khí thế gian:
Phong luân ở dưới cùng,
Bề trên là thủy luân. (Hơi nước ngưng tụ mưa xuống thành nước)
Phần nước ở dưới sâu tám ức, 
Phần còn lại ngưng kết thành vàng
Thủy luân và kim luân Có đường kính mười hai ức - Ba ngàn bốn trăm năm mươi; Chu vi gấp ba lần.]
Giảng: Phong luân - Thể của nó thuộc chất rắn. Giả sử như có một đại Nặc-kiện-na (mahānagna) dùng kim cương ném vào nó thì kim cương sẽ bị vỡ tan mà phong luân vẫn không tổn hoại gì.
Vàng, bạc, các chất báu và đất được cấu tạo như vậy đã kết tụ lại nhờ các thứ gió do nghiệp lực tạo ra; và chúng đã tạo thành núi cũng như các đại châu. (Nguồn: Câu Xá luận - BT Thế Thân)
+ Kim luân - Đức Phật dậy:
- Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động => Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (Kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
- Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng => Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó.
- Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì => Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn.
- Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó:
=> Trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
- Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
- Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
* Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xátsinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
- Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau.
=> Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
* Vạn sự đều do Tâm tưởng sanh - Chúng ta tạo ra Thế giới này: Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Phật dậy về Các Đại - Lê sỹ Minh Tùng)
+ Kim luân: Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”....
-Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mê muội, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Nên có phong luân nắm giữ thế giới.
-Nhân hư không mà có sự lay động, phát minh ra tánh cứng, thành ra có ngăn ngại. Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng. Thế nên có kim luân để bảo trì quốc độ.
Giảng: ... sự lay động và tạo thành gió ..... thành ra tướng cứng chắc ngăn ngại của địa đại (yếu tố đất). Đây tức là lấy cái mê muội làm hư không, và trong thể hư không mê muội ấy, kết cái u tối hỗn trược thành sắc"Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng". Tất cả các loại vàng bạccác khoáng chất quý giá đều là tinh tuý trong lòng đất (địa đại), mà tánh chất của đất thì cứng chắc và ngăn ngại còn hơn cả kim loại. Nương nơi cái biết hư vọng của vô minh mà có ra tướng cứng chắc và ngăn ngại, như trong thế gian có người si tình mà hoá thành đá vậy.
-Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ biết cái lay động thì khiến cho phong đại phát ra. Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, nên có ánh sáng của lửa (hoả đại) làm tính biến hoá.
-Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt. Nên có thủy luân trùm khắp mười phương cõi giới. (Nguồn: Tứ đại - Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa)

+ Đàn Việt: (Dânapati): Đàn việt là chỉ Thí chủ (donor), tức những người Cư sĩ tại gia phụng sự Tam bảo. (HT Tuyên Hóa giảng)

+ Thánh Đệ tử : ... đức Phật bảo: Và này chư Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, xem sắc pháp: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", xem cảm thọ - xem tưởng - xem các hành - xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi", xem như vậy là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Vị này do quán sát như vậy, đối với sự vật chẳng thật có nên không có lo âu, phiền muộn. (Nguồn: 22.Kinh Ví Dụ Con Rắn)
+ Nhà Hiền triết: Biểu tượng là quyển sách (Năng lượng 7 cung - Khóa học GQ/ MF)
+ Bậc cao tăng đắc đạo: Trong đời mạt pháp, nếu có người muốn ngồi trong đạo tràng tu tập, trước tiên phải giữ giới cấm Tỳ kheo thanh tịnh, và cần phải lựa chọn những vị Cao Tăng giữ giới thanh tịnh bậc nhất để làm thầy mình. Còn như gặp Tăng chúng không thanh tịnh thì giới luật nghi sẽ không được thành tựu - Giảng giải: Việc đầu tiên của người thời mạt thế muốn ngồi vào Bồ đề đạo tràng, hoặc chùa, tháp, hoặc đạo tràng, người ấy phải thọ giới Tỳ kheo và giữ giới thanh tịnh ấy - Người xuất gia cho dù là một lỗi nhỏ cũng dứt khoát không phạm phải. Tìm cho được một Tăng nhân có giới đức cao cả để làm thầy mình. Nếu không có được một thành viên của Tăng già để truyền giới, tức giới hạnh của quý vị không được đầy đủ và chính xác, sự tu học vì vậy cũng không có kết quả. (Nguồn: Kinh Thủ LN 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tại sao gọi họ là Thánh Hiền? Vượt thời gian vượt không gian, cái không gian thời gian đó là đã bao gồm tất cả. Nếu họ không vược qua không gian thời gian thì đó không thể gọi là thánh học được.Thánh học là cùng với bổn tánh bổn thiện, những danh từ này không phải dể hiểu, chúng ta nói cách khác, đó là phép tắc của tự nhiên, nguyên tắc của đại tự nhiên, sự vận hành của đại tự nhiên vĩnh hằng không thay đổi. Cái mà đạo gia gọi là “đạo”, đạo chính là nguyên tắc của đại tự nhiên. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
+ Thánh Hiền: Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng (Nguồn: Hòa Thương Tuyên Hóa giảng về Chú Đại Bi)
+ Thánh Hiền - Chân Thiện Tri Thức: hoặc Thiện hữu (善友), Ðạo hữu (道友);
Danh từ chỉ một người bạn đạo. Trong thời Phật giáo nguyên thuỷ, danh từ này được dùng để chỉ một vị tăng đầy đủ những đạo hạnh như nắm vững lí thuyết Phật pháp và tinh thông thiền định, có thể giúp đỡ những vị khác trên con đường tu học.
Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni rất quý trọng tình bạn trên con đường giải thoát. Ngài dạy như sau: » Cả một cuộc đời tầm đạo đều lấy tình bạn làm căn bản… Một Tỉ-khâu, một Thiện tri thức, một người bạn đồng hành – từ một vị này người ta có thể mong đợi rằng, ông ta sẽ tinh cần tu học Bát chính đạo để đạt giải thoát cho chính mình và những người bạn đồng hành.«
Dần dần, danh từ này cũng thường được sử dụng để chỉ những người tìm đạo, trong giới Cư sĩ và cả trong Tăng già. Trong những bài thuyết pháp, các vị Thiền sư thường dùng các biểu thị Thiện tri thức, Ðạo lưu… để chỉ những người hâm mộ Phật pháp đang chú tâm lắng nghe.
Người ta thường phân Thiện tri thức thành ba hạng:
1. Giáo thụ thiện tri thức, là những người có khả năng hướng dẫn, dạy dỗ trên con đường tu hành, là bậc thầy;
2. Ðồng hạnh thiện tri thức, là những người đồng chí, đồng hạnh, tức là người bạn tốt, trung thành;
3. Ngoại hộ thiện tri thức, là những người giúp cho những tiện nghi, tạo điều kiện tốt cho người tu hành. (Nguồn: Thiện Chi Thức)
+ Hiền Thánh: Quy y Tam bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới.
Hư không, chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới, trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác.
Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Hiền Thánh Tăng: Chúng ta cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng. (HT Tuyên Hóa Giảng Chú Đại Bi, Câu 76)
+ Bậc Thiện chi thức: Trích Bồ tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật: Hành trì làm sao tên là thiện trí thức?
Đức Phật nói: Thiện trí thức tâm tánh mềm mỏng hòa nhã, giới hạnh tinh chuyên, lòng không tham lam tật đố, không ái luyến vật chất, tâm thường bình đẳng, ý không thương ghét. Có đại phương tiện độ mình độ người, tùy theo căn tánh cũa mỗi người mà giáo hóa, đủ pháp tổng trì. Lòng tốt đối với người, làm ơn cho người chẳng cần trả, tu hành trong sạch, không có lỗi lầm, thuyết pháp luận nghĩa đều hiệp ý kinh. Người nào đầy đủ mấy việc này là thiện trí thức.
Nếu có trí tuệ hơn người, phước đức siêu quần, không chỗ nào chẳng lành, không pháp nào chẳng biết. Làm tai mắt cho cõi người cõi trời, là rường cột trong Phật pháp, cầm cái cân trong Phật Tổ, làm lãnh tụ trong pháp môn. Mở cửa chánh đạo, ngăn dẹp đường tà, nối thành dòng Phật, trồng trí huệ thơm khắp, lấy tâm ấn tâm lưu truyền chẳng dứt. Căn cơ lớn, diệu dụng lớn, hạnh nguyện lớn, uy lực lớn. Đây gọi là đại thiện trí thức chân chánh.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
641. THÁNH NHÂN
- Là người xa lìa các pháp ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế, làm gốc rễ của sự hữu trong tương lai, là sự phiền nhiệt, là nhân của khổ báo, của sanh lão bệnh tử.
+ Hàng Tiểu thừa: Đối với Tiểu thừa, sơ quả a-la-hán được xem như là dự vào bậc Thánh rồi nhưng với bồ-tát thừa thì chưa.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần chánh văn)
+ CÁC VỊ ĐỀU LÀ THIỆN TRI THỨC - HT TUYÊN HÓA KHAI THỊ:
Các vị thiện tri thức! Tại sao lại xưng hô quý vị là thiện tri thức? Nếu chẳng phải là thiện tri thức thì quý vị chẳng khi nào đến Bát-nhã đường (thiền đường).
Phàm đến Bát-nhã đường để tu hành thì tất cả đều là thiện tri thức, do đó mới xưng hô quý vị là thiện tri thức.
Bát-nhã là tiếng Phạn (Prajna), dịch nghĩa thành trí huệ. Quý vị đều là bậc đại trí huệ mới đến Bát-nhã đường. Tại sao là đại trí huệ? Bởi trong các kiếp quá khứ quý vị đã từng gieo nhiều căn lành, nhiều hạt giống Bồ-đề.
Cũng chính là trong quá khứ, quý vị đã đời đời kiếp kiếp cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Ðã tích lũy những công đức như thế, thì ngày nay nhân duyên thành tựu, mới tham dự khóa thiền.
Ðây chẳng phải là nhân duyên nhỏ, mà là nhân duyên to lớn, cũng là nhân duyên của việc liễu sinh thoát tử, mà cũng có thể nói là nhân duyên thành Phật. Bởi các lý do trên nên mới xưng hô quý vị là thiện tri thức.
Thiện tri thức chính là biết con đường thiện, không biết con đường ác. Nếu biết đường ác thì phải kêu là ác tri thức. Thế nào là thiện tri thức?
Thiện tri thứcchánh tri chánh kiến, hành động hợp với Phật pháp, tu tập chiếu theo Phật pháp, từng hành động cử chỉ đều tương ứng với Phật pháp.
Thế nào là ác tri thức? Ác tri thức thì tà tri, tà kiến, chuyện gì cũng đi ngược với Phật pháp, tức như câu nói "bội đạo nhi trì," quay lưng với đạo mà đi.
Nay quý vị tụ hội tại Bát-nhã đường, nhất tâm thiền định để cầu khai ngộ và đại trí huệ. Nếu thực sự sáng suốt, chân chánh giác ngộ, quý vị sẽ tuyệt đối không làm chuyện điên đảo nữa. Giác ngộ và sáng suốt như vậy nhất loạt đều do công phu tu hành mà thành tựu.
Bởi vậy kẻ tu hành không nên sợ khổ, sợ khó khăn. Khi đã ngồi thiền thì chân đau cũng mặc, lưng mỏi cũng không quan tâm, phải giữ vững tinh thần đại vô úy, sống chết với thiền, sống chết với tu, tuyệt đối không thể vì đau mỏi mà đầu hàng, phải làm kẻ đại trượng phu, đại anh hùng.
Kẻ tu hành cần phải có một sự kiên nhẫn không lay chuyển, một ý chí không lùi bước, trước mọi nghịch cảnh tuyệt đối không cúi đầu, tuyệt đối không bị khuất phục.
Chân đau lại càng cố chịu đựng, lưng mỏi càng cố gắng. Buồn ngủ ư? Mở to hai mắt, thách thức ma ngủ. Càng buồn ngủ càng tốt, đàng nào cũng tham, tham cho tới lúc dương khí đầy đủ trở lại, thì ma ngủ phải bỏ chạy.
Nếu như chúng ta không chiến đấu với ma ngủ, thì ta sẽ muôn đời làm nô lệ cho nó, nghe theo mệnh lệnh của nó và sẽ chịu nó sai khiến. (Theo Facebook Palmlien)

+ Hành tinh thánh thiện: Là các hành tinh mà các mãnh lực cung đang biểu hiện cho linh hồn và tinh thần, với cung Phàm ngã của Đấng vĩ đại đang làm linh hoạt, tức Hành Tinh Thượng Đế đã tuân phục vào 2 cung cao, như trường hợp con người sau khi được điểm đạo lần 1 (CTHNM, 363)
–   Về mặt cơ bản, có thể nói rằng một hành tinh được xem là “thánh thiện” khi Đấng tinh thần đang làm linh hoạt hành tinh đó đã nhận được 5 trong số các cuộc điểm đạo vũ trụ chủ yếu. Còn một hành tinh ‘không thánh thiện” là hành tinh mà vị Hành Tinh Thượng Đế của nó chưa nhận được các cuộc điểm đạo này.(CTHNM, 503)
Phải nhớ 3 điều: Mỗi một trong số 7 hành tinh thánh thiện là một biểu hiện của 1 trong 7 ảnh hưởng của Cung năng lượng. người nghiên cứu phải nhớ 3 điều:
1. Mỗi hành tinh là hiện thân của một Sự Sống hay một Thực Thể Thông Linh hay Đấng Cao Cả;
2. Giống như 1 con người, mỗi hành tinh là biểu hiện của 2 thần lực của Cung – lực phàm ngã và lực chân ngã.
3. Do đó, trong mỗi hành tinh, 2 Cung ở vào trạng thái xung đột huyền bí (CTHNM, 721)

–   Về mặt cơ bản, có thể nói rằng một hành tinh được xem là “thánh thiện” khi Đấng tinh thần đang làm linh hoạt hành tinh đó đã nhận được 5 trong số các cuộc điểm đạo vũ trụ chủ yếu. Còn một hành tinh ‘không thánh thiện” là hành tinh mà vị Hành Tinh Thượng Đế của nó chưa nhận được các cuộc điểm đạo này. (CTHNM, 503)
–   Hành tinh thánh thiện tương ứng với 7 Trung tâm lực trong con người, tức 7 Luân Xa (TLHNM III, 19):
1. Hỏa vương tinh (Vulcan) ........ Cung 1
2. Thủy tinh (Mercury) ..... Cung 4
3. Kim tinh (Venus) ................... Cung 5
4. Mộc tinh (Jupiter) .................. Cung 2
5. Thổ tinh (Saturn) .................. Cung 3
6. Hải vương tinh (Neptune) ...... Cung 6
7. Thiên vương tinh (Uranus) ..... Cung 7
Xem: Tổng hợp về Hành tinh

+ Dĩ thái - Tứ đại: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là phong, hỏa, thủy, địa. (LVLCK, 43) 
+ Dương               .....              Âm
Hỏa và Khí                       Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ           Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện        Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương          Năng lượng âm
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
+ Hành Khí: Tập trung năng lượng vào các ý tưởng chưa được thực hiện;  Có thể là người mơ mộng không thực tế;  Khả năng buông xả;  Thân thiện nhất trong tất cả các yếu tố; Có thể đánh giá quá cao các khả năng trí tuệ; Cần phải có khoảng cách và tính khách quan để khám phá chính mình
+ Các Dấu hiệu Không khí: Song Tử, Thiên Bình, và Bảo Bình; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Giao tiếp. Thông minh. Thích làm việc về mặt tinh thần. Nắm bắt ý tưởng nhanh chóng. Có thể nói hoặc viết hiệu quả. Có quan điểm hợp lý. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ Không khí (Air): Không khí chỉ là chất dĩ thái phức tạp và đã biến phân. (GLBN II, 258)
+ Phong (Air; không khí): Là biến phân (differentiation) của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi trực giác, cõi Bồ Đề. (LVLCK, 43)
+ Không Khí hay Không Gian: Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ 522. PHONG GIỚI - Thế nào là phong giới? nội phong giớingoại phong giới - Đức Phật dậy
Nội phong giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Đó là gió đi lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang, gió co thắt lại, gió như dao cắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, được chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội phong giới.
Ngoại phong giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Nguồn: mục 522- (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ Phong thần - Thần gió: Tối thắng dũng mãnh đại phong thần - Nhà xập cây ngã rất kinh người ... Sân hận chiêu cảm tự trầm luân.
Giảng giải: Tối Thắng là tên của vị phong thần (thần gió). Vị thần này khí lực rất lớn, thường thường muốn tranh thắng, rất mãnh liệt, làm việc rất nhanh. Gió có nhiều loại như gió mát, gió ấm, gió này chẳng hại người, lúc thái bình thịnh thế, khi thì mưa, khi thì gió, thời tiết khí hậu điều hòa.
... Chủ thần gió, có thế lực rất lớn, ra oai rất là lợi hại, nhà cửa phòng ốc đều thổi ngã xập, cây cối trốc gốc, khí lực rất mãnh liệt, cho nên nói : ‘’Tối thắng dũng mãnh đại phong thần.’’ Ai có nóng giận tức là thần gió này trợ giúp. Cho nên nói: ‘’Nhà xập cây ngã rất kinh người.’’ 
‘’Tam Thiền đều sợ tai nạn này.’’ Lửa thiêu đốt đến cõi trời Sơ Thiền, Nước tràn ngập đến cõi trời Nhị Thiền, Gió thổi tan cõi trời Tam Thiền.
... Nạn gió này làm thế nào mà chiêu lại? ‘’Sân hận cảm chiêu tự trầm luân.’’ Vì làm người thì sự nóng giận quá lớn, tuy nhiên tu phước được sinh về cõi trời, nhưng phải thọ thứ quả báo nạn gió này. Gốc sân hận mà không đoạn trừ thì kết quả phải thọ quả báo nạn gió đó. (Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)

I- MẦU SẮC CỦA NGŨ HÀNH THEO NGŨ HÀNH ĐÔNG PHƯƠNG
+ Hành Kim - mầu trắng; Hành Thủy mầu đen; Hành Hỏa mầu đỏ; Hành Mộc mầu xanh; hành Thổ mầu Vàng;
II- MẦU SẮC CỦA CÁC ĐẠI: TỨ ĐẠI - NGŨ ĐẠI - LỤC ĐẠI - THẤT ĐẠI THEO PHẬT PHÁP
1- Về Khí - Mầu Mây_ Kinh A Hàm: Mây có 4 thứ: màu trắng; màu đen; màu đỏ; màu hồng.
- Mây có màu trắng vì yếu tố đất đặc biệt nhiều;
- Mây có màu đen vì yếu tố nước đặc biệt nhiều hơn;
- Mây có màu đỏ vì yếu tố lửa đặc biệt nhiều hơn;
- Mây có màu hồng vì yếu tố gió đặc biệt nhiều hơn.
Mây cách mặt đất từ 20 - 4000 dặm. Nguồn: Mục 29- Tại đây
2- Mầu sắc của Nhân khí theo các Đại
... Bà vốn không tin Trời Đất, nghe Ngài nói thế lại càng thêm nghi mà hỏi rằng:
- Có phải sau khi chết, con người thật biến thành quỷ không?
- Sao chỉ nói người chết rồi mới thành quỷ? Có người lúc còn sống, tâm chứa toàn tâm quỷ, nói lời quỷ, làm việc quỷ, vậy có khác gì với ma quỷ đâu? Người thường sân hận tức là quỷ mặt đỏ, người thường oán hờn tức quỷ mặt vàng, người hay buồn não tức quỷ mặt trắng, người dễ nóng giận tức quỷ mặt xanh, người thường phiền muộn tức quỷ mặt đen. Nếu dùng sân, oán, não, nộ, phiền mà đối đãi với người thì là năm loài quỷ trên, sẽ luôn quấy phá gia đình, trong nhà tuyệt đối không an, lại tổn tài hao khí, tai hoạn xảy đến liên miên.
Ngài lại dạy:
- Tâm là thần; thần cũng là tâm. Nếu bà làm chuyện chi cũng khởi từ lương tâm, tức là trọng kính đối với thần, nếu bội ngược lương tâm thì cũng như là khi dối thần. Sau khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu bao thứ khổ. Khi ấy muốn thoát khổ, e rằng không còn kịp nữa. Nhân vì chúng sanh đã quay lưng với sự giác ngộ, hợp với trần lao, mê chân theo vọng, xa rời bổn tánh của mình, tìm cầu vật chất ảo huyền ở thế gian, nên phải tự thọ lãnh quả báo. Nếu biết xoay chuyển lại, bỏ trần hiệp giác, xã vọng qui chân, thì đồng Phật không khác, mãi mãi thoát ly lục đạo luân hồi, chấm dứt sanh tử.... (Nguồn: Tiểu sử HT Tuyên Hóa - Mục 17)

III- MẦU SẮC CỦA CÁC ĐẠI: TỨ ĐẠI - NGŨ ĐẠI - LỤC ĐẠI - THẤT ĐẠI THEO MINH TRIẾT CHÂN SƯ TÂY TẠNG

+ Tinh linh của các bản tố; các tạo vật có liên quan đến 4 lãnh vực, hay các bản tố: Địa (Earth), Phong (Air), Hỏa (Fire), và Thủy (Water). Ngoại trừ một số ít ở đẳng cấp cao và các vị cai quản, chúng là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. (ĐĐTNLVTD, 217)
+ Tinh linh là các thực thể còn phải tiến hóa thành người vào một thời gian trong tương lai. (GLBN III, 235)
+ Tinh linh là các mãnh lực bán-thông-tuệ của các giới. (GLTNVT, 311)
Các tinh linh có bản chất dưới nhân loại. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc chúng trên cõi cảm dục không có gì đảm bảo rằng chúng ở trên con đường tiến hóa thăng thượng. Trái lại, chúng ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có mặt trên mọi cõi giới, riêng các loại tinh linh dĩ thái – như là thần lùn, thổ tinh linh, thổ tiểu tiên thì được biết rõ hơn. Chia thành 4 nhóm:
1. Tinh linh của đất (Thổ tinh linh).
2. Tinh linh của nước (Thủy tinh linh).
3. Tinh linh của không khí (Phong tinh linh).
4. Tinh linh của lửa (Hỏa tinh linh).
* Nếu các bạn có thể biết được, thì chúng là tinh hoa của mọi vật. Chúng là những loài tinh hoa của thái dương hệ, có bốn cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu.( TVTTHL, 174)
+ Các nhà kiến tạo dĩ thái, tức là tinh linh phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
* Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy(TVTTHM, 174)
+ Ở Thái dương hệ này, Hỏa Tinh linh đông nhất, nhì đến Tinh Linh Không khí hiện diện khắp các cõi. Thủy hay Thổ tinh linh ít hơn nhiều, chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số Hành tinh của Thái dương hệ (CTHNM, 188)
+ Các Luân xa mà qua đó sự sống Tinh Linh (SSTL) và Linh hồn hoạt động (EP II 290. 304)
1. Đời sống 3 tinh linh này được tạo thành chủ yếu ở 3 luân xa thấp nhất:
1. LX xương cùng, -  SSTL trí tuệ       => LX cổ họng.
2. LX tùng T.Dương- SSTL cảm dục   => Luân xa tim.
3. LX đáy cột sống, - SSTL hồng trần => Luân xa đầu.
- Sự sống của linh hồn nội tại qua 3 luân xa cao.
1. Luân xa đầu         -  Tâm thức trí tuệ.
2. Luân xa cổ họng  -  Tâm thức sáng tạo.
3. Luân xa tim          - Tâm thức cảm giác[304]
+ Tinh Linh Thiên Nhiên - Tinh Linh Ngũ Hành: Gồm các Tiên nữ, thổ thần, thần. Người ta thấy chúng trong chất dĩ thái cũng như trong các thể bằng chất hơi, chất lỏng. Các sinh linh bé nhỏ bận rộn này thường che các hoạt động ở cõi trần trọng trược của chúng nhờ ảo cảmphủ lớp màn che giấu biểu lộ bên ngoài của chúng. (LVLCK, 892)
+ Mãnh lực Thiên nhiên tức là Tinh linh thiên nhiên. Tinh linh thiên nhiên tức là các Tinh linh Ngũ hành có khả năng thông linh. (GLBN I, 202)
+ Linh hồn của các Hành Tố. Các sinh vật tiến hóa trong 4 giới hay 4 Hànhđịa, phong, hỏa và thủy. Tín đồ Do Thái Bí giáo gọi các tạo vật này là Thổ tinh linh (thuộc về đất), Phong tinh linh (thuộc về không khí), Hỏa tinh linh ( thuộc về lửa) và Thủy tinh linh (thuộc về nước). Ngoại trừ một vài loại cao cấp và các vị điều khiển của chúng, các tạo vật này là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. Với vai trò là các tác nhân thấp kém của các nhà Huyền linh học, các mãnh lực này có thể tạo ra các hiệu quả khác nhau. Nhưng nếu được các “Âm ma” sử dụng – trong trường hợp chúng bắt đồng tử phục tùng – chúng sẽ lừa gạt người dễ tin. Tất cả các sinh linh vô hình thấp kém được tạo ra trên cõi thứ 5, 6 và 7 của bầu khí quyển trái đất chúng ta được gọi là các Elementals (tinh linh): Peris, Devas, Djins, Sylvans, Satyrs, Fauns, Elves, Dwarfs, Trolls, Kobolds, Brownies, Nixies, Goblins, Pinkies, Banshees, Moss People, White Ladies, Spooks, Fairies, vv… và vv… (NGMTTL, 111–112)
+ Các Tinh linh thiên nhiên thuộc các phân cảnh dĩ thái (Elementals of the Ethers). Bây giờ, chúng ta xem xét các phân cảnh dĩ thái của cõi trần hay là 4 phân cảnh cao nhất của cảnh hồng trần. Các phân cảnh dĩ thái này chỉ là các mức độ vật chất của cõi trần thuộc loại hiếm hơn và được tinh luyện hơn tuy thuộc về cõi trần. Trong đa số sách giáo khoa, chúng được đặt tên như sau:
1. Dĩ thái 1 hay chất liệu vi tử (atomic matter).
2. Dĩ thái 2 hay chất liệu á vi tử (sub–atomic matter).
3. Dĩ thái 3 hay chất liệu siêu dĩ thái (super–etheric matter).
4. Dĩ thái 4 hay chất dĩ thái đơn thuần (simply etheric matter).
Cho đến nay, dĩ thái 4 là chất duy nhất được các nhà khoa học nhận biết và là đề mục trong các tìm tòi hiện nay của họ, mặc dù họ có thể hiểu được chút ít chất này.
+ Tinh linh sinh lực (Pranic elementals): Các tinh chất nhỏ bé của lửa này (minute fiery essences) có khả năng thẩm thấu (permeate) qua cấu trúc (texture) của cơ thể con người, của một thân cây hay của tất cả những gì có thể có trong giới nhân loại, giới thực vật và động vật, và hòa hợp với lửa của hệ thống tiểu thiên địa.(LVLCK, 67)
+ Tinh linh nhân tạo hay hình tư tưởng: Những tư tưởng mơ hồ, lỏng lẻo (loose) phần lớn được tạo ra do các thể trí chưa phát triển, gom lại chung quanh chúng những đám mây tinh chất hành khí rời rạc khi đến cõi cảm dục, và trôi vật vờ, bị hút vào các đám mây khác ở khắp nơi và có bản chất tương tự, rồi bám quanh các thể cảm dục của những ai có từ điển – hoặc tốt hoặc xấu – thu hút lấy chúng, và sau một thời gian sẽ tan rã, để lại tạo nên thành phần của bầu khí chung của loài tinh chất hành khí. Khi nào chúng còn duy trì sự sống riêng biệt (separate existence) thì chúng là các thực thể linh hoạt (living entities), có cơ thể (bodies) bằng tinh chất hành khí, còn các tư tưởng có vai trò như là các sinh vật tạo linh hồn (ensouling lives), và lúc bấy giờ, chúng được gọi là các tinh linh nhân tạo (artificial elementals) hay là hình tư tưởng (thought–forms). (MTNX, 66–67)
Nơi kẻ thường nhân, tinh linh nhân tạo do cảm xúc (feelings) hoặc dục vọng (desire) tạo ra thì mạnh mẽ và rõ ràng hơn là tinh linh nhân tạo do tư tưởng (thought) tạo ra. Như vậy, một cơn giận bùng lên sẽ tạo ra một tia chớp đỏ mạnh mẽ và có đường nét rõ ràng, và nếu cơn giận kéo dài, nó sẽ tạo ra một tinh linh nhân tạo nguy hiểm, có màu đỏ, sắc nhọn, có ngạnh (barbed), nói khác đi, có mang tính chất làm hại. Tình thương, tùy theo tính chất của nó, sẽ tạo ra các hình thể ít hay nhiều gì cũng có màu sắc đẹp đẽ, đủ mọi sắc thái, từ đỏ thẫm đến hồng dịu, vô cùng tinh tế, giống như màu hồng thật nhạt của hoàng hôn hay bình minh, tình thương cũng tạo ra các đám mây hay các hình dạng có tính bảo vệ mạnh mẽ.
+ Tinh linh hồng trần:
-  Tinh linh hồng trần là tên gọi dành cho sự sống đã hội nhập của thể xác.(CTNM, 462)
-  Là toàn thể các nguyên tử sinh động của phàm ngã (body nature) (LVLCK, 118)
+ Tinh linh của lửa: Các hình hài trọng trược hơn của cuộc sống thể hơi, thường được gọi là hỏa tinh linh, tinh linh của lửa. Chúng trực tiếp ở dưới sự kiềm chế của Hỏa tinh quân, Tinh quân của cõi trí.(LVHLT, 389)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.(CTHNM, 188)
+ Hoả tinh linh (Cõi Trần), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của lò sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy (LVLCK, 87)
     Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn ; Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn 
+ Tinh linh của không khí (Elemental of the air): Tinh linh của không khí được hiểu một cách tượng trưng là lớp nền (substratum) của năng lượng đang tác động qua các hình hài của thể dĩ thái. (LVHLT, 216)
+ Tinh linh của đất (Elemental of earth): Là toàn thể nhiều sinh linh tạo thành thể xác. (LVHLT, 215)
+ Tinh linh cảm dục (Astral elemental, Desire–elementals): - Sự sống giáng hạ tiến hóa bé nhỏ tạo thành Tinh linh cảm dục của chúng ta. (LVHLT, 311)
- Các tinh linh thiên nhiên có liên quan đến việc tạo ra thể cảm dục của loài vật và loài người được dành cho tên gọi đặc biệt là tinh linh cảm dục (còn gọi là “thần cảm dục“ – desire–gods) vì chúng được làm cho sinh động một cách mạnh mẽ bằng đủ loại dục vọng và luôn luôn dự vào việc kiến tạo thể cảm dục của con vật lẫn con người. (MTNX, 76)
+ Các tinh linh thiên nhiên của vật chất trọng trược nhất (The elementals of densest matter). Đây là các tác nhân hoạt động và tác nhân kiến tạo có liên hệ đến phần hữu hình và biểu hiện ra bên ngoài của mọi biểu lộ. Theo nghĩa đen, toàn bộ chúng hợp thành những gì mà con người có thể đụng tới, nhìn thấy và tiếp xúc được trên cõi trần. … Trong số các thần hoạt động thuộc phân cảnh thấp nhất của cõi trần, người ta thấy có một số hình thức sự sống ngầm dưới đất mà các sách huyền linh cổ có nói tới. Người ta thấy tận trong lòng đất có sự tiến hóa của loại tinh linh đặc biệt rất giống với con người. Các vị này có thân thể thuộc loại đặc biệt thô kệch, không thể được xem như thể xác một cách rõ ràng theo tên gọi mà chúng ta hiểu. Họ cư trú trong các vùng đất cố định, hoặc là các nhóm, dưới một hình thức cai trị thích hợp với nhu cầu của họ trong các hang động trung ương sâu nhiều dặm dưới lớp vỏ địa cầu. Công việc của các thần này có liên quan chặt chẽ với giới khoáng chất, và các “hỏa thiên thần” (“agnichaitans”) của các đám cháy lớn đều ở dưới sự kiểm soát của các thần này. Các thể của họ được cấu tạo để cho có thể chịu nỗi áp suất lớn. Họ không tùy thuộc vào luồng khí lưu chuyển tự do như con người, mà cũng không bực bội vì sức nóng cao độ có bên trong địa cầu. Ở đây, chỉ có thể nói ít về các sự sống này, vì các thần này có liên hệ với các phần ít quan trọng của thể xác của Hành Tinh Thượng Đế, có sự tương ứng về mặt tiểu vũ trụ nơi chân và giò (feet and legs) của con người. Các thần này là một trong các yếu tố gây ra chuyển động vừa quay tròn vừa tiến tới của một hành tinh.
+ Các tinh linh thiên nhiên và các thiên thần thứ yếu của chất lỏng (Elementals and lesser devas of liquid matter). Nhiều nhóm thủy thần (water devas) thuộc loại hoạt động đã được các văn sĩ viết thần thoại tập hợp một cách sơ sài dưới các tên gọi nữ thủy tiên (undines), nữ nhân ngư (mermaids) và các cách diễn tả khác, còn nhiều nữa, và điều này tất nhiên rõ ràng thôi khi nhớ rằng tổng số nước trên địa cầu  (biển lớn, biển nhỏ, sông, hồ và suối) vượt xa phần khô hay đất liền, và mọi giọt nước trong chính nó là một sự sống bé nhỏ, làm tròn chức năng của nó và chạy suốt chu kỳ của nó. Các hình thức thần thoại nói ở trên chỉ là vô số sự sống tạo thành một hình hài mà qua đó, vị thần đang tiến hóa tìm cách biểu lộ.
+ Các Tinh linh cõi trần (Physical plane Elementals). Các thiên thần có thể được chia thành ba nhóm trên cõi trần:
1. Các tác nhân truyền đạt Ý chí của Thượng Đế.
2. Các tác nhân vận dụng năng lượng được triển khai.
3.Các tác nhân tích chứa thần lực.

Xem: Tổng Hợp Các Tinh Linh Và Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thần

+ Tinh linh nhân tạo hay hình tư tưởng: Những tư tưởng mơ hồ, lỏng lẻo (loose) phần lớn được tạo ra do các thể trí chưa phát triển, gom lại chung quanh chúng những đám mây tinh chất hành khí rời rạc khi đến cõi cảm dục, và trôi vật vờ, bị hút vào các đám mây khác ở khắp nơi và có bản chất tương tự, rồi bám quanh các thể cảm dục của những ai có từ điển – hoặc tốt hoặc xấu – thu hút lấy chúng, và sau một thời gian sẽ tan rã, để lại tạo nên thành phần của bầu khí chung của loài tinh chất hành khí. Khi nào chúng còn duy trì sự sống riêng biệt (separate existence) thì chúng là các thực thể linh hoạt (living entities), có cơ thể (bodies) bằng tinh chất hành khí, còn các tư tưởng có vai trò như là các sinh vật tạo linh hồn (ensouling lives), và lúc bấy giờ, chúng được gọi là các tinh linh nhân tạo (artificial elementals) hay là hình tư tưởng (thought–forms). (MTNX, 66–67)
Nơi kẻ thường nhân, tinh linh nhân tạo do cảm xúc (feelings) hoặc dục vọng (desire) tạo ra thì mạnh mẽ và rõ ràng hơn là tinh linh nhân tạo do tư tưởng (thought) tạo ra. Như vậy, một cơn giận bùng lên sẽ tạo ra một tia chớp đỏ mạnh mẽ và có đường nét rõ ràng, và nếu cơn giận kéo dài, nó sẽ tạo ra một tinh linh nhân tạo nguy hiểm, có màu đỏ, sắc nhọn, có ngạnh (barbed), nói khác đi, có mang tính chất làm hại.  Tình thương, tùy theo tính chất của nó, sẽ tạo ra các hình thể ít hay nhiều gì cũng có màu sắc đẹp đẽ, đủ mọi sắc thái, từ đỏ thẫm đến hồng dịu, vô cùng tinh tế, giống như màu hồng thật nhạt của hoàng hôn hay bình minh, tình thương cũng tạo ra các đám mây hay các hình dạngtính bảo vệ mạnh mẽ. (Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân)
+ Hình tư tưởng (Thought form): Hình tư tưởng được con người tạo nên, là sự kết hợp của bức xạ dương (positive emanation) và bức xạ âm. Cả hai đều là bức xạ của một Nhất thể (Unity), tức là Chủ thể Tư Tưởng cố kết (coherent Thinker). (LVLCK, 560)
+ Hình tư tưởng là các sự vật có thực chất (substantial things).  (ACMVĐCTG, 72)
+ Định nghĩa HÌNH TƯ TƯỞNG: MỘT THỰC THỂ SỐNG ngay khi nó được tạo ra, nó không còn phụ thuộc vào người tạo ra nó (Không thay đổi được), nó có sự thông minh sơ khai, TỒN TẠI phụ thuộc năng lượng người tạo ra nó (Sự tập chung, lặp lại) > Tạo năng lượng), luôn tìm cách thu thêm năng lượng để kéo dài sự sống của nó ở CÕI TRUNG GIỚI; MẠNH có thể hiện hình ở cõi HẠ GIỚI. Phụ thuộc vào 3 yêu tố:
(i)- Phẩm chất của tư tưởng quyết định Mầu sắc;
(ii)- Năng lượng lớn – Tư tưởng càng sắc nét, rõ rệt ;
(iii) – Bản chất mỗi tư tưởng mang hình dạng riêng biệt
* Bản thân: Chân sư DK dạy tham thiền lập hạnh rất tốt cho bản thân (Nghĩ về đức tính tốt của bản thân, nó luôn ở quanh ta và phát huy tác dụng với ta và cả người xung quanh > Một người Tu cả nhà được hưởng
-
Người thường (Kém tiến hóa, trí tuệ chưa phát triển = Dục vọng nhiều): Tư tưởng tạo ra chủ yêu quanh quẩn, không thoát ra khỏi Hào quang người đó > Không hại cho người xung quanh
* Người ảnh hưởng: Tính toán, suy nghĩ, vận dụng năng lực trí năng > Tạo ra Hình Tư Tưởng > Sức sống riêng, có ảnh hưởng tốt, xấu đến người khác theo quy luật, nó liên kết với người tạo ra nó bằng “Từ điện” > Nhà Huyền thuật muốn tách nó ra khỏi người tạo ra tư tưởng, cần niệm một từ Huyền bí ... (Tiếng Phạn) >
- Đức DK dạy: Mỗi người cần tìm và luyện cho mình một cụm từ huyền bí để tách tư tưởng của mình tạo ra khỏi Hào quang của mình - nếu muốn). Bạn là người khởi niệm tìm chọn để LÀM công việc Thiện > Bạn được hưởng Quả đó, nếu có người gợi ý thì Quả được chia cho người gợi ý ý tưởng bạn sẽ làm => Tự mình cần suy ngẫm, tìm chọn để nói, hành động về việc Thiện  (
Nguồn: Cứu rỗi khỏi các hình tư tưởng)

+ Các tinh linh thiên nhiên của vật chất trọng trược nhất (The elementals of densest matter). Đây là các tác nhân hoạt động và tác nhân kiến tạo có liên hệ đến phần hữu hình và biểu hiện ra bên ngoài của mọi biểu lộ. Theo nghĩa đen, toàn bộ chúng hợp thành những gì mà con người có thể đụng tới, nhìn thấy và tiếp xúc được trên cõi trần. … Trong số các thần hoạt động thuộc phân cảnh thấp nhất của cõi trần, người ta thấy có một số hình thức sự sống ngầm dưới đất mà các sách huyền linh cổ có nói tới. Người ta thấy tận trong lòng đất có sự tiến hóa của loại tinh linh đặc biệt rất giống với con người. Các vị này có thân thể thuộc loại đặc biệt thô kệch, không thể được xem như thể xác một cách rõ ràng theo tên gọi mà chúng ta hiểu. Họ cư trú trong các vùng đất cố định, hoặc là các nhóm, dưới một hình thức cai trị thích hợp với nhu cầu của họ trong các hang động trung ương sâu nhiều dặm dưới lớp vỏ địa cầu. Công việc của các thần này có liên quan chặt chẽ với giới khoáng chất, và các “hỏa thiên thần” (“agnichaitans”) của các đám cháy lớn đều ở dưới sự kiểm soát của các thần này. Các thể của họ được cấu tạo để cho có thể chịu nỗi áp suất lớn. Họ không tùy thuộc vào luồng khí lưu chuyển tự do như con người, mà cũng không bực bội vì sức nóng cao độ có bên trong địa cầu. Ở đây, chỉ có thể nói ít về các sự sống này, vì các thần này có liên hệ với các phần ít quan trọng của thể xác của Hành Tinh Thượng Đế, có sự tương ứng về mặt tiểu vũ trụ nơi chân và giò (feet and legs) của con người. Các thần này là một trong các yếu tố gây ra chuyển động vừa quay tròn vừa tiến tới của một hành tinh. 
+ Các tinh linh thiên nhiên và các thiên thần thứ yếu của chất lỏng (Elementals and lesser devas of liquid matter). Nhiều nhóm thủy thần (water devas) thuộc loại hoạt động đã được các văn sĩ viết thần thoại tập hợp một cách sơ sài dưới các tên gọi nữ thủy tiên (undines), nữ nhân ngư (mermaids) và các cách diễn tả khác, còn nhiều nữa, và điều này tất nhiên rõ ràng thôi khi nhớ rằng tổng số nước trên địa cầu  (biển lớn, biển nhỏ, sông, hồ và suối) vượt xa phần khô hay đất liền, và mọi giọt nước trong chính nó là một sự sống bé nhỏ, làm tròn chức năng của nó và chạy suốt chu kỳ của nó. Các hình thức thần thoại nói ở trên chỉ là vô số sự sống tạo thành một hình hài mà qua đó, vị thần đang tiến hóa tìm cách biểu lộ. 
Nguồn: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân)

+ Tinh linh cảm dục (Astral elemental, Desire–elementals):
- Sự sống giáng hạ tiến hóa bé nhỏ tạo thành Tinh linh cảm dục của chúng ta. (LVHLT, 311)
- Các tinh linh thiên nhiên có liên quan đến việc tạo ra thể cảm dục của loài vật và loài người được dành cho tên gọi đặc biệt là tinh linh cảm dục (còn gọi là “thần cảm dục“ – desire–gods) vì chúng được làm cho sinh động một cách mạnh mẽ bằng đủ loại dục vọng và luôn luôn dự vào việc kiến tạo thể cảm dục của con vật lẫn con người. (MTNX, 76)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí. (CTHNM, 188)

Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân

+ Tinh linh của lửa: Các hình hài trọng trược hơn của cuộc sống thể hơi, thường được gọi là hỏa tinh linh, tinh linh của lửa. Chúng trực tiếp ở dưới sự kiềm chế của Hỏa tinh quân, Tinh quân của cõi trí.(LVHLT, 389)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.(CTHNM, 188)
+ Hoả tinh linh (Cõi Trần), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của lò sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy (LVLCK, 87)

Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân

+ Tinh linh của các bản tố; các tạo vật có liên quan đến 4 lãnh vực, hay các bản tố: Địa (Earth), Phong (Air), Hỏa (Fire), và Thủy (Water). Ngoại trừ một số ít ở đẳng cấp cao và các vị cai quản, chúng là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. (ĐĐTNLVTD, 217)
– Tinh linh là các thực thể còn phải tiến hóa thành người vào một thời gian trong tương lai. (GLBN III, 235)
Tinh linh là các mãnh lực bán-thông-tuệ của các giới. (GLTNVT, 311)
Các tinh linh có bản chất dưới nhân loại. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc chúng trên cõi cảm dục không có gì đảm bảo rằng chúng ở trên con đường tiến hóa thăng thượng. Trái lại, chúng ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có mặt trên mọi cõi giới, riêng các loại tinh linh dĩ thái – như là thần lùn, thổ tinh linh, thổ tiểu tiên thì được biết rõ hơn. Chia thành 4 nhóm:
1. Tinh linh của đất (Thổ tinh linh).
2. Tinh linh của nước (Thủy tinh linh).
3. Tinh linh của không khí (Phong tinh linh).
4. Tinh linh của lửa (Hỏa tinh linh).
* Nếu các bạn có thể biết được, thì chúng là tinh hoa của mọi vật. Chúng là những loài tinh hoa của thái dương hệ, có bốn cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu.( TVTTHL, 174)
- Các nhà kiến tạo dĩ thái, tức là tinh linh phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
+ Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy (TVTTHM, 174)
+ Ở Thái dương hệ này, Hỏa Tinh linh đông nhất, nhì đến Tinh Linh Không khí hiện diện khắp các cõi. Thủy hay Thổ tinh linh ít hơn nhiều, chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số Hành tinh của Thái dương hệ (CTHNM, 188)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân  
+ Các Luân xa mà qua đó sự sống Tinh Linh (SSTL) và Linh hồn hoạt động (EP II 290. 304)
1. Đời sống 3 tinh linh này được tạo thành chủ yếu ở 3 luân xa thấp nhất:
1. LX xương cùng, -  SSTL trí tuệ       => LX cổ họng.
2. LX tùng T.Dương- SSTL cảm dục   => Luân xa tim.
3. LX đáy cột sống, - SSTL hồng trần => Luân xa đầu.
- Sự sống của linh hồn nội tại qua 3 luân xa cao.
1. Luân xa đầu         -  Tâm thức trí tuệ.
2. Luân xa cổ họng  -  Tâm thức sáng tạo.
3. Luân xa tim          - Tâm thức cảm giác [304]

Xem: Tổng hợp về Ishvara, Linh hồn ( Đại Vũ trụ và Tiểu Vũ trụ)
Xem Tổng hợp về Luân xa ;  (Phân biệt LX Tùng thái dương với Đan điền)
Nguồn: Các trích dẫn TLHNM(GQ1.1, tr 11)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân

+ Mãnh lực: Đôi khi đức DK dùng hai từ năng lượng và mãnh lực lẫn lộn và có thể hoán chuyển cho nhau, nhưng thường thì Ngài phân biệt năng lượng khác với mãnh lực. Câu nói: “All is energy” là hoàn toàn chính xác, nhưng energy xuất phát từ thực thể cao (ở con người bình thường là linh hồn”) thì được gọi là năng lượng; còn energy xuất phát từ thực thể thấp (phàm ngã) được gọi là mãnh lực (Minhtrietmoi (LK) trả lời bài B/C Hương GQ2.5)
+ Tật xấu chuyển hóa thành đức hạnh: Tật xấu là sự chi phối của đặc tính tiến hóa giáng hạ trong cùng một mãnh lực mà chính mãnh lực đó về sau sẽ biểu lộ thành đức hạnh (TTHM, 233)

+ Tật xấu (vice): - Tật xấu là việc chiếm ưu thế của tính chất giáng hạ tiến hóa (involution) của cùng một mãnh lực mà vào giai đoạn sau sẽ hiện ra như là một đức tính (virtue). (TVTTHL, 233)
+ Tật xấu là năng lượng của các thể thấp riêng rẻ hay kết hợp lại trong Phàm ngã khi nó kiểm soát các hoạt động của sự sống và xem nhẹ linh hồn hơn là các thể thấp (sheaths) hay là xem nhẹ linh hồn hơn là các thôi thúc và các khuynh hướng của Phàm ngã. (LVHLT, 202)

+ Tinh linh sinh lực (Pranic elementals): Các tinh chất nhỏ bé của lửa này (minute fiery essences) có khả năng thẩm thấu (permeate) qua cấu trúc (texture) của cơ thể con người, của một thân cây hay của tất cả những gì có thể có trong giới nhân loại, giới thực vật và động vật, và hòa hợp với lửa của hệ thống tiểu thiên địa.(LVLCK, 67)

Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân

+ Thái Dương Thượng Đế - Một Đấng Vũ Trụ Vĩ Đại, Ngài lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian là một Thái Dương Hệ. Tức Thái dương hệ là biểu lộ của năng lượng và sự sống của Thái Dương Thượng Đế (LVLCK, 29).
-   Thái Dương Thượng Đế tức là Đại vũ trụ. (LVLCK, 69)
-   Một Thái Dương Thượng Đế có hiện thể là bảy hệ thống hành tinh, có không gian là ba cõi vũ trụ. (LVLCK, 293)
+ I. Đức Thái dương Thượng đế (The Solar Logos)

Đấng chủ quản thái dưong hệ của chúng ta là đức Thái dương Thượng đế (Solar Logos), đấng cao cả nhất mà con người trong thái dưong hệ này có thể hình dung được. Ngài là đấng bao gồm tất cả các thiên thần, nhân loại và mọi giới loài trong vòng biểu lộ giới hạn của Ngài. Tất cả sống, hiện hữu, và chuyển động trong Ngài như câu thuật ngữ huyền linh học hay dùng là “In Him we live, move, and have our being”. Đức DK gọi Ngài là the Grand Heavenly Man hay The Grand Man of the Heaven, đấng Thiên Nhân vĩ đại. Sau đây là đoạn trích dịch trong A Treatise on Cosmic Fire nói về Ngài:
[1] Đức Thái Dương Thượng Đế, đấng Thiên Nhân Vĩ đại, cũng có hình thể hình cầu.
[1] Vòng giới hạn của Ngài bao gồm toàn thể chu vi của Thái dương hệ và tất cả trong phạm vi ảnh hưởng của Mặt Trời.
[2] Mặt Trời giữ một vị trí tương tự như hạt nhân của sự sống ở tâm nguyên tử. Hình cầu này bao gồm trong chu vi của nó 7 dãy hành tinh cùng với 3 dãy tổng hợp, tạo thành số 10 của sự hiển lộ của Thượng Đế.
[3] Mặt Trời là thể hồng trần của Thái Dương Thượng Đế, là thể biểu lộ của Ngài, và sự sống của Ngài quét qua 7 hệ thống tiến hoá theo chu kỳ trong cùng ý nghĩa như sự sống của một Hành Tinh Thượng Đế quét 7 lần xung quanh hệ thống 7 dãy hành tinh của Ngài. (Trong quyển Cosmic Fire, Ngài / Đức D.K xem mặt trời tương ứng với luân xa đáy cột sống trong con người).
[4] Mỗi dãy giữ một vị trí tương tự như một bầu trong một dãy hành tinh. Các bạn hãy lưu ý vẻ đẹp trong sự tương đồng này, tuy nhiên vẫn thiếu sự tương đồng trong chi tiết. [5] (GLBN I, 136).
Thêm vào đó, nếu đức DK nói rằng sự sống của một Hành Tinh Thượng Đế quét 7 lần xung quanh hệ thống 7 dãy hành tinh của Ngài thì điều đó hàm ý rằng bảy dãy hành tinh của một hệ hành tinh tồn tại đồng thời nhau, chứ không phải nối tiếp nhau trong thời gian như Thông Thiên Học giảng dạy.
[5] Ngài nói rằng giữa dãy hành tinh, hệ hành tinh, thái dương hệ … có một sự tương đồng. Điều này tạo nên vẻ đẹp của toàn thể. Câu cách ngôn huyền bí thường được nhắc đến là “As above, so below”, “trên sao, dưới vậy” … và đó là cách mà con người có thể học hỏi về những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên Ngài cũng lưu ý tuy có sự tương đồng, nhưng đó là sự tương đồng trong những nết chính yếu, chứ chúng ta không nên tìm kiếm sự tương đồng trong toàn bộ các chi tiết. (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 8 - Thông Thiên Học)
Một Thái Dương Thượng Đế chứa đựng trong chính Ngài tất cả các nhóm của mỗi loài, từ hồn nhóm giáng hạ tiến hoá, đến các nhóm Chân ngã trên cõi trí như là các nguyên tử trong thể biểu lộ của Ngài. [6] Ngài có 7 nhóm chính yếu hay 7 Thiên Nhân (Heavenly Men) như là các trung tâm lực của cơ thể Ngài. [7] Các vị này toả ảnh hưởng đến khắp nơi thuộc phạm vi Thượng Đế và các Ngài biểu hiện trong chính các Ngài tất cả các sự sống nhỏ bé hơn, các nhóm thứ yếu, con người và thiên thần, các tế bào, các nguyên tử và phân tử. [8]
Nhìn từ cõi vũ trụ, phạm vi của Thượng Đế có thể được hình dung như một quả cầu lửa đang rung động với ánh sáng huy hoàng, chứa bên trong vòng ảnh hưởng của nó các bầu hành tinh cũng rung động giống như các quả cầu lửa [9]. Đấng Đại Thiên Nhân rung động tới một mức độ ngày càng tăng đều đặn, toàn thể Thái dương hệ nhuốm một màu sắc nào đó, màu của sự sống của Thượng Đế, tức là Cung Thiêng Liêng Duy Nhất; [10] và Thái dương hệ xoay tròn theo một mức độ nào đó vốn là chìa khoá của đại kiếp (great kalpa) hay chu kỳ thái dương (solar cycle), và xoay vòng chung quanh cực thái dương trung ương của nó. [11] Đức DK cho rằng thái dưong hệ quay tròn quanh trục trung ương của nó (central pole). Từ thiên văn học chúng ta biết rằng:
– Mặt trời quay quanh trục của nó một vòng mất 27 ngày
– Toàn thể thái dưong hệ quay quanh trục của nó mất 100.000 năm.
Đức DK nói rằng thái dương hệ của chúng ta hợp cùng với sáu thái dương hệ khác tạo thành một hệ thống lớn hơn, là biểu lộ của đấng cao cả hơn nữa mà Ngài gọi là đấng Thượng Đế Vũ Trụ (Cosmic Logos). Mỗi vị Thái dương Thượng đế lại là một Trung tâm lực trong cơ thể của đức Thượng Đế Vũ Trụ này. (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 9 - Thông Thiên Học)

+ Hành Tinh Thượng Đế: Nói chung, thuật ngữ này được dùng cho 7 Đấng cao cả nhất tương ứng với 7 Nhất Đẳng Thiên thần (Archangels) của Cơ Đốc giáo. Tất cả các Ngài đều đã trải qua giai đoạn nhân loại và hiện nay đang biểu lộ qua một hành tinh và các mức tiến hóa của hành tinh đó, giống như cách con người biểu lộ qua thể xác của mình vậy. Vị Hành Tinh Thượng Đế cao nhất hoạt động qua bất cứ bầu hành tinh (globe) đặc biệt nào, thực ra là vị Thượng Đế riêng (personal God) của hành tinh ấy.
* Trong hành tinh, hay Hành Tinh Thượng Đế: Nói chung, những gì được đưa ra liên quan tới Thái Dương Hệ đều có thể được xác định đối với mọi hành tinh mà bản chất của chúng là hình ảnh phản chiếu của thái dương, người anh cả của chúng. (ĐĐNLVTD, 222)
+ Hành Tinh Thượng Đế: Đức DK gọi các Hành Tinh Thượng Đế là các Thiên Nhân (Heavenly Men), trong khi Ngài gọi đức Thái dương Thượng đế là Đại Thiên Nhân (Grand Man of the Heaven). Đấng cao hơn nữa Ngài gọi là Cosmic Logos (Vũ Trụ Thượng đế). Ngài cũng hay dùng từ Đấng Mà Chúng Ta Không thể Nói Gì Cả (The One About Naught May Be Said) để chỉ Cosmic Logos, hoặc đôi khi là đấng còn cao hơn đó nữa là Cosmic ParaBrahman. Trong giới Huyền Linh học hay viết tắt tên gọi One About Naught May Be Said thành OABNMBS để chỉ Đấng Không Thể Nghĩ Bàn, Đấng Bất Khả Tư Nghị. Chúng tôi sẽ trích từ A Treatise On Cosmic Fire các đoạn sau đây nói về Hành Tinh Thượng Đế, kèm theo đó là các diễn giải:
Mỗi Hành Tinh Thượng Đế được xem như có dạng hình cầu [12]. Cũng giống như hạt nguyên tử và con người, Ngài có vòng giới hạn (ring-pass-not) của Ngài. Vòng giới hạn này bao gồm toàn thể hệ thống hành tinh. [13] Trong trường hợp của Ngài, bầu vật chất trọng trược của bất cứ một dãy hành tinh nào cũng tương tự như thể hồng trần của một người và hạt nguyên tử trên cõi trần. Mỗi hệ thống tiến hoá gồm 7 dãy hành tinh là biểu hiện của sự sống của một Thực Thể sử dụng nó cho mục đích hiển lộ nhằm hoạch đắc kinh nghiệm, giống như con người đối với thể xác của y. [14] 
Một Hành Tinh Thượng Đế chứa đựng bên trong chính Ngài những gì tương ứng với tế bào bên trong các hiện thể biểu lộ của con người.......
Bảy Hành Tinh Thượng Đế, được xem như có liên quan đến Đấng Cao Cả mà Thái Dương Thượng Đế là một phản ảnh của Ngài, có vai trò như là bảy trung tâm lực trong thể xác con người. Điều này sẽ được hiểu rõ khi sự tương đồng giữa cõi hồng trần vũ trụ và cõi hồng trần Thái dương hệ được nghiên cứu. [18] Do đó, ba trong các trung tâm lực này
– Liên hệ đến các trung tâm lực thấp của Đấng Thực Thể Vũ Trụ. [19]
– Có sự tương đồng của chúng trên các cõi chất đặc, chất lỏng và chất hơi.
– Hiện nay đang là mục tiêu chú tâm của hỏa xà vũ trụ. [20]
* [18] Đối với đức Thái dương Thượng đế thì các Hành Tinh Thượng Đế lại tạo thành chính là các luân xa hay các Trung tâm lực bên trong cơ thể của đức Thái dương Thượng đế. Đây là điểm đặc biệt quan trọng mà các bạn cần nhớ.
* [19] Ba Trung tâm lực thấp là các luân xa tùng thái dương, luân xa xương cùng và luân xa đáy cột sống.
* [20] Trong Thái dương hệ cũng có luồng xà hỏa Kundalini tương tự như trong con người. Đức DK nói rằng luồng xà hỏa Kundalini Thái dương đang kích hoạt các luân xa thấp là luân xa xương cùng, luân xa tùng thái dương, luân xa đáy cột sống.
Như vậy, các bạn thấy định luật tương đồng “trên sao, dưới vậy” thể hiện ra sao trong trường hợp thái dương hệ và con người..... (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 10 - Thông Thiên Học)
+ Tứ nguyên: c. Một trong các trung tâm lực này tương ứng với luân xa tùng thái dương, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp, như thế tạo thành một Tứ nguyên (bộ bốn – quaternary). [21] Đức DK nói rằng “Một trong các trung tâm lực này (Các Hành tinh Thượng đế) tương ứng với luân xa tùng thái dương, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp, như thế tạo thành một Tứ nguyên”. Nhưng Ngài không chỉ rõ hành tinh nào tương ứng với luân xa này, mà để người học đạo tự suy gẫm và khám phá lấy.... Chi tiết xem thêm: Thái dương hệ phần 11

+ Sanat Kumara: X. Đấng Cai Quản Địa cầu
+ Đấng Chưởng quản Địa Cầu (Lord of the World): Đấng Chưởng Quản Địa Cầu, tức Đấng Điểm Đạo Duy Nhất, trong Thánh Kinh, Ngài được gọi là Đấng Vô Lượng Thọ (“The Ancient Of Days”), trong kinh sách Ấn Độ, Ngài được gọi là Đệ Nhất Kumara, tức Sanat Kumara. Từ chỗ ngự của Ngài ở sa mạc Gobi, Ngài chủ trì Đại Đoàn Chân Sư và quản trị cả ba Bộ Môn (department). Một số kinh sách gọi Ngài là Đấng Đại Hy Sinh vì Ngài đã chọn việc trông coi sự tiến hóa của nhân loại và thiên thần cho đến khi tất cả được cứu độ, hiểu về mặt huyền bí. Chính Ngài quyết định việc “thăng tiến” trong các Bộ Môn khác nhau và sắp xếp nhân lực điền vào các chỗ trống. Mỗi năm bốn lần, chính Ngài triệu tập hội nghị có tất cả các Đế Quân (Chohan) và Chân Sư, cho phép làm những gì để thúc đẩy các mục tiêu tiến hóa. (ĐĐNLVTD, 104)
Sanat Kumara: Đức DK nói rằng đức Sanat Kumara giáng lâm trên Địa cầu chúng ta đã hơn 18 triệu năm không như Ông Leadbeater nói là cách nay 6,5 triệu năm [Xem 7]. Ngài đến cùng với 3 vị Kumara khác là đệ tử của Ngài, các vị này được gọi là các vị Kumara ngoại môn (exoteric Kumaras). Ngoài ra còn có ba vị Kumara nội môn (esoteric) khác. Tổng số các vị Kumaras đến địa cầu lần đó là 108 vị (thay vì 30 vị như Ông Leadbeater nói) [Xem 9] vào thời kỳ giữa của giống dân chánh thứ ba trong cuộc tuần hoàn này.
Câu nói cho rằng đức Sanat Kumara hay đấng Điểm Đạo độc tôn đến Địa cầu chúng ta từ Kim tinh chỉ đúng trong ý nghĩa nó thể hiện ý tưởng rằng Ngài đến bầu hành tinh thứ tư (trái đất) của Dãy thứ tư (Dãy Địa Cầu) từ Dãy Hành tinh trong Hệ hành tinh của chúng ta được gọi là Dãy “Kim Tinh” hay Dãy Hành tinh thứ hai. Ngài đến Trái đất chúng ta thông qua bầu thứ hai trong Dãy hành tinh của chúng ta. ...Môt cách cực kỳ tôn kính, chúng ta có thể nói rằng ba cuộc tuần hoàn đầu tiên và hai giống dân chánh của cuộc tuần hoàn thứ tư của Dãy Hành tinh này tương ứng với thời kỳ trước khi sinh; và sự xuất hiện của Ngài trong cuộc tuần hoàn thứ tư với hệ quả là sự thức tỉnh của trí tuệ trong nhân loại tương tự như sự thức tỉnh của sinh khí ở đứa trẻ tháng thứ tư trong bụng mẹ.
.... Ngài đến Điạ cầu từ Dãy hành tinh thứ hai còn được gọi là Dãy Kim Tinh. Chính vì cách sử dụng các tên gọi Kim Tinh, Hoả tinh … cùng lúc cho bầu hành tinh, dãy hành tinh, hệ hành tinh … đã khiến cho các đệ tử nhầm lẫn tai hại. Chính đức DK cũng cho rằng nên bỏ cách gọi tên như thế, mà thay vào đó nên gọi là bầu A, B, C … hay Dãy thứ nhất, thứ nhì …
.... Đức DK nói rõ hơn trong cuộc điểm đạo lần thứ ba người đạo đồ sẽ diện kiến đức Ngọc Đế bởi vì khi đó Ngài là vị chủ trì lễ Điểm đạo. Trong các cuộc Điểm đạo lần 1 và 2, đức Maitreya là đấng Điểm đạo và đức Sanat Kumara chuẩn y buổi lễ qua Ngôi Sao trên đầu người đạo đồ. (Nguồn: Thái dương hệ 7 - Thông thiên học)

+ Sao Hỏa thời mạt pháp: Trong thời mạt pháp, ngài tiếp tục sau khi ngưng một lúc, vị Hành Tinh Thượng Đế, đấng chủ trì địa cầu, sẽ thải bỏ và chuyển hóa độc chất như thỉnh thoảng cơ thể con người thải bỏ và chuyển hóa độc tố. Kết quả là thể tình cảm chung của nhân loại có xáo trộn, và những ai chưa biết tự kiểm sẽ có phóng túng về tình dục, rượu chè hoặc ngay cả tội phạm. Đây là chuyện đang xẩy ra lúc này, và ở mức độ rộng lớn đến nỗi lẽ tự nhiên nó ảnh hưởng nhân loại và sự phát triển của con người. Nếu con hỏi anh bạn chiêm tinh gia, anh sẽ cho con biết là ảnh hưởng của Mars đã gây ra điều ấy. (Nguồn: David Anrias: Chiêm Tinh gia và Huyền Bí gia - Chương IX)
+ Hỏa tinh và Hải Vương Tinh
truyền dẫn Cung 6, Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người); Xem thêm: Bài viết ngày 13/10/2016a
+ Chân Sư DK tóm lược về Mars đầy đủ:
Hỏa Tinh dứt khoát là hành tinh đang chi phối và kiểm soát thể xác...... Hỏa Tinh có liên quan chặt chẽ với giới tính..... bồi bổ (vitalise, làm cho sống động) dòng máu; nó bồi bổ, thanh luyện và làm phấn khích mọi trạng thái và cơ quan trong cơ thể, xuyên qua dòng máu......Như bạn biết, màu sắc được qui cho Mars là đỏ và đây là một tương ứng với màu của dòng máu và do đó cũng là sự phối hợp/ liên tưởng của Mars với tham dục, với tức giận và một ý thức về sự phản kháng chung. Ý thức về lưỡng nguyên, cực kỳ mạnh mẽ (CTHNM, 236-238)
Hoả tinh: 
Sao Hỏa (♂) - Mars là hành tinh của chiến binh, tham vọng, lực đẩy, năng lượng, bản chất hung hăng và chiến đấu. Nhiều nhà chiêm tinh cũng liên kết sao Hỏa với tình dục.
Tôi thấy sao Hỏa là động lực để đạt được và hoàn thành. Động lực thúc đẩy chúng ta và kích thích chúng ta. Tôi không liên kết trực tiếp Mars với tình dục, mặc dù mức năng lượng vật lý tổng thể của một người bị ảnh hưởng bởi sao Hỏa, và mối quan tâm đến giới tính có một tương quan tới mức năng lượng thể chất chung của một người.
Một cảm giác thoả mãn và hài lòng được tạo ra khi chúng ta thành công, cho dù thành công đó là một khu vườn có một vụ thu hoạch tốt, một mảnh đồ nội thất, một tác phẩm nghệ thuật hay một mối quan hệ thành công. Danh sách những thành tựu có thể đạt được gần như vô tận, và một dự án có thể rất cụ thể hoặc trừu tượng.
Sự hung hăng và chiến đấu có thể phát triển khi nỗ lực nhưng không thành công. Thất vọng cũng tương tự như ma sát. Động lực để đạt được điều gì đó gặp trở ngại, và bị chậm lại. Sau đó, nhiệt lượng cảm xúc phát triển, sức nóng của sự thất vọng có thể dẫn đến sự hiếu chiến. Có nhiều kỹ thuật để xử lý các sự thất vọng, chẳng hạn như giữ một quan điểm lành mạnh về những gì thực sự quan trọng và những gì chúng ta thực sự có thể đạt được. Trong phần lớn các trường hợp, những thất vọng mà chúng ta phải đối mặt có thể tránh được bằng cách học hỏi từ những sai lầm của chúng ta và có một tầm nhìn lành mạnh hơn về cuộc sống nói chung. Tuy nhiên, sự thất vọng là rủi ro chúng ta phải nhận khi chúng ta cố gắng làm bất cứ điều gì. Chúng ta phải có can đảm để nhận rủi ro này, cũng như chúng ta phải chịu rủi ro bị tổn thương nếu chúng ta yêu một ai đó. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta không ít, và chúng ta phải cố gắng tiến lên phía trước.
Động lực thúc đẩy chúng ta và kích thích chúng ta. Một người thức dậy cảm thấy chán nản, không quan tâm, và không động lực có thể cảm thấy ít năng lượng hơn người thức dậy với động lực để làm điều gì đó.
Tôi không liên kết trực tiếp Mars với tình dục, mặc dù mức năng lượng vật lý tổng thể của một người bị ảnh hưởng bởi sao Hỏa, và mối quan tâm đến giới tính có một tương quan tới mức năng lượng thể chất chung của một người. Những người có sức khỏe cải thiện thông qua một sự thay đổi trong chế độ ăn uống hoặc phong cách sống thường báo cáo rằng sự quan tâm của họ trong tình dục tăng lên cùng với sức sống và sức chịu đựng gia tăng của họ. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
Hành Tinh - Mars (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. Khoa học thông thường, ngoài Mercury, Mars và bốn hành tinh khác mà thiên văn học không biết gì về chúng cả. Sự suy đoán chính là vì các hành tinh này, A. B. và Y. Z. tồn tại trong chất dĩ thái. (I, 187)
2. “Về phần Mars, Mercury và “bốn hành tinh khác”, chúng có liên quan với Địa Cầu mà về việc đó không một Đức Thầy nào… sẽ bao giờ nói đến…” (I, 187).
3. Hiện nay Mars đang ở vào trạng thái qui nguyên (state of obscuration, triều nguyên):
a/ Mars có hai vệ tinh mà nó không có quyền có (Mars has two satellites to which he has no right) (astral and mental). A.A.B.
b/ Mars là một dãy thất phân. (I, 188, 189)
4. Mars là Đấng Chủ Quản của sự sinh, sự tử, sự sinh hoá và sự huỷ diệt. (II, 410)
5. Mars được gọi là hành tinh có sáu mặt. (II, 399) Tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn 662
6. Có một… “tam giác được tạo thành bởi Địa Cầu, Mars và Mercury. Liên quan với tam giác này, sự tương đồng nằm ở sự kiện là Mercury và trung tâm lực ở đáy xương sống trong con người được liên kết chặt chẽ.” (181)
7. “Mercury, Mars và Địa Cầu được liên kết chặt chẽ với ba hành tinh này (Venus, Jupiter và Saturn)”. (299)
+ Cặp bài trùng: Hỏa tinh - Mars và Pluto - Diêm Vương tinh là cặp bài trùng (nội môn), nó tương tự như Kim tinh và Địa cầu (CTHNM, 568) 
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh

Xem thêm: Tong-hop-ve-sao-hoa-hoa-tinh

+ Vulcan: Với Ngoại môn xem như dùng Mặt Trời (CTHNM, 772)
+ Vulcan tức Hỏa Vương Tinh - Cung 1. Không bao giờ tương tác Ngoại môn
- Vulcan: Dẫn truyền Cung 1; Pluto cũng dẫn truyền Cung 1 (Vài Cung tự biểu hiện qua 2 hành tinh. Thí dụ Cung 4, qua Mặt Trăng và cả qua Mercury, trong khi Cung 1, đến với chúng ta qua Vulcan và qua Pluto. Lý do thực sự là một trong các bí mật của điểm đạo và được ẩn giấu trong vận mệnh của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư - Nhân loại.
+ Vulcan - Nằm Giữa Sao Thủy và Mặt Trời: Trong chiêm tinh học nội môn, vẫn sử dụng các hành tinh thông thường nhưng có bổ sung thêm Vulcan, một hành tinh được cho là nằm gần mặt trời. Vòng hoàng đạo sử dụng là vòng hoàng đạo xích đới (tropical). (Chiêm THNM 8)
+ Việc đặt Vulcan lên Mặt Trăng hay Mặt Trời là đúng, bởi vì (trên đường đạo/ Nội môn) lực của Vulcan (Hải Vương tinh/ Mặt Trăng, Thiên Vương tinh/ Mặt Trời) tuôn chảy trực tiếp quá Mặt Trăng (Tình cảm), Mặt Trời (Bản Ngã); (Nguồn: Trả lời câu hỏi Chiêm THNM 9;)
+ Ba hành tinh bị che lấp – Vulcan, Uranus và Neptune: Là các hành tinh thánh thiện, Cung thứ nhất, thứ bảy và thứ sáu. Vulcan không bao giờ là chủ thể cai quản bên ngoài, và chỉ hoạt động thực sự khi một người đang ở trên Thánh Đạo, trong khi Uranus và Neptune là các chủ thể cai quản của cung thứ 11 và 12, và chi phối Aquarius cùng Pisces. Các hàm ý sẽ trở nên sáng tỏ cho bạn (CTHNM, 570)
+ Hỏa Vương Tinh: Hành tinh thánh thiện tương ứng với 7 Trung tâm lực trong con người, tức 7 Luân Xa (TLHNM III, 19):
1. Hỏa vương tinh (Vulcan) ........ Cung 1
2. Thủy vương tinh (Mercury) ..... Cung 4
3. Kim tinh (Venus) ................... Cung 5
4. Mộc tinh (Jupiter) .................. Cung 2
5. Thổ tinh (Saturn) .................. Cung 3
6. Hải vương tinh (Neptune) ...... Cung 6
7. Thiên vương tinh (Uranus) ..... Cung 7
+ Vulcan - Nằm Giữa Sao Thủy và Mặt Trời: Trong chiêm tinh học nội môn, vẫn sử dụng các hành tinh thông thường nhưng có bổ sung thêm Vulcan, một hành tinh được cho là nằm gần mặt trời. Vòng hoàng đạo sử dụng là vòng hoàng đạo xích đới (tropical). (Chiêm THNM 8)
+ Vulcan: Với Ngoại môn xem như dùng Mặt Trời (CTHNM, 772)
+ Vulcan tức Hỏa Vương Tinh - Cung 1. Không bao giờ tương tác Ngoại môn - Vulcan: Dẫn truyền Cung 1; Pluto cũng dẫn truyền Cung 1 (Vài Cung tự biểu hiện qua 2 hành tinh. Thí dụ Cung 4, qua Mặt Trăng và cả qua Mercury, trong khi Cung 1, đến với chúng ta qua Vulcan và qua Pluto. Lý do thực sự là một trong các bí mật của điểm đạo và được ẩn giấu trong vận mệnh của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư - Nhân loại.
+ Việc đặt Vulcan lên Mặt Trăng hay Mặt Trời là đúng, bởi vì (trên đường đạo) lực của Vulcan (Hải Vương tinh, Thiên Vương tinh) tuôn chảy trực tiếp quá Mặt Trăng (Tình cảm), Mặt Trời (Bản Ngã); Nguồn: Trả lời câu hỏi Chiêm THNM 9;
+ Hỏa Vương tinh - 
Hành Tinh – Vulcan (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Jehovah được đồng hoá với Saturn và Vulcan.” (GLBN I, 632)
2. “Vulcan ở bên trong quỹ đạo của Mercury.” (LVLCK, 206. Chú thích)
3. “Định Luật Hy Sinh và Tử Vong, ‘theo một cách bí ẩn’, là đối nghịch của định luật thứ nhất, Định Luật Rung Động. Chính Vulcan và Neptune đang đối nghịch (in opposition), mà cho đến nay là một ý tưởng không thể hiểu được đối với chúng ta.” (LVLCK, 597)
4. “Trong Vulcan, Các Con của Trí Tuệ hầu như đã hoàn tất công việc của họ.” (LVLCK, 742) . * Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh

Xem: Tổng hợp về Hành tinh

Kim tinh/ Venus: Truyền dẫn Cung 5 (GQ1- CT con người)
- Venus: Hành tinh thánh thiện Venus - Kim tinh so với Hành tinh Địa cầu giống như Chân ngã so với Phàm ngã (CTHNM, 436)
- Venus: Về mặt huyền bí, Venus là Hành tinh bổ xung của Địa cầu, vốn là đối cực của Đại cầu (CTHNM, 33)
-
Cảm nhận thẩm mỹ, nghệ thuật, vẻ đẹp, tình cảm, tình yêu. Xem nguồn);
- Nếu một người có sao Kim có góc hợp cứng đối với sao Hỏa, liệu điều này có ngụ ý rằng người đó nên làm nghệ thuật hay làm tình yêu? Nếu câu trả lời là cả 2: nghệ thuật và tình yêu vì sao Kim là hành tinh của tình yêu và vẻ đẹp, thì điều này có ngụ ý rằng các nghệ sỹ yêu đương hơn người khác, hay ý tưởng của Freud rằng các biểu hiện văn hoá giống như nghệ thuật thường là sự dịch chuyển các nhu cầu khác là đúng, và người ta có thể vẽ một bức tranh hoặc có một mối quan hệ lãng mạn tuỳ theo sở thích của một người? Xác định phía bên phương diện nào của sao Kim là rõ ràng nhất trong bối cảnh của sao Kim đặt trong lá số sinh.
* Nếu sao Kim ở trong nhà thứ 7, thì khía cạnh xã hội của sao Kim rất nổi bật,
* Còn nếu sao Kim ở trong nhà thứ 5, thì sự sáng tạo nghệ thuật của sao Kim sẽ nổi trội.
* Venus trong một cung hành thuỷ mang lại cảm xúc,
* Trong khi sao Kim trong một cung hành khí thì kém cảm xúc hơn.
Chúng ta có thể nhìn Venus như một hành tinh với nhiều thuộc tính khác nhau nhưng có liên quan. Cung và nhà và các góc hợp với các hành tinh khác cho chúng ta thấy những đặc tính nào của Sao Kim là nổi trội.
+ Kim tinh (♀): Venus là hành tinh của tình yêu, vẻ đẹp và nghệ thuật. ... Nếu một người có sao Kim có góc hợp cứng đối với sao Hỏa, liệu điều này có ngụ ý: nghệ thuật và tình yêu vì sao Kim là hành tinh của tình yêu và vẻ đẹp, thì điều này có ngụ ý rằng các nghệ sỹ yêu đương hơn người khác, hay ý tưởng của Freud rằng các biểu hiện văn hoá giống như nghệ thuật thường là sự dịch chuyển các nhu cầu khác là đúng, và người ta có thể vẽ một bức tranh hoặc có một mối quan hệ lãng mạn tuỳ theo sở thích của một người?
... Nếu sao Kim ở trong nhà thứ 7, thì khía cạnh xã hội của sao Kim rất nổi bật, còn nếu sao Kim ở trong nhà thứ 5, thì sự sáng tạo nghệ thuật của sao Kim sẽ nổi trội. Venus trong một cung hành thuỷ mang lại cảm xúc, trong khi sao Kim trong một cung hành khí thì kém cảm xúc hơn.
... Venus: sức hút của vẻ đẹp. Mọi người bị thu hút bởi vẻ đẹp. Chúng ta dành rất nhiều nỗ lực để làm cho môi trường xung quanh phù hợp với sở thích của chúng ta, và chúng ta cảm thấy khó chịu, thậm chí bệnh tật, nếu quang cảnh, âm thanh và mùi hôi tấn công các giác quan của chúng ta. ...
Không có hai người có cùng một sở thích, nhưng mọi người cảm thấy bị xua đẩy bởi những âm thanh, âm nhạc và môi trường xung quanh nhất định, và chúng ta bị thu hút bởi những cái khác. Trong tình yêu lãng mạn, vẻ đẹp của nhân cách và / hoặc các đặc tính thể chất của một người khác đóng một vai trò trong việc thu hút mọi người với nhau. Sức thu hút của vẻ đẹp mang cảm giác yêu thương. .... không phải tất cả các nghệ thuật chủ yếu là tính chất Kim tinh, nhưng hầu hết các nghệ thuật ít nhất phần nào thu hút chúng ta vì sức hấp dẫn của vẻ đẹp của nó.
Vẻ đẹp không chỉ đơn giản là vấn đề tỷ lệ hoàn hảo và sự hài hòa hoàn hảo. Thiếu sự ngạc nhiên, đa dạng, tương phản, và sự căng thẳng được tạo ra bởi những thay đổi từ bất hòa đến hài hòa dễ chịu có thể là sáo mòn và không hấp dẫn. Bất kể điều gì mà một người đặc biệt nhận thấy đẹp sẽ thu hút người đó bằng một sức mạnh hấp dẫn và cảm giác yêu thương.... Sao Kim là sức hấp dẫn của vẻ đẹp.
Tuy nhiên, có rất nhiều cái chúng ta yêu mà không đẹp, hoặc ít nhất chúng ta yêu chúng không phải vì chúng đẹp. Chúng ta yêu con cái và các thành viên khác trong gia đình, và tình yêu này là một hình thức liên kết tình cảm, cam kết, quan tâm và hiểu biết. ...
Cảm giác yêu thương mạnh mẽ và liên kết mạnh mẽ xảy ra như là kết quả của bất kỳ..., liên kết trở nên mạnh mẽ hơn:
Chia sẻ thời gian trong cùng nhà (Mặt Trăng)
Giao tiếp tốt (Mercury)
Làm việc với nhau và giúp đỡ nhau đạt được mục tiêu (Mars)
Mở rộng chân trời cùng nhau, khám phá những điều mới mẻ và mở rộng biên giới của những trải nghiệm và kiến thức của bạn (Jupiter)
Có trách nhiệm với nhau (Thổ tinh)
Trải nghiệm những bất ngờ, khám phá, hoặc phấn khích với nhau (sao Thiên Vương)
Giúp đỡ lẫn nhau để theo đuổi những ước mơ và lý tưởng của bạn (Hải Vương tinh)
Giữ bí mật khỏi hầu hết những người khác (Pluto)
Một mối quan hệ kết hợp hầu hết các tính chất trên là rất mạnh. ...
Một số nhà chiêm tinh giải thích lá số sinh bằng cách chỉ đơn giản là nhìn vào yếu tố chiêm tinh cai quản khu vực mà khách hàng đang hỏi. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ SAO KIM: 
Hành Tinh – Venus (Tham khảo trong Giáo lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Venus … không có vệ tinh nào … và già hơn Địa Cầu nhiều.” (GLBN I, 180 – II, 35)
3. “Ánh sáng đến qua Venus, Venus nhận nguồn cung cấp gồm ba phần và cống hiến 1/3 cho Địa Cầu.
a/ Do đó cả hai được gọi là “chị em song sinh.
b/ Tinh thần của Địa Cầu phụ thuộc vào Venus.” (GLBN II, 33)
4. “Venus là hành tinh bí mật, mạnh mẽ và huyền linh nhất trong tất cả các hành tinh.
a/ Liên hệ của nó với Địa Cầu nổi bật nhất.
b/ Nó chi phối sự sinh hoá tự nhiên của con người.
c/ Nó được gọi là ‘mặt trời khác’.
d/ Nó là nguyên kiểu tinh thần hay nguyên sơ của Địa Cầu.” (GLBN II, 33 – 35)
5. “Hành Tinh Thượng Đế của Venus yêu thương Địa Cầu sâu đậm đến nỗi Ngài hoá thân và ban cho nó các định luật hoàn hảo vốn không để ý và bác bỏ.” (GLBN II, 38)
6. “Mọi tội lỗi phạm phải trên Địa Cầu được cảm nhận trên Venus. Mọi thay đổi trong Venus được phản chiếu trên Địa Cầu.” (GLBN II, 35)
7. “Venus… là người-mang-ánh-sáng (light-bearer) của Địa Cầu chúng ta, trong cả ý nghĩa vật chất lẫn ý nghĩa huyền bí.” (GLBN II, 36)
10. “Mặt Trời Sirius, là cội nguồn của trí tuệ Thượng Đế (manas) ... và Venus chịu trách nhiệm cho việc tiến nhập của trí tuệ trong dãy Địa Cầu.” (LVLCK, 347)
11. “Có một khoen nối tâm linh giữa Hành Tinh Thượng Đế của Venus với Hành Tinh Thượng Đế của Địa Cầu chúng ta.
a/ Hành tinh hệ Venus linh hoạt hơn hành tinh hệ chúng ta.
b/ Nhân loại của hành tinh hệ Venus tiến hoá hơn nhân loại trên Địa Cầu.
c/ Bức xạ của nó bao gồm cõi Bồ Đề về phần nhân loại.
d/ Do đó nó có thể mở ra, qua sự kích hoạt, cùng mức độ với nhân loại của Địa Cầu chúng ta.” (LVLCK, 367)
13. “Kim Tinh có phân cực âm và do đó hành tinh này có thể trở thành một thu hút huyền bí của Địa Cầu đối với lực của Kim Tinh … mối liên hệ nhân quả giữa hai Đức Hành Tinh Thượng Đế (một trong hiện thân dương – positive incarnation – còn vị kia trong hiện thân âm – negative incarnation -) đã tạo ra một liên minh hành tinh (planetary alliance). Diệu quang loé sáng.” (LVLCK, 323)
16. “Venus, Jupiter và Saturn có thể được xét theo quan điểm của hiện tại như là các vận thể (vehicles) của ba siêu nguyên khí hay nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars có liên kết chặt chẽ với ba nguyên khí này, nhưng nơi đây có một bí mật còn ẩn tàng.” (LVLCK, 299)
17. “Trong hệ thống con người, mắt phải tương ứng với Buddhi và Mercury, còn mắt trái tương ứng với manas và Venus.” (GLBN III, 447 và 458)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Sao Kim, hành tinh cung 5 sẽ giúp xua tan ảo cảm_Chân Sư DK: Vì vậy chúng ta phải rèn luyện, rèn luyện một cách tỉ mỉ. Sự rèn luyện thực sự sử dụng cung 5 của thể trí, và không có cách nào để tránh né được. Và dĩ nhiên loại tâm thức cung 2 sẽ tham gia và chúng ta sẽ không còn bị cuốn theo xu hướng cung 6 nói chung của thể cảm dục vốn tạo ra sự biến dạng, sự cường điệu hoặc sự giảm thiểu, gây ra ảo cảm. Chúng ta sẽ thấy sự sống theo đúng tỷ lệ, và bạn hãy nhớ rằng sao Kim - Hành tinh của sự cân đối, tỷ lệ, chủ tinh của Thiên Bình, dấu hiệu của tỷ lệ (Nguồn: Ảo Cảm 1- Anh Kiệt dịch 9. 2019)
Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh;     Tổng hợp về Kim Tinh

+ Thiên Vương Tinh: Uranus truyền dẫn Cung 7 (GQ1- CT con người)
+
Không ổn định, tự phát, bốc đồng, sáng tạo, không có kỷ luật
+ Thiên vương tinh có liên quan đến phát minh, khám phá, kích động, công nghệ, thiên tài, lệch tâm, điện, và tai nạn, trong số những thứ khác.
- Giả thuyết của tôi là Thiên vương tinh nạp năng lượng cho bất cứ cái gì nó chạm vào và làm cho nó tự do. Thiên vương tinh tìm kiếm tự do và độc lập
- Nhà chiêm tinh Stephen Arroyo chỉ ra một mặt của sao Thiên Vương mà không được chú ý nhiều: ích kỷ.
+ Hãy nhớ rằng cung 7 có liên quan nhiều đến luân xa xương cùng và luân xa đáy cột sống, nhưng khi Chân sư DK nói với bạn về luân xa xương cùng, Ngài cho Uranus là một trong những chủ tinh cai quản nó, và bạn nhớ, Uranus là hành tinh cung 7 nổi bật. Vì vậy, chúng ta phải thực sự không tham gia vào cách thức mua sắm (Ảo cảm tình dục/ Cô giái và xe đẹp) này vốn được sử dụng cho mục đích thứ yếu. (Nguồn: Chương Ảo cảm cung 7 phần 1, mục Ảo cảm về Ma thuật tình dục)
Hành Tinh Uranus - Thiên Vương tinh (Tham khảo trong Giáo lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Uranus được cổ nhân biết dưới tên khác.” (GLBN I, 126)
2. “Cronus (thời gian)… được tượng trưng như là Uranus bị cắt xén (mutilating Uranus)… Thời gian tuyệt đối được tạo ra để trở thành hữu hạn và có điều kiện.” (GLBN I, 450)
3. “Trong số ba tinh cầu bí ẩn hay các Tinh Tú Thiên Thần (Star Angels), Uranus… không được bao gồm.” (GLBN I, 629)
4. Uranus … nhân cách hoá mọi năng lực sáng tạo và đồng nghĩa với Cronus. (GLBN II, 281 – 282)
5. “Cổ nhân không biết tới Uranus và họ bắt buộc tính Mặt Trời trong số các hành tinh… Uranus là một tên gọi hiện đại, nhưng có một điều chắc chắn, cổ nhân đã có một hành tinh bí mật mà họ không bao giờ đặt tên. Hành tinh thứ 7 này không phải là Mặt Trời mà là Đại Tư Tế (Hierophant) thiêng liêng ẩn mật.” (GLBN III, 330)
6. “Hiện nay Uranus đang được kích hoạt.” (LVLCK 357)
7. “Là một trong ba hành tinh tổng hợp, còn Sirius có ảnh hưởng đến toàn bộ thái dương hệ chúng ta xuyên Uranus, Neptune và Saturn”. (LVLCK 378)
8. “Uranus là trú sở của “lửa điện.” (LVLCK 1154)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem: Tổng hợp về Thiên Vương tinh

+ Khi Nói Mặt Trời là Chủ tinh Cai quản Một Cung: Tôi nói đến một trong các hành tinh ẩn giấu Uranus hoặc Vulcan. các Hành tinh này có thể thay thế lẫn nhau ở công dụng của chúng, là cái khó khi nếu chỉ ra Hành tinh Nội môn, trừ khi bạn được chỉ ra. Do đó Tôi nhắc đến Uranus _(CTHNM, 113)
+ Mặt Trời đang cai quản về mặt ngoại môn, nội môn và về mặt huyền giai (Chân Sư DK_CTHNM, 350)
+ Mặt Trời: Là Trung tâm Thái dương hệ (Như Trái Tim trung tâm con người) (TTHM184).
+ Chu kỳ: Theo quan điểm nhân loại, mặt trời di chuyển chung quanh Hoàng Đạo mất chừng 25.000 năm(CTHNM, 93)
Mặt trời: Bản ngã, cái tôi, ngoại hình, lập trường trong cuộc sống hoặc bạn là ai. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Mặt trời (The sun, Thái dương): Mặt trời là cái kho vĩ đại chứa sinh lực, từ lực và điện lực cho Thái Dương Hệ của chúng ta và tuôn ra (pour out) rất nhiều các dòng năng lượng ban phát sự sống. Các luồng năng lượng này được các thể dĩ thái của các loại khoáng chất, thực vật, động vật và con người đón nhận và được biến đổi thành các năng lượng sự sống khác nhau cần thiết cho mỗi loại. (MTNX, 55)
+ Mặt trời là thể hồng trần của Thượng Đế.(KCVTT, 121)
+ Mặt trời và Mộc tinh truyền dẫn Cung 2 (Nguồn: GQ1- Cấu tạo con người)
+ Mặt Trời chi phối cả 3 tình trạng của Leo - Sư Tử (Ngoại, Nội môn và Huyền Giai): Vì mục tiêu của Thái dương hệ là Khai mở Tâm thức, thi Mặt Trời hiển nhiên chi phối Tâm thức Hồng trần - Linh hồn - Sự sống tâm linh thuộc Thánh đoàn_Chân Sư DK (CTHNM, 332).
+ Mối quan hệ tay 3 của Mặt Trời với Leo là độc nhất trong Thái dương hệ chúng ta (CTHNM,235)
+ Các NĂNG LƯỢNG phát ra từ mặt trời cũng có một tác dụng kép.
- Thứ nhất, có những năng lượng mà chúng ta có thể gọi là hiệu ứng prana, vốn là kết quả của ảnh hưởng của lực thái dương (solar force), đang phát ra từ mặt trời vật chất. Hiệu ứng này tạo ra các kết quả rõ ràng trên các hình tướng khách quan, và các năng lượng này được gọi là các năng lượng thuộc vật chất hay cần cho sự sống (physical or vital). Các năng lượng này đi vào trong cơ thể con người xuyên qua lá lách và cũng xuyên qua một bí huyệt nằm giữa hai xương vai; bí huyệt này nằm giữa bí huyệt cổ họng và bí huyệt tim trong cột sống, nhưng gần bí huyệt tim hơn bí huyệt cổ họng.
- Thứ hai, có các năng lượng phát ra từ cái mà về mặt nội môn được gọi là “tâm của mặt trời” (“heart of the sun”); các năng lượng này quét qua hết hành tinh này đến hành tinh khác theo bảy luồng lớn và cung cấp lực (power) vào linh hồn của con người, tạo ra loại nhạy cảm mà chúng ta gọi là ý thức (awareness). Bảy loại năng lượng này tạo ra bảy loại linh hồn hoặc bảy cung (rays), và theo ý tưởng này, bạn tìm thấy cái bí mật của sự hiệp nhất linh hồn. Trong khi biểu lộ, do các ảnh hưởng của bảy loại năng lượng tác động trên vật chất của không gian, người ta nhận thấy bảy loại linh hồn, bảy lĩnh vực biểu lộ, và bảy mức độ tâm thức cùng các đặc trưng của cung. Như bạn biết rõ, các biến phân này giống như màu sắclăng kính thu được khi được đưa ra trước các tia của mặt trời, hoặc được đưa ra trước mảng họa tiết của kiểu mẫu được tìm thấy trong ánh phản chiếu trên một hồ bơi trong trẻo. (LVHLT, 433)
+ Mặt Trời lên - Ánh Sáng Chiếu soi: Trích Đức Phật dậy.... HT Tuyên Hóa giảng:
Từ sữa làm thành sữa đông (lạc), từ sữa đông làm thành bơ (sinh tô), từ bơ (sinh tô) làm thành phó-mát (thục tô), từ thục tô làm thành đề-hồ[17], là chất tinh túy nhất được tinh chế từ sữa.
Thời kỳ thuyết giáo đầu tiên của Đức Phật được gọi là Thời Hoa Nghiêm- ví như lúc mặt trời mới mọc, ví khi mặt trời mới mọc thì chiếu ánh sáng đầu tiên cho các đỉnh núi cao. Đỉnh núi cao biểu tượng cho các vị Đại Bồ-tát. Kinh Hoa Nghiêm là để giáo hóa hàng Bồ-tát, những vị thuộc hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, đều "có mắt mà như mù.", họ không nghe được giáo lý viên đốn vi diệu trong Kinh Hoa Nghiêm.
Năm thời kỳ thuyết giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ví như sự tinh chế sữa. Giáo pháp trong Kinh Hoa Nghiêm cũng giống như sữa nguyên chất.
Thời kỳ thuyết giáo thứ hai của Đức Phật là Thời A-hàm - có nghĩa là không một pháp ngoại đạo nào có thể sánh được - Pháp Tiểu thừa. ..Thời A-hàm được ví như sữa đông (lạc). Ví như mặt trời mới mọc, thời kỳ thuyết giáo thứ hai được biểu tượng cho ánh sáng mặt trời chiếu đến vùng thung lũng, có nghĩa là vùng đất thấp hơn, ánh sáng mặt trời cũng chiếu đến được.
Thời kỳ thuyết giáo thứ ba của Đức Phật là Thời Phương đẳng- như bơ (sinh tô). Ví như ánh sáng mặt trời chiếu rộng khắp mọi nơi trên mặt đất.
Thời kỳ thuyết giáo thứ tư của Đức Phật là Thời Bát-nhã.- ví như phó-mát (thục tô). Ví như ánh sáng mặt trời vào lúc gần trưa.
Thời kỳ thuyết giáo thứ năm của Đức Phật là Thời Pháp Hoa –Niết-bàn. - ví như đề-hồ. Kinh Pháp Hoa được ví như mặt trời chiếu ngay trên đỉnh đầu. Lúc chính ngọ, mặt trời chiếu khắp mọi vật, cả đỉnh núi cao, cả thung lũng, và khắp cả mặt đất nơi đồng bằng.(Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Mặt trời chiếu sáng mười phương: Đức Phật bảo Phú Lâu Na. Nên biết cái sáng đó, chẳng phải là mặt trời, chẳng phải là hư không, cũng chẳng khác hư không và mặt trời. (HT Tuyên Hóa: Nó chẳng ngoài hai thứ đó. Rốt ráo, nó đến từ đâu? Nó lưu xuất từ tánh Như Lai tạng. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Ý nghĩa nội môn của Mặt Trời - Xem:
1. “Mặt Trời là một ngôi sao trung ương chứ không phải là một hành tinh.” (GLBN I, 126) (Do đó khi Mặt Trời được bao gồm trong số các hành tinh như hiện nay, nó chỉ thay cho hoặc che khuất một hành tinh ẩn giấu).
2. Mặt Trời chỉ là một trong các Mặt Trời vốn… “là các hoa hướng dương có ánh sáng cao siêu.” Nó đang “trú trong hiện thể của một Thần hoặc của một nhóm các Thần, giống như hàng tỉ các mặt trời khác.” (GLBN I, 319
3. “Mặt Trời là kho chứa sinh lực vốn là thực tượng (noumenon, bản thể) của điện.” (GLBN I, 579)
4. “Mặt Trời không phải là một hành tinh thánh thiện.” (GLBN II, 26)
5. “Mặt Trời… có sự tăng trưởng, các thay đổi, sự phát triển, và tiến hoá từ từ của nó.” (GLBN I, 667)
6. “Mặt Trời là vật chất và Mặt Trời là tinh thần.” (GLBN I, 820)
Còn nhiều mô tả minh triết về mặt trời, xem tại: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh

+ Diêm Vương Tinh - Pluto: Vulcan và Diêm Vương tinh truyền dẫn Cung 1 (GQ1- CT con người)
+ Pluto: Ám ảnh, ép buộc, cuồng tín, ý thức nhiệm vụ, bị tình cảm tác động. (Nguồn: Xem thêm)
+ Pluto là hành tinh tái sinh và chuyển đổi. Nhiều nhà chiêm tinh nhấn mạnh rằng Sao Diêm Vương sẽ biến đổi cuộc sống của bạn. Bất cứ khi nào Pluto hoạt động, cuộc sống sẽ bị biến hình thành một cái gì đó khác với cách nó bắt đầu.
+ Cặp bài trùng: Hỏa tinh - Mars và Pluto - Diêm Vương tinh là cặp bài trùng (về nội môn), nó tương tự như Kim tinh và Địa cầu ( Xem thêm: Tổng hợp về Diêm Vương tinh)
+ Sao Diêm Vương:
Pluto là hành tinh tái sinh và chuyển đổi. Nhiều nhà chiêm tinh nhấn mạnh rằng Sao Diêm Vương sẽ biến đổi cuộc sống của bạn. Bất cứ khi nào Pluto hoạt động, cuộc sống sẽ bị biến hình thành một cái gì đó khác với cách nó bắt đầu.
Reinhold Ebertin gắn với Sao Diêm Vương với sự cuồng tín, ám ảnh, và ép buộc. Nhiều nhà chiêm tinh học lưu ý rằng ảnh hưởng của Pluto có vẻ như nắm bắt cá nhân và cảm thấy vượt quá sự kiểm soát của người đó. Họ cảm thấy những động lực cưỡng ép hoặc biến đổi dường như kiểm soát cuộc sống của một người.
Tôi đã phát triển một giả thuyết về ảnh hưởng của Sao Diêm Vương sau khi nhà chiêm tinh Charles Jayne nói với tôi rằng ảnh hưởng của Pluto hoạt động ở mức độ cảm xúc và ảnh hưởng của Pluto có mối liên hệ với ảnh hưởng của Mặt Trăng. Sau khi nghiên cứu nhiều lá số, tôi bắt đầu tin rằng Jayne đã đúng.
Tôi kết hợp lý thuyết của Jayne với Ebertin trong khi nghiên cứu ảnh hưởng của Pluto trong các lá số để đưa ra giả thuyết này: Pluto buộc các cảm giác chôn sâu trồi lên bề mặt, Pluto buộc những thứ ẩn sâu trong trồi lên nhận thức có ý thức và vào cuộc sống của chúng ta, theo cách mà chúng ta ít có thể kiểm soát. Mặt trăng khiến chúng ta liên hệ với quá khứ qua những tâm trạng và cảm xúc của chúng ta. Pluto buộc những cảm giác bị đè nén hoặc tiềm ẩn lên bề mặt. Như Ebertin chỉ ra, Pluto có khuynh hướng làm một người bị ám ảnh, cưỡng ép, hoặc cuồng tín.
Người Plutonic không được thúc đẩy bởi logic và lý trí hay bởi thiện chí. Anh ta bị thúc ép bởi ham muốn cưỡng bách. Bất cứ khi nào một người đi đến cực đoan có vẻ như không cân bằng hoặc cuồng tín, Pluto thường có liên quan, đặc biệt nếu nó không phải là chủ nghĩa lý tưởng đang dẫn dắt họ. Vận động viên hoặc người biểu diễn luyện tập 8 tiếng mỗi ngày, hoặc người hy sinh những sở thích và những thói quen “bình thường” để theo đuổi những gì quan tâm có thể sẽ có Pluto nổi bật trong lá số sinh. Diễn giả sôi nổi khuyến khích bạn thực hiện theo nguyên tắc của mình rất thường xuyên bị thúc đẩy bởi một sự thúc giục cuồng tín vượt ngoài lí trì và sự phán đoán hợp lý về tình trạng; Anh ta bị sức mạnh của Pluto khống chế. Sao Diêm Vương ép buộc cảm xúc sâu sắc trồi lên bề mặt và do đó ép chúng ta bằng sức mạnh của nó giống như làn sóng thủy triều có cường độ cảm xúc không thể phủ nhận.
Nhiều nhà chiêm tinh học sẽ thấy rằng giải thích trên về ý nghĩa Pluto đã bỏ qua tính năng quan trọng nhất của Sao Diêm Vương: sự chuyển đổi. Sự biến đổi thường là kết quả của sự tràn ngập cảm xúc của cảm xúc sâu xa, nhưng sự biến đổi này có thể là một sản phẩm phụ của quá trình cơ bản.
Có lẽ việc rút gọn mỗi hành tinh thành một quá trình năng lượng cơ bản có vẻ là một bài tập vô ích đối với bạn. Tuy nhiên, nếu không còn gì khác, nó có thể đơn giản hóa nhiều việc luận giải lá số; Chúng ta tập trung vào quy trình năng lượng cơ bản trong công việc, và chúng ta không phải lựa chọn trong số rất nhiều chi tiết dường như không liên quan để giải thích lá số. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
Hành Tinh Pluto - Diêm Vương Tinh (Trích dẫn trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Pluto là một vị thần (deity) có các thuộc tính của rắn. Pluto là tay chữa bệnh, kẻ ban phát sức khoẻ, về tinh thần, thể chất và về giác ngộ”. (GLBN II, 30. Chú thích).
2. “Theo truyền thuyết, Orpheus tìm kiếm linh hồn thất lạc của mình trong vương quốc của Pluto. Krishna cứu ra khỏi Pluto sáu nguyên khí của y (II, 30), vốn là cái thứ bảy chính y… y là điểm đạo đồ hoàn toàn, toàn bộ sáu nguyên khí của y nhập vào cái thứ bảy.” (GLBN III, 142)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh

+ Nguyệt cầu (The Moon): Vệ tinh của chúng ta đang tuôn đổ vào bầu thấp nhất của dãy hành tinh chúng ta (bầu D, tức Địa cầu) tất cả các năng lượng và sức mạnh của nó; và đã dời chuyển chúng qua một trung tâm mới, hầu như trở thành một hành tinh chết, trong đó, từ lúc bầu hành tinh của chúng ta ra đời, việc quay đã ngưng lại.” (LVLCK, 154–155)
+ Mặt Trăng: Mặt Trăng là hình hài chết, không có tính chất nào của chính nó, nó không có một phóng phát năng lượng nào cả, nó không thể truyền cho Địa cầu bất cứ thứ gì cả. Hành tinh ẩn dấu của Vulcan hoặc Uranus, sử dụng như sau:
(i)- Với người kém tiến hóa hay trung bình thì dùng Vulcan,
(ii)- Với Người tiến hóa cao thì làm việc với Uranus (CTHNM III, 21);
- Chân Sư DK: Khi Nói Mặt Trăng chủ thể cai quản 1 cung là Mặt trời hay Mặt trăng, tôi sẽ nói đến 2 Hành tinh ẩn giấu là Vulcan và Uranus. Các Hành tinh này có thể thay thế lẫn nhau ở công dụng của chúng. Do đó, về nội môn, Tôi nhắc đến Uranus (CTHNM, 113),
- Chân Sư DK: Mặt Trăng che dấu cả Vulcan lẫn Neptune - Đặc biệt quan trọng ở trạng thái liên kết hình hài với Tâm thức (CTHNM, 308) 
+ Thủy tinh và Mặt trăng truyền dẫn Cung 4, Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người)
+ Cung Mặt trăng: Tính khí, nhà, bản chất trong nhà, phẩm chất nuôi dưỡng. (Xem nguồn)

+ Mặt Trăng Là Bậc Nhất Trong các Tinh tú: Cũng như trong các ngọn núi, Tu di sơn vương là bậc nhất. Cũng như trong các dòng suối, biển lớn thu nhập nước, biển lớn là bậc nhất. .... Cũng như giữa các vì tinh tú trong hư không, mặt trăng là bậc nhất. .. trong các hội chúng, Như Lai là bậc nhất, là tối đại, là tối thượng, là tối cao, là tối tôn, là tối diệu. (Nguồn: mục 489- Trung A Hàm, Phẩm 11, số 141)
+ Kinh nghiệm thất bại từ Nguyệt cầu: Mục tiêu mỗi kiếp sống là sự phát triển của một hình hài thích hợp hơn để cho tinh thần sử dụng; và khi mục tiêu này được đạt đến, lúc bấy giờ Chủ Thể Nội Tâm xoay sự chú ý của mình đi nơi khác, sự chết đến và hình hài sẽ tan rã sau khi đã được dùng cho nhu cầu của Chủ Thể đó. Điều này không phải lúc nào cũng xảy ra trong mọi kiếp sống con người, mà cũng không nằm trong mỗi chu kỳ hành tinh. Bí mật của nguyệt cầu là bí mật về sự thất bại, điều này khi được hiểu rõ sẽ đưa đến một đời sống xứng đáng và đem lại một mục tiêu xứng đáng cho nỗ lực có hiệu quả nhất của chúng ta. Khi nào khía cạnh chân lý này được nhận thức một cách rộng rải, cũng như khi sự sáng suốt của nhân loại đã đầy đủ, lúc bấy giờ sự tiến hoá sẽ tiếp diễn một cách chắc chắn và sự thất bại sẽ ít đi. (LVLCK, 171)
Hành Tinh Mặt Trăng (che khuất một hành tinh - Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Ngày nay Mặt Trăng là khối lạnh lẽo còn sót lại, ... Hiện nay nó bị bắt buộc phải theo sau trái đất trong các thời kỳ dài, nó hút Trái Đất và bị Trái Đất hút lại. Luôn luôn bị con mình (tức Trái Đất - ND) rút rỉa (vampirized), nó chống trả lại bằng cách đem hết ảnh hưởng độc hại, vô hình, xấu xa vốn xuất phát từ khía cạnh huyền bí của bản chất của nó, chỉ vì Mặt Trăng là một xác chết, tuy là một thể sống (for she is a dead, yet a living body). Những mảnh vụn của xác chết đang tan rã của nó có đầy sự sống sinh động và phá hoại, dù xác thân mà chúng đã được tạo thành thì không hồn và không có sự sống (souless and lifeless).” (180)
2. “Địa Cầu là một vệ tinh của Mặt Trăng”. (I, 212) (nghĩa là giống như linh hồn ngày nay là vệ tinh của hình hài).
3. “Mặt Trăng là biểu tượng của xấu xa”. (I, 246)
4. “Mặt Trăng không phải là hành tinh thánh thiện”. (II, 36)
5. “Mặt Trăng là vua của các hành tinh”. (II, 401, chú thích)
6. “Mặt Trăng là Chúa (sovereign) của thế giới thực vật (vegetable world)”. (II, 528)
7. “Mặt Trăng là thể thấp kém (inferior body)”. (II, 48)
8. “Mặt Trăng là trí, còn Mặt Trời là sự hiểu biết”. (II, 675 - Chú thích) (Trích dẫn Shankacharya).
9. “Mặt Trăng là một hành tinh chết mà tất cả các nguyên khí đều đi khỏi nó. Đó là một thay thế cho một hành tinh mà dường như đã biến mất khỏi tầm mắt”. (III, 459). Các tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn
10. “Mặt Trăng đã chết và không thể bảo bọc sự sống vì nhân loại và các thiên thần kiến tạo đã tách ra khỏi vùng ảnh hưởng của Mặt Trăng”. (93)
11. “Mặt Trăng đang ở vào tiến trình tan biến và chỉ có một thể đang tan rã là còn lại. Sự sống của Thượng Đế Ngôi Một và Thượng Đế Ngôi Hai đã triệt thoái, và chỉ có sự sống tiềm tàng của chính vật chất là còn lại”. (415)
12. “Mặt Trăng là:
a/ Vị trí của thất bại thái dương hệ.
b/ Liên kết với các nguyên khí thấp.
c/ Cội nguồn của bất hạnh tính dục được trải qua trên hành tinh chúng ta.
d/ Bị ngăn chặn trong sự tiến hoá của nó bởi sự can thiệp đúng lúc của Thái Dương Thượng Đế.
e/ Cội nguồn của hận thù giữa các lực của ánh sáng và bóng tối… có thể được truy nguyên đến Mặt Trăng”. (985. Chú thích)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh

+ Thuỷ tinh - Sao Thủy: Thủy tinh và Mặt trăng truyền dẫn Cung 4 (GQ1- CT con người) -  Sao Thủy (Cung của sao Thủy dẫn: Cung 4) điều khiển thể trí, là lực chiếm ưu thế ở cấp độ phàm ngã. Đáp ứng với câu châm ngôn "Hãy để vật chất thống trị " tâm trí tràn ngập những tư tưởng về tiền bạc và tài sản.(Thủy Tinh; Cung 4 - CTHNM, 80);
+ Mercury: Ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến Tứ nguyên ở người; Chân Sư DK (CTHNM, 338):  
Sirius           Leo          Mercury     Saturn
Tinh Thần ... Linh hồn .... Trí tuệ ....... Bộ óc
Sự sống ..... Tính chất ... Giác ngộ .. Sắc tướng
Hít vào ........Tạm nghỉ ... Thở ra ...... Tạm nghỉ

-
Lời nói, viết, suy nghĩ có ý thức, logic
- C
ách chúng ta nghĩ và xử lý thông tin, và do đó ảnh hưởng đến cách chúng ta giao tiếp. Suy nghĩ là một quá trình chứ không phải là một đặc điểm tĩnh bên ngoài của một người. Nói chung, các nhà chiêm tinh vẫn giải thích Thuỷ tinh một cách đơn giản hơn là liên kết một số lượng lớn các hiện tượng dường như không liên quan với Thuỷ tinh . Có sự đồng thuận rộng rãi về ý nghĩa của nó, vì vậy chúng ta không cần phải thảo luận về các cách hiểu khác nhau.
- Thống kê và ý nghĩa: Các quy luật và tạo lập Lá số Chiêm tinh; Định vị các Nhà; Vòng Hoàng Đạo và Mặt phẳng Hoàng đạo, đường Xích đạo Trời; Các Hành tinh có tính Ngũ Hành của nó mạnh hơn Ngũ hành cùng loại của các Cung Hoàng Đạo; Ý nghĩa các Cung Hoàng Đạo; Các Nhà; Các Góc hợp và Chủ tinh các Cung Hoàng Đạo; cũng như khái niệm về vượng, tướng, tù, tử; Cung chủ quản một Nhà; Mẫu sắc Ngũ hành; Tính điểm ngũ hành; Các góc hợp Tam hợp, Lục hợp ....
+ Thuỷ tinh (☿): Thuỷ tinh ảnh hưởng đến cách chúng ta nghĩ và xử lý thông tin, và do đó ảnh hưởng đến cách chúng ta giao tiếp. Suy nghĩ là một quá trình chứ không phải là một đặc điểm tĩnh bên ngoài của một người. Nói chung, các nhà chiêm tinh vẫn giải thích Thuỷ tinh một cách đơn giản hơn là liên kết một số lượng lớn các hiện tượng dường như không liên quan với Thuỷ tinh . Có sự đồng thuận rộng rãi về ý nghĩa của nó, vì vậy chúng ta không cần phải thảo luận về các cách hiểu khác nhau. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
Hành Tinh Thủy tinh - Mercury (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Mercury chỉ vừa mới bắt đầu rời khỏi trạng thái triều nguyên.
a/ Mercury không có vệ tinh nào.
b/ Mercury là dãy thất phân.” (188, 189)
2. “Mercury già hơn Địa Cầu nhiều”. (I, 180)
3. “Mercury được gọi là thần thứ nhất trong số các Thần thiên giới, Thần Hermes… mà Thượng Đế được gán cho là sáng tạo ra và cuộc khai mở đầu tiên của con người vào Huyền Thuật. …Mercury là Budh, Minh Triết, Giác Ngộ hay là “làm sống lại” trong khoa học thiêng liêng”. (I, 513)
4. “Mercury là Chúa của Minh Triết”. (II, 31)
5. “Mercury còn huyền bì và ẩn mật hơn là Venus. Nó vốn:
a/ Đồng nhất với Mithra.
b/ Bạn đồng hành vĩnh cửu của Mặt Trời Minh Triết.
c/ Lãnh tụ và kẻ trục triệu (evocator) của linh hồn.
d/ Đồng nhất với Mặt Trời”. (II, 31)
6. “Mercury chữa lành kẻ mù, và phục hồi sự thấy của tinh thần và vật chất”. (II, 571)
7. “Mercury đôi khi tượng trưng:
a/ Như là có ba đầu, bởi vì là một với Mặt Trời và Venus.
b/ Như hình lập phương, không có tay, vì ‘sức mạnh của sự nói và hùng biện có thể chiến thắng mà không cần sự trợ giúp của tay và chân’”. (II, 572)
8. “Giống dân thứ năm được sinh ra dưới Mercury” (giống dân Aryan. A.A.B.) (II, 32)
9. “Mercury là anh của Địa Cầu”. (II, 48)
10. “Mercury nhận được ánh sáng bảy lần nhiều hơn bất cứ hành tinh nào khác”. (II, 570)
11. “Buddhi và Mercury tương ứng với nhau và cả hai đều vàng (yellow) có màu hoàng kim sáng rực. Trong hệ thống con người, mắt phải tương ứng với Buddhi, còn mắt trái tương ứng với Manas và Venus hay là Lucifer”. (III, 447, 448)
12. “Mercury được gọi là Hermes; Venus được gọi là Aphrodite và sự liên kết của chúng trong con người trên bình diện tâm lý – vật lý (psycho-physical plane) mang lại cho y tên gọi Hermaphrodite (Lưỡng Tính, Bán Thư Bán Hùng)” (III, 458) Tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn
13. “Venus, Jupiter và Saturn có thể được xem như là các hiện thể của ba siêu nguyên khí hay nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars được liên kết chặt chẽ với ba hành tinh này, nhưng ở đây có ẩn một bí mật còn bị che giấu”. (299).
14. “Gợi ý thứ hai mà Tôi tìm cách đưa ra, nằm trong tam giác được hợp thành bởi Địa Cầu, Mars, Mercury. Liên quan với tam giác này, sự tương tự nằm trong sự kiện rằng Mercury và trung tâm lực ở đáy xương sống trong con người có liên kết chặt chẽ. Mercury cho thấy kundalini ở trạng thái hoạt động sáng suốt trong khi Mars cho thấy kundalini ở trạng thái tiềm tàng”. (181)
15. “Vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm, cùng với Thượng Đế của hành tinh hệ Venus và của Địa Cầu chúng ta, Đấng Chủ Quản (Lord) của Mercury tạo ra một tam giác lực tạm thời”. (371)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh

Xem: Chiêm tinh học 1- 2 - 3; Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh;  Tổng hợp về Thủy tinh

+ Mặt trời và Mộc tinh truyền dẫn Cung 2, Nguồn: (GQ1- CT con người);
+ Mộc tinh: Mở rộng bất cứ cái gì nó chạm vào. Lớn, quá mức, hạnh phúc. (Nguồn: Ý nghĩa các hành tinh và cung hoàng đạo)
+ Sao Mộc (♃): Mộc tinh có liên quan đến nhiều hiện tượng khác nhau: giáo dục, du lịch, luật, minh triết, đạo đức.  Là một tín đồ trong cách tiếp cận quá trình năng lượng của chiêm tinh học, tôi thích xem sao Mộc như mở rộng và phát triển bất cứ cái gì nó tiếp xúc. Sao Mộc tìm cách phát triển mọi thứ, làm cho chúng lớn hơn, mở rộng biên giới của chúng. Sao Mộc mở rộng quan điểm của chúng ta và nhìn thấy bức tranh lớn hơn. Nếu Thủy tinh có một góc hợp cứng với sao Mộc, người đó quan tâm đến những vấn đề lớn như triết học, tôn giáo, chính trị, kinh tế, hoặc du lịch. Nếu sao Hỏa có góc hợp cứng với Mộc tinh, người đó muốn đạt được những điều to lớn và làm việc chăm chỉ để đạt được tầm nhìn rộng lớn, có lẽ vĩ đại. (Nguồn: Các hành tinh - Minhtrietmoi)
Hành Tinh – Jupiter (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Jupiter…là một Thiên Đế (deity), Ngài là biểu tượng và nguyên hình kiểu của … tôn thờ nghi thức. Ngài là tu sĩ, vị tế lễ, người khấn nguyện và đồng tử mà nhờ đó, các khấn nguyện của thế nhân đến được với các Thánh Thần”. (II, 49. Ghi chú)
2. Jupiter được xem như “thánh toà của Brahma”. (II, 829)
3. “Jupiter là hiện thân của luật chu kỳ”. (II, 830)
4. “Mặt Trời thường được gọi là “mắt của Jupiter”. (III, 278)
5. “Pluto làm cho Jupiter thành Logos, Linh Ngữ (Word) của Mặt Trời”. (III, 279)
6. “Các Bí Pháp (Mysteries)… được lãnh đạo bởi Jupiter và Saturn”.
7. “Huyền linh học làm cho Jupiter thành màu lam (blue) vì Ngài là con của Saturn”.
8. “Dấu hiệu của việc tái lâm của Đấng Cứu Thế (Messiah) là sự kiên kết của Saturn và Jupiter trong Cung Song Ngư”. (III, 152) Các trích dẫn trong Luận về Lửa Càn Khôn
9. “ Venus, Jupiter và Saturn có thể được xét theo quan điểm của hiện tại, như là các hiện thể của ba siêu nguyên khí (super principles) hay là nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars được kết hợp chặt chẽ với ba hành tinh này, nhưng ở đây còn ẩn giấu một bí ẩn”. (299)
10. “Venus và Jupiter được liên kết chặt chẽ với Địa Cầu và sau rốt hợp thành một tam giác nội môn” (370)
11. “Trong hành tinh hệ Jupiter, các Con của Trí Tuệ chỉ mới bắt đầu công việc của các Ngài”. (742)

Xem thêm Tổng hợp về Mộc tinh  

+ Chòm Sao hay Tinh Tòa (CTHNM, 35; 37)
+ 12 Chòm sao/ Tinh tòa Hoàng Đạo: Xem như biểu hiện của trạng thái NL Linh hồn, được khảo cứu qua Tâm thức và phát triểnlinh hồn (Ý chí Bác Ái) (CTHNM, 37)
+ Ba chòm sao: Đại Hùng (Great Bear), từ Pleiades (Tua Rua) và từ Sirius (Ngưu Lang), chúng chi phối rộng, nhưng ngày nay vẫn tiềm tàng hơn là biểu lộ ; Riêng chòm Tua Rua có 7 năng lượng ảnh hưởng lên xác thân. (CTHNM, 470).
+ Ba nhóm tam giác - Truyền năng lượng của 3 Chòm Sao:
Đại Hùng Tinh               Pleiades                 Sirius
    Leo         ...........    Capricorn................. Pisces
       Các sao này truyền năng lượng xuyên qua
   Saturn .....................Mercury ................. Uranus
                Đi đến các trung tâm lực sau
Trung tâm lực đầu ...  Trung tâm lực ..... Tung tâm lực
  của hành tinh   ..... ấn đường H.Tinh ....tim hành tinh.
                    Từ đó đi đến
Trung tâm lực đầu .. Trung tâm lực....... Trung tâm lực
     của đệ tử              ấn đường đệ tử       tim của đệ tử.
                    và sau rốt kiểm soát
Đáy xương sống.... Bí huyệt cổ họng .... Huyệt đan điền
- Hai nhóm năng lượng chi phối trái đất:
(i)- Bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh là cội nguồn xuất phát của 7 cung của thái dương hệ chúng ta. Mỗi một trong 7 năng lượng này được truyền vào Thái Dương hệ chúng ta qua 3 chòm sao (Hoàng Đạo) và các Hành tinh chi phối chúng. (Xem Bảng tổng hợp Minh triết mới)
(ii)- 12 Chòm sao hòa lẫn năng lượng Cung => Tạo ra lưỡng nguyên chi phối cuộc sống hành tinh. (Nguồn: CTHNM, 477-478)
+ 12 chòm sao: Các đạo sinh cũng sẽ thành công khi nhớ rằng mười hai chòm sao đang tạo ra hoàng đạo đặc biệt của chúng ta chính là các nơi nhận nhiều luồng năng lượng đến với chúng từ nhiều cội nguồn. Chúng hòa lẫn và pha trộn với năng lượng của bất luận chòm sao đặc biệt nào và – chuyển hóa và “thanh luyện về mặt huyền linh” – sau rốt tìm ra con đường của chúng đi vào thái dương hệ chúng ta. (CTHNM, 18)
+ Tinh tòa gồm hai hay nhiều Thái Dương Hệ hay chuỗi Mặt Trời với các hành tinh (planet) đi kèm theo các Mặt Trời. Các Thái Dương Hệ này được giữ chung với nhau như một tổng thể cố kết do sự tương hệ mạnh mẽ của các thái dương, mà sự liên hệ từ lực được quân bình đến nỗi, nói về mặt huyền linh, “Các mặt trời cùng tiến bước trong phạm vi năng lực của nhau”. Các mặt trời duy trì các khoảng cách tương đối với nhau và truyền sinh lực cho các hành tinh của mình, nhưng đồng thời cũng duy trì một sự đồng đều về sự quân bình và về ảnh hưởng. Trong vài trường hợp hiếm có, sự quân bình này bị xáo trộn và có việc tăng hay giãm ảnh hưởng và năng lực thu Hút. (TLHNM I, 152)
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh Hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
-  12 Hành tinh đang chi phối 12 Cung Hoàng đạo, có liên quan trước tiên đến biểu lộ ở cõi trần của con người, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã (CTHNM, 63)

Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo
Xem: Bảy Cung; Cung H.Đạo; Lá số Chiêm tinh; Biểu đồ cung; Khẩu hiệu P.Ngã và L.Hồn
Xem: Tổng hợp về chòm sao
Xem: Tổng hợp về 7 Cung đến Thái Dương hệ - Địa cầu và Nhân loại

+ Cơ thể con người: Chất liệu của 2 phân cảnh (cõi phụ) thấp nhất của cõi trần và cõi cảm dục không bao giờ được kiến tạo thành cơ thể con người như ngày nay; chất liệu đó có rung động quá thấp và có mức độ quá thô trược ngay cả đối với hạng người thấp kém nhất trên địa cầu hiện giờ. Cũng cần nói thêm rằng nơi kẻ thường nhân, chất liệu của một cõi phụ nào đó sẽ chiếm đa số tùy theo mức tiến hóa của người đó. (LVLCK,942)
* Cơ thể con người
: Cơ thể cấu tạo con người căn bản gồm Thân và Tâm. Theo Phật giáo, thân tâm được hình thành do con người nhận lầm Thức tâm phân biệt luôn thay đổi sinh diệt thay cho Diệu minh Chân tâm thường trụ không sinh không diệt. Do nhận thức sai lầm này mà nhận giặc/ Thuận theo các thức căn sinh diệt làm mình, cho lên phải luân hồi. (Nhân Trắc Học)
+ Cơ Thể Hỏa Tinh Quân - Agni: Mỗi một trong 7 Hỏa Tinh Quân được phân hoá ra thành nhiều nhóm hoả thực thể, từ các Thiên Thần Tinh Quân của một cõi giới xuống đến các hoả tinh linh nhỏ bé của các lò lửa trong nhà (LVLCK, 87)
+ Cơ Thể Tinh Quân (Hỏa Tinh Quân Vũ Trụ - Fohat): Bảy Hỏa Tinh Quân/ Chơn Linh (Agni) hợp thành cơ thể Ngài. Ngài là Đấng Thông Tuệ Linh Hoạt của lửa, là cơ bản của Lửa bên trong của Thái Dương Hệ. Ba vị Huynh Trưởng ngự trị trên cõi 1, 3, và 5 hay là trên cõi Tối Đại Niết Bàn (adi), cõi Niết Bàn (atma) (1) và cõi trí (manas). Bảy Đấng này hợp thành tinh hoa của Tinh Quân vũ trụ - Là Fohat;
Cơ Thể Hành Tinh Thượng Đế và Thái Dương Thượng Đế: Tương tự (Như Hỏa Tinh Quân), Bảy vị Chohans (Một Tinh Quân/ Chân Sư/ Master) với các nhóm môn đồ gắn bó của các Ngài, hợp thành bản thể hay các trung tâm lực trong cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế. Đến phiên các Đấng này lại hợp thành bản thể của Thái Dương Thượng Đế.
+ Cơ Thể Thượng Đế Vũ Trụ: Là Thượng Đế ba Ngôi chưa biểu lộ Thất phân (Biểu lộ Thất phân hợp lại thành Ba ngôi), gồm:
a. Tinh Quân Ý Chí Quyền Năng vũ trụ: Nắm giữ tương lai trong thiên cơ và tâm thức của Ngài.
b. Tinh Quân Bác ÁiMinh Triết vũ trụ: Ngài tiêu biểu cho mọi Hiện tại. Ngài là Sự Sống hữu thức. Ngài là Đấng Con Thiêng và sự sống cùng bản chất Ngài tiến hoá xuyên qua mọi hình thức hiện hữu;
c. Tinh Quân Trí Tuệ Hoạt Động vũ trụ: Ngài là sự sống của vật chất, Lửa bên trong tiềm tàng của vật chất. Bản chất của Ngài là bản chất của lửa đang nằm ở tâm của mặt trời, của hành tinh và của các hình hài vật chất của con người. Ngài là toàn bộ của quá khứ;
* Đây là biểu lộ của 3 Lửa của Thượng Đế Ngôi 3.
+ Thượng Đế Duy Nhất: Tất cả 3 Đấng là Các Con của một Từ Phụ, cả 3 là các trạng thái của Thượng Đế Duy Nhất (LVLCK, 83)

+ Kinh Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm:
Trích kinh văn - PS Tịnh Không giảng giải: ... Nhược chư Thanh Văn tu tập chánh hạnh, dục đắc thanh tịnh tâm giả.
(Nếu các Thanh Văn tu tập chánh hạnh, muốn đạt được tâm thanh tịnh)
Trước hết, Ngài nêu lên đề mục giảng dạy. Chữ “chư Thanh Văn" chỉ các vị học pháp Tiểu Thừa; từ Sơ Quả cho đến Tứ Quả hoàn toàn bao gồm trong loại này.
Tu tập chánh hạnh”: Chúng ta biết Chánh Hạnh của người tu Tiểu Thừa là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, trung tâmBát Chánh Đạo. Thật ra, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo không phải chỉ dành riêng cho người học Tiểu Thừa, người học Đại Thừa cũng chẳng thể thoát ra ngoài được. Chúng ta thấy trong trước tác của Thiên Thai đại sư, Tứ Niệm Xứ được phân thành bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên để giảng. Tứ Niệm Xứ của Tạng Giáo đương nhiên là Tiểu Thừa; Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên Giáo thuộc về Đại Thừa. Tiểu Thừa có Tứ Niệm Xứ; Đại Thừa cũng có Tứ Niệm Xứ. Tiểu Thừa có Bát Chánh Đạo, Đại Thừa có lúc nào không có Bát Chánh Đạo? Do đó biết là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm chung cho hết thảy Phật pháp, chẳng riêng gì Đại Tiểu Thừa, Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển, Mật thảy đều viên mãn đầy đủ. Nhìn từ góc độ này, lời Phật khai thị vừa sâu vừa rộng, nào phải chỉ hạn cuộc nơi Tiểu Thừa Thanh Văn; chúng ta phải đặc biệt chú ý điều này.
Muốn đạt được tâm thanh tịnh” chính là trọng điểm của toàn bản kinh này, nghĩa là làm thế nào mới hòng đạt được tâm thanh tịnh? Chuyện này rất quan trọng đối với việc tu hành của chúng ta vậy.

Bộ kinh này do đức Phật khi còn tại thế giảng cho những người xuất gia. Người xuất gia ngủ bốn giờ, nhằm lúc trung dạ. Ở Ấn Độ thời gian được chia thành ba thời ban ngày, ba thời ban đêm, một ngày ở Ấn Độ thời cổ là sáu thời. Trung dạ là từ mười giờ đêm đến hai giờ sáng, đó là thời gian để người xuất gia ngủ nghỉ, hai giờ sáng thức dậy tụng khóa sáng, một ngày chỉ ngủ bốn tiếng đồng hồ. Hiện tại, chúng ta nghiệp chướng nặng nề, người Tây Dương đề xướng ngủ tám tiếng. Ngủ hơn tám tiếng là chẳng như pháp! Nếu có thể giảm bớt một, hai tiếng, tôi cho rằng ngủ sáu tiếng là được lắm rồi. Một phần quang âm là một phần thọ mạng đấy nhé! Thế gian thường nói: “Một tấc quang âm, một tấc vàng”. Quang âm trọng yếu như thế đó, cho nên phải gìn giữ quang âm quý báu, nỗ lực tu hành.

 Tổng kết Kinh Thanh tịnh tâm, đức Phật nói 5 thứ chướng ngại:
1) Tham dục chướng ngại sự bố thí, trì giới đại viên mãn của tự tánh. Do có tâm tham dục, nhất định chẳng có tâm bố thí; có ba độc Tham - Sân - Si, tâm địa chẳng thanh tịnh => nói gì đến trì giới nữa đây?
2) Sân Khuể chướng ngại từ bi, nhẫn nhục đại viên mãn nơi tự tánh.
3) Ngủ nghê chướng ngại tinh tấn đại viên mãn nơi tự tánh.
4) Trạo Hối chướng ngại thiền định đại viên mãn của tự tánh.
5) Nghi chướng ngại trí huệ đại viên mãn của tự tánh.
Chúng ta muốn viên mãn sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi đầu từ chỗ này. Ngoài ra, còn có bảy điều chúng ta phải tu tập.
Những gì là bảy pháp?
1. Trạch pháp giác chi: “Chọn lựa pháp môn tà hay chánh phải đặc biệt chú ý”. Tùy căn cơ mục đích chọn pháp phù hợp.
2. Niệm giác chi: Phải hiểu được điều hòa thân tâm, nên rất cần vị thầy "Biết bệnh - Cho thuốc", chỉ dẫn để thân tâm khỏe mạnh để tiến tu.
3. Tinh tấn giác chi: Tinh thần thuần chẳng tạp niệm. Tấn là tiến chứ không lùi. Nên chuyên tinh thâm sâu để có thành tựu cao siêu.
4. Hỷ giác chi: Tu đúng sẽ đạt được trạng thái khinh an, tự tại, thong dong vì đã xả bỏ mọi phiền lão chấp trước. Trí tuệ tăng trưởng.
5. Khinh an giác chi: Tu đạt thân tâm nhẹ nhàng. Nên nhớ không sanh tâm ngã mạn sẽ mất đi trạng thái khinh an.
6. Định giác chi: Tu thiền đạt định lực, pháp môn giành cho người trí. Muốn thành tựu phải trừ chướng ngại, nghiêm trì giới.
7. Xả giác chi: Xả là buông bỏ, Pháp thế gian phải bỏ đã đành, mà pháp xuất thế gian cũng phải bỏ luôn. Không xả rễ tham ái, chấp trước.
Hãy nên tu tập bảy pháp như thế.

Hiện tiền chứng lấy tự quả, hết bờ mé khổ.
Giảng: “Hiện tiền” là chẳng phải đợi đến đời sau, chứng quả ngay trong đời này, chứng được quả viên mãn. Đây chính là điều chúng tôi thường nói: “Phá một phần vô minh, chứng được một phần Pháp Thân”. “Khổ biên tế” là lục đạo luân hồi. “Tận khổ biên tế” là vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chẳng còn lưu chuyển sanh tử nữa, siêu thoát tam giới, thành Pháp Thân đại sĩ. (Nguồn
: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)

+ Pháp tác ý - Như lý tác ý: Các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý; vị này vì không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, vì không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý nên tác ý các pháp không cần phải tác ý và không tác ý các pháp cần phải tác ý.
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng trưởng, hay vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Những pháp ấy là những pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý. Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp cần phải tác ý mà vị ấy không tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt. Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ý mà các vị ấy không tác ý. Do vị ấy tác ý các pháp không nên tác ý, do vị ấy không tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng.
Vị ấy không như lý tác ý như sau: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta đã có mặt như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?" Hay nay vị ấy có nghi ngờ về mình trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?".
Với người không như lý tác ý như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi lên: "Ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; "Ta không có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật như chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. "Không do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; hay tà kiến này khởi lên với người ấy: "Chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ vĩnh viễn tồn tại". Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược. Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau.
Này các Tỷ-kheo, và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, tuệ tri các pháp cần phải tác ý, tuệ tri các pháp không cần phải tác ý. Vị này, nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ý, nên không tác ý các pháp không cần phải tác ý và tác ý các pháp cần phải tác ý.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần phải tác ý và vị này không tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh được khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Ðó là những pháp không nên tác ý và vị ấy không tác ý. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý nên các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.
Vị ấy như lý tác ý: "Ðây là khổ", như lý tác ý: "Ðây là khổ tập", như lý tác ý: "Ðây là khổ diệt", như lý tác ý: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ. (Nguồn: Kinh Các Lậu Hoặc)
+ Bảy giác chi - Như lý tác ý:
Do tác ý - Tác ý phi như lý: Làm cho các Dục tham - Sân - Hôn trầm thụy miên - Trạo hối - Nghi hoặc chưa sanh thì sanh khởi, đã phát sanh thì thêm xung mãn. Niệm giác chi - Xả giác chi chưa sanh được sanh. Đã sanh thì tăng trưởng, quảng đại.
Như lý tác ý: Làm cho các Dục tham - Sân - Hôn trầm thụy miên - Trạo hối - Nghi hoặc chưa sanh thì không thể sanh, đã phát thì tiêu trừ, đoạn tận. Niệm giác chi - Xả giác chi chưa sanh được sanh, đã sanh nhờ tu tập làm cho viên mãn.
 Mời xem tại Kinh Tương Ưng Bộ - Thiên Đại Phẩm - Mục Tương ưng giác chi
+ Phương pháp Tác ý các Pháp thiện giúp tu Tâm thanh tịnh, an định, định tĩnh ... (Theo các Tooltip):
- Tu Nội tâm - Tác ý năm tướng: ... đức Phật bảo: Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn thực tu tăng thượng tâm cần phải thường thường tác ý năm tướng. .... Chính nhờ diệt trừ chúng (năm tướng bất thiện), nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. (Nguồn: 20.Kinh An Trú Tầm)
- Tác Ý như pháp: (Nguồn: Kinh Các Lậu Hoặc)
- Pháp Quán tự ngã - Tư lượng tự ngã - Tư lượng bản ngã - Tư tưởng đối nghịch: (Nguồn: 15. Kinh Tư Lượng)
- Pháp quán Tâm - Quán Pháp: (Nguồn: Kinh Niệm Xứ)
- Thiện sảo quán tự tâm: (Nguồn: mục 667- Trung A Hàm, Kinh Tự Quán Tâm II, Phẩm 10, số 110)

+ Cung và mầu sắc:
Về màu sắc các màu đỏ, lam và vàng là các màu nguyên thủy (primary) và tối giản (irreducible).
Đó là màu của các cung chính yếu (major rays):
a/ Ý chí hay Quyền năng ……... Màu đỏ (Red)
b/ Bác ái–Minh triết ……… ….. Màu lam (Blue)
c/ Trí tuệ linh hoạt …………….. Màu vàng (Yellow)
Kế đó, chúng ta có các cung phụ (subsidary rays):
d/ Màu cam Orange)
e/ Màu lục (Green)
f/ Màu tím (violet)
và cung tổng hợp (synthesising ray), màu chàm (Indigo)  (TLHNM I, 127–128)

Xem: Tổng hợp về mầu sắc

+ Nghiệp quả của việc bào chế thuốc cho người bệnh dùng gây chết người:
Ngài A Nan hỏi Đức Phật: Tì-kheo bào chế thuốc men bố thí cho người, nhưng không biết cách pha chế, người uống vào liền chết thì phạm tội gì?
Đáp: Nếu có tâm tốt ban cho thì không phạm tội, còn có tâm ác ban cho thì phạm tội trọng. (Trích: Kinh Ngũ Bách Vấn)

HÌNH ẢNH BIỂU HIỆN SỨC MẠNH CỦA CUNG 1

Xem thêm: Hình Ảnh phóng to của Nguồn: Tâm Lý Học Nội Môn 2

+ Cung 1 - Ý chí, Quyền lực: Y là nhà lãnh đạo bẩm sinh trong bất kỳ và trong mọi sự nghiệp công....; Y có thể là kẻ trộm hay vị thẩm phán lên án y, nhưng y luôn ở đầu.
- Áo choàng màu xanh của Ngài che đậy mục đích muôn đời của Ngài, nhưng trong lúc mặt trời mọc và lặn, thiên thể màu đỏ của của Ngài được nhìn thấy.
- Lời Ngài là quyền lực
- Ánh sáng của Ngài là điện. Sét là biểu tượng của Ngài. 
- Ý chí của Ngài ẩn trong dự định của tư tưởng Ngài. Không có gì được tiết lộ.
+ Các Đức tính và các Tật xấu EPI 201-2
-  Các Đức Tính đặc biệt của Cung 1: Sức mạnh, lòng can đảm, sự kiên định, sự trung thực, phát sinh từ sự vô úy tuyệt đối, năng lực cai trị, là khả năng nắm bắt những vấn đề lớn theo cách thức nhìn xa trông rộng, và năng lực xử lý con người và các biện pháp.
-  Các Tật Xấu của Cung: Tự cao, tham vọng, bướng bỉnh, cứng rắn, kiêu ngạo, ham muốn kiểm soát người khác, ngoan cố, giận dữ.
-  Các Đức Tính phải có: Sự dịu dàng, khiêm tốn, sự cảm thông, lòng khoan dung, kiên nhẫn. + Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung (Nguồn: Xem Bảy đấng kiến tạo bảy cung GQ1 ...) 

+ Thể Trí Cung Một: Mãnh liệt, nhanh chóng, mạnh mẽ. Một thể trí tổng hợp, nhìn thấy sự việc rộng rãi, và tập trung vào các nguyên tắc, các quá trình tư duy như laser, trong suốt như kim cương tách ra các điều căn bản từ cái không căn bản. Độc lập và thẳng thắn, không thay đổi trong tư tưởng và ý kiến, dứt khoát, vắn tắt và đi thẳng vào trong tư tưởng và lời nói. Một thể trí “thực tế”, nhất tâm, tập trung, có tổ chức, có ưu tiên.
Thể trí Cung 1 : (DNA I, 219) Cung thể trí của bạn cũng là cung một. Điều này có nghĩa rằng thể trí thông minh của bạn có thể thống trị khi cần và có thể mạnh mẽ hơn nhiều khi biểu lộ so với lúc bình thường.
Thể trí Cung 1: Ở NGƯỜI KÉM TIẾN HÓA
1. Ý chí muốn sống hay muốn biểu lộ trên cõi trần.
2. Do đó, xung lực thể hiện như bản năng tự bảo tồn.
3. Khả năng chịu đựng, bất kể những khó khăn nào.
4. Sự cô lập độc đáo. Người luôn luôn là “Một người đứng một mình.”
+ Thể trí Cung 1: Ở NGƯỜI TIẾN HÓA
1. Ý chí giải thoát hay muốn biểu lộ hữu thức trên cõi của linh hồn.
2. Khả năng phản ứng với thiên cơ, hoặc đáp ứng với ý chí Thượng Đế được nhận thức.
3. Nguyên lý bất tử.
4. Tính kiên trì hoặc sức chịu đựng trên Đường Đạo.
* Thể trí Cung 2, 3: cung này không chế ngự thể trí, ngoại trừ các đệ tử.
+ Thể trí Cung Ba: Một trí năng mạnh mẽ và nổi bật. Một loại thể trí rộng rãi bao quát. Một người đang len lỏi, hoạt động không ngừng, linh động, linh hoạt, lời lẽ cao, hay giao tiếp, có khả năng hoạch định và lên kế hoạch, có lý luận và tháo vát, khả năng phân tích cao, phát biểu, khả năng suy luận, không dựa vào kinh nghiệm, hay chỉ trích và thích tư duy trừu tượng. Điểm yếu của nó là nó có thể không quan tâm đến tính chính xác, quá tổng quát hoá, và đãng trí.
Nguồn: Nhận dạng các cung
Xem thêm: Về Các Cung của Thể Trí

+ Cung Phàm ngã - Cung 1: Bất chấp luật lệ, tự hào, tham vọng về quyền lực, ngoan cố, cứng rắn, kiêu ngạo, bướng bỉnh, nóng giận, có ảnh hưởng lớn, đầy tính ta đây, muốn kiểm soát người khác. Nó thích sự cô lập, quyết tâm làm những việc hoàn toàn một mình nó, theo cách của nó, và sẽ chịu đựng không có sự can thiệp. Họ đe dọa người khác bởi chính sự hiện diện của họ. Kêu gọi sự chú ý đến bản ngã bởi là người đứng đầu và giỏi nhất về mọi thứ, bởi việc nhận lãnh trách nhiệm – một cách đáng chú ý, vênh váo ‘cái ngữ’ của họ một cách ngạo mạn. Phàm ngã cung một thật sự, làm việc để đáp ứng với ảnh hưởng Shamballa này, sẽ gìn giữ trân trọng lợi ích tối hậu của nhóm sâu trong tâm thức và tâm hồn của y; y sẽ suy nghĩ về tổng thể chứ không phải về phần tử. Đó là điều mà y sẽ cố gắng để gây ấn tượng lên tâm thức chủng tộc. Điều này đôi khi có thể dẫn tới sự tàn nhẫn và độc ác nếu phàm ngã của cá nhân chưa được kiểm soát bởi xung lực của linh hồn. Người ta có thể thường thấy các trường hợp như thế. (DN 15-16)
+ Phàm ngã cung 1- Cung Ý Chí hay Quyền Lực. Cung đó trong thời gian lâu dài đã kém quan trọng so với cung linh hồn của bạn trong quá khứ, đó là sự tận tâm với linh hồn, với Thánh Đoàn, với nhân loại, cũng như với chính bạn. Vấn đề của bạn về tầm quan trọng của phàm ngã đã thay đổi từ vấn đề về việc gây ấn tượng liên tục về các thái độ của phàm ngã, các ý tưởng và các mong muốn của bạn lên môi trường của bạn (như trường hợp trong kiếp sống cuối cùng của bạn) tới một sự nhấn mạnh thỉnh thoảng theo chu kỳ và gần như dữ dội lên một cá nhân nào đó. Điều này bây giờ chỉ còn thỉnh thoảng (nói một cách tương đối). Bạn đang học cách để cho những người khác được tự do – một bài học khó khăn cho một phàm ngã cung một, như bài học của bạn, được sinh động bởi tri thức và thiện chí. (DINA I, 219)
+ [Y] “.. huỷ hoại (hoặc làm vỡ) .. Y khẳng định: Quyền năng của tôi thì vĩ đại, tôi sẽ tiêu diệt tất cả những trở ngại. Không có gì có thể ngăn chặn sự tiến tới mục tiêu của tôi. Xung quanh tôi là những gì mà tôi đã phá hủy.” (EPII 36)
+ Tình yêu quyền lực phải chiếm ưu thế. (EPII 351)
Các tính chất: Sự nhất tâm năng động, Năng lượng hủy diệt, Năng lực được thực hiện một cách ích kỷ, Không có tình yêu, Cô lập, Một sự khao khát quyền lực và quyền hành, Muốn thống trị, Sức mạnh và sự bướng bỉnh được biểu lộdẫn đến: Việc sử dụng năng lượng năng động cho việc thực hiện Thiên Cơ, Việc sử dụng các mãnh lực hủy diệt nhằm dọn đường cho các Đấng Kiến Tạo, Muốn có quyền lực để hợp tác, Quyền lực được nhận thức như là vũ khí chính của bác ái, Sự đồng nhất hóa với nhịp điệu của Tổng Thể, Chấm dứt sự cô lập.
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
Xem: Hình thành - Tính chất  - Tâm thức Phàm ngã

+ Người cung 1: Thường có cảm xúc và tình cảm mạnh mẽ, nhưng [Trang 202] y không dễ dàng biểu lộ nó; y sẽ yêu thích những sự tương phản mạnh mẽ và các khối màu sắc, nhưng hiếm khi là một nghệ sĩ; y sẽ vui thích trong các hiệu ứng dàn nhạc tuyệt vời và các dàn hợp xướng hoàn toàn, và nếu được thay đổi bởi các cung thứ tư, thứ sáu hoặc thứ bảy, thì có thể là một nhà soạn nhạc vĩ đại, chứ không là cái nào khác; và có một loại của cung này vốn điếc về âm thanh, và một loại khác vốn mù màu với những màu sắc tinh tế hơn. Một người như vậy sẽ phân biệt được màu đỏ và màu vàng, nhưng sẽ nhầm lẫn một cách vô vọng giữa màu xanh, màu xanh lá cây và tím. Các tác phẩm văn học của một người cung 1 sẽ mạnh mẽ và đanh thép, nhưng y sẽ ít chăm chút cho phong cách hoặc đoạn kết trong các tác phẩm của y. Có lẽ các ví dụ của loại này sẽ là Luther, Carlyle, và Walt Whitman. Người ta nói rằng trong nỗ lực chữa bệnh, phương pháp tốt nhất cho người cung 1 sẽ là rút sức khỏe và sức mạnh từ những nguồn sống vũ trụ bằng quyền năng ý chí của y, và rồi đổ nó qua bệnh nhân. Điều này, tất nhiên, về phần y, hàm ý kiến ​​thức về các phương pháp huyền bí. Nguồn :Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1 Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung

Người ta nói rằng trong nỗ lực chữa bệnh, phương pháp tốt nhất cho người cung 1 sẽ là rút sức khỏe và sức mạnh từ những nguồn sống vũ trụ bằng quyền năng ý chí của y, và rồi đổ nó qua bệnh nhân. Điều này, tất nhiên, về phần y, hàm ý kiến ​​thức về các phương pháp huyền bí. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)

Năng khiếu bí truyền Cung 1, Ý chí hay Quyền lực: lãnh đạo, quản lý, giám sát, chính trị gia, huyền bí gia, nhà thám hiểm, nhà điều hành, giám đốc và nhà độc tài. Các mãnh lực. Bất kỳ nghề nghiệp nào đòi hỏi quyền năng ý chí lớn lao, sức mạnh và sức chịu đựng, khả năng vẫn kiên định khi đối mặt với mọi trở ngại, khả năng hủy diệt nếu cần. Xem các năng khiếu Cung, Cung Hoàng Đạo và Hành Tinh

+ Cung Linh hồn là Cung 1
Kinh nghiệm: một trách nhiệm năng động của ý chí và quyền năng tinh thần đối với việc xúc tiến Thiên Cơ.
Việc sử dụng các mãnh lực hủy diệt nhằm dọn đường cho các Nhà Kiến Tạo.
Ý chí quyền lực để hợp tác.
Quyền lực được thực hiện như là vũ khí chính của bác ái.
Sự đồng nhất hóa với nhịp điệu của Tổng thể.
Việc chấm dứt sự cô lập. (EPII 40)
Lương tâm tinh thần: thúc giục họ gìn giữ các nguyên tắc và các giá trị tinh thần.
Đóng góp lớn nhất: động viên và giải phóng những người khác.
Các mục tiêu: trở thành những nhà lãnh đạo nhân từ đầy quyền lực, đáp ứng những điều tốt đẹp nhất, và / hoặc giải thoát mọi người khỏi cảnh nô lệ và áp bức.
Hoạt động yêu thích nhất: loại bỏ tất cả những điều không thiết yếu và được tự do hoàn hảo.
Cảm giác thiêng liêng lớn lao nhất: đồng nhất hóa với Đại Ngã Duy Nhất, và niềm vui được ở trong sự hiện diện của sức mạnh và quyền lực của Thượng Đế.
Mong muốn của tâm hồn: “Trở thành Đấng Độc Nhất vô nhị “.
Các thiên hướng: Tài chính trị, cầm quyền, các nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà giám sát, chính trị, ngành ngoại giao hiện đại, các lực lượng, bất kỳ nghề nghiệp nào đòi hỏi năng lực ý chí rất lớn, sức mạnh và sức chịu đựng, khả năng đứng vững khi đối mặt với mọi trở ngại, khả năng hủy diệt khi cần.
Các đệ tử biểu lộ mãnh lực Cung 1 với quyền năng năng động, mục đích, sức mạnh, lòng can đảm, tính kiên định và sự trung thực xuất phát từ tính vô úy tuyệt đối. Họ có thể đứng một mình. Họ vững vàng và chịu đựng đối với mọi trở ngại. Họ muốn đạt được sự giải thoát và tự do đối với mọi thứ.
Linh hồn Cung Một. Năng lượng của Ý chí hay Quyền Lực. Trạng thái của Tác nhân Hủy Diệt (EP II 80) Các linh hồn trên cung này được nói tới một cách huyền bí là “đâm sầm để lấy lối của họ vào luân hồi”. Họ chiếm đoạt một cách năng nỗ những gì mà họ cần. Họ không cho phép sự trở ngại trong những việc làm thỏa mãn những ham muốn của họ. Họ đứng một mình trong một sự biệt lập tự hào, hãnh diện về sức mạnh của họ, và tính nhẫn tâm của họ. Những tính chất này phải được chuyển hóa thành việc sử dụng thông minh quyền năng vốn làm cho chúng thành yếu tố mạnh mẽ trong Thiên Cơ, và các trung tâm lực có tính thu hút, tập hợp những người phụng sự và các mãnh lực xung quanh họ. Một minh họa cho điều này có thể được nhìn thấy trong hoạt động của Chân Sư Morya, Ngài là trung tâm, trung tâm hấp dẫn có từ tính của tất cả các nhóm nội môn, ban cho họ, bằng quyền năng của Ngài, khả năng phá hủy những gì không mong muốn trong đời sống của các đệ tử. Chớ quên rằng công việc kích thích những gì cần thiết là một trong những nhiệm vụ chính của một Chân Sư, và năng lực của một đệ tử để hủy diệt những gì hạn chế y thì rất cần thiết. Các linh hồn của cung này thấu hiểu, vì họ đi vào luân hồi do mong muốn. Điều này biểu lộ bản chất của sự thể hiện mãnh lực được dùng. Có một mức độ mãnh liệt trong kỹ thuật của họ. Cuối cùng, họ “chiếm lấy cõi giới thiên đàng bằng vũ lực.”
Kỹ thuật Hội Nhập của Cung Một : “Tình yêu quyền lực phải thống trị. Cũng phải có sự phủ nhận những hình thức không vận dụng quyền lực. /Linh từ phát ra từ linh hồn tới hình tướng: ‘Hãy đứng lên. Hãy khẩn trương hướng ra ngoài để vào sự sống. Hãy đạt được một mục tiêu. Đối với bạn, không phải có một vòng tròn, mà là một đường thẳng. /Hãy chuẩn bị hình thể. Hãy để mắt nhìn về phía trước, không ở một bên nào. Hãy để đôi tai đóng lại đối với tất cả những tiếng nói bên ngoài, và những bàn tay được nắm chặt, cơ thể căng lên, và thể trí tỉnh táo. Cảm xúc không được sử dụng trong việc xúc tiến Thiên Cơ. Lòng bác ái hãy chiếm vị trí của nó. /Biểu tượng của một điểm ánh sáng di động xuất hiện phía trên trán. Chủ âm của sự sống mặc dù không được thốt ra, nhưng vẫn được nghe rõ:… ‘Tôi tiến tới quyền lực Tôi là Đấng Duy Nhất. Chúng tôi là một Nhất Nguyên (Unity) nắm quyền lực. Và tất cả phục vụ cho quyền lực và vinh quang của Đấng Duy Nhất.'”(EPII 351,352)
Phương pháp Dứt Bỏ: “Hãy để cho các Mãnh Lực đến với nhau. Hãy để chúng leo tới Chốn Cao Thâm, và từ địa vị cao quý đó, hãy để cho linh hồn nhìn ra trên một thế giới bị hủy diệt. Bấy giờ, hãy để linh từ phát ra: ‘Tôi vẫn còn tồn tại !'”(EPI 416)
Khuynh Hướng của Cung Một: phương pháp Dứt Bỏ – Định Luật Đẩy: “Khu vườn vẫn được tiết lộ. Hoa và cây của nó sống trong vẻ đẹp có trật tự. Tiếng thì thầm của những con ong và côn trùng đang bay trên cánh của chúng được nghe thấy từ mọi phía. Không khí đầy mùi hương. Những màu sắc làm náo loạn tới màu xanh của bầu trời …. / Gió của Thượng Đế, hơi thở thiêng liêng của Ngài, quét qua khu vườn …. Các bông hoa nằm rạp xuống. Các cây gập lại, bị tàn phá bởi gió. Sự hủy diệt mọi vẻ đẹp được theo sau bởi cơn mưa. Bầu trời đen tối. Người ta thấy sự đổ nát. Rồi đến cái chết …. / Sau đó, một khu vườn khác! nhưng lần này có vẻ xa xôi. Hãy gọi một người làm vườn. Người làm vườn, tức linh hồn, trả lời. Hãy gọi mưa, gió, mặt trời đang thiêu đốt. Hãy gọi người làm vườn. Sau đó, hãy để cho công việc tiến hành. Luôn luôn sự hủy diệt đi trước quy luật của cái đẹp. Sự đổ nát đi trước sự thật. Khu vườn và người làm vườn phải tỉnh táo! Công việc tiếp tục. (EPII 166,167)
Linh hồn Cung Một: Sự Giác Ngộ
“Thiên thần của Bản Lai Diện Mục (The Angel of the Presence) đứng trong ánh sáng thiêng liêng – trung tâm và nơi gặp gỡ của nhiều mãnh lực. / Những mãnh lực này gặp gỡ và phối hợp. Chúng tập trung vào đầu của người đứng trước Thiên Thần. / Họ đứng, mắt đối mắt, và mặt đối mặt, và tay trong tay. Ý chí tăng cường ý chí và bác ái đáp ứng bác ái. Ý muốn-quyền lực hợp nhất với ý muốn-yêu thương, và sức mạnh với minh triết gặp nhau. Hai điều này là một. Từ điểm thống nhất cao đó, Đấng đã được giải thoát đứng ra và nói: “Tôi trở về từ nơi tôi xuất phát; Tôi thực hiện cuộc hành trình của tôi từ cõi vô sắc tướng đến cõi sắc tướng. Tôi sẽ hiện hữu. Tôi sẽ hoạt động. Tôi sẽ phụng sự và cứu rỗi. Tôi sẽ nâng cao nhân loại. Tôi phụng sự Thiên Cơ với ý chí, Tổng Thể với quyền lực. ” (EPII 45)
Nguồn: Nhận dạng các cung

+ Phẩm tính Cung Năm: Kiến thức Cụ thể, Khoa học
- Ưu điểm:
Phát biểu hết sức chính xác, công bằng (không thương xót), bền chí, lương tri, chính trực, độc lập, trí năng sắc sảo, suy nghĩ thẳng thắn, muốn hiểu biết và thấu đáo.
- Nhược điểm: Chỉ trích gắt gao, thái độ hẹp hòi, kiêu căng, không tha thứ, thiếu thông cảm và tôn kính, thành kiến.

+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI 207-8
-   Đức Tính đặc biệt: Các phát biểu hoàn toàn chính xác, sự công bằng (không có lòng thương xót), sự kiên trì, lương tri, tính ngay thẳng, tính độc lập, trí tuệ sắc sảo. -   Tật Xấu của Cung: tính phê bình khắc nghiệt, hẹp hòi, kiêu ngạo, tính không khoan nhượng, thiếu sự cảm thông và tôn kính, thành kiến.
-   Đức Tính cần có: Lòng tôn kính, sự tận tâm, thông cảm, tình yêu, tư tưởng phóng khoáng.
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung (Xem: tóm lược về bảy cung)

+ Nhận biết bậc trí tuệ: Trẫm muốn nghe lời Ngài dạy, và nếu như có người nào khác đến, thì Trẫm làm sao biết được người đó là bậc trí?
Hiền Nhân đáp:
- Chỗ vấn đáp của người trí bao giờ cũng khác xa kẻ tầm thường. Không lời nói nào của họ mà không phải là lời lành. Bực thầy bao giờ cũng chính đáng. Và những đức tánh nầy chứng tỏ rằng kẻ ấy là bực trí giả: nhân từ, mềm mỏng, cẩn thận, chắc thật, ôn hòa nhà nhặn, lời nói hoạt bát và hay hâm mộ các việc lành. Bệ hạ đừng có nghi nan gì nữa.
Nghe lời nói, thấy việc làm của họ, có thì biết là tâm và khẩu giống nhau . Xem cách cư xử, vẻ đi đứng của họ mà biết là không giả dối; nghiệm việc họ làm, cách ăn mặc, cách làm lụng cũng dư biết là bực trí tuệ.
Đàm luận với người trí phải cho vừa ý họ, mà muốn vừa ý họ thì thực là khó.
- Trẫm muốn tôn thờ người trí mà đừng làm mất ý họ thì phải làm sao ?
- Kính mà đừng khinh, nghe lời dạy phải làm theo vì chỗ hiểu biết của người trí rất đúng, bao giờ họ cũng thể theo chính đạokhông có tâm tham cầu, lại có thể suy xét rõ được việc quá khứ, hiện tại và vị lai. Tầm mắt của bực trí giả rất rộng: họ thấy rõ muôn vật trong không gian và thời gian đều chỉ là biến hiện, muôn pháp đều quay về nơi nhất điểm không tịch bản nhiên.
Kẻ trí giả nhìn thấy rõ ràng đời là một sự biến đổi tang thương; trẻ trung rồi sẽ già nua, cường tráng rồi sẽ suy nhược, có sống thì sẽ có chết; giàu sang như mây nổi, đều là vô thường cả. Cho nên, lúc an ổn phải nghĩ đến khi nguy ngập, khi hưng thạnh thì nghĩ đến lúc vô thường, người lành thì kính mến, người ác thì phải lánh xa. Có giận hờn ai thì nên trừ bỏ, đừng vì thế mà gây ác hại người. Nhu hòa mà khó xâm phạm, yếu đuối mà người khó thắng. Người trí như vậy đó, ta không nên khinh thường.
- Trẫm hết sức cung kính tôn sùng người trí, như thế có phước chi chăng?
- Người trí thì theo phép thánh hiền, thường làm việc nhân từ và ưa dạy dỗ kẻ ngu muội trở nên sáng suốt như họ. Người trị nước thì nên ban bố ân huệ cho kẻ biết làm lành, kẻ tu hành thì lo dắt dẫn mọi người về nơi chánh đạo; quốc gia có cấp nạn thì cùng nhau đàm luận lo toan; tới lui phải biết thời mới khỏi bị sự nghi ngờ oán trách. Tuy có ân rộng đức lớn với người, nhưng đừng mong cầu người báo đáp; thờ người trí thì được phước và trọn đời không mắc phải tai nạn. Bệ hạ đừng có nghi nan. Pháp chánh trị không nên trái với lý đạo, dạy dân làm lành thì càng ngày càng thêm lợi ích cho nước. (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)

+ Loài người khác với loài thú ở chỗ có được sự thông tuệ, biết biện luận bằng lý trí. Vì thế, trong Minh triết Vô thủy, Giáo Lý Bí Nhiệm của thế gian, con người thường được gọi là “con của trí tuệ”. Chính trí tuệ giúp cho con người có ý thức về biệt ngã (sense of individuality), có ý thức về sự cá biệt của mình, đó là Chân Ngã.(ASCLH, 318)

+ Các vị Thần - Những vị Thần trong Kinh Hoa Nghiêm

- Những vị Thần Chấp Kim Cang là: Thần Chấp Kim Cang Diệu Sắc Na La Diên. Thần Chấp Kim Cang Nhật Luân Tốc Tật Tràng. Thần Chấp Kim Cang Tu Di Hoa Quang. Thần Chấp Kim Cang Thanh Tịnh Vân Âm. Thần Chấp Kim Cang Chư Căn Mỹ Diệu. Thần Chấp Kim Cang Khả Ái Lạc Quang Minh. Thần Chấp Kim Cang Đại Thụ Lôi Âm. Thần Chấp Kim Cang Sư Tử Vương Quang Minh. Thần Chấp Kim Cang Mật Diệm Thắng Mục. Thần Chấp Kim Cang Liên Hoa Quang Ma Ni Kế.
- Lại có Thần Thân Chúng số đông như hạt bụi Phật thế giới. Tên của các Ngài là : Thần Thân Chúng Hoa Kế Trang Nghiêm. Thần Thân Chúng Quang Chiếu Thập Phương. Thần Thân Chúng Hải Âm Điều Phục. Thần Thân Chúng Tịnh Hoa Nghiêm Kế. Thần Thân Chúng Vô Lượng Oai Nghi. Thần Thân Chúng Vô Lượng Quang Nghiêm. Thần Thân Chúng Tịnh Quang Hương Vân. Thần Thân Chúng Thủ Hộ Nhiếp Trì. Thần Thân Chúng Phổ Hiện Nhiếp Thủ. Thần Thân Chúng Bất Động Quang Minh.
- Lại có Thần Túc Hành số đông như hạt bụi Phật thế giới. Đó là : Thần Túc Hành Bảo Ấn Thủ. Thần Túc Hành Liên Hoa Quang. Thần Túc Hành Thanh Tịnh Hoa Kế. Thần Túc Hành Nhiếp Chư Thiện Kiến. Thần Túc Hành Diệu Bảo Tinh Tràng. Thần Túc Hành Lạc Thổ Diệu Âm.
Thần Túc Hành Chiên Đàn Thụ Quang. Thần Túc Hành Liên Hoa Quang Minh. Thần Túc Hành Vi Diệu Quang Minh. Thần Túc Hành Tích Tập Diệu Hoa.
- Lại có Thần Đạo Tràng số đông như hạt bụi Phật thế giới. Đó là : Thần Đạo Tràng Tịnh Trang Nghiêm Tràng. Thần Đạo Tràng Tu Di Bảo Quang. Thần Đạo Tràng Lôi Âm Tràng Tướng. Thần Đạo Tràng Vũ Hoa Diệu Nhẫn. Thần Đạo Tràng Hoa Anh Quang Kế. Thần Đạo Tràng Vũ Bảo Trang Nghiêm. Thần Đạo Tràng Dũng Mãnh Hương Nhãn. Thần Đạo Tràng Kim Cang Thể Vân. Thần Đạo Tràng Liên Hoa Quang Minh. Thần Đạo Tràng Diệu Quang Chiếu Diệu.
- Lại có Thần Chủ Thành số đông như hạt bụi Phật thế giới. Đó là : Thần Chủ Thành Bảo Phong Quang Diệu. Thần Chủ Thành Diệu Nghiêm Cung Điện. Thần Chủ Thành Thanh Tịnh Hỉ Bảo. Thần Chủ Thành Ly Ưu Thanh Tịnh. Thần Chủ Thành Hoa Đăng Diệm Nhãn. Thần Chủ Thành Diệm Tràng Minh Hiện. Thần Chủ Thành Thịnh Phước Quang Minh. Thần Chủ Thành Thanh Tịnh Quang Minh. Thần Chủ Thành Hương Kế Trang Nghiêm. Thần Chủ Thành Diệu Bảo Quang Minh.
- Lại có Thần Chủ Đất số đông như hạt bụi Phật thế giới. Đó là : Thần Chủ Đất Phổ Đức Tịnh Hoa. Thần Chủ Đất Kiên Phước Trang Nghiêm. Thần Chủ Đất Diệu Hoa Nghiêm Thụ. Thần Chủ Đất Phổ Tán Chúng Bảo. Thần Chủ Đất Tịnh Mục Quán Thời. Thần Chủ Đất Diệu Sắc Thắng Nhãn. Thần Chủ Đất Hương Mao Phát Quang. Thần Chủ Đất Duyệt Ý Âm Thanh. Thần Chủ Đất Diệu Hoa Toàn Kế. Thần Chủ Đất Kim Cang Nghiêm Thể.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Núi. Đó là : Chủ Thần Núi Bảo Phong Khai Hoa. Chủ Thần Núi Hoa Lâm Diệu Kế. Chủ Thần Núi Cao Tràng Phổ Chiếu. Chủ Thần Núi Ly Trần Tịnh Kế. Chủ Thần Núi Quang Chiếu Thập Phương. Chủ Thần Núi Đại Lực Quang Minh. Chủ Thần Núi Oai Quang Phổ Thắng. Chủ Thần Núi Vi Mật Quang Luân. Chủ Thần Núi Phổ Nhãn Hiện Kiến. Chủ Thần Núi Kim Cang Mật Nhãn.
- Lại có Chủ Thần Rừng số đông không thể nghĩ bàn. Đó là : Chủ Thần Rừng Bố Hoa Như Vân. Chủ Thần Rừng Trạch Cán Thư Quang. Chủ Thần Rừng Sinh Nha Phát Diệu. Chủ Thần Rừng Cát Tường Tịnh Diệp. Chủ Thần Rừng Thùy Bố Diệm Tạng. Chủ Thần Rừng Thanh Tịnh Quang Minh. Chủ Thần Rừng Khả Ý Lôi Âm.
Chủ Thần Rừng Quang Hương Phổ Biến. Chủ Thần Rừng Diệu Quang Hồi Diệu. Chủ Thần Rừng Hoa Quả Quang Vị.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Dược. Đó là : Chủ Thần Dược Cát Tường. Chủ Thần Dược Chiên Đàn Lâm. Chủ Thần Dược Thanh Tịnh Quang Minh. Chủ Thần Dược Danh Xưng Phổ Văn. Chủ Thần Dược Mao Khổng Quang Minh. Chủ Thần Dược Phổ Trị Thanh Tịnh. Chủ Thần Dược Đại Phát Hống Thanh. Chủ Thần Dược Tế Nhật Quang Tràng. Chủ Thần Dược Minh Kiến Thập Phương. Chủ Thần Dược Ích Khí Minh Mục.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Ngũ Cốc. Đó là : Chủ Thần Ngũ Cốc Nhu Nhuyến Thắng Vị. Chủ Thần Ngũ Cốc Thời Hoa Tịnh Quang. Chủ Thần Ngũ Cốc Sắc Lực Dũng Kiện. Chủ Thần Ngũ Cốc Tăng Trưởng Tinh Khí. Chủ Thần Ngũ Cốc Phổ Sinh Căn Quả. Chủ Thần Ngũ Cốc Diệu Nghiêm Hoàn Kế. Chủ Thần Ngũ Cốc Nhuận Trạch Tịnh Hoa. Chủ Thần Ngũ Cốc Thành Tựu Diệu Hương. Chủ Thần Ngũ Cốc Kiến Giả Ái Lạc. Chủ Thần Ngũ Cốc Ly Cấu Tịnh Quang.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Sông. Đó là : Chủ Thần Sông Phổ Phát Tấn Lưu. Chủ Thần Sông Phổ Khiết Tuyền Giản. Chủ Thần Sông Ly Trần Tịnh Nhãn. Chủ Thần Sông Thập Phương Biến Hống. Chủ Thần Sông Cứu Hộ Chúng Sinh. Chủ Thần Sông Vô Nhiệt Tịnh Quang. Chủ Thần Sông Phổ Sinh Hoan Hỉ. Chủ Thần Sông Quảng Đức Thắng Tràng. Chủ Thần Sông Quang Chiếu Phổ Thế. Chủ Thần Sông Hải Đức Quang Minh.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Biển. Đó là : Chủ Thần Biển Xuất Hiện Bảo Quang. Chủ Thần Biển Thành Kim Cang Tràng. Chủ Thần Biển Viễn Ly Trần Cấu. Chủ Thần Biển Phổ Thủy Cung Điện. Chủ Thần Biển Cát Tường Bảo Nguyệt. Chủ Thần Biển Diệu Hoa Long Kế. Chủ Thần Biển Phổ Trì Quang Vị. Chủ Thần Biển Bảo Diệm Hoa Quang. Chủ Thần Biển Kim Cang Diệu Kế. Chủ Thần Biển Hải Triều Lôi Âm.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Nước. Đó là : Chủ Thần Nước Phổ Hưng Vân Tràng. Chủ Thần Nước Hải Triều Vân Âm. Chủ Thần Nước Diệu Sắc Luân Kế. Chủ Thần Nước Thiện Xảo Tuyền Phục. Chủ Thần Nước Ly Cấu Hương Tích. Chủ Thần Nước Phước Kiều Quang Âm. Chủ Thần Nước Tri Túc Tự Tại. Chủ Thần Nước Tịnh Hỉ Thiện Âm. Chủ Thần Nước Phổ Hiện Oai Quang. Chủ Thần Nước Hống Âm Biến Hải.
- Lại có vô số Chủ Thần Lửa. Đó là : Chủ Thần Lửa Phổ Quang Diệm Tạng. Chủ Thần Lửa Phổ Tập Quang Tràng. Chủ Thần Lửa Đại Quang Phổ Chiếu. Chủ Thần Lửa Chúng Diệu Cung Điện. Chủ Thần Lửa Vô Tận Quang Kế. Chủ Thần Lửa Chủng Chủng Diệm Nhãn. Chủ Thần Lửa Thập Phương Cung Điện. Chủ Thần Lửa Oai Quang Tự Tại. Chủ Thần Lửa Quang Minh Phá Ám. Chủ Thần Lửa Lôi Âm Điện Quang
- Lại có vô lượng Chủ Thần Gió. Đó là : Chủ Thần Gió Vô Ngại Quang Minh. Chủ Thần Gió Phổ Hiện Dũng Nghiệp. Chủ Thần Gió Phiêu Kích Vân Tràng. Chủ Thần Gió Tịnh Quang Trang Nghiêm. Chủ Thần Gió Lực Năng Kiệt Thủy. Chủ Thần Gió Đại Thanh Biến Hống. Chủ Thần Gió Thụ Diểu Thùy Kế. Chủ Thần Gió Sở Hành Vô Ngại. Chủ Thần Gió Chủng Chủng Cung Điện. Chủ Thần Gió Đại Quang Phổ Chiếu.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Không. Đó là : Chủ Thần Không Tịnh Quang Phổ Chiếu. Chủ Thần Không Phổ Du Thâm
Quảng. Chủ Thần Không Sinh Cát Tường Phong. Chủ Thần Không Ly Chướng An Trụ. Chủ Thần Không Quảng Bộ Diệu Kế. Chủ Thần Không Vô Ngại Quang Diệm. Chủ Thần Không Vô Ngại Thắng Lực. Chủ Thần Không Ly Cấu Quang Minh. Chủ Thần Không Thâm Viễn Diệu Âm. Chủ Thần Không Quang Biến Thập Phương.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Phương Hướng. Đó là : Chủ Thần Phương Hướng Biến Trụ Nhất Thiết. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Hiện Quang Minh. Chủ Thần Phương Hướng Quang Hành Trang Nghiêm. Chủ Thần Phương Hướng Chu Hành Bất Ngại. Chủ Thần Phương Hướng Vĩnh Đoạn Mê Hoặc. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Du Tịnh Không. Chủ Thần Phương Hướng Đại Vân Tràng Âm. Chủ Thần Phương Hướng Kế Mục Vô Loạn. Chủ Thần Phương Hướng Phổ Quán Thế Nghiệp. Chủ Thần Phương Hướng Chu Biến Du Lãm.
- Lại có vô lượng Chủ Thần Ban Đêm. Đó là : Chủ Thần Ban Đêm Phổ Đức Tịnh Quang. Chủ Thần Ban Đêm Hỉ Nhãn Quán Thế. Chủ Thần Ban Đêm Hộ Thế Tinh Khí. Chủ Thần Ban Đêm Tịch Tịnh Hải Âm. Chủ Thần Ban Đêm Phổ Hiện Cát Tường. Chủ Thần Ban Đêm Phổ Phát Thụ Hoa. Chủ Thần Ban Đêm Bình Đẳng Hộ Dục. Chủ Thần Ban Đêm Du Hí Khoái Lạc. Chủ Thần Ban Đêm Chư Căn Thường Hỉ. Chủ Thần Ban Đêm Xuất Sinh Tịnh Phước
- Lại có vô lượng Chủ Thần Ban Ngày. Đó là : Chủ Thần Ban Ngày Thị Hiện Cung Điện. Chủ Thần Ban Ngày Phát Khởi Huệ Hương. Chủ Thần Ban Ngày Lạc Thắng Trang Nghiêm. Chủ Thần Ban Ngày Hương Hoa Diệu Quang. Chủ Thần Ban Ngày Lạc Tác Hỉ Mục. Chủ Thần Ban Ngày Phổ Hiện Chư Phương. Chủ Thần Ban Ngày Đại Bi Quang Minh. Chủ Thần Ban Ngày Thiện Căn Quang Chiếu. Chủ Thần Ban Ngày Diệu Hoa Anh Lạc.
- Lại có vô lượng A Tu La Vương. Đó là : A Tu La Vương La Hầu. A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Đa La. A Tu La Vương Xảo Huyễn Thuật. A Tu La Vương Đại Quyến Thuộc. A Tu La Vương Đại Lực. A Tu La Vương Biến Chiếu. A Tu La Vương Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm. A Tu La Vương Quảng Đại Nhân Huệ. A Tu La Vương Xuất Hiện Thắng Đức. A Tu La Vương Diệu Hảo Âm Thanh.
- Lại có vô số Ca Lâu La Vương không thể nghĩ bàn. Đó là : Ca Lâu La Vương Đại Tốc Tật Lực. Ca Lâu La Vương Vô Năng Hoại Bảo. Ca Lâu La Vương Thanh Tịnh Tốc Tật. Ca Lâu La Vương Tâm Bất Thối Chuyển. Ca Lâu La Vương Đại Hải Xứ Nhiếp Trì Lực. Ca Lâu La Vương Kiên Cố Tịnh Quang. Ca Lâu La Vương Xảo Nghiêm Quan Kế. Ca Lâu La Vương Phổ Tiệp Thị Hiện. Ca Lâu La Vương Phổ Quán Hải. Ca Lâu La Vương Phổ Âm Quảng Mục.
- Lại có vô lượng Khẩn Na La Vương. Đó là : Khẩn Na La Vương Thiện Huệ Quang Minh Thiên. Khẩn Na La Vương Diệu Hoa Tràng. Khẩn Na La Vương Chủng Chủng Trang Nghiêm. Khẩn Na La Vương Duyệt Ý Hống Thanh. Khẩn Na La Vương Bảo Thụ Quang Minh. Khẩn Na La Vương Kiến Giả Hân Lạc. Khẩn Na La Vương Tối Thắng Quang Trang Nghiêm. Khẩn Na La Vương Vi Diệu Hoa Tràng. Khẩn Na La Vương Động Địa Lực. Khẩn Na La Vương Nhiếp Phục Ác Chúng.
- Lại có vô lượng vô biên Ma Hầu La Già Vương. Đó là : Ma Hầu La Già Vương Thiện Huệ. Ma Hầu La Già Vương Thanh Tịnh Oai Âm. Ma Hầu La Già Vương Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế. Ma Hầu La Già Vương Diệu Mục Chủ. Ma Hầu La Già Vương Như Đăng Tràng Vi Chúng Sở Quy. Ma Hầu La Già Vương Tối Thắng Quang Minh Tràng. Ma Hầu La Già Vương Sư Tử −c. Ma Hầu La Già Vương Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm. Ma Hầu La Già Vương Tu Di Kiên Cố. Ma Hầu La Già Vương Khả Ái Lạc Quang Minh.
- Lại có vô lượng Dạ Xoa Vương. Đó là : Dạ Xoa Vương Tỳ Sa Môn. Dạ Xoa Vương Tự Tại Âm. Dạ Xoa Vương Nghiêm Trì Khí Trượng. Dạ Xoa Vương Đại Trí Huệ. Dạ Xoa Vương Diệm Nhãn Chủ. Dạ Xoa Vương Kim Cang Nhãn. Dạ Xoa Vương Dũng Kiện Tý. Dạ Xoa Vương Dũng Địch Đại Quân. Dạ Xoa Vương Phú Tư Tài. Dạ Xoa Vương Lực Hoại Cao Sơn.
Lại có vô lượng các Đại Long Vương. Đó là : Long Vương Tỳ Lâu Bác Xoa. Long Vương Sa Kiệt La. Long Vương Vân Âm Diệu Tràng. Long Vương Diệm Khẩu Hải Quang. Long Vương Phổ Cao Vân Tràng. Long Vương Đức Xoa Ca. Long Vương Vô Biên Bộ. Long Vương Thanh Tịnh Sắc. Long Vương Phổ Vận Đại Thanh. Long Vương Vô Nhiệt Não.
Lại có vô lượng Cưu Bàn Trà Vương. Đó là : Cưu Bàn Trà Vương Tăng Trưởng. Cưu Bàn Trà Vương Long Chủ. Cưu Bàn Trà Vương Thiện Trang Nghiêm Tràng. Cưu Bàn Trà Vương Phổ Nhiêu Ích Hành. Cưu Bàn Trà Vương Thậm Khả Bố Úy. Cưu Bàn Trà Vương Mỹ Mục Đoan Nghiêm. Cưu Bàn Trà Vương Cao Phong Huệ. Cưu Bàn Trà Vương Dũng Kiện Tý. Cưu Bàn Trà Vương Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn. Cưu Bàn Trà Vương Quảng Đại Thiên Diện A Tu La Nhãn.
Lại có vô lượng Càn Thát Bà Vương. Đó là : Càn Thát Bà Vương Trì Quốc. Càn Thát Bà Vương Thụ Quang. Càn Thát Bà Vương Tịnh Mục. Càn Thát Bà Vương Hoa Quan. Càn Thát Bà Vương Phổ Âm. Càn Thát Bà Vương Lạc Giao Động Diệu Mục. Càn Thát Bà Vương Diệu Âm Sư Tử Tràng. Càn Thát Bà Vương Phổ Phóng Bảo Quang Minh. Càn Thát Bà Vương Kim Cang Thụ Hoa Tràng. Càn Thát Bà Vương Lạc Phổ Hiện Trang Nghiêm. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)

+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI209-210
-  Đức Tính đặc biệt: Sùng tín, chuyên tâm, lòng bác ái, sự dịu dàng, trực giác, lòng trung thành, lòng tôn kính.
-  Tật xấu của Cung: tình yêu ích kỷ và ghen tuông, quá dựa vào người khác, tính thiên vị, [trang 209] tự dối mình, tính bè phái, mê tín dị đoan, định kiến, các kết luận quá nhanh chóng/ vội vàng, tính giận dữ nóng nảy/ cuồng nộ.
- Mô tả thêm Tật xấu: Lòng sùng tín cứng nhắc, chủ nghĩa lý tưởng, bị ảo cảm, tự lạm dụng, giận giữ, điên cuồng, cuồng tín. Người tử vì đạo/ Nạn nhân. Rế bị ảnh hưởng bởi hành vi đám đông, độc ác. (Trích từ năng lượng của 7 cung/ Khóa học GQ/ MF)
-  Các Đức Tính cần có: Sức mạnh, sự hy sinh, sự thanh khiết, chân thật, khoan dung, thanh thản, sự cân bằng và có lương tri.
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung.

+ Cung 4 là Cung Hài Hòa thông qua Xung Khắc, với màu đặc trưng của nó là màu vàng. Nhiều người có thể trí ở cung 4.
- Cảm xúc <> trực giác,
tinh thần chiến binh, “phát triển” thông qua đau khổ, khủng hoảng, đấu tranh liên tục. Khuynh hướng hòa giải, yêu vẻ đẹp / phim / nghệ thuật / giải trí / sáng tạo. ( Năng lượng 7 cung - GQ/MF )
+ Phẩm tính Cung Bốn: Điều hòa qua Xung độ.
-   Ưu điểm: Tình thương mạnh mẽ, đồng cảm, can đảm về thể chất, rộng lượng, cởi mở, trí tuệ và nhận thức nhanh nhạy.
-   Nhược điểm: Lấy cái tôi làm trung tâm, âu lo, không chính xác, thiếu can đảm về đạo đức, nhiều ham muốn, biếng nhác, ngông cuồng.
Các Đức Tính và Tật Xấu EPI 205-7 (Xem Bảy đấng ....)
-   Các Đức Tính đặc biệt: Tình cảm mạnh mẽ, sự thông cảm (Cảm tình), can đảm thể chất (Liều mạng), lòng quảng đại (Rộng lượng), sự tận tâm (Sùng tín), nhanh chóng (Nhanh trí) về trí tuệ và nhận thức mau lẹ.
-   Các Tật Xấu của Cung: Ngã chấp (tự cho mình là trung tâm), hay lo lắng, thiếu chính xác (Sai sót), thiếu can đảm về đạo đức, nhiều đam mê (niềm đam mê mạnh mẽ), lười biếng/ Thụ động, phung phí/ Vô độ.
-   Các Đức Tính cần có: Trầm tĩnh (Sự bình thản), tự tin, tự kiềm chế, Trong sạch (thanh khiết), vị tha, sự chính xác, sự thăng bằng về trí tuệ và đạo đức (Sự quân bình).
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung.

+ Cung thông tuệ linh hoạt - Cung 3: như Kính vạn hoa - Sự liên tục chuyển động, chuyển động không ngừng, họ thường bận rộn và hoạt động không ngừng nghĩ, họ khôn khéo, khôn ngoan, kinh doanh, quyền biến, và đôi khi quĩ quyệt (Người bán xe cũ họ nghiên cứu tâm lý khách hàng rất kỹ và đánh vào tâm lý đó).
+ Cung 3 - Cung Tiền bạc, Tài chính: Cung 3 cũng cai quản tiền bạc và vàng, biểu tượng các đồng tiền vàng và bộ óc thông minh, khéo nói (truyền thông), hùng biện. Họ thông minh, khôn ngoan, hay ở mức thấp hơn là quỉ quyệt, và có một đầu óc nhạy bén. Là Doanh nhân tài giỏi, hoặc ở cấp cao hơn là Phụng sự rộng mở. Ảo cảm con nhện tại trung tâm. Hình chiếc máy dệt biểu tượng cho việc xử lý và tạo dựng những hình tướng phức tạp.
+ Cung 3 - Ảo cảm: Đặc trưng cung 3 là “Vị Thần trong cỗ máy”, họ luôn cho mình khả năng giải quyết mọi chuyện, mọi vấn đề. Còn ảo cảm con nhện ở trung tâm là ảo cảm của một người thích xen vào giải quyết tất cả chuyện của người khác, không thuộc trách nhiệm của mình. Cả hai đều là ảo cảm đặc trưng của cung 3.
+ Nhà Huyền thuật chịu ảnh hưởng của cung 7 và cũng của cung 3 (Cung 3 nói lên tính chất tiêu cực là xảo thuật, dối trá, giống như một người bán xe cũ) 
Nhân vật tiêu biểu: Tích cực: Steve Jobs, Bill Gates, Plato, Hawking, Einstein; Tíêu cực: Bê bối tình dục, Madoff - Gian lận tài chính (50 Tỷ USD).  Nguồn: (TLHNM 2)

+ Bản năng: Đó là lãnh vực của mặt trăng trong Chiêm tinh học. (Chân Sư DK: Phản ứng theo bản năng, nghĩa là không suy nghĩ, không giám sát hoặc kiểm soát, hoàn toàn tự động_Theo Tooltip "Phản ứng theo bản năng")
+ Bản năng nằm dưới trình độ của ý thức, nhưng bảo tồn và chi phối đa số các thói quen và sự sống của cơ thể. Nhiều lối sống theo tình cảm bị chi phối như thế. Bản năng kềm chế xuyên qua bí huyệt nhật tùng (solar plexus) và các bí huyệt thấp. (TLHNM–II, 232)
+ Bản năng tức là các kinh nghiệm được tích lũy lại do di truyền trong các hình hài mới (new forms). (MTNX, 211)
+ Năm bản năng chính vượt chội theo Tâm Lý Học
1. Bản năng tự bảo toàn (instinct of self – preservation) có nguồn gốc của nó trong nỗi sợ hãi bẩm sinh về cái chết; do có sự sợ hãi này mà nhân loại đã chiến đấu theo cách của nó đến mức hiện tại của nó về tuổi thọ và sức chịu đựng. Các ngành khoa học bận tâm đến việc bảo toàn sự sống, kiến thức y học hiện đại, và những thành tựu của sự tiện nghi văn minh, tất cả đã phát triển từ nỗi sợ hãi cơ bản này. Tất cả đã hướng tới sự tiếp tục tồn tại của cá nhân, và hướng đến điều kiện duy trì sự tồn tại (being) của y. Nhân loại tiếp tục tồn tại, với tư cách một giống loài và một giới trong thiên nhiên, là một kết quả của xu hướng sợ hãi này, phản ứng có tính bản năng này của đơn vị nhân loại đưa đến sự tự tồn mãi mãi (selfperpetuation).
2. Bản năng giới tính (instinct of sex), có gốc rễ chính của nó trong sự sợ hãi về sự tách biệt và sự cô lập, và trong một sự nổi dậy chống lại tính đơn nhất chia rẽ trên cõi trần, chống lại sự cô độc (aloneness); và nó đã dẫn đến việc tiến tới trước của nhân loại và sự tiếp tục tồn tại và sự nhân giống của các hình hài mà nhờ đó nhân loại có thể đi vào sự biểu lộ.
3. Bản năng sống bầy đàn (herd instinct) có thể dễ dàng được thấy là có gốc rễ của nó trong một phản ứng tương tự; vì cảm giác an toàn và vì sự an ninh được bảo đảm và được tin chắc – dựa trên những tập hợp về số lượng – con người đã luôn luôn tìm đến loại riêng của họ và sống thành bầy nhóm với nhau để phòng vệ, và để ổn định kinh tế. Nền văn minh hiện đại của chúng ta là kết quả từ phản ứng do bản năng này của nhân loại nói chung; các trung tâm rộng lớn của nó, các thành phố khổng lồ và các khu chung cư tập trung của nó đã xuất hiện, và chúng ta có việc sống theo bầy đàn hiện đại, được đưa đến bậc thứ n (nth degree).
4. Bản năng lớn thứ tư, là bản năng tự khẳng định (selfassertion), cũng dựa trên sự sợ hãi; nó bao hàm sự sợ hãi của cá nhân rằng y sẽ không nhận thức được và như thế mất đi nhiều thứ mà nếu không thì sẽ thuộc về y. Theo thời gian qua, sự ích kỷ của nhân loại đã phát triển như thế đó; ý thức về tính hám lợi của nhân loại đã phát triển và năng lực nắm lấy cơ hội đã xuất hiện (“ý muốn quyền lực” dưới hình thức này hoặc hình thức khác), đến ngày hôm nay chúng ta có chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ, và ý thức tích cực về tầm quan trọng vốn đã tạo ra nhiều sự rắc rối về kinh tế và quốc gia thời hiện đại. Chúng ta đã vun trồng tính tự quyết, tính tự khẳng định và tính tư lợi, cho đến khi chúng ta bị gặp phải một khó khăn hầu như không thể vượt qua. Nhưng ngoài mọi điều đó, nhiều điều tốt lành đã đến và sẽ đến, vì không có cá nhân nào có giá trị cho đến khi y nhận thức giá trị đó cho chính y, và lúc bấy giờ, một cách dứt khoát, y hy sinh các giá trị đã hoạch đắc cho lợi ích của tổng thể.
5. Đến lượt bản năng tìm hiểu (instinct to enquire) được dựa trên sự sợ hãi cái không biết, nhưng ngoài sự lo sợ này, đã xuất hiện – như là kết quả của cuộc tìm hiểu lâu đời – những hệ thống giáo dục và văn hóa và toàn bộ cấu trúc về nghiên cứu khoa học của chúng ta hiện nay.
Những xu hướng, dựa trên sự sợ hãi (vì con người vốn thiêng liêng) đã tác động như một sự kích thích phi thường của toàn bộ bản chất của con người, và đã đưa y tiến tới đến trình độ hiểu biết và hữu dụng rộng rãi hiện tại của y, chúng đã tạo ra nền văn minh hiện đại của chúng ta với mọi khuyết điểm của nó, và tuy thế, với mọi thiên tính được biểu thị của nó. Từ những bản năng này được đưa tới vô cùng tận, và từ tiến trình chuyển hóa của chúng thành các tương ứng cao hơn của chúng, Sự nở hoa trọn vẹn của sự biểu lộ của linh hồn sẽ xuất hiện. Tôi muốn nêu ra những điều sau đây:
- Bản năng tự bảo toàn tìm được tuyệt đỉnh của nó trong tính chất bất tử chắc chắn, và về việc này, công việc mà các nhà duy linh (spiritualists) và các nhà sưu khảo tâm linh đảm trách theo các thời đại là phương pháp tiếp cận và sự đảm bảo chắc chắn.
- Bản năng phái tính đã thể hiện và tìm thấy tuyệt đỉnh hợp lý của nó trong mối quan hệ − được nhận thức một cách hữu thức – của linh hồn và thể xác. Đây là ý chủ đạo (keynote) của chủ nghĩa thần bí và tôn giáo, mà ngày nay, cũng như luôn luôn, là sự biểu lộ của Luật Thu Hút (Law of Attraction), không phải khi nó tự thể hiện qua hôn nhân ở cõi trần, mà khi nó tìm thấy tuyệt đỉnh của nó (đối với con người) trong cuộc hôn nhân siêu phàm được tiến hành với mục đích hữu thức giữa linh hồn dương với sắc tướng âm và có tính tiếp thu.
- Bản năng sống bầy đàn tìm thấy tuyệt đỉnh thiêng liêng của nó trong một ý thức tập thể được khơi hoạt, ngày nay điều đó được chứng tỏ trong xu hướng chung hướng tới những sự pha trộn (amalgamations), và sự dung hợp và trộn lẫn rộng rãi vốn đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Nó thể hiện trong khả năng suy tư dưới dạng chủ nghĩa quốc tế, các quan niệm phổ biến, mà cuối cùng sẽ dẫn đến việc thiết lập tình huynh đệ đại đồng.
- Bản năng tự khẳng định, đến lượt nó, đã cung cấp cho nền văn minh hiện đại của chúng ta chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ của nó, sự sùng bái thần tượng, và tạo ra sự thờ cúng tổ tiên và tôn sùng anh hùng. Tuy thế, nó đang dẫn tới sự khẳng định về Bản Ngã (Self), về Chủ Thể Cai Trị thiêng liêng ở nội tâm, và từ khoa tâm lý học mới mẻ nhất của chúng ta, sẽ xuất hiện một kiến thức về Chân Ngã (spiritual Self) tự tin và chi phối, và cuối cùng dẫn đến sự biểu lộ của giới linh hồn trên trần thế.
 Và điều gì về bản năng cần tìm hiểu? Được chuyển hóa thành sự nghiên cứu thiêng liêng và được biến đổi bởi việc áp dụng ánh sáng linh hồn trong lĩnh vực điều nghiên, chúng ta sẽ có nhân loại được tiến vào Phòng Minh Triết, và như thế con người sẽ bỏ lại sau những kinh nghiệm của Phòng Kiến Thức. Các trung tâm giáo dục lớn của chúng ta sẽ trở thành các trường học cho sự phát triển nhận thức trực giác và hiểu biết tâm linh. (LVHLT, 629)
+ Phẩm tính bẩm sinh quyết định đời sống: Trong thái [186] dương hệ này, tất cả đều vận hành theo đại luật hấp dẫn, thế nên, rất có thể sự chọn lựa của chúng ta tùy theo mức độ rung động, màu sắc và âm điệu của chúng ta. Ý chí tự do vĩ đại hơn của hệ vũ trụ cũng có giới hạn, giống như ý chí tự do của hệ thái dương mà chúng ta là một thành phần, và ý chí tự do của chính con người. Chiều hướng bước tiến tương lai của chúng ta sẽ tùy theo phẩm tính bẩm sinh...... (Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)

Kinh là gì: ví dụ: Bát nhã ba la mật đa là pháp. Tâm là ví dụ. Kinh là bộ kinh nàyKinh có thông danh và biệt danhThông danh là thống nhiếp hết mọi bộ kinh. Biệt danh là mỗi bộ kinh có danh tự riêng biệt, những bộ kinh khác không có tên giống nhau. Tâm kinh bát nhã ba la mật đa là biệt danh của bộ kinh này. Bộ tâm kinh bát nhã ba la mật đa này thuộc trong bộ Bát Nhã, biểu thị tâm trong tâm.
Sao gọi là kinh ? Kinh tức là kinh pháp thường bất chuyển, không thể thay đổi. Một chữ cũng không thể bỏ được, hay cũng không một chữ được. Đó là kinh pháp thường bất biến.
Lại "kinh" là một con đường, nghĩa là tu hành phải đi qua một con đường nhất định. Chư vị có muốn tu hành à ? Nhất định chư vị phải đi trên đường đạo này. Nếu chư vị không đi trên đường đạo này thì sẽ bị lạc vào rừng rậm hoang vu. Chư vị phải nên đi trên đường tu hành thì không bị lạc đường. Ngày này qua ngày nọ đều được bình an, sáng suốt. Sao gọi là đi lạc ? Vì chư vị xưa nay quên mất, không biết tụng niệm kinh này. Qua ba bốn tháng, không tụng niệm nên quên mất, mới đi lạc.....(HT Tuyên Hóa giảng Tâm Kinh Bát Nhã)

+ Phật Giáo là Pháp chân thật, chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay mê đắm trong sanh tử lục đạo, Phật lay tỉnh chúng ta, dạy chúng ta phải giác ngộ. Chân Chánh Giác ngộ thì Ngã chẳng còn nữa, bạn mới có thể thoát lìa tam giới, lục đạo, chẳng còn Ta nữa.
Cho nên tôi khuyên mọi người, đừng có Ta, chúng ta sống trên Thế Giới này để làm gì? Để diễn kịch. Diễn cách nào?
- Kinh Điển chính là kịch bản, y theo kịch bản mà diễn thì sẽ chẳng có ý niệm về Ta.
Chiếu theo kịch bản, kịch bản dạy chúng ta làm như thế nào, hoàn toàn y theo kịch bản để diễn kịch. Hết thảy Kinh do Phật nói đều là kịch bản, Phật diễn theo bản Kinh ấy, Bồ Tát diễn theo bản Kinh ấy, do đó họ trên thế gian này gọi là du hý thần thông.
Nếu bạn hỏi các Ngài có ý tứ về tự kỷ về Ta, về mình không?
Chẳng có.
Kinh do Phật nói ra, đó có phải là ý tứ của Phật không? Không phải. Trong Kinh Bát Nhã, Đức Phật đã phủ nhận, Phật chẳng giảng Kinh, chẳng có ý tứ của riêng mình.
Vậy Kinh Điển rốt cuộc là gì? Kinh Điển là trong tự tánh vốn sẵn như vậy.
Thế nên chúng ta sinh sống như vậy là sống đời sống của tự tánh vốn có, đời sống vốn có của tự tánh tức là đời sống của Phật, Bồ Tát, làm gì có ý tứ về mình. Vĩnh Gia đáp Lục Tổ rất hay Phân biệt cũng chẳng có Ý, chấp trước cũng chẳng có ý, Phân biệt, chấp trước chẳng phải ý tứ của mình, ý tứ gì? Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức.
- Chúng sanh phân biệt như thế nào, thì tôi noi theo phân biệt như vậy, Chúng sanh chấp trước như thế nào thì tôi noi theo chấp trước như vậy, Tự tôi chẳng có phân biệt và cũng chẳng có chấp trước, do đó phân biệt, chấp trước đều chẳng có ý, như vậy tự tại biết bao! Vô ngã, vô ngã thì sẽ chẳng có sanh tử, tất cả đều là biểu diễn, là diễn kịch.
Phải hiểu đạo lý này, đây mới là chân tướng sự thật của nhà Phật, và cũng là chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh. Nếu bạn chẳng chịu diễn kịch thì sẽ phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi. (Nguồn: PS Tịnh Không)

+ Con đường đạo: Pháp tu TRUNG ĐẠO - Là con đường Chánh đạo mà chính Đức Phật đã dậy qua nhiều Kinh văn Phật Giáo. Là con đường như Lưỡi dao cạo thật khó đi. Quí vị phải cân bằng giữa Học Giáo lý Kinh Văn Phật pháp và tu tập thật hành hàng ngày để làm người Quân tử. Nên nghiêm trì giới luật, thực hành Thập thiện nghiệp đạo và Bát Chánh đạo. Thực hành Tham thiền tu Định lực hàng ngày để phát triển trí huệ, như thế mới có thể tránh rơi vào Tà đạo/ Ngoại đạo mà trở lên rời xa Chánh đạo, sẽ mãi vẫn ở trong vòng Luân hồi khổ đau, rất đáng sợ. Có câu "Thân người khó được - Phật Pháp khó nghe". Quí vị cần học hiểu để biết rằng ngàn vàng chẳng mua được trí tuệ chân thật, chỉ có tu hành mới mong thành tựu. Như HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, là Vạn vật đồng nhất thể, hiểu là trong nghe giảng Kinh và tu tập, quí vị nên nhất tâm hòa làm một với người giảng hay vị Thầy Chánh đạo mình hướng tới, ví như đọc Chú Đại Bi thì Tâm làm một với Bồ Tát Quan Thế Âm - Gọi là tu Hóa thân Bồ Tát Quan Thế Âm, như vậy mới đúng Pháp và thu được nhiều thành tựu nhanh chóng (Lời NTH)

+ Các biểu tượng cần suy ngẫm kỹ: Giờ đây mới rõ ràng là tại sao có nhiều chú trọng đến việc nghiên cứu các biểu tượng, và tại sao người ta khuyến khích các môn sinh hãy suy gẫm và tham thiền về các thiên tượng thái dương hệ và vũ trụ. Điều đó chuẩn bị cho họ thấu hiểu và ghi nhớ trong tâm các biểu tượng và công thức thể hiện kiến thức mà rốt cuộc nhờ đó họ có thể làm việc. Các công thức này dựa trên chín biểu tượng được biết hiện nay:
1. Các dạng thập tự giá.
2. Hoa sen.
3. Tam giác.
4. Khối vuông.
5. Hình cầu và điểm.
6. Tám hình thể động vật: dê, bò mộng, voi, người, rồng, gấu, sư tử, và chó.
7. Đường thẳng.
8. Một số thiên tượng của Hoàng đạo, do đó cần phải nghiên cứu khoa chiêm tinh.
9. Cái ly có chân hay chén thánh.
Tất cả các biểu tượng này liên kết, xen lẫn nhau, hoặc dùng một phần, được phối hợp, để phát biểu một trong bảy Bí nhiệm. Điểm đạo đồ phải nhận ra chúng bằng thị giác cũng như thính giác, và dùng nỗ lực của ý chí để gắn ghi chúng trong trí nhớ không thể xoá nhoà. Có ba cách giúp y thực hiện điều này: Thứ nhất, bằng việc rèn luyện trước đó trong một thời gian dài; tất cả những người chí nguyện đều có thể bắt đầu làm việc ngay từ bước hiện tại, và khi học cách ghi khắc chính xác các chi tiết vào trí nhớ, họ đặt nền tảng cho sự lãnh hội chính xác được ngay những điều Đấng Điểm Đạo bày tỏ cho họ; thứ hai, nhờ đã tự phát triển năng lực hình dung lại những điều đã có lần họ thấy. Ở đây, chúng ta thấy rõ tại sao các vị thiền sư minh triết đã chú trọng vào khả năng kiến tạo thận trọng các hình tư tưởng.... (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại ...)
+ Biểu tượng: Là dấu hiệu (sign) thấy được và lộ ra bên ngoài của một thực tại tâm linh bên trong, được thể hiện trên cõi trần bằng mãnh lực của sự sống chứa đựng bên trong. (VMCQG, 119)
+ Biểu tượng: “Trong một biểu tượng có ẩn tàng sự che giấu hoặc sự mặc khải” – Carlyle.
1./ Các biểu tượng đều nhắm vào:
a) Người ít tiến hóa. Chúng dạy ra các đại chân lý dưới hình thức đơn giản.
b) Đa số nhân loại. Chúng giữ cho chân lý được nguyên vẹn và biểu hiện các sự kiện trong vũ trụ.
c) Các môn đồ của các Chân Sư. Chúng giúp mở mang trực giác.
2./ Các sách nói về biểu tượng trong các văn khố của Chân Sư được dùng cho việc giáo huấn. Các sách này được giải thích:
a) Bằng màu sắc của chúng.
b) Bằng vị trí của chúng, nghĩa là phía bên trên, nằm trên và bên dưới một đường thẳng.
c) Bằng sự tiếp cận của chúng với nhau.
d) Bằng chìa khóa của chúng
Một trang giấy có thể đọc được theo 4 cách:
1. Từ trên xuống dưới ... tiến hóa giáng hạ (involution)
2. Từ dưới lên trên ... tiến hóa thăng thượng (evolution)
3. Từ phải sang trái ... các chu kỳ lớn vv...
4. Từ trái sang phải ... các chu kỳ nhỏ.

+ Tu sai pháp - Không như pháp thọ trì:  Những người tu thiền định thường có ba trạng thái trong lúc dụng công, đó là Hôn trầm, Tán loạn, Vô ký. Hôn trầm nghĩa là bị buồn ngủ, ngủ gục, tâm trí không kiểm soát tư tưởng. Tán loạn: Trong lúc chuyên chú theo dõi nội tâm nhưng nhiều loại vọng tưởng khởi lên liên tục, làm cho tâm không định tỉnh được. Vô ký: Nghĩa  là không bị hôn trầm, tán loạn, nhưng vọng niệm sinh khởi hành giả không phân biệt là đúng với Pháp tu hay chẳng đúng với Pháp tu, như thế gọi là vô ký. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Văn Thù Sư Lợi "Vấn Tạp Pháp": Phật dậy đại khái, như người thắp đèn để sáng phòng, con thiêu thân chết chẳng do lỗi nơi người thắp đèn. Như vậy, đức Phật giảng pháp cũng thế, người nặng nghiệp nghe pháp chẳng hiểu, do ác nghiệp ngu si dụng pháp sai có thể bỏ tu, hoàn tục, bị họa, hoạn nạn hay chết ...... nhưng về lâu dài muôn kiếp luân hồi thì vẫn là được Phật độ.... (Nguồn: Văn Thù Tạp Vấn Phật)
+ Tu hành sai Pháp - Tu sai pháp rất nguy hiểm (Ví dụ con rắn)
Chư Tỷ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng. Họ học các pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nắm giữ sai lạc các pháp.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước, đi khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn, và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi. Con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một phần nào khác của cơ thể, và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì nắm bắt con rắn một cách sai lạc. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, ở đây, một số người ngu si học pháp... Chư Tỷ-kheo, vì sự chấp thủ các pháp sai lạc.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một số Thiện nam tử học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quán sát, nên trở thành rõ ràng. Họ học pháp không vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy, vì khéo nắm giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước đi khắp chỗ để tìm rắn nước.
Người đó thấy một con rắn nước lớn. Người đó có thể khéo đè con rắn nước với cây gậy có nạng. Sau khi khéo đè với cây gậy có nạng, người đó có thể khéo nắm giữ cổ rắn. Chư Tỷ-kheo, dầu cho con rắn nước ấy có thể cuốn thân nó xung quanh tay, hay cánh tay, hay một thân phần nào khác, người đó cũng không vì nhân duyên ấy đi đến chỗ chết hay đến sự đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ con rắn nước vậy.
Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, ở đây, một số Thiện nam tử học pháp... chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp vậy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng và thọ trì như vậy. Nếu có ai không hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng thì ở nơi đây, các Ông hãy hỏi Ta hay hỏi những bậc Tỷ-kheo trí thức.
+ Chiếc bè qua sông: Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: "Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn". Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy.
Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp. (Nguồn: 22. Kinh ví dụ con rắn)

+ Phật Pháp: Phật pháp là pháp giải thoát lìa thế gian. Pháp lìa thế gian là pháp không đi ngược lại với cái biết, nhưng phải dựa trên cái biết và vượt trên mọi cái biết bằng một chánh pháp.
- Là Pháp lìa ngã vượt ra khỏi Nhân, Ngã, Thiện, Ác, Sanh, Tử. (vô ngã vô nhân, phi thiện ác, liểu sanh tử). Và dĩ nhiên dựa vào thế gian để chế ngự bằng pháp lìa ngã, sống với thế gian mà không hoà nhập với thế gian. (Nguồn)

+ Pháp Thế Gian và Xuất Thế Gian: Nhà Phật thường nói: “Phật pháp ở thế gian không phá hoại pháp thế gian”- Thế gian pháp với Pháp xuất thế đều không chướng ngại nhau; (Nguồn Kinh Thập thiện - Tập 37 - PS Tịnh Không giảng)

* Phật pháp là thế gian pháp, cũng là pháp xuất thế. Pháp xuất thế không rời pháp thế gian. Pháp Bảo Đàn Kinh có nói "Phật pháp tại thế gian - Không lìa thế gian giác - Lìa thế gian cầu bồ đề - Ví như tìm sừng thỏ". Cho nên ở thế gian có người tại gia, người xuất gia ... (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Việc nghiên cứu về 7 cung khiến cho tính nhị nguyên của con người được giải quyết, với sự thông tuệ lớn lao hơn (EP 119/120)
Khi bản chất thực sự của bảy cung được hiểu biết, và khi tác động của chúng lên nhân loại trong việc thể hiện bảy loại người cũng được thông hiểu, bấy giờ chúng ta sẽ tiếp cận chủ đề về tính nhị nguyên của con người với trí thông tuệ lớn lao hơn. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn bản chất của các mãnh lực vốn cấu thành hết cái này đến cái khác trong những nhị nguyên này. Đây là khoa học bí truyền thực sự.
Khoa học về bảy tính chất, hay cung, và ảnh hưởng của chúng trên vô số hình tướng mà chúng uốn nắn và tiếp sinh lực, là cách tiếp cận mới sẽ đến, cùng với phương pháp đúng đắn về việc đào tạo và phát triển gia đình nhân loại.
- Khoa học công truyền hiện đại biết nhiều về hình tướng bên ngoài, hay khía cạnh vật chất, và bản chất điện của nó.
- Khoa học bí truyền biết nhiều về bản chất của các năng lượng và những tính chất chủ quan vốn nhuốm màu và quy định hình tướng.
* Khi hai kiến thức này được mang lại với nhau một cách thông minh, chúng ta sẽ phát triển một khoa tâm lý chân thật hơn và chính xác hơn, và một khoa học mới về văn hóa nhân loại. Lúc bấy giờ, công việc của con người đang hợp nhất – con người, là thực thể tâm linh, và con người, là linh hồn điều khiển – sẽ tiến nhanh về phía trước. Một kiến thức về các cung cùng với các khuynh hướng và năng lượng của chúng sẽ mang nhiều sự giác ngộ cho những người phụng sự trong lĩnh vực của những khoa học khác nhau …(Trích tài liệu tóm lược Tâm lý học nội môn - Khóa GQ - Trường MF)

+ Liệu những kiến thức khoa học của phương Tây về sắc tướng, và minh triết phương Đông được tích lũy và thừa hưởng về bản chất của Linh Hồn có thể được kết hợp lại cùng với nhau một cách thông minh để cho biểu đạt hoàn hảo của Linh Hồn có thể được tạo ra qua trung gian của cơ chế đó? Liệu vật chất có thể tiến lên hướng đến tâm trí và Linh Hồn và Tinh Thần - hãy gọi nó bằng tên nào bạn muốn - và liệu Tinh Thần có thể, hỗ trợ sự thúc giục tiến lên đó, hoàn thiện phương tiện mà thông qua đó nó thể hiện, và vì thế chiếu sáng rạng rỡ hơn? (SAM, 29)

+ Trình tự tiến hóa của các Giống Dân (gradual exolution of the Races). Năm pho tượng (ở vùng Trung Á, Bamian -ND) này là tài liệu bất diệt của Giáo Lý Huyền Môn về trình tự tiến hóa của các Giống Dân. Pho tượng lớn nhất tiêu biểu cho Giống Dân thứ nhất của nhân loại, thân thể khinh thanh của Giống Dân này được lưu lại trong đá cứng bền chắc, dùng cho việc học hỏi của các thế hệ mai sau, nếu không thì ký ức về điều ấy không bao giờ tồn tại sau cơn đại hồng thủy nhấn chìm Châu Atlantis. Tượng thứ hai cao 120 feet (36,57m), tượng trưng cho Giống Dân Hãn Sinh. Tượng thứ 3 cao 60 feet (18,28m) làm sống lại giống người xuống thấp (fell) và đó mở ra giống người đầu tiên bằng xác thịt do cha mẹ sinh ra, mà hậu duệ cuối cùng được tiêu biểu bằng các tượng trên đảo Easter, Những người này chỉ có tầm vóc từ 20 đến 25 f. (6m - 7,60m) ở vào thời Châu Lemuria bị chìm ngập, sau khi hầu như bị hủy diệt bởi núi lửa. Giống Dân thứ  tư có tầm vóc còn nhỏ hơn nữa, tuy vẫn còn khổng lồ so với Giống dân thứ 5 hiện nay của chúng ta, Giống Dân hiện nay ở mức tiến hóa tột cùng so với những Giống dân trước. Thế thì đó chính là những “Người Khổng Lồ” của thời xưa, tức Gibborim của thời tiền và hậu Đại Hồng Thủy của Thánh Kinh (Bible). Họ đã sống sung túc cách đây một triệu năm hơn là chỉ cách đây từ ba đến bốn ngàn năm.(GLBN 3, 339)
+ Sự phát triển tuần tự của nhân loại, bạn có các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn ý thức động vật.
2. Cá nhân được an trụ vào tình cảm, có tính ích kỷ và bị chi phối bởi dục vọng.
3. Hai giai đoạn trên, cộng với một hiểu biết trí tuệ ngày càng tăng về các tình huống chung quanh.
4. Giai đoạn có trách nhiệm với gia đình hoặc bạn bè.
5. Giai đoạn của tham vọng và của sự khao khát đối với ảnh hưởng và quyền lực trong một lĩnh vực biểu hiện nào đó của con người. Điều này dẫn đến nỗ lực mới.
6. Sự phối-kết năng lực phàm-ngã dưới tác nhân kích thích ở trên.
7. Giai đoạn ảnh hưởng được vận dụng một cách ích kỷ và thường có tính chất phá hoại, bởi vì cho đến nay những vấn đề cao siêu không được ghi nhận.
8. Giai đoạn có một ý thức tập thể phát triển đều đặn. Giai đoạn này được xem như là:
a/ Một lĩnh vực cho cơ hội.
b/ Một địa hạt phụng sự.
c/ Một nơi mà trong đó sự hy sinh vì lợi ích của mọi người trở nên có thể xảy ra một cách vinh quang.
Giai đoạn sau cùng này đặt một người lên con đường đệ-tử, không cần phải nói rằng nó bao gồm giai đoạn của thời kỳ trước đó, là thời kỳ dự bị hay thử thách. (Trích đoạn chương X trang 396, 397 quyển Luận về Chánh thuật)
+ Vương quốc thứ tư trong tự nhiên nhất định đã được thu hút tiến lên hướng đến vương quốc thứ năm đang xuất hiện. (SPCCQG/ DN 112)

Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
Xem: Các giai đoạn tiến hóa của Phàm ngã- Con người
Xem: Biệt ngã tính/ Ngã hóa;
Xem: Phân nhóm/ Loại về Hạng người ....
Xem: Điểm 6 mục Quy Luật 5 - Cấu Tạo Con Người 13- Thể Hồng Trần

+ Đức Christ: Còn gọi là Di Lặc Bồ Tát; Đức Chưởng Giáo (World Teacher), Đức Bồ Tát, Đức Iman Madhi (Hồi giáo) ....(ĐĐNLVTD, 43)
+ Luận Du Già Sư Địa: Luận Du Già Sư Địa, tác giả là Bồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664), gồm 100 quyển. Đây là một trong ba Bộ Luận thuộc loại đồ sộ bậc nhất hiện có trong Hán Tạng (*), là một trong những tác phẩm căn bản nhất của Tông Duy Thức – Pháp Tướng, là một trong các Bộ Luận nổi tiếng nhất của Phật giáo Bắc truyền thuyết minh quảng diễn rất đầy đủ về Địa/ Cảnh giới Bồ tát, với những quá trình nhận thức, hành trì, tu tập chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng của Bồ tát Đại thừa......
Ở Việt Nam, .... chúng ta đã Việt dịch được một số Kinh, Luận liên hệ, như Kinh Giải Thâm Mật, Luận Nhiếp Đại Thừa, Luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, Luận Thành Duy Thức… một bản Việt dịch Luận Du Già Sư Địa hoàn chỉnh ra đời..... do Cư sĩ Nguyên Huệ dịch ... Nguyên Hiển. (Nguồn: Luận Du Già Sư Địa)
+ Đấng Christ:
Các tư tưởng của con người từ giữa thời kỳ Atlantis đã luôn bị thu hút về phía con đường hủy diệt hay tả đạo, vì sự ích kỷ đã là động lực và lợi ích cá nhân đã là yếu tố chi phối. Một phần công việc của Đấng Christ khi Ngài đến cách nay 2000 năm là để xóa bỏ xu hướng này bằng việc khắc sâu, thông qua gương mẫu và giáo huấn, về sự hy sinh và lòng vị tha, và tinh thần tử vì đạo (mà nó thường bị nhuốm màu bởi sự cuồng loạn và một lợi ích cá nhân ở cõi trời) đã là một trong những kết quả của nỗ lực này. Nhìn theo quan điểm của Thánh Đoàn thì nỗ lực đã thành công, vì tinh thần Cơ Đốc giáo thay thế cho sự tái định hướng vào những sự việc ở cõi trời. Đó là sự thanh khiết của động lực và bản năng phụng sự, mà nguyên tắc chủ đạo gần đây là mới so với quan điểm về những sự vĩnh hằng trước kia.

- Tuy vậy, bất chấp điều này, xu hướng đưa tới lợi lộc ích kỷ vẫn là yếu tố mạnh nhất trên thế giới vào lúc này, và đó là tình trạng khủng hoảng đang tồn tại giữa Thánh Đoàn Quang Minh và nhóm chức sắc đang điều khiển phe tả đạo, tức là đường lối kiểm soát bằng hình tướng và dục vọng (LVHLT, 259)
+ Đức Chưởng giáo là là Đấng cao cả mà toàn thế giới đang mong đợi. Ngài trở lại để khai sáng thêm con đường Chân lý, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề khó khăn, và tiến xa hơn trong cố gắng thể hiện Chân Thiện - Mỹ. Ngài là Đức Christ của Thiên Chúa giáo; là Đức Maitreya (Tiếng Sanskrit), Metteyya (Tiếng Pali), Jampa (Tiếng Tây Tạng) hay Di Lạc Bồ-tát của Phật giáo; là Đấng Hoá thân Kalki của Vishnu trong Ấn giáo; là Đức Imam Madhi của Hồi giáo; là Đức Sosiosh, Đấng Cứu thế của Hoả giáo; và Ngài cũng được tôn xưng trong các tôn giáo khác . . .(Trích Thư vể TTHM)
+ Đức Chưởng Giáo (The World Teacher, The Christ): Đức Chưởng Giáo là vị chủ quản nhóm 2. Ngài là Đấng Cao Cả mà tín đồ Cơ Đốc Giáo gọi là Christ. Ở phương Đông, Ngài cũng được biết dưới danh xưng Đức Bồ Tát (the Bodhisattva), Đức Di Lặc (the Lord Maitreya), và là Đấng mà người sùng tín Hồi giáo mong đợi, dưới danh xưng Iman Madhi. Chính Ngài đã chủ trì các vận mệnh cuộc sống từ khoảng năm 600 trước Thiên Chúa và chính Ngài đã đến với nhân loại trước kia và nay Ngài lại được mong chờ. Ngài là Đấng Bác Ái và Từ Bi, cũng như vị tiền nhiệm của Ngài, Đức Phật, là Đấng Minh triết.  Năng lượng của Ngôi 2 tuôn tràn qua Ngài, trực tiếp đi đến Ngài từ bí huyệt tim của Hành Tinh Thượng Đế qua tim của Đức Sanat Kumara. Ngài hoạt động nhờ việc tham thiền được tập trung trong tim. Ngài là Đức Chưởng Giáo, Sư Phụ của các Chân Sư, Đấng giáo huấn của Thiên Thần và Ngài được giao cho việc dìu dắt vận mệnh tâm linh của con người và việc mở ra sự hiểu biết bên trong mỗi người rằng y là con của Thượng Đế và con của Đấng Tối Cao. Nếu Đức Bàn Cổ bận tâm tới việc tạo ra kiểu mẫu và hình hài nhờ đó tâm thức phát triển và thu nhận kinh nghiệm, thì Đức Chưởng Giáo điều khiển tâm thức nội tại trong cuộc sống hay trạng thái tinh thần của nó, tìm cách làm sinh động nó bên trong hình hài, để cho, vào đúng lúc, hình hài này có thể bị loại bỏ và tinh thần được giải thoát quay về cội nguồn. Từ lúc bỏ cõi trần, như đã được thuật lại gần đúng trong câu chuyện Thánh Kinh (mặc dù có nhiều chi tiết sai lầm), Ngài đã ở lại với các con của nhân loại, không bao giờ thực sự ra đi, mà chỉ có vẻ ra đi, và những ai biết cách đều có thể tìm thấy Ngài ở trong một thể xác, ngự tại Hy Mã Lạp Sơn và hoạt động hợp tác chặt chẽ với hai Huynh Trưởng của Ngài là Đức Bàn Cổ và Đức Văn Minh Bồ Tát. Hằng ngày, Ngài ban ân huệ cho thế gian và hằng ngày, Ngài đứng dưới cội thông lớn trong vườn của Ngài vào lúc hoàng hôn, đưa tay ban phúc cho tất cả những ai chân thành và thiết tha tìm đạo. Ngài biết rõ những kẻ đi tìm chân lý, mặc dù có thể họ vẫn không biết Ngài , nhưng ánh sáng mà Ngài ban rải vẫn kích thích đạo tâm họ, bảo dưỡng điểm linh quang của sự sống đang phấn đấu và cổ vũ người tìm đạo cho đến ngày trọng đại, lúc mà họ đứng đối diện với Đấng mà,  nhờ được “thăng lên” (hiểu theo nghĩa huyền linh), đang kéo mọi người về phía Ngài với tư cách là Đấng Điểm đạo (Initiator) với các bí nhiệm thiêng liêng. (ĐĐNLVTD, 41–47)
+ Đức Di Lặc Bồ Tát: 
A-dật-đa Bồ-tát, chính là Bồ-tát Di Lặc. A-dật-đa là tiếng Phạn, dịch là Vô Năng Thắng, cũng tức là Từ Thị. Vị Bồ-tát này chuyên tu Từ Tâm Tam-muội, đối với bất cứ ai ngài đều dùng tâm Từ bi. Ai mắng ngài, ngài cũng dùng lòng từ bi đáp lại; ai đánh ngài, ngài cũng đáp lại bằng lòng từ bi. Bất luận là người nào đối xử không tốt với ngài, hoặc là ức hiếp ngài, làm nhục ngài, giận dữ la hét ngài, sanh ra vô minh, ngài đều dùng lòng từ bi đối xử với họ. Tất cả mọi việc, ngài đều dùng lòng từ bi đối đãi hết. Chẳng những ngài dùng từ bi đối xử với người, mà ngài còn thương xót cứu giúp tất cả chúng sanh nữa. Ngài xem tất cả chúng sanh giống như là con cái của chính mình, thậm chí còn thân thiết hơn con cái nữa. Ngài thương mến giúp đỡ tất cả chúng sanh đủ cả mọi mặt với tâm từ bi vô lượng vô biên. Tu Từ Tâm Tam-muội cần phải tu cả hạnh Nhẫn nhục, cho nên ngài có một bài kệ như thế này:
Lão hèn mặc áo vá
Cơm hẩm đủ no lòng
áo vá qua cơn lạnh
Vạn sự chỉ tùy duyên
Có người mắng lão hèn
Lão hèn cho là hay
Có người đánh lão hèn
Lão hèn ngủ quên mất
Phun nước miếng lên mặt
Cứ để nó khô thôi
Ta cũng bớt sức lực
Anh cũng khỏi giận hờn
Kiểu Ba-la-mật ấy
Chính là báu thêm mầu
Nếu biết được như thế
Lo gì đạo chẳng thành.
Lão hèn mặc áo vá: Lão hèn chính là một người tuổi già rất ngu si, áo vá chính là áo rách phải dùng kim chỉ để vá lại.
Cơm hẩm đủ no lòng: Cơm hẩm chính là thức ăn không thêm các gia vị dầu, muối, tương, xì dầu, dấm..., rất nhạt nhẽo, không có mùi vị gì, chỉ có thể lót đầy bụng trống thôi.
áo vá qua cơn lạnh: áo rách được vá lành thì có thể dùng để ngăn cái lạnh lẽo từ bên ngoài.
Vạn sự chỉ tùy duyên: Bất cứ sự tình gì cũng tùy tiện mà giải quyết ổn thỏa. Việc đến thời ảnh hiện, việc đi kể như không, cũng chính là "Ðáo xứ tùy duyên qua ngày tháng, Thủ thường an phận mặc thời gian." Bất cứ sự tình gì hễ đến, đi thì kể như không, đó gọi là tùy duyên. Tùy duyên cũng chính là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến tùy duyên"; cũng chính là trong động có tĩnh, trong tĩnh có động; vừa tĩnh vừa động, vừa động vừa tĩnh.

Có người mắng lão hèn: Có người mắng ta là lão già ngu si.
Lão hèn cho là hay: Ta tự nói là hay quá, hay quá!
Có người đánh lão hèn: Có người đánh ta, cho ta là kẻ ngu si vô dụng, đoán xem điều gì sẽ xảy ra?
Lão hèn ngủ quên mất: Có người đánh ta một cái, ta nằm xuống ngủ quên ngay. Mình nói ngài là ngu si, tại sao lại làm thế? Thông thường người ta bị đánh thì trừng mắt nhướng mày nói: "Tại sao anh đánh tôi?" Nhưng ngài chẳng những không trợn mắt, mà lại nằm lăn trên đất ngủ khì nữa. Như vậy có quá hay hay không? Nếu ai có thể dùng được phương pháp này thì thật là không đến nỗi tệ, thật là có hạnh tu đấy.
Phun nước miếng lên mặt, có người phun nước miếng lên mặt mình thì lửa vô minh bốc lên hằng ba ngàn trượng: "Tại sao anh làm nhục tôi?!" Nhưng Bồ-tát Di Lặc thì: Cứ để nó khô thôi, để cho nó tự khô đi, tôi cũng không cần lấy tay lau sạch.
Ta cũng bớt sức lực, lau sạch nước miếng dù không hao phí sức lực bao nhiêu, nhưng cũng là phải dùng sức, bây giờ không lau thì sức lực đó cũng bớt phải xử dụng.
Anh cũng khỏi giận hờn, một khi mình thấy một người bị mình phun nước miếng lên mặt mà người ấy hình như coi như không, thì nghĩ rằng: "Cái người này! Mình không quen biết họ", thế thì giận hờn của mình không còn nữa.
Kiểu Ba-la-mật ấy, sao gọi là Ba-la-mật? Ðó là có người đánh, mình có thể ngủ thì được; có người phun nước miếng lên mặt, mình cứ để nó tự khô đi; đó chính là Ba-la-mật, cũng gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Giả như ngay đến Nhẫn nhục Ba-la-mật mà cũng không biết, thì mình học Phật pháp để làm chi? Chẳng cần phải suốt ngày từ sáng tới tối học đi học lại mãi mới gọi là học được nhiều Phật pháp, mà có khi cảnh giới đến lại không biết áp dụng một tí nào.
Chính là báu thêm mầu, đó là mầu nhiệm trong mầu nhiệm, quý báu trong quý báu. Nếu biết được như thế, lo gì đạo chẳng thành?
Nếu biết được những điều như trên thì lo gì không thành đạo được? Nếu tu học Nhẫn nhục Ba-la-mật như thế, thì đạo nghiệp của mình nhất định sẽ thành tựu; chư Phật, Bồ-tát không bao giờ dối gạt người đâu. Nếu mình học được như Bồ-tát Di Lặc thì nhứt định sẽ thành tựu đạo quả. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Bồ Tát Di Lặc là đại biểu truyền thừa tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật là một thời đại lớn. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật có Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp. Thời đại lớn này là một vạn hai ngàn năm. ....Bồ Tát Di Lặc chính là kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp, Di Lặc là vị thứ năm, cho nên là tiếp nối tương lai, cũng tiếp nối pháp môn này. Pháp môn này là pháp môn đệ nhất, mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo. Pháp môn đệ nhất chính là kinh Vô Lượng Thọ. Đối tượng kinh Vô Lượng Thọ, đối tượng có thể tiếp dẫn chính là chúng sanh căn tánh chín muồi ở thế gian - Ngay trong một đời này quyết định làm Phật. Đó chính là đối tượng của kinh Vô Lượng Thọ. Đây là thật, không phải giả ! .....H.T. TINH KHÔNG ! Xem thêm
+ 670. THỌ KÝ ĐỨC PHẬT DI LẶC

Này Di-lặc, vào một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, ngươi sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Giống như Ta hiện nay là Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. (Nguồn: mục 670- (Trung A Hàm, Kinh Thiên Sứ, Phẩm 6, số 64)
Di-lặc Bồ-tát, còn gọi là A-dật-đa (Ajita/ Hán dịch: Vô năng thắng). Di-lặc/ Từ thị (Maitreya) là họ của gia đình. Vị tăng to béo mập mạp. Có lẽ là vị Bồ-tát nầy thích ăn ngon. Ngài cũng rất thích cười, Ngài rất thích chơi với trẻ con, và đáp lại, trẻ con cũng rất thích chơi với ngài. Sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt, không còn là bậc đạo sư giáo hoá chúng sinh ở cõi nầy nữa, thì Đức Phật Di-lặc sẽ ra đời để tiếp tục việc giáo hoá chúng sinh. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni được gọi là Hồng Dương Phật. Khi Bồ-tát Di-lặc thành Phật, ngài sẽ được gọi là Bạch Dương Phật. Điều nầy có nghĩa là khi Đức Phật Di-lặc thị hiện ra đời, thì máu của chúng sinh sẽ là màu trắng, không còn màu đỏ như thời trước nữa. Loài người hiện nay có máu màu đỏ vì đang ở trong thời giáo hoá của Hồng Dương Phật.
Khi nào Đức Phật mới Di-lặc thị hiện ra đời? Nghe thật là lâu xa khi quý vị được kể ra ...(Mời xem trong Kinh văn). Thời Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dậy con tu tập pháp định duy tâm thức (Tam giới duy tâm - Vạn pháp duy thức là nguyên lý của pháp Duy thức quán), con được nhập vào chánh định, tâm cầu danh thế gian đã diệt. Bạch Đức Thế tôn, do con rõ được tánh duy thức như vậy, nên từ thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được Phật thụ kí, kế tiếp thành Phật ở cõi nầy. Đức Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp quán tường tận mười phương đều do thức biến. Thức tâm được tròn sáng, thể nhập tánh viên thành thật, rời xa các tánh y tha khởi và tánh biến kế sở chấp, được pháp vô sanh nhẫn. Đó là phương pháp tốt nhất. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Từ Thị Nhẫn: Từ Thị là Bồ Tát Di Lặc, bụng của ngài rất mập mạp, ai có lỗi lầm gì thì ngài cũng đều tha thứ, ngài luôn cười hì hì. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr69 - HT Tuyên Hóa giảng)

Xem: Tóm lược các Kỳ công của Hercules huyền thoại và Đức Phật và Đức Christ

Xem: Hercules và Đức Phật, Đức Christ

+ Đức Văn minh Đại đế (Mahachohan): Vị Trưởng của nhóm ba là Đức Văn minh Đại đế. Ngài bao gồm Phương diện Thông tuệ của thiên tính. Ngài còn có danh hiệu là vị Chúa của Văn minh. Ngài vận dụng nguồn bác ái thông tuệ và có trách nhiệm điều hành việc thực hiện Thiên cơ.
Tất cả mọi người đều rốt cuộc sẽ đi vào một trong Ba Ngành này của Huyền giai.
Vì thế, ba Đấng cao cả này đại diện cho Ý chí, Bác ái, và Thông tuệ. Ba Đấng này hợp tác hết sức chặt chẽ và hợp nhất với nhau, và mọi bước tiến hoặc kế hoạch ảnh hưởng đến nhân loại, các giới khác trong thiên nhiên và cả hành tinh này, đều được các Ngài quản trị. Các Ngài là đại diện thực hiện Chủ đích Hành tinh, để mang lại tình thương và những mối liên giao chính đáng của con người, và để đẩy nhanh cuộc tiến hóa của nhân loại qua việc thực hiện Thiên cơ. (Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)

+ Đức Văn Minh Bồ Tát/ Đại Đế (Lord of Civilisation, Mahachohan, Cho-Khan Thư của Ch. S. 57): Vị Lãnh Đạo của nhóm ba  là Đức Mahachohan. Việc cai quản của Ngài đối với nhóm này kéo dài lâu hơn hai vị Huynh trưởng của Ngài. Ngài có thể giữ chức vụ này trong thời hạn nhiều căn chủng. Ngài là toàn bộ trạng thái thông tuệ. Đức Mahachohan hiện nay không phải là Đức đầu tiên giữ chức vụ này lúc thành lập Thánh Đoàn vào thời Lemuria – lúc bấy giờ, chức này được nắm giữ bởi một trong các vị Kumara hay Hỏa Tinh Quân (Lords of the Flame) đã lâm phàm cùng với Đức Sanat Kumara – mà Ngài đã giữ ngôi vị này trong chi chủng thứ hai của căn chủng Ắt lăng. Ngài đạt đến quả vị Chân Sư (Adeptship) trên dãy nguyệt cầu, và chính qua trung gian của Ngài mà một số lớn nhân loại tiến bộ hiện nay đã lâm phàm vào giữa căn chủng Ắt lăng. Liên hệ nghiệp quả giữa họ với Ngài là một trong những nguyên nhân xảy ra trước khiến cho việc này xảy tới sau. Công việc của Ngài liên hệ tới việc bảo dưỡng và củng cố mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất, giữa sự sống với sắc tướng, giữa ngã với phi ngã, đưa tới kết quả tạo ra cái mà chúng ta gọi là văn minh. Ngài vận dụng các lực của thiên nhiên, và phần lớn là các nguồn phát ra điện năng như chúng ta biết. Ngài là phản ánh của Ngôi Ba hay Ngôi Sáng Tạo, nên năng lượng từ Hành Tinh Thượng Đế lưu chuyển đến Ngài từ trung tâm lực cổ họng, và chính Ngài, bằng nhiều cách, làm cho công việc của các Huynh trưởng Ngài được thành toàn. Các kế hoạch và ý muốn của các Vị này được chuyển qua Ngài và thông qua Ngài, các giáo huấn đến được một số lớn các vị thừa hành thuộc giới thiên thần. (ĐĐNLVTD, 45)

+ Đức Bàn cổ: Ngài là toàn bộ Phương diện Ý chí của Thiên tính. Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan đến chính quyền, đến nền chính trị hành tinh, và đến việc thành lập, hướng dẫn, và giải tán các loại và hình thể chủng tộc. Ngài được giao cho Ý chí và Chủ đích của Đức Hành tinh Thượng Đế là Đấng Thiêng liêng Cao cả nhất đang trông nom Địa cầu, và là “Thượng Đế” của chúng ta.(Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)

+ Đức Bàn Cổ (Manu): Đức Bàn Cổ chủ trì nhóm thứ nhất. Ngài được gọi là Đức Bàn Cổ Vaivasvata và là Bàn Cổ của căn chủng 5. Ngài là mẫu người hay tư tưởng gia lý tưởng và tạo mẫu cho giống dân Aryan của chúng ta, đã chủ trì vận mệnh của giống dân này từ khi nó bắt đầu có gần 100.000 năm nay. Các vị Bàn Cổ khác đã đến và đi, trong một tương lai gần, nhiệm sở của Ngài sẽ được một vị khác đảm trách. Lúc đó, Ngài sẽ chuyển sang công việc khác cao hơn. Đức Bàn Cổ hay nguyên mẫu của căn chủng 4, hoạt động hợp tác chặt chẽ với Ngài và có trung tâm ảnh hưởng ở Trung Quốc. Ngài là Đức Bàn Cổ thứ hai của căn chủng 4 đã giữ địa vị của Đức Bàn Cổ trước vào các giai đoạn cuối lúc châu Atlantis bị hủy diệt. Ngài đã ở lại để bảo dưỡng sự phát triển của kiểu mẫu giống dân và để cuối cùng nó sẽ biến mất. Các giai đoạn hoạt động của tất cả các Đức Bàn Cổ trùng lắp lên nhau, nhưng vào lúc này, trên bầu hành tinh không còn đại diện nào của căn chủng 3 nữa. Đức Bàn Cổ Vaivasvata ngự tại vùng Hy Mã Lạp Sơn đã tụ tập được quanh Ngài ở Shigatse một số người có liên hệ tức thời với các công việc của giống dân Aryan ở Ấn Độ, Âu Châu và Mỹ Châu và những người mà sau này sẽ có liên hệ đến căn chủng thứ sáu sắp đến. Các kế hoạch được chuẩn bị trước nhiều thời đại, các trung tâm năng lượng được tạo ra hàng ngàn năm trước khi chúng sẽ được cần tới và với sự tiên tri sáng suốt của các Đấng Thiêng liêng này, không gì bị để cho kết thúc đột ngột, mà tất cả đều hoạt động theo các chu kỳ đã sắp xếp, theo quy luật và định luật, mặc dù trong giới hạn nghiệp quả.  Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan tới việc cai trị, đến việc chính trị trên hành tinh, đến việc tạo ra, điều khiển và giải thể các kiểu mẫu và hình hài chủng tộc. Ý chí và chủ đích của Hành Tinh Thượng Đế được giao cho Ngài. Ngài biết đâu là mục tiêu trước mắt đối với chu kỳ tiến hóa mà Ngài phải chủ trì và công việc của Ngài liên quan tới việc thành toàn thiện chí, Ngài hoạt động hợp tác chặt chẽ với các thiên thần kiến tạo hơn là Huynh Trưởng của Ngài, Đức Christ, vì Ngài được giao cho công việc tạo nên mẫu giống dân, tách ra các nhóm sẽ phát triển thành các giống dân, vận dụng các lực làm chuyển dịch (move) vỏ địa cầu, nâng cao và hạ thấp các lục địa, chi phối trí óc của các chính khách ở khắp nơi, để cho việc cai trị nhân loại sẽ diễn tiến như ý muốn, mang lại những điều kiện sẽ tạo ra những gì cần thiết cho việc bảo dưỡng bất cứ kiểu mẫu đặc thù nào. Hiện nay, các việc như thế có thể được thấy đang lộ ra ở Bắc Mỹ và Úc Châu. Năng lượng đang tuôn tràn qua Đức Bàn Cổ phát xuất từ bí huyệt đầu của Hành Tinh Thượng Đế, truyền sang Đức Bàn Cổ qua não bộ của Đức Sanat Kumara, là Đấng đang tập trung mọi năng lượng hành tinh vào trong chính Ngài. Đức Bàn Cổ hoạt động nhờ vào việc thiền định thâm sâu, được điều khiển trong bí huyệt đầu và tạo ra các kết quả nhờ việc Ngài hoàn toàn nhận thức được điều gì phải được hoàn thành, nhờ năng lực hình dung ra những gì cần phải làm để đưa tới thành quả và nhờ vào khả năng truyền chuyển năng lượng sáng tạo và hủy diệt đến những vị phụ tá cho Ngài. Tất cả những điều này được thành tựu nhờ quyền năng của diệu âm được minh xướng (phát ra rõ ràng). (ĐĐLVTD, 41–47)

+ THỦ DÂM VÍ NHƯ TỰ SÁT. CĂN BỆNH CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN TẠI !

Ông nói năm sáu năm qua, từ sau khi ra trường, mắc bệnh xương khớp rã rời, gần như đã chết một nửa người. Có phải vì [trong thuở còn đi học ấy] bạn bè đàn đúm tụ họp, cùng nhau đọc tiểu thuyết[1] đến nỗi chân tinh mất mát, thủ dâm liên tục, do vậy mới có hiện tượng ấy hay chăng? Đấy chính là căn bệnh chung của lũ học sinh trong hiện tại, trong mười đứa có đến tám chín đứa [vướng phải]. Do cha mẹ, thầy, bạn đều chẳng chịu nhắc đến, nên kẻ bị bệnh ngày thấy càng nhiều, chẳng thể ngăn dứt được! Do chuyện này, Quang liền cho in tám trăm cuốn Thọ Khang Bảo Giám. Hễ kẻ trẻ tuổi gặp Quang, Quang đều nói rõ lẽ lợi – hại với họ, bảo họ giữ gìn thân thể đừng phạm. Dù là thủ dâm hay tà dâm đều phải nghiêm túc kiêng dè, đừng phạm; ngay như vợ chồng ăn nằm với nhau cũng phải có chừng mực, cũng như biết kiêng kỵ để khỏi đến nỗi bị mất mạng oan uổng! Nếu không, người cực tốt cũng vẫn có thể chết vì chuyện này. Xúm nhau đổ thừa cho số mạng, chẳng biết tự mình đã nộp mạng!

Ông còn rất trẻ mà đã bị bệnh, hãy nên thường đọc sách ấy, cũng như bảo Đức Chánh thường đọc. Đôi bên răn nhắc lẫn nhau, ngõ hầu những đứa con đã sanh như Quân Tốn v.v… đều được mũm mĩm, trưởng thành, tánh tình hiền thiện, vợ chồng ông sống hạnh phúc đến già, cùng sanh Tây Phương.

[1] Chữ “tiểu thuyết” ở đây nhằm chỉ những thứ tiểu thuyết bị coi là “dâm thư” do khơi gợi tình yêu trai gái suồng sã. (Trích từ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên)

    Dương                              Âm
Hỏa và Khí                    Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ        Các dấu hiệu số chẵn

Tích cực, tự thể hiện    Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương      Năng lượng âm
+ Hỏa: Tự tập trung và phi cá nhân; Thiếu kiên nhẫn, khuynh hướng lao vội vã vào mọi thứ; Bướng bỉnh, không nhạy cảm với người khác; Khởi xướng, bắt đầu mọi thứ; Kích động, nhiệt tình, có thể là thiếu tự chủ. - Dấu hiệu hành hỏa: Bạch Dương, Sư Tử, và Nhân Mã ; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Năng lượng. Tích cực. Nhiệt huyết. Đam mê. Cần phải thể hiện bản thân. Bốc đồng. Chủ động. Thoải mái Có khuynh hướng hướng ngoại. (Nguồn: Chiêm THNM 4)

+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não (LVHLT, 251)

+ Chân Sư Dk Luận Về Hỏa Thủy: Trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu—thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y.
Đùa với Lửa: Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.”. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả - Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [trang 103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã.........
Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người.........
Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền......, mời xem chi tiết (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
+ Hỏa thần - Thần lửa: Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu .... Giảng giải : Ta Hê Dạ Gia là "Thần lửa". Thứ thần lửa này rất nóng vô cùng. Vì nóng quá cho nên nói : ‘’Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu.’’ Rất lợi hại, nóng khiến người không chịu nổi. Nóng quá sẽ khiến người chết. Nạn lửa xuất hiện thì trên không trung có bảy mặt trời đồng thời cũng xuất hiện, thiêu hủy hết thảy sơn hà đại địa, biển cả cũng khô cạn, chẳng có vật gì còn sống sót lại. Lửa có thể thiêu đến cõi trời Sơ Thiền. Nhị Thiền và Tam Thiền cũng có tai nạn.(Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)

Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn

+ Cha mẹ là gốc rễ: Học Phật phải tu pháp môn căn bản, tức là tài bồi căn lành, bồi nguyên cố bổn. Bồi nguyên tức là bồi dưỡng nguyên khí. Cố bổn tức là khiến cho gốc rễ kiên cố. Nguyên là nguyên khí. Gốc tức là gốc rễ, tức là cha mẹ. Cha mẹ sinh chúng ta ra, chúng ta phải hiếu thuận. Hiếu thuận cha mẹ mới là người chân chánh tin Phật, không hiếu thuận cha mẹ, chẳng phải là người tin Phật. ..
Nếu người hiếu thuận cha mẹ, thì chánh khí trời đất tồn tại, không hiếu thuân cha mẹ, thì trong trời đất tràn ngập tà khí. Hiếu thuận cha mẹ phải thành tâm thành ý, tất cung tất kính. Ðối với cha mẹ phải cung cung kính kính, cha mẹ tức là Phật sống hiện tiền. .. Hiếu thuận cha mẹ phải dưỡng chí. Dưỡng chí tức là việc mà cha mẹ hoan hỷ thì làm nhiều một chút, việc mà cha mẹ không hoan hỷ thì làm ít một chút. Ðừng làm cha mẹ buồn phiền đau khổ, luôn luôn làm cho tâm của cha mẹ vui vẻ. .. Không biết hiếu thuận cha mẹ là quên mất gốc rễ. .. hiếu thuận cha mẹ so với cuối đầu lạy sư phụ còn tốt hơn nhiều. (Nguồn: Google Drive - HT Tuyên Hóa Giảng Chú Lăng Nghiêm)

+ Bổn phận của Cha mẹ - Con cái, đức Phật đã dạy:
- Con làm 5 việc với Cha Mẹ:
Một là phụng dưỡng cha mẹ. Hai là làm công việc thay cha mẹ. Ba là gìn giữ gia phong. Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế. Năm là tạo phước hồi hướng.
- Cha mẹ làm 5 việc: Một là ngăn con không làm điều ác. Hai là dạy con làm việc lành. Ba là hướng dẫn nghề nghiệp. Bốn là tác thành gia thất. Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp. Đây là đạo nghĩa cha mẹ con cái.
* Ðức Phật dạy về 6 phương:
- Phương đông là cha mẹ. - Phương nam là thầy tổ. - Phương tây là người hôn phối. - Phương bắc là bạn bè. - Phương dưới là người giúp việc. - Phương trên là sa môn (Nguồn: Kinh Đảnh Lễ Sáu Phương)

+ Thần tiên sống:  ...Người thật hiểu là luyện tinh khí thần, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, gì cũng chẳng có, luyện hư hoàn không với hư không hợp mà làm một, rõ ràng họ còn chấp trước, cho nên cảnh giới rất nhỏ, không phải toàn thể đại dụng, tức là họ chấp trước đó là "đan", cũng như rồng chấp trước hạt châu của nó. Pháp môn luyện đan, trong không lại sinh ra có, luyện đến luyện hư hóa không, chẳng phải là luyện dễ dàng. Phải cần ngũ khí đầy đủ. Ngũ khí là gì ? Tức là : Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tức cũng là : Tim, gan, tỳ, phổi, thận. Tim thuộc hỏa, gan thuộc mộc, tỳ thuộc thổ, phổi thuộc kim, thận thuộc thủy. Tim là màu đỏ, gan là màu xanh, tỳ là màu vàng, phổi là màu trắng, thận là màu đen. Ngũ khí kim mộc thủy hỏa thổ này, luyện đến viên mãn không thiếu không thừa, thì khôi phục lại bổn thể, đạt được ngũ khí triều nguyên thì trong mỗi một khí, trong mỗi một hạnh, đều có đủ ngũ hạnh và ngũ hạnh lại hợp mà làm một. Ngũ hành hợp thành một thì mới tập trung được, đến được "thiên môn", liền được "tam hoa tụ đỉnh", ngũ khí đầy đủ, bèn thành "thần tiên sống". Cho nên ngũ khí đầy đủ gọi là "đại đạo", lúc đó thì có thần thông, bay đi tự tại. Ngoài thân có thân tướng mà vô tướng
‘’Tu lâu thuần dương thọ vạn năm.’’ Tu lâu tức là tu hành trải qua lần này rồi lần khác, không biết tu đã trải qua bao nhiêu lần, trở thành thuần dương không còn âm khí, không còn đố kỵ, chướng ngại, phiền não, không còn tâm tham, tâm sân, tâm si. Cho nên gọi là "hoạt tử nhân" (người sống như đã chết).
Bạn nói người ấy chết rồi chăng ? Người ấy vẫn còn hơi thở, bạn nói người ấy còn sống chăng ? Người ấy không tham sân si, đố kỵ, chướng ngại, như những kẻ khác. Vì những thứ đó đều là âm khí, nhưng mà thứ thuần dương này có chỗ bất đồng với Phật giáo, được ít cho là đủ, không tiếp tục nỗ lực, phế bỏ giữa đường, có sự giới hạn, có một cảnh giới, có sự chấp trước, còn chấp trước túi da hôi thối này, buông cũng buông không được, xả cũng xả không xong, đi đến bất cứ nơi nào cũng phải mang túi da hôi thối này, còn chưa được ‘’đồng thể với vạn vật, làm một với hư không, chưa được vô lượng vô biên với pháp giới tính mà làm một, vì chưa thoát khỏi luân hồi, chưa phá được chấp trước, thần thông dù lớn vẫn còn ngã tướng, ngã chấp.’’(Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - Google Drive)

+ Truyền thuyết về thần tiên và yêu tinh
(Fairies and elves of legends): Trên cõi cảm dục, chúng ta cũng gặp các tinh linh thiên nhiên (nature spirits) – thuật ngữ này chính xác hơn là thuật ngữ tinh hoa hành khí (elementals). Các tinh linh thiên nhiên này đang lo việc kiến tạo hình hài trong các giới khoáng chất, thực vật, động vật và nhân loại. Có loại tinh linh thiên nhiên xây dựng các khoáng chất, đưa các sinh năng (vital energies) vào cây cỏ, tạo ra các thể (bodies) của giới động vật từng phân tử một. Chúng chăm lo đến việc tạo ra các thể cảm dục của loài khoáng vật, thực vật và động vật, cũng như lo việc tạo ra thể xác các loài này. Đây là các thần tiên và yêu tinh thường được nói đến trong các chuyện cổ tích (legends). “Dân tộc nhỏ bé” (“a little people”) này đóng góp một vai trò rất lớn trong văn học dân gian (folk–lore) của mỗi quốc gia, đây là những trẻ con duyên dáng và chưa có ý thức trách nhiệm (irresponsible) của Thiên nhiên mà khoa học hờ hững cho là chỉ có nơi nhà giữ trẻ, nhưng sau này, chúng sẽ được các nhà khoa học sáng suốt đặt trở lại vào cấp đẳng thiên nhiên của chúng. Còn ngay bây giờ, chỉ có các thi sĩ và các nhà huyền học tin là có chúng, nhà thi sĩ thì nhờ năng khiếu trực giác, còn nhà huyền học thì nhờ phát triển nội nhãn thông. Đa số người đời đều nhạo báng cả hai, nhất là nhạo báng các nhà huyền học; nhưng không hề gì, minh triết sẽ được chứng minh là đúng đối với việc này.  (MTNX, 74–75)

+ Chú Lăng Nghiêm: Trong bảy ngày thứ hai, một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát, tâm không gián đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có chỉ dạy về nguyện.
Giảng: Trong tuần thứ hai tu hành, “một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát.” Quý vị phải thật lòng và nhất tâm. Pháp tứ hoàn thệ nguyện
“Tâm không gián đoạn.” Có nghiã là tâm không dừng trì tụng chú Lăng Nghiêm, và tâm không bao giờ quên tứ hoàn thệ nguyện.
“Trong Luật Tạng của ta đã có chỉ dạy.” Khi đức Phật nói về giới luật, đức Phật có dạy cách phát thệ nguyện.
Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy, mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện. Chỗ ánh sáng của gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo tràng tu Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời mạt thế thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly. Giảng: “Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật.” Quý vị trì tụng chúTát Đát Ra Bát Đát Ra” mà đức Phật đã thuyết, đó là chú Lăng Nghiêm.... (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm, Tập 7 - HT Tuyên Hóa)

+ Chú Lăng Nghiêm - Thủ Lăng Nghiêm:
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ: Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương :
1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ.
2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ.
3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ.
4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ.
5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Phật Thành Tựu là chủ. (Bộ sổ ghi nghiệp của chúng sanh được giữ bởi những vị “Cai Quản Nhân Quả” hay Minh Quan trong địa ngục_Từ điển thuvienhoasen.org)
- Mời đọc: Khai thị về Kinh và Chú Thủ Lăng Nghiêm
- Mời đọc: Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm

+ Ứng dụng Chú Lăng Nghiêm: Trừ ái dục và
Tôi đã nói với quý vị về việc tụng chú Lăng Nghiêm. Nếu quý vị tụng được chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ là một trong những người giàu nhất thế giới trong bảy kiếp sau. Thực vậy, nếu ngay bây giờ, nếu quý vị tụng được chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ là một trong những người giàu nhất thế giới vì quý vị nhận ra được Pháp bảo tạng nầy. Và khi quý vị đặt Pháp bảo tạng nầy vào trong tâm quý vị rồi thì còn có ai đánh cắp ra khỏi được? Bất kỳ loại kẻ cắp nào cũng không lấy được. Pháp bảo tạng nầy ở trong tự tánh của quý vị. Nó đã được cất giữ trong vòm trời Như Lai tạng của quý vị. Chẳng ai có thể tìm đến đó để lấy cắp được. Chẳng thể diễn tả nó vi diệu đến chừng nào. Nếu quý vị thâm nhập được Phật pháp, thì ngay bây giờ quý vị là một trong những người giàu nhất thế gian. Nhưng bây giờ thì quý vị chưa sử dụng tài sản đó được. Khi nào quý vị thành Phật rồi thì điều ấy sẽ thuộc về quý vị. Bây giờ gia tài ấy chỉ mới được kí thác với tên của quý vị, nhưng quý vị chưa đến tuổi trưởng thành, thế nên bây giờ chưa dùng được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)

-Chú Thủ Lăng Nghiêm tiêu trừ Ái dục: ... Như Ma-đăng-già trước kia là dâm nữ, do nhờ sức của thần chú mà tiêu trừ ái dục. Nay trong Phật pháp có tên là Tánh tỷ-khưu ni.
Giảng giải:
"Như Ma-đăng-già trước kia là dâm nữ, do nhờ sức của thần chú mà tiêu trừ ái dục". Trong đời trước, cô ta là dâm nữ, vốn nhiều ái dục. Tuy vậy, năng lực của thần chú Thủ-lăng-nghiêm đã khiến cho tiêu tan hết ái dục trong cô. Nên bây giờ chúng ta mới biết công dụng thần chú Thủ-lăng-nghiêm là để tiêu trừ ái dục trong lòng mỗi người. “Thế thì tôi chẳng muốn tụng chú Thủ-lăng-nghiêm nữa,” quý vị bác lại. “Tôi không muốn tình yêu của mình bị khô héo. Tôi muốn có tình yêu mãi mãi.”
Giữ mãi tình yêu ấy? Được rồi! Quý vị cứ mặc tình. Nếu quý vị đã thích rồi, thì chẳng ai ngăn cản được. Nhưng quý vị nên nhớ rằng thần chú Thủ-lăng-nghiêm không những chỉ trừ bỏ được nghiệp ái, mà còn có thể khiến cho tăng trưởng năng lực thần thông và trí huệ. Đó là năng lực bất khả tư nghì.
Ái tình là khổ đau. Như tôi vừa nói đến. Yêu và ghét là hai cái khổ. Chẳng hạn, hãy xem tình yêu mà không được đáp lại. Người đang yêu không nghĩ đến gì khác ngoài người mình yêu đến mức không ăn không ngủ được. Họ cứ mơ tưởng đến cách theo đuổi, nhưng cuối cùng họ vẫn không đạt được. Có phải đó là nghĩ mãi đến cái khổ hay không?
Nay trong Phật pháp có tên là Tánh tỷ-khưu ni.
Pháp danh Tánh tỷ-khưu ni của Ma-đăng-già biểu hiện sự nhận ra tự tánh của cô ta. Ngay khi Đức Phật nói pháp cho cô ta nghe, ngay lúc đó cô ta chứng ngộ, đạt được quả vị thứ ba của hàng A-la-hán, không qua các thứ bậc sơ quả đến quả vị thứ hai. Cô ta chứng ngộ ngay quả vị thứ ba. Vì cô nhận ra rằng, thấy rằng ái dục vốn là không. A-nan vẫn còn trong giai vị sơ quả, trong khi người vợ của ông trong 500 kiếp trước đã vượt qua mình quá xa.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+LĂNG NGHIÊM CHÚ SỚ LƯỢC GIẢNG
Nhân duyên Ðức Phật thuyết kinh Lăng Nghiêm là vì A Nan bị Ma Ðăng Già Nữ dùng tà chú Tiên Phạm thiên mê hoặc, nhiếp dẫn vào nhà dâm, dựa kề vuốt ve, làm cho A Nan sắp bị hủy hoại giới thể. Ðức Phật sai Bồ tát Văn Thù đem chú đến cứu hộ, dắt A Nan về chỗ Phật. Vì thế nên biết Chú Lăng Nghiêm là chủ thể của Kinh Lăng Nghiêm. Nếu không có chú Lăng Nghiêm, thì không có Kinh Lăng Nghiêm. Mà Charles Luk khi phiên dịch Kinh Lăng Nghiêm ra tiếng Anh, lại võ đoán bỏ đi phần chú Lăng Nghiêm cùng với phần kiến lập thiết trí đạo tràng, nói người Tây phương đối với chú không có gì hứng thú. Ðiều này thật là hoàn toàn sai lầm. Thật như rằng lấy tai thay mắt (đối với vự việc chỉ nghe người ta nói liền tin theo mà không chịu phân tích, xét đoán), giống như thằng mù dẫn thằng đui, người ta nói sao mình cũng tào lao làm bậy theo, thật là vô tri ngu dốt, đáng thương vô cùng, đáng hổ thẹn biết bao. Ðã không thỉnh giáo với các bậc Thiện trí thức, lại lấy ý kiến nông cạn hẹp hòi của riêng mình, độc tài Kinh nghĩa, không sợ quả báo, gan to tầy trời, mà những người không hiểu biết lại a dua theo đó. Lại có những quyến thuộc của ma vương, vô cùng khiếp sợ chân lý của Kinh Lăng Nghiêm phá tà hiển chánh, thanh tịnh minh hối, chuyển mê về ngộ. (HT Tuyên Hóa giảng)

Xem thêm toàn văn (Googdrive): Giảng giải Chú Lăng Nghiêm

+ Bố thí - Cúng dường - Cho đi là còn mãi: Lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương II)
+ Bố thí: Xuất Tâm hoan hỷ mong cầu được Bố thí, cho dù Bố thí bất cứ vật gì đều có được công đức rất lớn. Một ví dụ sinh động và nhiệm mầu về câu truyện một cậu bé Xuất Tâm Bố thí khi gặp Đức Phật Kinh hành đến, cậu bé bốc một lắm đất dâng lên Ngài với Tâm lượng chân thành, Đức Phật đã nhận đất cho vào Bảo Bát mang theo, Phật dặn Ngài A Nan Đà mang đất này về để ở Phòng của Ngài - Đức Phật dạy rằng, khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, cậu bé sẽ được làm Vua tên A Dục, hộ trì tránh pháp. Thực tế đúng như vậy. (Nguồn: Theo Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh
+ Thế Tôn cả đời tu thiện là tu ba loại bố thí 
- Bố thí Tài: Thế Tôn không có tiền của, dùng thân thể, dùng thể lực (thân thể là nội tài) vì xã hội phục vụ, đây là thuộc về bố thí tài. Mỗi ngày đi dạy học khắp nơi, giáo hóa chúng sanh. Đây là bố thí nội tài.
- Bố thí Pháp: Nội dung dạy học là giúp người khai ngộ, giúp đỡ người, chỉ dạy người khác đoạn ác tu thiện, chỉ dạy người phá mê khai ngộ, đây là bố thí pháp.
- Bố thí Vô Úy: An ủi một phần chúng sanh khổ nạn, hòa lẫn thành một khối với đời sống của họ, khiến họ sinh tâm hoan hỷ, đây là bố thí vô úy.
* Đức Phật trong Kinh dạy: "Tu tài bố thí thì sẽ có tiền của. Tu pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ. Tu vô úy bố thí thì được khoẻ mạnh sống lâu" (Kinh TTNĐ-Tập 54_PS Tịnh Không)
+ Tài vật bố thí cho hành khất, theo nghĩa đen, “nhân đức”, cái thứ nhất trong sáu ba–la–mật của Phật giáo. (NGMTTL, 96)
+ BỐ THÍ - GỐC LÀ XUẤT TÂM LƯỢNG TỪ BI HỶ XẢ THÌ CÓ LỢI ÍCH NHIỆM MẦU
Xuất Tâm hoan hỷ mong cầu được Bố thí, cho dù Bố thí bất cứ vật gì đều có được công đức rất lớn. Một ví dụ sinh động và nhiệm mầu về câu truyện một cậu bé Xuất Tâm Bố thí khi gặp Đức Phật Kinh hành đến, cậu bé bốc một lắm đất dâng lên Ngài với Tâm lượng chân thành, Đức Phật đã nhận đất cho vào Bảo Bát mang theo, Phật dặn Ngài A Nan Đà mang đất này về để ở Phòng của Ngài - Đức Phật dạy rằng, khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, cậu bé sẽ được làm Vua tên A Dục, hộ trì tránh pháp. Thực tế đúng như vậy. (Nguồn: Theo Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh
+ Lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương II)
+ Bố Thí Độ
Bố thí độ (dana paramita) tức là phép tu cúng dường, hiến tặng. Khi hiến tặng, ta được sinh qua bờ bên kia liền lập tức. Khi giận một người nào ta liền đau khổ. Nếu ta thực tập hiến tặng (bố thí), thì niềm sân hận trong ta được chuyển hóa và ta vượt sang được bờ bên kia ngay tức khắc, đó là bờ của vô sân, của an lạc, hạnh phúc và từ bi. Ta có ý muốn dâng tặng niềm vui cho người kia, muốn giúp người kia sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Điều này rất dễ thực tập. Ta biết trong chiều sâu tâm thức ta có hạt giống của sự độ lượng, sẵn lòng muốn làm cho người khác hạnh phúc. Những hạt giống và tâm hành này luôn luôn có mặt trong ta. Khi buồn giận, ta vung vãi sự buồn giận, bạo động và khổ đau lên những người quanh ta. Vậy điều thiết yếu trước tiên là trở về chăm sóc chính mình, thực tập tiếp xúc với hạt giống hiểu biết và thương yêu nơi tự thân. Thời gian đầu của mối liên hệ, ta cam kết là sẽ làm bất cứ điều gì cho người thương của ta hạnh phúc. Nhưng có lẽ bây giờ ta đang làm ngược lại với lời cam kết ấy. Vậy sự thực tập là trở về với cái tâm ban đầu, tiếp xúc với hạt giống thương yêu trong ta và làm đúng theo những lời mà ta đã cam kết, thì thế nào ta cũng làm cho người thương của ta hạnh phúc. ...........
Quý vị cũng đã được học về giáo lý tánh Không (the teaching on the nature of emptiness) trong sự bố thí. Theo tinh thần của giáo lý tánh Không, thì chúng ta phải thực tập bố thí theo tinh thần vô phân biệt, không kỳ thị và không đặt điều kiện. Đây là hành động cao siêu nhất của sự bố thí. Nếu quý vị bố thí theo tinh thần Bồ Tát, nghĩa là bố thí mà không thấy có người bố thí, người tiếp nhận sự bố thí và phẩm vật bố thí, thì công đức vô lượng và hạnh phúc sẽ rất lớn. Xin quý vị học hỏi sâu thêm về giáo lý này để phép thực tập bố thí đạt tới hiệu quả lớn hơn. Càng bố thí ta càng hạnh phúc và ta làm cho nhiều người chung quanh ta hạnh phúc. (Nguồn: Thiền Sư Thích Nhất hạnh giảng Bố Thí)
+ Hiểu rõ về Bố thí
I. Bố thí là gì?
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí. Bố là khắp, thí là cho. Bố thí là cho khắp tất cả. Nếu nói như vậy thì hơi đơn giản và mơ hồ. Vì cho khắp tất cả có nghĩa là cho khắp tất cả những gì mình có, hay cho khắp tất cả chúng sinh?
Khi ta đi đường gặp một kẻ nghèo khó đứng xin ăn, ta lấy năm đồng hay một cắc ra cho họ, thì ta gọi đó là bố thí cho kẻ nghèo. Trong gia đình khi ta cho con cái vật gì thì ta chỉ gọi đó là cho. Đối với những người có địa vị xã hội cao hơn ta, hay đối với hàng ông bà chú bác thì ta không gọi là cho mà gọi là Tặng hay Biếu. Rồi khi vào chùa đối với Tam Bảo ta lại có tiếng gọi khác là cúng dường. Cũng là một hành động cho mà lại có nhiều tên gọi khác nhau vì đó là tùy ở nơi đối tượng của sự cho, tức là người nhận. Mùa Xuân Tết đến, ta không thể đem một món quà đến gặp ông chủ của mình mà nói rằng: 'Tôi xin bố thí cho ông chủ món quà', hoặc gặp một vị Thầy ta nói: 'Con xin bố thí cho Thầy', hoặc ta cũng không thể nói: 'Ba cúng dường cho con một hộp bánh', v...v... Tiếng Việt của ta rắc rối lắm, không phải dễ dàng đâu! Nếu không chú ý cẩn thận một chút là ta có thể gây phiền phức cho chính mình và cả người khác nữa.
Như ta đã thấy Bố thí gồm có nhiều nghĩa: cho, tặng, biếu, cúng dường, bố thí. Nhưng để giản tiện bớt cho những trang sau, ta tạm gọi tất cả những cái đó là Bố thí.
II. Vì sao phải bố thí?
Vì Bố thí đem lại nhiều lợi ích sau đây : Bố thí là một kho tàng phước đức luôn luôn đi theo người chủ (tức người cho) đời này sang đời khác; bố thí xây dựng hạnh phúc và tiêu trừ đau khổ; người biết bố thí thì ai cũng thương mến; bố thí làm cho tâm (người cho) được an vui, khi gần chết tâm không sợ hãi; bố thí tiêu trừ lòng tham lam bỏn xẻn; người biết bố thí thì chư Thiên ủng hộ; bố thí là con đường trong sạch mà tất cả Thánh nhân đều đã đi qua; bố thí là một thiện nghiệp sẽ cho ra quả báo tốt; bố thí là hành động của những người hùng; bố thí sẽ tiêu trừ sự nghèo và đóng cửa dẫn đến ba đường ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh); bố thí giữ gìn công đức; bố thí là điều kiện đầu tiên của con đường dẫn đến Niết Bàn; bố thí là gốc rễ của tất cả thiện pháp; bố thí là nhà ở của những người cao quý, là thú vui của những bậc Thánh (Arya) và Vĩ nhân; bố thí là một cái gương sáng đáng để cho những người thiếu phước đức và trí huệ noi theo......... Mời xem giảng giải chi tiết tại: Pháp Bố thí lục độ

Xem thêm: Phật Thích Ca nói về bố thí trong các Kinh Tạng

+ Bố thí - Quả báo lớn nhất (Nghệ thuật bố thí - Bí quyết là ở hạ mình): ...“Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố thí có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời, có người hưởng phước trong mười đời, hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời.
Những sự ấy tại làm sao thế? Cúi xin đức Thế Tôn dạy cho”.
Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng:
.... Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng: “Trong cõi Nam Diêm Phù Đề có các vị Quốc Vương, hàng Tể Phụ quan chức lớn, hàng đại Trưởng Giả, hàng đại Sát Đế Lợi, hàng đại Bà La Môn ...v.v...
Nếu gặp kẻ hết sức nghèo túng, nhẫn đến kẻ tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây mù quáng, gặp những hạng người thân thể không được vẹn toàn như thế.
Lúc các vị Quốc Vương đó v.v... muốn bố thí, nếu có thể đủ tâm từ bi lớn, lại có lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc bảo người khác đem cho, lại dùng lời ôn hòa dịu dàng an ủi.
Các vị Quốc Vương, Đại Thần đó v.v... đặng phước lợi bằng phước lợi công đức cúng dường cho một trăm hằng hà sa chư Phật vậy.
Tại làm sao? Chính bởi vị Quốc Vương đó v.v... phát tâm đại từ bi đối với kẻ rất mực nghèo cùng và với những người tàn tật kia, cho nên phước lành được hưởng quả báo như thế này, trong trăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ để thọ dùng như y phục đồ uống ăn ...v.v... (còn dài, mời quý vị đọc trong Kinh Địa Tạng để hiểu, kết hợp hài hòa về dụng Tâm bình đẳng và nghệ thuật bố thí).
+ Bố thí - Cho đi đúng pháp để được Quả báo cát tường và nhiệm mầu
Biết bố thí với tâm niệm bình đẳng
Biết phụng sự những bậc đắc đạo
Biết tôn quý những kẻ đáng tôn quý trong hai giới nhân và thiên
Đó là điềm lành lớn nhất.
Đẳng tâm hành bố thí: Đẳng tâm là tâm niệm bình đẳng, biết phụng sự những bậc đắc đạo, biết tôn quý những bậc đáng quý trong hai giới trời và người, đó là điềm lành lớn nhất. Đẳng tâm là tâm niệm không kỳ thị, coi tất cả mọi loài đều bằng nhau. Khi cứu giúp người thì mình không kỳ thị, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo. Giúp là giúp thôi, tại người ta khổ nên mình giúp đó gọi là đẳng tâm hành bố thí.
Bố thí là một phép thực tập, nó đem lại cho mình hạnh phúc, nó là một trong sáu sự thực tập có thể đưa mình từ bến bờ khổ đau, hệ lụy đi sang bến bờ thảnh thơi, an lạc, gọi là Lục Ba La Mật (Six Paramitas). Lục Ba La Mật là sáu phương pháp thực tập đưa mình từ bờ bên này sang bờ bên kia gồm: bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định, nhẫn nhục và trí tuệ.
Phép thứ sáu có liên hệ với nguồn năng lượng thứ năm, gọi là tuệ.
Phép thứ năm, nó liên hệ tới nguồn năng lượng thứ tư là định. Trì giới cũng liên hệ ít nhiều tới niệm định tuệ và có khi là giới định tuệ. Niệm và giới liên hệ mật thiết đến nỗi không phân biệt được, đó là trái tim của sự thực tập đạo Bụt, gọi là niệm định tuệ hay là giới định tuệ nó còn được gọi là tam vô lậu học, tức là ba sự rèn luyện, ba sự thực tập, nó giúp cho mình không rơi rụng trong thế giới của hệ lụy, sầu khổ. Vô lậu tức là không có rạn nứt, không rơi rớt xuống.
Bố thí là hiến tặng, là phân phát, là chia sẻ. Sự thực tập đó có thể đưa từ thế giới của hận thù, của khổ đau, của hệ lụy đi sang thế giới của giải thoát, của an lạc, của tình thương. Khi giận ai thì mình không muốn cho người đó cái gì hết, để dành cho người khác, nhưng nếu mình nói, thôi cho người đó đi thì tự nhiên mình hết giận liền. Đó là một đề nghị của đức Thế Tôn.

Người mình thương, lâu lâu mình giận người đó, biết trước như vậy thì bây giờ khi chưa giận mình lo mua quà trước cất trong tủ, giữ cho kỹ, để khi nào mình giận mà tháo gỡ không được thì mình nhớ lời Bụt dạy, đi kiếm món quà tặng cho người đó: anh có món quà cho em, chỉ cần nghĩ tới vậy là mình hết giận liền, rất là hay.
Bố thí không phải chỉ đối trị với sự ích kỷ, tham lam mà còn đối trị luôn với sân và si, nó đối trị cả tam độc. Khi mình biết rằng khổ đau của người đó tức là khổ đau của mình, làm cho người đó hạnh phúc thì mình được hạnh phúc hơn, đó là vô si, là trí tuệ, mà có trí tuệ thì hết khổ. Vì vậy bố thí không phải chỉ là đối trị với sự bỏn sẻn, tham lam, ích kỷ mà nó còn chuyển hóa luôn cả cái sân hận và cái si mê, cho nên gọi là Bố Thí Ba La Mật (Dana Pamarita). Vị Bồ Tát mà thực tập bố thí thì phải bố thí một cách bình đẳng, nghĩa là không phân biệt, không kỳ thị. Bố thí có nhiều loại, ở đây chúng ta chỉ nói tới ba loại là : tài thí, pháp thí và vô úy thí.

- Tài thí tức là bố thí tài vật như : tiền bạc, nhà ở, cơm áo, thuốc men…,
- Pháp thí là chỉ cho người kia phương pháp để người ấy thoát khổ. Mình biết con đường Bát Chánh Đạo nên biết cách tháo gỡ, hòa giải được cho họ, giúp họ vượt thoát buồn lo, sợ hãi. Thành ra không cần giàu có mới bố thí được, mình có trí tuệ là có thể bố thí được rất nhiều, mình có giáo pháp, mở khóa tu là pháp thí
- Thứ ba là vô úy thí tức là hiến tặng sự không sợ hãi, người kia sợ chết, người kia sợ đói, người kia sợ cô đơn. Cái sợ của người kia làm cho họ co rúm lại, khiến họ không thể có được hạnh phúc trong đời sống hàng ngày
Trên thế giới bây giờ cái sợ rất lớn, các nước đều sợ mà sợ những cái rất hão huyền, vì sợ cho nên phải mua súng, mua bom, vì sợ cho nên phải bỏ hết tiền ra để mà trang bị quân đội, không có tiền đủ để cung cấp lương thực cho dân. Thế giới bây giờ được vận hành trên cái sợ, vì sợ cho nên có nhu yếu muốn mua vũ khí mà nhiều người vì tham cho nên đã chơi trên cái sợ của người khác. Họ chế tạo vũ khí, họ nói nếu anh không mua cái này, mai mốt nó đánh anh, anh ráng chịu. Vì vậy mình biết rõ ràng rằng cái tham và cái sợ đi đôi với nhau. Vô úy thí là trao tặng sự không sợ hãi, mà muốn trao tặng sự vô úy thì chính mình phải có sự vô úy. Mình có trí tuệ, mình không sợ chết, không sợ đói, không sợ nghèo và khi mình có cái vô úy đó rồi thì mình mới có thể hiến tặng cho người khác được. Nhờ có trí tuệ mà mình không sợ hãi, còn nếu không có trí tuệ thì sợ hãi rất nhiều.
Cái sợ đó đưa tới sự chia rẽ, bạo động, đưa tới nghi ngờ, đưa tới khủng bố và chống khủng bố. Vì vậy bố thí là một trong sáu phương pháp thực tập để đưa mình từ bờ của khổ đau, của hệ lụy đi sang bờ của giải thoát, của an lạc, của tình thương, của hạnh phúc. Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị bồ tát chuyên môn ban tặng sự không sợ hãi.
Biết phụng sự những bậc đắc đạo: Đây là vấn đề đầu tư. Mình biết bố thí một cách bình đẳng không kỳ thị rồi nhưng mình cũng biết đầu tư nữa. Những bậc đắc đạo, những người có trí sáng thì sự có mặt của những vị đó rất có lợi cho quần chúng, cho nhân gian, tại vì có mặt của những người đó là có nhiều ánh sáng, có nhiều trí tuệ vì vậy giúp người ta sẽ không đi lầm đường, lạc lối, xuôi về ba nẻo xấu ác. Do đó mình phải đặc biệt yểm trợ những bậc đắc đạo, mình không kỳ thị, nhưng mình đặc biệt chú trọng tới các vị ấy, đó là vấn đề đầu tư. Đây là giá trị đạo đức, giá trị trí tuệ. Ở trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có một đoạn khi mình mới nghe thì giống như là bố thí không có bình đẳng, đoạn đó nói rằng cho một người ác ăn cơm, không có công đức bằng cho một người hiền ăn cơm. Tại vì cho người hiền ăn cơm tức là đầu tư vào người hiền, người hiền đó có thể giúp được rất nhiều người. Cố nhiên là người ác khi đói cũng khổ, cho nên cũng cho họ ăn cơm, nhưng nếu mình có cơ hội cho người hiền ăn cơm thì công đức còn nhiều hơn nữa. Nó có nghĩa không phải là mình không cho người ác ăn cơm, nhưng trong khi bố thí thì có sự đầu tư vào trong đó. Thành ra hai cái không chống đối với nhau, nó có thể đi đôi với nhau, một bên là tâm không kỳ thị, một bên là ý hướng muốn đầu tư, nó tế nhị lắm.
Biết tôn qúy những kẻ đáng tôn qúy trong hai giới nhân và thiên: Nó cũng nằm trong tinh thần đó, nghĩa là mình phải có sự đối xử đặc biệt, tôn kính đối với người đáng tôn kính, tại vì những người đó có đạo hạnh, họ có trí tuệ. Mình yểm trợ cho những người đó thì nó có lợi lạc nhiều cho thế giới của mình. Tôn kính bậc đáng kính, cái này cũng có trong bản chữ Pali.  (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức - HT Thích Nhất Hạnh)

128. NHỮNG CON SỐ BẢY
- Bảy Hạng Vợ: Có bảy hạng vợ là vợ như người sát nhân, vợ như người ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ, vợ như người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ.
- Bảy Đức Tin: Người có đức tin có bảy đặc tính là có tâm xả ly bố thí tài vật, mong mỏi được gặp thánh nhân, mong mỏi được nghe Phật pháp, thường có tâm hoan hỷ với việc thiện, ít khoe khoang về mình, có sự chân thật không giả dối, và tịnh tín nơi đáng tịnh tín.
- Bảy chi pháp của bạn hữu là cho những gì khó cho, làm những gì khó làm, nhẫn những gì khó nhẫn, nói lên những gì bí mật của mình, che giấu bí mật của người khác, không từ bỏ khi gặp bất hạnh, không có khinh rẻ khi tài sản khánh tận.
- Có bảy sự thù diệu vị Tỷ-kheo tha thiết hành trì học pháp và trong tương lai khát vọng hành trì học pháp; tha thiết quán Pháp và trong tương lai khát vọng quán Pháp; tha thiết nhiếp phục lòng dục, và trong tương lai khát vọng nhiếp phục lòng dục; tha thiết Thiền tịnh, và trong tương lai khát vọng Thiền tịnh; tha thiết tinh cần tinh tấn và trong tương lai khát vọng tinh cần tinh tấn; tha thiết niệm tuệ và trong tương lai khát vọng niệm tuệ; tha thiết thể nhập tri kiến và trong tương lai khát vọng thể nhập tri kiến.
- Bảy pháp thành tựu là Tỷ-kheo có lòng tin, có giữ giới, có nghe nhiều, sống Thiền tịnh, tinh cần tinh tấn, có chánh niệm, và có trí tuệ.
- Bảy pháp thối đọa: đưa một nam cư sĩ đến thối đọa là quên, không đến thăm Tỷ-kheo; phóng túng nghe diệu pháp; không tu tập tăng trưởng giới; ít tin tưởng các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân nhập; nghe pháp với tâm cật nạn, tìm tòi các khuyết điểm; tìm người xứng đáng cúng dường ngoài Tăng chúng; tại đấy phục vụ trước.
- Chúng sanh sinh ra từ bụng mẹ,
* Giai đoạn đầu tiên là kalala, được mô tả là chất nhờn giống như giọt dầu mè dính trên lông con thú, rảy đi bảy lần chỉ còn một chút dính lại ở đầu lông.
* Bảy ngày kế tiếp, chất kalala phát triển thành abbuda, giống như nước máu dợt dợt.
* Bảy ngày kế tiếp, chất abudda phát triển thành pesi, giống như thịt rất mềm mại.
- Bảy sức mạnh là tín lực, tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
- Bảy Tài Sản/ thánh sản là tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.
- Bảy thứ lửa là lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa những vị đáng cung kính, lửa gia chủ, lửa các vị đáng cúng dường, lửa củi.
- Bảy thứ tưởng là tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngã trong khổ. (Nguồn: Xem mục 128)

+ Kinh Thiện Sanh: Đức Phật dậy về Đạo Đức và Bổn Phận:
+ Tránh 4 việc ác và 6 việc làm hao tổn tài sản
- Bốn nghiệp kết: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ
- Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy)...
- Sáu nghiệp hao tổn tài sản:
1. Đam mê rượu chè./
2. Cờ bạc./
3. Phóng đãng./
4. Đam mê kỹ nhạc./
5. Kết bạn người ác./
6. Biếng lười.

+ Bốn hạng kẻ thù và bốn hạng người đáng thân
+ Lễ bái sáu phương hay xây dựng một xã hội hạnh phúc
* BỔN PHẬN LÀM CON - Hiếu đứng đầu:
1. Không oán trách cha mẹ không có năng lực

2. Không oán trách cha mẹ hay cằn nhằn
3. Không oán trách cha mẹ mắng mình
4. Không oán trách cha mẹ chậm chạp
5. Không oán trách cha mẹ ốm yếu
II- BỔN PHẬN CHA MẸ VỚI CON
III- BỔN PHẬN GIỮA VỢ CHỒNG
IV- BỔN PHẬN DÒNG TỘC
V- BỔN PHẦN THẦY TRÒ
VI- BỔN PHẬN BẠN BÈ VÀ LÀNG XÓM

+ Quan hệ chủ tớ, trên dưới
+ Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn
Xem:
Kinh Thiện Sanh

+ Phật dậy người xuất gia: Dầu nói ngàn ngàn lời, nhưng không gì lợi ích, tốt hơn một câu nghĩa, nghe xong, được tịnh lạc.
"Này các Tỷ- kheo, có 10 đề tài nói chuyện này:
Câu chuyện về ít dục - biết đủ - viễn ly - về không tụ hội - về tinh tấn - về giới - về định - về tuệ - về giải thoát - về giải thoát tri kiến. ... Nếu các Thầy tiếp tục nói những câu chuyện liên hệ đến 10 đề tài để nói chuyện này, thời các Thầy có thể với ánh sáng của mình đánh bạt ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, những vật có đại thần lực, có uy lực, còn nói gì của các du sĩ ngoại đạo?"  (Nguồn: Kinh Pháp Cú, kệ số 100)
+ Lời Nói - Ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật (Tăng Chi Bộ_đoạn 28)
+ Chất Lượng Lời Nói_Đức Phật dậy
- Nói đúng lúc; - Nói chân thật; - Nói đúng pháp; - Nói đúng nghĩa; - Nói về tịch tĩnh; - Ưa nói về tịch tĩnh; - Hợp thời; - Hợp lý; - Khéo dạy, khéo la mắng. (Nguồn: mục 483- Tại đây)
+ Lời nói hay ngôn ngữ giao tiếp thiện lành: Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ngươi có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm.... ... cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng địa vô biên, không hận, không sân". ...
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. .... (Nguồn: 21.Kinh ví dụ cái cưa)
+ Phát Biểu theo Đời sống nhân sinh:
- Ý kiến phát biểu: Khi nhận xét, đánh giá về một sự vật, một con người, hay một hành động thì đó được gọi là “ý kiến”. Thí dụ: Nhận xét về mọi người hay vật, các ý kiến khác nhau không dễ chứng minh được là đúng hoặc sai.
- Nói theo Sự kiện: Là khái niệm về một sự thật và có thể chứng mình được là đúng hay sai. Thí dụ: Trong lý lịch tự khai, có thể kiểm chứng bằng các bằng chứng bằng thẩm tra hay hồ sơ đính kèm.
* Phỉ báng, nhục mạ hay vu khống: Dựng truyện, nói, phổ biến thông tin không đúng sự thật về một người có thể bị pháp luật trừng trị, ở VN đều là tội hình sự.
+ 13. Lời nói có ba loại:
− Những lời tầm phào (idle words) sẽ tạo ra hậu quả cho từng lời. Nếu lời lẽ tốt và nhân từ, không có gì cần được thực hiện. Nếu ngược lại, việc trả giá không thể bị trì hoãn lâu.
− Những lời ích kỷ (selfish words), được đưa ra với ý định mạnh mẽ, sẽ dựng nên một bức tường chia rẽ. Cần thời gian dài mới phá vỡ bức tường đó, và do đó mới phóng thích cái ý định ích kỷ được tích chứa. Hãy xem xét động lực của bạn, và tìm cách dùng các lời lẽ nào để hòa trộn sự sống nhỏ bé với mục đích rộng lớn của ý chí Thượng Đế.
− Lời thù ghét (word of hate), lời nói độc ác, vốn hủy hoại những người cảm nhận ảnh hưởng mạnh của nó, là câu chuyện phiếm độc hại, được truyền đi vì nó gây ra một sự chấn động – những lời này giết chết những sự thôi thúc mong manh của linh hồn, cắt tận gốc rễ của sự sống, và vì thế đưa đến cái chết.
Nếu được nói dưới ánh sáng ban ngày, chúng sẽ mang lại sự trừng phạt xứng đáng; khi được thốt ra và được ghi nhận là những lời dối trá, chúng củng cố cho thế giới ảo tưởng mà người nói đang sống trong đó, và ngăn giữ y thoát ra.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó. (LVHLT, 474)
+ Lời nói thiện - Nghệ thuật nói (Nguồn: TH Lời Phật dậy - Kinh A Hàm)
Bốn biện tài: pháp biện tài, nghĩa biện tài, từ biện tài, ứng thuyết (Vô ngại) biện tài.
Bốn thiện hành của miệng: 1. Nói sự thật, 2. Nói dịu dàng, 3. Không ỷ ngữ, 4. Không hai lưỡi.
Bốn thánh ngôn: 1. Thấy nói thấy 2. Nghe nói nghe 3. Hay nói hay 4. Biết nói biết.
+ Tu khẩu nghiệp - Những lời dạy của Thánh hiền: Mời xem Tổng hợp 45 lời Phật dậy

+ Trung đạo (Noble middle Path, Bát chánh đạo): Con đường hẹp giữa các cặp đối hợp mà chúng ta phải bước lên (nhờ thực hành đức phân biện và lòng vô dục) là con đường quân bình, thăng bằng, tức trung đạo. (ASCLH, 320)

+ Tu theo con đường trung đạo: Trích đoạn: ... Phương tiện vi diệu ban đầu:
A-nan muốn biết pháp môn phương tiện cho kẻ sơ cơ, đó là phương pháp dễ nhất để bắt đầu tu tập, phương pháp đơn giản nhất để bước vào công phu. Một số người liền phán xét:
“A-nan chỉ chú tâm vào việc học rộng nhớ nhiều và cuối cùng gần như bị kết thúc bằng đọa lạc.”
Họ nói: “Cho nên học nhiều chỉ vô ích. Tôi chỉ chú tâm chuyên vào việc tập định, chẳng cần học làm gì.”
Đây là quan điểm thiên lệch, không đúng với tinh thần Trung đạo. Đạo lý khế hợp với Trung đạo là không quá nghiêng lệch về bên phải và cũng chẳng nghiêng lệch về bên trái. Không coi trọng phía trước cũng chẳng coi trọng phía sau. A-nan bị phê phán vì đã chú tâm vào việc học mà xao lãng việc tu định. Còn nếu quý vị chuyên tập trung vào việc tu địnhxao lãng việc học thì trí tuệ không được phát sinh. Quý vị phải học tập để có được trí tuệ, đồng thời cũng phải tu định để có được định lực, hai năng lực ấy mới được hợp nhất. Tại Phật giáo Giảng đường chúng ta vừa nghiên cứu kinh điển vừa ngồi thiền. Bằng cách gạt ra ngoài tất cả mọi chuyện, không để cho tâm ý mình lang thang khắp mọi phương Nam Bắc Đông Tây, quý vị mới có thể hoàn toàn tập trung tâm ý mình vào Phật pháp được. Đừng để phí thời gian quý báu. Quý vị phải theo quy luật công phu tu tập hằng ngày.(Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q1 - HT Tuyên Hóa giảng)

+ Tu là Pháp trung đạo:
Làm Vừa Ðủ là Trung-Ðạo
Pháp môn tham thiền, cần hồi quang phản chiếu ở mọi thời mọi lúc một cách tự nhiên. Mình không được quá gấp rút, cũng không được quá chậm chạp; nên có câu nói rằng:
Gấp thì đứt, chậm thì lỏng
Không chậm, không gấp mới thành công.
Không gấp không chậm là trung đạo; đi đứng nằm ngồi đều không rời "cái nầy," xa rời khỏi "cái nầy" tức là sai lầm. "Cái nầy" là cái gì? Ðó chính là Trung-đạo liễu nghĩa.
Tham thiền không được đi vào cực đoan, không được quá lố cũng không được thiếu hụt; quá lố hay thiếu hụt đều không phải là Trung-đạo. Không rơi vào "không," cũng không rơi vào "hữu," không rơi vào hai biên tế, mới gọi là Trung-đạo. Nên nói rằng: "Trung-đạo chính là phi không phi hữu" (chẳng không mà cũng chẳng có), cũng có nghĩa là chân không diệu hữu. Không chấp trước chân không, nhưng cũng đừng quái ngại diệu hữu. Chân không diệu hữu đều không thể nắm bắt, cũng không thể xả bỏ. Nắm cũng không được, bỏ cũng không xong, đó chính là cảnh giới của chân không diệu hữu.
Người dụng công cần phải có thủy có chung (có đầu có đuôi) thì mới thành tựu được. Rằng: "Quán triệt thủy chung." Không thể một ngày tu rồi mười ngày nghỉ Ố nhất bộc thập hàn Ố nghĩa là một ngày hơ ấm, mười ngày bỏ lạnh. Không được gặp chuyện khó khăn liền thối lui, đi được nửa đường rồi bỏ cuộc, người như vậy là kẻ không có chí khí. Cổ nhân nói:
Tu Ðạo bất phạ mạn, chỉ phạ trạm.
Nghĩa là:
Người tu đạo không sợ chậm, chỉ sợ đứng một chỗ.
Lúc thường dụng công tham thiền, mình nên chú ý vào thoại đầu, dùng Kim-cang bảo kiếm (tức là trí huệ) để chặt hết vọng tưởng. Vọng tưởng hết, thì trí huệ hiện tiền. Có trí huệ quang minh, mới phá tan vô minh hắc ám. Vô minh phá trừ rồi, mình thoát khỏi Tam-giới, hết sinh tử, lúc đó mới ra khỏi vòng tròn định mạng (thập nhị nhân duyên).
Người dụng công tu đạo cần có tâm nhẫn nại. Bất luận trường hợp khó khăn gian khổ nào, cũng cần nhẫn thọ. Nhẫn nại thì mới tới được bờ bên kia. Vì vậy trong khi đả thiền thất đừng nên sợ khổ. "Khổ tận cam lai" nghĩa là đắng hết, ngọt lại. Nếu mình chưa lặn xuống tận đáy, mình sẽ không bao giờ vươn lên tận chóp đỉnh. Căn nhà cao hằng ngàn trượng đều từ nơi mặt đất xây lên, không phải xây lên trong hư không. Bởi thế cần hạ thủ tham thiền nơi chốn căn bản, tức là trừ bỏ vọng tưởng. Nếu mình có thể ngừng vọng tưởng, thì lúc đó:
Lòng trong suốt, trăng hiện bóng nước.
Ý an định, trời xanh không mây.
Khi lòng thơi thản, trăm nạn tiêu hết. Ý yên định, mọi chuyện an bình. Rằng:
Tâm ngừng, niệm dứt là giàu sang thật.
Lòng tư dục cạn, ruộng phước mới chân.
Tham thiền tức là dứt hết vọng, chỉ còn sự chân thật (khử vọng tồn chân). Cũng giống như sàng cát đãi vàng vậy; ở trong cát mà tìm vàng đó là chuyện rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu mình muốn tìm vàng thì phải tìm trong cát, tất phải có lòng nhẫn nại. Quý-vị có muốn hiểu rõ Phật tánh của mình không? Muốn được minh tâm kiến tánh chăng? Vậy thì phải nhẫn nại tu hành, nhẫn nại tham thiền, nghiên cứu, lâu dần thì tất nhiên sẽ quán thông, sẽ khai ngộ; "ồ! Thì ra là vậy."
Khi tham thiền thì mình đừng để ý đến chuyện khác, cứ một mực tham câu "Niệm Phật là Ai?" Phải tìm cho ra "Ai" đó, chỉ khi nào tìm ra rồi thì lúc đó mới ngừng tham. Công phu mình đã đến chỗ thuần thục rồi, thì tự nhiên sẽ gặt hái được kết quả tốt.
Khi ngồi trong thế kiết già, đem chân trái gác lên đùi phải, đem chân phải gác lên đùi trái. Ðó là vì chân trái thuộc về dương, chân phải thuộc về âm. Cho nên khi ngồi thiền, chân trái (dương) thì ở phía trên, chân phải (âm) thì ở phía dưới, đó cũng giống như là vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (tức là âm và dương). Tuy ý nghĩa như vậy; nhưng để cho tiện, quý-vị muốn bỏ chân trái ở dưới, chân phải ở trên cũng được; bởi vì Pháp thì không nhất định, tùy theo thói quen của mỗi người, không cần phải chấp trước một phương pháp, một tư thế cố định nào cả. Ðể chân trái ở trên chân phải là một phương pháp mà thôi, không phải là một quy luật tuyệt đối; rằng quý-vị phải tuân theo như vậy.
Nói tóm lại, kiết già phu tọa là thế mình dễ nhập định nhất. Nếu mình có thể nhập định trong lúc đi thì ngồi hay không ngồi đều không thành vấn đề. Cảnh giới lúc nhập định thì không có một chút vọng tưởng nào, trong tâm một niệm chẳng nẩy sinh, bụi trần chẳng nhiễm. Nếu có thể đi đứng nằm ngồi không sinh một niệm nào, không nhiễm ô bụi trần thì đó là lúc dụng công đấy. Không nhất định ngồi mới gọi là dụng công tham thiền. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)

+ CÁC ĐỊNH LUẬT: Gồm Luật Vũ Trụ/ Luật Siêu Nhiên và Luật Tự Nhiên và Luật Sinh Tồn
+ Luật tự nhiên: Ví như Luật Nhân Quả có ba phầnLuật Nghiệp Báo, Luật Duyên Sinh, Luật Duyên Hệ Duyên. Đó là các “Luật Tự Nhiên”. Các Luật này không phải được sáng tạo ra bởi một người nào hay do Đức Phật sáng tạo ra. Các 
Luật này được ẩn tàng hay có sẵn ngay khi không có Đức Phật trên thế gian này. Khi một vị Phật xuất hiện trên thế gian, Ngài khám phá ra luật ẩn tàng, làm hiển lộ hay dạy cho chúng sinh biết. .... Luật tự nhiên của vũ trụ giải quyết những vấn đề về sự đau khổ, bí mật của số mạng, thuyết tiền định của một vài Tôn giáo, ... Hiểu biết những định luật thiên nhiên này mang lại cho chúng ta sự an vui, niềm hy vọng, lòng tự tin và sự khích lệ tinh thần; giúp chúng ta trở nên tinh tấn, từ ái, nhiệt tâm, độ lượng, khoan dung, cảm thông và vị tha. Chúng ta ý thức được rằng không có gì hoàn toàn xấu, chỉ có sự tương đối mà thôi. (Tham khảo: Chương 6 - đạo Phật căn bản)
 A- LUẬT VŨ TRỤ HAY LUẬT SIÊU NHIÊN
I- Định luật gốc vũ trụ: Ba định luật lớn, là các định luật căn bản của vũ trụ, thuộc về hệ thống vĩ đại hơn (đã được tất cả các nhà thiên văn học nhận biết), mà chúng ta là một phần trong đó:
1– Định luật Tổng hợp (Law of Synthesis)
2– Định luật Hút và Đẩy (Law of Attraction and Repulsion)
3– Định luật Tiết Kiệm (Law of Economy):
+ Bốn Định luật phụ của Định Luật Tiết Kiệm hay Vật Chất là (LVLCK, 219):
1- Định luật Rung Động (Law of Vibration):
2- Định luật Thích Nghi (Law of Adaption):
3- Định luật Đẩy (Law of Repulsion):
4- Định luật Ma Sát (Law of Friction):
II- Bảy Định luật Thái Dương Hệ, đều có tương quan với 7 cõi, là (LVLCK, 574–596):
1/ Định luật Rung động (Law of Vibration): Đây là định luật của cõi thứ nhất
2/ Định luật cố kết (Law of Cohesion): Đây là một trong các định luật chi nhánh của Định luật Hút Vũ trụ… Đây là một trong các định luật quan trọng nhất của Thái Dương Hệ, nếu có thể phân biệt về bất cứ mặt nào; chúng ta có thể gọi đó là Định luật Kết hợp (Law of Coalescence).
3/ Định luật Phân rã (Law of Disintegration): Đây là định luật chi phối sự hủy diệt của hình hài để cho sự sống nội tại có thể tỏa chiếu đầy đủ. Định luật này là một khía cạnh khác của định luật Cố Kết
4/ Định luật Kiểm soát Từ Điện (Law of Magnetic Control): Định luật này là định luật căn bản chi phối Tam Thượng Thể Tinh thần. Định luật này kềm chế Chân Ngã trong linh hồn thể… Đó là định luật của cõi trực giác.
5/ Định luật Quy Định (Law of Fixation): Đây là định luật đang chi phối cõi trí, có sự tương ứng to tát hơn của nó trong Định luật Nghiệp Quả trên cõi trí Vũ trụ.
6/ Định luật Bác Ái (Law of Love): Định luật Bác ái thực ra chỉ là định luật của Thái Dương Hệ đang biểu hiện trên tất cả các cõi.
7/ Định luật Hy sinh và Tử Vong (Law of Sacrifice and Death): Định luật này chi phối sự phân rã từ từ của các hình hài cụ thể và sự hy sinh của chúng cho sự sống tiến hóa và được nối kết chặt chẽ trong sự biểu lộ của nó với cung thứ 7.
+ Danh sách Luật lấy từ Tooltip (bao gồm các Luật đã nêu trên)
Định luật Xung lực Từ điển
Định luật Hy sinh và Tử Vong
Định Luật Bác Ái/ (ĐL Đạo tràng). (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Quy Định
Định luật Kiểm soát Từ Điện
Định luật Phân rã
Định Luật Cố Kết
Định luật Rung động
Định luật Ma Sát
Định luật Đẩy
Định luật Thích Nghi
Định luật Tiết Kiệm
ĐỊNH LUẬT HÚT (ĐL Chính vũ trụ)
Định Luật Tổng Hợp
Định luật về Chất Liệu
Định luật về Bất Toàn
Định luật Vật chất
Định luật Tuần Hoàn
Định luật Tử Vong
Tương Tác - Định luật Tương Tác Rung động
Định luật Tương Đối
Định luật Tiết Điệu
Định luật Tiết kiệm
ĐỊNH LUẬT TIẾN HÓA THÁI DƯƠNG (ĐL Chính vũ trụ)
Định luật Tiến Bộ Tập thể
Định luật Thời Cơ
Định luật Thăng Tiến
Định luật Tác động và Phản Tác động
Định luật Quy Định
Định Luật Quân Bình
Định luật Phụng Sự
Định luật Phóng hiện Linh hoạt
ĐL PHẢN BỔN HOÀN NGUYÊN(Chân Thần)(ĐL Chính vũ trụ)
Định luật Phân Hủy
Định luật Nhân và Quả
Chuyển Hóa - Định Luật Chuyển Hóa Nghiệp Quả
Định luật Tất yếu Nghiệp quả
Định luật Trách nhiệm Nghiệp quả
Định luật Nghiệp Quả
ĐỊNH LUẬT MỞ RỘNG (ĐL Chính vũ trụ)
Định luật Lũy Tiến
Định Luật Luân Hồi
Định luật liên tục
Định luật Lặp lại
Định luật Hy sinh
Định luật Hoàn Thiện
Định luật Hệ Quả
Định luật Hấp dẫn Hỗ tương
Định luật về các Trường phá
Định luật Hợp nhất Thái dương (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Ái lực Hành tinh (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Trọng lực (Sức hút???) (ĐL Phụ của ĐL Hút)???
Định luật về Màu Sắc (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Hoa Sen (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định Luật Phát Xạ (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Từ điện (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật về tính dục/ Sex (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Tiến bộ (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Ái lực Hóa học (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Hấp dẫn
Định luật Cô Lập hay Giới Hạn
Định luật Báo Phục
Định luật Ái Lực
CHU KỲ - ĐỊNH LUẬT CHU KỲ - Chu Kỳ Thế Giới

+ Bệnh nghiệp Chướng: Nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống, cầu chết cũng chẳng thể được, đây là bệnh nghiệp Chướng. Chẳng có cách gì hết, thuốc men bác sĩ cũng chẳng giúp gì được, siêu độ, tiêu tai miễn nạn cũng chẳng được, tiêu chẳng nổi.

Nhờ sức lực của người khác tiêu không nổi, nhờ tự mình sám hối, sức mạnh của sự sám hối này rất lớn, rất lớn! Chúng sanh tạo ác nghiệp, đây là nguồn gốc thực sự của bệnh tật.
- Có tới mấy loại nguyên nhân của Bệnh:
1. Một loại là oán gia chủ nợ của họ lúc đó thưa kiện với Diêm La Vương, họ đến đó biện luận, sự việc này còn Chưa định án, nên bệnh này của họ chẳng thấy khỏe hơn, đây là một loại, đích thật có.
2. Loại thứ nhì Hoặc khó chết, tức là việc tôi vừa nói kẻ ấy còn phước báo, Chưa hưởng hết, phước báo của họ chẳng chịu xả, nếu họ chịu xả thì vấn đề sẽ được giải quyết nhưng họ chẳng chịu xả.
 - Họ vẫn còn muốn hưởng phước tiếp nên chỉ còn cách nằm trên giường bệnh mà hưởng, họ chẳng chịu xả, chẳng buông xuống nổi, đây là một loại.
3. Loại thứ ba là Hoặc là khó lành, trong loại này nhất định có một số nguyên nhân sai khác, bệnh của họ chẳng lành nhưng cũng chẳng chết được. (Xem nguồn: PS Tịnh Không)

+ Làm sao phân biệt được, thế nào là bệnh nghiệp chướng (Câu Hỏi 125):
Đáp: Là chứng bệnh rất kỳ quái, không nguyên cớ gì mà đột nhiên lại phát sanh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)

+ Tật Bệnh Cùng Nghiệp Chướng
Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa.
Đó đều là do nghiệp chướng quỷ tác quái. Bởi con người có nghiệp chướng từ lâu đời, cho nên đến thời đến lúc thì quỷ tới đòi nợ. Mà cũng bởi vì con người không đủ dương khí, tức âm thịnh dương suy, cho nên quỷ mới có thể tùy tiện được. Nếu quý vị thường không phiền não và trí huệ luôn hiện tiền, thì sẽ không có sơ hở để ma quỷ thừa cơ lợi dụng.
Nhưng một khi quý vị khởi dục niệm và vô minh, quỷ bèn thừa cơ hội mà lẻn vào một cách dễ dàng.
Từ đó suy ra, tám vạn bốn ngàn tật bệnh là đều có tiền nhân hậu quả cả. Thậm chí khi quý vị bị con muỗi cắn, con ong chích, cho đến tất cả những tai nạn mà quý vị gặp phải, đều là do nhân quả đan dệt với nhau. Người hiểu rõ đạo lý nầy thì một chút lầm lỗi cũng không dám làm, vì hễ có lỗi là tự mình phải chịu báo ứng. Nhất là những ai tu Lục Độ Vạn Hạnh, họ càng phải chân thật khi dụng công, chẳng chút tơ hào hư dối. Cho nên nói: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc,” gieo nhân không ngay thật thì gặt quả cong vẹo. Và đến lúc quả đã thành rồi thì có rất nhiều phiền phức.
Bởi vậy quý vị nên “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo nghiệp ương mới” và không được có một chút nào buông thả trong mọi hành động. Dù lúc nào hay nơi đâu, mọi người cũng nên đề cao cảnh giác. Nếu không làm hại người và chỉ làm lợi cho người, vậy là mình sẽ không sanh bệnh gì cả, mà ma quỷ cũng không tìm được mình đâu.
Nói đến quỷ thì hôm qua có con quỷ “khai ngộ” từ San Jose đến tìm tôi. Quỷ đó nhập vào một bà và bà tự cho rằng mình đã khai ngộ. .... Bà nầy đã quy y tôi năm 1980 .....
- Bà là sinh viên tốt nghiệp đại học ở Nam Dương. Có phải là bà không cần học mà được tốt nghiệp chăng? - Không phải!
- Tu đạo cũng như vậy. Ngay đến cửa mà bà còn chưa bước vào được, vậy nếu bà không tu hành thì làm sao đắc đạo chớ? Có phải bà không đi học mà biết được chữ không?.... (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng 30 / 7 / 1985)

+ Lục nghệ: ... Khổng Tử có ba ngàn học sinh. Ngài thông suốt lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, gọi là lục nghệ. Ðệ tử Ngài có bảy mươi hai người cũng thông suốt lục nghệ. Lễ tức là những lễ tiết, lễ nghi về hôn nhân, mai táng, hay là cúng tế. Nhạc tức là âm nhạc. Xạ tức là bắn cung. Ngự tức là cởi ngựa, đánh xe. Thư tức là ghi chép, lịch sử. Số tức là toán thuật. Mỗi một môn nào cũng phải hoàn toàn tinh thông, thì mới được gọi là một người hoàn toàn. (Nguôn: HT Tuyên Hóa - Xem tại đây)
+ Lục nghệ: Số là số học, cho nên nói: “Tri mỗ số, thức mỗ danh,” người biết số học thì sẽ hiểu văn học.
Hiện nay người ta chế ra hỏa tiễn, phi đạn vốn phát minh từ trong ngành toán số. Như việc dùng điện não computer để điều khiển hỏa tiễn bay bao xa cũng đều không ngoài môn toán số.
Cho đến như âm nhạc, thì trong thời tụng niệm của Phật Giáo là thuộc về âm nhạc. Cho nên hễ ai đánh mõ có nhịp nhàng tiết tấu sẽ có công đức. Còn nếu người nào gõ mõ với tâm bực dọc, hoặc gõ quá lớn tiếng, hoặc gõ quá nhỏ thì sẽ có tội. Tán tụng cũng như là dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Cho nên nếu một mặt cúng dường, một mặt lại giận hờn, quý vị nghĩ như thế Phật có hoan hỉ không? Dùng âm nhạc để cúng dường Phật vốn có rất nhiều công đức, nhưng khi phát giận quý vị không tán tụng được, mà lại còn dộng chuông gõ mõ loạn xạ cả lên, vậy tức là có tội rồi. .... (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị 6)
+ Các nghành Nghề chính theo Đào tạo đại học:
01. Chăm sóc và thể dục thẩm mỹ
02. Du lịch và dịch vụ nhà hàng khách sạn
03. Giáo dục và đào tạo
04. Máy tính và công nghệ thông tin
05. Khóa học xã hội và truyền thông
06. Khoa học ứng dụng và cơ bản
07. Kinh doanh và quản lý
08. Kiến trúc và xây dựng
09. Kỹ thuật
10. Luật
11. Nghệ thuật sáng tạo và thiết kế
12. Nhân văn
13. Nông nghiệp và thú ý
14. Y tế và sức khỏe (Nguồn: Nghành nghề - đào tạo đại học)

+ Câu 03 Chú Đai Bi: Bà lô yết đế thước bát ra da (Thầy Hằng Trường giảng là “Bà lô kiết đế thước bát ra da”)

Bà lô yết đế có nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được dịch là “quang” từ danh hiệu Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh giới được quán chiếu, được quán sát đến.

Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”.

Ý nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Bồ – tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại. Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Thần Chú Đại Bi

+ “Bà lô kiết đế thước bát ra da”:  Mình nói tới ý nghĩa của chữ “Quán”.  Quán là lắng nghe, và chng nghim, cm nghim li mà không b kở