+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI209-210
- Đức Tính đặc biệt: Sùng tín, chuyên tâm, lòng bác ái, sự dịu dàng, trực giác, lòng trung thành, lòng tôn kính.
- Tật xấu của Cung: tình yêu ích kỷ và ghen tuông, quá dựa vào người khác, tính thiên vị, [trang 209] tự dối mình, tính bè phái, mê tín dị đoan, định kiến, các kết luận quá nhanh chóng/ vội vàng, tính giận dữ nóng nảy/ cuồng nộ.
- Mô tả thêm Tật xấu: Lòng sùng tín cứng nhắc, chủ nghĩa lý tưởng, bị ảo cảm, tự lạm dụng, giận giữ, điên cuồng, cuồng tín. Người tử vì đạo/ Nạn nhân. Rế bị ảnh hưởng bởi hành vi đám đông, độc ác. (Trích từ năng lượng của 7 cung/ Khóa học GQ/ MF)
- Các Đức Tính cần có: Sức mạnh, sự hy sinh, sự thanh khiết, chân thật, khoan dung, thanh thản, sự cân bằng và có lương tri.
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung.
+ Phẩm tính Cung Năm: Kiến thức Cụ thể, Khoa học
- Ưu điểm: Phát biểu hết sức chính xác, công bằng (không thương xót), bền chí, lương tri, chính trực, độc lập, trí năng sắc sảo, suy nghĩ thẳng thắn, muốn hiểu biết và thấu đáo.
- Nhược điểm: Chỉ trích gắt gao, thái độ hẹp hòi, kiêu căng, không tha thứ, thiếu thông cảm và tôn kính, thành kiến.
+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI 207-8
- Đức Tính đặc biệt: Các phát biểu hoàn toàn chính xác, sự công bằng (không có lòng thương xót), sự kiên trì, lương tri, tính ngay thẳng, tính độc lập, trí tuệ sắc sảo. - Tật Xấu của Cung: tính phê bình khắc nghiệt, hẹp hòi, kiêu ngạo, tính không khoan nhượng, thiếu sự cảm thông và tôn kính, thành kiến.
- Đức Tính cần có: Lòng tôn kính, sự tận tâm, thông cảm, tình yêu, tư tưởng phóng khoáng.
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung (Xem: tóm lược về bảy cung)
+ Cung 4 là Cung Hài Hòa thông qua Xung Khắc, với màu đặc trưng của nó là màu vàng. Nhiều người có thể trí ở cung 4.
- Cảm xúc <> trực giác, tinh thần chiến binh, “phát triển” thông qua đau khổ, khủng hoảng, đấu tranh liên tục. Khuynh hướng hòa giải, yêu vẻ đẹp / phim / nghệ thuật / giải trí / sáng tạo. ( Năng lượng 7 cung - GQ/MF )
+ Phẩm tính Cung Bốn: Điều hòa qua Xung độ.
- Ưu điểm: Tình thương mạnh mẽ, đồng cảm, can đảm về thể chất, rộng lượng, cởi mở, trí tuệ và nhận thức nhanh nhạy.
- Nhược điểm: Lấy cái tôi làm trung tâm, âu lo, không chính xác, thiếu can đảm về đạo đức, nhiều ham muốn, biếng nhác, ngông cuồng.
+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI 205-7 (Xem Bảy đấng ....)
- Các Đức Tính đặc biệt: Tình cảm mạnh mẽ, sự thông cảm (Cảm tình), can đảm thể chất (Liều mạng), lòng quảng đại (Rộng lượng), sự tận tâm (Sùng tín), nhanh chóng (Nhanh trí) về trí tuệ và nhận thức mau lẹ.
- Các Tật Xấu của Cung: Ngã chấp (tự cho mình là trung tâm), hay lo lắng, thiếu chính xác (Sai sót), thiếu can đảm về đạo đức, nhiều đam mê (niềm đam mê mạnh mẽ), lười biếng/ Thụ động, phung phí/ Vô độ.
- Các Đức Tính cần có: Trầm tĩnh (Sự bình thản), tự tin, tự kiềm chế, Trong sạch (thanh khiết), vị tha, sự chính xác, sự thăng bằng về trí tuệ và đạo đức (Sự quân bình).
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung.
+ Cung 1 - Ý chí, Quyền lực: Y là nhà lãnh đạo bẩm sinh trong bất kỳ và trong mọi sự nghiệp công....; Y có thể là kẻ trộm hay vị thẩm phán lên án y, nhưng y luôn ở đầu.
- Áo choàng màu xanh của Ngài che đậy mục đích muôn đời của Ngài, nhưng trong lúc mặt trời mọc và lặn, thiên thể màu đỏ của của Ngài được nhìn thấy.
- Lời Ngài là quyền lực.
- Ánh sáng của Ngài là điện. Sét là biểu tượng của Ngài.
- Ý chí của Ngài ẩn trong dự định của tư tưởng Ngài. Không có gì được tiết lộ.
+ Các Đức tính và các Tật xấu EPI 201-2
- Các Đức Tính đặc biệt của Cung 1: Sức mạnh, lòng can đảm, sự kiên định, sự trung thực, phát sinh từ sự vô úy tuyệt đối, năng lực cai trị, là khả năng nắm bắt những vấn đề lớn theo cách thức nhìn xa trông rộng, và năng lực xử lý con người và các biện pháp.
- Các Tật Xấu của Cung: Tự cao, tham vọng, bướng bỉnh, cứng rắn, kiêu ngạo, ham muốn kiểm soát người khác, ngoan cố, giận dữ.
- Các Đức Tính phải có: Sự dịu dàng, khiêm tốn, sự cảm thông, lòng khoan dung, kiên nhẫn. + Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung (Nguồn: Xem Bảy đấng kiến tạo bảy cung GQ1 ...)
+ Cung thông tuệ linh hoạt - Cung 3: như Kính vạn hoa - Sự liên tục chuyển động, chuyển động không ngừng, họ thường bận rộn và hoạt động không ngừng nghĩ, họ khôn khéo, khôn ngoan, kinh doanh, quyền biến, và đôi khi quĩ quyệt (Người bán xe cũ họ nghiên cứu tâm lý khách hàng rất kỹ và đánh vào tâm lý đó).
+ Cung 3 - Cung Tiền bạc, Tài chính: Cung 3 cũng cai quản tiền bạc và vàng, biểu tượng các đồng tiền vàng và bộ óc thông minh, khéo nói (truyền thông), hùng biện. Họ thông minh, khôn ngoan, hay ở mức thấp hơn là quỉ quyệt, và có một đầu óc nhạy bén. Là Doanh nhân tài giỏi, hoặc ở cấp cao hơn là Phụng sự rộng mở. Ảo cảm con nhện tại trung tâm. Hình chiếc máy dệt biểu tượng cho việc xử lý và tạo dựng những hình tướng phức tạp.
+ Cung 3 - Ảo cảm: Đặc trưng cung 3 là “Vị Thần trong cỗ máy”, họ luôn cho mình khả năng giải quyết mọi chuyện, mọi vấn đề. Còn ảo cảm con nhện ở trung tâm là ảo cảm của một người thích xen vào giải quyết tất cả chuyện của người khác, không thuộc trách nhiệm của mình. Cả hai đều là ảo cảm đặc trưng của cung 3.
+ Nhà Huyền thuật chịu ảnh hưởng của cung 7 và cũng của cung 3 (Cung 3 nói lên tính chất tiêu cực là xảo thuật, dối trá, giống như một người bán xe cũ)
Nhân vật tiêu biểu: Tích cực: Steve Jobs, Bill Gates, Plato, Hawking, Einstein; Tíêu cực: Bê bối tình dục, Madoff - Gian lận tài chính (50 Tỷ USD). Nguồn: (TLHNM 2)
+ Bản năng: Đó là lãnh vực của mặt trăng trong Chiêm tinh học. (Chân Sư DK: Phản ứng theo bản năng, nghĩa là không suy nghĩ, không giám sát hoặc kiểm soát, hoàn toàn tự động_Theo Tooltip "Phản ứng theo bản năng")
+ Bản năng nằm dưới trình độ của ý thức, nhưng bảo tồn và chi phối đa số các thói quen và sự sống của cơ thể. Nhiều lối sống theo tình cảm bị chi phối như thế. Bản năng kềm chế xuyên qua bí huyệt nhật tùng (solar plexus) và các bí huyệt thấp. (TLHNM–II, 232)
+ Bản năng tức là các kinh nghiệm được tích lũy lại do di truyền trong các hình hài mới (new forms). (MTNX, 211)
+ Năm bản năng chính vượt chội theo Tâm Lý Học
1. Bản năng tự bảo toàn (instinct of self – preservation) có nguồn gốc của nó trong nỗi sợ hãi bẩm sinh về cái chết; do có sự sợ hãi này mà nhân loại đã chiến đấu theo cách của nó đến mức hiện tại của nó về tuổi thọ và sức chịu đựng. Các ngành khoa học bận tâm đến việc bảo toàn sự sống, kiến thức y học hiện đại, và những thành tựu của sự tiện nghi văn minh, tất cả đã phát triển từ nỗi sợ hãi cơ bản này. Tất cả đã hướng tới sự tiếp tục tồn tại của cá nhân, và hướng đến điều kiện duy trì sự tồn tại (being) của y. Nhân loại tiếp tục tồn tại, với tư cách một giống loài và một giới trong thiên nhiên, là một kết quả của xu hướng sợ hãi này, phản ứng có tính bản năng này của đơn vị nhân loại đưa đến sự tự tồn mãi mãi (selfperpetuation).
2. Bản năng giới tính (instinct of sex), có gốc rễ chính của nó trong sự sợ hãi về sự tách biệt và sự cô lập, và trong một sự nổi dậy chống lại tính đơn nhất chia rẽ trên cõi trần, chống lại sự cô độc (aloneness); và nó đã dẫn đến việc tiến tới trước của nhân loại và sự tiếp tục tồn tại và sự nhân giống của các hình hài mà nhờ đó nhân loại có thể đi vào sự biểu lộ.
3. Bản năng sống bầy đàn (herd instinct) có thể dễ dàng được thấy là có gốc rễ của nó trong một phản ứng tương tự; vì cảm giác an toàn và vì sự an ninh được bảo đảm và được tin chắc – dựa trên những tập hợp về số lượng – con người đã luôn luôn tìm đến loại riêng của họ và sống thành bầy nhóm với nhau để phòng vệ, và để ổn định kinh tế. Nền văn minh hiện đại của chúng ta là kết quả từ phản ứng do bản năng này của nhân loại nói chung; các trung tâm rộng lớn của nó, các thành phố khổng lồ và các khu chung cư tập trung của nó đã xuất hiện, và chúng ta có việc sống theo bầy đàn hiện đại, được đưa đến bậc thứ n (nth degree).
4. Bản năng lớn thứ tư, là bản năng tự khẳng định (selfassertion), cũng dựa trên sự sợ hãi; nó bao hàm sự sợ hãi của cá nhân rằng y sẽ không nhận thức được và như thế mất đi nhiều thứ mà nếu không thì sẽ thuộc về y. Theo thời gian qua, sự ích kỷ của nhân loại đã phát triển như thế đó; ý thức về tính hám lợi của nhân loại đã phát triển và năng lực nắm lấy cơ hội đã xuất hiện (“ý muốn quyền lực” dưới hình thức này hoặc hình thức khác), đến ngày hôm nay chúng ta có chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ, và ý thức tích cực về tầm quan trọng vốn đã tạo ra nhiều sự rắc rối về kinh tế và quốc gia thời hiện đại. Chúng ta đã vun trồng tính tự quyết, tính tự khẳng định và tính tư lợi, cho đến khi chúng ta bị gặp phải một khó khăn hầu như không thể vượt qua. Nhưng ngoài mọi điều đó, nhiều điều tốt lành đã đến và sẽ đến, vì không có cá nhân nào có giá trị cho đến khi y nhận thức giá trị đó cho chính y, và lúc bấy giờ, một cách dứt khoát, y hy sinh các giá trị đã hoạch đắc cho lợi ích của tổng thể.
5. Đến lượt bản năng tìm hiểu (instinct to enquire) được dựa trên sự sợ hãi cái không biết, nhưng ngoài sự lo sợ này, đã xuất hiện – như là kết quả của cuộc tìm hiểu lâu đời – những hệ thống giáo dục và văn hóa và toàn bộ cấu trúc về nghiên cứu khoa học của chúng ta hiện nay.
Những xu hướng, dựa trên sự sợ hãi (vì con người vốn thiêng liêng) đã tác động như một sự kích thích phi thường của toàn bộ bản chất của con người, và đã đưa y tiến tới đến trình độ hiểu biết và hữu dụng rộng rãi hiện tại của y, chúng đã tạo ra nền văn minh hiện đại của chúng ta với mọi khuyết điểm của nó, và tuy thế, với mọi thiên tính được biểu thị của nó. Từ những bản năng này được đưa tới vô cùng tận, và từ tiến trình chuyển hóa của chúng thành các tương ứng cao hơn của chúng, Sự nở hoa trọn vẹn của sự biểu lộ của linh hồn sẽ xuất hiện. Tôi muốn nêu ra những điều sau đây:
- Bản năng tự bảo toàn tìm được tuyệt đỉnh của nó trong tính chất bất tử chắc chắn, và về việc này, công việc mà các nhà duy linh (spiritualists) và các nhà sưu khảo tâm linh đảm trách theo các thời đại là phương pháp tiếp cận và sự đảm bảo chắc chắn.
- Bản năng phái tính đã thể hiện và tìm thấy tuyệt đỉnh hợp lý của nó trong mối quan hệ − được nhận thức một cách hữu thức – của linh hồn và thể xác. Đây là ý chủ đạo (keynote) của chủ nghĩa thần bí và tôn giáo, mà ngày nay, cũng như luôn luôn, là sự biểu lộ của Luật Thu Hút (Law of Attraction), không phải khi nó tự thể hiện qua hôn nhân ở cõi trần, mà khi nó tìm thấy tuyệt đỉnh của nó (đối với con người) trong cuộc hôn nhân siêu phàm được tiến hành với mục đích hữu thức giữa linh hồn dương với sắc tướng âm và có tính tiếp thu.
- Bản năng sống bầy đàn tìm thấy tuyệt đỉnh thiêng liêng của nó trong một ý thức tập thể được khơi hoạt, ngày nay điều đó được chứng tỏ trong xu hướng chung hướng tới những sự pha trộn (amalgamations), và sự dung hợp và trộn lẫn rộng rãi vốn đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Nó thể hiện trong khả năng suy tư dưới dạng chủ nghĩa quốc tế, các quan niệm phổ biến, mà cuối cùng sẽ dẫn đến việc thiết lập tình huynh đệ đại đồng.
- Bản năng tự khẳng định, đến lượt nó, đã cung cấp cho nền văn minh hiện đại của chúng ta chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ của nó, sự sùng bái thần tượng, và tạo ra sự thờ cúng tổ tiên và tôn sùng anh hùng. Tuy thế, nó đang dẫn tới sự khẳng định về Bản Ngã (Self), về Chủ Thể Cai Trị thiêng liêng ở nội tâm, và từ khoa tâm lý học mới mẻ nhất của chúng ta, sẽ xuất hiện một kiến thức về Chân Ngã (spiritual Self) tự tin và chi phối, và cuối cùng dẫn đến sự biểu lộ của giới linh hồn trên trần thế.
Và điều gì về bản năng cần tìm hiểu? Được chuyển hóa thành sự nghiên cứu thiêng liêng và được biến đổi bởi việc áp dụng ánh sáng linh hồn trong lĩnh vực điều nghiên, chúng ta sẽ có nhân loại được tiến vào Phòng Minh Triết, và như thế con người sẽ bỏ lại sau những kinh nghiệm của Phòng Kiến Thức. Các trung tâm giáo dục lớn của chúng ta sẽ trở thành các trường học cho sự phát triển nhận thức trực giác và hiểu biết tâm linh. (LVHLT, 629)
+ Phẩm tính bẩm sinh quyết định đời sống: Trong thái [186] dương hệ này, tất cả đều vận hành theo đại luật hấp dẫn, thế nên, rất có thể sự chọn lựa của chúng ta tùy theo mức độ rung động, màu sắc và âm điệu của chúng ta. Ý chí tự do vĩ đại hơn của hệ vũ trụ cũng có giới hạn, giống như ý chí tự do của hệ thái dương mà chúng ta là một thành phần, và ý chí tự do của chính con người. Chiều hướng bước tiến tương lai của chúng ta sẽ tùy theo phẩm tính bẩm sinh...... (Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)
+ Kinh là gì: ví dụ: Bát nhã ba la mật đa là pháp. Tâm là ví dụ. Kinh là bộ kinh này. Kinh có thông danh và biệt danh. Thông danh là thống nhiếp hết mọi bộ kinh. Biệt danh là mỗi bộ kinh có danh tự riêng biệt, những bộ kinh khác không có tên giống nhau. Tâm kinh bát nhã ba la mật đa là biệt danh của bộ kinh này. Bộ tâm kinh bát nhã ba la mật đa này thuộc trong bộ Bát Nhã, biểu thị tâm trong tâm.
Sao gọi là kinh ? Kinh tức là kinh pháp thường bất chuyển, không thể thay đổi. Một chữ cũng không thể bỏ được, hay cũng không một chữ được. Đó là kinh pháp thường bất biến.
Lại "kinh" là một con đường, nghĩa là tu hành phải đi qua một con đường nhất định. Chư vị có muốn tu hành à ? Nhất định chư vị phải đi trên đường đạo này. Nếu chư vị không đi trên đường đạo này thì sẽ bị lạc vào rừng rậm hoang vu. Chư vị phải nên đi trên đường tu hành thì không bị lạc đường. Ngày này qua ngày nọ đều được bình an, sáng suốt. Sao gọi là đi lạc ? Vì chư vị xưa nay quên mất, không biết tụng niệm kinh này. Qua ba bốn tháng, không tụng niệm nên quên mất, mới đi lạc.....(HT Tuyên Hóa giảng Tâm Kinh Bát Nhã)
+ Phật Giáo là Pháp chân thật, chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay mê đắm trong sanh tử lục đạo, Phật lay tỉnh chúng ta, dạy chúng ta phải giác ngộ. Chân Chánh Giác ngộ thì Ngã chẳng còn nữa, bạn mới có thể thoát lìa tam giới, lục đạo, chẳng còn Ta nữa.
Cho nên tôi khuyên mọi người, đừng có Ta, chúng ta sống trên Thế Giới này để làm gì? Để diễn kịch. Diễn cách nào?
- Kinh Điển chính là kịch bản, y theo kịch bản mà diễn thì sẽ chẳng có ý niệm về Ta.
Chiếu theo kịch bản, kịch bản dạy chúng ta làm như thế nào, hoàn toàn y theo kịch bản để diễn kịch. Hết thảy Kinh do Phật nói đều là kịch bản, Phật diễn theo bản Kinh ấy, Bồ Tát diễn theo bản Kinh ấy, do đó họ trên thế gian này gọi là du hý thần thông.
Nếu bạn hỏi các Ngài có ý tứ về tự kỷ về Ta, về mình không?
Chẳng có.
Kinh do Phật nói ra, đó có phải là ý tứ của Phật không? Không phải. Trong Kinh Bát Nhã, Đức Phật đã phủ nhận, Phật chẳng giảng Kinh, chẳng có ý tứ của riêng mình.
Vậy Kinh Điển rốt cuộc là gì? Kinh Điển là trong tự tánh vốn sẵn như vậy.
Thế nên chúng ta sinh sống như vậy là sống đời sống của tự tánh vốn có, đời sống vốn có của tự tánh tức là đời sống của Phật, Bồ Tát, làm gì có ý tứ về mình. Vĩnh Gia đáp Lục Tổ rất hay Phân biệt cũng chẳng có Ý, chấp trước cũng chẳng có ý, Phân biệt, chấp trước chẳng phải ý tứ của mình, ý tứ gì? Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức.
- Chúng sanh phân biệt như thế nào, thì tôi noi theo phân biệt như vậy, Chúng sanh chấp trước như thế nào thì tôi noi theo chấp trước như vậy, Tự tôi chẳng có phân biệt và cũng chẳng có chấp trước, do đó phân biệt, chấp trước đều chẳng có ý, như vậy tự tại biết bao! Vô ngã, vô ngã thì sẽ chẳng có sanh tử, tất cả đều là biểu diễn, là diễn kịch.
Phải hiểu đạo lý này, đây mới là chân tướng sự thật của nhà Phật, và cũng là chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh. Nếu bạn chẳng chịu diễn kịch thì sẽ phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi. (Nguồn: PS Tịnh Không)
+ Con đường đạo: Là Pháp tu TRUNG ĐẠO - Là con đường Chánh đạo mà chính Đức Phật đã dậy qua nhiều Kinh văn Phật Giáo. Là con đường như Lưỡi dao cạo thật khó đi. Quí vị phải cân bằng giữa Học Giáo lý Kinh Văn Phật pháp và tu tập thật hành hàng ngày để làm người Quân tử. Nên nghiêm trì giới luật, thực hành Thập thiện nghiệp đạo và Bát Chánh đạo. Thực hành Tham thiền tu Định lực hàng ngày để phát triển trí huệ, như thế mới có thể tránh rơi vào Tà đạo/ Ngoại đạo mà trở lên rời xa Chánh đạo, sẽ mãi vẫn ở trong vòng Luân hồi khổ đau, rất đáng sợ. Có câu "Thân người khó được - Phật Pháp khó nghe". Quí vị cần học hiểu để biết rằng ngàn vàng chẳng mua được trí tuệ chân thật, chỉ có tu hành mới mong thành tựu. Như HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, là Vạn vật đồng nhất thể, hiểu là trong nghe giảng Kinh và tu tập, quí vị nên nhất tâm hòa làm một với người giảng hay vị Thầy Chánh đạo mình hướng tới, ví như đọc Chú Đại Bi thì Tâm làm một với Bồ Tát Quan Thế Âm - Gọi là tu Hóa thân Bồ Tát Quan Thế Âm, như vậy mới đúng Pháp và thu được nhiều thành tựu nhanh chóng (Lời NTH)
+ Các biểu tượng cần suy ngẫm kỹ: Giờ đây mới rõ ràng là tại sao có nhiều chú trọng đến việc nghiên cứu các biểu tượng, và tại sao người ta khuyến khích các môn sinh hãy suy gẫm và tham thiền về các thiên tượng thái dương hệ và vũ trụ. Điều đó chuẩn bị cho họ thấu hiểu và ghi nhớ trong tâm các biểu tượng và công thức thể hiện kiến thức mà rốt cuộc nhờ đó họ có thể làm việc. Các công thức này dựa trên chín biểu tượng được biết hiện nay:
1. Các dạng thập tự giá.
2. Hoa sen.
3. Tam giác.
4. Khối vuông.
5. Hình cầu và điểm.
6. Tám hình thể động vật: dê, bò mộng, voi, người, rồng, gấu, sư tử, và chó.
7. Đường thẳng.
8. Một số thiên tượng của Hoàng đạo, do đó cần phải nghiên cứu khoa chiêm tinh.
9. Cái ly có chân hay chén thánh.
Tất cả các biểu tượng này liên kết, xen lẫn nhau, hoặc dùng một phần, được phối hợp, để phát biểu một trong bảy Bí nhiệm. Điểm đạo đồ phải nhận ra chúng bằng thị giác cũng như thính giác, và dùng nỗ lực của ý chí để gắn ghi chúng trong trí nhớ không thể xoá nhoà. Có ba cách giúp y thực hiện điều này: Thứ nhất, bằng việc rèn luyện trước đó trong một thời gian dài; tất cả những người chí nguyện đều có thể bắt đầu làm việc ngay từ bước hiện tại, và khi học cách ghi khắc chính xác các chi tiết vào trí nhớ, họ đặt nền tảng cho sự lãnh hội chính xác được ngay những điều Đấng Điểm Đạo bày tỏ cho họ; thứ hai, nhờ đã tự phát triển năng lực hình dung lại những điều đã có lần họ thấy. Ở đây, chúng ta thấy rõ tại sao các vị thiền sư minh triết đã chú trọng vào khả năng kiến tạo thận trọng các hình tư tưởng.... (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại ...)
+ Biểu tượng: Là dấu hiệu (sign) thấy được và lộ ra bên ngoài của một thực tại tâm linh bên trong, được thể hiện trên cõi trần bằng mãnh lực của sự sống chứa đựng bên trong. (VMCQG, 119)
+ Biểu tượng: “Trong một biểu tượng có ẩn tàng sự che giấu hoặc sự mặc khải” – Carlyle.
1./ Các biểu tượng đều nhắm vào:
a) Người ít tiến hóa. Chúng dạy ra các đại chân lý dưới hình thức đơn giản.
b) Đa số nhân loại. Chúng giữ cho chân lý được nguyên vẹn và biểu hiện các sự kiện trong vũ trụ.
c) Các môn đồ của các Chân Sư. Chúng giúp mở mang trực giác.
2./ Các sách nói về biểu tượng trong các văn khố của Chân Sư được dùng cho việc giáo huấn. Các sách này được giải thích:
a) Bằng màu sắc của chúng.
b) Bằng vị trí của chúng, nghĩa là phía bên trên, nằm trên và bên dưới một đường thẳng.
c) Bằng sự tiếp cận của chúng với nhau.
d) Bằng chìa khóa của chúng
Một trang giấy có thể đọc được theo 4 cách:
1. Từ trên xuống dưới ... tiến hóa giáng hạ (involution)
2. Từ dưới lên trên ... tiến hóa thăng thượng (evolution)
3. Từ phải sang trái ... các chu kỳ lớn vv...
4. Từ trái sang phải ... các chu kỳ nhỏ.
+ Dĩ thái - Tứ đại: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là phong, hỏa, thủy, địa. (LVLCK, 43)
+ Dương ..... Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
+ Hành Khí: Tập trung năng lượng vào các ý tưởng chưa được thực hiện; Có thể là người mơ mộng không thực tế; Khả năng buông xả; Thân thiện nhất trong tất cả các yếu tố; Có thể đánh giá quá cao các khả năng trí tuệ; Cần phải có khoảng cách và tính khách quan để khám phá chính mình
+ Các Dấu hiệu Không khí: Song Tử, Thiên Bình, và Bảo Bình; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Giao tiếp. Thông minh. Thích làm việc về mặt tinh thần. Nắm bắt ý tưởng nhanh chóng. Có thể nói hoặc viết hiệu quả. Có quan điểm hợp lý. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ Không khí (Air): Không khí chỉ là chất dĩ thái phức tạp và đã biến phân. (GLBN II, 258)
+ Phong (Air; không khí): Là biến phân (differentiation) của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi trực giác, cõi Bồ Đề. (LVLCK, 43)
+ Không Khí hay Không Gian: Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ 522. PHONG GIỚI - Thế nào là phong giới? nội phong giới và ngoại phong giới - Đức Phật dậy
Nội phong giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Đó là gió đi lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang, gió co thắt lại, gió như dao cắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, được chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội phong giới.
Ngoại phong giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Nguồn: mục 522- (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ Phong thần - Thần gió: Tối thắng dũng mãnh đại phong thần - Nhà xập cây ngã rất kinh người ... Sân hận chiêu cảm tự trầm luân.
Giảng giải: Tối Thắng là tên của vị phong thần (thần gió). Vị thần này khí lực rất lớn, thường thường muốn tranh thắng, rất mãnh liệt, làm việc rất nhanh. Gió có nhiều loại như gió mát, gió ấm, gió này chẳng hại người, lúc thái bình thịnh thế, khi thì mưa, khi thì gió, thời tiết khí hậu điều hòa.
... Chủ thần gió, có thế lực rất lớn, ra oai rất là lợi hại, nhà cửa phòng ốc đều thổi ngã xập, cây cối trốc gốc, khí lực rất mãnh liệt, cho nên nói : ‘’Tối thắng dũng mãnh đại phong thần.’’ Ai có nóng giận tức là thần gió này trợ giúp. Cho nên nói: ‘’Nhà xập cây ngã rất kinh người.’’
‘’Tam Thiền đều sợ tai nạn này.’’ Lửa thiêu đốt đến cõi trời Sơ Thiền, Nước tràn ngập đến cõi trời Nhị Thiền, Gió thổi tan cõi trời Tam Thiền.
... Nạn gió này làm thế nào mà chiêu lại? ‘’Sân hận cảm chiêu tự trầm luân.’’ Vì làm người thì sự nóng giận quá lớn, tuy nhiên tu phước được sinh về cõi trời, nhưng phải thọ thứ quả báo nạn gió này. Gốc sân hận mà không đoạn trừ thì kết quả phải thọ quả báo nạn gió đó. (Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
===> Phong khí tức là Gió, là Không khí, là Hành Khí, Không gian, là Phong đại, Phong giới.
+ Tu sai pháp - Không như pháp thọ trì: Những người tu thiền định thường có ba trạng thái trong lúc dụng công, đó là Hôn trầm, Tán loạn, Vô ký. Hôn trầm nghĩa là bị buồn ngủ, ngủ gục, tâm trí không kiểm soát tư tưởng. Tán loạn: Trong lúc chuyên chú theo dõi nội tâm nhưng nhiều loại vọng tưởng khởi lên liên tục, làm cho tâm không định tỉnh được. Vô ký: Nghĩa là không bị hôn trầm, tán loạn, nhưng vọng niệm sinh khởi hành giả không phân biệt là đúng với Pháp tu hay chẳng đúng với Pháp tu, như thế gọi là vô ký. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Văn Thù Sư Lợi "Vấn Tạp Pháp": Phật dậy đại khái, như người thắp đèn để sáng phòng, con thiêu thân chết chẳng do lỗi nơi người thắp đèn. Như vậy, đức Phật giảng pháp cũng thế, người nặng nghiệp nghe pháp chẳng hiểu, do ác nghiệp ngu si dụng pháp sai có thể bỏ tu, hoàn tục, bị họa, hoạn nạn hay chết ...... nhưng về lâu dài muôn kiếp luân hồi thì vẫn là được Phật độ.... (Nguồn: Văn Thù Tạp Vấn Phật)
+ Tu hành sai Pháp - Tu sai pháp rất nguy hiểm (Ví dụ con rắn)
Chư Tỷ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng. Họ học các pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nắm giữ sai lạc các pháp.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước, đi khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn, và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi. Con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một phần nào khác của cơ thể, và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì nắm bắt con rắn một cách sai lạc. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, ở đây, một số người ngu si học pháp... Chư Tỷ-kheo, vì sự chấp thủ các pháp sai lạc.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một số Thiện nam tử học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quán sát, nên trở thành rõ ràng. Họ học pháp không vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy, vì khéo nắm giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước đi khắp chỗ để tìm rắn nước.
Người đó thấy một con rắn nước lớn. Người đó có thể khéo đè con rắn nước với cây gậy có nạng. Sau khi khéo đè với cây gậy có nạng, người đó có thể khéo nắm giữ cổ rắn. Chư Tỷ-kheo, dầu cho con rắn nước ấy có thể cuốn thân nó xung quanh tay, hay cánh tay, hay một thân phần nào khác, người đó cũng không vì nhân duyên ấy đi đến chỗ chết hay đến sự đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ con rắn nước vậy.
Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, ở đây, một số Thiện nam tử học pháp... chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp vậy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng và thọ trì như vậy. Nếu có ai không hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng thì ở nơi đây, các Ông hãy hỏi Ta hay hỏi những bậc Tỷ-kheo trí thức.
+ Chiếc bè qua sông: Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: "Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn". Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy.
Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp. (Nguồn: 22. Kinh ví dụ con rắn)
+ Phật Pháp: Phật pháp là pháp giải thoát lìa thế gian. Pháp lìa thế gian là pháp không đi ngược lại với cái biết, nhưng phải dựa trên cái biết và vượt trên mọi cái biết bằng một chánh pháp.
- Là Pháp lìa ngã vượt ra khỏi Nhân, Ngã, Thiện, Ác, Sanh, Tử. (vô ngã vô nhân, phi thiện ác, liểu sanh tử). Và dĩ nhiên dựa vào thế gian để chế ngự bằng pháp lìa ngã, sống với thế gian mà không hoà nhập với thế gian. (Nguồn)
+ Pháp Thế Gian và Xuất Thế Gian: Nhà Phật thường nói: “Phật pháp ở thế gian không phá hoại pháp thế gian”- Thế gian pháp với Pháp xuất thế đều không chướng ngại nhau; (Nguồn Kinh Thập thiện - Tập 37 - PS Tịnh Không giảng)
* Phật pháp là thế gian pháp, cũng là pháp xuất thế. Pháp xuất thế không rời pháp thế gian. Pháp Bảo Đàn Kinh có nói "Phật pháp tại thế gian - Không lìa thế gian giác - Lìa thế gian cầu bồ đề - Ví như tìm sừng thỏ". Cho nên ở thế gian có người tại gia, người xuất gia ... (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Việc nghiên cứu về 7 cung khiến cho tính nhị nguyên của con người được giải quyết, với sự thông tuệ lớn lao hơn (EP 119/120)
Khi bản chất thực sự của bảy cung được hiểu biết, và khi tác động của chúng lên nhân loại trong việc thể hiện bảy loại người cũng được thông hiểu, bấy giờ chúng ta sẽ tiếp cận chủ đề về tính nhị nguyên của con người với trí thông tuệ lớn lao hơn. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn bản chất của các mãnh lực vốn cấu thành hết cái này đến cái khác trong những nhị nguyên này. Đây là khoa học bí truyền thực sự.
Khoa học về bảy tính chất, hay cung, và ảnh hưởng của chúng trên vô số hình tướng mà chúng uốn nắn và tiếp sinh lực, là cách tiếp cận mới sẽ đến, cùng với phương pháp đúng đắn về việc đào tạo và phát triển gia đình nhân loại.
- Khoa học công truyền hiện đại biết nhiều về hình tướng bên ngoài, hay khía cạnh vật chất, và bản chất điện của nó.
- Khoa học bí truyền biết nhiều về bản chất của các năng lượng và những tính chất chủ quan vốn nhuốm màu và quy định hình tướng.
* Khi hai kiến thức này được mang lại với nhau một cách thông minh, chúng ta sẽ phát triển một khoa tâm lý chân thật hơn và chính xác hơn, và một khoa học mới về văn hóa nhân loại. Lúc bấy giờ, công việc của con người đang hợp nhất – con người, là thực thể tâm linh, và con người, là linh hồn điều khiển – sẽ tiến nhanh về phía trước. Một kiến thức về các cung cùng với các khuynh hướng và năng lượng của chúng sẽ mang nhiều sự giác ngộ cho những người phụng sự trong lĩnh vực của những khoa học khác nhau …(Trích tài liệu tóm lược Tâm lý học nội môn - Khóa GQ - Trường MF)
+ Liệu những kiến thức khoa học của phương Tây về sắc tướng, và minh triết phương Đông được tích lũy và thừa hưởng về bản chất của Linh Hồn có thể được kết hợp lại cùng với nhau một cách thông minh để cho biểu đạt hoàn hảo của Linh Hồn có thể được tạo ra qua trung gian của cơ chế đó? Liệu vật chất có thể tiến lên hướng đến tâm trí và Linh Hồn và Tinh Thần - hãy gọi nó bằng tên nào bạn muốn - và liệu Tinh Thần có thể, hỗ trợ sự thúc giục tiến lên đó, hoàn thiện phương tiện mà thông qua đó nó thể hiện, và vì thế chiếu sáng rạng rỡ hơn? (SAM, 29)
+ Trình tự tiến hóa của các Giống Dân (gradual exolution of the Races). Năm pho tượng (ở vùng Trung Á, Bamian -ND) này là tài liệu bất diệt của Giáo Lý Huyền Môn về trình tự tiến hóa của các Giống Dân. Pho tượng lớn nhất tiêu biểu cho Giống Dân thứ nhất của nhân loại, thân thể khinh thanh của Giống Dân này được lưu lại trong đá cứng bền chắc, dùng cho việc học hỏi của các thế hệ mai sau, nếu không thì ký ức về điều ấy không bao giờ tồn tại sau cơn đại hồng thủy nhấn chìm Châu Atlantis. Tượng thứ hai cao 120 feet (36,57m), tượng trưng cho Giống Dân Hãn Sinh. Tượng thứ 3 cao 60 feet (18,28m) làm sống lại giống người xuống thấp (fell) và đó mở ra giống người đầu tiên bằng xác thịt do cha mẹ sinh ra, mà hậu duệ cuối cùng được tiêu biểu bằng các tượng trên đảo Easter, Những người này chỉ có tầm vóc từ 20 đến 25 f. (6m - 7,60m) ở vào thời Châu Lemuria bị chìm ngập, sau khi hầu như bị hủy diệt bởi núi lửa. Giống Dân thứ tư có tầm vóc còn nhỏ hơn nữa, tuy vẫn còn khổng lồ so với Giống dân thứ 5 hiện nay của chúng ta, Giống Dân hiện nay ở mức tiến hóa tột cùng so với những Giống dân trước. Thế thì đó chính là những “Người Khổng Lồ” của thời xưa, tức Gibborim của thời tiền và hậu Đại Hồng Thủy của Thánh Kinh (Bible). Họ đã sống sung túc cách đây một triệu năm hơn là chỉ cách đây từ ba đến bốn ngàn năm.(GLBN 3, 339)
+ Sự phát triển tuần tự của nhân loại, bạn có các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn ý thức động vật.
2. Cá nhân được an trụ vào tình cảm, có tính ích kỷ và bị chi phối bởi dục vọng.
3. Hai giai đoạn trên, cộng với một hiểu biết trí tuệ ngày càng tăng về các tình huống chung quanh.
4. Giai đoạn có trách nhiệm với gia đình hoặc bạn bè.
5. Giai đoạn của tham vọng và của sự khao khát đối với ảnh hưởng và quyền lực trong một lĩnh vực biểu hiện nào đó của con người. Điều này dẫn đến nỗ lực mới.
6. Sự phối-kết năng lực phàm-ngã dưới tác nhân kích thích ở trên.
7. Giai đoạn ảnh hưởng được vận dụng một cách ích kỷ và thường có tính chất phá hoại, bởi vì cho đến nay những vấn đề cao siêu không được ghi nhận.
8. Giai đoạn có một ý thức tập thể phát triển đều đặn. Giai đoạn này được xem như là:
a/ Một lĩnh vực cho cơ hội.
b/ Một địa hạt phụng sự.
c/ Một nơi mà trong đó sự hy sinh vì lợi ích của mọi người trở nên có thể xảy ra một cách vinh quang.
Giai đoạn sau cùng này đặt một người lên con đường đệ-tử, không cần phải nói rằng nó bao gồm giai đoạn của thời kỳ trước đó, là thời kỳ dự bị hay thử thách. (Trích đoạn chương X trang 396, 397 quyển Luận về Chánh thuật)
+ Vương quốc thứ tư trong tự nhiên nhất định đã được thu hút tiến lên hướng đến vương quốc thứ năm đang xuất hiện. (SPCCQG/ DN 112)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
Xem: Các giai đoạn tiến hóa của Phàm ngã- Con người
Xem: Biệt ngã tính/ Ngã hóa;
Xem: Phân nhóm/ Loại về Hạng người ....
Xem: Điểm 6 mục Quy Luật 5 - Cấu Tạo Con Người 13- Thể Hồng Trần
+ Đức Christ: Còn gọi là Di Lặc Bồ Tát; Đức Chưởng Giáo (World Teacher), Đức Bồ Tát, Đức Iman Madhi (Hồi giáo) ....(ĐĐNLVTD, 43)
+ Luận Du Già Sư Địa: Luận Du Già Sư Địa, tác giả là Bồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664), gồm 100 quyển. Đây là một trong ba Bộ Luận thuộc loại đồ sộ bậc nhất hiện có trong Hán Tạng (*), là một trong những tác phẩm căn bản nhất của Tông Duy Thức – Pháp Tướng, là một trong các Bộ Luận nổi tiếng nhất của Phật giáo Bắc truyền thuyết minh quảng diễn rất đầy đủ về Địa/ Cảnh giới Bồ tát, với những quá trình nhận thức, hành trì, tu tập chứng đắc đạo quả Bồ đề vô thượng của Bồ tát Đại thừa......
Ở Việt Nam, .... chúng ta đã Việt dịch được một số Kinh, Luận liên hệ, như Kinh Giải Thâm Mật, Luận Nhiếp Đại Thừa, Luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, Luận Thành Duy Thức… một bản Việt dịch Luận Du Già Sư Địa hoàn chỉnh ra đời..... do Cư sĩ Nguyên Huệ dịch ... Nguyên Hiển. (Nguồn: Luận Du Già Sư Địa)
+ Đấng Christ: Các tư tưởng của con người từ giữa thời kỳ Atlantis đã luôn bị thu hút về phía con đường hủy diệt hay tả đạo, vì sự ích kỷ đã là động lực và lợi ích cá nhân đã là yếu tố chi phối. Một phần công việc của Đấng Christ khi Ngài đến cách nay 2000 năm là để xóa bỏ xu hướng này bằng việc khắc sâu, thông qua gương mẫu và giáo huấn, về sự hy sinh và lòng vị tha, và tinh thần tử vì đạo (mà nó thường bị nhuốm màu bởi sự cuồng loạn và một lợi ích cá nhân ở cõi trời) đã là một trong những kết quả của nỗ lực này. Nhìn theo quan điểm của Thánh Đoàn thì nỗ lực đã thành công, vì tinh thần Cơ Đốc giáo thay thế cho sự tái định hướng vào những sự việc ở cõi trời. Đó là sự thanh khiết của động lực và bản năng phụng sự, mà nguyên tắc chủ đạo gần đây là mới so với quan điểm về những sự vĩnh hằng trước kia.
- Tuy vậy, bất chấp điều này, xu hướng đưa tới lợi lộc ích kỷ vẫn là yếu tố mạnh nhất trên thế giới vào lúc này, và đó là tình trạng khủng hoảng đang tồn tại giữa Thánh Đoàn Quang Minh và nhóm chức sắc đang điều khiển phe tả đạo, tức là đường lối kiểm soát bằng hình tướng và dục vọng (LVHLT, 259)
+ Đức Chưởng giáo là là Đấng cao cả mà toàn thế giới đang mong đợi. Ngài trở lại để khai sáng thêm con đường Chân lý, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề khó khăn, và tiến xa hơn trong cố gắng thể hiện Chân Thiện - Mỹ. Ngài là Đức Christ của Thiên Chúa giáo; là Đức Maitreya (Tiếng Sanskrit), Metteyya (Tiếng Pali), Jampa (Tiếng Tây Tạng) hay Di Lạc Bồ-tát của Phật giáo; là Đấng Hoá thân Kalki của Vishnu trong Ấn giáo; là Đức Imam Madhi của Hồi giáo; là Đức Sosiosh, Đấng Cứu thế của Hoả giáo; và Ngài cũng được tôn xưng trong các tôn giáo khác . . .(Trích Thư vể TTHM)
+ Đức Chưởng Giáo (The World Teacher, The Christ): Đức Chưởng Giáo là vị chủ quản nhóm 2. Ngài là Đấng Cao Cả mà tín đồ Cơ Đốc Giáo gọi là Christ. Ở phương Đông, Ngài cũng được biết dưới danh xưng Đức Bồ Tát (the Bodhisattva), Đức Di Lặc (the Lord Maitreya), và là Đấng mà người sùng tín Hồi giáo mong đợi, dưới danh xưng Iman Madhi. Chính Ngài đã chủ trì các vận mệnh cuộc sống từ khoảng năm 600 trước Thiên Chúa và chính Ngài đã đến với nhân loại trước kia và nay Ngài lại được mong chờ. Ngài là Đấng Bác Ái và Từ Bi, cũng như vị tiền nhiệm của Ngài, Đức Phật, là Đấng Minh triết. Năng lượng của Ngôi 2 tuôn tràn qua Ngài, trực tiếp đi đến Ngài từ bí huyệt tim của Hành Tinh Thượng Đế qua tim của Đức Sanat Kumara. Ngài hoạt động nhờ việc tham thiền được tập trung trong tim. Ngài là Đức Chưởng Giáo, Sư Phụ của các Chân Sư, Đấng giáo huấn của Thiên Thần và Ngài được giao cho việc dìu dắt vận mệnh tâm linh của con người và việc mở ra sự hiểu biết bên trong mỗi người rằng y là con của Thượng Đế và con của Đấng Tối Cao. Nếu Đức Bàn Cổ bận tâm tới việc tạo ra kiểu mẫu và hình hài nhờ đó tâm thức phát triển và thu nhận kinh nghiệm, thì Đức Chưởng Giáo điều khiển tâm thức nội tại trong cuộc sống hay trạng thái tinh thần của nó, tìm cách làm sinh động nó bên trong hình hài, để cho, vào đúng lúc, hình hài này có thể bị loại bỏ và tinh thần được giải thoát quay về cội nguồn. Từ lúc bỏ cõi trần, như đã được thuật lại gần đúng trong câu chuyện Thánh Kinh (mặc dù có nhiều chi tiết sai lầm), Ngài đã ở lại với các con của nhân loại, không bao giờ thực sự ra đi, mà chỉ có vẻ ra đi, và những ai biết cách đều có thể tìm thấy Ngài ở trong một thể xác, ngự tại Hy Mã Lạp Sơn và hoạt động hợp tác chặt chẽ với hai Huynh Trưởng của Ngài là Đức Bàn Cổ và Đức Văn Minh Bồ Tát. Hằng ngày, Ngài ban ân huệ cho thế gian và hằng ngày, Ngài đứng dưới cội thông lớn trong vườn của Ngài vào lúc hoàng hôn, đưa tay ban phúc cho tất cả những ai chân thành và thiết tha tìm đạo. Ngài biết rõ những kẻ đi tìm chân lý, mặc dù có thể họ vẫn không biết Ngài , nhưng ánh sáng mà Ngài ban rải vẫn kích thích đạo tâm họ, bảo dưỡng điểm linh quang của sự sống đang phấn đấu và cổ vũ người tìm đạo cho đến ngày trọng đại, lúc mà họ đứng đối diện với Đấng mà, nhờ được “thăng lên” (hiểu theo nghĩa huyền linh), đang kéo mọi người về phía Ngài với tư cách là Đấng Điểm đạo (Initiator) với các bí nhiệm thiêng liêng. (ĐĐNLVTD, 41–47)
+ Đức Di Lặc Bồ Tát:
A-dật-đa Bồ-tát, chính là Bồ-tát Di Lặc. A-dật-đa là tiếng Phạn, dịch là Vô Năng Thắng, cũng tức là Từ Thị. Vị Bồ-tát này chuyên tu Từ Tâm Tam-muội, đối với bất cứ ai ngài đều dùng tâm Từ bi. Ai mắng ngài, ngài cũng dùng lòng từ bi đáp lại; ai đánh ngài, ngài cũng đáp lại bằng lòng từ bi. Bất luận là người nào đối xử không tốt với ngài, hoặc là ức hiếp ngài, làm nhục ngài, giận dữ la hét ngài, sanh ra vô minh, ngài đều dùng lòng từ bi đối xử với họ. Tất cả mọi việc, ngài đều dùng lòng từ bi đối đãi hết. Chẳng những ngài dùng từ bi đối xử với người, mà ngài còn thương xót cứu giúp tất cả chúng sanh nữa. Ngài xem tất cả chúng sanh giống như là con cái của chính mình, thậm chí còn thân thiết hơn con cái nữa. Ngài thương mến giúp đỡ tất cả chúng sanh đủ cả mọi mặt với tâm từ bi vô lượng vô biên. Tu Từ Tâm Tam-muội cần phải tu cả hạnh Nhẫn nhục, cho nên ngài có một bài kệ như thế này:
Lão hèn mặc áo vá
Cơm hẩm đủ no lòng
áo vá qua cơn lạnh
Vạn sự chỉ tùy duyên
Có người mắng lão hèn
Lão hèn cho là hay
Có người đánh lão hèn
Lão hèn ngủ quên mất
Phun nước miếng lên mặt
Cứ để nó khô thôi
Ta cũng bớt sức lực
Anh cũng khỏi giận hờn
Kiểu Ba-la-mật ấy
Chính là báu thêm mầu
Nếu biết được như thế
Lo gì đạo chẳng thành.
Lão hèn mặc áo vá: Lão hèn chính là một người tuổi già rất ngu si, áo vá chính là áo rách phải dùng kim chỉ để vá lại.
Cơm hẩm đủ no lòng: Cơm hẩm chính là thức ăn không thêm các gia vị dầu, muối, tương, xì dầu, dấm..., rất nhạt nhẽo, không có mùi vị gì, chỉ có thể lót đầy bụng trống thôi.
áo vá qua cơn lạnh: áo rách được vá lành thì có thể dùng để ngăn cái lạnh lẽo từ bên ngoài.
Vạn sự chỉ tùy duyên: Bất cứ sự tình gì cũng tùy tiện mà giải quyết ổn thỏa. Việc đến thời ảnh hiện, việc đi kể như không, cũng chính là "Ðáo xứ tùy duyên qua ngày tháng, Thủ thường an phận mặc thời gian." Bất cứ sự tình gì hễ đến, đi thì kể như không, đó gọi là tùy duyên. Tùy duyên cũng chính là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến tùy duyên"; cũng chính là trong động có tĩnh, trong tĩnh có động; vừa tĩnh vừa động, vừa động vừa tĩnh.
Có người mắng lão hèn: Có người mắng ta là lão già ngu si.
Lão hèn cho là hay: Ta tự nói là hay quá, hay quá!
Có người đánh lão hèn: Có người đánh ta, cho ta là kẻ ngu si vô dụng, đoán xem điều gì sẽ xảy ra?
Lão hèn ngủ quên mất: Có người đánh ta một cái, ta nằm xuống ngủ quên ngay. Mình nói ngài là ngu si, tại sao lại làm thế? Thông thường người ta bị đánh thì trừng mắt nhướng mày nói: "Tại sao anh đánh tôi?" Nhưng ngài chẳng những không trợn mắt, mà lại nằm lăn trên đất ngủ khì nữa. Như vậy có quá hay hay không? Nếu ai có thể dùng được phương pháp này thì thật là không đến nỗi tệ, thật là có hạnh tu đấy.
Phun nước miếng lên mặt, có người phun nước miếng lên mặt mình thì lửa vô minh bốc lên hằng ba ngàn trượng: "Tại sao anh làm nhục tôi?!" Nhưng Bồ-tát Di Lặc thì: Cứ để nó khô thôi, để cho nó tự khô đi, tôi cũng không cần lấy tay lau sạch.
Ta cũng bớt sức lực, lau sạch nước miếng dù không hao phí sức lực bao nhiêu, nhưng cũng là phải dùng sức, bây giờ không lau thì sức lực đó cũng bớt phải xử dụng.
Anh cũng khỏi giận hờn, một khi mình thấy một người bị mình phun nước miếng lên mặt mà người ấy hình như coi như không, thì nghĩ rằng: "Cái người này! Mình không quen biết họ", thế thì giận hờn của mình không còn nữa.
Kiểu Ba-la-mật ấy, sao gọi là Ba-la-mật? Ðó là có người đánh, mình có thể ngủ thì được; có người phun nước miếng lên mặt, mình cứ để nó tự khô đi; đó chính là Ba-la-mật, cũng gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Giả như ngay đến Nhẫn nhục Ba-la-mật mà cũng không biết, thì mình học Phật pháp để làm chi? Chẳng cần phải suốt ngày từ sáng tới tối học đi học lại mãi mới gọi là học được nhiều Phật pháp, mà có khi cảnh giới đến lại không biết áp dụng một tí nào.
Chính là báu thêm mầu, đó là mầu nhiệm trong mầu nhiệm, quý báu trong quý báu. Nếu biết được như thế, lo gì đạo chẳng thành?
Nếu biết được những điều như trên thì lo gì không thành đạo được? Nếu tu học Nhẫn nhục Ba-la-mật như thế, thì đạo nghiệp của mình nhất định sẽ thành tựu; chư Phật, Bồ-tát không bao giờ dối gạt người đâu. Nếu mình học được như Bồ-tát Di Lặc thì nhứt định sẽ thành tựu đạo quả. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Bồ Tát Di Lặc là đại biểu truyền thừa tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật là một thời đại lớn. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật có Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp. Thời đại lớn này là một vạn hai ngàn năm. ....Bồ Tát Di Lặc chính là kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp, Di Lặc là vị thứ năm, cho nên là tiếp nối tương lai, cũng tiếp nối pháp môn này. Pháp môn này là pháp môn đệ nhất, mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo. Pháp môn đệ nhất chính là kinh Vô Lượng Thọ. Đối tượng kinh Vô Lượng Thọ, đối tượng có thể tiếp dẫn chính là chúng sanh căn tánh chín muồi ở thế gian - Ngay trong một đời này quyết định làm Phật. Đó chính là đối tượng của kinh Vô Lượng Thọ. Đây là thật, không phải giả ! .....H.T. TINH KHÔNG ! Xem thêm
+ 670. THỌ KÝ ĐỨC PHẬT DI LẶC
Này Di-lặc, vào một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, ngươi sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Giống như Ta hiện nay là Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. (Nguồn: mục 670- (Trung A Hàm, Kinh Thiên Sứ, Phẩm 6, số 64)
+ Di-lặc Bồ-tát, còn gọi là A-dật-đa (Ajita/ Hán dịch: Vô năng thắng). Di-lặc/ Từ thị (Maitreya) là họ của gia đình. Vị tăng to béo mập mạp. Có lẽ là vị Bồ-tát nầy thích ăn ngon. Ngài cũng rất thích cười, Ngài rất thích chơi với trẻ con, và đáp lại, trẻ con cũng rất thích chơi với ngài. Sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt, không còn là bậc đạo sư giáo hoá chúng sinh ở cõi nầy nữa, thì Đức Phật Di-lặc sẽ ra đời để tiếp tục việc giáo hoá chúng sinh. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni được gọi là Hồng Dương Phật. Khi Bồ-tát Di-lặc thành Phật, ngài sẽ được gọi là Bạch Dương Phật. Điều nầy có nghĩa là khi Đức Phật Di-lặc thị hiện ra đời, thì máu của chúng sinh sẽ là màu trắng, không còn màu đỏ như thời trước nữa. Loài người hiện nay có máu màu đỏ vì đang ở trong thời giáo hoá của Hồng Dương Phật.
Khi nào Đức Phật mới Di-lặc thị hiện ra đời? Nghe thật là lâu xa khi quý vị được kể ra ...(Mời xem trong Kinh văn). Thời Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dậy con tu tập pháp định duy tâm thức (Tam giới duy tâm - Vạn pháp duy thức là nguyên lý của pháp Duy thức quán), con được nhập vào chánh định, tâm cầu danh thế gian đã diệt. Bạch Đức Thế tôn, do con rõ được tánh duy thức như vậy, nên từ thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được Phật thụ kí, kế tiếp thành Phật ở cõi nầy. Đức Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp quán tường tận mười phương đều do thức biến. Thức tâm được tròn sáng, thể nhập tánh viên thành thật, rời xa các tánh y tha khởi và tánh biến kế sở chấp, được pháp vô sanh nhẫn. Đó là phương pháp tốt nhất. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Từ Thị Nhẫn: Từ Thị là Bồ Tát Di Lặc, bụng của ngài rất mập mạp, ai có lỗi lầm gì thì ngài cũng đều tha thứ, ngài luôn cười hì hì. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr69 - HT Tuyên Hóa giảng)
Xem: Tóm lược các Kỳ công của Hercules huyền thoại và Đức Phật và Đức Christ
Xem: Hercules và Đức Phật, Đức Christ
+ Đức Văn minh Đại đế (Mahachohan): Vị Trưởng của nhóm ba là Đức Văn minh Đại đế. Ngài bao gồm Phương diện Thông tuệ của thiên tính. Ngài còn có danh hiệu là vị Chúa của Văn minh. Ngài vận dụng nguồn bác ái thông tuệ và có trách nhiệm điều hành việc thực hiện Thiên cơ.
Tất cả mọi người đều rốt cuộc sẽ đi vào một trong Ba Ngành này của Huyền giai.
Vì thế, ba Đấng cao cả này đại diện cho Ý chí, Bác ái, và Thông tuệ. Ba Đấng này hợp tác hết sức chặt chẽ và hợp nhất với nhau, và mọi bước tiến hoặc kế hoạch ảnh hưởng đến nhân loại, các giới khác trong thiên nhiên và cả hành tinh này, đều được các Ngài quản trị. Các Ngài là đại diện thực hiện Chủ đích Hành tinh, để mang lại tình thương và những mối liên giao chính đáng của con người, và để đẩy nhanh cuộc tiến hóa của nhân loại qua việc thực hiện Thiên cơ. (Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Đức Văn Minh Bồ Tát/ Đại Đế (Lord of Civilisation, Mahachohan, Cho-Khan Thư của Ch. S. 57): Vị Lãnh Đạo của nhóm ba là Đức Mahachohan. Việc cai quản của Ngài đối với nhóm này kéo dài lâu hơn hai vị Huynh trưởng của Ngài. Ngài có thể giữ chức vụ này trong thời hạn nhiều căn chủng. Ngài là toàn bộ trạng thái thông tuệ. Đức Mahachohan hiện nay không phải là Đức đầu tiên giữ chức vụ này lúc thành lập Thánh Đoàn vào thời Lemuria – lúc bấy giờ, chức này được nắm giữ bởi một trong các vị Kumara hay Hỏa Tinh Quân (Lords of the Flame) đã lâm phàm cùng với Đức Sanat Kumara – mà Ngài đã giữ ngôi vị này trong chi chủng thứ hai của căn chủng Ắt lăng. Ngài đạt đến quả vị Chân Sư (Adeptship) trên dãy nguyệt cầu, và chính qua trung gian của Ngài mà một số lớn nhân loại tiến bộ hiện nay đã lâm phàm vào giữa căn chủng Ắt lăng. Liên hệ nghiệp quả giữa họ với Ngài là một trong những nguyên nhân xảy ra trước khiến cho việc này xảy tới sau. Công việc của Ngài liên hệ tới việc bảo dưỡng và củng cố mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất, giữa sự sống với sắc tướng, giữa ngã với phi ngã, đưa tới kết quả tạo ra cái mà chúng ta gọi là văn minh. Ngài vận dụng các lực của thiên nhiên, và phần lớn là các nguồn phát ra điện năng như chúng ta biết. Ngài là phản ánh của Ngôi Ba hay Ngôi Sáng Tạo, nên năng lượng từ Hành Tinh Thượng Đế lưu chuyển đến Ngài từ trung tâm lực cổ họng, và chính Ngài, bằng nhiều cách, làm cho công việc của các Huynh trưởng Ngài được thành toàn. Các kế hoạch và ý muốn của các Vị này được chuyển qua Ngài và thông qua Ngài, các giáo huấn đến được một số lớn các vị thừa hành thuộc giới thiên thần. (ĐĐNLVTD, 45)
+ Đức Bàn cổ: Ngài là toàn bộ Phương diện Ý chí của Thiên tính. Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan đến chính quyền, đến nền chính trị hành tinh, và đến việc thành lập, hướng dẫn, và giải tán các loại và hình thể chủng tộc. Ngài được giao cho Ý chí và Chủ đích của Đức Hành tinh Thượng Đế là Đấng Thiêng liêng Cao cả nhất đang trông nom Địa cầu, và là “Thượng Đế” của chúng ta.(Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Đức Bàn Cổ (Manu): Đức Bàn Cổ chủ trì nhóm thứ nhất. Ngài được gọi là Đức Bàn Cổ Vaivasvata và là Bàn Cổ của căn chủng 5. Ngài là mẫu người hay tư tưởng gia lý tưởng và tạo mẫu cho giống dân Aryan của chúng ta, đã chủ trì vận mệnh của giống dân này từ khi nó bắt đầu có gần 100.000 năm nay. Các vị Bàn Cổ khác đã đến và đi, trong một tương lai gần, nhiệm sở của Ngài sẽ được một vị khác đảm trách. Lúc đó, Ngài sẽ chuyển sang công việc khác cao hơn. Đức Bàn Cổ hay nguyên mẫu của căn chủng 4, hoạt động hợp tác chặt chẽ với Ngài và có trung tâm ảnh hưởng ở Trung Quốc. Ngài là Đức Bàn Cổ thứ hai của căn chủng 4 đã giữ địa vị của Đức Bàn Cổ trước vào các giai đoạn cuối lúc châu Atlantis bị hủy diệt. Ngài đã ở lại để bảo dưỡng sự phát triển của kiểu mẫu giống dân và để cuối cùng nó sẽ biến mất. Các giai đoạn hoạt động của tất cả các Đức Bàn Cổ trùng lắp lên nhau, nhưng vào lúc này, trên bầu hành tinh không còn đại diện nào của căn chủng 3 nữa. Đức Bàn Cổ Vaivasvata ngự tại vùng Hy Mã Lạp Sơn đã tụ tập được quanh Ngài ở Shigatse một số người có liên hệ tức thời với các công việc của giống dân Aryan ở Ấn Độ, Âu Châu và Mỹ Châu và những người mà sau này sẽ có liên hệ đến căn chủng thứ sáu sắp đến. Các kế hoạch được chuẩn bị trước nhiều thời đại, các trung tâm năng lượng được tạo ra hàng ngàn năm trước khi chúng sẽ được cần tới và với sự tiên tri sáng suốt của các Đấng Thiêng liêng này, không gì bị để cho kết thúc đột ngột, mà tất cả đều hoạt động theo các chu kỳ đã sắp xếp, theo quy luật và định luật, mặc dù trong giới hạn nghiệp quả. Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan tới việc cai trị, đến việc chính trị trên hành tinh, đến việc tạo ra, điều khiển và giải thể các kiểu mẫu và hình hài chủng tộc. Ý chí và chủ đích của Hành Tinh Thượng Đế được giao cho Ngài. Ngài biết đâu là mục tiêu trước mắt đối với chu kỳ tiến hóa mà Ngài phải chủ trì và công việc của Ngài liên quan tới việc thành toàn thiện chí, Ngài hoạt động hợp tác chặt chẽ với các thiên thần kiến tạo hơn là Huynh Trưởng của Ngài, Đức Christ, vì Ngài được giao cho công việc tạo nên mẫu giống dân, tách ra các nhóm sẽ phát triển thành các giống dân, vận dụng các lực làm chuyển dịch (move) vỏ địa cầu, nâng cao và hạ thấp các lục địa, chi phối trí óc của các chính khách ở khắp nơi, để cho việc cai trị nhân loại sẽ diễn tiến như ý muốn, mang lại những điều kiện sẽ tạo ra những gì cần thiết cho việc bảo dưỡng bất cứ kiểu mẫu đặc thù nào. Hiện nay, các việc như thế có thể được thấy đang lộ ra ở Bắc Mỹ và Úc Châu. Năng lượng đang tuôn tràn qua Đức Bàn Cổ phát xuất từ bí huyệt đầu của Hành Tinh Thượng Đế, truyền sang Đức Bàn Cổ qua não bộ của Đức Sanat Kumara, là Đấng đang tập trung mọi năng lượng hành tinh vào trong chính Ngài. Đức Bàn Cổ hoạt động nhờ vào việc thiền định thâm sâu, được điều khiển trong bí huyệt đầu và tạo ra các kết quả nhờ việc Ngài hoàn toàn nhận thức được điều gì phải được hoàn thành, nhờ năng lực hình dung ra những gì cần phải làm để đưa tới thành quả và nhờ vào khả năng truyền chuyển năng lượng sáng tạo và hủy diệt đến những vị phụ tá cho Ngài. Tất cả những điều này được thành tựu nhờ quyền năng của diệu âm được minh xướng (phát ra rõ ràng). (ĐĐLVTD, 41–47)
+ THỦ DÂM VÍ NHƯ TỰ SÁT. CĂN BỆNH CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN TẠI !
Ông nói năm sáu năm qua, từ sau khi ra trường, mắc bệnh xương khớp rã rời, gần như đã chết một nửa người. Có phải vì [trong thuở còn đi học ấy] bạn bè đàn đúm tụ họp, cùng nhau đọc tiểu thuyết[1] đến nỗi chân tinh mất mát, thủ dâm liên tục, do vậy mới có hiện tượng ấy hay chăng? Đấy chính là căn bệnh chung của lũ học sinh trong hiện tại, trong mười đứa có đến tám chín đứa [vướng phải]. Do cha mẹ, thầy, bạn đều chẳng chịu nhắc đến, nên kẻ bị bệnh ngày thấy càng nhiều, chẳng thể ngăn dứt được! Do chuyện này, Quang liền cho in tám trăm cuốn Thọ Khang Bảo Giám. Hễ kẻ trẻ tuổi gặp Quang, Quang đều nói rõ lẽ lợi – hại với họ, bảo họ giữ gìn thân thể đừng phạm. Dù là thủ dâm hay tà dâm đều phải nghiêm túc kiêng dè, đừng phạm; ngay như vợ chồng ăn nằm với nhau cũng phải có chừng mực, cũng như biết kiêng kỵ để khỏi đến nỗi bị mất mạng oan uổng! Nếu không, người cực tốt cũng vẫn có thể chết vì chuyện này. Xúm nhau đổ thừa cho số mạng, chẳng biết tự mình đã nộp mạng!
Ông còn rất trẻ mà đã bị bệnh, hãy nên thường đọc sách ấy, cũng như bảo Đức Chánh thường đọc. Đôi bên răn nhắc lẫn nhau, ngõ hầu những đứa con đã sanh như Quân Tốn v.v… đều được mũm mĩm, trưởng thành, tánh tình hiền thiện, vợ chồng ông sống hạnh phúc đến già, cùng sanh Tây Phương.
[1] Chữ “tiểu thuyết” ở đây nhằm chỉ những thứ tiểu thuyết bị coi là “dâm thư” do khơi gợi tình yêu trai gái suồng sã. (Trích từ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên)
Dương Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ Hỏa: Tự tập trung và phi cá nhân; Thiếu kiên nhẫn, khuynh hướng lao vội vã vào mọi thứ; Bướng bỉnh, không nhạy cảm với người khác; Khởi xướng, bắt đầu mọi thứ; Kích động, nhiệt tình, có thể là thiếu tự chủ. - Dấu hiệu hành hỏa: Bạch Dương, Sư Tử, và Nhân Mã ; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Năng lượng. Tích cực. Nhiệt huyết. Đam mê. Cần phải thể hiện bản thân. Bốc đồng. Chủ động. Thoải mái Có khuynh hướng hướng ngoại. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não (LVHLT, 251)
+ Chân Sư Dk Luận Về Hỏa Thủy: Trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu—thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y.
Đùa với Lửa: Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.”. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả - Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [trang 103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã.........
Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người.........
Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền......, mời xem chi tiết (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
+ Hỏa thần - Thần lửa: Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu .... Giảng giải : Ta Hê Dạ Gia là "Thần lửa". Thứ thần lửa này rất nóng vô cùng. Vì nóng quá cho nên nói : ‘’Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu.’’ Rất lợi hại, nóng khiến người không chịu nổi. Nóng quá sẽ khiến người chết. Nạn lửa xuất hiện thì trên không trung có bảy mặt trời đồng thời cũng xuất hiện, thiêu hủy hết thảy sơn hà đại địa, biển cả cũng khô cạn, chẳng có vật gì còn sống sót lại. Lửa có thể thiêu đến cõi trời Sơ Thiền. Nhị Thiền và Tam Thiền cũng có tai nạn.(Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Cha mẹ là gốc rễ: Học Phật phải tu pháp môn căn bản, tức là tài bồi căn lành, bồi nguyên cố bổn. Bồi nguyên tức là bồi dưỡng nguyên khí. Cố bổn tức là khiến cho gốc rễ kiên cố. Nguyên là nguyên khí. Gốc tức là gốc rễ, tức là cha mẹ. Cha mẹ sinh chúng ta ra, chúng ta phải hiếu thuận. Hiếu thuận cha mẹ mới là người chân chánh tin Phật, không hiếu thuận cha mẹ, chẳng phải là người tin Phật. ..
Nếu người hiếu thuận cha mẹ, thì chánh khí trời đất tồn tại, không hiếu thuân cha mẹ, thì trong trời đất tràn ngập tà khí. Hiếu thuận cha mẹ phải thành tâm thành ý, tất cung tất kính. Ðối với cha mẹ phải cung cung kính kính, cha mẹ tức là Phật sống hiện tiền. .. Hiếu thuận cha mẹ phải dưỡng chí. Dưỡng chí tức là việc mà cha mẹ hoan hỷ thì làm nhiều một chút, việc mà cha mẹ không hoan hỷ thì làm ít một chút. Ðừng làm cha mẹ buồn phiền đau khổ, luôn luôn làm cho tâm của cha mẹ vui vẻ. .. Không biết hiếu thuận cha mẹ là quên mất gốc rễ. .. hiếu thuận cha mẹ so với cuối đầu lạy sư phụ còn tốt hơn nhiều. (Nguồn: Google Drive - HT Tuyên Hóa Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Bổn phận của Cha mẹ - Con cái, đức Phật đã dạy:
- Con làm 5 việc với Cha Mẹ: Một là phụng dưỡng cha mẹ. Hai là làm công việc thay cha mẹ. Ba là gìn giữ gia phong. Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế. Năm là tạo phước hồi hướng.
- Cha mẹ làm 5 việc: Một là ngăn con không làm điều ác. Hai là dạy con làm việc lành. Ba là hướng dẫn nghề nghiệp. Bốn là tác thành gia thất. Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp. Đây là đạo nghĩa cha mẹ con cái.
* Ðức Phật dạy về 6 phương:
- Phương đông là cha mẹ. - Phương nam là thầy tổ. - Phương tây là người hôn phối. - Phương bắc là bạn bè. - Phương dưới là người giúp việc. - Phương trên là sa môn (Nguồn: Kinh Đảnh Lễ Sáu Phương)
+ Thần tiên sống: ...Người thật hiểu là luyện tinh khí thần, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, gì cũng chẳng có, luyện hư hoàn không với hư không hợp mà làm một, rõ ràng họ còn chấp trước, cho nên cảnh giới rất nhỏ, không phải toàn thể đại dụng, tức là họ chấp trước đó là "đan", cũng như rồng chấp trước hạt châu của nó. Pháp môn luyện đan, trong không lại sinh ra có, luyện đến luyện hư hóa không, chẳng phải là luyện dễ dàng. Phải cần ngũ khí đầy đủ. Ngũ khí là gì ? Tức là : Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tức cũng là : Tim, gan, tỳ, phổi, thận. Tim thuộc hỏa, gan thuộc mộc, tỳ thuộc thổ, phổi thuộc kim, thận thuộc thủy. Tim là màu đỏ, gan là màu xanh, tỳ là màu vàng, phổi là màu trắng, thận là màu đen. Ngũ khí kim mộc thủy hỏa thổ này, luyện đến viên mãn không thiếu không thừa, thì khôi phục lại bổn thể, đạt được ngũ khí triều nguyên thì trong mỗi một khí, trong mỗi một hạnh, đều có đủ ngũ hạnh và ngũ hạnh lại hợp mà làm một. Ngũ hành hợp thành một thì mới tập trung được, đến được "thiên môn", liền được "tam hoa tụ đỉnh", ngũ khí đầy đủ, bèn thành "thần tiên sống". Cho nên ngũ khí đầy đủ gọi là "đại đạo", lúc đó thì có thần thông, bay đi tự tại. Ngoài thân có thân tướng mà vô tướng.
‘’Tu lâu thuần dương thọ vạn năm.’’ Tu lâu tức là tu hành trải qua lần này rồi lần khác, không biết tu đã trải qua bao nhiêu lần, trở thành thuần dương không còn âm khí, không còn đố kỵ, chướng ngại, phiền não, không còn tâm tham, tâm sân, tâm si. Cho nên gọi là "hoạt tử nhân" (người sống như đã chết).
Bạn nói người ấy chết rồi chăng ? Người ấy vẫn còn hơi thở, bạn nói người ấy còn sống chăng ? Người ấy không tham sân si, đố kỵ, chướng ngại, như những kẻ khác. Vì những thứ đó đều là âm khí, nhưng mà thứ thuần dương này có chỗ bất đồng với Phật giáo, được ít cho là đủ, không tiếp tục nỗ lực, phế bỏ giữa đường, có sự giới hạn, có một cảnh giới, có sự chấp trước, còn chấp trước túi da hôi thối này, buông cũng buông không được, xả cũng xả không xong, đi đến bất cứ nơi nào cũng phải mang túi da hôi thối này, còn chưa được ‘’đồng thể với vạn vật, làm một với hư không, chưa được vô lượng vô biên với pháp giới tính mà làm một, vì chưa thoát khỏi luân hồi, chưa phá được chấp trước, thần thông dù lớn vẫn còn ngã tướng, ngã chấp.’’(Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - Google Drive)
+ Truyền thuyết về thần tiên và yêu tinh (Fairies and elves of legends): Trên cõi cảm dục, chúng ta cũng gặp các tinh linh thiên nhiên (nature spirits) – thuật ngữ này chính xác hơn là thuật ngữ tinh hoa hành khí (elementals). Các tinh linh thiên nhiên này đang lo việc kiến tạo hình hài trong các giới khoáng chất, thực vật, động vật và nhân loại. Có loại tinh linh thiên nhiên xây dựng các khoáng chất, đưa các sinh năng (vital energies) vào cây cỏ, tạo ra các thể (bodies) của giới động vật từng phân tử một. Chúng chăm lo đến việc tạo ra các thể cảm dục của loài khoáng vật, thực vật và động vật, cũng như lo việc tạo ra thể xác các loài này. Đây là các thần tiên và yêu tinh thường được nói đến trong các chuyện cổ tích (legends). “Dân tộc nhỏ bé” (“a little people”) này đóng góp một vai trò rất lớn trong văn học dân gian (folk–lore) của mỗi quốc gia, đây là những trẻ con duyên dáng và chưa có ý thức trách nhiệm (irresponsible) của Thiên nhiên mà khoa học hờ hững cho là chỉ có nơi nhà giữ trẻ, nhưng sau này, chúng sẽ được các nhà khoa học sáng suốt đặt trở lại vào cấp đẳng thiên nhiên của chúng. Còn ngay bây giờ, chỉ có các thi sĩ và các nhà huyền học tin là có chúng, nhà thi sĩ thì nhờ năng khiếu trực giác, còn nhà huyền học thì nhờ phát triển nội nhãn thông. Đa số người đời đều nhạo báng cả hai, nhất là nhạo báng các nhà huyền học; nhưng không hề gì, minh triết sẽ được chứng minh là đúng đối với việc này. (MTNX, 74–75)
+ Chú Lăng Nghiêm: Trong bảy ngày thứ hai, một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát, tâm không gián đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có chỉ dạy về nguyện.
Giảng: Trong tuần thứ hai tu hành, “một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát.” Quý vị phải thật lòng và nhất tâm. Pháp tứ hoàn thệ nguyện
“Tâm không gián đoạn.” Có nghiã là tâm không dừng trì tụng chú Lăng Nghiêm, và tâm không bao giờ quên tứ hoàn thệ nguyện.
“Trong Luật Tạng của ta đã có chỉ dạy.” Khi đức Phật nói về giới luật, đức Phật có dạy cách phát thệ nguyện.
Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy, mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện. Chỗ ánh sáng của gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo tràng tu Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời mạt thế thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly. Giảng: “Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật.” Quý vị trì tụng chú “Tát Đát Ra Bát Đát Ra” mà đức Phật đã thuyết, đó là chú Lăng Nghiêm.... (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm, Tập 7 - HT Tuyên Hóa)
+ Chú Lăng Nghiêm - Thủ Lăng Nghiêm:
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ: Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương :
1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ.
2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ.
3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ.
4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ.
5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Phật Thành Tựu là chủ. (Bộ sổ ghi nghiệp của chúng sanh được giữ bởi những vị “Cai Quản Nhân Quả” hay Minh Quan trong địa ngục_Từ điển thuvienhoasen.org)
- Mời đọc: Khai thị về Kinh và Chú Thủ Lăng Nghiêm
- Mời đọc: Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm
+ Ứng dụng Chú Lăng Nghiêm: Trừ ái dục và
Tôi đã nói với quý vị về việc tụng chú Lăng Nghiêm. Nếu quý vị tụng được chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ là một trong những người giàu nhất thế giới trong bảy kiếp sau. Thực vậy, nếu ngay bây giờ, nếu quý vị tụng được chú Lăng Nghiêm, thì quý vị sẽ là một trong những người giàu nhất thế giới vì quý vị nhận ra được Pháp bảo tạng nầy. Và khi quý vị đặt Pháp bảo tạng nầy vào trong tâm quý vị rồi thì còn có ai đánh cắp ra khỏi được? Bất kỳ loại kẻ cắp nào cũng không lấy được. Pháp bảo tạng nầy ở trong tự tánh của quý vị. Nó đã được cất giữ trong vòm trời Như Lai tạng của quý vị. Chẳng ai có thể tìm đến đó để lấy cắp được. Chẳng thể diễn tả nó vi diệu đến chừng nào. Nếu quý vị thâm nhập được Phật pháp, thì ngay bây giờ quý vị là một trong những người giàu nhất thế gian. Nhưng bây giờ thì quý vị chưa sử dụng tài sản đó được. Khi nào quý vị thành Phật rồi thì điều ấy sẽ thuộc về quý vị. Bây giờ gia tài ấy chỉ mới được kí thác với tên của quý vị, nhưng quý vị chưa đến tuổi trưởng thành, thế nên bây giờ chưa dùng được. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
-Chú Thủ Lăng Nghiêm tiêu trừ Ái dục: ... Như Ma-đăng-già trước kia là dâm nữ, do nhờ sức của thần chú mà tiêu trừ ái dục. Nay trong Phật pháp có tên là Tánh tỷ-khưu ni.
Giảng giải:
"Như Ma-đăng-già trước kia là dâm nữ, do nhờ sức của thần chú mà tiêu trừ ái dục". Trong đời trước, cô ta là dâm nữ, vốn nhiều ái dục. Tuy vậy, năng lực của thần chú Thủ-lăng-nghiêm đã khiến cho tiêu tan hết ái dục trong cô. Nên bây giờ chúng ta mới biết công dụng thần chú Thủ-lăng-nghiêm là để tiêu trừ ái dục trong lòng mỗi người. “Thế thì tôi chẳng muốn tụng chú Thủ-lăng-nghiêm nữa,” quý vị bác lại. “Tôi không muốn tình yêu của mình bị khô héo. Tôi muốn có tình yêu mãi mãi.”
Giữ mãi tình yêu ấy? Được rồi! Quý vị cứ mặc tình. Nếu quý vị đã thích rồi, thì chẳng ai ngăn cản được. Nhưng quý vị nên nhớ rằng thần chú Thủ-lăng-nghiêm không những chỉ trừ bỏ được nghiệp ái, mà còn có thể khiến cho tăng trưởng năng lực thần thông và trí huệ. Đó là năng lực bất khả tư nghì.
Ái tình là khổ đau. Như tôi vừa nói đến. Yêu và ghét là hai cái khổ. Chẳng hạn, hãy xem tình yêu mà không được đáp lại. Người đang yêu không nghĩ đến gì khác ngoài người mình yêu đến mức không ăn không ngủ được. Họ cứ mơ tưởng đến cách theo đuổi, nhưng cuối cùng họ vẫn không đạt được. Có phải đó là nghĩ mãi đến cái khổ hay không?
Nay trong Phật pháp có tên là Tánh tỷ-khưu ni.
Pháp danh Tánh tỷ-khưu ni của Ma-đăng-già biểu hiện sự nhận ra tự tánh của cô ta. Ngay khi Đức Phật nói pháp cho cô ta nghe, ngay lúc đó cô ta chứng ngộ, đạt được quả vị thứ ba của hàng A-la-hán, không qua các thứ bậc sơ quả đến quả vị thứ hai. Cô ta chứng ngộ ngay quả vị thứ ba. Vì cô nhận ra rằng, thấy rằng ái dục vốn là không. A-nan vẫn còn trong giai vị sơ quả, trong khi người vợ của ông trong 500 kiếp trước đã vượt qua mình quá xa.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+LĂNG NGHIÊM CHÚ SỚ LƯỢC GIẢNG
Nhân duyên Ðức Phật thuyết kinh Lăng Nghiêm là vì A Nan bị Ma Ðăng Già Nữ dùng tà chú Tiên Phạm thiên mê hoặc, nhiếp dẫn vào nhà dâm, dựa kề vuốt ve, làm cho A Nan sắp bị hủy hoại giới thể. Ðức Phật sai Bồ tát Văn Thù đem chú đến cứu hộ, dắt A Nan về chỗ Phật. Vì thế nên biết Chú Lăng Nghiêm là chủ thể của Kinh Lăng Nghiêm. Nếu không có chú Lăng Nghiêm, thì không có Kinh Lăng Nghiêm. Mà Charles Luk khi phiên dịch Kinh Lăng Nghiêm ra tiếng Anh, lại võ đoán bỏ đi phần chú Lăng Nghiêm cùng với phần kiến lập thiết trí đạo tràng, nói người Tây phương đối với chú không có gì hứng thú. Ðiều này thật là hoàn toàn sai lầm. Thật như rằng lấy tai thay mắt (đối với vự việc chỉ nghe người ta nói liền tin theo mà không chịu phân tích, xét đoán), giống như thằng mù dẫn thằng đui, người ta nói sao mình cũng tào lao làm bậy theo, thật là vô tri ngu dốt, đáng thương vô cùng, đáng hổ thẹn biết bao. Ðã không thỉnh giáo với các bậc Thiện trí thức, lại lấy ý kiến nông cạn hẹp hòi của riêng mình, độc tài Kinh nghĩa, không sợ quả báo, gan to tầy trời, mà những người không hiểu biết lại a dua theo đó. Lại có những quyến thuộc của ma vương, vô cùng khiếp sợ chân lý của Kinh Lăng Nghiêm phá tà hiển chánh, thanh tịnh minh hối, chuyển mê về ngộ. (HT Tuyên Hóa giảng)
Xem thêm toàn văn (Googdrive): Giảng giải Chú Lăng Nghiêm
+ Bố thí - Cúng dường - Cho đi là còn mãi: Lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương II)
+ Bố thí: Xuất Tâm hoan hỷ mong cầu được Bố thí, cho dù Bố thí bất cứ vật gì đều có được công đức rất lớn. Một ví dụ sinh động và nhiệm mầu về câu truyện một cậu bé Xuất Tâm Bố thí khi gặp Đức Phật Kinh hành đến, cậu bé bốc một lắm đất dâng lên Ngài với Tâm lượng chân thành, Đức Phật đã nhận đất cho vào Bảo Bát mang theo, Phật dặn Ngài A Nan Đà mang đất này về để ở Phòng của Ngài - Đức Phật dạy rằng, khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, cậu bé sẽ được làm Vua tên A Dục, hộ trì tránh pháp. Thực tế đúng như vậy. (Nguồn: Theo Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh)
+ Thế Tôn cả đời tu thiện là tu ba loại bố thí
- Bố thí Tài: Thế Tôn không có tiền của, dùng thân thể, dùng thể lực (thân thể là nội tài) vì xã hội phục vụ, đây là thuộc về bố thí tài. Mỗi ngày đi dạy học khắp nơi, giáo hóa chúng sanh. Đây là bố thí nội tài.
- Bố thí Pháp: Nội dung dạy học là giúp người khai ngộ, giúp đỡ người, chỉ dạy người khác đoạn ác tu thiện, chỉ dạy người phá mê khai ngộ, đây là bố thí pháp.
- Bố thí Vô Úy: An ủi một phần chúng sanh khổ nạn, hòa lẫn thành một khối với đời sống của họ, khiến họ sinh tâm hoan hỷ, đây là bố thí vô úy.
* Đức Phật trong Kinh dạy: "Tu tài bố thí thì sẽ có tiền của. Tu pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ. Tu vô úy bố thí thì được khoẻ mạnh sống lâu" (Kinh TTNĐ-Tập 54_PS Tịnh Không)
+ Tài vật bố thí cho hành khất, theo nghĩa đen, “nhân đức”, cái thứ nhất trong sáu ba–la–mật của Phật giáo. (NGMTTL, 96)
+ BỐ THÍ - GỐC LÀ XUẤT TÂM LƯỢNG TỪ BI HỶ XẢ THÌ CÓ LỢI ÍCH NHIỆM MẦU
Xuất Tâm hoan hỷ mong cầu được Bố thí, cho dù Bố thí bất cứ vật gì đều có được công đức rất lớn. Một ví dụ sinh động và nhiệm mầu về câu truyện một cậu bé Xuất Tâm Bố thí khi gặp Đức Phật Kinh hành đến, cậu bé bốc một lắm đất dâng lên Ngài với Tâm lượng chân thành, Đức Phật đã nhận đất cho vào Bảo Bát mang theo, Phật dặn Ngài A Nan Đà mang đất này về để ở Phòng của Ngài - Đức Phật dạy rằng, khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt, cậu bé sẽ được làm Vua tên A Dục, hộ trì tránh pháp. Thực tế đúng như vậy. (Nguồn: Theo Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh)
+ Lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.(HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Chương II)
+ Bố Thí Độ
Bố thí độ (dana paramita) tức là phép tu cúng dường, hiến tặng. Khi hiến tặng, ta được sinh qua bờ bên kia liền lập tức. Khi giận một người nào ta liền đau khổ. Nếu ta thực tập hiến tặng (bố thí), thì niềm sân hận trong ta được chuyển hóa và ta vượt sang được bờ bên kia ngay tức khắc, đó là bờ của vô sân, của an lạc, hạnh phúc và từ bi. Ta có ý muốn dâng tặng niềm vui cho người kia, muốn giúp người kia sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Điều này rất dễ thực tập. Ta biết trong chiều sâu tâm thức ta có hạt giống của sự độ lượng, sẵn lòng muốn làm cho người khác hạnh phúc. Những hạt giống và tâm hành này luôn luôn có mặt trong ta. Khi buồn giận, ta vung vãi sự buồn giận, bạo động và khổ đau lên những người quanh ta. Vậy điều thiết yếu trước tiên là trở về chăm sóc chính mình, thực tập tiếp xúc với hạt giống hiểu biết và thương yêu nơi tự thân. Thời gian đầu của mối liên hệ, ta cam kết là sẽ làm bất cứ điều gì cho người thương của ta hạnh phúc. Nhưng có lẽ bây giờ ta đang làm ngược lại với lời cam kết ấy. Vậy sự thực tập là trở về với cái tâm ban đầu, tiếp xúc với hạt giống thương yêu trong ta và làm đúng theo những lời mà ta đã cam kết, thì thế nào ta cũng làm cho người thương của ta hạnh phúc. ...........
Quý vị cũng đã được học về giáo lý tánh Không (the teaching on the nature of emptiness) trong sự bố thí. Theo tinh thần của giáo lý tánh Không, thì chúng ta phải thực tập bố thí theo tinh thần vô phân biệt, không kỳ thị và không đặt điều kiện. Đây là hành động cao siêu nhất của sự bố thí. Nếu quý vị bố thí theo tinh thần Bồ Tát, nghĩa là bố thí mà không thấy có người bố thí, người tiếp nhận sự bố thí và phẩm vật bố thí, thì công đức vô lượng và hạnh phúc sẽ rất lớn. Xin quý vị học hỏi sâu thêm về giáo lý này để phép thực tập bố thí đạt tới hiệu quả lớn hơn. Càng bố thí ta càng hạnh phúc và ta làm cho nhiều người chung quanh ta hạnh phúc. (Nguồn: Thiền Sư Thích Nhất hạnh giảng Bố Thí)
+ Hiểu rõ về Bố thí
I. Bố thí là gì?
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí. Bố là khắp, thí là cho. Bố thí là cho khắp tất cả. Nếu nói như vậy thì hơi đơn giản và mơ hồ. Vì cho khắp tất cả có nghĩa là cho khắp tất cả những gì mình có, hay cho khắp tất cả chúng sinh?
Khi ta đi đường gặp một kẻ nghèo khó đứng xin ăn, ta lấy năm đồng hay một cắc ra cho họ, thì ta gọi đó là bố thí cho kẻ nghèo. Trong gia đình khi ta cho con cái vật gì thì ta chỉ gọi đó là cho. Đối với những người có địa vị xã hội cao hơn ta, hay đối với hàng ông bà chú bác thì ta không gọi là cho mà gọi là Tặng hay Biếu. Rồi khi vào chùa đối với Tam Bảo ta lại có tiếng gọi khác là cúng dường. Cũng là một hành động cho mà lại có nhiều tên gọi khác nhau vì đó là tùy ở nơi đối tượng của sự cho, tức là người nhận. Mùa Xuân Tết đến, ta không thể đem một món quà đến gặp ông chủ của mình mà nói rằng: 'Tôi xin bố thí cho ông chủ món quà', hoặc gặp một vị Thầy ta nói: 'Con xin bố thí cho Thầy', hoặc ta cũng không thể nói: 'Ba cúng dường cho con một hộp bánh', v...v... Tiếng Việt của ta rắc rối lắm, không phải dễ dàng đâu! Nếu không chú ý cẩn thận một chút là ta có thể gây phiền phức cho chính mình và cả người khác nữa.
Như ta đã thấy Bố thí gồm có nhiều nghĩa: cho, tặng, biếu, cúng dường, bố thí. Nhưng để giản tiện bớt cho những trang sau, ta tạm gọi tất cả những cái đó là Bố thí.
II. Vì sao phải bố thí?
Vì Bố thí đem lại nhiều lợi ích sau đây : Bố thí là một kho tàng phước đức luôn luôn đi theo người chủ (tức người cho) đời này sang đời khác; bố thí xây dựng hạnh phúc và tiêu trừ đau khổ; người biết bố thí thì ai cũng thương mến; bố thí làm cho tâm (người cho) được an vui, khi gần chết tâm không sợ hãi; bố thí tiêu trừ lòng tham lam bỏn xẻn; người biết bố thí thì chư Thiên ủng hộ; bố thí là con đường trong sạch mà tất cả Thánh nhân đều đã đi qua; bố thí là một thiện nghiệp sẽ cho ra quả báo tốt; bố thí là hành động của những người hùng; bố thí sẽ tiêu trừ sự nghèo và đóng cửa dẫn đến ba đường ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh); bố thí giữ gìn công đức; bố thí là điều kiện đầu tiên của con đường dẫn đến Niết Bàn; bố thí là gốc rễ của tất cả thiện pháp; bố thí là nhà ở của những người cao quý, là thú vui của những bậc Thánh (Arya) và Vĩ nhân; bố thí là một cái gương sáng đáng để cho những người thiếu phước đức và trí huệ noi theo......... Mời xem giảng giải chi tiết tại: Pháp Bố thí lục độ
Xem thêm: Phật Thích Ca nói về bố thí trong các Kinh Tạng
+ Bố thí - Quả báo lớn nhất (Nghệ thuật bố thí - Bí quyết là ở hạ mình): ...“Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố thí có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời, có người hưởng phước trong mười đời, hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời.
Những sự ấy tại làm sao thế? Cúi xin đức Thế Tôn dạy cho”.
Bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng:
.... Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng: “Trong cõi Nam Diêm Phù Đề có các vị Quốc Vương, hàng Tể Phụ quan chức lớn, hàng đại Trưởng Giả, hàng đại Sát Đế Lợi, hàng đại Bà La Môn ...v.v...
Nếu gặp kẻ hết sức nghèo túng, nhẫn đến kẻ tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây mù quáng, gặp những hạng người thân thể không được vẹn toàn như thế.
Lúc các vị Quốc Vương đó v.v... muốn bố thí, nếu có thể đủ tâm từ bi lớn, lại có lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc bảo người khác đem cho, lại dùng lời ôn hòa dịu dàng an ủi.
Các vị Quốc Vương, Đại Thần đó v.v... đặng phước lợi bằng phước lợi công đức cúng dường cho một trăm hằng hà sa chư Phật vậy.
Tại làm sao? Chính bởi vị Quốc Vương đó v.v... phát tâm đại từ bi đối với kẻ rất mực nghèo cùng và với những người tàn tật kia, cho nên phước lành được hưởng quả báo như thế này, trong trăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ để thọ dùng như y phục đồ uống ăn ...v.v... (còn dài, mời quý vị đọc trong Kinh Địa Tạng để hiểu, kết hợp hài hòa về dụng Tâm bình đẳng và nghệ thuật bố thí).
+ Bố thí - Cho đi đúng pháp để được Quả báo cát tường và nhiệm mầu
Biết bố thí với tâm niệm bình đẳng
Biết phụng sự những bậc đắc đạo
Biết tôn quý những kẻ đáng tôn quý trong hai giới nhân và thiên
Đó là điềm lành lớn nhất.
Đẳng tâm hành bố thí: Đẳng tâm là tâm niệm bình đẳng, biết phụng sự những bậc đắc đạo, biết tôn quý những bậc đáng quý trong hai giới trời và người, đó là điềm lành lớn nhất. Đẳng tâm là tâm niệm không kỳ thị, coi tất cả mọi loài đều bằng nhau. Khi cứu giúp người thì mình không kỳ thị, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo. Giúp là giúp thôi, tại người ta khổ nên mình giúp đó gọi là đẳng tâm hành bố thí.
Bố thí là một phép thực tập, nó đem lại cho mình hạnh phúc, nó là một trong sáu sự thực tập có thể đưa mình từ bến bờ khổ đau, hệ lụy đi sang bến bờ thảnh thơi, an lạc, gọi là Lục Ba La Mật (Six Paramitas). Lục Ba La Mật là sáu phương pháp thực tập đưa mình từ bờ bên này sang bờ bên kia gồm: bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định, nhẫn nhục và trí tuệ.
Phép thứ sáu có liên hệ với nguồn năng lượng thứ năm, gọi là tuệ.
Phép thứ năm, nó liên hệ tới nguồn năng lượng thứ tư là định. Trì giới cũng liên hệ ít nhiều tới niệm định tuệ và có khi là giới định tuệ. Niệm và giới liên hệ mật thiết đến nỗi không phân biệt được, đó là trái tim của sự thực tập đạo Bụt, gọi là niệm định tuệ hay là giới định tuệ nó còn được gọi là tam vô lậu học, tức là ba sự rèn luyện, ba sự thực tập, nó giúp cho mình không rơi rụng trong thế giới của hệ lụy, sầu khổ. Vô lậu tức là không có rạn nứt, không rơi rớt xuống.
Bố thí là hiến tặng, là phân phát, là chia sẻ. Sự thực tập đó có thể đưa từ thế giới của hận thù, của khổ đau, của hệ lụy đi sang thế giới của giải thoát, của an lạc, của tình thương. Khi giận ai thì mình không muốn cho người đó cái gì hết, để dành cho người khác, nhưng nếu mình nói, thôi cho người đó đi thì tự nhiên mình hết giận liền. Đó là một đề nghị của đức Thế Tôn.
Người mình thương, lâu lâu mình giận người đó, biết trước như vậy thì bây giờ khi chưa giận mình lo mua quà trước cất trong tủ, giữ cho kỹ, để khi nào mình giận mà tháo gỡ không được thì mình nhớ lời Bụt dạy, đi kiếm món quà tặng cho người đó: anh có món quà cho em, chỉ cần nghĩ tới vậy là mình hết giận liền, rất là hay.
Bố thí không phải chỉ đối trị với sự ích kỷ, tham lam mà còn đối trị luôn với sân và si, nó đối trị cả tam độc. Khi mình biết rằng khổ đau của người đó tức là khổ đau của mình, làm cho người đó hạnh phúc thì mình được hạnh phúc hơn, đó là vô si, là trí tuệ, mà có trí tuệ thì hết khổ. Vì vậy bố thí không phải chỉ là đối trị với sự bỏn sẻn, tham lam, ích kỷ mà nó còn chuyển hóa luôn cả cái sân hận và cái si mê, cho nên gọi là Bố Thí Ba La Mật (Dana Pamarita). Vị Bồ Tát mà thực tập bố thí thì phải bố thí một cách bình đẳng, nghĩa là không phân biệt, không kỳ thị. Bố thí có nhiều loại, ở đây chúng ta chỉ nói tới ba loại là : tài thí, pháp thí và vô úy thí.
- Tài thí tức là bố thí tài vật như : tiền bạc, nhà ở, cơm áo, thuốc men…,
- Pháp thí là chỉ cho người kia phương pháp để người ấy thoát khổ. Mình biết con đường Bát Chánh Đạo nên biết cách tháo gỡ, hòa giải được cho họ, giúp họ vượt thoát buồn lo, sợ hãi. Thành ra không cần giàu có mới bố thí được, mình có trí tuệ là có thể bố thí được rất nhiều, mình có giáo pháp, mở khóa tu là pháp thí
- Thứ ba là vô úy thí tức là hiến tặng sự không sợ hãi, người kia sợ chết, người kia sợ đói, người kia sợ cô đơn. Cái sợ của người kia làm cho họ co rúm lại, khiến họ không thể có được hạnh phúc trong đời sống hàng ngày
Trên thế giới bây giờ cái sợ rất lớn, các nước đều sợ mà sợ những cái rất hão huyền, vì sợ cho nên phải mua súng, mua bom, vì sợ cho nên phải bỏ hết tiền ra để mà trang bị quân đội, không có tiền đủ để cung cấp lương thực cho dân. Thế giới bây giờ được vận hành trên cái sợ, vì sợ cho nên có nhu yếu muốn mua vũ khí mà nhiều người vì tham cho nên đã chơi trên cái sợ của người khác. Họ chế tạo vũ khí, họ nói nếu anh không mua cái này, mai mốt nó đánh anh, anh ráng chịu. Vì vậy mình biết rõ ràng rằng cái tham và cái sợ đi đôi với nhau. Vô úy thí là trao tặng sự không sợ hãi, mà muốn trao tặng sự vô úy thì chính mình phải có sự vô úy. Mình có trí tuệ, mình không sợ chết, không sợ đói, không sợ nghèo và khi mình có cái vô úy đó rồi thì mình mới có thể hiến tặng cho người khác được. Nhờ có trí tuệ mà mình không sợ hãi, còn nếu không có trí tuệ thì sợ hãi rất nhiều.
Cái sợ đó đưa tới sự chia rẽ, bạo động, đưa tới nghi ngờ, đưa tới khủng bố và chống khủng bố. Vì vậy bố thí là một trong sáu phương pháp thực tập để đưa mình từ bờ của khổ đau, của hệ lụy đi sang bờ của giải thoát, của an lạc, của tình thương, của hạnh phúc. Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị bồ tát chuyên môn ban tặng sự không sợ hãi.
Biết phụng sự những bậc đắc đạo: Đây là vấn đề đầu tư. Mình biết bố thí một cách bình đẳng không kỳ thị rồi nhưng mình cũng biết đầu tư nữa. Những bậc đắc đạo, những người có trí sáng thì sự có mặt của những vị đó rất có lợi cho quần chúng, cho nhân gian, tại vì có mặt của những người đó là có nhiều ánh sáng, có nhiều trí tuệ vì vậy giúp người ta sẽ không đi lầm đường, lạc lối, xuôi về ba nẻo xấu ác. Do đó mình phải đặc biệt yểm trợ những bậc đắc đạo, mình không kỳ thị, nhưng mình đặc biệt chú trọng tới các vị ấy, đó là vấn đề đầu tư. Đây là giá trị đạo đức, giá trị trí tuệ. Ở trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có một đoạn khi mình mới nghe thì giống như là bố thí không có bình đẳng, đoạn đó nói rằng cho một người ác ăn cơm, không có công đức bằng cho một người hiền ăn cơm. Tại vì cho người hiền ăn cơm tức là đầu tư vào người hiền, người hiền đó có thể giúp được rất nhiều người. Cố nhiên là người ác khi đói cũng khổ, cho nên cũng cho họ ăn cơm, nhưng nếu mình có cơ hội cho người hiền ăn cơm thì công đức còn nhiều hơn nữa. Nó có nghĩa không phải là mình không cho người ác ăn cơm, nhưng trong khi bố thí thì có sự đầu tư vào trong đó. Thành ra hai cái không chống đối với nhau, nó có thể đi đôi với nhau, một bên là tâm không kỳ thị, một bên là ý hướng muốn đầu tư, nó tế nhị lắm.
Biết tôn qúy những kẻ đáng tôn qúy trong hai giới nhân và thiên: Nó cũng nằm trong tinh thần đó, nghĩa là mình phải có sự đối xử đặc biệt, tôn kính đối với người đáng tôn kính, tại vì những người đó có đạo hạnh, họ có trí tuệ. Mình yểm trợ cho những người đó thì nó có lợi lạc nhiều cho thế giới của mình. Tôn kính bậc đáng kính, cái này cũng có trong bản chữ Pali. (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức - HT Thích Nhất Hạnh)
+ Ngài Bồ Tát Địa Tạng: Quý vị sẽ hỏi: “Tôi tưởng rằng chỉ có các bồ-tát đến từ tám hướng và phương trên. Nhưng cũng có bồ-tát đến từ phương dưới hay sao?”
Vâng, đó là Địa Tạng Bồ-tát chẳng hạn. Ngài đặc biệt chăm sóc mọi chúng sinh ở cõi ta-bà và các cõi giới ở phương dưới.
Bồ-đề tát-đỏa là người đã tự giác ngộ và giác ngộ cho mọi chúng sinh. Chính họ cũng là một hữu tình cũng giống như mọi chúng sinh khác, nhưng là người đã đạt được giác ngộ.
Bồ-tát là người đã tự mình tu tập giác ngộ và có năng lực giác ngộ cho người khác. Họ có thể làm lợi lạc cho chính mình và lợi lạc cho mọi loài chúng sinh. Nhưng họ chưa chứng quả vị Phật nên được gọi là bồ-tát. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1)
+ Công đức lế lạy ngài Địa Tạng Bồ Tát: Trong Kinh nói ngài Địa Tạng Bồ Tát "là mẹ" vô lượng chư Phật, hiểu là rất nhiều đức phật thành đạo đều do Bồ Tát Địa Tạng dạy bảo. Cho nên lễ lạy xưng danh cúng dường Địa Tạng Bồ Tát được nhiều công đức nhất, hơn cả Phổ Hiền Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Trí Bồ Tát ..., sự khác biệt là do mỗi chúng sanh chúng ta đều có duyên sâu với đức Bồ Tát Địa Tạng, vì ngài đã thành đạo Bồ tát quá lâu xa. (Nguồn: PS Định Hoằng giảng phút 119)
+ Lợi ích khi nghe, nhìn, đọc hay lễ lạy Địa tạng Vương Bồ tát cũng đều được lợi ích. Lợi ích với Thiên nhân cũng rất viên mãn:
- Chúng sanh trong Lục Đạo lúc sắp mạng chung mà được nghe một tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, thì các chúng sanh đó vĩnh viễn không còn phải trải qua nỗi khổ nơi Tam Ác Đạo nữa. Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, tài vật, của báu, y phục v. v... của người sắp chết đó mà đắp, vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc làm cho người bệnh lúc chưa chết, được mắt thấy tai nghe, biết rằng hàng quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v. v... vì mình mà đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; người đó nếu do nghiệp báo phải chịu bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền được khỏi bệnh, tuổi thọ thêm lâu dài. Còn nếu người đó nghiệp báo sanh mạng đã hết, đáng phải chịu tất cả tội chướng, nghiệp chướng, và đọa vào đường ác, song nhờ công đức này nên sau khi mạng chung liền được sanh vào cõi trời, cõi người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.”....
- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Ta lại nói cho các ông nghe về một cảnh giới không thể nghĩ bàn nữa. Vào đời vị lai, nếu có kẻ nam người nữ nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, năm tuổi, mười tuổi trở xuống mà chết mất cha mẹ - cha mẹ đã qua đời hoặc bị mất tích, cho đến chết mất anh em chị em - có anh em trai hay chị em gái bị chết hoặc thất lạc, người đó khi khôn lớn thường nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng quyến thuộc, song không rõ họ lạc vào chốn nào, sanh về thế giới nào, hoặc sanh trong cõi trời nào.” Đến tuổi trưởng thành, người đó thường nhớ nghĩ và thắc mắc không biết cha mẹ, anh em, chị em cùng các thân quyến của mình đang trôi nổi lưu lạc ở nơi nào trong sáu nẻo đường—chẳng rõ họ được sanh thiên, được làm người, hoặc bị chuyển làm thân A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, hay đọa địa ngục. ...
Bất luận là nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng hay trông thấy hình tượng của Ngài, người đó đều thiết tha chiêm lễ cúng dường, thì quyến thuộc của người đó, giả dụ vì nhân duyên nghiệp chướng và căn cứ theo tội chướng mà họ đã tạo ra thì họ phải bị đọa lạc trong bốn đường ác—A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—phải trải qua đến không biết bao nhiêu đại kiếp mới được giải thoát, thì giờ đây, nhờ vào công đức đắp vẽ và chiêm lễ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng của người đó, họ sẽ được thoát khỏi mọi nghiệp tội, được sanh trong cõi người hoặc cõi trời, hưởng thọ sự vui sướng thù thắng nhất, vi diệu nhất.
- “Như người đó lại có thể trong 21 ngày nhất tâm chiêm lễ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng và niệm danh hiệu của Ngài đủ một vạn biến, thì sẽ được Bồ Tát hiện thân vô biên, mách bảo người đó cõi giới mà hàng quyến thuộc đã sanh về; hoặc trong giấc mộng, Bồ Tát hiện đại thần lực, đích thân dắt người đó đến các thế giới để thấy hàng quyến thuộc của mình.
- Nếu người đó lại có thể mỗi ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát 1000 biến, luôn đến 1000 ngày, thì người đó sẽ được Bồ Tát sai các quỷ thần và thổ địa sở tại hộ vệ trọn đời, hiện đời y phục thức ăn dư dật, không có các thứ bệnh khổ, cho đến các hoạnh sự còn không hề vào đến cửa, huống nữa là đến nơi thân! Người đó rốt ráo sẽ được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
- Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu Đạo Bồ Đề Vô Thượng, muốn ra khỏi Tam Giới; những người đó thấy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe danh hiệu, rồi chí tâm quy y, hoặc đem hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn thức uống để cúng dường chiêm lễ, thì điều nguyện cầu của các thiện nam thiện nữ đó sẽ chóng được thành tựu, vĩnh viễn không bị chướng ngại.”
- Vào đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn cầu trăm ngàn vạn ức điều nguyện, trăm ngàn vạn ức sự việc về hiện tại cùng vị lai, thì nên chỉ quy y, chiêm lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng; thì các điều sở nguyện sở cầu như thế tất đều thành tựu cả.
- Nếu lại cầu mong Bồ Tát Địa Tạng, đấng đầy đủ lòng đại từ bi, mãi mãi ủng hộ cho mình, thì người đó trong giấc chiêm bao liền được Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.”
- Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng, dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được; những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng. “Những hạng người này, khi nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cùng thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thì nên đem hết bổn tâm mà cung kính bày tỏ; rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn thức uống, cùng tất cả đồ chơi cúng dường Bồ Tát. Lại đem một chén nước trong đặt trước Bồ Tát một ngày một đêm, sau đó chắp tay thỉnh để uống, mặt day về hướng Nam; khi nước sắp vào miệng phải chí tâm trịnh trọng. Uống nước xong, phải kiêng cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày. Những người thiện nam thiện nữ này, trong giấc chiêm bao sẽ thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên đến chỗ họ ở mà rưới nước quán đảnh cho. Những người này thức dậy liền được thông minh, các kinh điển một phen lọt vào nhĩ căn thì liền nhớ mãi, không còn quên một câu kinh hay một bài kệ nữa!”
- Vào đời vị lai, nếu có những người nào ăn mặc không đủ, cầu gì cũng trái nguyện, hoặc nhiều bệnh tật, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc bị phân tán, hoặc các hoạnh sự cứ xảy đến làm thiệt thân, khi ngủ thường mộng thấy điều kinh sợ; những người như thế, khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, mà chí tâm cung kính niệm đủ một vạn biến, thì những sự không như ý sẽ tiêu sạch lần lần, liền được an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an vui.”
- Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc vì việc làm ăn sinh sống, hoặc vì việc công chuyện tư, hoặc vì sự sanh sự tử, hoặc vì việc khẩn cấp, mà phải vào rừng lên núi, qua sông vượt biển, cho đến gặp nước lớn hoặc đi ngang hiểm đạo; người đó trước tiên nên niệm danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến, thì đi qua nơi nào cũng có các vị quỷ thần hộ vệ, đi đứng nằm ngồi mãi mãi được an lạc, cho đến dẫu gặp cọp, sói, sư tử... cùng tất cả mọi thứ độc hại, cũng đều không thể làm thương tổn đến được. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - Phẩm 12: Thấy nghe được loại ích)
+ Hỏi đáp về lợi ích đọc tụng, thờ cúng Địa Tạng Bồ Tát tuyệt hay:
Vạn sự việc trên đời, gần gũi với chúng sinh như ốm đau, bệnh tật, tổn thọ, sinh đẻ, phá ác nghiệp chướng, .... đều có hiệu nghiệm nhiệm mầu với người tu - trị tụng Kinh .... (Nguồn: Hỏi Đáp về Địa Tạng Bồ Tát)
128. NHỮNG CON SỐ BẢY
- Bảy Hạng Vợ: Có bảy hạng vợ là vợ như người sát nhân, vợ như người ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ, vợ như người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ.
- Bảy Đức Tin: Người có đức tin có bảy đặc tính là có tâm xả ly bố thí tài vật, mong mỏi được gặp thánh nhân, mong mỏi được nghe Phật pháp, thường có tâm hoan hỷ với việc thiện, ít khoe khoang về mình, có sự chân thật không giả dối, và tịnh tín nơi đáng tịnh tín.
- Bảy chi pháp của bạn hữu là cho những gì khó cho, làm những gì khó làm, nhẫn những gì khó nhẫn, nói lên những gì bí mật của mình, che giấu bí mật của người khác, không từ bỏ khi gặp bất hạnh, không có khinh rẻ khi tài sản khánh tận.
- Có bảy sự thù diệu vị Tỷ-kheo tha thiết hành trì học pháp và trong tương lai khát vọng hành trì học pháp; tha thiết quán Pháp và trong tương lai khát vọng quán Pháp; tha thiết nhiếp phục lòng dục, và trong tương lai khát vọng nhiếp phục lòng dục; tha thiết Thiền tịnh, và trong tương lai khát vọng Thiền tịnh; tha thiết tinh cần tinh tấn và trong tương lai khát vọng tinh cần tinh tấn; tha thiết niệm tuệ và trong tương lai khát vọng niệm tuệ; tha thiết thể nhập tri kiến và trong tương lai khát vọng thể nhập tri kiến.
- Bảy pháp thành tựu là Tỷ-kheo có lòng tin, có giữ giới, có nghe nhiều, sống Thiền tịnh, tinh cần tinh tấn, có chánh niệm, và có trí tuệ.
- Bảy pháp thối đọa: đưa một nam cư sĩ đến thối đọa là quên, không đến thăm Tỷ-kheo; phóng túng nghe diệu pháp; không tu tập tăng trưởng giới; ít tin tưởng các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân nhập; nghe pháp với tâm cật nạn, tìm tòi các khuyết điểm; tìm người xứng đáng cúng dường ngoài Tăng chúng; tại đấy phục vụ trước.
- Chúng sanh sinh ra từ bụng mẹ,
* Giai đoạn đầu tiên là kalala, được mô tả là chất nhờn giống như giọt dầu mè dính trên lông con thú, rảy đi bảy lần chỉ còn một chút dính lại ở đầu lông.
* Bảy ngày kế tiếp, chất kalala phát triển thành abbuda, giống như nước máu dợt dợt.
* Bảy ngày kế tiếp, chất abudda phát triển thành pesi, giống như thịt rất mềm mại.
- Bảy sức mạnh là tín lực, tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
- Bảy Tài Sản/ thánh sản là tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.
- Bảy thứ lửa là lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa những vị đáng cung kính, lửa gia chủ, lửa các vị đáng cúng dường, lửa củi.
- Bảy thứ tưởng là tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngã trong khổ. (Nguồn: Xem mục 128)
+ Kinh Thiện Sanh: Đức Phật dậy về Đạo Đức và Bổn Phận:
+ Tránh 4 việc ác và 6 việc làm hao tổn tài sản
- Bốn nghiệp kết: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ
- Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy)...
- Sáu nghiệp hao tổn tài sản:
1. Đam mê rượu chè./
2. Cờ bạc./
3. Phóng đãng./
4. Đam mê kỹ nhạc./
5. Kết bạn người ác./
6. Biếng lười.
+ Bốn hạng kẻ thù và bốn hạng người đáng thân
+ Lễ bái sáu phương hay xây dựng một xã hội hạnh phúc
* BỔN PHẬN LÀM CON - Hiếu đứng đầu:
1. Không oán trách cha mẹ không có năng lực
2. Không oán trách cha mẹ hay cằn nhằn
3. Không oán trách cha mẹ mắng mình
4. Không oán trách cha mẹ chậm chạp
5. Không oán trách cha mẹ ốm yếu
II- BỔN PHẬN CHA MẸ VỚI CON
III- BỔN PHẬN GIỮA VỢ CHỒNG
IV- BỔN PHẬN DÒNG TỘC
V- BỔN PHẦN THẦY TRÒ
VI- BỔN PHẬN BẠN BÈ VÀ LÀNG XÓM
+ Quan hệ chủ tớ, trên dưới
+ Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn
Xem: Kinh Thiện Sanh
+ Phật dậy người xuất gia: Dầu nói ngàn ngàn lời, nhưng không gì lợi ích, tốt hơn một câu nghĩa, nghe xong, được tịnh lạc.
"Này các Tỷ- kheo, có 10 đề tài nói chuyện này: Câu chuyện về ít dục - biết đủ - viễn ly - về không tụ hội - về tinh tấn - về giới - về định - về tuệ - về giải thoát - về giải thoát tri kiến. ... Nếu các Thầy tiếp tục nói những câu chuyện liên hệ đến 10 đề tài để nói chuyện này, thời các Thầy có thể với ánh sáng của mình đánh bạt ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, những vật có đại thần lực, có uy lực, còn nói gì của các du sĩ ngoại đạo?" (Nguồn: Kinh Pháp Cú, kệ số 100)
+ Lời Nói - Ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật (Tăng Chi Bộ_đoạn 28)
+ Chất Lượng Lời Nói_Đức Phật dậy
- Nói đúng lúc; - Nói chân thật; - Nói đúng pháp; - Nói đúng nghĩa; - Nói về tịch tĩnh; - Ưa nói về tịch tĩnh; - Hợp thời; - Hợp lý; - Khéo dạy, khéo la mắng. (Nguồn: mục 483- Tại đây)
+ Lời nói hay ngôn ngữ giao tiếp thiện lành: Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ngươi có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm.... ... cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng địa vô biên, không hận, không sân". ...
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. .... (Nguồn: 21.Kinh ví dụ cái cưa)
+ Phát Biểu theo Đời sống nhân sinh:
- Ý kiến phát biểu: Khi nhận xét, đánh giá về một sự vật, một con người, hay một hành động thì đó được gọi là “ý kiến”. Thí dụ: Nhận xét về mọi người hay vật, các ý kiến khác nhau không dễ chứng minh được là đúng hoặc sai.
- Nói theo Sự kiện: Là khái niệm về một sự thật và có thể chứng mình được là đúng hay sai. Thí dụ: Trong lý lịch tự khai, có thể kiểm chứng bằng các bằng chứng bằng thẩm tra hay hồ sơ đính kèm.
* Phỉ báng, nhục mạ hay vu khống: Dựng truyện, nói, phổ biến thông tin không đúng sự thật về một người có thể bị pháp luật trừng trị, ở VN đều là tội hình sự.
+ 13. Lời nói có ba loại:
− Những lời tầm phào (idle words) sẽ tạo ra hậu quả cho từng lời. Nếu lời lẽ tốt và nhân từ, không có gì cần được thực hiện. Nếu ngược lại, việc trả giá không thể bị trì hoãn lâu.
− Những lời ích kỷ (selfish words), được đưa ra với ý định mạnh mẽ, sẽ dựng nên một bức tường chia rẽ. Cần thời gian dài mới phá vỡ bức tường đó, và do đó mới phóng thích cái ý định ích kỷ được tích chứa. Hãy xem xét động lực của bạn, và tìm cách dùng các lời lẽ nào để hòa trộn sự sống nhỏ bé với mục đích rộng lớn của ý chí Thượng Đế.
− Lời thù ghét (word of hate), lời nói độc ác, vốn hủy hoại những người cảm nhận ảnh hưởng mạnh của nó, là câu chuyện phiếm độc hại, được truyền đi vì nó gây ra một sự chấn động – những lời này giết chết những sự thôi thúc mong manh của linh hồn, cắt tận gốc rễ của sự sống, và vì thế đưa đến cái chết.
Nếu được nói dưới ánh sáng ban ngày, chúng sẽ mang lại sự trừng phạt xứng đáng; khi được thốt ra và được ghi nhận là những lời dối trá, chúng củng cố cho thế giới ảo tưởng mà người nói đang sống trong đó, và ngăn giữ y thoát ra.
Nếu được thốt ra với ý định gây thương tổn, gây sứt mẻ và gây chết chóc, chúng đi quanh co trở lại người đã phát chúng ra, và chúng sẽ gây tổn thương và giết kẻ đó. (LVHLT, 474)
+ Lời nói thiện - Nghệ thuật nói (Nguồn: TH Lời Phật dậy - Kinh A Hàm):
Bốn biện tài: pháp biện tài, nghĩa biện tài, từ biện tài, ứng thuyết (Vô ngại) biện tài.
Bốn thiện hành của miệng: 1. Nói sự thật, 2. Nói dịu dàng, 3. Không ỷ ngữ, 4. Không hai lưỡi.
Bốn thánh ngôn: 1. Thấy nói thấy 2. Nghe nói nghe 3. Hay nói hay 4. Biết nói biết.
+ Tu khẩu nghiệp - Những lời dạy của Thánh hiền: Mời xem Tổng hợp 45 lời Phật dậy
+ Trung đạo (Noble middle Path, Bát chánh đạo): Con đường hẹp giữa các cặp đối hợp mà chúng ta phải bước lên (nhờ thực hành đức phân biện và lòng vô dục) là con đường quân bình, thăng bằng, tức trung đạo. (ASCLH, 320)
+ Tu theo con đường trung đạo: Trích đoạn: ... Phương tiện vi diệu ban đầu:
A-nan muốn biết pháp môn phương tiện cho kẻ sơ cơ, đó là phương pháp dễ nhất để bắt đầu tu tập, phương pháp đơn giản nhất để bước vào công phu. Một số người liền phán xét:
“A-nan chỉ chú tâm vào việc học rộng nhớ nhiều và cuối cùng gần như bị kết thúc bằng đọa lạc.”
Họ nói: “Cho nên học nhiều chỉ vô ích. Tôi chỉ chú tâm chuyên vào việc tập định, chẳng cần học làm gì.”
Đây là quan điểm thiên lệch, không đúng với tinh thần Trung đạo. Đạo lý khế hợp với Trung đạo là không quá nghiêng lệch về bên phải và cũng chẳng nghiêng lệch về bên trái. Không coi trọng phía trước cũng chẳng coi trọng phía sau. A-nan bị phê phán vì đã chú tâm vào việc học mà xao lãng việc tu định. Còn nếu quý vị chuyên tập trung vào việc tu định và xao lãng việc học thì trí tuệ không được phát sinh. Quý vị phải học tập để có được trí tuệ, đồng thời cũng phải tu định để có được định lực, hai năng lực ấy mới được hợp nhất. Tại Phật giáo Giảng đường chúng ta vừa nghiên cứu kinh điển vừa ngồi thiền. Bằng cách gạt ra ngoài tất cả mọi chuyện, không để cho tâm ý mình lang thang khắp mọi phương Nam Bắc Đông Tây, quý vị mới có thể hoàn toàn tập trung tâm ý mình vào Phật pháp được. Đừng để phí thời gian quý báu. Quý vị phải theo quy luật công phu tu tập hằng ngày.(Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu là Pháp trung đạo:
Làm Vừa Ðủ là Trung-Ðạo
Pháp môn tham thiền, cần hồi quang phản chiếu ở mọi thời mọi lúc một cách tự nhiên. Mình không được quá gấp rút, cũng không được quá chậm chạp; nên có câu nói rằng:
Gấp thì đứt, chậm thì lỏng
Không chậm, không gấp mới thành công.
Không gấp không chậm là trung đạo; đi đứng nằm ngồi đều không rời "cái nầy," xa rời khỏi "cái nầy" tức là sai lầm. "Cái nầy" là cái gì? Ðó chính là Trung-đạo liễu nghĩa.
Tham thiền không được đi vào cực đoan, không được quá lố cũng không được thiếu hụt; quá lố hay thiếu hụt đều không phải là Trung-đạo. Không rơi vào "không," cũng không rơi vào "hữu," không rơi vào hai biên tế, mới gọi là Trung-đạo. Nên nói rằng: "Trung-đạo chính là phi không phi hữu" (chẳng không mà cũng chẳng có), cũng có nghĩa là chân không diệu hữu. Không chấp trước chân không, nhưng cũng đừng quái ngại diệu hữu. Chân không diệu hữu đều không thể nắm bắt, cũng không thể xả bỏ. Nắm cũng không được, bỏ cũng không xong, đó chính là cảnh giới của chân không diệu hữu.
Người dụng công cần phải có thủy có chung (có đầu có đuôi) thì mới thành tựu được. Rằng: "Quán triệt thủy chung." Không thể một ngày tu rồi mười ngày nghỉ Ố nhất bộc thập hàn Ố nghĩa là một ngày hơ ấm, mười ngày bỏ lạnh. Không được gặp chuyện khó khăn liền thối lui, đi được nửa đường rồi bỏ cuộc, người như vậy là kẻ không có chí khí. Cổ nhân nói:
Tu Ðạo bất phạ mạn, chỉ phạ trạm.
Nghĩa là:
Người tu đạo không sợ chậm, chỉ sợ đứng một chỗ.
Lúc thường dụng công tham thiền, mình nên chú ý vào thoại đầu, dùng Kim-cang bảo kiếm (tức là trí huệ) để chặt hết vọng tưởng. Vọng tưởng hết, thì trí huệ hiện tiền. Có trí huệ quang minh, mới phá tan vô minh hắc ám. Vô minh phá trừ rồi, mình thoát khỏi Tam-giới, hết sinh tử, lúc đó mới ra khỏi vòng tròn định mạng (thập nhị nhân duyên).
Người dụng công tu đạo cần có tâm nhẫn nại. Bất luận trường hợp khó khăn gian khổ nào, cũng cần nhẫn thọ. Nhẫn nại thì mới tới được bờ bên kia. Vì vậy trong khi đả thiền thất đừng nên sợ khổ. "Khổ tận cam lai" nghĩa là đắng hết, ngọt lại. Nếu mình chưa lặn xuống tận đáy, mình sẽ không bao giờ vươn lên tận chóp đỉnh. Căn nhà cao hằng ngàn trượng đều từ nơi mặt đất xây lên, không phải xây lên trong hư không. Bởi thế cần hạ thủ tham thiền nơi chốn căn bản, tức là trừ bỏ vọng tưởng. Nếu mình có thể ngừng vọng tưởng, thì lúc đó:
Lòng trong suốt, trăng hiện bóng nước.
Ý an định, trời xanh không mây.
Khi lòng thơi thản, trăm nạn tiêu hết. Ý yên định, mọi chuyện an bình. Rằng:
Tâm ngừng, niệm dứt là giàu sang thật.
Lòng tư dục cạn, ruộng phước mới chân.
Tham thiền tức là dứt hết vọng, chỉ còn sự chân thật (khử vọng tồn chân). Cũng giống như sàng cát đãi vàng vậy; ở trong cát mà tìm vàng đó là chuyện rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu mình muốn tìm vàng thì phải tìm trong cát, tất phải có lòng nhẫn nại. Quý-vị có muốn hiểu rõ Phật tánh của mình không? Muốn được minh tâm kiến tánh chăng? Vậy thì phải nhẫn nại tu hành, nhẫn nại tham thiền, nghiên cứu, lâu dần thì tất nhiên sẽ quán thông, sẽ khai ngộ; "ồ! Thì ra là vậy."
Khi tham thiền thì mình đừng để ý đến chuyện khác, cứ một mực tham câu "Niệm Phật là Ai?" Phải tìm cho ra "Ai" đó, chỉ khi nào tìm ra rồi thì lúc đó mới ngừng tham. Công phu mình đã đến chỗ thuần thục rồi, thì tự nhiên sẽ gặt hái được kết quả tốt.
Khi ngồi trong thế kiết già, đem chân trái gác lên đùi phải, đem chân phải gác lên đùi trái. Ðó là vì chân trái thuộc về dương, chân phải thuộc về âm. Cho nên khi ngồi thiền, chân trái (dương) thì ở phía trên, chân phải (âm) thì ở phía dưới, đó cũng giống như là vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (tức là âm và dương). Tuy ý nghĩa như vậy; nhưng để cho tiện, quý-vị muốn bỏ chân trái ở dưới, chân phải ở trên cũng được; bởi vì Pháp thì không nhất định, tùy theo thói quen của mỗi người, không cần phải chấp trước một phương pháp, một tư thế cố định nào cả. Ðể chân trái ở trên chân phải là một phương pháp mà thôi, không phải là một quy luật tuyệt đối; rằng quý-vị phải tuân theo như vậy.
Nói tóm lại, kiết già phu tọa là thế mình dễ nhập định nhất. Nếu mình có thể nhập định trong lúc đi thì ngồi hay không ngồi đều không thành vấn đề. Cảnh giới lúc nhập định thì không có một chút vọng tưởng nào, trong tâm một niệm chẳng nẩy sinh, bụi trần chẳng nhiễm. Nếu có thể đi đứng nằm ngồi không sinh một niệm nào, không nhiễm ô bụi trần thì đó là lúc dụng công đấy. Không nhất định ngồi mới gọi là dụng công tham thiền. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ CÁC ĐỊNH LUẬT: Gồm Luật Vũ Trụ/ Luật Siêu Nhiên và Luật Tự Nhiên và Luật Sinh Tồn
+ Luật tự nhiên: Ví như Luật Nhân Quả có ba phần: Luật Nghiệp Báo, Luật Duyên Sinh, Luật Duyên Hệ Duyên. Đó là các “Luật Tự Nhiên”. Các Luật này không phải được sáng tạo ra bởi một người nào hay do Đức Phật sáng tạo ra. Các Luật này được ẩn tàng hay có sẵn ngay khi không có Đức Phật trên thế gian này. Khi một vị Phật xuất hiện trên thế gian, Ngài khám phá ra luật ẩn tàng, làm hiển lộ hay dạy cho chúng sinh biết. .... Luật tự nhiên của vũ trụ giải quyết những vấn đề về sự đau khổ, bí mật của số mạng, thuyết tiền định của một vài Tôn giáo, ... Hiểu biết những định luật thiên nhiên này mang lại cho chúng ta sự an vui, niềm hy vọng, lòng tự tin và sự khích lệ tinh thần; giúp chúng ta trở nên tinh tấn, từ ái, nhiệt tâm, độ lượng, khoan dung, cảm thông và vị tha. Chúng ta ý thức được rằng không có gì hoàn toàn xấu, chỉ có sự tương đối mà thôi. (Tham khảo: Chương 6 - đạo Phật căn bản)
A- LUẬT VŨ TRỤ HAY LUẬT SIÊU NHIÊN
I- Định luật gốc vũ trụ: Ba định luật lớn, là các định luật căn bản của vũ trụ, thuộc về hệ thống vĩ đại hơn (đã được tất cả các nhà thiên văn học nhận biết), mà chúng ta là một phần trong đó:
1– Định luật Tổng hợp (Law of Synthesis)
2– Định luật Hút và Đẩy (Law of Attraction and Repulsion)
3– Định luật Tiết Kiệm (Law of Economy):
+ Bốn Định luật phụ của Định Luật Tiết Kiệm hay Vật Chất là (LVLCK, 219):
1- Định luật Rung Động (Law of Vibration):
2- Định luật Thích Nghi (Law of Adaption):
3- Định luật Đẩy (Law of Repulsion):
4- Định luật Ma Sát (Law of Friction):
II- Bảy Định luật Thái Dương Hệ, đều có tương quan với 7 cõi, là (LVLCK, 574–596):
1/ Định luật Rung động (Law of Vibration): Đây là định luật của cõi thứ nhất …
2/ Định luật cố kết (Law of Cohesion): Đây là một trong các định luật chi nhánh của Định luật Hút Vũ trụ… Đây là một trong các định luật quan trọng nhất của Thái Dương Hệ, nếu có thể phân biệt về bất cứ mặt nào; chúng ta có thể gọi đó là Định luật Kết hợp (Law of Coalescence).
3/ Định luật Phân rã (Law of Disintegration): Đây là định luật chi phối sự hủy diệt của hình hài để cho sự sống nội tại có thể tỏa chiếu đầy đủ. Định luật này là một khía cạnh khác của định luật Cố Kết…
4/ Định luật Kiểm soát Từ Điện (Law of Magnetic Control): Định luật này là định luật căn bản chi phối Tam Thượng Thể Tinh thần. Định luật này kềm chế Chân Ngã trong linh hồn thể… Đó là định luật của cõi trực giác.
5/ Định luật Quy Định (Law of Fixation): Đây là định luật đang chi phối cõi trí, có sự tương ứng to tát hơn của nó trong Định luật Nghiệp Quả trên cõi trí Vũ trụ.
6/ Định luật Bác Ái (Law of Love): Định luật Bác ái thực ra chỉ là định luật của Thái Dương Hệ đang biểu hiện trên tất cả các cõi.
7/ Định luật Hy sinh và Tử Vong (Law of Sacrifice and Death): Định luật này chi phối sự phân rã từ từ của các hình hài cụ thể và sự hy sinh của chúng cho sự sống tiến hóa và được nối kết chặt chẽ trong sự biểu lộ của nó với cung thứ 7.
+ Danh sách Luật lấy từ Tooltip (bao gồm các Luật đã nêu trên)
Định luật Xung lực Từ điển
Định luật Hy sinh và Tử Vong
Định Luật Bác Ái/ (ĐL Đạo tràng). (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Quy Định
Định luật Kiểm soát Từ Điện
Định luật Phân rã
Định Luật Cố Kết
Định luật Rung động
Định luật Ma Sát
Định luật Đẩy
Định luật Thích Nghi
Định luật Tiết Kiệm
ĐỊNH LUẬT HÚT (ĐL Chính vũ trụ)
Định Luật Tổng Hợp
Định luật về Chất Liệu
Định luật về Bất Toàn
Định luật Vật chất
Định luật Tuần Hoàn
Định luật Tử Vong
Tương Tác - Định luật Tương Tác Rung động
Định luật Tương Đối
Định luật Tiết Điệu
Định luật Tiết kiệm
ĐỊNH LUẬT TIẾN HÓA THÁI DƯƠNG (ĐL Chính vũ trụ)
Định luật Tiến Bộ Tập thể
Định luật Thời Cơ
Định luật Thăng Tiến
Định luật Tác động và Phản Tác động
Định luật Quy Định
Định Luật Quân Bình
Định luật Phụng Sự
Định luật Phóng hiện Linh hoạt
ĐL PHẢN BỔN HOÀN NGUYÊN(Chân Thần)(ĐL Chính vũ trụ)
Định luật Phân Hủy
Định luật Nhân và Quả
Chuyển Hóa - Định Luật Chuyển Hóa Nghiệp Quả
Định luật Tất yếu Nghiệp quả
Định luật Trách nhiệm Nghiệp quả
Định luật Nghiệp Quả
ĐỊNH LUẬT MỞ RỘNG (ĐL Chính vũ trụ)
Định luật Lũy Tiến
Định Luật Luân Hồi
Định luật liên tục
Định luật Lặp lại
Định luật Hy sinh
Định luật Hoàn Thiện
Định luật Hệ Quả
Định luật Hấp dẫn Hỗ tương
Định luật về các Trường phá
Định luật Hợp nhất Thái dương (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Ái lực Hành tinh (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Trọng lực (Sức hút???) (ĐL Phụ của ĐL Hút)???
Định luật về Màu Sắc (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Hoa Sen (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định Luật Phát Xạ (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Từ điện (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật về tính dục/ Sex (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Tiến bộ (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Ái lực Hóa học (ĐL Phụ của ĐL Hút)
Định luật Hấp dẫn
Định luật Cô Lập hay Giới Hạn
Định luật Báo Phục
Định luật Ái Lực
CHU KỲ - ĐỊNH LUẬT CHU KỲ - Chu Kỳ Thế Giới
+ Bệnh nghiệp Chướng: Nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống, cầu chết cũng chẳng thể được, đây là bệnh nghiệp Chướng. Chẳng có cách gì hết, thuốc men bác sĩ cũng chẳng giúp gì được, siêu độ, tiêu tai miễn nạn cũng chẳng được, tiêu chẳng nổi.
Nhờ sức lực của người khác tiêu không nổi, nhờ tự mình sám hối, sức mạnh của sự sám hối này rất lớn, rất lớn! Chúng sanh tạo ác nghiệp, đây là nguồn gốc thực sự của bệnh tật.
- Có tới mấy loại nguyên nhân của Bệnh:
1. Một loại là oán gia chủ nợ của họ lúc đó thưa kiện với Diêm La Vương, họ đến đó biện luận, sự việc này còn Chưa định án, nên bệnh này của họ chẳng thấy khỏe hơn, đây là một loại, đích thật có.
2. Loại thứ nhì Hoặc khó chết, tức là việc tôi vừa nói kẻ ấy còn phước báo, Chưa hưởng hết, phước báo của họ chẳng chịu xả, nếu họ chịu xả thì vấn đề sẽ được giải quyết nhưng họ chẳng chịu xả.
- Họ vẫn còn muốn hưởng phước tiếp nên chỉ còn cách nằm trên giường bệnh mà hưởng, họ chẳng chịu xả, chẳng buông xuống nổi, đây là một loại.
3. Loại thứ ba là Hoặc là khó lành, trong loại này nhất định có một số nguyên nhân sai khác, bệnh của họ chẳng lành nhưng cũng chẳng chết được. (Xem nguồn: PS Tịnh Không)
+ Làm sao phân biệt được, thế nào là bệnh nghiệp chướng (Câu Hỏi 125):
Đáp: Là chứng bệnh rất kỳ quái, không nguyên cớ gì mà đột nhiên lại phát sanh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Tật Bệnh Cùng Nghiệp Chướng
Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa.
Đó đều là do nghiệp chướng quỷ tác quái. Bởi con người có nghiệp chướng từ lâu đời, cho nên đến thời đến lúc thì quỷ tới đòi nợ. Mà cũng bởi vì con người không đủ dương khí, tức âm thịnh dương suy, cho nên quỷ mới có thể tùy tiện được. Nếu quý vị thường không phiền não và trí huệ luôn hiện tiền, thì sẽ không có sơ hở để ma quỷ thừa cơ lợi dụng.
Nhưng một khi quý vị khởi dục niệm và vô minh, quỷ bèn thừa cơ hội mà lẻn vào một cách dễ dàng.
Từ đó suy ra, tám vạn bốn ngàn tật bệnh là đều có tiền nhân hậu quả cả. Thậm chí khi quý vị bị con muỗi cắn, con ong chích, cho đến tất cả những tai nạn mà quý vị gặp phải, đều là do nhân quả đan dệt với nhau. Người hiểu rõ đạo lý nầy thì một chút lầm lỗi cũng không dám làm, vì hễ có lỗi là tự mình phải chịu báo ứng. Nhất là những ai tu Lục Độ Vạn Hạnh, họ càng phải chân thật khi dụng công, chẳng chút tơ hào hư dối. Cho nên nói: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc,” gieo nhân không ngay thật thì gặt quả cong vẹo. Và đến lúc quả đã thành rồi thì có rất nhiều phiền phức.
Bởi vậy quý vị nên “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo nghiệp ương mới” và không được có một chút nào buông thả trong mọi hành động. Dù lúc nào hay nơi đâu, mọi người cũng nên đề cao cảnh giác. Nếu không làm hại người và chỉ làm lợi cho người, vậy là mình sẽ không sanh bệnh gì cả, mà ma quỷ cũng không tìm được mình đâu.
Nói đến quỷ thì hôm qua có con quỷ “khai ngộ” từ San Jose đến tìm tôi. Quỷ đó nhập vào một bà và bà tự cho rằng mình đã khai ngộ. .... Bà nầy đã quy y tôi năm 1980 .....
- Bà là sinh viên tốt nghiệp đại học ở Nam Dương. Có phải là bà không cần học mà được tốt nghiệp chăng? - Không phải!
- Tu đạo cũng như vậy. Ngay đến cửa mà bà còn chưa bước vào được, vậy nếu bà không tu hành thì làm sao đắc đạo chớ? Có phải bà không đi học mà biết được chữ không?.... (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng 30 / 7 / 1985)
+ Từ Bi Hỷ Xả đối trị Tam độc Tham Sân Si (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng 29 / 11 / 1985)
+ DỤC VỌNG CỦA CON NGƯỜI CÓ 5 ĐỘC: THAM - SÂN - SI - MẠN - NGHI VÀ ÁI DỤC NẶNG LỀ KHÔNG THỂ TU GIẢI THOÁT
Cần phân biệt hiểu cho đúng lời Phật dậy: Hỏi: Nếu con người không “tham” thì xã hội làm sao tiến bộ? Không “si” thì làm sao có hằng tâm2? Không “sân” thì làm sao có sức bi phẫn?
Ðáp: Bạn đừng lầm lẫn nhé! Chấn-tác có nghĩa là làm cho tốt hơn, chứ không phải là tham lam. Ðó là sự nỗ lực làm việc mà chẳng có chút vọng tham, vọng cầu. Si là gì? Si tức là làm những việc ngu si như cờ bạc, chơi xổ số, đánh lô-tô, v.v… Sân tức là nổi giận. Tất cả đều là những hành vi ngu si. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp)
+ PS Tịnh Không giảng nghĩa: Trong kinh luận duy thức nói: Tứ đại phiền não thường tương tùy, nên cơ bản của Mạt na chính là tứ đại phiền não.
- Vọng Tâm: Đầu tiên là Từ Ngã kiến, Mạt na là ngã chấp, ngã kiến. Chấp trước một phần kiến phần của A lại da, kiến phần của A lại da là vô lượng vô biên vô tận vô số, nó chỉ chấp trước một phần, xem phần này là tâm của mình. Đây là vọng tâm, là gốc của phiền não.
- Ngã Ái - Từ Vọng tâm (Ngã chấp + Ngã kiến) dấy khởi lên Ngã ái. Quý vị xem có Cái ta - Ngã kiến, liền sinh ra ngã ái (ngã ái là tham). Ngã si là ngu si. Ngã mạn, mạn là sân nhuế. Kiến ái si mạn, bốn đại phiền não này thường tương tùy không gián đoạn. Nếu như đoạn tận bốn đại phiền não này, không còn nữa, chuyển Mạt na thành bình đẳng tánh trí, đây chính là pháp thân Bồ Tát. Pháp thân Bồ Tát chuyển bát thức thành tứ trí, siêu việt mười pháp giới, không ở trong mười pháp giới nữa. Chúng ta biết, nên chuyển như thế nào? Buông bỏ bốn đại phiền não này, phá thân kiến, là trí tuệ chân thật!
+ Đốn bỏ dụng vọng: Đức Phật nhấn mạnh thêm phải đón bỏ rừng dục vọng như tham ái, sân hận và si mê. Do rừng dục vọng mà phát sinh sợ sệt. Hãy đốn ngã cả hai thứ rừng, rừng cây to và rừng cây nhỏ của dục vọng. Ở đây, cây to là những dục vọng lớn, có nhiều mặt năng lực và cây nhỏ là những dục vọng nhỏ, ít năng lực hơn. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Tham lam - Theo Minh triết mới: Điều này có liên quan đến tội hám lợi, mà theo nghĩa đen là ăn cắp trên cõi hạ trí. Tội tham lam có thể đưa tới bất kỳ tội lỗi nào trên cõi trần và rất mạnh mẽ. Nó liên quan tới trí lực (mental force) và là một thuật ngữ phổ cập bao hàm các ước muốn mãnh liệt mà vị trí của chúng không những ở nơi thể cảm dục mà còn ở trong thể hạ trí nữa. Thánh Paul đã đưa ra giới không tham lam khi nói rằng: “Trong bất cứ tình huống nào, ta vẫn học cách toại nguyện (content)”. Cần phải đạt được trạng thái đó trước khi thể trí được tịch lặng đến mức mà mọi sự việc của linh hồn có thể thấu nhập được.(ASCLH, 186).
+ 1. THAM LAM - ĐỐI TRỊ= GIỮ GIỚI TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ:
+ “Tham” là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu.
+ Đối trị Tâm tham: Nếu có tâm tham thời phải “tu tâm” ngay, phải tập tính “thiểu dục tri túc”. Thiểu dục là muốn ít, tri túc là biết đủ. Người thiểu dục, tri túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn vì biết đủ với những thứ mình đã có. Bỏ dần lòng tham đi để đạt tới được “vô tham”. Vô tham là không tham lam.
- Ngũ trần Dục Lạc: Ở đời, có 5 món dục lạc muốn nhất là: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. “Ngũ trần dục lạc” ấy, thật ra, vui ít mà khổ nhiều. Tham tiền thời phải đày đọa thân sống, đôi khi còn dùng những phương tiện bất chính để chiếm đoạt và khi mất thì lại đau khổ. Đối với sắc đẹp nên quán thân là bất tịnh, tham sắc thì nhiều khi lại lao vào những mưu chước tồi tệ để thỏa lòng dục vọng. Tham danh vọng, quyền tước thì phải vào lòn ra cúi, lao tâm khổ trí. Tham ăn uống cao lương mỹ vị thì bị nhiều bệnh khó trị, thân thể mệt nhọc, mạng sống không thọ. Tham ngủ nghỉ thì trí não hóa đần độn. Ngũ trần dục lạc đó chính là những nguyên nhân ràng buộc kiếp người vào vòng sinh tử, luân hồi, sa đọa.
2. SÂN HẬN - ĐỐI TRỊ = ĐỊNH TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ
+ “Sân” là cơn giận, lòng giận dữ, nóng nảy, thù hận khi không vừa lòng, không được thỏa thích như ý muốn. Bất bình vì bị xúc phạm, nhân đó làm những chuyện sai trái. Sau cơn giận thời giữ lại lòng oán ghét tìm dịp mà trả thù.
- Sở dĩ sân sinh khởi là do lòng yêu thích “cái ta” hay thích “cái của ta”. Nếu người ta mắng nhiếc, chê bai kẻ nào khác thời ta không thấy giận, nhưng nếu ai chửi bới hoặc khiển trách ta hay người thân của ta, hoặc làm tổn hại tài sản của ta lập tức ta cảm thấy khó chịu ngay. Khi khó chịu tăng dần thời sẽ trở thành nóng giận. Nhưng nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian như Đức Phật đã từng đưa nhận xét:
+ Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.” Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”
=> Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người nào không nổi sân, thì tâm không khổ não, tâm không tranh giành, tâm nhu hòa ngay thẳng, tâm từ bi như Phật, thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sinh, thân tướng trang nghiêm được chúng sinh tôn kính và vì có đức nhẫn nhục nên sẽ được mau sinh lên cõi Phạm Thiên.
+ Nóng giận - Tạo ra độc tố: Giáo sư Elma giảng dạy tại đại học Stanford, Mỹ từng làm một thí nghiệm nổi tiếng. Ông thu thập hơi thở của người tức giận, bi thương, phiền não thở ra rồi dẫn vào một cái chai có đựng nước thuốc. Ông phát hiện màu sắc của nước ở trong chai này có sự thay đổi. Hơi thở của người tức giận làm cho nước chuyển thành màu tím, của người bi thương khiến nước chuyển thành màu xám. Sau đó ông đổ nước này lên những con chuột, một khoảng thời gian thì chúng run rẩy và chết. Thực nghiệm này chứng minh rằng, khi tức giận cơ thể sẽ sản sinh ra độc tố. (Nguồn: Tại đây)
+ Nóng giận - Hận Thù: Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau
HỎI: Ngài có thể nói với chúng tôi vấn đề ngài vượt thắng thù oán và sợ hãi như thế nào? Và ngài có thể đưa ra một ánh sáng của thiền nào đó không?
ĐÁP: Có nhiều mức độ của thù oán và nó có thể được diễn tả như một cảm nhận xấu đối với người tạo ra rắc rối, kẻ thù, hay bạn bè. Nhưng sân hận là một bộ phận cảm xúc của chúng ta, vốn mọc lên như một cơ cấu phòng vệ trong một con người khi người ấy chạm trán với những hoàn cảnh tiêu cực hay nguy hiểm. Nói một cách sinh học, các cảm xúc như sân hận, khát vọng, và dính mắc là cần thiết cho sự tồn tại => Thù oán có thể được diễn tả như dư âm của sân hận vốn duy trì và day dứt trong một thời gian dài. (Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
3. SI MÊ - NGU SI - VÔ MINH ĐỐI TRỊ= TUỆ TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ
+ “Si” là si mê, vô minh, ngu tối. Người vô minh không sáng suốt, không suy xét hiểu biết đúng lẽ phải, đúng sự thật để phán đoán việc hay dở, tốt xấu, lợi hại v.v… nên mới làm những điều nhiễm ô tội lỗi, có hại cho mình và người. Si, vô minh theo thế tục gọi là “dại” hay “ngu”. Vô minh che lấp tâm trí, làm cho con người không còn nhìn thấy được những chất bợn nhơ đang gậm nhấm từ bên trong con người khiến các thói hư tật xấu ấy sẽ tăng dần và cuối cùng đưa con người vào con đường tội lỗi triền miên. Đức Phật dạy rằng vô minh là điều ô trược tệ hại nhất. Hãy dứt bỏ vô minh để trở thành người trong sạch
- Hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên bạch với Đức Phật rằng họ không thể thuyết phục được ông thầy của họ trước kia đến gặp Đức Phật và nghe giáo pháp vì vị này còn quá luyến ái tín đồ riêng. Nhân dịp này Đức Phật giải thích sự khác biệt giữa người suy luận chân chính với người suy luận sai lầm và hậu quả dĩ nhiên của mỗi lối suy luận:
+ (Pháp Cú 11)
Những gì không thật, hão huyền
Lại cho là thật và tin vô bờ,
Những gì chân thật lại ngờ
Lại cho không thật, chỉ là giả thôi,
Nghĩ suy lầm lạc mất rồi
Thấy sao chân thật rạng nơi pháp mầu.
+ (Pháp Cú 12)
Biết đây là thật để tin
Biết kia không thật, hão huyền mà thôi
Nghĩ suy theo đúng đường rồi
Thấy ngay chân thật rạng nơi pháp mầu.
+ Lợi ích của không si mê: Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người không si mê, thì thành tựu được các pháp công đức sau đây: được ý vui chân thiện và bạn chân thiện; tin nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác; chỉ quy y Phật; tâm ngay thẳng, có chính kiến; sinh lên cõi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác; hưởng phúc huệ; không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp và khỏi bị nạn dữ v.v…
IV- TAM ĐỘC + ÁI DỤC = NGUỒN GỐC KHỔ ĐAU
+ 4. ÁI DỤC:
+ PS Tịnh Không: Ái là Tham, Dục là danh từ chung để chỉ “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ”.(Nguồn: Tham - Sân - Si Và Ái dục)
+ Đức Phật dạy Ái dục gồm: Người tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, tài vật xuất vốn và lời lãi, tạo tác những nghiệp có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước, đó gọi là tập. Người kia biết ái tập Khổ tập Thánh đế này. Thời quá khứ là khổ Thánh đế; thời vị lai và hiện tại là Khổ Thánh đế. Đó là điều chắc thật không hư đối, không xa rời sự thật, cũng chẳng phải điên đảo, được thẩm sát một cách chắc thật. Những gì hợp với sự chắc thật như vậy, là sở hữu của Thánh, được nhận thức bởi Thánh, được thấu suốt bởi Thánh, được thấy bởi Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân chánh của bậc Thánh. Do đó nói là Khổ Thánh đế. Nguồn: mục 119 Chân thật ...
+ Đức Phật giảng rằng, "Tam độc" sở dĩ như vậy là do những khuynh hướng, các thói quen của họ đã có từ nhiều kiếp trong quá khứ. Khi Đại đức A Nan bạch hỏi rõ lý do, Đức Phật giải thích thêm rằng đó là do 4 nguồn cội “tham, sân, si, và ái dục”:
+ Định nghĩa Ái dục: Tức sự tham ái. Đồng nghĩa với ái trước, ái nhiễm, ái chấp - Ái chấp là hưởng thụ tình ái. Ấn Độ có Ái dục kinh, là sách chỉ nam về tính ái có tiếng trên thế giới, nhân sĩ thượng lưu cũng nhờ sách chỉ nam này mà có được sự chỉ dẫn về sinh hoạt tính ái. Tính dục là một loại bản năng của con người chỉ đứng sau thực dục.
- (I) Nghĩa của Ái Dục: Luyến ái và dục vọng, hoặc tình thương yêu gia đình
- (II) Thuật ngữ Ái Dục - Những lời Phật dạy về trong Kinh Pháp Cú:
6) Những người có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ dong ruổi theo dục cảnh chẳng chút ngại ngùng, bởi vậy người đã có tâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi dạt hoài
12) Luyến ái vợ con: Đối với người trí, sự trói buộc bằng dây gai, bằng cây, bằng sắt chưa phải kiên cố, chỉ có lòng luyến ái vợ con tài sản mới thật sự là sự trói buộc chắc bền
+ Khát ái. Thô kệch hay vi tế, luôn là nguyên nhân chủ yếu những bất hạnh lớn trong đời. Ái dục làm ta bám víu vào đời sống với mọi hình thức và do đó dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi.
(Pháp Cú 251)
Lửa nào có thể sánh ngang
Lửa tham dục nọ dữ dằn vô biên,
Không còn cố chấp nào bền
Bằng tâm sân hận nổi lên cấp kỳ,
Lưới nào trói buộc dầm dề
So ra với lưới ngu si buộc ràng,
Sông nào chìm đắm cho bằng
Dòng sông ái dục cuốn phăng bao người. (Nguồn: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si)
+ Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng tam độc “tham, sân, si” là những nguyên nhân gây ra bất hạnh và phiền não, ưu tư cho con người. Tham, sân, si có thể được tìm thấy một cách dễ dàng nơi hành động, ngôn ngữ, và ý nghĩ của chính mình cũng như của kẻ khác. Kinh nghiệm cho ta biết bất cứ ở đâu hay lúc nào, nếu tham sân si có mặt và ngự trị thì cuộc sống riêng hay chung đều trở nên xấu xa đau khổ. Tham sân si là sản phẩm của con người và xã hội và chính chúng là nguyên nhân làm hư hại cuộc sống an lành của loài người giống như bông tre nở từ cây tre và là biểu tượng suy tàn của cây tre, nghĩa là khi tre trổ bông là lúc tre tàn lụi.
+ Không luyến ái: Đức Phật khuyên các thầy “Thực hành tâm không luyến ái vì khi nào còn rừng rậm tham, sân, si thời các thầy còn chịu đau khổ.
- Đốn bỏ dụng vọng: Đức Phật nhấn mạnh thêm phải đón bỏ rừng dục vọng như tham ái, sân hận và si mê. Do rừng dục vọng mà phát sinh sợ sệt. Hãy đốn ngã cả hai thứ rừng, rừng cây to và rừng cây nhỏ của dục vọng. Ở đây, cây to là những dục vọng lớn, có nhiều mặt năng lực và cây nhỏ là những dục vọng nhỏ, ít năng lực hơn.
+ Đối trị Dục vọng = Giới Định Tuệ: “Tham, Sân, Si” là nguyên nhân của cuộc sống đau khổ, cần phải tiêu diệt, Đức Phật cũng nói cho chúng ta biết còn có 3 pháp nữa là “Vô tham, Vô sân, Vô si” là những yếu tố tâm lý cần nên phát triển để xây dựng cuộc sống an lành. Muốn phát triển ba pháp thiện này chúng ta phải tu dưỡng theo chánh đạo gồm “Giới, Định và Tuệ”.
+ Lục nghệ: ... Khổng Tử có ba ngàn học sinh. Ngài thông suốt lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, gọi là lục nghệ. Ðệ tử Ngài có bảy mươi hai người cũng thông suốt lục nghệ. Lễ tức là những lễ tiết, lễ nghi về hôn nhân, mai táng, hay là cúng tế. Nhạc tức là âm nhạc. Xạ tức là bắn cung. Ngự tức là cởi ngựa, đánh xe. Thư tức là ghi chép, lịch sử. Số tức là toán thuật. Mỗi một môn nào cũng phải hoàn toàn tinh thông, thì mới được gọi là một người hoàn toàn. (Nguôn: HT Tuyên Hóa - Xem tại đây)
+ Lục nghệ: Số là số học, cho nên nói: “Tri mỗ số, thức mỗ danh,” người biết số học thì sẽ hiểu văn học.
Hiện nay người ta chế ra hỏa tiễn, phi đạn vốn phát minh từ trong ngành toán số. Như việc dùng điện não computer để điều khiển hỏa tiễn bay bao xa cũng đều không ngoài môn toán số.
Cho đến như âm nhạc, thì trong thời tụng niệm của Phật Giáo là thuộc về âm nhạc. Cho nên hễ ai đánh mõ có nhịp nhàng tiết tấu sẽ có công đức. Còn nếu người nào gõ mõ với tâm bực dọc, hoặc gõ quá lớn tiếng, hoặc gõ quá nhỏ thì sẽ có tội. Tán tụng cũng như là dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Cho nên nếu một mặt cúng dường, một mặt lại giận hờn, quý vị nghĩ như thế Phật có hoan hỉ không? Dùng âm nhạc để cúng dường Phật vốn có rất nhiều công đức, nhưng khi phát giận quý vị không tán tụng được, mà lại còn dộng chuông gõ mõ loạn xạ cả lên, vậy tức là có tội rồi. .... (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị 6)
+ Các nghành Nghề chính theo Đào tạo đại học:
01. Chăm sóc và thể dục thẩm mỹ
02. Du lịch và dịch vụ nhà hàng khách sạn
03. Giáo dục và đào tạo
04. Máy tính và công nghệ thông tin
05. Khóa học xã hội và truyền thông
06. Khoa học ứng dụng và cơ bản
07. Kinh doanh và quản lý
08. Kiến trúc và xây dựng
09. Kỹ thuật
10. Luật
11. Nghệ thuật sáng tạo và thiết kế
12. Nhân văn
13. Nông nghiệp và thú ý
14. Y tế và sức khỏe (Nguồn: Nghành nghề - đào tạo đại học)
+ Câu 03 Chú Đai Bi: Bà lô yết đế thước bát ra da (Thầy Hằng Trường giảng là “Bà lô kiết đế thước bát ra da”)
Bà lô yết đế có nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được dịch là “quang” từ danh hiệu Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh giới được quán chiếu, được quán sát đến.
Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”.
Ý nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Bồ – tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại. Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Thần Chú Đại Bi
+ “Bà lô kiết đế thước bát ra da”: Mình nói tới ý nghĩa của chữ “Quán”. Quán là lắng nghe, và chứng nghiệm, cảm nghiệm lại mà không bị kẹt ở đâu cả. Nhìn vào trong, nhìn ra ngoài, nhìn vào chính mình mà không bị kẹt. Và mình nói tới cách quan trọng nhất trong câu: “Quán tự tại”. chữ “Quán” này cũng có nghĩa là
bày tỏ một sự quan hoài, bài tỏ tấm lòng của mình đối với người khác. Tại vì nếu Quán, nếu nhìn, mà mình không đem một hành động nào của tình thương, thì cái Quán đó chỉ là cái Quán của phương pháp xuất tục, là phương pháp cho mình tự tu thôi. Nếu mình thấy được nỗi đau khổ của chúng sinh thì mình làm gì để vơi bớt sự đau khổ đó? Đó là cái tâm thái của Bồ tát. Mình thấy người ta khổ thì mình làm gì?... Cho nên khi mình đọc câu chú: “Bà lô kiết đế thước bát ra da”, mình đừng quên rằng mình đọc không chưa đúng, mình phải hiện thực tình thương đó bằng sự quan hoài, mình hãy tìm cách làm những chuyện nhỏ nhỏ cho những người trẻ hơn, cho người thiếu tuổi tác hơn mình, cho người thiếu kinh nghiệm hơn mình.
Tự Tại là khi mà mình ra khỏi những bóng tối trong tâm thức thì mình sẽ thấy mình tự tại vô cùng. Quán Tự Tại không phải là quán sự tự tại của người khác. Nhờ cách quán này mà mình được sự tự tại. Sự tự tại đó do đâu mà ra? – Do mình lắng nghe tiếng lòng của mình và lắng nghe tiếng lòng của kẻ khác. (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi)
+ Các pháp tu hành và đoán giải bệnh nạn theo Tâm linh và số mệnh - Cải mệnh: Tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian quy nạp vào 3 loại:
1- Pháp Thế gian: Theo khoa học đời sống THUẦN TÚY, triết lý lấy "Vật chất quyết định ý thức". Cho rằng vạn sự vật "Sinh trưởng phát triển và chết đi" tuân theo quy luật tự nhiên mà có, là pháp vô thần, pháp thiên về KHÔNG, xem như CHẾT LÀ HẾT - Không còn gì nữa cả. Về đạo làm người qua ngũ luân, ngũ thường, bát đức ... thì có thể xem là tương ứng pháp Tiểu thừa trong Phật pháp, bởi Phật pháp là giáo dục, bao gồm tất cả các pháp Thế gian - Tâm linh trong đó. Thánh hiền dậy, Phật pháp bao gồm nhưng không chống trái pháp thế gian là vậy.
2- Pháp Khoa học - Tâm linh: Theo khoa học đời sống TÂM LINH, triết lý lấy "Ý thức quyết định vật chất". Vạn sự vật sinh ra và sự sống đều do "Nhân duyên hòa hợp" theo NHÂN NÀO QUẢ ĐẤY mà có, pháp thiên về CÓ Thần, công nhận chết KHÔNG phải là hết, tất cả do vị Thánh Thần, đức Chúa trời ... tùy theo tôn giáo quyết định "Cát hung - Họa phúc". Phật pháp công nhận có Tánh linh luân hồi chuyển kiếp tái sanh, có vô cùng nhiều loại Quỷ Thần, có thể xem ứng với pháp Trung thừa trong Phật pháp.
3- Pháp Xuất thế gian: Minh triết Phật pháp là pháp cao siêu mầu nhiệm, căn bản nhân loại tiến bộ nhất, thông thái nhất như các nhà Bác học lừng danh cũng chỉ hiểu chút ít, nhiều là khoa học lừng danh đã công nhận triết lý của đức Phật dậy "Tất cả do Tâm tưởng sanh", vừa rất khoa học, vừa rất Tâm linh, công nhận có Nhân quả - Luân hồi - Tái sanh, công nhận sự sống chiếm lấy Vật chất theo Khoa học làm thân thể. Nhưng điểm khác là công nhận chính mình là Linh hồn/ Tánh linh luân hồi theo luật Nhân quả chứ KHÔNG có vị Thần Thánh nào can thiệp vào cuộc sống của mình, kể cả sau khi chết, thân xác tan dã. Do đó, Phật giáo giảng rằng, "Chính mình/ Linh hồn mình" chứ không phải ai khác can thiệp, quyết định số phận của mình, ban phước hay giáng học cho mình, thưởng phạt cho mình ... mà KHÔNG có vị Thần linh nào can thiệp, ban phước hay giáng họa ... cho ai cả. Đây là pháp "Tánh không", hiểu đơn giản là pháp "Vừa có - Vừa không", tức là có bao gồm 2 pháp Khoa học và Tâm linh, nhưng còn tiến lên siêu vượt hơn nữa, nói về sự Diệu nghĩa siêu vượt thượng đẳng này thì không thể dùng ngôn ngữ thế gian hay Tâm linh diễn tả được - Không thể nào.
Tiến hóa trong vũ trụ là "Tâm thức" do Vô minh mà "Sinh vô minh" để rồi đi vào luân hồi hàng tỷ năm, là để tiến hóa qua vật chất thô kệch vô tình, tiến dần tới vật chất hữu tình như cây cỏ, rồi nâng nên đến loài súc sinh có cảm xúc nhưng chưa có trí tuệ, rồi tiến đến loài người trải qua muôn kiếp phiền lão, khổ đau để dần dần phát triển trí tuệ phân biệt, đến trí phân biện, đến trí huệ bát nhà Phật gọi Trí bát nhã là Tánh không "Diệu Giác Minh Thanh Tịnh Sáng Suốt NHiệm Mầu Bao Trùm" khắp Pháp giới chúng sinh.
+ Dụng pháp Phật dậy thời nay: Thánh hiền thưởng giảng câu "Y Kinh giảng nghĩa - Tam thế Phật oan"? Các ngài giảng rằng, thời nay, việc giảng giải kinh Phật thời nay, nhiều vị thầy, đệ tử Phật bao gồm cả xuất gia và tại gia tu hành tinh tấn, nhưng vẫn thường giảng giải kinh Phật theo lối "Y kinh giảng nghĩa", tức là có mức độ cứng nhắc khác nhau mà chưa xét đến hoàn cảnh ra đời, đối tượng nghe kinh khi Phật thuyết pháp đó ... Các Thầy chưa xét thấu đáo tính thời đại ngày nay, nhân loại đã có trí tuệ rất phát triển, với nền khoa học siêu vượt xa thời đức Phật, và như thế, đối tượng nghe giảng pháp đã khác xa về trí tuệ so với hơn 2.600 năm về trước.
Vấn đề này cũng ứng câu HT Tuyên Hóa có giảng, đại khái "Với pháp ngoại đạo hay tà đạo, bậc Thiện tri thức ứng dụng vẫn có thể có lợi ích to lớn cho chúng sinh. Ngược lại, với pháp Chánh đạo mà người có Tâm tà dụng pháp tìm kiếm danh văn lợi dưỡng thì Chánh cũng thành Tà là vậy". Vậy nên, dụng pháp Chánh hay Tà, căn bản do con người dụng "Tâm Thiện Ác" ứng dụng mà phát huy ra kết quả "Cát hung họa phúc", không phải do Pháp mà ra. (Xem thêm: Diễn giải ứng dụng Phật pháp tu Cải mệnh)
+ Các Pháp Phật: Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật: Thế nào gọi là Phật thuyết hết thảy các pháp?
Phật đáp: Phật theo căn tính của chúng sinh và tùy cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi?..... Tất cả 4 loại đó, sau kết tập thành Kinh Tạng. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân - Phẩm Ưu Ba Ly 8)
+ Mai mối trong hôn nhân: Đến khi Khổng Tử san định lại Lục thư: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. Từ đó đến nay có người làm môi giới, mà công việc của họ là chọn người nam người nữ nào hợp nhau. Nếu họ cùng thích hợp tuổi tác, hình dáng, tính tình, họ sẽ giới thiệu “Người phụ nữ trẻ đó rất có đức hạnh.”, “Cậu học trò kia rất thông minh.” Khi lời giới thiệu được công nhận, tức mọi việc hôn nhân xem như được tiến hành. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ Hôn nhân chúng sinh các cõi:
“Người cõi Diêm-phù-đề có sự mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Người Câu-da-ni và người Phất-vu-đãi, cũng có mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Người Uất-đan-viết, thì không có vấn đề hôn nhân, không có sự lấy chồng, lấy vợ của con trai và con gái. Loài rồng và Kim sí điểu cùng A-tu-luân (A Tu La), thì cũng có hôn nhân, có giá thú giữa con trai và con gái. Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên cho đến Tha hóa tự tại thiên cũng có hôn nhân và có giá thú giữa người nam và người nữ. Chư Thiên từ đây trở lên không còn có nam và nữ.
“Người cõi Diêm-phù-đề, vì giữa nam và nữ giao hội nhau, thân và thân xúc chạm nhau, nên sanh ra âm dương. Những người Câu-da-ni, người Phất-vu-đãi, người Uất-đan-viết cũng dùng thân với thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Các loài rồng, Kim sí điểu cũng dùng thân với thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Loài A-tu-luân thì thân với thân gần gũi nhau phát sanh khí mà trở thành âm dương. Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên thì cũng lại như vậy. Diệm-ma thiên, thì gần gũi nhau mà thành âm dương. Đâu-suất thiên thì cầm tay nhau mà thành âm dương. Hóa tự tại thiên thì nhìn kỹ nhau mà thành âm dương. Tha hóa tự tại thiên thì láy mắt nhìn nhau mà thành âm dương. Chư Thiên từ đây trở lên thì không còn dâm dục nữa. (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
I- Theo Minh Triết Thiêng Liêng:
+ Đại Thiên Thần (Mahadeva): Mahadeva theo nghĩa đen là “Đại Thiên Thần” (“Great Deva”). Thuật ngữ này được áp dụng cho Ngôi Thứ Nhất của Tam Vị Nhất Thể biểu lộ, cho Shiva, trạng thái Hủy Diệt, Đấng Sáng tạo. (LVLCK, 39–40)
+ Đại Thiên Vương: X. Maharaja. + Vishnu: Cái nhập vào vạn hữu, vishanti, là Vishnu; + Brahnu: Đấng bao hàm, vây bọc, đảm trách tất cả là Brahma; + Shiva: Đấng tiềm ẩn trong mọi vật là Shiva. Shiva hôn thụy, ẩn tàng trong mọi vật dưới hình thức mối liên hệ (nexus), ràng buộc, đây là bản chất của dục vọng. Vriniti có nghĩa là bao bọc, phủ bằng một lớp vỏ, ranh giới của các giới hạn hay là chu vi, và như thế có sự hình thành hoặc sáng tạo (của mọi hình hài); và đây là tác động do Brahma chủ trì. Vishanti sarvani chỉ rằng vạn vật nhập vào Nó (It) và Nó nhập vào vạn vật, và đó là Bản Ngã (Self) nối tiếp với nhận thức và Vishnu. Toàn thể của những cái này là Maha-Vishnu. “Maha-Vishnu” là “Chúa tể” của mọi hệ thống thế giới này, được mô tả như là Ishvara, màu trắng, có bốn tay, trang điểm bằng vỏ ốc tù và, cái dĩa, cây gậy, hoa sen, vòng hoa và viên ngọc Kanstubha, toả chiếu phủ xanh và vàng, hình hài bất diệt, vô thuộc tính tuy có linh hồn và ẩn dưới mọi thuộc tính.(LVLCK, 51)
II- Theo Phật pháp: Phật bảo Tỳ-kheo “Có bốn loại Đại Thiên thần, đó là:
“1. Địa thần.
“2. Thủy thần.
“3. Phong thần.
“4. Hỏa thần.
Xưa kia Địa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong đất không có nước, lửa và gió. Lúc đó Ta biết rõ tâm niệm của thần đất này, liền đến bảo rằng: Ngươi đang nảy sanh ra ý nghĩ: Trong đất không có nước, lửa và gió phải không? Địa thần đáp: Trong đất quả thực không có nước, lửa và gió. Lúc ấy Ta bảo rằng: Ngươi chớ nảy sanh ý niệm này là trong đất không có nước, lửa và gió. Vì sao? Vì trong đất có nước, lửa và gió, chỉ vì yếu tố đất nhiều nên lấy đất mà gọi tên.” ... Trong Nước cũng có Đất - Lửa - Gió; Trong Gió cũng có Đất - Lửa - Nước; Trong Lửa cũng có Đất - Nước - Gió. (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Tu ngộ Pháp không:
IV- Đạo đế. Diệt tức là phải chứng đắc. Đạo là phải nên tu hành. Chữ đạo dùng chữ tẩu (đi), tức là chư vị phải đi, phải hành. Nói đến đạo là phải tu hành. Nếu không tu hành thì có lợi ích chi. .... Cho đến đức hạnh, đức là phải làm, không làm thì sao có đức?
... Tu hành là việc quan trọng nhất trên thế gian. Chư vị muốn chấm dứt sanh tử không ... Nếu muốn chấm dứt sanh tử thì đầu tiên phải tu hành. ... Nếu không tu hành thì không thể chấm dứt sanh tử được .... phải tự chính mình tu đạo, không thể bảo người khác tu giùm mình. Không thể chỉ nói tu hành mà cắt đứt được sanh tử. Chư vị phải thật sự tạo đức, tự tu, tự lo lắng những việc quan trọng của mình. Trên chữ "tự" có một đường ngang, để dùng chi ? Mọi người trên thế gian đều chỉ có một lần sanh ra. Bắt đầu từ đâu ?
* Bắt đầu từ một. Có một thì sau này mới có hai. Có hai rồi lại có ba, có bốn, có năm, cho đến vô số trăm ngàn, muôn vạn v.v..., đều từ một mà phát xuất ra. Vì vậy, một là vô số, vô số là một. Nếu không có một thì không có vô số. Nếu không có vô số thì không có một. Vì tôi biết rằng con số trong toán học bắt đầu bằng số một.
Một là vô số, vô số là nhiều. Hiện tại, chúng ta không phải một cũng không phải nhiều, không phải nhiều cũng không phải một. Tại sao biến đổi như thế ? Thật ra cũng không có biến đổi thành số một. Số một này cũng tượng trưng cho một vòng tròn, tiếng Anh là số không. Số không bao hàm xum la vạn tượng. Chân không và diệu hữu đều nằm trong số không. Số không này phát xuất từ đâu ? Nó là biến tướng của số một hay chữ nhất. Chữ nhất này vẽ cong thành một vòng tròn, uốn thẳng lại thành chữ nhất. Số không hay vòng tròn là bổn thể của chữ nhất, lại là bổn thể của tất cả vạn vật trên thế gian, cũng là tạng đại quang minh, tánh Như Lai tạng, và Phật tánh. Phật tánh cũng là chữ nhất và chữ o. Chữ o cũng đại biểu cho tất cả sanh sanh hóa hóa ở trên thế gian, tức chân không diệu hữu, diệu hữu và chân không. Chữ o này không có điểm khởi đầu, cũng không có điểm cuối. Nếu phá chữ không này thì nó liền biến thành chữ nhất (gạch ngang). Gạch ngang (chữ nhất) là gì ? Tức là vô minh. Có một gạch ngang ( — ) tức là có một phần vô minh. Khi không có gạch ngang thì đó là một vòng tròn ( Ο ). Khi vòng tròn đó không phá được thì đó là tánh tạng Như Lai. Chữ nhất ( — ) là bắt nguồn của sự vô minh, nên bảo rằng một là nhiều, nhiều là một. Một điểm phiền não xuất sanh vô số phiền não. Vô số phiền não xuất sanh từ một điểm phiền não. Tại sao chư vị lại tạo bao việc vụng dại ? Chỉ vì một điểm vô minh. Tạo bao việc vụng dại tức là tạo bao nghiệp tội, mà phiền não cũng từ đó phát sanh ra. Vì thế, chư vị nếu muốn tu đạo thì phải uốn nắn chữ nhất ( — ) thành chữ o, tức vòng tròn ( Ο ), phản bổn hoàn nguyên (xoay về cội gốc). Lúc đó, chư vị có thể xoay về tạng tánh Như Lai, đạt đến chân không diệu hữu.
Một chữ nhất có hai điểm. Hai điểm này là một âm và một dương. Kinh Dịch giảng một âm một dương chính là Đạo. Thiếu âm thiếu dương gọi là Bịnh. Thuần âm là quỷ. Thuần dương là thần, nên gọi thiếu âm, thiếu dương là bịnh.
Lại phân tích rõ hai điểm đó. Từ vô minh phát sanh ra kiến hoặc và tư hoặc, nên gọi hai điểm đó là kiến hoặc và tư hoặc. Có kiến hoặc và tư hoặc rồi thì phát sanh ra vô lượng vô số hoặc. Bao phiền não đều từ chữ nhất này khởi lên. Nếu muốn xoay về cội gốc thì phải uốn nắn chữ nhất này thành chữ o. ... Chư vị phải tin tưởng pháp này thì mới khôi phục lại trí huệ vốn có sẵn, xoay về lại cội gốc, đạt đến tánh tạng đại quang minh, cũng là đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quán sắc trí, thành sở hữu trí....
... Chúng ta vừa bàn ở trên về một âm một dương. Một âm một dương là chữ "nhân (người)". ...
Hai điểm chính là từ trên trời, có thể nói là mặt trời và mặt trăng. Một điểm là mặt trời; một điểm là mặt trăng.
* "Thị đạo ưng tu ngộ pháp không, (là đạo nên tu ngộ pháp không)".
Chư vị phải dùng mắt trí huệ để tu đạo. Người ngu si không thể tu đạo này. Xoay về cội gốc tức là uốn chữ nhất (gạch ngang), thành chữ o (vòng tròn). Chữ Ο này chính là tạng tánh Như Lai, là tạng đại quang minh, là Phật tánh của chúng ta. ... Chư vị chạy mãi trong sáu đường luân hồi thì chữ o (vòng tròn) liền biến mất. ... Có tu đạo thì mới ngộ nhân không pháp không, nhân pháp đều không, không còn chấp trước, nên bảo rằng khổ tập diệt đạo đều không.
Ba lần chuyển bánh xe pháp tứ đế, bên trên tôi đã giảng rõ rồi. Chuyển vận bánh luân tức là xoay qua chuyển lại pháp môn tứ đế.
bảy phần giác, tám chánh đạo, ý niệm cần tu: Bảy giác tức là bảy phần giác chi, cũng gọi là bảy phần bồ đề. Tám chánh tức là tám chánh đạo. Bao trùm hết bảy giác chi, tám chánh đạo, năm căn, năm lực, bốn như ý túc, bốn chánh cần, hợp lại thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Bảy phần bồ đề là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, niệm, định giác phần. Tu hành y chiếu theo bảy phương pháp.
1. Sao gọi là trạch pháp giác phần ? Trạch tức là tuyển trạch. ... tức là phải có trạch pháp nhãn (con mắt chọn lựa pháp), thì chư vị mới biết gì là pháp, gì là không phải pháp, gì là pháp thiện, gì là pháp ác, biết pháp trắng pháp đen, phải có sức chọn lựa tuyển trạch như thế. Không nên lấy đúng làm sai, lấy đen làm trắng, lấy lành làm ác. Nếu làm như thế thì không phải là trạch pháp giác phần. Sau khi chọn lựa, tuyển trạch xong, thì phải y theo pháp mà tu hành.
2. Y pháp tu hành tức phải tinh tấn, nên giác phần thứ hai là tinh tấn. Chánh tinh tấn tức là hoặc ngồi thiền, trì chú, học giáo điển, trì giới luật, tu nhẫn nhục, tất cả pháp đó đều phải tinh tấn. ... Có tinh tấn giác phần tức là ngày đêm sáng tối sáu thời đều hằng tinh tấn. Sáng ba thời, tối ba thời đều tinh tấn không nghỉ ngơi.
3. Sau khi tinh tấn được rồi thì có thiền duyệt (vui trong thiền định). Thiền duyệt tức là hỷ giác phần. Ví như, khi ngồi thiền, công phu ngồi đến một giờ thì tự cảm giác an lạc, tự tại, vừa ý vô cùng; ... gọi là hỷ giác phần.
4. Trừ giác phần- Lại nữa, khi ngồi thiền, đạt đến cảnh giới khinh an thì tâm rất là an lạc. Nhưng cảnh giới này có lúc thì sanh khởi giống như trên, có lúc thì dễ dàng sanh tẩu hỏa nhập ma. Tại sao tẩu hỏa nhập ma ? Khi sanh tâm chấp trước, tức truy cầu nắm giữ cảnh giới vừa thấy, thì ma vương liền nhập vào tâm. Nếu chư vị không chấp trước, thì ma vương không có cách nào để nhập vào. Chư vị nếu chấp vào cảnh giới nào thì ma liền hiện ra cảnh giới đó. Làm thế nào để giải ? Lúc đó phải dùng trừ giác phần. Trừ tức là thẩm tra, dọ xét các ác giác quán. Phải tẩy trừ các ác giác quán, còn chánh giác quán thì phải bảo tồn.
5. Khi chư vị trừ bỏ chấp trước thì là xả giác phần. Xả này tức là xả bỏ vọng tưởng chấp trước. Nếu không thể xả bỏ vọng tưởng chấp trước thì không đắc được tam muội và đạt đến bảy phần bồ đề.
6. Niệm giác phần - Sau khi xả được vọng tưởng chấp trước thì bảo tồn được niệm tinh tấn, mà đã bàn ở bên trên. Chớ để quên mất, niệm này đeo đuổi niệm kia (niệm huyền tại huyền), niệm niệm không quên, tu tinh tấn.
7. Định giác phần - Tu tinh tấn thì sau này đắc được định giác phần, tức thuộc bảy bồ đề phần hay bảy giác phần.
+ Tám chánh đạo.
1. Thứ nhất là chánh kiến. Kiến tức là ý kiến. Nơi ý niệm có một kiến (thấy). ... Nếu không có chánh kiến thì dễ dàng lạc vào đường tà. .... Phật pháp là chân chánh, phải nên học. Đó là chánh kiến...
2. Nếu có chánh kiến rồi thì có chánh tư duy. Có kiến giải rồi thì phải có suy nghĩ; suy nghĩ việc này việc nọ là đúng hay không đúng. Học Phật pháp là một công việc tối thượng nhất trên thế gian. Không sai trái tức là chánh tư duy. Tà tư duy nghĩa là khi học Phật pháp cho rằng không có lợi ích chi....
3. Có chánh tư duy thì kế tiếp là có chánh ngữ. Chánh ngữ tức là lời nói nào cũng đều chính xác, không nói lời say sưa, cáu tiết, không dẫn người lạc vào đường tà. Nói lời chân chánh, chánh xác, khiến ai ai cũng đều vui thích lắng nghe, vui thích làm theo.
4. Có chánh ngữ rồi thì có chánh nghiệp, tức tự tìm, hành nghề chân chánh. Ai ai cũng biết rõ nghề nghiệp chân chánh là gì, chớ nên làm những nghề nghiệp phạm pháp.
5. Thứ năm là chánh mạng. Có chánh nghiệp thì sanh mạng chân chánh.
6. Thứ sáu là chánh tinh tấn. Tạo chánh nghiệp thì phải nên tinh tấn. Chớ nên tinh tấn tạo những nghiệp bất chánh.
7. Thứ bảy là chánh niệm.
8. Thứ tám là chánh định.
Đó là tám chánh đạo.
Bốn như ý túc tức là dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, tư duy như ý túc.
Bốn niệm xứ tức là thân, thọ, tâm, pháp. Quán thân bất tịnh. Quán thọ là khổ. Quán tâm vô thường. Quán pháp vô ngã. Bốn chánh cần là điều lành chưa sanh khiến cho sanh khởi, điều lành đã sanh khiến cho tăng trưởng. Đó là giảng về phương diện điều lành. Những điều ác chưa khiến cho không sanh khởi. Những điều ác đã sanh khởi khiến cho chúng đoạn diệt. Đó là nói về phương diện điều ác.
Năm căn là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Năm căn này phát sinh ra năm lực. Tín có tín lực. Tấn có tấn lực. Niệm có niệm lực. Định có định lực. Huệ có huệ lực.
* Cộng năm căn năm lực lại thành mười. Bốn niệm xứ, bốn như ý túc, bảy phần bồ đề, tám chánh đạo cộng chung là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
"Nhất đản quán thông thành thánh quả, (một lần quán thông thành thánh quả)".
Chư vị tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thì một ngày nào đó sẽ đột nhiên quán thông, minh bạch, hiểu rõ. Lúc ấy, chư vị chứng được quả thánh.
"Thiên chân hữu dư nãi hoá thành, (lệch chân hữu dư nãi hóa thành)".
Chư vị chớ nghiêng trụ tại niết bàn hữu dư, thiên chân hữu dư, niết bàn chính là hóa thành, nghĩa là thành này do biến hóa mà có, không phải là thật. Đạt đến thiên chân hữu dư niết bàn, tức là không phải niết bàn cứu cánh, nên phải còn tu thêm nữa. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tánh không: “Tánh không tức là Phật”, nếu quý vị có thể làm cho tánh thể của mình đạt đến không tịch thì gọi đó là Phật. “Không thể suy lường”, chính là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Ở trước tôi đã giảng “Nếu người muốn biết cảnh giới Phật, phải tịnh ý mình như hư không”, giống như hư không vậy! Trong quý vị đây nếu ai được như hư không, thì người đó chính là Phật; còn nếu không được như hư không thì vẫn phải tu hành. Phật đã đạt được như hư không, nên nói “Khế hợp với chân thể nơi vạn hóa”. Tuy là hư không nhưng vẫn có Diệu Hữu, trong Chân Không có thể sanh Diệu Hữu, Diệu Hữu không ngại Chân Không, Hư Không không ngại Diệu Hữu, cho nên: Hiển là hiển lộ ra. Đức tướng, là tướng của vạn đức, tướng công đức của Phật ....(Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT T.Hóa giảng)
+ Chữ Không - Tánh Không:
Nay giảng về không vì Bát Nhã đàm luận về không.
Tánh không có rất nhiều loại. Nay chỉ giản lược nói về năm loại.
1. Thứ nhất là ngoan hư không. Ngoan tức là ngoan bì (ngu hèn). Gọi là hư không vì nó vô tri vô thức, không có sự tồn tại của tánh tri giác. Tất cả mọi người đều biết là hư không (trống rỗng). Mọi người đều chấp trước hư không. Mắt thấy hư không nhưng không có tánh tri giác, nên gọi là ngoan hư không. Phàm phu chấp trước cũng là ngoan hư không.
Sao gọi là hư không ? Tức là không có chi hết, nhưng có thật là chân không, không ? Không phải, đó là ngoan (ngu ngơ) hư không. Đây là hư không mà phàm phu thường chấp trước.
2. Thứ hai là đoạn diệt không. Đó là gì ? Là không mà ngoại đạo chấp trước vào. Ngoại đạo không biết ý nghĩa của không. Họ cho rằng người chết rồi là hết, đoạn diệt luôn, cũng là không. Thế nên, họ chấp vào đoạn diệt không.
3. Thứ ba là pháp không quán. Người nhị thừa tu tích pháp không quán. Tích cũng là phân tích sắc tức là sắc, tâm tức là tâm. Họ không biết tất cả đều là không. Thế nên không thể đắc và chứng được diệu lý chân không, chỉ tạm trú tại hóa thành thôi, không đồng với địa vị của Bồ Tát..... tứ quả A La Hán chặt đứt được phần đoạn sanh tử mà vẫn còn biến dịch sanh tử.....
4. Thứ tư là thể pháp không quán: Duyên Giác tu thể pháp không quán
5. Thứ năm là diệu hữu không quán: Bồ Tát tu diệu hữu không quán
Chân không diệu hũu.
Lúc Bồ Tát Quán Thế Âm hành thâm bát nhã ba la, Ngài soi thấy năm uẩn đều không. Đó là đắc được công năng tu hành bát nhã ba la mật đa. Nay y chiếu theo kệ của tôi mà giảng giải. "hành đạo tu thân chớ tìm ngoài - Tự tánh bát nhã nhân (hạt giống) thâm mật - Sóng bạc (Trí huệ) tiêu lặn biển đen dừng. Sóng biển đen tức là phiền não - Sóng đen dừng tức là phiền não dừng.
"bờ Niết Bàn, từ từ leo lên - thời qua thời chớ để trôi qua - thận trọng, thận trọng giữ thân chân - mờ mờ ảo ảo thông tin tức - Vội vội vàng vàng thấy bổn tôn".
Soi thấy năm uẩn đều không.
"Ba quang phổ chiếu thấu ba tài
Nhất quy hợp xứ lại nhất lai .... "Tam quang phổ chiếu thấu tam tài, (ba quang phổ chiếu thấu ba tài)".
Ba quang là mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao. Phổ chiếu tức là phổ biến chiếu sáng. Ba tài là trời, đất, người.
Ba quang là văn tự bát nhã quang, quán chiếu bát nhã quang, thật tướng bát nhã quang. Thật tướng bát nhã quang tức là thậm thâm bát nhã quang. Soi thấy năm uẩn đều không. Dùng ba quang chiếu thấu ba tài, tức chiếu khắp trời, đất, người.
"Nhất quy hợp xứ lại nhất lai".
Nhất quy hợp xứ tức tự tánh của mình. 'Nhất' là nói tự tánh. 'Hợp xứ' cũng là chỗ của tự tánh. Xưa nay muôn pháp đều quy về một. Một quy về hợp xứ. Ngài Thần Quang có nói bài kệ :
Thân này là tổng tướng của sắc. Đất nước gió lửa là biệt tướng (tướng riêng) của sắc. Thân thể của chúng ta do đất nước gió lửa hợp thành. Xương cốt thịt thà chính là đất. Nước mắt, nước mũi, máu, tiểu tiện, mồ hôi, là nước. Thân thể được ấm áp là nhờ có lửa. Vận động hô hấp nhờ thân thể có gió. Bốn đại hòa hợp thì thân thể còn. Chúng phân tán thì thân thể mất. ... Mỗi đại đều trở về cội gốc, nên không thật có. Vì thế, mọi người chấp trước vào thân thể, tự cho là có, thật là sai lầm....
Không thể cho rằng thân thể chính là mình được, vì thân thể chỉ giống như nhà ở. .... chấp nhà ở chính là mình. Thấy, nghe, ngữi, nếm, giác, biết đều là Phật tánh. Phật tánh cũng chính là tự tánh của chư vị. ....
Bàn về sắc, chư vị hãy phân tích rõ, nó cũng là không. Do từ không mà biến thành sắc pháp. Đất nước gió lửa hợp thành thân thể mà có người lại nói rằng thượng đế tạo ra người .... Nếu không chấp trước thân thể tức là phá được sắc uẩn. Khi phá được sắc uẩn rồi thì nó biến thành không.
Thọ nạp như thế. Thọ uẩn cũng giống như sắc uẩn, là không thật có "vọng tưởng chuyển lưu, nghiệp an bài - thức cũng liễu biệt (Thức uẩn) đủ năm ấm - hoa gương trăng nước tuyệt bụi trần. Nói lên ý nghĩa là năm uẩn đều không.
"Không nhi bất không minh đại dụng, (không mà chẳng không rõ đại dụng)". Nơi chân không xuất sanh ra diệu hữu, cùng đại dụng. Khi ấy chư vị thấy rõ mà cũng đồng như chưa thấy. Không bị cảnh giới chuyển. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -1- HT Tuyên Hóa giảng)
+ "Chân không bát nhã chính là diệu hữu - Diệu hữu phi hữu chính là chân không"
Trong không chẳng có sắc. Đó là bàn tiếp về đoạn văn ở trên. Bên trên, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Vì chân không chẳng có sắc thọ tưởng hành thức. Bổn thể của thọ tưởng hành thức vốn là không. Sáu căn, mắt tai mũi lưõi thân ý cũng không có. Sáu trần, sắc thanh hương vị xúc pháp chẳng có luôn. Sáu thức, thức của mắt tai mũi lưỡi thân ý đều là không. Tâm kinh này đàm luận về lý không tức chân không bát nhã. Chân không bát nhã chính là diệu hữu. Diệu hữu phi hữu tức là chân không. Do đó bảo rằng chân không không ngăn ngại diệu hữu, diệu hữu không ngăn ngại chân không, chân không là diệu hữu, diệu hữu cũng là chân không. Vì thế, bên trên kinh cũng nói rằng sắc không khác không, không chẳng khác sắc. (Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CON SỐ - BỘ SỐ HAY NHÓM CÁC SỐ
A- HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CON SỐ
I- THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Số 3: Bản chất là 3 x 3 = 9. Như vậy 9 có bản chất cấp 3 (LVLCK, 1165). Cũng theo LVLCK, Ba cung gốc tự phân thân, mỗi cung làm 3 loại năng lượng => Có 3 nhóm, mỗi nhóm có 9 năng lượng;
+ Năm bí huyệt với 48 cánh hoa của chúng do đó được tổng hợp thành hoa sen có 2 cánh hoa, và khi đó chúng ta có 48 cộng với 2 bằng 50, con số của phàm-ngã hoàn thiện, vì 5 là con số của người và 10 là con số của sự hoàn hảo. Cũng về mặt biểu tượng, nếu tổng số của 48 cánh hoa của 5 bí huyệt được thêm vào 96 cánh hoa của bí huyệt giữa hai lông mày, số 144 hiện ra. Con số này có nghĩa công việc được hoàn thành của 12 Huyền Giai sáng tạo, 12 lần 12 và do đó tập hợp linh hồn chủ quan và thể xác khách quan trong sự hợp nhất và sự nhất-quán hoàn hảo. Đây là viên mãn. Số 144 cộng với các con số này, tức số 1000 (số cánh hoa trong hoa sen của bí huyệt đầu), và bạn có số của những người được cứu trong Sách Khải Huyền (Book of Revelations), 144.000 người có thể đứng trước mặt Thượng Đế, vì ba con số không (000 − ciphers) được tìm thấy ngụ ý cho phàm-ngã. Khi con người đã hoàn thành nơi y công việc vĩ đại, khi số 144.000 được xem như tượng trưng cho mức độ thành tựu của y, bấy giờ y có thể đứng trước Thượng Đế − bấy giờ không chỉ trước khi Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục (Angel of the Presence) mà là trước chính Bản Lai Diện Mục (Presence Itself). (LVHLT, 200)
+ Bộ số 666 - 777 - 888: Không hề có sự cố định về thời gian tạm ngưng, đó chỉ là vấn đề nhu cầu của linh hồn mà thôi; (VLH, 199)
+ Người ta cho rằng bí nhiệm ẩn tàng trong 777 lần luân hồi. Con số này đem lại cơ hội cho nhiều suy gẫm. Cần nói rõ rằng đó không phải là con số chu kỳ luân hồi mà con người phải vượt qua nhưng nó nắm giữ chìa khóa cho 3 chu kỳ chính đã nói trước (chu kỳ của Chân Thần, chu kỳ của Chân Ngã, và chu kỳ của Phàm ngã –ND). Trước tiên, con số này áp dụng cho Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống hành tinh chúng ta chứ không phải cho các hành tinh hệ khác. Mỗi Đức Hành Tinh Thượng Đế có con số của Ngài, còn con số của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta ẩn giấu trong 3 con số nói trên, cũng như 666 và 888 nắm giữ cái huyền bí được che giấu của hai Đức Hành Tinh Thượng Đế khác. Số 777 này cũng là số chuyển hóa, vốn là công việc căn bản của tất cả các Hành.
II- THEO PHẬT GIÁO
Bắt đầu từ một. Có một thì sau này mới có hai. Có hai rồi lại có ba, có bốn, có năm, cho đến vô số trăm ngàn, muôn vạn v.v..., đều từ một mà phát xuất ra. Vì vậy, một là vô số, vô số là một. Nếu không có một thì không có vô số. Nếu không có vô số thì không có một. Vì tôi biết rằng con số trong toán học bắt đầu bằng số một.
Một là vô số, vô số là nhiều. Hiện tại, chúng ta không phải một cũng không phải nhiều, không phải nhiều cũng không phải một. Tại sao biến đổi như thế ? Thật ra cũng không có biến đổi thành số một. Số một này cũng tượng trưng cho một vòng tròn, tiếng Anh là số không. Số không bao hàm xum la vạn tượng. Chân không và diệu hữu đều nằm trong số không. Số không này phát xuất từ đâu ? Nó là biến tướng của số một hay chữ nhất. Chữ nhất này vẽ cong thành một vòng tròn, uốn thẳng lại thành chữ nhất. Số không hay vòng tròn là bổn thể của chữ nhất, lại là bổn thể của tất cả vạn vật trên thế gian, cũng là tạng đại quang minh, tánh Như Lai tạng, và Phật tánh. Phật tánh cũng là chữ nhất và chữ o. Chữ o cũng đại biểu cho tất cả sanh sanh hóa hóa ở trên thế gian, tức chân không diệu hữu, diệu hữu và chân không. Chữ o này không có điểm khởi đầu, cũng không có điểm cuối. Nếu phá chữ không này thì nó liền biến thành chữ nhất (gạch ngang). Gạch ngang (chữ nhất) là gì ? Tức là vô minh. Có một gạch ngang ( — ) tức là có một phần vô minh. Khi không có gạch ngang thì đó là một vòng tròn ( Ο ). Khi vòng tròn đó không phá được thì đó là tánh tạng Như Lai. Chữ nhất ( — ) là bắt nguồn của sự vô minh, nên bảo rằng một là nhiều, nhiều là một. Một điểm phiền não xuất sanh vô số phiền não. Vô số phiền não xuất sanh từ một điểm phiền não. Tại sao chư vị lại tạo bao việc vụng dại ? Chỉ vì một điểm vô minh. Tạo bao việc vụng dại tức là tạo bao nghiệp tội, mà phiền não cũng từ đó phát sanh ra. Vì thế, chư vị nếu muốn tu đạo thì phải uốn nắn chữ nhất ( — ) thành chữ o, tức vòng tròn ( Ο ), phản bổn hoàn nguyên (xoay về cội gốc). Lúc đó, chư vị có thể xoay về tạng tánh Như Lai, đạt đến chân không diệu hữu.
Một chữ nhất có hai điểm. Hai điểm này là một âm và một dương. Kinh Dịch giảng một âm một dương chính là Đạo. Thiếu âm thiếu dương gọi là Bịnh. Thuần âm là quỷ. Thuần dương là thần, nên gọi thiếu âm, thiếu dương là bịnh....
Lại phân tích rõ hai điểm đó. Từ vô minh phát sanh ra kiến hoặc và tư hoặc, nên gọi hai điểm đó là kiến hoặc và tư hoặc. Có kiến hoặc và tư hoặc rồi thì phát sanh ra vô lượng vô số hoặc. Bao phiền não đều từ chữ nhất này khởi lên. Nếu muốn xoay về cội gốc thì phải uốn nắn chữ nhất này thành chữ o. Làm thế nào? Không khó.... Thiền định xoay về lại cội gốc, đạt đến tánh tạng đại quang minh, cũng là đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quán sắc trí, thành sở hữu trí. Tôi chỉ giảng một ít điểm trong muôn phần của chữ đạo rất vi diệu...
Chúng ta vừa bàn ở trên về một âm một dương. Một âm một dương là chữ "nhân (người)". Tức bảo rằng đạo không phải ở trên trời hay ở dưới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, mà là nơi con người... Trong mình ai ai cũng có đầy đủ đạo này hết. Đức Phật dậy "Pháp do con người mà tồn tại" là như thế ...
Hai điểm chính là từ trên trời, có thể nói là mặt trời và mặt trăng. Một điểm là mặt trời; một điểm là mặt trăng. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
III- THEO DỊCH HỌC ĐÔNG PHƯƠNG
B- HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC BỘ SỐ - NHÓM SỐ
Xem thêm sự biểu lộ vũ trụ qua con số và phân thân: Hư Không - Thái cực - lương nghi
+ Quẻ khôn: Đạo đức theo Kinh dịch
Ðây là quẻ thứ hai trong Kinh Dịch. Quẻ Khôn là quẻ nói về hình tượng của đất. Ðất thì rộng rãi, sâu dày. Người quân tử nhìn đó mà bắt chước, để tâm lượng và đạo đức cũng như đất: rộng rãi sâu dày. Ðất thì nuôi dưỡng mọi hạt giống, trưởng dưỡng cây cỏ, đem lại lợi ích cho muôn vật. Người quân tử nhìn đó nên bắt chước tính đất: trưởng dưỡng, lợi lạc kẻ khác. Nói về rộng rãi thì chẳng có gì bằng lòng đại bi. Nói về sâu dày thì chẳng gì hơn lòng nhân. Tu theo quẻ Khôn thì mình cần nuôi dưỡng lòng đại bi nhân từ, lúc nào cũng sẵn sàng giúp người, thành tựu người. Ðối xử với kẻ khác, bậc quân tử chỉ dùng đạo đức, mong sao có thể thật sự giúp ích cho người; chẳng dùng thủ đoạn, tính toán vị kỷ, chẳng hời hợt trên đầu môi chót lưỡi để vừa lòng người. Do lòng từ bi, bậc quân tử lúc nào cũng ôn hòa nhu thuận, không để ý nghĩ lời nói ác ôn giận dữ, thâm độc đố kỵ, hại người tổn đức, có cơ hội khơi dậy. Tu đạo Càn là tu trí huệ, tu đạo Khôn là tu đức hạnh, từ bi nhân hậu vậy. (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
+ Quẻ Càn: Ðây là quẻ thứ nhất trong 64 quẻ của Kinh Dịch. Ðức Càn là đức thuần dương, hết sức cương quyết mạnh mẽ. Người có thân tu theo đạo Càn thì hành động không làm ác, không làm trái nhân nghĩa, ngược luân thường. Miệng không nói lời hủy báng, phá hoại kẻ khác hay dối trá, hiển độc, giả dối. Tâm không chút mờ ám, vẩn đục bởi tư lợi ích kỷ, hay nhỏ hẹp ganh ghét. Tâm người theo đạo Càn thì lúc nào cũng quang minh, chính đại, khoan dung độ lượng. Không bao giờ để cho hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng phá hoại lý tưởng và chí hướng bên trong. (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
+ Quẻ Truân: Người quân tử sắp đặt, sửa sang. Ví dụ, khi biết trước thời thế suy vi, nạn dói rét sắp đến, người quân tử lo tích lũy lương thực, củi lửa phòng thân .... (Nguồn: Vạn Phật Thánh Thành)
Xem thêm trích đoạn: Lời tựa Kinh Hoa Nghiêm liên quan đến Kinh dịch
+ Quỉ La Sát - Rakshasas: Còn gọi là Yêu ma, yêu quỷ, yêu tinh
+ Quỷ La sát: Thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Quỷ La-sát là loài quỷ ăn tinh khí của người, và đều là phái nữ, chuyên môn ăn tinh khí người ta. Nếu thuyền bị gió bão trôi giạt vào nước quỷ La-sát, chỉ cần trên thuyền có một người phát tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì tất cả người trên thuyền, cho đến trăm ngàn vạn ức chúng sanh, đều được thoát nạn La-sát. Do nhân duyên đó mà tên vị Bồ-tát này là Quán Thế Âm.......
+ Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ mà nhìn người huống lại làm hại đặng. Giả sử lại có người, hoặc có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thảy đều đứt rả, liền được giải thoát.
HT Tuyên Hóa giảng: Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên. Sao gọi là cõi nước tam thiên đại thiên? Nhân vì ba ngàn (thiên) nên gọi là cõi nước tam thiên đại thiên. Thế giới chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn: Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Ðông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. “Một” đây là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu. Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới. Vì có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới.
Nếu trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy cả quỷ Dạ-xoa cùng La-sát. Quỷ Dạ-xoa bao gồm: Phi hành dạ-xoa, Ðịa hành dạ-xoa và Không hành dạ-xoa. Quỷ Dạ-xoa chạy rất nhanh, hỏa tiễn bây giờ cũng chạy không kịp tốc độ của nó, vì thế nó còn có tên là Tốc tật quỷ hay Tiệp tật quỷ. La-sát là quỷ ăn tinh khí, nó chuyên môn ăn tinh khí của người. Muốn đến hại người. Loại quỷ Dạ-xoa, La-sát này chuyên môn hại người, đến đâu cũng tìm cách quấy rầy người. Như quý vị muốn phát tâm Bồ-đề, chúng nhất định không bao giờ thích, cố ý gây rắc rối cho quý vị, nghĩ ra mọi cách ngăn cản khiến quý vị không thể tu hành được rồi thối thất đạo tâm. Từ trước quý vị đã phát tâm Bồ-đề một cách mạnh mẽ, nhưng nó lại lẻn vào thân tâm quý vị làm cho quý vị tự nhiên khởi lên vọng tưởng: “Tu hành làm chi! Học Phật-pháp để làm gì! Thôi đừng nên học Phật-pháp nữa! Ði chỗ khác chơi, mọi việc đều tự do theo ý mình, thích nhảy đầm thì nhảy, thích nghe âm nhạc thì nghe. Còn học Phật ư! Cái này không được làm, cái kia không được làm, có biết bao cái không được làm! Lại không được xem hát, không được uống rượu, không được hút thuốc nữa, cả khối việc phải kiêng cử! Phật-pháp quả là càng học càng rắc rối!”. Ai có ý nghĩ đó tức là bị quỷ Dạ-xoa, La-sát đến xúi bẫy đó. Có người muốn xuất gia. Nó xui vị ấy nghĩ: “A, xuất gia cực lắm! Cả ngày làm việc quần quật, lại ăn không ngon, mặc không đẹp, cực khổ quá mức! Ði tu để làm gì?” Nghĩ thế rồi thối tâm đi. Lại có vị muốn làm Tỳ-kheo-ni, quỷ Dạ-xoa, La-sát sẽ đến giục vị ấy nghĩ: “Ối chào! Nên đi lấy chồng đi! Lấy chồng mỗi ngày có chồng bầu bạn, vừa lòng thích ý hơn.” Làm cho quý vị đừng phát tâm Bồ-đề nữa, chính là công việc của quỷ Dạ-xoa La-sát đấy. Chúng chuyên môn làm tổn hại đạo tâm Bồ-đề, phá hoại việc tu hành của người. Vì thế nói: “Muốn đến hại người.”
Nghe người xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho dù có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, La-sát muốn đến làm hại, gây phiền phức cho người. Nhưng một khi chúng nghe quý vị niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát” thì những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ để nhìn. Một khi quý vị niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên hào quang tỏa sáng, bọn quỷ ấy muốn nhìn quý vị cũng không nhìn thấy được. Vì chúng thấy quý vị có ánh sáng chói lòa như đèn điện, mở mắt không ra. Cho nên nói là: Còn không thể lấy mắt dữ tợn để nhìn. Huống lại làm hại đặng. Cả đến mắt cũng không thể mở thì làm sao gia hại được? Tự nhiên nó phải chạy xa thôi. Vì thế quý vị phải luôn luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ được Ngài bảo hộ cho.
Giả sử lại có người, là giả sử còn có một người. Hoặc có tội hoặc không tội. Không luận là có tội hay không. Bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân mình. Người có tội tất nhiên bị chính phủ bắt giữ, bị còng tay, chân mang gông. Người “có tội” là chỉ người phạm tội; còn người “không tội” là chỉ người bị oan uổng, bị vu cáo, bản thân không phạm phải tội lỗi mà bị chính phủ bắt giữ cầm tù trong ngục, tay mang còng, chân mang gông. Gông cùm xiềng xích là những hình cụ xử phạt mà tội nhân phải mang, nó dùng để trói buộc người. Nếu xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu ngay lúc đó người ấy có thể xưng niệm “Nam-mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.” Thì thảy đều đứt lìa. Những thứ hình cụ gông cùm xiềng xích này bèn tự nhiên bị gãy đứt. Liền được giải thoát. Tức thời được giải thoát ngay vì còng tự động đứt, gông tự nhiên mở.
Nói tóm lại, bất cứ hình cụ nào đang ở trên thân đều tự nhiên rơi xuống. Việc này tôi đã chứng kiến rất nhiều. Có lần đó, tôi ở chùa Nam Hoa, vào thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, tôi gặp một vị Sư bị quân Nhật bắt giam vào ngục, tay chân đều bị xiềng xích cả. Vị Sư ấy ở trong ngục suốt ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm miên mật không dứt. Vào một buổi chiều, bỗng nhiên những gông cùm trên thân Sư đều bị gãy đứt, cửa ngục cũng tự động mở ra nên trốn thoát được.
Hóa giải nạn: Quỷ thần - La sát - Rồng độc - Quỹ dữ - Ác thú
Hoặc gặp ác La-sát
Rồng độc các quỷ dữ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Thảy đều không dám hại.
Hoặc là quý vị đến nơi núi hoang rừng vắng, chỗ không có bóng người, và gặp phải quỷ La-sát, rồng độc, hay các loài quỷ khác. Quỷ La sát hung dữ phi thường, giống như người Dao ở Trung Hoa chuyên môn ăn thịt người vậy.
Rồng độc cũng có thể hại người. Chúng thường chiếm cứ một vùng, hoặc trong ao hồ, hoặc ở sông lớn, hễ có người đi qua chỗ ở của chúng thì bị chúng phun nọc độc, trúng vào phải chết. Có thứ rồng độc lớn, thậm chí hớp một hơi có thể khiến cả thuyền và người đều chạy tuốt vào bụng, thật là lợi hại!
Còn quỷ, thì chẳng phải chỉ có một thứ mà có rất nhiều, như Ða tài quỷ, Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ v.v...
"Ða tài quỷ" như là các vị Thổ địa, Thành hoàng. Họ tuy đều là quỷ, nhưng là thủ lãnh của quỷ, cũng như Quỷ vương vậy.
"Thiểu tài quỷ" là quỷ nghèo, dù cho có tiền cũng có rất ít.
"Vô tài quỷ" thì thực sự là không có tiền của chi cả.
Vậy thì, quỷ mà còn dùng tiền sao? Thật ra quỷ không cần dùng tiền, nhưng do tập quán xấu cho nên bọn Ða tài quỷ khi cai quản những quỷ khác cũng tham ô. Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ cũng giống như người ta vậy, suốt ngày từ sáng tới tối đều mong muốn có thêm được tí tiền. Tuy không cần dùng tiền, nhưng vì bọn họ chấp trước thành thói quen, thành một thứ mê muội, cho nên mới ưa thích tiền. Tiền họ dùng là tiền giấy, ở Trung Hoa người ta thường đốt giấy tiền cho quỷ chính là muốn mua chuộc, lấy lòng bọn quỷ.
Nếu quý vị gặp những quỷ La-sát, rồng độc hoặc các thứ quỷ thần ấy, quý vị có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì những ác quỷ ấy tự nhiên trốn mất. Tại sao thế? Tại vì khi quý vị niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, trong miệng có phát ra ánh sáng, tất cả những loài quỷ đều sợ ánh sáng nên không thể làm hại quý vị được.
Hoặc ác thú vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Ðều vội vàng bỏ chạy.
Ác thú tức là lang sói, hổ, beo, những dã thú này chuyên môn ăn thịt người. Ở các núi của nước Mỹ không có hổ, nhưng ở Trung Hoa và Ấn Ðộ thì hổ rất nhiều. Lúc nhỏ, có lần tôi đi vào trong núi, đi 5, 6 ngày trời vào chỗ không có người ở, có gặp những ác thú ấy. Nhưng tôi rất lấy làm lạ là không biết tại sao chúng không ăn thịt tôi. Răng của ác thú bén nhọn như dao, móng vuốt cứng chắc như móc sắt. Ðương khi quý vị gặp những ác thú vây quanh như thế mà biết niệm ngay Bồ-tát Quán Thế Âm, thì bọn chúng chẳng những không dám làm hại quý vị mà còn bỏ chạy tức khắc. Tại sao lại bỏ chạy? Vì Bồ-tát Quán Thế Âm có sức cảm ứng linh thiêng (linh cảm) khiến cho bọn chúng một khi nhìn thấy quý vị, tự nhiên sanh lòng sợ hãi, lật đật trốn chạy xa.
Ngoan xà và phúc yết
Khí độc xông mịt mù
Nhờ sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi.
Ngoan xà là một thứ rắn độc, phần lớn màu đen. Phúc, ở Trung Hoa gọi là Diên xà (rắn mối), thường thấy ở trên diềm mái nhà. Thứ rắn này rất nhiều ở Thái Lan, thường xuất hiện vào buổi tối và ré lên, cũng không sợ người. Nó có bốn chân nhỏ, thường chạy tới chạy lui ở trên mái nhà.
Phúc xà là loại rắn rất độc. Yết tức là bò cạp, nếu ai bị nó đốt thì có thể trúng độc lập tức chết ngay. Bọn chúng đều có khí độc xông mịt mù, thật là độc dữ vô cùng! Thậm chí làm cho người mất mạng như chơi. Dù gặp phải những loại rắn độc như thế, nếu bọn chúng nghe tiếng quý vị niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát" thì sẽ đều tự động chạy trốn mất, không dám tác oai, tác quái nữa.
Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Phước báu phân Đẳng cấp Súc sinh - Ngạ quỷ - Thành Hoàng: Tu có phước báu, ... Bất luận ở đường nào, cái phước này theo quý vị, quý vị chắc chắn sẽ đạt được, vì thế đây gọi là phước báo. Phước báo của đường súc sinh, đây là cái mà chúng ta bình thường dễ dàng nhìn thấy nhất, thú cưng, thú cưng mà người ta nuôi có phước báo, người trong nhà đó đều hầu hạ chúng, đều yêu thích chúng, đúng là hưởng phước báo của chúng. Hơn nữa, có loại súc sinh rất thông minh, chúng hiểu được ý của người, có thể quan sát ngôn ngữ sắc mặt, đó là gì? Đó là pháp thí trước đây của chúng, chúng có thông minh trí tuệ, sức khoẻ trường thọ, quý vị xem ba loại phước báo chúng đều có. Đường ngạ quỷ cũng có, đường ngạ quỷ có phước có tuệ, trong quỷ đạo đi làm quỷ vương, trong quỷ đạo cũng có địa vị, giống như Thành Hoàng. Thành Hoàng bình thường, giống như huyện thị trưởng, Đô Thành Hoàng thì giống như tỉnh trưởng. Phía trên còn có Tổng giám Thành Hoàng, phạm vi mà họ cai quản rất rộng, có lúc quản những mấy tỉnh, còn có quản lý một khu vực, khu vực đó nếu như là một quốc gia nhỏ, thì họ quản lý rất nhiều quốc gia. Vì thế họ có phân chia cấp bậc, phước báo có khác nhau. Người tu phước, công đức dễ bị mất đi, phước báo không bị mất đi, bất luận quý vị đến đường nào cũng vẫn có phước báo. Rơi xuống địa ngục cũng có phước báo, trong địa ngục có phước báo thì chịu khổ nhẹ hơn một chút, họ phải chịu khổ, chỉ là nhẹ hơn người khác một chút, người không có phước báo, chịu khổ nhiều một chút. Quả thực khổ báo có khác nhau. Đây là “quả báo truy tuỳ, tương tùng bất xả, tuỳ kỳ nghiệp nhân, cảm đắc thiện ác chi báo”, đây đều nói về lục đạo. (Nguồn: Thiện ác biến hóa - HT Tịnh Không giảng)
+ Người Tu không bị Phong Thủy xấu tương tác làm hại:
- Đức Phật dậy về nguyên lý tương tác của các Đại: Như Lai Tạng bây giờ nếu tùy duyên tác động vào tâm chúng sinh, con người sẽ phát sinh ra những cảm giác vui buồn, hờn giận, thương ghét, tốt xấu, hơn thua, phải quấy…nhưng nếu chúng sinh biết xoay về bản thể chân thật của mình thì vui buồn tan biến, thương ghét không còn và tâm sẽ trở về với tự tánh thanh tịnh bất biến của nó. Nói cách khác, Như là bất biến còn Lai là tùy duyên. Vì thế Như Lai là bất biến tùy duyên và cũng tùy duyên bất biến. Có tùy duyên bất biến nên chúng sinh mới có thể hóa giải vô minh phiền não để trở về sống với chơn tâm, tánh giác diệu minh của chính mình. (Nguồn: Xem mục Dùng Phật nhãn nhìn lên ....)
+ Ý nghĩa không gian và Thời gian theo Phật giáo có thể chia làm hai mặt:
- Không gian: Nếu đứng về phương diện không gian thì đạo Phật chủ trương rằng vạn pháp là do nhân duyên hòa hợp mà thành.
- Thời gian: Còn đứng về phương diện thời gian thì vạn pháp là do nhân và quả mà thành tựu.(Nguồn: Mục Lại rơi vào thuyết nhân duyên đối đãi ....)
+ Tham sắc dục - May thay chỉ có một: Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc đẹp to lớn không gì sánh bằng. May thay, chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế thì khắp thiên hạ không ai có thể tu Đạo được cả!"
Giảng: Đức Phật dạy: "Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục." Ở đây, "ái dục" tức là ái tình và dục vọng. Sắc dục tức là tâm dâm dục. Trong tất cả, không có gì đáng ngại bằng nữ sắc
* Tứ dục (bốn ý muốn của chúng sanh trong cõi Dục-giới từ loài ở nơi đất (địa cư), loài ở hư không, cho đến chư thiên sáu cảnh Lục-dục):
1) Tình dục (lòng ham tình). Chúng sanh trong cõi Dục-giới, phần nhiều đối với cảnh tình ái trai gái, khởi lòng ham muốn.
2) Sắc dục (lòng muốn sắc đẹp). Chúng sanh trong cõi Dục-giới, phần nhiều đối với cảnh tình ái cái sắc mềm mại, xinh đẹp của trai gái, khởi lòng ham muốn.
3) Thực dục (lòng muốn ăn). Chúng sanh trong cõi Dục-giới, phần nhiều đối với món ăn ngon, khởi lòng ham muốn.
4) Dâm dục (lòng muốn dâm). Chúng sanh trong cõi Dục-giới, phần nhiều đối với chỗ đụng chạm nhiễm trước trong đám trai gái, khởi lòng ham muốn. (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Tài sắc - Nước lửa: Con người dụng Tâm Ý Thức phan duyên, chánh chết đuối lại nhảy vào lửa mà chết. Chết đuối - Chết thiêu tương ưng với Tham tài thì bị tài sản chôn vùi, tài tương ưng với nước, giống như chết đuối. Tham sắc - Lòng tham muốn/ Lửa thiêu đốt thân. Nước lửa là ví dụ Tài Sắc. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 197 - HT Tuyên Hóa giảng)
Ngũ hành trùng điệp, lại thông căn
Tiêu đề: "Dụng Thần Giáp mộc;
+ Hỏa tinh và Hải Vương Tinh truyền dẫn Cung 6, Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người); Xem thêm: Bài viết ngày 13/10/2016a
+ Hoả tinh: Tham vọng, lực đẩy, năng lượng, bản chất hung hăng: Xem nguồn
+ Chân Sư DK tóm lược về Mars đầy đủ: Hỏa Tinh dứt khoát là hành tinh đang chi phối và kiểm soát thể xác...... Hỏa Tinh có liên quan chặt chẽ với giới tính..... bồi bổ (vitalise, làm cho sống động) dòng máu; nó bồi bổ, thanh luyện và làm phấn khích mọi trạng thái và cơ quan trong cơ thể, xuyên qua dòng máu......Như bạn biết, màu sắc được qui cho Mars là đỏ và đây là một tương ứng với màu của dòng máu và do đó cũng là sự phối hợp/ liên tưởng của Mars với tham dục, với tức giận và một ý thức về sự phản kháng chung. Ý thức về lưỡng nguyên, cực kỳ mạnh mẽ (CTHNM, 236-238)
+ Sao Hỏa (♂): Mars là hành tinh của chiến binh, hung hăng và chiến đấu. Tôi thấy sao Hỏa là động lực để đạt được và hoàn thành. Động lực thúc đẩy chúng ta và kích thích chúng ta. Tôi không liên kết trực tiếp Mars với tình dục, mặc dù mức năng lượng vật lý tổng thể của một người bị ảnh hưởng bởi sao Hỏa, và mối quan tâm đến giới tính có một tương quan tới mức năng lượng thể chất chung của một người.
+ Cặp bài trùng: Hỏa tinh - Mars và Pluto - Diêm Vương tinh là cặp bài trùng (nội môn), nó tương tự như Kim tinh và Địa cầu (CTHNM, 568)
+ Sao Hỏa thời mạt pháp: Trong thời mạt pháp, ngài tiếp tục sau khi ngưng một lúc, vị Hành Tinh Thượng Đế, đấng chủ trì địa cầu, sẽ thải bỏ và chuyển hóa độc chất như thỉnh thoảng cơ thể con người thải bỏ và chuyển hóa độc tố. Kết quả là thể tình cảm chung của nhân loại có xáo trộn, và những ai chưa biết tự kiểm sẽ có phóng túng về tình dục, rượu chè hoặc ngay cả tội phạm. Đây là chuyện đang xẩy ra lúc này, và ở mức độ rộng lớn đến nỗi lẽ tự nhiên nó ảnh hưởng nhân loại và sự phát triển của con người. Nếu con hỏi anh bạn chiêm tinh gia, anh sẽ cho con biết là ảnh hưởng của Mars đã gây ra điều ấy. (Nguồn: David Anrias: Chiêm Tinh gia và Huyền Bí gia - Chương IX)
Xem thêm về Hỏa tinh
+ Cõi cảm dục (Cõi Trung giới; Cõi Dục giới): – Tất cả các bạn đều đang hoạt động ở một mức độ nào đó trên cõi ảo tưởng và ảo cảm, và đối với các bạn, thế giới ảo tưởng có thật và cõi cảm dục đối với bạn là có thật. Nhưng tôi có thể nói: đối với các thành viên đã được điểm đạo của Đại Bạch Giai thì cõi cảm dục không có thật. Các vị này không hoạt động trên phân cảnh ý thức đó vì cõi cảm dục là một trạng thái tri thức rõ rệt cho dù (theo quan điểm tâm linh), nó không thật sự hiện tồn. Nó biểu hiện cho đại công tác sáng tạo của nhân loại qua bao thời đại và là sản phẩm của sự tưởng tượng “giả tạo” và hoạt động của bản chất tâm thông thấp. Khí cụ của công tác sáng tạo của nó là bí huyệt xương mông và bí huyệt nhật tùng. Khi các năng lượng tìm cách biểu hiện qua hai bí huyệt này được chuyển hóa và đưa tới bí huyệt cổ họng và tim nơi người tiến hóa, bấy giờ, những người vượt trội nhất trong nhân loại sẽ biết được rằng cõi cảm dục không có thật. Bấy giờ, họ sẽ hoạt động mà không có ấn tượng của nó và nhiệm vụ giải thoát nhân loại ra khỏi tình trạng nô lệ của sáng tạo riêng của nó sẽ diễn tiến nhanh chóng. (SHLCTĐ, 40)
+ Cõi cảm dục là cõi của ảo tưởng, của ảo cảm và của một cách trình bày lệch lạc về thực tại (LVHLT, 222)
+ Cõi Cảm dục: Bản chất và chức năng của nó ở vai trò là bãi chiến trường của các giác quan, và là nơi mà từ đó huyền thuật được tiến hành (LVHLT, 235)
+ Hành Thủy - Nguyên tố thủy: Để giúp ích những người chưa quen với các thuật ngữ khoa Chiêm tinh, ở đây tôi xin nói rõ nguyên tố Thủy chế ngự cõi tình cảm hay cảm dục, mà huyền thuật nghi lễ có liên quan mật thiết. Từ đó, Hội Theosophia, hầu như vô tình đã đi vào một chu kỳ ngắn cần cách hoạt động kết hợp với nguyên tố Thủy hay yếu tố tình cảm này, mà cũng lạ là nó đã chế ngự tất cả các nguyên tố khác trong lá số tử vi thành lập hội vào tháng 11/1875. (Nguồn: Ngũ hành - Các vị Thánh sư - Tr5).
+ Kinh tế: Toàn bộ tình hình kinh tế hiện đại có bản chất cảm-dục; nó là hậu quả của sự ham muốn và là kết quả của việc sử dụng ích kỷ nào đó các lực vật chất. Nóng và lạnh, như chúng ta hiểu, theo một cách đặc biệt nhất, là kết quả của sự tương tác của các cặp đối ứng, và là một đường lối nghiên cứu huyền bí thú vị,..(LVHLT, 225)
+ Cõi ảo tưởng (plane of illusion) là cõi cảm dục (TLHNM II, 189)
- Dĩ Thái Cảm dục: Với dĩ thái, ấn tượng luôn là có ánh sáng như sao, chói rực, lấp lánh, dùng để chỉ cõi tình cảm. Thật là lý thú với thí dụ về tác dụng của cõi cảm dục lên não bộ con người, khi không được biết rõ, nó sẽ đảo ngược sự thật và thấy các sự vật ở tình trạng lộn ngược. Cái bề ngoài của cõi cảm dục khi được thấy lần đầu tiên một cách rõ rệt bởi “con mắt mở rộng” của người tìm đạo là một đám sương mù dày đặc, hỗn độn, hình hài biến đổi, màu sắc xuyên thấu nhau và trộn lẫn nhau và có dáng vẻ biến ảo đến nỗi sự vô vọng của việc khó khăn này dường như lấn áp tất cả. Nó không phải là ánh sáng, hoặc lấp lánh như sao, hoặc trong suốt. Hiển nhiên, đó là một khối lộn xộn, không thể xuyên qua được, vì đó là nơi hội tụ của các mãnh lực. Bởi vì các mãnh lực trong chính cơ thể của người tìm đạo cũng hỗn độn nên y trộn lẫn với sự hỗn độn chung quanh đến nỗi mà lúc đầu, linh hồn đứng bên ngoài hầu như không thể tách rời cơ cấu cảm dục của riêng mình ra khỏi cơ cấu cảm dục của nhân loại nói chung, và ra khỏi cơ cấu cảm dục của thế giới.
Bấy giờ, một trong các điều đầu tiên mà người tìm đạo phải học là tách rời hào quang của riêng mình trong ý thức tình cảm ra khỏi hào quang của môi trường quanh mình và phải mất nhiều thời giờ mới học được điều này. Lý do của việc này là một trong các tính chất đầu tiên trên đường đệ tử là phân biện, vì chính nhờ dùng thể trí như là dụng cụ phân tích, gạn lọc mà thể cảm dục mới được kềm chế.
- Cõi cảm dục là cõi của ảo tưởng, của ảo cảm và của cách trình bày thực tại bị méo mó. Lý do là vì mọi con người trên thế gian đều đang vướng bận với chất cảm dục và sức mạnh của dục vọng nhân loại và dục vọng của thế giới luôn luôn tạo ra sự “vẽ vời” và xây đắp hình hài vốn dẫn đến các hiệu quả cụ thể nhất đối với chất cảm dục. Dục vọng cá nhân, dục vọng quốc gia, dục vọng của giống dân, dục vọng của nhân loại nói chung, cộng với dục vọng do bản năng của tất cả các sinh linh dưới nhân loại tạo ra một sự thay đổi và chuyển dời thường xuyên chất liệu của cõi này. Ngoài ra còn việc tạo nên các hình hài tạm thời, một số đẹp đẽ hiếm thấy, một số không đẹp và có sinh khí do năng lượng cảm dục của tác nhân tạo ra chúng. Thêm vào các hình hài này có các màn cảnh mà chúng ta gọi là “tiên thiên ký ảnh” có liên hệ đến lich sử của quá khứ, cộng với các hoạt động của các sinh linh thoát xác đang vượt qua cõi cảm dục, hoặc là lìa trần, hoặc là đi đầu thai, cộng với ước vọng mạnh mẽ được thanh lọc và sáng suốt của các siêu nhân, kể cả các vị thuộc Thánh Đoàn trong hành tinh, và toàn thể các mãnh lực hiện diện thật kỳ diệu. Tất cả đều đang tác động lên, chung quanh và xuyên qua mọi người tùy vào năng lực thể xác y và tình trạng của các trung tâm lực của y mà y đáp ứng được. Xuyên qua bức tranh toàn cảnh huyễn ảo này, người tìm đạo phải tạo con đường cho mình, tìm ra manh mối hoặc sợi chỉ sẽ dẫn y ra khỏi mê cung, và bám chặt vào từng mảnh nhỏ của thực tại khi nó bộc lộ ra cho y, học cách phân biệt điều chân thật với ảo giác (glamour), cái thường tại với cái vô thường, và điều chắc chắn (certainty) với cái hư ảo (unreal). Như Cổ Luận giảng:
“Người đệ-tử hãy nắm lấy cái đuôi của con rắn minh-triết, và khi đã nắm chặt nó, y hãy theo nó vào trung tâm sâu nhất của Phòng Minh-Triết (Hall of Wisdom). Y đừng để bị dẫn vào cái bẫy do con rắn của ảo giác đặt ra cho y, mà y hãy nhắm mắt lại trước các họa tiết đầy màu sắc trên lưng của nó, và đóng chặt đôi tai của y trước những giai điệu trong tiếng nói của nó. Y hãy nhìn thấy viên ngọc, đặt ở trán của con rắn mà y đang nắm đuôi của nó, và nhờ ánh sáng chói lọi của viên ngọc, y hãy băng qua các phòng ảo giác lầy lội”. (LVHLT, 221–222)
+ Cõi cảm dục là cõi mà nơi đó con người trải qua ba giai đoạn của ý thức:
a/ Qua bộ máy cảm giác, con người có được ý thức trong thế giới sắc-tướng, và phát triển khả năng phản ứng lại với các sắc-tướng này bằng sự minh-triết và sự thông tuệ. Y chia sẻ ý thức này với thế giới động vật, mặc dù y vượt xa chúng trong một số khía cạnh, nhờ vào việc y sở hữu một thể trí biết phối hợp và biết hợp tác.
b/ Sự nhạy cảm, hay là sự nhận thức về các tâm trạng, các cảm xúc và các cảm giác, các dục vọng và các khát vọng, vốn có các gốc rễ của chúng từ bên trong y, trong nguyên khí ngã thức, hay trong nguyên khí ahamkara, như nhà huyền linh học (vốn yêu thích các thành ngữ khó hiểu) thường hay gọi nó. Y chia sẻ điều này cùng với đồng loại của mình.
c/ Sự nhận thức tâm linh hay sự nhạy cảm với thế giới tâm linh, và trạng thái cảm nhận về tâm thức cao siêu. Điều này có các nguồn gốc của nó trong linh hồn, bao hàm địa vị thống trị của bản chất trí tuệ, và chính năng lực đó làm cho y thành một nhà thần bí. Y chia sẻ nhận thức này cùng với tất cả các đệ-tử và đó là phần thưởng của các chiến thắng đã đạt được của kinh nghiệm cõi cảm dục của y (LVHLT, 227)
+ Cõi Tình Cảm/ Cảm Dục: Đó là cõi tình cảm, tức là Kurukshetra, hoặc cõi của ảo tưởng, nơi mà đất (bản chất hồng trần) và nước (bản chất tình cảm) gặp nhau (LVHLT, 244)
– Phân cảnh thứ tư của cõi cảm dục nắm giữ đa số nhân loại khi họ qua đời. (LVHLT, 374)
– … Trong giai đoạn cuối cùng của lịch sử nhân loại (trong căn chủng thứ bảy), cõi cảm dục sẽ không còn tồn tại nữa. (CTNM, 487)
– Cõi cảm dục dứt khoát là một trạng thái ý thức, cho dù (theo khía cạnh tâm linh) nó không thực sự tồn tại. (SHLCTĐ, 40)
+ Minh triết: Minh triết là viên ngọc quí Trời trao cho nhân loại qua các thánh hiền. Minh triết không phải là điều để nói chơi, nói đùa; không phải là cái phụ thuộc, có hay không cũng không quan hệ. Minh triết là chân lý chỉ đạo, là ánh sáng định hƣớng cho con người tìm thấy sự sống vĩnh hằng để được hạnh phúc an lạc. Vì thế, minh triết luôn luôn đƣợc trình bày một cách cô đọng, khó hiểu. Cô đọng khó hiểu để thử thách con người. Minh triết chỉ dành cho những người thành tâm thiện chí. Thiếu thành tâm, thiện chí không thể tiếp thu minh triết, bởi vì họ không hiểu gì cả. Thành tâm, thiện chí thuộc về con mắt tâm linh. Đó là sự thách đố ban đầu để kén chọn, tuyển lựa. Có lẽ phải mượn lời Đức Giêsu trong Tân Ước: “Ai có tai thì nghe.” (Matthêu: 13, 9) để nói về minh triết. Nghĩa là ai nghe hay không nghe, hưởng ứng hay không hưởng ứng thì tùy lòng! (Nguồn: Tứ thư và giảng giải - Lý Minh Tuấn)
+ Cung 2 - Bác ái -Minh Triết: Đặc điểm của Cung 2 là sự thu hút hay hấp dẫn, từ tính. Hai khía cạnh của Cung 2 là
- Bác ái (Love), nhấn mạnh về phương diện “Tâm, Chữa lành, Cứu Rỗi”, và khía cạnh
- Minh triết (Wisdom) nhấn mạnh phương diện “Trí”, giáo dục, chân lý thuần khiết / Tri thức/ Hiểu biết (Minh triết), giáo dục, nghiên cứu.
+ Minh Triết còn gồm: Minh Triết Mới và Minh Triết cổ
+ Minh triết nhấn mạnh phương diện “Trí”, giáo dục, chân lý thuần khiết (TLHNM 1)
+ Minh triết tức là tri thức cao siêu.(GLTNVT, 328)
+ Minh triết là sự thăng hoa của trí tuệ, nhưng minh triết bao hàm sự thăng hoa của các khía cạnh cao cũng như thấp của thể trí. Đó là sự pha trộn của trực giác, nhận thức tâm linh, hợp tác với thiên cơ và hiểu biết tự phát bằng trí tuệ đối với những gì được tiếp xúc, và tất cả đều dung hợp và pha trộn với tình thương và bằng tình thương mà tôi đã định nghĩa ở trên, cộng thêm với nhận thức huyền bí vốn phải được khai mở trước khi được điểm đạo lần 2.(SHLCTĐ, 99)
+ Minh triết là việc áp dụng kiến thức đã được soi sáng, nhờ tình thương, vào các sự việc của con người. Đó là sự am hiểu tuôn chảy ra khắp nơi như là kết quả của kinh nghiệm. (SHLCTĐ, 467)
+ Minh triết là khoa học về tinh thần, cũng như tri thức là khoa học về vật chất. Tri thức có tính phân tích và thuộc ngoại cảnh, trong khi minh triết có tính tổng hợp và thuộc nội tâm. Tri thức thì phân chia; minh triết thì kết hợp. Tri thức thì tách ra, trong khi minh triết thì hòa hợp lại. (ĐĐNLVTD, 11)
+ Minh triết liên quan đến Bản Ngã duy nhất, tri thức liên quan đến Phi Ngã, trong khi thông hiểu là quan điểm của Chân Ngã (Ego) hay Chủ thể Tư tưởng (Thinker) hay là liên hệ của Chân Ngã với Bản Ngã duy nhất và Phi Ngã. (ĐĐNLVTD, 12)
+ Minh triết sẽ thay thế kiến thức, tuy nhiên, ở giai đoạn đầu cần phải có kiến thức. Bạn nên nhớ rằng kẻ phụng sự phải vượt qua Phòng Học tập trước khi tiến vào Phòng Minh triết.(TVTTHL, 346–347)
+ Xem: Bảy Nhánh Tri Thức - Minh Triết Tinh Thần - Minh Triết Thiêng Liêng - Tri thức - Minh Triết Mới
+ Xem: Vidya - Minh Triết Cổ Đại - Minh Triết Ngàn Xưa
+ Xem: Hansa - Minh Triết Điểu
+ Xem thêm: Tổng hợp về Bái ái - Minh Triết
+ Trong “Giáo Lý Bí Nhiệm”, dạy rằng có 7 nhánh tri thức được nói đến trong Kinh Puranas –SD I, 192. Ở đây, các tương ứng có thể nêu ra liên quan với:
1. Bảy Cung, các Tinh quân Hy sinh, Bác ái và Tri thức.
2. Bảy trạng thái ý thức (States of consciousness)
3. Bảy trạng thái vật chất hay cảnh giới.
4. Bảy loại thần lực.
5. Bảy cuộc điểm đạo và nhiều thất bộ (septenates) khác.
6. Tri thức thuần túy (Gnosis),
7. Tri thức ẩn tàng là Nguyên Lý (Principle) thứ bảy,
+ Sáu triết phái Ấn Độ là sáu nguyên lý – SD I, 299. Sáu trường phái này là:
a/ Trường phái Luận lý …Bằng chứng của tri giác đúng đắn
b/ Trường phái nguyên tử. Hệ thống các sự kiện. Các bản tố. Luyện đan và hóa học.
c/ Trường phái số luận. Hệ thống các số. Trường phái duy vật. Lý thuyết về 7 trạng thái vật chất hay prakriti.
d/ Trường phái Yoga. Sự hợp nhất. Quy tắc của đời sống hằng ngày. Thần bí học.
e/ Trường phái tôn giáo nghi lễ. Nghi thức. Thờ phụng thiên thần hay các thần
f/ Trường phái Vedanta có liên quan đến phi nhị nguyên bàn về liên hệ của atma nơi người với Thượng Đế.
Tri thức thuần túy hay tri thức ẩn tàng thì tương tự như Atma Vidya (Minh triết Tinh thần) hay Minh Triết Thiêng Liêng (Theosophy) và bao gồm 6 trường phái kia. (LVLCK, 285)
Xem: Tổng hợp về Bái ái - Minh Triết
Nguyên nhân của mùa thu (Cause of Autumn): X. Hoạt động quy nguyên của hành tinh.
+ Góc Mùa Xuân: Trong Chiêm tinh học gồm các Nhà 1, 2 và 3, tương ứng với mùa xuân và sự nổi lên của cá tính. Chính ở đây các giá trị và ý tưởng cơ bản được hình thành. Đây là góc phần tư của tính tự phát và cá tính lớn nhất, nơi mà trí thông minh bẩm sinh, khả năng thích ứng và truyền thông đều hoạt động vì lợi ích tốt nhất của chúng ta. Đó là góc phần tư mà chúng ta xác định những gì chúng ta muốn có trong cuộc sống. Ở đây, người mẹ và thời thơ ấu cũng là những yếu tố quan trọng. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất, Mặt trăng giống phần tư thứ hai, sao Kim giống phần tư thứ ba, và sao Thổ giống phần tư thứ tư. Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. Nguồn: Chiêm tinh học
+ Mùa Xuân: Quý vị xem, chuyện đốt rừng xua bắt thú, vì sao ở đây nói đến mùa xuân? Sao không nói đến mùa hè, mùa thu, phải nhất định nói về mùa xuân? Mùa xuân là thời kỳ muôn vật sinh trưởng. “Xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàng.” (Mùa xuân sinh sôi nảy nở, mùa hạ lớn lên, mùa thu thâu gồm lại, mùa đông tàng chứa.) Mùa xuân là mùa hết thảy muôn vật đều bắt đầu sinh trưởng, sao có thể nhẫn tâm giết hại? Tâm như vậy là hết sức tàn nhẫn, không có nhân từ, không có thương yêu. Chúng ta đọc qua những lời răn dạy của các bậc hiền thánh xưa, từ những chỗ như thế này thể hội được tấm lòng nhân từ bác của các ngài, cũng từ chỗ này mà học tập, mà nuôi dưỡng thành tập quán, tập quán thương người yêu vật. (Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 6 tháng 4 năm 2000 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 187, số hồ sơ: 19-012-0187)
+ Gồm các nhà số 4, 5 và 6, cho thấy chúng ta sẽ làm gì để tạo ra sản phẩm mang lại an ninh cho bản thân và gia đình chúng ta. Nó mô tả các phương tiện mà qua đó chúng ta có được nhiều cơ sở vững chắc hơn và thiết lập mối quan hệ với gia đình và xã hội. Góc phần tư này là nhà và nơi làm việc, những nơi đó là cơ sở cho sự an toàn của chúng tôi. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. Nguồn: Chiêm tinh học
+ Góc Mùa Hạ: Đỉnh (cusp) của nhà thứ 10, Midheaven, bắt đầu góc phần tư cuối cùng. Nó đánh dấu thành tựu cá nhân cao nhất mà chúng ta có thể đạt được. Đây là nơi Mặt trời sẽ ở vào đúng trưa, ở đỉnh cao nhất của nó. Trong góc tư này, các mối quan hệ được hình thành để tiếp tục khẳng định và mở rộng sự thành công của chúng ta càng nhiều càng tốt. Đây là hy vọng thực hiện những hoài bão của chúng ta và nơi những mối quan hệ khách quan quan trọng hơn những mối quan hệ cá nhân hay chủ quan. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng.Nguồn: Chiêm tinh học
+ Tánh Phân biệt của Tâm nhị nguyên: Trích Đức Phật bảo ngài A Nan: Dù có diệt hết cái thấy, nghe, hiểu, biết mà giữ được sự thanh thản, lặng lẽ bên trong, đều do bóng dáng của sự phân biệt pháp trầ̀n vẫn còn.
Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm. Nhưng ông phải suy xét chính chắn, nếu có một thể tánh phân biệt khi rời hẳn tiền trần thì đó chính là tâm ông.
Nếu tánh phân biệt này khi rời hẳn tiền trần mà không còn tự thể thì đó chỉ là bóng dáng phân biệt của tiền trần.
Nếu quý vị không thể nào tìm thấy được tự thể của tánh phân biệt khi tách rời hẳn tiền trần thì đó chỉ là bóng dáng phân biệt của tiền trần. Đó không phải là chân tâm.
Trần ấy chẳng phải là thường trụ, khi nó biến diệt thì cái tâm ấy cũng như lông rùa sừng thỏ. Ắt pháp thân ông cũng đồng như đoạn diệt. Ai là người tu chứng vô sinh pháp nhẫn?
Khi đối diện với tiền trần mà quý vị móng khởi tâm niệm, quý vị sẽ cho rằng ở đó có một niệm phân biệt và niệm phân biệt chính ấy là tâm của mình. Nếu khi đối diện tiền trần lại có tâm phân biệt, còn khi không đối diện tiền trần thì không có tâm phân biệt. Tâm phân biệt ấy cũng biến diệt luôn vậy. Vậy nên khi không gặp tiền trần thì không khởi tâm niệm, khi không có tâm phân biệt, thì tâm ông ở đâu? Tâm ấy cũng giống như lông rùa sừng thỏ.
HT Tuyên Hóa giảng đoạn trên:
Khi nào rùa mọc lông? Không bao giờ. Khi nào thì thỏ mọc sừng? Không bao giờ. Như thế ông hoàn toàn chẳng có tâm.
Ắt pháp thân của ông đồng như đoạn diệt.
Bởi vì ông chẳng có tâm nên pháp thân của ông cũng không hiện hữu. Làm sao mà ông lại có được pháp thân khi chẳng có tâm?
Nếu tánh phân biệt này khi rời hẳn tiền trần mà không còn tự thể thì đó chỉ là bóng dáng phân biệt của tiền trần.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần Kinh văn-Mục 96)
+ Nhân Tánh: Trích câu Hỏi 33: Tại sao học Phật pháp lại phải tọa thiền? Đáp: Tức là phải học tập vô lượng kinh điển, vô lượng trí huệ trong tự tánh của chúng ta. Trong nhân tánh vốn có vô lượng pháp môn nhưng con người cứ bỏ gốc để chạy theo ngọn, rồi hướng ra ngoài truy cầu chớ không biết hồi quang phản chiếu.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Dân nước Chúa là người có các quyền năng được kềm chế bởi rung động vượt trội (dominant vibration) của cung linh hồn, còn bộ máy bén nhạy bên trong đang rung động với mức độ mà đến lượt cung linh hồn lại đang tái định hướng về phía cung Chân Thần và được cung này kềm chế. (TLHNM II, 17–18)
+ Tâm Chấp Trước - Cố Chấp - Khó Nói - Bám Chấp - Chấp Kiến:
* Là tâm thứ 10 trong 12 nhân duyên: Chấp ngã, cho vạn vật hiện hữu, sinh diệt là thật, chết là hết và sống theo nó.
+ Bám Chấp: Tâm thức lệ thuộc vào “một ham muốn mãnh liệt về đời sống hữu thức” (Học MF-QU1 - môn 100.3)
+ Chấp trước: Giữ chắc sự việc không thể buông xả. Ôm chặt. Nghĩ về điều gì và không thể quên được nó; Dính mắc vào tư tưởng cho rằng vạn hữu là thực (dính chắc vào sự vật mà không rời lìa. Mỗi pháp đều có nhiều nghĩa tương đối, nếu chấp chặt vào một nghĩa, chẳng biết dung hòa, chẳng biết tùy nghi, chấp trước như vậy chỉ là tự hạn hẹp lấy mình mà thôi; (Nguồn)
+ Kiến trược - Chấp trước: lấy năm lợi sử làm bản thể của nó. Năm lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ và Giới cấm thủ. Kiến trược này lấy sự hiểu biết lầm lạc về sáu giác tri làm tướng, xưa nay là đạo lý đúng thật nhưng nó lại tưởng là thiên lệch thành ra tà tri tà kiến, ấy gọi là biết lầm về sáu giác tri.
* Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
1. Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
2. Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Đều rơi vào hai bên.
3. Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
4. Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
5. Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành.
Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Chấp trước: Con người trở nên chấp trước vào sự sở hữu, thường xuyên lập nên sự phân biệt về “tôi” và “cái của tôi.” Họ không thể dẹp sang một bên sự sở hữu những của cải vật chất hay sự hưởng thụ thú vui tinh thần. “Đó là máy bay của tôi/ Xe của tôi... Bất luận khi người ta sở hữu một vật gì, thì đều bị dính mắc vào vật ấy. Đàn ông/ phụ nữ/ Người thiện/ Người ác đều có sự chấp trước, chìm đắm của mình....người ta cũng khó lòng xả bỏ được nó. Họ chiếm đoạt rồi níu giữ, kiên trì bám riết lấy nó. Càng lúc càng trở nên cố chấp hơn. Tiến trình này vô tận vô biên. Những khoái lạc như thức ăn ngon, nhà cửa tiện nghi, những món giải trí hấp dẫn và những thứ thường được xem như là lợi nhuận...chúng giả tạm không bền mà cứ tưởng như nó bền vững trường cửu như nó đang hiện hữu. Mặc dù quý vị chưa nhận ra điều ấy. Nhưng đó chỉ là sự tham đắm dục lạc làm chướng ngại việc chứng đạt Phật tánh của quý vị mà thôi. Nên Đức Phật đã dạy: “Chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chúng sinh không thể nhận ra được Phật tánh. ... Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Đức Phật dậy “Khi tâm cuồng chợt dừng hẳn thì ngay lúc ấy là giác ngộ”(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh)
+ Đức Phật gọi là người “cố chấp”, “chấp trước”, “khó nói” và là đối tượng để Ngài giáo hóa và nhắc nhở. Người cố chấp có các đặc điểm: như tằm kéo kén - xa rời Tam bảo - một chiều trong nhận thức - mắc bệnh “thần tượng” - tham, sân sâu nặng - bất hạnh và khổ đau. ... Lời kết: Dùng trí tuệ phá “tảng băng” cố chấp; Nguồn xem tại đây; Xem thêm
+ Chấp hay cố chấp vào một điều gì đó, còn gọi là định kiến. Chính sự chấp trước này làm chúng ta đau khổ, cho nên coi nó là mối nguy hại cần phải tránh. Tránh bằng cách nào? Nguồn: Xem tại đây
+ Chấp kiến: Hiểu "Thập Nhị Nhân Duyên" thì người ta sẽ không Chấp trước, và Đức Phật đã xác định điều này trong Kinh Tương Ưng Bộ; Đức Phật đã không trả lời các câu hỏi siêu hình; Có câu truyện người mù sờ Voi và tả lại con voi làm ví dụ để giảng về Chấp trước (Người mù) và không Chấp trước; Nguồn; Xem đây
+ Chấp Trước: Phật pháp là nhân duyên sanh, cho nên ý nghĩa này rất sâu. Phàm thứ gì là nhân duyên sanh (do nhân duyên sanh ra) sẽ đều chẳng thật! Pháp được sanh bởi duyên sẽ có sanh, có diệt; có sanh có diệt sẽ chẳng thật. Vì thế, đức Phật bảo chúng ta: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp). Quý vị chớ nên chấp trước Phật pháp. Hễ chấp trước thân này là Ngã, trật rồi! Nếu quý vị chấp trước kinh điển là Phật pháp, cũng trật luôn! Nó là pháp được sanh bởi các duyên. Thứ nào chân thật sẽ chẳng phải là duyên sanh, nó vốn có. Tự tánh là vốn có, Tánh Đức trong tự tánh là vốn có. Trí huệ, đức năng, và tướng hảo vốn sẵn có trong tự tánh. Ý nghĩa này sâu lắm, nó biến thành cái được gọi là Triết Học cao cấp và khoa học trong hiện thời. Nói pháp duyên sanh với quý vị, đó là sơ cấp, Tiểu Học và Trung Học đều có thể học.
... Phật chẳng độ chúng sanh! Phật ban cho quý vị cái gì? Cái gì Phật cũng chẳng ban cho, bản thân quý vị đã vốn có! Vốn có, nhưng quý vị mê rồi, chẳng thể thụ hưởng. Đang mê hoặc, điên đảo, đang luân hồi trong lục đạo, sống cuộc đời thê thảm, khổ nạn như thế; Phật đến điểm hóa quý vị. Quý vị có Phật tri Phật kiến, vốn là Phật, nhưng bị mê, mê mất tự tánh (Mời xem chi tiết đầy đủ tại tại đây )
+ Tóm Lược Phật Pháp: Kinh A Hàm kể rằng có lần một đệ tử hỏi Phật Thích Ca: “Bạch Thế Tôn, giáo pháp của Thế Tôn có thể tóm tắt nói lên bằng một câu rất đơn giản hay không?” Phật trả lời: “Có thể”. Đệ tử lại hỏi: “Đó là câu gì?”
- Phật nói: “Đối với tất cả, đều không chấp trước. Đó là lời nói quan trọng nhất trong tất cả giáo pháp của Ta”.
Tiếp theo Phật lại nói: “Nếu có người nào đó “hiểu” được câu ấy, thì sẽ tin theo toàn bộ giáo pháp của Ta, nếu có người nào đó “thực hành” được câu ấy, thì tức là thực hành được toàn bộ giáo pháp của Ta”.
+ Đức Phật dạy: Sau này khi các vị A La Hán, Bồ tát, khi xuất thế cứu đời, không được xưng là: A LA HÁN, BỒ TÁT. Vì sao, vì không có một Pháp cụ thể nào gọi là A LA HÁN, BỒ TÁT, hay là Chánh Đẳng Chánh Giác.( Xem nguồn )
+ Phiền não cũng chính là chấp trước. Chấp trước chính là tên khác của phiền não. Quý vị có chấp trước thì không được giải thoát, vì còn phiền não. Vậy chấp trước là từ đâu sanh ra? Chính là do lòng ích kỷ, tự tư tự lợi sanh ra. Quý vị nếu là người không có lòng tự tư tự lợi mà đại công vô tư, thì quý vị có gì để chấp trước? Nếu quý vị không có lòng ích kỷ thì cũng không có chấp trước. Không có chấp trước thì không có phiền não; không có phiền não thì giải thoát. Ðược giải thoát tức là khai ngộ, cũng chính là thành Phật. Cho nên phiền não của chúng ta là một thứ xấu xa, tệ hại nhất. Nhưng mọi người đều không rời bỏ được thứ xấu xa ấy, mà thường gắn bó với phiền não, đi đứng nằm ngồi luôn có nhau!(Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa)
Xem: Tổng hợp về Chấp trước và Phá chấp trong tu hành Cải mệnh: Chấp trước và Phá chấp tu Cải mệnh
Xem Thuật ngữ Tâm Vô Vi - Đã Phá Ngã Chấp
Xem: Tổng hợp những câu truyện về Chấp Trước ;
Xem thêm nguồn tại đây
+ Tâm nhị nguyên - Tâm phân biệt: Chủ về Yêu Ghét - Thích và không thích, tương ứng của nó là Ái và Dục như trong Kinh Viên Giác, Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử, vô thỉ đến giờ, chúng sinh vì có mọi thứ ái dục nên có luân hồi (qua 4 kiểu sanh). Do đó mà biết gốc rễ luân hồi là ái. Ái được dục hỗ trợ nên làm cho sinh tử liên tục: dục do ái, mạng do dục; chúng sinh ái mạng nên quay lại ái dục, ái dục là nhân, ái mạng là quả.
Vì đối với đối cảnh của dục mà nổi dậy sự chống đối hay sự thích ứng. Đối cảnh trái với ái thì chống đối bằng sự ghét bỏ, gây ra mọi thứ nghiệp ác, đó là lý do có địa ngục, có ngạ quỉ, có súc sinh. Biết dục đáng chán ghét, ái sự chán ghét ba đường đi của nghiệp ác, ghét bỏ nghiệp ác mà ưa thích nghiệp lành, nên có chư thiên, có nhân loại. Lại biết mọi sự ái đều đáng ghét bỏ, ghét bỏ cái ái và ưa thích cái bỏ, nghĩa là vẫn trở lại thêm cho gốc ái, nên có những thiện quả hơn lên, và vẫn là nghiệp tạo ra, nên toàn là luân hồi, không thành đường đi của các vị thánh giả.
Vì vậy, chúng sinh muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi thì trước hết phải hủy diệt dục và ái. Còn bồ tát sinh trong luân hồi thì không phải do ái mà là do từ bi, muốn làm cho chúng sinh bỏ ái nên mượn dục để vào lại sinh tử luân hồi. Những người thời kỳ cuối cùng bỏ được dục, trừ được ái gồm cả sự ghét bỏ và sự ưa thích của nó, hủy diệt luân hồi vĩnh viễn, bằng cách siêng cầu viên giác của Như lai chứng ngộ, thì thế là đối với tâm thể trong sáng ấy họ được tỏ ngộ.
Thiện nam tử, chúng sinh do ái dục phát triển vô minh mà hình thành năm chủng tánh khác nhau, và do hai chướng ngại mà trình bày sâu cạn. Hai chướng ngại là gì? Một là chướng ngại chân lý, chướng ngại cho sự thấy biết chính xác. Hai là chướng ngại sự dụng, tiếp nối cho sự sinh tử luân hồi. Năm chủng tánh là gì? Nếu cả hai chướng ngại chưa được hủy diệt, thì gọi là những kẻ chưa thành Phật đà. Nếu vĩnh viễn loại bỏ ái dục, hủy diệt chướng ngại sự dụng mà chưa hủy diệt chướng ngại chân lý, thì chỉ nhập vào thanh văn duyên giác, chưa nhập vào bồ tát. Nếu muốn du nhập biển cả viên giác vĩ đại của Như lai chứng ngộ nên trước đó lập chí nỗ lực hủy diệt hai chướng ngại, hai chướng ngại đã hàng phục thì nhập vào bồ tát ẫ còn hai chướng ngại đã hủy diệt vĩnh viễn thì nhập vào viên giác của Như lai, tròn đầy đại bồ đề và đại niết bàn. Tất cả chúng sinh đều có khả năng chứng ngộ viên giác, nhưng gặp thầy bạn tốt, và tu tập theo pháp hạnh căn bản sơ khởi của họ, nên sự tu tập ấy có liền liền và có dần dần dẫn nếu gặp Như lai chỉ dẫn con đường tu tập chính xác về tuệ giác vô thượng, thì bất kể trình độ cao thấp, toàn là thành tựu quả vị Phật đà. Nếu người nào dẫu cũng đi tìm thầy bạn tốt, nhưng gặp phải kẻ kiến thức sai lầm, thì người ấy chưa được tỏ ngộ chính xác, như thế gọi là chủng tánh ngoại đạo, và đó là lỗi của thầy bạn sai lầm, không phải lỗi ở người ấy. Như thế đó gọi là năm chủng tánh khác nhau của chúng sinh. (Nguồn: Kinh Viên Giác - Di Lặc hỏi)
+ Tâm Phan Duyên - Tâm Thức nhị nguyên: Con người thường dùng với Tâm thức nhị nguyên - Tâm phan duyên chứ không phải Chân Tâm, cần phân biệt Chân Tâm và Tâm nhị nguyên mà đa số nhân loại đang sống băng tâm nhị nguyên này. Loài Người Có Căn Tánh - Bản Tánh - Tánh Người - Tâm Tánh và cả Tánh Phật trong Con Người. Xin trích đoạn ngài A Nan hỏi Đức Phật Tâm trụ ở đâu: ... Đức Phật: Con người đều do không biết hai món căn bản, nên tu tập sai lầm.
HT Tuyên Hóa giảng: ... Và do vì họ không hiểu được nên họ bị sai lầm trong khi tu tập. Kết quả thành ra mê mờ. Họ không biết làm sao hành trì cho đúng pháp chân chính. Ví dụ như ở Ấn Độ có một phái ngoại đạo chuyên thực hành pháp tu khổ hạnh bằng cách ngủ trên giường đinh. Họ cho rằng người ta sẽ được công đức nhờ dám tu tập hạnh khổ nhọc như vậy. Có công đức gì trong việc làm ấy? Dù quý vị có ngủ trên dao đi nữa, cũng vô ích mà thôi. Có một số người khác cố làm cho được những thói quen của loài bò và loài chó. Họ bắt chước y hệt cử chỉ của các loài vật này. Tại sao vậy? Đó cũng như là tình trạng nhầm lẫn mê mờ phương pháp tu hành chân chính. Họ thực hành lối tu khổ hạnh vô ích chẳng đạt được kết quả gì cả, dù họ có tu hành khổ nhọc đến đâu đi nữa.
Bây giờ Đức Phật mới đưa ra một ví dụ. Họ cũng như người nấu cát mà mong muốn thành cơm. Dù có trải qua nhiều kiếp như vi trần nhưng rốt ráo vẫn không thể đạt được những gì mong muốn.
Cát hoàn toàn chỉ biến thành cát, cát không thể biến thành thức ăn được. Những người này không hiểu được hai món căn bản nên mê mờ, nhầm lẫn trong công phu tu tập. Chung quy sẽ dẫn đến những việc tương tự như vậy. Những gì là hai món căn bản?
Một là căn bản sinh tử, từ vô thỉ, chính là tâm phan duyên mà hiện nay ông và toàn thể chúng sinh nhận làm tự tánh.
HT Tuyên Hóa giảng: "Nhận lấy tâm phan duyên này, quý vị lầm cho rằng đó chính là tự tánh. Quý vị nhận lầm tâm phàm phu làm bản tâm của mình, vậy nên làm sao mà chẳng bị luân hồi trong sinh tử?
Quý vị không nhận ra được bản tâm là gì, thay vì vậy, quý vị nhận giặc làm con, trong tương lai nó sẽ lấy sạch châu báu trong nhà cửa của quý vị. Đó chẳng gì khác hơn là vọng tưởng, nó khiến cho quý vị nghĩ rằng mình có chút thành tựu bởi đã dùng tâm phan duyên. Đây chính là sai lầm mà A-nan đã mắc phải."
Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ-đề niết-bàn từ vô thỉ. Đó chính là cái thức tinh nguyên minh của ông. Hiện nay hay sinh khởi các duyên bị ông quên mất.
HT Tuyên Hóa giảng: Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ-đề niết-bàn từ vô thỉ.
Chẳng có khởi đầu nên Đức Phật gọi là “vô thỉ”; ngay cả những gì xảy ra trước lúc khởi đầu.
Bồ-đề là tiếng Phạn (bodhi), dịch nghĩa là giác ngộ được đạo lý. Có ba nghĩa:
1. Chơn tánh bồ-đề: tức là Phật tánh mà mọi chúng sanh đều vốn có sẵn. Thông thường mọi chúng sanh đều có chơn tánh bồ-đề này.
2. Thật trí bồ-đề: tức là trí tuệ chân chính chẳng phải là tà tuệ.
3. Phương tiện bồ-đề: Tức là phương tiện của những người sau khi đã chứng đạo, họ quán sát căn cơ, nghiệp lực của chúng sinh mà có phương cách thích hợp để giáo hóa.
Ba dạng bồ-đề này có thể xem là một, phân ra gọi là ba, thực ra chỉ là một. Cả ba chính là chân tánh bồ-đề và do nơi chân tánh bồ-đề mà có được Thật trí bồ-đề và phương tiện bồ-đề.
Rốt ráo, bồ-đề do đâu mà có? Bồ-đề chẳng từ đâu mà có mà cũng chẳng đi về đâu. Mỗi người chúng ta xưa nay vốn đã từng có sẵn tánh bồ-đề trong mình rồi. Chẳng người nào có tánh bồ-đề ít hơn hay nhiều hơn người kia. Tánh bồ-đề ấy không tăng thêm không giảm bớt; không sinh ra, không mất đi chẳng thanh tịnh, chẳng dơ uế.
Có một số người học Phật có cái nhìn chưa rõ ràng, cho rằng niết-bàn chính là chết nhưng niết-bàn là còn nhấn mạnh đến cái không phải chết. Những ai vướng mắc vào quan điểm này chưa phải là người thông hiểu Phật pháp.
Giảng về: Đó chính là thức tinh nguyên minh của ông.
Chữ “nguyên” có nghĩa là cội gốc của bản thể thanh tịnh. Nghĩa là cái mà chẳng phải nhiễm ơ, chẳng phải thanh tịnh, không thêm, không bớt. Ánh sáng của nó vốn thường soi chiếu khắp nơi. Chữ “thức” ở đây không phải là tám thức, chẳng phải mạt-na hay a-lại-da thức. Nó chẳng liên quan gì đến tám thức ấy cả. Nó chính là cái tối tinh, tối diệu của thức, thể tánh của nó bản nguyên thanh tịnh, nó chỉ là tên gọi khác của bồ-đề niết-bàn. Cụm từ được dùng ở đây là nhờ vào lối văn chương bóng bẩy tránh sự lặp lại. Nó chính là khía cạnh rất tinh vi và mầu nhiệm của thức, của Phật tánh bản hữu của chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể.
Giảng về: Hiện nay hay sinh khởi các duyên mà bị ông quên mất.
Vì những nhân duyên này sinh khởi, nên quý vị phải bị đẩy đi xa, xa mãi nơi quý vị muốn trở thành, cũng giống như người càng chạy càng xa mãi nơi mình đứng. Tôi đã từng nói trước rằng A-nan càng trả lời những vấn nạn của Đức Phật thì càng đi xa dần mục tiêu cần nhắm đến đó sao?
Tất cả các duyên này đều lưu xuất từ thức tinh nguyên minh mà có, nhưng sau một thời gian dài chấp giữ các duyên này, nên dường như bỏ quên mất thức tinh nguyên minh.
Cái gì bị bỏ quên?
Chẳng cái gì cả. Thực vậy. Thức tinh nguyên minh dường như bị bỏ quên nhưng không phải như vậy. Bản thể bổn nguyên vốn thanh tịnh. Bồ-đề niết-bàn là của báu chân thực trong nhà quý vị. Cơ bản là nó ở ngay bên cạnh quý vị nhưng quý vị không biết cách sử dụng nó để làm lợi ích cho mình. Bởi vì quý vị không biết cách sử dụng của báu ấy nên nó dường như bị bỏ quên. Như thể quý vị có một viên ngọc quý vô giá mà quý vị đem cất giấu vào nơi rất kín đến nỗi sau một thời gian dài quý vị không còn nhớ mình cất giấu viên ngọc ở đâu nữa. Khi quý vị đã quên không biết nó ở đâu thì không thể biết cách sử dụng nó cho có lợi ích. Mặc dù quý vị bị khốn quẫn nhưng không thể nào sử dụng được viên ngọc và hưởng được lợi ích từ viên ngọc quý ấy. Cũng giống như thể viên ngọc không có ở trong nhà quý vị vậy. Nên quý vị phải dùng thứ gì để thay thế? Quý vị dùng vọng tưởng của quý vị, dùng tâm phan duyên của mình để thay thế. Trong khi quý vị quên mất chơn tâm của mình và một khi chơn tâm đã bị bỏ quên thì nó cũng hoàn toàn giống như bị mất. Đây chính là lý do tại sao quý vị không thể thành Phật, thay vì vậy lại bị trói buộc trong vòng sinh tử, do vì quý vị không nhận ra chơn tâm.
"Do các chúng sinh bỏ quên tánh bản minh này, tuy trọn ngày mình sử dụng nó mà chẳng tự biết, nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi".
HT Tuyên Hóa giảng: Chúng sinh sống trong thể tánh thanh tịnh, trong chân tâm thường trú hằng ngày. Bởi vì vọng tưởng vốn xuất phát từ chơn tâm, đó chính là tâm phan duyên lưu xuất từ một niệm sinh khởi từ vô thỉ. Tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là sự biểu hiện từ chân tâm và niệm khởi này theo sát quý vị từ sáng đến tối, nhưng quý vị không thể nào nhận biết được niệm ấy. Quý vị chỉ biết làm thế nào để vận dụng tâm vọng tưởng của mình mà thôi.
Chơn tâm - Phật Tánh được biểu hiện qua tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh biết (Xúc chạm), Nhạy bén linh lợi.
Đó là cách thế tự nhiên như khi tay mình cầm đồ vật. Tất cả những điều này đều là biểu hiện sự vi tế, bất khả tư nghì của chân tâm. Nhưng không ai biết được điều này. Bây giờ A-nan vẫn còn mê mờ, thế nên Đức Phật dùng rất nhiều cách ví dụ để giảng giải cho A-nan.
"Nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi".
HT Tuyên Hóa giảng: Vì chúng sinh mãi chấp cứng vào tâm phan duyên nên phải trôi lăn vào trong các cõi mà chẳng biết những nghiệp mình tạo ra hằng ngày. Nơi thọ sanh là nơi mà quý vị mong mỏi nhắm đến. Quý vị đi thẳng một mạch đến đó. Rồi quý vị sẽ kết thúc đời mình ở nơi đâu? ở trong các cõi. Đó là trong sáu nẻo luân hồi. Có ba cảnh giới lành là: cõi trời, a-tu-la và cõi người. Có ba cảnh giới không lành là súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Bất kỳ quý vị tạo ra nghiệp gì, thì quý vị phải nhận chịu quả báo của việc ấy. Do không nhận ra được chân tâm bổn tánh, nên chấm dứt đời mình trong sáu nẻo luân hồi, dù không muốn vào đó mà cũng vẫn phải vào.(Nguồn: mục 77- HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Số đo thiêng liêng (divine measure): X. Vi tử, cách tạo lập.
+ Tượng Phật đầu tiên: Vua Ưu Đà Diên, trị vì nước Câu Diệm Di, truyền lệnh cho một người thợ bí ẩn, dùng gỗ thơm Chiên đàn đỏ, tạo ra hình tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đầu tiên trên thế giới. Nguyên do: Sau gần 49 năm thuyết pháp độ sanh, Đức Phật lên cung trời Đao Lợi nói kinh, giáo hóa chư Thiên và độ thân mẫu là Ma Gia phu nhơn được chứng thánh quả. Do Phật vắng bóng ở trần gian, vua Ưu Đà Diên không tìm thấy Đức Phật nơi đâu, lòng khát ngưỡng nhớ mong cực độ....truyền tìm thợ điêu khắc. Khi đó có vị thần Tỳ Thủ Yết Ma đã biến thân ra làm người thợ mộc, đến nhận trách nhiệm tạo hình tượng Phật để giúp nhà vua. Chỉ trong một ngày là xong tượng Phật, cao bảy thước mộc, tượng màu vàng tía, đủ các tướng tốt, khiến người nhìn đến biết là tượng Phật. Vua Ưu Đà Diên tạo tượng Phật xong, tiếng vang lan truyền các nước lân cận, vua các nước lớn như vua Ba Tư Nặc,vua A Xà Thế và vua Nghiêm Xí, đều đem lễ vật đến cúng dường chiêm ngưỡng và đều khen việc làm của vua Ưu Đà Diên. Sau 3 tháng, Đức Phật trở xuống nhân gian, vô lượng chư Thiên trong 6 cõi trời Dục giới, 18 cõi trời Sắc giới, đồng dâng lễ cúng dường Đức Phật và tiễn đưa Ngài trở lại trần gian. - Ngài Di Lặc Bồ Tát thưa hỏi Phật về công đức tạo tượng của vua Ưu Đà Diên, Đức Phật nói về phước báo và công đức thù thắng của người có tâm thành tín thanh tịnh tạo ra tượng Phật. “Di Lặc! Nếu có người nào dùng những tơ sợi thêu thùa tượng Phật, hoặc là nấu đúc bằng thứ vàng, bạc, đồng, sắt, chì, kẽm, hoặc điêu khắc bằng gỗ thơm Chiên đàn, hoặc khắc bằng thứ trân châu, sò ốc, gấm vóc dệt thành, đất đỏ, xi măng, thạch cao, đất sét, hoặc các thứ gỗ... Dùng những vật đó tùy phần sức mình tạo ra tượng Phật, cho đến rất nhỏ như ngón tay cái, có thể khiến cho người khác nhìn biết đó là tượng Phật, phước báo người đó nay ta sẽ nói: “Di Lặc! Những người như vậy ở trong sanh tử, tuy còn trôi lặn, trọn chẳng sanh tại gia đình nghèo cùng, cũng chẳng sanh nhà giòng dõi thấp hèn, cô đơn hẻo lánh ở ven cõi nước, lại cũng chẳng sanh vào nhà tà kiến, con buôn con bán, nhà làm hàng thịt, cho đến chẳng sanh vào giòng hèn hạ, kỹ nữ bất tịnh, hoặc nhà ngoại đạo khổ hạnh tà kiến, trừ khi vì sức thệ nguyện Từ Bi, ngoài ra chẳng sanh vào những nhà ấy. “Người này thường sanh vào nhà thuộc giòng tộc vua Thánh Chuyển Luân có thế lực lớn, hoặc sanh giòng Bà La Môn tịnh hạnh, hoặc nhà giàu sang không tạo tội nặng. Sanh ở nơi nào cũng thường gặp Phật vâng thờ cúng dường, hoặc được làm vua thọ trì chánh pháp, đem pháp giáo hóa không trái đạo, hoặc làm vua Chuyển Luân Thánh Vương oai hùng. Sanh ra nơi nào cũng là đàn ông, không chịu thân nữ. Lại chẳng chịu thân huỳnh môn hai hình là thứ hèn hạ, thân được thọ sanh không bị xấu xí. Mắt chẳng mù chột, tai chẳng điếc lác, mũi chẳng cong gãy, miệng chẳng méo lệch, môi chẳng trề xuống cũng chẳng túm rút, răng chẳng thưa thiếu, chẳng đen, chẳng vàng, lưỡi chẳng ngắn thụt, cổ chẳng bướu nhọt, thân chẳng lưng gù, da chẳng loang lổ, tay chẳng cụt ngủn, chân chẳng lệch què, chẳng quá ốm o, chẳng quá béo mập, cũng chẳng quá dài, cũng chẳng quá ngắn, đều không có các tướng chẳng đáng ưa...”. Xem: KINH ĐẠI THỪA CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT.
+ Đốt Sách Báo Có Hình Phật: Hỏi: Trong các sách báo và tạp chí Phật giáo có rất nhiều hình ảnh Phật. Nếu có quá nhiều sách báo như vậy thì chúng con làm sao đây? Chúng con có nên đốt hết không? Hiện nay tại Đài Loan có một vị Pháp sư trẻ rất nổi tiếng, vị đó tự xưng là người học giới luật, nói: “Phàm đốt các sách báo, tạp chí có hình ảnh Phật tức là phạm tội làm thân Phật chảy máu.” Nếu quả là như thế thì còn ai dám thỉnh sách báo Phật giáo để đọc nữa đây?
Đáp: Thuở xưa có vị cao tăng đạo đức đã đốt các tượng Phật bằng gỗ, vậy thì các vị nói sao đây? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ PHÂN BIỆT MANDALA VÀ MANDARA
Mandala và mandara là hai chữ Phạn cùng được phiên âm là mạn đà la. Do đó chúng thường bị hiểu lầm là giống nhau, và cùng ý nghĩa. Nhưng thật ra, mandarava, gọi là thiên hoa, tức là một loại hoa trên cõi trời.
Để diễn tả hoa trời, mandara có ý nghĩa là thiên diệu (kỳ diệu của cõi trời), duyệt ý (vui vẻ), thích ý (hợp với ý mình), tạp sắc (nhiều màu sắc), viên (tròn đầy), nhu nhuyến thanh (có âm thanh dịu dàng), khuých (đơn thanh), bạch (màu trắng).
Chữ mandara này thường được thấy trong chữ mạn đà lặc hoa, mạn na la hoa, mạn đà la phạn hoa, mạn đà la phàm hoa. Hoa này rất lớn thì gọi là ma ha mạn đà la hoa. Mạn đà la hoa là một trong 4 loại hoa trên trời, màu nó đỏ rực và cực đẹp, khiến người nhìn vào thì sinh vui vẻ.
CÁC LOẠI ĐÀN TRÀNG - MANDALA
1. Theo Kinh Kim Cang Đỉnh, có 4 loại mandala chính trong Chân Ngôn Tông của Phật Giáo:
Maha mandala: Đại Mạn đà la, gồm những hình ảnh của chư tôn, Phật bồ tát,thánh hiền, đầy đủ với dung mạo trang nghiêm. Thí dụ như Thành Thân Hội trong mandala Kim Cang Giới.
Samaya mandala: Tam-Muội-Da Mạn đà la, gồm những khí trượng, bảo vật, dùng để biểu tượng thệ nguyện của chư Phật bồ tát. Thí dụ như đức Quán Âm dùng nhành dương liễu và tịnh bình, đức Địa Tạng dùng minh châu và tích trượng. Ngoài những pháp khí bảo vật như vậy, trên tay các ngài thường có kết ấn (mudra).
Dharma mandala: Pháp Mạn đà la, gồm những chủng tử tự hoặc là chân ngôn của chư Phật bồ tát viết ra (giống như chữ Phạn). Đôi khi ta còn thấy kinh văn hoặc văn nghĩa mô tả cảnh giới trong thiền định (tam muội) hoặc diễn tả pháp thân, hoặc pháp giới.
Karma mandala: Yết-Ma Mạn đà la, gồm tượng đúc tạc chư tôn, Phật bồ tát, diễn tả hành trạng, sự nghiệp của các vị đó.
Karma mandala: Yết-Ma Mạn đà la, gồm tượng đúc tạc chư tôn, Phật bồ tát, diễn tả hành trạng, sự nghiệp của các vị đó.
Bốn thứ mạn đà la trên đều là hình vẻ hoặc tượng đúc.
+ Thiện nam - Tín nữ lập Mạn Đà La: Bấy giờ đức Thế tôn lại .... Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn …vv phát tâm kính trọng, muốn làm pháp mạn-đà-la này, trước cần phải chọn lựa chỗ đất thành tựu thanh tịnh thù thắng. Phải cuốc sâu xuống đất, lượm bỏ gạch ngói, cát đá, sỏi sành, gai than, lông tóc, các vật thô xấu không sạch, .... Phàm họa đàn pháp, trước tất cả phải từ Đông diện mà khởi. ... Tất cả chư Thiên thần Nhật Nguyệt thất tinh, nhị thập bát tú và Phật thị giả Ha-lị-đế mẫu thần.
Mạn-đà-la pháp này, nếu vì ra-nhạ mà làm, thì nên làm trong nhà. ... Nếu bị độc xà chích .. Nếu bị bịnh sốt rét ... Nếu bị quỷ La-xoa bắt ... Nếu bị quỷ ... Nếu bị tất cả quỷ thần và các chấp quỷ bắt bớ, ... Nếu bị các độc làm hại, ... Nếu súc sanh bị dịch bịnh, ... Nếu muốn lúa mạ tốt tươi, phải làm trong khuôn viên vườn. Nếu phụ nhơn bị các ác bịnh, hoặc bị quỷ thần …vv hút nút uống ăn tinh khí thành các thứ bịnh chẩn.. Hoặc bị tất cả bịnh....
Những phép tắc như vậy phải làm giữa ngày hoặc nửa đêm. Khi muốn xóa bỏ mạn-đà-la, phải tụng Bát tự chơn ngôn ở trước mà bỏ. Các vật trong mạn-đà-la nên đưa theo dòng nước tán thí, hoặc đem bố thí cho trẻ nghèo, tức sở cầu các việc đều được viên mãn. (Nguồn: Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi .... Mạn Đà La)
+ Lập mạn đà la: Thưa các bác, tối nay bên Orange County của mình sẽ có Mạn Đà La Di Đà, tức là Mạn Đà La Vô Lượng Quang Minh và mình sẽ cầu nguyện. Như các bác biết, Mạn Đà La là một nơi tập trung của chư Phật, chư Bồ Tát, cũng không phải là một chuyện khó hiểu. Khi mình lập ra một Mạn Đà La, mình cúng dường hương hoa, thỉnh mời chư Phật, chư Bồ Tát tới, và làm đúng quy củ thì thường thường rất linh nghiệm. Tuy mình không phải là chư tăng ni nhưng với lòng thành thỉnh mời, mình lạy các ngài và trì chú thì chư Phật, chư Bồ Tát lúc nào cũng xuất hiện cả. Cho nên tối nay sẽ là một buổi tối linh thiêng lắm các bác.(Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi)
* Xem các Clip Thầy Hằng Trường giảng về Mạn Đà la: Xem tại đây
+ Mạn Đà La - Kiết Giới: Thưa các bác, chiết giới là chia mặt đất, chỗ ngài Huyền Trang đang ngồi ra thành hai chỗ: trong vòng tròn gọi là chỗ an toàn, bên ngoài vòng tròn gọi là không an toàn. Bên trong gọi là chỗ thanh tịnh, bên ngoài là chỗ ô uế. Mình suy ra bên trong gọi là chỗ an lạc, bên ngoài là chỗ đau khổ; bên trong là chỗ thánh hiền, bên ngoài là chỗ ma quái; bên trong là mình giải thoát, tự tại bên ngoài là thế nào mình cũng bị trói, bị buộc, bị đọa, bị lạc.
Vòng tròn đó tượng trưng cho chuyện mình làm ngày hôm nay: Mạn Đà La. Mạn Đà La là mình vẽ một vòng tròn, đại chúng vào trong vòng tròn đó. Vòng tròn đó là gì? Là vòng giải thoát của Phật, Bồ Tát chứ không phải gì hơn.
Độc đáo hơn nữa, mình vẽ không những một vòng tròn mà hai vòng. Vòng đầu tiên mình vào có năm hình vuông tượng trưng cho chỗ chúng sinh ở. Chúng sinh lúc bấy giờ gọi là hồi đầu hướng nội, tức là những người tham gia Pháp Hội vào ngồi trong vòng tròn đầu tiên, vào ngồi trong năm hình vuông. Năm hình vuông đó tượng trưng cho Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tức là mình vào trong chỗ thanh tịnh hơn (ở ngoài mình càng nhiễu loạn cào cào hơn nữa). Vào sâu hơn trong năm hình vuông đó còn một vòng tròn cuối cùng; đó chính là vòng tròn của giải thoát, của đức Phật bổn tôn trong Pháp Hội. Trong Pháp Hội Đại Bi Quan Âm thì đức Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi ở giữa. Các bác thấy rằng vòng tròn trong cùng đó không khác gì vòng tròn củaTôn Ngộ Không vẽ để ngài Huyền Trang, đức Tam Tạng ngồi xuống.
Vòng đó là vòng linh thiêng nhất, linh thiêng vô cùng. Nếu Tôn Ngộ Không đọc câu chú thì chư tăng ni chúng ta cũng đọc câu chú. Câu chú đó là câu chú kiết giới, câu chú Đại Bi. Câu chú đó làm cho chỉ có chư Phật, chư Bồ Tát hiển hiện trong vòng đó mà thôi. ...(Mời xem đầy đủ tại nguồn: Thầy Hằng Trường - Ý nghĩa Mạn Đà La - Chú Đại Bi)
+ Sáu hạnh ứng 6 Tay: Thưa các Bác, Mạn Đà La Đại Bi Quán Âm năm nay đặc biệt vô cùng, vì nó nói đến cách thức làm sao đem bản tánh của ngài Quán Âm đi vào trong vũ trụ của hiện tượng giới, của sự pháp giới. Nếu muốn cho cuộc sống được vô ngại, mình phải đem Quán Âm Bồ tát vào trong cuộc sống, tức là mình phải đem sáu điều tu hành căn bản nhất vào cuộc sống. Sáu điều này chính là: Cho ra, Buông đi, Xoa dịu, Gỡ rối, Nhấc bổng và Mãn nguyện. Đó là sáu cái tay của đức Quán Âm. Mạn Đà La thay Tượng A Di Đà ở giữa thành tượng Bồ tát Quan Âm 6 tay
- Xem thêm Mạn Đà la Quán Âm Lục Tý: Mandala Thầy Hằng Trường
- Xem thêm ứng dụng: Mạn Đà La Bồ Tát Quan Thế Âm trị bệnh
+ Nhân loại thời tiền sử đến xuất hiện mặt Trời và Trăng Sao: Nay Đại Nghi Quỹ Vương mà Ta (Đức Phật) đã nói, đang có sức mạnh lớn, lợi ích cho chúng sinh. Song, Thế Gian kia, lúc Kiếp Sơ (Kalpāgra) thành thời tất cả chúng sinh ở trong hư không, đi đứng tự tại. Rồi ở thời ấy không có già không có chết. Lai thời ấy không có Tú (Nakṣatra), không có mặt trời (Āditya), mặt trăng (Candra) cũng không có thời tiết, cũng không có Âm Dương, cũng không có hàng Trời, Người, A Tu La….
Lại, thời ấy tuy có chúng sinh nhưng chưa có Tộc Tính. Con người đều thanh tịnh, không có thiện không có ác, cũng không có cái để ăn, cũng không có người ăn, cũng không có trì Trai, cũng không có Chú Pháp. Phần lớn chúng sinh ấy chỉ có Tưởng của Thế Gian, do nghiệp quá khứ dẫn dắt Nhân (hetu) nên rơi xuống đất chẳng thể bay trên hư không. Lúc đó liền có cái để ăn, liền có tham lam keo kiệt, thân đã nặng trược nên Đại Lực liền bị mất. Khi ấy liền có mặt trời, mặt trăng, tinh tú… rồi phân chia ngày đêm, liền có thời tiết cùng với Âm Dương. Liền nói trên Trời, Nhân Gian hơn kém có khác… cho nên có Trời, Người, A Tu La. Ta ở thời ấy, thân là Bồ Tát nhìn thấy chúng sinh kia có việc như vậy xong, Tâm thương xót cho nên hiện thân khác. Ấy là: hiện làm thân Tiên Nhân, hoặc hiện thân Phạm Vương, thân Đại Tự Tại Thiên, thân Na La Diên, thân Ca Lâu La cho đến mọi loại thân của hàng Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả…Ở trong mỗi một đời vì tất cả chúng sinh luôn thường giải nói nghĩa của Bồ Đề Hạnh.
Lại nữa, khi Ta [ Đức Phật ] ở quá khứ làm Bồ Tát thời tất cả chúng sinh trong Thế Gian: ngu si, hắc ám, không có Trí, không có Tuệ. Ta vì nhóm này nói tất cả công xảo kỹ nghệ của Thế Gian, Âm Dương, toán số, Điển Tịch Vi Đà (Veda), Chính Pháp, Tà Pháp, Giới Luật, Bản Hạnh cho đến nhóm Thanh Minh Luận. Tuy Ta ở đời quá khứ như vậy, vì Thế Gian nói như việc này, nhưng Ta cũng không có sở đắc, sở tri mà chỉ vì Bồ Đề (Bodhi) với nhóm giải thoát (Mokṣa). Như vậy tuy đi trong luân hồi nhưng luân hồi ấy chẳng thể cột trói.......
Do Nghiệp Lực này chẳng thể giải thoát Nhân Quả thiện ác, nên Ta nói một Pháp Âm Dương, Tinh Tú phân chia nơi thiện ác với nói bốn nhóm hộ thế là đất, nước, lửa, gió với chỗ mà bốn Đại này hòa hợp tạo làm, phát sinh mọi loại Tập Nhân (nhân gom chứa) của chúng sinh rồi vì lúc ấy tu Chân Ngôn Hạnh khiến được thành tựu....... [Nguồn: Văn Thủ Bồ Tát Pháp Kinh pdf -Tr 377]
+ Con người tiến hóa: Toàn bộ tầm quan trọng của cả quá trình tiến hóa, xét cho cùng, được đặt trên sự phát triển của tâm thức: ý thức thông minh làm sinh động các hình tướng, ở mọi trình độ khác nhau. ....Tác động 1 của linh hồn, vào lúc Biệt Ngã Hóa:
- Biệt ngã hóa, điểm đạo và đồng nhất hóa, gồm toàn bộ quá trình sự nghiệp của con người, từ lúc y xuất hiện vào trong giới nhân loại cho đến khi y chuyển ra khỏi nó ở cuộc điểm đạo thứ ba, và hoạt động tự do trong giới thứ năm, giới Thần Thánh (God). Tác động của linh hồn mang lại sự tiến hóa này. (Trích TLHNM)
I. Con Người tiến hóa qua Thập Giá: Nhờ Nghiên Cứu các Thập Giá, Chiêm Tinh Gia biết ai đó đang ở đâu trên đường tiến hóa. Mỗi Thập giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (Là các biến phân ba mặt của sự sống duy nhất). Chân Sư DK (CTHNM, 379, 380)
1- Thập Giá Cơ Bản ‒ Aries, Cancer, Libra, Capricorn
a. Về con người thông thường, cá biệt.
b. Về các cội nguồn tập thể.
c. Về ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 1.
2- Thập Giá Cố Định ‒ Taurus, Leo, Scorpio và Aquarius ‒ y sẽ đi đến lý giải chính xác về các sự sống:
a/ Của các điểm đạo đồ.
b/ Của sự thu hút tập thể thành tổng hợp.
c/ Của ý nghĩa về cuộc điểm đạo thứ 3.
3- Thập Giá Khả Biến ‒ Gemini, Virgo, Sagittarius và Pisces ‒ Y có thể đi đến ý nghĩa:
a/ Của các đệ tử.
b/ Của hoạt động tập thể.
c/ Ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 2.
II. Tiến hóa qua Cung Hoàng Đạo: Chia làm 3 nhóm theo trình tự phát triển - Tiến hóa CHIỀU ĐẢO NGHỊCH:
1. Chuẩn Bị: Một trí tuệ được kiểm soát, một năng lực để ghi nhận sự khai ngộ, một khả năng để tiếp xúc với khía cạnh bất tử và nhận ra một cách trực giác giới tinh thần, giờ y sẵn sàng việc lớn lao hơn.
- Bạch Dương linh hồn khoác lấy lớp vỏ trí tuệ - Linh hồn biết tư duy.
- Kim Ngưu thế giới dục vọng và phương tiện của cảm xúc phát triển - Linh hồn hữu thức
- Song Tử, một thể năng lượng được kiến tạo, một linh hồn sống động, thể dĩ thái được tạo ra.
- Trong Cự Giải công việc giáng sinh bắt đầu, bản chất tứ phân được biểu lộ.
2. Đấu Tranh cho Thành Tựu: Từ trận chiến vĩ đại mà thông qua đó cá nhân tự ý thức xuất hiện từ đám đông trong Cự Giải. Đây là 4 Cung của khủng hoảng và của sự nỗ lực lớn lao, tất cả sự khai ngộ, trực giác và năng lực linh hồn đều cần đến.
- Biết mình là cá thể, Linh hồn đạt được cá tính trong Sư Tử.
- Là đấng Christ tiềm năng, trở thành người nuôi dưỡng các ý tưởng và năng lực tiềm tàng trong Xử Nữ.
- Nỗ lực cân bằng các cặp đối nghịch, chao đảo dữ dội từ cực đoan này đến cực đoan khác trong Thiên Bình.
- Phải chịu sự tác động, kỷ luật của thế giới ảo tưởng và hình tướng, trở thành người chiến thắng ảo tưởng trong Hổ Cáp.
* 5 Kỳ Công đầu: “Chúng ta có thể xem 5 kỳ công đầu tiên (Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, và Sư Tử) là Con Đường Dự bị, và việc giết chết con Sư Tử Nemea là đỉnh điểm của hành trình gian khó đó. Bây giờ y sẵn sàng bước vào Con đường Đệ tử, trên đó đấng Christ nội tại đang dần tiết lộ, vật chất đang dần phục vụ cho linh hồn sử dụng, và phương diện hình sắc chỉ đơn giản được xem là “mẹ của đấng Christ Hài đồng”
3. Thành Tựu: Những thành quả đạt được và các quyền năng đã được phát triển. Người chí nguyện đã thoát ra khỏi thế giới của huyễn cảm và sắc tướng, và tâm thức của y bây giờ không chịu những hạn chế của chúng:
– Y có thể là cung thủ trong Nhân Mã, đi thẳng đến mục tiêu.
– Y có thể là con dê trong Ma Kết, leo lên ngọn núi Điểm đạo.
– Y có thể là người làm việc thế gian trong Bảo Bình
– Và là Đấng Cứu Thế trong Song Ngư
Vì thế, y có thể tóm tắt trong mình tất cả những gì đạt được trong giai đoạn chuẩn bị và trong những trận chiến quyết liệt trong 4 cung của hoạt động nỗ lực; (Nguồn: Các Kỳ Công)
+ Ba cách tiến hóa (Thuận chiều và Nghịch chiều)_Chân Sư DK (CTHNM, 295):
1. Giai đoạn quá khứ xa xăm đã qua - Không xét: Sự tiến bộ của nhân loại từ Aries đến Pisces, qua Taurus.
2. Ý nghĩa thuận chiều Vật chất - Tiến Hóa Công Truyền (Ngoại Môn = Hiện Tại): Tiến bộ của con người cá biệt diễn ra ngược lại với tiến bộ của tập thể; ở giai đoạn này, cá nhân tiến theo chiều kim đồng hồ từ Aries đến Taurus, xuyên qua Pisces. Sự sống của y lúc đó và về lâu về dài hầu hết là ngược với xã hội (anti-social) theo ý nghĩa tâm linh; y trở nên ích kỷ (selfish) và duy ngã (self-centred, trụ vào bản ngã). Các cố gắng của y đều dành cho chính y, cho sự thỏa mãn của y, riêng y và các hoạt động của phàm ngã trở nên ngày càng mạnh. Đây là tình trạng hiện tại đối với quần chúng.
3. Ý nghĩa Nghịch chiều/ Đảo Ngược - Tiến Hóa Bí Truyền (Nội Môn = Tương Lai): Cùng chiều với "giai đoạn 1". Tiến bộ của con người được tái định-hướng từ Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus. Trong giai đoạn cuối cùng này, y quay trở lại cùng phương pháp được hướng dẫn, tức nhịp điệu và chừng mực của hoạt động quần chúng trước kia nhưng lần này với các thái độ được thay đổi và đang thay đổi của việc phụng sự không ích kỷ, một phàm ngã được hiến dâng cho việc phụng sự nhân loại và với một sự tái định hướng tự ý của các năng lực của y sao cho chúng được hướng đến việc tạo ra sự tổng hợp và cảm thông. Việc này sẽ là tình huống trong tương lai đối với quần chúng.
* Nhà chiêm tinh học của tương lai sẽ phải ghi nhớ cẩn thận ba cách tiến hóa này. Đó là Thiên Cơ như hiện tại chúng ta có thể nhận biết được nó.
* Ví dụ với Cung Xử Nữ: Là cung thứ 6 xét theo cách này của Hoàng đạo (chiều Nghịch/ Đảo ngược) - Cung thứ 7 nếu người ta không xét vòng đảo ngược (Chân Sư DK_CTHNM, 285)
+ Loại người không Thể Khuyên can.
Kinh chép: "Nói Pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ thì không thể khuyên can. Ðức Phật dạy - Có 10 trường hợp:
1. Một là tham lam che mất lương tri;
2. Hai là tham đắm sắc đẹp;
3. Ba là [Kinh in thiếu đoạn nầy] ;
4. Bốn là kẻ ngang tàn bạo ngược;
5. Năm là kẻ nhút nhát;
6. Sáu là kẻ khờ khạo lừ đừ;
7. Bảy là kẻ kiêu ngạo buông lung;
8. Tám là người ưa đấu tranh;
9. Chín là người chấp tập tục si mê;
10. Mười là kẻ tiểu nhân.
Ấy là mười trường hợp ta không thể khuyên can. Kinh chép: "Nói Pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ thì không thể khuyên can." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Những tánh khiến người ấy trở thành khó nói/ Khó góp ý/ Khó tư vấn, chỉ bảo?
(1) Chư Hiền, ở đây, vị Tỷ-kheo có ác dục bị ác dục chi phối;
(2) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo khen mình chê người, như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói.
(3) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối;
(4) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành người có hiềm hận;
(5) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp;
(6) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ;
(7) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chống đối vị đã buộc tội mình;
(8) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chỉ trích vị đã buộc tội mình;
(9) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình;
(10) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình;
(11) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội;
(12) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và não hại;
(13) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo tật đố và xan tham;
(14) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và lường gạt;
(15) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo ngoan mê và quá mạn;
(16) Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả;
Chư Hiền, như vậy được gọi là những tánh khiến trở thành khó nói. (Nguồn: 15. Kinh Tư Lượng)
Khuyên bảo lẫn nhau để dứt trừ lỗi, đó là nói có sự giúp đỡ qua lại với nhau. Trong Phật pháp, thực sự rõ biết rằng nhân quả [báo ứng] tương quan trong cả ba đời: [quá khứ, hiện tại và tương lai], cho nên việc khuyên bảo sửa lỗi là quan trọng thiết yếu hơn hết.
Chỉ khuyên can không quá 3 lần: Tập khí xấu ác rất nặng nề, trong sách Luận ngữ có nói đến. Sách Luận ngữ là do Khổng tử nói ra. “Bạn bè [khuyên can] quá nhiều lần thì thành ra xa cách.” Cho nên, hiện nay so [với thời trước] khó khăn hơn rất nhiều. Khuyên bảo sửa lỗi không được quá ba lần. [Khuyên can] ba lần trở lên thì đã thành kẻ ác rồi, tình bạn bè thành ra xa cách. Không chỉ là xa cách, mà còn kết thành oán thù. Do đó có thể biết rằng, việc khó nhất trong đời này là [hiểu được] lòng người. Đó gọi là: “Thành tựu công việc đã khó, làm người còn khó hơn.”
=> Người thực sự thấu tình đạt lý, Nho gia gọi là người quân tử, là người thực sự thông hiểu ý nghĩa [thích hợp] lòng người. Thấu tình đạt lý đến mức rốt ráo thì đó là bậc thánh nhân, trong Phật pháp chúng ta tôn xưng là Phật, Bồ Tát. Chúng ta ngày nay tội lỗi đầy mình, khởi tâm động niệm, nói năng hành động đều là bất thiện, chư Phật, Bồ Tát vì sao không đến khuyên bảo sửa lỗi cho ta? Vì sao không thể đến dạy dỗ chúng ta?
Chúng ta tự mình suy ngẫm xem, chư Phật, Bồ Tát đến dạy dỗ, liệu chúng ta có tiếp nhận hay không? Không thể tiếp nhận. [Khuyên bảo] quá ba lần liền thấy phiền toái, ghét giận, rồi cũng sẽ xem chư Phật, Bồ Tát là kẻ oan gia thù nghịch. Cho nên chư Phật, Bồ Tát vì lòng từ bi mà không đến với chúng ta. Các ngài không đến là từ bi, là bảo vệ mối quan hệ tốt, không để quan hệ tốt hiện nay với quý vị phải hóa thành xa cách. Đợi khi nào quý vị thực sự giác ngộ, thực sự muốn quay đầu, ở trong sáu đường đã chịu đựng đủ mọi khổ não, bừng lên được một ý niệm giác ngộ, một niệm quay đầu hướng thượng, khi ấy [chư Phật, Bồ Tát] sẽ đến [giúp quý vị] như những người bạn tốt. Phương thức của chư Phật, Bồ Tát là như vậy, rất đáng cho chúng ta tham khảo.
[Nếu người ta] không chịu nghe lời khuyên thẳng thắn, không chịu nghe lời hiền thiện, thì hãy tạm thời rời xa. Nhất định phải đợi khi họ muốn quay đầu hướng thiện mới quay lại tiếp cận. Như thế là ý nghĩa cảm ứng giao hòa trong đạo hết sức lớn lao. (Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 20 tháng 9 năm 1999 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 101, số hồ sơ: 19-012-0101)
+ Sự khó tu: Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Người ta có 20 sự khó: 1) Bần cùng mà bố thí là khó; 2) Hào quý mà học Đạo là khó; 3) Bỏ thân mạng ắt chết là khó; 4) Được thấy kinh Phật là khó; 5) Sanh gặp đời có Phật là khó; 6) Nhịn sắc, nhịn dục là khó (Tình nam nữ); 7) Thấy tốt mà chẳng mong cầu là khó; 8) Bị sỉ nhục mà chẳng tức giận là khó; 9) Có thế lực mà không lạm dụng là khó; 10) Gặp việc mà vô tâm là khó; 11) Học rộng, nghiên cứu nhiều là khó; 12) Dẹp trừ tánh ngã mạn là khó; 13) Chẳng khinh người chưa học là khó; 14) Thực hành tâm bình đẳng là khó; 15) Chẳng nói thị phi là khó; 16) Gặp được Thiện-tri-thức là khó; 17) Học Đạo, thấy được tánh là khó; 18) Tùy duyên hóa độ người là khó; 19) Thấy cảnh mà không động là khó; 20) Khéo biết phương tiện là khó."
Giảng giải:
Điều 6 - Nhịn sắc dục: Ở đây, sắc dục tức là thứ tình cảm và dục vọng giữa nam nữ. Không dễ gì mà kiềm chế được lòng sắc dục, bởi vì thông thường, người đời đều cho rằng nam nữ kết hôn là lẽ tự nhiên. Nhịn được sắc, nhịn được dục, gặp cảnh giới mà không bị động tâm, có được sức nhẫn nhịn - đó là những việc rất khó khăn. Quý vị có thể kiềm chế một vài lần, nhưng rồi quý vị không thể kiềm chế nổi nữa và trở nên điên đảo. Vì thế, nhịn được sắc dục, bỏ được lòng ham muốn, không phải là dễ.
Điều 13 - Chẳng khinh: Trong giáo pháp của Phật có nêu ra bốn điều không được khinh xuất, coi thường. Đức Phật vẫn thường nhắc đến những điều này; vậy đó là những điều gì? Đó là:
a) Lửa dù nhỏ, chớ coi thường. Đối với đốm lửa nhỏ, quý vị không được coi thường, không được lơ đễnh. Tuy rằng chỉ là một đốm lửa nhỏ, quý vị cũng phải hết sức cẩn thận; bởi vì hễ quý vị sơ ý, tất cả mọi thứ đều có thể bị thiêu hủy bất cứ lúc nào!
b) Rồng dù nhỏ, chớ coi thường. Cho dù rồng rất nhỏ, quý vị cũng không được coi thường, bởi rồng có phép thần thông biến hóa, có khả năng biến nhỏ biến lớn.
c) Con vua dù nhỏ, chớ coi thường. Vương tử là con vua, là Thái-tử của Quốc-vương. Mặc dù vị vương-tử còn nhỏ tuổi, quý vị cũng không được coi thường, bởi trong tương lai, vương-tử sẽ được kế vị làm Hoàng-đế.
d) Sa-môn dù nhỏ, chớ coi thường. Mặc dù vị Sa-môn còn nhỏ tuổi, quý vị cũng không được coi thường, bởi vì tương lai vị Sa-môn ấy sẽ thành Phật. (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ TÂM DỤC - THAM DỤC:
... Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na! Sở dĩ có ba thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm ..... Khi tư tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau thì con người trôi nổi trong sinh tử trầm luân. Lúc thì tái sinh làm cha, làm mẹ. Khi thì đầu thai làm con làm cháu, lên xuống không cùng không tận. Tưởng ái đồng kết lại thì lòng yêu thương không thể rời cho nên cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em… sanh nhau trong thế gian không bao giờ dứt. Cái khổ quả sinh tử này chung quy cũng tại vì lòng tham dục.
Tham và ái hổ tương cho nhau thì lòng tham không bao giờ ngừng dứt. Con người vì bị vô minh che lấp nên chạy theo ái dục mà phải chịu luân hồi. Thí dụ, bà vì quá thương cháu mà tái sinh làm con của cháu mình. Vì thế mà thế giới này mới là dục giới. Một khi tâm dục nghĩa là lòng mình muốn chiếm hữu hay đoạt lấy vật gì thì lòng tham bắt đầu phát khởi. Một khi lòng tham phát khởi thì tất cả các loài như thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh tùy theo sức mạnh của nó mà ăn nuốt những loài khác để tạo thành sát nghiệp. Thí dụ, con cọp ăn thịt con nai yếu đuối. Loài người săn bắn giết hại vô số súc vật. Ở biển cả sông ngòi, cá lớn nuốt cá bé… Bởi cũng vì sát nghiệp mà loài người, loài vật thay nhau tái sinh để chịu quả báo luân hồi. Thí dụ con người đi săn giết hại con nai. Con nai chết tức tưởi nên một kiếp nào đó nó tái sinh làm người và cũng đi săn để giết chết con nai khác chính là người thợ săn quả báo làm nai. (Nguồn: các đại và thế giới tương tục)
- Tham lam: thì đại đa số là nói về thuận cảnh. Con người gặp lúc vừa lòng xứng ý, chẳng cần biết là hoàn cảnh tinh thần hay hoàn cảnh vật chất, cứ hễ cái gì thuận theo ý mình bèn khởi tâm tham ái/ muốn chiếm giữ.
- Dục là dục vọng: nhà Phật gọi là Ngũ Dục, thế gian gọi là Thất Tình. Thất Tình Ngũ Dục người đời có ai chẳng tham ái hay chăng? Bởi tham ái Thất Tình Ngũ Dục nên chẳng thể thoát khỏi luân hồi, học Phật cũng chẳng thể thành tựu, học Thiền cũng chẳng thể “đắc Định”, niệm Phật thì hãy khoan nói đến “nhất tâm bất loạn”, dù chỉ “công phu thành phiến” cũng vẫn chẳng thể thành công, học Giáo chẳng thể “khai ngộ”, nguyên nhân chỉ vì chẳng thể buông Ngũ Dục Thất Tình xuống được. (Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm-PSTK)
+ Tam độc Tham Sân Si. Tuy là nói ba thứ “tham sân si”, ba thứ này nếu quy thành một thì chính là Tham (PS Tịnh Không_Kinh Thập Thiện, Tập 29)
- Phật dạy rằng: “Nguồn cội của mọi khổ đau trên đời đều từ 3 việc mà ra: tham, sân, si”. Trong đó, tham đứng hàng đầu, tuy nhiên phàm là con người ở đời, ai cũng có lòng tham. Từ chữ tham mới nổi lên sân hận, mới khiến con người si mê u tối, từ đó gây nên nghiệp ác.
I. Dục vọng (desire):
- Dục vọng là sức mạnh của phàm ngã (form nature). (CTHNM, 388)
- Dục vọng xuất phát từ cõi cảm dục, tạo ra biểu lộ trên cõi trần. (LVLCK, 692)
- Dục vọng là việc gắn bó (attachment) với các đối tượng vui thích (objects of pleasure).(ASCLH, 134)
- Dục vọng vốn là ý chí trên cõi thấp. (KCVTT, 248)
- Chừng nào mà con người chưa tiến gần đến tính thiêng liêng (divinity, Phật tánh) thì con người vẫn còn cần đến các thôi thúc của dục vọng (the urgings of desires), và dục vọng chỉ trở nên trong sạch hơn (purer) và bớt đi tính vị kỷ khi con người càng tiến tới. Tuy thế, các dục vọng đều trói buộc con người vào vòng luân hồi, và nếu muốn được giải thoát, con người phải diệt hết dục vọng. (MTNX, 297)
- Dục vọng là Ý Chí bị bao phủ trong chất cảm dục (astral matter).(KCVTT, 237)
+ Dục vọng - Hạ trí: Là chất trí cảm, tức Thể cảm dục được pha trộn với Thể hạ trí một cách yếu ớt và là lớp áo bằng vật chất của mọi dục vọng và cảm giác của chúng ta, nhờ đó, chúng được biểu hiện. (ASCLH, 10, 24)
+ Đa phần nhân loại ngày nay sống trong dục vọng, dù đó là dục vọng tốt, dục vọng tinh thần hay những ham muốn xấu xa hoặc ích kỷ. Đức D.K dùng một câu bao trọn điều nầy: Nhân loại (chưa giác ngộ và thường nhân) sống, chuyển động, và tồn tại thông qua luân xa tùng thái dương nầy. Đối với một thường nhân những ham muốn, dục vọng lại là những động lực giúp họ tiến hóa. Những ham muốn, tham vọng, xúc động chính thực đều là năng lượng hay mãnh lực trên cõi trung giới vì “Tất cả đều là năng lượng” (Bài thiền số 1 Chân Sư DK; GQ2)
+ Sự ràng buộc vào hình hài hay là sự thu hút của hình hài đối với Tinh thần là sức thôi thúc to tát của tiến hóa giáng hạ. (ASCLH, 139)
+ Ham muốn cuộc sống hữu tình một cách mãnh liệt chính là sự ràng buộc. Nó có sẵn trong mọi hình hài, nó tự tồn tại (self–perpetuating), và thậm chí người rất sáng suốt cũng biết đến nó.
Hình thức ràng buộc này là nguyên nhân cơ bản của mọi biểu lộ. Nó có sẵn trong mối liên hệ của hai đại đối hợp: tinh thần và vật chất. Nó là yếu tố chi phối trong biểu lộ của Thượng Đế, và đây là lý do giải thích tại sao ngay cả “kẻ rất sáng suốt” cũng lệ thuộc nó. Hình thức ràng buộc này là khả năng tự sinh tự tồn. Cần nên nhớ rằng việc khắc phục khuynh hướng này, ngay cả khi được vị cao đồ xúc tiến đến giai đoạn cao nhất cũng chỉ là việc khắc phục tương đối thôi. Bao giờ mà Thái Dương Thượng Đế của chúng ta hay là Tinh thần Tuyệt Đối còn lâm phàm qua một Thái Dương Hệ thì khuynh hướng này sẽ còn hiện hữu trong vị Tinh Quân Hành Tinh cao cả nhất và trong Thực Thể Tâm linh cao siêu nhất. Để khắc phục sự ràng buộc hay là diệt dục, tất cả những gì có thể làm được là phát triển năng lực làm cân bằng các cặp đối hợp trên bất cứ cảnh giới đặc biệt nào, sao cho người ta không còn bị các hình tướng của cảnh giới đó nắm giữ được nữa, và như thế mới có thể tách ra được. (ASCLH, 137)
+ Con người bị dàng buộc: Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Người ta bị vợ con và nhà cửa ràng buộc còn hơn cả lao ngục. Lao ngục còn có thời kỳ phóng thích, vợ con không một ý nghĩ xa lìa; há chẳng sợ tình ái cùng sắc dục lôi cuốn? Dẫu có cái họa sa nơi miệng hùm, lòng cũng cam chịu. Vì tự đắm mình nơi lầy lội nên gọi là phàm phu; vượt qua được cửa ải này là bậc La-hán xuất trần."
Lược giảng:
Chương thứ hai mươi ba nói rằng người đời bị chôn vùi trong gia đình và nhà cửa của chính họ. Bị chôn vùi như thế thì còn khổ sở hơn là ở tù nữa; do đó, mọi người nên tránh xa tình cảnh này, đồng thời, cần phải nhận thức được tầm lợi hại của nó.
Đức Phật dạy: "Người ta bị vợ con và nhà cửa ràng buộc còn hơn cả lao ngục." "Bị vợ con ràng buộc" tức là bị vợ (chồng), con cái làm cho vướng bận. Con người cũng bị ràng buộc bởi nhà cửa. Cho nên nói rằng kẻ tại gia mang trên người ba cái ách, ngày ngày đều phải mang gông đeo cùm.
Gia đình ví như cái gông bằng gỗ khóa chặt trên cổ, không có cách gì tháo ra được. (Thuở xưa, đóng gông là một trong những hình phạt dành cho kẻ phạm pháp). Có gia đình thì chẳng khác nào bị đeo gông vào cổ. Trong số quý vị hiện diện ở đây cũng có một vài cư sĩ đã lập gia đình và bị mất tự do. Họ muốn lên trời mà không lên được, muốn xuống đất cũng xuống không xong, bởi họ đã bị "khóa chân" ở nhà. Do bị vợ (chồng) ràng buộc nên làm việc gì cũng vướng víu, khó khăn. Con cái thì ví như cái còng, thứ hình cụ đeo ở cổ tay. Người có con cái thì chẳng khác nào bị còng cả hai tay lại, khiến cho mọi cử động đều khó khăn, bất tiện. Có cha mẹ thì giống như phải mang cùm ở chân vậy. Đó là ba cái ách mà những người có gia đình phải đeo mang.
Bị vợ con và nhà cửa ràng buộc thì còn tù túng hơn là bị cầm tù nữa. Có nhà cửa mà không buông bỏ được tức là bị nhà cửa trói buộc. Cho nên, vợ con và nhà cửa cũng là một thứ nhà tù giam hãm đời người vậy.
Tuy nhiên, "lao ngục còn có thời kỳ phóng thích, vợ con không một ý nghĩ xa lìa." Kẻ bị ở tù thì cũng có lúc mãn hạn và được ra tù, song những kẻ có gia đình thì chẳng muốn xa rời vợ con. Cho dù họ có nghĩ tới chuyện lìa bỏ gia đình đi nữa, thì cũng không phải là thật lòng! Chẳng hạn có nhiều người nói: "Tôi muốn xuất gia! Tôi muốn đi tu!" Nếu muốn xuất gia thì xuất gia ngay đi, chứ nói suông như thế để làm gì? Đó chẳng qua là vì họ không hề có quyết tâm lìa bỏ gia đình, chỉ hát nghêu ngao cho vui vậy thôi!
"Há chẳng sợ tình ái cùng sắc dục lôi cuốn?" Những kẻ bị vợ con và nhà cửa ràng buộc này chẳng hề lo ngại rằng mình sẽ bị tình cảm, ái tình và nữ sắc lôi cuốn hoặc chi phối. "Dầu có cái họa sa nơi miệng hùm, lòng cũng cam chịu." Tuy rằng như thế thì nguy hiểm chẳng khác nào bị rơi vào hang cọp, nhưng họ lại sẵn sàng cam chịu, thà bị cọp ăn thịt mà thôi.
"Vì tự đắm mình nơi lầy lội, nên gọi là phàm phu." Bởi họ tự dấn thân vào chốn bùn lầy, cam tâm tự đày đọa chính mình, nên mới được mệnh danh là "hạng phàm phu." "Vượt qua được cửa ải này là bậc La-hán xuất trần." Cửa ải nào? Đó là các "cửa ải" tình dục, tình ái, sắc đẹp, cùng "cửa ải" gia đình và nhà cửa. Nếu có thể vượt qua các cửa ải này trót lọt, tức là quý vị đã "quá quan" - đã thắng được sự thử thách cam go - và được trở thành những bậc A-la-hán thoát tục, không còn cấu nhiễm của trần thế, hoặc là những bậc thánh-nhân sắp chứng được quả-vị! (Nguồn: Kinh 42 chương-HT T.Hóa)
+ Chấp tay lễ đúng: ... Chắp tay thì phải chắp trước ngực, đằng này quý vị lại chắp tay trước mắt! Khi chắp tay, mười ngón tay đều phải chụm sát vào nhau, và để ngay ngắn đằng trước ngực; ... Xuất gia đã bao nhiêu năm mà ngay cả chắp tay cũng không biết cách chắp, lạy Phật cũng không biết cách lạy, thắp nén nhang cũng không biết cách thắp, thì chao ôi, thật là đáng thương lắm thay! Nếu tự mình không biết thì phải chú ý nhìn xem những người đã tu hành lâu năm, coi cách thức họ chắp tay như thế nào mà học theo đó cho đúng chứ!
Khi giảng Sa-Di Luật-Nghi, tôi có dặn quý vị là đừng thọc ngón tay vào lỗ mũi. Tại sao lại có chuyện đó được? Là vì quý vị chắp tay mà chắp quá cao, cho nên đầu ngón tay mới đụng phải mũi! Chắp tay thì phải chắp ở ngang tầm ngực, chứ không phải ngang miệng, không phải ngang mũi, và cũng chẳng phải ngang mắt. ... Tu Đạo thì dứt khoát không được bê bối, không được cẩu thả; bởi hễ sơ xuất một chút là chẳng thể thành công, hễ "sai một ly là đi một dặm" ngay! (Nguồn: Kinh 42 Chương - HT T.Hóa)
+ Chắp tay cung kính: Trích đoạn: ... Mặc dù A-nan và đại chúng được nghe Đức Phật chỉ dạy như vậy, nhưng tâm chưa được khai ngộ nên vẫn im lặng, mong Như Lai dùng lời từ bi chỉ dạy thêm. Nên đứng chắp tay, lắng lòng trông chờ Đức Phật thương xót chỉ bày.
Giảng:
Mong Như Lai dùng lời nói từ bi chỉ dạy thêm,
Họ suy nghĩ “chúng ta hy vọng Như Lai sẽ đem lòng từ bi chỉ dạy thêm cho chúng ta. Nên đứng chắp tay.
Tại sao đại chúng chắp tay cung kính? Điều ấy biểu thị sự nhất tâm thành ý. Trong họ chỉ còn tồn tại một tâm duy nhất, chẳng phải hai. Khi hai tay của quý vị tách rời ra, người ta bảo rằng quý vị có đến mười tâm và khi hai tay chắp lại thì chỉ còn có một tâm. Vì khi hai tay chắp lại với nhau thì các tâm niệm gom lại trở thành một. Lắng lòng tức là làm cho tâm ý trở thành trong sáng, yên tĩnh. Không chứa nhiều rác rến trong đầu nữa. Dọn dẹp sạch sẽ rác bẩn trong đầu ra rồi đổ đi nơi khác.
Trông chờ Đức Phật thương xót chỉ bày. Đại chúng vẫn trông chờ Đức Phật đem lòng từ bi chỉ dạy thêm, nhờ đó mà đại chúng được khai ngộ, thoát khỏi mê mờ.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần chánh văn-Câu 115)
+ Bản Ngã - Purusha:
- Bản ngã tâm linh (spiritual self). Bản ngã biểu hiện. Theo nghĩa đen, từ này là “Người cư trú trong thành phố” – nghĩa là trong thân thể. Nó có nguồn gốc tiếng Bắc Phạn, “pura” nghĩa là thành phố hay thân thể và “usha” dẫn xuất ở động từ “vas” là cư trú (dwell). (ĐĐTNLVTD, 223)
- Purusa, linh hồn (soul). (ASCLH, 100)
- Purusa tức là tinh thần. (ASCLH, 320)
- Purusha … Bác Ái–Minh triết. Trạng thái Vishnu.(LVLCK, 293)
Trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện nói được rất hay - chúng sanh trong diêm phù đề khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp” là thật đấy không phải giả. Tại vì sao? Bạn hãy nghĩ xem có chúng sanh nào khởi tâm vọng niệm mà không nghĩ đến cái TA, cái TA này rất phiền phức. Ta tức là tội, ta tức là nghiệp, niệm niệm đều vì ta.... Người thế tục có câu ngạn ngữ nói như vầy :”Con người không vì mình thì trời tru đất diệt”.... Nếu không vì ta thì đâu phải là con người. Không sai, không vì ta không phải là con người. Họ là Phật, họ là Bồ Tát, họ không phải con người. Cho nên hãy mà vì ta thì đích thật họ là con người. Đúng thật là không sai chút nào. Họ trong cõi người không ra khỏi lục đạo, vì sao Phật phải nói như vậy? Chúng ta phải hiểu cái ý của Ngài.
Phật bảo với chúng ta rằng: “Tất cả chúng sanh có chân ngã”, cái thân này là giả ngã, không phải chân ngã, giả ngã mới tạo lục đạo luân hồi, chân ngã tuyệt đối không có luân hồi. Chẳng những không có lục đạo luân hồi ngay cả thập Pháp giới cũng không có. Chân ngã trụ ở đâu, chân ngã trụ trong nhất chân pháp giới. Ai có chân ngã, Phật có chân ngã. Trong đại Kinh nói Phật có 3 thân, mỗi người chúng ta cũng có 3 thân, bản thể của thân chúng ta. Thật sự chân ngã là gì? Là pháp thân. Cho nên Phật tại trong Kinh nói mọi người tu hành, tu đến trình độ tương đương thì bạn chứng được thanh tịnh pháp thân, thanh tịnh pháp thân mới là chân ngã , trong thiền tông gọi là :
Trước khi cha mẹ chưa sanh bản lai diện mục, cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ chưa sanh tức là thanh tịnh pháp thân, trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là Tỳ Lô Giá Na Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật không phải là một người. Tỳ Lô Giá Na Phật là chân ngã của chính chúng ta, là chân thân của chúng ta gọi là Ty Lô Giá Na, Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn. Ý nghĩa của nó là biến nhất thiết sứ tức là bất cứ lúc nào, chổ nào cũng có khắp cả chổ. Nếu ở chổ này không có chân ngã thì cái thân giả này không thể hiện tiền, là thật có, nên cái giả tướng này là do chân ngã mà có. Cái ngã là thể, là tánh, do thể tánh chân thật mà hiện tướng. cho nên nhất định là có cái chân ngã này. Tất cả chúng sanh đã mê mất chân ngã mới trở thành phàm phu. Vì đã mê mất chân ngã, đã mê mất chứ không phải thực mất, đã mê mất mà thôi. Không phải thực sự mất đi chỉ là mê. Đã mê cái gì? Đã mê những giả tướng do thể tánh chân thật hiện ra những giả tướng. Trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là “duy tâm sở hiện” cái tâm đó gọi là chân, chân tâm, là chân ngã, cũng là Pháp thân. Hiện ra giả tướng, bạn đã chấp tướng, hư là hư ở chổ này, hiện ra cái giả tướng. Vì bạn không biết nó là giả tướng, nên bạn chấp trước cái giả tướng cho nó là chân, vì vậy đã quên mất cái chân tánh. Xem giả tướng cho là chân , hư là hư ở chổ này. Vì bạn có phân biệt, chấp trước nên nhất chân mới chuyển biến thành những hoàn cảnh rất phức tạp, biến thành thập pháp giới, biến thành lục đạo, biến thành tam đồ. Biến như thế nào? là do thức sở biến. Cái gì gọi là thức? trong Kinh Hoa Nghiêm giảng về thức rất cụ thể: vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là thức. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều có đủ 3 thứ này. Hiện nay, chúng ta đều có đủ, có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. vì vậy đã biến nhất chân pháp giới thành lục đạo luân hồi, đã biến thành lục đạo. (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Các Ngã: ... "Tôi nghe" - Chữ tôi đề cập đến "giả ngã" của hàng bồ tát. Có bốn nghĩa khác nhau về Ngã:
1. Hàng phàm phu vọng kế chấp trước thân mình cho đó là Ngã - Thật Ngã. Họ cho rằng: “Thân xác này là tôi”. Thực ra thân này chỉ là nơi trú ngụ tạm thời, giống như ở khách sạn. Hàng phàm phu không hiểu được đạo lý này.
2. Hàng ngoại đạo do vọng tưởng hư huyễn cho rằng có một thần ngã gọi là ngã, nên họ cho ngã chính là Thượng đế. Họ có nhiều dạng khác nhau về thần ngã này.
3. Hàng bồ-tát tùy thuận thế gian mà thị hiện nên gọi là “giả ngã.” Chân ngã từ trong tự tánh mà hàng bồ-tát nhắm tới là gì? Đó là thành Phật. Thành Phật là chân ngã.
4. Đối với Đức Phật, đó là chân ngã pháp thân. (Nguồn: Kinh Thủ LN - HTTH)
+ Ngã của Vô Ngã: ... "Đỏa y mông" có nghĩa là “Ngã”/ Cái Ngã của Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví như khi có người đánh quí vị, quí vị không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ, quí vị thấy như thể không có việc gì xảy ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào “đệ nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có một bản ngã để dùng pháp nhẫn và không có một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”. Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy (HT Tuyên hóa giảng Chú Đại Bi câu 10)
+ Không có cái Ta: Đức Phật dạy: "Nên nghĩ đến tứ đại trong thân, mỗi thứ tự nó có tên, không có cái nào là 'ta' cả. Cái 'ta' đã không có thì nó chỉ như huyễn như hóa mà thôi."
Lược giảng:
Đại ý của chương 20 là mọi người nên dùng tứ đại để quán xét thân người, ngõ hầu ý thức được thân này chỉ như huyễn như hóa, giả tạm, không thật.
Đức Phật dạy: Thân thể của chúng ta vốn do bốn yếu tố là đất, nước, lửa, và gió (không khí) kết hợp với nhau mà hình thành. Trong thân chúng ta, những phần rắn chắc là thuộc về yếu tố đất (địa đại), ẩm ướt là thuộc về yếu tố nước (thủy đại), ấm áp là thuộc về yếu tố lửa (hỏa đại), hơi thở vô ra và sự chuyển động là thuộc về yếu tố gió hoặc chất khí (phong đại).
"Mỗi thứ tự nó có tên." Mỗi một yếu tố trong tứ đại đều có tên của nó - yếu tố nào thì có tên của yếu tố nấy. Tuy nhiên, "không có cái nào là 'ta' hoặc 'tôi' cả." Nếu nói rằng cái thân này là "tôi," thì quý vị hãy xét lại xem - đầu thì có tên là "đầu"; chân có tên là "chân"; mắt có tên là "mắt"; tai có tên là "tai"; mũi có tên là "mũi"; lưỡi có tên là "lưỡi"; miệng có tên là "miệng." Từ đầu tới chân, mỗi bộ phận trên cơ thể đều có tên của nó. Cơ phận nào thì có tên của cơ phận đó, vậy quý vị hãy nói đi, cái "tôi" nằm ở đâu? Chỗ nào được gọi là "tôi"? Chẳng có nơi nào gọi là "tôi" cả! Như vậy, đã không có một nơi nào tên "tôi," thì tại sao quý vị lại chấp trước vào cái "tôi"? Tại sao lại quá coi trọng cái "tôi" như thế? Khắp cơ thể chẳng có cái gì tên "tôi," chẳng có cái gì là "tôi" cả kia mà!
"Cái 'ta' đã không có, thì nó chỉ như huyễn như hóa mà thôi." Vì không có cái "tôi," nên xác thân này giống như một thứ ảo ảnh hoặc biến hóa tạm bợ, chứ không có thật. Bất luận là năng-quán (người quán tưởng) hay sở-quán (đối tượng quán tưởng), tất cả đều là hư vọng, đều là huyễn hóa. Nếu hiểu được đó là giả tạm, như huyễn như hóa, tất quý vị sẽ thấu triệt được đạo lý không-quán, giả-quán, và trung-quán. Khi đã lãnh hội được những đạo lý ấy, thì quý vị sẽ biết rằng thân người vốn là hư vọng, không thật! (Nguồn: Kinh 42 chương - HT Tuyên Hóa)
+ Lục Độ với giáo pháp Tiểu thừa và Đại Thừa
- Tu Lục Độ với Tiểu thừa: Cho các hàng tu hành thành tựu đến Thanh Văn - Duyên Giác. Thế nào gọi là lục độ ?
1. Bố thí,
2. Trì giới,
3. Nhẫn nhục,
4. Tinh tấn,
5. Thiền định,
6. Trí huệ.
Bố thí độ tham lận, trì giới độ phạm lỗi, nhẫn nhục độ giận hờn, tinh tấn độ lười biếng, thiền định độ tán loạn, trí huệ độ ngu si.
Phàm những ai phát Bồ-đề tâm, hành đạo Bồ-tát đều phải tu sáu pháp môn này; khi công đức viên mãn thì tới được bờ bên kia (đáo bỉ ngạn). (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Lục Độ Ba La Mật hay đại khái còn gọi là: Đáo Bỉ Ngạn - Siêu Nhiên - Siêu Hoàn hảo - Siêu Hoàn Thiện - Đạo hạnh siêu phàm - Trí tuệ siêu việt - phẩm tính Siêu nhiên chỉ phẩm tính tu Bổ Tát đạo thành tựu.
Sáu đức hạnh Ba-la-mật là :
1- Sự hào phóng siêu nhiên, (danaparamita), còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.
2- Giới hạnh siêu nhiên, (silaparamita), còn gọi là Trì giới Ba-la-mật.
3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên, (kshantiparamita), còn gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật.
4- Nghị lực siêu nhiên (viryaparamita), còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.
5- Sự chú tâm (tập trung tâm thức) siêu nhiên (dhynaparamita), còn gọi là « Thiền định » Ba-la-mật.
6- Sự hiểu biết siêu nhiên (prajnaparamita), còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật.
* Mời xem chi tiết trên bài viết: Lục độ Ba La Mật
+ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tu làm sao đặng chứng sáu pháp Ba la mật?
Thế Tôn nói:
- Bằng có chúng sanh nào bỏ được rượu thịt chẳng ăn, bỏ tài lợi chẳng tham, bỏ đặng ái ân chẳng mến, bỏ đặng việc ác chẳng làm, bỏ đặng nhân ngã chẳng tranh, thì đặng thứ nhất Bố thí Ba la mật.
- Có chúng sanh giữ đặng giới Phật, tập đặng uy nghi Phật, hàng lục tặc, dứt đặng việc tà mị, thì đặng thứ hai Trì giới Ba la mật. - Có chúng sanh nào hay chịu đặng người chê nhơ nhớp, hay nhịn đặng người mắng chửi, người nói lời chẳng phải lấy lời khuyên giải, việc nghịch đem đến lòng thuận chịu liền không oán hận, trái lại còn tìm phương độ thoát, thì đặng thứ ba Nhẫn nhục Ba la mật.
- Có những chúng sanh nào học đặng mười hai bộ kinh của Như Lai, thọ trì đọc tụng, biên chép giảng nói chưa thông học cho thông, chưa chứng học cho chứng, thì đặng thứ tư Tinh tấn Ba la mật.
- Có chúng sanh nào đoạn được trần duyên, dứt đặng vọng niệm, trừ đặng mê muội tán loạn, tập đặng thiền định, sức định như núi Tu di, Ma vương phá khuyấy không rối loạn, thì đặng thứ năm Thiền định Ba la mật.
- Có chúng sanh phá được vô minh không còn các tướng, lýsự đều không, thị phi dẹp hết, lời nói đứng đắn, mỗi chữ rành rõ, thì đặng thứ sáu Trí huệ Ba la mật.
Nếu người nào đặng sáu pháp Ba la mật thì người ấy đặng ra khỏi sanh tử, đặng đến bỉ ngạn, đặng siêu tam giới, đặng lên thập địa và đặng thành Phật. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Tu Lục Độ Ba La Mật - Hàng Bồ tát - Hàng Đại thừa tu:
"Vô trí diệc vô đắc, (không trí cũng không đắc)".
Tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ
Tròn tu diệu giác lý rõ ràng
Vô trí phá chấp không các tướng
Không đắc không chứng rõ pháp dung
Nơi một đầu lông hiện bảo tòa
Ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân
Lời nói ra người liền tin ngay
Nào hay tri âm có mấy ai".
Không trí cũng không đắc. Trí là trí huệ. Đắc là chứng đắc quả vị. Đạt đến cảnh giới đó, trí huệ cũng không cần, quả vị chứng đắc cũng không có, hy vọng điều gì cũng không có. Chúng ta học Phật pháp, đều muốn đạt được trí huệ; có trí huệ rồi thì chứng đắc được quả vị Phật. Nay trí bát nhã cũng không có, muốn đắc được Phật quả cũng không thể đắc. Đấy là lạc vào không à ? Không phải vậy. Chẳng đạt được trí huệ, chẳng chứng đắc được tức là trí huệ không chấp trước. Không có chấp trước rằng mình có chỗ chứng đắc.
Tạng giáo Bồ Tát sự lục độ, (tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ)".
Tạng giáo Bồ Tát tức là ba tạng kinh điển giáo huấn Bồ Tát. Pháp tu hành của Bồ Tát là pháp môn có trí huệ, có chứng đắc. Hành sáu pháp ba la mật tức có chấp trước. Chấp chúng sanh có thể độ được, tức là có trí huệ. Chấp trước Phật đạo có thể thành được, tức là có chứng đắc. Sáu độ là
1. Hành bố thí thì cứu độ tham lam. Phải hành bố thí thì mới không còn tham lam. Một lần bố thí thì là một lần dẹp bỏ tham lam.
2. Trì giới thì độ hủy phạm. Chư vị trì giới thì tâm được thanh tịnh, như ánh sánh tinh khiết trong sạch của hạt minh châu. Trì giới thì không có ô nhiễm. Ô nhiễm thì dơ bẩn, không tinh khiết, không trong sạch. Không trì giới giống như tờ giấy trắng bị lấm mực đen, càng lấm chừng nào thì càng đen chừng đó. Chư vị trì giới tức phải như tờ giấy, xưa nay vốn đã trắng sạch.
3. Nhẫn nhục độ sân hận. Chư vị tu nhẫn nhục thì không có nóng giận. Nếu có nóng giận thì không có nhẫn nhục. Chư vị tu nhẫn nhục thì sân hận sẽ không còn.
4. Tinh tấn độ giải đãi, làm biếng. Phải nên tinh tấn hằng ngày, luôn luôn tinh tấn, dũng mãnh tinh tấn. tinh tấn thì không có giải đãi làm biếng.
5. Thiền định độ tán loạn. Ngồi thiền hồi lâu thì có công phu tức là định trụ. Có định lực rồi thì không có tán loạn.
6. Bát nhã độ ngu si. Bát nhã khiến dẹp trừ ngu si.
Đấy là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
Trên là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
"Viên tu diệu giác lý đốn minh, (tròn tu diệu giác lý rõ ràng)".
Viên giáo Bồ Tát tu hành sáu độ. Viên giáo Bồ Tát tức là Diệu Giác Bồ Tát. Biệt giáo Bồ Tát cũng tu hành sáu độ. Sáu độ chỉ có lý, không có sự tướng, không có chấp trước. Gọi lý đốn minh (lý lẽ chỉ rõ minh bạch), nghĩa là tức khắc minh bạch, hiểu rõ đạo lý bố thí mà chưa từng bố thí, hành sáu độ mà chưa từng hành, vốn không chấp trước vào sự của sáu độ. Không chấp trước vào chi hết, nên gọi là không trí cũng không đắc.
Lý sáu độ có nhiều loại. Tu theo viên giáo không tạo sáu độ, làm bất cứ việc gì cũng không chấp trước, tạo việc gì ra cũng như không tạo. Tuy nhiên, chưa tạo việc thì không thể nói đã tạo việc. Nói thí mà chưa thí. "Tôi chưa bố thí mà cũng như đã bố thí".
Không thể nói như thế được. Chỉ có bố thí rồi thì mới nói rằng chưa có bố thí, mà không thể bảo rằng chưa bố thí cũng là đã bố thí.
"Vô trí phá chấp không chư tướng, (vô trí phá chấp không các tướng)".
Vô trí phá chấp tức là phá chấp trước về những phần còn lại của bát nhã. Không chư tướng tức là tất cả tướng đều là không. Mọi tướng đều là không, nên bảo rằng vô trí cũng vô đắc.
"Bất đắc phi chứng liễu pháp dung, (không đắc không chứng rõ pháp dung)".
Bất đắc tức là không có chi để chứng đắc, cũng là không chấp trước vào chứng đắc quả vị Phật. Trên, không Phật đạo có thể thành. Dưới, không chúng sanh có thể độ. Chẳng phải nói rằng không chúng sanh có thể độ, nhưng là độ mà chưa từng thấy có độ. Tuy diệt độ hết tất cả chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được diệt độ hết. Chẳng phải là không chúng sanh đã được độ, mà là không có chấp trước. Không nên chấp trước vào trí huệ và chứng đắc. Không này cũng chính là đại viên cảnh trí, mà trong đó không có chấp trước nào hết, nên liễu đạt pháp dung.
"Ư nhất mao đoan hiện bảo sát, (nơi một đầu lông hiện bảo tòa)".
Chứng đắc được cảnh giới này rồi thì chỉ vừa ngồi xuống liền xuất hiện một tòa bảo vương. Trong tiểu hiển đại.
"Tọa vi trần biểu chuyển pháp luân, (ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân)".
Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân. Đó là đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.
"Thử ngôn thuyết xuất tiên thành tín, (lời nói ra người liền tin tưởng)".
Lời này vừa nói ra thì ít nhiều người đều tin tưởng.
"Vi tất tri âm hữu cơ nhân, (nào hay tri âm có mấy ai)".
Một vài người tin tưởng rồi thì không biết có bao nhiêu người tri âm (nhớ tưởng), lại cũng không có bao nhiêu người hiểu rõ đạo lý. Hư Vân lão hòa thượng bảo :
"Lên tận cõi trời tìm tri kỷ
Vẫn chưa biết được kẻ tri âm".
Thiên nhai tức là cõi trời. Tri kỷ tức là bạn thân của mình. Lên tận cõi trời tìm tri kỷ, mà không biết ai là người tri âm. Sao gọi là tri âm ? Tức là hiểu được ý phát xuất từ lời nói của mình. Không có tri âm, tức là mình có nói ra lời gì nhưng không có ai hiểu hết. Có người hiểu lời mình tức là có người tri âm.
Chư vị bảo :" Pháp sư ! Ngài giảng con đều hiểu cả. Ngài là người bạn tri âm của con. Ngài thuyết mà con không hiểu rõ, nên không phải là người tri âm. Ngài thuyết, con không hiểu và lại hiểu, con tri âm và lại không tri âm".
Tri âm và không tri âm xuất phát từ đâu ? Tôi thuyết một bài kệ, ai y chiếu theo đó mà tu hành thì người đó là tri âm. Ai không y chiếu theo đó mà tu hành thì không phải là tri âm. Tin lời tôi nói đạo lý tức là tri âm, còn ngược lại thì không phải là tri âm. Đạo lý gì ? Nơi một cọng lông, ngồi xuống liền hiện bảo sát. Ngồi trên hạt bụi, chuyển đại pháp luân. Ngồi trên một cọng lông, xuất hiện các cõi Phật. Bảo vương sát tức là cõi nước mà Phật thường giáo hóa chúng sanh. Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Cảnh giới này là trong tiểu mà hiển đại. Chư vị nếu hiểu rõ cảnh giới này thì là tri âm. Chư vị không hiểu rõ nhưng lại muốn tu hành. Đợi khi chư vị ngồi trên hạt bụi mà chuyển pháp luân thì liền hiểu rõ. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu Lục độ với Đại Thừa: Khi tu hành với Hàng Bồ Tát: Trích đoạn trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Kinh Pháp cho hàng Đại thừa tu tiến đến quả vị Bồ đề - Như Lai. Đức Phật bảo ngài Phú Lâu Na.
Không phải là bố thí, trì giới, không phải là tinh tấn, nhẫn nhục; không phải là thiền định, trí tuệ; không phải là ba-la-mật-đa.
HT Tuyên Hóa giảng giải:
Trong Như Lai tạng, lục độ cũng không. Trong đoạn kinh trước, tứ đế đã được giảng giải là không. Ngay sau khi chứng ngộ, Đức Phật liền giảng tứ đế và tam chuyển.[11] Không tứ đế và không thập nhị nhân duyên khiến cho giáo pháp cuả hàng Thanh văn và Duyên giác cũng trở thành không. Bây giờ không lục độ khiến cho pháp của hàng Bồ-tát cũng trở thành không.
- Đầu tiên trong lục độ là bố thí. Tiếng Sanskrit có nghĩa là ban tặng, cho. Có ba loại bố thí: tài thí, pháp thí và vô uý thí. Tài thí là ban tặng vật chất tài sản cho người khác để giúp họ thoát khổ. Giảng kinh và thuyết pháp là một dạng pháp thí. Bố thí sự không sợ hãi là khi có người sợ điều gì đó và quý vị nghĩ ra cách để khuyến khích họ khiến họ không còn lo sợ nữa.
- Tiếp đến là thi-la, tiếng Sanskrit là śīla, Hán dịch là giới hạnh.[12] Có năm giới, tám giới, mười giới, 250 giới của tỷ-khưu và 348 giới của tỷ-khưu ni. Còn có mười giới trọng và 48 giới khinh của hàng Bồ-tát.
- Tỳ-lê-da gốc tiếng Sanskrit là vīrya,[13] Hán dịch là tinh tấn, tinh cần. Có thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Khi tâm quý vị tinh tấn, thì quý vị sẽ tìm cầu Phật pháp mọi lúc. Khi thân tinh tấn, thì minh tu tập Phật pháp mọi lúc mọi nơi.
- Sàn-đề gốc tiếng Sanskrit là kṣānti,[14] Hán dịch là nhẫn nhục. Chúng ta nói rằng mình đang tu học Phật pháp, và không đến nỗi khó khăn lắm khi giữ giới. Điều khó là thực hành các điều giới ấy. Nhiều người tập hạnh nhẫn nhục bằng cách bảo người khác hãy nhẫn nhục đối với chính họ, và chẳng cần nhẫn nhục đối với người khác. Thế nên họ nói vớí những người không nhẫn nhục đối với họ rằng, “Anh phải học Phật pháp thật nhiều, lẽ ra anh phải nhẫn nhục hơn. Tại sao anh nổi nóng khi tôi chỉ mới nói đến anh?” Họ quở trách người khác không nhẫn nhục, nhưng chính họ lại không thể nhẫn nhục. Và tại sao họ lại duy lý như vậy? Họ tự cho rằng, “Tôi đã hiểu Phật pháp, tôi hầu như đã đạt đến vô ngã. Thế nên tôi không cần phải nhẫn. Tôi không có quan niệm về ngã, không có ngã tướng, thế nên khi nào cần phải nhẫn, đó là anh cần phải nhẫn chớ không phải tôi.” Nhưng khi đến giờ ăn, họ không nghĩ là mình có quan niệm về sự hiện hữu của con người, không có nhân tướng, thế nên họ cho rằng không cần phải có gì đó cho người khác ăn. Khi có việc cần làm, hoặc khi gặp khó khăn, họ nhớ lại rằng mình không có quan niệm có một bản ngã, thế nên họ nói rằng chẳng cần để ý đến những việc ấy. Và, nếu họ giết người, họ sẽ biện minh, “Chẳng hề gì, vì chẳng có chỗ khởi đầu của chúng sinh. Thế nên thực sự tôi chẳng giết họ.” Hoặc là vô cớ họ đánh người, khi hỏi tại sao lại làm vậy?, họ đáp, “Chẳng có cái gì gọi là chúng sinh tướng, và anh thuộc về dạng đó, thế nên tôi thực sự chẳng đánh ai cả!” Đó là loại tà tư tà kiến nơi họ. Khi ăn thịt, họ nói, “Không sao, các ông chẳng nghe nói chúng sinh có đặc tính là không có thọ giả tướng [15] đó sao? Vì nó không có thọ giả tướng, nên nó có thể chết bất kỳ lúc nào, thế nên tôi tha hồ ăn thịt nó. Lại nữa, một khi nó chết rồi, thịt nó cũng thối rữa, nếu tôi không ăn thịt nó.” Đó là luận điệu của đệ tử ngoại đạo. Họ cho rằng gia súc được nuôi chủ yếu là để cho người ăn thịt, nếu không ăn, thì chúng sẽ sinh sôi nẩy nở chật cả thế giới. “Nếu người không ăn bò, dê, heo, thì chúng sẽ nhiều vô số kể cho đến khi tràn ngập cả thế giới.” Nhưng hãy nhớ rằng, con người không ăn thịt mèo, nhưng trên thế giới chưa bị tràn ngập bởi loài mèo. Thực vậy, khi con người không ăn thịt động vật, thì không tạo ra nghiệp sát nhiều, và súc vật không sinh sôi nẩy nở nhanh chóng. Thế nên có người giải thích đạo lý sai lạc, như ý nghĩa của nhẫn nhục, và cho rằng mọi người nên nhẫn nhục với họ, nhưng chính họ lại không nhẫn nhục với người khác.
- Thiền-na gốc tiếng Sanskrit là dhyāna,[16] Hán dịch là tư duy tu, tĩnh lự. Có nhiều loại thiền. Nhưng bây giờ Đức Phật dạy rằng cũng chẳng có thiền nào cả.
- Bát-nhã, gốc tiếng Sanskrit là Prajñā,[17] Hán dịch là trí huệ. Có ba loại bát-nhã: Văn tự bát-nhã, Quán chiếu bát-nhã, và Thực tướng bát-nhã. Như vậy lục độ, hay sáu ba-la-mật-đa đều là không.
- Ba-la-mật-đa, gốc tiếng Sanskrit là pāramitā,[18] Hán dịch là đáo bỉ ngạn, qua đến bờ bên kia. Chỉ cho sự hoàn thành viên mãn một việc nào đó. Chúng ta phát tâm tu tập và thành Phật, tiến trình chuyển hoá từ phàm phu sang giác ngộ là ba-la-mật-đa. Từ phàm phu trở thành Bồ-tát cũng là một dạng của ba-la-mật-đa. Đi từ Cựu Kim Sơn sang Oakland cũng là một dạng khác của ba-la-mật-đa. Bây giờ tất cả pháp nầy trong Như Lai tạng được Đức Phật giảng là không hiện hữu. Chúng hoàn toàn là không. Trước đây khi chúng ta nói rằng trong hư không chẳng loại trừ hay ngăn ngại một tướng nào, đó là đang nói về Như Lai tạng vốn là bất không. Ở đây chúng ta đang nói về cái không của Như Lai tạng. Để diễn tả tính không của Như Lai tạng, phải dùng đến chữ không, nhưng đó không phải là hoàn toàn phủ định. Trong đó, vẫn có cái đang hiện hữu, đó là bổn diệu viên tâm. Nhưng tâm ấy không được gọi bằng tên ấy. Thế là ở đây đã mô tả không Như Lai tạng rồi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Tu Lục Độ Ba La Mật - Hàng Bồ tát - Hàng Đại thừa tu:
"Vô trí diệc vô đắc, (không trí cũng không đắc)".
Tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ
Tròn tu diệu giác lý rõ ràng
Vô trí phá chấp không các tướng
Không đắc không chứng rõ pháp dung
Nơi một đầu lông hiện bảo tòa
Ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân
Lời nói ra người liền tin ngay
Nào hay tri âm có mấy ai".
Không trí cũng không đắc. Trí là trí huệ. Đắc là chứng đắc quả vị. Đạt đến cảnh giới đó, trí huệ cũng không cần, quả vị chứng đắc cũng không có, hy vọng điều gì cũng không có. Chúng ta học Phật pháp, đều muốn đạt được trí huệ; có trí huệ rồi thì chứng đắc được quả vị Phật. Nay trí bát nhã cũng không có, muốn đắc được Phật quả cũng không thể đắc. Đấy là lạc vào không à ? Không phải vậy. Chẳng đạt được trí huệ, chẳng chứng đắc được tức là trí huệ không chấp trước. Không có chấp trước rằng mình có chỗ chứng đắc.
Tạng giáo Bồ Tát sự lục độ, (tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ)".
Tạng giáo Bồ Tát tức là ba tạng kinh điển giáo huấn Bồ Tát. Pháp tu hành của Bồ Tát là pháp môn có trí huệ, có chứng đắc. Hành sáu pháp ba la mật tức có chấp trước. Chấp chúng sanh có thể độ được, tức là có trí huệ. Chấp trước Phật đạo có thể thành được, tức là có chứng đắc. Sáu độ là
1. Hành bố thí thì cứu độ tham lam. Phải hành bố thí thì mới không còn tham lam. Một lần bố thí thì là một lần dẹp bỏ tham lam.
2. Trì giới thì độ hủy phạm. Chư vị trì giới thì tâm được thanh tịnh, như ánh sánh tinh khiết trong sạch của hạt minh châu. Trì giới thì không có ô nhiễm. Ô nhiễm thì dơ bẩn, không tinh khiết, không trong sạch. Không trì giới giống như tờ giấy trắng bị lấm mực đen, càng lấm chừng nào thì càng đen chừng đó. Chư vị trì giới tức phải như tờ giấy, xưa nay vốn đã trắng sạch.
3. Nhẫn nhục độ sân hận. Chư vị tu nhẫn nhục thì không có nóng giận. Nếu có nóng giận thì không có nhẫn nhục. Chư vị tu nhẫn nhục thì sân hận sẽ không còn.
4. Tinh tấn độ giải đãi, làm biếng. Phải nên tinh tấn hằng ngày, luôn luôn tinh tấn, dũng mãnh tinh tấn. tinh tấn thì không có giải đãi làm biếng.
5. Thiền định độ tán loạn. Ngồi thiền hồi lâu thì có công phu tức là định trụ. Có định lực rồi thì không có tán loạn.
6. Bát nhã độ ngu si. Bát nhã khiến dẹp trừ ngu si.
Đấy là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
Trên là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có hình tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí thì không còn tham lam. A ! Vẫn còn chấp trước là nhờ bố thí mà không còn tham lam. Vì vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.
"Viên tu diệu giác lý đốn minh, (tròn tu diệu giác lý rõ ràng)".
Viên giáo Bồ Tát tu hành sáu độ. Viên giáo Bồ Tát tức là Diệu Giác Bồ Tát. Biệt giáo Bồ Tát cũng tu hành sáu độ. Sáu độ chỉ có lý, không có sự tướng, không có chấp trước. Gọi lý đốn minh (lý lẽ chỉ rõ minh bạch), nghĩa là tức khắc minh bạch, hiểu rõ đạo lý bố thí mà chưa từng bố thí, hành sáu độ mà chưa từng hành, vốn không chấp trước vào sự của sáu độ. Không chấp trước vào chi hết, nên gọi là không trí cũng không đắc.
Lý sáu độ có nhiều loại. Tu theo viên giáo không tạo sáu độ, làm bất cứ việc gì cũng không chấp trước, tạo việc gì ra cũng như không tạo. Tuy nhiên, chưa tạo việc thì không thể nói đã tạo việc. Nói thí mà chưa thí. "Tôi chưa bố thí mà cũng như đã bố thí".
Không thể nói như thế được. Chỉ có bố thí rồi thì mới nói rằng chưa có bố thí, mà không thể bảo rằng chưa bố thí cũng là đã bố thí.
"Vô trí phá chấp không chư tướng, (vô trí phá chấp không các tướng)".
Vô trí phá chấp tức là phá chấp trước về những phần còn lại của bát nhã. Không chư tướng tức là tất cả tướng đều là không. Mọi tướng đều là không, nên bảo rằng vô trí cũng vô đắc.
"Bất đắc phi chứng liễu pháp dung, (không đắc không chứng rõ pháp dung)".
Bất đắc tức là không có chi để chứng đắc, cũng là không chấp trước vào chứng đắc quả vị Phật. Trên, không Phật đạo có thể thành. Dưới, không chúng sanh có thể độ. Chẳng phải nói rằng không chúng sanh có thể độ, nhưng là độ mà chưa từng thấy có độ. Tuy diệt độ hết tất cả chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được diệt độ hết. Chẳng phải là không chúng sanh đã được độ, mà là không có chấp trước. Không nên chấp trước vào trí huệ và chứng đắc. Không này cũng chính là đại viên cảnh trí, mà trong đó không có chấp trước nào hết, nên liễu đạt pháp dung.
"Ư nhất mao đoan hiện bảo sát, (nơi một đầu lông hiện bảo tòa)".
Chứng đắc được cảnh giới này rồi thì chỉ vừa ngồi xuống liền xuất hiện một tòa bảo vương. Trong tiểu hiển đại.
"Tọa vi trần biểu chuyển pháp luân, (ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân)".
Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân. Đó là đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.
"Thử ngôn thuyết xuất tiên thành tín, (lời nói ra người liền tin tưởng)".
Lời này vừa nói ra thì ít nhiều người đều tin tưởng.
"Vi tất tri âm hữu cơ nhân, (nào hay tri âm có mấy ai)".
Một vài người tin tưởng rồi thì không biết có bao nhiêu người tri âm (nhớ tưởng), lại cũng không có bao nhiêu người hiểu rõ đạo lý. Hư Vân lão hòa thượng bảo :
"Lên tận cõi trời tìm tri kỷ
Vẫn chưa biết được kẻ tri âm".
Thiên nhai tức là cõi trời. Tri kỷ tức là bạn thân của mình. Lên tận cõi trời tìm tri kỷ, mà không biết ai là người tri âm. Sao gọi là tri âm ? Tức là hiểu được ý phát xuất từ lời nói của mình. Không có tri âm, tức là mình có nói ra lời gì nhưng không có ai hiểu hết. Có người hiểu lời mình tức là có người tri âm.
Chư vị bảo :" Pháp sư ! Ngài giảng con đều hiểu cả. Ngài là người bạn tri âm của con. Ngài thuyết mà con không hiểu rõ, nên không phải là người tri âm. Ngài thuyết, con không hiểu và lại hiểu, con tri âm và lại không tri âm".
Tri âm và không tri âm xuất phát từ đâu ? Tôi thuyết một bài kệ, ai y chiếu theo đó mà tu hành thì người đó là tri âm. Ai không y chiếu theo đó mà tu hành thì không phải là tri âm. Tin lời tôi nói đạo lý tức là tri âm, còn ngược lại thì không phải là tri âm. Đạo lý gì ? Nơi một cọng lông, ngồi xuống liền hiện bảo sát. Ngồi trên hạt bụi, chuyển đại pháp luân. Ngồi trên một cọng lông, xuất hiện các cõi Phật. Bảo vương sát tức là cõi nước mà Phật thường giáo hóa chúng sanh. Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Cảnh giới này là trong tiểu mà hiển đại. Chư vị nếu hiểu rõ cảnh giới này thì là tri âm. Chư vị không hiểu rõ nhưng lại muốn tu hành. Đợi khi chư vị ngồi trên hạt bụi mà chuyển pháp luân thì liền hiểu rõ. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mời đọc bài viết để có phương pháp học Phật pháp hiệu quả: Hướng dẫn tu học Phật pháp như Phật dậy
+ Xem quẻ dịch: Trong bộ sách của nhà Chu ấy ghi chép rằng:
Nghĩa là: Đức Phật ra đời vào năm thứ 26 của triều đại Chu Vương 4, và năm ấy là năm Giáp-dần. Lúc bấy giờ, tức là khi Đức Phật đản sanh, thì mực nước ở các sông hồ đều dâng cao và chảy tràn ra khỏi bờ, cả mặt đất đều rung chuyển. Đồng thời, trên trời có đạo hào quang năm màu báo điềm lành phóng xuyên qua sao Thái Vi.
Đương thời có viên quan Thái-sử (Thái-sử là chức quan trông coi về Thiên-văn học và khoa Toán-số) tên Tô Do. Thái-sử Tô Do dùng Kinh Dịch để bói quẻ; và vừa gieo thì được ngay quẻ Càn Cửu-ngũ, tức là quẻ Phi long tại thiên" (rồng bay giữa trời). Căn cứ vào quẻ này, quan Thái-sử chiêm đoán rằng có bậc Thánh nhân vĩ đại ra đời tại nước Ần Độ và sau khi xuất thế, vị Thánh nhân này sẽ đi truyền bá một giáo pháp mà khoảng một ngàn năm sau, giáo pháp ấy sẽ được truyền đến Trung Hoa. Vua Chu-Chiêu-Vương liền sai người ghi chép và khắc những dữ kiện ấy vào đá, rồi truyền đem chôn ở cổng thành phía nam. Nhà vua dự tính rằng như thế đời sau sẽ có bằng chứng để kiểm nghiệm, xem có đúng là một ngàn năm nữa thì giáo pháp ấy (tức là Phật giáo) sẽ được truyền đến Trung Hoa hay không.
Đến đời vua Chu-Mục-Vương, một hôm, cả đại địa bỗng nhiên rung chuyển và trên trời xuất hiện mười hai đạo bạch-hồng (chữ "hồng" này tức là chữ "hồng" trong từ ngữ "hồng-nghê" có được đề cập đến trong Kinh Lăng Nghiêm, và có nghĩa là mống vòng cầu). Đây là hiện tượng "bạch hồng quán nhật" tức là giữa ban ngày bỗng có mười hai mống cầu vòng màu trắng hiện ra, nằm bắt qua mặt trời; và hiện tượng này xảy ra lúc Đức Phật viên tịch. Tuy rằng Đức Phật viên tịch tại Ần Độ nhưng ở Trung Hoa cũng thấy được hiện tượng ấy. Như vậy, sự xuất thế của Đức Phật không phải là chuyện ngẫu nhiên hay tình cờ! Khi Đức Phật ra đời tại nước Ần Độ, thì ở Trung Hoa, mực nước của các sông, hồ đều dâng cao và chảy lênh láng ra khỏi bờ, toàn thể đại địa đều rung chuyển. Rồi đến khi Đức Phật viên tịch, ở Trung Hoa cũng thấy có mười hai mống cầu vòng màu trắng bắt qua mặt trời.
Lúc bấy giờ có viên Thái-sử tên Hỗ Đa cũng dùng Kinh Dịch để chiêm đoán. Sau khi gieo quẻ, Thái-sử Hỗ Đa thốt lên: "Ôi! Vị đại Thánh nhân ở Tây-Vực đã nhập diệt rồi!" Tức là, vị đại Thánh nhân ra đời tại nước Ần Độ vào năm Giáp-dần, đời vua Chu-Chiêu-Vương thứ 26 trước đây, nay đã nhập diệt đã vào cõi Niết-bàn rồi! Như vậy, tuy sự xuất thế và nhập diệt của Đức Phật đều xảy ra ở Ần Độ một quốc gia nằm cách nước Trung Hoa rất xa, nhưng ở Trung Hoa đều biết được cả. Đó là nhờ người Trung Hoa đương thời đã hiểu về Toán-số, nên đã có thể đoán biết được tình hình lúc ấy.
Tính từ đời vua Chu-Mục-Vương đến vua Minh-Đế nhà Hậu-Hán, thời gian cách nhau ước khoảng 1.000 năm. Nằm mộng thấy Đức Phật vào năm Vĩnh-Bình thứ 3, thì đến niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 7, nhằm năm Giáp-tý, Hán-Minh-Đế truyền lệnh cho ba người là Thái-Ấm, Tần-Cảnh, và Vương-Tuân mang theo 18 người khác nữa, cùng nhau sang Ần Độ tìm cầu Phật pháp. Tại Trung Ần, họ gặp được Tôn giả Ca-Diếp-Ma-Đằng và Tôn giả Trúc-Pháp-Lan. Sau đó, hai tôn giả cùng theo phái đoàn của Thái-Ấm, Tần-Cảnh và Vương-Tuân trở về Trung Hoa. Tất cả về đến kinh đô Lạc-dương vào niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 10, tức năm Đinh-mão. Vì lúc đến hai Ngài dùng ngựa trắng để chở kinh sách, nên vua Hán-Minh-Đế cho cất một ngôi chùa đặt tên là chùa Ngựa Trắng (Bạch Mã Tự).
Đến ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 14, thì nhóm đạo sĩ từ dãy Ngũ-nhạc-sơn5 của Trung Hoa rầm rộ kéo tới gây trở ngại cho Phật giáo. Và như đã tường thuật ở trên, họ đòi thiêu đốt kinh sách của đôi bên. Kết quả là tất cả kinh sách của Đạo giáo đều bị cháy sạch, trong khi kinh sách của Phật giáo thì lại không hề hấn gì cả! Xá lợi của Đức Phật còn phóng ra hào quang năm màu sáng rực cả bầu trời; và từ trên không trung, các đạo hào quang ấy kết tụ lại trông như một cái tàn khổng lồ bằng ánh sáng bao trùm lấy đại chúng! Trước cảnh tượng kỳ diệu ấy, mọi người đều đồng lòng kính tin Phật giáo. (Nguồn: Kinh 42 chương - HT Tuyên Hóa)
+ Pháp tu bố thí hữu ích: Ứng dụng dự đoán quẻ dịch để Xu cát - Tị hung/ Pháp tìm cát tránh hung này nếu thực hành thuần thục với độ chính xác cao thì cũng giúp làm giảm lo lắng sợ hãi và mang lại bình an cho người xem đang gặp Hoạnh nghịch - Nghịch cảnh lo buồn.
* Ví dụ HT Tuyên Hóa bố thí An ủi: Loại bố thí thứ ba là vô úy thí. Bố thí vô úy là gì? Ðó là an ủi, khuyên giải những người đang gặp chuyện không may, tai bay họa gởi, hoặc những việc hoạnh nghịch. Hoạnh nghịch là gì? Ðó là những việc cướp bóc, hỏa tai, hoặc những việc sợ hãi kinh hoàng. Lúc người ta bị kinh hoàng sợ hãi, mình cho người ta sự an ủi giúp đỡ, khuyên giải: “Anh không nên sanh lòng lo lắng, bất cứ việc gì cũng có thể từ từ giải quyết!”; đó chính là vô úy thí vậy.
Hôm nọ có một người đánh mất ví tiền, tôi nhìn thấy vẻ mặt bà ta rất lo lắng, bà hỏi tôi rằng: “Ôi! Con đã làm mất túi tiền, làm sao bây giờ?”
Tôi bảo: “Bà không nên lo lắng, bà sẽ tìm lại được túi tiền.”
Kết quả lời tôi nói quả nhiên ứng nghiệm, bà về lại chỗ cũ và tìm được, vẫn chưa mất. Ðó cũng là vô úy thí - khiến người khác giảm nhẹ nỗi sợ hãi lo âu. Ở đây tôi chỉ đưa ra những vấn đề nhỏ để làm thí dụ, những vấn đề lớn thì rất nhiều; nhưng nếu chúng ta biết được những vấn đề nhỏ, thì những vấn đề lớn cũng dễ dàng hiểu rõ. (Nguồn: Giảng Kinh Lăng Nghiêm)
+ Xem Quẻ là pháp môn của thế gian.
* Đức Phật không khuyến khích Phật tử học pháp gieo quẻ dịch này. Ai tu hành ăn chay trường giữ ngũ giới hành thập thiện thì nên tu học Pháp Gieo Mộc Luân của ngài Địa Tạng Bồ Tát, pháp này do chính đức Phật bảo ngài Địa Tạng Bồ Tát tuyên thuyết trong pháp hội giảng pháp của ngài.
Danh mục các chuyên mục Hỏi - Đáp gồm:
0.02. Hỏi: Chọn ngày giờ tốt đẹp - Xem để tìm thời điểm để khởi sự công việc quan trọng cho thuận Thiên cơ
0.03. Hỏi: Tìm Cát Tránh Hung - Là xem Quẻ để biết tiến trình công việc để giúp tìm Cát tránh Hung họa
1.01. Học nghiệp chọn đời - Là đánh giá khả năng/ Năng khiếu tiềm ẩn trong bạn theo lĩnh vực nào thuận nhất.
1.02. Nghiên Cứu Kinh Điển - Là đánh giá khả năng/ Năng khiếu tiềm ẩn trong bạn theo lĩnh vực nào thuận nhất
1.03. Mời Thầy dậy học - Là đánh giá năng lực và nhân duyên với quí Thầy bạn dự định học hỏi hay nhờ vả.
1.04. Thi Cử Học Nghiệp - Là đánh giá mức độ thành tựu trong học tập hay học nghề để lượng sức mình. Học tập các cấp học - Thi cử - Kỹ năng - Danh hiệu đạt được.
1.05. Hỏi: Cầu Công Danh - Là xem Thiên cơ về Nhân Duyên con đường Công Danh trong kiếp sống
1.06. Thi Tuyển dụng- Bổ nhiệm - Là xem khả năng đậu xin việc hay việc làm ổn định trong tương lai gần
1.07. Xem Ngày Đăng Quang - Là xem ngày nào thì nhận được văn bản và công bố chính thức
1.08. Hỏi: Thăng Quan – Bổ nhiệm - Là xem Thiên cơ về Nhân Duyên con đường Công Danh trong kiếp sống
1.09. Thuyên chuyển Chức Nghiệp - là xem kế hoặc thuyên chuyển trong thời gian gần
1.10. Tại nhiệm cát hung - Là xem Cát Hung vị trí hiện tại để sửa chữa sai lầm (Nếu có), hoặc an vui chấp nhận
và còn nhiều chuyên mục khác nữa, nếu dùng Quẻ có thể dự đoán. (Mời xem: Các chuyên mục dự đoán quẻ dịch)
Mời xem thêm trang chuyên đề về xem quẻ dịch dự đoán cát hung
+ Kinh Hoa Nghiêm: Chúng ta nghiên cứu mà cho đến thấu rõ Kinh Hoa Nghiêm, thì chính là “ngay nơi tâm phàm mà thấy được tâm Phật”. Quý vị lại có thể tu hành y theo phương pháp của Kinh Hoa Nghiêm dạy, thì chính là “nương theo bổn trí để cầu Phật trí”, đạt được trí huệ Phật. Quý vị không đọc Kinh Hoa Nghiêm, không biết được sự tôn quý thật sự của Phật; Kinh Hoa Nghiêm chính là kho báu lớn nhất của Phật, mọi thứ trân bảo đều nằm trong đó! Cho nên người nghe Kinh Hoa Nghiêm thì sẽ biết được chỗ mầu nhiệm của Phật Pháp. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HT T.Hóa giảng)
+ Kinh Hoa Nghiêm: Pháp đại thừa chân thật. Rất tuyệt vời. Ở đây có đường dẫn tới fai với nội dung chỉ tóm tắt sơ lược đề mục Kinh để tiện tra cứu. Kính xin mời quí vị tìm đọc Kinh văn gốc HT Tuyên Hóa giảng giải.
GIỚI THIỆU
Mở đề Kinh Hoa Nghiêm ................................................13
Dẫn nhập..........................................................................18
Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm Thứ Nhất ..........................28
Giới thiệu sơ lược về bảy nơi, chín hội, ba mươi chín phẩm. Bộ Kinh nầy gồm có 45 phẩm Kinh văn, nhưng chỉ dịch ra được 39 phẩm, gồm 80 quyển.
Hội thứ nhất thì nói về "tin nhân quả".
Từ hội thứ hai đến hội thứ sáu thì nói về "sai biệt nhân quả".
Hội thứ bảy thì nói "bình đẳng nhân quả".
Hội thứ tám thì nói "thành hạnh nhân quả".
Hội thứ chín thì nói "chứng nhập nhân quả".
Hội thứ nhất có 11 quyển là : Cử quả hoan lạc sinh tín phần. Từ hội thứ hai đến hội thứ bảy cộng lại có 41 quyển là : Tu nhân khế quả sinh giải phần. Hội thứ tám có 7 quyển là : Thác pháp tiến tu thành hạnh phần. Hội thứ chín có 21 quyển là : Y nhân chứng nhập thành đức phần.
Hội thứ nhất tại Bồ Đề Đạo Tràng Hội nầy nói sáu phẩm :
1. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm.
2. Phẩm Như Lai Hiện Tướng.
3. Phẩm Phổ Hiền Tam Muội.
4. Phẩm Thế Giới Thành Tựu.
5. Phẩm Thế Giới Hoa Tạng.
6. Phẩm Tỳ Lô Giá Na.
Hội thứ nhì ở tại Điện Phổ Quang Minh.
Hội nầy nói sáu phẩm :
7. Phẩm Danh Hiệu Như Lai.
8. Phẩm Bốn Thánh Đế.
9. Phẩm Quang Minh Giác.
10. Phẩm Bồ Tát Vấn Minh.
11. Phẩm Tịnh Hạnh.
12. Phẩm Hiền Thủ.
Trên đây là mười hai phẩm diệu pháp nói ở tại nhân gian.
Hội thứ ba ở tại Điện Diệu Thắng trên cung trời Đao Lợi.
Hội nầy cũng nói sáu phẩm.
13. Phẩm Thăng Lên Đỉnh Tu Di.
14. Phẩm Kệ Tán Tu Di.
15. Phẩm Thập Trụ.
16. Phẩm Phạm Hạnh.
17. Phẩm Công Đức Ban Đầu Phát Tâm.
18. Phẩm Minh Pháp.
Hội thứ tư ở tại Điện Bảo Trang Nghiêm, cung trời Dạ Ma.
Hội nầy nói bốn phẩm.
19. Phẩm Thăng Lên Trời Dạ Ma.
20. Phẩm Kệ Tán Dạ Ma.
21. Phẩm Thập Hạnh.
22. PhẩmThập Vô Tận Tạng.
Hội thứ năm ở tại Điện Nhất Thiết Diệu Bảo Trang Nghiêm, cung trời Đâu Suất.
Hội nầy nói ba phẩm.
23. Phẩm Thăng Lên Trời Đâu Suất.
24. Phẩm Kệ Tán Đâu Suất.
25. Phẩm Thập Hồi Hướng.
Hội thứ sáu ở tại Điện Ma Ni Bảo Tạng, cung trời Tha Hoá Tự Tại.
Hội nầy chỉ nói một phẩm.
26. Phẩm Thập Địa.
Trên đây là mười bốn phẩm diệu pháp nói ở trên Thiên cung.
Hội thứ bảy ở tại Điện Phổ Quang Minh.
Hội nầy nói mười một phẩm :
27. Phẩm Thập Định.
28. Phẩm Thập Thông.
29. Phẩm Thập Nhẫn.
30. Phẩm A Tăng Kỳ.
31. Phẩm Thọ Lượng.
32. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ.
33. Phẩm Thập Thân Tướng Hải.
34. Phẩm Tuỳ Hảo Quang Minh.
35. Phẩm Hạnh Phổ Hiền.
36. Phẩm Như Lai Xuất Hiện.
Hội thứ tám tại Điện Phổ Quang Minh. Hội nầy chỉ nói một phẩm
38. Phẩm Lìa Thế Gian.
Hội thứ chín ở tại Rừng Thệ Đa.
Hội nầy chỉ nói một phẩm:
39. Phẩm Vào Pháp Giới.
Giải thích chúng Bát bộ Tứ Vương (tám bộ chúng, bốn ông vua hộ đời), Bát bộ tức là :
1. A Tu La Vương.
2. Ca Lâu La Vương.
3. Khẩn Na La Vương.
4. Ma Hầu La Già Vương.
5. Dạ Xoa Vương.
6. Long Vương.
7. Cưu Bàn Trà Vương.
8. Càn Thát Bà Vương.
Tứ Vương tức là :
1. Phương bắc Đa Văn Thiên Vương.
2. Phương tây Quảng Mục Thiên Vương.
3. Phương nam Tăng Trưởng Thiên Vương.
4. Phương đông Trì Quốc Thiên Vương.
Mỗi vị thống lãnh hai bộ chúng.
Mười hai chúng chư thiên thuộc dục giới và sắc giới. Tại dục giới có bảy chúng :
1. Nguyệt Thiên Tử.
2. Nhật Thiên Tử.
3. Tam Thập Tam Thiên Vương.
4. Tu Dạ Ma Thiên Vương.
5. Đâu Xuất Thiên Vương.
6. Hóa Lạc Thiên Vương.
7. Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương.
Tại Sắc giới có năm chúng :
1. Đại Phạm Thiên Vương.
2. Quang Âm Thiên Vương .
3. Biến Tịnh Thiên Vương.
4. Quảng Quả Thiên Vương.
5. Đại Tự Tại Thiên Vương.
+ Trang nguồn đầy đủ các tập: Tất cả 25 tập Kinh Hoa Nghiêm
+ Các mức độ Giác ngộ: Đức Phật nói "Như thế cho đến...". HT Tuyên Hóa giảng: Có nghĩa là các mức độ của giác ngộ, từ Lục độ cho đến thập trụ, thập tín, thập hạnh, thập hồi hướng và thập địa; cho đến cả quả vị Phật, đều được bao gồm trong không Như Lai tạng. Từ các giai vị của hàng Bồ-tát đến quả vị Phật phải cần rất nhiều thời gian, và cần rất nhiều công hạnh tu tập, nhưng tất cả đều là không, quả vị Phật cũng là không.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Thập trụ: Trong kinh Hoa Nghiêm có phẩm giảng về Thập Trụ, mục Trị Địa Trụ_HT Tuyên Hóa (Nguồn: Xem tại đây).
+ Tu Thập Trụ Trong Tâm Thức Vị Tha/ Tầng thứ 2 để khai mở Tâm thức (Trụ = An trụ trong tâm thức khai mở):
* Giới thiệu về Thập Trụ: Có 4 tầng tâm thức từ dưới lên, người tu đi từ Vị ngã => Vị tha => Vô ngã => Bất nhị.
Tầng thứ 1: Tâm thức Vị ngã/ thuộc Phàm nhân chưa tu - Đa số nhân loại. Người tu chuyển hóa từ vị ngã sang vị tha.
Tầng thứ 2: Tâm thức vị tha này có 3 bậc (từ dưới lên) - Bồ Tát đạo: Thập trụ - Thập hạnh - Thập hồi hướng
Tầng thứ 3: Tâm thức Vô ngã có 2 phần (Dưới lên): Từ Sơ địa Bồ Tát - Nhị địa Bồ Tát .... Thất địa Bồ Tát
Tầng thứ 4: Tâm thức Bất nhị có ... (Dưới lên): Từ Bát địa Bồ Tát đến Thập địa Bồ Tát
* Kinh Hoa Nghiêm nói: TU MỘT LÀ TẤT CẢ, đây là Mô hình Viên Dung/ Mô hình mới phù hợp trí tuệ phát triển - Tức là thành tựu Sơ địa Bồ Tát sẽ ứng với Tâm Phật, Bồ Tát không khác. Pháp tu này ứng với Chân Tâm được mở rộng/ Vòng tâm thức liên tục, liên tục lan tỏa ra vô cùng vô tận, tuy là nó mở rộng trên cùng một mặt phẳng (Như giọt nước lan tỏa), cho đến khi tương ứng với Tâm thức Phật, Bồ Tát, vì Tâm Bất nhị của Phật, Bồ Tát nằm ở tất cả các tầng mức từ thấp đến cao, cho lên thành tựu Tâm bất nhị ở tầng thấp, cũng tương ứng với Tâm Phật Bồ Tát, xem như Tâm Phật, Bồ Tát đã bao trùm đồng nhất với Tâm thức của người tu. Điều này khác biệt hoàn toàn với Mô hình Hành Bố, là cách tu tiến hóa lên từng bậc thang tiến hóa, là phép tu thời xưa cách này ngàn năm.(Nguồn: Xem tại đây)
Mời xem các Clip Thầy Hằng Trường giảng chi tiết dưới đây:
1. Sơ Phát Tâm Vị Tha - Thập Trụ: Khởi đầu từ Tâm thức Vị ngã tiến lên Vị tha, là khởi phát tâm làm lành lánh giữ, noi gương Thánh nhân chánh đạo mà tu, ví như Phật, Bồ Tát. (Nguồn: Sơ Phát Tâm Tu Thập Trụ 1-2-3-4-5)
2. Tâm Vị Tha - Trị Địa Trụ: Tu sửa đổi tâm vị ngã thành vị tha, tức thay tâm vì mình thành vị tha - Lợi mình tức là lợi tha. (Nguồn: Tu Trị Địa Trụ 1-2-3)
3. Tâm Vị Tha - Tu Hành Trụ: Tu tâm rộng mở, tuy còn tán loạn, từng bước cân bằng để an trụ bất động, tiến tới tu nhập thất rất quan trọng để có thành tựu. Thay đổi hoàn toàn tâm thức vị ngã thành vị tha. Nhận thức vạn sự Vô thường, Vô ngã, không còn phân biệt (Để thành tựu cần trên dưới 10 năm tu hành và tham thiền đều đặn hàng ngày). Thoát khỏi ngũ ấm. nhận thức được thân thể không thật, là ảo ảnh. Tu hành là phải tìm sự khó khăn, khổ hạnh, khổ đau. Còn nếu Tu hành để tìm sự an toàn thì là bản năng của Bản ngã, không tiến hóa được, dậm chân tại chỗ. (Nguồn: Tu Hành Trụ 1-2-3-4-5-6-7);
4. Tâm Vị Tha - Tu Hành Trụ lên Sinh quý trụ: Khi nhập thất tu tâm thiền định, trong định sẽ nhận thấy Vạn sự như Pháp giới, chúng sinh giới, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành ... là Không; Địa, thủy, hỏa, Phong đều không ... Khi xuất định Nhập Thế - Như mình Sinh ra một lần nữa với mức tiến hóa cao tột, thay đổi toàn diện cả Thân Tâm. Khi đó, ta sẽ có cái nhìn cuộc sống Vô thường, đúng thật là ảo ảnh ... => Thay đổi tầm nhìn từ Chánh Pháp, dùng Pháp Xuất thế gian kiến giải Pháp thế gian như Đức Phật dạy như đứng trên đỉnh tòa nhà cao nhìn xuống ngã tư đường - Nhìn toàn cảnh (Nguồn: Tu Hành Trụ)
4.1. Tâm Vị Tha - Tu Hành Trụ lên sinh quý trụ: Tổng hợp lại, cần tu thiền Nhập thất mỗi năn vài lần ngắn ngày cho đến đủ 1000 ngày càng tốt, để có định lực để giữ Tâm luôn trong định - Tĩnh lặng nhìn đời và thực hành ban giải tình thương ... (Nguồn: Tu Hành Trụ - Sinh Quý Trụ);
* Tổng kết ba trụ đầu tiên: Người tu khởi đầu là thay đổi tâm lượng bao trùm của mình, giúp đỡ chúng sinh theo gương các vị Bồ Tát, từ đó mang lại hạnh phúc cho chính mình. Tu thiền giúp an định, mở tâm vô vi vững chắc, thấy được thực chất của ngũ ấm (Nguồn: Nhìn lại ba trụ đầu)
4.2. Tâm Vị Tha - Sinh Quý trụ tiếp: Cần tu nhập thất để tiến hóa Tâm thức. Ra thất - Nhập Thế Phụng sự chúng sinh vô kỷ, từng bước giải thoát luân hồi sống trên đời mà không bị đời chuyển, thực hành phụng sự theo cách hiểu Chánh Pháp xuất thế gian, nhìn thấu bản chất con người Vô minh và luôn tha thứ và từng bước giúp họ giải thoát... Cần chủ động tạo nhiều duyên lành với chúng sinh, vì KHÔNG CÓ DUYÊN THÌ KHÔNG ĐỘ ĐƯỢC, (Nguồn: Tu Hành Trụ - Sinh Quý Trụ 1,2,3)
5. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Cụ túc phương tiện: Khi Tu thành tựu nhập thất, vị Bồ Tát bất thối chuyển, luôn độ hóa cứu độ chúng sinh vô điều kiện, với lòng hy sinh vị tha vô bờ; (Clip 4) - Vị Bồ tát dùng Phương Tiện thiện sảo giúp làm lợi ích chúng sinh, thay đổi số mệnh với người có duyên, giúp chúng sinh mở lòng, không bị kẹt trong Vô minh để hướng thượng. Độ là ĐẢ THÔNG MỌI TẮC NGHẼN trong vạn sự cho chúng sinh. (Nguồn: Cụ Túc Phương Tiện Trụ 1, 2, 3, 4, 5, 6 )
* Tổng kết nhìn lại năm trụ: Hiện không xem được, bị lỗi (Nguồn: Nhìn lại năm trụ)
6. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Chính Tâm Trụ: Định lực/ Từ Bi lực nếu mình thành tựu không gì phá được. Việc tiếp xúc với chúng sinh rất quan trọng, vì là cơ hội trả nghiệp, chỉ có gặp chướng duyên khuấy động quấy phá lên thì Ta mới dùng Tâm trong Định từ bi hóa giải để triệt tiêu nghiệp đó đi, làm trong sạch Tâm thức đang lắng đọng (Vì tâm định chúng không sinh động) trong tâm (Nguồn: Chính Tâm Trụ 1, 2, 3, 4, 5, )
7. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Bất Thối Trụ: Mời xem trực tiếp (Nguồn: Bất Thối Trụ 1, 2 )
8. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Đồng Chơn Trụ: Mời xem trực tiếp (Nguồn: Đồng Chơn Trụ...1, 2, 3, 4)
9. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Pháp Vương Tử Trụ: Mời xem trực tiếp (Nguồn: Pháp Vương Tử Trụ 1, 2, 3, 4, 5, 6)
10. Tâm Vị Tha - Thập trụ, Quán Đỉnh Trụ: Mời xem trực tiếp (Nguồn: Quán Đỉnh Trụ...1, 2, cuối)
+ Tu Năm T - Con Đường Khai Mở Tâm thức: Mời xem trực tiếp (Tu năm T có 10 Clip)
Xem danh sách tất cả các Clip - Bài giảng của Thầy Hằng Trường về Thập trụ: Xem tại đây
+ Sự Việc Cát Tường - Hộ Chú Cát Tường: Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Thế Tôn ngự gần Savatthi (Xá Vệ) tại Jetavana (Kỳ Đà Viên), vườn của ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Bấy giờ đêm khuya sắp tàn, có một vị Chư Thiên toả ánh sáng rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ Đà Viên, đến gần và đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi lui sang một bên. Vị Chư Thiên đứng đó, và hỏi Đức Thế Tôn bằng bài kệ: “Có rất nhiều Trời, Người Khát khao điều hạnh phúc, Suy ngẫm sự Cát Tường. Cho con biết điều gì Là Cát Tường tối thượng?”
1. “Không gần kẻ ngu si. Biết kết thân người trí. Tôn kính phải tùy khi dành cho người xứng đáng. Là Cát Tường tối thượng.
2. Cư trú nơi thích hợp. Tích đức khéo giữ gìn. Biết chọn riêng cho mình. Con đường đi chính đáng. Là Cát Tường tối thượng.
3. Sở học cần sâu rộng. Thủ công khéo tay nghề. Luật lề được huấn luyện. Nói chuyện thạo kỹ năng. Là Cát Tường tối thượng.
4. Phụ mẫu luôn hiếu đễ, thê, tử phải chăm coi. Không phiền rối lôi thôi. Trong việc làm sinh sống. Là Cát Tường tối thượng.
5. Hành sự tâm quảng đại. Chính trực giữ lòng chân. Tương trợ với tương lân. Lỗi người không trách cứ. Là Cát Tường tối thượng.
6. Không làm điều quấy trái. Tránh sử dụng chất say. Cẩn trọng khéo giác hay Trong hành vi thiện pháp. Là Cát Tường tối thượng.
7. Khiêm cung và kính trọng. Biết chấp nhận hài lòng, Ơn nhận khắc ghi công, Tùy thời nghe giảng Pháp. Là Cát Tường tối thượng.
8. Tính tình luôn kham nhẫn. Nhu thuận biết nghe vâng. Gặp thánh nhân thích gần. Tùy thời đàm luận Pháp. Là Cát Tường tối thượng.
9. Thực hành trong phạm hạnh. Sống cuộc sống thánh nhân. Tứ Đế liễu nghĩa chân. Niết Bàn tâm chứng ngộ. Là Cát Tường tối thượng.
10. Tâm đối cảnh thế gian. Không mảy may chao đảo. Không dấy lên phiền não. Vô nhiễm và bình an. Là Cát Tường tối thượng.
=> Đạt được những điều này. Mọi nơi không chướng ngại. Trải khắp nẻo hành trình. Bình yên không sự cố.
Nguồn: Kinh hạnh Phúc hay Hộ Chú Cát Tường ( Theo bài viết của Tỳ Kheo Minh Tâm tự Thiện Tâm Mùa Hè Năm Mùi Tháng Giêng 2015 tại Hoa Nghiêm Thiền Đường Melbourne - Australia).
+ 481. NÓI LÁO
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy, ‘Ai nói láo tất phải chịu ác báo trong đời này và đời sau. Nếu ta nói láo ấy là tự hại mà cũng xuyên tạc phỉ báng người khác. Chư Thiên và các vị phạm hạnh có trí sẽ chê bai học giới của ta, khi thân hoại mạng chung tất sẽ phải đi đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Ai nói láo tất phải chịu ác báo này đời này và đời sau như vậy. Nay ta nên y cứ trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo chăng?’ Rồi vị ấy y cứ trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo. Như vậy Đa văn Thánh đệ tử y trên xa lìa nói láo mà đoạn trừ sự nói láo. (Trung A Hàm, Kinh Bô-lị-đa, Phẩm 17, số 203)
+ Giới Khẩu nghiệp: Không có lời Vọng ngữ/ Nói Dối - Nói Sai Sự Thật - Nói Láo - Nói A Dua - Nói Nịnh Hót. Cổ nhân thường nói: “Nhân vô tín tắc bất lập”. Trong xã hội cổ đại Trung Quốc đối với chữ tín vô cùng coi trọng. “Ngũ thường”, “thường” là thường hằng, là nhất định không thể mất đi, cho nên “ngũ thường” còn gọi là thường đạo, cũng chính là đạo lý cơ bản làm người: “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. Phật nói rõ: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”. Ý nghĩa của lời nói này là “Tín là căn nguyên vào đạo, có thể sinh công đức”, cho nên “tín” gọi là công đức mẫu. Ý nghĩa của mẫu là năng sinh. Ngũ thường “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” thì bạn ở đâu cũng có thể nhìn thấy xã hội này, thời đại này là có phước, nhà Phật gọi là phước địa, phước thành. “Nhân” là nhân từ, “nghĩa” là đạo nghĩa, “lễ” là lễ tiết, trí tuệ, lòng tin thì xã hội này có phước. Cổ nhân thường nói: “Tu hành bắt đầu từ không vọng ngữ”. Phật pháp nói là: “Thường sinh tâm hoan hỷ” => Nếu như từ trên tướng mà nói, liền được tướng lưỡi rộng dài của Như Lai, đó là nói từ trên tướng.... Các nghiệp đều từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sinh ra. Lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bạn mới nhìn thấy chân tướng của vũ trụ nhân sinh (Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Phật dậy không được nói sai sự thật - Dối trá
a) Nói dối - Nói láo: là không nói thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạc; hay là khi ưa thì nói dịu ngọt thơm tho, khi ghét lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ lời nói việc làm trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài bất nhất, đều thuộc về nói dối cả.
b) Nói thêu dệt: Là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận; là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe, làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù phiếm, bóng bẩy làm cho kẻ nghe phải loạn tâm, sanh phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả. Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
+ Phật dậy Không Nói dối (Nguồn: Chánh ngữ):
1. Không nói dối hay Nói láo hay Vọng ngữ : Chân chính trung thực, nói sự thật, không dối trá lừa gạt, chuyện có nói không, không nói có, vu oan giá họa vì bất cứ lợi ích gì để tránh bị đọa đường ác.
- Ví như: “Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy; Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; Biết nói không biết, không biết nói biết; Biết trái nói phải, biết phải nói trái.”
+ Điều 2/14 điều răn Đức Phật dậy: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.”
+ Nói A dua - Nịnh hót: 7. Các đệ tử, tâm lý dua nịnh trái ngược hoàn toàn với đạo giải thoát. Nên biết: Dua nịnh là điều dối trá mà người xuất gia không nên có. Phải làm cho tâm ý đoan chánh, phát huy đức tánh trung trực. Đó là con đường vào đạo. Đức Phật dậy (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
+ Vọng ngữ: “Ly hư cuồng ngữ” chính là không vọng ngữ. Dùng tâm chân thành đối nhân, xử thế, tiếp vật. Thành thật, hai chữ này xưa nay, trong ngoài nước thật sự là không phân quốc gia, không phân chủng tộc, không phân tôn giáo đều tán thán, đều hoan hỷ. Vọng ngữ, lưỡng thiệt là đại giới ở trong Phật pháp. Xưa nay biết bao người tu hành, tu tích công đức nhưng không thể thành tựu, vì sao vậy? Vì từ trong vọng ngữ, lưỡng thiệt đã sơ xuất rồi. Phiền não (trong kinh Phật gọi là “hữu lậu”) khiến pháp tài công đức của bạn chảy hết, công đức mà bạn tu không còn nữa, chảy hết rồi. Lỗ chảy rất nhiều, lỗ chảy của vọng ngữ, lưỡng thiệt là lớn nhất. Lưỡng thiệt là xúi giục thị phi.(PS Tịnh Không - Tập 41 - Kinh TTNĐ)
+ I- Kinh Thập thiện, khẩu nghiệp gồm:
1. Nói Dối trá: Không Chân thật/ Thật Thà - Nói Ỷ ngữ - Nói A dua nịnh hót - Nói Thêu dệt - Nói Thêm Bớt
2. Nói Ác khẩu: Độc Ác - Nói Quát tháo - Nói Hung Ác - Nói Nhục mạ, Phỉ báng mang đến khổ đau cho người.
3. Nói lưỡng thiệt: Nói Hai Lưỡi - Đôi Chiều - Đòn Sóc 2 đầu gây hiểu lầm, chia rẽ, hận thù.
4. Nói Ỷ ngữ: Lời Vô Nghĩa - Nhảm Nhí - Phù Phiếm
+ Lời Phật dậy khác cho Tu Sỹ, Thánh Hiền:
+ Các thầy phải: “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như chánh pháp”
+ Tránh lời nhuc mạ, phỉ báng: “Chớ nên phỉ báng một ai; Đừng gây tổn hại cho người xung quanh.
Lời nói phải chân thật, đúng lúc (phù hợp với hoàn cảnh (khế cơ)", hợp Chánh pháp, ích lợi cho mình và cho người.
=> Phải biết đối tượng và hoàn cảnh, trình độ nhận thức ở mức độ nào? Nếu không, dù lời nói đúng sự thật cũng trở thành phi pháp;
+ Sinh vào cảnh trời: Có hạnh “chân thật, nhẫn nại và bố thí”. Đức Phật giải thích là các hạnh đó tuy nhỏ vẫn có thể dẫn đến các cõi Trời. (Nguồn: Chánh ngữ trong Phật Giáo)
+ Lời Nói Thận Trọng: ... "Thận trọng lời nói" có nghĩa là đừng mặc tình nói những gì mà mình thích nói. "Giữ gìn tâm ý" có nghĩa là giữ cho tâm ý mình đừng lang thang, giữ cho tâm không sinh vọng tưởng. Đừng truy cầu sự thuận lợi. "Hành vi chớ thô tháo." Giữ cho thân không phạm những nghiệp xấu.
"Đừng gây xúc não cho hết thảy mọi loài chúng sinh." Có nghĩa là đối với hết thảy mọi người cũng như mọi loài chúng sinh nào tiếp xúc với mình, đừng khiến cho họ sinh khởi phiền não. Đừng gây não loạn cho mọi loài chúng sinh. Ngay cả những người đồng tu với mình, cũng đừng gây phiền nhiễu cho họ. Đôi khi mình vô tình gây ra những lỗi lầm khiến cho sinh hoạt của họ phải bị xáo trộn; trong trường hợp như vậy, quý vị nên tìm cơ hội thuận tiện để giải thích và đừng để tình trạng đó tiếp diễn nữa.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Vọng Ngữ: Người học Phật hiện tại lắm kẻ tự thị ta đã khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đã đắc thần thông đến nỗi làm lắm kẻ khác bị lầm theo. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc lâm chung, cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, khó tránh khỏi địa ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm cái thói ham cao, ưa thắng, dối mình, lừa người ấy; nếu trót dính vào thì phải sửa ngay. Còn ai không vướng phải thói ấy thì càng phải cố tránh. Thật rất mong mỏi vậy.
Sát, trộm, dâm… đều là trọng tội; nhưng vẫn còn có người biết những hành vi ấy chẳng tốt, không phải ai cũng mắc phải nên những tội ấy còn ít. Nếu chẳng tự lượng, phạm tội đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng đã nói chứng để lãnh đạo những hạng vô tri thì tội ấy càng nặng nề lắm. Hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, mê lầm, tội ấy chẳng thể hình dung được nổi!
Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng hư trương thanh thế, bôi mặt, bày trò thì dù có tu hành cũng bị cái tâm kiêu hư ấy phá hoại quá nửa. Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữ là Căn Bản Giới, nhằm để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu chơn tu, thực chứng.
Thế nên, người tu hành chẳng được hướng về người khác khoe khoang công phu của chính mình. Nếu như vì chẳng hiểu rành rẽ, muốn cầu thiện tri [thức] khai thị, ấn chứng thì có thể tự trần thuật đúng ngay sự thực, chứ chẳng thể tự kiêu nói quá lên, cũng bất tất phải tự khiêm nói giảm đi, cứ nói đúng theo tình huống chân thật thì mới là đệ tử Phật chơn chánh, mới có thể ngày một tiến bộ hơn.(ẤN QUANG ĐẠI SƯ_Facebook Sơn Nguyên))
Xem: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Bồ Tát Quán Tự Tại - Pháp tu hành giải thoát Niết Bàn chân thật:
Hành đạo tu thân chớ tìm ngoài
Tự tánh Bát nhã nhân thâm mật
Bọt trắng tiêu, sóng đen dừng
An nhiên bước lên bờ Niết Bàn
Thời qua thời chớ đánh mất dịp
Thận trọng thận trọng giữ thiên chân
Mờ mờ ảo ảo thông tin tức
Vội vội vàng vàng thấy bổn tôn."
Hành tức là tu hành. Thâm là đối ngược với thô thiển mà gọi là thâm. Bát nhã là trí huệ. Ba la mật đa là đạt đến bờ giác. Thời là thời gian.
Đoạn này nói về Bồ Tát Quán Tự Tại tu hành thâm nhập bát nhã, chớ không phải tu bát nhã thô thiển. Sao gọi là thâm bát nhã ? Đó là diệu trí huệ. Sao gọi là bát nhã thô thiển ? Đó là giáo pháp tiểu thừa, bốn diệu đế, mười hai nhân duyên. Nhờ diệu trí huệ chân chánh mới đạt đến bờ giải thoát. Nếu chư vị không có trí huệ chân chánh thì không thể đạt đến bờ giác được. Ai năng đạt đến bờ giác ? Là Bồ Tát Quán Tự Tại.
Nơi đây Phật Thích Ca Mâu Ni đề cử ra Bồ Tát Quán Tự Tại, là vị Bồ Tát tu hành pháp Bát Nhã thậm thâm và đã đạt đến bờ giải thoát. Thế nên nói rằng hành thâm bát nhã ba la mật đa thời.
Người nhị thừa chỉ tu bát nhã thô thiển mà không tu pháp bát nhã thậm thâm. Sao gọi là bát nhã thô thiển ? Tức là năng phân tích, gở tháo pháp không. Tích tức là phân tích. Phân tích vi tế. Phân tích nhũng gì ? Phân tích sắc pháp, tâm pháp. Sao gọi là sắc pháp ? Sắc pháp là có hình có tướng, có thể nhìn thấy được. Sao gọi là tâm pháp ? Tâm pháp là không thể nhìn thấy được. Hữu hình tức là có sắc pháp. Vô hình tức là tâm pháp. Hữu hình là gì ? Tất cả vật có tướng trạng đều gọi là hữu hình. Tâm pháp thì vô hình vô tướng, chỉ có trí giác. Có trí giác và vô hình vô tướng gọi là tâm pháp. Có hình tướng nhưng lại vô tri giác là sắc pháp. Sắc trong năm uẩn tức là sắc pháp, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là tâm pháp. Thọ tưởng hành thức thì vô hình tướng. Lúc Bồ Tát Quán Tự Tại hành thâm bát nhã ba la mật đa, thì thấy rõ năm uẩn đều không. Ngài nhận thấy chúng đều không. Ngài bảo : "Sắc không khác không, không không khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Thọ tưởng hành thức giống như sắc pháp, cũng là không"=> nói về Tánh không. .... (Mời đọc Kinh gốc tại: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quán Tự Tại Bồ Tát - Quán Thế Âm Bồ Tát: BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI - Bồ Tát là một người tỉnh thức (Bồ Tát từ chữ Boddhisatava mà ra, có nghĩa là con người tỉnh thức và đang giúp người khác tỉnh thức). Quán Tự Tại là tên Đức Quán Thế Âm (Avalokiteshvara). Quán Tự Tại là dịch theo kiểu mới, người xưa dịch là Quán Thế Âm.
Theo Thiền Sư, chữ Không trong Tâm kinh nên hiểu là Trống rỗng, chữ Không này không phải không có, mà là nó Không có Thể tánh tự thân, mà là do vô vàn nhân duyên hợp thành => Không là như thế ... (Nguồn: TS Thích Nhất Hạnh giảng Bát Nhã Tâm Kinh)
+ Cách thức sử dụng vô chuông mõ:
a. Trước đánh 3 tiếng chuông và tiếp theo là ba tiếng mõ gọi là: tiên khởi tam.
b. Tiếp theo là 3 tiếng chuông và 3 tiếng mõ giữ khoảng cách đều nhau không nhặt không khoan.
c. Kế tiếp là 4 tiếng mõ (2 tiếng giữa nhặt và tiếng sau lơi ra) gọi là dứt tứ. Đó là ý nghĩa "vô tam ra tứ".
Trước khi thỉnh chuông, người duy na chập nhẹ vào miệng chuông hai tiếng. Hai tiếng chập nhẹ này có ý nghĩa là để cảnh báo cho đại chúng biết, đã đến giờ hành lễ xin mọi người hãy chú tâm theo dõi, lập tức hãy trở về với hơi thở chánh niệm.
Còn 3 tiếng chuông và 3 tiếng mõ đầu ý nói, chúng sanh do ba nghiệp thân khẩu ý tạo tác mọi điều ác, sau sẽ đọa vào trong ba đường dữ: Địa ngục, Ngạ quỷ, và Súc sanh. Cũng có nghĩa là trừ Ba độc (tham, sân, si) để được Ba đức: Pháp thân, Bát nhã và Giải thoát đức.
Tóm lại, 3 tiếng chuông ý nói phải dừng ba nghiệp. Còn 3 tiếng mõ ý nói, khi dừng ba nghiệp thì không còn bị đọa lạc vào Ba đường dữ (tam đồ). Hoặc là trừ Ba độc thì sẽ được Ba đức.
Còn đánh ba tiếng chuông và ba tiếng mõ xen nhau nó có ý nghĩa là: 3 tiếng chuông ý nói, hành giả phải Phát nguyện tu ở nơi Tam học (giới, định, huệ) và 3 tiếng mõ ý nói, quyết chứng cho được Tam thừa (Thanh văn, Duyên Giác và Bồ tát).
Sau cùng dứt Tứ (4 tiếng mõ cóc...cóc cóc...cóc) là ý nói nhờ tu pháp Tứ Đế mà dứt được 4 tướng sanh, lão, bệnh, tử để chuyển thành Tứ trí (chuyển năm thức trước thành Thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí).
Cách thức vô chuông mõ:
- Chập chập - Boong... boong ...boong
- Cóc cóc...cóc.
- Boong.......cóc... boong......cóc.......boong......cóc
- Cóc... cóc cóc.....cóc.
- Chập(nhẹ vào miệng chuông )
Trong khi thỉnh chuông, người Duy na cần phải tuân hành một số quy tắc như sau:
a. Phần duy na (người thỉnh chuông)
- Khi đứng gần bên chuông phải giữ thân cho ngay thẳng và tâm phải giữ thành kính nghiêm trang.
- Cầm dùi chuông không nên nắm chặt lắm, hơi lỏng ra một chút.
- Chập 2 tiếng vào miệng chuông đều và nhẹ.
- Nên đánh vào bên cạnh miệng chuông (không mạnh không nhẹ) không được ở trên đánh xuống. Như thế âm thanh chát chúa và khó nghe.
- Thỉnh thoảng mới thỉnh tiếng chuông không nên thỉnh chuông thường trong một bài kinh đang tụng.
- Phải chú ý theo dõi bài kinh đang tụng để thỉnh chuông cho đúng lúc. Thí dụ: như tụng "Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ tát", đến gần cuối câu thứ 3 mới thỉnh tiếng chuông để báo cho đại chúng biết mà ngưng lại.
- Không nên đánh chuông nhiều lần trong một bài nguyện hương hay tán Phật v.v...
b. Phần duyệt chúng (người đánh mõ)
- Khi đứng bên mõ thân và tâm phải nghiêm trang, không nên lụp chụp thô tháo.
- Đánh mõ giữ trường canh tiền bần hậu phú (trước chậm sau nhanh)
- Không nên đánh mõ thụt lùi gây cho đại chúng khó tụng và mệt mỏi.
- Nên giữ trường canh tiếng mõ đều đặn không nên đánh nhanh quá hoặc chậm
quá.
- Không nên đánh lớn tiếng và cũng không nhỏ quá.
c. Phần đại chúng:
- Phải lắng nghe và tụng theo tiếng mõ.
- Không được tụng lớn áp tiếng đại chúng.
- Phải giữ hòa âm với nhau.
- Lắng nghe âm thanh tiếng chuông để biết dừng lại.
- Khi nghe tiếng chuông phải tập trung tâm ý giữ chánh niệm.
- Đi, đứng, ngồi phải giữ thành kính nghiêm trang.
Tóm lại, lễ nghi nếu khéo biết ứng dụng cho đúng cách và giọng tụng phải nhịp nhàng với nhau, hòa âm không cao không thấp, nhất là phần oai nghi phải giữ cho trang nghiêm tề chỉnh, có thế thì không những lợi lạc cho bản thân mình mà còn cảm hóa đem lại sự an vui cho người khác. Đó là những điều mà người hành lễ cần phải trang trọng cẩn thận giữ gìn. (Nguồn: Ý nghĩa chuông Mõ và cách dụng)
+ Lần chuỗi hạt và gõ mõ đúng pháp: Câu hỏi: “Ấn Quang Đại Sư Văn Sao” có một đoạn nói rằng: “Lần chuỗi niệm Phật chỉ nên làm trong hai lúc đi và đứng. Nếu tĩnh tọa dưỡng thần, do tay động nên thần chẳng an, lâu ngày thành bệnh”. Xin hỏi nếu gõ mõ nhắm mắt thầm tụng Kinh điển thì liệu có phải là “tay động nên thần chẳng an” không ạ?
Bạn phải hiểu là việc gõ mõ, đánh khánh, đánh địa chung, đó không phải là chính mình tu hành, đó là cúng dường đại chúng. Đây là gì? Bạn ở Niệm Phật Đường làm công quả, đại chúng đang tu hành, không phải bạn tu hành, bạn phải giữ từng nhịp thật rõ ràng để cho họ có trật tự, hòa âm đồng đều, không sai chút nào, vô cùng mạch lạc. Đây là bạn đang tu phước, bạn đang giúp mọi người. Khi thật sự tu hành, bạn là thanh chúng, bạn phải buông xuống toàn bộ, thân tâm thanh tịnh. Phật hiệu đều tương ưng với thân khẩu ý, Phật hiệu sinh ra từ trong tâm, niệm từ trong miệng, nghe lọt vào tai, không có tạp niệm, đây là tu hành. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Người trầm cảm: Câu hỏi: Làm thế nào để khống chế được vọng niệm sinh ra? Bệnh nhân bị bệnh trầm cảm sinh ra ảo thính và ảo giác, làm thế nào để tiêu trừ ạ?
Đây là bệnh nghiệp chướng rất nghiêm trọng, dần dần đến khi bệnh nặng thì Phật Bồ Tát cũng bó tay hết cách với họ. Vậy phải làm thế nào? Bệnh của họ chính là tiêu nghiệp chướng của họ, đợi đến khi nghiệp chướng tiêu trừ rồi thì họ sẽ dần dần khôi phục lại bình thường, Phật Bồ Tát sẽ đến giúp họ. Cho nên, con người trước khi bị bệnh trầm cảm, nếu có duyên phận thì nghiêm túc học Phật, vậy sẽ rất có lợi ích, có sự giúp đỡ rất lớn đối với sức khỏe thân thể. Đến khi đã phát bệnh rồi thì không còn kịp nữa. Nếu bệnh vừa mới phát còn nhẹ thì vẫn được, rất dễ đối trị; Nếu bệnh lâu rồi thì rất khó khăn. Phương pháp phòng bệnh tốt nhất là đọc sách Thánh Hiền, vì sao vậy? Sách vở, ngôn ngữ, tâm hạnh của Thánh Hiền là tương ưng với tánh đức, cũng chính là tùy thuận đại tự nhiên, đó là đạo đức, đạo đức thì làm sao sanh bệnh được! Nếu không đi theo Thánh Hiền thì trái với Đạo đức, trái với Đạo đức thì rất dễ gần với yêu ma quỷ quái, gần với chúng thì toàn thân tà khí. Việc phát bệnh này chính là quả báo cảm được của nghiệp nhân, nói chung nếu hiểu những sự lý này thì chúng ta sẽ biết được làm thế nào để đề phòng. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Tự tử (suicide): Này bạn, đây là các trường hợp ngoại lệ. Nhiều người tự tử có thể và thường làm được (can and generally do), nhưng đối với những người khác thì không phải như thế.
-Người tốt lành và trong sạch (thì việc tự tử làm cho họ dường như – ND) ngủ một giấc yên tĩnh đầy hạnh phúc, tràn ngập các linh ảnh hạnh phúc (happy visions) của cuộc sống hồng trần và không có ý thức gì về việc mãi mãi vượt khỏi cuộc sống đó.
-Những người không tốt cũng không xấu (thì việc tự tử làm cho họ – ND) sẽ ngủ một giấc ngủ không mộng mị, nhưng vẫn là một giấc ngủ yên tĩnh.
- Trong khi đó, kẻ độc ác thì tùy theo mức độ thô bỉ/ đê tiện của họ, họ phải chịu nỗi đau ray rứt như cơn ác mộng kéo dài nhiều năm: nhiều ý tưởng của họ trở thành các sự việc sống động; các đam mê tội lỗi của họ trở thành chất liệu thực (real subtance), và họ nhận lại trên đầu họ tất cả khổ đau mà họ đã chồng chất (heaped) lên người khác. Nếu được mô tả đủ thì thực tại và sự kiện này sẽ tiết lộ ra một Địa Ngục (Inferno) còn khủng khiếp hơn nhiều so với Địa Ngục mà Dante (nhà thơ Ý, 1265- 1321 – ND) đã từng tưởng tượng! (Thư của Chân Sư, 216)
+ Phật dậy cách giảng giải cho người tự tử nghe: Đức Phật Từ Bi Cứu Người Nghĩ Quần Khổ Sở Muốn Tự Tử. Họ Giàu Sang Nhưng Buồn Bã Không Có Lối Thoát... Khiến Họ Giác Ngộ Thấy Bình Yên An Lạc... Nói về Mạng họ thuộc về Cha Mẹ họ chứ không riêng họ. Khuyên lên nhìn vạn sự trong tự nhiên vẫn diễn tiến rất đẹp .... (Nguồn: Clip Phật giảng cho người muốn tự tử)
+ Quán Thế Âm Cứu khổ cứu nạn có trái với luật Nhân quả: Câu hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát tầm thanh cứu khổ, cứu giúp chúng sanh gặp nạn nguy cấp hoảng sợ, mặc dù nguyện lực của Bồ Tát rộng sâu, nhưng liệu có trái với nhân quả tương ứng mà chúng sanh tự làm tự chịu không? Sự giải cứu này là lúc đó thay đổi duyên thọ báo phải không? Sau này còn có hiện hành nữa không?
Trong Phật giáo không có mê tín, hi vọng chính mình phải thâm nhập Kinh giáo. Kinh giáo rộng sâu không bờ mé, thật sự là sâu không thấy đáy, rộng không thấy bờ, chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực mà học tập, đời đời kiếp kiếp cũng học không hết. Sau khi bạn thấu tỏ rồi thì mới biết cầu Quán Thế Âm Bồ Tát, khi gặp nạn nguy cấp hoảng sợ cầu Quán Âm Bồ Tát cứu giúp là cầu ai? Cầu chính mình. Chính mình có thể cầu Bồ Tát, cái tâm đó là tâm chân thành, tâm đó là tâm thanh tịnh, tâm đó là tâm từ bi, đây là tự mình cứu mình, là hóa giải nghiệp chướng hiện tiền của chính mình. Là đạo lý như vậy. Nếu bạn muốn tin ngoài tự tâm còn có Quán Âm Bồ Tát thì gọi là ngoại đạo. Tự tánh Quán Thế Âm, duy tâm giải tai nạn, tiêu tai nạn, vậy chỗ nào là mê tín chứ! Nếu không bàn điều này thì tôi nói cho bạn nguyên lý chân thật, chính là tâm thanh tịnh có thể hóa giải hết thảy tai nạn, tâm chân thành thì không chịu tai nạn nào, tâm từ bi có thể hóa giải hết thảy độc hại. Cho nên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát là phải niệm cho ra tâm thanh tịnh, từ bi, chân thành, vậy thì hóa giải hết thảy tai ương rồi, đây là lý, nếu hiểu lý này thì bạn sẽ không hoài nghi nữa. Bạn hỏi tương lai còn có tai nạn hay không? Sao lại không có? Một niệm của bạn mê thì tai nạn liền đến, một niệm giác ngộ thì tai nạn được hóa giải. Bạn muốn vĩnh viễn không có tai nạn thì niệm niệm giác mà không mê, tai nạn sẽ vĩnh viễn không còn nữa. Cảnh tùy tâm chuyển, hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh, đây là tổng nguyên tắc, là tổng y cứ. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Thần Chú Đại Cát Tường Lục Tự Chương Cú Cứu Khổ: Đức Phật bảo: “Này A Nan! Đại thành Vương Xá có một nữ nhân bị ác quỷ nhiếp tên là Chiên Đà Lợi (Canïdïari). Ngày đêm Quỷ đó hiện thành hình người chồng đến quấy nhiễu cô gái này. Vì thân bị vướng tinh của con Quỷ nên sinh ra 500 Quỷ con. Ông còn nhớ chuyện đó không? Vào lúc ấy, Ta dạy cho cô gái này xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhờ Tâm lành tiếp nối mà được vào cảnh giới lành.
Này A Nan! Nên biết sức uy thần của Bồ Tát này khiến Ác Quỷ bị tiêu phục, được thấy sắc tượng không thể sánh của thân Ta. Vào lúc ấy mỗi mỗi lỗ chân lông của Ta hiện ra hoa sen báu, vô số vị Hóa Phật khác miệng cùng lời xưng tán Bậc Đại Bi Thí Vô Úy khiến cho người nữ thọ trì đọc tụng thông suốt. Công Đức của Chú này dứt sạch 3 Chướng, thoát khỏi lửa của ngục Tam Giới, chẳng thọ mọi khổ, 404 bệnh một Thời chẳng khởi.
Giả sử có chúng sinh vào trận chiến đấu sắp sửa bị hại. Nếu tụng niệm Chú này, xưng niệm danh hiệu Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát thì như con chim ưng cất cánh bay lên liền được giải thoát.
Nếu có chúng sinh thọ đại khổ não bị giam giữ trong nhà tù, bị gông cùm xiềng xích với các hình phạt từ 1 ngày cho đến 7 ngày, từ một tháng cho đến 5 tháng thì cần phải Tĩnh Tâm, buộc niệm vào một chỗ, xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát và Quy Y Tam Bảo, xưng niệm tên Ta 3 lần, tụng Đại Cát Tường Lục Tự Chương Cú Cứu Khổ Thần Chú sẽ được giải thoát. Chú là:
Đa điệt tha: An đà lỵ bát trà lỵ chỉ do lỵ (Gọi là: Trước Anh Lạc Quỷ _ Quỷ đeo Anh Lạc) Đàn đà lỵ (Gọi là: Tróc Thiết Bổng Quỷ _ Quỷ bắt cây gậy sắt) Đàn đa lỵ (Gọi là Tróc Cân Quỷ _ Quỷ bắt cái cân) Để gia bà đà (Gọi là: Dữ Nhân Quang Quỷ) Gia xa bà đà (Gọi là: Văn Quỷ _Quỷ nghe ngóng) Phả la nị kỳ (Gọi là: Trường Xuất Xỉ Quỷ _ Quỷ ló nanh dài) Nan đa lỵ (Gọi là Đại Thân Quỷ _ Quỷ có thân to lớn) Bà gia lỵ (Gọi là: Đại Diện Quỷ _ Quỷ có cái mặt to lớn) A lô nỉ (Gọi là: Bế Mục Quỷ _ Quỷ nhắm mắt) Bạc cưu lỵ (Gọi là: Trước Chung Quỷ _ Loại Quỷ này có đeo cái chuông) Mạc cưu lệ (Gọi là Phi Đầu Quỷ) Đâu tỳ lê (Gọi là: Trụ Thạch Quật Quỷ_ Quỷ trú ở trong hang đá) Sa Ha
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Thần Chú này xong lại bảo A Nan rằng: “Như có kẻ trai lành, người nữ thiện, Đệ Tử trong 4 Bộ được nghe danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và thọ trì đọc tụng Lục Tự Chương Cú. Nếu đi qua nơi trống vắng (Hoang dã) bị mê mờ quên mất lối đi mà tụng Chú này thì Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Đại Bi xông ướp Tâm hóa thành hình tượng người chỉ đường dẫn lối khiến cho được an ổn.
Nếu bị đói khát thì hóa làm suối, giếng, quả trái cho ăn uống khiến được no đủ.
Giả sử lại có người gặp đại họa đối mặt, quên mất đất nước, vợ con, tài sản cùng hội với Oán Tằng (Oán ghét) mà xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng niệm Chú này, Sổ Tức cột niệm, ý không có phân tán trải qua 49 ngày thời Đấng Đại Bi (Mahà Kàrunïika) hóa làm hình Trời (Thiên Tượng) và làm hình Đại Lực Quỷ Thần Vương tiếp rước quay trở về ất cũ khiến cho được an ổn.
Nếu lại có người vào trong biển sâu tìm vật báu. Lên núi cao, nơi vắng vẻ gặp phải cọp, sói, sư tử, trùng độc, rắn độc, Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà với các Quỷ ác cướp đoạt tinh khí mà xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 3 lần và tụng Chú này liền được giải thoát.
Nếu có đàn bà gặp nạn lúc sinh sản sắp sửa bị chết mà xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 3 lần và tụng trì Chú này liền được giải thoát.
Nếu gặp giặc đại ác cướp đoạt tài sản mà xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 3 lần và tụng trì Chú này thì giặc cướp khởi Tâm Từ (Maitri Citta) liền bỏ qua mà cho đi.
Này A Nan! Nên biết như vị Bồ Tát này và Thần Chú đó quyết định là Cát Tường, thường hay tiêu phục tất cả độc hại, chân thật chẳng hư dối, ban cho khắp cả chúng sinh trong 3 cõi khiến cho không có sự sợ hãi, làm đại ủng hộ cho đời này an vui, đời sau sinh vào nơi gặp Phật nghe Pháp mau được giải thoát. Uy Thần của Chú này rực rỡ vô lượng hay khiến cho chúng sinh thoát khổ Địa Ngục, khổ Ngạ Quỷ, khổ Súc Sinh, Khổ A Tu La và 8 nạn khổ… giống như nước diệt lửa sạch hết không còn sót.
A Nan! Nên biết nếu có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và trì Chú này sẽ được đại thiện lợi, tiêu phục độc hại. Đời này đời sau việc chẳng lành vĩnh viễn dứt hẳn không còn dư sót và đều đầy đủ Trì Giới, Tinh Tiến, Niệm, Định, Tổng Trì.
A Nan! Nên biết nếu có người nghe Lục Tự Chương Cú Cứu Khổ Y Vương Vô Thượng Thần Chú này, xưng niệm danh tự Đại Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát thì tiêu trừ tội cấu, liền ngay đời này được thấy 80 ức chư Phật đều đến trao tay, vì mình mà nói thần lực công đức của Bậc Thí Vô Úy và Lục Tự Chương Cú. Đã nhìn thấy Phật cho nên liền được Vô Vong Tuyền Đà La Ni (Đà La Ni xoay chuyển không bị quên)”
_ Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Kệ là: ...
Đề nghị xem kỹ Kinh văn gốc. Nếu thọ trì đọc tụng đúng như lý như pháp sẽ có được sự nhiệm mầu. (Nguồn: Kinh chú Đà La Ni Thỉnh Bồ Tát Quán Thế Âm Tiêu Phục Độc Hại)
+ Các loại Ma: Phiền lão ma - Tử ma - Thiên ma - Ngũ ấm ma
Ngũ ấm ma: Sắc - Thọ - Tưởng - hành - Thức là ngũ ấm ma sanh phiền lão, có từ lúc mạng sanh ra đã có rồi, là nghiệp đời quá khứ mang đến
Phiền lão ma: Là Thất tình ngũ dục (nhà Phật gọi là Kiến tư - Trần sa - Vô minh phiền lão), cũng là từ tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay của bản thân khởi hiện thành.
Thiên ma: Cám dỗ ở ngoài thân, do ngũ dục và bên trong phiền lão, tâm tham ... khởi lên, cấu kết nhau hợp thành.
Tử ma: Chướng ngại khi cái chết đến, tuổi thọ hết.(Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
* Ma Ngũ ấm nghiêm trọng nhất trong các loại ma: Sắc là Thân xác. Cõi Thiên không có thân, còn Thọ Tưởng Hành Thức - Do Si mê mà có. Dùng Pháp niệm Phật có thể hàng phục các loại ma. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Các loại Ma
* Hòa Thượng giảng “Năm Mươi Ngũ Ấm Ma” trong Kinh Lăng Nghiêm vào năm 1968 tại Phật Giáo Giảng Đường, San Francisco. Năm 1988, tại Vô Ngôn Đường, Vạn Phật Thánh Thành, quý Thầy Cô cùng các vị Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di bắt đầu hiệu đính lại bản dịch (Anh ngữ) dưới sự chủ trì của Hòa Thượng; khi hiệu đính, Hòa Thượng có giảng giải thêm cho một số chỗ trong kinh văn, đồng thời trả lời những nghi vấn của đệ tử. Những đoạn giảng thêm và vấn đáp gồm có 42 đoạn, dài ngắn khác nhau, được kết tập lại dưới mục Notes hay Ghi Chú cho quyển “Ngũ Ấm Ma Thiển Thích”. Khi hiệu đính đến cảnh giới Tưởng Ấm Ma thứ nhất, chỗ Kinh văn: “Nhĩ thời thiên ma, hậu đắc kỳ tiện, phi tinh phụ nhân, khẩu thuyết kinh pháp” (Khi ấy thiên ma chờ được cơ hội thuận tiện, cho tinh thần gá vào người khác, dùng miệng người đó giải thuyết kinh pháp).
Hòa Thượng giảng thêm cũng như trả lời thắc mắc. Đó là “Ghi Chú #14” dưới đây”:
Vấn đề này quí vị đừng nên hiểu một cách cứng nhắc, lời kinh dạy ra sao, đều chỉ là một cách diễn đạt để người nghe hiểu, chứ không nhất định phải là như vậy. Quí vị cần phải biết rằng ở đây không phải chỉ có năm mươi loại, mà đến năm trăm loại, năm ngàn loại, năm vạn loại, nhiều không nói hết được. Năm mươi hiện tượng ấm ma này là một cách nói tổng quát. Quí vị cũng đừng nên suy tưởng nó cao thâm huyền diệu ra sao, mà hãy xem như là lời nói chuyện của một người bình thường, không nên gắng sức chia chẻ chi li.
Tôi giảng kinh đều gọi là ‘thiển thích’ (giải thích sơ lược), tôi không ‘thâm thích’ (giải thích thâm sâu)....
Ma có nhập vào người tu hay không, chúng chướng ngại thế nào. Mời đọc chi tiết lời giảng. (Nguồn: Mời xem tại đây)
+ Các Loài Ngạ Quỷ: Chúng có rất nhiều loại, nguồn thực để sống cũng khác nhau ... (Nguồn: Xem chi tiết tại đây).
+ Đức Phật dậy về 32 loại Ngạ Quỷ: Quỷ dù có lạ lùng mấy, thì cũng do biệt nghiệp xấu từ tâm tạo nên. Tâm tạo thiên hình vạn trạng, nên quả lành, dữ cũng theo đó mà kết. Ta sẽ kể sơ tên và ác nghiệp của chúng quỷ, có rất nhiều loại: 1. Quỷ kiêu mạn, ác hạnh (Quỷ kiêu căng); 2. Khinh tăng - Gạt cúng thịt; 3. Hung ác - Bất kính Tam bảo, quyến thân; 4. Phóng túng - Chế nhạo tu sĩ; 5. Tham lam bỏn sẻn ác độc; 6. Tà kiến, hung dữ, phá chùa; 7. Ác khẩu, chửi rủa, thâm thọc; 8. Tham lam xấc ác, bạc nghĩa; 9. Sân hận, ngã mạn, ác hạnh; 10. Ác khẩu, lăng mạ người đức hạnh; 11. Phúc tội lưỡng ban (Quỷ si mê); 12. Tu dối, gạt tín đồ; .....
+ Các loại Quỷ: Bây giờ mọi người đang để tâm nghiên cứu chú Lăng Nghiêm, mới biết là quỷ cũng có đủ hình đủ dạng, muôn ngàn loài khác nhau. Chúng nó đều là do cảm quả mà thọ báo, tùy theo loài mà hiện. Trong chú Lăng Nghiêm có nêu danh nhiều vị vua của quỷ thần, trong đó có quỷ dạ xoa (nhanh lẹ), quỷ la sát (kinh sợ), quỷ thủ hồn, quỷ thủ thi, quỷ tỳ xá xá (hớp tinh khí), quỷ cưu bàn trà (làm người tê liệt, còn gọi là bóng đè, ma đè), quỷ đại thân, quỷ điên, quỷ xú (thối), quỷ phú đan na (có mùi hôi độc), quỷ nhiệt, quỷ hàn, quỷ ảnh, quỷ âm nhạc... Ngoài ra còn có quỷ ăn hoa, quỷ ăn nhau sanh sản, quỷ ăn thai, quỷ ăn hài nhi, quỷ ăn mỡ, quỷ ăn đèn, quỷ ăn ngũ cốc... Sự biến hóa của chúng, quả là vô cùng vô tận, vô lượng vô biên.
Trước đây khi chưa nghe chú Lăng Nghiêm, chúng ta đâu biết có nhiều loại quỷ như thế. Nhưng sau khi chúng ta nghe rồi, mới biết là quỷ cũng có rất nhiều chủng loại. Đương nhiên quỷ so với người thì chúng nó đông hơn nhiều. Người tạo nghiệp tội thì bị đọa xuống cảnh giới quỷ, không thể tự mình thoát ra được ..... mời xem: HT Tuyên Hóa Khai thị 6
+ Các loại ma chướng ngại tu: Trong kinh Thủ Lăng nghiêm, Đức Thế Tôn nói: “Ông sẽ bị quấy nhiễu bởi một loại ma từ ngũ ấm của ông, hoặc là ma từ cõi trờì, hoặc mắc quỷ, thần, hoặc gặp ly, mỵ. Nếu tâm không sáng suốt, ông sẽ nhận lầm kẻ giặc là con.”
Giải thích về sự quấy nhiễu này HT. Tuyên Hoá nói: Tại sao thiên ma từ trên trời đến để quấy rầy ông? Vì ông, người tu hành, đã tu tới chỗ có định lực. Ông có một tí định lực không có gì quan trọng, nhưng cung điện của ma vương bị rúng động giống như bị động đất vậy. Vì ma vương cũng có thần thông, nên khi cung điện của nó bị rúng động , nó liền quan sát: A! Tại sao cung điện của ta lại vô duyên vô cớ rung rinh, tan vỡ thế nầy? Nó khám phá ra trên thế gian có người sắp sửa thành tựu đạo nghiệp; định lực của người tu đó khiến cho cung điện của nó đỗ vỡ. Thiên ma mới suy nghĩ: Mày muốn phá diệt tao hả? Tao sẽ phá hủy định của mày trước! Cho nên, nó đến phá hoại định lực của người tu hành. (Nguồn: Hiểu về Thiên Ma Ba Tuần)
+ Mời xem trang: Tóm lược tổng hợp các loại Ma Quỷ
+ Tinh linh của các bản tố; các tạo vật có liên quan đến 4 lãnh vực, hay các bản tố: Địa (Earth), Phong (Air), Hỏa (Fire), và Thủy (Water). Ngoại trừ một số ít ở đẳng cấp cao và các vị cai quản, chúng là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. (ĐĐTNLVTD, 217)
– Tinh linh là các thực thể còn phải tiến hóa thành người vào một thời gian trong tương lai. (GLBN III, 235)
– Tinh linh là các mãnh lực bán-thông-tuệ của các giới. (GLTNVT, 311)
+ Các tinh linh có bản chất dưới nhân loại. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc chúng trên cõi cảm dục không có gì đảm bảo rằng chúng ở trên con đường tiến hóa thăng thượng. Trái lại, chúng ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có mặt trên mọi cõi giới, riêng các loại tinh linh dĩ thái – như là thần lùn, thổ tinh linh, thổ tiểu tiên thì được biết rõ hơn. Chia thành 4 nhóm:
1. Tinh linh của đất (Thổ tinh linh).
2. Tinh linh của nước (Thủy tinh linh).
3. Tinh linh của không khí (Phong tinh linh).
4. Tinh linh của lửa (Hỏa tinh linh).
* Nếu các bạn có thể biết được, thì chúng là tinh hoa của mọi vật. Chúng là những loài tinh hoa của thái dương hệ, có bốn cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu.( TVTTHL, 174)
- Các nhà kiến tạo dĩ thái, tức là tinh linh phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
* Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy(TVTTHM, 174)
+ Ở Thái dương hệ này, Hỏa Tinh linh đông nhất, nhì đến Tinh Linh Không khí hiện diện khắp các cõi. Thủy hay Thổ tinh linh ít hơn nhiều, chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số Hành tinh của Thái dương hệ (CTHNM, 188)
+ Các Luân xa mà qua đó sự sống Tinh Linh (SSTL) và Linh hồn hoạt động (EP II 290. 304)
1. Đời sống 3 tinh linh này được tạo thành chủ yếu ở 3 luân xa thấp nhất:
1. LX xương cùng, - SSTL trí tuệ => LX cổ họng.
2. LX tùng T.Dương- SSTL cảm dục => Luân xa tim.
3. LX đáy cột sống, - SSTL hồng trần => Luân xa đầu.
- Sự sống của linh hồn nội tại qua 3 luân xa cao.
1. Luân xa đầu - Tâm thức trí tuệ.
2. Luân xa cổ họng - Tâm thức sáng tạo.
3. Luân xa tim - Tâm thức cảm giác[304]
+ Tinh Linh Thiên Nhiên - Tinh Linh Ngũ Hành: Gồm các Tiên nữ, thổ thần, thần. Người ta thấy chúng trong chất dĩ thái cũng như trong các thể bằng chất hơi, chất lỏng. Các sinh linh bé nhỏ bận rộn này thường che các hoạt động ở cõi trần trọng trược của chúng nhờ ảo cảm và phủ lớp màn che giấu biểu lộ bên ngoài của chúng. (LVLCK, 892)
+ Mãnh lực Thiên nhiên tức là Tinh linh thiên nhiên. Tinh linh thiên nhiên tức là các Tinh linh Ngũ hành có khả năng thông linh.(GLBN I, 202)
+ Linh hồn của các Hành Tố. Các sinh vật tiến hóa trong 4 giới hay 4 Hành – địa, phong, hỏa và thủy. Tín đồ Do Thái Bí giáo gọi các tạo vật này là Thổ tinh linh (thuộc về đất), Phong tinh linh (thuộc về không khí), Hỏa tinh linh ( thuộc về lửa) và Thủy tinh linh (thuộc về nước). Ngoại trừ một vài loại cao cấp và các vị điều khiển của chúng, các tạo vật này là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. Với vai trò là các tác nhân thấp kém của các nhà Huyền linh học, các mãnh lực này có thể tạo ra các hiệu quả khác nhau. Nhưng nếu được các “Âm ma” sử dụng – trong trường hợp chúng bắt đồng tử phục tùng – chúng sẽ lừa gạt người dễ tin. Tất cả các sinh linh vô hình thấp kém được tạo ra trên cõi thứ 5, 6 và 7 của bầu khí quyển trái đất chúng ta được gọi là các Elementals (tinh linh): Peris, Devas, Djins, Sylvans, Satyrs, Fauns, Elves, Dwarfs, Trolls, Kobolds, Brownies, Nixies, Goblins, Pinkies, Banshees, Moss People, White Ladies, Spooks, Fairies, vv… và vv… (NGMTTL, 111–112)
+ Các Tinh linh thiên nhiên thuộc các phân cảnh dĩ thái (Elementals of the Ethers). Bây giờ, chúng ta xem xét các phân cảnh dĩ thái của cõi trần hay là 4 phân cảnh cao nhất của cảnh hồng trần. Các phân cảnh dĩ thái này chỉ là các mức độ vật chất của cõi trần thuộc loại hiếm hơn và được tinh luyện hơn tuy thuộc về cõi trần. Trong đa số sách giáo khoa, chúng được đặt tên như sau:
1. Dĩ thái 1 hay chất liệu vi tử (atomic matter).
2. Dĩ thái 2 hay chất liệu á vi tử (sub–atomic matter).
3. Dĩ thái 3 hay chất liệu siêu dĩ thái (super–etheric matter).
4. Dĩ thái 4 hay chất dĩ thái đơn thuần (simply etheric matter).
Cho đến nay, dĩ thái 4 là chất duy nhất được các nhà khoa học nhận biết và là đề mục trong các tìm tòi hiện nay của họ, mặc dù họ có thể hiểu được chút ít chất này.
+ Tinh linh sinh lực (Pranic elementals): Các tinh chất nhỏ bé của lửa này (minute fiery essences) có khả năng thẩm thấu (permeate) qua cấu trúc (texture) của cơ thể con người, của một thân cây hay của tất cả những gì có thể có trong giới nhân loại, giới thực vật và động vật, và hòa hợp với lửa của hệ thống tiểu thiên địa.(LVLCK, 67)
+ Tinh linh nhân tạo hay hình tư tưởng: Những tư tưởng mơ hồ, lỏng lẻo (loose) phần lớn được tạo ra do các thể trí chưa phát triển, gom lại chung quanh chúng những đám mây tinh chất hành khí rời rạc khi đến cõi cảm dục, và trôi vật vờ, bị hút vào các đám mây khác ở khắp nơi và có bản chất tương tự, rồi bám quanh các thể cảm dục của những ai có từ điển – hoặc tốt hoặc xấu – thu hút lấy chúng, và sau một thời gian sẽ tan rã, để lại tạo nên thành phần của bầu khí chung của loài tinh chất hành khí. Khi nào chúng còn duy trì sự sống riêng biệt (separate existence) thì chúng là các thực thể linh hoạt (living entities), có cơ thể (bodies) bằng tinh chất hành khí, còn các tư tưởng có vai trò như là các sinh vật tạo linh hồn (ensouling lives), và lúc bấy giờ, chúng được gọi là các tinh linh nhân tạo (artificial elementals) hay là hình tư tưởng (thought–forms). (MTNX, 66–67)
Nơi kẻ thường nhân, tinh linh nhân tạo do cảm xúc (feelings) hoặc dục vọng (desire) tạo ra thì mạnh mẽ và rõ ràng hơn là tinh linh nhân tạo do tư tưởng (thought) tạo ra. Như vậy, một cơn giận bùng lên sẽ tạo ra một tia chớp đỏ mạnh mẽ và có đường nét rõ ràng, và nếu cơn giận kéo dài, nó sẽ tạo ra một tinh linh nhân tạo nguy hiểm, có màu đỏ, sắc nhọn, có ngạnh (barbed), nói khác đi, có mang tính chất làm hại. Tình thương, tùy theo tính chất của nó, sẽ tạo ra các hình thể ít hay nhiều gì cũng có màu sắc đẹp đẽ, đủ mọi sắc thái, từ đỏ thẫm đến hồng dịu, vô cùng tinh tế, giống như màu hồng thật nhạt của hoàng hôn hay bình minh, tình thương cũng tạo ra các đám mây hay các hình dạng có tính bảo vệ mạnh mẽ.
+ Tinh linh hồng trần:
- Tinh linh hồng trần là tên gọi dành cho sự sống đã hội nhập của thể xác.(CTNM, 462)
- Là toàn thể các nguyên tử sinh động của phàm ngã (body nature)(LVLCK, 118)
+ Tinh linh của lửa: Các hình hài trọng trược hơn của cuộc sống thể hơi, thường được gọi là hỏa tinh linh, tinh linh của lửa. Chúng trực tiếp ở dưới sự kiềm chế của Hỏa tinh quân, Tinh quân của cõi trí.(LVHLT, 389)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.(CTHNM, 188)
+ Hoả tinh linh (Cõi Trần), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của lò sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy (LVLCK, 87)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Tinh linh của không khí (Elemental of the air): Tinh linh của không khí được hiểu một cách tượng trưng là lớp nền (substratum) của năng lượng đang tác động qua các hình hài của thể dĩ thái. (LVHLT, 216)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí. (CTHNM, 188)
+ Tinh linh của đất (Elemental of earth): Là toàn thể nhiều sinh linh tạo thành thể xác. (LVHLT, 215)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí. (CTHNM, 188)
+ Tinh linh cảm dục (Astral elemental, Desire–elementals): - Sự sống giáng hạ tiến hóa bé nhỏ tạo thành Tinh linh cảm dục của chúng ta. (LVHLT, 311)
- Các tinh linh thiên nhiên có liên quan đến việc tạo ra thể cảm dục của loài vật và loài người được dành cho tên gọi đặc biệt là tinh linh cảm dục (còn gọi là “thần cảm dục“ – desire–gods) vì chúng được làm cho sinh động một cách mạnh mẽ bằng đủ loại dục vọng và luôn luôn dự vào việc kiến tạo thể cảm dục của con vật lẫn con người. (MTNX, 76)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí. (CTHNM, 188)
+ Các tinh linh thiên nhiên của vật chất trọng trược nhất (The elementals of densest matter). Đây là các tác nhân hoạt động và tác nhân kiến tạo có liên hệ đến phần hữu hình và biểu hiện ra bên ngoài của mọi biểu lộ. Theo nghĩa đen, toàn bộ chúng hợp thành những gì mà con người có thể đụng tới, nhìn thấy và tiếp xúc được trên cõi trần. … Trong số các thần hoạt động thuộc phân cảnh thấp nhất của cõi trần, người ta thấy có một số hình thức sự sống ngầm dưới đất mà các sách huyền linh cổ có nói tới. Người ta thấy tận trong lòng đất có sự tiến hóa của loại tinh linh đặc biệt rất giống với con người. Các vị này có thân thể thuộc loại đặc biệt thô kệch, không thể được xem như thể xác một cách rõ ràng theo tên gọi mà chúng ta hiểu. Họ cư trú trong các vùng đất cố định, hoặc là các nhóm, dưới một hình thức cai trị thích hợp với nhu cầu của họ trong các hang động trung ương sâu nhiều dặm dưới lớp vỏ địa cầu. Công việc của các thần này có liên quan chặt chẽ với giới khoáng chất, và các “hỏa thiên thần” (“agnichaitans”) của các đám cháy lớn đều ở dưới sự kiểm soát của các thần này. Các thể của họ được cấu tạo để cho có thể chịu nỗi áp suất lớn. Họ không tùy thuộc vào luồng khí lưu chuyển tự do như con người, mà cũng không bực bội vì sức nóng cao độ có bên trong địa cầu. Ở đây, chỉ có thể nói ít về các sự sống này, vì các thần này có liên hệ với các phần ít quan trọng của thể xác của Hành Tinh Thượng Đế, có sự tương ứng về mặt tiểu vũ trụ nơi chân và giò (feet and legs) của con người. Các thần này là một trong các yếu tố gây ra chuyển động vừa quay tròn vừa tiến tới của một hành tinh.
+ Các tinh linh thiên nhiên và các thiên thần thứ yếu của chất lỏng (Elementals and lesser devas of liquid matter). Nhiều nhóm thủy thần (water devas) thuộc loại hoạt động đã được các văn sĩ viết thần thoại tập hợp một cách sơ sài dưới các tên gọi nữ thủy tiên (undines), nữ nhân ngư (mermaids) và các cách diễn tả khác, còn nhiều nữa, và điều này tất nhiên rõ ràng thôi khi nhớ rằng tổng số nước trên địa cầu (biển lớn, biển nhỏ, sông, hồ và suối) vượt xa phần khô hay đất liền, và mọi giọt nước trong chính nó là một sự sống bé nhỏ, làm tròn chức năng của nó và chạy suốt chu kỳ của nó. Các hình thức thần thoại nói ở trên chỉ là vô số sự sống tạo thành một hình hài mà qua đó, vị thần đang tiến hóa tìm cách biểu lộ.
+ Các Tinh linh cõi trần (Physical plane Elementals). Các thiên thần có thể được chia thành ba nhóm trên cõi trần:
1. Các tác nhân truyền đạt Ý chí của Thượng Đế.
2. Các tác nhân vận dụng năng lượng được triển khai.
3.Các tác nhân tích chứa thần lực.
Xem: Tổng Hợp Các Tinh Linh Và Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thần
+ Tinh linh của không khí (Elemental of the air): Tinh linh của không khí được hiểu một cách tượng trưng là lớp nền (substratum) của năng lượng đang tác động qua các hình hài của thể dĩ thái. (LVHLT, 216)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí. (CTHNM, 188)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Tinh linh của lửa: Các hình hài trọng trược hơn của cuộc sống thể hơi, thường được gọi là hỏa tinh linh, tinh linh của lửa. Chúng trực tiếp ở dưới sự kiềm chế của Hỏa tinh quân, Tinh quân của cõi trí.(LVHLT, 389)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.(CTHNM, 188)
+ Hoả tinh linh (Cõi Trần), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của lò sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy (LVLCK, 87)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Tinh linh của các bản tố; các tạo vật có liên quan đến 4 lãnh vực, hay các bản tố: Địa (Earth), Phong (Air), Hỏa (Fire), và Thủy (Water). Ngoại trừ một số ít ở đẳng cấp cao và các vị cai quản, chúng là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. (ĐĐTNLVTD, 217)
– Tinh linh là các thực thể còn phải tiến hóa thành người vào một thời gian trong tương lai. (GLBN III, 235)
– Tinh linh là các mãnh lực bán-thông-tuệ của các giới. (GLTNVT, 311)
+ Các tinh linh có bản chất dưới nhân loại. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc chúng trên cõi cảm dục không có gì đảm bảo rằng chúng ở trên con đường tiến hóa thăng thượng. Trái lại, chúng ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có mặt trên mọi cõi giới, riêng các loại tinh linh dĩ thái – như là thần lùn, thổ tinh linh, thổ tiểu tiên thì được biết rõ hơn. Chia thành 4 nhóm:
1. Tinh linh của đất (Thổ tinh linh).
2. Tinh linh của nước (Thủy tinh linh).
3. Tinh linh của không khí (Phong tinh linh).
4. Tinh linh của lửa (Hỏa tinh linh).
* Nếu các bạn có thể biết được, thì chúng là tinh hoa của mọi vật. Chúng là những loài tinh hoa của thái dương hệ, có bốn cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu.( TVTTHL, 174)
- Các nhà kiến tạo dĩ thái, tức là tinh linh phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
+ Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy(TVTTHM, 174)
+ Ở Thái dương hệ này, Hỏa Tinh linh đông nhất, nhì đến Tinh Linh Không khí hiện diện khắp các cõi. Thủy hay Thổ tinh linh ít hơn nhiều, chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số Hành tinh của Thái dương hệ (CTHNM, 188)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Các Luân xa mà qua đó sự sống Tinh Linh (SSTL) và Linh hồn hoạt động (EP II 290. 304)
1. Đời sống 3 tinh linh này được tạo thành chủ yếu ở 3 luân xa thấp nhất:
1. LX xương cùng, - SSTL trí tuệ => LX cổ họng.
2. LX tùng T.Dương- SSTL cảm dục => Luân xa tim.
3. LX đáy cột sống, - SSTL hồng trần => Luân xa đầu.
- Sự sống của linh hồn nội tại qua 3 luân xa cao.
1. Luân xa đầu - Tâm thức trí tuệ.
2. Luân xa cổ họng - Tâm thức sáng tạo.
3. Luân xa tim - Tâm thức cảm giác[304]
Xem: Tổng hợp về Ishvara, Linh hồn ( Đại Vũ trụ và Tiểu Vũ trụ)
Xem Tổng hợp về Luân xa ; (Phân biệt LX Tùng thái dương với Đan điền)
Nguồn: Các trích dẫn TLHNM(GQ1.1, tr 11)
Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân
+ Kham Nhẫn: Con voi của vua xứng đáng cho vua dùng, là tài sản của vua, và được xem là một biểu tượng của vua, nếu nó KHAM NHẪN CHỊU ĐỰNG:
1. Kham nhẫn các sắc: Con voi của vua, đi đến chiến trận, khi thấy đoàn voi hay khi thấy đoàn ngựa, hay khi thấy đoàn xe, hay khi thấy đoàn bộ binh, liền không chùn chân, rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận
2. Kham nhẫn các tiếng: Con voi của vua, đi đến chiến trận, khi nghe tiếng voi, hay khi nghe tiếng ngựa, hay khi nghe tiếng xe, hay khi nghe tiếng bộ binh, hay khi nghe tiếng trống lớn, thanh la, tù và, trống nhỏ, không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận
3. Kham nhẫn các hương: Con voi của vua đi đến chiến trận, đối với các con voi của vua thuộc loại quý chủng, quen thuộc chiến trận, khi nó ngửi mùi phân và nước tiểu của những con voi ấy, nó không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận.
4. Kham nhẫn các vị: Con voi của vua đi đến chiến trận, khinh miệt một máng cỏ và nước, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn hoặc năm máng cỏ và nước, không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận
5. Kham nhẫn các xúc: Con voi của vua đi đến chiến trận, khi bị một mũi tên bắn trúng, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận
+ Biết 5 pháp:
1. Biết nghe: Con voi của vua, khi người nài sai làm một công tác hoặc đã làm, hoặc chưa làm, nhiệt tâm tác ý, hoàn toàn chú tâm, lóng tai và nghe.
2. Biết sát hại: Con voi của vua đi đến chiến trận, giết voi, giết kẻ cưỡi voi, giết ngựa, giết kẻ cưỡi ngựa, phá xe, giết kẻ cưỡi xe, giết các bộ binh.
3. Biết phòng hộ: Đi đến chiến trận, con voi của vua phòng hộ phần thân trước, phần thân sau, đầu, phòng hộ tai, ngà, vòi, đuôi, người cưỡi voi.
4. Biết kham nhẫn: Con voi của vua khi lâm trận, kham nhẫn bị thương đâm, bị kiếm đâm, bị trúng tên, các thứ tiếng, như tiếng trống lớn, tiếng thanh la, tiếng tù và, tiếng trống nhỏ.
5. Biết đi đến: Con voi của vua, khi người nài (huấn luyện voi) sai đi về hướng nào, hoặc trước kia đã có đi, hay chưa đi, liền mau mắn đi về chỗ ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc....
Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không tham đắm các sắc khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh.....
Tỷ-kheo khi tai nghe tiếng, không tham đắm các tiếng khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh.....
Tỷ-kheo khi mũi ngửi các hương, không tham đắm các hương khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh....
Tỷ-kheo khi lưỡi nếm các vị, không tham đắm các vị khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh.....
Tỷ-kheo khi thân cảm các xúc, không tham đắm các xúc khả ái, có thể giữ tâm định tĩnh.....
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời. (Nguồn: phẩm Vua - Tỷ Kheo)
+ Bốn loại biểu tượng
a) Biểu tượng của các vật bên ngoài ... các vật ở cõi trần.
b) Biểu tượng về bản chất tình cảm ... các sự vật ở cõi cảm dục, các tranh ảnh.
c) Biểu tượng học về số ............. Hạ trí. Con người dùng chính mình để tính.
d) Biểu tượng học hình học ... biểu tượng học trừu tượng, thượng trí. (LVLCK, 1140)
+ Chín Pháp Giới chúng sanh: Trong số các chúng sanh tại chín pháp giới: Hàng (1)Bồ-tát, (2) Duyên-giác,(3) Thanh-văn, (4) trời, (5) a-tu-la, (6) người, (7) súc sanh, (8) quỷ đói, (9) địa ngục), có chúng sanh thông minh và có chúng sanh ngu si. Chỉ riêng (10) Phật, vì có trí huệ đại viên kính nên hoàn toàn là thông minh và không có ngu si vô minh. (Xem thêm: Chín Pháp Giới chúng sanh đều điên đảo)
+ Các Giai Vị: Chư Phật được gọi là Diệu giác, và chư Bồ-tát được gọi là Đẳng giác; Bồ-tát cũng có đủ năng lực đạt đến Diệu giác. Có năm mươi lăm giai vị[52] từ Thanh văn, Bồ-tát thẳng đến quả vị Diệu giác. Năm mươi lăm giai vị sẽ được giảng giải trong phần sau của Kinh văn.
+ Các Quả vị và Hàng thừa: Thanh Văn là tiểu thừa. Bích Chi Phật là trung thừa. Bồ Tát là đại thừa/
"Không có vô minh, cũng không tận hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết".
Đây là thuyết về lý mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên này là tu theo thừa Duyên Giác. Có mười hai loại duyên làm trợ duyên, tức trợ giúp con người sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh. Các ngài Duyên Giác do tu pháp mười hai nhân duyên mà hiểu rõ bao đạo lý nhân sanh, khai ngộ, chứng được quả Bích Chi Phật. Đó gọi là trung thừa. Thanh Văn là tiểu thừa. Bích Chi Phật là trung thừa. Bồ Tát là đại thừa.(Nguồn: Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh -2- HT Tuyên Hóa giảng)
* Năm mươi hai Bồ-tát ở đây biểu tượng cho thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác, diệu giác – Năm mươi hai giai vị tu chứng của hàng Bồ-tát. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN, Q.5)
+ Hàng Hữu lậu: Trích Đức Phật giảng cho ngài A Nan trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật trả lời: Cũng là giúp cho hàng hữu lậu trong tương lai chứng được quả vị bồ-đề.
HT Tuyên Hóa giảng:
“Hàng hữu lậu trong tương lai” bao gồm cả chúng ta, những người đang ngồi học trong pháp hội nầy. Chúng ta bây giờ chính là “Hàng hữu lậu trong tương lai” được đề cập lúc ấy. Ai cũng phải trải qua quá trình “hữu lậu” trước khi được công nhận là chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán. “Hữu lậu” có nghĩa là những điều sai lầm. Chẳng hạn, nếu có ai thích uống rượu, người ấy được gọi là tửu lậu, nếu có ai thích hút thuốc, người ấy được gọi là yên lậu, nếu có ai thích ăn ngon, người ấy được gọi là thực lậu, nếu có ai thích mặc đẹp, người ấy được gọi là y lậu. Nếu những ví dụ nầy chưa được rõ ràng, tôi sẽ nói theo cách khác. Nói chung, bất luận quý vị thích cái gì nhất thì đó gọi là lậu.
Quý vị sẽ có ý kiến: “Tôi thích ngồi thiền nhất, nên được gọi là thiền lậu chăng?”
Điều ấy khác hẳn. Thiền định giúp quý vị hướng thượng. Khi tôi nói đến cái gì quý vị thích nhất, đó là những thứ gì làm quý vị chìm đắm. Nếu quý vị thích những thứ khiến mình bị chìm đắm, thì đó gọi là lậu.
Hữu lậu không chỉ có nghĩa là những việc quý vị đã làm trong quá khứ. Nếu có một vọng niệm cứ khuấy động trong tâm, quý vị nghĩ rằng “ta vốn đã có sai lầm như vậy, nay ta đã thay đổi, nhưng ta vẫn nghĩ về nó và muốn tái phạm lại.” Đó là một ý tưởng hữu lậu. Nên nó thật là mãnh liệt. Lúc ấy quý vị chỉ biết để mặc cho vọng niệm khuấy động tâm mình, và quý vị sẽ bị chìm đắm. Còn nếu tâm quý vị bất động, thì quý vị sẽ được thăng hoa.
Quả vị thứ nhất, thứ hai, và thứ ba của hàng A-la-hán chưa được gọi là vô lậu, khi chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán rồi mới được gọi là vô lậu.
Làm sao để chứng được quả vị bồ-đề? Quý vị cần phải đạt được vô lậu. Nếu quý vị còn hữu lậu, thì không thể nào mong chứng được quả vị bồ-đề. Quý vị có muốn thử chẳng? Quý vị đã là kẻ hữu lậu vì quý vị đã thử từ vô thuỷ đến nay rồi. Thế nên đừng tiếp tục mê mờ nữa. Đừng hành xử như thể chưa từng bao giờ nghe tôi giảng, rồi cho rằng: “Có lẽ Sư phụ chẳng đề cập đến sai trái của mình. Ở đây có rất nhiều người nên chắc chắn sư phụ nói về một người nào đó. Lỗi lầm nhỏ nhặt của mình đâu có vấn đề gì nghiêm trọng. Ta còn yêu thích thói quen ấy và chưa muốn từ bỏ nó. Sao vậy? Vì sư phụ chưa đề cập đến mình. Có lẽ sư phụ nói đến người nào khác. "Nhưng quý vị không nên tự mình làm trò ngu xuẩn, vì quý vị sẽ đánh mất cơ hội thành Phật. Từ vô thuỷ đến nay, quý vị đã trôi lăn sinh tử trong cõi ta-bà nầy, sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, lang thang mãi không thấy lối quay về. Thật là điên đảo. Nay quý vị đã gặp được Phật pháp, quý vị nên nhanh chóng quay đầu, dũng mãnh và tinh tấn thức tỉnh. Đừng tiếp tục rong ruổi lang thang mà quên đường về. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Hàng Tiểu thừa: Đối với Tiểu thừa, sơ quả a-la-hán được xem như là dự vào bậc Thánh rồi nhưng với bồ-tát thừa thì chưa. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần chánh văn)
Hàng nhị thừa: Xe cừu và xe nai là dụ cho hàng Nhị thừa/ A La Hán. Xe trâu là dụ cho hàng Bồ-tát Đại thừa. Xe trâu trắng lớn là dụ cho Phật thừa, có thể chuyên chở mọi chúng sinh vượt qua dòng chảy phiền não, từ bờ sinh tử bên nầy sang bờ niết-bàn bên kia.
Quả vị Hàng A La Hán: Sơ quả - Nhị Quả - Tam quả hữu lậu chưa giải thoát. Quả vị Tứ quả - Vô lậu, giải thoát. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 Chương II)
+ Hỏi: Quả vị La Hán và Bồ Tát khác nhau ra sao ?
Đáp: "La Hán và "Bồ Tát" đều là những tên gọi, bởi do trí huệ con người không giống nhau mà ra.
Bồ Tát thì muốn làm lợi ích cho kẻ khác, còn La Hán thì chỉ tu trì cho riêng mình; song đó chẳng qua chỉ là một giai đoạn của con đường tu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Nghệ thuật bố thí - Ruộng phước điền quan trọng:
Lại có nghiệp ban đầu vui sau khổ.
Ví như có chúng sinh được người khuyên hoan hỷ thực hành bố trí, tâm bố thí không keo kiệt, nhưng sau lại hối hận. Do nhân duyên đó sinh ở loài người, trước tuy giàu vui, sau lại nghèo khổ.
Lại có nghiệp ban đầu khổ sau vui.
Ví như có chúng sinh được người khuyên bảo cố gắng bố thí chút ít, bố thí rồi tâm hoan hỷ không hối tiếc. Do nhân duyên đó, sinh ra ở nhân gian ban đầu nghèo khổ, sau lại giàu vui. Đó gọi là ban đầu khổ sau vui.
Lại có nghiệp ban đầu khổ sau khổ.
Ví như có chúng sinh xa lìa thiện tri thức, không khuyên bảo người bố thí, cho đến chẳng hay thực hành một chút bố thí. Do nhân duyên ấy, sinh ở nhân gian ban đầu thời nghèo khổ, sau cũng nghèo khổ.
Lại có nghiệp ban đầu vui sau vui.
Ví như có chúng sinh gần thiện tri thức khuyên dạy thực hành bố thí liền sinh hoan hỷ, mãi tu hạnh bố thí. Do nhân duyên đó, sinh ở nhân gian ban đầu giàu vui, sau cũng giàu vui.
Lại có nghiệp nghèo mà vui thích bố thí.
Ví như có chúng sinh trước từng làm việc bố thí mà chẳng gặp phước điền (Phật, Pháp, Tăng), sau đó lưu chuyển trong sinh tử, sinh vào loài người, do chẳng gặp phước điền nên quả báo nhỏ hẹp, hoặc được hoặc mất, do xưa kia từng tập bố thí nên tuy ở nơi nghèo cùng mà thích thực hành bố thí.
Lại có nghiệp giàu mà tham lam, bỏn xẻn.
Ví như có chúng sinh chưa từng bố thí, gặp thiện tri thức tạm thực hành một lần bố thí vào được phước điền tốt, do phước điền thù thắng nên tài sản đầy đủ, trước chẳng từng tập nên tuy giàu mà xan tham.
Lại có nghiệp giàu mà hay bố thí.
Ví như có chúng sinh gặp thiện tri thức, phần nhiều tu hạnh bố thí, lại gặp phước điền tốt. Do nhân duyên đó, giàu to nhiều của cải mà thích thực hành bố thí.
Lại có nghiệp nghèo mà tham lam, bỏn xẻn.
Ví như có chúng sinh xa lìa tri thức, không khuyên dạy người mà chính mình cũng chẳng thực hành bố thí. Do nhân duyên đó, sinh nơi bần cùng mà lại tham lam, bỏn xẻn. (Nguồn: Phật nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt)
+ Bố thí thanh tịnh: 383. LOẠI BỐ THÌ NÀO ĐƯỢC THANH TINH
1) Thế nào gọi là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh, không phải do người thọ nhận?
Là thí chủ thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’.
Còn người thọ nhận thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’.
2) Thế nào gọi là loại bố thí do người thọ nhận thanh tịnh, không phải do thí chủ?
Là thí chủ thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo.
Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’. Còn người thọ nhận thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’.
3) Thế nào gọi là loại bố thí không phải do thí chủ thanh tịnh, cũng không phải do người thọ nhận?
Là thí chủ thì không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo.
Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’. Và người thọ nhận cũng không tinh tấn, tu hành ác pháp, không thấy có đời sau, không thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Không có sự bố thí, không có quả báo của sự bố thí’.
4) Thế nào gọi là loại bố thí do thí chủ thanh tịnh và người thọ nhận cũng vậy?
Là thí chủ thì tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’. Và người thọ nhận cũng tinh tấn, tu hành diệu pháp, thấy có đời sau, thấy có quả báo. Do thấy như vậy nên nói như vậy, rằng ‘Có sự bố thí, có quả báo của sự bố thí’. (Trung A Hàm, Kinh Cù-đàm-di, Phẩm 14, số 180)
51. BỐ THÍ TỐI THƯỢNG
Ta không thấy một người nào mà bố thí cho vị ấy thì sự bố thí này không gì vượt qua, tối thượng trên cả sự bố thí cho chư thiên, thế gian, sa-môn, bà-la-môn. Hành thí này mới đích thật là thí, được quả báo lớn, được công đức lớn, tiếng đồn vang khắp, được pháp vị cam lồ. Nghĩa là bố thí đến Như Lai Chí chơn, Đẳng chánh giác.
Nên biết, đó là bố thí tối thượng trong sự bố thí, không có gì vượt qua. Hành thí này mới đích thật là thí, được quả báo lớn, được công đức lớn. Nay Ta vì nhân duyên này mà nói ra như vậy: Chăm sóc bệnh nhân, tức là đã chăm sóc Ta không khác. Các ngươi lâu dài được phước lợi lớn. (Tăng Nhất A Hàm, Một Pháp, 11. Phẩm Nhập Đạo, Kinh số 4)
+ 1- Sự hào phóng siêu nhiên
Hào phóng là khả năng mở rộng lòng ta để hiến dâng tất cả cho kẻ khác. Đó là liều thuốc hoá giải mọi sự bủn xỉn và bần tiện, mọi tính toán, mưu đồ và tham lam. Giàu có không đơn thuần căn cứ trên phương diện vật chất và tiền bạc, nhưng còn dựa trên khía cạnh tinh thần, học thức và khả năng yêu thương. Vì thế, mỗi người trong chúng ta đều có một chút gì để cho, để hiến dâng cho kẻ khác. Bố thí Ba-la-mật không phải tùy thuộc vào số lượng vật chất hiến dâng mà chính là khả năng mà ta có thể đặt lòng ta vào hai bàn tay của kẻ khác. Khi càng ý thức được thế nào là ích kỷ thì ta lại càng biết mở rộng lòng ta trước những kẻ khổ đau. Có những người rất nghèo, và cũng không có vốn liếng học thức cao, nhưng họ có thể bật khóc trước cảnh khổ đau và cơ hàn của kẻ khác. Ngoài tình thương ra, họ không có gì để hiến dâng, nhưng chính đó mới thật là bố thí. (Nguồn: Lục Ba La mật)
+ Siêu Bố thí - Bồ Tát Bố thí Ba La Mật: Chi tiết xin mời xem trong Kinh Hoa Nghiêm. hàng Bồ tát tu bố thí Ba la mật không tiếc cả thân mạng của mình, sẵn sàng chết để chúng sanh khác được sống.
+ Bố Thí Ba La Mật: ... Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Đàn Ba la mật: Lìa ngã mà bố thí, lìa vì ngã mà bố thí, lìa thương yêu mà bố thí, lìa vô minh kiến mà bố thí, lià tướng bỉ ngã mà bố thí, lìa các suy tưởng mà bố thí, lìa hy vọng báo Đáp mà bố thí, lìa bỏn xẻn ganh ghét mà bố thí, tâm bình Đẳng như hư không mà bố thí. Đây là tám pháp mà Bồ Tát thành tựu thì có thể tịnh Đàn Ba la mật . Tám pháp ly nầy gọi là tịnh thí . Như hư không không có chỗ nào là chẳng Đến, Bồ Tát từ tâm bố thí cũng như vậy. Như hư không chẳng phải sắc chẳng thấy Được, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa nơi các sắc cũng như vậy. Như hư không chẳng cảm thọ khổ vui, Bồ Tát hành thí rời lìa các sự khổ vui cũng như vậy . Như hư không không có tưởng biết, Bồ Tát hành thí rời lìa các ý tưởng cũng như vậy . Như hư không là tướng vô vi, Bồ Tát hành thí vô vi vô tác cũng như vậy . Như hư không hư giả vô tướng, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa thức tưởng cũng như vậy . Như hư không tăng ích tất cả chúng sanh, Bồ Tát hành thí lợi ích tất cả chúng sanh cũng như vậy . Như hư không vô biên vô tận, Bồ Tát hành thí ở trong sanh tử không có cùng tận cũng như vậy. (Nguồn: Phẩm Hư Không Tạng Bồ Tát)
+ Ba-la-mật cũng là mật hạnh, đại hạnh của Bồ tát. Nếu dùng bố thí độ xan tham, trì giới độ phá giới.... thì còn hạn chế trong việc đối trị; ở đây, lục độ với tinh thần Ba-la-mật có sự hài hòa giữa trí tuệ, từ bi và hùng lực. Bằng trí tuệ, Bồ tát thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do mê muội không nhận ra, nên mãi tạo nghiệp và trầm luân trong sanh tử. Vì thế, Bồ tát phát khởi lòng từ bi, nguyện độ tận chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Có từ bi, các Ngài có đủ hùng lực, thi thiết mọi phương tiện quyền xảo tùy căn cơ giáo hóa chúng sinh, dù bao nghịch cảnh vẫn không thối chí.
Ba-la-mật còn có nghĩa là cứu cánh, rốt ráo. Mục đích cuối cùng của đời tu, cũng như bản hoài của chư Phật đối với tất cả chúng sanh, là nhận ra và hằng sống với bản tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Đó là Phật tánh, chân tâm, bản lai diện mục... Nhận ra bản tâm là chánh nhân thành Phật, hằng sống trọn vẹn với bản tâm là viên mãn Phật quả.
1. Bố thí Ba-la-mật
Hiểu theo sự, bố thí là chia sẻ, ban cho, cung cấp; gồm 3 loại: tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí là bố thí tài sản vật chất (ngoại tài) hoặc công lao, thân mạng của chính mình (nội tài). Pháp thí là dùng lời khuyên răn về đạo đức làm người, khiến ngưới bỏ ác hướng thiện, hoặc dùng chánh pháp hướng dẫn người tu hành để được giác ngộ giải thoát. Tài thí giúp người đỡ phần khốn khó về thân trong một thời gian nhất định; trong khi tóm lược một pháp yếu, con người có thể áp dụng suốt đời tu, nên pháp thí có thể mang đến sự bình ổn nội tâm trong thời gian lâu dài. Người bố thí tài chỉ có một khả năng nào đó để đáp ứng một phần nhu cầu của người nhận; còn người giảng được một đoạn kinh hay, thì dù số người nghe đông bao nhiêu cũng đều có phần lợi lạc. Lại nữa, tài thí chỉ có giá trị nhất thời, trong lúc pháp thí giúp vĩnh thoát sinh tử nên giá trị vô hạn. Như vậy, so với tài thí thì pháp thí thù thắng hơn rất nhiều, nhưng người bố thí phải có trình độ về đạo học và biết cách thu phục nhân tâm.
Vô úy thí là giúp người bớt sợ hãi bằng lời nói hay việc làm. Từ những điều sợ hãi nhỏ nhặt như sợ côn trùng, sợ bóng đen... Đến những nỗi khiếp đảm đối với thiên tai, chiến tranh, bịnh tật, chết chóc... những lời an ủi động viên hoặc hành động bảo bọc vỗ về sẽ làm con người cảm thấy bình an hơn. Thậm chí lúc sắp lâm chung, nếu được nghe kinh kệ, nghe niệm hồng danh chư Phật hoặc được hướng dẫn về những điều cần làm khi bước qua bên kia cửa tử, người sắp mất có thể yên tâm ra đi với một cận tử nghiệp thiện lành.
Hiểu theo lý, bố thí nghĩa là buông xả. Kinh Kim-Cang, Đức Phật dạy: “Bồ tát đối với pháp không nên có chỗ trụ mà làm việc bố thí... Nếu Bồ tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ bàn”. Khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi duyên mà tâm không dính mắc, không khởi niệm phân biệt phê phán, làm tất cả việc vì người khác mà không trụ tướng, đó là hoàn toàn buông xả phù hợp với ý nghĩa sâu xa của bố thí Ba-la-mật.
Như thế, bố thí Ba-la-mật vừa làm lợi cho mình vừa có ích cho người. Đối với người, đây là một nghệ thuật sống, giúp người bớt khốn khổ, bớt sợ hãi lo âu, đem đến niềm an ủi, sự ấm áp của tình người. Không chỉ có tài sản mới bố thí được, mà một lời nói hay, một việc làm nhỏ, một nụ cười vui… phát xuất từ tâm chân thành thiết tha đều mang nhiều lợi lạc. Mọi công đức đều xuất phát từ tâm ý, tâm càng thanh tịnh, càng bớt ngã chấp thì kết quả của việc làm càng lớn lao. Đối với mình, càng bố thí ta càng giảm được lòng tham, càng có niềm vui khi việc làm có ích cho cộng đồng. Tiến thêm một bước, thực hiện hạnh buông xả, ta có thể tự tại an nhiên trước mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc sống. Hình ảnh các thiền sư “đói đến thì ăn, mệt ngủ khò” và khi hết duyên, ngồi kiết già thị tịch trước các môn đệ, là những hình ảnh sáng ngời của sự tự tại đối với sinh và tử. (Nguồn: Lục độ Ba la mật)
+ 223. DÒNG DÕI THẤP
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ sanh vào dòng dõi đê tiện?
Nếu có kẻ nam hay người nữ nào kiêu ngạo, ngã mạn, người đáng cung kính thì không cung kính, đáng tôn trọng thì không tôn trọng, đáng quý thì không quý, đáng phụng thờ thì không phụng thờ, đáng cúng dường thì không cúng dường, đáng nhường lối thì không nhường lối, đáng nhường chỗ ngồi thì không nhường chỗ ngồi, đáng chấp tay hướng về lễ bái, thăm hỏi thì không chấp tay hướng về lễ bái, thăm hỏi. Người ấy thọ nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, sanh nhằm dòng dõi ti tiện. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ 224. DÒNG HỌ CAO QUÝ
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ sanh nhằm dòng dõi tôn quý? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào không có lòng kiêu ngạo, đại mạn, người đáng cung kính thì cung kính, đáng tôn trọng thì tôn trọng, đáng quý thì quý, đáng phụng thờ thì phụng thờ, đáng cúng dường thì cúng dường, đáng nhường lối thì nhường lối, đáng nhường chỗ thì nhường chỗ, đáng chấp tay hướng về lễ bái thăm hỏi thì chấp tay hướng về lễ bái thăm hỏi. Người ấy tạo nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian nhằm dòng dõi tôn quý. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170). Nguồn: mục 223 và 224 xem Tại đây
+ Dòng họ thấp hèn và Cao thượng:
- Dòng họ thấp hèn: Lại nữa, có mười nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo dòng họ thấp hèn. Những gì là mười?
Một là chẳng biết kính cha, hai là chẳng biết kính mẹ, ba là chẳng biết kính Sa môn, bốn là chẳng biết kính bà la môn, năm là đối với các bậc thầy bạn lớn tuổi chẳng quý kính, sáu là đối với các bậc sư trưởng chẳng phụng thờ cúng dường, bảy là thấy các bậc lớn tuổi chẳng đón tiếp mời ngồi, tám là đối với những lời dạy bảo của cha mẹ chẳng vâng theo, chín là đối với những lời dạy của các bậc Hiền Thanh cũng chẳng thọ giáo, mười là khinh miệt dòng họ thấp hèn. Do mười nghiệp trên bị quả báo sinh trong dòng họ thấp hèn.
- Dòng họ cao quý: Lại nữa, có mười nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo dòng họ cao thượng. Những gì là mười?
Một là khéo biết kính cha, hai là khéo biết kính mẹ, ba là khéo biết kính Sa môn, bốn là khéo biết kính Bà la môn, năm là cung kính và giúp đỡ các bậc tôn trưởng, sáu la phụng thờ Sư trưởng, bảy là gặp các bậc tôn trưởng tiếp đón mới ngồi, tám là tôn kính vâng theo những lời dạy bảo của cha mẹ, chín là đối với những lời dạy bảo của Hiền Thánh tôn kính thọ giáo, mười là chẳng khinh bỉ dòng họ thấp hèn. Do mười nghiệp ấy được quả báo dòng họ cao thượng. (Nguồn: Phật nói kinh nghiệp báo sai biệt)