QUÂN TỬ TẠO MỆNH: ĐOÁN GIẢI THIÊN CƠ - CHIẾN THẮNG THIÊN MỆNH - NIỀM HY VỌNG VINH QUANG

CÁC DỊCH VỤ TƯ VẤN CÁ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP
KHẨU HIỂU:
TÌM CÁT TRÁNH HUNG - CẢI MỆNH NHƯ Ý - NGŨ PHÚC LÂM MÔN

+ XEM SỐ MỆNH VÀ TV PHÁP CẢI MỆNH CÁT TƯỜNG - VUN BỒI HY VỌNG: Xem tại đây

+ MỞ LỚP HỌC DỰ ĐOÁN TỨ TRỤ VÀ QUẺ DỊCH THƯỜNG XUYÊN: Xem tại đây

+ PHÁP TU PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ TOÀN DIỆN - THÀNH BẬC THIÊN TÀI. Xem tại đây

+ NHẬN TƯ VẤN THIẾT KẾ THEO PHONG THỦY VĂN PHÒNG VÀ NHÀ Ở HỢP MỆNH VẬN.

+ MỞ LỚP TU "THIỀN TRÀ" VÀ TU THIỀN LẬP HẠNH GIÚP XA LÌA TÀ DỤC THƯỜNG XUYÊN

+ HỘI QUÁN CAFE PHONG THỦY: HỎI - ĐÁP VỀ BỒI CÁT TRÁNH HUNG - GIẦU CÓ AN KHANG - XA LÌA TÀ DỤC - PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ .... 

* Dịch vụ và Hỏi - Đáp tại số 301 Minh Khai, tầng 4 tòa nhà TTTM Thanh Ngọc, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh: Xem tại đây

* TƯ VẤN MIỄN PHÍ vào Sáng thứ bảy hàng tuần, kính xin liên hệ trước để chúng tôi tiếp đón quý khách được chu đáo!

 Kính chúc quí vị luôn bình an, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý - Niềm hy vọng vinh quang!

+ Kính xin mời đọc kỹ: Hướng dẫn Dịch vụ

Thư Về Tham Thiền Huyền Môn [Phần cuối]

THƯ VỀ THAM THIỀN HUYỀN MÔN

Biên soạn
ALICE A. BAILEY
Bản dịch

TRÂN CHÂU
(Sách tham khảo)

"Sách Minh Triết Mới rất khó dịch, các bản dịch có thể khác nhau, đề nghị xem thêm: Bản tiếng Anh"

TIẾP - PHẦN CUỐI

+ GIỚI THIỂU VỀ CHÂN SƯ D.K VÀ BẢN QUYỀN SÁCH: Mời xem tại đây

Ngày 19-8-1920.
Các hình thức thần chú kết hợp với lửa.
Có lẽ nên bàn đôi điều về vai trò của lửa trong cơ tiến hóa và trên các ngành liên quan đến lửa trong thái dương hệ chúng ta. Tôi đặc biệt nhấn mạnh điều này bởi vì vào thiền là chúng ta đi vào lĩnh vực của lửa, và vì vấn đề này tối quan trọng. Lửa đóng vai trò quan trọng trong năm ngành nêu dưới đây. Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sánglưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linhtinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêngtiềm tàng trong mỗi người. Ngọn lửa này phân biệt Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta với các vị Thượng Đế khác, và đây chính là tổng kết tất cả các đặc tính của Ngài. “Thượng Đế của chúng ta Lửa đang thiêu hủy.
Tất cả những phân biệt này về lửa, thực tế là những biến phân của cái duy nhất. Trong căn bản tất cả đều như nhau dù khi biểu hiện lại khác nhau. Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền.
1. Những loại lửa sống động giữ cho sự điều hòa nội tại của con người (hệ thống tiểu vũ trụ) biểu hiện đầy đủ. Khi sự cháy bên trong này chấm dứt thì sự chết xảy đến, và hệ thống vật chất hồng trần bên ngoài sẽ tan biến. Đại vũ trụ cũng vậy. Giống như mặt trờitâm của thái dương hệ chúng ta, trái tim là tiêu điểm cho sức nóng của tiểu vũ trụ. Tương tự, quả đất cũng được làm sinh động bằng chính sức nóng đó và trong dãy địa cầu của chúng ta nó ở mức vật chất trọng trược nhất, với sức nóng của vật chất cao nhất. Cơ quan sinh dục cũng là trung tâm thứ yếu cho lửa nội tại trong đa số các trường hợp. Sự tương ứng này rất chính xác, mầu nhiệmthú vị.
2. Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô  hạn, [185] ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo. Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau.
3. Có thể dễ dàng chứng minh sự tương ứng với lửa của cõi trí. Vì công việc của các Hỏa Tinh Quân là ban rải tia lửa trí tuệ, đã được triển khai và tăng tiến cho đến đỗi người ta thấy ngọn lửa tri thức đang cháy sáng trong các dân tộc văn minh. Mọi năng lượng đều tập trung vào việc nuôi dưỡng tia trí tuệ đó, nhằm sử dụng nó cách nào lợi ích nhất.
4. Có thể biết được phần nào các hỏa tinh linh trong tiểu vũ trụ qua các hình tư tưởng mà người đủ khả năng có thể tạo nên và làm cho sống động. Người có sức suy tư mạnh mẽ tạo ra các hình tư tưởng này và làm sinh động bằng sự sống hay khả năng gia nhiệt của y, và chúng vẫn tồn tại chừng nào y còn năng lực làm sinh động chúng. Hiện nay sự tồn tại này không được lâu vì người ta còn hiểu rất ít về năng lực thực sự của tư tưởng. Trong đại chu kỳ thứ năm của dãy hành tinh này, chúng ta sẽ thấy sự phát triển tột đỉnh của nguyên khí thứ năm là trí tuệ. Sự tương ứng này về sau sẽ được hiểu nhiều hơn. Hiện nay mối liên hệ này tất nhiên là còn khó hiểu.
5. Tia lửa sống động ẩn tàng trong mỗi người cho thấy y có cùng bản tính với Đức Thái Dương Thượng Đế.
Như vậy, các bạn thấy rằng trong các hệ thống lớn, nhỏ đều có lửa. Ở đây, tôi chỉ tóm tắt cho các bạn về mục đích của lửa trong tiểu vũ trụ và những gì phải nhắm đến. Chúng ta có ba loại lửa:
1. Tia lửa thiêng sinh động.
2. Tia lửa trí tuệ.
3. Luồng hỏa hậu (kundalini), sự hòa lẫn nhị nguyên của sức nóng nội tại và dòng sinh lực prana. Nơi ẩn trú [186] của mãnh lực này là luân xa chót xương sống, và luân xa lá lách hằng bồi dưỡng sức nóng đó.
Khi cả ba loại lửa này – một của tứ hạ thể, một của tam nguyên và một của nguyên khí thứ năm – gặp nhau và hòa lẫn với nhau một cách thích hợp về mặt hình học, thì mỗi luân xa sẽ được sinh động đúng mức, mọi quyền năng sẽ tự biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết và cặn bã sẽ bị đốt sạch, và hành giả đạt đến mục tiêu. Tia lửa đã trở thành ngọn lửa, và ngọn lửa là thành phần của khối lửa Đại ngã đang làm sống động trọn cả vũ trụ khách quan.
Vì thế, có thể nói một cách hợp lý rằng ba loại thần chú này sẽ được kết hợp và hòa hợp bằng một câu thần chú khác. Thực tế là chúng ta có:
Các câu chú ảnh hưởng đến kundalini và khơi dậy luồng nội hỏa này một cách đúng đắn. Bằng năng lực rung động, các câu chú này làm ngọn lửa luân chuyển qua các luân xa theo diễn tiến tự nhiên và hình học của chúng. Một nhóm thần chú thứ yếu của loại này liên hệ đến luân xa lá lách, và sự kiểm soát các lưu chất sinh lực prana để giữ gìn sức khỏe, để làm sinh động, và ảnh hưởng đến lửa ở luân xa chót xương sống.
Các thần chú tác động vào vật chất của cõi trí, ở một trong hai lĩnh vực chính (trừu tượng và cụ thể) của cõi này và tác động ở đó theo hai cách. Một là tăng cường khả năng suy tư, vận dụng vật chất của cõi hạ trí. Hai là kích thích thể nguyên nhân, làm cho thể này mau trở thành một vận cụ của tâm thức và chuẩn bị cho nó cuối cùng chịu tan rã do lửa.
Các câu chú mang lại sự đáp ứng của Thượng Đế nội [187] tâm và đặc biệt tác động đến Chân nhân. Từ đó tạo sự rung động mạnh mẽ trong Tam nguyên, khiến cho mãnh lực từ Chân thần tuôn xuống thể nguyên nhân. Các câu thần chú này đều có thể được sử dụng riêng rẽ và có kết quả riêng biệt.
Có bảy đại thần chú, mỗi câu dùng cho một cung (khi Chân sư hay một nhân viên của Đ.Đ.C.G. sử dụng) sẽ kết hợp được cả ba hiệu quả kể trên. Chúng khơi dậy luồng hỏa hậu, tác động vào thể nguyên nhân trên cõi trí, và tạo sự rung động trong Tam nguyên để thực hiện sự nhất quán giữa các thể thấp, các thể cao và nguyên khí thứ năm. Điều này phản ánh những gì đã xảy ra khi các Hỏa Tinh quân đến. Nó đưa đến sự thống hợp toàn vẹn, và từ đó về sau con người biểu lộ rõ tình thương trong hành động, với sự trợ giúp của trí tuệ đã khai ngộ.
Trên đâybốn loại thần chú quan trọng nhất cho cuộc tiến hóa và phát triển cá nhân, mà những vị nào huấn luyện các môn sinh sắp điểm đạo đều hiểu rõ. Cho dù kẻ chưa chuẩn bị sẵn sàng có khám phá ra được chính các câu thần chú này thì công hiệu của chúng cũng rất ít. Vì sự sử dụng các câu thần chú này phải kèm theo năng lực do áp dụng Điểm đạo Thần trượng. Nhờ viên kim cương gắn trên đỉnh nên Thần trượng này tập trung được ba loại lửa, tương tự như chiếc kính hội tụ gom được ánh sáng mặt trời, để làm bùng lên một ngọn lửa.
Ở đây dù nói ít nhưng tôi đã trao cho các bạn nhiều hiểu biết. Vấn đề này còn rất cô đọng. Nó có ý nghĩa đặc biệt cho người nào đến gần Con đường Điểm đạo. Các bạn hãy suy nghĩ kỹ về các điều đã được trao truyền, vì khi yên lặng suy ngẫm điều đó trong tâm, ánh sáng có thể đến và ngọn lửa nội tại sẽ bùng cháy với sức nóng nhiều hơn.
Cũng có thể kể ra những loại thần chú khác nữa liên quan đến lửa. Có hai nhóm có thể vận dụng được nhờ sử dụng những âm thanh với nhịp điệu nhất định. [188]
Những hỏa tinh linh và các nhóm của chúng ở trong lòng đất, trên mặt đất, và trong không khí.
Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhấtmạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhìtinh linh của không khí.
Các câu chú để kêu gọi, điều khiển và giải tán các tinh linh này vốn rất thông dụng vào thời Atlantis. Những nguy hiểm đã nổi lên và đe dọa vùng đất này vì các tinh linh bị sử dụng một cách bừa bãi làm xáo trộn các công trình chính xác của Thiên cơ, làm phiền lòng các Đấng Hướng dẫn nhân loại, nên sự hiểu biết về các câu chú này bị thu hồi. Căn chủng Atlantis bị hủy diệtcác thủy tai, vì bị ngập lụt, vì bị nhận chìm. Nếu các bạn nhớ rằng nước là kẻ thù tự nhiên của lửa, và cả hai nhóm tinh linh này không có điểm nào kết hợp được ở giai đoạn này, thì các bạn mới có thể hiểu một điểm thú vị về các cuộc đại biến thời Atlantis.
Những câu chú kêu gọi các hỏa thần cũng được gìn giữ rất kỹ, không chỉ vì các nguy hiểm có thể xảy ra, mà do những trở ngại về thời gian khi các thiên thần này bị kêu gọi một cách vô tình và họ bị mãnh lực của thần chú cầm giữ, nên không làm phận sự cần thiết của họ được. Ngoài hai loại thần chú này, có nhiều loại thứ yếu, chỉ sử dụng đặc biệt với những nhóm tinh linh và thiên thần khác nhau. [189]
Chúng ta đã kể ra sáu loại thần chú kết hợp với lửa. Cũng có một vài loại nữa mà tôi có thể kể ra vắn tắt như sau:
Những loại thần chú thanh lọc, khơi dậy một loại lửa tinh luyện và cháy trên một cõi trong tam giới. Việc này được thực hiện nhờ hoạt động của các tinh linh (được các hỏa thần kiểm soát) và dưới sự hướng dẫn trực tiếp của một điểm đạo đồ hay đệ tử Chân sư, nhằm một mục đích thanh luyện đặc biệt nào đó. Mục đích này có thể là tẩy sạch một trong các thể của con người, thanh lọc một địa điểm, một ngôi nhà hay một đền thờ.
Các câu chú để kêu gọi lửa giáng xuống để truyền từ lực vào các bùa phép, vào các loại đá quí hay những thánh địa.
Các câu chú dùng để chữa bệnh, nhờ công dụng huyền bí của lửa.
Những câu chú được sử dụng bởi:
a. Đức Bàn cổ, vận dụng những gì cần thiết để chuyển di các lục địa, hay nhận chìm các lãnh thổ.
b. Đức Chưởng giáo, để kích thích ngọn lửa tiềm ẩn trong mỗi người.
c. Đức Văn minh Đại đế, khi Ngài làm việc với trí thông tuệ hay là nguyên khí thứ năm.
Hiện có tất cả các hình thức thần chú này và nhiều loại khác .... Muốn hoạch đắc các thần chú này thì bước đầu tiên là phải có khả năng thiền huyền môn. Vì không phải chỉ việc xướng lên các từ của thần chú là có thể đạt mục đích, mà phải định trí để hình dung ra các kết quả cần đạt. Điều này cũng phải kèm theo ý chí của người xướng đọc, để y chế ngự những kết quả đó. Các câu chú này sẽ thành nguy hiểm và vô ích, nếu không có sự quân bình trí tuệ tập trung của hành giả, cùng với khả năng điều khiển và làm sinh động của y. [190] [190]

Ngày 21-8-1920.
Giờ đây chúng ta bàn đến phần cuối của bức thư thứ sáu.
Sử dụng các hình thức thiền tập thể.
Để làm sáng tỏ, chúng ta hãy bàn phần này dưới ba đề mục:–
1. Sử dụng âm thanh trong hình thức thiền tập thể.
2. Sử dụng nhịp điệu trong hình thức thiền tập thể.
3. Những dịp đặc biệt sử dụng các hình thức thiền này.
. . . . . . Trong loạt thư này chúng ta đã xem xét khá đầy đủ về tham thiền cá nhân, và đã nhìn vấn đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tựu trung việc bàn luận chỉ đủ để tạo sự quan tâm nơi các bạn, khiến các bạn tinh tấn hơn, nghiên cứu kỹ hơn, và khảo xét sâu hơn. Chỉ những gì được hiểu tường tận bằng kinh nghiệm thực sự của tâm thức nội tại mới giúp ích hành giả được phần nào trên con đường phát triển huyền môn khó khăn này. Chỉ có lý thuyết và khái niệm tri thức thì không ích lợi gì cả. Chúng chỉ làm tăng thêm trách nhiệm. Chỉ khi nào những lý thuyết này được trắc nghiệm và do đó được biết là những sự kiện thực tế, và chỉ khi nào các khái niệm tri thức được đưa xuống và biểu lộ ở cõi trần trong kinh nghiệm thực hành thì người môn sinh mới có thể chỉ đường cho những người khác đang tìm Đạo và đưa tay trợ giúp kẻ đi sau. Khi nói: “Tôi nghe” là đã có ích và đáng khích lệ. Nếu nói thêm rằng “Tôi tin” thì càng bảo đảm hơn nữa. Nhưng nếu nói được một cách mạnh mẽ rằng “Tôi biết” thì đó mới là điều cần thiết trong những giờ phút đen tối nhất của thời kỳ mạt pháp này. Hiện nay con số những người hiểu biết hãy còn rất ít. Tuy nhiên, hiểu biết là điều hoàn toàn có thể được, và chỉ tùy theo sự chuyên cần, thành thực và khả năng của người môn sinh trên Đường Đạo có thể đứng vững vàng trong đau khổ. [191]
Đã có được khái niệm về những kết quả cần phải đạt, cùng những phương pháp cần sử dụng trong tham thiền cá nhân, và đã bàn rộng hơn về cách sử dụng các hình thức thiền cá nhân, giờ đây chúng ta hãy xét đến vấn đề trên bình diện tập thể.
Một số điều quan trọng nhất cần lưu ý trong việc sử dụng các phương thức thiền tập thể là các phương thức này đang thịnh hành ở khắp nơi, rất hiệu quả và cũng có thể rất nguy hiểm. Sự thờ cúng Thượng Đế một cách tập thể và việc kết hợp cử hành các nghi thức tôn giáo đã quá phổ biến trong sinh hoạt cộng đồng của mọi dân tộc, đến đỗi lý do tồn tại của nó và các kết quả đạt được thường hay bị bỏ qua. Mọi tôn giáo dù là Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo cho đến sự thờ cúng các thần vật một cách sai lạc của các giống dân thoái hóa nhất đều đã nhấn mạnh đến giá trị và hiệu quả của cố gắng tập thể để tiếp xúc với Thiêng liêng. Thế nào cũng đạt được một số kết quả, từ cảm giác thanh tĩnh và an lạc của người tham dự các nghi lễ bí nhiệm của Thiên Chúa giáo, cho đến sự múa may cuồng nhiệt của tín đồ một số giáo phái đạo Hồi, hay của giống người Zulu dốt nát nhất. Sự khác biệt là do khả năng của người lễ bái trong việc đồng hóa mãnh lực, gìn giữ và vận chuyển mãnh lực đó. Những điều này tùy theo trình độ tiến hóa của y, và do y có thể kiểm soát tình cảm và trí tuệ của mình đến mức nào.
Định đề đầu tiên cần nhớ khi xem xét việc sử dụng hình thức thiền tập thể là, khi sử dụng âm thanh và nhịp điệu, các hình thức này sẽ mở ra con đường thông thương hình phễu giữa những người tham dự và các Đấng Thông tuệ hay các Đấng Quyền lực mà họ muốn tiếp cận. Nhờ con đường thông thương này xuyên thấu từ cõi trần đến cõi tình cảm hay đến một vài cấp cao hơn của cõi trí, các Đấng Thông tuệ hay các Đấng Quyền lực có thể ban xuống ánh sáng khai ngộ hay một loại quyền năng, cho những ai tiến đến các Ngài bằng cách [192] đó. Con đường hình phễu này là phương tiện để tiếp xúc. Trọn cả tiến trình có tính thuần khoa học, dựa trên sự rung động và kiến thức động lực học. Nó tùy thuộc vào việc tạo ra khoảng chân không một cách đúng đắn, nhờ kiến thức huyền môn. Lời phát biểu huyền môn rằng “Thiên nhiên rất ghét sự trống không” là hoàn toàn đúng thực. Khi xướng lên chính xác những âm thanh nhất định, ta sẽ tạo được khoảng chân không hay hình phễu trống rỗng này giữa cái cao và cái thấp, và mãnh lực hay quyền năng là một dạng biểu hiện của năng lượng Fohat sẽ tuôn vào hình phễu này do tác động tất yếu của định luật, và xuyên qua đó để đến mục tiêu.
Những gì chúng ta gọi là hắc thuật hay ma thuật đều phần lớn dựa vào chính sự lạm dụng kiến thức này. Nhờ thỉnh cầu và những hình thức thiền, các Huynh đệ Hắc đạo (hay những người thông đồng với cái mà do thiếu hiểu biết nên người ta gọi là những quyền lực của ma quỉ) tiếp xúc được với sức mạnh của các vị Hắc đạo bản lĩnh cao cường. Vì thế, họ gây ra nhiều sự việc ở cõi trần, bắt nguồn từ các hang động bí mật, tối tăm của phe ác vũ trụ, ẩn trong thái dương hệ của chúng ta. Tương tự, chúng ta cũng có thể tiếp xúc với các mãnh lực còn vĩ đại hơn nữa của ánh sáng giác ngộ và chí thiện, để đẩy nhanh cơ tiến hóa.
Sử dụng âm thanh trong các hình thức thiền tập thể.
Giờ đây chúng ta hãy đặc biệt xét đến khía cạnh âm thanh của vấn đề này. Khi nghiên cứu về Thánh ngữ và cách sử dụng Thánh ngữ, chúng ta thấy có ba hiệu quả, hủy hoại, kiến tạo và cá nhân, hoặc (xin tạm gọi) là tác động trực tiếp để kích thích các luân xa của cơ thể. Chúng ta có thể thấy được ba hiệu quả này khi sử dụng âm thanh trong một tập thể đông người. Để rõ hơn, chúng ta có thể kể thêm hiệu quả thứ tư là việc tạo một đường thông thương hình phễu. Thực ra hiệu quả thứ tư này là tổng hợp các hiệu quả kia, vì khi tạo ra con đường thông thương hình phễu thì các điều chỉnh [193] vật chất trong tam giới phải được thực hiện. Các điều chỉnh này trước hết giúp tiêu hủy loại vật chất gây trở ngại, rồi sau đó mới kiến tạo con đường thông thương hình phễu. Việc này được thực hiện rất chính xác bằng cách sử dụng các luân xa. Điểm sau cùng này thật cơ bản và đáng quan tâm, vì nó giữ bí quyết về cách sử dụng mạnh mẽ nhất của âm thanh. Cách sử dụng này là làm âm thanh nổi lên trong vật chất cõi trí, nhờ một trong các luân xa chính. Những hiệu quả đạt được do một nhóm người có khả năng hoạt động trên cõi trí, và đồng thời sử dụng được một trong các luân xa chính (hoặc toàn bộ luân xa đầu, hay một trong các luân xa chính khác kết hợp với phần tương ứng trong luân xa đầu) có thể mạnh mẽ không thể tưởng. Thật là điều tốt khi nhân loại chưa có được quyền năng này. Chỉ khi động lực nội tâm thuần khiết được kết hợp với sự bền lòng tìm kiếm hạnh phúc cho mọi người một cách vô kỷ, thì quyền năng này mới được phép phổ biến lại cho thế gian. Hiện nay, thực tế chưa thể có đủ số người có cùng một trình độ, trong cùng một giai đoạn trên thang tiến hóa, có thể sử dụng cùng một luân xa và ứng đáp được với rung động của cùng một cung để họ kết hợp nhau cùng xướng lên một âm điệu hay một câu thần chú. Họ cũng phải được thúc đẩy bởi lòng bác ái thuần khiết và cùng làm việc một cách thông minh để nâng cao tinh thần của tất cả mọi người.
Một phần quyền năng của Đ.Đ.C.G. là do các Ngài có khả năng làm được chính điều này. Khi cuộc tiến hóa ngày càng cao, và vấn đề được hiểu tường tận hơn, thì các nhóm thiền sẽ thay đổi tình trạng của họ hiện nay. Từ một nhóm người chí nguyện đang tha thiết tìm ánh sáng khai ngộ, họ sẽ trở thành nhóm người phụng sự cộng tác một cách xây dựng và thông minh, để đạt những mục tiêu nhất định. Trong Thánh kinh Thiên Chúa giáo, ta thấy có một phần của câu chuyện từ thời Atlantis truyền lại. Vào thời đó, việc sử dụng âm thanh ở [194] cõi trần và cõi tình cảm đều được mọi người hiểu biết và thực hành, phần nhiều dùng cho những mục tiêu ích kỷ. Chúng ta đọc thấy rằng, sau khi dân chúng tuần hành nhịp nhàng quanh thành Jericho, thì tiếng kèn trỗi lên một số lần nhất định làm cho các bức tường thành sụp đổ. Điều này đã được thực hiện do các vị lãnh đạo dân chúng có kiến thức huyền môn. Họ thành thạo khoa học âm thanh, đã nghiên cứu các hiệu quả hủy hoại và kiến tạo của âm thanh, nên biết áp dụng khoa học này đúng lúc để đạt mục tiêu mong muốn.
Các âm thanh này có thể được chia thành ba nhóm:–
Việc đồng loạt xướng lên Thánh ngữ.
Đây là một trong những phương pháp thông thường nhất và là cách trực tiếp nhất để tạo ra con đường hình phễu cho việc chuyển di năng lượng. Như đã được chứng tỏ nhiều lần, phương cách này rất có công hiệu trong trường hợp cá nhân, nên việc xướng lên đồng loạt chắc chắn sẽ có hiệu quả phi thường, và thậm chí còn mãnh liệt đến mức nguy hiểm. Chính vì cách sử dụng Thánh ngữ này đã bị thất truyền mà hiệu năng của tất cả các tôn giáo công truyền hiện nay đã bị sa sút và hạn chế. Thế nhưng người ta cố ý làm thất truyền vì những hiểm nguy xảy ra cho nhân loại ở mức tiến hóa còn thấp kém. Khi việc sử dụng Thánh ngữ được phục hồi cho tập thể, và khi các nhóm dự lễ có thể xướng Thánh ngữ đúng giọng và đúng nhịp thì mãnh lực từ trên tuôn xuống (phẩm tính của mãnh lực này tùy theo âm giai và âm điệu) sẽ đến mức sự sinh động của tiểu vũ trụ (những người dự nhóm) ảnh hưởng đến các vùng và môi trường chung quanh, và tạo sự kích thích tương ứng trong mọi giới của thiên nhiên. Vì giới nhân loại là gạch nối giữa các giới cao và thấp, và khi liên kết với giới thiên thần, nhân loại sẽ tạo môi trường gặp gỡ cho những mãnh lực của sự sống.
Những hiệu quả này trên các luân xa khác nhau cũng sẽ được cảm nhận rõ ở một cõi nào đó trong tam giới. Tôi xin [195] minh họa cho rõ nghĩa. Tuy nhiên, cần lưu ý các bạn rằng không nhất thiết phải theo thứ tự đặc biệt kể ra ở đây. Chưa đến lúc tiết lộ thông tin chính xác về vấn đề này.
Giả sử một nhóm người đang mong muốn liên kết với một kênh mãnh lực tác động qua các tình cảm để kích thích nguyện vọng tinh thần và tình thương cao cả hơn. Họ cùng đứng yên lặng cho đến khi vị trưởng nhóm ra hiệu, mỗi người trong nhóm sẽ thận trọng thu tâm thức mình vào luân xa tim, và từ luân xa này (giữ vững tâm thức ở đó) y sẽ xướng lên Thánh ngữ theo cao độ âm khóa mà đa số ứng đáp. Âm khóa này sẽ được trưởng nhóm xác định bằng cách dùng nhãn thông xem xét nhanh hào quang của mọi người dự nhóm. Âm thanh này sẽ tạo được con đường hình phễu cần thiết, với kết quả tạm thời mở rất rộng chu vi thể tình cảm của các thành viên, và khơi động mạnh mẽ các luân xa tim của họ. Nhờ đó họ có thể tiến lên cao hơn và nhận được những ân huệ mà họ không thể có nếu thực hành riêng rẽ. Các bạn có thể tự nghĩ ra các điều kiện khác. Dùng khả năng tưởng tượng trong các vấn đề này thật rất quan trọng, tạo được sự kết hợp khả năng này và khả năng tương ứng cao hơn, là trực giác. Môn sinh hành thiền phải học cách tưởng tượng nhiều hơn nữa.
Việc kết hợp xướng lên một số câu thần chú sẽ nhằm những mục đích đặc biệt như là:
a. Thanh tẩy một thành phố.
b. Truyền từ lực cho các vùng đất được dùng làm những trung tâm chữa bệnh. [196]
c. Khai thông trí tuệ của nhóm, để họ có thể nhận được ánh sáng khai ngộ cao siêu.
d. Chữa bệnh cho một nhóm bệnh nhân.
e. Chế ngự những sức mạnh của thiên nhiên để có thể tạo nên các sự kiện ở cõi trần.
f. Truyền thụ các Bí nhiệm Sơ cấp cho dân chúng.
Đúng như các bạn nghĩ, đoạn này có chứa tài liệu đủ để viết ra một quyển sách. Đây là một phần chánh thuật sẽ được phục hồi cho nhân loại, nhờ đó nhân loại sẽ đạt được nguồn vinh quang và một nền văn minh đã được ám chỉ từ thời Atlantis, và cũng là một trong những ước mơ của các nhà viễn tưởng trong nhân loại.
Việc xướng tập thể các thần chú hay linh từ để giao tiếp với các thần hay giới thiên thần. Đây là một loại thần chú đặc biệt, liên hệ đến ngành của Đức Văn minh Đại đế, về sau tôi sẽ bàn cụ thể . . . . . .

Ngày 22-8-1920.
Sử dụng Nhịp điệu Tập thể trong Tham thiền.
Nhịp điệu có thể được diễn tả là chuyển động nhịp nhàng, tự động đưa những ai sử dụng nó vào trong phạm vi một số mãnh lực của Thiên nhiên. Chính hành động có hướng dẫn ấy, được một nhóm người đồng loạt thực hiện, sẽ tạo nên sự chỉnh hợp và hiệu quả nhất định trên một thể nào đó hay tất cả các thể. Vì thế nhịp điệu có những mục đích:
a. Đưa một thể, hay một nhóm nhiều thể vào trong tầm tác động của một dòng mãnh lực.
b. Điều chỉnh vật chất trong một hay tất cả các thể của những thành viên trong nhóm. [197]
c. Hòa hợp hào quang của các cá nhân trong nhóm theo những thế cân bằng và các bố trí hình học nhất định, và khiến cho các hào quang này hình thành một hào quang thống nhất của nhóm, nhờ đó mãnh lực lưu chuyển nhịp nhàng theo những chiều hướng nhất định, cho một số mục tiêu cụ thể.
Qua các thời đại điều này đã được hiểu rõ, dù các phương pháp, các qui trình và kết quả không được thấu hiểu hay lập đồ biểu một cách khoa học, ngoại trừ trong một số tổ chức huyền bí hay nội môn. Trong các nghi thức gọi là của ngoại giáo ngày xưa giá trị của nhịp điệu đã được hiểu rõ, và ngay cả David người viết thánh ca của Do Thái cũng múa để tôn sùng Thượng Đế. Sự lắc lư cơ thể theo một nhịp điệu nhất định và xoay thể xác theo nhiều chiều hướng, nhịp nhàng với âm thanh của các nhạc khí, có một hiệu quả đặc biệt và rõ rệt vào phần vật chất của hai thể tinh anh hơn. Nhờ chuyển động nhịp nhàng này:
a. Mãnh lực tiếp xúc theo cách này được hướng (theo nhịp) đến một luân xa nào đó trong cơ thể.
b. Vật chất của hai thể tình cảm và hạ trí hoàn toàn được tái điều chỉnh và tái phối hợp, tạo ra một số hiệu quả có thể biểu lộ ở thể xác.
c. Ảnh hưởng đến sự chỉnh hợp của các thể, có thể làm chúng lệch lạc hay sai vị trí, hoặc có thể chỉnh hợp chúng một cách đúng đắn để tiếp xúc với thể nguyên nhân.
Đây là một trong những mục đích chính của chuyển động nhịp nhàng đích thực mà nhiều thế kỷ qua đã bị lệch lạc và kết quả là lý tưởng cao cả trở thành loại khiêu vũ tân thời hạ cấp hiện nay. Trong vũ điệu tân thời này, sự biểu lộ của chuyển động nhịp nhàng trở thành đồi bại nhất, và hiệu quả chính của nhịp điệu này là hướng mãnh lực tiếp xúc được qua khiêu vũ vào thể cảm dục và loại vật chất thấp nhất của thể [198] này. Điều đó gây nên một sự kích thích hết sức bất hảo vào các cơ quan sinh dục của xác thân. Công dụng đích thực của chuyển động nhịp nhàng có hiệu quả tạo sự chỉnh hợp của ba thể với thể nguyên nhân. Khi có chí nguyện mãnh liệt và ước muốn nồng nhiệt thì sự chỉnh hợp này khiến một dòng thần lực từ trên tuôn xuống. Điều này làm sinh động ba luân xa chính, và mang lại sự khai ngộ rõ rệt.
Khi toàn nhóm được thôi thúc bởi ước nguyện duy nhất cao cả như thế, và khi các hào quang của họ hòa hợp và tạo thành một đường truyền duy nhất cho thần lực phóng hạ thì hiệu quả được tăng cường mãnh liệt và tầm ảnh hưởng có thể bao trùm địa cầu. Một ví dụ cho điều này là lễ Wesak kỳ diệu đã được phổ biến ở Ấn Độ cho đến ngày nay. Bấy giờ Đ.Đ.C.G. tự trở thành một đường truyền năng lượng và ân huệ từ cấp độ của Đức Phật. Ngài đóng vai trò một tụ điểm cho năng lượng, và xuyên qua hào quang của Ngài năng lượng ấy tuôn xuống cho nhân loại theo đường truyền tạo bởi các vị Trưởng ngành, các Chân sư, các cấp điểm đạo đồ và các hàng đệ tử. Đường truyền này được hình thành nhờ sử dụng đồng thời các âm thanh và nhịp điệu. Bằng cách xướng lên một câu thần chú nhất định, bằng các chuyển động chậm rãi và nhịp nhàng kèm theo việc xướng chân ngôn này con đường thông thương hình phễu được hình thành và tiến lên đến tận vị thế mong muốn. Những dạng hình học được tạo nên bằng vật chất các cõi cao (là kết quả sự chuyển động theo hình học của các vị tụ hội tại trung tâm Hy-mã-lạp-sơn này) trở thành những con đường tuyệt diệu để cho dân chúng, các thiên thần hay các sinh linh khác, từ bất cứ cảnh giới nào cũng có thể tiến đến gần trung tâm của ân huệ. Với những người có thể quan sát cuộc lễ bằng nhãn thông thì các dạng hình học này thật xinh đẹp không thể tưởng, và vẻ mỹ lệ càng tăng thêm nhờ hào quang rực rỡ của các Đấng Cao cả đang tụ họp ở đó. [199]
Trong thời gian tới, giá trị của sự phối hợp âm nhạc với xướng tụng và chuyển động nhịp nhàng sẽ được thấu hiểu nhiều hơn, và sẽ được sử dụng để đạt những kết quả nhất định. Nhiều nhóm người sẽ cùng nhau nghiên cứu những hiệu quả sáng tạo hay hiệu năng tinh luyện của âm thanh có trình tự, phối hợp với các chuyển động và sự hợp nhất. Hiệu quả kiến tạo ở ba hạ thể sẽ được nghiên cứu bằng nhãn thông. Hiệu quả thải trừ vật chất của các thể sẽ đươc lập đồ biểu một cách khoa học, và những hiểu biết đã đạt sẽ được áp dụng vào việc cải thiện các thể này. Phẩm tính của mãnh lực tiếp xúc được, các hiệu quả tạo phấn khởi, làm sinh động và kích thích của mãnh lực sẽ được quan sát kỹ. Sẽ nghiên cứu các luân xa liên quan đến những dòng mãnh lực mà chúng tiếp xúc. Việc phát triển và tăng cường chuyển động quay của chúng sẽ được thực hiện một cách xác định.
Một khía cạnh khác của toàn bộ vấn đề này trở thành công tác phụng sự thế gian, và tuy là tùy thuộc vào tình trạng và các thành viên của nhóm nhưng chính yếu nó không được dùng cho những mục đích của nhóm. Các nhóm sẽ chuyên chú vào việc tiếp xúc với những loại thần lực nhất định của Thượng Đế, cho thần lực này xuyên qua vận hà hình phễu của nhóm và gởi thần lực này đi khắp thế gian để thực hiện những mục tiêu xây dựng nhất định. Công tác này liên kết chặt chẽ với công việc của các vị Ứng thân hay các Đấng phân phối thần lực, và phần lớn công việc sẽ do các Ngài chỉ đạo. Khi thời cơ đến các Ngài sẽ có thể sử dụng các nhóm này làm tiêu điểm cho hoạt động của các Ngài. Công việc của các Ngài hiện nay chính yếu là hội tụ trên cõi trí và phần nào trên cõi cảm dục. Khi bí quyết chỉnh hợp với thể nguyên nhân được nắm vững hơn, và khi các nhóm người ở cõi trần có thể hợp tác thực sự (hiện nay thì chưa thể được, vì phàm ngã của con người còn quá lớn) bấy giờ các vị Ứng thân có thể tiếp xúc thẳng với cõi hồng trần, để dùng nguồn thần lực vĩ đại mà tác động vào các giới tiến hóa ở đây. [200]
Các nhóm trị liệu sẽ hoạt động như sau. Vòng tròn các nhân viên (với bệnh nhân ở giữa) sẽ chuyên chú vào việc trị liệu bằng cách sử dụng các câu thần chú đã định sẵn, và khi theo đúng một số chuyển động họ sẽ làm cho mãnh lực tuôn xuống hội tụ vào bệnh nhân ở giữa. Nhờ sức kích thích của mãnh lực đó, nhờ tính tái tạo hay khả năng tiêu hủy và thải trừ của nó mà những gì gọi là phép lạ sẽ xảy ra hằng ngày. Vấn đề thật là rộng lớn nên chỉ có thể nói khái quát ở đây. Nhưng khi nhân loại tiến tới và khi bí mật của sự nhất quán được hiểu rõ hơn, khi nhiều người bước vào Con đường Dự bị, khi con số các điểm đạo đồ gia tăng hơn hiện nay, và khi đa số nhân loại được chỉnh hợp trực tiếp với thể Chân nhân của họ, người ta sẽ thấy việc áp dụng một cách khoa học các định luật của âm thanh và nhịp điệu.
Đồng thời các bạn cũng sẽ thấy sự lạm dụng các quyền năng này –sự lạm dụng sẽ báo trước một trong các trận chiến cuối cùng giữa các vị Chúa của Ánh sáng và các vị Chúa của Bóng tối. Biến cố này sẽ lớn lao vô cùng, và tai họa sẽ thật là kinh khủng, nhưng luôn luôn Ánh sáng sẽ chiếu rọi vào bóng tối. Đấng ngự trị trên tất cả, Đấng bao gồm tất cả trong vòng hào quang của Ngài biết rõ thời cơ và cũng biết cách sử dụng những gì có thể bảo vệ.
Những dịp đặc biệt để sử dụng các hình thức tham thiền tập thể này.
Sự kiện trọng đại trên hành tinh có liên quan trực tiếp đến nhân loại là lễ Wesak (lễ Phật hiện). Có một thời điểm còn lớn lao hơn nữa trong năm, khi một đường truyền trực tiếp được tạo lập để nối liền trái đất và Đấng Chúa tể tối cao, tức là Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. Điều này được thực hiện nhờ năng lực của một số câu thần chú và nỗ lực kết hợp của Đ.Đ.C.G. cùng các vị Thiên vương trên các cảnh giới. Các vị Thiên vương này được giới tiến hóa thiên [201] thần trợ lực, còn Đ.Đ.C.G. thì được sự trợ giúp của những người thuần thành trong nhân loại. Bấy giờ, các Ngài hội tụ qua các vị Chúa tể của các Cung đang biểu hiện, cũng như thông qua Đức Hành Tinh Thượng Đế của trái đất chúng ta. Ngày giờ của sự kiện này cũng chưa được công bố.
Trên ba con đường cận tiến chính yếu – của Đức Bàn cổ hay Đấng Cai trị, của Đức Di Lạc Bồ-tát hay Đức Chưởng giáo Thế gian và của Đức Đại Đế quân hay Đức Văn minh Đại đế – có những nhóm riêng của các Ngài. Các nhóm này chịu ảnh hưởng của một số câu thần chú và những linh từ nhất định, và hoạt động theo một số định luật tiết điệu. Tôi chỉ có thể đưa ra ở đây một lời gợi ý mà tôi nghĩ là các bạn sẽ thấy thú vị. Sắp đến lúc những ai đang hoạt động trong ngành của Đức Bàn cổ, đang điều hành các quốc gia, đang chú tâm vào chính quyền và chính trị, đang ở trong các quốc hội dân cử, đang ban hành luật lệ và sử dụng công lý, những người này sẽ khởi đầu công việc của họ bằng những đại lễ có tiết điệu. Nhờ nhịp điệu thống nhất và đồng loạt xướng lên các từ, họ sẽ tự tiếp xúc được với tâm thức của Đức Bàn cổ và với ngành quản trị vĩ đại của Ngài, để thực thi các kế hoạch của Ngài rõ rệt hơn và thể hiện các dự định của Ngài. Khi đã chỉnh hợp các thể và đã tạo được đường thông thương cần thiết, họ tiếp tục tiến hành công việc, sau khi đã đặt giữa họ một hoặc hai người đóng vai trò tụ điểm khai sáng, để những người này chuyên tâm tìm hiểu ý định của Đức Bàn cổ và các vị phụ tá của Ngài về vấn đề hiện hành.
Ở ngành của Đức Di Lạc Bồ-tát, phương cách tiến hành cũng tương tự như vậy, và đã được tổ chức sẵn. Vị chức sắc sẽ là tiêu điểm, và sau khi cả nhóm kết hợp hành lễ với nhịp điệu đúng đắn thì họ sẽ là trạm chuyển vận những gì nhận được từ các cõi cao. Nhưng ở đây có điểm rất quan trọng cần lưu ý: phần hành của vị chủ lễ bấy giờ sẽ không thuộc một nhóm người riêng biệt nào. Tất cả sẽ là những vị chủ tế, và [202] một người tín đồ thường cũng có thể giữ phần vụ ấy nếu được chọn thích hợp khi buổi lễ bắt đầu. Điều kiện duy nhất cần có là khả năng chỉnh hợp với Chân ngã và hợp tác với tất cả các thành viên khác trong cuộc lễ.
Trong ngành của Đức Văn minh Đại đế, vị Chúa của Văn minh và Văn hoá, vị cầm đầu con đường tiến hóa thứ ba, chúng ta cũng thấy có những hoạt động tương tự. Không có trường đại học hay học đường nào khai giảng mà không có nghi lễ chỉnh hợp. Lúc đó, giáo viên sẽ là con đường hội tụ kiến thức từ ngành chi phối các hoạt động của trí tuệ này. Sự kích thích thể trí của học sinh và sự tăng cường con đường thông thương giữa hạ trí và thượng trí sẽ được giúp đỡ rất nhiều theo cách này, và học sinh cũng sẽ được phát triển và tiếp xúc với trực giác. Những điều nói trên không thể bao gồm trọn cả vấn đề. Tôi chỉ nêu ra vài nét khái quát về những điều mà một ngày kia sẽ thành sự kiện thực tế ở cõi trần. Tư tưởng này truyền đạt nhiều vấn đề để xem xét, suy ngẫm và rất hữu ích cho người môn sinh nghiên cứu khôn ngoan. Bất cứ điều gì làm cho chân trời của y rộng mở và gia tăng tầm mắt của y đều rất tốt dù y có thể còn hiểu sai những sự kiện này, và còn thiếu khả năng hấp thu kiến thức.

[203] BỨC THƯ VII
SỬ DỤNG MÀU SẮC VÀ ÂM THANH
1. Màu sắc và vài lời bình giải.
2. Màu sắc và luật tương ứng.
3. Hiệu quả của màu sắc.
4. Ứng dụng của màu sắc và việc sử dụng màu sắc trong tương lai.
[204] BỨC THƯ VII
SỬ DỤNG MÀU SẮC VÀ ÂM THANH.
Ngày 27-8-1920.
Không có vấn đề là kẻ nào phạm luật sẽ bị luật tiêu diệt, còn kẻ nào tuân thủ định luật sẽ được sống nhờ định luật. Việc nghiên cứu huyền bí học đích thực là nghiên cứu về nguyên do và cách nào mà các hiện tượng xảy ra. Đó là việc tìm kiếm phương pháp để đạt kết quả, cũng như phân tích tỉ mỉ các sự kiện và các trường hợp để tìm ra những định luật quản trị chi phối chúng. Sỡ dĩ tôi nói lên các điểm lưu ý sơ khởi này với các bạn hôm nay, vì tôi thấy rõ những vấn đề đang chi phối tâm trí các bạn. Những vấn đề này có giá trị rất lớn nếu các bạn vẫn chuyên chú tìm câu giải đáp đúng đắn. Có những định luật nhất định quản trị đời sống của người đệ tử và đó cũng là những định luật chung cho toàn cuộc sống. Sự dị biệt là do người đệ tử nhận thức thiên lệch về mục đích của các định luật đó, lý do tồn tại của chúng và cách áp dụng chúng một cách hữu thức và đúng đắn vào các trường hợp xảy ra trong đời sống hằng ngày. Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử[205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ.
Vài nhận xét về màu sắc.
Trở lại với công việc, tối nay chúng ta phải xét đến vấn đề có ý nghĩa sâu xa và tế nhị, rất đáng quan tâm. Đó là việc sử dụng màu sắc và âm thanh trong tham thiền.
Như các bạn biết, chúng ta đã bàn nhiều về vấn đề âm thanh trong những bức thư trước, khi nghiên cứu việc sử dụng Thánh ngữ, các hình thức thiền và những câu thần chú. Khi nói rằng âm thanh là màu sắc và màu sắc là âm thanh, thì đó là sự thực hiển nhiên. Thực vậy, chủ đề tôi muốn các bạn chú ý không phải bàn đến âm thanh với tính cách là âm thanh, mà là các tác dụng của âm thanh về mặt màu sắc. Trong bức thư này, tôi đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh màu sắc và xin các bạn luôn luôn nhớ rằng tất cả các âm thanh đều tự biểu lộ bằng màu sắc.
Khi Thượng Đế phát ra Đại thánh ngữ vũ trụ cho thái dương hệ này thì ba dòng màu sắc chính bừng lên rồi hầu như đồng thời tách ra bốn dòng khác, để thành bảy dòng màu sắc cho vạn vật biểu hiện. Các màu đó là:–
1. Xanh (Blue).
2. Chàm (Indigo).
3. Xanh lục (Green).
4. Vàng (Yellow).
5. Vàng cam (Orange).
6. Đỏ (Red).
7. Tím (Violet). [206]
Không phải tôi vô ý mà đặt các màu sắc theo thứ tự này. Tôi để cho các bạn tự khám phá ra ý nghĩa chính xác.
Tôi muốn nhấn mạnh đến ý thứ hai:– Bảy dòng màu sắc này là sản phẩm của cuộc tham thiền của Thượng Đế. Ngài tham thiền, suy ngẫm, nhận thức bằng trí, tạo ra một thế giới lý tưởng và xây dựng nó bằng chất liệu của tư tưởng. Rồi sau đó, vũ trụ khách quan của chúng ta bỗng nhiên xuất hiện, chói lọi trong bảy màu mà màu xanh thẫm hay màu chàm là tông phụ tổng hợp. Vì thế, có thể nói vài điều về màu sắc:–
1. Màu sắc liên hệ đến tham thiền về thế giới khách quan, vì thế nó liên hệ đến hình thể.
2. Màu sắc là kết quả của âm thanh phát ra ở cao điểm của tham thiền.
3. Nếu hiểu một cách sáng suốt thì bảy màu này có ẩn khả năng của con người có thể làm giống như Thượng Đế và kiến tạo.
4. Màu sắc có những ảnh hưởng nhất định trên các thể khác nhau, và trên các cõi mà những thể này hoạt động. Nếu huyền bí gia hiểu được màu nào áp dụng cho cõi nào, và đâu là màu cơ bản của cõi đó, thì y đã nắm được bí mật nền tảng trong sự phát triển của tiểu vũ trụ. Y có thể tạo ra thể biểu hiện của mình nhờ chính các định luật mà Thượng Đế dùng để tạo ra thái dương hệ khách quan của Ngài. Đây là bí mật mà rốt cuộc sự tham thiền về các cung sẽ tiết lộ cho người môn sinh sáng suốt. Bốn điểm này làm nền tảng cho những điều tôi sẽ nói đến sau đây.
Các bạn không nên thắc mắc rằng những màu tôi vừa kể có gì tương phản với các màu H. P. B. đã kể hay không.[207] Các bạn sẽ thấy chúng không hề trái ngược nhau, nhưng cả hai chúng tôi đều dùng những màn che, và đều dùng những loại màn che mà người có mắt sẽ có thể thấy được. Một màn che không còn che án khi ta nhận thức được nó, và vì thế tôi không đưa ra chìa khóa ở đây. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra một vài ngụ ý:–
Trong các sách huyền môn, những màu bổ túc có thể được gọi bằng tên của nhau. Màu đỏ có thể gọi là xanh lục và vàng cam có thể gọi là xanh. Chìa khóa để giải thích chính xác các thuật ngữ dùng ở đây đều tùy theo cấp độ của đơn vị đang được bàn đến. Nếu nói về Chân nhân ta có thể dùng từ này thì nói về Phàm nhân ta có thể dùng một từ khác. Trong khi đó Chân thần hay bầu hào quang cao hơn có thể được mô tả một cách tổng hợp hay trong phạm vi của cung Chân thần.
Những màu của thượng và hạ trí đôi khi được nói đến trong phạm vi của cảnh giới chứ không theo phạm vi của cung liên hệ.
Màu xanh-chàm, có liên quan với nhau ở cấp vũ trụ, không những chỉ tương đồng mà có thể được dùng thay cho nhau với mục đích che giấu. Tôi xin nói rõ hơn:–
Trong công tác của các Hỏa Tinh quân kết hợp với hành tinh này người ta có thể nói đến các Ngài trong phạm vi bốn màu:–
a. Màu chàm, vì các Ngài cùng đường lối với Đức Bồ-tát, kết hợp với Cung Bác ái hay Minh triết. Đức Chúa tể Hoàn cầu là phản ánh trực tiếp của Ngôi hai.
b. Màu xanh, vì màu này kết hợp với màu chàm và có quan hệ với noãn hào quang. Giống như Đức Thái Dương Thượng Đế được gọi là “Đức Thượng Đế màu Xanh” (đúng ra là màu chàm), màu của người hoàn thiện và của hào quang qua đó y biểu hiện cũng chính yếu là màu xanh.
c. Màu vàng cam, bổ túc cho màu xanh và liên quan trực tiếp đến người có trí thông minh. Y là kẻ nắm giữ [208]nguyên khí thứ năm (manas) trong quan hệ với toàn thể phàm ngã.
d. Màu vàng, là màu bổ túc cho màu chàm, cũng là màu của bồ-đề và trên đường lối trực tiếp của Ngôi hai.
Tôi minh giải các điều trên để chứng tỏ cho các bạn thấy tính phức tạp của việc sử dụng các màn che. Ngoài ra, đối với những người có mắt thấy được thì ngay cả việc chọn lựa các màn che này cũng không tùy ý kiến cá nhân mà phải theo qui luật.
Thế nên các bạn thấy rõ tại sao người ta thường nhấn mạnh rằng khi bàn về các vấn đề nội môn thì hạ trí không giúp ích được gì cả. Chỉ người nào có nhãn quan cao đang phát triển mới hy vọng đạt được một mức độ phân biệt chính xác nào đó. Vì màu xanh lục trong hoạt động của Thiên nhiên là căn bản của phương diện bác ái, hay rung động màu chàm của thái dương hệ bác ái này, nên điều đó cũng có trên cõi trí. Tôi không được nói gì thêm mà ở đây chỉ đưa ra đề tài cho các bạn suy ngẫm. Màu vàng cam cũng giữ bí mật của các Chân ngã (Con của Trí tuệ), và khi nghiên cứu về ngọn lửa (ngay ở cấp ngoại môn nó cũng hòa hợp tất cả các màu) các bạn sẽ được soi sáng thêm.
Khi nghiên cứu về vấn đề màu sắc và âm thanh trong tham thiền, chúng ta hãy chia chủ đề rộng lớn này theo cách nào hợp lý nhất và xem xét vấn đề theo các mục sau đây:–
1. Kể ra các màu với vài nhận xét.
2. Màu sắc và Luật Tương ứng.
3. Hiệu quả của màu sắc:–
a. Đối với các thể của người môn sinh.
b. Đối với các nhóm và công tác tập thể.
c. Đối với môi trường chung quanh.
4. Ứng dụng của màu sắc:–
a. Trong tham thiền. [209]
b. Để chữa bệnh qua tham thiền.
c. Trong công tác xây dựng.
5. Công dụng của màu sắc trong tương lai.
Theo năm đề mục này chúng ta có thể tóm lược tất cả những điều cần nói hiện nay. Có lẽ các bạn sẽ thấy trong cơ bản những điều tôi nói cũng chẳng mới bao nhiêu, vì tôi không đưa ra điều nào ngoài những gì đã nói trong tác phẩm nền tảng của H. P. B.. Tuy nhiên, với cách trình bày mới mẻ hơn và việc tập hợp tài liệu theo một đề mục, các bạn có thể được khai ngộ với kiến thức được chỉnh đốn tốt hơn. Chúng ta sẽ bàn về năm phần này sau. Tối nay tôi chỉ thêm vài điểm vào những điều đã nói.
Các màu sắc biểu hiện ở cõi hồng trần thuộc cấp độ thô kệch nhất. Ngay cả những màu tinh tế nhất mà mắt thường có thể thấy được (ở cõi hồng trần) cũng cứng nhắc và thô sơ so với các màu sắc biểu lộ trên cõi tình cảm. Khi tiếp xúc với vật chất thanh bai hơn ở các cảnh giới khác, thì cứ mỗi lần chuyển tiếp, vẻ mỹ lệ, dịu dàng và phẩm tính tuyệt mỹ của các màu sắc khác nhau lại càng tăng. Khi đạt đến màu tổng hợp tối thượng thì sự mỹ lệ vượt cao hơn mọi quan niệm của con người.
Những màu sắc mà hiện chúng ta đang dùng trong cuộc tiến hóa của mình đều là các màu sắc của ánh sáng. Có một số màu là những gì còn sót lại của thái dương hệ trước, và đã bị chiếm lấy để dùng làm phương thức biểu lộ của sự bí mật mà vì thiếu hiểu biết nên chúng ta gọi là “điều ác vũ trụ.” Đó là những màu sắc thoái hoá, và là trung gian của mãnh lực Bàng môn. Người chí nguyện trên Con đường Ánh sáng không sử dụng các màu này. Đó là màu nâu, xám, màu tím bầm và màu xanh lục quái đản, có thể tìm thấy trong những nơi tối tăm của quả đất, trên cõi cảm dục và trên các cấp thấp của cõi trí. Đó là các màu tiêu cực. Âm điệu của chúng thấp độ hơn âm điệu của Thiên nhiên. Hiểu theo nghĩa nội môn thì [210] các màu đó là con cháu của bóng đêm. Chúng là căn bản của ảo cảm, của sự thất vọng, đồi trụy. Đệ tử của các Đấng Cao cả phải vô hiệu hoá chúng bằng cách chiếu rọi vào đó các màu sắc của ánh sáng.
6. Như đã nói trước đây, tổng hợp của tất cả các màu là cung tổng hợp màu chàm. Màu này ẩn trong tất cả, và hấp thu tất cả các màu khác. Nhưng trong ba cõi tiến hóa của con người, thì màu vàng cam của ngọn lửa soi rọi tất cả. Màu vàng cam này phát ra từ cõi thứ năm, ẩn trong nguyên khí thứ năm, và là hiệu quả của việc xướng lên câu chân ngôn huyền bí “Thượng Đế của chúng ta là Lửa đang thiêu hủy.” Các từ này áp dụng cho nguyên khí manas là lửa của sự thông tuệ hay lý trí mà các Hỏa Tinh quân đã truyền đạt. Nó kích thích và hướng dẫn cuộc sống của phàm nhân đang hoạt động. Đó là ánh sáng của lý trí dẫn dắt con người từ Phòng Học tập đến Phòng Minh triết. Ở phòng sau, các giới hạn của nó bị khám phá, và chính cái cấu trúc mà kiến thức đã xây dựng (là thể nguyên nhân hay là Ngôi đền của Vua Solomon) bị lửa thiêu hủy. Lửa này thiêu hủy cái nhà tù kỳ diệu mà con người đã xây dựng bao đời để giải phóng ánh sáng thiêng liêng bên trong. Bấy giờ hai loại lửa hợp nhất, cùng vươn lên cao và mất hút trong Ánh sáng của Tam nguyên.
Một số màu sắc đặc biệt thuộc về trường tiến hóa nhân loại; có những màu khác thuộc về giới thiên thần. Sự pha trộn và hòa hợp cuối cùng của các màu đó, rốt cuộc sẽ mang lại sự hoàn thiện. . . .
Ngày 29-8-1920.
1. Kể ra các màu sắc.
Tối nay, chúng ta đề cập đến điểm cần nghiên cứu đầu tiên về màu sắc.
Tôi sẽ đưa ra một vài nhận xét và trao cho các bạn một số dữ liệu, nhưng một lần nữa xin các bạn nhớ rằng tôi đang dùng các từ ngữ ngoại môn, và việc bàn thảo này chỉ có tính [211] cách gợi ý mà thôi. Chính việc sử dụng từ “Màu sắc” cũng cho thấy ý định này, bởi vì như các bạn đều rõ định nghĩa của từ này nói lên ý tưởng che giấu. Vì thế, màu sắc là “cái che giấu.” Nó chỉ là trung gian khách quan để nhờ đó mà sức mạnh bên trong tự truyền ra. Đó là sự phản ánh trên vật chất, loại ảnh hưởng phát xuất từ Thượng Đế và đã xuyên thấu đến phần trọng trược nhất trong thái dương hệ của Ngài. Chúng ta nhận biết được điều đó với tính cách là màu sắc. Vị Chân sư biết rằng đó là mãnh lực đã phân hóa, còn vị điểm đạo đồ cao cấp hơn thì biết đó là ánh sáng tối hậu, không bị phân hóa và phân chia.
Hôm qua, chúng ta đã kể ra các màu sắc theo một thứ tự nào đó. Tôi sẽ kể lại theo thứ tự đó, nhưng lần này để nhắc các bạn nhớ rằng Cung duy nhất mà tất cả các cung khác chỉ là cung phụ, có thể được xem là một vòng ánh sáng bảy màu. Các môn sinh quá thường hình dung bảy dải màu vạch xuống, xuyên qua năm cõi thấp cho đến khi chúng chạm đến cõi trần và bị hấp thu vào vật chất trọng trược. Sự thực không phải vậy. Bảy màu này được xem như một dải gồm bảy màu xoay tròn, di chuyển liên tục qua các cảnh giới để trở về nguồn xuất phát của chúng. . . . . . Bảy dải màu này phát ra từ Cung tổng hợp. Cung phụ màu chàm của Cung chính màu chàm là con đường ít trở ngại nhất để đi từ tâm của vật chất trọng trược nhất trở về nguồn. Các dải màu này hợp thành một vòng tuần hoàn, chuyển động theo các nhịp rung động khác nhau, đi xuyên qua các cõi và cứ thế mà lên xuống mãi. Điều tôi muốn đặc biệt nêu ra ở đây là bảy dải màu này không chuyển động theo cùng một tốc độ, và đây là điểm then chốt giải thích tính phức tạp của vấn đề. Một vài màu di chuyển với nhịp rung động mau hơn một số màu khác. Vì thế, khi chúng mang theo các Chân thần tương ứng [212] của chúng thì đó là lý do tại sao một số Chân nhân dường như tiến bộ nhanh hơn một số Chân nhân khác.
Các vòng nhuộm màu này không đi theo một con đường thẳng thông suốt, mà đan vào nhau một cách thật kỳ lạ. Chúng pha trộn với nhau, hấp thu lẫn nhau trong những chu kỳ đã định sẵn, tự hợp thành những nhóm ba hay nhóm năm, mà vẫn tiến tới mãi. Đây là cơ sở thực tế của mô hình đan chéo trên lưng con rắn minh triết. Ba đường màu sắc chính có thể xem như hình lưới mắt cáo ở trên da rắn, với bốn màu kia đan vào. Một ngày kia người môn sinh nghiên cứu về màu sắc và khoa Minh triết Thiêng liêng sẽ có thể biên soạn một biểu đồ lớn về bảy cảnh giới và con rắn minh triết bảy màu sẽ được đặt lên bảy cảnh giới đó. Nếu vẽ đúng tỉ lệ, ta sẽ thấy được nhiều kiểu sắp xếp hình học rất thú vị, khi những vòng tròn cắt ngang những mặt phẳng, và truyền đến thị giác một ấn tượng nào đó về tính phức tạp của vấn đề bảy cung . . .
Có lẽ thích hợp để nói ra đôi điều vắn tắt ở đây:–
Màu chàm đích thực là màu xanh của bầu trời trong một đêm không trăng. Nó là màu tột đỉnh, và khi tất cả mọi sự tổng hợp đã đạt được thì đêm thái dương sẽ đến. Vì thế, màu này tương ứng với những gì bầu trời ban đêm biểu lộ. Màu chàm có tính hấp thu.
Màu xanh lục là căn bản cho sự hoạt động của thiên nhiên. Đây là màu tổng hợp của thái dương hệ 1, và là nền tảng của thái dương hệ được biểu lộ hiện tại. Âm điệu của Thiên nhiên là màu xanh lục. Mỗi khi con người xem xét lớp áo trái đất đang mặc, là y tiếp xúc với một phần mãnh lực đã đến mức hoàn mãn trong thái dương hệ 1. Màu xanh lục có tính kích thích và chữa bệnh.
Ở đây cần lưu ý các bạn là chúng tôi chưa được phép tiết lộ ý nghĩa huyền bí của các màu này hoặc là nói chính xác về [213] thứ tự và ứng dụng của chúng. Những mối nguy hiểm quá lớn, vì trong sự thấu hiểu các định luật của màu sắc và trong kiến thức (ví dụ như) về màu nào là tượng trưng cho cung nào, có ẩn chứa quyền năng mà Chân sư vận dụng.
Vài nhận xét về màu sắc.
Chúng ta đã biết một số màu, và kể lại ở đây cũng tốt. Cung tổng hợp là màu chàm, hay là màu xanh thẫm. Đó là cung của Bác ái và Minh triết là cung nền tảng vĩ đại của thái dương hệ này, và là một trong các cung vũ trụ. Vũ trụ cung này, khi biểu hiện sẽ tự chia ra thành bảy cung phụ như sau:
1. Màu chàm . . . . . . . . . .và một màu chưa được tiết lộ.
2. Màu chàm-chàm . . . Cung phụ thứ hai Bác ái và Minh triết. Biểu lộ rõ rệt ở cõi đại niết-bàn (cõi của Chân thần), với biểu hiện chính là những Chân thần bác ái.
3. Màu chàm-xanh lục. . . . . . . Cung phụ thứ ba, Cung chánh thứ ba Hoạt động hay Thích nghi, là cung cơ bản của thái dương hệ thứ hai này. Đó là cung lớn của trường tiến hóa thiên thần.
4. Màu chàm-vàng. . . . . . . . . . . . . . . . Cung Điều hòa.
5. Màu chàm-vàng cam. . . . . . Cung Kiến thức Cụ thể.
6. Màu chàm. . . và một màu chưa được tiết lộ. Cung Sùng tín.
7. Màu chàm-tím. . . . . . . . . . . . Cung Trật tự Nghi lễ.
Các bạn lưu ý là tôi không kể ra hai màu, chàm-đỏ và chàm-xanh, hoặc xếp chúng vào cung nào hoặc cõi nào. Không [214] phải là không thể nói được, nhưng tôi giữ lại chi tiết này để làm câu đố. Có một số điểm mà khi nói về màu sắc các bạn phải luôn luôn nhớ là:
Tôi đã cho các tên màu sắc này và ứng dụng của chúng về mặt ngoại môn, và trong đó chỉ có hai màu (chàm và xanh lục) là tương ứng với áp dụng nội môn của chúng. Cung Tổng hợp và Cung Hoạt động, ở giai đoạn này, là hai cung mà các bạn có thể hoàn toàn biết chắc. Một màu là mục tiêu của nỗ lực ( Mầu tổng hợp: Mầu tràm; tr112), còn màu kia là màu sắc nền tảng của Thiên nhiên ( Mầu xanh lục tr112 ).
Năm màu kia có liên quan đến cuộc tiến hóa năm giai đoạn của chúng ta, thì thay đổi, pha trộn, hòa hợp cùng nhau. Về mặt nội môn chúng không giống như nghĩa mà các bạn có thể tưởng tượng ra khi dùng các từ đỏ, vàng, vàng cam, xanh và tím. Về mặt nội môn chúng không giống chút nào với các tên gọi này, và chính các tên gọi này cũng nhằm đánh lạc hướng và để che giấu.
Mỗi một trong ba màu này và hai màu kia, cho đến nay vẫn chỉ được hiểu qua bốn cung phụ của chúng. Đây là cuộc tuần hoàn thứ tư, và cho đến nay chỉ có bốn cung phụ của các màu này là được hiểu thoáng qua. Khi nhớ ba điểm này các bạn sẽ khỏi phải chú trọng không nhằm lối vào sự hiểu biết ở bề ngoài, và người môn sinh khôn ngoan tránh đưa ra ý kiến khi vấn đề chưa sáng tỏ.
Màu vàng là một màu khác nữa đã đến với chúng ta từ thái dương hệ 1. Sự hoà lẫn màu xanh và màu vàng trong hệ thống đó đã giúp nhiều vào việc làm phát sinh hoạt động. Màu vàng tạo sự điều hòa, nó đánh dấu mức hoàn thành và kết quả. Các bạn hãy để ý trong mùa thu, khi các tiến trình của Thiên nhiên đã xong và chu kỳ hoàn tất, thì bằng cách nào mà màu vàng của mùa thu trải rộng ra bao trùm cảnh vật. Cũng nên lưu ý rằng khi ánh nắng mặt trời thong dong tỏa xuống ta cũng thấy màu vàng của mùa gặt hái. Cuộc sống [215] tinh thần cũng vậy. Khi cõi thứ tư của điều hòa hay cảnh giới bồ-đề đã đạt được thì đó là lúc hoàn thành viên mãn. Khi công việc của phàm nhân đã hoàn tất, và khi mặt trời của tiểu vũ trụ, là Chân nhân, chiếu xuống đời sống cá nhân một cách dễ dàng, thì thành quả và mùa gặt hái đến. Khi tạo được sự điều hòa hay nhất quán là đã đạt mục tiêu. Màu xanh và vàng hòa nhau thành xanh lục, và màu xanh tổng hợp hay màu chàm (trạng thái bác ái và minh triết) sẽ ngự trị khi đạt đến cảnh giới điều hòa. Bấy giờ sẽ đưa đến cảnh giới thứ ba của atma, nơi màu xanh lục của hoạt động chiếm ưu thế. . . . . .
Ngày 31-8-1920.
Tiếp tục nghiên cứu về màu sắc và tham thiền, và phần đặc biệt trong nghiên cứu này, để khích lệ các bạn, tôi xin nói rằng việc nhận và ấn hành các bức thư này là phần các bạn, còn tôi thì chịu trách nhiệm truyền đạt dữ liệu. Dù cho các bạn không hiểu được chúng, hoặc thậm chí một số dữ liệu có vẻ mâu thuẫn, các bạn nên hiểu rằng trong cách lý giải nội môn này có chứa một nửa bí nhiệm. Phân nửa còn lại bị che giấu vì sự thực là toàn bộ việc giải thích đều tùy lập trường của người lý giải và tùy theo cõi mà tâm thức y đang hoạt động. Giá trị của những gì hiện nay tôi trao truyền đều gồm trong điểm này:– khi nghiên cứu màu sắc (là một hình thức nghiên cứu sự rung động) các bạn sẽ có khả năng hiểu được rung động của phàm ngã, biết hòa hợp sự rung động này với sự rung động của Chân nhân, và sau đó làm cho nó đồng bộ với sự rung động của Chân sư. Một trong những phương pháp chính để tạo sự đồng bộ này là tham thiền. Khi trí thông tuệ thấu hiểu được các sự kiện khoa học về vấn đề này thì mới sử dụng được các sự kiện ấy để gia tăng sự rung động, và phát triển được các màu cần thiết một cách khôn ngoan.
[216] Trong bức thư vừa qua, tôi có đề cập đến bốn màu – xanh, chàm, xanh lục, và vàng, – và trong cách phân nhóm đầu tiên này có nhiều điều thú vị. Bây giờ chúng ta sang nhóm màu khác, tự nhiên cùng đi với nhau, là vàng cam, đỏ, và tím.
Vàng cam. Đối với mục đích của chúng ta thì đây là màu của cõi trí, là màu đánh dấu sự cháy. Nó là biểu tượng của ngọn lửa, và hơi lạ là màu này cũng tiêu biểu cho sự phân cách. Nhưng cần lưu ý rằng màu vàng cam huyền bí không phải chính xác là màu các bạn hiểu theo từ ngữ này. Màu vàng cam ngoại môn là màu pha trộn của vàng và đỏ. Màu vàng cam huyền bí là màu vàng tinh khiết hơn và hầu như không thấy màu đỏ trong đó. Màu vàng cam này là sự rung động phát ra từ một cung vũ trụ và đến với chúng ta. Các bạn nên nhớ rằng cung thứ năm (cũng như cõi thứ năm và nguyên khí thứ năm) vốn liên kết chặt chẽ với cung thông tuệ của vũ trụ, hay với trạng thái hoạt động là sự biểu lộ vĩ đại trong thái dương hệ thứ nhất. Cung tổng hợp vào thời đó là cung màu xanh lục, liên kết rất mật thiết với cung màu vàng cam, hay trí tuệ hoặc thông tuệ biểu lộ qua hình thể. Ở thái dương hệ này, chúng ta có sự tương ứng trong cung tổng hợp Bác ái và Minh triết, cùng sự liên quan mật thiết của nó với Cung thứ tư là Cung Điều hòa. Mối quan hệ này phát biểu trong tam giác hình thành do sự tương tác của chúng như sau:–
[217]
THÁI DƯƠNG HỆ THỨ NHẤT
Cung màu Xanh lục
Trạng thái Thứ ba
Hoạt động hay Thông tuệ
Cung phụ thứ ba Cung phụ thứ năm
Hoạt động Manas, trí tuệ
Xanh lục-xanh lục Xanh lục-vàng cam

THÁI DƯƠNG HỆ THỨ HAI
Cung màu Chàm
Trạng thái Thứ hai
Bác ái và Minh triết

Cung phụ thứ hai Cung phụ thứ tư
Bác ái và Minh triết Điều hòa
Chàm-chàm Chàm-vàng
[218] Trong thái dương hệ hoạt động, chúng ta thấy trạng thái thứ ba của trí tuệ vũ trụ hay hoạt động biểu lộ xuyên qua cung phụ cụ thể màu vàng cam . . . . . . sự thích nghi thông qua sắc tướng – là hình thể phát biểu hoạt tính tiềm ẩn đó một cách hoàn hảo. Tương tự, trong thái dương hệ thứ hai của bác ái, chúng ta thấy trạng thái bác ái phát biểu qua màu vàng của cung điều hòa hay mỹ lệ – là bác ái tự biểu lộ hoàn toàn qua sự hợp nhất, điều hòa hay mỹ lệ. Ở đây xin các bạn lưu ý rằng tôi lại dùng những từ ngữ mà sự đúng đắn tùy theo cách giải thích ngoại môn hay nội môn.
Thế nên, để trở lại điểm tôi đã nói trên, màu vàng cam đến với chúng ta như sự rung động phát ra do cung hoạt động của vũ trụ trong thái dương hệ trước. Mãnh lực của màu vàng cam (là sự thấu hiểu về mặt khoa học nhờ trí thông tuệ) đến với chúng ta để hoàn thành sự liên kết giữa tinh thần và hình thể, giữa sự sống và các vận cụ mà sự sống tìm cách phát biểu thông qua đó.
Chúng ta có thể phân chia các màu chính yếu cơ bản bằng các thuật ngữ khác nhau mà chúng ta dùng để diễn tả toàn thể vũ trụ biểu hiện:–
1.Trạng thái Sự sống 2.Trạng thái Hình Hướng 3.Trạng thái Thông tuệ
Tinh thần Vật chất Trí tuệ
Tâm thức Vật cụ Sinh lực
Ngã Phi-Ngã Sự liên lạc giữa
Cung Cung Cung
2.Bác ái và minh triết 1. Quyền lực hay ý chí 3.Hoạt động hay Thích nghi
4. Điều hòa 7. Định luật 5. Kiến thức Cụ thể
6. Sùng tín 5. Kiến thức Cụ thể
[219] Đây chỉ là một trong những cách phân bố các cung và xem các cung là những ảnh hưởng tác động trực tiếp vào cuộc sống đang tiến hoá hay trên hình thể mà sự sống tiến hóa trong đó, nhờ yếu tố thứ ba là sự thông tuệ. Ba phần này tạo thành ba đỉnh của một tam giác vũ trụ:–

và dòng thần lực của các cung tác động ở cấp đại vũ trụ giữa ba đỉnh này, có phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ là luồng hỏa hậu (được khơi hoạt qua tham thiền) tác động theo dạng hình học chính xác giữa ba luân xa chính yếu:–

Tất cả bảy cung đều tương tác giữa sự sống, hình thể và trí tuệ nội tại, và cốt yếu chính là ba trạng thái này. Chúng là sự sống, chúng là sắc tướng, chúng là sự thông tuệ, và tổng thể của chúng là vũ trụ biểu hiện. Trong những thời kỳ khác nhau, tất cả bảy cung đều tác động vào những phương diện khác nhau. [220]
Sự tương tác quan trọng nhất là giữa:
a. Cung Bác ái-Minh triết và Cung Điều hòa, cũng như sự tương tác giữa cõi của Chân thần (đại niết-bàn) và cõi bồ-đề.
b. Cung Quyền lực và cung Định luật Nghi thức, cũng như sự tương tác giữa cõi thứ nhất và cõi thứ bảy.
c. Cung Hoạt động hay Thích nghi và cung Kiến thức Cụ thể hay Khoa học, cũng như sự tương tác giữa cõi thứ ba của atma (niết-bàn) và cõi thứ năm của trí tuệ. Màu xanh lục và vàng cam đã liên kết nhau trong thái dương hệ thứ nhất, và vẫn tiếp tục liên kết trong hệ thống này. Tôi đã mở ra những lĩnh vực rộng lớn để tất cả các môn sinh chân thành suy ngẫm.
Trong quan hệ giữa màu chàm, xanh và vàng có ẩn một điều bí mật.
Trong quan hệ giữa màu xanh lục, vàng cam và đỏ có một bí mật khác.
Trong quan hệ giữa màu xanh, đỏ, và tím còn có một bí ẩn khác nữa.
Người môn sinh nào nhờ dùng trực giác của mình mà hiểu được ba điều bí nhiệm này là đã tìm được chìa khóa để đi vào chu kỳ lớn hơn, và nắm được chìa khóa của sự phát triển tiến hóa. Vì thế, khi nghiên cứu tiểu vũ trụ, các bạn hãy nhớ rằng chúng ta sẽ tìm được chính mối quan hệ đó và sẽ mở được cánh cửa vào “Thiên giới trong tâm.”
Màu đỏ có vẻ là một trong những màu khó xem xét hơn hết. Nó bị xếp vào loại bất hảo. Tại sao? Vì màu đỏ đã bị xem là màu của kama, hay là ác dục, và bao giờ ta cũng thấy những màu đỏ bầm và đen tối trong thể cảm dục của người kém tiến hóa. Nhưng khá lâu sau này, màu đỏ sẽ là màu căn bản của một thái dương hệ, và trong sự hòa hợp hoàn hảo của màu đỏ, xanh lục và màu xanh rốt cuộc đưa đến công trình [221] hoàn thành của Đức Thái Dương Thượng Đế và sự viên mãn của ánh sáng trắng tinh khiết.
Thái dương hệ hoạt động đã có màu xanh lục.
Thái dương hệ bác ái hiện có màu xanh.
Thái dương hệ quyền lực sẽ có màu đỏ.
Các bạn đều biết ba màu đỏ, xanh và xanh lục hợp nhất thành màu trắng, và nói theo nghĩa huyền bí thì bấy giờ Thượng Đế đã “rửa những lớp áo của Ngài và tẩy chúng trắng tinh bằng máu.” Điều này giống như con người là tiểu vũ trụ đang làm trong diễn trình tiến hóa, theo ý nghĩa thấp hơn.
Màu tím. Điều kỳ lạ là Cung màu tím, Định luật Nghi thức hay Trật tự, lại là cung tổng hợp khi biểu hiện trong tam giới. Cũng như Cung tổng hợp Bác ái và Minh triết là tổng hợp của tất cả các mãnh lực của sự sống, thì trong tam giới Cung bảy tổng hợp tất cả những gì liên quan đến hình thể. Trên cảnh giới thứ nhất, sự sống ở trong trạng thái tổng hợp tinh khiết nhất, cao cả nhất, chưa phân hóa gì cả. Trong khi trên cảnh giới thứ bảy thì hình thể ở trong trạng thái dày đặc nhất, thô kệch nhất, và phân hóa thành thiên hình vạn trạng. Một mặt, sự sống được thu vào Cung tổng hợp của Bác ái. Trong khi đó phương diện hình thể chịu sự tác động của Cung bảy.
Cũng có một sự tổng hợp khác do sự thực là nhờ trung gian của màu tím mà hai trường tiến hóa nhân loại và thiên thần có được nơi tiếp xúc. Theo nghĩa huyền bí thì tím là trắng. Khi hòa hợp được hai trường tiến hoá này bảy Đấng Thiên Đế đạt được sự hoàn thiện viên mãn, và về mặt huyền bí các Ngài được xem như đã trở nên khiết bạch, đồng nghĩa với hoàn thiện.
Một điểm tổng hợp khác nữa là nhờ sự thống ngự của Cung bảy này mà có sự hòa hợp giữa thể xác và thể dĩ thái. Đây là điểm tối quan trọng trong đại vũ trụ và đối với người môn sinh hành thiền. Muốn cho giáo huấn được truyền đến bộ não hồng trần đạt mức chính xác nào đó thì trước phải tạo [222] được sự hòa hợp và chỉnh hợp này. Nó liên quan mật thiết đến sự chỉnh hợp các luân xa.
Trong các nhận xét trên, tôi chỉ có ý muốn vạch ra những đường hướng suy tưởng, nếu được theo đúng, chúng có thể mang lại những kết quả làm bạn ngạc nhiên. Nhờ nghiên cứu các màu sắc và các cảnh giới, nhờ nghiên cứu màu sắc cùng ảnh hưởng và mối quan hệ của nó với phương diện sự sống, và nhờ dùng trí nghiên cứu phương diện hình thể mà người môn sinh hành thiền sẽ đạt được nhiều điều có giá trị, miễn là y luôn luôn làm ba việc:–
1. Y cố gắng tìm hiểu các màu huyền bí và ứng dụng đúng đắn của chúng vào các cảnh giới và các luân xa, vào các thể biểu hiện của y, và vào các thể mà Thượng Đế biểu hiện thông qua đó (bảy hành tinh thánh thiện), vào các cuộc tuần hoàn và các giống dân, cùng là các chu kỳ của cuộc sống cá nhân y. Nếu làm được điều này là y đã nắm được chìa khóa của toàn bộ kiến thức.
2. Y cố gắng áp dụng thực hành các chân lý đã học được vào cuộc sống phụng sự của mình trong tam giới. Trong các phương pháp làm việc của mình y cố gắng theo đúng những phương pháp mà Đức Thượng Đế phô bày qua bảy cung hay bảy ảnh hưởng. Có nghĩa là nhờ tham thiền y đã đặt cuộc sống của mình dưới bảy ảnh hưởng vĩ đại này một cách có hệ thống trong các chu kỳ huyền bí tuần tự. Do đó y tạo được sự mỹ lệ trật tự trong việc làm phát lộ Chân ngã nơi mình.
3. Y phải luôn luôn nhớ rằng sự hoàn thiện như chúng ta biết cũng chỉ là một phần và chưa đích thực, và ngay cả chính sự hoàn thiện – hiểu theo trí phàm – cũng chỉ là ảo tưởng. Chỉ có sự biểu hiện (trong thái dương hệ) kế tiếp củaThượng Đế mới cho thấy sự vinh quang tối hậu đã định. Ngày nào còn có các màu sắc khác biệt là còn sự bất toàn. Cần nên nhớ rằng màu sắc như chúng ta biết vốn là nhận thức về một sự rung động chạm vào mắt của người đang sử dụng một cơ thể của căn chủng thứ năm, trong cuộc tuần hoàn thứ tư, trên dãy hành tinh thứ tư. Vậy thì một người với thân xác thuộc căn chủng thứ bảy trong cuộc tuần hoàn [223] thứ bảy sẽ thấy màu sắc ra sao? Thậm chí đến chừng đó trọn cả dãy màu sắc có vẻ đẹp kỳ diệu sẽ vẫn ở ngoài và vượt khỏi tầm hiểu biết của y. Lý do là chỉ có hai trạng thái lớn của sự sống Thượng Đế đang hoàn toàn biểu lộ, còn trạng thái thứ ba sẽ chỉ hiển lộ một phần, chờ đợi “Ngày vĩ đại hơn nữa đến với chúng ta” để bừng lên trong sự chói rạng hoàn toàn. Từ “chói rạng” này có một ý nghĩa huyền bí đáng cho các bạn xem xét.

Ngày 3-9-1920.
Bền lòng gắn bó với bổn phận kế tiếp và đặt chân vững vàng lên bước tiến tiếp theo sẽ rộng mở con đường đi đến Chân sư và đồng thời dẹp sạch những nỗi khó khăn. Minh định các quan niệm tri thức cao thượng và phát biểu chúng ở cõi trần giúp thể trí phát triển, để cho nguồn sống ngày càng lớn lao hơn tuôn tràn từ trên xuống. Ổn định tình cảm và thăng hóa dục vọng từ cõi này lên cõi bồ-đề, khiến hành giả có khả năng phản ánh trung thực quan điểm cao siêu. Tinh luyện và giữ giới luật thân xác giúp hành giả có khả năng phát triển những gì mà Chân ngã nội tâm hiểu biết. Nếu ba điều này được quan tâm tuân thủ thì bấy giờ định luật có thể tác động và việc khai phóng được xúc tiến mau lẹ. Vậy định luật vận hành cách nào? Phần chúng ta phải hành động ra sao để cuộc sống cá nhân khỏi bị định luật trói buộc? Như đã nêu trên, đơn giản chỉ là gắn bó với bổn phận cao cả nhất, và sắp xếp đời sống phàm nhân thế nào để bổn phận này có thể được hoàn thành mỹ mãn.
Các Màu sắc Thông thường và Huyền bí.
Đề tài hôm nay là điểm thứ hai về việc sử dụng màu [224] sắc và bàn đến luật tương ứng và màu sắc . . . . . . Như tôi đã nói với các bạn, ý nghĩa huyền bí của các màu sắc thông thường vẫn chưa được tiết lộ trọn vẹn. Một số ý nghĩa này đã được H.P.B. nói đến, nhưng nguyên nghĩa của chúng vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Đây là điều gợi ý để các bạn suy xét. Một số kiến thức về màu sắc và âm thanh được đề cập trong bộ Giáo lý Bí nhiệm có liên quan đến thái dương hệ thứ nhất, và một số chi tiết lại liên quan đến một phần của thái dương hệ thứ hai. Đương nhiên sự phân biệt đó vẫn chưa được thấu hiểu, nhưng đây sẽ là sự tiết lộ với tính cách một sự kiện then chốt để nghiên cứu trong trường phái mới sau này. Về ý nghĩa huyền bí của màu sắc, tôi muốn các bạn lập một bảng liệt kê (dù điều này có thể tìm thấy trong Giáo lý Bí nhiệm), để làm căn bản cho những điểm tôi có thể sẽ truyền đạt sau này.
Màu thông thường Màu huyền bí
Tía (purple) Xanh (blue)
Vàng (yellow) Chàm (indigo)
Vàng nhạt (cream) Vàng (yellow)
Trắng (white) Tím (violet)
Hiện nay, chỉ có bốn màu này là có thể nói đến, nhưng nếu được hiểu đúng thì các màu này là chìa khóa của cuộc tuần hoàn thứ tư hiện nay và lịch sử của nó. Vì chúng ta đang ở trong dãy hành tinh thứ tư và cuộc tuần hoàn thứ tư nên lịch sử của thời kỳ hiện tại đang nằm trong số 4. Đặc biệt tôi khuyến khích các bạn, là các huấn sư và các môn sinh của thế hệ mới sau này, hãy suy ngẫm xem tại sao màu trắng hiểu theo nghĩa nội môn lại là màu tím. Hiện nay màu tím đang có ứng dụng đặc biệt khi cung của màu tím đang nhập cuộc, và Cung bảy hiện là một trong ba cung chính yếu trong cuộc tuần hoàn này. Nó vận dụng quyền lực trong tỉ lệ của số 4, dựa vào số 4 và theo số 4.
Các màu huyền bí tương ứng với màu đỏ, xanh lục và vàng cam thông thường, chưa có thể phổ biến cho công chúng. Tuy [225] nhiên, các môn sinh và các đệ tử nhập môn với khả năng phân biện đáng tin cậy nếu cố gắng họ có thể đạt được kiến thức cần thiết.
Ở đây tôi muốn nêu ra một số điểm khác để xem xét thật kỹ bằng cách bàn vắn tắt về luật tương đồng và tương ứng.
Đó là các điểm sau đây:–
a. Các tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.
b. Các tương ứng cơ bản.
c. Màu sắc trong tiểu vũ trụ và trong đại vũ trụ.
Chúng ta hãy bàn từng điểm một, vì có hiểu đúng định luật chúng ta mới có khả năng suy nghĩ về mặt nội môn, và thấy được ý nghĩa sâu xa của các sự việc xảy ra bên ngoài.
Sự tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.
Mối quan hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ rất chính xác, không những về mặt đại thể mà trong chi tiết cũng vậy. Đây là một sự kiện cần phải nắm vững và thấu hiểu. Khi kiến thức gia tăng với nhiều tiến bộ và khi năng lực tham thiền tạo được khả năng truyền đạt từ Tam nguyên qua thể nguyên nhân đến Phàm ngã thì các sự kiện này sẽ ngày càng được chứng minh trong từng chi tiết, cho đến mức hành giả thấu hiểu được trọn vẹn. “Trên sao dưới vậy” là một chân lý hiển nhiên thường được nói suông, nhưng ít được nhận thức. Ở trên có gì, và những gì sẽ phát triển tương ứng ở dưới?
Ở trên có Ý chí, Bác ái và Hoạt động, hay là Quyền lực, Minh triết và Thông tuệ, là những từ áp dụng cho ba trạng thái biểu hiện thiêng liêng. Ở dưới cũng có ba trạng thái này đang xuất lộ:–
a. Phàm nhân phát biểu trí thông minh tích cực. [226]
b. Chân nhân phát biểu bác ái hay minh triết.
c. Chân thần phát biểu quyền lực hay ý chí.
Trong tam giới của Phàm nhân ta cũng có:–
a. Thể hồng trần, phát biểu phản ánh phương diện hoạt động.
b. Thể tình cảm, phát biểu phản ánh phương diện bác ái hay minh triết.
c. Thể trí, phát biểu phản ánh phương diện ý chí hay quyền lực.
Nếu mô tả theo lối thông thường, thì ba thể trên có màu sắc nào?
a. Màu tím của thể hồng trần phát biểu qua thể dĩ thái.
b. Màu hồng hay đỏ của thể cảm dục.
c. Màu vàng cam của thể trí.
Trong Tam nguyên hay thế giới của Chân nhân tam phân có những gì?
a. Thể thượng trí, phát biểu phương diện hoạt động hay thông tuệ.
b. Thể bồ-đề, phát biểu phương diện bác ái hay minh triết.
c. Thể atma, phát biểu phương diện ý chí hay quyền lực.
Và nếu mô tả theo lối thường thì ba thể trên có màu sắc nào?
a. Màu xanh của thượng trí.
b. Màu vàng của cấp bồ-đề.
c. Màu xanh lục của cấp atma.
Các màu trên đang trong tiến trình chuyển hóa. Các bạn phải thực hiện sự thay đổi tương ứng của màu sắc từ thấp lên cao. Các bạn hãy kết hợp những điều này với những điều tôi đã nói trong một bức thư trước về việc chuyển di sự phân cực.
Có sự tương ứng trực tiếp giữa:–
a. Màu tím của cấp dĩ thái và màu xanh của cấp thượng trí. [227]
b. Màu hồng của thể cảm dục và màu vàng của thể bồ-đề.
c. Màu vàng cam của thể trí và màu xanh lục của atma.
Sự bí mật của tất cả các tương ứng này phải được khám phá bằng cách áp dụng các định luật của tham thiền huyền môn.
Các bạn có thể chuyển trọn dãy màu lên cao hơn nữa, và ở cấp Chân thần có sự tương ứng như sau:–
a. Màu xanh lục của trạng thái thứ ba.
b. Màu xanh tổng hợp hay màu chàm của trạng thái thứ hai.
c. Màu đỏ của trạng thái thứ nhất.
Ở đây cần lưu ý rằng khi chúng ta trở về trung tâm cuộc tiến hóa của thái dương hệ, thì tên gọi của các màu này rất dễ gây nhầm lẫn. Ví dụ như màu đỏ không có gì giống với cái gọi là đỏ hay hồng ở cõi thấp. Màu đỏ, màu xanh lục, và màu chàm của cấp cao này hầu như đều là những màu mới, với sự mỹ lệ và trong trẻo không thể tưởng. Nếu được diễn giải đúng đắn, ở đây chúng ta sẽ có ngụ ý về sự tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.
Các màu ở ngoại giới có liên quan đến hình hài, sắc tướng. Các mãnh lực hay phẩm tính mà các màu này che giấu đều liên hệ đến sự sống đang tiến hóa trong các hình thể đó. Tham thiền giúp hình thành cầu nối hai phương diện vừa kể. Tham thiền là sự phát biểu của trí thông tuệ liên kết sự sống và hình thể, ngã và phi-ngã. Theo thời gian trong tam giới, tiến trình liên kết này rốt cuộc sẽ xảy ra trên cõi trí để nối liền thượng và hạ trí. Sự tương ứng này luôn luôn hoàn toàn. Vì thế, tham thiền mang lại kiến thức để thực hiện ba điều:–
1. Cho biết thực nghĩa bên trong của màu sắc bên ngoài.
2. Xác định những phẩm tính mà các màu sắc này che giấu. [228]
3. Tạo sự chuyển hóa cần thiết của các màu, từ Phàm nhân đến Tam nguyên, và về sau từ Tam nguyên đến Chân thần.
Thể nguyên nhân đóng vai trò tổng hợp các màu sắc này trong cuộc sống của Chân nhân đang lâm phàm, cũng như cung tổng hợp hòa trộn mọi màu sắc trong cuộc biểu hiện của Thượng Đế. Hãy ghi nhớ rõ trong trí bạn . . . . . . rằng màu sắc là các phát biểu của mãnh lực hay phẩm tính. Chúng che giấu những phẩm tính trừu tượng của Thượng Đế. Những phẩm tính này được phản chiếu vào tiểu vũ trụ trong tam giới thành các đức hạnh hay khả năng. Vì thế, giống như bảy màu che giấu những phẩm tính của Thượng Đế, các đức hạnh cũng biểu lộ trong đời sống của phàm nhân, và nhờ hành thiền làm phát lộ ra bên ngoài. Do đó mỗi kiếp sống sẽ được xem như tương ứng với một màu. Hãy suy ngẫm kỹ điều này.
Các tương ứng căn bản.
Chính việc nghiên cứu những sự tương ứng này trong các ngành khác nhau của vũ trụ biểu hiện, và việc áp dụng các màu này vào phần đã được điều chỉnh của chúng, giúp chúng ta thấy được sự mỹ lệ của cái toàn thể tổng hợp và sự khai ngộ cho cuộc sống tiểu vũ trụ. Chúng ta hãy kể ra tổng quát thôi, còn chi tiết thì để cho các môn sinh hành thiền tự khám phá. Vào lúc này, tôi không thể nói nhiều hơn.
1. Thái dương hệ tam phân.
Linh hồn cá nhân tam phân, đang tiến hóa.
Ba trạng thái của Thượng Đế.
Chân thần tam phân.
Tam nguyên tinh thần, Chân nhân.
Phàm nhân tam phân.
Tam giới, trường tiến hóa của nhân loại.
Ba ngôi của Thượng Đế. [229]

2. Bốn Đấng Nghiệp quả Tinh quân.
Tứ Đại Thiên vương.
Phàm ngã tứ phân và tứ hạ thể.
3. Năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại.
Năm giác quan.
Năm phân ngành của Đức Văn minh Đại đế.
Năm giới trong thiên nhiên:
a. Giới khoáng vật.
b. Giới thực vật.
c. Giới động vật.
d. Giới nhân loại.
e. Giới tinh thần hay giới siêu nhân.
Nguyên khí thứ năm là trí tuệ (manas).
4. Bảy cung hay bảy huyền giai.
Bảy màu.
Bảy cảnh giới biểu hiện.
Bảy Đấng Thiên tôn (Kumara).
Bảy nguyên khí của con người.
Bảy luân xa.
Bảy hành tinh thánh thiện.
Bảy dãy hành tinh.
Bảy bầu hành tinh.
Bảy cuộc tuần hoàn.
Bảy căn chủng và phân chủng.
Bảy cuộc điểm đạo.
Tôi muốn nhấn mạnh trong bảng kê nói trên là vị Chân sư hoàn toàn hiểu được sự tương ứng của tất cả các điều đó và thấy nó hiện hữu trong phạm vi của tâm thức, của hình thể, và của trí thông tuệ. Có thể nói là Ngài hiểu sự tương ứng này trong phạm vi màu sắc khi nói về hình thể; trong phạm vi âm thanh khi nói về sự sống; và trong phạm vi sinh lực khi nói [230] về trí thông tuệ, hay trạng thái hoạt động. Lời phát biểu trên sẽ rất hữu ích nếu được suy ngẫm kỹ vì nó hàm chứa một sự kiện thực tế huyền môn. Các từ ngữ mô tả trên đây được sử dụng tùy theo ba đường lối cận tiến như đã đề cập trong bức thư trước.
Màu sắc trong tiểu vũ trụ và trong đại vũ trụ.
Phần này có nhiều điểm khó vì tiến trình thay đổi liên tục. Màu sắc trong tiểu vũ trụ thì tùy theo ba yếu tố:–
1. Cung của Chân nhân.
2. Cung của Phàm nhân.
3. Trình độ tiến hóa.
Một điều ngụ ý có thể nói ở đây là ở mức tiến hóa thấp thì phần lớn màu sắc đều dựa vào phương diện hoạt động. Về sau, khi đã làm việc trong phương diện bác ái hay minh triết, sẽ có ba hiệu quả:–
a. Loại khỏi các hạ thể những màu sắc vốn là các tàn tích của thái dương hệ trước, gồm việc loại bỏ những màu như nâu và xám.
b. Chuyển hóa một số màu thành những màu ở cấp độ cao hơn.
c. Hiệu quả của sự trong sáng, huy hoàng hay chói rạng của ánh sáng ẩn tàng, vốn là kết quả của độ tinh khiết cao hơn của các thể và kích thước ngày càng tăng của ngọn lửa nội tại.
4. Cung, hay các cung được biểu hiện đang rút lui hoặc đang nhập cuộc. Tất nhiên các cung này ảnh hưởng đến các Chân nhân đang lâm phàm. Chúng làm thay đổi phần nào sự rung động hoặc do đó tạo sự biến đổi màu sắc hay phẩm tính. Ví dụ như một người thuộc Cung Khoa học chịu ảnh hưởng của cung nhập cuộc là Cung Điều hòa, thì tác dụng đối với khuynh hướng tư tưởng của y và hậu quả là đối với [231] màu sắc mà y biểu lộ, sẽ rất quan trọng. Tất cả các yếu tố này phối hợp, pha trộn và hòa lẫn vào nhau, khiến người nhìn từ quan điểm của tam giới sẽ thấy rất rắc rối khó khăn.
. . . . . . Tôi hiểu rằng các bạn cảm thấy những điều vừa nói có vẻ chỉ gây thắc mắc nhiều hơn. Nhưng nhờ kiên trì chú tâm vào vấn đề trước mắt, nhờ thường xuyên suy ngẫm và tham thiền về màu sắc, nhờ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa huyền bí và sự ứng dụng của màu sắc vào tiểu vũ trụ mà lần hồi các bạn sẽ nắm được đầu mối dẫn dắt ra khỏi sự rắc rối, để đi vào ánh sáng hiểu biết hoàn toàn. Vì thế hãy can đảm, hãy có quan điểm linh động rộng mở, và khả năng dè dặt, không phát biểu ý kiến cho đến khi có thêm những sự kiện mới đủ để chứng minh, và cũng để tránh những khẳng định võ đoán. Đây là các hướng dẫn viên tốt nhất cho các bạn ở những bước đầu tìm kiếm. Nhờ tham thiền và khả năng tiếp thu giáo huấn cao siêu mà nhiều người đã tìm được con đường từ Phòng Học tập đến Phòng Minh triết. Chỉ ở Phòng Minh triết, sự giải thích nội môn về các màu sắc mới được hiểu đúng. Qua tham thiền, người môn sinh chuẩn bị cho cuộc điểm đạo để mở cánh cửa giúp y bước vào Phòng này. Vì thế, hãy kiên trì hành thiền và giữ vững chủ đích, đừng ngập ngừng do dự.

Ngày 4-9-1920.
Hôm nay, chúng ta bàn đôi điều có ứng dụng thực tế về mặt tinh thần. Tôi đã trao cho các bạn nhiều chi tiết để suy tư và nghiền ngẫm. Tất cả đều hướng về sự phát triển thượng trí, và sự kích thích khả năng tưởng tượng cũng phần nào giúp phát triển trực giác. Nhiều điểm có tính cách tiên đoán, và đưa ra một lý tưởng mà sau này phải đạt. Chỉ bằng cách vạch ra mục tiêu và chuyên chú vào đó mới khiến [232] hành giả có nỗ lực cần thiết để tiến gần ít nhiều đến vị thế mong muốn. Nhưng hôm nay chúng ta đi vào cuộc sống thực tế và áp dụng cho phàm ngã một mức độ rung động nhất định bằng cách bàn đến điểm thứ ba nói về ảnh hưởng của màu sắc:–
a. Trên các thể của môn sinh.
b. Vào những nhóm mà y liên hệ.
c. Vào môi trường chung quanh.
Điều tôi đặc biệt nhấn mạnh là phương diện sự sống chứ không phải phương diện hình thể của màu sắc. Trước tôi đã nói rằng màu sắc chỉ là hình thể được hiển thị do một loại mãnh lực, khi lực ấy đang vận chuyển ở một tầm mức nhất định, và khi sự tác động và vận hành của nó bị ngăn trở hay không bị ngăn trở do loại vật chất mà nó tác động xuyên qua đó. Trong câu này có chìa khóa giải quyết vấn đề tại sao màu sắc ở những cõi cao và những cõi thấp lại khác nhau. Mật độ tương đối và sức cản của vật chất đối với dòng mãnh lực của sự sống tuôn xuống là lý do của phần lớn sự khác biệt về màu sắc. Tất nhiên, một trong những khác biệt này có căn bản vũ trụ, nên khó hiểu cho con người sống trong không gian ba chiều của cuộc tuần hoàn thứ tư này. Nhưng người môn sinh có thể hiểu lý do cơ bản của sự dị biệt đến mức đủ để ý thức được sự tuyệt đối cần thiết phải liên tục tinh luyện các thể của y để mãnh lực có thể phóng rải xuyên qua dễ dàng hơn. Thế nên, trong ba cõi thấp đó là vấn đề của cuộc sống thực hành và là việc đặt cả ba hạ thể dưới những qui luật tinh luyện xác định.
Trong phạm vi phát triển tinh thần (và ở mức độ ít hơn, trong phạm vi hình thể), các mãnh lực này phát biểu thông qua những đức hạnh (như các bạn thường gọi), thông qua từ lực, thông qua sinh lực và trí thông minh. Nói vắn tắt là khi người môn sinh đã kiến tạo được một thể xác tinh khiết, một thể dĩ thái đã tinh luyện, khi y phát triển các đức hạnh[233] của thể tình cảm, và khi y điều hợp, mở mang thể trí, tức là y đang liên tục thay đổi tốc độ rung động của nó, đang thay đổi nhịp điệu của nó mà dưới mắt của nhà thần nhãn thì đây là sự thay đổi về màu sắc. Như các bạn đã biết, màu sắc thấy trong hào quang của người dã man và trong hào quang của người tiến hóa trung bình đã rất khác nhau rồi. Tại sao? Vì một người đang vận chuyển hay rung động một cách chậm chạp còn người kia đang rung động với tốc độ tăng cường rất lớn lao. Một người thì có tiết điệu chậm chạp, trì trệ và nặng nề, trong khi người kia đang chuyển động với vận tốc rất cao, và tất nhiên sẽ làm cho vật chất trong các thể của y hoạt động nhanh hơn.
Vì thế, khi toàn thể nhân loại đồng tiến lên như một đơn vị tập thể thì các Đấng thiêng liêng từ cõi cao nhìn xuống sẽ nhận ra được sự cải thiện đều đặn của các màu sắc, sự tinh khiết và trong sáng hơn rất nhiều trong hào quang của nhân loại, là tổng hợp các hào quang của mọi người. Ví dụ như hào quang của căn chủng Atlantis và của căn chủng Aryan (Ấn-Âu) thì rất dị biệt và trong cơ bản khác nhau. Thế nên, chúng ta đã giải rõ điểm đầu tiên là khi các cá nhân tiến hóa thì màu sắc thay đổi, do sự chuyển hóa cái gọi là tật xấu thành đức hạnh. Tật xấu là sự chi phối của đặc tính tiến hóa giáng hạ trong cùng một mãnh lực mà chính mãnh lực đó về sau sẽ biểu lộ thành đức hạnh.
Điểm thứ nhì là những ảnh hưởng này (biểu lộ thành màu sắc khi chúng tiếp xúc với vật chất) vận chuyển theo những chu kỳ có trật tự riêng biệt. Chúng ta mô tả những chu kỳ vừa kể là sự nhập cuộc hay ra đi của một cung. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này thường có bốn cung thay đổi nhau tác động trong bất cứ thời gian nào. Nói điều này là tôi muốn các bạn ghi nhớ rằng dù tất cả các cung đều biểu hiện trong thái dương hệ, nhưng ít nhiều gì cũng có những cung đồng thời nổi bật vào những giai đoạn biểu hiện nhất định.
Các cung, các mãnh lực, các ảnh hưởng, hay những phối hợp [234] các phẩm tính này khi được phát biểu trong phạm vi ánh sáng thì tô điểm những loại vật chất mà chúng chạm đến bằng một số màu sắc có thể nhận ra được. Các màu này mới phổ âm điệu vào cuộc sống của phàm nhân hay Chân nhân. Các bạn nhận thấy chúng là phẩm tính phức hợp, còn nhà nhãn thông thì thấy chúng là màu sắc.
Vì thế, đối với những nhóm gồm những người qui tụ lại do sự rung động tương tự nhau, chúng ta sẽ thấy hầu như họ có cùng một màu cơ bản, dù vẫn có các khác biệt nhỏ về màu sắc và âm điệu. Trước tôi có nói, màu sắc của đại khối quần chúng có thể đo lường và thẩm định được. Chính là theo cách này mà các nhân viên của Đ.Đ.C.G., đang chưởng quản cuộc tiến hóa trong tam giới, cân nhắc được giai đoạn đã trải qua và tiến bộ đã đạt được.
Các cung khác nhau nhập cuộc mang theo những phần tử có màu sắc của cung đó. Những cung ra đi cũng mang theo những phần tử với một màu cơ bản khác. Trong thời gian chuyển tiếp, sự pha trộn màu sắc hết sức phức tạp, nhưng cũng có tính tương trợ và giúp ích lẫn nhau. Mỗi cung đều truyền đạt ít nhiều cho các cung khác đang lâm phàm đồng thời, và mức độ tiết điệu cũng phần nào ảnh hưởng nhau. Nhìn theo quan điểm của hiện tại và của thời gian trong tam giới thì ảnh hưởng này hầu như rất ít ỏi, không thể đánh giá được. Nhưng nhờ sự thường xuyên gặp gỡ và tương tác của các mãnh lực và màu sắc, nhờ chúng luôn tác động và ảnh hưởng lẫn nhau mà có sự liên tục nâng cao chung, và sự rung động tương tự. Cho nên, các bạn sẽ thấy cách nào để đạt được sự tổng hợp vào cuối mỗi đại giai kỳ sinh hóa. Bảy cung thu vào ba và rốt cuộc hòa vào cung tổng hợp.
Trong tiểu vũ trụ thì ba cung của Chân thần, Chân nhân và Phàm nhân cũng sẽ chế ngự và hấp thu bảy cung, và cũng [235] đưa đến sự hòa hợp đúng lúc vào cung tổng hợp của Chân thần. Sự tương ứng này thật hoàn toàn.
Những mãnh lực hay đức hạnh, hoặc ảnh hưởng này (tôi lặp lại các thuật ngữ đồng nghĩa vì các bạn cần suy tư thật sáng tỏ) được thu nạp dần vào các hạ thể của phàm nhân ngày càng dễ dàng hơn và phát biểu đầy đủ hơn. Khi các thể được tinh luyện, chúng trở thành những phương tiện tốt hơn cho các mãnh lực lưu nhập. Và phẩm tính của một loại mãnh lực nào đó – hay nói ngược lại, mãnh lực của một phẩm tính nào đó – sẽ nhờ thế mà được phát biểu hoàn hảo hơn. Đây là công việc của người môn sinh hành thiền. Ở giai đoạn tiến hóa ban đầu, các mãnh lực này tác động vào và thông qua các thể của con người mà y chẳng nhận biết được bao nhiêu và ít có khả năng ích dụng được chúng. Nhưng thời gian qua, y ngày càng hiểu được giá trị của tất cả các thành quả và tìm cách ích dụng tất cả những phẩm tính của cuộc sống y. Đây là cơ hội. Nhờ thông hiểu phẩm tính, nhờ phấn đấu tập rèn đức hạnh, và nhờ kiến tạo các thuộc tính giống như Thượng Đế, y có thể ứng đáp với các mãnh lực này và giúp chúng dễ dàng tác động hơn. Khi suy ngẫm về các mãnh lực hay phẩm tính này, người môn sinh hành thiền tìm cách thu thái tinh hoa của chúng và thấu hiểu nguyên nghĩa tinh thần của chúng. Y ngẫm nghĩ về sự đáp ứng thiếu sót của mình. Y nhận thức được những khiếm khuyết trong các thể dùng làm phương tiện cho các mãnh lực này. Y nghiên cứu mức độ rung động tiết điệu của mình, rồi ra sức cố gắng tìm mọi cơ hội để đáp ứng nhu cầu cần thiết. Y chú tâm vào đức hạnh, và nếu y có thể biết được cung nào đang đến, hay cung nào đang chế ngự vào thời gian đó y sẽ nắm được thời cơ và hợp tác với mãnh lực đang có. Tất cả các việc này y thực hiện được qua những phương thức thiền huyền môn có trình tự và chân truyền.
Theo thời gian – vâng, tôi lại tiên đoán nữa – các đạo sinh [236] sẽ được chỉ dạy một số sự kiện về các cung đang chế ngự, để họ có thể nắm lấy cơ hội mà bất cứ cung nào mang lại.
Ảnh hưởng đối với Môi trường chung quanh.
Về điểm thứ ba, tức là ảnh hưởng của tất cả các điều kể trên vào môi trường chung quanh, nếu xem xét kỹ các bạn sẽ thấy rõ ngay rằng ảnh hưởng này rất đáng kể. Đặc biệt là vì nhân loại ngày càng ở dưới sự kiểm soát hữu thức của Chân ngã họ, và sống càng đúng theo định luật. Bấy giờ một số điều có thể xảy ra:–
a. Sẽ có sự liên giao trực tiếp với trường tiến hoá thiên thần, dù việc ấy hiện nay chưa thể có, vì sự rung động của nhân loại chưa ổn định.
b. Nhiều linh hồn tiến hóa rất cao sẽ đến, mà hiện tại họ bị trở ngại vì mức rung động chậm chạp, tạo nên những màu sắc u tối trong phần đông nhân loại. Trong thiên giới và ở cấp thượng thiên có một số linh hồn cao cả – mà các bạn không thể hiểu được – là những vị trong Huyền giai Sáng tạo thứ tư đang chờ cơ hội biểu hiện. Điều này giống như một số bạn đã chờ đợi một thời gian trong căn chủng Atlantis trước khi đầu thai. Khi độ rung động của phần đông nhân loại đã đạt một mức nhất định và khi màu sắc trong các hào quang phối hợp của các nhóm đạt một độ sáng nào đó, những vị này sẽ trở lại và đem đến cho địa cầu nhiều điều giá trị vượt khỏi tầm nhận thức của các bạn.
c. Còn một điểm thú vị khác nữa mà chúng ta không có thời gian để bàn là tác dụng nhịp nhàng vào ngay cả hai giới thấp hơn nhân loại cũng sẽ biểu lộ ra ngoại giới. Nhà tiên tri của dân Do Thái đã nói không ngoa rằng “Con báo sẽ nằm bên cạnh con cừu” hay là “sa mạc sẽ bừng nở như đóa [237] hoa hồng.” Điều này sẽ xảy ra nhờ sự thống ngự của những rung động nhất định và nhờ mang lại một số màu sắc ẩn chứa những phẩm tính hay ảnh hưởng nhất định.
Ngày 7-9-1920.
Hôm nay chúng ta bàn đến sự ứng dụng của màu sắc. Nếu màu sắc chỉ là bức màn che giấu một ảnh hưởng, và nếu các bạn có thể dùng trực giác khám phá ra màu sắc nào bao hàm đức hạnh nào, thì các bạn sẽ nắm được chìa khóa của vấn đề đang bàn. Trong những bức thư này, các bạn nên lưu ý đến hai sự kiện nổi bật là:–
Vấn đề chúng ta đang bàn vốn rất rộng rãi nên chỉ có thể đưa ra những nét đại cương thôi.
Mỗi câu trong các bức thư này đều nhằm truyền đạt chính xác một tư tưởng đầy đủ, và có nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tại sao tôi không bàn vấn đề với nhiều chi tiết hơn, và tại sao tôi không giải thích dài dòng bằng cách khai triển các câu thành những đoạn văn? Lý do duy nhất là nếu trong những năm hành thiền đã qua người môn sinh đã làm xong công việc ở bước đầu cần thiết, y sẽ tìm thấy trong những bức thư này đủ tài liệu giúp có thể phát triển tư tưởng trừu tượng, và mở rộng con đường thông đạt với trực giác. Tôi chỉ tìm cách gợi ý thôi. Mục tiêu của tôi là chỉ dẫn, còn lợi ích của các lời giáo huấn thì tùy theo trực giác của người môn sinh. Vì thế, khi tôi nói rằng màu sắc có những hiệu quả nhất định khi đem áp dụng tức là tôi muốn khuyên các bạn rằng cần phải giải thích điều đó trong phạm vi sự sống, trong phạm vi hình thể, và trong phạm vi trí tuệ.
Ứng dụng của màu sắc.
a. Trong tham thiền.
b. Trong việc chữa bệnh.
c. Trong công tác kiến tạo. [238]
Màu sắc có thể được sử dụng nhiều cách, và ba cách trên không gồm trọn cả vấn đề. Ba cách này chỉ có tính trực tiếp và thực dụng đối với người môn sinh mà thôi. Màu sắc có thể được dùng để tiếp xúc với các giới tiến hóa khác, thấp hơn hay cao hơn nhân loại, hoặc trong công tác xác định nhằm tiêu hủy hay phá vỡ. Màu sắc cũng có thể được dùng phối hợp với những phương pháp khác như âm nhạc hay chuyển động, hoặc với các câu thần chú đặt sẵn để mang lại những kết quả nhất định. Nhưng tất cả các công dụng đó chúng ta không cần phải quan tâm đến trong loạt thư này. Sự phát triển của con người và khả năng phụng sự ngày càng tăng của y đều được thực hiện nhờ sử dụng thiền huyền môn một cách khôn ngoan, sáng suốt. Vậy chúng ta hãy xem xét điểm đầu tiên.
Sử dụng Màu sắc trong Tham thiền.
Tất cả màu sắc đều phát ra từ một nguồn hay từ một màu nguyên thủy – trong thái dương hệ này cung vũ trụ màu chàm hàm chứa nguồn bác ái hay minh triết vũ trụ, – và sau đó phân thành ba màu chính, rồi bốn màu phụ để thành bảy màu trong quang phổ. Các bạn có thể thấy hiệu quả tương tự trong cuộc sống cá nhân, vì bao giờ đại vũ trụ cũng ảnh hưởng đến tiểu vũ trụ. Màu nguyên thủy của cá nhân là cung Chân thần của y, kế đó biểu hiện thành ba màu của Tam nguyên và thành bốn màu của tứ hạ thể. Những màu này trên con đường phản bổn hoàn nguyên trở thành ba rồi lại thành một.
Con đường biểu hiện hay phân hóa là con đường hoạch đắc. Đó là cái đồng nhất trở thành cái vạn thù, dị biệt. Đó là sự phân tách màu căn bản duy nhất thành nhiều màu phối hợp. Đó là phương diện sắc tướng, là sự phát biểu của những gì che giấu sự sống. Về phương diện sự sống, đó là sự phát triển từ một phẩm tính căn bản duy nhất thành nhiều đức hạnh cố hữu. Đó là khả năng ẩn tàng của Thiên tính phát [239] biểu thành nhiều thuộc tính thiêng liêng. Đó là sự sống duy nhất phát biểu những phẩm tính của Nó qua sắc tướng thiên hình vạn trạng. Đó là cái ngã có đủ khả năng tiềm tàng của Toàn Ngã, sử dụng các hình thể để phát biểu những mức độ hoàn thiện bao gồm tất cả. Về phương diện thông tuệ, đó là phương pháp để sự sống sử dụng hình thể và phát triển sự hiểu biết, khả năng phân tích và trí tuệ toàn vẹn của nó. Đó là mối liên hệ giữa sự sống và hình thể, giữa cái ngã và phingã, giữa tinh thần và vật chất thể hiện dưới mọi cách phát biểu để cho thiên tính ẩn nội áp đặt các đặc tính của nó vào phần vật chất dành cho nó sử dụng. Thượng Đế nội tâm phát biểu tất cả các thiên đức ẩn tàng của Ngài thông qua các hình thể, nhờ sử dụng sự hoạt động hay thông tuệ. Sự sống phô bày màu sắc, và hình thể làm hoàn hảo các màu sắc này khi phương diện thông tuệ (là liên kết truyền năng lượng) trở nên tăng tiến hơn và sự thông hiểu phát triển.
Trên đường trở về cội nguồn, qui luật là sự từ bỏ, ngược lại với phương pháp trước. Sự sống nội tại từ bỏ các hình thể mà từ trước đến giờ vẫn được xem là (và tất nhiên là) thiết yếu. Giờ đây nhờ sử dụng trí thông tuệ vốn đã liên kết các cặp đối cực, tinh thần và vật chất, tâm thức và hình thể, mà các hình tướng vật chất được kiến tạo nhờ trí thông tuệ sẽ lần hồi bị từ bỏ cũng bởi chính trí thông tuệ đó, hay khả năng suy luận đã được chuyển hóa thành minh triết. Hình thể bị bỏ đi nhưng sự sống vẫn còn. Các màu sắc dần dần bị tái hấp thu, nhưng các thiên đức vẫn tồn tại, giờ đây nhờ có kinh nghiệm nên rất vững bền và mãi mãi hữu dụng. Các thuộc tính thiêng liêng này không còn tiềm tàng mà đã được phát triển thành các quyền năng để sử dụng. Khả năng bẩm sinh trở thành những đặc tính tích cực, tăng lên đến lũy thừa bậc n. Các màn che lần lượt bị loại bỏ. Các thể bị bỏ rơi và thay thế. Các vận cụ bị tháo bỏ và những hình thể không còn cần thiết nữa, nhưng sự sống vẫn còn mãi và trở về với bản cung [240] đã sinh ra nó. Nó trở về điểm khởi thủy, có thêm khả năng hoạt động và phát biểu, thêm kinh nghiệm và khả năng biểu hiện. Nó cũng có thêm tất cả những sự khác biệt giữa một người dốt nát dã man và Đức Thái Dương Thượng Đế. Điều này đã được thực hiện hoàn tất nhờ sự sống sử dụng các hình thể, lấy trí thông tuệ làm phương tiện để sử dụng các hình thể đó như một phương cách học tập. Khi đã biểu hiện với tư cách một trạng thái của cung nguyên thủy này, khi qua nhiều kiếp luân hồi đã phân hóa cung này thành các bộ phận kết hợp, sau khi đã khoác lên mình cả bảy màu sắc của cung này, linh hồn cá nhân đang luân hồi bèn lên đường trở về, từ bảy trở thành ba và từ ba lại trở thành một.
Khi hành giả làm được điều này một cách hữu thức, khi với sự tự nguyện và thông hiểu những gì cần phải làm y cố gắng giải thoát sự sống bên trong khỏi các lớp màn che án và khỏi các lớp vỏ giam hãm, thì y khám phá ra rằng phương pháp mà y dùng để hoàn tất điều này là cuộc sống thiền huyền môn ở nội tâm và cuộc sống phụng sự ở ngoại cảnh. Trong phụng sự có sự từ bỏ, thế nên theo định luật huyền môn sự sống nội tâm tìm được sự giải thoát trong phụng sự và được tự do, khỏi vướng bận trong cuộc biểu hiện ở ngoại cảnh. Hãy suy ngẫm kỹ điều này vì trong ngôn từ có nhiều ẩn nghĩa.
Vì thế, về phương diện màu sắc người đạo sinh phải làm hai việc trong tham thiền.
1. Khám phá ba màu chính yếu của y biểu lộ trong Phàm nhân, Chân nhân và Chân thần.
2. Chuyển tứ hạ thể thành Tam nguyên, mà giai đoạn đầu là hữu ý thu vào Chân nhân để giảm dần sự chi phối của phàm tính. Người môn sinh bắt đầu thải trừ những màu sắc không thích hợp, loại các rung động thấp và thô để cuối cùng [241] tinh luyện các hiện thể đến mức ba màu chính yếu mà y biểu lộ tỏa chiếu một cách trong sáng hoàn toàn. Điều này đưa y đến mức điểm đạo lần thứ ba. Sau đó, y biến đổi ba màu thành một, cho đến khi từ các hạ thể y thu trọn cả tâm thức vào trong lớp áo của Chân thần.
Tôi không có ý định nói rõ về tác dụng của màu sắc vào các thể trong tham thiền như các bạn vẫn tưởng. Tôi chỉ tìm cách trao cho các bạn ý niệm về màu sắc là bức màn che mà cuối cùng phải loại bỏ. Với đề mục “Công dụng của màu sắc trong tương lai,” tôi có thể nói đến những điểm khiến các bạn quan tâm nhưng hiểu các điều căn bản thì vẫn tốt hơn là cho những công thức để các bạn thí nghiệm.

Ngày 10-9-1920.
Hôm nay chúng ta chỉ bàn sơ qua điểm thứ hai, là vấn đề ứng dụng màu sắc để chữa bệnh. Sở dĩ phải nói vắn tắt là vì muốn vận dụng vấn đề này một cách đúng đắn và nhờ đó mới an toàn thì cần phải nói đầy đủ chi tiết. Ở đây một câu tục ngữ xưa sẽ tỏ ra là đúng: “Sự hiểu biết thiếu sót là một điều nguy hiểm.” Ngày nào vấn đề chữa trị bằng màu sắc chưa được đề cập một cách đúng đắn, đầy đủ chi tiết cùng với kiến thức chuyên môn, thì các kết quả đạt được có thể cho thấý nhiều tai hại hơn là lợi ích. Sau này vấn đề sẽ được minh giải đầy đủ, nếu tương lai mang lại được những gì đã định. Trong thời gian chờ đợi, để giúp các bạn hiểu thêm, tôi có thể nói sơ lược một số đặc điểm của công việc này, nêu ra một số điều kiện để được thành công, và tiên đoán phần nào khuynh hướng khả dĩ có của vấn đề.
[242] Ứng dụng màu sắc để chữa bệnh.
Chúng ta đang bàn về vấn đề này theo quan điểm tham thiền. Trong tham thiền, việc trị liệu được thực hiện hoàn toàn trên bình diện trí tuệ. Việc vận dụng bất cứ loại mãnh lực nào được cung cấp cũng từ thể trí của bệnh nhân, và từ đó tác động vào thể xác, thông qua thể tình cảm.
Người hay nhóm đảm nhận việc trị liệu phải xác định được một số sự kiện. Hãy kể sơ lược ra đây để độc giả dễ hiểu hơn:–
1. Phần lớn công việc có tính cách nội tại và sẽ xem xét các nguyên nhân chứ không chú trọng đến hiệu quả. Mục tiêu đầu tiên của nhóm trị liệu là khám phá ra nguyên nhân phát khởi căn bệnh. Khi đã định được nguyên nhân đó trong thể tình cảm hay thể trí, các thành viên của nhóm mới tiến hành xem xét hiệu quả biểu lộ trong thể xác hay thể dĩ thái. Nếu vấn đề hoàn toàn thuộc về thể xác, như trường hợp một loại tai nạn, hay một bệnh tật hoàn toàn do di truyền hoặc bẩm sinh, thì các phương pháp trị liệu cấp cao của khoa học thường thức ở cõi trần sẽ được áp dụng trước hết. Công việc của nhóm trị liệu sẽ là trợ giúp các phương pháp này bằng cách tập trung vào các thể thanh hơn. Điều vừa kể được áp dụng trong thời kỳ chuyển tiếp mà hiện nay nhân loại đang bước vào. Về sau, khi kiến thức về khoa trị liệu nội môn trở nên phổ biến hơn và những định luật chi phối các thể thanh được hiểu biết nhiều hơn thì khoa trị liệu ở cõi trần sẽ được thay thế bằng khoa phòng bệnh ở các cõi tế vi. Khoa này sẽ nhằm cung ứng những điều kiện đúng đắn và kiến tạo các thể để vừa tự bảo vệ vừa hóa giải được mọi sự tấn công của bệnh tật. Người ta sẽ thấy sự thấu hiểu luật rung động và ảnh [243] hưởng của một rung động vào một rung động khác, là chìa khóa của việc cải thiện điều kiện sống, và tạo nên những thể lành mạnh trên mọi cảnh giới.
Nhưng như hiện nay bệnh tật, những loại suy yếu khác và sự đau đớn trong tất cả các thể đang có khắp nơi, và khi những tình trạng đó đã được nhận thức, thì rất cần tìm phương tiện để trợ giúp. Điều này đưa chúng ta đến điểm kế tiếp:
2. Nhóm trị liệu phải xác định đầy đủ các chi tiết về bệnh nhân, dựa theo những câu hỏi sau đây:–
a. Bệnh nhân có những lối suy tư cơ bản nào?
b. Chính yếu là những hình tư tưởng nào đang bao bọc quanh y?
c. Màu sắc nào nổi bật trong thể tình cảm của bệnh nhân? Với mức độ rung động ra sao?
d. Bệnh nhân có đang bị một xáo trộn bất ngờ khiến cho toàn bộ thể tình cảm của y bị rối loạn không?
e. Y thường đề cập đến những vấn đề nào? Những quan tâm chính của y là gì?
f. Y thường nghiên cứu những loại sách báo gì?
g. Và thích theo đuổi những điều gì?
h. Tình trạng các luân xa trong cơ thể của y ra sao? Những luân xa nào đã được đánh thức?
i. Có luân xa nào đang quay trong phạm vi bề đo thứ tư không? Trong một trường hợp đặc biệt nào đó thì luân xa nào là chính yếu?
j. Tình trạng thể dĩ thái của bệnh nhân ra sao?
Nó có triệu chứng mất sinh lực hay bế tắc không?
Bệnh nhân có thiếu sinh lực không?
Ảnh hưởng từ lực của y đối với người khác như thế nào?
[244] Khi đã xem xét bệnh nhân theo tất cả các khía cạnh này rồi (chứ không sớm hơn), nhóm trị liệu mới quan sát chi tiết trong chính thể xác của y. Sau đó, khi đã có ý niệm về các tình trạng gây bệnh, nhóm sẽ nghiên cứu đến:–
a. Tình trạng hệ thần kinh của bệnh nhân, đặc biệt lưu ý đến cột sống và tình trạng của luồng nội hỏa.
b. Tình trạng của các cơ quan trong cơ thể, nhất là cơ quan hay những cơ quan đang gây bệnh.
c. Cấu trúc cơ thể của bệnh nhân, xương, thịt và tình trạng của chất lỏng thiết yếu là máu.
Nhãn quan cao và sức khỏe.
Như các bạn có thể thấy, nhất thiết việc định bệnh này phải cần kiến thức khoa học trực tiếp, hoặc bằng cách khác là dùng nội nhãn thông để thấy được căn bệnh ở đâu, và có thể dùng nhãn thông quan sát toàn thân và các cơ quan, để định ngay được vị trí bệnh tật. Muốn có khả năng này cần phải phát triển các quyền năng nội tại để thu được kiến thức trong tam giới. Nhờ đó tránh được những sai lầm tai hại thường xảy ra trong việc thực hành y khoa hiện nay, gọi là thuật điều trị. Trong tương lai sẽ không còn nguy cơ sai lầm nhiều đến thế trong trị liệu. Thế nhưng, dù có thể tránh được các sai lầm này trong trường hợp điều trị thể xác, hãy còn lâu sự hiểu biết đầy đủ về thể tình cảm mới đến mức mà khoa học hiện đại đã đạt đối với thể xác. Việc chữa trị thể xác và sự hiểu biết hay nghiên cứu đúng đắn về thể xác có thể thực hiện được do một người có nội nhãn thông. Nhờ khả năng thấy được các cấp độ tình cảm, y có thể hợp tác với người [245] thầy thuốc sáng suốt hiện nay để giúp vị này khỏi bị sai lầm, xác định đúng tầm mức của cơn bệnh, nguyên nhân bệnh tật, phương tiện trợ giúp, và tiến độ trị liệu.
Bệnh tật của thể tình cảm biểu lộ trong thể xác, như phần lớn các bệnh thân xác của nhân loại hiện nay, thường có thể định bệnh và loại trừ được nhờ điều trị đúng. Nhưng đối với các bệnh ở thể tình cảm đã ăn sâu vào thể thanh này thì phải đối trị từ các cấp độ trí tuệ, vì thế phải cần người có nhãn thông thể trí để đối trị và tiêu trừ. Dĩ nhiên là tất cả những phương pháp này đều cần đến sự hợp tác hữu ý và tích cực của chính bệnh nhân.
Tương tự, bệnh tật của thể trí thì phải đối trị ngay từ cấp của thể nguyên nhân, cho nên cần sự trợ giúp của Chân nhân, và người đã có nhãn quan và tâm thức của thể này. Phương pháp sau cùng vừa kể và phần lớn các bệnh loại này còn lâu mới xảy ra cho nhân loại, nên ngày nay không mấy liên quan đến chúng ta. Tuy nhiên, việc trị liệu các bệnh của xác thân (bắt nguồn từ thể tình cảm) thì đã bắt đầu được biết và nghiên cứu đôi chút. Khi kết hợp nghiên cứu tâm lý học và thấu hiểu các loại bệnh thần kinh, y khoa sẽ tiến đến bước kế tiếp. Thể dĩ thái là thể nối liền thể tình cảm và thể xác. Bước kế tiếp là nghiên cứu thể dĩ thái theo hai lối, hoặc xem nó là bộ máy truyền dẫn prana, sức sống, sinh khí hay từ lực, hoặc là vận cụ nối liền bản tính tình cảm với xác thân. Thể xác triệt để tuân theo mệnh lệnh của bản tính này truyền qua thể dĩ thái.
Khi thành lập các nhóm trị liệu theo những điều kiện lý tưởng, vị trưởng nhóm phải là người có được tâm thức của thể nguyên nhân. Người này có thể đối trị được bất cứ bệnh tật nào trong thể trí, và có thể khảo sát được sự chỉnh hợp của [246] các thể với Chân nhân. Nhóm cũng sẽ bao gồm:–
a. Một người hay nhiều người có nhãn thông, thấy được thể thanh là thể tình cảm.
b. Một số người hiểu được phần nào các nguyên tắc căn bản của luật rung động. Họ có thể dùng quyền năng tư tưởng để áp dụng chính xác những sóng màu sắc trong một số cuộc trị liệu, và nhờ kiến thức khoa học mà đạt được những kết quả mong muốn.
c. Một thành viên của nhóm là người của ngành y để trị bệnh xác thân, dưới sự chỉ đạo của các nhà nhãn thônghữu thức. Vị này sẽ nghiên cứu sức đề kháng của cơ thể, sẽ áp dụng một số dòng mãnh lực, màu sắc, và rung động có tác dụng trực tiếp vào thể xác. Nhờ sự hợp tác của toàn nhóm mà các kết quả đạt được sẽ đáng gọi là phép lạ.
d. Trong nhóm cũng có một số người có khả năng thiền huyền môn, và nhờ năng lực tham thiền tạo nên đường dẫn hình phễu cần thiết để truyền các mãnh lực chữa trị của Chân ngã và Chân sư.
e. Ngoài ra trong nhóm cũng có người có thể ghi chép một cách chính xác mọi việc xảy ra, để làm hồ sơ và tài liệu học tập cho trường phái y khoa mới.
Tôi đang nói đến nhóm trị liệu lý tưởng. Hiện tại nhóm này chưa thể nào có được. Nhưng có thể khởi đầu bằng cách sử dụng bất cứ kiến thức và quyền năng nào có được trong những người đang tìm cách phụng sự chủng tộc mình và Chân sư.
Từ các điều trên, ta thấy rằng màu sắc được áp dụng theo hai lối:–
[247]
1. Trên các cõi cao nhờ quyền năng của tư tưởng, và
2. Dùng các loại ánh sáng màu chiếu vào thể xác.
Với thể xác thì các màu thông thường sẽ được áp dụng, còn những màu huyền bí thì sẽ được dùng cho các thể thanh hơn. Thế nên, phần lớn công tác này nằm trong tay các môn sinh huyền bí học trên thế giới, họ làm việc trong những nhóm có tổ chức, dưới sự giám sát chuyên môn (cho đến khi kiến thức nội môn này trở thành ngoại môn).
Các bạn hỏi hiện nay các nhóm này có thể bắt đầu dùng màu sắc đến mức nào để làm việc? Hiện nay, vấn đề trước mắt cần nắm vững và thực hiện là phát triển kiến thức cần thiết về thể dĩ thái, luôn ghi nhớ việc kiến tạo các thể tinh khiết, và nghiên cứu ảnh hưởng của các màu sắc khác nhau đối với thể xác. Vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu nhiều. Các bạn sẽ thấy rằng những màu nhất định ảnh hưởng rõ rệt đến những loại bệnh nhất định, trị được một số bệnh thần kinh, xóa được một số khuynh hướng đau yếu trong thần kinh hệ, giúp tạo lập những mô mới, hoặc thiêu hủy các thối nát. Tất cả những điều này đều phải được nghiên cứu. Có thể thí nghiệm việc truyền sinh lực và từ lực, cả hai đều tác động trực tiếp vào thể dĩ thái, và bí ẩn này cũng thuộc luật rung động và màu sắc. Về sau . . . . . . . . chúng ta có thể bàn nhiều chi tiết hơn về công việc của các nhóm trị liệu này, khi họ được qui tụ để tham thiền. Ở đây tôi muốn nói thêm về các hiệu quả nhất định của một số màu, dù cho đến nay tôi chỉ có thể kể thêm ba màu và nói vắn tắt thôi:–
1. Màu vàng cam kích thích hoạt động của thể dĩ thái, giải trừ những tắc nghẽn và tăng cường dòng sinh khí prana.
2. Màu hồng tác động vào hệ thần kinh và có khuynh hướng làm sinh động, loại trừ trầm cảm và những [248] triệu chứng suy yếu, tăng cường ý chí muốn sống.
3. Màu xanh lục có hiệu quả trị liệu tổng quát, có thể được sử dụng một cách an toàn trong các trường hợp bị viêm và sốt. Nhưng hiện nay hầu như không thể cho biết những điệu kiện đúng đắn để áp dụng màu này, hay độ đậm nhạt theo nhu cầu. Đây là một trong những màu căn bản rốt cuộc sẽ được dùng trong việc điều trị xác thân, và hiện là màu của âm điệu của Thiên nhiên.
Dường như các bạn thấy những lời này quá sơ sài và không đầy đủ? Vậy mà nó còn vượt khả năng hiểu biết của các bạn đó. Nhưng đừng quên điều tôi thường nói với các bạn là sau các lời ngụ ý ngắn ngủi này có sẵn con đường đưa đến nguồn cội của mọi tri thức.

Ngày 11-9-1920.
Giờ đây chúng ta đến phần cuối về việc sử dụng màu sắc trong tham thiền. Chúng ta đã bàn vấn đề theo cách mà nếu những ẩn ngữ rải rác trong những lời truyền đạt này được theo dõi đúng mức thì chúng sẽ là cơ bản cho những kết luận tất phải có. Rốt cuộc những kết luận này sẽ là những định đề mà các trường phái y khoa hay khoa học tương lai sẽ dựa vào để tiếp tục công việc của họ. Chúng ta có thể tóm lược các điều đã học như sau:–
1. Các màu sắc căn bản của Phàm nhân phải được thăng hoa thành các màu của Tam nguyên hay là Tinh thần tam phân. Điều này được thực hiện nhờ tham thiền huyền môn đích thực.
2. Những màu sắc mà người mới học khoa trị liệu cần quan tâm chính yếu là màu vàng cam, màu hồng và xanh lục.
3. Cung màu tím giữ bí mật cho chu kỳ hiện tại. [249]
4. Điểm kế tiếp phải hiểu biết thấu đáo sẽ là những định luật chi phối thể dĩ thái.
5. Khi phát triển trực giác, con người sẽ nhận biết được các màu huyền bí mà các màu thông thường đang che giấu.
6. Màu sắc là hiện tướng và sức mạnh của đức hạnh (hiểu theo nghĩa huyền bí) trong đời sống nội tâm.
Tôi đã tóm tắt các điểm thực dụng, cần được chú ý ngay để hiểu rõ thêm. Dùng những điều này làm căn bản để nghiên cứu, rốt cuộc người môn sinh có thể hy vọng thấy loại công việc của cả những trường y khoa và các phân khoa tâm lý sẽ hoàn toàn thay đổi. Các bạn có thể ghi nhận nơi đây đôi lời tiên đoán để giúp ích thế hệ mai sau.
Dự báo về tương lai.
1. Cách giảng dạy trong các trường y khoa sẽ ngày càng dựa vào sự rung động, và được phát biểu trong phạm vi âm thanh và màu sắc.
2. Giáo huấn tôn giáo trên thế giới và sự chú trọng đến đức hạnh cũng sẽ được truyền dạy trong phạm vi màu sắc. Rốt cuộc người ta sẽ được phân nhóm theo màu sắc của cung họ, và điều này có thể thực hiện khi nhân loại phát triển khả năng thấy các hào quang. Số những nhà nhãn thông hiện nay đã nhiều hơn con số chúng ta biết được, vì người có thần thông chân chính thường giữ im lặng.
3. Khoa số học thực ra là khoa học về màu sắc và âm thanh cũng sẽ thay đổi chút ít về cách dụng ngữ, và cuối cùng màu sắc sẽ thay thế các con số.
4. Một ngày kia những định luật chi phối việc xây dựng các công trình lớn và việc nâng những vật nặng sẽ [250]được hiểu trong phạm vi âm thanh. Khi chu kỳ trở lại và ngày giờ đến, chúng ta sẽ thấy sự tái hiện khả năng nâng các khối lớn cực nặng, của người Lemuria và người Atlantis nguyên thủy, – nhưng lần này ở trên vòng tiến hóa cao hơn. Việc dùng trí để thấu hiểu phương pháp này sẽ được phát triển. Các khối nặng này đã được nâng lên nhờ những nhà kiến tạo thời xưa có khả năng dùng âm thanh tạo được một khoảng chân không và dùng cho các mục đích riêng của họ.
5. Cũng sẽ chứng tỏ rằng có thể vận dụng một số màu sắc kết hợp với âm thanh để tạo sự hủy diệt và những hiệu quả lớn lao sẽ được thực hiện theo lối này. Màu sắc có thể chữa trị cũng như có thể hủy diệt. Âm thanh có thể phá vỡ cũng như có thể tạo sự cố kết. Hai tư tưởng này bao hàm bước kế tiếp của khoa học trong tương lai gần đây. Những định luật về rung động sẽ được nghiên cứu và hiểu biết sâu rộng, và việc sử dụng kiến thức về sự rung động ở cõi trần sẽ mang lại nhiều phát triển thú vị. Các phát triển đó sẽ là một phần kết quả tự nhiên của việc nghiên cứu về chiến tranh và các ảnh hưởng của chiến tranh, về mặt tâm lý và các mặt khác. Ví dụ như âm thanh của những súng lớn lại có nhiều hậu quả hơn là tác động của quả đạn ở cõi trần. Các ảnh hưởng này phần lớn ở cấp dĩ thái và tình cảm nên hiện nay chúng ta chưa thực sự nhận biết được.
6. Âm nhạc sẽ được sử dụng rộng rãi trong kiến tạo, và trong 100 năm nữa âm nhạc sẽ là một yếu tố trong một số công trình xây dựng. Đối với các bạn điều này dường như hoàn toàn không thể được, nhưng đó chỉ là việc sử dụng âm thanh có qui củ để đạt những mục tiêu nhất định.
[251] Các bạn sẽ hỏi, tất cả những điều đó có tác dụng gì trong loạt thư nói về tham thiền này? Đơn giản là phương pháp sử dụng màu sắc và âm thanh để chữa bệnh, để xúc tiến sự phát triển tinh thần, và để xây dựng ở cõi trần đều sẽ dựa vào các định luật chi phối thể trí, và sẽ là những hình thức tham thiền. Ngày nào nhân loại phát triển được những quyền năng mạnh mẽ và các thuộc tính của tư tưởng (các quyền năng này là sản phẩm của tham thiền đúng đắn), chừng ấy người ta mới có thể áp dụng được các định luật rung động vào những mục tiêu bên ngoài. Đừng nên nghĩ rằng chỉ có nhà thần bí hay người sùng tín trong tôn giáo, hoặc người thấm nhuần những gì chúng ta gọi là giáo huấn cao siêu mới là người giỏi về các quyền năng đạt được qua tham thiền. Tất cả các nhà đại tư bản, những thủ trưởng tối cao của ngành kinh tài, hoặc tổ chức thương mại đều là những kẻ nắm giữ các quyền năng tương tự. Họ là hiện thân của sự chuyên nhất theo một đường lối tư tưởng và họ tiến hóa song hành với nhà thần bí hay huyền bí gia. Tôi hết sức nhấn mạnh vào sự kiện này. Họ là những người tham thiền theo đường lối của Đức Văn minh Đại đế, là vị Chúa của Văn minh hay Văn hóa. Sự cực kỳ chuyên chú vào vấn đề trước mắt là bản tính đặc thù của con người họ, và trong nhiều phương diện họ đạt được những kết quả to tát hơn nhiều môn sinh hành thiền. Tất cả những gì họ cần phải làm là thăng hóa nguyên động lực ẩn trong công việc của họ, rồi ra họ sẽ thành tựu vượt hơn các môn sinh khác. Họ sẽ tiến đến một điểm tổng hợp, và sẽ dấn bước trên Con đường Dự bị.
Vì thế, Luật Rung động sẽ ngày càng được mọi người thấu đáo và chúng ta sẽ thấy nó chi phối sự hoạt động trong cả ba ngành của Đức Bàn cổ, Đức Chưởng giáo và Đức Văn minh. Luật này sẽ phát biểu cơ bản là qua màu sắc và âm thanh, với các thuật ngữ quen thuộc của hai lĩnh vực này. Sự xáo trộn tình cảm sẽ được xem như là âm thanh thiếu hài hòa. Trí tuệ [252] trì độn sẽ được gọi là sự rung động thấp, và bệnh tật thân xác sẽ được xem xét về mặt số học. Rốt cuộc, toàn bộ công tác kiến tạo sẽ được phát biểu trong phạm vi số học, màu sắc, và âm thanh.
Vấn đề này bàn bấy nhiêu là đủ, và giờ đây tôi không còn gì để nói thêm. Chủ đề này thật sâu xa khó hiểu và chỉ nhờ kiên trì suy ngẫm chúng ta mới soi sáng được sự tối tăm. Chỉ khi nào tia sáng trực giác chiếu xuyên qua bức màn tăm tối (tức là màn vô minh che án mọi hiểu biết) thì các hình tướng che giấu sự sống nội tại sẽ được soi sáng và thấu hiểu. Chỉ đến khi ánh sáng của lý luận mờ đi trước ngôi mặt trời minh triết huy hoàng, thì mọi sự vật sẽ được thấy đúng tỉ lệ của chúng, và người ta mới biết được tần số rung động và những màu sắc chính xác của các hình thể.
[253] BỨC THƯ VIII
TIẾN ĐẾN CHÂN SƯ NHỜ THAM THIỀN.
1. Các Chân sư là ai?
2. Việc tiến đến Chân sư cần những gì:–
a. Về phần môn sinh?
b. Về phần Chân sư?
3. Những phương cách tiến đến Chân sư nhờ tham thiền.
4. Hiệu quả của việc tiếp cận này trong tam giới.
[254]
[255]

 

 

 

[256] BỨC THƯ VIII
TIẾN ĐẾN CHÂN SƯ NHỜ THAM THIỀN.
Ngày 12-09-1920.
Tìm kiếm mục tiêu.
Hôm nay chúng ta có thể đề cập đôi điều về các Chân sư, và cách đến gần các Ngài qua tham thiền. Tôi biết đây là một vấn đề thân thiết với tâm hồn các bạn, cũng như đối với những ai đang thiết tha đi theo ánh sáng nội tâm. Tôi tìm cách trình bày vấn đề sao cho khi đọc hết bức thư này các bạn sẽ thấy các Chân sư có thực hơn các bạn đã từng biết trước đây. Các bạn sẽ hiểu rõ hơn về thực nghĩa của việc tiến đến gần các Ngài và phương cách đến gần trở nên giản dị hơn. Hiệu quả của việc tiếp xúc với các Ngài sẽ tỏ rõ trong cuộc sống đến mức giúp hành giả hăng hái theo đuổi sự thành đạt có tính thực dụng và trực tiếp này. Vì vậy, chúng ta hãy chia vấn đề làm nhiều mục, như vẫn làm từ trước đến nay:–
1. Các Chân sư là ai?
2. Việc tiến đến Chân sư cần những gì:–
a. Về phần môn sinh?
b. Về phần Chân sư?
3. Những phương cách tiến đến Chân sư bằng tham thiền.
4. Hiệu quả của việc cận tiến này trên ba cõi thấp.
Ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng đều có sự thôi thúc con người tìm kiếm một vị nào đó mà đối với y là hiện thân cho lý tưởng. Ngay cả những người không chấp nhận sự hiện hữu của các Chân sư, họ cũng tìm kiếm một lý tưởng rồi hình dung lý tưởng ấy được thể hiện dưới một hình thức nào đó ở cõi trần. Có lẽ họ tự nghĩ mình là tiêu biểu cho hành động [257] lý tưởng. Hoặc họ hình dung ra một nhà từ thiện danh tiếng nào đó, một nhà khoa học xuất chúng, một họa sĩ hay nhạc sĩ tài danh và cho rằng vị ấy đang thể hiện được cái quan niệm tuyệt vời của họ. Con người, – vì vốn là một mảnh nhỏ (của Thượng Đế) và chưa hoàn thiện – nên đã luôn luôn có sự thôi thúc trong tâm, muốn tìm một bậc nào khác cao cả hơn y. Chính sự thôi thúc này đưa y trở về trung tâm của bản thể y, và cũng chính sự thôi thúc này khiến y phải theo con đường trở về với Toàn Ngã. Qua những kỳ gian vô lượng, bao giờ đứa Con đi hoang cũng trỗi dậy và quay về với Cha mình. Y luôn luôn âm thầm nhớ nhung Ngôi Nhà Cha và sự vinh quang ở đó. Nhưng vì cấu trúc của trí tuệ con người nên tất nhiên là cuộc tìm kiếm ánh sáng và lý tưởng này phải lâu dài và khó nhọc. “Hiện nay chúng ta đang nhìn xuyên qua một tấm kính màu đen, nhưng về sau chúng ta sẽ nhìn trực tiếp”. Giờ đây thỉnh thoảng nhìn qua những khung cửa sổ mà chúng ta lướt ngang khi leo lên những nấc thang tiến hóa, chúng ta thoáng thấy những vị khác và những Đấng cao cả hơn chúng ta. Các Ngài đang đưa tay trợ giúp chúng ta, và mạnh mẽ kêu gọi chúng ta hãy tiếp tục chiến đấu dũng cảm, nếu chúng ta muốn đến được vị thế của các Ngài hiện nay.
Chúng ta cảm được những sự mỹ lệ và huy hoàng bao quanh chúng ta mà từ trước đến giờ chúng ta chưa hề thưởng thức. Chúng thoáng vờn qua tầm mắt, và chúng ta chạm đến sự vinh quang trong giây phút tuyệt vời ngắn ngủi, rồi sự tiếp xúc qua mất, ta lại chìm vào sự tối tăm u ám bao quanh. Nhưng chúng ta biết được rằng ở bên ngoài và ở đằng xa kia có một điều gì đó đáng cho ta mong mỏi. Chúng ta cũng học được sự bí nhiệm là chỉ có thể tiếp xúc với điều kỳ diệu ở bên ngoài bằng cách đi sâu vào bên trong, cho đến khi tìm được trung tâm của ý thức. Trung tâm này hòa điệu với những điều kỳ diệu mà ta chỉ nhận thức được một cách lờ mờ, và với những linh hồn sáng chói mà các Ngài tự gọi là Huynh trưởng của chúng ta. Chỉ bằng cách phá vỡ những lớp vỏ cứng bên ngoài che giấu nội tâm, chúng ta mới đạt được mục tiêu và tìm thấy được những Đấng chúng ta đang tìm kiếm. Chỉ bằng cách chế ngự tất cả mọi hình tướng, và đặt chúng dưới sự ngự trị của Đấng Thượng Đế nội tâm, chúng ta mới tìm được Thượng Đế trong vạn vật. Vì chỉ có[258] những lớp vỏ chúng ta dùng để sinh hoạt mới che không cho ta thấy Đấng Thượng Đế ngự trong tâm, mới ngăn cách chúng ta với những Đấng mà Thượng Đế trong các Ngài vượt cao hơn mọi hình hài sắc tướng.
Một vị Điểm đạo đồ cao cấp có nói những lời chói ngời chân lý rằng: “Rồi chúng ta sẽ biết chính những điều mà hiện nay chúng ta được truyền dạy.” Đối với mỗi người và tất cả những ai phấn đấu đúng đắn, phụng sự vô kỷ và tham thiền huyền môn, tương lai hứa hẹn rằng họ sẽ biết được những Bậc đã có đầy đủ kiến thức của người chiến sĩ. Đó là niềm hy vọng của người môn sinh hành thiền. Khi y chiến đấu, khi y thất bại, khi y kiên trì, và khi y lặp lại một cách nhọc nhằn hết ngày này qua ngày khác, cái công việc khó khăn là định trí và kiểm soát tư tưởng, thì ở nội môn có các Đấng biết rõ y, các Ngài trông nom bước tiến của y với tấm lòng dồi dào thiện cảm.
Chúng ta đừng quên phần đầu trong những lời nhận xét của vị Điểm đạo đồ này, khi người chỉ con đường để dẹp tan hắc ám và đạt đến mức hiểu biết được các Đấng Cao cả. Người nhấn mạnh rằng chỉ nhờ tình thương chúng ta mới có thể dấn bước lên con đường của ánh sáng và tri thức. Tại sao lại phải chú trọng đến tình thương? Bởi vì mục tiêu cho tất cả là tình thương, và trong tình thương có sự hòa hợp. Tình thương thường khi chỉ là một xúc cảm mơ hồ, và chúng ta có thể phát biểu nó một cách khoa học như sau:– Chính nhờ đạt được sự rung động tương đồng với cung Bác ái-Minh triết (Cung Thiêng liêng) mà chúng ta tiếp xúc được với các Đấng Chúa tể
Bác ái, và biết được các Chân sư Từ ái. Bấy giờ khả năng nhập vào tâm thức của các Đấng Cao cả cùng tất cả các cấp huynh đệ của chúng ta mới trở thành hiện thực.
Đó là con đường mà mỗi người và tất cả mọi người đều phải đi qua, bằng phương pháp tham thiền. Mục tiêu là minh triết và tình thương hoàn hảo. Những bước tiến là vượt lên hết cõi phụ này đến cõi phụ khác trong tam giới. Phương pháp là phương pháp thiền huyền môn. Phần thưởng là sự [259] liên tục mở mang tâm thức, để cuối cùng giúp hành giả hòa hợp với Chân ngã của mình, với các Chân ngã khác, với vị Chân sư đang thiết tha mong đợi mà y được giao phó cho Ngài, với các bạn đồng môn và các vị Điểm đạo đồ cao cấp mà y có thể tiếp xúc được trong hào quang của Chân sư. Cho đến cuối cùng y tiếp xúc được với Đấng Điểm đạo Duy nhất, để Ngài nhận y vào trong Chốn Bí mật, và biết được bí nhiệm của chính tâm thức.
Ngày 14-9-1920.
Các Chân sư là ai?
Nên bắt đầu xem xét vấn đề tiến đến các Chân sư nhờ tham thiền qua một số phát biểu căn bản, về các Chân sư và vị trí của các Ngài trên thang tiến hóa. Vì thế chúng ta hãy đề cập đến điểm đầu tiên. Chúng ta sẽ nêu vài ý tưởng về địa vị của các Ngài, về sự phát triển toàn diện và những phương pháp làm việc của các Ngài. Khỏi phải nói trước rằng phần lớn những điều sau đây đều không có tầm quan trọng nào mới mẻ. Thế nhưng những gì liên quan mật thiết với chúng ta và những gì chúng ta quen thuộc nhất lại thường là những điều ta hay sơ sót và suy luận về chúng một cách mơ hồ.
Một Chân sư Minh triết là Vị đã được năm lần điểm đạo. Quả thực điều đó có nghĩa là tâm thức của Ngài đã mở mang đến mức bao gồm trường tiến hóa thứ năm hay là giới tinh thần. Ngài đã tự vạch lối đi qua bốn giới thấp:– khoáng vật, thực vật, động vật và nhân loại – và nhờ hành thiền và phụng sự mà tâm thức của Ngài đã triển khai đến mức bao gồm được cảnh giới tinh thần.
Một Chân sư Minh triết là Vị đã chuyển được sự phân cực từ ba nguyên tử trường tồn của đời sống phàm ngã – khi chúng được bao gồm trong thể nguyên nhân – vào ba nguyên tử của
Tam nguyên Tinh thần. Ngài là sự phối hợp hữu thức của tinh [260] thần-trực giác-trí tuệ trừu tượng, hay là atma-buddhi-manas. Và điều này không còn tiềm ẩn mà trở thành quyền năng đầy hiệu lực, được Ngài thực hiện qua kinh nghiệm. Như tôi đã nói, Ngài đạt được trạng thái này nhờ quá trình tham thiền.
Một Chân sư Minh triết là Vị không những đã tìm được hòa âm của Chân ngã, mà còn tìm được đầy đủ hòa âm của Chân thần. Vì thế Ngài có thể tùy ý phát ra tất cả những nốt khác nhau, từ nốt thấp nhất cho đến nốt của Chân thần. Điều này có ý nghĩa huyền bí là giờ đây Ngài đã phát triển được khả năng sáng tạo, có thể ngân lên âm điệu của mỗi cảnh giới và kiến tạo ở đó. Quyền năng này – một là khám phá ra các nốt trong hòa âm của Chân thần, và hai là sử dụng các nốt đó trong kiến tạo. Trước hết quyền năng này được nhận thức qua tham thiền huyền môn, được thực hiện và làm quân bình nhờ phụng sự trong tình thương.
Một Chân sư Minh triết là Vị có thể vận dụng định luật trong tam giới và có thể chế ngự tất cả những gì đang tiến hóa trong ba cõi đó. Nhờ học được các định luật của trí tuệ qua hành thiền, Ngài triển khai các định luật của trí tuệ cho đến mức chúng bao gồm các định luật của Trí tuệ Vũ trụ biểu lộ ở cấp thấp. Các định luật trí tuệ được thấu đáo trong tham thiền và được áp dụng trong cuộc sống phụng sự, vốn là thành quả hợp lý của chân tri thức.
Một Chân sư Minh triết là Vị đã đi qua Phòng Học tập và vào được Phòng Minh triết. Ngài đã vượt qua được năm cấp bậc của Phòng này và đã chuyển hóa hạ trí thành trí tuệ thuần khiết, đã chuyển hóa dục vọng thành trực giác, và đã chiếu sáng tâm thức Ngài bằng ánh sáng của Tinh thần thuần khiết. Sự tuân thủ các giới luật của tham thiền là phương cách duy nhất giúp công việc này thành tựu.
Một Chân sư Minh triết là Vị, nhờ kiến thức hoạch đắc qua năm giác quan, đã học biết rằng sự tổng hợp vốn có thực, [261] và đã hòa nhập ngũ quan vào hai quan năng tổng hợp. Đó là mức thành đạt của Ngài trong thái dương hệ. Nhờ tham thiền Ngài điều chỉnh được ý thức cân đối về phương diện hình học, nhận định rõ ý thức về giá trị, và nhờ sự điều chỉnh và nhận định này mà xóa tan ảo tưởng và biết được thực tại. Sự hành thiền và tập trung vào nội tâm đã làm cho tâm thức bừng tỉnh, và nhận biết giá trị cũng như công dụng đích thực của hình thể. Nhờ đó Ngài biết được thực tại và vượt hết mọi cạm bẫy trong tam giới.
Một Chân sư Minh triết là Vị đã biết được ý nghĩa của tâm thức, của sự sống, và tinh thần. Ngài có thể theo con đường ít trở ngại nhất mà đi thẳng vào “lòng của Cha Ngài ở trên Trời.” Cách tiến theo con đường trực tiếp, ít trở ngại nhất, được tìm thấy qua tham thiền.
Một Chân sư Minh triết là Vị đã tự biến đổi từ năm thành ba, và từ ba thành hai. Ngài đã trở thành ngôi sao năm cánh, và đến lúc ấy Ngài thấy ngôi sao này bừng chiếu trên Đấng Điểm đạo Duy nhất và nhận ra ngôi sao này trong những người có cùng địa vị như Ngài. Hiểu theo ý nghĩa huyền bí, Ngài đã thánh hoá Tứ hạ thể, và đã dùng chúng làm viên đá nền tảng để xây dựng Ngôi đền Solomon trên đó. Ngài đã tăng trưởng vượt cao hơn chính Ngôi đền ấy và đã nhận thấy đó là hạn chế. Ngài đã thoát ra khỏi các bức tường vây bọc của nó và đã nhập vào Tam nguyên. Luôn luôn Ngài thực hiện điều này bằng phương pháp huyền môn, tức là thực hiện một cách hữu thức và hiểu biết đầy đủ từng bước một. Ngài học được ý nghĩa của mỗi hình thể đang giới hạn. Bấy giờ Ngài kiểm soát và vận dụng được định luật trên cảnh giới phù hợp với hình thể đó. Rồi Ngài tăng trưởng lớn hơn hình thể, bỏ nó đi để lấy một hình thể khác cao khiết hơn. Cứ thế,
Ngài luôn luôn tiến tới bằng sự hy sinh và chết dứt của hình [262] thể. Luôn luôn chúng ta phải nhận thấy sự tù hãm của hình thể. Luôn luôn nó phải hy sinh và chết đi, để cho sự sống bên trong ngày càng tăng tiến và hướng thượng. Con đường phục sinh báo trước khổ hình thập tự và sự chết, rồi đưa hành giả đến Đỉnh núi để thực hiện sự Thăng thiên. Trong tham thiền, giá trị của sự sống và các giới hạn của hình thể được đánh giá và hiểu biết, và nhờ hiểu biết và phụng sự mà sự sống có thể giải thoát khỏi mọi hạn chế và chướng ngại.
Một Chân sư Minh triết là Vị đã tình nguyện ở lại Địa cầu để giúp các huynh đệ của Ngài. . . . Tất cả những Vị đã được điểm đạo lần thứ năm đều là những Chân sư Minh triết, nhưng không phải tất cả các Ngài đều ở lại để phụng sự nhân loại. Các Ngài chuyển sang công việc khác có tầm quan trọng bằng hay lớn hơn. Đối với công chúng thì điều này có nghĩa là các Ngài chọn việc ở lại và tự giới hạn vì nhân loại, là những người đang dấn bước trong trào lưu tiến hóa. Nhờ tham thiền mà Đấng Cao cả đạt được mục tiêu của Ngài, và (một điều thường không được hiểu là) nhờ tham thiền, hay vận dụng chất liệu tư tưởng, và nhờ tác động vào trí tuệ của nhân loại mà công việc được tiến hành để trợ giúp diễn trình tiến hóa.
Một Chân sư Minh triết là Vị đã được điểm đạo lần đầu liên kết Ngài với các Đấng Cao cả của hệ Sirius. Như tôi đã nói trước đây, Ngài là vị Điểm đạo đồ được điểm đạo lần thứ nhất trong Huyền giai vĩ đại này. Ngài đã đạt mức phát triển tâm thức giúp Ngài tiếp xúc với nhiều phân bộ của Thái dương hệ. Giờ đây, trước mắt Ngài là tầm phát triển bao la mà cuối cùng sẽ đưa Ngài vượt ra ngoài tâm thức Thái dương hệ để nhập vào những gì còn vĩ đại hơn và rộng lớn hơn nhiều. Ngài phải bắt đầu học những nguyên tắc cơ bản của tham thiền vũ trụ, để giúp Ngài nhập vào một trạng thái Tâm thức vượt ngoài tầm nhận biết và ước đoán của chúng ta. [263]
Một Chân sư Minh triết là Vị có thể hoạt động một cách hữu thức với tư cách là thành phần của Đấng Thiên đế mà Ngài thuộc về cơ thể của Đấng ấy. Ngài hiểu những định luật quản trị các nhóm và các linh hồn của nhóm. Chính Ngài cũng quản trị linh hồn của nhóm một cách hữu thức (một nhóm đang trên đường phản bổn hoàn nguyên và gồm sinh mệnh của nhiều người) và Ngài biết vị trí của mình trong cơ thể của Đức Thái Dương Thượng Đế. Ngài nhận biết được luân xa trong Cơ thể của Đấng Thiên Đế này để nhờ đó Ngài và nhóm của Ngài giữ được sự rung động hòa hợp, và xúc tiến mối quan hệ của Ngài với các nhóm khác (ở trong cùng Cơ thể ấy) theo một số định luật xác định. Tất cả các môn sinh suy ngẫm sâu xa sẽ nhận thức được giá trị của tham thiền là sự chuẩn bị cho hoạt động này. Vì tham thiền là phương tiện duy nhất để vượt khỏi ý thức chia rẽ, và hiểu được sự hợp nhất huyền bí với đồng loại.
Một Chân sư Minh triết là Vị đã được giao phó một số Quyền lực từ, vì công tác Ngài cần phải hoàn thành. Nhờ các linh từ này Ngài vận dụng được định luật quản trị các trường tiến hóa khác nhân loại, và qua các giới này Ngài cộng tác với trạng thái hoạt động của Thượng Đế. Bằng cách này Ngài hoà hợp tâm thức của Ngài với tâm thức của Thượng Đế Ngôi Ba. Dùng các linh từ này Ngài trợ giúp công cuộc kiến tạo và nỗ lực vận dụng kết hợp của Thượng Đế Ngôi Hai, và hiểu thấu tác động nội tại của định luật trọng trường (hay hấp dẫn và đối kháng). Luật này chi phối mọi hoạt động của Ngôi Hai Thượng Đế. Qua các Linh từ kể trên, Ngài hợp tác với công việc của Thượng Đế Ngôi Một, và học được ý nghĩa của Ý chí (Thiên ý) áp dụng trong thái dương hệ, khi Ngài được điểm đạo lần thứ sáu và thứ bảy (không phải luôn luôn vị Chân sư nào cũng làm thế). Các Linh từ này được khẩu truyền, và truyền qua khả năng nhãn thông, nhưng vị Điểm đạo đồ phải tự mình tìm ra bằng cách sử dụng atma và khi Ngài đạt được tâm thức niết-bàn. . . . Khi tâm thức niết-bàn phát triển nhờ [264] trực giác, vị Điểm đạo đồ có thể tiếp xúc với các kho tri thức sẵn có trong Chân thần và nhờ đó mà học được các Quyền lực từ. Khả năng này chỉ có sau khi Đức Chúa tể Hoàn cầu áp dụng Điểm đạo Thần trượng cho vị Điểm đạo đồ. Vì thế, nhờ các giai đoạn cao của thiền huyền môn mà vị Chân sư Minh triết ngày càng tăng thêm sự hiểu biết của Ngài. Tâm thức Ngài không tĩnh tại mà ngày càng bao gồm nhiều hơn. Mỗi ngày Ngài càng triển khai tâm thức rộng lớn hơn.
Một Chân sư Minh triết là Vị nhờ sự tương đồng rung động mà được quyền làm việc với các vị Lãnh đạo của Đ.Đ.C.G. địa cầu, và phối hợp với các vị Lãnh đạo tương ứng trên hai hành tinh khác liên kết với dãy hành tinh của chúng ta. Khi được điểm đạo cao hơn Ngài có thể tiếp xúc và hoạt động phối hợp với cả bảy vị Hành tinh Thượng đế, chứ không phải chỉ với ba vị đang điều khiển các dãy hành tinh liên kết này. Ngài có thể thấu đáo cả thái dương hệ và tâm thức Ngài đã triển khai đến mức có thể bao trùm cả thái dương hệ khách quan.
Tôi có thể kể ra nhiều định nghĩa khác nữa và giải rõ thêm vấn đề cho các bạn, nhưng hôm nay thế là đủ. Trình độ thành đạt của một vị Chân sư tuy cao thật, nhưng cũng chỉ tương đối thôi. Các bạn đừng quên rằng ở mức thành đạt ấy Ngài cũng thấy còn thấp khi so sánh với các viễn ảnh bao la trước mắt Ngài. Mỗi lần mở rộng tâm thức, mỗi lần bước lên một nấc thang cao hơn, trước mắt vị Điểm đạo đồ lại mở ra một phạm vi mới phải thấu đáo và một bước mới phải tiến thêm. Mỗi cuộc điểm đạo đạt được lại hé lộ cho ta thấy cần phải tiến đến những cuộc điểm đạo khác còn cao hơn nữa. Và không bao giờ có lúc mà người chí nguyện (dù đó là một người thường, một điểm đạo đồ, một Chân sư, một Đế quân hay một vị Phật) lại có thể ở trong tình trạng tĩnh tại, và không thể tiến xa hơn. Ngay cả Đức Thái Dương Thượng Đế Ngài cũng ước nguyện tiến lên, và chính Đấng mà Ngài ngưỡng vọng cũng đang hướng đến một Đấng cao cả hơn. [265]
Điều gì xảy ra trong thái dương hệ thì cũng xảy ra tương tự ở các cấp vũ trụ. Và những gì ta đã thấu đạt trong thái dương hệ hẳn phải được thấu đạt trên qui mô rộng lớn hơn trong vũ trụ. Tư tưởng này mang lại nguồn hứng khởi và sự phát triển chứ không làm chúng ta cảm thấy thất vọng và mệt mỏi. Phần thưởng kèm theo mỗi bước tiến tới và niềm vui thích của khả năng thông hiểu gia tăng là sự ban thưởng thích đáng cho người chí nguyện đang phấn đấu. . . . Ngày mai, chúng ta sẽ bàn đến khía cạnh thiết thực hơn, nói về người nào đang hướng đến tiếng gọi cao cả này.

Ngày 16-9-1920.
Điều kiện để đến gần Chân sư.
Hôm nay, chúng ta bàn đến điểm thứ hai của bức thư thứ tám. Chúng ta phải nhìn vấn đề theo hai hướng, về phần Chân sư chỉ bàn vắn tắt, còn về phần đệ tử thì nói nhiều hơn.
Trong các bức thư này, chúng ta đã phác họa tầm mức rộng lớn của công việc trước mắt những ai muốn thành đạt. Nhiều điều đã viết ra có lẽ không thú vị gì đối với người có trình độ phát triển trung bình, mà chính yếu là liên quan đến những người đã đạt một mức tiến hóa nhất định, và đang đi trên Đường Dự bị. Trong loạt thư đầu, tôi đã truyền đạt cho các bạn nhiều điều có thể nói về vấn đề này. Tôi không muốn nói lại các điều đó ở đây, mà sẽ bàn cụ thể hơn về mối liên quan nội tại giữa Chân sư và đệ tử.
Sự liên hệ này có bốn cấp bậc, và theo từng bậc người môn sinh ngày càng tiến gần Chân sư hơn. Bốn cấp bậc đó được kể sau đây từ giai đoạn người môn sinh được huấn luyện, cho đến lúc chính y trở thành một vị Chân sư. Đó là:–
a. Giai đoạn y được thử thách. [266]
b. Giai đoạn y là một đệ tử nhập môn.
c. Giai đoạn y được xem là người thân cận của Chân sư, hoặc gọi theo danh từ nội môn là “Con của Chân sư.”
d. Giai đoạn y được ba lần điểm đạo sau, và biết mình là một với Chân sư. Y được xếp vào hàng “Đệ tử thân yêu của Chân sư,” một địa vị tương tự như địa vị của Thánh John, người đệ tử thân yêu, trong câu chuyện Kinh thánh.
Tất cả các giai đoạn trên đều chịu sự chi phối của hai điều:–
a. Sự tương đồng rung động.
b. Nghiệp quả, và tất cả đều được bao gồm trong khả năng phát triển tâm thức tập thể nơi hành giả.
Trên các cấp thượng trí, ở cõi phụ thứ nhì, chúng ta thấy được phản ánh của những gì có trên cảnh giới cao nhất của thái dương hệ này. Trên các cảnh giới đó có gì? Có bảy Đấng Thiên đế, mỗi Đấng bao gồm các hồn nhóm (nói theo phương diện hình thể), – các hồn nhóm này được tạo thành bởi những đơn vị tâm thức của thiên thần và con người. Có thể nói rằng ở cõi phụ thứ hai của cõi trí có những nhóm thuộc về các Chân sư. Những nhóm này được phát động và làm sinh động từ cõi phụ nguyên tử là điểm trụ[1] của các Chân sư (khi các Ngài biểu hiện để trợ giúp nhân loại). Tương tự, nguồn cội của các Đấng Thiên đế đều phát khởi từ cảnh giới nguyên tử của Thái dương hệ, tức là cảnh giới thứ nhất mà chúng ta gọi là cõi adi. Các nhóm này được hình thành chung quanh một vị Chân sư, được hào quang của Ngài bao bọc, và là một thành phần của tâm thức Ngài. Các nhóm này gồm những người có cùng cung Chân ngã hay cung Chân thần với Ngài. [267]
Đó là hai hạng người:–
1. Những người đang chuẩn bị để được điểm đạo lần thứ nhất hay thứ hai là những cuộc điểm đạo có liên quan đến cung của Chân nhân; và
2. Những người đang chuẩn bị cho hai cuộc điểm đạo kế tiếp, liên quan đến cung của Chân thần. Ở đây, chúng ta thấy có một nguyên nhân khiến hành giả đổi từ cung này sang cung khác. Đó chỉ là sự thay đổi ở bề ngoài, dù rằng nó cũng đòi hỏi phải dời qua nhóm của một Chân sư khác. Điều này xảy ra sau cuộc điểm đạo thứ hai.
Ba mục tiêu của Người dự bị.
Trong suốt thời gian trên đường dự bị, người môn sinh cần phát triển ba điều:–
1. Khả năng tiếp xúc với nhóm của y, hay nói cách khác là y phải cảm được sự rung động của nhóm mà tiêu điểm là một vị Chân sư. Lúc đầu sự tiếp xúc này ít khi xảy ra. Trong giai đoạn đầu của con đường dự bị, trong khi y được quan sát, y chỉ cảm nhận và giữ được sự rung động của nhóm (tức là sự rung động của Chân sư) trong những phút giây ngắn ngủi thôi. Khi tâm thức dâng cao, y liên kết được với Chân sư và với nhóm, và trọn cả bản thể y tràn ngập sự rung động cao thượng đó, và bừng lên màu sắc của nhóm y. Sau đó, y buông lơi, thối lui và không còn tiếp xúc được nữa. Các thể của y chưa được tinh luyện đúng mức và sự rung động của y chưa đủ vững bền để giữ được trạng thái này lâu.
Nhưng, thời gian qua (lâu hay mau là tùy sự tinh tấn của người môn sinh) sự tiếp xúc thường xảy ra hơn. Y có thể giữ được sự rung động khá lâu hơn, và không rơi trở lại mức tầm thường một cách dễ dàng như trước. Rồi đến lúc y có thể được tin cậy để giữ sự tiếp xúc khá vững vàng hơn. Đó là lúc y bước sang giai đoạn thứ hai. [268]
2. Điều thứ hai mà y cần phát triển trên đường dự bị là khả năng suy tư trừu tượng hay năng lực tiếp xúc với thượng trí, thông qua thể nguyên nhân. Y phải học cách chỉ dùng hạ trí làm phương tiện để đạt đến thượng trí. Bằng cách đó y vượt cao hơn hạ trí cho đến mức trở nên phân cực trong thể nguyên nhân. Bấy giờ, nhờ trung gian của thể này, y liên kết được với các cấp độ trừu tượng. Ngày nào làm được như thế y mới có thể thực sự tiếp xúc với Chân sư. Bởi vì như các bạn đã biết người môn sinh phải tự tiến lên từ cảnh giới của mình (cõi thấp) đến cảnh giới của các Ngài (cõi cao).
Cả hai điểm này – khả năng tiếp xúc với Chân sư và nhóm của Ngài, và khả năng phân cực trong thể nguyên nhân và tiếp xúc với các cấp độ trừu tượng – nhất định là kết quả của tham thiền, đã được tôi giải rõ trong những bức thư các bạn đã nhận trước đây. Vì thế, tôi không cần lặp lại những điều đã nói, trừ việc chỉ cho các bạn thấy rõ rằng nhờ hành thiền cần mẫn và khả năng chuyên chú vào bổn phận đang làm (nói cho cùng khả năng này là kết quả của tham thiền thể hiện trong đời sống hàng ngày) mà chúng ta ngày càng thêm khả năng giữ vững các rung động cao. Tôi muốn lặp đi lặp lại mãi chân lý có vẻ đơn giản là chỉ có sự tương đồng rung động mới đưa hành giả đến nhóm của y ở cõi cao, đến với vị Chân sư (mà đối với y) là tiêu biểu cho Đấng Chủ tể của Cung Ngài, đến Đức Chưởng giáo là Đấng ban cho y các bí nhiệm, đến Đấng Điểm đạo Duy nhất, Người giúp y được sự giải thoát cuối cùng, và đến Trung tâm trong Đấng Thiên đế mà y ở trong mình của Ngài. Đó là sự vận hành của Luật Hấp dẫn và Đối kháng trên mọi cảnh giới. Luật này thu góp sự sống thiêng liêng ra khỏi giới khoáng vật, ra khỏi giới thực vật và động vật, đưa Thiên tính ẩn tàng ra khỏi các hạn chế của nhân loại và kết hợp hành giả vào [269] nhóm của y ở cõi thiêng liêng. Chính luật này giúp y giải thoát ra khỏi các thể thanh (những thể này cũng lại ràng buộc y), để hòa hợp y trở về với cội nguồn sinh động là Đấng Chủ tể của Cung mà Chân thần của y ở trong cơ thể Ngài. Cho nên công việc của người trên đường dự bị là cố gắng hòa hợp rung động của mình với rung động của Chân sư, là tinh luyện ba hạ thể của y sao cho chúng không gây trở ngại cho sự tiếp xúc đó, và chủ trị hạ trí thế nào để nó không còn là một chướng ngại cho dòng ánh sáng tuôn xuống từ Tinh thần tam phân. Nhờ thế, y được phép tiếp xúc với Tam nguyên và nhóm trên cõi phụ của cấp thượng trí mà y liên kết (vì y có quyền đó và do nghiệp quả). Tất cả những mục tiêu này đều nhờ tham thiền mang lại, chứ không thể đạt bằng phương tiện nào khác.
3. Điều thứ ba mà người đệ tử dự bị phải làm là tự trang bị về mặt tình cảm và trí tuệ. Y phải thực hiện và tự chứng tỏ đã có một điều gì đó để mang lại cho nhóm mà y liên hệ về mặt nội môn. Hãy nghĩ kỹ điểm này: người ta thường chú trọng quá nhiều về những gì mà người môn sinh sẽ nhận được khi y trở thành một đệ tử dự bị hay đệ tử nhập môn. Ở đây, với tất cả tâm thành, tôi xin nói với các bạn rằng ngày nào người môn sinh chưa có phần nào để cho ra, và một điều gì để làm tăng vẻ đẹp của nhóm, chưa trở thành một khí cụ hữu dụng mà Chân sư tìm kiếm để trợ giúp nhân loại, và chưa làm cho màu sắc của nhóm được thêm phong phú thì ngày ấy y vẫn chưa đạt được những bước tiến mong muốn kể trên. Điều này có thể thực hiện bằng hai cách, tương tác với nhau:–
a. Nhờ học hỏi và áp dụng mà trang bị nội dung của thể tình cảm và thể trí theo những điều kiện xác định.
b. Dùng trang bị đó để phụng sự nhân loại ở cõi trần, bày tỏ dưới ánh mắt đang trông nom của Đ.Đ.C.G. rằng người môn sinh đã có một điều gì đó để cho ra. Y phải cho thấy rằng ý muốn duy nhất của y là giúp [270] ích và phụng sự, hơn là nhằm thu đạt cho riêng mình. Cuộc sống thu đạt nhằm mục đích cho ra phải được khích lệ bởi các lý tưởng tìm thấy trong tham thiền, và phải có nguồn cảm hứng tuôn xuống từ các cấp thượng trí và bồ-đề, vốn là kết quả của thiền huyền môn.
Khi đã đạt được ba kết quả này, và khi nguồn rung động cao được tiếp xúc thường xuyên và vững bền hơn, thì người đệ tử dự bị sẽ tiến lên bước kế tiếp và trở thành một đệ tử nhập môn.
Tư cách Đệ tử Nhập môn.
Có lẽ giai đoạn hai, giai đoạn của người đệ tử nhập môn, là một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong toàn bộ các kiếp sống của con người, và khó khăn trong nhiều phương diện:–
Rõ ràng y là một thành phần trong nhóm của Chân sư, luôn luôn ở trong tâm thức của Chân sư, và được giữ trong hào quang của Ngài. Điều này bao gồm việc giữ vững một rung động cao. Tôi muốn các bạn hãy suy ngẫm về hiệu quả của điều này. Bao giờ cũng khó giữ được một rung động cao. Cố gắng này thường cần phải tăng cường tất cả những gì có trong bản tính của hành giả, và có thể đưa đến những sự biểu lộ kỳ lạ (nhất là trong lúc đầu). Tuy nhiên, nếu hành giả muốn có thể giữ được thần lực là kết quả của việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng, thì y phải tỏ ra có khả năng làm được điều đó ở giai đoạn đầu, và có thể giữ mình vững vàng và tiến tới đều đặn khi chịu ảnh hưởng sự tăng cường rung động đến từ Chân sư.
Y phải tự giữ giới luật sao cho không có gì nhập vào tâm thức của y lại có thể gây hại cho nhóm của y theo lối nào đó, hoặc đối nghịch với rung động của Chân sư. Để các bạn có vài khái niệm về ý nghĩa của điều này, tôi có thể nói rằng khi lần [271] đầu y trở nên thành viên của nhóm được bao bọc trong hào quang của Chân sư thì y được giữ ở ngoại vi của hào quang này, cho đến khi nào y đã học được cách tự động ném bỏ và loại bỏ ngay tức khắc mọi tư tưởng và ham muốn không xứng đáng với Chân ngã và vì thế mà làm phương hại đến nhóm. Ngày nào chưa học được cách thực hiện điều này thì y không thể nào tiến đến quan hệ gần gũi hơn, và phải còn ở nơi mà y có thể tự động bị ngăn lại. Nhưng dần dần y tự tinh luyện nhiều hơn, dần dần phát triển tâm thức tập thể và suy tư trong phạm vi phụng sự tập thể, hào quang của y ngày càng có màu sắc hào quang của Chân sư y, cho đến khi y hòa hợp được và có quyền tiến đến gần Tâm của Chân sư hơn. Sau này khi bàn về công việc của Chân sư làm cho đệ tử, tôi sẽ giải thích ý nghĩa kỹ thuật của câu này. Có thể nói tạm đủ là khi thời kỳ “đệ tử nhập môn” tiến triển (và biến đổi trong nhiều trường hợp khác nhau) thì người đệ tử càng tiến đến gần tâm của nhóm hơn và tìm thấy vị trí và phận sự của mình trong cơ thể hợp nhất đó. Bí quyết là: tìm thấy vị trí của y, – không phải vị trí của y trên thang tiến hóa (vì điều đó được biết gần đúng) mà là vị trí của y trong phụng sự. Điều này còn quan trọng hơn là các bạn tưởng, vì nó bao gồm giai đoạn mà ở mức cuối sẽ cho thấy rõ rệt con đường nào hành giả sẽ đi theo, sau cuộc điểm đạo thứ năm.
Vị thế Con của Chân sư.
Giờ đây đã đến lúc người đệ tử tiến đến vị thế mà nhiều người mong mỏi là “Con của Chân sư.” Bấy giờ y luôn luôn là một thành phần hữu thức của tâm thức Chân sư. Sự tương tác giữa Chân sư và đệ tử được kiện toàn nhanh chóng, và lúc này người đệ tử có thể tùy ý liên kết với Chân sư một cách hữu thức và nhận rõ được các tư tưởng của Ngài. Y có thể [272] thấu hiểu các kế hoạch, ý muốn và quyết định của Ngài. Y có quyền làm điều này nhờ sự tương đồng rung động và vì tiến trình ngăn chặn (cần thiết lúc đầu do sự rung động thiếu hài hòa) đã thực sự được thay thế. Người đệ tử đã thanh luyện mình đến mức các tư tưởng và ý muốn của y không còn gây phiền phức cho Chân sư và không có sự rung động nào trái ngược với nhóm. Y đã được thử thách và người ta thấy rằng y không thiếu điều kiện. Cuộc sống phụng sự của y ở thế gian ngày càng tập trung và hoàn hảo hơn, và hằng ngày y phát triển năng lực cho ra và tăng cường trang bị. Tất cả những điều này đều thuộc về mối quan hệ của người đệ tử với một vị Chân sư và một linh hồn tập thể, chứ không phụ thuộc vào việc y được điểm đạo hay không. Điểm đạo là một vấn đề kỹ thuật và có thể diễn tả theo khoa nội môn. Một người có thể được điểm đạo mà không phải là “Con của một Chân sư.” Tư cách đệ tử là một quan hệ cá nhân, do nghiệp quả và mối liên kết chi phối, chứ không tùy thuộc vào vị trí của hành giả trong Huyền giai. Hãy ghi nhớ rõ điều này. Đã có những trường hợp nhờ tinh tấn chuyên cần mà hành giả đạt được những điều kiện kỹ thuật cần thiết để được điểm đạo trước khi trở nên thân thiết với một vị Chân sư.
Mối quan hệ này ở giai đoạn sau với tư cách “con” của một Chân sư có sự ngọt ngào riêng cùng với những đặc ân nhất định. Bấy giờ, người đệ tử có thể chia bớt một phần gánh nặng trên vai Chân sư, đảm đương cho Ngài một số trách nhiệm để Ngài rảnh tay thực hiện những công việc rộng lớn hơn. Bởi thế mà có chú trọng đến phụng sự, vì chỉ khi phụng sự hành giả mới tiến bộ. Đây là chủ âm của sự rung động ở cõi phụ trừu tượng thứ hai. Ở giai đoạn này Chân sư sẽ bàn bạc với “Con” của Ngài và trù liệu công việc phải làm trong quan điểm hợp nhất với nhau. Bằng cách này Ngài phát triển trí phân biện và phán đoán của đệ tử, và làm giảm nhẹ gánh nặng của Ngài theo một số chiều hướng, để Ngài rảnh tay đảm nhận công tác quan trọng khác. [273]
Giai đoạn cuối của những điều chúng ta đang bàn chỉ được đề cập chút ít thôi. Nó bao gồm thời kỳ hành giả tiến đến những đoạn cuối của Đường Đạo và ngày càng giao tiếp mật thiết hơn với nhóm và với Đ.Đ.C.G.. Giờ đây, không những y rung động hòa hợp được với nhóm và với Chân sư y, mà còn qui tụ một số người chung quanh y và lập nhóm của chính mình. Lúc đầu, nhóm này chỉ ở cõi trần, cõi tình cảm và hạ trí. Sau lần điểm đạo thứ năm, y sẽ bao bọc trong hào quang của y những nhóm và những Chân nhân của chính mình. Điều này không hề ngăn cản việc y hợp nhất với Chân sư và nhóm của y, mà phương pháp tương liên hòa hợp là một trong các bí mật của điểm đạo.
Tất cả những điều này cùng với những gì đã truyền đạt trước đây, sẽ cho các bạn một vài ý tưởng về các quyền hạn và năng lực đạt được trên Con đường Dự bị và Con đường Điểm đạo. Bao giờ phương tiện phát triển cũng giống nhau:– thiền huyền môn và phụng sự; cuộc sống tập trung ở nội tâm và cuộc sống thực hành ở bên ngoài; khả năng nội tâm giao tiếp với tầm mức cao siêu và năng lực phát biểu khả năng đó trong cuộc sống thánh thiện ở bên ngoài; sự phóng quang bên trong từ Tinh thần, và sự chói rạng bên ngoài trước mắt mọi người.
Ngày 17-9-1920.
. . . . . . Đề tài chúng ta nghiên cứu trong mấy ngày qua dù không có tính cách kỹ thuật như một số điều đã được truyền đạt trước đây, nhưng lại có sự rung động khiến cho bức thư thứ tám trở thành một trong những lời kêu gọi mạnh mẽ nhất trong loạt thư này. Chúng ta đã bàn đến sự kiện thực về các Chân sư, các Ngài là ai, vị trí của các Ngài trong Thiên cơ, và nói sơ qua về những điều kiện mà các đệ tử cần có khi muốn đến gần Chân sư. Chúng ta đã thấy rằng việc tiếp cận này là một diễn trình tuần tự và đưa hành giả từ sự thỉnh [274] thoảng tiếp xúc ở bên ngoài với Chân sư và nhóm của Ngài, đến vị trí thân thiết nhất, một vị thế đặt người môn đệ trong hào quang và kề cận với tâm của Sư phụ y. Hôm nay, chúng ta sẽ xem xét sơ qua về những gì mà sự thay đổi vị trí một cách tuần tự này cần ở Chân sư.
Mối liên hệ giữa Chân sư và đệ tử.
Như tôi thường nói với các bạn, một người hấp dẫn được sự chú ý của Chân sư là nhờ sự chói rạng của ánh sáng nội tâm. Khi ánh sáng ấy đạt đến cường độ nhất định, khi chất liệu của các thể đạt đến cấp độ nhất định, khi hào quang của y có được màu sắc nhất định, khi sự rung động của y đạt tần số nhất định, và khi cuộc sống của y bắt đầu phát ra âm thanh về mặt huyền bí trong tam giới (âm thanh này nghe được qua cuộc sống phụng sự), thì một vị Chân sư mới bắt đầu thử thách bằng cách áp đặt vào y một loại rung động cao hơn, và nghiên cứu phản ứng của y đối với sự rung động ấy. Việc Chân sư chọn đệ tử tùy theo nghiệp quả xưa, tùy theo mối quan hệ cũ, tùy theo cung mà cả Chân sư và đệ tử có thể cùng chung, và tùy theo nhu cầu của thời gian đó. Công việc của Chân sư (phần việc có thể đưa ra ngoại môn một cách thích hợp) thì thật là đa dạng và thú vị, và dựa vào sự thấu đáo bản tính của con người một cách khoa học. Chân sư phải làm gì với người đệ tử? Bằng cách kể ra những việc chính cần phải làm, chúng ta có thể phần nào ý niệm được phạm vi công việc của Ngài:–
Ngài phải tập cho đệ tử quen nâng cao tốc độ rung động của y, cho đến khi y có thể liên tục giữ được một mức rung động cao. Rồi lại giúp y cho đến khi sự rung động ấy trở thành một nhịp điệu vững bền trong các thể của y.
Ngài phải giúp đệ tử chuyển sự phân cực từ ba nguyên tử thấp của phàm nhân lên các nguyên tử cao của Tam nguyên Tinh thần.
[275] Ngài trông nom việc người đệ tử hoàn thành đường truyền giữa thượng và hạ trí, khi y kiến tạo và sử dụng đường truyền này (antahkarana). Cuối cùng đường dẫn này thay thế cho thể nguyên nhân để làm phương tiện truyền thông giữa thượng và hạ. Rốt cuộc thể nguyên nhân bị loại bỏ khi người đệ tử được điểm đạo lần thứ tư và có thể tự do tạo ra thể biểu hiện của mình.
Ngài giúp đệ tử làm sinh động rõ rệt các luân xa khác nhau và khơi hoạt chúng đúng cách. Về sau Ngài giúp y làm việc thông qua các luân xa này một cách ý thức và chuyển lửa từ luân xa chót xương sống lên luân xa đầu theo diễn tiến hình học đúng đắn.
Ngài giám sát công việc của người đệ tử trên nhiều cảnh giới khác nhau, ghi nhận tầm mức của công việc đã thành tựu và ảnh hưởng sâu rộng của những lời y thốt ra. Về mặt huyền môn thì đây là hiệu quả trên các cõi cao của âm điệu cuộc sống thường nhật của y.
Ngài giúp khai mở tâm thức của đệ tử bằng nhiều cách, và phát triển khả năng của y để có thể bao gồm và giao tiếp với những nhịp độ rung động khác hơn nhân loại, hiểu được tâm thức của các trường tiến hóa khác nhân loại, và di chuyển dễ dàng trong những bầu hành tinh khác ngoài địa cầu.
Mục tiêu trước mắt của Ngài khi làm việc với người đệ tử là chuẩn bị cho y được điểm đạo lần thứ nhất. Điều này xảy ra khi y phát triển được khả năng giữ một mức rung động nhất định trong một khoảng thời gian cụ thể. Đó là thời gian mà y phải đứng trước Đấng Chủ tể của hai cuộc điểm đạo đầu tiên. Điều này được thực hiện bằng cách tuần tự nâng cao sự rung động trong những thời khoảng ngắn định sẵn. Về sau thường xuyên nâng cao hơn, cho đến khi người đệ tử có thể rung động theo mức của Chân sư một cách dễ dàng, thoải mái và có thể [276] giữ mức rung động này càng lâu hơn nữa. Khi y đã giữ được sự rung động này lâu đúng mức (dĩ nhiên, độ lâu này là một trong các bí mật của cuộc điểm đạo thứ nhất) thì y được áp dụng một sự rung động còn cao hơn nữa để – khi giữ được – y có thể đứng trước Đấng Đại Chủ tể trong suốt thời gian đủ cho cuộc lễ điểm đạo. Bấy giờ, việc áp dụng Điểm đạo Thần trượng có một số hiệu quả ổn cố sự rung động, giúp dễ dàng nâng lên nhịp rung động cao hơn của các cảnh giới ẩn vi.
Ngài giúp đệ tử phát triển khả năng làm việc trong hình thức tập thể. Ngài xem xét sự tác động và tương tác của y vào nhóm y liên kết. Ngài ảnh hưởng đến thể nguyên nhân của môn sinh, giúp nó mở mang, phát triển, và dạy cho y hiểu biết định luật trong chính cuộc sống của mình, để nhờ sự hiểu biết đó mà thấu đáo được đại vũ trụ.
Tất cả những khía cạnh này trong công việc của Chân sư (đây chỉ là một số ít điểm có thể xem xét được) có thể bàn rộng hơn và hẳn là độc giả sẽ thấy thú vị và sáng tỏ hơn. Tất cả những đoạn nói trên đều có thể được triển khai một cách thật hứng thú. Nhưng ở đây tôi muốn nêu điểm chính liên quan đến những giai đoạn đầu của công việc này, trước khi người đệ tử được phép bước vào những giai đoạn sau, thân cận với Chân sư hơn. Trong giai đoạn đầu, Ngài làm việc với đệ tử, chính yếu là:
a. Vào ban đêm, khi y ra khỏi xác thân.
b. Trong những khi y thiền định.
Tùy mức y thành công trong tham thiền, tùy khả năng của y có thể đoạn tuyệt với phàm tính và giao tiếp với Chân ngã, mà Chân sư có cơ hội hoàn thành công việc xác định có tính [277] khoa học này, cần được Ngài lưu ý. Các môn sinh hành thiền hẳn sẽ ngạc nhiên và có lẽ thấy thất vọng, nếu họ nhận ra rằng rất ít khi họ làm đúng các điều kiện trong tham thiền, để vị Huấn sư đang trông nom họ có thể mang lại được một vài hiệu quả. Khi người môn sinh thường xuyên làm được điều này, thì đó là dấu hiệu tiến bộ, và y có thể chuyển sang một bước khác. Tôi nhấn mạnh điều này vì nó có tính khích lệ giúp các bạn chuyên cần và chăm chú áp dụng nhiều hơn. Nếu người đệ tử không làm được các điều kiện đúng đắn về phần y, thì Chân sư cũng đành bó tay và Ngài chỉ làm được chút ít thôi. Tự cố gắng là điều then chốt để tiến bộ, kèm theo sự chuyên chú đầy hiểu biết và ý thức vào công việc đã định. Khi người đệ tử bền lòng cố gắng, thì Chân sư mới có cơ hội thực hiện phần việc của Ngài.
Khi người đệ tử hành thiền huyền môn một cách đúng đắn, y sẽ chỉnh hợp được ba hạ thể và – tôi xin lặp lại và nhấn mạnh – chỉ khi có sự chỉnh hợp này thì Chân sư mới có thể làm việc với các thể của người đệ tử. Nếu khi được công bố mà không mang lại hiệu quả nào khác hơn là tăng cường ý muốn hành thiền một cách đúng đắn, thì các bức thư này sẽ đạt được phần lớn mục tiêu đã nhắm đến. Chính nỗ lực vừa kể mới mang lại những điều kiện thích hợp giữa Chân sư và đệ tử cùng mối tương giao đúng đắn giữa đôi bên. Các điều kiện này có được là nhờ hành thiền đúng phương pháp, chuẩn bị môi trường cho nỗ lực và phụng sự.
Chúng ta hãy xem xét khái quát những giai đoạn đã kể hôm qua về mối quan hệ của đệ tử với Chân sư.
Khi môn sinh ở trong giai đoạn dự bị và được giám sát . . . . . . . . . hầu như y được để tự do hoàn toàn và thỉnh thoảng trong những lúc hiếm hoi bất thường y mới biết được sự chú ý của Chân sư. Bộ óc hồng trần của y không thường cảm nhận được những cuộc giao tiếp cấp cao. Và dù Chân nhân y hoàn [278] toàn ý thức vị trí của mình trên Đường Đạo, nhưng bộ óc hồng trần chưa đủ điều kiện để biết được điều đó. Tuy nhiên, ở trình độ này không có qui luật khắt khe và cứng nhắc nào cả. Khi một người đã nhiều kiếp tiếp xúc với Chân nhân hay với Chân sư thì y có thể ý thức được điều vừa kể. Các cá nhân đều khác nhau nhiều đến đỗi không thể đặt ra một qui luật chung nào với từng chi tiết. Như các bạn biết, Chân sư tạo ra một hình thu nhỏ của người đệ tử dự bị, được giữ trong những trung tâm ngầm dưới đất, trong dãy Hy-mã-lạp-sơn. Hình tượng này được liên kết với người đệ tử dự bị bằng từ điện và phô bày tất cả những chuyển biến thăng trầm trong bản tính của y. Vì được tạo nên bằng chất liệu trí tuệ và tình cảm, nên nó rung động theo nhịp của các thể ấy. Nó phô bày những màu sắc nổi bật của các thể ấy, và khi nghiên cứu nó Chân sư có thể mau lẹ đo lường bước tiến đã đạt, và xét xem chừng nào người đệ tử dự bị được phép có mối quan hệ gần gũi hơn. Ngài xem xét hình này trong từng thời khoảng đã định, lúc đầu thì rất hiếm khi vì trong giai đoạn này y tiến tới không mau lắm. Nhưng khi người môn sinh hành thiền thấu hiểu vấn đề và cộng tác một cách hữu thức hơn thì Ngài càng xem xét thường hơn. Khi quan sát các hình này, Chân sư làm việc với chúng và thông qua chúng tạo được một số kết quả. Giống như về sau Điểm đạo Thần trượng được áp dụng vào các thể và các luân xa của điểm đạo đồ, trong những lúc nhất định Chân sư cũng tiếp xúc với các hình này và thông qua chúng mà kích thích các thể của người đệ tử.
Sẽ đến lúc Chân sư thấy (qua việc kiểm tra hình tượng ấy) rằng người đệ tử đã có thể giữ được nhịp độ rung động cần thiết, đã thải trừ được đúng mức, và đạt được sắc độ nhất định trong các thể. Ngài bèn đánh liều (quả thật là đánh liều) nhận người đệ tử dự bị vào bên trong chu vi hào quang của Ngài. Bấy giờ, y trở thành người đệ tử nhập môn.
[279] Trong suốt thời kỳ hành giả làm đệ tử nhập môn thì công việc Chân sư thực hiện thật rất thú vị. Y được cho vào những lớp học đặc biệt do các đệ tử cao cấp hơn hướng dẫn, dưới sự giám sát của Chân sư. Và dù y có thể tham dự những lớp chung, có tầm mức rộng rãi hơn, trong Đạo viện (tức là Phòng giáo huấn của Chân sư) y vẫn được huấn luyện chuyên sâu hơn . . . . . . . . . . Trong những giai đoạn đầu, Chân sư làm việc theo bốn lối chính:–
a. Thỉnh thoảng, và khi người đệ tử tiến đến mức đủ điều kiện, Ngài mới “đem đệ tử vào Tâm Ngài.” Đây là một cách phát biểu nội môn nói về một kinh nghiệm rất thú vị mà người đệ tử sẽ có. Vào lúc kết thúc một lớp học trong đạo viện, hoặc trong một buổi tham thiền đặc biệt thành công (khi người đệ tử đạt nhịp rung động nhất định), Chân sư sẽ đưa y lại gần Ngài, từ ngoại vi hào quang của Ngài vào đến trung tâm ý thức của Ngài. Nhờ đó Ngài giúp y tạm thời triển khai tâm thức thật rộng lớn, và có thể rung động theo nhịp độ phi thường (đối với y).
Vì thế, cần phải tham thiền. Phần thưởng của kinh nghiệm đó còn quan trọng hơn bất cứ nỗ lực khó nhọc nào trong công việc.
b. Chân sư dùng màu sắc để ảnh hưởng đến các thể của đệ tử, mang lại một số kết quả nơi chúng, để cho y có thể tiến bộ nhanh hơn. Giờ đây, các bạn sẽ thấy tại sao. . . . . . . tôi đã chú trọng rất nhiều đến màu sắc. Không chỉ vì màu sắc nắm giữ sự bí mật của hình thể và cuộc biểu hiện (sự bí mật mà huyền bí gia phải hiểu) mà tôi đã nhấn mạnh như thế để người đệ tử có thể cộng tác một cách hữu thức với Chân sư trong việc [280] Ngài làm cho các thể của y, và sáng suốt theo dõi được các hiệu quả mang lại. Hãy suy ngẫm kỹ điều này.
c. Vào những thời khoảng định sẵn, Chân sư cho đệ tử tiếp xúc với các giới tiến hóa khác, như các đại thiên thần và thiên thần, những tiểu thần kiến tạo và các giới tiến hóa kém nhân loại. Nhờ hiệu quả bảo vệ của hào quang Chân sư người đệ tử mới có thể làm điều này một cách an toàn. Về sau, khi đã trở thành một điểm đạo đồ, y sẽ được dạy cách tự phòng ngự và tự mình tiếp xúc với các giới đó.
d. Chân sư chủ trì công việc kích thích các luân xa trong các thể của đệ tử và khởi hoạt ngọn lửa nội tại. Ngài dạy y ý nghĩa của các luân xa và sự quay đúng đắn của chúng trong bề đo thứ tư. Đúng lúc Ngài sẽ giúp người đệ tử đến mức (nhờ hiểu biết đầy đủ về định luật) có thể dùng các luân xa một cách hữu thức để làm việc. Bấy giờ chúng đủ điều kiện để có thể được Điểm đạo Thần trượng kích thích một cách an toàn. Chưa có thể nói gì thêm về vấn đề này. . . . . .
Tôi chỉ nói thật vắn tắt đôi điều về những gì mà Chân sư phải làm cho đệ tử. Tôi không bàn đến những giai đoạn tiến bộ sau này của môn sinh. Chúng tôi hướng dẫn mọi người theo những bước đi tuần tự, và hiện nay ngay đến những đệ tử nhập môn cũng hãy còn hiếm có. Nếu nhờ tham thiền, phụng sự và tinh luyện các thể mà những người đang trên đường dự bị có thể được hướng dẫn để tiến bộ mau lẹ hơn, thì sẽ đến lúc phổ biến thêm những chi tiết mới. Có lợi gì khi đưa ra những sự kiện mà người môn sinh chưa có thể sử dụng được? Chúng tôi không phí thì giờ để làm hứng thú trí tuệ của những người mà chúng tôi muốn giúp đỡ. Khi người môn sinh đã tự trang bị, đã tự tinh luyện và đạt độ rung động thích hợp, thì không có gì mà y không được phép biết. Khi y [281] mở cửa tâm hồn và mở rộng đường truyền, thì ánh sáng và tri thức sẽ tuôn tràn vào.
Ngày mai, chúng ta sẽ đề cập đến điểm thứ ba, là phương pháp tiến đến Chân sư bằng tham thiền. Một số loại thiền sẽ được mở rộng thêm để giúp sự giao tiếp dễ dàng hơn, nhưng đừng quên cuộc sống phụng sự bên ngoài phải đi đôi với sự tăng trưởng ở nội tâm. Chỉ khi nào cả hai điều này đều có và được xác nhận thì người môn sinh mới được phép thực hiện những bước cần thiết để giao tiếp. Chân sư chỉ chú ý đến một người vì y hữu ích cho linh hồn của nhóm, và có khả năng giúp đỡ.

Ngày 19-9-1920.
Hôm nay, chúng ta bàn cùng một lúc hai điểm chót của vấn đề này về mặt thực hành. Tức là bàn đến những phương pháp để tiến đến Chân sư và những ảnh hưởng khách quan của cố gắng này trong ba cảnh giới tiến hóa của nhân loại. Một số điểm các bạn đã hiểu rõ rồi. Còn những điểm khác thì nói chung có thể là các bạn chưa quen thuộc. . . . . . . . Trong những bức thư này, chúng ta đã bàn về phần người môn sinh và những điều y phải cố gắng. Chúng ta cũng đã vạch ra mục tiêu của y và nói – rất sơ lược – về những hình thức và phương pháp để thành công. Chúng ta cũng bàn về các trợ giúp trong tham thiền như Thánh ngữ, Màu sắc và Âm thanh, và đã chỉ ra những gì (nếu được suy ngẫm trong im lặng) sẽ giúp người môn sinh khám phá ra đôi điều hữu ích cho y. Vừa rồi chúng ta đã cố gắng đưa các Chân sư và sự thật về các Ngài đến gần người môn sinh hơn, để tạo điều kiện dễ dàng cho y tiến đến các Ngài.
Vậy thì, giờ đây còn gì phải nói thêm? Tôi sẽ chỉ ra năm điểm mà người môn sinh có thể tìm kiếm một cách tin tưởng nếu y đã cố gắng sống theo những lời giáo huấn trong các bức thư này. Nếu người môn sinh hội đủ những điều kiện thích [282] hợp, nếu y tuân thủ những qui luật cần thiết, nếu y luôn luôn nhắm đến sự đều đặn, điềm tĩnh, và tập trung ở nội tâm (vốn hàm chứa bí nhiệm của những Chốn Cao siêu) thì sẽ có lúc y đạt được một số nhận thức xác định, ngày càng thường xuyên hơn. Những nhận thức này là sự công nhận ở bên ngoài về các kết quả ở bên trong, bảo đảm rằng y đi đúng đường. Nhưng ở đây tôi phải nói thêm rằng những kết quả này chỉ đạt được sau một thời gian thực hành lâu dài, phấn đấu gian nan, cần mẫn nghiêm trì giới luật của phàm nhân với ba hạ thể, và hiến mình phụng sự thế gian.

Các phương pháp tiếp cận và những hiệu quả đạt được.
Nói chung có ba phương pháp tiếp cận và chúng ta có thể kể ra năm hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp này. Ba phương pháp đó là:–
a. Phụng sự thánh hóa.
b. Bác ái biểu lộ qua minh triết.
c. Áp dụng tri thức.
Cả ba chỉ là những phương pháp khác nhau để phát biểu cùng một điều duy nhất, – là sự nhất tâm tích cực, tự phát biểu trong việc phụng sự nhân loại qua bác ái và minh triết. Nhưng một số người phát biểu điều đó theo lối này, có những người lại phát biểu theo lối khác. Một số người mang dáng vẻ trí thức, một số khác biểu lộ tình thương. Dù vậy trước khi thành đạt trí thức phải dựa vào tình thương, và nếu tình thương mà không có sự mở mang trí tuệ và khả năng phân biện thì thường mất quân bình và thiếu khôn ngoan. Cả tình thương và trí tuệ phải được phát biểu trong phạm vi phụng sự, trước khi một trong hai phần này được hoàn thành viên mãn. Chúng ta hãy xét riêng từng phương pháp và chỉ cách tham thiền theo phương pháp ấy:–
Phụng sự thánh hóa. Đây là phương pháp của người vận dụng định luật, phương pháp của huyền bí gia, và những nguyên tắc cơ bản của phương pháp này được ấn định trong [283] khoa Raja Yoga. . . . . . . . . . . . . . Như các bạn hiểu, từ “thánh hóa” trong căn bản có nghĩa là hoàn toàn giao phó trọn cả bản thể cho đối tượng duy nhất, là Đấng Chí tôn hay Đấng Chủ tể. Tức là hiến dâng trọn vẹn cho Đấng mà người sùng tín ngưỡng vọng. Nó cũng có nghĩa là hiến trọn cả phàm nhân và ba thể vào công việc đang làm. Vì thế mà cần phải dồn hết thời gian và phàm ngã vào việc làm cho mỗi thể tuân phục Chân ngã và hoàn toàn chế ngự được từng cảnh giới, và từng cõi phụ. Điều này bao gồm sự thông hiểu về mỗi cuộc tiến hóa và hình thể của sự sống thiêng liêng trong các cảnh giới và cõi phụ kể trên, với mục tiêu duy nhất trước mắt là phụng hành kế hoạch của Đại đoàn Chưởng giáo Quang minh. Phương pháp phải theo là hết sức chăm chú làm cho các thể này phát triển đầy đủ và biến chúng thành những khí cụ thích hợp để phụng sự. Đây có lẽ là con đường khó đi nhất. Không khu vực nào của cuộc sống mà nó không chạm đến. Tất cả đều được thực hiện theo định luật. Vì thế, thể thức tham thiền này có ba phần:–
a. Những định luật quản trị thể xác sẽ được nghiên cứu và suy ngẫm. Sự suy ngẫm này sẽ trở thành việc nghiêm trì giới luật đối với thể xác. Thể này được hoàn toàn dành cho phụng sự, và do đó phải trải qua một tiến trình điều hợp và phát triển nhanh chóng hơn.
b. Thể cảm dục sẽ được nghiên cứu một cách khoa học và các định luật của nước (hiểu theo nghĩa huyền bí) sẽ được thấu đáo. Chúng ta hiểu ý nghĩa của thuật ngữ này là “sẽ không còn biển nữa.” Biển bão tố và dục vọng sẽ được thay thế bằng biển gương trong, không hề xao động, đổi đời, mà phản ánh được trực giác cao siêu và phản chiếu nó một cách hoàn toàn chính xác. [284] Thể tình cảm này sẽ được hoàn toàn dành cho phụng sự. Vị trí của nó trong tiểu vũ trụ tam phân sẽ được xem là tương ứng với vị trí ấy trong đại vũ trụ. Hành giả sẽ thấu hiểu ý nghĩa huyền bí của nó là đơn vị toàn vẹn duy nhất trong phàm tính tam phân và dùng sự kiện đó để tạo nên một số kết quả. Hãy suy ngẫm kỹ điều này.
c. Hành giả sẽ nghiên cứu vị trí của hạ trí trong hệ thống và phát triển khả năng phân biện. Sự phân biện và lửa vốn liên kết nhau về mặt huyền bí, và giống như Thượng Đế nhờ lửa mà thử được loại công việc của mỗi người, thì ở tầm mức thấp hơn, tiểu vũ trụ cũng phải làm như thế. Giống như Đức Thượng Đế làm điều đó chính yếu là vào kỳ phán xét và phân tách của cuộc tuần hoàn thứ năm, thì ở qui mô nhỏ hơn, con người cũng làm như vậy trong giai đoạn tiến hóa cuối cùng của y, là thời kỳ thứ năm – đã được đề cập và mô tả trong những bức thư trước. Mọi năng lực của trí tuệ sẽ được tận dụng để phục vụ các kế hoạch tiến hóa. Trước là cho sự phát triển của chính hành giả, sau là môi trường hoạt động đặc biệt mà y tự phát biểu và cuối cùng là mối quan hệ của y với những người khác trong nhân loại, khi chính y trở thành người hướng dẫn và phụng sự họ.
Vậy các bạn có thấy được sự tổng hợp của vấn đề chăng? Trước hết, nỗ lực chuyên nhất là dấu hiệu của huyền bí gia được hòa hợp với bác ái và minh triết phản ánh từ cõi cao (qua tấm gương phản chiếu của thể tình cảm). Sau đó, tri thức bị buộc phải hành động như là tôi tớ của Chân nhân qua nỗ lực chuyên nhất nhờ bác ái và minh triết làm sinh động. Kết quả là hành giả trở thành một đạo gia (nhà yogi) chân chính.
Ở đây, tôi muốn nói rằng đạo gia chân chính là người sau khi đã thực hiện đúng các thể thức và giờ khắc tham thiền đã định bèn hòa lẫn cuộc tham thiền ấy vào đời sống hàng ngày, và cuối cùng giữ được tâm thái thiền ấy suốt cả ngày.[285] Tham thiền là phương tiện để tiếp xúc với tâm thức cao siêu. Khi sự giao tiếp trở nên liên tục thì tham thiền như các bạn hiểu hiện nay sẽ được thay thế. Trong phương pháp đầu tiên này, người môn sinh huyền bí làm việc từ ngoại vi vào trung tâm, từ khách thể đến chủ thể, từ hình tướng đến sự sống bên trong hình tướng. Vì thế, khi Raja Yoga chú trọng đến thể xác và việc kiểm soát nó một cách khôn ngoan, huyền bí gia nhận thức được sự trọng yếu của thể xác và sự vô dụng của tất cả những hiểu biết nào tách rời thể xác. Vì nhờ nó mà y có thể tự phát biểu và phụng sự nhân loại. Đây là đường lối của cung một, của các cung liên hệ và bổ túc với nó.
Bác ái và minh triết. Phương pháp này là con đường ít trở ngại nhất cho mọi người. Đây là cung phụ của cung tổng hợp có một sự rung động tương đồng mà thái dương hệ của chúng ta là biểu hiện khách quan của nó. Nhưng cần lưu ý rằng lòng bác ái đạt được bởi người môn sinh hành thiền theo đường lối này không phải là khái niệm xúc cảm mà chúng ta quá thường bàn đến. Đây không phải là tình thương thiếu phân biện, không thấy có giới hạn, không thừa nhận một sự lầm lỗi nào. Đây không phải là tình thương không tìm cách sửa đổi, và tự phát biểu trong thái độ khuyên bảo những người khác một cách sai lầm. Đây không phải là tình thương lôi cuốn tất cả mọi người vào việc phụng sự, dù điều đó có thích hợp hay không, và không thừa nhận sự khác biệt nào trong trình độ phát triển của mọi người. Có nhiều cái được gọi là tình thương, – nếu được thực hiện theo lý luận – thì rõ là đã bỏ qua chiếc thang tiến hóa và xếp mọi người đều ngang nhau. Trong tiềm năng, tất cả mọi người đều có giá trị như nhau, nhưng trong phạm vi phụng sự hiện tại thì không phải vậy.
Bác ái hay minh triết đích thực thì thấy rõ rệt sự khiếm khuyết trong bất cứ hình tướng nào, và dồn mọi nỗ lực để giúp sự sống ngự trong hình thể tự giải thoát khỏi các chướng ngại. Đó là sự khôn ngoan nhận ra những ai cần được giúp đỡ, và người nào không cần phải quan tâm. Nó nghe chính xác và thấy được tư tưởng trong tâm con người và tìm cách [286] hòa hợp tất cả những người phụng sự trên thế giới thành một toàn thể. Điều này không được thực hiện một cách mù quáng, mà bằng sự phân biện và minh triết, tách ra được những rung động trái nghịch và đặt chúng vào vị trí khác. Người ta đã chú trọng quá nhiều đến cái gọi là tình thương (do con người giải thích theo trình độ tiến hóa của họ hiện nay). Họ thiếu chú trọng đến minh triết vốn là tình thương tự phát biểu trong phụng sự, là phụng sự mà nhận thức được định luật huyền bí, ý nghĩa của thời cơ, và mục tiêu cần đạt.
Đây là đường lối của cung hai, của những cung liên hệ và bổ túc với nó. Về sau, nó là cung bao gồm tất cả, là dung môi và là tác nhân hấp thu. Người ta có thể đi theo cung này bằng đường lối của Raja Yoga hoặc khoa thần bí Thiên Chúa giáo, vì nó có ý nghĩa tổng hợp. . . .
Áp dụng tri thức. Ở đây thì thứ tự ngược lại. Người môn sinh thường vẫn phân cực trong thể trí, giờ đây phải học cách dùng nó để hiểu hai thể kia, để chế ngư, kiểm soát và sử dụng đến mức tối đa các quyền năng ẩn tàng trong phàm nhân với ba hạ thể. Có lẽ phương pháp này không đến đỗi quá khó khăn trong vài phương diện, nhưng môn sinh phải vượt qua được những giới hạn của nguyên khí thứ năm trước khi có thể tiến bộ thực sự. Những giới hạn này phần lớn là thành kiến (sự kết tinh) và cái gọi là sự kiêu căng. Người tiến theo con đường áp dụng tri thức phải xóa tan cả hai giới hạn này trước khi y có thể phụng sự nhân loại với nguyên động lực là tình thương và minh triết.
Y phải học giá trị của các tình cảm, và trong sự học hỏi này y phải thấu đáo hiệu quả của lửa trên nước (hiểu theo nghĩa huyền bí). Y phải học sự bí mật của cảnh giới mà khi biết được sẽ cho y chìa khóa để làm tuôn tràn ánh sáng khai ngộ từ Tam nguyên qua thể nguyên nhân, rồi đến thể tình cảm. Nó cũng giữ chìa khóa của cấp dĩ thái thứ tư. Bạn chưa [287] hiểu được điều này, nhưng đối với người môn sinh lời ngụ ý vừa kể có chứa nhiều điều giá trị.
Đây là đường lối của cung ba, và bốn cung phụ thuộc nó, là một đường lối hoạt động vĩ đại, biến đổi thường xuyên và biểu lộ trí tuệ tích cực trong các cõi thấp.
Chỉ khi nào người môn sinh tiến theo con đường áp dụng tri thức đã học được bí mật của cảnh giới thứ năm, y mới có thể sống cuộc đời phụng sự thánh hóa và hòa hợp được cả ba cung. Bao giờ cũng phải đạt cho được sự tổng hợp, nhưng luôn luôn màu sắc hay âm điệu căn bản vẫn tồn tại. Cuộc tuần hoàn thứ năm tức là cuộc tuần hoàn tới đây sẽ phô bày phương pháp này đến mức vĩ đại nhất. Đó là cuộc tuần hoàn phát triển trí tuệ tột đỉnh, và sẽ đưa những Chân thần đang tiến hóa trong cung này đến những đỉnh cao mà hiện tại chúng ta không thể nào mơ tưởng.
Cuộc tuần hoàn hiện tại là cao điểm của phương pháp thứ hai dùng tình thương và minh triết. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư này, thể cảm dục đạt đến rung động cao độ, và có sự nối kết trực tiếp giữa các cảnh giới thứ tư của sự điều hòa, giữa thể tình cảm hay nguyên khí thứ tư, và tứ hạ thể với căn chủng thứ tư (dân Atlantis) là giống dân đã điều hợp thể cảm dục. Tôi đã cho các bạn nhiều điều để suy ngẫm trong các tương ứng này.

Ngày 21-9-1920.
Năm hiệu quả của Tham thiền trong tam giới.
Hôm nay, chúng ta bàn về năm hiệu quả trong ba hạ thể ở các cõi thấp mà người môn sinh hành thiền sẽ ý thức được nếu y theo đúng tiến trình đã vạch.
Đây không đặc biệt là những hiệu quả trong cuộc sống mà người đời nhìn vào thấy được, như tình thương rộng lớn hơn, [288] hay sự phát triển tinh thần, hoặc khả năng phụng sự. Những gì mà tôi muốn đề cập hôm nay là những biểu thị trong ý thức não bộ hồng trần của người môn sinh khi y đã làm được một số công việc cần thiết và đạt được phần nào mục tiêu mong muốn. Hãy lưu ý kỹ điều này. Tôi không tìm cách nói rõ tất cả các kết quả khác nhau đạt được do hành thiền huyền môn thành công. Ở đây tôi chỉ đề cập đến một phương diện của vấn đề thôi. Đó là sự nhận biết trong ý thức não bộ hồng trần về một số kết quả liên quan đến vấn đề đang bàn, – việc đến gần các Chân sư.
Điều này gom vấn đề của chúng ta vào sự nhận biết hữu thức về các Chân sư và về một vị Chân sư nào đó trong não bộ hồng trần của hành giả. Sự nhận thức này rất ít phụ thuộc vào vị trí của y trên Đường Đạo, và việc y sắp sửa hay còn lâu mới được điểm đạo. Một số Chân nhân tiến hóa rất cao có thể là đang cố gắng giải quyết vấn đề này, và dù họ thực sự rất gần Chân sư nhưng không thể đưa vào não bộ hồng trần của mình những sự kiện cụ thể để tự chứng minh sự thân cận đó. Một vài người biết được điều này sớm hơn những người khác. Điều này tùy theo loại thể xác đang được sử dụng và công việc đã làm trong những kiếp trước, tạo thành một thể xác đại diện khá đúng cho con người ở nội tâm. Thường thì hành giả có khả năng làm việc và thành đạt lớn lao trên các cõi cao hơn ở cõi trần. Rất nhiều người phụng sự nhiệt thành nhất của chúng ta, đặc biệt là trong nửa thế kỷ này đang trả quả xấu của họ bằng cách nhận những thể không thích hợp. Nhờ chuyên cần, áp dụng, nhờ cố gắng cao độ, và nhờ bền bỉ kiên trì theo đúng những qui luật đã vạch mà sẽ đến lúc người môn sinh bỗng nhiên ý thức được – ngay trong não bộ hồng trần – một số sự kiện bất ngờ, một sự khai ngộ hay thấy được những điều từ trước y chưa hề biết. Đó là một điều hết sức thực cho đến đỗi dù tạm thời nó làm cho y ngạc nhiên nhưng sau đó không sự [289] phủ nhận nào bên ngoài có thể làm cho y mất đi sự hiểu biết những gì mà y đã thấy, đã giao tiếp và đã cảm nhận.
Như tôi vẫn thường nói cùng các bạn, ở đây không thể làm gì hơn là chỉ nói tổng quát. Sáu mươi ngàn triệu linh hồn đang tiến hóa. Mỗi người theo những chu kỳ sống hoàn toàn khác nhau, trong một môi trường rộng rãi để chọn lựa, và không có hai kinh nghiệm nào hoàn toàn giống hệt nhau. Nhưng có thể nói khái quát là nên kể ra năm cách (trong số rất nhiều cách khác khả dĩ có) mà tương đối những sự kiện này thường xảy ra. Tất cả đều đã được truyền đạt theo lối gợi ý nhưng tôi có thể nói rộng thêm ít nhiều.
Nhìn thấy Chân sư và Chân ngã ở nơi sâu thẳm của luân xa tim. Như các bạn biết, người ta thường dạy môn sinh tự hình dung ra chính mình và Chân sư – kích thước khoảng 1/4 inch (0,64 cm) – ở bên trong luân xa tim dĩ thái. Y được dạy, khi gần kết thúc tham thiền, hình dung luân xa tim bằng chất dĩ thái, trong đó y tạo ra những hình nhỏ của Chân sư (là Đấng y hướng đến) và của chính y. Hằng ngày y thực hiện điều này một cách đúng đắn và cẩn trọng với khả năng tưởng tượng và nỗ lực yêu thương, cho đến khi đối với y các hình thể này trở nên rất thực và việc kiến tạo này hầu như thành tự động trong phương thức thiền của y. Rồi sẽ đến ngày (thường là khi những điều kiện chiêm tinh đã thích hợp và gần lúc trăng tròn) y trở nên ý thức được trong não bộ rằng những hình này không phải là những hình bù nhìn nhỏ bé như y tưởng mà y đang ở trong hình ảnh tượng trưng cho chính mình, và nói theo nghĩa đen thì quả thực là y đang đứng trước Chân sư. Lúc đầu điều này rất hiếm khi xảy ra, và thời gian giữ được ý thức này chỉ trong vài giây ngắn ngủi. Khi y tiến bộ hơn, và khi mỗi phương diện trong bản tính y, trong việc phụng sự của y đều phát triển, thì kinh nghiệm này sẽ [290] đến thường xuyên hơn trong những thời khoảng lâu hơn. Mọi sự tiếp diễn cho đến khi người môn sinh có thể liên kết với Chân sư của y theo lối này một cách dễ dàng như trước kia y đã tạo ra những hình thể đó.
Thực sự điều gì đã xảy ra? Người môn sinh đã thực hiện thành công ba việc:–
1. Tự đồng hóa với hình ảnh trong luân xa tim và ngưỡng vọng đến Chân sư.
2. Tạo một đường truyền rõ rệt giữa luân xa tim (nơi y đang cố gắng tập trung tâm thức) đến trung tâm tương ứng của nó ở đầu. Như các bạn biết, mỗi luân xa trong bảy luân xa đều có phần tương ứng của nó ở đầu. Chính sự liên kết luân xa này với phần tương ứng của nó ở đầu mang lại sự khai ngộ. Trong trường hợp này thì người môn sinh đã hoàn thành điều đó. Y đã nối kết luân xa tim với trung tâm của nó ở đầu.
3. Không những y thành tựu hai điều trên, mà y còn tinh luyện được phần tương ứng của trung tâm ấy trong bộ não hồng trần đến mức nó có thể ứng đáp được với những rung động cao hơn cần có, và vì thế mà ghi nhận được những sự việc xảy ra một cách chính xác.
Nhận ra sự rung động. Trong trường hợp này, phương pháp không hoàn toàn giống như trên. Vào những lúc đạo tâm dâng cao nhất trong tham thiền, người môn sinh trở nên ý thức được một sự rung động hay cảm giác đặc biệt trong đầu. Cảm giác này có thể ở một trong ba vị trí sau:–
a. Ở đầu cột sống.
b. Ở trán.
c. Ở đỉnh đầu.
Ở đây tôi không nói đến cảm giác nhận được khi quan năng thần thông phát triển, dù rằng điều đó cũng có liên quan, mà tôi chỉ nói đến một sự rung động rõ rệt kèm theo việc tiếp xúc với một trong các Đấng Cao cả. Lúc đầu người môn sinh chỉ ý thức được một cảm giác được nâng cao tạm thời dưới hình thức như có một cái gì gờn gợn hay vận chuyển trong đầu. Lúc đầu [291] y có thể thấy hơi khó chịu, nếu cảm thấy ở trán thì có thể làm chảy nước mắt hoặc khóc. Nếu ở đầu cột sống hay đáy sọ thì có trạng thái phấn khởi thậm chí hơi choáng váng, còn nếu ở đỉnh đầu thì có cảm giác mở rộng, sung mãn, chẳng khác nào xương sọ có vẻ quá chật hẹp tù túng. Khi được sử dụng nhiều hơn thì cảm giác này sẽ mất dần. Đó là do sự tiếp xúc (lúc đầu rất ngắn ngủi) với một vị Chân sư. Theo thời gian, người môn sinh sẽ nhận ra được sự rung động này và liên tưởng tới một Đấng Cao cả nào đó, vì mỗi Chân sư đều có sự rung động riêng và tạo ấn tượng nơi các đệ tử của Ngài theo một lối riêng. Phương pháp tiếp xúc này thường kèm theo mùi hương. Theo thời gian, người môn sinh sẽ học được cách nâng rung động của mình đến một cao độ nhất định. Khi làm được điều này y giữ vững sự rung động cho đến khi cảm được sự rung động ứng đáp hay là mùi hương của Chân sư. Rồi y cố gắng hòa lẫn tâm thức của mình với tâm thức của Ngài đến mức cao nhất theo khả năng, để biết chắc ý muốn của Chân sư và hiểu được những điều Ngài cần truyền đạt. Thời gian qua, khi sự ứng đáp của người đệ tử càng tăng tiến thì về phần Chân sư Ngài sẽ hấp dẫn sự chú ý của y hoặc tỏ dấu hiệu hài lòng y (như việc khơi dậy rung động này trong đầu y) . . . .

Ngày 23-9-1920.
. . . . . . Hôm nay chúng ta còn ba điểm phải bàn. Hai điểm đã nói về sự tiếp xúc với Chân sư ở nơi sâu thẳm của luân xa tim và nhận ra được sự rung động của Ngài. Còn ba lối nữa, (xin nhớ là trong rất nhiều lối) mà người môn sinh nhiệt tâm có thể ý thức được trong não bộ hồng trần việc y đã tiếp xúc với Chân sư y.
Đưa ký ức về đạo viên của Chân sư và những bài học đã được truyền dạy ở đó vào ý thức não bộ hồng trần. [292]
Khi người môn sinh kiên trì hành thiền, khi y ngày càng dễ dàng áp dụng nhịp rung động đúng đắn, thì y tạo ra một con đường (xin tạm gọi như thế) đưa y thẳng đến Chân sư. Đây là một câu nói đúng với sự kiện thực tế. Nhờ thiện hành mà cuối cùng người môn sinh được quyền tiếp xúc với Chân sư vào những thời khoảng định sẵn. Thiện hành là công tác tốt đẹp trong tham thiền kèm theo cố gắng tích cực phụng sự nhân loại. Những khoảnh khắc này lúc đầu rất hiếm hoi, nhưng ngày càng xảy ra thường xuyên hơn khi hành giả đạt được nhiều tiến bộ. Bấy giờ khi thức tỉnh trong xác thân, y nhớ lại và biết được sự tiếp xúc này. Y sẽ thấy phòng của Chân sư, và nhớ được các cộng sự của y trong công tác của lớp học. Y sẽ nhớ lại một số câu Ngài nói, và hồi tưởng được công việc Ngài đề nghị, hay lời Ngài khuyên bảo. Đây là một trong những phương pháp chỉ cho người môn sinh thấy rằng y đang thành công trong việc đến gần Chân sư, nhờ khả năng tăng dần trong tham thiền.
Đạt được phần nào ý thức của thể nguyên nhân. Điều này cho thấy rằng người môn sinh đã phát triển (có lẽ mức độ còn ít, nhưng cũng cảm nhận được rõ rệt) phần nào năng lực đi vào thế giới của các Ngài. Khả năng suy tư trừu tượng và chiêm ngưỡng (đại định), năng lực vượt khỏi các giới hạn của thời gian và không gian, là những quyền năng của thể chân nhân. Và, như trước tôi đã nói, vì tất cả mọi nhóm Chân nhân đều được một vị Chân sư kiểm soát, nên việc phát triển tâm thức của Chân ngã (khi nhận biết được một cách hữu thức) là dấu hiệu của sự tiếp xúc và đến gần Ngài. Nhiều người tiếp xúc được với Chân nhân của họ một cách vô thức và nhất thời có được những tia chớp của tâm thức Chân ngã. Nhưng chỉ khi nào người đệ tử có thể tự nâng cao một cách hữu thức, khi y thận trọng tăng cường sự rung động và chuyển sự phân cực của mình vào trong thể chân nhân dù chỉ trong phút giây ngắn ngủi, thì bấy giờ y hiểu được rằng trong phút giây ngắn ngủi ấy y đang rung động theo âm khóa của Chân sư của nhóm y.
Y đã tiếp xúc được với Ngài. Có thể lúc đầu bộ não hồng trần [293] của y không ghi nhớ được các chi tiết của cuộc tiếp xúc, có thể y không nhận ra được dung mạo của Chân sư hay những lời Ngài thốt ra. Nhưng vì y đã hữu ý tuân thủ qui luật, đã nhập vào sự im lặng của những chốn cao thâm, và định luật bao giờ cũng tác động, nên y đã tạo được sự tiếp xúc. Một số đệ tử hiểu biết thân cận với Chân sư của họ ở các nội giới và làm việc dưới sự hướng dẫn của Ngài, nhưng có khi phải qua rất nhiều kiếp họ mới hiểu được định luật và thận trọng tạo con đường tiếp cận Chân sư nhờ quyền năng phát triển trong tham thiền.
Theo thời gian, khả năng tiếp xúc này tăng thêm mãi cho đến mức người đệ tử có thể bất cứ lúc nào cũng thấy được ý muốn của Chân sư và tiếp cận với tâm Ngài.
Phương pháp thứ năm không thường thấy nhưng cũng có đối với một số bẩm tính của người đệ tử. Nhờ âm thanh mà hành giả biết được thành công. Y hành thiền theo thể thức thường ngày. Y kiên trì ngày này qua ngày khác và thực hiện công việc cần làm trong cả tam giới. Y liên tục nâng cao sự rung động và nguyện vọng tinh thần trong cố gắng cần thiết, kết hợp mọi nỗ lực ở nội tâm với cuộc sống phụng sự yêu thương ở bên ngoài. Rồi trong một lần tham thiền nào đó, y chợt nghe được một nốt nhạc, chừng như ngân lên trong đầu, hay từ luân xa tim phát ra. Nốt nhạc đó không trỗi lên do việc xướng Thánh ngữ (Thánh ngữ này khi được hành giả xướng lên theo một âm khóa nhất định thì có thể được Chân nhân đáp lại bằng một nốt nhạc), mà nó đến do thành quả của tham thiền và tiếng nhạc này ngân lên trong luân xa rõ rệt đến mức không bao giờ ta quên được. Đó cũng là một ấn chứng của thành công. Y đã được tiếp xúc với Chân sư và Ngài đã đáp ứng bằng cách ngân lên âm điệu của chính Chân ngã y. Đây quả thật là thông lệ căn bản mà vị thủ môn ứng đáp với người chí nguyện tương lai muốn biết các bí nhiệm của nhóm. Khi [294] công việc được thực hiện đúng đắn, người chí nguyện sẽ xướng lên lời xin gia nhập bằng âm khóa hay âm điệu của chính y, cố gắng chạm đến nốt nhạc có thể cảm ứng được Chân nhân.
Vị thủ môn sẽ đáp lại và ngân lên cùng âm điệu đó nhưng vang dội và đầy đủ hơn, để nhờ quyền năng của âm thanh mà liên kết người ấy với Chân sư trong các cuộc lễ sắp đến. Việc làm này giúp mỗi thành viên của nhóm liên hệ mật thiết với Chân sư – nhờ nỗ lực của chính y và nhờ nhân tố thứ ba là vị thủ môn. Theo thời gian người môn sinh sẽ thấu đáo điều này hơn và cố gắng giữ cho âm thanh vang dội giữa y và vị thủ môn. Khi đã thực hiện được hoàn hảo (điều mà ngay bây giờ chưa có thể làm được) thì đó là sự bảo vệ an toàn. Các nhóm được thành lập tùy theo sự hình thành tập thể các chân nhân và tùy mỗi Chân sư. Vị thủ môn sẽ được báo cho biết nốt của nhóm, và người nào không ngân được một nốt trong bát độ thấp hơn hoặc cao hơn nốt đó thì không được vào. Điều này áp dụng cho những nhóm đã hiến dâng cho công cuộc phát triển tinh thần nội tại, và những gì liên quan trực tiếp đến công việc của một Chân sư, với các môn sinh, các đệ tử hay những người dự bị của Ngài. Những nhóm khác được thành lập với những thành viên khác, thuộc những cung và những Chân sư khác nhau, sẽ giữ cửa vào bằng một phương pháp khác, sau này sẽ được tiết lộ.
Khi trong tham thiền người môn sinh nghe được nốt nhạc nội tâm này, y nên cố gắng ghi nhận nó và cố gắng vun bồi khả năng nhận ra nó và sử dụng nó. Lúc đầu việc này không dễ làm vì âm thanh phát ra vừa bất ngờ vừa ngắn ngủi. Nhưng thời gian qua, người môn sinh cứ tiếp tục nhận được sự đáp ứng tương tự hết lần này đến lần khác. Bấy giờ y có thể bắt đầu tìm ra phương pháp và trông chừng các nguyên nhân làm phát sinh sự rung động đó.
Như trước đây tôi đã nói, có rất nhiều phương pháp để người môn sinh ý thức được sự thành công của y trên đường tiến đến Chân sư. Trên đây tôi chỉ đề cập đến năm cách thôi. [295] Về sau, khi các trường tham thiền được tổ chức và được một vị Chân sư có tâm thức trong thể xác chăm sóc, thì những lần và những cách thức tiếp xúc sẽ được ghi nhận, nhờ vậy mà vấn đề này sẽ được sẽ hiểu biết nhiều hơn. Để kết luận, tôi muốn nêu ra rằng luôn luôn người môn sinh phải làm công việc kêu gọi sự đáp ứng. Thời điểm đáp ứng tùy theo nhiệt tâm của y trong công việc, tùy sự hiến dâng trong phụng sự và tùy nghiệp quả của y. Khi y xứng đáng được một sự ứng đáp nhất định, điều này sẽ được chỉ rõ trong lá số tử vi của y, mà không điều gì có thể ngăn cản hay làm chậm trễ được. Đồng thời cũng không có gì phải hấp tấp thực sự, nên người môn sinh không cần phí thì giờ để băn khoăn sầu muộn vì chưa được ứng đáp. Phần việc của y là tuân thủ các qui luật, là tuân hành các thể thức thiền đã vạch ra, là suy ngẫm và theo đúng những lời giáo huấn một cách khôn ngoan, là làm việc một cách dứt khoát, và nhiệt tình phụng sự chư huynh đệ. Khi y đã làm được tất cả những điều này, khi y đã sử dụng chất liệu có sự rung động cần thiết để kiến tạo ba hạ thể, khi y đã chỉnh hợp được ba thể này với thể Chân nhân (dù chỉ trong phút giây ngắn ngủi thôi) thì bỗng nhiên y có thể thấy, bỗng nhiên y có thể nghe, bỗng nhiên y có thể cảm nhận được một sự rung động. Từ đó về sau bao giờ y cũng có thể nói rằng lòng tin đã hòa lẫn với mắt thấy, và ước nguyện đã trở thành hiện thực.

[296] BỨC THƯ IX
CÁC TRƯỜNG THAM THIỀN TRONG TƯƠNG LAI.
1. Trường cơ bản duy nhất.
2. Những chi nhánh ở các quốc gia.
3. Vị trí, nhân sự, và các cơ sở của trường.
4. Cấp bậc và khóa học.
[297]
BỨC THƯ IX
CÁC TRƯỜNG THAM THIỀN TRONG TƯƠ NG LAI.
Ngày 26-9-1920.
Hôm nay chúng ta nhận một loạt thư khác về tham thiền huyền môn, đề cập đến “Các Trường Tham thiền Tương lai.” Trong thư này tôi sẽ nói ít nhiều về cách áp dụng những lối phát triển và huấn luyện đã nêu trong những bức thư trước. Tôi cũng tiên đoán phần nào các việc xảy ra sau này, chứ không nói về những gì mà cho đến nay chúng ta có thể đạt bằng cách nào đó. Luôn luôn cần phải có những lý tưởng cao cả và bao giờ trí tuệ con người cũng phóng tới trước hướng đến một mục tiêu đã chọn. Nếu ở đây tôi phác họa ra những gì xem chừng viễn vông không thể có là chỉ vì tôi muốn nêu lên lý tưởng đó và đặt cho nhân loại một mục tiêu xứng đáng với nỗ lực cao nhất của họ.
Nhận xét sơ bộ.
Chúng ta hãy dừng lại trong giây lát và đưa ra một số định đề trong hiện tại để (gọi là) dọn đường cho hoạt động ở tương lai.
Giá trị của tham thiền đang ngày càng được thừa nhận ở khắp nơi. Các trường dạy định trí và những phương pháp phát triển trí tuệ thường được quảng cáo trên các nhật báo.
Người ta vẫn còn chưa hiểu được bao nhiêu về tham thiền đích thực. Sự tập trung tư tưởng chỉ là nền tảng cho công việc tương lai mà thôi.
Cho đến nay chưa thể xây dựng được cơ cấu tương lai, vì hai lý do chính yếu:– [298]
a. Trong thời gian hiện nay, con người vẫn chưa có khả năng đạt đến cấp độ thể nguyên nhân và tâm thức của thể này.
b. Chưa có được một vị Chân sư hiện diện trong thể xác, với khả năng và trang bị để truyền dạy cách phát triển có tính khoa học thực sự, là mục tiêu của chân tham thiền.
Tình trạng khó khăn của thế giới hiện tại cũng đủ gây chướng ngại khiến nói chung người ta không chấp nhận bất cứ sự rèn luyện nào hay việc phát triển các hạ thể một cách khoa học.
Tôi đặt những tiền đề này ở đây để làm khởi điểm cho chúng ta. Không thể phủ nhận rằng ở nơi này nơi khác đã có một số người đạt được mục đích, đã có những người nắm vững được phương thức Thiền Huyền môn và đã thực hiện được sự tiến bộ như mong muốn. Thế nhưng đây chỉ là số ít, quá ít so với đại khối nhân loại đang đầu thai đồng thời với họ. Họ thành công vì lẽ họ đã nỗ lực lâu đời, và bởi trong các kiếp trước họ đã bước trên Đường Đạo hay đã đến gần cửa Điểm đạo rồi. Nhưng ngay đến người có trí thông minh trung bình hiện nay – ví dụ như người hấp thụ nền văn minh Tây phương – cũng còn lâu mới sẵn sàng để được huấn luyện huyền môn. Hiện đang có những cuộc thí nghiệm (thường thì những người được thí nghiệm không hề hay biết) để xem một người được thúc đẩy qua kinh nghiệm và diễn trình tiến hóa thông thường, phải mất bao lâu mới đến mức có thể được huấn luyện nhiều hơn một cách an toàn. Dân chúng ở nhiều nước văn minh đang được giám sát và một phương pháp kích thích và tăng cường đang được áp dụng, nhằm mang lại cho các Đấng Cao cả một số dữ kiện có thể làm phương châm cho các Ngài dùng trợ giúp nhân loại sau này. Đặc biệt là các dân tộc ở Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nga, Scotland và Hy Lạp đang được lưu ý. Một số người ở Bỉ,[299] Thụy Điển và Áo cũng đang được quan sát, và nếu đáp ứng được như kỳ vọng thì họ sẽ làm hạt nhân cho công cuộc phát triển rộng lớn hơn.
Các Trường Tham thiền Tương lai.
Như thường lệ, chúng ta chia vấn đề thành nhiều mục nhỏ:–
1. Trường cơ bản duy nhất.
2. Những chi nhánh ở các quốc gia.
3. Vị trí, nhân sự, và các cơ sở của trường.
4. Cấp bậc và khóa học.
Các bạn nên chú trọng đến sự kiện là tất cả những điều tôi sắp nói ra đây chỉ là một phần của một kế hoạch thử nghiệm nhằm đẩy nhanh sự tiến triển của thượng trí và chế ngự các thể của con người bằng quyền năng của Thượng Đế nội tâm. Kế hoạch này được vạch ra vì nhu cầu khẩn thiết của thế giới, trong đó trí tuệ con người phát triển không còn cân đối với sự thăng bằng của tình cảm và sự chuẩn bị ở xác thân. Bước tiến nhanh chóng của tri thức, sự mở mang hệ thống giáo dục để đưa sản phẩm của nhiều nhà trí thức vào cảnh sống của dân nghèo, khả năng đọc và viết của tất cả mọi người trong những nước như Hoa Kỳ hay các chủng tộc khác của giống dân Nhậtnhĩ-man (Anglo-Saxon) đã là nguyên nhân làm phát sinh vấn đề khó khăn thực sự (có thể nói là không ngờ) mà các Đấng Cao cả đang phải đối phó.
Mục tiêu của tất cả mọi người là phát triển trí tuệ song song với tình cảm ổn định và xác thân mạnh khỏe. Nhưng hiện nay các bạn thấy sự phát triển trí tuệ lại kèm theo thể cảm dục xáo động và một thể xác yếu đuối, thiếu dinh dưỡng, và nuôi nấng sai lầm. Cho nên mới có sự rối rắm, thiếu quân bình, thị kiến lờ mờ và lập luận thiên lệch. Thay vì hạ trí là phương tiện để đạt mục đích và lợi khí để sử dụng, nó lại sắp [300] trở thành kẻ cai trị độc đoán, ngăn cản tác động của trực giác và bưng bít trí tuệ trừu tượng.
Vì thế mà các Chân sư dự định tạo ra một phong trào (nếu bằng cách nào đó thành công được) nhằm kềm chế hạ trí bằng phương tiện của chính con người. Với mục tiêu trước mắt này, các Ngài đặt kế hoạch sử dụng cung sắp đến là Cung Định luật Nghi thức hay Tổ chức và dùng giai đoạn đồng thời hay kế theo sự lâm phàm của Đức Chưởng giáo để bắt đầu thiết lập các trường tham thiền kể trên (lúc đầu thì chưa lộ rõ, trong qui mô nhỏ) và giúp cho mọi người ở khắp nơi ý thức được bốn điều căn bản:–
a. Lịch sử tiến hóa của con người về phương diện trí tuệ.
b. Sự cấu tạo thất phân của đại vũ trụ và tiểu vũ trụ.
c. Những định luật chi phối sự sống của con người.
d. Phương pháp phát triển huyền môn.
Bước đầu đã được thực hiện . . . . . . . . qua các trường hiện nay vẫn còn tồn tại . . . . . . . . tất cả đều là khởi điểm của kế hoạch. Khi các trường này đã có cơ sở vững chắc, đã hoạt động điều hòa và được công chúng biết đến; khi các trường này với sự chú trọng về mặt nội tâm đã phần nào ảnh hưởng được người đời; khi các trường này đã đào tạo được những học giả, những người phụng sự, những nhà chính trị, những nhà khoa học và những nhà lãnh đạo giáo dục có thể ảnh hưởng được môi trường chung quanh họ; thì có lẽ bấy giờ mới đến lúc xây dựng được trường huyền môn đích thực ở ngoài đời. Điều này có nghĩa là nếu các trường và các phân viện đầu tiên hoàn tất được công việc của họ một cách thỏa đáng thì họ sẽ chứng tỏ cho người đời thấy rằng nội tâm chính là thực tại, và cái thấp chỉ là nấc thang để tiến đến cái cao hơn. Vì thế, khi thực tại nội tâm được mọi người đồng công nhận thì bấy giờ mới có thể thiết lập được một hệ thống các trường nội môn [301] . . . sẽ được công chúng thừa nhận. Hệ thống này không bao giờ loại trừ sự cần thiết phải luôn luôn có một phân bộ nội giáo bí truyền, vì bao giờ cũng có một số chân lý và những sự kiện rất nguy hiểm nếu phổ biến cho người chưa được điểm đạo. Nhưng tôi muốn nêu rõ rằng rốt cuộc các bí nhiệm sẽ được thừa nhận là những sự kiện thực tế để mọi người đồng nhận thức, lấy đó làm mục tiêu chung. Họ sẽ được chuẩn bị để nhập học các trường có chuyên gia lão luyện hướng dẫn, đảm nhận công việc nhất định là huấn luyện những người sơ cơ để họ có thể hiểu được các bí nhiệm đó.
Những trường này trước đây đã có, và khi bánh xe tiến hóa quay thêm một vòng, chúng sẽ tái hiện.
Các bạn hỏi chừng nào việc này xảy ra? Điều đó còn tùy chính nhân loại và tùy theo công việc của tất cả các bạn là những người đang phụng sự với niềm tin và chí nguyện trong những bước đầu của kế hoạch.
H. P. B. đã đặt viên đá nền tảng cho trường đầu tiên trong tiểu chu kỳ đặc biệt này (tuy nhiên, lại là thời kỳ tương đối quan trọng, là thời gian lớn mạnh mau lẹ của căn chủng thứ năm, và là thời kỳ bừng nở của nguyên khí thứ năm). Đây là nền tảng chính yếu. Như trước tôi đã nói, công tác này tiến hành tạo lập những thiền viện khác nhau, và khoa học trí tuệ cũng góp phần vào đó. Công việc sẽ được xúc tiến như ý muốn, nếu mỗi người đang được huấn luyện huyền môn đều cố gắng hết sức và chuyên chú vào phần việc đang làm. Nếu tất cả các công tác có thể làm đều được thực hiện thì khi Đức Chưởng giáo lâm phàm với các Chân sư phụ tá Ngài công việc sẽ được thêm một sức thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Công cuộc này sẽ mở rộng và phát triển cho đến mức trở thành một sức mạnh trên thế giới. Bấy giờ mới đến ngày các trường huyền môn đảm nhận công việc rõ rệt là huấn luyện cho con người được điểm đạo.
Ngày 27-9-1920.
Hôm nay chúng ta bàn đến điểm đầu tiên, vì chỉ khi đặt được nền móng đúng đắn thì thượng tầng kiến trúc mới đạt yêu cầu.
[302]
1. Trường cơ bản duy nhất.
Thế nên nhất thiết phải nhấn mạnh rằng dù cho các chi nhánh có thế nào, trường huyền môn căn bản vẫn bắt nguồn từ trung tâm linh thánh của địa cầu là Shamballa. Dưới sự giám sát của chính Đấng Điểm đạo Duy nhất là Đấng mà chúng ta ít khi biết được rằng Ngài là sự biểu lộ cao nhất của Cung Giáo dục trên Địa cầu, có tổ chức mệnh danh là cơ quan trung ương cho cuộc huấn luyện kỷ luật và giáo dục của Đ.Đ.C.G.. Ở đó có một vị Đế quân chịu trách nhiệm trực tiếp cho nhiều nỗ lực khác nhau, và các Chân sư thu đệ tử cũng như các vị Lãnh đạo của những trường huyền môn đều chịu trách nhiệm trực tiếp với Ngài. Tất cả đều tiến hành theo định luật và trật tự.
Một điều cần phải nhấn mạnh ở đây là Quang minh Chánh đạo, mà tiêu biểu là các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn, có đại diện ở nhiều nơi khác để thực hiện công tác cụ thể dưới sự giám sát thích hợp và đầy đủ. Nhiều nhà Thần triết thường cho rằng chỉ có họ là những người được ủy thác nền tôn giáo minh triết. Sự thực không phải vậy. Vào thời gian đặc biệt này (mà mục tiêu trước mắt là nhằm phát triển và tạo cơ hội thuận lợi cho phân chủng thứ năm) các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn là đường truyền chính yếu để mang lại nỗ lực, quyền năng và ánh sáng. Nhưng công việc cho những giống dân khác cũng tiến hành đồng thời, và nhiều kế hoạch khác nữa, tất cả đều phát xuất từ cơ quan trung ương ở Shamballa, cũng đang song hành với công việc của các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn. Hãy ghi nhớ rõ điều này vì đây là điều quan trọng. Trường phái và Phân bộ Hy-mã-lạp-sơn quan tâm chính yếu đến Tây phương và là trường phái duy nhất (không ngoại lệ) chuyên lo công việc và đào tạo các môn sinh huyền bí ở Tây phương.
Các môn sinh của trường không có gì phải cạnh tranh hay
[303] làm việc trùng hợp. Điều này không vì lợi ích của các huấn sư mà để bảo đảm an toàn cho họ. Những hiểm nguy ẩn nấp trên đường đi của người môn sinh huyền bí, và các Chân sư ở Hy-mã-lạp-sơn biết đủ mọi cách để bảo vệ môn sinh của các Ngài. Miễn là họ vẫn ở trong phạm vi hào quang thống nhất của các Ngài chứ không đi thụ huấn ở các trường phái khác. Tất cả các trường huyền môn đích thực đều yêu cầu môn sinh tuân thủ điều này, và tất cả các Chân sư thực sự đều mong đệ tử của Ngài đừng thụ huấn nơi khác khi đang nhận giáo huấn từ các Ngài. Các Ngài không nói: “Chỉ có phương pháp của chúng tôi là đúng và thực,” mà bảo rằng: “Khi thụ huấn với chúng tôi thì đường lối khôn ngoan và an toàn là các bạn đừng thụ huấn với một trường phái khác hay Chân sư khác.” Còn nếu một môn sinh muốn làm điều đó thì y được hoàn toàn tự do chọn trường phái và huấn sư khác, nhưng trước hết y phải chấm dứt liên hệ với trường phái cũ.
Có thể nhận ra trường cơ bản duy nhất nhờ một số đặc trưng rõ rệt sau đây:–
Bởi đặc tính căn bản của những chân lý được truyền dạy, thể hiện trong các định đề sau:–
a. Tính duy nhất của toàn bộ cuộc sống.
b. Những bước phát triển tuần tự được nhận ra nơi hành giả, và học trình ngày càng nâng cao dần, để giúp hành giả mở mang tâm thức từ mức này đến mức khác, cho đến khi đạt được trình độ mà chúng ta gọi là hoàn thiện.
c. Sự liên hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ và sự áp dụng bảy phương diện của mối liên hệ đó.
d. Phương pháp phát triển và vị trí của tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ được tiết lộ nhờ nghiên cứu tính tuần hoàn của toàn cuộc biểu hiện và định luật cơ bản về nhân quả.
Bởi sự chú trọng vào việc lập hạnh và phát triển tinh thần, lấy đó làm nền tảng cho sự phát triển tất cả những khả[304] năng ẩn tàng trong tiểu vũ trụ.
Bởi sự đòi hỏi tất cả các môn sinh liên hệ (không ngoại lệ) phải có cuộc sống khai mở và phát triển nội tâm song hành với cuộc sống phụng sự bên ngoài.
Bởi những bước tuần tự mở mang tâm thức là kết quả của cuộc rèn luyện được chỉ dạy. Sự mở mang này đưa hành giả từng bước tiến lên đến mức tiếp xúc được với chân ngã y, với Chân sư y, với nhóm chân ngã của y, với Đấng Điểm đạo Đầu tiên, với Đấng Điểm đạo Tối cao, cho đến khi tiếp xúc với Đấng Chủ tể của Cung y và nhập vào lòng “Cha của y ở trên Trời.”
Đó là những đặc điểm nổi bật của Trường tham thiền thực sự cơ bản và duy nhất.
Trường cơ bản này có ba chi nhánh chính, chi nhánh thứ tư đang được hình thành và sẽ là bốn chi nhánh của cuộc tuần hoàn thứ tư hiện nay. Các chi nhánh này là:–
1. Chi nhánh xuyên Hy-mã-lạp-sơn.
2. Chi nhánh Nam Ấn Độ.(đây là các Chi nhánh của giống dân Aryan)
3. Một Chi nhánh dành cho căn chủng thứ tư do hai vị Chân sư của căn chủng này lãnh đạo.
4. Một Chi nhánh đang được thành lập, sẽ có trụ sở chính ở phương Tây, nơi chốn chưa được tiết lộ. Mục tiêu chính của chi nhánh này là giáo hóa người của căn chủng thứ sáu sắp đến.
Những chi nhánh này đang và sẽ liên hệ mật thiết với nhau và sẽ cộng tác thật chặt chẽ. Tất cả đều được tập trung dưới quyền kiểm soát của vị Đế quân ở Shamballa. Các vị Huynh trưởng của mỗi chi nhánh đều thường xuyên liên lạc với nhau và thật sự giống như ban giáo sư của một viện đại học khổng lồ. Bốn trường phái này giống như các ngành lớn [305] khác nhau của cơ sở – như các phân khoa đại học. Cả bốn trường đều nhằm mục tiêu trợ giúp cuộc tiến hóa của nhân loại, đều có mục đích dẫn dắt tất cả mọi người đến trình độ có thể đứng trước Đấng Điểm đạo Duy nhất, đều sử dụng những phương pháp trong cơ bản giống nhau, dù khác nhau trong chi tiết. Đó là vì những chủng tính đặc thù của các giống dân và các mẫu người thụ huấn, và vì sự kiện là có những trường chính yếu dành cho một cung, trong khi những trường khác lại hoạt động cho một cung khác.
Trường phái xuyên Hy-mã-lạp-sơn có những Đấng trọn lành mà các bạn đã biết, còn những vị khác thì chưa.
Trường Nam Ấn có công tác đặc biệt với giới tiến hóa thiên thần và lo cho phân chủng thứ hai và thứ ba của giống dân Aryan.
Trường Hy-mã-lạp-sơn làm việc với phân chủng thứ nhất, thứ tư và thứ năm của giống dân này.
Chi nhánh dành cho căn chủng thứ tư ở dưới quyền của Đức Bàn cổ của giống dân này và vị Huynh đệ thuộc Cung Giáo dục của Ngài. Các trụ sở chánh của chi nhánh này đều ở Trung Quốc.
Chân sư R.– và một vị Chân sư người Anh, đang chăm lo từ từ hình thành chi nhánh thứ tư của trường, có sự trợ giúp của Chân sư Hilarion. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ các sự kiện kể trên, vì ý nghĩa của chúng có tầm quan trọng sâu sắc.
Ngày mai chúng ta sẽ bàn về tương lai. Hôm nay tôi chỉ nói đến những gì đã biểu lộ trong hiện tại.
Ngày 28-9-1920.
Hôm nay chúng ta xét đến điểm thứ hai và sẽ làm sáng tỏ bằng cách tiên đoán. Ở đây các bạn cần lưu ý rằng những gì được xem là sẽ có sau này không hẳn là luôn luôn có thể xảy ra đúng từng chi tiết như dự kiến. Tôi chỉ muốn trình bày cho các bạn những nét phác họa của kế hoạch lớn và tổng quát thôi. Sự thực hiện trong tương lai sẽ tùy theo trực giác hay [306] nhận thức cao độ của các nhà tư tưởng trong nhân loại và khả năng của các linh hồn nhập thế có biết nắm lấy những cơ hội và hoàn thành vận mệnh của họ hay không.
Hôm qua chúng ta đã bàn về trường cơ bản duy nhất với bốn chi nhánh. Nay tôi sẽ nói đến:–
2. Các phân chi cấp quốc gia của Trường Duy nhất này.
Trước hết, cần lưu ý rằng không phải mọi nước trên thế giới đều có trường huyền môn. Chỉ khi thể nguyên nhân của tập thể toàn quốc gia đó đạt đến một mức độ rung động nhất định thì mới có thể lập ra các trường này. Chỉ khi công cuộc giáo dục của quốc gia đó được nâng cao đến trình độ nhất định mới có thể sử dụng trí năng của cả nước làm bàn đạp để mở mang rộng lớn hơn và dùng nó làm căn bản để phát triển trường huyền môn. Và cũng lạ là chỉ những quốc gia nào nguyên đã có trường huấn luyện các bí nhiệm (ngoại trừ ba nước) mới có lại những trường tham thiền ở quốc gia họ, trong những giai đoạn đầu tiên. Những nước ngoại lệ là:–
1. Anh Quốc.
2. Canada và Hoa Kỳ.
3. Úc.
Ngay cả trong ba ngoại lệ này cũng xem như chỉ có một (trường hợp của Úc), vì hai trường hợp kia đã có những cơ sở huyền môn trong thời Atlantis, khi họ còn là một phần đất của châu lục này. Theo đà quay của bánh xe tiến hóa, quả đất tự nó cũng tái sinh. Những nơi đã qua thời kỳ ngơi nghỉ và đang đi vào cuộc biểu hiện vẫn còn giữ trong chúng những hạt giống để cuối cùng khi gặp sự rung động tương đồng sẽ làm tái hiện những cách phát biểu và những hình thể tương tự.
Sau này, khi những Trường Huyền môn được thành lập, các bạn sẽ thấy chúng tọa lạc ở những nơi còn vấn vương từ lực của thời xưa. Hoặc những nơi mà trong vài trường hợp [307] Thiên đoàn có trấn những linh phù cổ xưa, cũng nhằm mục đích này.
Các phân chi liên thuộc một trong bốn chi nhánh trung ương của tổ chức huyền môn duy nhất này sẽ được thiết lập ở các nước sau đây:
1. Ai Cập. Ở đây có một trong những trường sẽ được thành lập về sau, là một trường cấp cao, có tính huyền môn sâu sắc và liên hệ trực tiếp với các cấp đẳng nội môn. Việc này chúng ta sẽ bàn sau.
Hoa Kỳ sẽ có một trường dự bị ở phía nam của miền Trung Tây, và một trường huyền môn cao đẳng mở rộng ở California, nơi chốn sẽ được tiết lộ sau này. Đây là một trong những trường đầu tiên sẽ được mở ra khi Đức Chưởng giáo bắt đầu làm công việc của Ngài ở thế gian. Trong vòng năm năm tới trường này sẽ được đặt nền móng nếu các môn sinh biết được đúng những việc phải làm.
Sẽ có một trường cho các quốc gia La-tinh, có thể ở Ý hay miền Nam nước Pháp, nhưng điều này tùy thuộc rất nhiều vào công cuộc giáo dục và chính trị ở đó trong vòng mười năm tới.
2. Anh Quốc. Tại một địa điểm từ lực mạnh hoặc ở Scotland hay xứ Wales, không bao lâu nữa một chi nhánh huấn luyện huyền môn sẽ được phát khởi, để đặt nền móng và bao gồm chương trình huấn luyện các cấp đầu. Sau khi trường này được thành lập trong vài năm và đã tỏ ra hữu hiệu trong công tác huấn luyện, và sau khi Ireland đang bị lộn xộn đã điều chỉnh các khó khăn nội bộ của xứ này, thì một trường cao cấp hơn sẽ được mở ra để dạy các bí nhiệm, ở một địa điểm từ lực mạnh thuộc Ireland. Đây nhất định sẽ là trường chuẩn bị cho môn sinh được nhận một trong các cuộc điểm đạo chính yếu, và ở dưới sự trông nom của Đức Di Lạc Bồ-tát, chuẩn bị cho các môn sinh thuộc cung hai được điểm đạo. Trường đầu tiên ở Ai Cập sẽ dành cho các ứng viên điểm đạo thuộc cung một ở Tây phương.
[308] Các ứng viên điểm đạo theo con đường của Đức Văn minh Đại đế, hay thuộc cung ba, sẽ được điểm đạo tại trường huyền môn cao cấp ở Ý. Theo lối này, phương Tây sẽ có một trung tâm, nơi có thể truyền dạy các giáo huấn tích cực theo ba con đường tiếp cận và cũng sẽ là nơi chuẩn bị cho các môn sinh được thọ truyền các bí nhiệm nội môn.
Một trường huyền môn cấp dự bị cũng sẽ được thành lập ở Thụy Điển, cho những người tìm đạo ở Bắc Âu và thuộc các chủng tộc Đức. Khi nó đã tồn tại được một thời gian thì lúc đó nước Nga có thể được chọn để đặt trụ sở chính cho một trường cấp cao, liên kết với trường dự bị ở Thụy Điển. Liên kết với trường cấp cao ở Ai Cập thì có trường dự bị ở Hy Lạp hay Syria.
Vì thế, các bạn sẽ có các trường tham thiền như sau đây và phải nhớ rằng trường dự bị dành cho các cấp sơ đẳng thì được thiết lập trước và hiện đang được thiết lập, hay sẽ được thiết lập trong thời gian ngay trước khi Đức Chưởng giáo lâm phàm. Việc thiết lập các thiền viện khác, chắc chắn là do thành quả công trình của Ngài và của các Chân sư phụ tá Ngài, và cũng tùy sự quyết định của các Ngài đối với sự thành công của cố gắng trước đó.
Các cấp dự bị Trường cấp cao
1 Hy Lạp hay Syria dẫn đến Ai Cập
2 Trung Tây, Hoa Kỳ . California
3 Miền Nam nước Pháp Ý
4 Scotland hay xứ Wales Ireland
5 Thụy Điển ………… Nga
6 New Zealand ……… Úc

[309] Cũng có một trường dự bị được trù định cho các Chân nhân tiến hóa của căn chủng thứ tư. Trường sẽ ở dưới sự trông nom của Đức Bàn cổ của giống dân này và được đặt ở Nhật Bản, với chi nhánh nội môn của nó ở miền tâyTrung Quốc. Đây là trường thứ bảy trong nhóm trường được dự trù.
Chưa có dự định lập các chi nhánh ở miền Nam châu Phi và Nam Mỹ. Chưa đến lúc thành lập các chi nhánh này mà phải đợi đến chu kỳ sau.
Cần đặc biệt lưu ý rằng các trường này chỉ là những khởi điểm nhỏ bé, và lúc đầu sẽ không có vẻ gì là hệ trọng, đáng lưu ý. Bước đầu sẽ bao gồm những thành viên của các trường nội môn khác, như các phân bộ bí giáo của phong trào Thần triết và các nhóm khác nữa. Công việc ở Anh, Mỹ và Úc đã được khởi sự, còn ở Thụy Điển thì sắp sửa tiến hành. Những nơi khác cũng sẽ tiếp theo trong những ngày rất gần đây.
Phần kế hoạch được công bố đến mức này là nhằm để khích lệ tất cả các bạn nghiên cứu với nguồn hứng khởi lớn hơn và làm việc với sự áp dụng cần mẫn hơn. Mỗi người và tất cả mọi người đều có vị trí trong kế hoạch này nếu họ tỏ ra xứng đáng bằng cách làm công việc cần thiết. Công việc cần phải là:–
Cố gắng nhận ra sự sống Thiêng liêng trong chính mình. Bằng cách này mà sự vâng lời (đúng nghĩa huyền môn) là điều thiết yếu trong toàn cuộc huấn luyện huyền môn sẽ được bồi dưỡng và phát triển. Sự tuân hành này không như thường thấy là dựa vào phàm nhân, mà dựa vào sự nhận thức trong bản năng về một vị Chân sư. Người đạo sinh sẵn sàng tuân hành do thừa nhận những quyền năng của Ngài, sự thanh khiết trong đời sống, trong các mục tiêu của Ngài, và kiến thức uyên thâm của Ngài.
Cố gắng suy tư trong phạm vi của nhóm và tự nhận định một cách độc lập và minh bạch, không dựa vào lời lẽ của kẻ khác để biện minh.
[310] Cố gắng tinh luyện và lọc sạch tất cả các thể, khiến chúng trở thành những tôi tớ đáng tin cậy hơn.
Cố gắng trang bị thể trí thật toàn diện và tích lũy trong đó các sự kiện cần thiết để đặt căn bản cho sự phát triển tri thức sâu rộng hơn.
Nếu hành giả thực hiện được các điều này thì ngày cơ hội trọng đại sẽ đến.

Ngày 2-10-1920.
Nếu vẫn nghiêm trì giới luật thì cuối cùng các bạn sẽ đến mức hoàn thiện. Đối với người đệ tử thì không có gì là nhỏ nhặt không cần lưu ý thực hiện, bởi vì khi nghiêm nhặt điều chỉnh các chi tiết trong đời sống phàm nhân cuối cùng hành giả sẽ đạt được mục đích. Khi đến gần Cửa Đạo, cuộc sống của người đệ tử không trở nên dễ dàng hơn, mà luôn luôn phải đề cao cảnh giác. Luôn luôn phải hành động đúng đắn mà không bận tâm đến kết quả và bao giờ cũng phải vật lộn với từng hạ thể và chế ngự nó trong tất cả các chi tiết liên hệ. Chỉ khi hoàn toàn hiểu rõ câu châm ngôn “Hãy tự biết mình” hành giả mới có đủ hiểu biết để vận dụng định luật và thấu đáo sự vận hành nội tại trong trọn cả bản thể của mình, từ trung tâm đến ngoại biên. Phấn đấu, nỗ lực, trì giới, và hân hoan phụng sự mà không nhận phần thưởng nào khác hơn là sự hiểu lầm và bôi nhọ của những kẻ đi sau – đó là vai trò của người đệ tử.
Hôm nay chúng ta bàn đến điểm thứ ba.
3. Vị trí, nhân sự và cơ sở của thiền viện huyền môn.
Ở đây, xin lưu ý các bạn rằng về vấn đề này có nhiều điều tôi có thể nói được nhưng vẫn còn chưa nói, vì các bạn thiếu khả năng lãnh hội. Tôi có thể đưa ra một số qui tắc gần đúng và gợi ý một số điểm căn bản cần thiết cho sự thực[311] hiện sau cùng. Tôi không đặt ra qui tắc nào để buộc các bạn phải tuân thủ. Đó không phải là định luật huyền môn. Trong việc thành lập các trường huyền môn này ở hai trình độ dự bị và cao cấp tại những trung tâm khác nhau đã chọn, dưới sự kiểm soát của một trong bốn chi nhánh Trường Huyền môn căn bản duy nhất, công việc sẽ bắt đầu một cách kín đáo. Vì thế, những môn sinh và Chân nhân tiến hóa cao nhận công tác thực hiện các bước đầu cần thiết phải tự họ tìm ra phương pháp, địa điểm và thể thức. Tất cả đều phải thực hiện trong lò luyện của cố gắng và thí nghiệm mà người ta phải trả giá rất cao. Nhưng chỉ bằng cách đó mới có mức thặng dư hay hạt nhân để làm nền tảng cho công cuộc lớn lao hơn. Nếu có lỗi lầm thì cũng không thành vấn đề vì chỉ có phàm nhân vô thường là phải chịu đau khổ. Điều đáng nói là thiếu nguyện vọng tinh thần, không có khả năng rán thử, và không chịu học bài học qua thất bại. Khi thất bại được xem là những bài học đáng giá, khi một lỗi lầm được xem chỉ là tín hiệu cảnh báo giúp tránh khỏi tai ương, và khi người đệ tử không phí thời gian vô ích trong tâm trạng thất vọng hay mặc cảm tự ti, thì bấy giờ các Huấn sư hằng trông nom nhân loại biết rằng công việc mà Chân nhân tìm cách thực hiện qua mỗi sự phát biểu trong các cõi thấp đang tiến triển như ý, và chắc chắn sẽ đạt được thành công. Chúng ta hãy đi vào vấn đề kể trên, trong từng chi tiết.
Vị trí. Đây là một vấn đề thật rất quan trọng, nhưng thay đổi tùy theo nhu cầu tìm vị trí để xây dựng một thiền viện dự bị hay cấp cao. Nói chung (vì các yêu cầu của mỗi quốc gia khác nhau rất nhiều) thiền viện dự bị sẽ ở không xa lắm những trung tâm hay thành phố lớn, còn thiền viện cấp cao sẽ có địa điểm biệt lập hơn và không dễ tìm đến được.
Chúng ta hãy xem xét vấn đề này trong vài phút. Một trong những điều cơ bản là kẻ sơ cơ phải học cách tìm được[312] tâm điểm bên trong chính mình, độc lập đối với hoàn cảnh chung quanh, và đáng cho y mến thích dù hoàn cảnh chung quanh có thế nào. Y phải tìm được tâm điểm đó đến mức khả quan trước khi có thể tiến lên những cấp cao hơn và làm việc trong thiền viện thứ hai. Trên hết mọi sự, thiền viện dự bị chú trọng vào việc phát triển phàm nhân với ba hạ thể và huấn luyện y trong phụng sự. Thiền viện cấp cao chuẩn bị rõ rệt cho Điểm đạo, và quan tâm đến kiến thức huyền môn, đến việc truyền đạt chân lý cấp vũ trụ, đến sự phát triển về mặt trừu tượng của môn sinh, và đến công việc phải làm ở các tầm mức thể nguyên nhân. Một giai đoạn thì có thành tựu tốt đẹp trong thế giới loài người và qua sự tiếp xúc với thế gian. Giai đoạn kia đòi hỏi cần có một môi trường sống tương đối ẩn dật và không bị quấy rầy. Có thể nói:– Các cấp dự bị lo mở mang Thiên giới ở trong tâm, còn thiền viện cao cấp thì mở rộng cuộc huấn luyện đó đến mức bao gồm cả Thiên giới ở bên ngoài. Vì thế mà thiền viện dự bị sẽ ở trong sinh hoạt bình thường của nhân loại, để nhờ các phản ứng, các tương tác trong quan hệ với họ, trong phụng sự và phấn đấu, mà người môn sinh có thể học cách tự biết mình. Thiền viện kia sẽ dành cho những người đã phần nào thực hiện được các điều này, và sẵn sàng để học thêm về các giới tiến hóa khác và về vũ trụ. Nếu hành giả chưa tự chủ đến mức khả quan thì y không thể làm việc an toàn, chẳng hạn như đối với giới tiến hóa của các đẳng cấp thiên thần. Ở thiền viện dự bị, y học cách chế ngự này. Ở thiền viện cấp cao y có thể được tín nhiệm để tiếp xúc với các giới tiến hóa ngoài nhân loại.
Trong cả hai trường, giáo huấn căn bản là tham thiền ở tất cả mọi cấp độ. Tại sao? Bởi vì ở các thiền viện huyền môn người ta không bao giờ đưa ra những kiến thức, những hướng dẫn rõ ràng, hay một khối toàn thể các sự kiện, hoặc sử dụng các phương pháp trong sách giáo khoa công truyền. Trọn cả mục tiêu là chỉ nhằm đặt người môn sinh trong đường lối tự [313] tìm ra cho mình những kiến thức cần thiết. Bằng cách nào? Bằng cách phát triển trực giác qua tham thiền, và bằng cách đạt được sự kiểm soát trí tuệ khiến cho minh triết của Tam nguyên có thể tuôn xuống não bộ hồng trần, qua thể nguyên nhân. Vì thế, trong trường dự bị người ta chú trọng vào tham thiền liên quan đến thể trí, và các giáo huấn trong sách này có thể được áp dụng. Trường cần ở trong khu vực có thể tiếp xúc với nhiều hạng người khác nhau, và nơi dễ dàng thu thập kiến thức cụ thể của thế giới loài người (như âm nhạc, thư viện, các cuộc hội thảo, diễn thuyết). Lý do là vì khi chuẩn bị cho cuộc huấn luyện huyền môn đích thực thì sự trang bị thể tình cảm và thể trí của môn sinh là một trong những điều phải xem xét đầu tiên. Khi việc này đã hoàn tất được phần nào, và khi vị hiệu trưởng có nhãn thông của trường thấy rằng sự nở nang của noãn hào quang thấp đã đến mức như ý, bấy giờ người môn sinh sẽ được chuyển vào thiền viện cấp cao. Y sẽ được dạy cách tiến từ trung tâm vững vàng của mình đến tiếp xúc với trung tâm vũ trụ, và từ khởi điểm trong y mở rộng tâm thức cho đến ngoại biên của hệ thống đại vũ trụ, và bao trùm tất cả mọi loài đang sống – sống hiểu theo nghĩa huyền môn. Điều này cần cuộc sống tương đối ẩn dật ở các thiền viện cấp cao trong suốt thời gian huấn luyện. Cho nên thiền viện dự bị sẽ ở gần một thành phố lớn, tốt hơn là gần biển hay một vùng trời nước mênh mông, nhưng không bao giờ ở bên trong thành phố. Thiền viện này sẽ ở gần phạm vi các trung tâm học tập của thành phố, để mọi người có thể đến dễ dàng. Thiền viện cấp cao sẽ ở xa nơi đông dân cư và tốt hơn là ở vùng rừng núi. Bởi vì núi non có ảnh hưởng trực tiếp đến người môn sinh huyền bí, và truyền cho y phẩm tính mạnh mẽ và bền bỉ vốn là đặc trưng rõ rệt của chúng mà huyền bí gia cũng phải có. Biển cả hay vùng trời nước mênh[314] mông ở gần thiền viện dự bị sẽ luôn luôn nhắc nhở người môn sinh sự tinh luyện, vốn là việc hệ trọng nhất của y. Trong khi núi non giúp người đạo sinh cấp cao thấm nhuần nguồn sức mạnh vũ trụ và liên tục nêu cao trước mắt y cái ý tưởng về Đỉnh núi Điểm đạo mà y nhằm sớm được đặt chân.
Đến mai chúng ta sẽ bàn về yếu tố quan trọng nói về nhân sự, ban giảng huấn của thiền viện và các loại trường sở.

Ngày 7-10-1920.
Hôm nay, chúng ta bàn đến phần thứ ba của bức thư nói về “Các Trường Tham thiền Tương lai,” tức là vấn đề Nhân sự của Nhà trường.
Từ ngữ này bao gồm cả những người giám sát và những người chịu sự giám sát, và vấn đề này tất nhiên là rộng rãi. Như tôi đã nói ở phần đầu của bức thư này, dù ở bất cứ đâu, các thiền viện cũng có hai phân bộ:–
a. Trường dự bị dành cho các cấp đầu trong giáo huấn huyền môn và tốt hơn là nên toạ lạc ở gần một vùng trời nước mênh mông và gần một thành phố lớn.
b. Trường cấp cao, dành cho những trình độ sau, có mục đích rõ rệt là chuẩn bị cho các môn sinh được điểm đạo và huấn luyện họ về các kiến thức huyền môn.
Do đó các bạn sẽ thấy rằng phần nhân sự của cả hai trường nhất thiết phải khác nhau, và chương trình học cũng vậy. Chúng ta sẽ bàn riêng từng loại thiền viện, và nêu ra một số điểm căn bản mà các giảng viên và các khóa sinh phải có.
Trường Huyền môn Dự bị. Đối với người đời bên ngoài, thiền viện này không có vẻ gì khác hơn là một trường cao đẳng thông thường. Ban đầu mới đến, một người thường sẽ không nhận thấy được những gì khác lạ, dù các dị biệt vẫn có và sẽ tự biểu lộ trong công việc học tập đối với các môn sinh, và trên các cảnh giới nội tại. Về phần giảng viên cần có những điều căn bản sau đây:– [315]
Vị Hiệu trưởng phải là một đệ tử nhập môn. Điều này là thiết yếu để vị Chân sư ẩn sau sinh hoạt của trường luôn luôn có thể tiếp xúc với tâm thức của cả trường hội tụ thông qua đệ tử của Ngài. Vị Hiệu trưởng này sẽ có khả năng đóng vai trò trung gian trong việc truyền thông giữa các môn sinh và Chân sư, và là tụ điểm để thần lực của Ngài qua đó tuôn xuống cho họ. Vị Hiệu trưởng phải có khả năng hoạt động hữu thức trên cõi tình cảm vào ban đêm, và đem tri thức này đến não bộ hồng trần. Vì vị này có một phần công việc phải làm với các môn sinh ở cõi tình cảm, có những lúc phải hướng dẫn họ đến đạo viện của Chân sư vì những công việc chuyên biệt. Người cũng phải huấn luyện họ trong hoạt động hữu thức này.
Dưới vị Hiệu trưởng là sáu giảng viên, trong đó ít nhất một vị phải có nhãn thông hữu thức, có thể giúp đỡ vị Hiệu trưởng bằng cách báo cáo cho người biết sự phát triển hào quang của các môn sinh. Vị này phải có khả năng thẩm định các màu sắc và sự tăng trưởng các thể của môn sinh, và hợp tác với vị Hiệu trưởng để giúp mở mang và hoà hợp những thể đó. Các giảng viên này phải đang đi trên Đường Dự bị, nhất quyết dấn thân vào việc trợ giúp cơ tiến hóa và hiến mình cho công cuộc phụng sự của một vị Chân sư. Các vị này phải được chọn lựa cẩn thận để họ có thể bổ sung và bổ túc lẫn nhau. Trong trường họ hợp thành một huyền giai thu hẹp, cho thấy một phản ánh bé nhỏ ở cõi trần của kiểu mẫu huyền môn. Vì phần lớn công việc của họ là giúp phát triển hạ trí của môn sinh và liên kết nó với tâm thức cao siêu, và cũng vì trọng tâm nỗ lực của họ là mau chóng kiến tạo thể nguyên nhân nên họ sẽ là những người có kiến thức uyên bác, bắt nguồn từ những hiểu biết trong Phòng Học tập, có khả năng giảng huấn và đủ tư cách ngang với các giảng viên chuyên môn của các trường đại học trên thế giới. [316]
Ở mỗi trường công việc của bảy nhân viên thành thạo này sẽ được sự trợ giúp của ba nữ nhân viên. Họ được chọn vì có khả năng giảng huấn, vì có trực giác phát triển và vì ảnh hưởng tinh thần và lòng sùng tín mà họ mang lại cho cuộc sống của các môn sinh. Mười vị huấn sư này được ủy thác công việc giúp môn sinh nắm vững những điều chính yếu quan trọng, trông nom sự thu hoạch các nguyên lý cơ bản của kiến thức khoa học huyền bí và giúp môn sinh phát triển thần thông cấp cao. Mười vị này phải là những vị đã hành thiền sâu sắc, có khả năng trông nom và chỉ dạy môn sinh về các cương yếu của thiền huyền môn ví dụ như những điều đã dạy trong sách này. Họ sẽ truyền đạt cho môn sinh những sự kiện huyền bí và các định luật căn bản mà ở trường cấp cao sẽ là chủ đề thực tập xác định của các điểm đạo đồ tương lai. Những bài tập thần giao cách cảm, việc truyền thông bằng thể nguyên nhân, sự nhớ lại những công việc đã thực hiện trong giấc ngủ và hồi ức các tiền kiếp qua một số tiến trình trí tuệ, tất cả sẽ được họ giảng dạy, – vì chính họ đã thành thạo các kỹ thuật này.
Như được trình bày ở đây, các giảng viên nói trên sẽ chăm lo cuộc huấn luyện xác định và sự phát triển nội tại của phàm nhân tam phân.
Dưới họ còn có những huấn sư khác, trông nom những phần việc khác trong cuộc sống của môn sinh. Những huấn sư đầy đủ năng lực sẽ giảng dạy và thực tập khoa học ngoại môn và giúp phát triển hạ trí càng nhiều càng tốt, với sự kiểm soát của mười vị giảng viên kia sao cho sự phát triển được cân đối và các môn sinh có khả năng hành thiền đúng đắn.
Song hành với sinh hoạt này là cuộc sống phụng sự thế gian, mà mỗi môn sinh và tất cả các môn sinh đều phải có. Cuộc sống phụng sự này sẽ được trông nom cẩn thận và ghi chép đầy đủ. Một điểm cần lưu ý ở đây là không có sự bắt buộc nào cả. Mỗi môn sinh đều biết người ta trông cậy nơi y [317] những gì và y phải làm gì nếu y muốn tiến lên những trường cao cấp hơn. Các đồ biểu ở trường (ghi nhận tình trạng các thể, sự tiến bộ và khả năng phụng sự của y) cũng sẽ sẵn sàng cho chính y xem xét, chứ không cho ai khác. Y sẽ biết rõ chỗ đứng của mình, y phải làm gì và những gì còn phải làm. Lúc đó y sẽ quyết định xem có nên hợp tác với công việc một cách hết sức chặt chẽ hay không. Có một số điểm phải thận trọng khi thu nhận các môn sinh nhập học, để sau họ khỏi bị loại vì thiếu khả năng hay thiếu hứng thú, nhưng điều này tôi sẽ bàn sau, khi đề cập đến trình độ và khóa học.
Thế là, nhà trường có mười vị giảng viên giám sát, gồm bảy nam và ba nữ, gồm cả vị Hiệu trưởng là một đệ tử nhập môn. Dưới họ là một số huấn sư mà phần lớn công việc là lo mở mang hạ trí, lo trang bị thể tình cảm, thể xác và thể trí của môn sinh, để giúp y tiến lên trường cấp cao trong điều kiện ích dụng được các giáo huấn ở đó. Ở đây, xin các bạn lưu ý là tôi đặt kế hoạch cho một trường lý tưởng và phác họa thiền viện mà người ta hy vọng sẽ có sau này. Nhưng trong mọi cuộc phát triển huyền môn, lúc khởi đầu đều nhỏ bé và bề ngoài không có vẻ gì quan trọng. Ngày mai chúng ta sẽ nói về các qui luật thu nhận môn sinh và nhân sự của thiền viện cấp cao.

Ngày 16-10-1920.
. . . . . . Hôm nay chúng ta bàn về:–
Nhân sự của thiền viện cao cấp, và những qui luật thu nhận môn sinh cả ở hai thiền viện dự bị và cao cấp. Phần sau này sẽ hầu như thuộc về kỹ thuật.
Điểm đầu tiên tôi muốn nói là số thiền viện cấp cao sẽ rất ít, rất lâu sau này mới có, và số nhân sự trong viện này cũng [318] sẽ tương đối ít . . . . Vị Hiệu trưởng luôn luôn là một Điểm đạo đồ được một hay hai lần điểm đạo, và mục tiêu của trường là chuẩn bị cho các đạo sinh được điểm đạo lần thứ nhất. Vì thế mà vị Hiệu trưởng cần phải là người đã được điểm đạo. Vị này được vị Chân sư trông nom trường chính thức bổ nhiệm, và trong phạm vi của trường vị này sẽ là phán quan duy nhất, có toàn quyền quyết định. Những nguy cơ của cuộc huấn luyện huyền môn thật quá to lớn nên không thể xem thường, và tất cả những gì vị Hiệu trưởng đòi hỏi phải được nhất nhất tuân theo. Thế nhưng, sự vâng lời này vẫn không bắt buộc mà là tự nguyện. Vì mỗi đạo sinh sẽ nhận thức được sự cần thiết này, và tuân hành do sự thừa nhận từ trong tinh thần của họ. Như đã nói trước đây, các trường huyền môn này thực tế là những trường củacác cung khác nhau, thế nên các nhân viên giảng huấn phải ở cùng cung đó hay cung bổ túc, và các môn sinh cũng vậy. Ví dụ như nếu một trường thuộc cung hai – như thiền viện định lập ở Ireland – thì giảng viên và các khóa sinh sẽ thuộc cung hai, bốn và sáu. Ở mỗi thiền viện huyền môn ít nhất cũng có một giảng viên thuộc cung năm. Nếu đó là thiền viện thuộc cung một, thì các giảng viên và đạo sinh sẽ thuộc cung một, ba, và bảy và trong các giảng viên cũng có một vị thuộc cung năm.
Dưới vị Hiệu trưởng đã được điểm đạo có hai giảng viên là đệ tử nhập môn. Và mọi môn sinh dưới quyền họ đều phải đã học qua trường dự bị, và đã tốt nghiệp mọi cấp dưới. Rất có thể toàn ban giảng huấn chỉ gồm ba vị này, vì số khóa sinh dưới quyền họ cũng tương đối ít, và công việc của giảng viên thiên về giám sát hơn là giảng dạy, vì huyền bí gia luôn luôn tự huấn luyện về mặt nội môn.
Phần nhiều công việc của ba vị này được làm trên các cõi cao và họ thường làm việc âm thầm trong các phòng riêng của họ hơn là giảng ở lớp với các môn sinh. Các môn [319] sinh đều được xem như là đã sẵn sàng tự mình làm việc và tự tìm đường đi đến cửa điểm đạo. Công việc của giảng viên sẽ có tính cách cố vấn, và họ sẵn sàng trả lời các câu hỏi hay giám sát công việc do chính môn sinh tự đề ra, chứ không do giảng viên bắt buộc. Kích thích sự rung động, chỉnh hợp các thể, trông nom công việc thực hiện ở các nội giới, ban rải thần lực cho môn sinh, che chở cho họ khỏi bị nguy hiểm bằng những phương pháp huyền môn, cũng như giám sát việc hành thiền chính xác và cần mẫn của họ, đó là một phần công việc của các giảng viên. Có những lúc, các vị dắt các môn sinh đến gặp Chân sư, báo cáo với Ngài về việc họ đang tiến sang các cấp khác trên đường đệ tử. Đôi khi các vị cũng phúc trình cho Ngài về phẩm chất cuộc sống phụng sự của họ và giúp họ kiến tạo thể bồ-đề, là thể phải bắt đầu được phát triển khi họ được điểm đạo lần thứ nhất. Các giảng viên cũng giám sát việc thực hành những phần lý thuyết về giới tiến hóa thiên thần, đã được đưa ra trong các trường dự bị. Các vị trông nom việc môn sinh vận dụng vật chất và chứng minh những định luật kiến tạo. Các vị cũng bảo vệ môn sinh đúng mức khi y tiếp xúc với các giới tiến hóa hạ đẳng và siêu nhân loại, dạy y cách vận dụng định luật và cách vượt khỏi nghiệp quả. Nhờ các vị chỉ dạy mà y có thể phục hồi sự hiểu biết các tiền kiếp và xem được các tiên thiên ký ảnh. Nhưng về sau các bạn sẽ thấy, trong trường này chính môn sinh là người duy nhất khởi xướng và thực hiện công việc (được các giảng viên trông nom và bảo vệ). Sự tiến bộ và thời gian y lưu học trong trường tùy theo nỗ lực và khả năng khởi xướng của chính y.
Những qui luật thu nhận đạo sinh vào trường dự bị thì đại khái như sau, nhưng tôi chỉ nói đến những điều có thể xảy ra chứ không phải những sự kiện chắc chắn và nhất định:–
[320]
1. Người môn sinh phải trả sạch các định nghiệp và có thể thụ huấn mà không bỏ bê các bổn phận khác và những mối quan hệ của gia đình.
2. Sẽ không có học phí hoặc đòi hỏi hay thương lượng về tiền bạc. Người môn sinh phải phần nào tự túc, và phải có phương tiện sinh sống trong khi lưu học. Các trường ở cả hai cấp sẽ được tài trợ nhờ sự tự nguyện đóng góp của mọi người, và nhờ sự hiểu biết các định luật cung và cầu diễn giải theo ý nghĩa huyền môn.
3. Người môn sinh phải đạt tiêu chuẩn học vấn trung bình của thế hệ và thời đại y và phải tỏ ra có năng lực suy tư theo một đường lối nào đó.
4. Y phải được xem xét qua nhãn thông, nếu người ta thấy rằng y đã điều hợp và chỉnh hợp đúng mức và thể nguyên nhân đã đạt được một cấp độ hay phẩm tính nhất định thì y mới được thu nhận. Các huấn sư huyền môn không mất thì giờ cho những người chưa chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ khi ánh sáng nội tâm chói rạng, khi thể nguyên nhân của môn sinh đã có dung lượng nhất định, bấy giờ y mới có thể hưởng được lợi ích của chương trình học. Vì thế vị Hiệu trưởng có quyết định tối hậu để thu nhận người môn sinh hay không. Quyết định đó là tối hậu và sẽ được thông qua sau khi người môn sinh được vị Hiệu trưởng dùng nhãn thông và linh thị của thể nguyên nhân để xem xét đúng mức cũng như tham khảo ý kiến vị Chân sư của chính y.
5. Người môn sinh phải tỏ ra rằng trong thời gian phụng sự đã qua y có khả năng làm việc trong hình thức tập thể và suy tư trong phạm vi của những người khác.
[321]
6. Một số tiền kiếp của môn sinh cũng cần được nghiên cứu và những chi tiết trong đó sẽ hướng dẫn vị Hiệu trưởng khi đưa ra quyết định sau cùng.
7. Môn sinh phải trên hai mươi mốt và dưới bốn mươi hai tuổi.
8. Thể dĩ thái của y phải ở trong tình trạng tốt và truyền dẫn sinh lực dễ dàng. Thể xác y phải vô bệnh và không bị dị dạng hay khuyết tật.
Đây là những qui luật cơ bản có thể đưa ra hiện nay. Còn có những qui luật khác nữa, và vấn đề chọn lựa cũng có thể phần nào khó khăn hơn.
Các qui luật thu nhận đạo sinh vào thiền viện cấp cao thì ít hơn và có tính huyền bí hơn nhiều. Các khóa sinh ở đây được chọn từ trường dự bị, sau khi đã vượt qua các trình độ. Nhưng sự chọn lựa này không tùy theo sự phát triển trí tuệ và đồng hóa kiến thức cụ thể, mà tùy khả năng thấu hiểu ở nội tâm và sự thông hiểu về mặt huyền bí của môn sinh, tùy theo phẩm tính âm điệu của cuộc sống y khi nó ngân vang ở nội giới, tùy mức chói rạng của ánh sáng nội tàng, và tùy năng lực của y trong phụng sự.
Hôm nay như thế là đủ. Ngày mai chúng ta sẽ bàn phần cuối của điểm thứ ba là các cơ sở của trường.
Ngày 17-10-1920.
Hôm nay, bàn về cơ sở của hai loại trường huyền môn, tôi không thể nói nhiều mà chỉ phác họa tổng quát thôi. Những điều kiện khí hậu và kích cỡ của các trường này sẽ khác nhau rất nhiều và tất nhiên cây cối ở đó cũng khác nhau . . . . . .
Cơ sở của trường dự bị sẽ không khác bao nhiêu với các cơ sở của một trường cao đẳng thường thấy ngoài đời. Chỉ có [322] qui luật là mỗi môn sinh đều cần phải có phòng riêng biệt của mình. Trường sở theo kiểu nào cũng được, miễn là hội đủ những điều kiện trên. Các phòng không thông nhau, mà chỉ thông với hành lang ở trung tâm. Mỗi phòng phải có ba phần, tất nhiên là nhỏ nhưng phân biệt. Một phần để đạo sinh sinh hoạt và học tập, một phần để tắm rửa, và phần thứ ba là nơi y tham thiền, có những bức ảnh của các Đấng Cao cả và phủ rèm thích hợp. Phần thứ ba chỉ có mục đích là để tham thiền, không chứa gì nhiều ngoài tấm thảm để y ngồi, một chiếc trường kỷ để y ngơi nghỉ xác thân trong những bài tập nhất định, và một ghế đẩu nhỏ đặt trước các bức ảnh của Chân sư, trên có để lư hương và một lọ cắm hoa dâng cúng.
Các giảng viên nội trú sẽ cùng cư ngụ với các đạo sinh. Các nữ giảng viên thì chịu trách nhiệm trông nom các nữ đạo sinh, còn các nam giảng viên thì cư ngụ cùng với các đạo sinh nam. Vị Hiệu trưởng sẽ ở một mình trong một ngôi nhà riêng biệt. Ngoài các phòng để sinh hoạt bình thường còn có một phòng khách nhỏ để người tiếp xúc với các cá nhân, và một phòng lớn hơn để làm việc với đông người hơn. Ngoài ra còn có một phòng thánh đường để nhóm họp toàn thể các đạo sinh.
Các cơ sở của trường cấp cao dù chưa liên quan mật thiết với chúng ta nhưng trong cách kiến trúc có nhiều ý nghĩa huyền bí đối với những người có mắt thấy được. Đặc điểm chính của trường huyền môn cấp cao sẽ là một ngôi đền trung ương hình tròn, trong đó mỗi khóa sinh (xin nhớ là số khóa sinh ở đây không nhiều) được cấp một liêu phòng riêng, đi vào từ phía sau qua một khung cửa khép kín. Có một bức màn che giữa phòng này và thánh điện lớn ở trung tâm, nơi tổ chức những cuộc nhóm họp tập thể.
[323] Thánh điện trung tâm rộng lớn này có một sân lát gạch, trên có vẽ hình tam giác. Toàn nhóm sẽ ngồi trong hình tam giác này. Ba khoảng ở ngoài có đặt những chiếc bàn, trên có các biểu tượng khác nhau và một số sách căn bản về biểu tượng và những bảng lớn vẽ các biểu tượng vũ trụ.

Màu sắc của thánh điện này sẽ tùy theo cung mà nó tiêu biểu. Các màn ngăn cách cũng nhuộm màu của cung đó, còn bức màn ở mỗi liêu phòng cá nhân thì có mang thiên tượng lúc y sinh ra đời – chòm sao bổn mạng của y, cung nhật xuất và các hành tinh chi phối. Các bức màn này là của riêng [324] người đạo sinh, cũng như tấm thảm trong phòng sẽ mang biểu tượng cung chân ngã và cung phàm ngã của y.
Trên bức tường lớn bao quanh hành lang tròn có vẽ các chòm sao trong vòng Hoàng đạo, bốn ngõ vào tượng trưng cho tứ Đại Thiên vương.
Một bức tường vuông bao bọc toàn thể, trong có khu vườn để các đạo sinh tự chăm sóc. Tường này chỉ có một cổng vào ở phía Bắc. Bên ngoài là những ngôi nhà nhỏ, chứa không quá ba đạo sinh, và một ngôi nhà dành cho ba giảng viên cư ngụ. Vị Hiệu trưởng điểm đạo đồ cũng có nơi cư ngụ riêng, được phân biệt nhờ một chiếc tháp mái tròn ở một bên. Tháp mái tròn này có hai mục đích:– Đó là nơi dạy về thiên văn và chiêm tinh học, có các thiết bị khoa học mới nhất để học về các hành tinh và đời sống tiểu vũ trụ. Đây cũng là nơi trú ngụ an toàn cho những đạo sinh có thể hữu thức rời thân xác và hoạt động ở một nơi khác trên cõi hồng trần.
Trên đây là tất cả những gì hiện nay tôi có thể nói. Hãy ghi nhận, trông chừng và chờ đợi đến ngày giờ lý tưởng trở thành hiện thực.

Ngày 29-10-1920.
Hôm nay chúng ta xét đến điểm thứ tư. Trong khi bàn tôi sẽ nói phần nào đến thiền viện dự bị và ít nói đến thiền viện cấp cao. Điểm này đề cập đến các cấp bậc và các khóa học.
4. Các cấp bậc và khóa học.
Trong một bức thư trước chúng ta đã đề cập đến chương trình học của các trường dự bị. Chương trình kể trên chú trọng nhiều đến sự phát triển hạ trí, đến việc đặt nền móng [325] cho công việc sau này, và việc minh định, nghiên cứu và ghi nhớ các lý thuyết và các định luật huyền môn mà về sau nhà huyền bí chân chính sẽ lấy đó làm căn bản để thực hành. Chúng ta cũng đã thấy rằng nhiều điểm được truyền dạy nhất thiết phải kết hợp chặt chẽ với giáo huấn công truyền của thế gian. Thế nên thiền viện phải rất gần gũi các trung tâm tư tưởng hiện đại. Hôm nay tôi sẽ nêu lên một số điều trong chương trình học tập của môn sinh, và trình bày phương pháp từ từ hướng dẫn y tiến tới, cho đến mức đủ điều kiện chuyển sang thiền viện cấp cao. Như thường lệ, chúng ta sẽ chia vấn đề thành ba mục:–
a. Thời gian học tập.
b. Các loại công việc.
c. Biến đổi khả năng tiềm ẩn thành các quyền năng tích cực, qua thực hành.
a. Thời gian học tập.
Toàn bộ công việc của nhà trường đều dựa vào kiến thức huyền môn về thời cơ và mùa tiết và có hai điều phải được thận trọng tuân thủ:–
1. Năm học sẽ được chia làm hai phần, một phần là thời gian để môn sinh chuyên cần hoạch đắc tri thức, đó là thời khoảng mặt trời tiến về phía bắc hay là nửa năm đầu. Phần sau – cách phần đầu một khoảng sáu tuần – để y đồng hóa và thực hành những điều đã được truyền dạy trước đó. Trong các tháng đầu năm, y trải qua một chương trình tiếp thu khó khăn, nghiên cứu và học tập gian khổ, tích lũy các sự kiện và kiến thức cụ thể. Y dự nghe các buổi giảng, đọc các sách khó, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, dùng kính [326] hiển vi và viễn vọng để nới rộng tầm mắt và tích trữ trong thể trí y một kho tàng dồi dào các dữ liệu khoa học.
Trong thời gian nghỉ hè sáu tuần, y nên để cho trí tuệ nghỉ ngơi hoàn toàn, trừ những gì liên quan đến việc hành thiền huyền môn mà y đã được truyền thụ. Về mặt trí tuệ, y theo chu kỳ và tạm thời đi vào trạng thái ngơi nghỉ. Khi thời gian sáu tuần chấm dứt, y trở lại làm việc với mục tiêu trước mắt là hệ thống hóa khối lượng thông tin đã thu thập, và hoàn chỉnh sự hiểu biết của y về các sự kiện đã học, là thực tập phần kiến thức huyền môn được cho phép, để trở nên thành thạo và khám phá ra những nhược điểm của mình. Trong “thời kỳ tối” của năm, y viết về các chủ đề và các bài khảo luận, viết sách hay các tập kỷ yếu để thể hiện sản phẩm của kiến thức đã được đồng hóa. Những cuốn sách hay nhất sẽ được trường ấn hành mỗi năm để cho công chúng sử dụng. Bằng cách này y phụng sự thời đại và thế hệ của y và giúp nhân loại có được tri thức cao hơn.
2. Theo cùng cách này, việc học tập của người đạo sinh mỗi tháng cũng được sắp xếp sao cho phần khó hơn (liên quan đến thượng trí) sẽ được học trong thời gian gọi là nửa tháng sáng. Còn công việc trong nửa tối sẽ thiên về những điều liên quan đến hạ trí và cố gắng giữ lại những gì đã đạt được trong các tuần trước. Mỗi ngày cũng được chia thành những thời khoảng nhất định, những giờ trong nửa ngày đầu được dành để học các dữ liệu trừu tượng và huyền bí. Thời gian còn lại trong ngày được dùng cho loại công tác có tính thực hành nhiều hơn.
Căn bản của toàn bộ cuộc tăng trưởng huyền bí là tham thiền, hay là những thời gian phát triển âm thầm, trong đó linh hồn tăng trưởng trong im lặng. Vì thế, trong trường hằng ngày mỗi đạo sinh có ba thời gian hành thiền – lúc mặt trời mọc, giữa trưa và lúc mặt trời lặn. Trong giai đoạn đầu theo học ở thiền viện người môn sinh tham thiền mỗi [327]lần ba mươi phút. Về sau y sẽ hành thiền huyền môn mỗi lần một giờ, ngày ba lần, và trong năm cuối người ta hy vọng y sẽ hành thiền mỗi ngày năm giờ. Khi đã đến mức đó và đạt kết quả, y có thể tiến lên học ở thiền viện cấp cao. Đó là một sự thử thách lớn lao, là dấu hiệu cho thấy rằng người đạo sinh đã sẵn sàng.
Giờ làm việc của thiền viện bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và chấm dứt lúc mặt trời lặn. Sau khi mặt trời lặn và trong một giờ sau mỗi buổi thiền kia, người đạo sinh được phép nghỉ ngơi, dùng bữa và giải trí. Tất cả các đạo sinh đều được yêu cầu đi ngủ vào lúc mười giờ đêm, sau ba mươi phút cẩn thận kiểm điểm những việc làm trong ngày, và điền vào một số đồ biểu để bổ túc hồ sơ của y ở trường.
Thời gian người đạo sinh lưu học trong thiền viện hoàn toàn tùy theo sự tiến bộ mà y đạt được, tùy năng lực đồng hóa kiến thức ở nội tâm, và cuộc sống phụng sự bên ngoài. Vì thế, thời gian này tùy theo trình độ tiến hóa của y khi vào trường. Những người mới vào Con đường Dự bị sẽ học ở đó từ năm đến bảy năm, và có khi còn lâu hơn. Những đệ tử lâu năm và những người đã được điểm đạo trong các kiếp trước chỉ lưu học ở đó một thời gian ngắn, mau chóng vượt qua học trình, và chỉ học cách đưa ra sử dụng những kiến thức trước đã tích lũy. Thời gian họ lưu học trong khoảng từ một đến năm năm, thường thì khoảng ba năm. Tri thức bẩm sinh của họ sẽ được phát triển nhờ khuyến khích họ giáo huấn các đạo sinh đàn em. Đạo sinh tốt nghiệp ra trường không phải do kết quả một cuộc thi như bên ngoài, mà chỉ do lời phê của vị Hiệu trưởng. Người quyết định căn cứ vào những kết quả trong các thể của đạo sinh về mặt nội môn, vào độ trong sáng của màu sắc trong hào quang, âm điệu của cuộc sống, và âm khóa rung động của y.
[328]
b. Các loại công việc.
Đầu tiên và quan trọng nhất là công phu hành thiền như đã đề ra trong các bức thư này, và có thể do vị Hiệu trưởng chỉ dạy. Mỗi năm một hay hai lần vị Hiệu trưởng điểm đạo đồ của trường cao cấp mà trường dự bị liên hệ sẽ duyệt xét các đạo sinh, và sau khi bàn thảo với vị Hiệu trưởng trường dự bị, người sẽ ấn định phương pháp thiền cụ thể điều chỉnh theo nhu cầu của mỗi đạo sinh. Mỗi năm một lần, vị Chân sư trông nom cả hai trường cũng sẽ duyệt xét các đạo sinh và thông báo cho vị Hiệu trưởng những sự điều chỉnh cần thiết. (Tôi cũng xin nhắc các bạn rằng mối quan hệ của Chân sư với đệ tử có tính cách riêng tư, và dù Ngài có thể thường xuyên tiếp xúc riêng với đệ tử của Ngài, điều này vẫn không ảnh hưởng gì đến việc Ngài chính thức duyệt xét các hào quang kết hợp của cả trường.)
Thứ hai là việc tuần tự nghiên cứu tiểu vũ trụ, gồm những chủ đề sau đây, đạo sinh dùng kính hiển vi khi cần:– Tiểu vũ trụ.
a. Giải phẫu học, sinh lý học, sinh học sơ cấp.
b. Dân tộc học.
c. Nghiên cứu thể dĩ thái và các vấn đề liên hệ là sinh lực và từ lực.
d. Nghiên cứu địa chất; thảo mộc hay thực vật; và động vật.
e. Nghiên cứu lịch sử con người và sự phát triển của khoa học.
f. Nghiên cứu các định luật của cơ thể tiểu vũ trụ.
Đại vũ trụ.
a. Nghiên cứu những định luật về điện, vũ trụ lực (fohat), sinh lực (prana), và ánh sáng tinh giới.
[329]
b. Nghiên cứu thiên văn học và chiêm tinh học.
c. Nghiên cứu vũ trụ khởi nguyên học nội môn.
d. Nghiên cứu các đẳng cấp nhân loại.
e. Nghiên cứu trường tiến hóa thiên thần.
f. Nghiên cứu các định luật của thái dương hệ.
g. Nghiên cứu thần giao cách cảm, sự sáng tạo của trí tuệ và khoa trắc lượng tâm lý.
Trí tuệ.
a. Nghiên cứu cõi trí.
b. Nghiên cứu các định luật về lửa.
c. Nghiên cứu thể nguyên nhân.
d. Nghiên cứu nguyên khí thứ năm.
e. Nghiên cứu màu sắc và âm thanh.
Tổng hợp.
a. Nghiên cứu tinh thần-vật chất-trí tuệ.
b. Nghiên cứu số học và biểu tượng học.
c. Nghiên cứu toán học cao cấp.
d. Nghiên cứu các luật hợp nhất.
e. Nghiên cứu các luật giới tính.
Phát triển thần thông.
a. Nghiên cứu huyền bí học thực hành.
b. Nghiên cứu các quan năng thần thông.
c. Nghiên cứu ánh sáng tinh giới và tiên thiên ký ảnh.
d. Nghiên cứu khoa đồng cốt và nguồn cảm hứng.
e. Nghiên cứu các tiền kiếp.
f. Nghiên cứu các trung tâm lực của đại vũ trụ và tiểu vũ trụ.
Công tác thực hành.
a. Phụng sự nhân loại.
b. Nghiên cứu công tác tập thể.
c. Tự kiểm điểm.
[330]
d. Những việc làm cho các thể thanh, nhằm tạo tâm thức liên tục.
e. Nghiên cứu về chánh thuật.
f. Nghiên cứu về cung bảy.
Các bạn sẽ thấy rằng khi người môn sinh đã hoàn tất chương trình học kể trên tức là y đã có đủ tiềm năng của một nhà chánh thuật, và tương lai sẽ là một nhân viên của Huyền môn Chánh đạo. Y sẽ được trang bị đầy đủ và sẵn sàng tiến lên học trường cao cấp. Ở đó y sẽ được huấn luyện để sử dụng kiến thức đã thu đạt. Ở đó các luân xa của y sẽ được phát triển một cách khoa học để y trở thành một nhà thần thông hữu thức với trí năng cao. Ở đó y sẽ được huấn luyện để tiếp xúc và kiểm soát các giới tiến hóa hạ đẳng và hợp tác với các trường tiến hóa khác như giới thiên thần. Và ở đó tất cả các thể của y được điều chỉnh và chỉnh hợp sao cho đến cuối giai đoạn thụ huấn – trong khoảng từ hai đến ba năm – y sẽ sẵn sàng để đứng trước Đấng Điểm đạo.
c. Tiềm năng trở thành quyền năng.
Loại công tác thứ ba này dựa vào chương trình học kể trên và hoàn toàn dành cho sự phát triển cá nhân, bao gồm các vấn đề sau:–
a. Chỉnh hợp các thể để giao tiếp với Chân nhân.
b. Lập cầu antahkarana và phát triển thượng trí.
c. Phát triển trực giác, và sự thức tỉnh tinh thần rõ rệt trong môn sinh.
d. Nghiên cứu sự rung động, cung, màu sắc và âm điệu của môn sinh.
e. Tinh luyện tất cả các thể một cách ý thức, bắt đầu từ thể xác.
[331] Khi tất cả các vấn đề này được nghiên cứu một cách thích đáng và tất cả các kiến thức đã thu hoạch đều được đem ra thực hành, thì các quyền năng cố hữu của linh hồn sẽ trở thành những quyền năng hữu thức. Trên hết mọi sự, cần nhấn mạnh sự kiện rằng nhà chánh thuật là người sử dụng tất cả quyền năng và hiểu biết của mình để phụng sự nhân loại. Sự phát triển của nội tâm y phải được phát biểu trong phụng sự, trước khi y được phép chuyển vào học ở trường cấp cao.
Tôi đã trao cho các bạn nhiều điều đáng quan tâm suy ngẫm.

 

 



[332] BỨC THƯ X
SỰ TINH LUYỆN CÁC HẠ THỂ.
1. Thể xác.
2. Thể tình cảm.
3. Thể trí.
[333] BỨC THƯ X
SỰ TINH LUYỆN CÁC HẠ THỂ.
Ngày 7-11-1920.
Hiện nay đang cần có những khí cụ đã được trắc nghiệm. Khi các Đấng hướng dẫn cuộc tiến hóa nhân loại vào thời gian này để mắt tìm kiếm những khí cụ như thế trong nhân loại, thì các Ngài thấy rằng ít có người nào đủ điều kiện để phụng sự công việc cần thiết. Thế nhưng đồng thời các Ngài cũng thấy một số người, nếu được huấn luyện đến trình độ nhất định, họ sẽ đáp ứng được nhu cầu này khá đầy đủ.
Khi cuộc tiến hóa tiếp diễn, sự phân cực của nhân loại cũng thay đổi. Hiện nay mọi người đang phân cực chính yếu trong thể cảm dục của họ. Những cảm xúc, dục vọng, những mối bận tâm về phàm ngã đang làm cho họ điên đảo, quay cuồng. Thể cảm dục là điểm hội tụ của phàm ngã. Nó là nơi thanh toán tất cả những gì liên quan đến nó và là cầu nối giữa phàm ngã và Chân ngã. Nó giống như một ga xe lửa đầu mối, tấp nập nhận đủ thứ hàng hóa từ bốn phương về và phân phối hết cho thành phố lớn tức là cuộc sống của phàm nhân ở cõi trần. Sau đó, theo đà tiến bộ, hiện trường lại chuyển lên tầm mức cao hơn, và thể trí trở thành tụ điểm. Về sau, thể nguyên nhân trở thành đơn vị quan trọng và sau cùng còn phải hy sinh ngay cả thể này, cho đến khi con người thản nhiên trước tất cả những rung động của ba cõi thấp. Tất cả những gì thuộc về cuộc sống phàm nhân đều đã qua đi, – không còn gì lưu lại, ngoại trừ Sự sống Tinh thần và chí nguyện hiến dâng sự sống đó để giúp đỡ thế gian.
Trong khi đẩy nhanh cuộc tiến hóa, mỗi người phải thực hiện được một số việc trước khi y có thể được dùng như một khí cụ đáng tin cậy, trung thành như thép đã tôi, để giúp đỡ giống nòi. Đừng quên rằng thường thì (khi đã được thử thách và trắc nghiệm) một người trở nên khí cụ thật tốt vì y hoàn [334] toàn thấu hiểu tâm thức của nhân loại, vì y dấn thân giải quyết những vấn đề khó khăn hiện thời một cách thành thạo hơn là một Chân nhân mới tiến những bước đầu. Vì thế mà các Chân sư muốn dùng những ai trong các bạn đang sống ở cõi trần để hàn gắn những vết thương của thế hệ đang đau khổ hiện nay. Vậy thì giờ đây chúng ta phải làm gì? Vấn đề tôi sắp nói đây không có gì là bất bình thường, mà chỉ gồm các tư tưởng để thẩm xét dành cho những người nào muốn trợ giúp. . . . . . . . Trong việc chuẩn bị một linh hồn phụng sự, các vị Hướng đạo nhân loại phải chăm sóc cho từng hạ thể:–
Rèn luyện thể xác.
Việc này gồm một số điều kiện cần thiết:–
Thu nạp vào thể xác vật chất của những cõi phụ cao và loại trừ những chất thô của các cõi phụ thấp. Điều này cần thiết bởi vì người có các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao. Chân nhân không thể nào chuyển tri thức và sự hướng dẫn từ cõi cao xuyên qua một thể xác thô kệch. Những dòng tư tưởng cao cả không thể nào ảnh hưởng đến bộ não hồng trần kém tiến hóa. Vì thế mà việc tinh luyện thể xác là điều thiết yếu. Thể xác được ảnh hưởng bằng nhiều lối khác nhau, tất cả đều hợp lý và thực dụng.
Thực phẩm tinh khiết. Đây có nghĩa là ăn chay, chọn lựa thực phẩm với sự phân biện khôn ngoan. Thể xác chỉ cần ăn những thứ rau quả tăng cường sinh lực. Tất cả những điều người đệ tử cần làm là xem xét cẩn thận khi chọn lựa thực phẩm, sáng suốt tránh những thức ăn nặng nề khó tiêu, một ít thức ăn lành và tinh khiết được tiêu hóa hoàn toàn, thế là đủ. Các bạn hỏi đó là những thức ăn nào? Sữa, mật ong, bánh mì lức (làm bằng bột mì lức), tất cả những loại rau trồng ngoài nắng, các loại cam chanh (nhất là cam), chuối, nho khô, những hạt có chất béo, khoai tây, gạo lức, và tôi xin lặp lại là chỉ cần [335] bao nhiêu thứ đó cũng đủ bảo đảm cho sự hoạt động của người đạo sinh.
Sự sạch sẽ. Dùng nhiều nước để gội rửa bên ngoài và bên trong cơ thể, là điều rất cần thiết.
Giấc ngủ. Nên luôn luôn ngủ từ mười giờ đêm đến năm giờ sáng, càng ngủ ngoài trời nhiều càng tốt.
Ánh nắng. Rất cần nên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vì các tia nắng mang lại sinh lực cho cơ thể. Ánh nắng diệt các loại vi trùng và giúp ngăn ngừa bệnh tật.
Khi bốn yêu cầu này được chú tâm thực hiện đầy đủ thì một tiến trình thải trừ rõ rệt sẽ tiếp diễn, và trong vòng vài năm toàn bộ xác thân sẽ từ từ chuyển sự phân cực lên cao hơn để rốt cuộc chúng ta có được một thể xác cấu tạo bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử. . . . . . Việc này có thể cần nhiều kiếp sống, nhưng các bạn nên nhớ rằng cứ mỗi lần đầu thai lại thì mỗi thể vẫn giữ đúng y phẩm chất (xin tạm gọi như thế) của cơ thể trước kia đã bị thải bỏ khi chết. Vì vậy, thời gian dùng để kiến tạo không hề bị mất. Cuối cùng còn có hai phương pháp khác có thể dùng để tinh luyện mau có hiệu quả hơn:–
Dùng ánh sáng màu. Những loại ánh sáng này được chiếu vào cơ thể của người đệ tử, tạo tiến trình thải bỏ tạp chất và đồng thời kích thích các nguyên tử. Việc này chỉ có thể được thực hiện khi có thêm kiến thức về các Cung. Khi đã biết được cung của hành giả thì có thể kích thích y bằng cách dùng màu sắc của chính y, dùng màu bổ túc của y để thu nạp những chất mới, và dùng màu tương khắc để thải bỏ những chất bất hảo. Về sau sự hiểu biết này sẽ được truyền đạt cho những đoàn thể lớn có phận sự giữ gìn các [336] Bí nhiệm, là Giáo hội và các Hội Tam điểm. Các bạn hãy chờ đợi, vì chưa đến lúc. Khi các Bí nhiệm được phục hồi thì một số kiến thức loại này sẽ được giao cho hai đoàn thể vừa kể.
Sự kích thích bằng âm nhạc. Một số âm thanh có thể làm tan rã và đổ vỡ. Một số âm thanh khác lại kích thích và hấp dẫn. Khi biết được âm khóa của cuộc sống hành giả, biết được âm thanh mà y ứng đáp, thì có thể dùng âm thanh để tinh luyện. Hiện nay, tất cả những gì người phụng sự có thể làm là chú tâm vào những điều chính yếu nói trên và tìm cách tiếp xúc với những rung động thanh cao.
Tôi muốn nói thêm một điểm nữa là sự vận dụng điện lực có ẩn bí quyết làm sinh động các thể, đặc biệt là đối với thể dĩ thái hiện nay. Công dụng chính của mặt trời là làm sinh động thể dĩ thái. Sức nóng của mặt trời là điện lực đã được chuyển hóa thích ứng cho nhu cầu của đại đa số các sinh vật trung bình trong mọi giới của thiên nhiên. Khi người đạo sinh càng tiến bộ thì mãnh lực này càng được tăng cường theo từng trường hợp cá nhân. Đây cũng là một bí mật điểm đạo. Ngày xưa, Điểm đạo Thần trượng thực sự có tác dụng như vật truyền dẫn mãnh lực này vào các luân xa của điểm đạo đồ. Vì thế Thần trượng phải được cấu tạo cách nào để đáp ứng được mục đích này. Hiện nay, nhân loại đang ở trên vòng tiến hóa cao hơn. Thế nên, muốn phục vụ chính nhu cầu và mục đích đó thì cần phải đổi khác phương pháp áp dụng, vì sự phân cực của nhân loại đã thay đổi. Hiện nay sự phân cực không còn ở thể xác nữa mà ở thể tình cảm hay thể trí. Phương pháp áp dụng cho mỗi thể đều khác nhau, nên phải bảo toàn sự bí mật này và giữ kín điều bí nhiệm. [337]
Tinh luyện thể dĩ thái.
Việc thanh lọc này trùng hợp với việc thanh lọc thể xác. Phương pháp chính yếu là sinh hoạt trong ánh nắng, giữ cơ thể cho khỏi lạnh, và uống vài loại sinh tố tổng hợp mà chẳng bao lâu nữa sẽ được đưa ra cho nhân loại dùng. Sẽ có công thức kết hợp các loại sinh tố này chế thành viên thuốc với tác dụng trực tiếp vào thể dĩ thái. Việc này chỉ có được khi khoa học thừa nhận thể dĩ thái và đưa nó vào chương trình huấn luyện của y khoa. Rồi đây việc nghiên cứu các bệnh thể dĩ thái (chứng suy nhược và bế tắc) sẽ được thừa nhận, và sẽ đưa đến các công thức và những cách trị liệu đích xác. Như trước tôi đã nói, tất cả những gì hiện nay bạn có thể làm cho thể hồng trần nhị phân (thể xác và thể dĩ thái) trở nên nhạy bén là theo đúng các qui luật trên, và để cho thời gian hoàn tất những gì còn lại.
Tinh luyện thể tình cảm.
Với thể này cách tiến hành lại khác. Thể tình cảm chỉ là một tấm gương phản chiếu rất quan trọng. Nó thu nhận màu sắc và hoạt động của môi trường xung quanh. Nó nhận ấn tượng của mỗi dục vọng thoáng qua. Nó tiếp xúc với mọi diễn biến và đột biến của hoàn cảnh. Mỗi dòng năng lực đều làm cho nó chuyển động. Mỗi âm thanh đều làm cho nó dao động, trừ khi người chí nguyện ngăn cản các tình trạng này và huấn luyện nó chỉ thu và ghi nhận những ấn tượng đến từ cõi bồ-đề xuyên qua Chân ngã, và vì thế mà thông qua cõi phụ nguyên tử. Do đó mục tiêu của người chí nguyện là huấn luyện sao cho thể tình cảm trở nên yên lặng và trong sáng như một tấm gương, để nó có thể phản chiếu một cách hoàn hảo. Y nên làm thế nào để nó chỉ phản ánh thể nguyên nhân, chỉ biểu lộ những màu sắc phù hợp với Đại luật, chỉ vận chuyển theo một chiều hướng xác định, chứ không nổi [338] lên những luồng gió của tư tưởng, hay những triều sóng của dục vọng. Nên dùng những từ ngữ nào để diễn tả thể tình cảm? Đó là những từ: an tĩnh, trong lành, trầm tĩnh, yên lặng, bình ổn, trong suốt và trong sáng, có tính phản chiếu như tấm gương, có bề mặt phẳng lặng, vật phản chiếu trong trẻo, – là trạm truyền chuyển chính xác những mong muốn, ước vọng, nguyện vọng của Chân nhân chứ không phải của phàm nhân. Làm sao thực hiện được điều này? Có nhiều cách, một số về phần người chí nguyện, và một số về phần Chân sư.
a. Thường xuyên trông chừng mọi sự ham muốn, động lực nội tâm, và ước vọng nổi lên hàng ngày trong tâm thức, và sau đó chú trọng vào những gì cao cả và chế ngự những gì thấp hèn.
b. Hằng ngày liên tục cố gắng giao tiếp với Chân nhân, phản ánh ước muốn của Chân nhân trong cuộc sống. Lúc đầu sẽ có nhầm lẫn, nhưng từng bước việc kiến tạo bằng những chất thanh được tiến hành và sự phân cực trong thể tình cảm chuyển dần lên từng cõi phụ cho đến khi đạt đến cõi phụ nguyên tử.
c. Hằng ngày dùng những thời khoảng nhất định để bình ổn thể tình cảm. Chúng ta đã chú trọng nhiều đến việc định trí trong tham thiền, nhưng các bạn nên nhớ rằng việc ổn định cảm dục tính là bước đầu của định trí. Bước này nối tiếp bước kia, nên người khôn ngoan thì bắt đầu leo thang từ bậc thấp nhất. Mỗi người chí nguyện phải tự khám phá ra trong trường hợp nào y dễ nhượng bộ nhất cho những rung động mãnh liệt như là sợ hãi, lo âu, một loại dục vọng nào đó của phàm ngã, tình thương của phàm nhân đối với một người hay vật nào, sự nản lòng, hoặc quá dễ bị dư luận lung lạc. Rồi y phải khắc phục sự rung động đó bằng cách áp đặt lên đó một nhịp điệu mới có tính loại trừ và kiến tạo rõ rệt. [339]
d. Công việc thực hiện trên thể tình cảm trong giấc ngủ ban đêm, với sự hướng dẫn của những Chân nhân tiến hóa hơn, dưới sự chỉ đạo của Chân sư. Kích thích một sự rung động hay loại bỏ một sự rung động đều nhờ việc áp dụng những màu sắc và âm thanh nhất định. Riêng trong thời gian này, có hai màu đang được áp dụng cho nhiều người với mục đích cụ thể nhằm kích thích luân xa cổ họng, và luân xa đỉnh đầu, đó là màu tím và màu vàng chói (violet and gold).
Các bạn nên nhớ rằng công việc phải tiến hành tuần tự. Khi sự phân cực chuyển lên cao thì lúc chuyển tiếp từ cõi phụ này lên cõi phụ khác được đánh dấu bằng một số cuộc trắc nghiệm áp dụng trong giấc ngủ ban đêm, gọi là một loạt các cuộc điểm đạo nhỏ. Cuối cùng sẽ tổng kết thành cuộc điểm đạo lớn thứ hai, đánh dấu mức hoàn toàn kiểm soát thể tình cảm.
Bốn cuộc điểm đạo nhỏ sẽ thành tựu trong chính cuộc điểm đạo lớn này. Đây là những cuộc điểm đạo trên cõi tình cảm được gọi theo thứ tự là các cuộc điểm đạo của đất, lửa, nước và không khí. Chúng đến mức viên mãn trong cuộc điểm đạo lớn thứ hai. Cuộc điểm đạo thứ nhất đánh dấu mức thành đạt tương tự ở cõi hồng trần. Mỗi cuộc điểm đạo đánh dấu sự đạt được một tỉ lệ vật chất nguyên tử nhất định trong các thể. Bốn cuộc điểm đạo trước quả vị Chân sư lần lượt đánh dấu tỉ lệ đạt được, ví dụ như:– Lần điểm đạo thứ nhất đạt một phần tư vật chất nguyên tử, lần thứ hai đạt một nửa số lượng vật chất nguyên tử và cứ thế cho đến mức hoàn toàn. Trực giác (hay bồ-đề) là nguyên khí thống nhất nên nó kết hợp tất cả. Vào cuộc điểm đạo thứ tư các hạ thể bị loại bỏ, vị Chân sư ở trong thể trực giác và từ đó tạo ra thể biểu hiện của Ngài. [340]
Tinh luyện thể trí.
Đây là kết quả của một công trình khó nhọc và sự phân biện. Cần phải làm được ba điều trước khi đạt đến cõi của hạ trí và trước khi đạt được tâm thức của thể nguyên nhân (tâm thức đầy đủ của Chân nhân):–
Suy tư sáng tỏ, không chỉ trong những vấn đề làm các bạn hứng thú, mà trong tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến nhân loại. Nó gồm sự kiến tạo bằng chất liệu tư tưởng một cách chính xác, minh bạch, và khả năng định nghĩa. Tức là khả năng dùng chất liệu tư tưởng để tạo hình tư tưởng, và sử dụng các hình tư tưởng đó để giúp đỡ công chúng. Người nào không thể suy tư sáng tỏ, có thể trí kém phát triển đều đang sống trong sương mù, và người ở trong sương mù thì chỉ là kẻ tối mắt lãnh đạo những người mù.
Khả năng định trí, nhờ đó mà các tư tưởng từ cấp độ trừu tượng và từ cõi trực giác có được một bức màn thụ cảm để ghi ấn tượng lên đó. Vấn đề này đã được giải rõ trong nhiều sách nói về định trí và tham thiền, nên tôi không cần phải nói rõ hơn. Đây là kết quả của công phu thực hành khó nhọc trong nhiều năm trường.
Một tiến trình rõ rệt do Chân sư thực hiện, có sự đồng ý của người đệ tử, để kết hợp những nỗ lực và những kết quả đạt được một cách khó nhọc trong nhiều năm thành một thể cách trường cửu. Vào mỗi lần điểm đạo, điện lực hay từ lực được áp dụng đều có hiệu quả ổn cố. Nó làm cho những kết quả mà người đệ tử đã đạt được trở nên bền bỉ. Như người thợ làm đồ gốm đúc và nắn đất sét rồi dùng lửa nung cứng, người chí nguyện cũng nắn, đúc, kiến tạo và chuẩn bị để lửa thiêu cho cứng rắn. Cuộc điểm đạo đánh dấu một mức thành đạt trường cửu và phát khởi một chu kỳ cố gắng mới.
Trên hết mọi sự, nên chú trọng đến hai điều:–
[341]
1. Sự kiên trì bền bỉ không hề lay chuyển, không quản gì thời gian lâu dài và chướng ngại mà cứ tiếp tục đi tới mãi. Khả năng kiên trì này cho thấy tại sao lắm khi một người không có gì đặc biệt lại được điểm đạo trước bậc siêu tài, và trước những người nổi bật hơn y. Khả năng làm việc cần mẫn siêng năng là điều rất đáng nên mong muốn.
2. Chỉ có tiến bộ khi không còn tự phân tích quá đáng. Bạn đừng tự nhổ cả gốc rễ mình lên để xem có tăng trưởng hay chăng. Làm thế chỉ mất thời gian quí báu. Hãy quên đi sự tiến bộ của bạn trong việc tuân thủ các qui luật và trong sự giúp đỡ người khác. Khi làm được như vậy, ánh sáng giác ngộ có thể đến bất ngờ và bạn chợt nhận thức được rằng đã đến lúc Đấng Đại giác có thể gọi bạn đến trước Ngài để giúp bạn được điểm đạo. Nhờ công khó, nhờ tuân thủ Định luật một cách đúng đắn và yêu thương tất cả mọi người, mọi vật, bạn đã thu được những chất liệu tinh anh để kiến tạo các thể, khiến bạn có thể đứng trước Ngài. Luật Hấp dẫn vĩ đại đưa bạn về với Ngài, và không có gì ngăn cản được.

[342]
BỨC THƯ XI - CUỘC SỐNG PHỤNG SỰ HIỆU QUA.
1. Động cơ phụng sự.
2. Phương pháp phụng sự.
3. Thái độ sau khi hành động.
[343] BỨC THƯ XI
CUỘC SỐNG PHỤNG SỰ HIỆU QUẢ.
Ngày 16-9-1920.
Để kết thúc loạt thư này, hôm nay tôi bàn về đôi điều có ứng dụng phổ thông. Đó là vấn đề phụng sự và cách phụng sự hoàn hảo. Những gì tôi nói với các bạn về vấn đề này có thể có công dụng rất quan trọng. Các bạn cần luôn nhớ rằng nếu một cá nhân được trao thêm nhiều hiểu biết mà không truyền đạt cho người khác với sự phân biện khôn ngoan, thì kiến thức ấy sẽ gây ứ đọng, chướng ngại, không tiêu hóa và đau khổ. Thực phẩm mà thể xác thu vào, nếu không được đồng hóa phân phối khắp cơ thể thì cũng gây nên tình trạng như trên. Sự so sánh tương đồng này rất đúng. Hiện nay, có nhiều giáo huấn đến với nhiều người, nhưng là để dùng cho nhu cầu của thế gian, chứ không phải để họ chiếm riêng hưởng lợi. Trong phụng sự có ba điều quan trọng:–
1. Động cơ thúc đẩy.
2. Phương pháp.
3. Thái độ sau khi hành động.
Tôi không bàn về những động cơ và phương pháp sai lầm. Các bạn đều biết cả rồi. Tôi chỉ nói đến cái đúng, và nhờ điều chỉnh cuộc sống phụng sự theo những lời chỉ dẫn này bạn sẽ làm đúng và có được nguồn hứng khởi. Hiện nay, có nhiều người đang bắt đầu cuộc sống phụng sự tích cực, vậy tất cả các bạn hãy xét xem cuộc sống phụng sự này khởi đầu có đúng hay không. Một sự khởi đầu đúng đắn có thể đưa đến những bước kế tiếp đúng đắn, và giúp rất nhiều cho nỗ lực của hành giả. Nếu trong trường hợp đó có thất bại thì tất cả những điều cần làm là cứ điều chỉnh trở lại. Khi khởi đầu sai lầm khiến cho thất bại (đó là việc đương nhiên) thì cần phải đổi mới những nguồn lực bên trong hành động ấy.
[344]
1. Động cơ phụng sự.
Các động lực này có ba loại, mức độ quan trọng xếp theo thứ tự:–
a. Nhận thức được Thiên cơ tiến hóa, cảm nhận được nhu cầu bức thiết của thế gian, hiểu được mức thành đạt hiện tại của thế giới, và do đó dồn hết tất cả những gì mình có để góp phần xúc tiến mục tiêu của Thiên cơ.
b. Một mục đích xác định mà cá nhân muốn đạt được, một lý tưởng cao cả – chẳng hạn như sự thánh thiện trong tâm tính – khiến cho linh hồn mãi mãi tinh tấn. Hoặc sự nhận biết thực tế về các Chân sư Minh triết, và trong tâm có ý quyết mạnh mẽ muốn yêu thương, phụng sự và đến với các Ngài bằng mọi giá. Khi bạn đã dùng trí hiểu rõ được Thiên cơ, kèm theo quyết tâm muốn phụng sự các Đấng Cao cả, thì điều này sẽ được thực hiện trong những hoạt động ở cõi trần.
c. Kế đến là nhận thức được những khả năng bẩm sinh hay những khả năng tự mình tạo được và dùng các khả năng đó để đáp ứng một nhu cầu đã được cân nhắc, và đánh giá kỹ. Phụng sự có muôn ngàn lối. Những ai phụng sự một cách khôn ngoan, những ai tìm kiếm môi trường phụng sự đặc biệt thích hợp với mình và khi tìm được họ bèn vui vẻ nỗ lực để mang lợi lạc cho tất cả, những người đó sẽ phát triển đều đặn liên tục. Tuy nhiên, mục tiêu tiến bộ cá nhân vẫn là phụ thuộc.
2. Phương pháp phụng sự.
Có nhiều phương pháp khác nhau. Tôi chỉ nói đến những phương pháp quan trọng nhất.
Đầu tiên và quan trọng nhất là khả năng phân biện. Người nào tự cho rằng mình có thể làm tất cả mọi việc, không đắn đo về bất cứ việc gì y gặp, ngông cuồng lao vào nơi mà người khôn ngoan hơn phải dè dặt, hoặc cho rằng mình có khả năng đối phó với mọi việc phát sinh, hoặc tuy có rất [345] nhiều nhiệt tâm nhưng không chịu học hỏi để vận dụng sự hiểu biết vào phụng sự mà chỉ phung phí sức lực, người như thế thường gây tai hại. Y làm mất thời gian của những người khôn ngoan hơn và cao cả hơn y trong việc sửa chữa những lỗi lầm (do ý định tốt) của y, mà thực ra y chỉ phục vụ cho những ham muốn của chính mình chứ không cho mục tiêu nào cả. Do ý định tốt ấy y có thể được phần thưởng, nhưng thường thì bù lại y cũng phải trả quả của những hành động điên rồ. Người phụng sự với trí phân biện thì khôn ngoan nhận biết được vị trí thích hợp của mình trong công việc chung, dù đó là chỗ cao hay thấp. Y thận trọng và tỉnh táo ước lượng khả năng trí tuệ và hiểu biết của mình, tính chất tình cảm và khả năng thể xác của mình, rồi dùng tất cả các khả năng đó để làm tròn bổn phận trong vị thế của mình.
Người phụng sự có phân biện sẽ xét đoán tính chất và tầm mức của công việc y cần giải quyết, với sự trợ giúp của Chân ngã y và của Chân sư. Y không theo những lời đề nghị, yêu cầu hay đòi hỏi đầy hảo ý (nhưng thường thiếu phán đoán) của các bạn phụng sự viên.
Người phụng sự có phân biện nhận thức được tính thực tiễn của yếu tố thời gian. Y biết rằng mỗi ngày chỉ có hai mươi bốn giờ và khả năng của y chỉ là dùng năng lực đến mức nào đó chứ không nhiều hơn, khéo biết điều chỉnh khả năng và thời gian có được cho phù hợp với nhau.
Kế đến là kiểm soát thể xác một cách khôn ngoan. Người phụng sự giỏi không làm cho Chân sư phải lo âu về các khó khăn do thể chất y gây ra. Y có thể được tin cậy vì biết gìn giữ và tiết kiệm sức mạnh thể chất của mình để luôn luôn sẵn sàng thực hiện những gì Chân sư cần. Y không thất bại vì thể chất bất lực. Y trông nom để cho hạ thể này được nghỉ ngơi đầy đủ và ngủ đúng mức. Y thức dậy sớm và ngủ đúng lúc. Y cũng giải trí lúc nào có thể được. Y ăn những thực phẩm lành và thích hợp, và tránh các thức nặng nề khó tiêu. Một ít thực phẩm khéo chọn và nhai kỹ, sẽ tốt hơn là [346] một bữa ăn quá no. Hiện nay, nhân loại đã quen ăn nhiều gấp bốn lần lượng thức ăn cần thiết. Y biết ngưng công việc khi (do tai nạn hay sự tái phát của bệnh chứng di truyền) mà thể xác không chịu hoạt động và có triệu chứng cần lưu ý. Lúc đó y phải nghỉ ngơi, ngủ đầy đủ, cẩn thận chế độ ăn uống và chú ý dùng thuốc men cần thiết. Y vâng theo mọi lời chỉ dẫn khôn ngoan để chờ bình phục.
Bước kế tiếp là thường xuyên trông nom và kiểm soát thể tình cảm. Ai cũng biết rằng trong ba thể nó là thể khó chăm sóc nhất. Đừng để nó có mối xúc động nào thái quá, dù những dòng năng lượng mạnh mẽ của bác ái đối với cả chúng sinh lại được cho phóng rải xuyên qua nó. Bác ái vốn là định luật của thái dương hệ, nên có tính xây dựng và làm ổn định, giúp tất cả theo đúng Thiên luật. Người chí quyết phụng sự tất cả không để cho bất cứ mối sợ hãi, âu lo hay phiền muộn nào làm xao động thể tình cảm của mình. Y vun bồi sự điềm tĩnh, vững vàng và an tâm đặt trọn niềm tin vào Thiên luật. Một lòng tin tưởng tươi vui là đặc tính của thái độ mà y thường có. Y không hề dung dưỡng sự ganh ghét, chán nản ảm đạm, tham vọng hay tự thương thân xót phận. Nhờ nhận thức rằng mọi người đều là anh em ruột thịt và cả chúng sinh đều sống vì nhau nên y điềm nhiên tiếp tục lên đường.
Rồi đến việc mở mang thể trí. Trong khi kiểm soát thể tình cảm, người phụng sự nên có thái độ thải trừ. Mục tiêu của y là huấn luyện thể tình cảm sao cho nó trở thành vô sắc, có rung động êm dịu, trong sáng như mặt hồ trong ngày hè êm ả. Y phải hành động ngược lại khi làm cho thể trí thích ứng với công tác phụng sư. Y phải thu nhập thông tin, cung ứng cho thể trí kiến thức và các sự kiện, rèn luyện nó về phương diện tri thức và khoa học để theo thời gian nó trở thành một nền tảng vững chắc cho minh triết thiêng liêng. Minh triết sẽ thay thế cho kiến thức, nhưng kiến thức là bước đầu cần thiết. Các bạn nên nhớ rằng người phụng sự phải đi [347] qua Phòng Học tập trước khi vào Phòng Minh triết. Thế nên trong việc rèn luyện trí tuệ, y lần lượt tìm cách thu đạt kiến thức, bổ túc những gì thiếu sót, tuần tự hoạch đắc khả năng trí tuệ bẩm sinh đã tích lũy từ các kiếp trước, và cuối cùng củng cố hạ trí sao cho thượng trí có thể chế ngự nó và khả năng sáng tạo của tư tưởng có thể chiếu rọi xuyên qua hạ trí yên lặng. Từ trong sự Yên lặng của Đấng Tuyệt đối, vũ trụ được phóng chiếu thành hình. Từ trong bóng tối phát sinh ánh sáng, từ cái chủ quan (nội tâm vô hình) phát xuất cái khách quan (ngoại cảnh hữu hình). Sự tĩnh lặng tiêu cực của thể tình cảm khiến nó thụ cảm đối với ấn tượng từ trên cao xuống. Sự yên lặng tích cực của thể trí đưa đến nguồn cảm hứng cao siêu hơn.
Khi đã tìm cách kiểm soát và sử dụng được ba thể phàm nhân của mình một cách khôn ngoan, người yêu thương nhân loại cố gắng hành động thật hoàn thiện. Không ước mơ lớn lao nào muốn làm thánh tử đạo, không ước vọng hão huyền nào dù vinh quang nhưng thoáng qua về cuộc phụng sự được nhiều người ưa chuộng lại khiến y quan tâm, mà y chỉ cố gắng theo lối áp dụng ngay tất cả mọi năng lực của mình vào bổn phận kế tiếp. Y biết rằng sự hoàn thiện trong các vấn đề trước mắt của cuộc sống y và trong những chi tiết của công việc y làm cho chung quanh, cũng sẽ tạo sự chính xác trong nội tâm y nữa, và kết thành bức tranh toàn vẹn với vẻ đẹp hiếm có. Cuộc đời tiến từng bước ngắn nhưng mỗi bước đều đúng lúc, mỗi thời khoảng đều được sử dụng khôn ngoan, sẽ đưa hành giả đi rất xa và đó là một cuộc đời đáng sống. Những vị Hướng đạo nhân loại thường thử thách tất cả các ứng viên phụng sự trong từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống hàng ngày. Người nào tỏ lòng trung thành, tận tụy khi làm việc có vẻ không thiết yếu sẽ được chuyển vào lĩnh vực có tầm quan trọng lớn hơn. Làm sao trong cơn cấp bách hay khủng hoảng các Ngài có thể tin cậy được người làm công việc hằng ngày một cách luộm thuộm và thiếu suy xét?
Một phương pháp phụng sự khác là khả năng thích ứng.
[348] Điều này bao gồm sự sẵn sàng rút lui khi người khác hay người quan trọng hơn được gửi đến để thế chỗ mà y đang giữ. Mặt khác, đây cũng là khả năng rời nhiệm sở để làm công tác quan trọng hơn khi một người phụng sự khác tuy ít khả năng hơn nhưng có thể thi hành nhiệm vụ này cũng dễ dàng và phán đoán giỏi như y. Tất cả những người phụng sự có phần nào minh triết đều không đánh giá mình quá cao hay quá thấp. Khi một chức vụ được giao cho người không đủ điều kiện thì kết quả sẽ tệ hại. Thế nhưng cũng là sự hoang phí thời gian và năng lực khi những người phụng sự thành thạo lại giữ vị trí mà kỹ năng của họ không được tận dụng, nhiệm vụ mà những người ít khả năng hơn vẫn có thể làm tròn. Vì thế, hỡi những người phụng sự, hãy sẵn sàng sống cuộc đời với phận sự ít được ai để ý và có vẻ không quan trọng, vì đó có thể là vận mệnh của bạn và là nơi bạn có thể phụng sự hữu hiệu nhất. Nhưng bạn hãy sẵn sàng nhận công việc bề ngoài có vẻ giá trị hơn khi Chân sư cho biết, và khi hoàn cảnh – chứ không do sắp xếp của người phụng sự – cho thấy rằng đã đến lúc làm việc đó. Hãy suy ngẫm kỹ câu sau cùng này.
3. Thái độ sau khi hành động.
Nên có thái độ như thế nào? Hoàn toàn điềm tĩnh, hoàn toàn quên mình, và hoàn toàn chú tâm vào bước kế tiếp phải làm. Người phụng sự hoàn hảo là người cố gắng hết khả năng mình để làm những gì mà y tin rằng đó là ý muốn của Chân sư, và đó là phần việc mà y phải làm để hợp tác với Thiên cơ. Khi đã làm xong phận sự, y tiến lên làm công tác tiếp tục, và không bận tâm đến kết quả của việc đã làm. Y biết rằng có những cặp mắt khôn ngoan hơn y đã thấy được kết cuộc ngay từ lúc khởi đầu. Đức thông tuệ đó, sâu thẳm và đầy tình thương hơn y, đang cân lường thành quả phụng sự của y. Trí phán đoán ấy sâu sắc hơn y, đang trắc nghiệm cường độ và tầm ảnh hưởng của sự rung động đã phát khởi, và đang điều chỉnh sức mạnh ấy theo động lực nội tâm y. Y không bị dày vò bởi lòng kiêu hãnh về những việc đã làm, cũng [349] không chán nản vô lối vì công việc không thành tựu. Lúc nào y cũng làm hết khả năng mình, không phí thì giờ bận tâm về quá khứ, mà vững bước tiến đều để hoàn thành nhiệm vụ kế tiếp. Băn khoăn về những hành động đã qua và nghĩ về những thành tích cũ là đặc tính thoái hóa, mà người phụng sự lại cố gắng làm việc theo luật tiến hóa. Đây là một điểm quan trọng cần ghi nhớ. Người phụng sự khôn ngoan, sau khi hành động, không để ý đến những lời bàn tán của các bạn đồng sự, miễn sao các thượng cấp của y (là những người nam hay nữ ở cõi trần hay chính các Đấng Cao cả) tỏ vẻ bằng lòng hay im lặng. Y không bận tâm vì kết quả không được như dự kiến, nếu y đã trung kiên thực hiện điều cao cả nhất mà y biết. Y không phiền muộn khi bị trách cứ hay bị nhục mạ một cách phũ phàng, nếu lương tâm y vẫn an tịnh và không cắn rứt. Y không bận tâm khi bị mất bạn bè, thân thuộc, con cái, sự mến chuộng trước đây y đã có được, hay sự tán thành của những người cộng sự quanh y, nếu trong tâm y cảm thấy sự liên giao với các Đấng Hướng đạo vẫn còn nguyên vẹn. Y không hề bận lòng khi dường như y đang làm việc trong bóng tối và chỉ thấy chút ít kết quả từ những việc làm khó nhọc của mình, miễn sao ánh sáng nội tâm ngày càng tỏ rạng và lương tâm y yên ổn.
Để tổng kết:–
Động lực phụng sự có thể nói vắn tắt là:– Sự hy sinh tư ngã cho phúc lợi của Đại ngã Duy nhất.
Phương pháp phụng sự có thể nói gọn là:– Khôn ngoan kiểm soát phàm ngã và phân biện trong công việc và cách dùng thời gian.
Thái độ sau đó sẽ là:– Hoàn toàn điềm tĩnh, và ngày càng yêu mến sự thật và những gì không biểu hiện.
Tất cả sẽ được thành tựu viên mãn nhờ hành Thiền huyền môn một cách kiên trì đều đặn.
ĐẠI THỈNH NGUYỆN
Từ nguồn Ánh sáng trong Trí Thượng Đế
Cầu xin Ánh sáng tuôn rải vào trí con người.
Cầu xin Ánh sáng giáng xuống Trần gian.
Từ nguồn Tình thương trong Tâm Thượng Đế
Cầu xin Tình thương tuôn rải vào tâm con người.
Cầu mong Đức Chưởng Giáo trở lại Trần gian.
Từ trung tâm biết được Ý chí Thượng Đế
Cầu xin Thiên ý hướng dẫn ý chí nhỏ bé của con người —
Thiên ý mà các Chân sư đều biết và phụng sự.
Từ trung tâm chúng ta gọi là nhân loại
Cầu xin Thiên cơ Tình thương và Ánh sáng thực thi
Và cầu mong Thiên cơ đóng kín cửa vào nẻo ác.
Cầu xin Ánh sáng và Tình thương và Quyền năng
phục hồi Thiên cơ trên Trần gian.
“Lời Thỉnh nguyện hay Cầu nguyện trên đây không thuộc về bất cứ người nào hay đoàn nhóm nào, mà thuộc về toàn nhân loại. Vẻ đẹp và sức mạnh của Đại Thỉnh nguyện nằm trong tính đơn giản, và do nó phát biểu một số chân lý trọng tâm mà tất cả mọi người bình thường đều chấp nhận một cách hồn nhiên:
- Chân lý nói rằng vốn có một Đức Thông tuệ nền tảng mà chúng ta gọi với danh xưng mơ hồ là Thượng Đế;
- Chân lý nói rằng ẩn trong toàn cuộc biểu hiện có quyền năng phát động vũ trụ, là Tình thương;
- Chân lý nói rằng có một Đấng Cao cả đã đến thế gian, mà người Thiên Chúa giáo gọi là Đức Christ, Ngài đã thể hiện tình thương đó để chúng ta có thể hiểu được;
- Chân lý nói rằng cả Tình thương và Thông tuệ đều là những hiệu quả của Ý chí Thượng Đế; và cuối cùng là
- Chân lý hiển nhiên rằng chỉ thông qua chính nhân loại Thiên cơ mới có thể thực thi.”
Alice A. BAiley

THE GREAT INVOCATION
From the point of Light within the Mind of God
.................................................................
TRƯỜNG ARCANE
Cung ứng cuộc huấn luyện trên Đường Đạo trong Kỷ nguyên Mới.
Các nguyên lý của nền Minh triết Ngàn đời được trình bày thông qua tham thiền nội môn, học hỏi, nghiên cứu và phụng sự, như một lối sống.
Cần thêm chi tiết xin liên lạc với nhà xuất bản hoặc đến viếng Website: www.lucistrust.org     [350]

NGỮ GIẢI
Antahkarana. Con đường, hay cầu nối, giữa thượng trí và hạ trí, dùng làm phương tiện truyền thông giữa hai bên. Nó được kiến tạo do chính người chí nguyện, bằng vật chất cõi trí.
Ảo ảnh (Maya). Từ Bắc Phạn nghĩa là “Ảo tưởng.” Thuộc về nguyên lý của sắc tướng hay giới hạn. Kết quả của sự biểu hiện. Thường được dùng theo nghĩa tương đối cho các hiện tượng hay những dáng vẻ bề ngoài do trí tuệ tạo nên.
Atlantis. Lục địa đã bị nhận chìm dưới Đại Tây Dương, theo giáo huấn huyền bí và Plato. Châu Atlantis là nơi sản sinh Căn chủng thứ tư, nay chúng ta gọi là dân Atlantis.
Atma. Tinh thần Đại đồng; Chân thần thiêng liêng; Nguyên khí thứ bảy; được gọi như thế trong sự cấu tạo thất phân của con người. (Xem sơ đồ trong phần Giới thiệu.)
Bàn cổ (Đức) (Manu). Danh hiệu tượng trưng của Đấng cao cả là Nhà cai trị, tổ phụ nguyên thủy và là vị lãnh đạo nhân loại. Từ này theo ngữ căn Bắc Phạn là “man” – suy tư.
Bản chất (Prakriti). Sở dĩ có tên này do chức năng của nó là nguyên nhân vật chất của cuộc tiến hóa đầu tiên của vũ trụ. Có thể nói từ này gồm hai ngữ căn, “pra” là biểu hiện, và “krita” là khiến cho; có nghĩa là cái đã khiến cho vũ trụ tự biểu hiện.
Bản sơ (Adi). Cái đầu tiên; cái nguyên thủy; cõi nguyên tử của thái dương hệ; cõi cao nhất trong bảy cõi; tối đại niết-bàn.
Bồ-đề (Buddhi). Linh hồn hay Trí tuệ đại đồng. Đó là linh hồn tinh thần nơi con người (Nguyên khí thứ sáu), và do đó là vận cụ của Atma, nguyên khí thứ bảy, tức là Tinh thần.
Bồ-tát (Bodhisattva). Nghĩa đen, người mà tâm thức đã trở thành thông tuệ, hay bồ-đề. Những vị chỉ cần thêm một lần lâm phàm để trở thành vị Phật trọn lành. Như được dùng trong các sách này, Đức Bồ-tát là danh xưng chỉ chức vụ hiện do Đức Di Lạc giữ. Ở Tây phương Ngài được biết là Đức Christ. Có thể gọi chức vụ này là Chưởng giáo Thế gian. Đức Bồ-tát là Chưởng giáo của tất cả các tôn giáo trên thế giới, là Chân sư của các Chân sư và Huấn sư của các thiên thần và loài người.
Căn chủng (Root Race). Một trong bảy giống người tiến hóa trên một hành tinh trong chu kỳ hiện tồn vĩ đại của hành tinh đó. Chu kỳ này gọi là một thời kỳ thế giới. Căn chủng Aryan, gồm người Ấn, người Âu, và các dân tộc Châu Mỹ hiện nay, là căn chủng thứ năm. Người Hoa và người Nhật thuộc về căn chủng thứ tư.
Chân ngã tinh thần (Purusha). Cái ngã được hiện thể. Từ này có nghĩa đen là “Người ở trong thành phố” – tức là ở trong cơ thể. Nó do từ Bắc Phạn “Pura” nghĩa là thành phố hay cơ thể, và “usha” phái sinh từ động từ “vas,” là ở.
Chân sư (Adept). Một vị Chân sư, hay một người đã vượt qua con đường tiến hóa, và tiến đến giai đoạn cuối của Đường Đạo, là Con Đường Điểm đạo, đã được năm lần Điểm đạo, và do đó đã nhập vào giới thứ Năm, hay là giới Tinh thần, chỉ còn phải nhận thêm hai cuộc Điểm đạo nữa.
Chân thần (Monad). Đơn nguyên Duy nhất. Tinh thần tam phân trên cõi của mình. Trong huyền bí học, từ này
thường có nghĩa là tam nguyên hợp nhất – Atma, Buddhi, Manas; Ý chí tinh thần, Trực giác và Thượng trí – hay là phần bất tử của con người, luân hồi trong các giới thấp và tiến bộ dần qua các giới này, đến nhân loại và từ đó đạt được mục đích cuối cùng.
Cõi phụ nguyên tử (Atomic subplane). Vật chất của thái dương hệ được các huyền bí gia phân thành bảy cảnh giới, cõi, hay trạng thái, cõi cao nhất là cõi nguyên tử. Tương tự, mỗi một trong bảy cảnh giới được chia thành bảy cõi phụ, cõi phụ cao nhất gọi là cõi phụ nguyên tử. Như vậy, có bốn mươi chín cõi phụ, trong đó có bảy cõi phụ nguyên tử.
Cung (Ray). Một trong bảy dòng mãnh lực của Thượng Đế; bảy nguồn ánh sáng vĩ đại. Mỗi nguồn sáng thể hiện một thực thể vĩ đại cấp vũ trụ. Bảy Cung có thể phân thành ba Cung Trạng thái và bốn Cung Thuộc tính, như sau:
Các Cung Trạng thái
1. Cung Ý chí, hay Quyền lực.
2. Cung Bác ái-Minh triết.
3. Cung Hoạt động hay Thích nghi.
Các Cung Thuộc tính
1. Cung Điều hòa, Mỹ lệ, Nghệ thuật, hay Hợp nhất.
2. Cung Kiến thức Cụ thể hay Khoa học.
3. Cung Lý tưởng Trừu tượng hay Sùng tín.
4. Cung Pháp môn Nghi lễ, hay Định luật.
Các tên kể trên chỉ là một số được chọn trong nhiều tên gọi, và thể hiện các trạng thái khác nhau của mãnh lực mà Đức Thượng Đế dùng để biểu hiện.
Đại đoàn Chưởng giáo (Đ.Đ.C.G., Hierarchy). Tập thể các Đấng tinh thần trên các cảnh giới nội tại của thái dương hệ, là các mãnh lực thông minh trong thiên nhiên, điều khiển các diễn trình tiến hóa. Chính các Ngài được phân thành mười hai Huyền giai. Trong hệ hành tinh chúng ta, là hệ địa cầu, có phản ánh của Huyền giai này, mà huyền bí gia gọi là Đ.Đ.C.G. Huyền môn. Đ.Đ.C.G. gồm các vị Đế quân, các Chân sư, và các điểm đạo đồ, hoạt động trên thế giới nhờ phương tiện và thông qua đệ tử của các Ngài.
Đại giai kỳ sinh hóa (Mahamanvantara). Thời kỳ rất lâu dài của toàn bộ một thái dương hệ. Từ này thường được áp dụng cho các chu kỳ thái dương vĩ đại hơn. Nó có hàm nghĩa một thời kỳ hoạt động của vũ trụ.
Đại vũ trụ (Macrocosm). Nghĩa đen là vũ trụ lớn; hay Thượng Đế biểu hiện qua cơ thể của Ngài là thái dương hệ.
Đạo viện (Ashram). Trung tâm mà Chân sư qui tụ các đệ tử và những người chí nguyện vào đó để giáo huấn từng cá nhân.
Đế quân (Chohan). Vị Chúa, Chân sư, Lãnh đạo. Trong sách này Đế quân là vị Chân sư đã tiến tới và được điểm đạo lần thứ sáu.
Điểm đạo đồ (Initiate). Theo ngữ căn La-tinh có nghĩa là những nguyên lý đầu tiên của một ngành khoa học. Người thấu nhập các bí nhiệm của khoa học về Chân ngã, về cái Ngã duy nhất trong mọi cái ngã. Con đường Điểm đạo là giai đoạn cuối của con đường tiến hóa mà nhân loại đi theo, được chia thành năm giai đoạn, gọi là Năm cuộc Điểm đạo.
Fohat. Điện lực vũ trụ; ánh sáng nguyên thủy; điện năng hằng hữu; mãnh lực thiết yếu thúc đẩy vũ trụ; năng lực không ngừng hủy diệt và tạo thành; tổng hợp của nhiều dạng hiện tượng điện.
Giai kỳ sinh hóa (Manvantara). Một thời kỳ hoạt động, đối lại với thời kỳ ngơi nghỉ, không kể là chu kỳ dài hay ngắn. Thường được dùng để chỉ một thời kỳ hoạt động của hành tinh và bảy giống dân trên đó.
Hành tinh Thượng Đế (Đức) (Planetary Logos). Từ này thông thường được áp dụng cho bảy Đấng Cao cả nhất tương ứng với bảy vị đại thiên thần của người Thiên Chúa giáo. Tất cả các Ngài đều đã trải qua giai đoạn nhân loại và hiện đang biểu hiện qua một hành tinh và các trường tiến hóa trên hành tinh đó, theo cách giống như con người biểu hiện qua thể hồng trần của y. Đấng cao cả nhất của hành tinh hoạt động qua một bầu hành tinh nào đó thì thực sự là Thượng Đế của hành tinh ấy.
Hào quang (Aura). Tinh hoa hay lưu chất tế vi và vô hình phát ra từ các thể của con người và động vật, và thậm chí từ đồ vật. Đó là sự phóng phát tâm linh, có đặc tính vừa trí tuệ vừa thể chất. Nó vừa thuộc về sinh lực điện vừa là trí tuệ điện.
Hoả đức Tinh quân (Agni). Như đã ghi trong Kinh Vệ-đà. Vị thần cổ xưa nhất và được tôn kính nhất trong các vị thần ở Ấn Độ. Một trong ba vị thần là Agni, Vayu và Surya, và cũng là cả ba vị này, vì Ngài là trạng thái tam phân của lửa; lửa là tinh hoa của thái dương hệ. Trong Kinh Thánh có nói: “Đấng Thượng Đế của chúng ta là ngọn lửa đang thiêu hủy.” Đây cũng là biểu tượng của cõi trí mà Agni là chúa tể tối cao của cõi này.
Hoả thần (Agnichaitans). Một nhóm hoả thần ở cõi hồng trần.
Hoả Tinh quân (Lords of the Flame). Một trong những Huyền giai vĩ đại gồm các Đấng tinh thần đang chỉ đạo thái dương hệ. Các Ngài cầm quyền điều hành cuộc tiến hóa của nhân loại trên hành tinh này cách đây khoảng 18 triệu năm, vào giữa căn chủng thứ ba, giống dân Lemuria.
Jiva. Chân thần, một đơn vị tâm thức riêng biệt.
Kumaras. Bảy Đấng hữu ngã thức cao cả nhất trong thái dương hệ. Bảy vị Kumara này biểu hiện thông qua một hệ hành tinh theo cách giống như một con người biểu hiện qua thể xác. Ngoài những danh xưng khác, người Ấn giáo còn gọi các Ngài là “những người con của Brahma sinh ra từ trí tuệ.” Các Ngài là tổng thể của thông tuệ và minh triết. Bên trong hệ hành tinh, chúng ta thấy có phản ánh những đẳng cấp thái dương hệ. Đứng đầu cuộc tiến hóa của thế giới chúng ta có vị Đệ nhất Kumara với sự trợ giúp của sáu vị Kumara khác, ba vị ngoại môn và ba vị nội môn, các Ngài là những tụ điểm để phân phối mãnh lực của các vị Kumara thái dương hệ.
Lemuria. Một thuật ngữ hiện đại, trước hết được một số nhà tự nhiên học sử dụng, và nay được các nhà Thần triết chọn dùng để chỉ một lục địa mà theo Giáo lý Bí nhiệm của Đông phương thì có trước Châu Atlantis. Đó là nơi cư ngụ của căn chủng thứ ba.
Luồng hoả hậu (Kundalini). Quyền năng của Sự Sống: một trong các mãnh lực của thiên nhiên. Chỉ những người nào thực hành định trí theo yoga mới biết được quyền năng này. Nó được tập trung bên trong cột sống.
Mayavi Rupa. Từ Bắc Phạn, có nghĩa là “Thể ảo.” Đó là thể biểu hiện do vị Chân sư tạo nên, bằng tác động của ý chí, để sử dụng trong tam giới. Nó không liên kết về mặt vật chất với thể xác. Nó thuộc về tinh thần, siêu phàm, và đi khắp nơi không trở ngại. Nó được kiến tạo bởi quyền năng của hạ trí, bằng loại vật chất cảm dục cao nhất.
Nghiệp (Karma). Hành động ở cõi trần. Theo siêu hình học, là định luật báo phục, luật nhân quả hay nguyên tắc nhân quả theo đạo đức. Có nghiệp quả của hành động tốt và nghiệp quả của hành động xấu. Đó là quyền năng kiểm soát mọi sự, hậu quả của hành động đạo đức, hay là hiệu quả về mặt đạo đức của một việc được thực hiện để đạt một điều gì làm thỏa mãn ham muốn cá nhân.
Ngôi Lời (Logos). Thượng Đế biểu hiện thông qua mọi quốc gia và dân tộc. Sự biểu lộ ra ngoài, hay là hiệu quả của nguyên nhân mãi mãi tiềm ẩn. Do thế, lời nói là biểu hiện của tư tưởng, và vì vậy được chuyển dịch một cách thích hợp là “lời nói” và “linh từ” theo ý nghĩa siêu hình của nó. (Xem John I : 1-3.)
Nguyên khí thứ Năm (Fifth Principle). Nguyên khí trí tuệ; khả năng này nơi con người là nguyên khí suy tư thông minh, phân biệt con người với loài vật.
Nguyên tử trường tồn (Permanent atom). Năm hạt nguyên tử, cùng với nguyên tử trường tồn hạ trí, mỗi nguyên tử trên một trong năm cõi tiến hóa của nhân loại (nguyên tử trường tồn hạ trí cũng ở trên cõi trí) được Chân thần thu dụng cho các mục đích biểu hiện. Chúng hình thành một trung tâm ổn định và tương đối trường tồn. Chung quanh chúng, các lớp áo hay các thể được kiến tạo. Chúng thực sự là những trung tâm lực nhỏ.
Nhóm Chân nhân (Egoic Groups). Trên cõi phụ thứ ba của cảnh giới thứ năm, tức là cõi trí, có những thể nguyên nhân của các cá nhân nam, nữ. Các thể này, là sự biểu lộ của Chân nhân, hay của ngã thức cá nhân hóa, được qui tụ lại thành từng nhóm tùy theo cung hay phẩm tính đặc biệt mỗi Chân nhân.
Noãn hào quang (Auric egg). Một tên gọi thể nguyên nhân, do nó có hình trứng.
Phật (Đức) (Buddha). Danh hiệu chỉ về Đức Gautama. Ngài sinh ở Ấn Độ vào khoảng năm 621 trước Công nguyên và viên thành quả Phật vào năm 592 trước Công nguyên. Đức Phật là “Đấng Giác ngộ,” và đã đạt trình độ kiến thức cao nhất khả dĩ có được cho con người trong thái dương hệ này.
Raja Yoga. Hệ thống thực sự để phát triển các quyền năng tâm thông và tinh thần, và hợp nhất với Chân ngã hay Chân nhân của mỗi người; gồm việc rèn luyện, điều hòa, và tập trung tư tưởng.
Senzar (Tiếng) (Sensa hay Senzar). Tên gọi ngôn ngữ bí mật của giới tăng lữ, hay là “tiếng nói bí nhiệm” của các bậc đắc đạo trên khắp thế giới. Đó là một ngôn ngữ đại đồng, và phần lớn là các mật mã tượng hình.
Shamballa. Thành phố của các vị Thần, ở phía Tây đối với một số quốc gia, ở phía Đông đối với các nước khác, ở phía Bắc hay phía Nam đối với các quốc gia khác nữa. Đó là thánh đảo ở trong sa mạc Gobi, là quê hương của khoa thần bí và Giáo lý Bí nhiệm.
Sinh lực (Prana). Nguyên khí của Sự Sống, hơi thở của Sự Sống. Huyền bí gia tin tưởng vào lời phát biểu sau: “Sự Sống mà chúng ta xem là một thể tồn tại duy nhất, biểu hiện trong cái gọi là vật chất, hoặc là những gì mà, do phân tách sai lầm, chúng ta gọi là Tinh thần, Linh hồn, và Vật chất trong con người. Vật chất là thể biểu hiện của linh hồn trên cõi đời này; linh hồn là thể biểu hiện của tinh thần, và cả ba là tam vị nhất thể được Sự Sống tổng hợp và thấm nhuần tất cả.”
Tam nguyên (Triad). Con người Tinh thần; sự biểu hiện của Chân thần. Đó là tinh thần còn phôi thai chứa đựng các tiềm năng của thiên tính. Các tiềm năng này sẽ được khai mở trong suốt cuộc tiến hóa. Tam nguyên này tạo thành cái ngã riêng biệt hay cá nhân hóa, hay Chân nhân.
Thần (hay Thiên thần) (Deva hay Angel). Một vị thần. Tiếng Bắc Phạn có nghĩa là một vị thần hào quang rực rỡ. Thần là một sinh linh thuộc thiên giới, có thể tốt, xấu hay vô hại. Thiên thần được chia thành nhiều nhóm, không những được gọi là các thiên thần và đại thiên thần, mà còn được gọi là các thần kiến tạo cấp cao hay thấp.
Thần chú (Mantrams). Các câu lấy từ Kinh Vệ-đà. Theo nghĩa ngoại môn thì một câu thần chú (hay là khả năng, quyền năng thần thông truyền đạt nhận thức hoặc tư tưởng) là phần cổ xưa hơn của Kinh Vệ-đà, phần thứ nhì là các Kinh Brahmanas. Trong ngữ thức nội môn thì thần chú là linh từ được cụ thể hóa, hoặc làm cho biểu lộ khách quan nhờ pháp thuật thiêng liêng. Một hình thức ngôn từ hay các âm vận được sắp xếp có tiết điệu, để khi xướng lên thì phát ra những rung động nhất định.
Thể dĩ thái (Etheric body, Etheric double). Theo giáo huấn huyền môn, thể hồng trần của con người gồm hai phần, thể xác thô đặc và thể dĩ thái. Thể xác gồm vật chất của ba cõi phụ thấp của cõi trần. Thể dĩ thái gồm bốn cõi phụ cao nhất hay cõi phụ dĩ thái của cõi trần.
Thể nguyên nhân (Causal Body). Theo điều kiện cõi trần thì đây không phải là một thể, không thuộc chủ quan hay khách quan. Tuy nhiên, nó là trung tâm của tâm thức Chân nhân, và được hình thành do sự kết hợp của bồ-đề và trí tuệ. Thể này tương đối trường cửu, tồn tại trong suốt chu kỳ các kiếp luân hồi, và chỉ bị làm tan rã sau cuộc điểm đạo thứ tư, khi về phần con người không còn nhu cầu phải tái sinh thêm.
Thiên vương (Raja Lord). Từ “Raja” chỉ có nghĩa là Vua hay Ông Hoàng; từ này đã được áp dụng cho các đại thiên thần hay những Đấng phú linh cho bảy cảnh giới. Đây là các đại thiên thần là tổng thể và là sự thông tuệ chế ngự một cảnh giới.
Thời đại Hắc ám (Kali Yuga). “Yuga” là một thời đại hay chu kỳ. Theo triết học Ấn Độ, cuộc tiến hóa của chúng ta được chia thành bốn thời đại hay chu kỳ. “Thời đại Hắc ám” là thời đại hiện nay, kéo dài 432.000 năm.
Tiểu vũ trụ (Microcosm). Vũ trụ nhỏ, hay là con người biểu hiện qua cơ thể của mình, thể hồng trần.
Tinh linh (Elementals). Các sinh vật của bốn giới hay là các đại nguyên tố, Địa, Thủy, Hoả, Phong. Ngoại trừ một ít vị cấp cao và các tổng lãnh, họ là những mãnh lực trong thiên nhiên hơn là những người nam, nữ ở trong thể dĩ thái.
Tôn sư (Guru). Vị Huấn sư Tinh thần. Một vị tinh thông các giáo lý đạo đức và siêu hình.
Trí tuệ, hay nguyên khí trí tuệ (Manas, Manasic Principle). Nghĩa đen là trí tuệ, trí năng; điều phân biệt giữa con người với tình trạng chỉ là con vật. Đó là nguyên khí cá nhân hóa; nguyên khí giúp con người có thể biết rằng y hiện hữu, cảm giác, và hiểu biết. Trong một số trường phái, nó được chia làm hai phần, thượng trí hay trí trừu tượng, hạ trí hay trí cụ thể.
Tứ hạ thể (Quaternary). Phàm ngã tứ phân, hay là con người, trong tam giới. Vấn đề này có nhiều cách phân chia, nhưng có lẽ cách tốt nhất cho mục đích của chúng ta là kể ra bốn phần này như sau:
1. Hạ trí.
2. Thể tình cảm hay cảm dục.
3. Sinh lực (prana), hay Nguyên khí Sự sống.
4. Thể dĩ thái, hay là phần cao nhất của thể hồng trần nhị phân.
Ứng thân (Vị) (Nirmanakaya). Các Đấng trọn lành từ khước Niết-bàn (trạng thái chân phúc tinh thần cao siêu nhất) và chọn cuộc đời tự hy sinh, trở nên thành viên của một đoàn quân vô hình, mãi mãi bảo vệ nhân loại trong các giới hạn nghiệp quả.
Văn minh Đại đế (Đức) (Lord of Civilisation, Mahachohan). Vị Trưởng ngành chính đại thứ ba của Đ.Đ.C.G.. Đấng Cao cả này là vị Chúa của Văn minh, và là sự bừng nở của nguyên khí thông tuệ. Ngài là hiện thân trên hành tinh này của trạng thái thứ ba hay là trạng thái thông tuệ của thiêng liêng, trong năm lĩnh vực hoạt động thiêng liêng.
Viveka. Từ Bắc Phạn nghĩa là “phân biện.” Chính bước đầu tiên trên đường huyền bí học . . . là phân biện giữa sự thật và không thật, giữa thực chất và hiện tượng, giữa Ngã và Phi-ngã, giữa tinh thần và vật chất.
Vòng hạn định (Ring-pass-not). Giới hạn này ở tại chu vi của thái dương hệ được biểu hiện, và là phạm vi ảnh hưởng của mặt trời, hiểu theo nghĩa vừa nội môn vừa ngoại môn. Giới hạn phạm vi hoạt động của mãnh lực sự sống trung ương.
Wesak. Một cuộc lễ diễn ra trong dãy Hi-mã-lạp-sơn vào lúc trăng tròn tháng Năm dương lịch (Kỳ Kim ngưu). Người ta nói rằng trong cuộc lễ này, tất cả các nhân viên của Đ.Đ.C.G. đều có mặt, và trong một thời khoảng ngắn, Đức Phật tiếp tục mối liên giao và kết hợp của Ngài với công tác của hành tinh chúng ta.
Yoga. 1. Một trong sáu trường phái của Ấn Độ, được cho là do Patanjali sáng lập, nhưng thực ra có nguồn gốc xưa hơn nhiều. 2. Việc thực hành tham thiền như một phương tiện đưa đến sự giải thoát tinh thần.
Ghi chú: Phần ngữ giải này không được xem là giải thích đầy đủ tất cả các thuật ngữ kể trên. Đây chỉ là một cố gắng nhằm chuyển dịch sang tiếng Anh (và sang tiếng Việt, ND) một số từ dùng trong sách này, nhờ thế độc giả có thể hiểu được nghĩa rộng của chúng. Đa số các định nghĩa ở đây đều được chọn từ Ngữ giải Thần triết, Giáo lý Bí nhiệm, và Tiếng nói Im lặng.

* Ghi chú của người dịch:
Trang ‘Đại Thỉnh nguyện’: Đức Chưởng giáo là là Đấng cao cả mà toàn thế giới đang mong đợi. Ngài trở lại để khai sáng thêm con đường Chân lý, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề khó khăn, và tiến xa hơn trong cố gắng thể hiện ChânThiện-Mỹ. Ngài là Đức Christ của Thiên Chúa giáo; là Đức Maitreya (Tiếng Sanskrit), Metteyya (Tiếng Pali), Jampa (Tiếng Tây Tạng) hay Di Lạc Bồ-tát của Phật giáo; là Đấng Hoá thân Kalki của Vishnu trong Ấn giáo; là Đức Imam Madhi của Hồi giáo; là Đức Sosiosh, Đấng Cứu thế của Hoả giáo; và Ngài cũng được tôn xưng trong các tôn giáo khác . . .

Các số ở kế bên lề trái là số trang bản gốc tiếng Anh để độc giả tiện tham khảo.
* Mong được độc giả góp ý và nhận xét.
Xin cám ơn.
Thư từ liên lạc:
E-mail: giadinhphanle@yahoo.com