CẢI MỆNH THEO DỤNG THẦN TỨ TRỤ
KHỎE MẠNH SỐNG THỌ - VƯỢNG PHÁT TÀI PHÚC - THIỆN TRÍ NHƯ Ý
MỤC TIÊU TỐI HẬU
"LƯU THÔNG KHÍ CHẤT THÌ VẠN SỰ CÁT TƯỜNG NHƯ Ý,
CÂN BẰNG KHÍ CHẤT THÌ GIẦU SANG PHÚ QUÝ BỀN VỮNG SỐNG THỌ
LOẠI TRỪ RỦI DO CHẾT OAN UỔNG - ĐỜI SỐNG ĐƯỢC BÌNH AN HẠNH PHÚC"
PHẦN I
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP CẢI MỆNH THEO DỤNG THẦN
I- Nguồn gốc Số mệnh và đời sống luân hồi tái sinh
1- Nguồn gốc số mệnh:
Trích lời đức Phật dạy: Tất cả chúng sinh đều mang theo nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sinh. Theo đó, do nghiệp chi phối tuân theo định luật Nhân quả, định luật Luân hồi tái sanh, nên mỗi người bắt buộc phải luân hồi sáu cõi, là để nhận quả báo do nghiệp nhân thiện ác do chính mình đã gây tạo trong muôn kiếp luân hồi trước đây.
=> Số mệnh là có, do nhân nào quả đấy, không phải định mệnh => Hoàn toàn có thể cải sửa số mệnh toàn diện thông qua tu học để hiểu biết giác ngộ chánh đạo, làm cơ sở thực hành một đời sống theo đạo của người quân tử, xứng danh là bậc Thiện tri thức ở đời.
2- Linh hồn luân hồi tái sanh:
Minh triết thiêng liêng cho chúng ta biết, Linh hồn có ba Chân lý trường tồn, tất cả đều bằng nhau như sau:
a- Linh Hồn con người vốn bất tử và tương lai của nó phát triển huy hoàng không biên giới.
b- Nguyên lý sinh ra sự sống ở trong chúng ta và ở ngoài chúng ta, nguyên lý đó không bao giờ mất, đời đời ban phước, nó không sao thấy được, nghe được, cảm giác được, nhưng kẻ nào muốn nhận thức nó sẽ nhận thức được.
c- Mỗi người đều là người đặt luật lệ cho chính mình một cách tuyệt đối, vừa là người ban phước sự vinh quang hay sự tối tăm cho mình, vừa là người cầm vận mạng của mình, thưởng phạt cho mình.
Ba chân lý này lớn lao như sự sống, cũng giản dị như một tâm hồn giản dị nhất, hãy dùng nó làm thức ăn cho kẻ đói.
II- Lá số sinh mệnh và bản chất con người.
1- Lá số sinh mệnh theo Tứ trụ/ Bát tự:
a- Cơ sở lập lá số Tứ trụ:
+ Căn cứ trên những định luật vũ trụ như định luật nhân quả, định luật chu kỳ, định luật tuần hoàn, định luật tương ứng và tương đồng ....., xem con người là một "Tiểu vũ trụ", có sự sống tương thông và tương đồng với đại vũ trụ.
+ Căn cứ vào sự sống Linh hồn luân hồi theo chu kỳ, để nhận nghiệp báo do biệt nghiệp của riêng mình và cộng nghiệp với mọi chúng sinh.
+ Căn cứ vào học thuyết âm dương ngũ hành và quy luật thời gian, được đo lường bằng hệ thông Thiên can, Địa chi, vận hành theo chu kỳ tuần hoàn mãi.
+ Thời gian và Nhân quả là đồng nghĩa: Căn cứ vào Lịch âm dương ngũ hành, phản ánh thời gian tuần hoàn theo học thuyết Âm dương, ngũ hành và Thiên can, Địa chi và Thiên - Địa - Nhân cùng các Quy luật vũ trụ.
+ Lập Lá số Tứ trụ: Căn cứ vào thời điểm mỗi người được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời. Lấy thời gian sinh theo Lịch can chi để lập thành Lá số Tứ trụ theo Giờ - Ngày - Tháng - Năm sinh kết hợp Tiết khí tháng sinh.
+ Số phận Nghiệp báo: Theo Định luật Nhân quả, mọi suy nghĩ, hành động, lời nói, việc làm của con người đều được vũ trụ GHI LẠI không thiếu sót qua chất liệu NGŨ HÀNH, gọi là Nhân Nghiệp. Năng lượng "Nghiệp báo" trả lại cho mỗi người thông qua Thiên can, Địa chi tới mỗi người và tất cả đều bắt buộc phải nhận lãnh nghiệp báo khi thời gian đến, không ai có thể trốn chánh được. Đây là cơ sở để dự đoán Số phận mỗi người qua Lá số sinh mệnh.
Sự dẫn truyền năng lượng "Nghiệp báo", đại khái từ vũ trụ xa săm, qua chòm sao Bắc đẩu thất tinh nhận và tiếp tục truyền chuyển đến các hành tinh gồm Kim tinh - Mộc tinh - Thủy tinh - Hỏa tinh - Thổ tinh .... thuộc Thái dương hệ chúng ta. Từ đó tiếp tục truyền chuyển tiếp nối xuống đến Thiên can, Địa chi được sử dụng để đo lường quy luật thời gian trên Địa cầu so với Mặt trời - Trái tim của Thái dương hệ chúng ta đang sống. Năng lượng này tiếp tục biểu lộ qua Tâm thức của các chúng sinh, biểu hiện ra cát hung, họa phúc của muôn loài trong Thái dương hệ, trong đó có nhân loại, tới mỗi người và tất cả đều bắt buộc phải nhận lãnh nghiệp báo khi thời gian đến.
b- Lập lá số số mệnh theo tứ trụ/ Bát tự: Trên cơ sở thời gian nơi sinh, theo lịch âm dương mà nhà Chiêm tinh gia lập được lá số sinh mệnh gồm bốn trụ Năm - Tháng - Ngày - Giờ sinh theo Thiên can - Địa chi. Ví dụ một lá số sinh có tứ trụ gồm:
Năm sinh Tháng sinh Ngày sinh Giờ sinh
Bính tý - Kỷ tị - Nhâm thìn - Giáp dần
* Ngoài 4 trụ trên ra, còn có các Đại, Tiểu vận đo lường thời gian theo chu kỳ, mỗi đại vận là 10 năm, chia ra đại khái Thiên can quản 5 năm đầu, Địa chi quản 5 năm cuối. Cũng còn căn cứ vào thời gian tại mỗi thời điểm muốn dự đoán vận mệnh, gồm xét 4 cặp thiên can, địa chi. Dùng tất cả các tiêu trí nêu trên để dự đoán Số phận mỗi người tại mỗi thời điểm, cũng chính là đoán biết quả báo cát hung, họa phúc nào sẽ phát tác. Biết để thực hiện "Xu cát - Tị hung", giúp vun bồi giầu sang, phú quý, uy quyền, thọ mạng ... bền vững và giảm thiểu nghèo khó, bệnh nạn, khổ đau..... cho đến chết uổng khi chưa sống hết định số số phận an có thể được hưởng.
c- Đặc biệt, Minh triết thiêng liêng có giảng rằng (Tham khảo Chiêm tinh học nội môn):
Tháng sinh ra đời của một người, thường là tháng tử vong của kiếp trước, đó là để tiếp nối nghiệp báo liền mạch giữa các kiếp sống luân hồi.
Giờ sinh là mục tiêu của Linh hồn trong kiếp sống tái sanh này - Hãy nhận thức và sống hoàn thành mục tiêu đã định.
+ Ba loại lĩnh vực biểu lộ trong Lá số sinh - Ba biểu đồ tương ứng cho 3 nhóm người
(1)- Sống thuần về vật chất bàn đến thể xác và Dĩ thái (Sách Dự đoán Tứ trụ bàn đến);
(2)- Sống theo "Trí cảm", chủ yếu về tình cảm, bàn đến tính chất của phàm-ngã và tính nhạy cảm của nó, hoặc trạng thái của ý thức;
(3)- Sống theo lý trí, qua biểu đồ về các xung lực và các tình trạng trí tuệ.
- Nếu có thể lập và nghiên cứu 3 biểu đồ này rất hữu ích, khi xếp chồng lên nhau sẽ cung cấp sơ đồ phàm-ngã, mô hình sự sống cá nhân (Lời Chân sư Minh triết)
2- Bản chất con người trong mỗi kiếp sống:
Đức Phật nói rằng, mỗi chúng ta đã trải qua vô lượng kiếp sống luân hồi khổ đau rồi, và phía trước, khi sống thuận theo chiều tiến hóa vật chất của đa số nhân loại ngày nay, thì cuộc tiến hóa còn kéo dài muôn kiếp và vô bờ bến. Chỉ có "Quay đầu là bờ", tức là chỉ có Tu hành Cải mệnh, tiến tới tu giải thoát luân hồi để trở về cội nguồn như đức Phật dậy, mới là con đường, là đích đến của sự sống tiến hóa mà Linh hồn mỗi người đã chọn. Tu là tự mình cất bước - Là tu sửa lỗi nơi mình - Không phải để sửa lỗi người khác. Phật pháp nhiệm mầu.
Minh triết cho ta biết, mỗi người chúng ta bước vào cuộc đời với một trang bị nhất định – là sản phẩm của các kiếp sống của nỗ lực và kinh nghiệm đã qua. Trang bị đó có trong nó một số khiếm khuyết hoặc thiếu sót, và hiếm khi có tính chất hài hòa.
1- Một người thì quá trí tuệ. Người khác thì quá tâm linh.
2- Người thứ ba chủ yếu thiên về vật chất, và còn người khác nữa lại quá thần bí.
3- Một người thì nhạy cảm, dễ bị kích thích, và dễ bị tác động. Người khác thì ngược lại với tất cả những tính chất này.
4- Một người thì tập trung vào bản chất thú tính của mình, hoặc là quá thiên về vật chất trong quan điểm về cuộc sống của mình, trong khi người khác lại biết nhìn xa trông rộng và thoát khỏi các tội lỗi của xác thịt.
- Các điểm bất đồng giữa những con người thì vô số, nhưng trong mỗi kiếp sống có một xu hướng nổi bật mà tất cả các năng lượng của bản thể y đều xoay về đó.
(Diễn giải câu "Xu hướng nổi bật ... xoay về đó": Được hiểu là một loại năng lượng thiên lệch biểu hiện trong Lá số Tứ trụ (Cũng tương ứng trong Thân Tâm con người), là một loại Khí Chất vượng lấn át các khí chất khác trong, theo đó, nó quyết định một mặt nào đó trong con người sẽ thịnh vượng, các mặt khác suy yếu hơn hẳn, sẽ khó hoặc không thể phát huy (Là cái đối nghịch với năng khiếu người đó). Năng lượng này này là nguồn cơ gây ra sự mất cân bằng rất lớn về Khí Chất trong cơ thể mỗi người, gây ra sự "Khí huyết hoạt động lưu thông bất toàn hoặc chúng sẽ gây ra tắc nghẽn, khiến cho lục phủ ngũ tạng vượng suy thiên lệch, nhiều khi quá lớn => Nguồn gốc của bệnh tật và tâm thần bấn loạn bất an, thường lắm dằn vặt, lo âu sợ hãi, nặng thì trầm cảm, điên loạn ...". Nó cũng là nguồn gốc của các bệnh nạn, tai họa chắc chắn sớm muộn sẽ sảy đến, vì đa số con người không biết, hoặc giả như có biết - Nhưng họ cũng thường không chịu LƯỢNG SỨC MÌNH, mà thích mạo hiểm và cứ muốn sống thuận theo TẬT XẤU đã kết tập từ muôn kiếp luân hồi. Theo đó, họ tiêu tán phước báu thì rất nhanh mà không hề hay biết, lại chẳng gieo tạo vun bồi thêm phước báu, do chẳng tin sâu NHÂN NÀO QUẢ ĐẤY, họ cứ liều mạng nói, nghĩ và hành tà vạy trong vô minh lầm lạc, và rồi tất yếu phải chịu cảnh đói nghèo bệnh nạn - Sự nghiệp tiêu tan - Tâm trí rối loạn - Phá sản tù tội - Phước hết người mất. Họ cứ tự đánh mất tuổi thọ của mình rất lớn, nhất là thời mạt pháp hiện nay, như Thánh hiền dạy, quả báo ác thì trổ rất, rất là nhanh chóng. Tỷ lệ người chết yểu do những nguyên nhân có thể phòng chánh - Chết khi chưa sống hết Định số số mạng rất nhiều, đặc biệt nạn tà dâm hoành hành, hủy hoại toàn diện đời sống của lớp lớp người bất kể tuổi tác.
Do đó, Việc DỰ ĐOÁN TỨ TRỤ ĐỂ TÌM RA DỤNG THẦN là một trong các phương pháp giúp chỉ ra cách sống bình hòa cân bằng giúp tăng trưởng ngũ phúc, phòng chánh rủi do họa tai, kéo dài tuổi thọ để sống hết hoặc vượt nên định số số mạng đã an bài, có một cuộc sống thường an vui, hạnh phúc chính là mục tiêu của Nhân Trắc Học chúng tôi luôn nhắm tới).
Có thể y bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các mãnh lực vật chất và tất nhiên sống đời sống của một con vật. Hoặc là y bị ảnh hưởng bởi năng lượng cảm dục và sống một cuộc sống tình cảm và tâm linh một cách mãnh liệt (potently). Có lẽ − giống như rất nhiều người – y bị ảnh hưởng bởi ba loại năng lượng, vật chất, tình cảm, và một dòng năng lượng linh hồn không thường xuyên.....
Tuy nhiên, sẽ tới ngày mà linh hồn thức tỉnh với nhu cầu phải chi phối tình hình và phải khẳng định uy quyền của chính nó. Khi đó, con người (lúc đầu thì thỉnh thoảng) đánh giá lại tình hình. Y phải khám phá trước tiên loại năng lượng nào nổi trội hơn, và là lực thúc đẩy trong kinh nghiệm hằng ngày của mình. Khi đã phát hiện ra điều này (Dụng thần Mệnh theo tứ trụ), y bắt đầu tổ chức lại, định hướng lại và xây dựng lại các thể của mình. Toàn bộ phần giảng dạy này có thể được tóm gọn trong hai từ ngữ: Tật xấu (Vice) và Đức Hạnh (Virtue).
Tật xấu là năng lượng của các lớp vỏ (thể thấp) riêng biệt hoặc được kết hợp trong phàm-ngã, khi nó kiểm soát các hoạt động của sự sống và làm cho linh hồn phụ thuộc vào các lớp vỏ, và vào các xung lực và các xu hướng của phàm-ngã.
Đức hạnh là việc kêu gọi sự giúp đỡ của các năng lượng mới và của một nhịp điệu rung động mới, để cho linh hồn trở thành yếu tố kiểm soát tích cực, và các mãnh lực của linh hồn thay thế các mãnh lực của các thể thấp. Tiến trình này là tiến trình của việc kiến tạo tính cách. Hãy để Tôi minh họa! Một người là nạn nhân của một tính khí dễ cáu kỉnh và hay gắt gỏng. Chúng ta nói với y rằng anh ta cần phải bình tĩnh và thanh thản, và trau dồi hạnh dứt bỏ để nhờ thế đạt được sự tự kiểm soát. Chúng tôi dạy cho anh ta rằng thay vì có tính tình cáu gắt, nên có sự dịu dàng và bình tĩnh. Điều này nghe có vẻ vô vị và rất đáng chán. Tuy nhiên những gì thực sự đang được nói chính là: ở chỗ của bản chất hiếu động vị kỷ dễ xúc động, và sự hoạt động của bí huyệt đan-điền (mang theo các mãnh lực mạnh mẽ của cõi cảm dục), nên áp đặt ở đó nhịp điệu điềm tĩnh vô tư và hòa hợp của linh hồn, tức Chân Ngã. Công việc áp đặt rung động cao lên trên rung động thấp này là việc kiến tạo tính cách, điều kiện tiên quyết đầu tiên trên Con Đường Dự Bị. Khi đọc mục này đạo sinh nhiệt tâm có thể bắt đầu tổng kết các tài sản về năng lượng của mình; y có thể lập bảng kê các lực mà y cảm thấy chi phối cuộc sống của mình, do đó đi đến một sự hiểu biết hợp lý và trung thực về các lực đang cần được hạ thấp xuống, và những lực cần được tăng cường. Sau đó, trong ánh sáng của chân tri thức, y hãy tiến tới trên con đường định mệnh của y (Hồi đầu bỏ ác làm lành, phát triển đức hạnh và trí tuệ phân biện, tức là trở về với Linh hồn bất tử cao siêu nhiệm mầu, con đường hướng đến giải thoát luân hồi sinh tử rộng mở đối với y). ....
+ Mời đọc bài viết để hiểu rõ hơn về nguồn gốc: Ta là ai - Từ đâu đến - Tái sanh kiếp này để làm gì - Chết đi về đâu?
III- Số phận đời người với tiến trình Nghiệp trổ quả báo
1- Diễn giải sự vận hành của Nghiệp báo thành số phận an bài:
Giáo lý Minh triết thiêng liêng giảng rằng, con người là một Tiểu vũ trụ - Trên sao dưới vậy. Chính vì sự tương ứng và tương đồng giữa tam tài "Trời - Đất - Người" mà chúng ta có thể dự đoán Thiên cơ nói chung - Dự đoán số mệnh an bài qua ngày giờ sinh nói riêng, về các lĩnh vực lớn của đời sống. Đó là vì căn bản chính là dự đoán Nhân nào - Quả đấy, dự đoán Nghiệp báo thời gian nào sẽ sảy đến với mỗi người, tức là Nhân thiện ác đã gieo từ tiền kiếp, giờ chỉ chờ Thời hội tụ đủ Duyên (Đối tượng, hoàn cảnh) là chúng phát tác biểu hiện thành sự việc cát hung họa phúc mà mỗi người sẽ nhận lấy.
Khi nghiệp trổ, dù là quả báo phúc thiện mang đến giầu có, an vui, hạnh phúc ... hay quả báo hung ác thì bên ngoài sảy đến tai họa tranh giành, chia ly, phá sản, tù tội ..... nơi tâm thì lắm lo âu, sợ hãi, muộn phiền, thậm trí phiền lão khổ đau tột dẫn đến trầm cảm, điên loạn. Tất nhiên, mỗi người đều bắt buộc phải nhận lãnh mà không thể nào trốn chánh được, trừ khi họ tu hành tinh tấn để hóa giải tiêu trừ nghiệp chướng giúp phòng ngừa chánh nạn, lấy tu tích phúc đức đại thiện để hóa giải, tiêu trừ nghiệp ác. Định luật Nhân quả của vũ trụ bản nhiên là bất biến, luôn vận hành vô tình nghĩa, không thiên vị, đó là ai gieo nhân nào thì gặt Quả đấy đúng như đức Phật dậy "Trồng dưa được dưa - Trồng đậu được đậu". Quả báo của mỗi kiếp sống nhận lãnh, thì ngay từ khi Linh hồn nhập thai tái sanh đã có sự lựa chọn ấn định về họa phúc theo nghiệp báo cho suốt đời sống tái sanh kiếp này, từ khi sinh ra cất tiếng khóc chào đời, cho đến bao giờ thì cái chết sảy đến, sinh tử luân hồi khổ đau là như thế.
Do đây biết SỐ PHẬN LÀ CÓ - Có thể dự đoán được, nhiều trường hợp dự đoán chính xác đến không ngờ, đây cơ bản là do người đó cứ chấp nhận số phận an bài, cứ sống thuận theo tánh khí nghiệp báo, nhiều người còn cho rằng họ có CÁ TÍNH khác người là điểm hay ho cần giữ lấy. Đây căn bản là phàm phu vô minh, chấp trước Thân xác là Ta nặng lề. Đời sống họ đã không chú trọng làm việc thiện, nhiều người còn sống ác mà không biết mình ác, tâm trí đảo điên xem việc ác là thiện thì làm sao có thể thay đổi số phận an bài - Không thể nào.
PHẦN II
ỨNG DỤNG DỤNG THẦN VÀO TU HÀNH CẢI MỆNH NHƯ Ý
I- Nguyên tắc Văn - Tư - Tu: Luôn theo đúng "Như pháp tu hành" là lấy cơ sở theo "Tịnh nghiệp tam phước" dẫn lối như đức Phật dạy để tu hành. Thứ tự tu cần ghi nhớ:
1. Lấy tu đức hạnh làm gốc - Phải thành tựu trước: Đức Phật dạy, "Mưa trời tuy lớn, cây không gốc làm sao thấm nước", đại khái nói đến người bất thiện, trong Tâm địa không có "Hạt giống" thiện hạnh. Nghĩa là họ sống không theo đạo người quân tử làm tiêu trí thực hành trong đời sống, thậm chí họ xem đấy là mê tín, nếu thực hành theo họ sẽ bị thiệt thòi rất lớn. Nghĩa là họ chưa đến thời vận có thể tiếp thu giáo lý kinh điển của Thánh hiền. Giả như nếu họ có tu hành, thì họ dụng tâm tham sân si mạn nghi để tu vì muốn có danh tiếng, muốn có thần thông ...., họ sẽ bị lầm lạc vào con đường tà tri tà kiến, rễ bị bệnh nạn chồng chất, rễ bị tẩu hỏa nhập ma, loạn tâm loạn trí, trầm cảm chánh trường ..... Vậy nên, cần tu thành tựu bước đầu đạo "Hiếu thân tôn sư" trước tiên, không thể không đề cao cảnh giác như Hiền thánh vẫn giảng dạy. Tâm thiện mới "Chân thành, cung kính ..." học hỏi, tiếp thu Minh triết, Phật pháp an toàn, có thành tựu bền vững, chánh lầm đường lạc lối, rễ chịu khổ muôn kiếp đọa lạc các cõi thấp, khó mà thoát ra.
2. Lấy phước huệ song tu là ngọn: Có câu "Tu huệ không tu phước - A La Hán cầm bình bát không". Đại khái đức Phật dạy, phước đức cũng quan trọng, vì có phước thì cái ăn cái mặc không thiếu. Nếu chỉ chăm tu trí tuệ thì bụng đói, áo rách, họ đi ăn xin cũng chẳng mấy ai cho, làm sao nuôi sống được Thân mạng để mà tu hành cải mệnh?
3. Cần tu sớm để kích cát - Phòng họa: Có câu, "Không nên chờ đến lúc khát mới lo đào giếng", làm sao kịp được. Tức là cần chăm chỉ tu hành thường ngày, hoặc nên xem số mệnh để dự báo sớm nghiệp báo họa tai sắp sảy đến trong vài năm tới. Khi đó, tùy theo sự việc, cần tinh tấn tu hành hóa giải, tiêu trừ nghiệp sớm trước tiết khí Lập xuân của năm có họa tai. Nếu chậm e rất khó sửa đổi nghiệp, cần lưu ý điểm này, bởi vì không có truyện mới chỉ đào vài lớp đất mà đã mong giếng có nước - Không có lý này.
4. Còn cần nhiều yếu tố khác nữa: Ví như lựa chọn vị Thầy chánh đạo dẫn lỗi; Cần chọn pháp môn tu phù hợp căn cơ; Chọn môi trường tu phù hợp; Chọn nghề nghiệp phù hợp; Chọn loại hình bố thí, cúng dường đáp ứng tùy theo tính cấp thiết trong ngắn hạn .......
II- Danh mục các pháp Văn - Tư - Tu từ gốc đến ngọn - Từ thấp đến cao.
III- Các pháp Văn - Tư - Tu tùy theo đẳng cấp Thiện Trí phù hợp với Dụng thần theo Tứ trụ của mỗi người.
+ Mời đọc bài viết để hiểu rõ hơn về nguồn gốc: Ta là ai - Từ đâu đến - Tái sanh kiếp này để làm gì - Chết đi về đâu?
+ Mời xem hướng dẫn sơ bộ với người dụng thần là Mộc: Cải mệnh để khỏe và giầu sang
+ Mời bạn đọc: Đức Phật dạy bảy cách bố thí không tốn một đồng nào lại mang lại vận may cả đời
+ Mời bạn đọc: 20 cách tích đức cải tạo vận mệnh dễ hiểu dễ làm
+ Mời bạn đọc: Cải mệnh bắt đầu từ Tâm hoan hỷ
+ Sách cải mệnh tuyệt đỉnh: Liễu Phàm Tứ Huấn
Còn rất nhiều bài viết chúng tôi hướng dẫn quý vị cách tu sửa Cải Mệnh Như Ý trên trang web này, mong quý khách tìm đọc tham khảo.
Cầu mong Hạnh phúc đến với tất cả mọi người, mọi nhà.
F- GIẢI ĐÁP THẮC MẮC:
Hàng tuần, chúng tôi có một buổi khoảng 2h để tiếp nhận câu hỏi và giải đáp thắc mắc khi ứng dụng DỤNG THẦN TỨ TRỤ vào tu cải mệnh - Phí tùy tâm, mục đích là để quý vị tu cải mệnh thành tựu như ý.
Xin mời theo dõi Thông báo trên trang web này của chúng tôi. Chúng tôi khuyến khích mọi người hỏi về những vấn đề nhằm mục đích giúp tu Cải mệnh để tiến hóa thăng thượng - Hướng đến giải thoát luân hồi khổ đau.
Đón nhận góp ý: Tôi luôn mong nhận được những lời góp ý của Quý vị để ngày càng hoàn thiện bản thân và để phục vụ mọi người ngày một tốt hơn.
Phụ trách trang web: Ngô Như Hương - Nam giới; ĐT: 0964 759 686; Email: ngouidetu@gamil.com;
Các trang và nhóm Facebook gồm: Số Mệnh Học; hoặc: Thắng Thiên Mệnh; Nhóm: Đoán Mệnh Tứ Trụ Để Cải Mệnh Như Ý
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách!