ẢO CẢM CUNG 7 - WEBINAR SỐ 10 - (PHẦN 1)
(Thầy Kiệt MFVN Dịch tháng 09. 2019)
Các qui luật về Kỹ Thuật của Ánh Sáng đã được nêu ra một cách thoả đáng trong hệ thống Raja Yoga của Patanjali, với năm giai đoạn tiêu biểu Định Trí, Tham Thiền, Chiêm Ngưỡng, Khai Ngộ, và Linh Hứng;Năm giai đoạn này đến lượt chúng phải được song hành bằng cách tuân thủ Năm Quy Luật và Năm Điều Răn. Tôi yêu cầu các bạn nghiên cứu các điều này. Đến phiên chúng, năm quy luật và năm điều răn sẽ tạo ra nhiều kết quả trong sự nhạy cảm tâm linh mà sự giao tiếp với Thánh Đoàn, sự giác ngộ, phụng sự và giữ giới luật là các thể hiện. Sau rốt là giai đoạn “hợp nhất cô lập” vốn là một tên gọi khác thường mà Đạo Sư Patanjali dùng để mô tả cuộc sống nội tâm của vị đệ tử điểm đạo.
Glamour Webinar 10 — Phần 1
Ghi chú: Những trích dẫn từ sách của Chân sư DK sẽ có màu blue, bình giảng của Thầy Hiệu Trưởng về các đoạn văn trong sách sẽ có màu đen, nền nâu nhạt
Sao Kim, hành tinh cung 5 sẽ giúp xua tan ảo cảm
Hôm nay là sáng thứ sáu, ngày thứ năm của tuần lễ, cũng là ngày của Sao Kim, là thời điểm tuyệt vời để bàn về Kỹ thuật Của Ánh sáng khi chúng ta cố gắng vô hiệu hóa các Ảo cảm đang tràn lan trong đời sống cá nhân của chúng ta và cũng của thế giới ở một mức độ nào đó. Sao Kim có nhiều thứ ngoài cung 5, nhưng chúng ta thực sự cần cung 5 linh hồn của sao Kim để làm trong sáng những suy nghĩ của chúng ta, bởi vì rất nhiều vấn đề của chúng ta xuất phát từ việc chúng ta không suy nghĩ thẳng thắn, chúng ta bị cuốn theo những ham muốn, những hoạt động, những thành kiến của chúng ta, và chúng ta nhìn thấy mọi thứ một cách méo mó và đó là điều chúng ta không muốn.
Cách xướng tụng đúng Đại Khấn Nguyện
Rõ ràng lời Đại Khấn Nguyện phải được xướng tụng một cách sâu sắc, với tư tưởng phía sau, gần như với một thái độ cầu nguyện hoặc vươn lên, vươn tới các dòng chảy năng lượng. Nhiều người đã viết về Lời Đại Khấn Nguyện, về điểm ánh sáng, điểm tình thương… về ý nghĩa của chúng? Tất cả phụ thuộc vào bối cảnh của bạn. Tất nhiên, trước tiên chúng ta sẽ hướng về Thượng đế của chúng ta, đức Hành Tinh Thượng đế Sanat Kumara, và tất cả những điều này được tìm thấy trên cõi Dĩ Thái Hồng Trần Vũ Trụ—Trí Thượng đế, Tâm Thượng đế, Ý Chí Thượng đế v.v. tất cả đều nằm trên cõi dĩ thái vũ trụ. Vì vậy, từ một góc độ nhất định, Trí Thượng đế có thể được xem thuộc cõi Atmic, cõi của ý chí tinh thần, nhưng đó cũng là cõi của thông tuệ; Tâm Thượng đế là cõi Chân thần, Ý chí của Thượng đế - Đức SanatKumara, Hành Tinh Thượng đế của chúng ta—là cõi giới Logoic; và tất nhiên, chúng ta, như các Chân thần, tập trung trên cõi Bồ đề, và chúng ta đang khẩn cầu đến các dòng năng lượng đó theo đường Antakarana mà chúng ta đã và đang kiến tạo. Chúng ta khẩn cầu đến các dòng chảy năng lượng này, và chúng ta phải liên tục học cách xây dựng cây cầu ánh sáng mà Chân sư DK đã dạy cho chúng ta những chỉ dẫn để xây dựng nó.
Chúng ta cũng có thể xem xét lời Đại Khấn Nguyện trong bối cảnh lớn hơn, liên quan đến Thái dương Thượng đế, và thậm chí còn lớn hơn nữa, vượt ra ngoài Thái dương hệ của chúng ta, theo cùng cách mà chúng ta đã làm ở trên đối với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. Khi đó, bạn có thể hiểu rằng một điểm như Sirius cũng sẽ tham gia vào Trí Thượng đế, Tâm Thượng đế ở các địa điểm vũ trụ khác này. Nhưng ngay cả trong Tiểu Vũ Trụ của chúng ta, chúng ta đang khấn nguyện hướng đến Thượng trí, đến nguyên khí Bồ đề, đến Chân thần của chúng ta. Vì vậy, lời khẩn cầu này có nhiều cấp độ ứng dụng khác nhau, nhưng vấn đề là chúng ta phải học cách hòa nhập với những điều này, chứ không thực hiện lời khấn nguyện một cách máy móc, không suy nghĩ. Chúng ta phải thực hành khấn nguyện theo cách mà Chân sư Morya đã nói với chúng ta. Ngài nói, nếu bạn uống vitamin với một ý thức rõ ràng thì tốt hơn nhiều so với việc chỉ nhét viên thuốc vào miệng, và đó là một minh hoạ tốt cho việc xướng tụng Đại Khấn Nguyện. Vì vậy, chúng ta không nên khấn nguyện một cách máy móc, không suy nghĩ, không có sự hiện diện của chúng ta phía sau nó. Điều này có lẽ là hiển nhiên đối với tất cả chúng ta, nhưng thỉnh thoảng, tôi nghĩ bạn sẽ không phật ý khi được nhắc nhở về điều đó.
Công việc này cần bao lâu?
Các bạn có thể tự hỏi học hỏi và thực hành về ảo cảm mất bao lâu? Bạn có thể mất nhiều năm để trở nên phần nào lão luyện trong công việc xua tan ảo cảm và ảo tưởng này, và ba cuộc điểm đạo đầu tiên của chúng ta có nhiệm vụ là làm xua tan ảo cảm , ảo tưởng, và Maya. Ở lần điểm đạo đầu tiên đặt trọng tâm ở cõi dĩ thái-vật lý, Maya được cho là đã mất đi rất nhiều sức mạnh. Tiếp theo, ở lần điểm đạo thứ 2, đến phiên ảo cảm bị xua tan phần lớn. Ở lần điểm đạo thứ ba, tôi không nói ảo tưởng hoàn toàn mất hẳn, nhưng một phần lớn những tư tưởng sai lệch chi phối cuộc sống của chúng ta sẽ bị xua tan mặc dù Chân sư DK đưa ra một nhận xét hài hước rằng chúng ta phải đạt đến cấp bậc điểm đạo thứ chín trước khi ảo tưởng cuối cùng bị xua tan. Tôi chắc chắn rằng điều đó chỉ liên quan đến cõi vật lý vũ trụ và được thể hiện tương đối, nên đó là con đường làm sáng tỏ cho tất cả chúng ta, và chúng ta phải áp dụng điều này vào công việc của chúng ta trong thế giới và ý thức của nhân loại. Chúng ta đi theo con đường tinh luyện và sẽ đạt đến mức độ tự do ngày càng tăng. Bản thân nhân loại tại thời điểm này bị vây quanh bởi những thành kiến cảm xúc thiếu suy nghĩ, phần lớn tìm kiếm lợi ích cho bản ngã nhỏ bé khiến chúng ta có một số việc rất sơ khai mà bây giờ phải làm.
Có nhiều hệ thống Yoga hay Con đường đi đến Thượng đế
Chúng ta đang ở trang 195 của quyển Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới, và đoạn sau đây nói về Kỹ thuật Ánh sáng và cách nó được đặt nền tảng trong hệ thống Raja Yoga, khoa học thống soái về linh hồn. Yoga có nghĩa là hợp nhất với cái gì đó thiêng liêng hơn, và có nhiều cách khác nhau để làm điều đó. Karma Yoga đạt đến Thiên Tính thông qua lao động của bạn trên thế gian; Laya Yoga hợp nhất với Thiên Tính qua việc kiểm soát hệ thống luân xa dĩ thái của bạn và các hệ thống luân xa khác; Bhakti Yoga là hợp nhất thông qua sự sùng tín;Jnani Yoga là hợp nhất thông qua sức mạnh của tâm trí. Đó là cách tiếp cận cung 5 và cung 3. Sau đó, chúng ta có Raja Yoga là môn Yoga Vua, về việc hợp nhất với linh hồn. Nhưng chúng ta sẽ tiến xa hơn trong Thời Đại Mới vào khoa Yoga tổng hợp được gọi là Agni Yoga, Yoga của Lửa, pháp môn Yoga tổng hợp của tất cả các trường phái yoga. Thực tế trong hơn 10.000 năm qua, tác phẩm của nhà hiền triết vĩ đại Patanjali đã được nghiên cứu và thực hành, nhưng các sinh viên vẫn hầu như chưa thể tiếp nhận được hết. Vì vậy, nếu chúng ta có thể áp dụng hệ thống tốt đẹp này—cách tiếp cận của cung 2—để hiểu và làm sáng tỏ tâm thức và trí tuệ, chúng ta có thể tiếp tục với pháp môn Yoga tổng hợp sau này.
Năm Qui Luật và Năm Điều Răn (trích từ Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới 196)
The rules for the Technique of Light have been adequately laid down in the Raja Yoga system of Patanjali, of which the five stages of Concentration, Meditation, Contemplation, Illumination, and Inspiration are illustrative; these, in their turn, must be parallelled by a following of the Five Rules and the Five Commandments. Iwould ask you to study these. They, in their turn, produce the many results in psychic sensitivity, of which hierarchical contact, illumination, service and discipline are descriptive and, finally, the [Page 196] stage of "isolated unity," which is the paradoxical term used by Patanjali to describe the inner life of the initiate.
Các qui luật về Kỹ Thuật của Ánh Sáng đã được nêu ra một cách thoả đáng trong hệ thống Raja Yoga của Patanjali, với năm giai đoạn tiêu biểu Định Trí, Tham Thiền, Chiêm Ngưỡng, Khai Ngộ, và Linh Hứng; Năm giai đoạn này đến lượt chúng phải được song hànhbằng cáchtuân thủ Năm Quy Luật và Năm Điều Răn. Tôi yêucầu các bạn nghiên cứu các điều này. Đến phiên chúng, năm quy luật và năm điều răn sẽ tạo ra nhiều kết quả trong sự nhạy cảm tâm linh mà sự giao tiếp với Thánh Đoàn, sự giác ngộ, phụng sự và giữ giới luật là các thể hiện. Sau rốt là giai đoạn “hợp nhất cô lập” vốn là một tên gọi khác thường mà Đạo Sư Patanjali dùng để mô tả cuộc sống nội tâm của vị đệ tử điểm đạo.
Most of what I have said above is well known to all aspirants whether they study the Raja Yoga teaching of India or the life of practical mysticism as laid down by such mystics as Meister Eckhart and the more mentally polarised modern esotericist. These latter went beyond the mystical vision by arriving at fusion. Ineed not enlarge on this. It is the higher stage of at-one-ment to which all true mystics bear witness. [GAW 196]
Hầu hết những gì tôi đề cập ở trên đều được mọi người tìm đạo biết rõ dù họ nghiên cứu giáo lý Raja Yoga của Ấn Độ hoặc có cuộc sống thần bí thực tiễn do các nhà thần bí học như Meister Eckhart và những nhà huyền bí học hiện đại thiên về trí tuệ đưa ra hay không. Những người thuộc hạng sau vượt qua linh thị thần bí bằng cách đạt đến sự dung hợp. Tôi không cần bàn rộng về vấn đềnày. Chính giai đoạn nhất quán cao siêu mà mọi nhà thần bí chân chính trải qua đã là bằng chứng rồi.
Tôi muốn chỉ ra cho các bạn đã nghiên cứu chiêm tinh nội môn ở một mức độ nhất định rằng mỗi một trong những giai đoạn thiền định này tương quan với một dấu hiệu chiêm tinh. Ví dụ, sự tập trung tương ứng với Leo, với vòng tròn có dấu chấm ở tâm là Mặt trời, kết hợp tất cả lại với nhau, không để trí của bạn phân tán. Tiếp đến tham thiền là sự tập trung suy nghĩ kéo dài trên một chủ đề nhất định, được cai quản bởi Xử Nữ. Rồi chiêm ngưỡng hay đại định, trong đó chúng ta học cách lướt vào trạng thái thiền định đang diễn ra của linh hồn, chủ thể và đối tượng hợp nhất, là một yếu tố Thiên Bình. Kế tiếp là Khai Ngộ thường được cho là liên quan đến Kim Ngưu, và chắc chắn có liên quan đến Mẹ của Ánh Sáng, Kim Ngưu, nhưng trong trường hợp này, nó liên quan đến Bọ Cạp, và khai ngộ có nghĩa là cuối cùng chúng ta đã thâm nhập vào phân cảnh giới dĩ thái vũ trụ đầu tiên, tức cõi Bồ đề của Thái dương hệ. Cuối cùng là linh hứng tương quan với Nhân Mã, nơi bạn bắt đầu chạm vào hơi thở thiêng liêng của Chân thần. Có sự tương quan thú vị ở đây liên quan đến Cung 6: Chân thần ở cõi thứ 6, Nhân Mã là dấu hiệu cung 6 chính yếu vào lúc này. Sau Nhân Mã là Ma Kết gắn liền với sự điểm đạo, Bảo Bình với phổ quát hoá và Song Ngư với đồng nhất hoá.
Năm Qui Luật—The Five Rules
"Internal and external purification, contentment, fiery aspiration, spiritual reading and devotion to Ishvara constitutes Niyama (or the five rules)."
Tinh luyện bên trong và bên ngoài, an vui, nguyện vọng bừng cháy, thấu hiểu tinh thần và sùng kính Ishvara là Nijama (hay là năm qui luật).
These five commandments are simple and clear and yet, if practised, would make a man perfect in his relationships to other men, to supermen and to the subhuman realms. The very first command to be harmless is in reality a summation of the others. These commandments are curiously complete and cover the triple nature; in studying all these means we shall note their relation to one or other part of the lower threefold manifestation of the ego.
Năm giới răn này có vẻ rõ ràng và đơn giản. Thế nhưng, [185] nếu được thực hiện đúng, chúng sẽ giúp hành giả có những liên giao tốt đẹp với tha nhân, với các bậc siêu nhân và với các giới tiến hóa thấp kém hơn nhân loại. Chính giới răn thứ nhất là không gây tổn hại vốn thực tế bao gồm các giới răn kia. Các giới răn này thật là đầy đủvà gồm cả ba khía cạnh của phàm ngã. Khi nghiên cứu tất cảcác phương tiện này, chúng ta sẽ thấy chúng lần lượt liên quan đến một trong các thể biểu hiện ở hạ giới của chân nhân.
Trích dẫn từ Ánh Sáng Của Linh Hồn về 5 Qui Luật
1. Nhóm từ “thanh khiết bên trong và bên ngoài” chỉ về ba hạ thể đang che án chân ngã, và phải được diễn giải theo hai ý nghĩa. Mỗi thể đều có dạng hữu hình và thô đặc nhất, và dạng này phải được giữ cho sạch sẽ. Vì có một ý nghĩa là các thể cảm dục và thể trí có thể được giữ cho sạch sẽ, tránh khỏi những gì không thanh khiết đến với chúng từ môi trường chung quanh. Điều này cũng giống như phải giữ cho thân xác khỏi bị vấy bẩn theo cách tương tự. Ngoài ra, cũng phải giữcho những chất liệu tinh vi trong các thể nói trên được hoàn toàn trong sạch. Đây là cơ sở của việc nghiên cứu sự thanh khiết về từ điện, vốn là nguyên nhân khiến phải tuân thủ quá nhiều điều ở phương Đông mà chừng như người Tây phương không thể hiểu. Cái bóng của một người nước ngoài phủ lên trên thức ăn [189] cũng khiến thực phẩm đó trở nên bất tịnh. Đây là niềm tin cho rằng một số loại lực phát ra vốn gây nên tình trạng bất tịnh. Dù phương pháp hóa giải những tình trạng vừa kể có vẻ là loại nghi thức lỗi thời, thế nhưng cái ý tưởng khiến người ta thực hành phương pháp đó thì vẫn đúng thực. Hiện nay hãy còn quá ít kiến thức về các phóng phát mãnh lực từ con người, hoặc tác động lên cơ thể con người. Do đó, phương pháp được gọi là “thanh luyện một cách khoa học” vẫn còn trong giai đoạn phôi thai.
2. Bình giảng của Thầy Hiệu Trưởng:
Bạn đặt các thể của mình dưới lửa tinh luyện. Bạn có ít sự biến dạng trong tâm thức của mình hơn nếu mọi thứ trong sạch, như Kinh Thánh Tân Ước nói rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Toàn bộ ý tưởng rằng sự trong sạch nằm cạnh sự tin kính, có nghĩa là nếu chúng ta thoát khỏi tất cả những sự lệch lạc, biến dạng khác nhau này, chúng ta sẽ thấy thực tại.
2. Sự an vui tạo điều kiện cho thể trí nghỉ ngơi, ổn định. Chúng ta thấy an vui khi nhận thức được các định luật chi phối cuộc sống, chính yếu là luật nghiệp quả.
Đây là trạng thái của thể trí khi nó thấy rằng mọi điều kiện đều đúng đắn, mà trong đó người chí nguyện có thể giải quyết vấn đề của mình và đạt mục tiêu cho một kiếp sống. Điều này không hẳn là một sự trầm lắng và nhu thuận tạo nên tình trạng trì trệ. Đó là nhận thức được những lợi thế trong hiện tại và tận dụng các cơ hội sẵn có, dùng chúng làm nền tảng và cơ sở cho các bước tiến tương lai. Khi thực hiện đúng điều này, thì có thể dễ dàng áp dụng ba qui tắc còn lại.
Bình giảng của Thầy Hiệu Trưởng:
Tiếp đến là An Vui. Nói An Vui không có nghĩa là chúng ta không có sự bất mãn thiêng liêng để đạt được. Bạn phải có cả hai.
3. Nguyện vọng bừng cháy sẽ được bàn đầy đủ hơn trong quyển sau. Thế nhưng, ở đây cũng nên nói rằng sự “tinh tấn” hướng đến lý tưởng, hoặc tự rèn luyện nhằm đạt mục tiêu phải thật sâu xa trong tâm người chí nguyện thực hành yoga đến mức không khó khăn, trở ngại nào có thể khiến y lùi bước. Chỉ khi phẩm tính này đã phát triển đến mức tốt đẹp, và khi hành giả đã tỏ ra rằng không vấn đề khó khăn nào, không sự tối tăm [190] hay thời gian lâu dài nào ngăn trở được y, thì bấy giờ y mới được phép trở thành đệ tử của một vị Chân sư. Sự cố gắng mãnh liệt, lòng thiết tha kiên định và liên tục, và sựtrung thành không dời đổi đối với lý tưởng thấy được qua thị kiến tinh thần, là điều kiện thiết yếu của con đường đệ tử. Các đặc tính này phải có trong cả ba hạ thể, để thể xác luôn luôn nghiêm trì giới luật, thể tình cảm và thể trí thường xuyên có định hướng tinh thần. Vì thế, hành giả nhất tâm tiến đến mục tiêu “bằng mọi giá.”
Nguyện Vọng Rực Lửa.
Nhiều bạn nói rằng: tôi đã thực hiện tốt giai đoạn nguyện vọng bừng cháy, giờ tôi bước vào giai đoạn thiền định. Không phải thế, bởi vì nguyện vọng bừng cháy đi cùng với toàn bộ các thực thể tiến hoá, ngay cả Hành Tinh Thượng Đế cũng có nguyện vọng rực lửa, thậm chí cả Thái dương Thượng đế.
Nguyện vọng là khao khát tiếp cận nguồn cuội và các nguồn cội luôn ngày càng trở nên cao hơn.
Sự thấu hiểu tinh thần liên quan đến việc phát triển ý thức về các thực tại nội tâm. Nó được bồi dưỡng bằng cách học hỏi những vấn đề thông thường, và bằng cách thấu đáo các ý tưởng ẩn trong ngôn từ. Nó được phát triển bằng cách thận trọng xem xét các nguyên nhân ẩn trong mọi sự ham muốn, khát vọng, và xúc cảm. Vì thế, nó liên quan đến dục vọng hay cõi cảm dục. Nó cũng tìm cách thấu hiểu các biểu tượng hay dạng hình học có hàm chứa một ý tưởng hay tư tưởng. Vì thế, nó liên quan đến cõi trí. Điều này sẽ được bàn sau, trong Quyển III.
Đọc hiểu tinh thần. Nó rất giống như phân biện tâm linh. Bạn nhìn vào thế giới và thấy mọi thứ không như chúng có vẻ là. Chúng luôn hướng đến một nguyên mẫu tinh thần cao hơn.
Có thể nói vắn gọn sựSùng kính Ishvara là thái độ của phàm ngã và ba hạ thể nhằm phục vụ chân nhân, vị chủ nhân, là vị Thượng Đế hay Đấng Christ ở nội tâm. Sự sùng kính này gồm ba phương diện, khiến cuộc sống phàm nhân luôn tuân phục vị Thầy ở nội tâm. Rốt cuộc, nó đưa người chí nguyện đến với các bậc trọn lành hay các huấn sư tinh thần. Nó cũng giúp y hiến mình phụng sự Ishvara hay Chân ngã thiêng liêng ẩn trong tâm của mọi người, và mọi hình thể biểu hiện thiêng
liêng. [191]
Sùng Kính Ishvara.
Đây là sự sùng kính với Đức Chúa nội tâm và bạn là Đức Chúa nội tâm đó. Vì vậy, chúng ta phải nhận ra bản chất cao siêu hơn của chúng ta và sùng kính nó, tuân thủ theo các quy luật của nó.
Năm giới răn trên là Niyama, hoặc năm quy tắc, và Kỹ Thuật Ánh sáng dựa trên các giới răn này, và chúng ta đang cố gắng sử dụng Kỹ Thuật Ánh Sáng này.
Năm Điều Răn
I. Physical Nature.
1. Harmlessness. This covers a man's physical acts as they relate to all forms of divine manifestation [Page 185] and concerns specifically his force nature or the energy which he expresses through his physical plane activities. He hurts no one, and injures nobody.
I. Đặc tính Thân xác.
1. Không gây tổn hại.
Giới răn này bao gồm các hành động của con người ở cõi trần khi chúng liên quan đến tất cả những hình thể biểu hiện thiêng liêng. Chúng đặc biệt liên quan đến bản chất mãnh lực hay năng lượng được y phát biểu qua những hoạt động của mình ở cõi trần. Y không hại ai, và không làm tổn thương bất cứ người nào hay vật nào.
Năm Điều Răn. Trong Liên đoàn Morya, chúng ta nghiên cứu những điều này một cách hệ thống và suy ngẫm về chúng, và tôi cũng biết rằng bạn đã đọc những điều này và đang cố gắng áp dụng chúng vào cuộc sống của bạn.
Về phương diện bản chất vật lý, vô tổn hại là giới răn đầu tiên trong số năm giới răn, và nó bao hàm các hành vi vật lý của một người có liên quan đến tất cả các hình thức biểu hiện Thiêng liêng, và đặc biệt liên quan đến bản chất mãnh lực hoặc năng lượng của người đó thể hiện trong các hoạt động trên cõi trần. Y không làm tổn thương ai, người nào, và chúng ta không chỉ thực hành hạnh vô tổn hại ở cấp độ vật lý mà còn trên phương diện cảm xúc và trí tuệ. Chúng ta nên nhận ra rằng chúng ta phải học cách trởnên vô tổn hại trong các phản ứng cảm xúc của mình, chúng ta thường có những suy nghĩ phê phán thuộc hạ trí. Do vậy, nó thực sự phải áp dụng
cho toàn bộ bản chất phàm ngã.
2. Truth. This concerns primarily his use of speech and of the organs of sound, and relates to "truth in the inmost part" so that truth in externality becomes possible.
This is a large subject and deals with the formulation of a man's belief regarding God, people, things and forms through the medium of the tongue and voice. This is covered in the aphorism in Light on the Path. "Before the voice can speak in the presence of the Master it must have lost the power to wound."
2. Chân thật.
Giới răn này chính yếu liên quan đến việc y dùng lời nói của mình và cơ quan phát ra âm thanh. Nó liên quan đến sự “chân thật trong tận thâm tâm” để y có thể sống chân thật ở bên ngoài. Đây là một chủ đề rộng lớn, trình bày niềm tin của mỗi người về Thượng Đế, con người, các sự vật và hình thể, qua trung gian của cái lưỡi và tiếng nói. Đây là hàm nghĩa của một câu châm ngôn trong Ánh sáng trên Đường Đạo. “Trước khi được nói trước Chân sư, lưỡi phải mất năng lực làm tổn thương kẻ khác.”
Chân Thật với Tất cả chúng sinh: điều này liên quan chủ yếu đến việc sử dụng lời nói. Toàn bộ ý tưởng liên quan đến việc chúng ta có trung thực hay không. Nếu chúng ta không nói dối, chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng. Có đủ mọi cách nói dối: bạn nói dối với người khác, bạn nói dối chính mình… có đủ loại biến dạng ở đó. Vì vậy, chân thật là rất quan trọng. Chúng ta phải thực hành chân thật ở phần sâu thẳm nhất để sựthật ở bên ngoài trởnên khả thi. Chúng ta phải hợp lý và đúng thật trong suy nghĩ của chúng ta, không cố gắng tự lừa dối bản thân hoặc cho phép bản thân bị đánh lừa bởi chính suy nghĩ của chúng ta.
Đây là một chủ đề lớn và liên quan đến việc hình thành niềm tin của một người với Chúa, với những người khác, vớimọi thứvà hình tướng thông qua phương tiện của lưỡi và giọng nói. Bạn hãy nhớ lại câu châm ngôn trong Ánh Sáng Trên Đường Đạo:
“Trước khi được đứng trước Chân sư, Lưỡi phải hết năng lực làm tổn thương kẻ khác”.
Ánh Sáng Trên Đường Đạo là một trong những cuốn sách nhỏ thực sự được viết bởi Chân sư Hilarion, vốn là Thánh Paul trong một kiếp trước.
Chân sư Hilarion là vị Đế Quân Cung 5, nhưng Ngài có liên quan rất chặt chẽ với Cung 1, không chỉ với Cung 5 thôi. Ngài đạt đến Vương quốc thiên đường bằng bão táp và Ngài hi vọng mọi người khác cũng làm như thế. Chúng ta được nhắc nhở rằng những chỉ trích gây nhiều tổn thương là một trong những nguồn cội chính của Ảo cảm.
3. Abstention from theft. The disciple is precise and accurate in all his affairs and appropriates nothing which is not rightly his. This is a large concept covering more than the fact of actual physical appropriation of others' possessions.
3. Không trộm cắp. Người đệ tử ứng xửminh bạch và chính xác trong tất cả các công việc của mình, và không chiếm dụng bất cứ sự vật gì không đúng là của mình. Đây là một khái niệm rộng lớn bao gồm nhiều hơn là việc thực tế chiếm dụng các sở hữu vật chất của người khác. [186]
Khi bạn làm điều gì đó, người đệ tử phải chính xác và không nhận về mình những không đúng thực của mình. Điềunày liên quan đến việc trích dẫn từngười khác mà không đưa rõ nguồn trích dẫn. Trong thời đại “cắt và cán” này, mọi người thường lấy một ít từ chỗ này, một ít từ chỗ kia, và biến chúng thành của mình. Điều này được gọi là đạo văn, và thực tế đó là một hình thức trộm cắp. Vì vậy, bạn hãy luôn rèn luyện mình nêu rõ các trích dẫn mà bạn sử dụng để mọi người biết cái gì thuộc về bạn và những gì thuộc về người khác.
Đây là một khái niệm lớn, có ý nghĩa nhiều hơn chỉ việc chiếm đoạt tài sản vật lý của người khác. Chúng ta cũng có sự chiếm đoạt tài sản tinh thần. Chúng ta biết những gì thuộc về chúng ta và những gì thuộc về người khác, và nếu chúng ta cố gắng thổi phồng sai lạc sức mạnh, uy tín, danh tiếng của chúng ta, hay bất cứ điều gì đó, bằng cách lấy đi những gì không phải là của chúng ta, nó sẽ quay trở lại với chúng ta.
Chân sư DK tiếp tục giải thích 5 Điều Răn. Ngài phân chia những điều răn này theo bản chất vật lý, cảm xúc và trí tuệ. Nhưng sự việc không hoàn toàn đơn giản như vậy.
Hầu hết mọi điều được nói ở đây là nền tảng của The Technique Of Light đều có thể được tìm thấy trên tất cả các cấp độ khác nhau của phàm ngã, linh hồn sẽ không bao giờ gây tổn hại, không bao giờ. Chính Phàm ngã với ý thức về sự Tách Biệt, Chia Rẻ gây tổn hại. Ý Thức Tách Biệt là nguyên nhân của việc gây tổn hại. Vì vậy, nếu chúng ta muốn thực sự hiệu quả trong công việc xua tan ảo cảm này, chúng ta phải sống ngày càng nhiều hơn như một linh hồn.
II. Astral Nature.
4. Abstention from incontinence.This is literally desirelessness and governs the outgoing tendencies to that which is not the self, which finds physical plane expression in the relation between the sexes. It must be remembered here, however, that this expression is regarded by the occult student as only one form which the out-going impulses take, and a form which allies a man closely with the animal kingdom. Any impulse which concerns the forms and the real man [Page 186] and which tends to link him to a form and to the physical plane is regarded as a form of incontinence. There is physical plane incontinence and this should have been left behind by the disciple long ago. But there are also many tendencies towards pleasure seeking with consequent satisfaction of the desire nature and this, to the true aspirant, is likewise regarded as incontinence.
II. Bản chất Cảm dục.
4. Không buông lung tình dục.
Đây thực sự là hạnh vô dục và chi phối các khuynh hướng quay ra ngoài, đến với những gì không phải là chân ngã. Nó biểu lộ ở cõi trần thành mối liên hệ giữa các giới tính. Tuy nhiên, ở đây cần lưu ý rằng người môn sinh huyền bí xem sựbiểu lộnày chỉ là một dạng của các thôi thúc hướng ngoại. Đó là một dạng liên kết chặt chẽ con người với giới loài vật. Bất cứ sự thôi thúc nào liên quan đến các hình thể và chân nhân, và có khuynh hướng nối kết chân nhân với một hình thể và với cõi trần, đều được xem là một dạng buông lung tình dục. Có sự buông lung tình dục ở cõi trần mà lẽ ra người đệ tử đã từ bỏ điều này từ lâu. Thế nhưng cũng có nhiều khuynh hướng tìm kiếm lạc thú với hậu quả thỏa mãn bản chất dục vọng, mà người chí nguyện chân chính vẫn xem là buông lung tình dục.
Về bản chất cảm xúc, Ngài nói Không buông lung tình dục, và Ngài đã cố để dịch thuật ngữnày hoặc bà Alice Bailey đã làm theo hướng dẫn của Ngài. “Đây thực sự là hạnh vô dục và chi phối các khuynh hướng quay ra ngoài, đến với những gì không phải là chân ngã”. Hiểu theo nghĩa rộng, tất cả là Ngã, cái duy nhất, hay bất cứ tên gọi nào mà bạn muốn gọi, hoặc không gọi là gì cả, Cái Không Tên. Nhưng với mục đích thực tế, có những thứnằm trong phạm vi “Vòng -Giới-Hạn” của chúng ta và những gì nằm bên ngoài nó, và những gì bên ngoài được gọi là phi ngã. Vì vậy, có một xu hướng tìm kiếm hướng đến cái vô ngã, trên cõi trần được thể hiện trong mối quan hệ giữa hai giới.
Tuy nhiên, “ở đây cần lưu ý rằng người môn sinh huyền bí xem sự biểu lộ này chỉ là một dạng của các thôi thúc hướng ngoại. Đó là một dạng liên kết chặt chẽ con người với giới loài vật. Bất cứ sự thôi thúc nào liên quan đến các hình thể và chân nhân, và có khuynh hướng nối kết chân nhân với một hình thể và với cõi trần, đều được xem là một dạng buông lung tình dục.” Đây là mở rộng ý nghĩa của nó: con người trở nên gắn bó với cái không phải là Cái Ngã Thật Sự, và trong hàng triệu, triệu năm đầu tiên của cuộc sống chúng ta trên trần gian chúng ta đã liên tục làm điều đó, chỉ về sau này chúng ta mới làm bắt đầu rút lui và trừu xuất về phía trung tâm dưới ảnh hưởng sao Kim.
Điều này rất thú vị bởi vì chúng ta hoạt động vào một ngày sao Kim với cung năm có liên quan.
Chúng ta phân tích, buông bỏ và tiến về trung tâm, chúng ta sử dụng lực hướng tâm thay vì lực ly tâm của sao Hỏa. Vì vậy, tất cả là sự tương phản giữa ham muốn, dục vọngthôi thúc của sao Hỏa và sựthu lại của Sao Kim hướng về trung tâm,nơi chúng ta thực sự tìm thấy chính mình. “Có sự buông lung tình dục ở cõi trần mà lẽ ra người đệ tử đã từ bỏ điều này từ lâu. Thế nhưng cũng có nhiều khuynh hướng tìm kiếm lạc thú với hậu quả thỏa mãn bản chất dục vọng, mà người chí nguyện chân chính vẫn xem là buông lung tình dục”. Vì vậy, nếu chúng ta không thể tập trung chúng ta vào linh hồn, vào tâm thức của chúng ta, vào tâm thức nội tại tách rời khỏi mọi nhận thức, thì chúng ta vẫn còn ở một mức độ nào đó “buông lung dục vọng”. Bạn có thể thấy những điều răn đặc biệt này sâu sắc như thế nào.
III. Mental Nature.
5. Abstention from avarice.This deals with the sin of covetousness which is literally theft upon the mental plane. The sin of avarice may lead to any number of physical plane sins and is very powerful. It concerns mental force and is a generic term covering those potent longings which have their seat not only in the emotional or kamic (desire) body, but in the mental body also. This commandment to abstain from avarice is covered by St. Paul when he says "I have learned in whatsoever state I am, therewith to be content." That state has to be attained before the mind can be so quieted that the things of the soul can find entrance.
III. Bản chất trí tuệ
5. Không tham lam.
Đây là sự ham muốn mà thực chất là tội trộm cắp trên cõi trí. Sự tham lam vốn rất mạnh mẽ và có thể dẫn đến bất cứ tội lỗi nào ở cõi trần. Nó liên quan đến sức mạnh của trí năng, và là thuật ngữ gồm chung các khao khát mãnh liệt không chỉ bắt nguồn từthể tình cảm hay dục vọng, mà còn có trong thể trí. Giới răn không tham lam này được Thánh Paul đề cập đến khi ông nói “Tôi đã học được cách an vui dù ở trong bất cứ tình trạng nào.” Phải đạt đến trạng thái vừa kể trước khi thể trí có thể yên lặng đến mức đón nhận được ảnh hưởng từ linh hồn.
Một lần nữa chúng ta có thể thấy điều này có thể được áp dụng nhiều hơn là bản chất cảm dục. Cuối cùng, Ngài nói về bản chất trí tuệ: Không tham lam. Điều răn này liên quan đến tội lỗi của sự ham muốn. Bạn ham muốn những gì người khác có, mà đây thực chất là hành vi trộm cắp trên cõi trí. Trộm cắp nằm phía sau rất nhiều tư tưởng và hành động. Chúng ta tìm kiếm phương pháp sai lầm để trở thành vĩ đại như bản chất cơ bản của chúng ta. Chúng ta tìm cách tích lũy mọi thứ cho chính mình như thể điều đó có thể khôi phục lại cho chúng ta bản chất tinh thần thực sự của chúng ta, và tất nhiên không thể làm điều này theo cách đó được. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải có nhiều tiền, nhiều đô la, nhưng chúng ta phải thu thập nó chính đáng. Chúng ta không thể lấy chúng từbất cứthứgì hay từbất cứ ai khác, gắn nó với chính mình và nghĩ rằng chúng ta đang trở nên vĩ đại hơn. Sự vĩ đại nằm trong sự đồng nhất với Đức Thượng đế Nội Tâm mà chúng ta đang có. Vì vậy, tội lỗi của sự tham lam nói ở đây có thể dẫn đến bất kỳ tội lỗi nào trên cõi trần và nó thật sự mạnh mẽ. Tất cả các cuộc chiến tranh, các cuộc xâm lược, lấn chiếm, trong đó một nhóm người hoặc một quốc gia mong muốn có những gì mà nhóm khác hay quốc gia khác có và họ sẵn sàng thực hiện điều đó bằng vũ lực. Đây là vấn đề liên quan đến mãnh lực trí tuệ và là một thuật ngữ chung bao hàm những khát khao mãnh liệt không chỉ trong bản chất cảm xúc hay kamic mà còn trong thể trí. Ngài gần như nói rằng có một loại ham muốn vươn ra ngoài và thể trí cũng như thế. “Giới răn không tham lam này được Thánh Paul đề cập đến khi ông nói ‘Tôi đã học được cách an vui dù ở trong bất cứ tình trạng nào.’ Phải đạt đến trạng thái vừa kể trước khi thể trí có thể yên lặng đến mức đón nhận được ảnh hưởng từ linh hồn”.
Đây là năm điều răn mà Ngài yêu cầu chúng ta nghiên cứu, và sau đó có năm quy luật, tất cả là mười, tất cả được đưa ra bởi phụ chủng đầu tiên của chủng tộc gốc Arian. Bạn có thể hiểu làm thế nào 1, 10, 5 cùng làm việc với nhau; ý chí và trí tuệ thực sự bắt đầu tự thể hiện trong lĩnh vực này và sẽ nâng cao mẫu chủng thứ năm, đặc biệt là nhóm nguyên mẫu tạo ra giống dân Ấn Độ từ rất lâu rồi.
Các qui luật về Kỹ Thuật của Ánh Sáng đã được nêu ra một cách thoả đáng trong hệ thống Raja Yoga của Patanjali, với năm giai đoạn tiêu biểu Định Trí, Tham Thiền, Chiêm Ngưỡng, Khai Ngộ, và Linh Hứng; Năm giai đoạn này đến lượt chúng phải được song hành bằng cách tuân thủ Năm Quy Luật và Năm Điều Răn. Tôi yêu cầu các bạn nghiên cứu các điều này. Đến phiên chúng, năm quy luật và năm điều răn sẽ tạo ra nhiều kết quả trong sự nhạy cảm tâm linh mà sự giao tiếp với Thánh Đoàn, sự giác ngộ, phụng sự và giữ giới luật là các thể hiện. Sau rốt là giai đoạn “hợp nhất cô lập” vốn là một tên gọi khác thường mà Đạo Sư Patanjali dùng để mô tả cuộc sống nội tâm của vị đệ tử điểm đạo.
“Hợp nhất cô lập” đôi khi là một thuật ngữtốt, đôi khi là một thuật ngữkém, nhưng cơ bản, những gì bạn cần làm là thay vì tất cả những đa bội xung quanh bạn rất rối ren và chia tách, bạn cô lập trong chính nó sự đơn nhất, duy nhất vốn thống nhất tất cả sự đa dạng, và điều này cần một thời gian dài để, và chúng ta thực sự phải làm việc trên đó.
Đây là những điều rất quan trọng và là nền tảng của Kỹ thuật Ánh sáng mà chúng ta đang sử dụng để xua tan ảo cảm cá nhân, ảo cảm nhóm và ảo cảm thế gian. Nếu chúng ta không tiếp tục rèn luyện bản thân, chúng ta không thể hữu ích trong nhiệm vụ này, chúng ta sẽ trở thành một phần của vấn đề, chứ không phải là một phần của giải pháp. Vì vậy chúng ta phải rèn luyện, rèn luyện một cách tỉmỉ. Sự rèn luyện thực sựsử dụng cung 5 của thể trí, và không có cách nào để tránh né được. Và dĩ nhiên loại tâm thức cung 2 sẽ tham gia và chúng ta sẽ không còn bị cuốn theo xu hướng cung 6 nói chung của thể cảm dục vốn tạo ra sự biến dạng, sự cường điệu hoặc sự giảm thiểu, gây ra ảo cảm. Chúng ta sẽ thấy sự sống theo đúng tỷ lệ, và bạn hãy nhớ rằng sao Kim—hành tinh của sựcân đối, tỷ lệ, chủtinh của Thiên Bình, dấu hiệu của tỷ lệ.
Những qui luật và những điều răn thực sự nền tảng của công việc chúng ta đang làm. Một sốngười nghĩ rằng họ đã vượt qua các qui luật và các Điều Răn, nhưng thực sự điều đó cũng giống như nói rằng bạn sống trong một ngôi nhà mà không có nền móng vững chắc. Thỉnh thoảng, bạn phải đi bộ quanh nhà và xem xét liệu nó có vết nứt hoặc có lỗ hổng nào trong nhà không, nó có nghiêng không vì nền móng sụt lún… Bạn phải ghi nhớ những điều này, nên ghi nhớ chúng, và khi chúng ta đi qua trong cuộc sống, chúng ta nên xem liệu chúng ta có vi phạm những qui luật hoặc các điều răn không. Khi đó, chúng ta sẽ ở một vị trí tốt để thực hiện công việc xua tan ảo cảm này.