CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT VŨ TRỤ
TIÊN THIÊN KHÍ VÀ HẬU THIÊN KHÍ - SINH KHÍ
PHẦN MỘT
TỔNG HỢP TỪ CÁC THUẬT NGỮ
[LUẬN VỀ LỬA CÀN KHÔN - TẬP I]
I- Vật chất vũ trụ: Tất cả đều là năng lượng
PHẦN HAI
CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT TRONG TIỂU VŨ TRỤ - TƯƠNG ỨNG CON NGƯỜI
[LUẬN VỀ LỬA CÀN KHÔN - TẬP II]
PHẦN BA
NHÂN QUẢ - KARMA VÀ DI TRUYỀN TRONG LUÂN HỒI TÁI SANH
[LUẬN VỀ LỬA CÀN KHÔN - TẬP II - TR 799]
Chúng ta cũng có thể diễn tả nó bằng cách nói rằng trạng thái ý chí hoặc xung lực mở đầu trước tiên là những gì tạo ra nguyên nhân, vốn là chính nguyên nhân. Bao giờ cũng nên nhớ rằng nguyên nhân bao hàm/gắn chặt với (involves) ý tưởng về nhị nguyên, nghĩa là những gì khởi xướng (initiates) và những gì đồng thời được tạo ra bởi sự khởi xướng đó (the initiation). Hai ý tưởng này gắn liền nhau, tuy thế, dù sao đi nữa, với hàm ý trừu tượng nhất của nó, ý tưởng thứ hai đừng nên được xét – theo nghĩa đen như là một hiệu quả (effect); hiệu quả thực sự gắn chặt với ý tưởng thứ ba. Một nhận thức nào đó về vấn đề có thể được góp nhặt bằng việc xem xét về hiện tượng bao giờ cũng liên quan đến nguyên nhân lưỡng nguyên khởi đầu và hiệu quả bên ngoài của nó:
a. Với hoạt động song đôi, tinh thần – vật chất tạo ra vũ trụ biểu lộ (objective universe).
b. Khi được tiếp xúc, lửa điện và lửa do ma sát tạo ra lửa thái dương; nó chớp lóe lên thoát khỏi chỗ tăm tối , tuy một tăm tối vốn mạnh mẽ với năng lượng.
c. Ý chí – ham muốn là nguyên nhân của luân hồi; ý- muốn-tồn-tại (will-to-be) khi tác động lên vật chất (mà tính chất chủ yếu của nó là ham muốn và đáp ứng với cảm giác) tạo ra hình hài mà qua đó Sự Sống trung tâm (central Life) hay là Sự Hiện Tồn (Existence) tìm cách biểu lộ.
d. Các ý tưởng (ideas) và chất–tư tưởng (thought – matter) cùng nhau tạo ra các hình-tư tưởng (thought-forms).
Nếu đạo sinh xem xét kỹ các điểm này, điều sẽ trở nên hiển nhiên là y không thể làm được gì nhiều hơn là nghiên cứu các hiệu quả (effects) được tạo ra bằng việc đặt kề nhau các cặp đối ứng; y không thể tách các cặp đó riêng ra trong trí của mình và bàn đến chỉ một mình Tinh Thần hay bàn đến chỉ một mình Vật Chất, chẳng khác nào nguyên tử của vật chất trong xác thân con người có thể tự tách ra khỏi xác thân đó và xem chính nó như là độc lập với các ảnh hưởng của hình hài. Mọi nguyên tử đều luôn luôn bị kiềm chế bởi các yếu tố theo sau, giống như một con người trong cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế, và một Hành Tinh Thượng Đế bên trong Tổng Thể vĩ đại hơn của Ngài cũng sẽ bị kiềm chế bởi cùng các nguyên tắc căn bản:
Ảnh hưởng và tính chất của cơ quan hay đơn vị mà trong đó nó tìm được một vị trí. Nơi nguyên tử con người, điều này hàm ý mãnh lực hay ảnh hưởng của nhóm con người.
Ảnh hưởng của sự sống của toàn bộ thể xác mà bất cứ nguyên tử nào là một phần hợp thành của nó. Nơi nguyên tử con người, điều này có nghĩa là ảnh hưởng của trung tâm lực đặc biệt trong đó nhóm chân ngã của y có một vị trí, và loại năng lượng mà nó biểu hiện.
Ảnh hưởng sự sống của thể dục vọng hay thể cảm dục, môi giới nghiệp quả mạnh nhất cần phải được xem xét......
... Các ảnh hưởng của sự sống của thể trí hay của loại nguyên khí vốn áp đặt lên nguyên tử tính chất của hoạt động trong hình hài, vốn chi phối phản ứng của nguyên tử đối với sự sống thuộc nhóm của nó, và nó giúp cho tính chất của sự sống của nó được biểu lộ. Trong nguyên tử con người, điều này liên hệ đến các nguyên nhân vốn gắn liền với một Cung của con người, hoặc là theo nghĩa đen, ảnh hưởng của sự sống của Hành Tinh Thượng Đế .......
Chỉ khi nào cái bí mật của Đại Hùng Tinh được tiết lộ và được nhận biết theo đúng thực chất của nó, và chỉ khi nào ảnh hưởng của Chòm Sao Rua được hiểu rõ, và ý nghĩa thực sự của tam giác vũ trụ được tạo thành bởi :
a. Bảy Thánh Hiền (Rishis) của Đại Hùng Tinh,
b. Bảy Hành Tinh Thượng Đế của thái dương hệ chúng ta,
c. Bảy Pleiades hay Sisters (Sao Rua hay Tỉ Muội Tinh Đẩu), được tiết lộ, thì karma của bảy hành tinh thánh thiện sẽ vẫn không được biết rõ......
Việc giải thoát khỏi karma ....... Con người không còn là nô lệ của nhịp điệu của vật chất thuần túy nữa, mà kiểm soát nó trong ba cõi nỗ lực của y; tuy nhiên y vẫn còn bị kiềm chế bởi karma tập thể của trung tâm hành tinh, bởi ảnh hưởng, sự sống và xung lực rung động của trung tâm đó. ....
Để kết thúc, chúng ta có thể diễn tả cùng ý tưởng bằng các thuật ngữ về lửa, nên nhớ rằng từ ngữ chỉ hạn chế và ràng buộc tư tưởng, và rằng lý do chính cho cách tiếp cận này là mang lại bằng minh họa trước con người một vài khía cạnh của ý tưởng chính yếu.
“Lửa điện, hay xung lực ý chí” liên kết với “Lửa do masát” tạo ra ánh sáng hay “lửa thái dương”. Lửa điện là lực
hay năng lượng thuộc loại nào đó, và do đó trong chính nó, về căn bản là một bức xạ (emanation, phóng xuất). “Lửa do cọ xát” là vật chất với tính chất nhiệt như đặc tính chủ yếu của nó, đó là tiềm nhiệt (latent heat) hay là sensation (?). Do đó cả hai ý tưởng này đều dồn tới ý tưởng về nhị nguyên tính (duality). Một phóng xuất/ bức xạ phải có cội nguồn xuất phát của nó và nhiệt (hơi nóng) chỉ là kết quả của sự cọ xát, và tất nhiên là nhị nguyên (dual). Cả hai quan niệm này bao gồm các sự kiện xảy ra trước thái dương hệ từ lâu, và giấu kín trong Thiên Trí (Universal Mind). Tất cả những gì mà chúng ta có thể xác định một cách khoa học là bản chất của những gì được tạo ra bằng sự phỏng định của chúng, và đây là lửa thái dương hay là ánh sáng. Các ý tưởng này có thể làm sáng tỏ phần nào ý nghĩa của số năm, xét về mặt nội môn. Lửa điện, vốn là một phân thân, về bản thể có khái niệm lưỡng nguyên, và lửa do cọ xát cũng thế; chúng cùng nhau tạo ra lửa thái dương, và như thế là cái thứ năm huyền bí.
Điều sẽ hiển nhiên là khi một người nói đến karma, thì y đang bàn đến một điều gì đó rộng lớn hơn là sự tương tác của quả và nhân bên trong lĩnh vực của công việc thường lệ riêng tư của chính y. Trong tất cả mọi việc, y bị chi phối bởi các nguyên nhân xuất phát trong toàn bộ các kiếp sống vốn đang tạo thành nhóm chân ngã của y, bởi sự tập hợp của các nhóm tạo thành một cánh hoa trong một trung tâm lực của một Hành Tinh Thượng Đế,........
Tuy vậy, bên trong các giới hạn, con người chắc chắn đang “kiểm soát vận mệnh mình” và có thể khởi xướng hành động vốn tạo ra các hiệu quả có thể được y nhận ra như là tùy thuộc vào hoạt động của y theo một đường lối đặc biệt. Ở một mức độ thu nhỏ, y rõ ràng là lặp lại phương thức của Thượng Đế trên một giai tầng rộng lớn hơn và như vậy trở thành người có quyền quyết định (arbiter) vận mệnh của chính mình, kẻ tạo ra kịch tính của chính mình, kiến trúc sư của chính ngôi nhà của mình và là kẻ khai mở (initiator) các sự việc của chính mình. Dù cho y có thể là nơi gặp gỡ của các mãnh lực ngoài sự kiểm soát của y, tuy thế y có thể sử dụng mãnh lực, hoàn cảnh và môi trường đồng thời có thể chuyển đổi chúng, nếu y muốn thế, cho các mục đích của riêng y.
Việc thể hiện định luật karma trong cuộc đời riêng của một người có thể được chia thành ba phần nhỏ, trong mỗi phần một loại năng lượng khác nhau được biểu hiện, tạo ra các hiệu quả trên các thể thấp và cao của một bản thể nhất định.
Trong các giai đoạn ban đầu, khi con người hầu như không hơn một con thú, thì hoạt động rung động của các nguyên tử trong ba thể của y (và trước tiên là thể thấp nhất) chi phối mọi hoạt động về phía y. Y là nạn nhân của hoạt động rung động của vật chất hồng trần, và đa số những gì xảy ra đều là kết quả của sự tương tác giữa Ego với biểu lộ thấp nhất của nó, tức xác thân (physical sheath). Trung tâm của sự chú ý là thể xác, còn hai thể tinh anh hơn chỉ đáp ứng thật yếu ớt. ...... Đó là trạng thái của “lửa do ma sát”, lửa này được thổi bùng lên bằng hơi thở của Chân Ngã nhắm tới ba mục tiêu :
a. Phối kết thể xác.
b. Tăng sức chịu đựng của lưới dĩ thái, một công việc chỉ được tiến hành đến mức mong muốn vào giữa căn chủng Atlantis.
c. Đưa một vài bí huyệt thấp đến giai đoạn biểu lộ cần thiết.
Trong giai đoạn hai, định luật karma hay ảnh hưởng của karma (qua tác động phản xạ không tránh khỏi do hoạt động ngày càng tăng của các thể tạo ra) chuyển sự chú ý của nó vào việc thể hiện dục vọng và sự chuyển hóa của nó thành hoài bão cao siêu. Qua kinh nghiệm, các cặp đối ứng được Chủ Thể Suy Tưởng nhận ra, và Chủ Thể này không còn trở thành nạn nhân của các thôi thúc rung động của thể xác của mình nữa; yếu tố chọn lựa sáng suốt trở nên lộ rõ. Con người bắt đầu phân biệt giữa các cặp đối ứng (cặp đối hợp), bao giờ cũng chọn trong các giai đoạn ban đầu những gì lôi cuốn nhất đối với bản chất thấp của y và những gì mà y tin tưởng sẽ đưa y tới vui thích. Trung tâm chú ý của Ego là thể cảm dục, và thể đó trở nên kết hợp chặt chẽ với thể xác đến nỗi cả hai hợp thành một biểu lộ duy nhất của dục vọng. Ở giai đoạn này, thể trí vẫn còn tương đối bất động. Bản chất bác ái của Ego đang ở trong tiến trình phát triển, và giai đoạn này là giai đoạn dài nhất trong số ba giai đoạn. Nó liên quan đến sự tiến hóa của các cánh của hoa sen chân ngã và liên quan với sự pha trộn của lửa thái dương và lửa do ma sát. Tác động phản xạ giữa cái thấp với cái cao trong giai đoạn trung gian này tạo ra ba hiệu quả, điều đó sẽ được nhìn thấy, nếu nghiên cứu cẩn thận để truyền đạt nhiều thông tin liên quan đến việc thể hiện luật karma. Ba hiệu quả này là :
1. Sự phát triển của vi tử thường tồn cảm dục với sự kích thích đồng thời của vi tử thường tồn xác thân, và như vậy có liên hệ đến sự phát triển và sự tiến hóa của hai thể thấp.
2. Sự phối kết của con người tam phân nhờ sinh lực/ sinh khí (vitality) của thể cảm dục và ảnh hưởng của nó trên thể trí và thể xác. Đây là giai đoạn kama-manasic (thể cảm dục có pha lẫn chút ít trí tuệ _ND), và vì thể này chỉ là phạm vi hoàn hảo trong phàm ngã tam phân, đó là thể mạnh mẽ nhất vốn có được cho nó thể hiện (giống như thái dương hệ đang làm) trạng thái tâm, hay là bản chất bác ái phôi thai, mà chính là mục tiêu của cuộc tiến hóa của đại và tiểu thiên địa phải phát triển.
3. Sau rốt khai mở chín cánh hoa Chân Ngã trong ba giai đoạn.
Do đó, khi thực thi các thiên luật , chúng ta phải chú ý rằng, trước tiên con người là nạn nhân của các xung lực của chất trọng trược của trạng thái Brahma, và như vậy lặp lại một cách nhanh chóng diễn trình tiến hóa của thái dương hệ có trước; trong giai đoạn thứ hai, con người là nạn nhân của ham muốn, hay của bản chất bác ái của chính mình.
Trong giai đoạn thứ ba, định luật karma tác động qua bản chất trí tuệ của con người, và khơi dậy nơi người này nhận thức về thiên luật và một nhận thức của trí tuệ về nhân và quả. Đây là giai đoạn ngắn nhất nhưng cũng là giai đoạn mạnh mẽ nhất; nó liên quan đến sự tiến hóa của ba cánh hoa bên trong đang che chở ”bảo ngọc”, và năng lực của chúng để hé mở vào đúng lúc những gì còn ẩn giấu. Nó bao hàm giai đoạn của người tiến hóa và của người trên Thánh Đạo. Liên quan với gia đình nhân loại, nó bao hàm nửa đầu của cuộc tuần hoàn tới, trước cuộc phân chia lớn. Lửa điện đang bắt đầu làm cho các bức xạ của nó được cảm nhận, và ý chí hoặc mục tiêu của Ego bây giờ được nhận thức rõ rệt trên cõi trần. Ba vi tử thường tồn hợp thành một tam giác ánh sáng, và các cánh của hoa sen đang nhanh chóng khai mở. Khi ý chí và mục tiêu của Ego được con người hiểu rõ trong tâm thức tỉnh thức của y trong não bộ xác thân, bấy giờ luật karma trong ba cõi thấp đang trở nên được hóa giải và con người sắp giải thoát. Con người đã trút sạch rung động ban đầu, và không có sự đáp ứng nào bên trong các thể của y với ba loại rung động của ba cõi thấp nữa; y thoát khỏi ba giới và giới thứ tư.
d. Về việc tạo ra Thể Nguyên Nhân.
Bây giờ chúng ta tiến vào một trong các phần thực hành trọng yếu nhất của Luận về Lửa, bàn về việc tạo ra thể nguyên nhân tức là thể biểu lộ của Ego........(808)
Chúng ta đã đề cập vắn tắt đến các Lunar Pitris, các thần này phú cho con người các thể và các nguyên khí thấp của con người, qua đó năng lượng của các Solar Lords có thể làm cho chính nó được cảm nhận, và bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu ba điều :
Thứ nhất, ảnh hưởng của năng lượng cao trên các thể thấp, khi nó từ từ làm cho chính nó được cảm nhận trong diễn trình tiến hóa, và như vậy đồng thời “cứu nguy” (“redeem”) con người theo một nghĩa huyền linh, và cũng “nâng cao” (“elevates”) các Lunar Pitris.
Thứ hai, ảnh hưởng của năng lượng này trên cõi trí trong việc phát triển và khai mở hoa sen chân ngã.
Thứ ba, việc đưa vào hoạt động của Sự Sống trung ương bên trong hoa sen. Hoạt động này biểu lộ theo hai cách : a/ Theo nhận thức của con người trên cõi trần trong vòng bộ óc phàm trần của bản chất thiêng liêng của con người, dẫn đến biểu lộ tất nhiên của tính chất thiêng liêng (divinity) trên cõi trần trước khi giải thoát.
b/ Theo hoạt động hữu thức của Ego cá biệt trên cõi trí trong sự hợp tác với nhóm hoặc các nhóm của nó.
Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta có ảnh hưởng của sự sống chân ngã trên các thể thấp của nó, và sự kiểm soát sau đó của chúng;
còn trong trường hợp thứ hai, chúng ta có sự tự - nhận thức (self-awakening) của đơn vị chân ngã trên cõi riêng của nó;
trong trường hợp thứ ba, chúng ta có một nhận thức tập thể, hay là việc tiến nhập của đơn vị vào trong tâm thức của Hành Tinh Thượng Đế.
... Vấn đề tiến hóa của chân ngã không thể được nhận thức đầy đủ cho tới khi sau điểm đạo, .... (sự khai mở của thế kỷ này) của hai môn học lớn :
Khoa Điện Học. Các tìm tòi của các nhà khoa học đã được khích lệ lớn lao bởi việc khám phá ra radium, vốn là một hiện tượng điện thuộc một loại nào đó, và bằng sự hiểu biết mà sự khám phá này đã đưa tới chất phóng xạ; .... và sau rốt nó sẽ giải quyết một phần lớn vấn đề kinh tế, như vậy giúp cho nhiều người hơn được rỗi rãi để phát triển và hoạt động về trí tuệ. Việc mở rộng tri thức này có thể được tìm ra trước khi một trăm năm mươi (150) năm xảy ra.
Khoa tâm lý học. Lý thuyết về tâm phân (psycho-analytic) (dù tỏ ra có sự tiến bộ) tuy thế nó đang dẫn tới một hướng sai lầm, có thể đâm ra tai hại cho sự phát triển cao của nhân loại trừ phi bản chất đích thực của “tâm” (“psyche”, tinh thần) được minh giải. Khi tâm trí quần chúng đã hiểu, dù phớt qua, các sự kiện được trình bày vắn tắt sau đây, khuynh hướng giáo dục quần chúng, mục tiêu của khoa chính trị và mục tiêu của nỗ lực kinh tế và xã hội sẽ khoác lấy một chiều hướng mới và tốt đẹp hơn. Các sự kiện này có thể được tóm tắt trong các nguyên lý sau :
I. Con người về cơ bản là thiêng liêng.(1) Điều này luôn luôn được nói đến qua các thời đại, nhưng cho đến nay vẫn là một thuyết lý hoặc niềm tin dễ chịu, chớ không phải là một sự kiện khoa học được chứng minh, mà cũng không được mọi người tuân giữ.(810)
(1)- Do đó con người giống Thượng Đế ở chỗ con người tượng trưng cho các cặp đối ứng (pairs of opposites), tốt và xấu, sáng và tối, nam và nữ v..v… Con người là một nhị nguyên (duality).
Con người cũng tượng trưng cho Thượng Đế ở chỗ Thượng Đế là một tam nguyên (triplcity), vốn là ba trong một, và một trong ba. Xem GLBN II, 553......
II. Con người thực sự là một phần nhỏ (fragment) của Thiên Trí (Universel Mind) hay là linh hồn thế giới (GLBN I, Lời Nói Đầu, trang 42 – 44) và với tư cách là một phần nhỏ, như vậy là kẻ chia sẻ (partaker) vào các bản năng và tính chất của linh hồn đó, vì nó biểu lộ qua gia đình nhân loại. Do đó sự hợp nhất chỉ có thể xảy ra trên cõi trí. Nếu đúng, điều này phải đưa đến khuynh hướng phát triển bên trong não bộ xác thân một nhận thức hữu ý về các kết nạp tập thể trên cõi trí, .....Việc đó sẽ thúc đẩy tạo ra sự chuyển đổi của tâm thức nhân loại từ cõi trần đến cõi trí và việc tháo gỡ tiếp theo sau qua “hiểu biết, bác ái và hy sinh” về mọi vấn đề hiện hữu. Điều này sẽ đưa tới việc thoát khỏi rối loạn ở cõi trần hiện tại. .... sự phát triển các quyền năng tiềm tàng bên trong con người – các quyền năng vốn sẽ giải thoát con người khỏi các giới hạn hiện tại của y, .... chúng ta sẽ có việc cai trị, chính trị, kinh tế và trật tự xã hội được tái điều chỉnh dựa vào các đường lối lành mạnh, sáng suốt và thiêng liêng.
III. Với bản chất thấp và với ba hiện thể của mình, con người là một tập hợp các sự sống thấp kém, tùy thuộc vào y vì bản chất tập thể của chúng, vì kiểu hoạt động của chúng và sự đáp ứng tổng hợp và – qua năng lượng hay hoạt động của Solar Lord – chính các sự sống đó sau này sẽ được nâng lên và phát triển tới giai đoạn con người.
Khi cả ba sự kiện này được hiểu rõ, lúc đó và chỉ lúc đó chúng ta mới có được sự hiểu biết đúng và chính xác về bản chất con người.
1. Việc tái điều chỉnh kiến thức y học của con người, đưa đến kết quả là hiểu biết xác thực hơn về thể xác, về cách điều trị thể đó, và về cách bảo vệ nó, và như vậy tạo ra một hiểu biết chính xác hơn các định luật về sức khỏe. Mục tiêu của thầy thuốc lúc bấy giờ sẽ là tìm ra chính trong sự sống của một người những gì đang ngăn không cho năng lượng của chân ngã tràn ngập mọi thành phần của bản thể y; để tìm ra những đường lối tư tưởng nào đang bị mê đắm, nó gây nên tình trạng thiếu năng động của trạng thái ý chí thường hay đưa đến hành vi sai trái; để xác định cái gì trong thể tình cảm đang ảnh hưởng đến hệ thần kinh, và như thế ngăn chận dòng năng lượng từ các cánh hoa bác ái của hoa sen chân ngã (qua vi tử thường tồn cảm dục) đến thể cảm dục, và từ đó đến hệ thần kinh; để tìm ra cái gì là chướng ngại trong thể dĩ thái đang ngăn chận nguồn prana thích hợp, hay nguồn sinh lực thái dương đến mọi nơi của cơ thể.
Chính yếu là trong những ngày sắp đến, các thầy thuốc sẽ nhận thức rằng trong thể xác có thể xảy ra các tình trạng sai lầm bên trong. Điều này đã được cân nhắc phần nào, .... cho đến khi bản chất thực sự của Ego, cấu tạo của nó, các năng lực của nó và lĩnh vực ảnh hưởng của nó được hiểu đúng.
Sự khai mở này sẽ đến khi các nhà y học chấp nhận giáo lý này như là một giả thuyết tạm đủ,.......... Việc đó sẽ đến khi giới y khoa tập trung vào tác động phòng ngừa, thay bằng ánh nắng, ăn chay, áp dụng các định luật về rung động từ điện và sinh lực đối với cách dùng thuốc hiện nay và các hoạt động giải phẫu. Bấy giờ sẽ đến thời kỳ mà những người tinh tế và hoàn hảo hơn sẽ xuất hiện trên địa cầu.
Cũng thế, khi các nhà y học biết được bản chất của thể dĩ thái và công việc của lá lách với vai trò là một điểm tập trung cho các phóng phát prana, kế đó là các nguyên tắc và các phương pháp vững chắc sẽ được đưa vào, nhất định chúng sẽ xóa bỏ các bệnh như là lao, suy nhược, kém dinh dưỡng và các bệnh về máu huyết và thận. Khi các bác sĩ hiểu rõ ảnh hưởng của các xúc cảm trên hệ thần kinh, họ sẽ xoay sự chú ý của họ vào việc cải thiện các tình trạng chung quanh, và sẽ nghiên cứu các ảnh hưởng của các khuynh hướng tình cảm trên các lưu chất của cơ thể, và trước tiên trên các trung tâm thần kinh lớn và cột sống. Khi sự liên lạc giữa thể xác với các thể tinh anh là một sự thật được thiết lập trong các giới y khoa, lúc bấy giờ việc chữa trị chính xác đối với bệnh mất trí, các ám nhập (obsessions) và các tình trạng trí tuệ không như mong muốn sẽ được hiểu rõ hơn, kết quả sẽ thành công hơn. Sau cùng, khi bản chất của lực Chân Ngã, hay của năng lượng được nghiên cứu, và chức năng của não bộ với vai trò là kẻ phát ra ý định của Chân Ngã được hiểu rõ hơn, kế đến sự phối kết của toàn bộ bản thể con người sẽ được nghiên cứu, đồng thời đau ốm, suy nhược và bệnh tật sẽ được truy nguyên đến nguyên nhân đích thực của chúng và sẽ được đối trị qua nguyên nhân chớ không chỉ qua hậu quả nữa.
2. Toàn bộ giới tư tưởng trong xã hội sẽ tự áp dụng vào sự hiểu biết về bản chất tình cảm của nhân loại, vào các liên quan tập thể có dính líu đến và vào sự tương tác giữa các cá nhân với các cá nhân khác, giữa các nhóm với các nhóm khác. Các mối liên hệ này sẽ được lý giải một cách khôn khéo và rộng rãi, rồi con người sẽ được dạy về trách nhiệm của mình đối với các sinh linh kém tiến hóa hơn mà con người làm cho linh hoạt. Điều này sẽ tạo ra một hướng đi đúng của mãnh lực cá nhân và cách dùng lực đó cho việc làm ổn định, phát triển và việc tinh luyện vật chất của các hiện thể khác nhau. Con người cũng sẽ được dạy về nghĩa vụ rõ rệt của họ theo thiên luật đối với các con cháu của riêng cá nhân họ. Điều này sẽ mang đến việc che chở của đơn vị gia đình và việc phát triển kỹ năng của nó; nó cũng sẽ tạo ra việc loại bỏ các phiền toái về hôn nhân và sự hủy bỏ các lạm dụng thuộc các loại khác nhau, rất phổ biến hiện nay trong nhiều nhóm gia tộc.
Trách nhiệm đối với cộng đồng mà một người được đặt vào trong đó cũng sẽ được nhấn mạnh. Con người sẽ được chỉ dạy ý nghĩa huyền bí thực sự của bổn phận công dân – một bổn phận công dân được dựa vào các liên hệ của nhóm chân ngã, định luật luân hồi và ý nghĩa thực sự của luật karma. Họ cũng sẽ được dạy về trách nhiệm quốc gia và vị trí của cộng đồng trong quốc gia, và trách nhiệm của quốc gia trong sự thân hữu của các quốc gia. Sau rốt con người sẽ được dạy về trách nhiệm của họ đối với giới động vật. Điều này sẽ xảy ra theo ba cách :
1- Hiểu biết đích thực hơn của con người về bản chất con vật của chính họ.
2- Hiểu biết về các định luật biệt ngã hóa (individuali sation), và hiệu quả của ảnh hưởng của giới thứ tư, tức giới nhân loại trên giới thứ ba, giới động vật.
3- Công việc của một Avatar ở cấp thấp, Đấng sẽ đến trong cuối thế kỷ tới để tiết lộ cho con người mối liên hệ của y đối với giới thứ ba. Công việc của Ngài đang được chuẩn bị bởi nhiều người trong thời này, họ đang phát triển sự chú ý của quần chúng qua các hội đoàn khác nhau cho lợi ích và việc bảo vệ động vật và qua nhiều câu chuyện có trong các sách và các tạp chí định kỳ thông thường.
* Trong GLBN (quyển III, 580) H.P.B. có dạy chúng ta rằng nhận thức về trách nhiệm là một trong các dấu hiệu đầu tiên của việc kiểm soát của chân ngã, và vì ngày càng nhiều gia đình nhân loại đến dưới ảnh hưởng của Chân Ngã, các tình trạng sẽ được cải tiến từ từ và một cách vững vàng trong mọi lĩnh vực sự sống.
3. Trong tầng lớp giáo dục, một hiểu biết về bản chất thực sự của con người sẽ mang lại một thay đổi căn bản trong các phương pháp giáo huấn. Việc nhấn mạnh sẽ được đặt vào việc giáo huấn con người sự thật về Ego trên cõi riêng của nó, bản chất của các nguyệt thể và các phương pháp chỉnh hợp các thể thấp sao cho Ego có thể giao tiếp trực tiếp với bộ óc xác thân, và nhờ thế kiểm soát phàm ngã và tiến hành các mục tiêu của Chân Ngã. Con người sẽ được dạy làm cách nào mà qua sự định trí và tham thiền, họ có thể xác định được tri thức cho chính họ, có thể mở được trực giác, và như vậy có thể dùng được các vốn liếng của Ego. Bấy giờ, con người sẽ được dạy cách suy tưởng, kiểm soát thể hạ trí, và như thế phát triển được các khả năng tiềm tàng của họ.
Trên đây, vài nhận xét được nêu ra rất vắn tắt và không đầy đủ về các kết quả vốn có thể trông chờ từ một hiểu biết đích thực về bản chất thiết yếu của con người. Được viết ra vì nhu cầu của thời điểm đối với một trần thuật về con người đích thực hay con người nội tâm và về các luật của Thiên giới. Con người nội tâm đó có bao giờ được biết hiện hữu nơi đây còn “vương quốc nội tâm” (“kingdom within”) có bao giờ được nêu ra cho đến khi H.P.B. xuất hiện và đưa ra cùng các chân lý xưa cũ theo một quan điểm mới, đưa ra một chiều hướng huyền linh cho tư tưởng thần bí. Giờ đây đến lúc cho con người hiểu được các định luật về bản thể của chính mình, và trong nhận thức đó những kẻ sắp sửa am hiểu tri thức bằng trực giác và những kẻ có năng khiếu khoa học quyết tâm chấp nhận các chân lý này như một giả thuyết tạm đủ để được dùng như một nền tảng thử nghiệm cho tới khi cái sai trái được minh chứng, sẽ có được cơ may để giải quyết các vấn đề thế giới từ bên trong. Có như thế nguyên lý/khuôn mẫu (principle) của Đấng Christ mới hiển lộ trên cõi trần và có thế bản chất Christ sẽ được minh chứng là thực trong chính bản chất của nó.
Giá trị đối với tư tưởng quần chúng đối với một giải thích xác đáng về sự tiến hóa của Ego và năng lực phát triển từ từ của Chân Ngã trên cõi trần là rất lớn. Có hai cách để con người xem xét vấn đề này, cả hai đều cung cấp chất liệu để suy tưởng và sẽ rất đáng xem xét nghiêm túc........... Chính phương pháp nghiên cứu sự cấu tạo của các thực thể vốn hợp thành bản chất tứ phân thấp kém, tức phàm ngã và việc nghiên cứu kỹ càng các Bản Thể thiêng liêng này, tức là các Đấng Kiến Tạo thể của Ego hay là higher self (Thượng Ngã). Cần phải đưa thêm vào điều này một áp dụng nghiêm khắc về các luật của thiên nhiên vào vấn đề cá nhân.
Những gì được đề xuất trong Bộ Luận này là noi theo phương pháp sau này, như là mục tiêu để làm sáng tỏ căn nguyên của diễn trình.
(b) Tiến hóa của các cánh hoa. Việc kiến tạo thể nguyên nhân là kết quả của hai năng lượng, năng lượng của phàm ngã với tác động phản xạ của nó trên chân ngã, và năng lượng của công sức tự nhiên của bản ngã khi nó tạo ấn tượng trực tiếp của nó vào chất liệu của hoa sen chân ngã. Ở đây, cần nhớ rằng, dù cho vật chất có thể tinh anh đi nữa, hoa sen chân ngã cũng là vật chất thực sự có một rung động đặc biệt như là thể xác, chỉ có (do sự khác lạ của nó) con người ở cõi trần xem nó gần như không có thực........... Nhà nghiên cứu phải thận trọng đừng cụ thể hóa ý niệm của mình quá nhiều và do đó có thể là khôn ngoan cho y khi nhìn biểu lộ này từ các khía cạnh khác và dùng các từ ngữ khác để diễn đạt cùng ý tưởng. Chẳng hạn, thể Chân ngã có thể được nhìn theo bốn cách.
Biểu đồ VIII
Hoa Sen Chân Ngã và Các Trung Tâm Lực
817
Dưới hình thức chín rung động, phát ra từ điểm trung tâm, mà trong nhịp đập của nó hoặc các phát quang của nó, tâm điểm này tạo ra ba rung động chính có mãnh lực lớn lao chạy theo một hoạt động vòng quanh chung quanh tâm; chín rung động chạy theo một con đường chéo cho đến khi chúng đạt đến ngoại vi của khu vực ảnh hưởng của Chân Ngã. Ở điểm này, chúng đột ngột quay lại, như vậy tạo ra một dạng gần hình cầu nổi tiếng của thể nguyên nhân.
Dưới hình thức chín cánh hoa của một hoa sen, xạ ra từ một tâm chung và che giấu bên trong chúng ba cánh hoa trung ương, chúng che đậy điểm Lửa ở giữa. Các tia phóng quang từ đầu nhọn của mỗi cánh hoa là các tia vốn tạo ra ảo giác có dạng gần hình cầu.
Dưới hình thức chín nan hoa của bánh xe, hội tụ về phía trục giữa, vốn chia ba trong chính nó, và đang che giấu năng lượng trung ương hay máy phát ra lực (dynamo of force) – nơi phát sinh ra mọi hoạt động.
Dưới hình thức chín loại năng lượng, chúng tạo ra các phóng phát rõ rệt từ một loại năng lượng tam phân, chính năng lượng tam phân này lại là một phóng phát từ một đơn vị lực trung ương.
Đối với mọi mục đích, lý giải thứ hai sẽ là một lý giải được dùng nhiều nhất cho chúng ta trong cố gắng minh họa cấu tạo, bản chất, phương pháp phát triển và tiến hóa thực sự của Ego, đang hoạt động trong thể nguyên nhân.
Bằng các thuật ngữ về lửa, cùng các chân lý có thể được diễn đạt như sau, và điều này nên được thận trọng nghiền ngẫm bởi người nghiên cứu Bộ Luận này :
1. Lửa điện………….Tinh Thần …Trạng thái ý chí ……….Bảo ngọc trong liên hoa
2. Lửa thái dương …Tâm thức…...Trạng thái bác ái ………Chín cánh hoa.
3. Lửa do ma sát …..Vật chất .……Trạng thái hoạt động … Ba vi tử thường tồn.
Trong Lửa điện, Monad được biểu thị bằng bản chất tam phân của nó và thay thế cho loại biểu lộ vốn sẽ được đưa tới giai đoạn phát triển cao nhất trong thái dương hệ sắp tới.
Trong Lửa thái dương, các Solar Pitris dưới cấu tạo cửu phân của các Ngài, tiêu biểu cho và giúp cho xảy ra việc khai mở tâm thức của Chân Thần qua phương tiện Ego trong ba cõi tiến hóa của con người.
Trong lửa do ma sát, các Lunar Pitris được tiêu biểu và tạo ra phàm ngã, tức personality, hay các hiện thể mà nhờ đó Ego thu đạt kinh nghiệm trên các cõi thấp.
Tuy nhiên cả ba Lửa này đều là một,........... (819)
Như chúng ta biết, hoa sen Chân Ngã gồm ba vòng – mỗi vòng được tạo thành bằng ba cánh hoa, và tất cả đều che chở chồi nụ bên trong nơi che giấu bảo ngọc. Chính là với sự tiến hóa của các cánh hoa này mà chúng ta bận tâm đến sự tạo thành, đem sinh khí, bảo dưỡng và sự khai mở sau rốt của chúng. Sẽ hữu ích cho nhà nghiên cứu ở giai đoạn này khi nhớ rằng trước tiên chúng ta bàn đến sự phát triển của trạng thái thứ hai trong con người, tức trạng thái minh triết – bác ái, và chỉ xem xét sơ qua trạng thái thứ ba, trạng thái hoạt động, trạng thái này có các trung tâm đem năng lượng của nó trong ba vi tử thường tồn.
Theo thuật ngữ huyền môn, các vòng cánh hoa này được gọi là :
1. Tam bộ “tri thức ngoài” (“outer knowledge” triad) hay là các chúa tể của minh triết linh hoạt (lords of active wisdom).
2. Tam bộ “bác ái” ở giữa, hay các chủ tể của bác ái linh hoạt.
3. Bộ ba “hy sinh” bên trong, hay các chủ tể của ý chí linh hoạt.
Vòng thứ nhất là tập hợp của kinh nghiệm và tâm thức đã phát triển.
Vòng thứ hai là việc áp dụng tri thức đó trong bác ái và phụng sự, hay là biểu lộ của Ngã và Phi-Ngã trong rung động hỗ tương.
Vòng thứ ba là biểu lộ đầy đủ của tri thức và bác ái chuyển về phía hy sinh hữu thức của vạn vật đối với việc đẩy mạnh các kế hoạch của Hành Tinh Thượng Đế, và đối với việc tiến hành các mục tiêu của Ngài trong công việc tập thể. Mỗi một trong ba nhóm cánh hoa này chịu ảnh hưởng sự dẫn dắt rõ rệt của ba nhóm Agnishvattas, ........ các Ngài là Ego tam phân trong biểu lộ của nó. Lực và năng lượng cố kết của các Thực Thể huyền bí này tuôn đổ qua ba nhóm cánh hoa, các Đấng (khi xét gia đình nhân loại nói chung) mà chúng ta gọi là
a/ Các Đức Phật hay là các Tinh Quân Hoạt Động (Lords of Activity).
b/ Các Đức Phật hay là các Tinh Quân Từ Ái (Lords of Compassionate Love).
c/ Các Đức Phật Hy Sinh, mà đối với con người, Đấng Chưởng Quản Thế Gian là Đấng tiêu biểu (exponent) được biết nhiều nhất.
Qua ba nhóm cánh hoa này, năng lượng tam phân, trên cõi trí, đang tuôn đổ qua đó, tìm thấy nó là phương tiện biểu lộ liên quan với giới nhân loại, trong ba nhóm Agnishvattas hay Solar Pitris được nói đến ở trên. Các nhóm này tạo ra chất liệu của ba vòng cánh hoa, và mỗi nhóm cũng có một ảnh hưởng đặc biệt trên cánh hoa đặc biệt thuộc về giai tầng rung động đặc biệt của chúng. Với mục đích minh giải, chúng ta có thể kê ra các cánh hoa khác nhau để cho nhà nghiên cứu có thể nhận được một hiểu biết về việc thành lập thể nguyên nhân của chính y và một ý tưởng nào đó về các mối liên quan tam giác khác nhau :
I. Bộ ba “tri thức” ngoài :
a/ Cánh hoa 1 … Tri thức trên cõi trần.
Các màu: cam, lục và tím.
b/ Cánh hoa 2 … Bác ái trên cõi trần.
Các màu: cam, hồng và lam.
c/ Cánh hoa 3 … Hy sinh trên cõi trần.
Các màu: cam, vàng và chàm.
Ba cánh hoa này được cấu tạo và tiếp sinh lực trong Phòng Vô Minh (Hall of Ignorance), nhưng vẫn chưa khai mở và chỉ bắt đầu khi vòng cánh hoa thứ hai được sắp xếp.
II. Bộ ba “bác ái” ở giữa:
a/ Cánh hoa 1 … Tri thức cao siêu áp dụng qua bác ái trên cõi trần và cõi cảm dục.
Các màu : hồng và ba màu gốc.
b/ Cánh hoa 2 … Bác ái sáng suốt cao trên cõi trần và cõi cảm dục.
Các màu : hồng và ba màu tương ứng.
c/ Cánh hoa 3 … Hy sinh sáng suốt nhờ bác ái trên cõi trần và cảm dục.
Các màu : hồng và ba màu tương tự.
Ba cánh hoa này bảo tồn màu cam căn bản nhưng có thêm màu hồng trong mọi cánh hoa, để cho bốn màu giờ đây đều được thấy. Các cánh hoa này được cấu tạo và đem lại sinh khí trong Phòng Học Tập, nhưng vẫn chưa khai mở. Tầng cánh hoa bên ngoài trải ra cùng lúc chỉ khi nào nó mở hoàn toàn, lộ ra vòng thứ hai; vòng thứ ba vẫn được che chở.
III. Bộ ba “hy sinh” bên trong.
a/ Cánh hoa 1 … Ý chí-hy sinh nhờ tri thức trên cõi trí, và như thế khống chế một cách sáng suốt toàn bộ phàm ngã tam phân.
Các màu : vàng và bốn màu cam, lục, tím và hồng.
b/ Cánh hoa 2 … Ý chí-hy sinh nhờ bác ái trên cõi trí và như vậy đưa đến phụng sự.
Các màu: vàng và bốn màu cam, tím, hồng, lam.
c/ Cánh hoa 3 … Hy sinh hoàn toàn cho vạn vật mãi mãi.
Các màu: vàng, cam, hồng, lam và chàm.
Biểu đồ IX
Hoa Sen chân ngã (823 / 278)
Trong cái bí nhiệm của các màu phụ này và của sự tỏa chiếu từ từ trong hoa sen của năm màu trong bất cứ một cánh hoa nào vào bất cứ lúc nào, có ẩn giấu cái bí ẩn của năm Kumaras (GLBN I, 483). Người nghiên cứu tìm kiếm ý nghĩa về sự vượt trội của màu cam và hồng trong việc tiến đến cái bí ẩn của hai vị Kumaras đã rơi xuống (fell). Nhiều điều không thể nói, nhưng màu sắc nắm giữ chìa khóa bí mật đối với sự việc lớn lao này. Vòng cánh hoa bên trong được tạo ra và được cấp sinh khí trong Phòng Minh Triết, đồng thời vòng giữa khai mở, cho nên hai dãy cánh hoa được mở đúng lúc và chỉ có vòng thứ ba vẫn cần được mở. Việc khai mở sau rốt này được thực hiện trong giai đoạn bước lên Con Đường Điểm Đạo, và trong cuộc tuần hoàn này nó được hối thúc bằng các nghi thức điểm đạo và bằng các cố gắng bất thường và tích cực của chính con người, được trợ giúp bằng công tác từ điện của Đấng Điểm Đạo, đang vận dụng Quyền Lực Trượng.........
Trong ba vòng cánh hoa này có ẩn giấu một manh mối khác đối với cái bí ẩn về 777 lần luân hồi. Các con số này không truyền đạt số năm chính xác, mà chỉ là ẩn dụ và có tính chất biểu tượng. Chúng được dự định để truyền đạt ý tưởng về ba chu kỳ với kỳ gian thay đổi, căn cứ vào bản chất thất phân của Chân Thần đang biểu lộ.
Thứ nhất. 700 lần lâm phàm. Các lần lâm phàm này liên quan đến sự phát triển của vòng tuần hoàn bên ngoài. Đây là thời kỳ dài nhất. Rung động lúc đầu thì chậm lụt và nặng nề, và hàng ngàn kiếp sống phải trôi qua trước khi sự trao đổi lẫn nhau của năng lượng giữa Ego với hình ảnh của nó, tức phàm ngã (con người tam phân hạ đẳng) đến nỗi tâm thức của con người “thức tỉnh” (“awakens”) về mặt huyền linh trong Phòng Học Tập. Đối với người tiến hóa vào lúc này, các lần luân hồi này xảy ra trên dãy nguyệt cầu (moon chain) và trong một số trường hợp trên một vài hành tinh có liên quan với cuộc nội tuần hoàn. Đây là trường hợp tất yếu đưa đến sự “nhập-vào” (“coming-in”) của con người trong căn chủng Atlantis. Con người thuộc mẫu này đã từ chối luân hồi trước kia, vì các cơ thể (bodies) đều quá thô lậu; việc này là hình ảnh theo chu kỳ (trên cõi thấp nhất) của việc từ khước của các Chân Thần để nhập thể vào dịp khai nguyên. Không có “tội lỗi” thực sự nào bị phạm phải; chính đặc ân của họ là phân biện, và việc khước từ này có sự liên quan của nó với các tình trạng trên Địa Cầu, nguyên là nền tảng của các phân biệt lớn về giai cấp mà – trong mọi vùng đất – gây ra hậu quả phiền toái và nền móng huyền bí của hệ thống “đẳng cấp”, rất bị lạm dụng ngày nay ở Ấn Độ. Vấn đề lao động và tư bản có căn cội của nó trong sự phân biệt chủ quan giữa các Egos “có trang bị và không trang bị”, giữa các đơn vị này của gia đình nhân loại trên địa cầu, những người đã vượt qua Phòng Vô Minh và những người chưa dò dẫm trong các hành lang tối tăm, giữa các Chân Ngã này vốn chỉ là các Egos “chồi nụ”, với những người đã thiết lập được vòng cánh hoa bên ngoài và các cánh hoa này đã sẵn sàng khai mở.
Ý tưởng về thất bộ của các thế kỷ phải được xem xét cẩn thận và cũng như bao giờ trong mọi vấn đề huyền linh, ý tưởng về tam bộ cũng phải được ghi nhớ với một giai đoạn tổng hợp, vốn là một tóm tắt về sự phối kết tam phân:
3 giai đoạn của 3 số mười …... 90 năm
1 giai đoạn tổng hợp ….........… 10 năm
100 năm
Bảy lần này lặp lại …................. 7
7 x 100 700 năm
Mỗi chu kỳ (lại các chu kỳ ẩn dụ) để lại một trong các cánh hoa được cấp sinh lực nhiều hơn và có một hiệu quả rõ rệt trên mỗi cánh hoa.
Thứ hai. 70 lần luân hồi. Các cuộc lâm phàm này liên quan đến việc phát triển của vòng cánh hoa giữa. Nhiều người có thể học được từ việc xem xét ý nghĩa huyền linh có liên quan đến việc nhắn gửi trong số các môn đồ của họ bởi bất cứ điểm đạo đồ nào (như là Đức Christ) trong các nhóm 70, đang diễn ra 2 và 2. Bảy mươi lần luân hồi này trước nhất có ảnh hưởng đến sự phát triển của tình thương trong cuộc đời riêng tư, sự tiến hóa của bản chất cảm dục, dựa trên sự nhận thức về các cặp đối ứng, và sự cân bằng của chúng trong bác ái và phụng sự.
Chu kỳ này bao hàm giai đoạn con người vượt qua trong Phòng Học Tập và có sự tương ứng của nó trong căn chủng Atlantis và sự mâu thuẫn giữa các Chúa Tể của Hắc Diện (Dark Face) với Huynh Hữu Chính Đạo. Bên trong sự sống của mỗi cá nhân, một mâu thuẫn tương tự diễn ra trong giai đoạn này, kết thúc với Kurukshetra hay bãi chiến trường, nó giành được cho con người cái quyền bước trên Con Đường Dự Bị, và sau rốt cái đặc quyền đứng trước Cánh Cửa Điểm Đạo. Lần nữa ý nghĩa về số của các con số phải được nghiên cứu; lần này chúng được ẩn giấu trong số mười hay là 3 chu kỳ có 3 giai đoạn thứ yếu, mỗi cái tạo ra 9, và một giai đoạn tổng hợp, đưa đến mục đích cuối cùng của một giai đoạn bên trong chu kỳ lớn hơn; điều này được biểu hiện bởi 10 hoàn thiện tương đối.( GLBN I, 214; II, 393, 445, 446.); ( Con số 10 – Xem GLBN I, 125, 126 )
Sự tương tác giữa xung lực karma với năng lượng trí tuệ đã tạo ra một nhận thức bên trong tâm thức của Chân Ngã của điều mà con người đã học được bên trong hai Phòng; vòng cánh hoa bên ngoài được khai mở, còn vòng ở tâm sẵn sàng mở.
Thứ ba. 7 lần luân hồi. Các lần luân hồi này là các luân hồi được trải qua trên Con Đường Dự Bị. Đây là một giai đoạn lý thú, trong đó vài việc được thực hiện vốn có thể được mô tả bằng các lời sau :
Hai vòng cánh hoa ngoài được kích thích theo một nhận thức mới mẻ và đặc biệt qua tác động hữu thức của đệ tử dự bị......... (832/ 288)
Thứ hai. Giai đoạn mà trong đó việc hiệu chỉnh theo thiên luật được cố công tìm kiếm, còn Bản Ngã không hoàn toàn đồng nhất hóa với các thể thấp của nó, mà cũng không hoàn toàn đồng nhất hóa với Chính Nó. Nó đang học cách chọn các cặp đối ứng. Đây là giai đoạn xung đột và xáo động mãnh liệt nhất, và là chiến trường mà trong đó sự hiệu chỉnh phải được tạo ra; đó là giai đoạn trắc nghiệm trong đó lực chuyển hóa vừa đủ được sinh ra bởi đệ tử để đưa y đến thái cực đối nghịch của giai đoạn trước, - giai đoạn mà trong đó năng lượng sẽ biểu lộ bên trong chứ không phải bên ngoài.
Thứ ba. Giai đoạn mà trong đó năng lượng của Ego được tập trung ở tâm vòng tròn, chứ không còn ở ngoại vi, được áp dụng từ đó nhờ cố gắng hữu thức của Ego trong việc phụng sự tập thể. .......
Cần nhấn mạnh vào phương pháp này bởi vì điều hệ trọng là mọi nhà huyền linh học cần học cách lý giải và suy tưởng bằng các thuật ngữ chỉ năng lượng và lực, trái ngược với các thể thấp hay các công cụ được dùng. Nhà thần bí đã nhận biết yếu tố “lực” này, nhưng chỉ tác động với trạng thái lực dương tính. Nhà huyền linh học phải nhận ra và tác động với ba loại lực, hay năng lượng, và trong đó có ẩn sự phân biệt giữa công việc của y với công việc của nhà thần bí. Y nhận ra :
1. Lực dương … hay những gì mang năng lượng.
2. Lực âm … hay những gì là nơi chứa năng lượng; những gì tác động đến hoặc chiếm giữ hình hài dưới tác động của lực dương.
3. Ánh sáng hay lực hài hòa … Những gì được tạo ra bởi sự hợp nhất của hai lực này. Kết quả là năng lượng bức xạ (radiant energy) và là kết quả của việc giữ thăng bằng của hai lực kia.
Ba trạng thái năng lượng này thường được gọi là :
a/ Lửa điện ............. năng lượng dương ....... Từ Phụ.
b/ Lửa do ma sát ..... năng lượng âm ............ Từ Mẫu.
c/ Lửa thái dương .. năng lượng bức xạ ........ Thái Dương hay Con.
Mỗi một trong hai trạng thái sau cùng này biểu lộ trong chính nó theo cách nhị nguyên, nhưng hiệu quả là một tổng thể đồng nhất so với Cái Đơn Nhất vĩ đại mà trong đó chúng đang biểu lộ. ............ Cho đến khi lực của các Lunar Lords vũ trụ được tìm ra, sự thật về việc có toàn bộ các chòm sao bên ngoài thái dương hệ chúng ta ở trong tiến trình tan rã theo thời gian và không gian theo một cách tương tự với sự tan rã của mặt trăng sẽ không được biết, cũng như không lần ra được các hiệu quả của việc này. Sau rốt, thái dương hệ chúng ta sẽ đi vào một tình trạng tương tự. Cái bí ẩn thực sự về tà lực ( ) nằm nơi đây, và cái thực tại đích thực của “Cuộc Chiến ở Cõi Trời” (“War in Heaven”) phải được tìm ra nơi đây.........
Trở lại với vấn đề mà chúng ta vừa xem xét – Đó là mặt trăng là một lực cản trở hay lực ác hại xét về mặt liên hệ đến Địa Cầu và là lực sản xuất ra “các ảnh hưởng tai hại”, cũng giống như các cơ thể đang tan rã đều có tính hủy diệt. Các thể đó tồn tại bên trong vòng-giới-hạn thái dương, (1- Các hành tinh không thấy được....) ......
LỬA THANH LUYỆN
“Ngọn lửa cháy thấp. Một ánh mờ đỏ tẻ nhạt ngủ say trong Tâm của Mẹ. Hơi ấm của nó ít khi được cảm nhận. Đường thứ nhất và thứ nhì trong số các đường bên trong đập nhanh theo sự cháy, nhưng cái còn lại vẫn lạnh.
Các Con của Thượng Đế từ trung tâm trong cùng nhìn xuống. Các Ngài quan sát, kế đó chuyển sự chú mục và các ý tưởng của các Ngài sang các bầu khác. Thời điểm của các Ngài chưa đến. Các lửa của tinh hoa chất không được chuẩn bị trên bàn thờ cho các Thần Quân (Lords). Lửa hy sinh đã chờ trong chốn cao thâm nhất của nó và ánh sáng mờ kiên trì bên dưới tăng lên.
Lửa cháy rõ hơn. Lửa thứ nhất và lửa thứ nhì sáng lên từ từ. Độ sáng chói của chúng trở thành một đường Lửa sáng rực tuy cái thứ năm vẫn chưa được chạm tới. Các Con của Thượng Đế lại nhìn xuống. Trong một giây ngắn ngủi, các Ngài nghĩ đến Mẹ và cùng lúc các Ngài nghĩ đến lửa thứ ba đã bắt được. Một cách nhanh chóng, các Ngài nhìn đi vì hình hài cho đến nay được chuyển đi cho Các Ngài mà không có phản hồi nào. Sức nóng vẫn tiềm tàng và không hơi ấm bên ngoài nào vươn lên tới chỗ của Các Ngài.
Bao thiên kỷ trôi qua. Ánh sáng rực rỡ tăng thêm. Các khối cầu chiếm hình hài, nhưng tan rã nhanh chóng, vì thiếu lực kết hợp. Chúng đi qua. Chúng trở lại. Hoạt động không ngừng, tiếng động, lửa và sức nóng âm ỉ đặc trưng các chu kỳ của các Ngài. Nhưng các Chân Linh (Lhas) trong bầu trời cao của các Ngài bác bỏ công việc của tinh hoa chất này và chú mục vào trong Chính Các Ngài. Các Ngài trầm tư.
* * * * * * * * * * * (839/ 298)
Ánh sáng mờ trở nên cháy ổn định và ngọn lửa nhỏ được nhìn thấy. Lửa thứ nhất, thứ hai và thứ ba trở thành ba đường lửa và một tam giác được hoàn thành. Tuy nhiên cả bốn được nhìn thấy tĩnh lặng và không đáp ứng với sức nóng. Như thế các chu kỳ và các sự sống tinh hoa chất đi qua và trở lại, công việc của chúng được tiếp tục.
Các hình hài đã được bố trí, tuy nhiên kỳ gian của chúng ngắn. Chúng không hoạt động, tuy thế chúng đi qua. Đã đến lúc cho sự thức tỉnh lớn lao. Chúng không xuống mà cũng không lên.
Đây là khoảng giao thời mà các Lhas trong chốn cao thâm của Các Ngài đã mong đợi. Các Ngài không tiến vào tuy thế các hình hài được chuẩn bị, nhưng cảm nhận giờ của các Ngài đang đến gần. Các Ngài trầm tư trở lại, và trong một khoảnh khắc, nhắm vào vô số lửa tam phân cho đến khi lửa thứ tư đáp ứng.
Sáu mươi giây trôi qua trong sự tập trung mãnh liệt tạo ra ba loại hình hài, ba tập hợp hình hài và vô số ở bộ ba. Tâm của Mẹ co lại và mở rộng với sáu mươi hơi thở nóng này. Các đường trở nên liên kết, khối lập phương được tạo thành, che chở ngọn lửa bên trong. Bàn thờ được chuẩn bị với bốn khán đài vuông vức. Bàn thờ cháy rực, đỏ ở tâm và ấm ở bên ngoài.
* * * * * * * * * * *
Bàn thờ bùng cháy. Sức nóng của nó tăng lên, tuy nó không thiêu đốt, cũng không phá hủy. Sức nóng của nó, vốn không có ngọn lửa, đạt đến lĩnh vực cao; trong một giai đoạn ngắn, Các Con của Thượng Đế sưởi nóng Chính Các Ngài, tuy nhiên không tiến gần hơn đến nó cho đến khi một chu kỳ khác đi qua. Họ chờ thời điểm, thời điểm hy sinh.
Các Solar Lords, chọn Linh Từ đã được ngân lên bởi Các Con của Thượng Đế, sinh ra trong sức mãnh liệt của sự sống thái dương và tiến đến bệ thờ. Bốn tuyến đường rực sáng và bừng cháy. Mặt trời tập trung vào một tia; các Solar Lords chuyển tia đó qua chất liệu của Các Ngài và tiến gần đến bàn thờ. Tuyến thứ năm khơi hoạt và trở thành một điểm chói sáng, và kế đó một tuyến đỏ buồn tẻ, tính toán khoảng cách giữa bàn thờ với Đấng đang quán sát.
Lửa ngũ phân mãnh liệt bắt đầu chập chờn rồi bùng cháy. Nó chưa soi sáng bên ngoài; nó chỉ tỏa sáng. Các thiên kỷ trôi qua, các chu kỳ đến rồi đi.
Một cách đều đặn, các Solar Lords hy sinh chính Các Ngài; Các Ngài là lửa trên bàn thờ. Cái thứ tư cung ứng chất đốt (firel).
* * * * * * * * * * *
Các Con của Thượng Đế vẫn quan sát. Công việc tiến gần đến hoàn tất cuối cùng. Các Lhas Vĩnh Cửu trong chốn cao thâm của các Ngài kêu gọi lẫn nhau, và bốn vị bắt đầu tiếng kêu: “Lửa đang cháy. Sức nóng đủ chăng?”. Hai trả lời nhau: “Lửa đang cháy; bàn thờ hầu như bị hủy. Cái gì xảy ra kế tiếp?” “Cho vào lửa chất đốt từ Trời. Hít thở dựa vào lửa cháy bừng và quạt ngọn lửa của nó cho tới nóng rực hoàn toàn”.
Thế là lệnh phát ra từ Đấng đang quán sát, từ trước đến giờ vẫn im lặng, qua vô số thiên kỷ. Các Ngài đưa ra linh khí. Một cái gì đó ngăn chận con đường của linh khí. Các Ngài kêu gọi sự trợ giúp. Đấng làm cho sự xuất hiện của Ngài vẫn chưa được nhìn thấy.
Ngài nhấc lên cánh tay của Ngài. Một, hai, ba, bốn và năm nhập thành một và trộn lẫn với cái thứ sáu. Ngọn Lửa bốc lên, đáp ứng với linh khí. Sự biến mất cuối cùng của hình khối là cần thiết và kế đó công việc vẫn tiến tới”.
Trích Văn Khố của Thánh Đoàn.
Chúng ta có thể xem qua công việc tạo ra các hoa sen Chân Ngã trên cõi riêng của nó;..........
Nơi đây có thể ghi nhận rằng Thực Thể hành tinh là toàn thể mọi sự sống của tinh hoa chất (elemental lives) của các Thần Kiến Tạo cấp thấp hoạt động vì, hoặc tạo thành, vật chất của bất cứ bầu hành tinh dặc biệt nào đang biểu lộ thành vật chất. Bí ẩn của toàn bộ vấn đề ẩn giấu trong ba sự việc :
Sự kiện thứ nhất là ba cõi của chúng ta, cõi trần, cõi cảm dục và cõi trí, tạo thành thể trọng trược của Thái Dương Thượng Đế, do đó, không được xem như tạo thành các nguyên khí.
Sự kiện thứ hai là các “sự sống” cấp thấp hay là linh khí tinh hoa chất (elemental essence) là “vật phế thải” của một thái dương hệ trước và phản ứng với các xung lực có sẵn mạnh mẽ đến nỗi nó chỉ có thể kiềm chế chúng qua ý chí mạnh mẽ của Thái Dương Thượng Đế, áp đặt một cách hữu thức. Từ ngữ “refuse” (“vật phế thải”) phải được lý giải một cách tương tự, và như được hiểu khi nói rằng con người gom vào chính mình trong mỗi lần luân hồi mới, vật chất để tạo thành nhục thân của mình vốn được nhuốm màu bằng các rung động trước kia của các lần luân hồi trước. ....... Sau rốt 12 cuộc tiến hóa chỉ là 12 kiểu mẫu năng lượng, bao giờ cũng biểu lộ trong ba nhóm thần lực, và lại với tư cách một nhóm khi được tổng hợp trong tiến trình biểu lộ.
Chúng có bốn mặt trong sự tương tác, và có một dao động của thái dương hệ về những gì ít được biết tới.
Thứ ba, sự kiện về việc tiến vào lâm phàm của “sự sống” làm linh hoạt của vật chất cấp thấp này, vị này là một thực thể theo một quan điểm trong các Cõi Trời (Heavens) vốn có thể không được ghi nhớ: Ngài tượng trưng cho các ảnh hưởng của một bản chất trí tuệ, mà manas (trí tuệ) ở mức rung động thấp nhất của nó. ........
Bên trong Phòng Học Tập trí tuệ chi phối và tìm cách hướng dẫn. Ham muốn thuộc loại cao siêu, kết quả của manas và công dụng của nó thay thế cho cái thôi thúc thấp của dục vọng (lower kamic urge). Con người cân nhắc và làm cho quân bình, và trong Phòng Trí Tuệ tranh tối tranh sáng, tìm kiếm kết quả của tri thức. Con người tìm thấy nó, nhưng để hiểu được tri thức đó thì hầu như không; y tàn tạ trên cánh đồng tri thức mở rộng, nghe thấy một tiếng kêu đập vào các lỗ tai đang hấp hối của y: “Hãy biết rằng kẻ có tri thức quan trọng hơn là tri thức; kẻ đang tìm kiếm quan trọng hơn là cái được tìm kiếm”.
Bên trong Phòng Minh Triết Tinh Thần ngự trị; Đấng Cao Cả bên trong các đấng thấp kém đảm đương việc kiềm chế. Sự tử vong không được biết đến bên trong các phòng này, vì hai cánh cổng lớn của nó được chuyển qua. Cả hai sự thiếu hài hòa và tranh chấp đều biến mất, chỉ có sự hài hòa được nhìn thấy. Những kẻ có hiểu biết thấy chính họ như là Cái Duy Nhất; họ nhận biết lĩnh vực mà trong đó tri thức tăng trưởng dưới hình thức không hài hòa và biến phân của Brahma. Tri thức mà họ biết như là phương pháp, một khí cụ với mục đích được dùng bởi mọi người và chỉ một mầm mống của nhận thức rốt ráo. Bên trong phòng này, sự hợp nhất của mỗi cái với cái khác, trộn lẫn giữa một và tất cả, và sự thuần nhất của hành động, mục tiêu và sự khéo léo đánh dấu mọi nỗ lực cao”.
Nếu các lời này được suy nghiệm kỹ, người ta sẽ nhận ra rằng sự hợp nhất đích thực hiện có trong cái nhận thức rằng sự sống vĩ đại bao giờ cũng bao gồm sự sống nhỏ hơn, và rằng mỗi sự mở rộng tâm thức đưa con người lại gần hơn với Cái Duy Nhất đã được nhận thức này................... (859)
Năng lượng tuôn chảy từ Ego chỉ ít được cảm nhận trong các giai đoạn phát triển ban đầu. Con người noi theo con đường được dành riêng cho mình qua bản năng động vật và nhân loại, và có thể an toàn từ bỏ sự kích thích phát ra từ các trung tâm lực thuộc nhóm của mình, và đối với mãnh lực lớn lao thông thường có sẵn trong hình hài, đồng thời đối với các làn sóng sinh hoạt trước kia. Chỉ khi con người đã đạt đến một giai đoạn tiến hóa tương đối (so với giai đoạn người thú) thì sức mạnh Chân Ngã hay sức mạnh thông linh mới tuôn đổ qua các trung tâm lực của y theo cách nào đó để tạo ra các kết quả trong tâm thức – sau rốt y sẽ trở nên hiểu biết sâu xa về các kết quả này bên trong bộ óc hồng trần của mình. Nơi đây tôi không bàn đến thuật tâm thông (psychism) thông thường của động vật mà các con vật cấp cao để lộ ra, và được tìm thấy trong một vài chủng tộc Lemuria trụ cột. Đây là một loại tâm thức có sẵn trong các nguyên tử, và là một thành phần cấu tạo của “linh hồn thế giới”. Nó vốn không được biết tới và không được kiểm soát, và không có phần trong giáo lý này. Tôi đề cập tới thuật tâm thông hữu thức, thuật này biểu lộ ra nơi người tiến hóa, nơi các đệ tử và các điểm đạo đồ thuộc mọi cấp. Loại tâm thông này là kết quả của việc tuôn đổ của năng lượng Chân Ngã qua các trung tâm lực dĩ thái (chính yếu là qua năm trong số các trung tâm lực đó) theo cách nào để cho tâm thức của não bộ hồng trần trở nên biết được nó và cũng biết về:
a/ Mục tiêu của nó,
b/ Phương pháp của nó,
c/ Các hiệu quả được tạo ra bên trong phàm ngã của chính con người và cũng trên những kẻ khác,
d/ Năng lực của con người để vận dụng nó hay không tùy sự mong muốn của người này. Điều đó nằm dưới sự kiểm soát của y.
Như chúng ta biết, các trung tâm lực mà đạo sinh có liên quan gồm có bốn cái :
a/ Trung tâm lực ở đầu,
b/ Trung tâm lực ở tim,
c/ Trung tâm lực cổ họng,
d/ Trung tâm lực ở đáy xương sống.
Đây là các trung tâm lực duy nhất cần được xem xét. Công việc của con người là để chuyển thần lực hoặc năng lượng ra khỏi hai trung tâm lực thấp – huyệt trên xương sống và huyệt đan điền – vào ba trung tâm lực cao. Coi như là y đã chuyển đổi, hoặc là đang ở trong tiến trình chuyển đổi, năng lượng của các cơ quan sinh sản vào trong trung tâm lực mong muốn, tức đan điền, với mục đích được nhắm vào là dẫn năng lượng đó vào trung tâm lực còn cao hơn là trung tâm lực cổ họng. Trung tâm lực lá lách, vốn là hiện thể của prana, được đặc biệt phát triển theo định luật tiến hóa, và năng lượng của nó không được chuyển đổi sang trung tâm lực khác, mà được tỏa rộng ra một cách hữu thức. Khi tương ứng của nó trong trung tâm lực ở đầu được khơi hoạt, trung tâm này trở thành cơ quan chữa trị huyền linh; nhờ nó mà nhà chữa trị (bằng một tác động của ý chí), thu hút prana và sinh lực (vitality) từ các chất dĩ thái, và kế đó phà nó trở lại vào mục tiêu cần chữa trị bằng một tác động chữa trị do lòng trắc ẩn.
Liên quan với các trung tâm lực dĩ thái, chúng ta nên chú ý đến sự kiện rằng bí huyệt chính ở đầu vốn có cấu tạo lưỡng phân và gồm một hoa sen có 96 cánh hoa giữa hai mày, và một hoa sen có 12 cánh ở đỉnh đầu, với 96 cánh trong một vòng xoắn phụ. Ý nghĩa của các con số này thật là sâu xa. Trong mọi trường hợp, con số 12 đáp ứng với biểu lộ một mối liên hệ rõ rệt với các hoa sen tâm linh căn bản trên các phân cảnh Chân Ngã. 12 nhân với 8 thay cho 12 cánh hoa trong mỗi trường hợp, trong khi đó trong con số 8 có ẩn giấu ý tưởng về nhị nguyên :
a/ Bốn của tứ bộ (the quaternary),
b/ Bốn của hào quang noãn của Chân Ngã (ba trạng thái và vòng-giới-hạn).
Chúng ta cũng phải ghi nhận rằng ý tưởng về số 12 liên quan với các trung tâm lực được tìm thấy trong số 3 của chúng :
a/ Trung tâm lực cao ở đầu,
b/ Trung tâm lực thứ nhì ở đầu,
c/ Trung tâm lực tim.
Nếu đạo sinh nghiên cứu tình trạng này và liên kết ý tưởng về 3 tầng cánh hoa trong hoa sen 12 cánh, y có thể thấy sáng tỏ. Ở giai đoạn này, còn nhiều điều chưa thể đưa ra.
Chỉ khi nào các trung tâm lực dĩ thái – hai trung tâm lực đầu và trung tâm lực tim – trở nên hoạt động đầy đủ với 12 cánh hoa hoàn toàn khai mở, thì vòng cánh hoa ở giữa trong hoa sen Chân Ngã (vòng thứ tư hay là vòng trong) khai mở. Ý nghĩa của 4 vòng trong hoa sen Chân Ngã và 8 vòng với 12 cánh hoa mỗi vòng trong các hoa sen dĩ thái trên cõi trí rất là quan trọng.
Các trung tâm lực mà con người phải bàn đến tất nhiên là 5 ở giai đoạn này do các sự kiện sau, nó phải được nghiên cứu nếu một người muốn khơi hoạt các trung tâm lực của mình theo kế hoạch, và nếu người đó muốn an toàn đi theo hướng khai mở tâm linh chân chính :
Sự kiện năng lượng xuất phát từ cõi thứ năm, cõi trí, nơi mà con người có liên hệ,
Sự kiện chính do sự tác động của nguyên khí thứ năm mà con người có thể hoạt động hữu thức với sự khai mở riêng của mình,
Sự kiện con đường tiến hóa dành cho con người là con đường có năm phần, bao gồm năm cõi khai mở của con người; và được chia thành năm giai đoạn đối với Chân Ngã, Sự kiện là mặc dù đây là thái dương hệ thứ hai theo quan điểm của các chu kỳ Chân Ngã của Thượng Đế, hay là chu kỳ Chân Ngã chính yếu thứ hai của Ngài, tuy nhiên đó là chu kỳ thứ năm khi xét theo quan điểm khác, quan điểm của các chu kỳ nhỏ. Nó tương ứng với giai đoạn thứ năm trong cơ tiến hóa nhân loại, giai đoạn mà con người bước lên Thánh Đạo. Hiện giờ, Thượng Đế đang bước trên Vũ Trụ Đạo.
Sự kiện nữa là loa tuyến thứ năm đang trong tiến trình khơi hoạt. Sự việc này đã được thực hiện trước khi sự tương tác của năng lượng giữa hoa sen Chân Ngã với các trung tâm lực dĩ thái trở thành mạnh mẽ đến mức đánh thức bộ óc hồng trần của con người và giúp cho y trở nên biết được các dòng sinh lực bên trong. Điều này thường xảy ra khi cánh hoa thứ năm được cơ cấu hóa (organized)............
Y phải hoạt động dựa vào việc khai mở các cánh hoa thứ năm và thứ sáu, hay là hai cánh hoa cuối cùng trong vòng tròn thứ nhì và phải nỗ lực để tạo ra hai sự việc có liên quan với bản chất tam phân thấp (phàm ngã) của y (863):
a/ Y phải chỉnh hợp (align, sắp cho thẳng hàng) ba thể của mình để có được một vận hà tiếp xúc trực tiếp được tạo ra giữa Chân Ngã với bộ óc hồng trần.
b/ Y phải nỗ lực để mang lại sự ổn định của cả thể cảm dục lẫn thể trí, và phải nhắm đạt được trạng thái cân bằng tình cảm, trạng thái này được tạo ra bằng “sự quân bình có ý thức các lực”.
Con người phải nghiên cứu các định luật chuyển hóa và trở thành một kẻ nghiên cứu về loại siêu chuyển thiêng liêng (divine alchemy) việc đó sẽ dẫn đến kết quả trong việc hiểu được làm cách nào để chuyển hóa mãnh lực thấp thành cao, làm cách nào để di chuyển tâm thức của mình vào các hiện thể cao, và làm cách nào để vận dụng các dòng năng lượng sao cho bản chất riêng của mình được biến đổi...........
Ẩn ngôn thứ hai ám chỉ rằng khi người tìm đạo trở nên dần dần phát xạ, và khi năng lượng của Thượng Đế nội tâm biểu lộ ngày càng nhiều qua phàm ngã, “các phát xạ nhiệt” (“heat radiations”) trở nên mạnh đến nỗi các kết quả rất rõ ràng được sản sinh ra có một bản chất cá nhân và cũng là bản chất chung quanh. Một vài kết quả này có thể được liệt kê như sau:
Mạng lưới dĩ thái, ngăn cách tâm thức hồng trần thấp kém của bộ óc với cõi cảm dục bắt đầu trải qua một tiến trình hủy diệt dài, và các “chỗ rách” đầu tiên trong mạng lưới xuất hiện. Chính là qua các chỗ rách này mà đạo sinh trở nên biết được các cõi bên trong, trở nên có ý thức trong bộ óc xác thân về các biến cố bên trong, và có thể (nếu là một đệ tử) tạo sự tiếp xúc với Ego của y và (xuyên qua Ego đó) tiếp xúc với Guru của y (Guru là một vị thầy tinh thần). Điều này đánh dấu một phát triển rất quan trọng.
Bí huyệt cao ở đầu tăng thêm sức hoạt động của nó và trở nên có khả năng nhận các ánh chớp giác ngộ từ các cõi cao. Trước tiên, chỉ thỉnh thoảng điều này mới xảy ra, nhưng tần suất ngày càng tăng lên theo sự tiến bộ của nhiều năm, và các “chỗ rách” (“rents”) trở nên nhiều hơn.
Các tam giác khác nhau trở nên sinh động và tiếp tục tăng thêm hoạt động theo cấp số hình học (geometrical progression), trong khi bí huyệt giữa hai bả vai, tức điểm hội tụ đối với một vài loại lửa, trở nên linh hoạt. Điều này đánh dấu một giai đoạn rõ rệt trong tiến trình chuyển di các lửa vào các bí huyệt cao. Nói đại khái, giai đoạn chuyển di nhiệt hoặc năng lượng của các bí huyệt thấp vào bí huyệt cao có thể được chia làm hai phần:
thứ nhất, giai đoạn mà trong đó các bí huyệt ở phần thấp của cơ thể (các bí huyệt dưới cách mô) được chuyển vào các bí huyệt ở phần cao của thân trên (torso). Ở thân trên có ba bí huyệt, đó là bí huyệt tim, cổ họng và bí huyệt giữa hai xương bả vai (shoulder blades). Nơi đây, chúng ta phải ghi nhận rằng bí huyệt cổ họng nằm ở phần thấp của cổ họng, và hoàn toàn thuộc vào thân trên chớ không thuộc vào đầu. Ở đây cũng nên nói rằng bí huyệt giữa các xương bả vai không phải là một bí huyệt “thiêng” (“sacred” centre), mà có bản chất tạm thời và được tạo ra bởi chính người tìm đạo trong tiến trình truyền chuyển (transference).
Giai đoạn hai là giai đoạn mà trong đó năng lượng của sáu bí huyệt thấp :
a. Bí huyệt cổ họng, b. Bí huyệt tim,
c. Bí huyệt đan điền, d. Bí huyệt lá lách,
e. Bí huyệt ở cơ quan sinh sản,
f. Bí huyệt ở đáy xương sống,
đều được chuyển di – theo đúng thứ tự tùy theo cung chính và cung phụ của một người – vào các bí huyệt tương ứng bên trong bí huyệt đầu. Bảy bí huyệt đầu này là hình ảnh trong tiểu thiên địa của các “cung điện được chuẩn bị trên các Cõi Trời” (“mansions prepared in the Heavens”) để nhận luồng năng lượng thất phân của Chân Thần. Đây là các phòng được chuẩn bị bởi năng lượng thấp vốn phải trở thành các tác nhân nhận lĩnh (recipients) của “linh hồn hay là năng lượng thông linh cao siêu”.
Ẩn ngữ cuối cùng này có thể được đưa ra, được tóm tắt bằng các từ ngữ mà khi người tìm đạo tiến tới, (1) y không chỉ làm quân bình các cặp đối ứng, mà cái bí ẩn của con tim của huynh đệ y cũng được lộ ra với y. Y trở nên một mãnh lực được thừa nhận trên thế gian, và được nhận biết như là một người có thể được trông cậy vào để phụng sự. Con người quay sang nhờ cậy y để được trợ giúp theo đường lối nhận thức của y, và y bắt đầu phát ra âm điệu (note) để được nghe thấy không những chỉ trong hàng con người, mà còn trong các hạng thiên thần nữa. Ở giai đoạn này, y làm điều này qua cây bút trong văn chương, qua ngôn từ khi diễn thuyết và giảng dạy, qua âm nhạc, hội họa và mỹ thuật. Y đạt đến tâm con người bằng cách này hoặc cách khác, và trở thành kẻ trợ giúp và kẻ phụng sự nhân loại.
Thêm hai tính chất của giai đoạn này có thể được liệt kê ở đây.
Người tìm đạo có một đánh giá về giá trị huyền linh của tiền tài trong việc phụng sự. Y không mưu tìm điều gì cho riêng mình, trừ những gì có thể cung cấp cho y đối với công việc cần làm, y xem thường tiền tài, và cái gì mà tiền tài có thể đổi chác như một cái gì đó phải được hữu dụng cho những kẻ khác và là một phương tiện để mang lại thành quả cho các kế hoạch của Chân Sư vì y lờ mờ cảm nhận được các kế hoạch này. Ý nghĩa huyền linh của tiền tài ít được hiểu rõ, ..........
Cũng vào giai đoạn này, cuộc sống của người tìm đạo trở thành một “dụng cụ hủy diệt” theo ý nghĩa huyền linh của danh từ đó. Bất cứ nơi nào y đi qua, thần lực cũng tuôn tràn qua y từ các cõi cao, và từ Thượng Đế nội tâm của chính y, đôi khi tạo ra các kết quả đặc biệt ở chung quanh y. Lực đó tác động giống như một tác nhân kích hoạt (stimulator) cả điều lành lẫn điều dữ. ...... Chính điều này cũng thường khi tạm thời gây nên sự suy sụp (downfall) của các linh hồn tiến hóa. Họ không thể chịu đựng được thần lực đang tuôn đổ vào họ, hoặc là lên họ và do sự quá kích thích tạm thời của các trung tâm lực và các hiện thể của họ, họ đi lạc lối. ........(867)
Trong mỗi trường hợp khai mở cánh hoa, một vài loại thần lực được sinh ra, có liên quan đến, được đồng hóa và được sử dụng, trước tiên một cách hữu thức, và sau cùng với toàn bộ sự sáng suốt.
Trong Phòng Vô Minh, thần lực thuộc năng lượng của Brahma (sự hoạt động và sáng suốt của vật chất) là cái hầu như được bàn đến, và con người phải học ý nghĩa của hoạt động dựa trên :
a/ Năng lượng bẩm sinh (inherent energy),
b/ Năng lượng được thu hút (absorbed energy),
c/ Năng lượng của nhóm (group energy),
d/ Năng lượng của vật chất (material energy) hay năng lượng vốn ẩn tàng trong vật chất cõi trần.
Trong Phòng Học Tập, đệ tử trở nên biết được và sử dụng năng lượng của trạng thái thứ hai trong việc kiến tạo hình hài, trong các liên hệ xã hội, trong gia đình và các nhóm chi nhánh khác. Y đi đến chỗ nhận biết thực sự về tính dục (sex) và các liên hệ của nó, nhưng cho đến nay nhìn mãnh lực này như một điều gì đó cần được kiềm chế chứ không phải là một cái gì đó phải được vận dụng một cách hữu thức và một cách xây dựng.
Trong Phòng Minh Triết, điểm đạo đồ đi đến hiểu biết về trạng thái năng lượng vĩ đại thứ nhất, sử dụng ý chí năng động trong việc hy sinh, và lúc bấy giờ theo y là phạm vào bí quyết về cái bí ẩn tam phân của năng lượng. ........
Chìa khóa dành cho cái bí ẩn được cảm nhận trong Phòng thứ nhất, tức là bí ẩn về Brahma, được trao cho y và lúc bấy giờ, y có thể mở khóa các năng lượng ẩn giấu của chất liệu nguyên tử. Chìa khóa đối với cái bí mật về tính dục hay là về các cặp đối ứng, được trao vào tay của y, và lúc đó y có thể mở các mãnh lực ẩn giấu bên trong mọi hình hài.
Chìa khóa đối với bí ẩn về sự hy sinh và đối với cái bí mật của các Đấng Quán Sát Thinh Lặng (Silent Watchers) .........
Sau đây là ba bí nhiệm căn bản của thái dương hệ:
1. Bí nhiệm về điện khí. Cái bí nhiệm của Brahma. Bí ẩn của trạng thái thứ ba (Ngôi Ba). Bí ẩn này tiềm tàng trong vầng thái dương vật chất.
2. Bí nhiệm về tính phân cực (polarity) hay là về xung lực giới tính vũ trụ (universal sex impulse). Bí ẩn của trạng thái thứ hai (Ngôi Hai). Nó tiềm tàng trong Tâm của Thái Dương, nghĩa là trong Mặt Trời nội tại (chưa biểu lộ).
3. Bí nhiệm về chính Lửa, hay là sức mạnh trung ương năng động của thái dương hệ. Bí ẩn của trạng thái thứ nhất (Ngôi Một). Nó tiềm tàng trong mặt trời tinh thần trung ương..........
Bí nhiệm về điện khí có ba chìa khóa, mỗi chìa khóa được giữ trong tay của một trong các Hoạt Động Phật. ...... Cái huyền bí của loại điện khí tam phân này phần lớn có liên quan với các Thần Tạo Tác cấp thấp, với các linh khí tinh hoa chất trong một trạng thái đặc biệt, - cái thấp nhất và sâu xa nhất cho con người để hiểu khi nó liên quan tới cái bí ẩn của những gì vốn “đứng bên dưới” (“substand”) hay “đứng đàng sau” (“stands back”) của tất cả những gì đang biểu lộ. Theo một ý nghĩa phụ, nó liên quan đến các lực ở trong chất dĩ thái vốn là các lực mang lại năng lượng và tạo ra các hoạt động của mọi nguyên tử. Một loại khác liên quan đến hiện tượng điện được thể hiện trong ánh sáng mà con người khiển dụng được ít nhiều, trong các hiện tượng như là bão tố và biểu lộ của tia chớp, với bắc cực quang (aurora borealis), và trong việc tạo ra động đất và mọi hoạt động hỏa sơn. Tất cả các biểu lộ này đều dựa trên hoạt động điện thuộc loại nào đó và có liên quan với “linh hồn các vật” hay là liên quan với tinh hoa của vật chất. Cổ Luận (old Commentary) ghi (874):
“Áo khoác của Thượng Đế được vén sang một bên bằng năng lượng của các hoạt động của Ngài, và Con Người thực sự lộ ra, tuy vậy vẫn ẩn giấu, cho kẻ nào biết được cái bí ẩn của một người khi nó hiện hữu trong sự tự nhận thức của chính mình”.
Bí ẩn của điện khí liên quan đến “lớp áo” (“garment”) của Thượng Đế, y như bí mật của tính phân cực liên quan đến “sắc tướng” (“form”) của Ngài.
Trong bí ẩn về tính phân cực (polarity, đối cực), chúng ta có ba loại lực khác nhau đang biểu lộ và như vậy điều hiển nhiên là hai bí ẩn liên quan đến sáu loại lực. Ba loại lực này được các Buddhas of Love vận dụng. .... Đức Phật mà chúng ta nói đến và Đấng tiếp xúc với tín đồ của Ngài vào kỳ trăng tròn của Lễ Wesak, là một trong ba Đấng có liên quan với bầu hành tinh chúng ta, đã thay thế cho Đấng Cao Cả đã chuyển qua công việc cao hơn liên quan với dãy hành tinh, vì cùng đẳng cấp thuộc Thánh Đoàn được nhìn thấy như trong mối liên hệ với các Buddhas of Action. .......
Ý tưởng hiện nay về Sex phải được chuyển hóa và nâng từ hàm ý thấp kém hiện nay lên ý nghĩa thực sự của nó. Sex – trong ba cõi thấp – có liên quan đến công việc của các Lunar Pitris và Solar Lords. Theo thực chất, nó mang ý nghĩa công việc kiến tạo hình hài bằng vật chất, và việc đem sức mạnh của nó bằng trạng thái tâm linh. Nó hàm ý nâng cao khía cạnh vật chất qua ảnh hưởng của Tinh Thần khi cả hai cùng thực hiện nhiệm vụ chính thức của chúng trong sự hợp tác và như vậy – bằng sự hợp nhất hỗ tương và hòa hợp của chúng – tạo ra Con trong mọi vinh quang của Ngài. Phương pháp diễn dịch này cũng đúng đối với mọi Đấng Cao Cả đang biểu lộ trên bất cứ cõi nào thuộc thái dương hệ hoặc vũ trụ. Một vài yếu tố đi vào trong ý tưởng về sex (phái tính, tính dục) có thể được liệt kê như sau:
a/ Thu hút lẫn nhau (mutual attraction),
b/ Sự thích hợp bổ sung (complementary suitability),
c/ Kêu gọi của bản năng (instinctual appeal),
d/ Tiếp cận và hợp tác được nhận thức,
e/ Hợp nhất (union),
f/ Giai đoạn kế tiếp là sự quan trọng tạm thời của trạng thái vật chất, trạng thái Mẹ, trạng thái âm,
g/ Sự triệt thoái vào nơi ẩn dật tạm thời của Cha,
h/ Công việc sáng tạo ra Con,
i/ Tiến hóa và tăng trưởng của Con, cả về vật chất lẫn trong tâm thức,
j. Sự giải thoát của con ra khỏi Mẹ, hay là sự giải phóng của linh hồn lúc trưởng thành ra khỏi vật chất,
k/ Con nhận ra Cha và trở về với Cha đó.
Kết quả cuối cùng của tất cả các giai đoạn kế tiếp này là cả ba trạng thái đều hoàn thành các chức năng của chúng (thiên chức của chúng) trên cõi trần và cả ba đều biểu lộ vài loại năng lượng.
Trạng thái Cha biểu lộ trong việc đưa ra xung lực ban đầu hay là biểu lộ điện dương vốn là mầm của Con được tạo ra, và Sự Sống của Cha được biểu hiện trong Con. Ý nghĩa huyền linh của các lời của Đức Christ khi đáp lại tiếng kêu: “Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng con” (“Lords, show us the Father”) ít được hiểu rõ. “Ai đã thấy Ta tức là đã thấy Cha, vì Ta và Cha Ta là Một”, Ngài nói. (Thánh kinh Tân Ước, John, XIV, 8).
Mẹ, hay là trạng thái âm, xây dựng và nuôi dưỡng, che chở và chăm sóc Con, từ đầu đến cuối trước khi sinh và các giai đoạn ấu thơ, và đứng chung quanh Con trong các giai đoạn sau, ban phát năng lượng của chính cơ thể bà và hoạt động trong việc phục vụ cho nhu cầu Ngài.
Con, năng lượng phối hợp của Cha và của Mẹ, biểu hiện cho cả hai loại và tất cả mọi lưỡng nguyên, tạo ra các phẩm đức, nhưng có một tính chất tất cả đều riêng của chính Ngài, một tinh hoa vốn là bản chất đặc biệt của Ngài, và một năng lượng giúp cho Ngài làm tròn các mục tiêu và dự tính của Chính Ngài, mà sau rốt sẽ khiến cho Ngài lặp lại tiến trình tạo ra, - 1. Ý niệm; 2. Sáng tạo; 3. Phát triển có ý thức, như Đấng Cha của Ngài đã làm.
Khi chúng ta đạt đến cái bí ẩn về Lửa, chúng ta liên hệ với loại năng lượng huyền bí ngoài thái dương hệ, vốn là nền tảng của cả hai hoạt động của Mẹ và Sự Sống của Con. Con trong chính hành vi “trở nên chồng của Mẹ của Ngài”, theo cách nói của các Thánh Thư cổ. Đây chỉ là một cách diễn đạt khó hiểu, trừ phi được diễn giải bằng các thuật ngữ chỉ sự kết hợp của năng lượng. Chỉ khi Con đã đến tuổi trưởng thành và biết chính Ngài về bản thể cũng giống như là Cha, thì lúc đó Ngài mới có thể hoàn thành một cách hữu thức nhiệm vụ của Cha Ngài, rồi tạo ra và duy trì những gì cần thiết cho việc giữ vững (sustaining) thế hệ vũ trụ.
Điện của vật chất, điện của hình hài và điện của chính Sự Sống phải pha trộn và đáp ứng trước khi Chân Nhân (dù là Thượng Đế, hoặc con người) hiểu được chính mình như là tác nhân sáng tạo. Ở giai đoạn này, con người biết phần nào về điện của vật chất, và đang tiến tới tin tưởng về điện của hình hài (mặc dù cho đến nay con người gọi điện đó là từ lực – magnetism) nhưng mãi đến giờ y không biết gì về thực tại của điện trong chính sự sống. Chỉ khi “bảo ngọc trong hoa sen” sắp sửa được tiết lộ, tức là vòng cánh hoa thứ ba sắp khai mở, thì điểm đạo đồ mới bắt đầu có được nhận thức về ý nghĩa thực sự của từ ngữ “sự sống” hay là tinh thần. Tâm thức phải được khơi hoạt đầy đủ trước khi con người có thể mãi mãi hiểu được một cái gì đó mang năng lượng vĩ đại mà các loại năng lượng khác chỉ là các biểu hiện của nó.
Chỉ có hai điểm nữa cần được xem xét liên quan đến các cánh hoa và điểm đạo........... (876)
Tri thức (Knowledge) là việc nhận thức đúng về các định luật năng lượng, định luật bảo toàn thần lực, về các cội nguồn của năng lượng, về các tính chất của nó, các kiểu mẫu và các rung động của nó. Nó bao hàm một hiểu biết về:
a/ Các rung động nòng cốt khác nhau.
b/ Các bí huyệt nhờ đó thần lực nhập vào.
c/ Các vận hà mà nó lưu thông theo đó.
d/ Các tam giác và các dạng hình học khác mà nó tạo ra trong khi tiến hóa.
e/ Các chu kỳ và sự lên xuống của năng lượng liên quan với kiểu mẫu biểu lộ của hành tinh, bao gồm tất cả các giới trong thiên nhiên.
f/ Ý nghĩa thực sự của các trạng thái thần lực này mà chúng ta gọi là “các chu kỳ pralaya” và các trạng thái mà chúng ta gọi là “các chu kỳ biểu lộ”. Nó cũng bao hàm một nhận thức đúng đối với các định luật về che khuất (laws of obscuration, định luật về thiên thực) (881).
[(1)- (1. Có 7 nhánh tri thức được nhắc đến trong kinh Puranas. GLBN I, 192; 2. Gnosis, tức Tri Thức còn ẩn giấu (hidden knowledge), là Principle thứ bảy, sáu trường phái Triết Lý Ấn Độ là sáu principles. GLBN I, 299.).
Xem thêm Nhân Trắc Học tổng hợp: Tổng hợp về Tri thức]
Mọi điều này, con người học được trong các Phòng khác nhau qua kinh nghiệm thực tiễn, liên quan với vui thích và khổ đau; trong các cuộc điểm đạo cuối cùng, các điều này mang lại cho y một nhận thức không những về sự tồn tại của các lực này, mà còn về cách làm sao để vận dụng và sử dụng được chúng. Đây là tri thức: điều khiển đúng các luồng thần lực, trước tiên trong ba cõi thấp của nỗ lực con người, kế đó, trong thái dương hệ.
Bác ái là nắm bắt đúng về các công dụng và mục tiêu của hình hài và về các năng lượng có liên quan đến việc kiến tạo hình hài, sử dụng hình hài và sự tan rã cuối cùng của hình hài được thay thế. Nó bao hàm một nhận thức về các Định Luật Hút và Đẩy, về sự tương tác từ lực giữa mọi hình hài, lớn và nhỏ, về các liên hệ tập thể, về năng lực khích động sự sống hợp nhất, và năng lực thu hút của đơn vị này lên đơn vị khác, dù đó là nguyên tử, con người hoặc thái dương hệ. Nó bao hàm một sự hiểu biết về mọi hình tướng, các mục tiêu của hình tướng và các mối liên hệ của hình tướng; nó liên quan với các tiến trình kiến tạo trong chính con người và trong thái dương hệ; và nó tất yếu đưa đến sự phát triển của các quyền năng này bên trong con người vốn sẽ làm cho con người trở thành một Nhà Kiến Tạo hữu thức, một Solar Pitri của một chu kỳ sắp tới........(887)
4. Các hỏa tinh linh, tức tiểu thần kiến tạo.
a/ Mở đầu