CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT VŨ TRỤ
TIÊN THIÊN KHÍ VÀ HẬU THIÊN KHÍ - SINH KHÍ
PHẦN MỘT
TỔNG HỢP TỪ CÁC THUẬT NGỮ
I- Vật chất vũ trụ: Tất cả đều là năng lượng
PHẦN HAI
CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT TRONG TIỂU VŨ TRỤ - TƯƠNG ỨNG CON NGƯỜI
[LUẬN VỀ LỬA CÀN KHÔN - TẬP I]
TRÍCH ĐOẠN (LVLCK, 475): Trung tâm chú ý của các sinh viên y khoa và khoa học sẽ được tập trung trên thể dĩ thái, và sự tùy thuộc của thể xác vào thể dĩ thái sẽ được hiểu rõ. Điều này sẽ làm thay đổi thái độ của ngành y khoa, và sự chữa trị bằng từ điển và kích thích bằng rung động sẽ thay thế cho các phương pháp giải phẫu và hấp thụ thuốc men hiện nay. Nhãn thông của con người lúc bấy giờ bình thường ở mức dĩ thái, sẽ có hiệu quả là bắt buộc y nhận ra được những gì hiện giờ được gọi là “thế giới vô hình” hay là siêu phàm (superphysical). Con người sẽ được chú ý và giao tiếp bằng các thể dĩ thái của họ, còn các thiên thần và tinh linh của chất dĩ thái sẽ được nghiên cứu và hiểu rõ. Khi điều này xảy ra như thế, lúc bấy giờ việc sử dụng đúng đắn về nghi lễ như là sự bảo vệ, che chở đối với con người sẽ chiếm đúng chỗ của nó.
Công việc của các thiên thần có liên hệ với giới động vật và giới thực vật cũng sẽ được hiểu rõ, và nhiều điều mà hiện nay có thể xảy ra do sự vô minh, sẽ trở nên không còn xảy ra nữa và trở nên lỗi thời. Thời gian sắp tới khi thái độ của con người đối với giới động vật sẽ được thay đổi hoàn toàn, và sự tàn sát, sự ngược đãi và loại hình thức độc ác mệnh danh là “thể thao” sẽ bị loại bỏ.
Một sự thay đổi bí ẩn trong thái độ của người nam và nữ đối với vấn đề giới tính, hôn nhân và việc sinh sản sẽ xảy ra do việc phát triển nhãn thông dĩ thái ( ) và theo sau là việc thừa nhận thiên thần. Sự thay đổi này sẽ được đặt căn bản trên sự nhận thức bản chất đích thực của vật chất, hay của trạng thái mẹ, và của tác dụng của Thái Dương trên chất liệu (substance). Sự hợp nhất của sự sống sẽ là một sự kiện khoa học được biết rõ, và sự sống trong vật chất sẽ không còn là giả thuyết nữa mà là một nền tảng của khoa học. Điều này không thể được bàn rộng nơi đây.
3. Manas trong các cuộc tuần hoàn cuối cùng.
a. Tiến trình chuyển hóa. Chuyển hóa là một vấn đề mà từ các kỷ nguyên trước đã từng làm bận tâm các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học và các nhà luyện kim đan. Năng lực đổi thay, qua việc dùng nhiệt, dĩ nhiên được nhận thức một cách tổng quát, nhưng chìa khóa đưa đến bí nhiệm hay cái bí ẩn của công thức có phương pháp được bảo vệ thận trọng khỏi những kẻ tìm kiếm, và chỉ được tiết lộ dần dần sau cuộc điểm đạo thứ 2. Vấn đề kỳ diệu đến nỗi chỉ có thể nêu ra bằng những nét khái quát rộng lớn làm cách nào mà việc đó có thể tiếp cận được. Trí óc của quần chúng có khuynh hướng tự nhiên hướng về sự hoán cải kim loại thành vàng với mục đích trước mắt là làm giảm bớt sự nghèo khó. Trí óc nhà khoa học đang tìm kiếm một dung môi chung, dung môi này sẽ đưa vật chất thành chất liệu nguyên thủy (primordial substance), giải phóng năng lượng và như vậy lộ ra diễn trình tiến hóa, và giúp cho kẻ tìm tòi tự kiến tạo (từ nền tảng nguyên thủy) các dạng thức mong muốn. Trí óc của nhà luyện đan đang tìm kiếm Hòn Đá Tạo Vàng (Philosopher’s Stone), mà tác nhân chuyển hóa có hiệu quả sẽ đưa tới sự khai mở, và mãnh lực đặt để ý chí của nhà hóa học lên các sức mạnh hành khí (elemental forces) sẽ tác động trong, bởi và qua vật chất. Tín đồ, nhất là theo Cơ Đốc giáo, nhận thức được tính chất tâm linh của năng lực chuyển hóa này, và các thánh thư thường có nói đến việc linh hồn chịu thử thách 7 lần trong lửa. Tất cả các nhà khảo cứu và sưu tầm đang nhận thức được một chân lý vĩ đại từ khía cạnh thu hẹp của riêng họ, và cái tổng thể không nằm ở chỗ này hay chỗ khác, mà là trong toàn thể.
Khi xác định sự chuyển hóa như được hiểu về mặt huyền linh, chúng ta có thể diễn tả như sau: Chuyển hóa là đoạn đường băng qua từ trạng thái hiện tồn này đến trạng thái khác qua cơ nguyên/ lực gây tác dụng là lửa. Sự hiểu biết đúng đắn về điều này được dựa trên 4 định đề (postulates) chính yếu. Các định đề này phải được diễn đạt bằng các thuật ngữ của Cổ Luận (Old Commentary), bộ sách này diễn đạt nhiều đến nỗi nó lộ ra cho những ai lưu tâm tìm kiếm, nhưng vẫn là bí hiểm với những kẻ không sẵn sàng, hay đối với những kẻ lạm dụng sự hiểu biết vào các mục tiêu vị kỷ.
Các phát biểu này như sau:
I. Kẻ nào chuyển di sự sống của Từ Phụ cho 3 sự sống thấp hơn, kẻ ấy đã tìm được lực gây tác dụng của lửa (agency of fire), ẩn giấu trong tâm của Từ Mẫu. Kẻ ấy hoạt động với các Hỏa Thiên Thần (Agnichaitans) đang che giấu, đốt cháy và như thế tạo ra sự ẩm ướt cần thiết.
II. Kẻ nào chuyển di sự sống ra khỏi 3 sự sống thấp kém vào trong sự sống sẵn có thứ 4, kẻ ấy đã tìm thấy lực gây tác dụng của lửa ẩn giấu trong tâm của Brahma. Kẻ ấy hoạt động với các sức mạnh của các hỏa thần Agnishvattas, vốn xuất phát, phối hợp và như vậy tạo ra hơi ấm cần thiết.
III. Kẻ nào chuyển di sự sống vào trong sự sống tập hợp thứ 5, kẻ ấy đã tìm thấy sức mạnh của lửa ẩn tàng trong tâm của Vishnu. Kẻ ấy hoạt động với các lực của hỏa thần Agnisuryans đang bừng cháy, đang giải phóng tinh lực (essence) và như vậy tạo ra sự chói lọi cần thiết.
IV. Sự ẩm ướt đầu tiên, chậm chạp và bao bọc tất cả; sau đó sưởi ấm với hơi ấm ngày càng tăng và cường độ mãnh liệt; kế đó, sức mạnh ép xuống, dồn lại và tập trung. Như vậy, sự tỏa chiếu được tạo ra; rỉ ra như thế đó; biến đổi như thế đó; thay đổi hình hài như thế đó. Cuối cùng là sự giải thoát, tinh hoa dễ bay hơi bốc ra và gom góp cặn bã trở lại chất liệu nguyên thủy (primordial stuff).
Kẻ nào nghiềm ngẫm các công thức này và kẻ nào suy gẫm dựa vào phương pháp và diễn trình được gợi ra, kẻ ấy sẽ nhận được một ý niệm tổng quát về diễn trình tiến hóa của sự chuyển hóa, vốn sẽ có giá trị đối với y hơn là các công thức mà theo đó các thiên thần chuyển hóa các khoáng chất khác nhau.
Sự chuyển hóa liên hệ đến sự sống của nguyên tử và được che giấu trong sự am hiểu về các định luật đang chế ngự tính phóng xạ. Thật là lý thú khi ghi nhận xem khoa học diễn tả “tính phóng xạ” (“radioactivity”) ra sao, chúng ta có quan niệm đông phương về Vishnu-Brahma, hay là các Tia của Linh Quang đang rung động qua vật chất. Do đó, sự diễn dịch thường được chấp nhận về thuật ngữ “nguyên tử” phải được nới rộng từ sự diễn dịch của nguyên tử hóa học để bao gồm:
a. Mọi nguyên tử hay là khối cầu trên cõi trần.
b. Mọi nguyên tử hay là khối cầu trên cõi cảm dục và cõi hạ trí.
c. Con người đang lâm phàm trong thể xác.
d. Thể nguyên nhân của con người trên cõi riêng của nó.
e. Tất cả các cõi dưới hình thức các lãnh vực đã thực thể hóa.
f. Tất cả các hành tinh, các dãy và bầu bên trong thái dương hệ.
g. Tất cả các Chân Thần trên cõi riêng của chúng, dù là các Chân Thần nhân loại hay các Hành Tinh Thượng Đế.
h. Vòng giới hạn thái dương, tập hợp tất cả các nguyên tử thứ yếu.
Trong mọi nguyên tử này, vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, tiểu thiên địa hay đại thiên địa, sự sống trung ương tương ứng với điện tích dương của điện lực đã được khoa học tiên đoán, cho dù đó là sự sống của một Thực Thể Thông Linh vũ trụ như là một Thái Dương Thượng Đế hoặc là sự sống hành khí nhỏ bé trong một nguyên tử vật chất. Các nguyên tử nhỏ đang xoay quanh trung tâm dương của chúng, và hiện nay chúng được khoa học gọi là âm điện tử, là trạng thái âm và điều này không những đúng với nguyên tử trên cõi trần, mà còn đối với các nguyên tử con người nữa, được duy trì đối với điểm thu hút trung ương của chúng, tức một Hành Tinh Thượng Đế, hay là các dạng thức nguyên tử mà trong tập hợp của chúng hợp thành Thái dương hệ đã được nhận thức.
Mọi hình hài được kiến tạo theo một cách thức tương tự như nhau và chỉ có sự dị biệt – như sách giáo khoa giảng dạy – trong sự sắp xếp và số của các âm điện tử ( ).
Chính âm điện tử sau rốt sẽ được xem như là một sự sống hành khí vô cùng bé nhỏ (an elemental, tiny life).
Điểm thứ 2 mà hiện nay tôi đang tìm cách trình bày là: bức xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình hoàn thành. Sự chuyển hóa vốn là sự phóng thích của tinh chất (liberation of the essence) để cho nó có thể tìm thấy một trung tâm mới, tiến trình có thể được nhận thức như là tính phóng xạ hiểu về mặt kỹ thuật, và được áp dụng cho tất cả các thể của nguyên tử mà không có sự ngoại trừ nào cả.
Chỉ mới gần đây khoa học mới biết đến chất radium (một thí dụ về tiến trình biến tố) chỉ là khuyết điểm của khoa học. Khi điều này được hiểu rõ hơn, người ta sẽ thấy rằng mọi bức xạ, như là từ lực (magnetism) hay là sự phóng phát tâm linh (psychic exhalation), chỉ là tiến trình chuyển hóa tiến hành trên một mức độ rộng lớn. Ở đây, điểm cần phải hiểu rõ là tiến trình chuyển hóa khi có hiệu quả là kết quả ở ngoài mặt của các ngoại yếu tố. Về phương diện căn bản, đó là kết quả của hạt nhân dương bên trong của mãnh lực hay là sự sống đang đạt tới một tốc độ rung động khủng khiếp đến đổi sau rốt, nó sẽ tung rải các electrons hay các điểm âm (negative points) đang tạo thành vùng ảnh hưởng của nó, và tung rải chúng đến một khoảng cách mà Định Luật Đẩy đang thống ngự. Lúc bấy giờ, chúng không còn bị thu hút đến trung tâm nguyên thủy của chúng mà tìm kiếm một trung tâm khác. Khối cầu nguyên tử (atomic sphere), tôi tạm diễn tả như thế, tan biến đi, các âm điện tử tiến vào dưới Định Luật Đẩy, tinh hoa trung ương thoát ra và tìm kiếm một khối cầu mới, hiểu theo phương diện huyền linh.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng tất cả những gì bên trong thái dương hệ đều là lưỡng nguyên (dual) và có cả hai mặt âm và dương trong chính nó: dương đối với hình thức riêng của nó, còn âm đối với lĩnh vực lớn hơn. Do đó mọi nguyên tử đều dương lẫn âm - chính một âm điện tử cũng là một nguyên tử.
Do đó tiến trình biến tố có hai phần, và cần có một giai đoạn sơ bộ áp dụng các yếu tố bên ngoài, một sự kích hoạt (a fanning), chăm sóc và phát triển hạt nhân dương bên trong, một giai đoạn triển khai hay bảo dưỡng có phương pháp lửa bên trong, và một sự tăng gia điện thế. Kế tiếp là giai đoạn thứ hai, khi đó các yếu tố bên ngoài không được kể đến nhiều như thế, khi đó trung tâm năng lượng bên trong của nguyên tử có thể bị bỏ lại để làm công tác riêng của nó. Các yếu tố này có thể được áp dụng đồng đều cho mọi nguyên tử; đối với các nguyên tử khoáng chất đang lôi cuốn sự lưu tâm của các nhà luyện kim đan nhiều như thế, đối với nguyên tử, mệnh danh là con người, kẻ đang theo đuổi cùng một diễn trình tổng quát vốn bị chi phối bởi cùng các định luật; và đối với các nguyên tử lớn hơn, như là một Hành Tinh Thượng Đế hay Thái Dương Thượng Đế.
Diễn tiến có thể được kê ra như sau :
1. Cuộc sống khoác lấy hình hài nguyên thủy.
2. Hình hài tùy thuộc vào nhiệt bên ngoài.
3. Nhiệt, khi tác động trên hình hài, sẽ tạo nên sự phát tiết (exudation) và yếu tố ẩm ướt chợt đến.
4. Sự ẩm ướt và nhiệt thực hiện chức năng của chúng trong sự hợp nhất.
5. Các sinh linh hành khí hướng về mọi sinh linh thứ yếu.
6. Các thiên thần hợp tác theo qui luật, trật tự và âm thanh.
7. Nội nhiệt của nguyên tử tăng gia.
8. Nhiệt của nguyên tử tăng lên một cách nhanh chóng và vượt quá ngoại nhiệt của môi trường chung quanh nó.
9. Nguyên tử phát xạ.
10. Bức tường gần như hình cầu của nguyên tử sau rốt sụp đổ xuống.
11. Các âm điện tử hay các đơn vị âm tìm kiếm một trung tâm mới.
12. Sự sống trung ương thoát ra để hòa nhập với đối cực của nó, chính nó trở thành cực âm và tìm kiếm cực dương.
13. Đây là theo ý nghĩa huyền linh, ánh sáng tạm thời tắt đi, cho đến khi nó hiện trở lại và bừng lên.
Ở đây không thể đưa ra giải thích chi tiết hơn, vả lại cũng không thích hợp.
Do đó, điều hiển nhiên là, theo quan điểm của mỗi giới trong thiên nhiên, nên giúp vào tiến trình chuyển hóa của tất cả các nguyên tử thứ yếu. Điều này diễn ra như thế, cho dù chính nó không được nhận biết; chỉ khi nào giới nhân loại đã đạt đến điều đó, thì một thực thể, một cách hữu thức và một cách sáng suốt, có thể thực hiện hai việc :
Thứ 1. Giúp vào sự chuyển hóa trung tâm nguyên tử dương của riêng nó từ giới nhân loại đến giới tinh thần.
Thứ 2. Tham dự vào việc chuyển hóa.
a. Từ các hình thể khoáng chất thấp kém đến các hình thể cao hơn.
b. Từ các hình thức khoáng chất đến các hình thức thực vật,
c. Từ các hình thức thực vật đến hình thức động vật.
d. Từ các hình thức động vật đến con người hay là xảy ra sự thoát kiếp thú một cách hữu thức và dứt khoát.
Cho đến nay không làm được điều đó do bởi sự nguy hiểm của việc truyền đạt kiến thức cần thiết. Các Chân Sư hiểu được tiến trình chuyển hóa trong 3 cõi thấp và trong 4 giới của thiên nhiên, tiến trình này đang tạm thời làm cho chúng thành 3 nội môn và 4 ngoại môn.
Sau rốt, con người sẽ hoạt động với ba giới chỉ khi nào tình huynh đệ trở thành thực tiễn, chớ không phải là khái niệm nữa.
Hiện nay, có 3 điểm cần được xem xét trong mối liên hệ này :
- Vận dụng hữu thức các loại lửa.
- Các thiên thần và sự chuyển hóa.
- Âm thanh và màu sắc trong sự chuyển hóa.
Ở đây, cần nêu ra rằng, như tôi đã xét tới các vấn đề khác, chỉ có một số sự kiện là có thể được truyền đạt, còn công việc chi tiết liên quan đến tiến trình không thể được bàn đến do bởi sự việc là cho đến nay nhân loại vẫn không hành động một cách vị tha. Nhiều sự hiểu lầm len lỏi vào, do chính sự việc này, trong những ngày đầu mà Thánh Đoàn cố gắng đưa ra một số Minh Triết căn bản dưới hình thức sách vở, và điều này được H.P. B đã dũng cảm bàn đến ( )
(1. Ý kiến phải được dè dặt vì :
a. Chỉ có các điểm đạo đồ mới được giải thích đầy đủ.
b. Chỉ một phần rời rạc của ý nghĩa huyền linh được đưa ra.
c. Chỉ có các Chân Sư mới có thẩm quyền để nói. GLBN I, 188, 190, II, 59,90.
d. Các giáo huấn được đưa ra dưới hình thức một giả thuyết. II, 469.
2. Chúng ta phải hoàn toàn bỏ qua :
a. Các phàm ngã.
b. Các tin tưởng có tính cách giáo điều.
c. Các tôn giáo đặc thù. GLBN I, 3, 4.
3. Chúng ta phải thoát khỏi mọi thành kiến. GLBN III, 1.
Chúng ta cũng phải :
a. Tránh sự tự phụ
b. Thoát khỏi tính ích kỷ.
c. Sẵn sàng chấp nhận chân lý đã được chứng minh.
4. Chúng ta phải tìm kiếm nghĩa cao nhất có thể có.
5. Chúng ta cũng đừng có óc bè phái III, 110.
6. Chúng ta đừng quên sự trở ngại của ngôn từ. I, 197,290,293.
7. Chúng ta phải nhắm mục đích trở nên đệ tử. II,246,III,129
8. Sau rốt chúng ta phải mở mang các quyền năng. I, 518, II, 85.
9. Chúng ta phải sống với Tình Huynh Đệ. I, 190
10. Chúng ta phải nhớ rằng H.P.B. không đòi hỏi tính không thể sai lầm II, 25 note, 273. I, 293.
H.P.B. nói : “ Tôi nói đến “sự chắc chắn tuyệt đối” chỉ trong chừng mức có liên quan đến sự tin tưởng của riêng tôi. Những ai không có cùng lý do cho niềm tin của họ như tôi đã dễ tin và cuồng).
Nỗi hiểm nguy vẫn còn và ngăn trở phần lớn các nỗ lực của những Đấng Cao Cả - đang làm việc ở khía cạnh nội môn – các Đấng này thấy rằng tư tưởng của con người sẽ được nâng cao lên do việc học hỏi các đường lối của cuộc sống hồng trần để nới rộng các quan niệm, nhãn quang bao quát hơn và sự hiểu biết có tính cách tổng hợp. Chỉ có sự chỉ dẫn mới được đưa ra; ở đây không được phép nêu ra các công thức chuyển hóa hoặc là các linh từ đang vận dụng vật chất của không gian. Chỉ có đường lối nêu ra cho những kẻ sẵn sàng, hay là cho những kẻ tìm lại được sự hiểu biết cổ xưa (có được nhờ sự tiếp cận Thánh Đạo hay là tiềm tàng nhờ trải qua kinh nghiệm vào thời Atlantis) và các dấu mốc được nêu ra, nắm giữ sự hướng dẫn đầy đủ giúp cho họ đi sâu vào cái nhiệt khi chấp nhận điều đó dựa trên đức tin mù quáng…Những gì mà tôi rất tin tưởng vào là:
1. Truyền thuyết không bị phá vỡ được tiết lộ bởi những kẻ có cuộc sống thiêng liêng trong thời ấu trĩ của nhân loại đối với kẻ được tuyển chọn (the elect) trong nhân loại.
2. Rằng điều đó đã đến với chúng ta mà không đổi thay.
3. Rằng các Thánh Sư rất thông thạo về khoa học đã căn cứ trên lời giảng dạy ngắt quãng như thế” – Lucifer, q. V, tr. 157.
“Bộ Giáo Lý Bí Nhiệm tự bản thân nó thì “không có thẩm quyền”; nhưng có nhiều dẫn chứng và nội dung từ các Kinh Thánh và các triết lý của hầu hết mọi tôn giáo và trường phái lớn, kẻ nào thuộc về bất cứ trường phái hay tôn giáo này đều chắc chắn sẽ tìm được hậu thuẫn cho các luận cứ của họ trên trang này hoặc trang khác. Tuy nhiên, có nhiều nhà Minh Triết Thiêng Liêng (Theosophists) và trong số những kẻ lỗi lạc và sùng tín nhất, lại chịu bất lực như thế vì uy quyền”. Lucifer, q. III, 157.1 Xem Lời tựa và Dẫn Nhập, Giáo Lý Bí Nhiệm, quyển I.
mật nhiệm của tri thức. Sự nguy hiểm nằm trong chính sự kiện là toàn thể vấn đề biến tố (chuyển hóa) có liên hệ đến hình thức vật chất và chất liệu thiên thần. Con người vẫn chưa chế ngự được, ngay cả chất liệu của các thể riêng của y, cũng không ở trong sự rung động có kiểm soát (vibratory control) của trạng thái thứ ba của y, nên dễ hứng chịu nguy cơ khi y tập trung sự chú tâm của y vào Phi Ngã. Chỉ có thể hành động một cách an toàn khi nhà huyền thuật (magician) biết được 5 điều :
1. Bản chất của nguyên tử.
2. Chủ âm của các cõi.
3. Phương pháp hoạt động từ mức độ Chân ngã qua sự kiểm soát hữu thức, hiểu biết về các âm thanh bảo vệ và các công thức, và nỗ lực thuần túy vị tha.
4. Sự tương tác của 3 loại lửa, các linh từ của nguyệt cầu (lunar words), các linh từ của thái dương (solar words) và sau đó là một linh từ vũ trụ (a cosmic word).
5. Bí ẩn của rung động về điện, chỉ được hiểu một cách sơ sài khi con người biết được chủ âm của chính Hành Tinh Thượng Đế của y.
Tất cả mọi hiểu biết này, vì nó liên hệ đến ba cõi thấp, đều đang ở trong tay các Chân Sư Minh triết và giúp cho các Ngài hành động theo các đường lối năng lượng hay lực, chớ không phải với những gì thường được hiểu khi từ ngữ “chất liệu nguyên thủy” (“substance”) được sử dụng. Các Ngài hoạt động với năng lượng điện, liên kết chính các Ngài với điện tích dương, hay là với năng lượng của hạt nhân dương của sức mạnh bên trong nguyên tử, chẳng hạn, dù là nguyên tử hóa học hay nguyên tử con người. Các Ngài chăm lo đến linh hồn của các sự vật. Nhà ma thuật hành động theo khía cạnh âm, với các âm điện tử, tôi tạm gọi như thế, với lớp vỏ (các thể) chớ không phải với linh hồn. Sự phân biệt này nên được ghi nhớ rõ ràng. Nó nắm giữ manh mối đối với sự không can thiệp (non – interference) của toàn thể Huynh Đệ Đoàn trong các vấn đề và các sự việc vật chất, và sự tập trung của các Ngài trên khía cạnh sức mạnh, trên các trung tâm năng lượng. Các Ngài đạt đến tổng thể qua trung gian của một vài trung tâm lực trong một hình hài. Với tiền đề này, bây giờ chúng ta sẽ xem xét về
VẬN DỤNG HỮU THỨC CÁC LỬA
Hiện nay, điều hiển nhiên là toàn thể diễn trình biến tố như chúng ta đang bàn đến vào lúc này, chính nó liên quan đến hai loại lửa đã từng đạt đến một mức độ hoàn thiện cao trong một thái dương hệ trước :
1. Lửa của một nguyên tử dưới trạng thái lưỡng phân của nó – nội tại và phát xạ.
2. Các lửa của trí tuệ.
Chính là với các lửa này mà chính sự biến tố có liên hệ theo quan điểm nhân loại, và lửa thứ ba của Tinh Thần ở trình độ hiện nay không được xem xét đến.
Việc vận dụng hữu thức các loại lửa là đặc quyền của con người khi con người đã đạt đến một trình độ nào đó trong sự tiến hóa của mình; sự thực chứng bằng vô thức đối với điều này một cách tự nhiên đã đưa đến các cố gắng của nhà luyện đan để chuyển hóa trong giới khoáng chất. Qua nhiều thời đại, một vài nhà nghiên cứu già dặn đã hiểu sự bao la của nỗ lực mà trong đó sự biến tố của các kim loại căn bản thành ra vàng chỉ mới bắt đầu và là một biểu tượng, một giai đoạn gợi ý, bóng bẩy và cụ thể. Toàn thể vấn đề biến tố (hay hoán cải vật chất, transmutation) được bao phủ bởi công việc của Thánh Đoàn trong tất cả ba bộ môn trên hành tinh này, và chúng ta có thể có một số ý kiến về các vấn đề có liên quan, nếu chúng ta đã nghiên cứu quan điểm rộng lớn này của Thánh Đoàn, nhờ đó có một ý niệm về công việc đã làm trong việc trợ giúp diễn trình tiến hóa. Đó là việc chuyển di sự sống từ một giai đoạn của sự sống nguyên tử đến một giai đoạn khác, và điều đó bao hàm ba bước riêng biệt, vốn có thể được nhìn thấy và vạch ra nhờ nhãn thông cao cấp và từ các cõi cao. Các giai đoạn này là :
Giai đoạn Lửa (The fiery stage) tức thời kỳ phối hợp, tan hòa, bùng cháy, mọi nguyên tử đều trải qua giai đoạn này trong khi hình hài tan rã.
Giai đoạn hòa tan (The solvent stage) trong đó hình hài bị tan rã, còn chất liệu được giữ lại trong dung dịch, nguyên tử được tan hòa thành lưỡng nguyên bản thể của nó.
Giai đoạn bốc hơi. (The volatile stage) có liên hệ trước tiên đến tính chất cốt yếu của nguyên tử và sự thoát ra của bản thể này, để sau đó khoác lấy một hình hài mới.
Tính phóng xạ, sự hòa tan do tan rã (pralayic solution), và tính dễ bay hơi chủ yếu (essential volatility) có thể nói lên ý tưởng. Trong mọi diễn trình chuyển hóa, ba giai đoạn này đều được noi theo mà không có ngoại lệ. Về mặt huyền linh, trong Cổ Luận, chúng được diễn tả như sau :
“Các cuộc sống rực lửa bùng cháy trong lòng Mẹ.
“Trung tâm rực lửa trải rộng đến ngoại biên của vòng tròn và sự tan rã xảy đến bất ngờ và sự yên bình do tan rã.
“Con trở lại lòng Cha, và Mẹ im lìm yên nghỉ”.
Hợp tác với các Đại Thiên Thần, chính các Chân Sư bận tâm đến diễn trình chuyển hóa này, và mỗi bộ môn có thể được xem như có liên hệ với một trong ba giai đoạn sau :
Bộ môn của Đức Mahachohan trong năm biến phân của nó có liên quan đến sự bùng cháy của các hỏa sinh linh (the fiery lives).
Bộ môn của Đức Bàn Cổ chính nó liên hệ với hình hài hay là vòng giới hạn đang bao quanh các sinh linh cháy rực (burning lives).
Bộ môn của Đức Bồ Tát liên hệ đến sự tái lâm của Đấng Con vào lòng Cha.
Trong bộ môn của Đức Mahachohan, một sự phân chia phụ theo các đường lối này có thể được phác họa :
Cung 7 và Cung 5 có dính líu với việc Đấng Con trở về với Cha và được tập trung chủ yếu là trong việc tuôn đổ sức mạnh chứa năng lượng khi nào nó trở nên cần thiết để chuyển di sự sống của Con từ hình hài cũ vào trong một hình hài mới, từ một giới của thiên nhiên đến một giới khác trên Con đường Trở Về.
Cung 3 và Cung 6 liên quan đến sự bùng cháy của các hỏa sinh linh.
Cung 4 phối hợp với 2 lửa trong hình thức nguyên tử.
Do sự khảo cứu kỹ càng các tế phân này, người ta sẽ thấy sự hợp tác chặt chẽ như thế nào giữa các nhóm khác nhau, và các hoạt động của chúng được liên kết hỗ tương như thế nào. Công việc của Thánh Đoàn luôn luôn có thể được diễn dịch bằng các thuật ngữ của khoa luyện đan, các hoạt động của các Ngài có liên quan đến sự chuyển hóa tam phân. Công tác này được các Ngài tiến hành một cách hữu thức và xảy ra bất ngờ dựa vào sự khai phóng riêng của các Ngài.
Một Chân Sư chuyển hóa trong ba cõi thấp và chủ yếu liên hệ chính Ngài với diễn tiến trên mười tám cõi phụ, tức trường tiến hóa rộng lớn của con người và với đoạn đường của sự sống suốt cả thể vật chất trọng trược của Thượng Đế. Các vị Chohan được 6 lần điểm đạo hoạt động trong chất dĩ thái thứ 4 và 5 của thể dĩ thái Thượng Đế (cõi Bồ đề và cõi Niết Bàn) và hành xử với giai đoạn của sự sống Tinh thần từ hình thể đến hình thể trong các cõi này, có trước mắt sự chuyển hóa của các đơn vị trong giới tâm linh thành giới Chân Thần. Các vị này vẫn còn ở trên các cõi cao – các vị Phật và các Huynh Đệ của các Ngài thuộc các cung 1 và 3 – liên quan với giai đoạn cuộc sống vào trong các cõi á nguyên tử và cõi nguyên của cõi hồng trần vũ trụ. Những gì được nói đến đang áp dụng cho mọi nỗ lực của Thánh Đoàn trong mọi hành tinh hệ và trên mọi bầu hành tinh, vì sự hợp nhất của nỗ lực thì có tính cách đại đồng. Trong mọi trường hợp, sự kiểm soát hữu thức tự tạo, hay là uy quyền, xảy ra trước năng lực chuyển hóa. Các đạo đồ học cách chuyển hóa và chăm sóc đoạn đường của sự sống ra khỏi giới động vật, vào giới nhân loại sau cuộc Điểm Đạo thứ ba, và trong các giai đoạn sớm sủa hơn của lúc điểm đạo, công thức kiểm soát các tiểu thiên thần và tạo ra các kết quả trong việc phối hợp của giới thứ 2 và giới thứ 3 được truyền đạt; chúng tác động dưới sự bảo vệ và giám sát.
Người tiến hóa về mặt tinh thần sẽ có thể hợp tác trong cách tổng hợp công việc và giải quyết sự chuyển hóa của các kim loại, vì tỷ lệ phát triển tinh thần của những người này đối với tỷ lệ phát triển của các yếu tố khoáng chất và các tác nhân kiến tạo, mà họ muốn kiềm chế cũng tương tự như trong các trường hợp nêu trên và các cấp độ tâm thức, nhưng do bởi các phát triển tai hại vào thời Atlantis và việc làm mất tác dụng sau đó của sự tiến hóa tinh thần trong một thời gian cho đến khi karma được hiệu chỉnh, nghệ thuật đã thất tung, hay đúng hơn, sự hiểu biết được bảo vệ cho đến một giai đoạn được đạt đến trong sự tiến hóa chủng tộc, trong đó thể xác đủ tinh anh để cưỡng lại các sức mạnh được tiếp xúc, và để thoát khỏi tiến trình chuyển hóa hóa học được cải thiện, không những bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm mà còn được tăng cường trong kết cấu bên trong của riêng nó.
Theo thời gian qua, con người sẽ dần dần thực hiện được 4 điều :
1. Phục hồi tri thức và các năng lực trước kia đã được phát triển vào thời Atlantis.
2. Tạo ra các thể đề kháng lại các hỏa tinh linh (fire elementals) thuộc loại thấp đang tác động trong giới khoáng chất.
3. Hiểu rõ ý nghĩa bên trong của tính phóng xạ hay là phóng thích sức mạnh có sẵn trong mọi bản tố/ hành (elements) và mọi nguyên tử hóa học và trong mọi khoáng chất đích thực.
4. Hạ giảm công thức của các nhà hóa học và khoa học sau này thành ÂM THANH và không đơn thuần diễn giải qua kinh nghiệm trên giấy tờ. Trong phát biểu cuối cùng này có tàng ẩn (đối với những ai có thể nhận thức được) ẩn ngôn hữu ích nhất cho đến nay có thể truyền đạt được về vấn đề này.
Có lẽ hình như là tôi không phổ biến nhiều chi tiết liên quan đến việc vận dụng hữu thức các loại lửa. Điều đó nằm trong sự bất lực của người nghiên cứu khi lý giải lai lịch huyền bí của các điều đã được truyền đạt ở trên. Sự chuyển hóa hữu thức chỉ có thể xảy ra khi con người đã chuyển hóa các yếu tố trong các hiện thể của riêng y; chỉ lúc bấy giờ y mới có thể được phó thác cho các bí ẩn về sự siêu chuyển thiêng liêng (divine alchemy). Khi nào qua các lửa nội tại tiềm tàng của vật chất của các thể của riêng y, y đã chuyển hóa các nguyên tử hóa học và nguyên tử khoáng chất của các thể này, lúc bấy giờ y mới có thể an toàn – qua ái lực (affinity) của chất liệu nguyên thủy trợ giúp vào việc chuyển hóa khoáng chất của cấp 1. Chỉ khi nào (qua các lửa bức xạ của các thể) y đã chuyển hóa sự tương ứng đối với giới thực vật trong cơ thể riêng của y, lúc bấy giờ y có thể nhờ siêu chuyển mà tác động đến cấp thứ hai. Chỉ khi nào các lửa của thể trí trong chính y trở nên thống ngự, y mới có thể hoạt động với các tiến trình chuyển hóa của cấp ba, hay là với sự hoán chuyển sự sống vào các hình hài động vật. Chỉ khi nào Nội Ngã hay Chân Ngã trong linh hồn thể kiểm soát phàm ngã tam phân của y, lúc đó về mặt huyền linh, y mới được phép trở thành nhà luyện đan ở cấp thứ 4 và hoạt động liên hệ với sự chuyển hóa của chân thần động vật vào trong giới nhân loại, với mọi hiểu biết rộng lớn được bao hàm trong ý tưởng đó. Nhiều điều trước mắt cần phải được hoàn thành, nhưng trong cách đánh giá về tầm quan trọng của công việc cần phải có nhiều can đảm vì trong nét phác họa sáng suốt về tương lai, trong việc thận trọng truyền bá sự hiểu biết liên hệ đến các giai đoạn cần thiết, sẽ xảy ra sự nỗ lực bền bĩ và nhắm vào phía của nhiều kẻ có đạo tâm và đem lại sự tiến hóa cho những kẻ có thể thành đạt.
Vấn đề được bàn đến một cách rõ ràng về đề tài chuyển hóa này là một vấn đề rất thực tiễn, do bởi sự bao la của đề tài và sự kiện nằm ở chỗ trong diễn trình chuyển hóa, nhà huyền thuật hay nhà luyện đan tác động với tinh chất thiên thần (deva essence) qua sự kiểm soát của các Vị Kiến Tạo thứ yếu trong sự hợp tác với các Đại Thiên Thần. Do đó, để đem lại sự sáng tỏ cho ý tưởng và để cho sự phỏng đoán được rõ ràng, trước tiên, tôi muốn nêu ra một số định đề cần phải được cẩn thận ghi nhớ khi xem xét vấn đề chuyển hóa này. Có tất cả năm định đề và liên hệ đặc biệt với lãnh vực mà diễn trình chuyển hóa được xúc tiến. Môn sinh phải nhận ra chỗ tiếp nối này để phân biệt giữa tà phái và chính phái. Ở đây có thể là hữu ích trước khi tiếp tục đi sâu vào để xét đến các phân biệt, bao giờ chúng còn có liên hệ đến vấn đề đang xem xét:
Thứ 1. Chính phái liên kết với năng lượng điện dương. Tà phái liên kết với năng lượng điện âm.
Thứ 2. Chính phái bận tâm đến linh hồn của các vật. Tà phái tập trung sự chú tâm vào hình hài.
Thứ 3. Chính phái phát triển năng lượng có sẵn của lãnh vực liên hệ (dù là con người, con vật, cây cỏ hoặc khoáng chất), và tạo ra các kết quả qua các hoạt động tự tạo của sự sống trung ương, dưới nhân loại, nhân loại hay siêu nhân loại. Tà phái đạt đến kết quả qua tác nhân của mãnh lực bên ngoài, đối với lãnh vực được bao hàm và tạo ra sự chuyển hóa qua tác động của các chất dung giải (tôi tạm gọi như thế) hay là qua phương pháp thu vào hình hài hơn là qua sự tỏa ra như chính phái đang làm.
Các dị đồng về phương pháp này cần được thận trọng xem xét, và phản ứng của chúng được hình dung có liên quan với các yếu tố, các nguyên tử và các hình hài khác nhau. Trở lại với các phát biểu của chúng ta về 5 định đề liên quan đến sự chuyển hóa chất liệu nguyên thủy, sự dung giải của sự sống, hay là sự chuyển di năng lượng vào các hình thức khác nhau.
NĂM ĐỊNH ĐỀ
Định đề I. Mọi vật chất đều là vật chất có sự sống hay là chất sống của các thực thể thiên thần. Thí dụ, một cõi giới và các hình hài được kiến tạo bằng chất liệu đặc biệt của cõi đó, chính là hình hài vật chất hay lớp vỏ của một đại thiên thần, vị này là cốt lõi (essence) ở phía sau của biểu lộ và là linh hồn của cõi đó.
Định đề II. Mọi hình hài, đang rung động với bất luận chủ âm nào, đều được làm ra bởi các thiên thần kiến tạo, bằng chất liệu của chính các thể của các thiên thần. Do đó, chúng được gọi là trạng thái Mẹ vĩ đại vì chúng tạo ra hình hài bằng chất liệu riêng của các devas này.
Định đề III. Các thiên thần là sự sống vốn tạo ra sự cố kết hình hài (form-cohesion). Các Ngài là trạng thái/ ngôi 2 và 3 được phối hợp và có thể được xem như sự sống của mọi hình hài dưới con người. Do đó, một nhà huyền thuật, đang chuyển hóa trong giới khoáng chất, thực sự y đang tác động với tinh chất thiên thần dưới hình thức tối sơ của nó trên cung thăng thượng tiến hóa và phải ghi nhớ 3 điều :
a. Hiệu quả của sức kéo lui của các sinh linh giáng hạ tiến hóa nằm ở sau khoáng chất, hay là thực ra là sự di truyền của nó.
b. Bản chất thất phân của nhóm devas đặc thù đang cấu thành bản thể của nó theo ý nghĩa huyền linh.
c. Giai đoạn chuyển tiếp kế cận về phía trước thành giới thực vật hay là hiệu quả huyền bí của giới thứ 2 trên giới thứ nhất.
Định đề IV. Mọi tinh chất thiên thần (deva essences) và các vị kiến tạo trên cõi trần đều đặc biệt nguy hiểm cho con người, vì các vị đó tác động trên các phân cảnh dĩ thái và – như tôi có nêu ra ở trước – là các tác nhân truyền chuyển prana, hay là chất sống làm linh hoạt và do vậy, họ phóng thích vào kẻ vô minh và kẻ thiếu thận trọng, loại tinh chất lửa (fiery essence) có tính thiêu rụi và phá hủy.
Định đề V. Các devas không tác động như các đơn vị hữu thức đã biệt ngã hóa qua các mục tiêu tự khai mở như một người, một Hành Tinh Thượng Đế hay một Thái Dương Thượng Đế đang làm (được xem như các Egos), mà họ hoạt động trong các nhóm phụ thuộc vào :
a. Xung lực có sẵn, hay sự trí tuệ linh hoạt tiềm tàng.
b. Các thứ tự xuất phát bởi các vị Kiến Tạo vĩ đại.
c. Nghi thức hay sự cưỡng bách được gợi ra qua màu sắc và âm thanh.
Khi các yếu tố này được ghi nhớ và xem xét, một số hiểu biết về vị trí mà các devas góp phần trong việc chuyển hóa có thể được hoàn thành. Vị thế mà lửa chiếm giữ trong diễn trình có sức thu hút đặc biệt ở đây vì nó làm lộ ra sự dị biệt rõ ràng về phương pháp giữa hai trường phái.
Trong tiến trình chuyển hóa như đã được Thánh Đoàn xúc tiến, nội hỏa đang làm sinh động nguyên tử, hình hài hoặc con người được khơi động, làm bùng lên và củng cố cho đến khi nó (qua sức mạnh bên trong của riêng nó) thiêu rụi các lớp vỏ của nó và thoát ra bằng bức xạ từ bên trong vòng giới hạn của nó. Điều này được nhận thấy bằng một phương cách lý thú như đang xảy ra trong tiến trình của các cuộc điểm đạo cuối cùng khi linh hồn thể bị lửa thiêu rụi. Luồng nội hỏa đốt cháy mọi cái khác và lửa điện thoát ra. Do đó, nhà luyện đan chân chính, trong tương lai, ở mọi trường hợp đều tìm cách kích động tính phóng xạ của nguyên tố hoặc nguyên tử mà y đang tác động đến và sẽ tập trung sự chú tâm của y vào hạt nhân dương. Bằng sự tăng gia mức rung động của nó, hoạt động của nó, hay tính chất dương của nó, y sẽ mang lại mục đích mong muốn. Các Đức Thầy làm điều này có liên quan đến tinh thần nhân loại, và chính các Ngài không có liên hệ chút nào với trạng thái “deva” của con người. Cùng một qui tắc căn bản sẽ được tìm thấy để áp dụng trong trường hợp một khoáng chất cũng như của con người.
Tiến trình do bên Hắc Phái xúc tiến thì ngược lại. Họ tập trung sự chú tâm vào hình hài và tìm cách làm tan vỡ hình hài đó, hay tìm cách phối hợp các nguyên tử, để làm cho sự sống mang điện ở trung tâm thoát ra. Họ tạo ra kết quả này do các tác động bên ngoài và bằng cách lợi dụng bản chất hủy diệt của chính chất liệu (tinh chất deva). Họ đốt cháy và phá hủy lớp vỏ vật chất, tìm cách giam nhốt tinh chất dễ bay hơi đang thoát ra khi hình hài tan rã. Điều này ngăn trở cơ tiến hóa trong trường hợp liên quan đến sự sống, trì hoãn sự hoàn thành, can dự vào tiến trình phát triển đã ấn định và đặt tất cả các yếu tố có liên quan vào một vị trí không thích hợp. Sự sống (hay thực thể) có liên quan gặp trở lực, các thiên thần hoạt động theo khía cạnh phá hoại và không có sự tham gia vào mục đích của thiên cơ, còn nhà huyền linh học đang ở vào tình trạng nguy hiểm, theo luật karma và qua sự vật chất hóa (materialising) chất liệu riêng của y bằng ái lực với trạng thái thứ 3. Với tính chất này, ma thuật sẽ xâm nhập vào mọi tôn giáo theo chính đường lối phá hủy hình hài do tác động bên ngoài, chớ không qua sự phóng khoáng của Sự sống do phát triển bên trong và chuẩn bị bên trong. Nó tạo ra các tệ hại của Hatha Yoga ở Ấn Độ và các phương pháp tương tự như được thực hành trong một vài đẳng cấp tôn giáo, cũng như trong đẳng cấp huyền bí học ở phương Tây. Cả hai cùng tác động với vật chất trên một cõi nào đó trong 3 cõi thấp và điều tệ hại có thể xảy đến; cả hai đều kiểm soát các devas và cố tạo ra các mục tiêu đặc biệt bằng cách vận dụng vật chất của hình hài. Thánh Đoàn hoạt động với linh hồn bên trong hình hài và tạo nên các kết quả sáng suốt, tự tạo và thường tồn. Trong khi đó hắc phái chú ý vào hình hài chớ không phải vào Tinh Thần, có khuynh hướng sùng bái deva, tiếp xúc với deva vì hình hài được tạo bằng chất liệu deva trên mọi cõi giới.
Điều này phải được xem xét kỹ liên quan với mọi hình hài vì nó nắm giữ chìa khóa cho nhiều bí ẩn.
Trong vấn đề chuyển di sự sống từ hình hài đến hình hài này, chúng ta đã thấy công việc diễn tiến theo qui tắc và trật tự như thế nào và đạt được hiệu quả nhờ sự hợp tác của các devas trong trường hợp thứ nhất, và việc áp đặt các tác nhân bên ngoài vào nguyên tử hoặc hình hài có liên hệ, và trong chỗ thứ 2 (liên quan đến giai đoạn quan trọng nhất và kéo dài nhất của cách hành động), qua phản ứng tiếp theo sau trong chính nguyên tử, nó tạo ra một sự tăng gia của trung tâm dương đang bùng cháy và sự thoát ra sau đó (qua phóng xạ) của tinh chất dễ bay hơi.
Ở tất cả các giai đoạn khác nhau, các hỏa tinh linh hoàn thành được phần việc của chúng nhờ sự trợ giúp của các hỏa thiên thần, các thần này là các tác nhân kiểm soát. Điều này diễn ra như thế trên mọi cõi giới có liên hệ trước tiên với chúng ta trong ba cõi thấp – các nhóm devas khác nhau bắt đầu tác động tùy theo bản chất của hình hài có liên hệ, và cõi mà trên đó xảy ra sự chuyển hóa. Lửa điện chuyển từ nguyên tử này đến nguyên tử khác đúng theo thiên luật, và “lửa do ma sát” đáp ứng, vốn là lửa tiềm tàng của nguyên tử, hay là trạng thái âm của nó; tiến trình được xúc tiến qua trung gian của lửa thái dương và nơi đây chứa bí ẩn của sự chuyển hóa và khía cạnh bí hiểm nhất của nó. Lửa do ma sát, điện âm của chất liệu nguyên thủy, trong một thời gian đã là vấn đề chú tâm của khoa học công truyền, và sự tìm tòi về bản chất của điện dương trở nên khả hữu qua sự khám phá ra chất radium (một chất phóng xạ tự nhiên, mạnh hơn cả uranium, ND).
Như H.P.B. đã đề cập đến (GLBN I, 172, 607 - 611), Keely đã vượt xa trên con đường này và thậm chí còn biết nhiều hơn những gì ông ấy đưa ra, và những kẻ khác đã tiến đến hay đang tiến đến cùng mục tiêu. Bước tiến kế tiếp sau này của khoa học nằm trong chiều hướng này, và sẽ liên hệ đến sức mạnh tiềm tàng của chính nguyên tử và việc khai thác nó để cho con người sử dụng. Việc này sẽ phóng thích ra trên địa cầu một khối năng lượng khủng khiếp. Tuy nhiên chỉ khi nào yếu tố thứ ba được hiểu rõ, và khoa học thừa nhận lực gây tác dụng (agency) của lửa trí tuệ, như đã biểu hiện trong một số nhóm devas rằng sức mạnh của năng lượng vốn có ba mặt và một trong ba cõi thấp sẽ trở nên hữu ích cho sự giúp đỡ của con người. Cho đến nay, điều này hãy còn xa xôi và sẽ chỉ có thể xảy ra vào cuối cuộc tuần hoàn này; và các mãnh lực này sẽ không được vận dụng một cách đầy đủ, cũng không được nhận biết đầy đủ cho đến giữa cuộc tuần hoàn sắp tới. Vào lúc ấy, nhiều năng lượng sẽ trở nên hữu dụng do việc loại bỏ được hết tất cả những gì ngăn trở. Điều này có hiệu quả liên hệ tới con người vào lúc có sự chia tách do Phán Xét, nhưng nó cũng sẽ tạo nên kết quả trong các giới khác của thiên nhiên. Một phần của giới động vật sẽ tạm thời tiến vào thời kỳ qui ẩn tạm, như vậy để thoát ra năng lượng sử dụng cho tỷ lệ còn lại và tạo ra các kết quả như đã đề cập đến bởi nhà tiên tri của Do Thái (Thánh Kinh, Isaiah 11:6) khi vị này nói đến “muông sói sẽ ở với chiên con”; lời bình luận của tiên tri đó “một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi” là việc bàn rộng về sự kiện huyền linh rằng 3/5 nhân loại sẽ bước lên Thánh đạo, “con trẻ” là tên gọi dùng cho đệ tử dự bị và đệ tử chính thức. Trong giới thực vật và khoáng chất, sự biểu lộ tương tự sẽ xảy ra, nhưng với bản chất thật quá khó hiểu cho chúng ta.
Yếu tố chính của lửa thái dương trong công cuộc chuyển hóa sẽ bắt đầu được hiểu rõ qua sự khảo cứu các hỏa thiên thần và các hỏa tinh linh, chúng vốn là lửa và trong chính chúng (một cách chính yếu và xuyên qua bức xạ từ linh hoạt), nhiệt bên ngoài hay rung động đang tạo ra:
Mãnh lực đang tác động trên vách hình cầu của nguyên tử.
Sự đáp ứng bên trong nguyên tử đang tạo ra bức xạ hay là sự thoát ra của tinh chất không ổn định (volatile essence).
Nói về mặt vũ trụ và xem thái dương hệ như chính là một nguyên tử của vũ trụ, chúng ta thấy rằng: “Các abstraction hay các entities ẩn trong hình hài chính là “lửa điện”. Chất liệu của vật chất đang nằm trong vòng giới hạn được xem như là một tổng thể đồng nhất, là “lửa do ma sát”.
Các hỏa thiên thần từ cõi trí vũ trụ (trong đó Agni và Indra là các tác nhân tiêu biểu cùng với một vị mà danh xưng không được nêu ra) là các tác nhân bên ngoài, chính các Ngài mang lại sự chuyển hóa của vũ trụ.
Ba điều nói trên đây có thể được áp dụng cho một hệ hành tinh, một dãy hay cũng cho một bầu hành tinh, luôn luôn nhớ rằng trong mối liên hệ với con người, lửa vốn là trạng thái thứ ba của con người xuất phát từ trí tuệ của thái dương hệ.
Chúng ta đã bàn một cách rộng rãi và khái quát về vấn đề điện này, và đã thấy rằng tinh hoa của lửa hay chất liệu nguyên thủy bị phân tán qua hoạt động bên trong và nhiệt bên ngoài, theo một cách thức như là lửa điện ở trung tâm của nguyên tử được giải thoát và tìm kiếm một hình thức mới. Đây là mục tiêu của tiến trình biến tố và là sự kiện mà cho đến nay các nhà luyện đan đang làm trong giới khoáng chất đã thất bại không đạt được mục tiêu do 3 sự kiện :
Thứ nhất. Không thể tiếp xúc được với tia lửa điện trung ương. Điều này do việc không hiểu biết về một số định luật điện, và trên hết là việc không lập được công thức che giấu phạm vi (the range) của ảnh hưởng điện của tia lửa đó.
Thứ hai. Không thể tạo ra vận hà cần thiết hay “con đường” mà theo đó sự sống đang thoát ra có thể đi vào hình hài mới của nó. Nhiều người đã thành công trong việc phá vỡ hình hài để cho sự sống thoát ra, nhưng họ lại không biết làm thế nào để khiển dụng (harness) hoặc hướng dẫn nó, do đó mọi công lao của họ tất nhiên là bị mất đi.
Thứ ba. Không thể kiểm soát các hỏa tinh linh, chúng là lửa bên ngoài đang tác động vào tia lửa trung ương qua trung gian của môi trường chung quanh của nó. Sự bất lực này là nét độc đáo nhất của các nhà luyện đan thuộc căn chủng thứ 5, họ đã thực sự bất lực đối với việc kiểm soát này, đã đánh mất các Linh Từ, các công thức và các âm thanh. Đây là hậu quả của thành công không thích hợp vào thời Atlantis, khi các nhà luyện đan thời ấy, qua màu sắc và âm thanh, hoàn toàn kiểm soát các tinh linh, đến nỗi họ dùng chúng cho các mục đích ích kỷ của riêng họ và theo các đường lối nỗ lực ngoài lĩnh vực chính thức của họ. Việc hiểu biết các công thức và âm thanh này có thể đạt được tương đối dễ dàng khi con người khai mở được thính giác tinh thần bên trong. Khi trường hợp này xảy ra, tiến trình chuyển hóa của các loài thô trược hơn (như có liên quan trong việc chế biến vàng nguyên chất) sẽ không làm cho y quan tâm đến chút nào và chỉ khi nào các hình thức tế nhị hơn của hoạt động hiện đang có liên hệ với sự chuyển di sự sống từ hình thức đã được phân cấp đến hình thức sẽ lôi cuốn sự chú ý của y.
Các sự kiện sau đây cũng có thể được nêu ra :
Thứ nhất. Mỗi giới của thiên nhiên đều có nốt hay âm điệu (tone) riêng của nó, và các âm của thần chú, vốn có liên hệ với bất cứ tiến trình chuyển hóa nào trong giới đó, sẽ nhận nốt đó như là chủ điểm (key) hay là nốt cơ bản (base note).
Thứ hai. Nốt của giới khoáng chất là nốt cơ bản của chính chất liệu nguyên thủy và chủ yếu, nốt đó là âm thanh (sounding) của các phối hợp của nốt, dựa trên chủ điểm này, nó tạo ra các tai họa lớn lao trên thế gian, thể hiện qua hoạt động núi lửa. Mọi hỏa sơn đều đang phát ra nốt này, và đối với những ai có thể thấy, âm thanh và màu sắc (hiểu theo mặt huyền linh) của một hỏa sơn là một lĩnh vực thực là phi thường. Mọi phân cấp của nốt đó đều được tìm thấy trong giới khoáng chất, hiện đang được phân chia thành ba giới chính :
a. Các kim loại thường như là chì và sắt với tất cả các khoáng chất kết hợp.
b. Các kim loại tiêu chuẩn, như là vàng và bạc, đang đóng một vai trò chủ yếu trong đời sống của nhân loại và là biểu lộ khoáng chất thuộc trạng thái thứ 2.
c. Pha lê và các thứ đá quý, trạng thái thứ 1 như nó đang thể hiện trong giới khoáng chất – sự hoàn thành công tác của các devas khoáng chất và là sản phẩm của các nỗ lực không mệt mỏi của họ.
Khi các nhà khoa học đánh giá đầy đủ những gì tạo nên sự dị biệt giữa lam ngọc (sapphire) và hồng ngọc (ruby), họ sẽ khám phá những gì tạo nên một trong các giai đoạn của diễn trình biến tố (chuyển hóa), và điều này họ không thể làm được cho đến khi chất dĩ thái thứ tư được kiểm soát và bí ẩn của nó được khám phá. Theo thời gian qua, sự chuyển hóa, thí dụ, của than đá thành kim cương, của chì thành bạc hay của một số kim loại thành vàng sẽ không còn hấp dẫn đối với con người nữa, vì người ta sẽ nhận thấy rằng hậu quả của tác động như thế sẽ tạo nên sự hư hỏng của tiêu chuẩn, và kết cuộc là chịu nghèo nàn thay vì được giàu sang; rốt cuộc, con người sẽ nhận ra được điều đó trong năng lượng nguyên tử, đã khai thác cho nhu cầu của con người, hay là giảm bớt tính phóng xạ đang tăng lên, dẫn đến cho y con đường thịnh vượng và phong phú. Do đó, con người sẽ tập trung sự chú ý của mình vào hình thức cao này của việc chuyển di sự sống và :
a. Nhờ sự hiểu biết về các devas,
b. Nhờ sức ép và rung động bên ngoài,
c. Nhờ kích thích bên trong.
d. Nhờ màu sắc được áp dụng trong sự kích thích và việc đem lại sinh khí,
e. Nhờ các âm của thần chú,
con người sẽ tìm được bí ẩn của năng lượng nguyên tử, tiềm tàng trong giới khoáng chất và sẽ uốn nắn năng lực và sức mạnh không thể nhận thức được đó, và đưa tới việc giải quyết các vấn đề của sự sống. Chỉ khi nào năng lượng nguyên tử được hiểu rõ hơn và bản chất của dĩ thái thứ 4 được hiểu một phần nào, chúng ta sẽ thấy rằng sự kiểm soát không khí chắc chắn sẽ đứng vào hàng đầu.
Thứ ba. Bằng cách khám phá ra nốt của giới thực vật, bằng cách liên kết nốt đó với các nốt khác của thiên nhiên, và bằng sự ngân lên đúng lúc của nó theo các khóa (keys) và các cách phối hợp khác nhau, sẽ có thể đưa đến việc tạo ra những kết quả kỳ diệu trong giới đó, và kích thích các hoạt động của các devas đang tác động vào hoa, quả, cây và cỏ.
Mọi căn chủng đều có kiểu mẫu thực vật riêng biệt cho căn chủng ấy, hay là một số hình thể và các thiết kế cơ bản có thể được phác họa trong các quốc gia mà căn chủng ấy có vị trí trong đó. Các kết quả này được mang đến do sự tương tác giữa nốt cơ bản của chính giới thực vật với nốt của con người đang tiến hóa đồng thời. Sự hợp nhất của 2 nốt này là cái vốn đang tạo ra thực vật đặc biệt, mặc dù, nên nhớ rằng, khi nốt của con người thống ngự quá mạnh, nó có khả năng đánh bạt ra sự sống của các hình hài thuộc giới thứ 2 này. Các devas đang tác động trong giới này là một nhóm đặc biệt, có liên hệ chặt chẽ và đặc biệt với giới đó hơn là với các vị kiến tạo, hay là các devas trong bất luận giới nào khác. Tiến trình chuyển hóa được thực hiện một cách dễ dàng trong giới thực vật hơn là trong bất cứ giới nào khác, nhờ bởi chính yếu tố này và cũng nhờ sự thúc đẩy được đưa ra cho giới thứ 2 này, và diễn trình tiến hóa của nó do việc giáng lâm của các Hỏa Tinh Quân, từ bầu thứ 2 hay Kim Tinh – nổi bật là bầu mà trong đó giới này đang có một liên hệ huyền bí. Tôi tạm diễn tả điều đó bằng cách khác: Thực Thể Thông Linh vũ trụ, Ngài là sự sống của bầu thứ 2 và là nguyên khí sinh động của bầu đó, vốn có liên hệ chặt chẽ với Thực Thể Thông Linh thái dương, Đấng này lại là sự sống sinh động của toàn thể giới thực vật. Sự tương đồng này có thể được thể hiện trong sự liên hệ với các giới khác, các bầu và các hình hài khác và giải thích được phần nào sự kiện rằng bầu thứ 4 này (1) (2) ở trên mọi bầu khác với bầu mà nhân loại hiện đang tiến hóa trong hệ thống này; điều đó cũng đem lại manh mối cho bí ẩn của Bản Lai Diện Mục (the Presence) của chính Đức Kumara vĩ đại trên địa cầu. Các ý tưởng này đáng được chú tâm nghiên cứu.
Nốt của giới nhân loại, được ngân lên với cường độ gấp 4 trên bầu hành tinh này đã tạo ra các sự kiện báo điềm gở
Ghi chú (1): Cuộc tuần hoàn thứ 4. Cuộc Tuần Hoàn hiện tại (của chúng ta) đang là cuộc Tuần Hoàn giữa (giữa các cuộc Tuần hoàn 1, 2, 3 và 5, 6, 7) là cuộc Tuần hoàn hiệu chỉnh (adjustment) và là sự cân bằng cuối cùng (final equipoise) giữa Tinh Thần với Vật Chất. Tóm lại, chính ở điểm đó có sự ngự trị của vật chất đích thực, trạng thái thô sơ nhất của nó (mà khoa học không biết rõ cũng như đối cực của nó – vật chất đồng nhất hay chất liệu nguyên thủy) dừng lại và đến chỗ kết thúc. Từ điểm đó con người vật chất bắt đầu loại bỏ hết “lớp vỏ này đến lớp vỏ khác”, của các phân tử vật chất của mình cho lợi ích và việc thành lập tiếp theo sau, hay lớp áo (clothing) của giới động vật, mà đến lượt nó được chuyển sang thực vật, và từ giới thực vật đến giới khoáng chất. Con người đã tiến hóa trong cuộc tuần hoàn thứ 1 từ động vật qua 2 giới kia, điều có thể suy luận là trong cuộc tuần hoàn hiện tại, con người sẽ xuất hiện trước thế giới động vật của chu kỳ khai nguyên này. Hãy xem GLBN về các đặc điểm. Tạp chí Lucifer, quyển III, 253 2 GLBN I, 107
(portentous happenings), và tôi xin gợi ý cho các nhà khảo cứu huyền linh nên nghiên cứu kỹ lưỡng các biểu lộ sau đây trong thời gian và không gian:
1. Huyền Giai Sáng Tạo thứ 4… Nhân loại
2. Hệ Hành tinh thứ 4 ………… Địa cầu hệ chúng ta
3. Dãy thứ 4 ……………………. Dãy địa cầu
4. Bầu thứ 4 ……………………. Hành tinh chúng ta
5. Giới thứ 4 ……………………. Nhân loại
6. Cuộc tuần hoàn thứ 4……….. Cuộc tuần thứ 1 hoàn toàn của con người.
7. Bốn vị Kumaras ………………. Các Đấng Biểu Hiện của Nhân loại
8. Cõi thứ 4………………………. Cõi Bồ đề, mục tiêu của con người.
9. Dĩ thái thứ 4 ………………….. Sự tương ứng vật chất của cõi Bồ đề.
Một âm căn bản được đáp ứng bằng tất cả các yếu tố khác nhau này; đó là nốt hiện là nguyên nhân hiện tồn của chúng và cơ bản của các bản thể của chúng. Nếu tìm kiếm và nhận ra, nốt này sẽ đem lại sự kết hợp chặt chẽ tất cả các yếu tố này, cho đến khi chúng được phối hợp thành một hợp nhất huyền linh vĩ đại; nó cũng sẽ đem lại sự hợp tác cho nhóm devas hiện là tinh hoa của nguyên khí thứ 4 của con người.
b. Tổng hợp. Chúng ta đã thấy rằng trong các giống dân và phụ chủng sắp tới, một vài phát triển rất rõ rệt có thể được chờ đợi liên quan với sự mở trí; và điều đáng được chú ý đặc biệt là xét về mặt tiến hóa trí tuệ trong cuộc tuần hoàn này, giai đoạn nở rộ cao nhất của cuộc tuần hoàn đó có thể được chờ đợi trong vòng 500 năm tới. Việc xuất lộ của 2 căn chủng cuối cùng đánh dấu điểm tổng hợp và việc sử dụng dần dần những gì đã đạt được về mặt trí tuệ; điều này sẽ được mang lại do việc phát triển tư tưởng trừu tượng và việc nhận thức bằng trực giác. Nói cách khác, trí tuệ (trong ba căn chủng đã qua) chủ yếu là được áp dụng vào việc tìm hiểu cách sống biểu lộ bên ngoài, đối với việc thích ứng với Chủ Thể trong hình hài đối với môi trường quanh y trên cõi trần. Từ nay, khuynh hướng hoạt động sẽ là hướng về tìm hiểu khía cạnh biểu lộ bên trong, và hướng về sự hiểu biết tâm linh (psyche) của sự sống cá nhân, về thiêng liêng, về hành tinh hay về con người. Trong cuộc tuần hoàn sắp tới, tất cả các giai đoạn trước kia sẽ được tóm tắt lại, và trí tuệ sẽ biểu lộ theo các đường lối không thể nhận thức được cho đến nay đối với tâm thức được khơi hoạt một nửa của con người. Trong cuộc tuần hoàn đó, 3/5 gia đình nhân loại sẽ có ý thức đầy đủ, hoạt động với sự nhớ lại liên tục không bị gián đoạn trên cõi trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí. Tầm quan trọng của sự tiến hóa trí tuệ sẽ là đề ra việc thành đạt được chân ngã thức (causal consciousness) và bố trí cấu trúc khoa học cho nhịp cầu vốn sẽ nối liền thể thượng trí với nguyên tử thường tồn thượng trí trên các phân cảnh trừu tượng.
Trong các cuộc tuần hoàn thứ 6 và 7, chúng ta lại sẽ có tiến trình tổng hợp hoạt động theo cách thức tương tự với cách thức vốn nằm phía trước trong các căn chủng thứ 6 và 7 của cuộc tuần hoàn này.
Để diễn tả toàn thể vấn đề bằng các thuật ngữ bao quát hơn: Hành Tinh Thượng Đế sẽ đạt được tâm thức của linh hồn thể của Ngài trên các phân cảnh vũ trụ, với một phản ứng tiếp theo sau đó, tức là tái an trụ (repolarisation) và chỉnh hợp thể biểu lộ của Ngài. Theo thiên luật, điều này sẽ thể hiện như phẩm tính đã biểu lộ và mục đích sáng suốt được vạch ra trong mỗi giới của thiên nhiên, và sẽ tạo ra các kết quả hợp nhất trong các giới này, thuộc một loại không thể giải thích được đối với con người ở trình độ phát triển trí tuệ hiện nay của con người. Do đó, chúng ta không cần dành thêm thì giờ để xem xét chúng, vì ý niệm của hạ trí con người không thể lường được tầm quan trọng của chủ đề.
Để tóm tắt những gì tôi đã viết ra liên hệ đến vấn đề khả năng phân biện, hoạt động sáng suốt, bản chất thích ứng và năng lực chuyển hóa của trí tuệ, tôi xin nêu ra rằng các phát triển này có ảnh hưởng sâu rộng đến nỗi mỗi bộ phận của
500 thiên nhiên, tức đại và tiểu thiên địa, sẽ lộ ra các khía cạnh này và sẽ minh chứng chúng theo cách thức cửu phân (ninefold manner) trước khi đạt được sự hoàn thiện, và con người đã tìm thấy con đường của mình.
Do đó, chúng ta hãy tìm kiếm trong một thời gian ngắn vào lúc biểu lộ tiểu thiên địa, để cho kẻ khảo cứu có thể khai thác các ý tưởng tương tự liên quan đến Hành Tinh Thượng Đế và Thái Dương Thượng Đế.
CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TRÍ TUỆ VÀ CÁC CÕI
I. Trên cõi trần: ở đây, tính chất này biểu lộ dưới hình thức:
a. Năng lực chọn lọc của các nguyên tử của cơ thể.
b. Khả năng thích ứng của hình hài vật chất với môi trường quanh nó và với các hoàn cảnh của nó.
c. Mục đích được an bài của Đấng làm linh hoạt (informing Life) khi mục đích đó tác động vào hình hài vật chất và các nguyên tử.
d. Năng lực chuyển hóa có sẵn trong con người, dù cho đến nay con người không hề hay biết, năng lực này đã đưa con người đến trình độ hiện tồn trên cõi trần hiện này từ trình độ của người thú. Điều này cũng liên hệ đến sự chuyển di sự sống lên các phân cảnh trí tuệ.
II. Trên cõi cảm dục.
a. Năng lực phân biện của con người để chọn giữa các cặp đối hợp (1).
b. Khả năng thích ứng của con người đối với các tình trạng xúc cảm và năng lực của y để đạt đến sự thăng bằng sau rốt.
1 “Trong Thái Dương Hệ, cùng một diễn tiến, được Thái Dương Thượng Đế noi theo; từ chốn trừu xuất (chốn thu hồi : place of abstraction) cao thâm của Ngài, Ngài không còn bị thu hút bởi thể biểu lộ (tức Thái Dương Hệ - ND) của Ngài nữa. Ngài thu hồi sự quan tâm của Ngài và các pairs of opposites, tức tinh thần và vật chất của thể biểu lộ (vehicle) đó, tách ra (dissociate). Với việc tách ra này, Thái Dương Hệ, tức là “Đứa Con Thiết Yếu” (“Son of Necessity”), hay của ước nguyện (or of desire), không còn hiện hữu (không tồn tại, ceases to be), và kết thúc cuộc sống biểu lộ ngoại cảnh (objective existence)”.
Với đoạn trích trong Chữa Trị Theo Huyền Môn này (trang 420), ta thấy cặp lớn nhất là tinh thần và vật chất (Ánh Sáng của Linh Hồn, trang 137) phải hợp lại với nhau mới có vũ trụ biểu lộ là Thái Dương Hệ. Khi cặp này tách ra, Thái Dương Hệ không còn tồn tại. Chúng ta đang sống trong Thái Dương Hệ biểu lộ, vậy tinh thần và vật chất đang ở trạng thái hợp lại với nhau, nếu tinh thần và vật chất tách ra, Thái Dương Hệ ở vào trạng thái qui nguyên, chúng ta cũng sẽ không tồn tại. Chúng ta phải nhớ rằng “Sự Sống có ở khắp nơi trong vũ trụ” (GLBN I, 269), mà nơi đâu có Sự Sống là nơi đó có sự hợp nhất của Tinh Thần và Vật chất, vì lý do đó, pairs of opposites phải được dịch là “cặp đối hợp”.
c. Năng lực của con người, qua mục đích hữu thức để thanh lọc thể cảm dục của y khỏi chất xa lạ, và để giữ được sự mờ đục của nó.
d. Năng lực chuyển hóa có sẵn, sau rốt sẽ chuyển hóa hay chuyển di sự sống vào các hình thức trực giác.
III. Trên cõi trí.
a. Trong khả năng chọn lọc của con người để chọn lấy hình thể để biểu lộ qua đó.
b. Khả năng thích ứng của con người với luồng trí tuệ (mental current) và sự rung động trí tuệ, và việc con người sử dụng chúng để kiềm chế các hình hài thấp kém.
c. Thể hiện mục đích qua trung gian của 2 hiện thể thấp. Xung lực xuất phát từ cõi trí.
d. Năng lực chuyển hóa đang biến đổi toàn bộ phàm ngã tam phân ra một hình thức mới, tức linh hồn thể. Tiến trình chuyển hóa này được xúc tiến qua toàn thể các loạt luân hồi.
IV. Trên các phân cảnh trừu tượng của cõi trí.
a. Khả năng phân biệt của chân ngã đối với thời gian và không gian trong 3 cõi thấp.
b. Thích ứng của chân ngã đối với vật chất và hoàn cảnh thời gian cộng với môi trường đối với nhu cầu đặc biệt theo định luật karma.
c. “Thiên Ý Sáng Suốt” đang ẩn tàng sau mọi biểu lộ vật chất, và được nhận thấy đang thể hiện trong mọi sự sống.
d. Chuyển hóa hay chuyển di vào Tam Thượng Thể của sự sống Chân ngã khi nó tác động trong linh hồn thể. Điều này tạo nên kết quả trong việc tách khỏi sự biểu lộ trong 3 cõi thấp. Để tạo hiệu quả cho sự chuyển hóa này (thuộc trình độ vào các thời kỳ đã được xem xét), Chủ Thể Suy Tưởng trong thể thượng trí phải làm 3 điều :
1. Kiến tạo và trang bị cho linh hồn thể.
2. Đem lại sự liên hệ hay sự kiểm soát hữu thức cho phàm ngã tam phân qua phương tiện của các nguyên tử thường tồn.
3. Nối liền sự đứt quãng giữa linh hồn thể trên mức độ riêng của nó với nguyên tử thường tồn thượng trí.
V. Trên các phân cảnh bồ đề.
a. Ở đây, năng lực phân biện biểu lộ dưới hình thức khả năng phân biệt giữa cái trừu tượng với cái cụ thể, và để kết thúc bằng cách tách khỏi vận cụ thông thường – thể hạ trí và bộ óc vật chất.
b. Khả năng thích ứng với công việc khó khăn của Thánh Đoàn được đạo đồ hay Chân Sư đưa ra, và sự tiếp nhận của Ngài đối với các xung lực của sự sống và các trào lưu tâm linh xuất phát từ Hành Tinh Thượng Đế thuộc Cung của Ngài – một điều mà ở trình độ hiện nay không thể có được bằng sự hiểu biết hữu thức.
c. Với mục đích đã vạch sẵn đang hướng dẫn sự chọn lựa bởi một Đức Thầy thuộc một trong số 7 Thánh Đạo phải nỗ lực. Như thế, sự chọn lựa được dựa trên sự Hiểu Biết chớ không phải trên sự ước muốn.
d. Trong sự chuyển hóa hữu thức, Ngài đảm trách công tác tiến hóa và trong sự chuyển di từ từ sự sống của riêng Ngài và sự sống của nhóm Ngài, vào trong trạng thái Chân thần đang được phản chiếu trong trạng thái bồ đề.
VI. Trên các cảnh giới Niết Bàn.
a. Trong công tác chọn lọc của vị thánh nhân (adept) khi nó có liên hệ với sự biểu lộ hành tinh, và năng lực phân biện đang hướng dẫn mọi tác động có liên hệ đến hành tinh riêng của Ngài và 2 hành tinh khác kết hợp với địa cầu như là một tam giác của thái dương hệ.
b. Sự thích ứng của các nhóm (thiên thần và con người) đối với một vài loại ảnh hưởng và rung động đang xuất phát từ ngoài thái dương hệ, và đang từ các cõi cao của vũ trụ, tác động lên các nhóm, bảo dưỡng một số thuộc tính đối với những gì mà chúng ta có được, cho đến nay, không có thuật ngữ để mô tả.
c. Công tác tổng hợp của trạng thái Brahma khi trạng thái này thể hiện ra trong việc phối hợp 4 cung phụ thành cung chính thứ 3.
d. Việc chuyển hóa đang tạo nên kết quả trong sự qui nguyên của hành tinh có liên hệ với 5 Hành Tinh Thượng Đế và – như trong công tác tổng hợp trước – có liên hệ với sự tiến hóa tiểu thiên địa và được con người góp phần vào. Tôi muốn kêu gọi sự chú ý đến một điểm lý thú : ngày càng nhiều các Chân Thần quyết tâm trở lại cội nguồn của mình, điều đó tạo nên một sự qui nguyên từ từ của vị Hành Tinh Thượng Đế đặc thù, mà trong cơ thể Ngài các Chân Thần ấy là các tế bào. Dù cho điều này có thể trông cậy vào nhãn thông con người đang trải qua thời kỳ phát triển sâu xa, theo quan điểm tâm thức đại đồng hay tập thể thức, điều đó đang xảy ra Hiện Tại. Thí dụ , một biến cố như là sự qui nguyên của sự biểu lộ của Thượng Đế của hệ thống Địa cầu chúng ta đã diễn ra và đã bắt đầu vào thời Lemuria.
VII. Về khả năng phân biệt của Chân Thần, khả năng thích ứng, mục tiêu và năng lực chuyển hóa, không cần bàn rộng thêm.
Tất cả mọi ý tưởng và quan niệm này chỉ có giá trị chừng nào mà chúng tạo ra bên trong Chủ Thể Suy Tưởng một nhận thức sáng suốt hơn, về sự vĩ đại của thiên cơ, một sự chiếm hữu năng lượng và thần lực vốn thuộc về y bằng quyền tham dự vào các tiến trình biểu lộ và một sự hợp tác khôn khéo trong việc đẩy mạnh cơ tiến hóa khi cơ này đang tác động vào cá nhân y và các nhóm của y.