KINH PHẬT THUYẾT
CHÒM SAO BẮC ĐẨU THẤT TINH TRƯỞNG QUẢN HỌA PHÚC NHÂN GIAN
( SỰ GIAO THOA ĐẠO GIÁO VÀ PHẬT GIÁO )
I - GIỚI THIỆU VỀ CÁC KINH VĂN LIÊN QUAN ĐẾN CÁC CHÒM SAO VÀ PHÁP KÍNH LỄ
Những bản kinh thư thuộc Mật giáo liên quan đến tín niệm sao hạn.
Trong Đại tạng kinh Đại chính Tân tu ( Xem: ĐTKĐCTT - Giacngo), các tác phẩm liên quan đến Mật giáo là nơi có sự ảnh hưởng nhiều nhất của tín niệm phụng thờ tinh tú, thần linh. Trong khả năng có thể, chúng tôi xin chỉ ra một vài bộ kinh thư với những dấu hiệu rõ ràng, mang tính tiêu biểu.
Phật thuyết đại oai đức kim luân Phật đảnh Xí Thạnh Quang Như Lai tiêu trừ nhất thiết tai nạn Đà-la-ni kinh(28), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 19, số 0964, không rõ người dịch. Nội dung: Đề cập bài chú như bản kinh, ai trì tụng thì có thể thoát tai nạn, dù gặp sao xấu như La hầu, Kế đô chiếu thân. (Nguồn: Kinh trên thuvienhoasen)
Phật mẫu Đại Khổng Tước minh vương (29), 3 quyển, ĐTKĐCTT, tập 19, số 0982, do Sa-môn Bất Không dịch. Nội dung: Ở quyển hạ, nói rằng, nếu ai trì tụng chú này, thì sẽ được Nhị thập bát tú, Cửu diệu phù trì, ủng hộ. (Nguồn: Kinh trên tangthuphathoc)
Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát cập chư tiên sở thuyết cát hung thời nhật thiện ác tú diệu kinh(30), 2 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1.299, do Sa-môn Bất Không dịch. Nội dung: Mô tả Nhị thập bát tú, các vì sao trong mỗi tháng, cách thức chọn ngày, chọn giờ, lịch tốt xấu của Nhị thập thất tú…
+++ HÀNH TINH THEO GIỜ SINH: Xem các Hành tinh Mộc tinh - Hỏa tinh - Thổ tinh - Kim tinh - Thủy tinh - Mặt trời - Mặt trăng .... mà gặp các Tinh tú Thiện Ác - Lành dữ .... (Xem trang 369 - Văn Thủ Bồ Tát Pháp Kinh pdf)
Ma Đăng Già kinh (31), 2 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1.300, đời Ngô, do Trúc Luật Viêm và Chi Khiêm cùng dịch. Nội dung: quyển 1, mô tả câu chuyện mẹ nàng Chiên Đà La dùng thần chú khống chế A Nan. Quyển 2, mô tả Nhị thập bát tú cùng những ảnh hưởng tốt xấu, lượng độ, hình mạo…
Xá Đầu Gián thái tử Nhị thập bát tú kinh(32), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1301, do Tam tạng Trúc Pháp Hộ dịch. Nội dung: Mô tả chi tiết về 28 vị sao, sao nào xuất hiện thì thuận lợi việc nào. Bản kinh giao thoa giữa chuyện tiền thân Đức Phật và tín niệm thờ phụng tinh tú.
Phật thuyết Thánh Diệu Mẫu đà-la-ni kinh(33), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1303, do Pháp Thiên dịch. Nội dung: Mô tả bài chú như tựa đề bản kinh, tán thán nếu ai trì chú này sẽ được lợi ích. Các sao xấu ác, nghe chú này đều hoan hỷ, không não hại chúng sanh.
Tú diệu nghi quỹ (34), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1.304, do Thiền sư Nhất Hạnh soạn. Nội dung: Hướng dẫn các thủ ấn và các bài thần chú liên quan đến các vì sao (như Nhị thập bát tú, Cửu diệu, Bắc đẩu thất tinh…).
Kinh Bắc đẩu thất tinh niệm tụng nghi quỹ(35), 1 quyển ĐTKĐCTT, tập 21, số 1305, do Tam tạng Kim Cang Trí dịch. Nội dung: Đề cập Bát tinh chú và tán thán những ai thường xuyên trì tụng chú này.
Kinh Bắc đẩu Thất tinh hộ ma bí yếu nghi quỹ(36), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1.306, do Đại Hưng Thiện Tự, Phiên Kinh Viện, Quán Đảnh A Xà Lê ghi lại. Nội dung: Hướng dẫn làm đàn tràng, hình thức ấn chú, Đỉnh luân vương chơn ngôn và Triệu Bắc đẩu chơn ngôn. (Tham khảo - Phàm phu không nên tu: Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Pháp)
Kinh Phật thuyết Bắc đẩu Thất tinh diên mệnh kinh (37), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1307, do một tu sĩ Bà-la-môn đem kinh này đến cho nhà Đường thọ trì. Nội dung: Mô tả bảy vị sao và các tinh phù mang tính bản địa (Trung Hoa) và tán thán những lợi ích khi thọ trì, cúng dường bản kinh này. (Nguồn: Bắc Đẩu Thất Tinh - Thuvienhoasen); Xem thêm giờ sinh theo Bắc Đẩu ....: Phật nói Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mệnh)
Kinh Thất diệu nhương tai quyết (38), 2 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1.308, do tu sĩ Bà-la-môn Kim Câu Trá soạn tập. Nội dung: Mô tả tinh phù và các cách thức tế tự những vì sao, lượng độ an nguy khi gặp những vị sao và cách thức hóa giải.
Kinh Thất diệu tinh thần biệt hành pháp (39), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1309 do Thiền sư Nhất Hạnh soạn. Nội dung: Đề cập 12 vị sao tương ứng với 12 tháng, mô tả thần dạng của ba mươi vị sao, các hình thức tế tự và những lợi ích tương ứng. (NGuồn: Xem Kinh Tại Đây)
Kinh Bắc đẩu thất tinh hộ ma pháp (40), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1.310, do Thiền sư Nhất Hạnh soạn. Nội dung: Hướng dẫn các thủ ấn, nội dung các thần chú liên quan đến Nhị thập bát tú, Cửu diệu, Diên mệnh chơn ngôn… Phàm phu rất khó tu các ấn Pháp này (Nguồn: Xem tại đây)
Kinh Phạm thiên hỏa la cửu diệu (41), 1 quyển, ĐTKĐCTT, tập 21, số 1311, do Thiền sư Nhất Hạnh soạn. Nội dung: Mô tả hình ảnh chín vị sao và những thần chú tương ứng, cách khắc phục sao xấu và tuổi gì thì do sao nào chiếu mạng. Sao La hầu, Sao Thái Bạch ..... (Nguồn: Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu)
Kinh Nan Nhĩ Kế Thấp Phọc La thiên thuyết chi luân kinh(42), 1 quyển ĐTKĐCTT, tập 21, số 1312, do Pháp Hiền phụng chiếu dịch. Nội dung: Vị trời Nan Nhĩ Kế Thấp Phọc La chỉ bày cho con người tránh khỏi các sao xấu bằng cách trì tụng kinh Chi luân. Bản kinh này giảng nói kỹ về Số phận do Nghiệp an bài, họa phúc qua các Cung Hoàng Đạo và các Tinh tú của chòm sao Bắc Đẩu Thất Tinh ... (Nguồn: NAN NỄ KẾ THẤP PHỘC LA THIÊN NÓI CHI LUÂN)
Có thể nói, tín niệm thờ phụng tinh tú, cúng sao giải hạn không chỉ có mặt đậm nét trong những bản kinh thư thuộc Mật bộ, mà còn được phát hiện rải rác ở những đoạn ngắn, trong những bản kinh lớn như kinh Hoa nghiêm, kinh Đại phương đẳng đại tập, kinh Kim quang minh… thuộc ĐTKĐCTT. Vấn đề này sẽ được trình bày trong một chuyên đề khác. (Nguồn: KS về cúng sao giải hạn - Giac Ngo Online)
II- VỀ NGŨ ĐẨU THẤT TINH
Ngũ Đẩu Tinh Quân có nghĩa là: là 5 vị thần thánh được Đạo Giáo kính thờ, chuyên quản lý việc sống chết, phước họa, giàu sang của con người, được phân làm Bắc Đẩu Tinh Quân, Nam Đẩu Tinh Quân, Đông Đẩu Tinh Quân, Tây Đẩu Tinh Quân và Trung Đẩu Tinh Quân. Mỗi vị tinh quân quản hạt mỗi cung khác nhau.
(1) Bắc Đẩu Tinh Quân có 7 cung, được gọi là Thất Tinh, hay Thất Nguyên, chủ yếu chưởng quản về việc giải ách, kéo dài mạng sống. Bảy cung gồm: Thiên Quỹ Tinh, Dương Minh Tham Lang Tinh Quân; Thiên Tuyền Tinh, Âm Tinh Cự Môn Tinh Quân; Thiên Ki Tinh, Chơn Nhân Lộc Tồn Tinh Quân; Thiên Quyền Tinh, Huyền Minh Văn Khúc Tinh Quân; Thiên Hành Tinh, Đơn Nguyên Liêm Trinh Tinh Quân; Khai Dương Tinh, Bắc Cực Võ Khúc Tinh Quân; Diêu Quang Tinh, Thiên Xung Phá Quân Tinh Quân. Trên thực tế, chùm sao Bắc Đẩu có 9 ngôi sao, nên còn thêm Động Minh Tinh, Ngoại Phụ Tinh Quân; và Ẩn Nguyên Tinh, Nội Bậc Tinh Quân.
(2) Nam Đẩu Tinh Quân thì chưởng quản về kéo dài tuổi thọ, độ người, chia thành 6 cung, gồm: Thiên Phủ Tinh, Ty Mạng Tinh Quân; Thiên Tướng Tinh, Ty Lộc Tinh Quân; Thiên Lương Tinh, Diên Thọ Tinh Quân; Thiên Đồng Tinh, Ích Toán Tinh Quân; Thiên Quỹ Tinh, Độ Ách Tinh Quân; và Thiên Cơ Tinh, Thượng Sanh Tinh Quân.
(3) Đông Đẩu Tinh Quân có 5 cung, chưởng quản việc tính toán mạng sống, gồm: Thương Linh Diên Sanh Tinh Quân, Lăng Diên Hộ Mạng Tinh Quân, Khai Thiên Tập Phước Tinh Quân, Đại Minh Hòa Dương Tinh Quân, và Vĩ Cực Tổng Giám Tinh Quân.
(4) Tây Đẩu Tinh Quân có 4 cung chưởng quản về mạng sống, hộ thân, gồm: Bạch Tiêu Tinh Quân, Cao Nguyên Tinh Quân, Hoàng Linh Tinh Quân, Cự Uy Tinh Quân.
(5) Trung Đẩu Tinh Quân, còn gọi là Đại Khôi, chủ yếu quản lý việc bảo vệ mạng sống, gồm 3 cung: Hách Linh Độ Thế Tinh Quân, Cán Hóa Thượng Thánh Tinh Quân, Xung Hòa Chí Đức Tinh Quân.
Trong 5 chùm sao nói trên, hai chùm sao Bắc Đẩu và Nam Đẩu được người đời kính phụng nhiều nhất. Người sanh năm Giáp và Ất thì thuộc về Đông Đẩu; năm Bính, Đinh thuộc về Nam Đẩu; năm Mậu, Kỷ thuộc về Trung Đẩu; năm Canh, Tân thuộc về Tây Đẩu; năm Nhâm, Quý thuộc về Bắc Đẩu. Như trong Thái Thượng Lão Quân Thuyết Ngũ Đẩu Kim Chương Thọ Sanh Kinh của Đạo Giáo có giải thích rõ rằng: “Giáp Ất sanh nhân Đông Đẩu chú sanh, Bính Đinh sanh nhân Nam Đẩu chú sanh, Mậu Kỷ sanh nhân Trung Đẩu chú sanh, Canh Tân sanh nhân Tây Đẩu chú sanh, Nhâm Quý sanh nhân Bắc Đẩu chú sanh; chú sanh chi thời các bẩm Ngũ Hành chân khí, chân khí hỗn hợp, kết tú thành thai; thọ thai thập nguyệt, châu hồi thập phương, thập phương sanh khí, …, thọ sanh chi thời, Ngũ Đẩu Tinh Quân, Cửu Thiên thánh chúng, chú sanh chú lộc, chú phú chú bần, chú trường chú đoản, chú cát chú hung, giai do chúng sanh, tự tác tự thọ, người sanh năm Giáp Ất thì Đông Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Bính Đinh thì Nam Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Mậu Kỷ thì Trung Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Canh Tân thì Tây Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Nhâm Quý thì Bắc Đẩu ban cho mạng sống; khi ban cho mạng sống, mỗi người đều nhờ chân khí Ngũ Hành, chân khí hỗn hợp, kết tụ thành thai; thọ thai mười tháng, vòng quanh mười phương, mười phương sinh khí, …, khi thọ thai ấy, Ngũ Đẩu Tinh Quân, Cửu Thiên thánh chúng, ban cho sự sống, phước lộc; ban cho giàu có, nghèo cùng; ban cho ngắn dài; ban cho tốt xấu, đều do chúng sanh, tự làm tự chịu).” (Nguồn: Tự điển Phật học online )
III- PHẬT NÓI KINH BẮC ĐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG
Vị Tăng tên Bà la môn, từ Thiên Trúc
truyền đến đời triều vua Đường ở Trung Hoa thọ trì.
Sa Môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn.
Nam Mô Tham Lang tinh, Thị Đông phương Tối Thắng thế giới Vận Ý Thông Chứng Như Lai Phật.
Nam Mô Cự Môn tinh, thị Đông phương Diệu Bảo thế giới Quan Âm Tự Tại Như Lai Phật.
Nam Mô Lộc Tồn tinh, Thị Đông phương Viên Mãn thế giới Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật.
Nam Mô Văn Khúc tinh, Thị Đông phương Vô Ưu thế giới Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật.
Nam Mô Liêm Trinh tinh, Thị Đông phương Tịnh Trụ thế giới Quảng Đạt Trí Biện Như Lai Phật.
Nam Mô Vũ Khúc tinh, Thị Đông phương Pháp Ý thế giới Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật.
Nam Mô Phá Quân tinh, Thị Đông phương Lưu Ly thế giới Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật.
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả chúng sanh.
Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu soi.
Nếu nghe kinh này thọ trì, cúng dường, chuyển đọc, khuyên bạn hữu, thân tộc, cốt nhục của mình thọ trì, thì hiện đời được phước, đời sau sanh lên chư Thiên.
Nếu kẻ Thiện nam và người Thiện nữ nào có kẻ tiên vong đã qua đời mà bị đọa vào địa ngục, hoặc chịu các thứ khổ sở. Nếu nghe kinh này tin kính cúng dường thì kẻ tiên vong kia liền xa lìa khỏi chốn địa ngục, được vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới.
Nếu có kẻ thiện nam và người thiện nữ nào, hoặc bị loài quỷ mị xâm hại, hay tà ma quấy nhiễu, ác mộng quái lạ, hồn phách kinh sợ, nếu nghe kinh này thọ trì cúng dường hồn phách liền được yên ổn, không còn lo sợ.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nào, hoặc có sĩ quan sắp bổ chấp chánh. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì vị quan ấy liền được mời sang địa vị cao cấp, được đại kiết tường.
Nếu có trai lành và người gái tín, thân bị tật bịnh triền miên, muốn cầu nhẹ nhàng, nên vào tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, thì tật bịnh ấy liền được lành hẳn.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín muốn được tấn đạt, ra đi may mắn, cầu tài vừa ý, buôn bán phát đạt. Nếu gặp kinh này, tin kính cúng dường liền được tiền tài giàu có, vào ra an lành.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nuôi tằm hư hao, lục súc chẳng yên, liền ở tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, ruộng tằm vừa ý, lục súc sum vầy, không còn tổn thất cũng chẳng tai chướng.
Nếu có người nữ suốt tháng mang thai, khó khăn nặng nề, nếu gặp kinh này tín kính cúng dường, mẹ con liền được phân giải nhẹ nhàng, ách nạn tiêu trừ, sanh con trai gái, thân hình đẹp đẽ, quả báo sống lâu.
Nếu kẻ trai lành và người gái tín biết được Bắc Đẩu Thất Tinh, rọi chiếu đời sống nhơn sinh của mình thì trong một đời, hễ có tai ách quan sự miệng tiếng đồn đãi, trăm điều quái lạ. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì không còn một việc gì mà phải phòng hại.
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói lời ấy rồi, hết thảy thiện nam tín nữ cung kính tín thọ làm lễ mà trở về. (Nguồn: Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng - Thuvienhoasen)
IV- KINH PHẬT THUYẾT THIÊN TRUNG BẮC ĐẨU CỔ PHẬT
Tôn giả A – Nan kể: Đúng như thế này, chính tôi được nghe. Một thời Phật ở tỉnh cư Thiên Cung, tập họp chủ Thiên : Phạm Vương Đế Thích, Bát bộ tử chúng đàm luận pháp yếu. Khi thấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ tòa đứng dậy, tiến đến trước Phật mà bạch rằng:
Thưa Đức Thế Tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu Âm Dương, Ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ thảy đều do nơi Bắc Đẩu Bắc nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà 7 sao Bắc Đẩu ở giữa trời có uy quyền uy đức tối tôn như vậy? Cúi xin Thế Tôn vì chúng con tuyên thuyết, tất cả nhân Thiên và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng rằng:
Quý hóa lắm thay! Ta nay sẽ vì ông và chúng sinh ở đời vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều cùng hiểu biết, công đức lớn lao của 7 sao ấy, phúc thì quyền sinh, ân thí muôn cõi.
Vị Bắc Đẩu thứ nhất: ” Đại Khôi Dương Minh Tham Lang Thái Tinh Quân ” là vị Cổ Phật ở thế giới Tối Thắng Phương Đông hiệu là Vận Ý Thông Chúng Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ hai:” Đại Phước Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh Quân ” là vị Cổ Phật ở thế giới Diệu Bảo Phương Đông, hiệu là Quán Âm Tự Tại Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ ba:” Đại Quyền Chân Thân Lộc Tồn Chính Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Viên Châu Phương Đông hiệu là Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ tư: ” Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc Hữu Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Vô Ưu Phương Đông hiệu là Tối Thắng Cát Tường Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ năm: ” Đại Tất Đán Nguyên Liêm Trinh Cường Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Tĩnh Trụ Phương Đông, hiệu là Quảng Đạt Trí Hiện Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ sáu: ” Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Pháp Ý Phương Đông, hiệu là Pháp Hải Du Hỉ Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ bảy : ” Phiêu Thiên Quan Phá Quân Quan Tĩnh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Mãn Nguyện Phương Đông hiệu là Dược Sư Lưu Lý Quang Như Lai.
Ngoài ra còn có vị thứ tám ( Đông – Minh Ngoại Phu Tinh Quân ) là Bồ Tát ở thế giới Diệu Hỉ Phương Tây, hiệu là Hoa tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
Vị thứ chín ( Ấn Quan Nội Bật Tinh Quân ) là Bồ Tát ở thế giới Diệu Viên Phương Tây, hiệu là An Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Khi ấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và các đại chúng nghe Phật khai diễn các sao Bắc Đẩu đều là Cổ Phật Như Lai, ứng cúng, chính biến trì, minh hành túc, Thiên thệ Thế gian giải, Vô thượng sĩ , Điều – Ngự – trượng – phu – Thiên – Nhân, sư, Phật , Thế tôn khắp vĩ chúng sinh, hóa thân thị hiện.
... Khi ấy Phật bảo tất cả đại chúng rằng:
- Có thiện nam hay tín nữ nào mà hàng năm cứ ngày 8 tháng Giêng, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và hàng tháng cứ ngày 7, ngày 9 với ngày sinh mình mặc y phục sạch đối trước tinh tượng chí tâm xưng niệm Danh hiệu 7 vị Phật và 2 vị Bồ Tát thời tùy tâm nguyện cầu gì cũng thấy cảm ứng ngay.
- Lại nếu có thể thắp 7 ngọn đèn bày theo tinh vị rồi lúc nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa tinh thủy dốc lòng khẩn cầu ắt được như ý.
- Ông Văn Thù này! Khắp cõi tể – quan, cư sĩ, tăng – ni, đạo – tục dù sang dù hèn cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh.
- Khi đã được nghe diễn nói kinh này mà biết thắp đèn bầy theo tinh vị của các sao Bắc Đẩu rồi cung khính đem các thứ hương hoa tinh thủy cúng đàn thời những người ấy lộc vị cao sang, thọ mệnh kiêm trường, hưởng phúc vô lượng vô biên.
Ông Văn Thù này ! Bắc Đẩu Cổ Phật quảng đại từ bi, thị hiện giữa bầu trời, chủ trương niên – mệnh , thống lãnh Càn Khôn. Trên từ vua- chúa, dưới đến nhân dân, trời đất núi sông, chim muông cây cỏ, tất cả đều do Thất Tinh Bắc Đẩu cai quản soi chiếu.
+ Mời xem Kinh văn gốc: (Xem Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật)
+ Trang web có hình Cổ Phật tại đây
V- PHẬT NÓI THẤT TINH CHƠN NGÔN THẦN CHÚ
Úm, Táp Đá Nhi Nẵng Giả, Bán Nhá Mật Nhá Giả, Nhiễm Phổ Tha, Ma Ta Phạ, Nhị Nẵng Ra Khất Sơn Bà Phạ Đô Xóa Ha (108 lần).
1. Tham Lang tinh (sao Tham Lang). Người sanh giờ Tý hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu gặp nguy nạn, nên dùng món ăn gạo, lúa mạch cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
2. Cự Môn tinh (sao Cự Môn). Người sanh giờ Sửu, giờ Hợi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp nguy nạn, nên dùng món ăn lúa, nếp cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
3. Lộc tồn tinh (sao Lộc Tồn). Người sanh giờ Dần, giờ Tuất đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nếu dùng món ăn lúa tẻ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
4. Văn Khúc tinh sao (sao Văn Khúc). Người sanh giờ Mẹo, giờ Dậu đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
5. Liêm Trinh tinh (sao Liêm Trinh). Người sanh giờ Thìn, giờ Thân đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt mè cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
6. Vũ Khúc tinh (sao Vũ Khúc). Người sanh giờ Tỵ, giờ Mùi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt đậu lớn cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
Phá Quân tinh (sao Phá Quân). Người sanh giờ Ngọ hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
Tụng trì Thần chú dưới đây:
Úm táp đá nhi nẵng dã, bán nhá mật nhá dã, nhiễm phổ tha ma tap ha nhị nẵng ra khất sơn bà phạ đô xóa ha.
Nếu có người mỗi ngày tụng Thần chú này quyết định tội nghiệp thảy đều tiêu trừ và tất cả sở nguyện cầu đều được thành tựu. Nếu mỗi ngày tụng Thần chú này 108 biến, thân mình và tất cả quyến thuộc đều được phò hộ. Nếu tụng 500 biến được sức đại oai thần trong 500 do tuần, tất cả ma vương, các ma chúng, kẻ chướng ngại và vô lượng ác quỷ không dám gần gũi, thường được ủng hộ. (Nguồn: Thất Tinh Chân Ngôn TC - Thuvienhoasen
VI- NGÀY GIỜ SINH CÁT HUNG THEO TINH TÚ
Lại nữa, có tinh tú cát tường, thời phần cát tường, ở một sát na, một cái nháy mắt, một hơi thở… luân chuyển ven Trời soi xét (lâm cố) Thế Gian. Hết thảy chúng sinh khi sinh ra mà gặp thời phần này thì có đại cát tường, được Phước Đức lớn, tu các Đại Pháp quyết định thành tựu.
Nếu có chúng sinh không có căn lành của đời trước, nhiều nghiệp ác, cho nên ngay lúc sinh ra, gặp tinh tú ác, quyết định không có Phước, các Căn thiếu hụt chẳng đủ tướng người, chỗ tu Đại Pháp quyết định chẳng thể được thành tựu.
Nếu lại khi sinh ra ngay lúc sáng sớm, gặp nhóm Quỷ Tú (Puṣya), Khuê Tú (Revati), Trương Tú (Pūrva-phalguni), Tinh Tú (Maghā), Kháng Tú (Svāti), Phòng Tú (Anūrādhā), Giác Tú (Citrā), Tất Tú (Rohiṇi), Mão Tú (Kṛtikā)… với mặt trời mới mọc, đồng thời soi xét thì chỗ làm, chỗ tu của người này đều được thành tựu.
Lại vào lúc sáng sớm với lúc giữa ngày (giờ Ngọ) kèm tại kỳ Bạch Nguyệt, gặp Kim Tinh (Śukra), Mộc Tinh (Vṛhaspati), Thủy Tinh (Budha). Nhóm Tú Diệu này có thế lực lớn soi xét tất cả chúng sinh trong Thế Gian. Nếu người sinh vào lúc này thì chỗ tu Nghiệp thiện với tu hành trì tụng Đại Minh Đà La Ni, tất cả sự nghiệp quyết định thành tựu
Lại nữa, Kim Tinh, Một Tinh, Thủy Tinh này tùy có một ngôi sao cũng với mặt trời (Āditya), cùng với mặt trăng (Candra) đồng cư phương sở soi sét người sinh ra.
Sau khi người này sinh ra ắt đại phú quý, thọ mệnh lâu dài, được đại tự tại, tất cả nhìn thấy tôn trọng
Lại nữa, có người sinh ra sau giữa ngày (sau giờ Ngọ), lúc mặt trời lặn...mà người sinh ra ấy ở thời phần này gặp Ác Tinh soi xét phương sở. Ác Tinh là Thổ Tinh (Śanaiścara), Hoả Tinh (Aṅgāraka), La Hầu Tinh (Rāhu), Kế Đô Tinh (Ketu), Đa La Tinh (Tārā) với ngôi sao của nhóm Hắc Ám Lý Sắt Tra (Kṛṣṇāriṣṭa). Nhóm tinh tú như vậy cũng chẳng phải là thật ác. Nếu là người Thượng Thượng Phẩm có sức căn lành của đời trước, đầy đủ Phước Tuệ, khi sinh ra mà gặp giờ ấy thì đối với Phước Đức lớn, chuyển tăng uy thế. Nếu là Trung Phẩm thì đối với việc thiện ác đều giảm đi một nửa. Nếu là Hạ Phẩm thì căn lành bị kém đi, với có nghiệp của đời trước. Người như vậy khi sinh ra mà gặp giờ ấy thì không có Phước Đức kèm không có Trí Tuệ, chẳng tu nghiệp Thiện, nhiều tham sân si.
Lại ở giờ này, gặp trời tối tăm mù mịt, gió mưa bạo ác, ánh chớp sáng lòe, sấm sét chấn động lớn, tuôn mưa đá xuống dưới, màu ở trong mây hoặc biến thành đỏ hồng… đây đều là điềm rất xấu
Nếu vào giờ sinh, gặp hiện tượng này thì người ấy bị thiếu hụt các Căn, dung mạo xấu xí, thân bị cong gù, ghẻ chóc đầy dẫy, không có chủ, không có chỗ nương cậy, nghèo túng hèn mọn. Hoặc thọ nhận Giới Luật thì vi phạm chẳng giữ được, Thánh Hiền thương xót cho sự rơi đọa ấy
Người như vậy, đối với điều ác thì tăng thêm, đối với điều thiện thì chuyển lùi, tất cả cát tường hoàn toàn không có chút phần, đối với Hành Nghiệp tu tập Chân Ngôn thì như người mù điếc chẳng thấy chẳng nghe. Giả sử được nghe thấy cũng chẳng thể sinh niềm tin. Việc như vậy, nói chẳng thể hết.
Lại nữa, chúng sinh như vậy do ít Phước cho nên hoặc bị tất cả Bộ Đa (Bhūta) với hàng Ma Đa La (Mātara), các Quỷ Thần ác trụ ở trong thân mà gây não loạn..... (Văn Thù BT Pháp Kinh - Trang 365).
Lại lúc trước nói ba loại giới Âm, Dương, Phong hợp với ba loại Pháp Tham, Sân, Si. Do Pháp của Tham Sân Si chẳng ngưng diệt cho nên Âm, Dương, Phong mà có tăng thịnh. Lại hợp với Địa (Pṛthivi: đất) làm bốn Đại. Đất cùng với nước hợp, Lửa cùng với gió hợp. Lại có hư không làm Đại thứ năm. Số bên trên là nơi mà con người luôn biết ....
+ ÂM DƯƠNG THIỆN ÁC TRƯNG ỨNG _PHẨM THỨ MƯỜI TÁM [ TRANG 375 - 381]
Này Tinh Tú Thiên! Nếu Dương Cung (Meṣa) kia có Khuê Tú (Revati), Lâu Tú (Aśvini), Vị Tú (Bharaṇi), ba Tú (Nakṣatra) này trực, lại hợp với Hỏa Tinh (Aṅgāraka) trực nhật thì người trì tụng kia đối với việc của ba Phẩm Thượng Trung Hạ , tất cả chỗ mong cầu đều chẳng thành tựu. Tại sao thế? Vì duyên với chỗ chướng ngại của Ác Tinh ấy.
Nếu lại Mão Tú (Kṛtikā), Tất Tú (Rohiṇi), Chủy Tú (Mṛgaśirā), Sâm Tú (Ārdrā), Tỉnh Tú (Punarvasū), Quỷ Tú (Puṣya), Liễu Tú (Āśleṣā), Tinh Tú (Maghā), Trương Tú (Pūrva-phalguni), Dực Tú (Uttara-phalguni), Chẩn Tú (Hastā), Giác Tú (Citrā), Kháng Tú (Svāti), Đê Tú (Viśākha), Phòng Tú (Anūrādhā), Tâm Tú (Jeṣṭhā), Vĩ Tú (Mūla), Cơ Tú (Pūrva-Āṣādhā), Đẩu Tú (Uttara-Āṣādhā), Ngưu Tú (Abhijit), Nữ Tú (Śravaṇā). Mọi Tú như trên thảy đều tốt thiện, đối với người trì tụng thì có lợi ích. .... (Nguồn: Văn Thủ Bồ Tát Pháp Kinh pdf - Tr 369 );
+ Xem bản Nhân Trắc Học Tổng hợp chủ đề về Âm Dương - Ngày giờ cát hung từ bản Kinh này: Xem tại đây