TÓM LƯỢC KINH HIỀN NHÂN
ĐẠO HÀNH SỬ CỦA BẬC CHÍNH NHÂN QUÂN TỬ
(Kính đề nghị đọc bản Kinh Hiền Nhân _ Bản gốc Tại đây)
Tôi được đọc cuốn "HIỀN-NHÂN" nầy trong một buổi chiều mưa gió.
Gió mưa rầu-rĩ nhắc tôi nhớ lại thời xưa. Bao cảnh tượng xa xăm dồn dập thi nhau kéo về, gây cho trí óc một cảm giác mênh mang, bao-la không bờ bến.
Trong khi còn mơ màng nhìn vũ-trụ hãy quay lại đạo-đức đông phương đi, bạn sẽ thấy một vẽ gì quen thuộc. Tôi muốn trở về với một quá khứ êm dịu hơn.
Còn thiếu ở nhân-gian một sự nhận thức rõ ràng về định hướng. Hãy đến phân-tích tâm-trạng của mọi con đường. Bạn sẽ thấy : đâu cũng là đúng hướng, duy phần riêng, chỉ thấy con đường mình là đúng và của mọi người đều sai và lạc lối cả.
Đạo Phật đó, một triết lý u huyền, một khoa học thực nghiệm, một đạo đức tuyệt vời. Tư tưởng luân lý đông tây dễ gì so sánh.
Hôm nay, để tâm hồn lắng xuống một chiều mưa gió, tôi đọc cuốn HIỀN-NHÂN với một tâm niệm trong sáng, đầy tin tưởng. Có gì đâu, những lời giản dị nhưng đầy vẽ hiểu đời và chứng tỏ hạnh phúc chỉ có khi nào tâm niệm được an lành và thanh-thoát. Nhân loại đã bỏ lui sau bước chân những hạt vàng quí giá và mắt mờ còn trông ngóng những bào ảnh đâu xa...
Cũng như bao nhiêu lời giảng dạy cho tín đồ cư-sĩ, cuốn "HIỀN-NHÂN" nầy là một cuốn kinh luân-lý và đạo-đức Phật dạy cho kẻ bạch-y. Như tôi đã nói luân-lý nhà Phật bao trùm cả luân-lý Đông, Tây, các bạn có để tâm mới thấy rõ.
Thâm thúy mà giản dị biết bao, những lời dạy quí hóa như đoạn nầy trong kinh HIỀN-NHÂN:
Kết bạn có bốn thứ:
"Một là kết bạn như hoa, hai là kết bạn như cân, ba là kết bạn như núi, bốn là kết bạn như đất.
"Sao gọi là kết bạn như hoa? Khi bông hoa còn tươi thì giắt trên đầu, khô héo rồi bỏ đi. Kết bạn cũng thế: hễ thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại bỏ làm lơ.
"Sao gọi là kết bạn như cân? Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu vổng lên, có qua lại thì cung-kính nhau, không qua lại thì khi dễ nhau.
"Sao gọi là kết bạn như núi? Hòn núi vàng loài chim thú tụ về, lông cánh được chói màu vàng rực, kết bạn cũng thế, khi sang thì sang với nhau, khi vui thì đồng vui.
"Sao gọi là kết bạn như đất? Tất cả mọi vật đều nương dựa đất mà sinh, làm bạn nuôi dưỡng để ủng hộ, ân hậu không bạc..."
Rồi trong những lời dạy quí hóa về luân lý, ẩn tất cả những triết-lý sâu kín của cuộc đời. Tìm ở đâu những gì mới lạ, chúng ta chỉ mất công.
Nhưng giáo lý cốt hợp cơ và Phật pháp là bất định pháp. Giáo pháp phải hợp thời, hợp xứ và hợp căn trí. Vì thế đừng nên vội nghi ngờ một lời nào của đức Phật. Đành rằng Ngài dạy : "Đệ-tử chớ tin lời Ta khi nào đệ-tử chưa hiểu". Nhưng bạn hãy đọc lại những gì mà bạn chưa hiểu ấy, chớ vội không tin. Nhiều khi đó là phương tiện để hạp thời hạp xứ.
Thấy con ếch nói được - trong kinh - bạn sẽ mỉn cười. Cũng như bạn nghe quả địa-cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng khi Phật xuất thế.
Bạn sẽ bảo đó là đặt điều. Có thực đấy bạn ạ. Những hình ảnh thần bí chỉ là để tượng trưng cho những ý tưởng triết-lý.
"Quả địa-cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng" là gì nếu không phải sự miêu tả cực kỳ khéo léo sự vui mừng của vũ-trụ nhân thiên?
"Con ếch than khóc..." là gì nếu không phải tượng trưng cho sự đau khổ tuyệt lực lan từ nhân loại đến cầm thú.
Cuốn Triết-Nhân do ông Ngô-nguyệt-Chi dịch Phạm-Văn ra Hán-Văn với một lối văn có màu sắc cổ điển và thuần túy. Nguyên nhan đề là "kinh ông Bụt", nay thầy Lê-phước-Bình dịch ra tiếng Việt-ngữ đổi lại là "KINH HIỀN NHÂN". Hiền-Nhân hay ông Bụt cũng thế là tiền thân của Phật Thích-Ca, chính Ngài thuật lại.
NHẤT-HẠNH
KINH VĂN: KINH HIỀN NHÂN
Tôi đã nghe:
Hồi ấy, Phật còn lưu trú tại nước Xá-Vệ với một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ.......
Lúc ấy vua trong nước là Ty Tiên Nặc với mọi người trong cung và tất cả nhân dân xứ ấy đều phụng sự Phật, cúng dường y thực, giường, chiếu, thuốc thang cho Ngài và các vị sa môn, cung cấp tất cả những vật cần dùng.
Thực là khi chưa có Phật ra đời, bọn tà sư ngoại đạo thạnh hành và kiêu hãnh, cũng như khi mặt trời chưa lên thì đuốc đèn khoe sáng. Nhưng khi Phật đã xuất hiện với ánh sáng tuyệt diệu, ngoại đạo đều khuất phục lặng yên, cũng như đuốc đèn mất hết cả ánh sáng khi mặt trời đã lên, huy hoàng và rạng rỡ. ......
Đến hôm thứ tám, Phật sai ông A Nan vào trong xóm truyền rằng: "Kẻ nói dối chê người, sẽ bị quả báo, kẻ vu oan cho người trong sạch, chết sẽ đọa địa ngục, chịu khổ mãi mãi, khi ấy mới trách mình ngu si bạo ngược".....
Thời xưa, có một nước tên Bồ Lân Nại, nhân dân đông đúc, sự sinh hoạt thực là phồn thịnh.
Trong nước có một người phạm chí tên Cù Đàm, tài trí thông minh bực nhất. Ông có ba người con, mà đứa út có một thân hình đoan chính đẹp đẽ không ai bằng..... Nhân đó, người ta đặt tên đứa bé là Hiền Nhân.
Hiền Nhân thuở nhỏ rất chăm chỉ học hành. Lớn lên, tài nghệ hơn người, lão thông được các việc kinh sử và biết được 96 món đạo thuật. Hiền Nhân lại rõ được việc tai nạn họa phúc, bào chế thuốc men, không gì không biết. Tánh Từ Bi, Hiền Nhân lại diệt được cả dâm tâm, tài nghệ đầy đủ, Hiền Nhân hàng phục được cả loài cổ độc.....
Bèn xin mẹ đi học đạo. Bà bằng lòng. Hiền Nhân đi, ròng rã tìm được bực minh sư xin làm Sa môn, vào núi tu hành. Chẳng bao lâu, Hiền Nhân tự ngộ được ý:
1. Thương xót chúng sanh như mẹ thương con.
2. Muốn độ thoát cho thế gian khốn khó.
3. Dứt trừ được tâm niệm ngu si.
4. Gặp vui không mừng mà gặp khổ cũng không lo ngại.
5. Hiểu được ý đạo, tâm thường vui vẻ.
6. Giữ gìn không phạm một tội lỗi nào.
7. Dứt trừ được tham, dâm.
8. Dứt trừ được sự giận dữ.
Người lại còn trừ được năm món dục lạc. Mắt không còn tham đắm hình sắc trần gian. Tai không còn tham đắm âm thanh vi diệu. Mũi không nhiễm mùi hương ngây ngất. Lưỡi không ưa thích vị ngon và thân không còn ưa lụa là và cảm giác êm dịu.
Hiền Nhân hay dùng trí huệ phương tiện tùy thuận giáo hóa thiên hạ, khuyên người làm mười điều lành, thảo thuận cha mẹ, vâng thờ sư trưởng. Những ai lòng hay nghi hoặc, Hiền Nhân đều giáo hóa cho tin tưởng đạo đức. Người dạy cho họ rõ rằng: Có sanh ắt có tử, làm lành gặp lành, làm dữ mắc họa, tu đạo đắc đạo là lẽ dĩ nhiên. Thấy người nào bị nguy ách, Hiền Nhân độ cho thoát khỏi. Ai bị bịnh tật thì được giúp thuốc thang. Ai nghe lời Hiền Nhân dạy, chết sanh lên cõi trời. Ở đâu có nạn nước lụt, cháy nhà, nắng hạn nguy hiểm, nếu có Hiền Nhân đến, đều được bình an. Bao nhiêu độc hại đều bị tiêu diệt.......
Khi đó, nhà vua đứng trên thành trông thấy Hiền Nhân tuổi còn trẻ mà đã có cái phong vị đoan chính ung dung, giáng đi có vẻ phi thường, liền sinh lòng kính mến. Ngài liền bước xuống và chạy ra thưa hỏi......
Bấy giờ nhân dân trong nước nhờ Hiền Nhân giáo hóa đều trở nên hiền lương. Từ khi ông làm chính trị đến nay, nước nhà yên ổn, mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng tiết, các quan đều thừa hành pháp luật không dám nhiễu hại nhân dân nữa. ....
Cũng vì thế nên bốn quan cận thần sợ nể không dám tung hoành như trước nữa. Họ đem lòng ganh ghét, toan lập mưu hại Hiền Nhân. Bốn người cùng nhau góp của cải mỗi người có đến ức vạn, chờ khi vua ngự giá ra ngoài, liền đem đồ lễ vật ấy dâng lên Phu nhân hoàng hậu. Bốn quan tự trần .........
Phu nhân được nước, tâu Vua:
- Hồi sáng khi Bệ hạ đi khỏi, Hiền Nhân đến nói với thiếp rằng: Nay Vua đã già yếu không có thể chấp chính được nữa mà quan dân trong nước đều tùng phục theo tôi. Vậy lệnh bà hãy tính sao để hai ta cùng nhau hưởng ngôi trời lộc nước. Thiếp nghĩ: Thằng ăn xin, nhờ hồng phúc Bệ hạ được sung sướng như thế mà nay âm mưu phản bội như vậy, nên thiếp rầu lắm......
Nghĩ thế, thọ trai xong, sửa sang hành lý, sắp sửa lên đường. Nhà Vua kinh hãi thưa rằng:....
- Ngài đi đâu? Hiền Nhân đáp:
- Tôi vì Vua trị nước đã 12 năm, chưa từng thấy con chó Tân Kỳ ngầu ngừ tru sủa như hôm nay. Thấy nó sủa tôi biết chắc có âm mưu chi đây, nên tôi muốn đi gấp.....
Hiền Nhân lắc đầu:
- Trước kia hậu đãi, mà nay bạc bẽo, vả lại tôi cũng không có lỗi gì, lúc nầy tôi nên đi là phải.
"Ở đời, có thịnh ắt có suy, có hội họp ắt có ly tán, lành dữ vô thường, họa phúc tự mình chuốc lấy. Kết bạn mà không bền chắc thì không nên thân. Thân mà không có chừng độ, thân lâu sẽ có khinh lờn. Ví như múc nước giếng, múc sâu thì nỗi cặn. Gần người hiền được thêm trí huệ ở với kẻ dốt càng thêm ngu si. Thường thấy thì hay khinh lờn, xa nhau thì sanh oán giận. Giao tiếp người lành nên qua lại có chừng độ, thân mà có cung kỉnh thì thân lâu càng có hậu. Giao thiệp với kẻ bất lương, họ ăn ở không thực thà, lời ngon tiếng ngọt chẳng qua là để lợi dụng mình, dù cho có kết hợp cũng không nên tin. Vua lấy lễ độ tiếp tôi, tôi cung kính đáp lại. Nay Vua đối đãi khinh dể thì tôi phải cách xa. Thương yêu nhau rồi có sự giận ghét nhau, khi thương thì muốn nhờ cậy, lúc ghét thì chẳng muốn gần. Lấy sự cung kỉnh nhau để cầu thân thiện, lấy sự răn dạy lẫn nhau để tránh xa điều ác. Mà nay có người chẳng phân biệt cái nào là ác, cái nào là thiện, ấy chẳng phải là đạo an thân. Người không có lỗi với mình, thì mình không nên bày đặt sự sai lầm mà vu oan cho họ. Người ác tôn thờ mình, mình không nên nhận lãnh. Người muốn xa ta thì ta không nên miễn cưỡng gần họ. Sự thương yêu đã xa lìa thì không nên nghĩ đến.
Con chim đậu gãy nhánh còn biết đi tìm nhánh khác để đậu, huống chi làm người qua lại có pháp độ, hà tất phải thủ thường. Cành mục ta không nên vịnh nắm, người loạn ý ta chẳng phạm nhằm họ. Người muốn đem việc xấu cho nhau, dù thấy nhau cũng không vui, ta xướng mà người không phụ họa theo, nên biết đó là người ở bạc. Người muốn đem việc lành cho nhau thì chậm dù gấp cũng phải đi; đem lời trung chính nhắc nhở nhau, thì cũng đủ biết người ấy là người hậu. Mà nay lại có người không chịu gần người hiền, chẳng lánh xa kẻ ác, trước kính sau khinh, không phân biệt kẻ hiền người ngu, thì nếu ta không đi còn đợi đến bao giờ mới đi! ....
Vua thưa:
- Nước Trẫm mà được giàu có, thịnh vượng là nhờ Ngài. Nếu nay Ngài bỏ đi, sau nầy nước nhà ắt sẽ hại.
Hiền Nhân đáp:
- Trong thiên hạ có bốn điều tự hoại: Một là cây có nhiều hoa trái thì nặng sẽ gẫy nhánh; hai là rắn độc ngậm nọc độc, nọc sẽ trở lại hại nó; ba là người làm tôi không hiền thì sẽ hại nước nhà; bốn là người làm việc bất thiện thì khi chết sẽ đọa vào địa ngục; ấy là bốn điều tự hoại. Vậy nên trong kinh dạy rằng: "Sự độc ác do tâm sinh ra và sẽ trở lại tự hại tâm mình, cũng như sắt sinh ra chất sét, chất sét ấy sẽ trở lại tiêu hình của sắt."
Nhà Vua thưa:
- Trong nước không có tôi hiền, mọi việc đều nhờ nơi Ngài, nếu Ngài bỏ Trẫm mà đi thì nước nhà sau này sẽ nguy ngập.
Hiền Nhân đáp:
- Làm người có bốn điều tự nguy: Một là gánh vác việc nhà người; hai là làm chứng việc nhà người; ba là mai mối vợ chồng người; bốn là tin theo lời tà siểm. Ấy là bốn điều tự nguy. Vậy nên trong kinh dạy rằng: "Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy sự tai họa vào thân. Đời nay vui lòng, lung ý, đời sau mang tội rất nặng."
Nhà Vua thưa:
- Trẫm trọng Ngài như người bạn quý, thường ở với nhau không khinh dể, Ngài chớ bỏ mà đi.
Hiền Nhân đáp:
- Bạn có bốn thứ: Một là kết bạn như hoa; Hai là kết bạn như cân; Ba là kết như núi; Bốn là kết bạn như đất.
Khi bông hoa còn tươi tốt thì giắt trên đầu, khô héo rồi bỏ đi. Kết bạn cũng thế: hễ thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại bỏ làm lơ.
Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu vổng lên, có qua lại thì cung kính nhau, không qua lại thì khi dễ nhau.
Hòn núi vàng, loài chim thú tụ về, lông cánh được chói màu vàng rực. Kết bạn cũng thế: khi sang thời sang với nhau, khi vui đồng vui.
Tất cả mọi vật đều dựa đất mà sinh. Làm bạn để nuôi dưỡng, ủng hộ, ân hậu không quên...
Nhà Vua thưa:
- Nay Trẫm biết cái trí suy nghĩ của Trẫm còn cạn hẹp, tin theo lời tà siểm, khiến Ngài Hiền Nhân phải ra đi.
Hiền Nhân đáp:
- Người có trí biết bốn việc không tin: Một là bạn tà ngụy; Hai là bề tôi nịnh siểm; Ba là vợ yêu nghiệt; Bốn là con bất hiếu. Ấy là bốn cái không nên tin theo. Vì thế kinh dạy: "Bạn tà hại người, tôi nịnh loạn triều, vợ yêu nghiệt phá nhà, và con bất hiếu hại cả cha mẹ."
Nhà Vua thưa:
- Trước kia Trẫm yêu quí hậu trọng Ngài, xin Ngài nghĩ lòng tốt của Trẫm không nên bỏ đi vậy.
Hiền Nhân đáp:
- Có mười trạng thái tỏ cho biết là có yêu quý hậu trọng: Một là xa nhau lâu không quên; Hai là thấy nhau thì vui mừng; Ba là có món ngon vật lạ san sẻ cho nhau; Bốn là khi có lỡ lời không chấp trách nhau; Năm là nghe điều lành càng thêm vui vẻ; Sáu là thấy việc dữ đem lời trung chính mà can gián; Bảy là làm được những việc khó làm; Tám là không đem chuyện riêng nói với người; Chín là khi gặp việc bối rối phải giải quyết cho nhau; Mười là đến lúc nghèo khổ không rời bỏ nhau . Ấy là mười sự yêu quý hậu trọng. Nên trong kinh có dạy: "Bỏ dữ làm lành tu tập đúng như Pháp, đem lời trung chánh dạy dỗ, nghĩa hiệp, có đạo."
Nhà Vua nói:
- Vì tội ác của bốn quan cận thần, nên Ngài không ưa Trẫm nữa.
Hiền Nhân tiếp:
- Có tám việc biết là không ưa nhau: Một là thấy mặt đổi sắc; Hai là liếc ngó không thẳng thắn; Ba là lời nói không ôn hòa; Bốn là nói phải cho là quấy; Năm là nghe người nguy hại thì vui thích; Sáu là nghe người hưng thịnh thì không vui; Bảy là hủy bỏ chê bai việc tốt đẹp của người; Tám là tán thành việc ác của người . Vậy nên trong kinh dạy rằng: "Lở đánh chết người, tội ấy còn có thể dung thứ; dùng tâm độc âm mưu để hại người, tâm niệm ấy rất không nên gần."
- Trẫm là người ngu si, không biết phân biệt kẻ trí người ngu, nên nghe lời tà siểm làm trái mất ý thánh nhân.
- Có mười sự chứng tỏ đó là người trí: Một là biết kẻ hiền người ngu; Hai là biết kẻ sang người hèn; Ba là biết kẻ giàu người nghèo; Bốn là biết việc nào khó việc nào dễ; Năm là biết việc nào đáng bỏ việc nào nên làm; Sáu là biết nhiệm vụ của mình; Bảy là vào nước nào biết được phong tục của nước đó; Tám là biết được chỗ trở về; Chín là học rộng hiểu nhiều; Mười là biết được túc mạng. Mười việc đó chứng tỏ người có trí. Kinh dạy: "Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn, có đánh nhau mới biết kẻ yếu người mạnh, có luận nghị mới biết được người trí, lúc cơm thua gạo kém mới biết người có lòng nhân."
- Nước Trẫm từ khi được Ngài giúp đỡ, trong ngoài đều được an ổn. Nếu nay Ngài bỏ ra đi thì Trẫm còn biết nương nhờ nơi ai.
- Có tám điều kiện để an ủi: Một là được của cha mẹ để lại; Hai là có nghề nghiệp bảo đảm lấy sự sống của mình; Ba là học thức cao; Bốn là có bạn hiền; Năm là được người vợ trinh lương; Sáu là được người con hiếu thảo; Bảy là tôi tớ được hòa thuận; Tám là lìa xa việc ác. Đó là tám điều kiện để được an ổn. Kinh dạy: "Sinh ra sau có của cha mẹ để lại và gặp được bạn hiền, rất thiết; các việc ác không phạm đến và có phước thừa rất thích."
- Lời của thánh nhân thật không một ai nghe mà không thích.
- Có tám cái thích: Một là cùng làm việc với người hiền; Hai là được học với bực thánh nhân; Ba là tánh thể được nhân từ và ôn hòa; bốn là sự nghiệp mỗi ngày mỗi hưng thịnh; Năm là diệt được tánh giận dữ; Sáu là biết lo phòng ngừa tai nạn; Bảy là biết nương gần đạo pháp; Tám là bạn bè không dối gạt nhau. Kinh chép rằng: "Có Phật ra đời rất thích; diễn giảng đạo pháp rất thích, chúng tăng nhóm hợp và hòa thuận rất thích. Hòa thuận thì thường an vui."
- Ngài Hiền Nhân thường khi dễ khuyên can mà nay sao lại khó cầm lắm thế.
- Có mười trường hợp mình không thể khuyên can: Một là tham lam che mất lương tri; Hai là tham đắm sắc đẹp; Ba là [Kinh in thiếu đoạn nầy] ; Bốn là kẻ ngang tàn bạo ngược; Năm là kẻ nhút nhát; Sáu là kẻ khờ khạo lừ đừ; Bảy là kẻ kiêu ngạo buông lung; Tám là người ưa đấu tranh; Chín là người chấp tập tục si mê; Mười là kẻ tiểu nhân. Ấy là mười trường hợp ta không thể khuyên can. Kinh chép: "Nói Pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ thì không thể khuyên can."
- Trẫm là kẻ kiêu ngạo lại là buông lung, chưa thể xa lìa được sắc đẹp, còn Ngài là chứng pháp vô-vi, lẽ nào không nói với Trẫm nữa sao?
- Có mười trường hợp mình không nên nói với người: Một là kẻ ngạo mạn; Hai là kẻ ngu độn; Ba là kẻ hay lo sợ; Bốn là kẻ ham vui chơi; Năm là kẻ hay e lệ; Sáu là kẻ câm ngọng; Bảy là kẻ cừu hận; Tám là kẻ đói lạnh; Chín là kẻ mắc nhiều việc; Mười là người đang tham thuyền tịnh lự. Đó là mười trường hợp. Trong kinh có câu: "Làm được hãy nên nói, làm không được thì đừng nên nói suông; lời hư nguy không thành tín thì các bực minh triết không thèm đoái đến."
- Người đàn bà xinh đẹp, nói năng khôn khéo, êm tai, mà trong thì tội ác ngoại dâm thì căn cứ vào đâu mà hiểu họ được?
- Có mười triệu chứng sẽ hiển hiện cho ta thấy: Một là đầu tóc rối và bới tóc nghiêng một bên; Hai là mặt hay đổi sắc và mồ hôi tự nhiên chảy; Ba là lớn tiếng nói cười; Bốn là hay liếc ngó không đoan chính; Năm là trang sức lộng lẫy; Sáu là hay nhìn trộm kẻ vách; Bảy là ngồi không yên; Tám là hay dạo chơi trong xóm làng; Chín là hay đi dạo chơi ngoài đồng vắng; Mười là hay giao thiệp với hạng dâm nữ. Kinh chép: "Đàn bà con gái thật khó tin, lời nói khôn khéo của họ rất dễ hại người. Vì thế bậc cao sĩ lánh xa không muốn thân cận."
- Trẫm thấy thường tình người ta hay thân cận và tin cậy đàn bà mà không biết tội ác lừa gạt của họ.
- Có mười việc không nên thân cận và tin cậy: Một là vua tôi hậu đãi; Hai là tình nhân của một người đàn bà mình quen; Ba là kẻ ỷ sức mình; Bốn là kẻ ỷ vào tiền của; Năm là chỗ nước chảy rất mạnh; Sáu là chỗ nhà cũ tường xiêu; Bảy là hang rồng hang rắn; Tám là chỗ quan quân tra xét; Chín là chỗ của kẻ đã thù giận mình; Mười là chỗ có trùng độc. Ấy chính là mười chỗ không thân cận và tin cậy. Trong kinh có câu: "Những ai bảo uống rượu không say, những ai bảo đã say không loạn và vua hậu đãi, đàn bà thương yêu, tất cả những cái ấy rất khó tin cậy ."
- Như lời Ngài nói có nhiều trường hợp thương nhau quá rồi cũng ghét nhau quá. Trẫm rất ghét như vậy, và quả thật cái đó đáng ghét lắm.
- Có năm cái đáng ghét: Một là ác khẩu hại người; Hai là gièm pha, siểm nịnh, và thúc giục sự đấu tranh; Ba là rầy rà không thuận hòa; Bốn là ganh ghét và trù rủa; Năm là nói hai lưỡi gạt người . Kinh dạy rằng: "Làm cho kẻ khác mệt nhọc và mình muốn mong sự hay ho về phần mình thì chỉ rước họa vào thân, tự gây lấy oán thù sâu nặng."
- Làm thế nào để được người kính mến?
- Có năm tính tốt nầy thì được người cung kỉnh: Một là nhu hòa và nhẫn nhịn; Hai là cung kính và có tín tâm; Ba là mau mắn và ít nói; Bốn là lời nói đi đôi với việc làm; Năm là đối với bạn càng lâu càng thâm hậu. Năm đặc tính ấy làm cho người ta cung kính mình. Trong kinh có câu: "Nếu biết thương lấy mình thì phải dè dặt giữ mình. Các bậc hiền sĩ có chí hướng thượng cao xa học hiểu chính đáng thì không bao giờ lầm lạc."
- Còn vì sao bị người khinh mạn?
- Năm nguyên do bị người khinh mạn: Một là kẻ râu dài mà ngã mạn; Hai là áo quần dơ bẩn; Ba là thiếu trí suy nghĩ; Bốn là dâm ô vô lễ; Năm là chơi bời không tiết độ. Kinh dạy: "Giữ và thâu nhiếp ý tưởng vào chỗ chính cũng như ngựa theo dây cương ; không kiêu, không mạn, thì bực người và bực trời đều cung kính."
Nhà Vua lại năn nỉ:
- Xin Ngài lưu ý, cùng Trẫm trở về tinh xá.
Hiền Nhân đáp:
- Có mười kẻ mình không nên mời về nhà: Một là thầy ác; Hai là bạn tà; Ba là kẻ hay khinh bỉ bực thánh nhân; Bốn là kẻ hay nói tráo trở; Năm là kẻ dâm ô; Sáu là người thèm rượu; Bảy là kẻ có tính xấu; Tám là người không biết ơn nghĩa; Chín là đàn bà con gái mất nết; Mười là kẻ tì thiếp ưa trang sức. Đấy là mười hạng không nên mời về nhà. Kinh chép: "Lánh xa người ác, đừng làm bạn với kẻ dâm lung, chỉ nên tùng sự các bực hiền giả, mới mong thành người minh đức."
- Được Ngài ở lại thì Trẫm cùng thiên hạ được an vui vô sự. Nay Ngài bỏ đi thì nhân dân trong nước đều oán trách Trẫm.
- Có tám điều kiện để được an vui: Một là vâng thờ kính thuận các bậc sư trưởng; Hai là đem sự hiếu thuận dạy cho nhân dân; Ba là khiêm nhượng kẻ trên người dưới; Bốn là phải tập tánh nhân đức ôn hòa; Năm là đến cứu người trong cơn nguy cấp; Sáu là phải quên mình mà nghĩ đến người; Bảy là thâu thuế ăn lời nhẹ và phải biết tiết kiệm; Tám là bỏ hận thù xưa . Đấy là tám điều kiện để được an vui . Trong kinh có câu: "Chuyên tu cội đức, nghĩ trước rồi làm sau, cứu giúp người trong cơn nguy cấp và bần khổ, thì trọn đời mới được an vui."
- Trẫm luôn luôn nghĩ đến Hiền Nhân, nào có bao giờ lãng quên.
- Bực trí giả có mười hai điều luôn luôn phải nghĩ tới không bao giờ lãng quên: Một là khi gà gáy sáng, đã nghĩ tới tội lỗi mà lo làm việc phúc đức để đền bù lại; Hai là nhớ việc hầu hạ tôn thân; Ba là gặp việc gì phải suy nghĩ dự bị trước; Bốn là phải lo nghĩ lánh xa sự nguy hại; Năm là phải nghĩ trước mới nói sau để khỏi phải lầm lạc; Sáu là phải nghĩ đến những kẻ lạc lầm mà đem lời trung chánh dạy bảo nhắc nhủ họ; Bảy là phải là nghĩ đến những kẻ nghèo khổ để thương xót cấp hộ; Tám là phải lo làm việc bố thí nếu mình có của; Chín là phải nghĩ đến việc ăn uống cho có chừng độ; Mười là phải nhớ giữ sự công bình khi phân xử hoặc phân chia; Mười một là phải nhớ đem ân từ ban bố cho nhân gian; Mười hai là phải thường nghĩ đến sự huấn luyện nếu mình là quân sĩ hay võ quan. Đấy là mười hai điều mà kẻ trí giả phải nghĩ đến. Vậy nên trong kinh có câu: "Làm việc gì phải lo dự bị trước, như vậy sự nghiệp sẽ mỗi ngày mỗi lớn không khi nào thất bại."
- Tiếc rằng Trẫm không có một bực đại hiền nào để cầm Hiền Nhân lại cho Trẫm.
Hiền Nhân lại tiếp:
- Bực đại hiền có mười hai hạnh tốt: Một là học rộng hiểu nhiều; Hai là không phạm giới luật trong kinh dạy; Ba là kính thờ Tam Bảo; Bốn là thọ lãnh pháp lành không quên; Năm là kiềm chế được tham sân si; Sáu là tu tập được pháp tứ đẳng tâm; Bảy là ưa làm việc ân đức; Tám là không nhiễu hại chúng sanh; Chín là hay hóa độ được người bất nghĩa; Mười là không lầm lộn việc lành việc ác. Kinh dạy: "Gặp được bực đại hiền rất khó - như ít có lắm vậy - các bực ấy ở đâu thì bà con quyến thuộc và người chung quanh đều được nhờ cậy."
- Thực là tội Trẫm quá nặng: Nuôi dưỡng kẻ ác làm cho Ngài giận mà bỏ đi.
- Kẻ đại ác, đại khái có mười lăm tội nặng: Một là sát sanh; Hai là trộm cắp; Ba là quen thói dâm ô; Bốn là dối trá; Năm là nịnh hót; Sáu là chuốt ngót; Bảy là gièm pha; Tám là khinh bực hiền sĩ; Chín là tham sự ô trược; Mười là buông lung; Mười một là say sưa; Mười hai là ganh ghét kẻ hiền; Mười ba là hủy báng đạo đức; Mười bốn là sát hại thánh nhân; Mười lăm là không kể tội lỗi. Đấy là mười lăm điều tội của kẻ phàm ngu. Trong kinh có câu: "Gian ngược, tham lam, oán người lương thiện, làm việc bất chính, thì khi chết, đọa vào ác đạo."
- Trẫm năn nỉ Ngài mãi mà không được lấy làm hổ thẹn quá.
- Người đời có mười cái đáng hổ thẹn: Một là làm vua không hiểu chánh trị; Hai là tôi thần mà vô lễ; Ba là thọ ân không lo báo đáp; Bốn là có tội lỗi không chịu chừa bỏ; Năm là một vợ hai chồng; Sáu là chưa cưới mà có thai; Bảy là tập học không thành; Tám là có binh khí mà không thể chiến đấu; Chín là kẻ bỏn sẻn thấy người bố thí; Mười là tôi tớ mà chủ không sai khiến được. Đó là mười cái đáng hổ thẹn. Kinh chép: "Những ai biết hổ thẹn đều là kẻ rất dễ dạy, rất dễ sách tấn cũng như điều khiển ngựa hay."
- Nay Trẫm mới biết rằng: Người đạo đức rất khó chiều chuộng.
- Có mười hai điều khó: Một là làm việc với người ngu; Hai là yếu đuối chống lại được với sức mạnh; Ba là thù nhau mà ở chung một nhà; Bốn là học ít mà đứng ra nghị luận; Năm là nghèo hèn mà trả nợ; Sáu là ra trận không có tướng sĩ; Bảy là thờ vua trọn đời; Tám là học đạo mà thiếu mất tín tâm; Chín là làm ác mà muốn được quả báo đẹp; Mười là sinh ra đời gặp Phật; Mười một là nghe được chánh pháp của Phật; Mười hai là làm theo được chánh pháp ấy mà thành tựu . Đấy là mười hai cái thật khó. Kinh dạy: "Được làm người là khó, gặp Phật ra đời là khó, được nghe giáo pháp của Ngài là khó, vâng làm theo được giáo pháp ấy thật là khó."
Nhà Vua khen ngợi:
- Gần bực minh đức thật rất có lợi. Đàm luận với Ngài, Trẫm lại được thêm trí tuệ.
- Người có trí tuệ, đại khái biết bốn mươi lăm việc: 1) Sửa sang nhà cửa; 2) Gây một không khí hòa hợp trong gia đình; 3) Giao thân với chín họ; 4) Tin ở bè bạn; 5) Theo học với bực minh sư; 6) Làm việc gì quyết cho thành tựu; 7) Tài trí cao rộng; 8) Mọi hành vi đều hướng về việc lành; 9) Giàu sang thì lo làm việc ân đức; 10) Tạo tác và sửa sang đều phải thận trọng; 11) Có của phải mở mang sự nghiệp; 12) Không giao của cải cho con cái nếu chúng còn nhỏ; 13) Kết bạn với người hiền; 14) Không quá tin những ai mới vừa quen biết; 15) Tiền của ở chỗ huyện quan phải đem về đừng để lâu; 16) Mua bán đổi chác phải thật thà không hề lừa gạt; 17) Dời ở nơi nào phải đến xem trước; 18) Đến đâu phải biết đó là giàu hay nghèo, quý hay tiện; 19) Phải giao thiệp thân cận với người lành; 20) Phải nương vào một thế lực; 21) Đừng tranh hơn kém với kẻ cường bạo; 22) Xưa giàu mà nay suy thì có thể mong phục hưng gia nghiệp; 23) Nếu là bần khổ thì đừng có cao vọng to tát; 24) Có của quý không nên khoe với người; 25) Việc bí mật đừng nói cho vợ nghe; 26) Làm vua phải kính người hiền đức; 27) Phải ở ăn có hậu, nhất là với các bậc trung tín; 28) Nếu là thanh liêm, có thể dùng trị nước, hay có thể đứng ra trị nước; 29) Gặp việc phải lập công to; 30) Trong công việc giáo hóa, lấy sự hiếu thuận làm căn bản; 31) Phép của ông thầy là quý sự ôn hòa, như thế học trò đủ cung kỉnh; 32) Thầy có nhiều học trò phải dạy chúng làm điều trung nghĩa; 33) Làm thuốc phải có hiệu nghiệm, nghề còn vụng chớ đem ra thi thố; 34) Đau ốm phải nghe lời thầy thuốc; 35) Ăn uống phải giữ cho có độ lượng; 36) Có của ngon vật lạ chia xẻ cho nhau đừng tiếc; 37) Cho ai hoặc cho ai mượn gì phải tự tay mình trao cho họ; 38) Làm chứng cớ cho người chính; 39) Đừng vu oan cho kẻ không tội; 40) Can gián sự oán giận và làm cho sự thuận thảo trở về giữa hai người; 41) Nhẫn nại và xa lánh việc ác; 42) Đừng phân biệt giàu nghèo mà ở với người; 43) Lấy sự thuận hòa làm quý; 44) Theo đạo thì phải giữ giới; 45) Lấy sự trong sạch làm quý hơn tất cả.
Trong trần thế chỉ có đạo Niết Bàn là cao quý hơn tất cả.
Vì sao? Vì Niết Bàn cảnh giới không có sự già nua, bệnh chết, không đói lạnh, không tai hoạn nước lửa, không oan gia, không trộm cướp, không dục vọng ân ái, không lo buồn hoạn nạn, không tất cả những khổ sở đớn đau. Cảnh giới ấy là diệt độ. Diệt độ không phải một sự chết, nhưng đây là sự giải thoát tự tại thôi.
Cảnh giới hoàn toàn an vui, một niềm vui thanh tịnh vô biên, có thể kiến lập cảnh giới ấy trên trần thế, cho riêng mình và cho chung tất cả muôn loài. Bệ hạ hãy tự lo tự tu, tự tỉnh lấy. Bệ hạ hãy tự thương lấy Bệ hạ.
Hiền Nhân nầy xin lên đường.
Vua hỏi lại:
- Ngài lên đường, thế không còn răn dạy Trẫm điều gì nữa ư?
- Chỗ đất bị nước mạnh xoáy lở thì dù một trăm năm sau, cũng không nên dựng lại một cái gì trên ấy. Vì dòng nước sẽ theo thói cũ mà lôi cuốn đi mất tất cả. Người có ác tâm mà bây giờ họ bảo mình là bắt đầu làm lành thì mình quyết không tin vội. Vì, tâm ác của họ chưa diệt, họ sẽ trở lại làm việc ác, ta phải nên dè dặt. Người muốn làm việc gì phải làm lần lần, như người đào giếng đào mãi xuống sâu sẽ có mạch nước. Kẻ trí giả thấy sự nguy hiểm hoặc bất bằng giữa cuộc thế, thì hãy ra tay cứu giúp - cũng như người có tài bơi lội có thể lội ngang qua dòng nước mạnh......
- Trẫm muốn nghe lời Ngài dạy, và nếu như có người nào khác đến, thì Trẫm làm sao biết được người đó là bậc trí?
Hiền Nhân đáp:
- Chỗ vấn đáp của người trí bao giờ cũng khác xa kẻ tầm thường. Không lời nói nào của họ mà không phải là lời lành. Bực thầy bao giờ cũng chính đáng. Và những đức tánh nầy chứng tỏ rằng kẻ ấy là bực trí giả: nhân từ, mềm mỏng, cẩn thận, chắc thật, ôn hòa nhà nhặn, lời nói hoạt bát và hay hâm mộ các việc lành. Bệ hạ đừng có nghi nan gì nữa.
Nghe lời nói, thấy việc làm của họ, có thì biết là tâm và khẩu giống nhau . Xem cách cư xử, vẻ đi đứng của họ mà biết là không giả dối; nghiệm việc họ làm, cách ăn mặc, cách làm lụng cũng dư biết là bực trí tuệ.
Đàm luận với người trí phải cho vừa ý họ, mà muốn vừa ý họ thì thực là khó.
- Trẫm muốn tôn thờ người trí mà đừng làm mất ý họ thì phải làm sao ?
- Kính mà đừng khinh, nghe lời dạy phải làm theo vì chỗ hiểu biết của người trí rất đúng, bao giờ họ cũng thể theo chính đạo và không có tâm tham cầu, lại có thể suy xét rõ được việc quá khứ, hiện tại và vị lai. Tầm mắt của bực trí giả rất rộng: họ thấy rõ muôn vật trong không gian và thời gian đều chỉ là biến hiện, muôn pháp đều quay về nơi nhất điểm không tịch bản nhiên.
Kẻ trí giả nhìn thấy rõ ràng đời là một sự biến đổi tang thương; trẻ trung rồi sẽ già nua, cường tráng rồi sẽ suy nhược, có sống thì sẽ có chết; giàu sang như mây nổi, đều là vô thường cả. Cho nên, lúc an ổn phải nghĩ đến khi nguy ngập, khi hưng thạnh thì nghĩ đến lúc vô thường, người lành thì kính mến, người ác thì phải lánh xa. Có giận hờn ai thì nên trừ bỏ, đừng vì thế mà gây ác hại người. Nhu hòa mà khó xâm phạm, yếu đuối mà người khó thắng. Người trí như vậy đó, ta không nên khinh thường.
- Trẫm hết sức cung kính tôn sùng người trí, như thế có phước chi chăng?
- Người trí thì theo phép thánh hiền, thường làm việc nhân từ và ưa dạy dỗ kẻ ngu muội trở nên sáng suốt như họ. Người trị nước thì nên ban bố ân huệ cho kẻ biết làm lành, kẻ tu hành thì lo dắt dẫn mọi người về nơi chánh đạo; quốc gia có cấp nạn thì cùng nhau đàm luận lo toan; tới lui phải biết thời mới khỏi bị sự nghi ngờ oán trách. Tuy có ân rộng đức lớn với người, nhưng đừng mong cầu người báo đáp; thờ người trí thì được phước và trọn đời không mắc phải tai nạn. Bệ hạ đừng có nghi nan. Pháp chánh trị không nên trái với lý đạo, dạy dân làm lành thì càng ngày càng thêm lợi ích cho nước.
Đứa Vua than thở:
- Có ai nữa để cầm Hiền Nhân lại giúp ta? Trời ơi thực lòng Trẫm rất sầu thảm, hoảng hốt như kẻ điên cuồng.
Vua bèn rơi lụy khóc lóc, đến trước Hiền Nhân, sám hối cầu xin xá tội.
Hiền Nhân đỡ dạy:
- Ví như người không có tài bơi lội, thì không nên xuống dưới nước sâu, biết người cừu hận với ta, ta cũng không nên hại họ. Đời có thân hậu nhau, rồi có gây gổ nhau; có gây gổ nhau rồi lại xin lỗi nhau; tuy hòa giải khéo lắm, nhưng mà chi bằng trước kia đừng gây gổ là hơn. Nay, người lành mà Bệ hạ không ban thưởng, trở lại nghe lời gièm siểm.
Hiền Nhân cũng như con chim bay, không nhất định đậu ở cành nào. Đạo pháp của Hiền Nhân không thể lẫn lộn với lỗi lầm như thế để mất chỗ thanh cao quý giá. Cũng như lửa cháy ngoài đồng trống, những cây gần bên sẽ bị cháy xám, hễ chỗ có nước xoáy là thuyền quay, hễ là độc trùng là hại người. Vì thế Hiền Nhân muốn trùng sự với người trí để khỏi bị ngu hèn quấy nhiễu. Hiền Nhân đã rõ rằng: Cỏ cây mỗi thứ mỗi khác, loài chim muông cũng thế: Bạch hạc thì lông trắng, chim quạ thì lông đen. Nay, Hiền Nhân cũng khác mà ai kia cũng khác, nên Hiền Nhân nầy không muốn ở đây nữa. Đem cái áo lụa đẹp mặc cho người nhà quê cày ruộng thì thật là vô ích. Vì sao? Người nhà quê ấy chỉ quen bùn đất, làm gì biết mặc áo lụa đẹp và có mặc cũng chỉ làm hư.
Ở nhân gian có một thứ cây tên là Phản Lệ. Người chủ trồng nó thì không được ăn trái, còn có kẻ muốn hái trộm thì trái lại sinh ra cho mà hái. Bệ hạ cũng như cây ấy: người giúp nước được an ổn lại hất hủi đuổi xô, còn kẻ nịnh thần gian dối phá tan việc triều chánh lại cầm ở lại cho ăn bổng lộc. Khách ở lâu, chủ nhà sinh nhàm chán, nên Hiền Nhân nầy phải đi vậy......
"Như người lấy mật xoa vào lưỡi dao, đưa cho con chó liếm, vì tham chút mật ngọt nên bị đứt lưỡi, mà chó không biết đau đớn. Nay bốn quan cận thần cũng thế: chỉ nói ngon ngọt ngoài miệng mà trong tâm dường như dao bén. Vậy Bệ hạ phải đề phòng cho lắm và từ đây về sau nếu gặp những sự kinh hãi, Bệ hạ thường nhớ đến Hiền nầy thì kinh sợ sẽ tiêu tan.
Loài chim cú chim mèo thì ưa ở nơi bụi rậm, chuột bọ thì ưa núp dưới đống rác đống rơm; chim chóc thì đậu trên cành; mà chỉ có con hạc là ưa ở gần ao nước đục. Mỗi vật đều có một tánh chất riêng, chí nguyện bất đồng, sự ưa thích có khác. Hiền Nhân nầy mến đạo, Bệ hạ thì ưa việc trị dân, đó là sự sai khác.
Những vật thô xấu cũng đều có chỗ cần dùng, không nên phí bỏ tồi tàn. Hạng người nào, dù bần tiện, ngu hiền đến đâu ta cũng không nên hất hủi. Họ đều là người hữu dụng, Bệ hạ phải hiểu như thế. .....
Hiền Nhân nghe nói, thương xót nhân dân, nên sửa soạn theo sứ giả trở về. Dọc đường, thấy con khỉ chết khô, Ngài liền lột lấy da để làm tọa cụ.....
Hiền Nhân đáp lễ:
- Người có tội mà biết sám hối là hay lắm.....
Hiền Nhân tiếp:
- Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều do nghiệp lực tội phước. Làm lành làm ác đều do quả báo như bóng theo hình, người chết bỏ xác thân nhưng không bỏ được nghiệp hành. Gieo giống, tuy hạt lúa thúi mục dưới đất, nhưng sau nầy sẽ sanh ra cây đâm ra nhánh lá và kết hột trên ngọn. Thắp đèn, tim dần dần lụng, nhưng lửa vẫn còn đỏ mãi, hạnh nghiệp tội phước vẫn còn luôn luôn như người thắp đèn viết thơ, rồi đèn tắc, nhưng chữ vẫn còn. Hồn thần tùy hạnh nghiệp chuyển sinh đời khác, không hề gián đoạn. Các ngươi làm ác mà tự cho là cao cả, cũng như người giết cha mẹ mà lại có thể cho là vô tội sao?......
Vậy nên trong nước có Vua, Vua phải thuận theo phép Đạo, ủy nhiệm vụ cho người hiền, phó thác việc làm cho kẻ tài trí, ban thưởng người lành, trừng phạt người gian ác.
Bánh xe lăn tròn không ngừng, hành nghiệp cứ tùy theo đấy thọ sinh về nơi lành nơi dữ. Phải tin chắc có tội phước, đừng làm điều gian dối .....
Hiền Nhân liền đứng dậy, theo Vua về cung, cùng luận bàn chánh sự.
Bốn qua cận thần, rồi sau bị đuổi. Hiền Nhân giúp nước, ân huệ thấm nhuần, gió mưa hiệp thời, mùa màng trúng tuyển, nhân dân đều vui vẻ, bốn biển một nhà, trên dưới hòa thuận đều chung sức gây lại một cuộc thái bình thạnh trị ...
Đức Phật ngừng lại một lát, Ngài nhìn đại chúng và tiếp:
"Nầy các ngươi! Hiền Nhân đời ấy, có phải ai đâu lạ, chính là TA đây. Còn đạo nhân cháu người là A Nan đây, vua Lam Đạt thuở ấy, chính là vua Ty Tiên Nặc này đây. Phu nhân đó là nàng Tôn Đà Ly, con chó Tân Kỳ là Xa Nặc, bốn quan cận thần là bốn kẻ ngoại đạo giết nàng Tôn Đà Ly ngày nay. Và sau cùng, con ếch hỏi đó, là ông Âu Đà Gia, đã chứng quả A La Hán rồi, đang đứng kia.....
Khi đức Thế Tôn nói kinh nầy xong, hơn ba ức người được hiểu lý đạo, đồng thọ ngũ giới và vui lòng làm theo.