TÓM LƯỢC SÁCH THIẾU NIÊN BẢO THÂN
(SÁCH RÚT GỌN VỀ THỰC HÀNH ĐẠO NHÂN NGHĨA LỄ TRÍ TÍN)
“Thiếu niên hiện thời quá nửa mắc chứng thủ dâm. Đấy thật sự là một con dao thật sắc giết hại cái thân vậy, hãy nên đau đáu răn dè!”
Ấn Quang Đại Sư (1862-1940)
(Mời xem bản đầy đủ: Thiếu Niên Bảo Thân)
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện thời truyền thông, internet, truyền hình, báo chí, tạp chương mỗi ngày truyền bá sắc tình, bạo lực, tin tin tức phản diện hàng hàng lớp lớp đem con người dạy hư hết thảy.
Ở thanh thiếu niên tồn tại hai vấn đề phổ biến vô cùng nghiêm trọng đó là chứng thủ dâm và tình dục phóng túng gây ra hậu quả khôn lường đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng ra là sự thịnh suy của một quốc gia dân tộc. Đặc biệt quan niệm sai lầm về “thủ dâm” khiến cho nhiều nghĩ rằng
đây là việc làm chánh đáng không có gì sai trái, không gây ra hậu quả gì nghiêm trọng. Nhưng than ôi, ít ai biết rằng đây là hành động tự giết dần, giết mòn bản thân, rò rỉ, phung phí thứ quý báu nhất. Thật là hành động “tổn thân bại đức”. Thân mạng chẳng được bảo toàn lâu dài huống gì tính đến chuyện
sự nghiệp, công danh. Đệ Tử Quy có câu (Nếu thân thể của chúng ta bị thương, thì cha mẹ sẽ lo âu. Nếu đức hạnh của chúng ta không tốt, thì cha mẹ cũng cảm thấy tủi hổ). Thể hội ra rằng thủ dâm không khác gì hành động bất hiếu đối với cha mẹ, vì đó là hành động “tổn thân bại đức” phương hại đến thân mạng và đức hạnh của chính mình.
Quyển sách này được biên tập từ tài liệu bài giảng của Tiến sĩ trung y Bành Tân (彭鑫), cũng như trích dẫn lại toàn bộ nội dung sách “Dục Hải Hồi Cuồng” của tiên sinh Chu An Sỹ (周安士) và tạm đặt tên chung là “Thiếu Niên Bảo Thân”.
Mong rằng các bạn trẻ, các bậc làm cha làm mẹ và mọi người có thể đọc thông, hiểu thấu. Ai đã phạm phải những tật xấu này thì mau mau dứt trừ, thành tâm sám hối, quyết không bao giờ tái phạm. Ai chưa phạm thì hãy thường răn đe, nghiêm khắc với bản thân, quyết không bao giờ phạm phải.
Cuối lời xin trích một đoạn khai thị của Ấn Quang Đại Sư trong Văn Sao Tục Biên cùng mọi người tiến bộ. Ngài viết:
“Đối với lớp hậu sinh trong hiện thời, khi chúng nó vừa hiểu chuyện đời, liền dạy chúng nó về đạo giữ tinh, hộ thân. Nếu chúng nó biết tốt - xấu, sẽ chẳng đến nỗi tự xem thủ dâm là vui, để rồi mắc các nỗi họa như bị mất tánh mạng, hoặc trở thành tàn phế, hoặc vĩnh viễn truyền lại nòi giống yếu ớt v.v… Với đứa chưa hiểu chuyện đời, chớ nên nói. Còn đứa đã hiểu chuyện đời nếu chẳng nói thì trong mười đứa hết chín đứa phạm phải tật này, đáng sợ vô cùng!
Những lời khai thị của Ấn Quang Đại Sư (1) Trong cõi đời gần đây, bọn thiếu niên do tình dục quá nặng, nên buông lung chơi bời, hoặc mê mệt thê thiếp, hoặc do ý chuyên nghĩ đến điều dâm mà tinh thần ngầm bị tổn thương, hoặc thủ dâm để rò rỉ, phung phí thứ quý báu nhất. Do vậy, thân yếu, tâm hèn, chưa già đã suy; học vấn, sự nghiệp đều chẳng thành tựu. Thậm chí con cái sanh ra đều bấy bớt hoặc khó khôn lớn, thành người được! Mà thọ mạng của chính mình cũng khó thể dài lâu như trong số mạng đã định, chẳng đáng buồn ư?
(Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ thứ hai - Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Vĩnh Nghiệp)
(2) Tám chữ “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” chính là quy củ, mực thước để làm người. Nếu ai chẳng tận sức nơi tám chữ ấy chính là đã mất đi tám chữ. Tám chữ đã mất thì là loài cầm thú đội mũ mặc áo! Người tuổi còn trẻ thì cái khó chế ngự nhất là tình dục. Thế đạo hiện thời chuyên lấy việc hướng dẫn khêu gợi dâm dục làm mục đích. Các con tuy có âm đức của tổ tiên, chẳng đến nỗi sa đà lắm, nhưng cần phải dè dặt tự giữ gìn mới hòng chẳng thẹn với cha ông. Nếu chẳng dốc sức tạo lập phẩm hạnh, bị dâm dục khống chế, sau này quyết định chẳng có thành tựu, hoặc đến nỗi đoản mạng mà chết. Nay ta
gởi cho các con hai bộ Lịch Sử Thống Kỷ – đây là những chuyện nhân quả báo ứng rõ ràng trích từ hai mươi bốn bộ sử ra, hai cuốn Gia Ngôn Lục – đây chính là đạo trọng yếu để học Phật, là quy củ thường hằng để tu thân, hãy nên đọc kỹ!
Câu “Nam-mô A Di Đà Phật” như đã nói chính là diệu pháp để tiêu nghiệp chướng, chuyển phàm thành thánh, nếu có thể thường niệm thì tâm địa tự nhiên mở mang, thông suốt, tri kiến tự trở về chánh lý, học hành, làm việc đều có lợi ích lớn. Huống hồ nay đang lúc thế đạo hoạn nạn, niệm Phật sẽ có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn trở thành chuyện may, lợi ích chẳng thể nói trọn hết, các con hãy nên hành theo Gia Ngôn Lục. Đọc Thọ Khang Bảo Giám, Thanh Niên Bảo Thân v.v… thì chẳng đến nỗi buông lung theo tình dục hoặc thủ dâm. Thiếu niên hiện thời quá nửa mắc chứng thủ dâm. Đấy thật sự là một con dao thật sắc giết hại cái thân vậy, hãy nên đau đáu răn dè!......
II- SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN, LỄ, NGHĨA, TRÍ, TÍN ĐỐI VỚI NỘI TẠNG
Chúng ta đều biết, làm một người thầy thuốc thì tâm nguyện lớn nhất của họ là làm sao để mọi người không bị bệnh, khỏe mạnh sống lâu. Mười ngày trước, trước khi tôi đến đây, thầy Trần Đại Hội đã nói với tôi: “Bác Sĩ Bành, mời bác đến đây nói chuyện một buổi nhé”. Lúc đó tôi vừa nghe tin này thì việc chuẩn bị cũng chưa được tốt lắm, vì lúc đó tôi đang chăm sóc cho vợ còn trong tháng. Sau đó qua mấy ngày lắng xuống, dần dần trong lòng tôi sáng sủa trở lại. Trên thực tế, một người chỉ cần sau khi tâm chánh rồi thì khí liền chánh, sau khi khí chánh rồi thì hình liền chánh, vì theo lý luận đông y Trung Quốc cổ đại, thì con người được cấu thành bởi ba bộ phận là ba thể hợp nhất. Ba thể là gì? Chính là hình, khí, thần. Hình là chỉ ngoại hình của chúng ta. Khí là chỉ kinh lạc, khí huyết của cơ thể chúng ta. Thần là chính là chỉ tinh thần của chúng ta. Ứng với khoa học hiện đại, họ nhận thức mạng sống của con người, cũng được cấu thành bởi ba bộ phận là vật chất, năng lượng và thông tin. Vật chất thì ứng với ngoại hình cơ thể chúng ta, năng lượng thì ứng với một khái niệm gọi là khí trong lý luận đông y, thông tin thì ứng với thần của chúng ta. Đông Tây y nhận thức về phương diện này là giống nhau. Dưới đây tôi sẽ báo cáo cùng quí vị, một số bệnh án trên lâm sàng tôi gặp phải, với những thể hội trên thực tế.
Trước tiên tôi bắt đầu hành nghề y từ năm 2002, vào lúc đó tôi vừa học xong những tri thức cơ bản và lý luận của đông y, thường dùng cách châm cứu và thảo dược để giải quyết vấn đề bệnh tật cho mọi người. Chúng ta đều biết con người bị bệnh là do ba nguyên nhân là nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân bên trong và không do bên ngoài hay bên trong. Nguyên nhân bên ngoài là phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa, đây là nguyên nhân bên ngoài. Nguyên nhân bên trong là do thất tình, cũng chính là vui, giận, sầu, lo, buồn, khiếp, sợ, đây là thất tình. Không do bên trong bên ngoài là ăn uống và sinh hoạt thường ngày. Biện pháp tôi dùng lúc đó là y học cổ truyền, đã giải quyết rất nhiều bệnh tật cho bệnh nhân, nhưng tôi phát hiện có một vấn đề là sau khi giải quyết xong bệnh tật thì thường còn sót lại một chút mà không thể trị dứt, rất khó. Sau đó tôi cứ suy nghĩ mãi về vấn đề này, lúc đó tôi chưa tiếp xúc văn hóa truyền thống, vì kết cấu tri thức của bản thân tôi chưa được hoàn bị như vậy, lúc đó tôi chưa tiếp xúc được văn hóa truyền thống nền giáo dục “Đệ tử quy” này.
Sau đó, trong một cơ duyên thích hợp, tôi bắt đầu tiếp xúc văn hóa truyền thống, quyển sách đầu tiên tôi đọc là “Liễu Phàm Tứ Huấn”, quyển sách đầu tiên về phương diện văn hóa truyền thống là “Liễu Phàm Tứ Huấn”. Học biết được một điều thế là phản tỉnh ngay, trước tiên bắt đầu phản tỉnh từ ngay bản thân mình, vì bạn chữa bệnh cho người khác, trong khi bản thân bạn vẫn còn có bệnh thì bạn không sao chữa trị tốt cho người khác được, cũng chính là chỉ có sau khi chúng ta điều chỉnh hài hòa thân tâm của mình rồi thì bạn mới biết làm thế nào điều chỉnh hài hòa thân tâm của người khác. Tôi lúc đầu thường quen cầu bên ngoài, ví dụ như bệnh của người này trị không khỏi thì cứ luôn nghĩ phải dùng bài thuốc gì, dùng công thức châm cứu gì, dùng cách gì để điều chỉnh khí huyết tốt hơn, điều chỉnh tạng phủ tốt hơn. Sau đó mới phát hiện là phí công vô ích. Cuối cùng tôi nói với mọi người, không phải bạn uống nhiều thuốc bổ, thậm chí tìm thầy thuốc giỏi đi nữa là có thể trị khỏi được bệnh. Nói cách khác, bạn không điều chỉnh tốt tâm thái của mình thì uống thuốc tấn cũng vô ích.
Vào lúc này tôi bắt đầu phản tỉnh mình, tôi mới phát hiện có một hiện tượng rất kỳ lạ, là sau khi bạn hiểu rõ mình rồi thì bạn rất dễ dàng hiểu rõ người khác. Điều này trên thực tế như lời của cổ nhân gọi là “Thôi kỷ cập nhân”, là nếu trong nội tâm bản thân chúng ta có chướng ngại, thì chướng ngại này sẽ làm trở ngại sự thông giao của chúng ta với người khác, thầy thuốc sẽ bị trở ngại trong việc thông giao với người bệnh, cái đau khổ của bệnh nhân bạn không sao thể hội được, bạn cũng không biết làm sao giải quyết. Trong thời gian này tôi đã đọc rất nhiều kinh điển đông y và rất nhiều trước tác của các y gia cổ đại. Trong những trước tác của y gia cổ đại này, các Ngài đều nhắc đến một điểm là một người thầy thuốc, điều căn bản trước tiên quan trọng nhất không phải là những kỹ thuật chữa bệnh, những kỹ thuật chữa bệnh đều là thứ yếu, mà “Đức vi y chi bổn”, tức là một người thầy thuốc điều quan trọng nhất là đức hạnh. Chuyện đức hạnh thì sáng nay và cả hôm qua các vị thầy giáo đã chia sẻ rất rõ ràng với quí vị rồi, đức hạnh có rất nhiều cách thể hiện, cách nói của cổ nhân Trung Quốc là: “Tiến dữ bệnh mưu, thối dữ tâm mưu”, có nghĩa gì vậy? Tức là tiến một bước suy nghĩ về bệnh nhân làm sao giúp họ giải quyết vấn đề, lùi một bước phải quán sát bản thân mình, sau đó lắng tâm nghĩ cách điều trị bệnh, sau đó cầu ở chính mình, nội tâm mình.
Đời Thanh có vị y gia tên là Dụ Gia Ngôn, vì Dụ Gia Ngôn là vị danh y đương thời, hoàng đế đã từng cho mời ông vào cung rất nhiều lần ông cũng không đi, y thuật của ông rất giỏi, có rất nhiều người theo học với ông. Trong trước tác “Ngụ Ý Thảo” của ông, ông đã nói trong lời tựa là rất nhiều người nói những y thuật này của tôi là biết được từ trong giấy, tức là học từ trong sách vở, rất nhiều người cho rằng tôi học rộng nhớ giỏi, hiệu quả điều trị cũng rất tốt, nhưng trên thực tế không phải vậy.Ông nói, một người thầy thuốc đích thực là phải thế nào? Là khi bạn gặp bệnh nhân, bạn có thể lắng được tâm và thâm nhập thể hội được nỗi đau của người bệnh, khi bạn thực sự đạt đến trạng thái này thì bạn có thể tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề.
Khi tôi mới bắt đầu phản tỉnh lại chính mình, vì mới bắt đầu nên không thể điều trị tốt cho nhiều bệnh nhân, hơn nữa sau đó tôi lại gặp khó khăn, vì sao vậy? Vì tôi chưa thâm nhập vào nội tâm đối phương, chưa thâm nhập vào nội tâm đối phương, chưa mở được cái khóa này thì bạn dùng bao nhiêu thuốc cũng đều vô ích. Đó là chuyện vào năm 2004, sau khi tôi đốn ngộ được điểm này, tôi liền bắt đầu áp dụng vào thực tiễn lâm sàng. Sau đây tôi sẽ lần lượt báo cáo với quí vị về một số kết quả thực tiễn của tôi.
Chúng ta đều biết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín tổng cộng là năm phương diện, năm phương diện này cổ nhân gọi đó là ngũ thường trong “Tam cương, ngũ thường”. Thường có nghĩa là gì vậy? Thường là trạng thái tự nhiên, tức là bình thường. Hôm qua khi thầy Thái giảng cho chúng ta cũng đã nhắc đến, thầy nói: “Tri thường viết minh, bất tri thường vọng tác hung”, tức là một người khi họ biết được trạng thái bình thường thì trí họ sáng; ngược lại không biết bình thường, không biết quy luật tự nhiên là như thế nào cả, tha hồ làm bậy, kết quả của nó là tai ương. Một biểu hiện của tai ương đó là bệnh tật, thậm chí sẽ sinh ra một số bệnh hiểm nghèo. Hôm nay trong bài giảng này tôi sẽ chia sẻ cùng quí vị, thực tế có rất nhiều bệnh hiểm nghèo là do chính nội tâm chúng ta tạo ra.
+ Sự ảnh hưởng của “Nhân” đối với nội tạng
Trong ngũ thường, điều đầu tiên là Nhân. Nhân ứng vào ngũ hành là thuộc mộc, ứng vào trong bốn mùa là mùa xuân. Chúng ta đều biết mùa xuân là lúc cỏ hoa tươi tốt, cũng là lúc vạn vật tràn đầy sức sống, nó ứng vào trong trạng thái tâm lý của chúng ta là yêu thương người. Vì ý của chữ nhân này có nghĩa là yêu thương người, tức là từ bi, lương thiện, có thể thông cảm với người khác. Trời cao có đức hiếu sinh, chữ sinh này cũng có nghĩa là thương yêu, cũng có nghĩa là nhân từ, thế thì dưỡng sinh, suốt ngày cứ dưỡng sinh là dưỡng cái gì vậy? Là sinh, quí vị phải chú ý là sinh, không phải dưỡng tử. Sinh chính là chỉ sức sống, sức sống là chỉ sức mạnh của sự sống, ứng vào trong tạng phủ là tạng nào vậy? Chính là tạng can. Xin quí vị chú ý, can ở đây không phải là lá gan của tây y, không phải Liver, mà là chỉ bao gồm cả trạng thái và công năng của tạng phủ trong cơ thể. Chúng ta đều biết tạng phủ, kinh lạc và thất khiếu đều liên thông với nhau, nếu như tạng can chúng ta có vấn đề thì nó sẽ biểu hiện ra bên ngoài.
Can khai khiếu ở mắt, nên mắt sẽ có vấn đề,.
Khi tôi mới bắt đầu học văn hóa truyền thống thì đầu tiên tôi phản tỉnh mình, “Nhân giả ái nhân”, bản thân mình có nhân từ hay không? Tôi phát hiện bản thân mình chưa nhân từ, vì sao vậy? Vì tôi là con một, từ nhỏ cha mẹ tôi gởi gắm hy vọng ở nơi tôi rất lớn, sau đó bản thân tôi lại rất muốn chơi trội, trên thực tế chơi trội chính là bất khuất, điều này sẽ dẫn đến bệnh tật, vì nếu khí của mộc phát sinh thái quá thì bệnh tật sẽ nảy sinh thôi. Bản thân tôi muốn chơi trội đến mức độ nào vậy? Là trong học tập thì phải đứng đầu, đứng thứ hai là tôi rất khổ não, và tâm phan duyên cũng rất nặng, vả lại ở trong gia đình, về phương diện hiếu thuận với cha mẹ thì làm rất tệ, vì lúc đó chuyện học hành là số một, những chuyện khác đều không quan trọng. Sau đó tôi mới dần dần ý thức được trên thực tế kiểu suy nghĩ này rất có hại đến người khác, kể cả chính bản thân mình, tính cách này của tôi sẽ dẫn đến can khí ứ trệ. Mọi người đều biết, can khí ứ trệ trong kinh can, kinh lạc của kinh can đi từ dưới chân chạy thẳng lên hai bên cạnh sườn trong cơ thể sau đó đến đầu, ở bên trong con mắt, ở mắt là biểu hiện bên ngoài, cũng như cổ nhân đã nói: “Can khai khiếu ở mắt”, cho nên khi tôi còn rất nhỏ thì đôi mắt này đã không tốt, trên thực tế tôi thấy chính là mắt mình bị cận thị, tôi thấy điều này có quan hệ với tính cách của tôi rất nhiều. Đợi đến khi tôi thấy được điểm này, thì tôi tiến thêm một bước, đưa vào thực tế từ mình suy ra người, rất nhiều người bệnh cũng có vấn đề như vậy, bệnh của họ cũng biểu hiện trên kinh lạc, biểu hiện trên kinh lạc nào vậy? Chính là kinh can. Tôi xin kể cho quí vị nghe một bệnh án mà tôi gặp trên lâm sang.
Bệnh nhân này họ Cao, là một bé gái, tìm đến tôi khám bệnh là vào mùa hè năm nay. Bệnh của bé là u tuyến giáp trạng, bé nói chỗ này của con rất khó chịu, chính là ở chỗ này, tuyến giáp trạng ở chỗ này. Sau đó tôi xem mạch của cháu thấy hai bên mạch đi rất Huyền, tôi liền nói với bé rằng, bệnh của cháu như vậy có một đức tính cần phải sửa đổi, là quá bất khuất. Trong tính cách quá bất khuất, người quá bất khuất thì kinh can không thông, người nam thì tán ra bên ngoài, còn người nữ thì thu vào bên trong, người nữ thì thường thu về chỗ vùng yết hầu, ở nơi này chính là nơi kinh can đi qua. Kinh can sau khi đi qua yết hầu, ở nơi này một khi bị ứ trở thì trên dưới không thông sẽ sinh ra bệnh. Bé nói: “Đúng quá!”. Tại sao vậy? Vì lúc đó, khi bé tìm đến tôi khám bệnh thì có cha mẹ ở bên cạnh, ba của bé đứng cạnh tôi nói: “Bé từ nhỏ tính cách rất bất khuất”. Bé hiện nay lái xe, bé tự mình lái xe, thấy xe của người khác vượt qua mình thì bé liền cố vượt lên trước, vượt qua họ và ép họ sang một bên, chính là tính cách này. Tôi liền nói với bé rằng: “Tính cách này của cháu nếu như không sửa đổi thì uống thuốc gì, điều trị thế nào cũng không khỏi, vì cái khí này còn tồn tại”. Quí vị chú ý, cái khí này trên thực tế chính là một dạng xu thế năng lượng. Tại sao nói như vậy? Vì chúng ta đều biết, cơ thể của chúng ta là do tế bào tạo nên, tế bào là do phân tử tạo nên, phân tử là do nguyên tử sắp xếp tổ hợp mà thành. Sở dĩ trước đây chỗ này chúng ta không có sưng, không có u, tại sao sau đó lại có u vậy? Vì do phương thức sắp xếp của tế bào, cách sắp xếp của phân tử nguyên tử khác nhau rồi. Cơ thể chúng ta trên thực tế là một thể tổ hợp của một khối nguyên tử, chúng sắp xếp thành hình dạng con người. Sắp xếp thành hình dạng người khỏe mạnh hay người có bệnh đều do khối nguyên tử này, chẳng qua là do cách sắp xếp khác nhau mà thôi. Nguyên tử nghe lời của ai? Là nghe theo năng lượng, tức là trường, hiện nay ngành vật lý gọi trường là trường năng, dạng khí này của bạn sẽ dẫn đến chỗ khối này có một loại trường năng. Cho dù sau khi bạn giải phẩu cắt bỏ hết vùng này, nhưng trường năng ở đây vẫn còn, sau này bạn ăn uống thì những phân tử này vẫn tụ tập trở lại ở đây, sau khi tụ xong thì lớn thành u bướu, cắt bỏ vô ích.
Cho nên tôi bảo cháu, trước tiên phải bắt đầu từ tính cách. Hơn nữa, cháu bé này còn có một đặc điểm đó là ưa đốp chát với cha mẹ. Chúng ta đều biết đây là đặc tính của mộc, trong đặc tính của mộc rất dễ tổn thương vùng can, vì giận thì khí đi lên. Một người nổi giận, đốp chát với người khác, thì cái khí này vọt lên liền. Cho nên tôi bảo cháu, nếu cháu muốn khỏi bệnh thì phải thay đổi tính cách cho tốt, phải sửa đổi từ đâu vậy? Là phải bắt đầu sửa đổi từ việc hiếu thuận với cha mẹ. Tại sao nói như vậy? Vì “Trăm điều thiện hiếu đứng đầu”, con người một khi hiếu thuận với cha mẹ rồi thì hỏa khí liền hạ xuống hết, sau khi hỏa khí hạ xuống rồi thì kinh lạc lưu thông rất dễ dàng, kinh lạc lưu thông rồi thì bệnh tự động khỏi thôi. Cho nên tôi hỏi, có phải cháu ở nhà không phụ giúp việc nhà phải không? Mẹ của cháu đứng bên cạnh gật đầu ngay. Bà nói cháu nó đây đúng như vậy, được nuông chiều từ nhỏ nên chẳng phụ giúp việc nhà gì cả. Tôi liền nói với cháu, nếu cháu muốn khỏi bệnh thì bắt đầu từ hôm nay, về nhà tất cả những việc nhà cháu không nên để mẹ cháu làm nữa, vì mẹ cháu lúc đó khi tìm đến tôi khám bệnh thì tuổi đã ngoài 50 rồi. Tôi nói cháu là một người trẻ tuổi, mẹ già ở nhà mỗi ngày quét nhà, mỗi ngày làm việc nhà, rửa chén, mọi việc cháu đều không làm, cháu ở bên cạnh mà siêng ăn nhác làm để mẹ làm, hơn nữa còm đốp chát với cha mẹ, cái khí này không đúng, khí không đúng thì sẽ sinh bệnh có đúng không?
Sau khi quay đầu, bé gái này bắt đầu sửa đổi. Vào ngày thứ hai trước khi tôi đến, cha mẹ cháu dắt cháu đến khám lại lần nữa, cô đưa tôi xem kết quả xét nghiệm của bệnh viện thì khối u đã nhỏ rất nhiều rồi. Lúc đó tôi cũng dùng đông dược hỗ trợ điều trị cho cháu, thực tế nếu đơn thuần dùng thuốc đông dược thì hiệu quả rất chậm. Quí vị đều biết, khối u tuyến giáp trạng không phải nhanh như vậy. Lúc đó khi cháu đến thăm tôi, cháu nói bệnh viện cũng rất kinh ngạc, không biết tại sao tiêu nhanh như vậy? Trên thực tế trong đây có một đạo lý rất sâu, là nếu tâm thái chúng ta điều chỉnh tốt thì bệnh khỏi rất nhanh.
Có người nói rằng, điều ông nói là đứng từ góc độ đông y mà nói, vậy từ góc độ khoa học hiện nay mà nói thì có căn cứ hay không? Tôi xin báo cáo với quí vị, là rất có căn cứ. Giáo sư Ngải Nhĩ Mã, nhà sinh lý học đại học Tư Thản Phúc Hoa Kỳ đã từng làm một thí nghiệm rất nổi tiếng, thí nghiệm này chính là thí nghiệm hơi nước. Ông thu thập hơi của những người giận dữ, buồn rầu, phiền não thở ra, ông đem hơi này cho chạy qua một cái ống nhỏ và dẫn vào trong một cái bình chứa đầy nước thuốc, màu của nước chứa trong bình này liền xảy ra thay đổi. Ông phát hiện, khi người giận dữ thì hơi của họ thở ra sẽ khiến cho nước biến thành màu tía, khi buồn rầu thì nước biến thành màu trắng xám. Và ông lại rút nước có màu tía chích vào trong cơ thể chuột bạch thì trong khoảng mấy phút sau chuột bạch co giật mà chết. Thí nghiệm này cho chúng ta thấy rất rõ ràng, khi chúng ta giận dữ thì trên thực tế là đang tiết ra độc tố. Hơn nữa vị giáo sư này nghiên cứu thêm môt bước và ông nói, khi con người giận dữ thì mức tiêu hao năng lượng bằng với mức tiêu hao năng lượng của một người chạy 3000 m, giận trong ba phút thì tiêu hao năng lượng tương đương với người chạy 3000 m, cũng chính là nói một người giận dữ sôi sục thì lúc này năng lượng sống của bạn rất tiêu hao, điều này đã minh chứng cho đạo lý của đông y. Đông y nói: “Giận thì khí đi lên”, vả lại khi khí này đi lên thì hỏa khí này sẽ làm tiêu tán hết tinh hoa của cơ thể. Chúng ta không nói xa vời, vì đạo của trời đất tự nhiên phản ánh trực tiếp trên cơ thể chúng ta, tại sao nói vậy?
Hồi tưởng một chút, khi chúng ta giận dữ, thì tay chân lạnh, sắc mặt tái xanh, tại sao như vậy? Vì con người khi giận thì khí huyết bị ứ trở, khí huyết ứ trở thì biểu hiện nhanh nhất là tay chân lạnh, cho nên khi giao tiếp với người khác, đông y chúng ta có rất nhiều cách chẩn đoán, vọng, văn, vấn, thiết, trong đó thiết không phải chỉ là xem mạch, khi nói chuyện với người khác vừa tiếp xúc là có thể biết khái quát. Cho nên khi bắt tay người khác, nếu như tay của đối phương là rất lạnh và bạn nhìn sắc mặt của họ lại có màu xanh thì sẽ phán đoán được người này can có vấn đề. Điều này trong y án cổ đại và trong y án hiện đại đều có giới thiệu, điều này trên cơ thể chúng ta có thể tự thể hội được. Sắc mặt tại sao lại tái xanh vậy? Là vì con người nổi giận thì thứ nhất, như tôi vừa mới nói là tiết ra độc khí màu tía rất nhiều, thứ hai là khiến cho thành phần trong máu xảy ra thay đổi, thứ ba là khiến cho tuần hoàn trong mao mạch không tốt. Cho nên quí vị đang ngồi đây ai cũng đều có thể nghiệm này, là con người sau khi giận, theo sau căng thẳng là mệt mỏi, sau khi mệt xong thì có thể tay chân dễ bị tê, tại sao như vậy? Vì mệt mỏi tức là đã tiêu hao tinh lực, tay chân tê chính là tuần hoàn ngọn chi không tốt. Tại sao tôi lại đem điều này nói rõ ràng như vậy? Vì tôi đã từng giận, hơn nữa tôi cũng biết, khi vấn đề của mình thường hay xảy ra thì cũng tương thông với những vấn đề của người khác, ngược lại vấn đề của người khác bạn cũng có thể tìm được đáp án trên chính bản thân mình. Cho nên về phương diện này thì lý giải của đông tây y là giống nhau, cũng đã được chứng minh bằng khoa học hiện đại, đây là điều thứ nhất là Nhân.
Nhân từ thì sẽ tốt cho can, người nhân từ thì can huyết thông suốt, khí mạch sẽ tốt, đương nhiên là trường thọ. Cho nên nói cái cần dưỡng trong dưỡng sinh là dưỡng cho can khí tươi mới không dừng. Chúng ta đều biết Lão Tử có một câu nói là “Nhân chi sanh dã nhu nhược, kỳ tử dã kiên cường”, sau khi chúng ta giận còn có một biểu hiện nữa là tứ chi cứng đờ. Chúng ta quan sát trẻ con, quan sát hiện tượng tự nhiên thì sẽ phát hiện, khi con người càng khỏe mạnh, càng trẻ tuổi, thì gân cốt đều rất mềm mại, tuổi càng cao thì gân cốt sẽ trở nên cứng, tức là căng, căng thẳng. Cho nên trong đông y có một câu danh ngôn là: “Cân trường nhất thốn, thọ diên thập niên”, là ý gì vậy? Tức là gân cốt có thể vươn dài, giãn ra rất mềm mại, đặc biệt duỗi dài, có tính co giãn, đó gọi là trường nhất thốn, thì thọ mạng của người này sẽ có thể sống thêm mười năm. Ngược lại, nếu như gân ngắn một thốn thì sẽ giảm thọ mười năm. Chúng ta phản tỉnh một chút, nếu một người thường hay giận dữ thì kinh lạc của họ sẽ bị ứ trở, sẽ thu ngắn lại, thời gian dài thì sẽ tổn giảm thọ mạng của họ. Cách tổn giảm thế nào? Là sẽ dẫn đến các loại bệnh hiểm nghèo. Cho nên có rất nhiều cách thức gây ra bệnh hiểm nghèo, trong đông y điều đáng sợ nhất là ngũ hành sinh khắc. Cái gì khắc mộc? Là kim khắc mộc.
Dưới đây cũng có một bệnh án, là một người giới tính nữ, cô bị chứng xơ gan, trên thực tế là do khí của kim quá thịnh gây nên. Đây là điều nhân từ thứ nhất, ứng với ngũ tạng là thuộc can, tâm thái tương ứng là nhân từ bác ái. Ngược lại nếu một người thường hay giận dữ cũng sẽ dẫn đến bệnh như vậy. Sự ảnh hưởng của “Nghĩa” đối với nội tạng
Phương diện thứ hai là Nghĩa. Chúng ta đều biết điều mà nghĩa muốn chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm và đạo nghĩa của một người, nó ứng với ngũ hành là thuộc kim, ứng với ngũ tạng là thuộc phế. Ví dụ một người phế khí không đầy đủ, chúng ta suy ra họ về mặt nghĩa sẽ có vấn đề. Bản thân tôi là một ví dụ rất hay. Tôi trước đây khi còn học trung học, vì không chú ý nâng cao phương diện hiếu đạo cho nên bệnh viêm mũi của tôi lúc nào cũng rất nghiêm trọng, đến nỗi cứ mỗi tối thường hay hỉ mũi, dùng giấy nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Chúng ta đều biết phế khai khiếu ở mũi, mũi có vấn đề chứng tỏ phế chúng ta có vấn đề, tương ứng với phế có vấn đề là phương diện nghĩa ta làm không tốt. Tại sao nói như vậy? Vì trong nghĩa vụ thì nghĩa vụ đầu tiên chính là hiếu dưỡng cha mẹ, hiếu dưỡng cha mẹ làm không tốt thì phương diện này không viên mãn. Sau đó tôi tự phản tỉnh mình, thấy bệnh này của tôi từ khi lên đại học năm thứ ba, thứ tư thì hết. Tại sao lúc đó khỏi bệnh mà không hề điều trị? Lúc đó tôi vẫn chưa biết kê đơn thuốc, tại sao khỏi bệnh vậy? Vì tôi càng học y càng cảm thấy nỗi khó chịu, đau khổ của bệnh nhân. Khi làm việc trong bệnh viện, tôi phát hiện rất nhiều người bệnh khi chết rất đau khổ, khắp người cắm đủ thứ ống, giãy giụa, bất lực, đau khổ lìa xa nhân thế. Khi tôi nhìn thấy cảnh tượng này thì trong lòng rất buồn, tôi liên tưởng trực tiếp đến cha mẹ của mình. Ban đầu tôi học y là vì cảm thấy thích đông y, nhưng sau đó không thích vậy nữa, khi tôi học đại học đến năm thứ ba thứ tư tôi mới ý thức được, tôi dứt khoát không thể để cha mẹ mình rời xa cõi đời như vậy, hơn nữa tôi không muốn cha mẹ mình vào bệnh viện, đặc biệt là làm những chuyện phẫu thuật, tôi không muốn họ như vậy. Vì đông y có cách để cho người già không bệnh mà chết, để cơ thể của họ lìa xa nhân thế một cách rất tự nhiên. Vì nếu như một người khí huyết không điều hòa, thì có thể thông qua các phương diện thuốc là điều chỉnh tốt, để họ khỏi phải vào bệnh viện, có thể khiến họ có được giây phút an nghỉ rất tốt. Lúc đó tôi liền nghĩ, tôi mong sau khi học y xong thì không để cha mẹ tôi vào bệnh viện, tự bản thân tôi hầu hạ họ tại nhà. Kết quả từ năm 2002, sau khi tôi học xong y khoa cơ bản, mãi đến năm 2009 thì cha mẹ tôi cũng không đi vào bệnh viện nữa, vả lại không hề uống một viên thuốc nào. Khi cha mẹ tôi không khỏe tôi đều tự giải quyết hết, hoặc là dùng đông dược điều hòa cơ thể, đẩy tất cả các thứ như phong, hàn, thử, thấp ra ngoài, hoặc là dùng châm cứu, hoặc là dùng xoa bóp. Cho nên trước đây tôi về nhà thường hay xoa bóp ấn huyệt cho cha mẹ, tôi cảm thấy đó là sự hưởng thụ to lớn của đời người. Về sau này, sức khỏe của cha mẹ tôi dần dần mỗi năm mỗi tốt hơn. Trước đây do đời sống không tốt nên cha tôi đã bị bệnh tiêu hóa, mỗi khi đến mùa hè là bệnh phát, nhưng đến bây giờ bệnh đã khỏi hẳn, đây là niềm an ủi rất lớn cho việc học y của tôi. Từ sau khi năm thứ ba, thứ tư học đại học, tôi ý thức được điểm này thì bệnh viêm mũi của tôi tự nhiên khỏi hẳn, vậy chứng tỏ điều gì? Là chứng tỏ tâm hiếu của con người đã sản sinh thì nghĩa liền xuất hiện, sau khi nghĩa xuất hiện thì phế khí đầy đủ, phế khí đủ thì lỗ mũi nó tự động khỏi, đây là nghĩa.
Mặt trái của nghĩa là gì vậy? Chính là quá khích, hành vi quá khích. Tôi xin chia sẻ với quí vị một chút, nghĩa tương ứng với tinh. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc cổ đại, tinh đại biểu cho việc thu liễm, thuộc phương tây, là mùa thu. Chúng ta đều biết mùa thu là mùa lá rụng, là lúc gió thu xào xạc, thời điểm này cả đất trời chỉ có một sắc khí xơ xác. Cho nên nói, người có khí của kim quá mạnh thì sát khí cũng rất nặng, cổ nhân gọi là sát khí, dịch qua từ hiện đại là người này đặc biệt thích chọc vào chỗ đau của người khác, dùng cách nói hiện đại là: “Không giúp mà còn bỏ cát vào mắt”. Người có tính cách kiểu này rất dễ bị bệnh thuộc phương diện hành kim, bị bệnh ở kinh phế. Mọi người đều biết kim thì khắc mộc, giả dụ như người này điều khiển ham muốn, thích bới móc người khác, nếu tập khí này quá nặng thì thường tổn thương đến can, hơn nữa còn tổn thương rất nặng nề.
Vào tháng sáu năm nay, tôi có điều trị cho một bệnh nhân, là một bệnh nhân ở tỉnh Hà Bắc. Khi anh đến tìm tôi khám bệnh, anh nói bác sĩ Bành, tôi bị xơ gan thời kỳ đầu. Chứng xơ gan mọi người đều biết, khi xơ gan phát triển nặng là gây cổ trướng, cổ trướng nặng thêm nữa là có thể tử vong. Con đường thứ hai của xơ gan là ung thư gan, thời gian sống còn cũng không quá mười năm. Anh ta nói, tôi cảm thấy đời sống của bản thân mình không còn hy vọng nữa, cũng không biết mình sai lầm ở chỗ nào? Tôi nói, bệnh này dùng đông y là có thể trị khỏi, nhưng điều quan trọng nhất là bản thân anh trước tiên phải đứng dậy. Cho nên thầy thuốc nhiều khi phải giúp bệnh nhân khôi phục lòng tin. Tôi nói bệnh này của anh có thể tự mình trị khỏi, đồng thời tôi sẽ kê đơn thuốc giúp anh và từ từ anh sẽ khỏi thôi. Anh hỏi thật vậy không? Tôi nói, việc này là hoàn toàn có thể. Vì dưới cái nhìn của đông y thì chỉ cần tinh khí, sau khi tinh khí vượt quá mức giảm xuống thì mạch của can sẽ thông suốt, chứng xơ gan của anh ta sẽ khỏi. Tôi liền nói với anh, anh là lãnh đạo của công ty mà trên gương mặt của anh không hề có nụ cười, (vì chúng tôi vọng văn, vấn, thiết đã lâu rồi nên có kinh nghiệm, bệnh nhân đến như thế nào thì đại thể đã biết rồi, thông qua ngũ hành vọng chẩn thì biết thôi), hơn nữa trong nội tâm lại quá bó buộc, là bị bó buộc. Anh ta nói đúng như vậy, công nhân của tôi đều nói với tôi, họ đều nói là họ rất sợ tôi, và bản thân tôi cảm thấy rằng, mỗi ngày tôi đều dường như bị buộc chặt. Tôi nói, vậy chẳng phải anh tự chuốc họa vào thân đó sao? Đây gọi là vận động tạo ra bệnh, tự mình tạo ra bệnh, tâm thái này của anh kéo dài thì sẽ tạo ra bệnh, anh thấy anh đã tạo thành công bệnh rồi đó, tạo ra được xơ gan rồi. Nếu như anh tiếp tục chế tạo tiếp nữa, thì bệnh này sẽ phát triển thành bệnh hiểm nghèo và sẽ cướp đi mạng sống của anh, vậy là trong ngoài đều mất, đã không tốt cho bản thân mà còn khiến người khác thêm khó chịu. Anh hỏi: “Thế có biện pháp gì không?” Thực tế rất đơn giản, tức là người khí của kim quá nặng thì phải luyện tập điều gì? Tức là luyện tập khoan dung và mỉm cười. Tôi liền nói với anh ta, bắt đầu từ hôm nay anh bắt đầu luyện một nội dung là được rồi, là mỗi ngày phải mỉm cười. Vì con người chỉ cần cười lên thì khí căng thẳng của toàn thân liền buông lỏng, các tạng khí được giãn ra, khi tạng khí được giãn ra thì bệnh liền khỏi ngay. Sau khi tôi nói đạo lý này cho anh ta và kê cho anh bài thuốc Tứ Nghịch Tán, để cho can khí được giãn them. Anh đi về. Khoảng hai tuần sau, vì bệnh nhân này là thuộc bệnh nhân tương đối nặng, nên tôi điện thoại cho anh ấy, tôi hỏi anh hiện nay thế nào rồi, anh đã uống thuốc chưa? Anh nói, bác sĩ Bành, nói thật với bác tôi chưa uống thuốc, hiện nay tôi nghe lời bác, mỗi ngày tôi tập mỉm cười để cư xử với người xung quanh, tôi phát hiện những cảm giác có trước đây giờ đã không còn nữa, tức là cảm giác đau ở vùng gan giờ đã hết rồi, hơn nữa đi xét nghiệm chức năng gan ở bệnh viện thì các chỉ số đều phát triển theo chiều hướng tốt. Sau đó anh gởi cho tôi một đoạn thư ngắn, anh nói: “Bác sĩ Bành, hôm trước bác chỉ tôi mỉm cười cứ lãng vãng trước mắt tôi, mỗi khi gương mặt tôi căng thẳng, uất ức trong lòng thì liền nghĩ đến điều này, mỗi ngày luyện tập”. Và lúc đó tôi còn nêu cho anh một bệnh án, người này cũng bị, đó là giám đốc Lý - Công ty Phi Nê Khắc Tư. Trên thực tế, khi người giận dữ chính là tự treo mình lên xà nhà để đánh, người này mỗi ngày họ tự đánh mình. Khi tôi nói với anh ta về bệnh án này, thì không khí căng thẳng của anh lúc đó bỗng hòa dịu xuống liền, tại sao vậy? Một khi ta thấy lại chính mình thì lúc đó trí tuệ liền mở ra và rất nhiều vấn đề lần lượt được giải quyết. Anh nói sau khi tôi nêu ra bệnh án này cho anh thì mỗi tối anh đều nghĩ, nghĩ đi nghĩ lại và tự mỉm cười, anh cảm thấy mỗi ngày anh đều tự đánh đập chính mình, việc gì phải thế! Hơn nữa thường là tự đánh đập chính mình, hoàn toàn không phải người khác đánh đập mình. Sau khi anh ta nghĩ vấn đề này thông rồi thì khí huyết liền thông, sau đó cơ thể liền khỏe mạnh. Đây là bệnh án thứ hai. Đây là người khí của kim quá thịnh, khí của kim phát triển thêm nữa thì đó là bầu không khí buồn thảm. Cho nên trong thất tình của đông y nói rằng, buồn thì tổn thương phế, nếu một người quá buồn rầu thì sẽ tổn thương phế khí.
Năm ngoái tôi có điều trị cho một bệnh nhân bị bệnh hiểm nghèo, người này khi đến tìm tôi khám bệnh là bị ung thư phổi thời kỳ cuối. Tại sao cô bị như vậy? Theo cách nói của tôi, đó cũng là tạo ra bệnh thành công. Nửa năm trước khi tìm đến tôi khám bệnh, thì con gái của cô 25 tuổi bị tai nạn xe mà chết, kể từ đó ngày nào cô cũng khóc. Cô sống gần bờ biển, bên biển có núi, mỗi ngày cô đều leo leo lên đỉnh núi, đứng bên vách đá muốn nhảy xuống tự tử, mỗi ngày đều như thế, đến nỗi chồng cô ngày nào cũng phải đi theo giữ cô. Trong hoàn cảnh tâm thái như vậy, cuối cùng đã tạo ra bệnh, đây chính là ung thư phổi. Khi bệnh nhân này đến tìm tôi khám bệnh, bác sĩ nói với cô, cô chỉ còn sống khoảng ba tháng nữa, người nhà cô nói rằng cô còn một số chuyện chưa làm xong, hy vọng tôi có thể dùng y thuật giúp cô ta kéo dài thời gian sống. Lúc đó tôi cũng nói với cô như vậy, có kéo dài thời gian được hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào cô, tôi đem đạo lý này nói rõ, tức là buồn thì tổn thương phế, vậy làm sao có thể điều trị buồn rầu đây? Con người thường hay bị sa vào trong tiểu ngã, tức là tiểu của đại tiểu, ngã của tự ngã, sa vào trong tiểu ngã thì cô ta dễ bị buồn rầu, rất dễ buồn rầu mà không sao thoát ra được. Con người một khi đi vào đại ngã, thì họ sẽ không buồn rầu mà chuyển thành từ bi. Từ bi có nghĩa là gì? Tức là quan tâm tất cả mọi người một cách vô điều kiện. Tôi bèn gợi ý cho cô, tôi nói con của cô đã không còn nữa, cô thử nghĩ xem vai trò cô trong gia đình, không chỉ là một vai trò mà còn rất nhiều vai trò khác. Thứ nhất, cô là con của cha mẹ cô, cha mẹ của cô đều còn khỏe tuy cô đã 50 tuổi. Thứ hai, cô còn là người vợ của chồng mình. Thứ ba, trong xã hội cô còn là nhân viên của công ty, ngoài ra cô còn là người mẹ. Hiện tại cô chỉ rơi vào trong cái vòng nhỏ là làm mẹ này, cô hoàn toàn không thoát ra được cái vòng này, khi cô thử nghĩ mình còn những nghĩa vụ khác thì cô sẽ nhanh chóng thoát ra khỏi chỗ này thôi. Cô nói đúng vậy! Chồng của cô cũng rất ủng hộ cô, gia đình cô đã nhận nuôi một bé mồ côi, là một bé sơ sinh bị bỏ rơi, một bé gái nhỏ, giúp cô mở rộng tấm lòng. Người bệnh từ khi nhận nuôi bé gái nhỏ này, tâm trạng mỗi ngày cũng chuyển tốt hơn, nhưng cuối cùng cũng chỉ kéo dài sự sống thêm được năm tháng, vốn dĩ dự đoán khoảng ba tháng thì qua đời nhưng kéo dài đến tám tháng sau, mãi đến lần trước tôi đi Sơn Đông là gặp được cô lần cuối, và cuối cùng cô cũng qua đời. Đây cũng là một gợi ý rất hay, tức là thông qua việc nhận nuôi bé gái đã mở rộng tình thương của mình, đồng thời ý thức được bản thân mình còn có những trách nhiệm khác, cũng không đến nỗi sa vào vòng tiểu ngã. Lòng mình vừa mở ra thì khí cũng theo đó mà thay đổi, một khi khí thay đổi thì bệnh tật ngoại hình cơ thể cũng sẽ được thư thả. Cuối cùng bệnh nhân này do hai lần dùng hóa trị khiến niêm mạc bị tổn thương rất nghiêm trọng, ăn cơm như lời của cô ta nói là giống như nhai sáp, là ăn bất kỳ món gì cũng giống như ăn xác cây vậy, đường tiêu hóa tổn thương rất nghiêm trọng. Khi tôi gặp lại cô lần cuối cùng thì người chỉ còn da bọc xương. Dưới cái nhìn của đông y, tức là tỳ vị khí rất yếu, điều này trên thực tế là tổn thương đến tỳ vị. Cuối cùng cô chỉ sống kéo dài thêm được năm tháng.
Nhưng chúng ta cũng tổng kết được một điểm từ trong bệnh án này, là sự buồn rầu của chúng ta, thực tế tất cả những tâm trạng này, chung quy tóm lại cuối cùng vẫn là tiểu ngã, tức là vượt không qua được chữ “ngã”. Một khi bạn vượt qua được, thì bạn sẽ phát hiện thân thể này cũng nhanh chóng theo đó mà thay đổi.
Đây là phương diện thứ hai.
Sư ảnh hưởng của “Lễ” đối với nội tạng
Phương diện thứ ba là Lễ. Lễ tương ứng với hỏa, ứng vào ngũ tạng là tạng tâm, ứng vào bốn mùa là mùa hạ. Chữ lễ này hỏa trong “Thượng thư” nói rằng: “Hỏa viết viêm thượng”, là ý gì vậy? Có nghĩa là tích cực hướng thượng, là sáng tỏ, đại biểu cho sự tiến bộ. Chúng ta đều biết trên thế giới, một tiêu chuẩn rất quan trọng để đánh giá một quốc gia có tiến bộ hay không, đó là xem người dân của quốc gia này có lễ phép hay không? Lễ phép ứng với điều gì vậy? Tức là trật tự, cũng chính là chỉ quan hệ của ngũ luân. Trong “Hoàng Đế Nội Kinh” nói rằng: “Tâm giả, quân chủ chi quan, chủ minh tắc hạ an, chủ bất minh tắc thập nhị quan nguy”. Cũng chính là nói, cái tâm này trong cơ thể có tác dụng chủ đạo, là chủ thần minh, tâm vốn dĩ ở trạng thái rất rộng mở và hướng thượng, đây là trạng thái tự nhiên của nó. Nếu như trạng thái không tự nhiên thì bệnh thái sẽ như thế nào? Bệnh thái đó chính là thù hận. Thù hận sẽ tổn thương tạng khí nào vậy? Là sẽ tổn thương tạng tâm. Tại sao nói như vậy? Tại vì bình thường tâm thù hận đều từ bên trong tâm phát ra ngoài, vả lại khí này của nó lại tụ vào bên trong, đặc biệt dễ gây ra một số các loại bệnh như bệnh mạch vành, hồi hộp, đánh trống ngực.
Trên lâm sàng tôi gặp một bệnh nhân, người này bị người khác lừa 200 ngàn. Sau khi bị lừa 200 ngàn thì anh ta ngày đêm suy nghĩ và rất thù hận người gạt mình, thế là anh đã tự tạo cho mình một loại bệnh, đó chính là nhịp tim không đều. Khi anh đến tìm tôi khám bệnh thì anh đã nói ra nguyên nhân gây ra bệnh này. Tôi nói với anh, bên trong cơ thể của anh nhất định có rất nhiều điểm đau. Chúng ta đều biết kinh lạc không thông, nội tạng không thông thì kinh lạc bên ngoài sẽ có áp thống điểm, trên kinh thủ quyết âm tâm bào của anh ta, quí vị duỗi thẳng tay ra đường kinh phía bên trong này, ở vùng này chính là kinh thủ quyết âm tâm bào, những vùng này sẽ có rất nhiều điểm đau, chỉ cần day mở những điểm đau nà, thì nhịp tim không đều sẽ khỏi rất nhanh, và ngay tức thời là trong ngày đó liền trị khỏi căn bệnh này. Cho nên đông y hoàn toàn không chậm, tức khắc là có thể có hiệu quả. Sau khi tôi day mở kinh lạc cho anh xong, thì ngày thứ hai anh ngủ rất ngon, cũng không có hồi hộp. Sau đó khi khám lại tôi bèn nói với anh, vấn đề căn bản nhất không phải là kinh lạc có thông hay không, khí huyết có hòa hay không, ngũ tạng có cân bằng hay không, điểm quan trọng nhất không phải những điều này, mà điểm quan trọng nhất là nguyên nhân bệnh của anh. Nếu như anh buông bỏ đừng nhớ những vấn đề này, số tiền 200 ngàn này coi như anh đã trả xong món nợ, anh không chỉ bị người ta lừa 200 ngàn, hơn nữa bản thân anh còn bị người ta lừa cả sức khỏe, phải vậy không? Sau đó tự tạo ra bệnh cho mình, vậy là lợi bất cập hại. Nếu như anh điều chỉnh trở lại tâm thái này thì sẽ không bị bệnh này, vả lại xóa bỏ được cái gốc. Cho nên khi điều chỉnh bệnh cho anh, tôi có kiến nghị mặt này, anh cũng rất hợp tác, đồng thời chỉ cho anh tự mình day ấn những huyệt này, cộng thêm ăn rau và thực dưỡng.
Cho nên, nhắc đến đông y, quí vị không chỉ liên tưởng đến thuốc nam, thuốc bắc, trên thực tế rất nhiều bệnh không dùng thuốc nam thuốc bắc cũng có thể trị khỏi. Như bệnh rối loạn tuần hoàn não thì thường nên ăn rau muống, rau cần, những loại rau này có tính sơ thông nên có thể sơ thông kinh lạc bị bế tắc rất tốt. Lúc đó anh ta dùng phương pháp này, thông qua việc ăn rau và day ấn kinh lạc, sau đó một tháng bệnh nhịp tim thất thường của anh khỏi hẳn. Và anh cũng nói rằng, tôi từ nay về sau không để trong lòng nữa, cũng không nghĩ đến chuyện này nữa. Đây là Lễ, đi kèm với lễ chính là “Nhạc”, lễ và nhạc hai cái này hợp lại với nhau, chính là hôm qua thầy Cận Nhã Giai đã chia sẻ với quí vị. “Di phong dị tục, mạc thiện ư nhạc”, nhạc thời cổ đại còn có một cách đọc là Lạc, chữ lạc trong hỷ lạc, tức là vui vẻ. Nếu như tâm của một người ở vào trạng thái vui vẻ thì mạch khí của họ sẽ rất dễ thông suốt. Cho nên chúng ta quan sát trẻ con, trẻ con suốt ngày chúng đều rất vui vẻ. Nhà y học đã làm một thống kê, trẻ con trước ba tuổi, bình quân mỗi ngày cười 170 lần, tâm mạch hoàn toàn thông suốt, không có bệnh tật. Cổ nhân gọi đó là khí thuần dương, chúng sẽ không có bệnh. Người trưởng thành bình quân mỗi ngày cười bảy lần, người Trung Quốc chúng ta so với toàn thế giới mà nói là ít cười nhất, cả ngày vẻ mặt như khúc gỗ, rất ít thấy vẻ mặt tươi cười, tại sao vậy? Vì chúng ta dường như quá nghiêm ngặt về mặt này. Trên thực tế không đúng. Nội tâm của bạn, sau khi vui vẻ thì cơ thể sẽ thông suốt, và ngược lại khi cơ thể khỏe thì tâm thái cũng tốt, cho nên nói điều chỉnh tâm thái tốt thì bệnh của tạng tâm sẽ được thư thả. Đây là phương diện thứ ba, là phương diện Lễ.
Sự ảnh hưởng của “Trí” đối với nội tạng
Phương diện thứ tư là “Trí”. Trí trong nhân lễ nghĩa trí tín, tức là nói người này rất có trí tuệ. Trí tuệ tương ứng với ngũ hành là thủy, ứng vào bốn mùa là mùa đông. Trí tuệ có từ đâu vậy? Một người muốn có trí tuệ, điều thứ nhất là phải khiêm tốn, tức là có thể tiếp nhận ý kiến của người khác, có thể tiếp nhận ý kiến của người khác tức là “Kiêm thính tắc minh”, là lắng nghe. Cho nên nói thận khai khiếu ở tai, điều này có đạo lý. Nếu một người thận khí đầy đủ, thì tai của họ sẽ dễ dàng nghe được sự khuyên bảo của người khác, người thận khí đầy đủ thì có trí tuệ. Đúng vậy, người có thể nghe lời khuyên bảo của người khác thì lỗ tai thông rồi, thì thận khí sẽ đủ. Thận khí đủ rồi thì họ tự nhiên có trí tuệ. Cho nên cổ nhân Trung Quốc đã tổng kết những đạo lý này là hoàn toàn liên kết với nhau trong đời sống sinh hoạt của chúng ta. Ở đây tôi xin nhấn mạnh với quí vị một chút, lần trước ở Thanh Đảo tôi đã từng nói qua đề tài này, đó chính là đề tài tổn thương tinh này, tại sao phải nhấn mạnh vậy? Vì hiện nay vấn đề này rất nghiêm trọng, chính là tổn thương thận, vì sao tổn thương thận vậy? Tức là phòng sự quá độ khiến thận khí bị tổn thương.
Chúng ta đều biết thận chủ cốt tủy, não là bể chứa tủy, thận chủ cốt, xương cốt khỏe mạnh là một dạng biểu hiện của thận khí đầy đủ. Điều thứ hai, thận còn chủ cốt tủy. Chúng ta đều biết, người thận khí đầy đủ thì toàn bộ cốt tủy đều sung mãn, cốt tủy, tủy trong xương sống này nó liên thông lên với não nên người này sẽ thông minh, sẽ có trí tuệ. Ngược lại, nếu như người này thường xuyên tiết ra thận khí thì cốt tủy của họ sẽ khô héo, cốt tủy khô héo thì tinh hoa trong não sẽ rót tưới vào cốt tủy, thì não sẽ không sáng suốt, dẫn đến tình trạng cơ thể suy tàn. Cho nên thận khí không đủ đây là vấn đề căn bản nhất, tức là phần dư tinh hoa của ngũ tạng lục phủ đều cất chứa vào trong thận này. Thận cũng giống như tổng ngân hàng năng lượng của cơ thể vậy, nó thu nạp tất cả năng lượng của cơ thể vào để cất giữ, để dành khi có nhu cầu, khi có bệnh thì điều động năng lượng này ra dùng. Nếu như thường xuyên tiết thận khí thì người này sẽ xuất hiện các biểu hiện như sau.
Thứ nhất là cốt tủy khô héo. Biểu hiện trực tiếp nhất của cốt tủy khô héo là dễ bị gãy xương. Ở Thanh Đảo tôi đã chia sẻ với quí vị rồi. Tôi đã từng có một anh bạn học một năm bị gãy xương bốn lần. Thực tế là do háo sắc, sắc dục quá độ dẫn đến dễ bị gãy xương.
Thứ hai là trí óc rất kém, sức ghi nhớ giảm sút, mất đi năng lực làm việc, học tập, giao tiếp nhân tế, trở thành một người tàn phế. Điều này trong buổi nói chuyện lần trước tôi cũng đã chia sẻ với quí vị rồi. Trên thực tế nếu chúng ta đứng ở góc nhìn khác, thì tinh trên thực tế chính là cốt tủy. Nếu như cốt tủy của người này không đầy đủ, thì trí óc, trí lực, thể lực, sức đề kháng sẽ bị giảm sút. Cho nên dùng một ví dụ đơn giản nhất, tinh tủy, thận tinh và cốt tủy của con người, nó giống như cái gì vậy? Nó giống như hệ thống phòng ngự của cơ thể chúng ta vậy, là đạo quân phòng ngự hậu cần cấp dưỡng. Nếu như rút hết toàn bộ số lương thực cấp dưỡng này, thì đạo quân phòng ngự sẽ bị sụp đổ toàn bộ, nên dẫn đến trăm thứ bệnh dồn vào, gây ra những loại bệnh như tiểu đường, tai biến, viêm cổ tử cung, ung thư tử cung, đủ thứ loại bệnh tật cùng xuất hiện, trên thực tế đều có quan hệ rất mật thiết với thận khí. Đây là cách thức tổn thương thận trực tiếp nhất. Vậy về mặt tâm thái thì thận khí có quan hệ thế nào? Chúng ta đều biết, một người khi thận khí thật sự đầy đủ thì biểu hiện bên ngoài của họ rất khiêm nhường, và cũng rất dễ dàng tiếp nhận ý kiến của người khác. Ngược lại thận khí không đủ thì sao? Thì người này sẽ bồn chồn, không yên, sẽ tự mình cảm thấy bị áp lực rất nặng. Trước đây tôi có điều trị một bệnh nhân, bệnh nhân này chính là điển hình của một người vì sợ mà tổn thương thận, sợ hãi sẽ tổn thương thận khí. Sợ hãi khi dịch qua từ hiện đại là cảm giác không an toàn.
Năm 2002, khi tôi khám bệnh cho anh ta, anh đến tìm tôi khám bệnh là do mất ngủ triền miên, không cách nào trị khỏi, tôi đã cho anh ta dùng các bài thuốc đông y như Toan Táo Nhân thang, Giao Đằng hoàn, cơ bản là để thử xem sao, nhưng chẳng có tác dụng. Bệnh nhân năm 2002 này, tôi chữa cho anh không khỏi. Lúc đó tôi cũng vừa mới ra trường, đến năm 2008 tôi gặp lại anh ta. Anh kể chuyện cho tôi nghe, anh nói: “Bác sĩ Bành! Bác biết không, bệnh của tôi khỏi rồi”. Tôi hỏi anh, bệnh của anh chữa thế nào mà khỏi vậy? Anh nói tôi bị ngồi tù ba năm, sau khi vào tù đến tuần thứ hai thì khỏi bệnh. Tôi hỏi, tại sao như vậy? Anh nói thực tế lúc đó tôi đã nói điều này với bác rồi, vì anh ta là người lãnh đạo cấp sở của địa phương chúng ta đây. Anh nói, lúc đó tôi nói với bác cả ngày tôi bị những áp lực buồn phiền đè nén, thực tế là do tắc trách. Vấn đề quan trọng nhất của tôi là phải có kinh tế, rất sợ hãi, nớm nớp lo sợ. Chúng ta đều biết áp lực nặng có rất nhiều dạng, dạng thứ nhất là không hoàn thành công việc, số lượng công việc quá nhiều không thể hoàn thành, đây là dạng áp lực nặng. Dạng thứ hai là sự kỳ vọng của người khác về bạn quá cao, sau đó bạn lại quá sợ không thể hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ hiện nay học sinh thi vào đại học, trước khi thi đại học đều là áp lực. Áp lực nặng thứ ba là gì vậy? Chính là sau khi tự bản thân mình đã làm chuyện xấu, sợ bị người khác phát hiện sau đó đem ra công bố trước mọi người, đây là phương diện thứ ba của áp lực nặng. Áp lực nặng mà anh đã nói với tôi lúc đó thực tế chính là phương diện thứ ba này. Sau khi tham ô một số tiền lớn thì suốt ngày nơm nớp lo âu, đương nhiên là mất ngủ, dùng thuốc gì cũng không thể trị khỏi. Kết quả sau khi bị bắt vào tù, đến tuần thứ hai thì ngủ rất ngon, tạo sao vậy? Vì con người chỉ cần tâm thái tốt lên rồi thì cơ thể sẽ tự động hồi phục, hoàn toàn không cần điều chỉnh. Chúng ta đều biết trẻ con sau khi chúng đã làm một việc có lỗi, nếu chúng không nói với người lớn, bạn sẽ thấy đứa bé này có vẻ ấp úng không tự nhiên làm sao ấy. Bạn liền gọi nó lại hỏi, hôm nay con đã làm gì có lỗi rồi phải không? Nó sẽ nói úp úp mở mở là hôm nay con đã làm bể một cái ly, sau đó bé không nói với ba, đợi sau khi bé nói chuyện này ra xong rồi thì bạn mới tiến hành dạy bé. Sau khi bé bước ra khỏi ngưỡng cửa đó thì sẽ nó bắt đầu hồi phục lại trạng thái bình thường, tức là trạng thái vui sướng nhảy nhót, không còn áp lực nữa. Trẻ con còn như thế thì huống gì người lớn. Thực tế nội tâm chúng ta một khi có chuyện khúc mắc, có chuyện xấu hổ thì bạn sẽ vô cùng khổ sở, đặc biệt như chuyện phạm tội này, điều đó sẽ làm tổn thương cơ thể rất nặng. Bệnh nhân này thực tế là như vậy, tự mình trị khỏi bệnh cho mình. Anh nói, sau khi tôi bị bắt vào tù thì trong lòng tôi bỗng nhiên được phóng thích hoàn toàn, vì đã phán xử ba năm tù, tất cả những chuyện lo lắng trước đây của mình đều xảy ra rồi. Sau khi xảy ra nó đã thành sự thực, cái khí này sẽ lắng xuống. Khí lắng xuống thì thận khí đầy đủ, tự nhiên thủy hỏa sẽ giao tế nên ngủ được, chỉ đơn giản vậy thôi, hoàn toàn không dùng những thuốc như Giao Đằng hoàn, Thủy Hỏa Ký Tế, Toan Táo Nhân Thang, Bổ Tâm Âm, Thiên Ma Câu Đằng Ẩm để bổ thêm can khí. Mà là sau khi tâm của bạn chánh rồi thì khí sẽ chánh, khí chánh rồi thì bệnh liền khỏi, là đơn giản vậy thôi. Đây là phương diện thứ tư.
Sự ảnh hưởng của “Tín” đối với nội tạng
Phương diện thứ năm là “Tín”. Tín tức là thành tín, trong ngũ hành tín thuộc hành thổ, ứng vào trong bốn mùa là trưởng hạ, cũng chính là khoảng thời gian giữa mùa hạ và mùa thu. Trạng thái trong thời gian này chính là lúc vạn vật đang kỳ thai nghén. Chúng ta đều biết vạn vật thai nghén, tất cả sự phát triển đi lên hoặc đi xuống của mọi vật là phải dựa vào cái gì? Đều là dựa vào sự thành tín của con người. Chúng ta làm sự nghiệp cũng tốt, làm người cũng tốt, “Nhân vô tín bất lập”. Nếu con người không có niềm tin họ sẽ không thể đứng lên được, trạng thái của cơ thể cũng vậy. Nếu như một người họ rất thành tín, rất trung thực, thì sau đó sức hành động của họ rất mạnh. Người trong lòng không so đo tính toán thì tiêu hóa của họ rất tốt. Ngược lại, người thường hay so đo tính toán thì tiêu hóa họ không tốt. Tôi xin lấy bản thân mình làm ví dụ.
Trước đây đường tiêu hóa của tôi không được tốt, hơn nữa đây cũng là phiền não tập khí rất quan trọng của tôi, chưa được chỉnh sửa. Khi học văn hóa truyền thống đến năm thứ ba vẫn chưa sửa, cũng như trước đây. Tôi năm ấy là năm cuối học tiến sĩ, thầy hướng dẫn sắp xếp lượng công việc cho tôi quá nhiều. Các sư huynh sư tỷ của tôi đều chưa qua chuyên sâu nghiệp vụ đến làm đề tài, tôi đã chuyên sâu nghiệp vụ vẫn phải làm đề tài vi sinh vật, ngoài ra còn phải đi các bệnh viện khác, đi làm những việc cấy tế bào, cấy vi sinh vật, và còn phải mua đủ các thứ dụng cụ để nuôi cấy. Tôi làm những việc từ nhân công cho đến kỹ sư, tất cả việc lớn đến việc nhỏ. Lúc đó oán khí trong tôi rất nặng, tôi thầm nói tại sao thầy hướng dẫn lại sắp xếp cho sư đệ, sư muội, sư huynh, sư tỷ khác khỏe như thế, còn lượng công việc của tôi tại sao lại nhiều như vậy? Đúng là một bụng oán hận. Kết quả năm đó, cơ thể tôi rất ốm yếu, không phải như trạng thái của tôi hiện nay, cơ thể vàng vọt ốm yếu, không hề có chút thể lực. Đây chính là oán khí tổn thương thân, đến sau này, bốn tháng trước khi bảo vệ luận văn tiến sĩ, tôi có tiếp xúc với một thầy và thầy ấy liền nói với tôi. Thầy chỉ vào tôi và nói, oán, hận, buồn, giận, phiền, cái oán này nó trực tiếp tổn thương tỳ vị, trạng thái của anh hiện nay chính là oán khí quá nặng. Tôi quay lại cẩn thận kiểm điểm mình, sau khi kiểm điểm lại mình tôi thấy quả thật là đúng như vậy. Thực tế không nên oán thầy hướng dẫn, thầy hướng dẫn rất quan tâm thương yêu bạn, tại sao vậy? Vì có áp lực công việc như vậy bạn mới có thể rèn luyện mình, sau khi hoàn thành tất cả những nhiệm vụ này thì tri thức của bạn tăng lên rất nhiều. Việc bảo vệ luận văn của tôi cuối cùng được tất cả các chuyên gia thông qua, hơn nữa đạt hạng ưu tú, tại sao như vậy? Vì đây là nhờ yêu cầu nghiêm khắc của thầy hướng dẫn đối với tôi mới được kết quả như vậy. Năm đó tôi ý thức được điểm này, nên bèn hạ quyết tâm và thầm nói tôi sẽ không bao giờ oán trách thầy nữa, thực tế thầy rất quan tâm thương yêu tôi, và tôi bắt đầu có sức trở lại. Một người chỉ cần oán trách thì sẽ không có sức hành động, sẽ không muốn làm việc. Sau khi nghĩ thấu đáo xong vấn đề này thì tôi rất muốn làm việc, sau đó làm xong công việc và đồng thời tỳ vị cũng khỏe hẳn, những biểu hiện của đường tiêu hóa như tiêu chảy, tiêu lỏng và đầy hơi ở bụng cũng không còn nữa. Đây là sự thể hội của tự bản thân tôi.
Tôi đang điều trị cho một bệnh nhân bị chứng uất ức, thực tế anh ta cũng bị như vậy. Người tỳ vị không tốt, một biểu hiện rất quan trọng đó là làm bất cứ việc gì cũng nghĩ tới nghĩ lui, tính toán, việc này làm thế này có tốt hay không, làm thế kia có tốt hay không, xảy ra chuyện này thì phải làm thế nào? Họ là như vậy, không hạ quyết tâm, do dự không dứt khoát, thành phần trí thức thường hay như vậy. Tôi chính là thành phần trí thức, lúc đó tôi liền nghĩ đến một câu đó là: “Tú tài tạo phản, ba năm không thành” tại sao vậy? Vì suốt ngày cứ nghĩ tới nghĩ lui, không thể làm xong việc, đúng không? Thực tế đây chính là nội tâm của chúng ta, lúc nào cũng phập phồng không yên, lộn xộn lung tung, thật là rối rắm. Bệnh nhân bị chứng uất ức mà tôi đang điều trị đúng là có biểu hiện như vậy. Mỗi ngày cứ trách hết điều này đến điều khác, bị thua cổ phiếu sau đó tâm trạng bị rơi đến cực điểm. Vào giữa tháng tư năm nay đã từng tự sát hụt một lần, đây đều là biểu hiện của bệnh nhân bị chứng uất ức. Biểu hiện thứ hai là mất ngủ, khi ngủ rất khó ngủ được. Trị bệnh nhân như vậy phải trị thế nào? Thực tế rất đơn giản, làm giảm bớt phiền não của họ. Cách làm giảm bớt phiền não là làm thế nào? Tức là bảo họ làm việc, để họ có sức hành động. Bảo họ làm việc gì vậy? Là làm công việc gì mệt thì bảo họ làm, làm những việc thô nặng, gắng sức, đổ mồ hôi, lao động như vậy thì tính nết của họ không còn, họ cũng sẽ không còn nghĩ ngợi nữa. Đối với bệnh nhân này tôi bèn nói:, anh một ngày có thể đi bộ được bao nhiêu thì cứ đi bấy nhiêu, cho đến khi nào mình đi không nổi nữa thì thôi, đồng thời gánh nước giúp cho người xung quanh xóm, hằng ngày cứ làm việc này thì ổn thôi. Anh ta bắt đầu làm, khi mới bắt đầu mỗi ngày anh đi bộ hai km, đi từ xung quanh khu nhỏ của chúng tôi đến một nơi tương đối xa khác và đi trở lại. Anh nói, đi hai cây số thấy người rất mệt. Tôi nói khi nào anh có thể đi được hai mươi cây số thì bệnh của anh sẽ khỏe. Và anh bắt đầu kiên trì đi mỗi ngày, cho đến sau này anh đi mãi thì tất cả những phiền não không còn nữa. Vì con người chỉ cần khí huyết lưu thông, tứ chi hoạt động, vì tỳ chủ tứ chi, khi tứ chi hoạt động thì tỳ vị sẽ khỏe mạnh, tỳ vị khỏe mạnh thì dạ dày sẽ khỏi bệnh, ăn sẽ ngon miệng và ngủ rất ngon, là có thể ăn ngủ tốt, thì họ sẽ khỏi bệnh thôi. Cuối cùng anh ấy hoàn toàn hồi phục.
Điều này khiến tôi nghĩ đến một đặc điểm, chính là một kết quả, tín trong nhân lễ nghĩa trí tín, tín ở mức độ nào đó là chỉ sự thành tín của bạn. Thành tín là gì vậy? Tức là nói được thì làm được, chính là sức hành động. Rất nhiều người trong chúng ta khi làm việc thường nghĩ tới nghĩ lui, suy nghĩ về sự việc quá nhiều, rốt cuộc công việc thì không làm mà còn khiến cho sức khỏe của mình bị giảm sút. Bản thân tôi là một điển hình, lúc đó luận văn chưa viết xong, thí nghiệm cũng chưa làm, sức khỏe lại bị tỳ hư, nếu không có thầy kia chỉ dẫn thì tôi cũng không khỏe được. Bệnh nhân này cũng vậy. Cho nên tất cả các loại bệnh tật của con người đều có quan hệ mật thiết với nội tâm của họ, trong khi chúng ta điều trị bệnh, nếu chỉ chủ yếu thông qua dùng thuốc là rất phí sức. Khi bạn khai thông được sự uất kết trong tâm của họ, đồng thời phối hợp với dùng thuốc và châm cứu, như vậy dù bỏ ít công sức mà hiệu quả rất lớn. Đây chính là sự ảnh hưởng của nhân, lễ, nghĩa, trí, tín đối với nội tạng mà tôi đã nói.
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín là sự rút ngắn của Đệ Tử Quy
Nhân nghĩa lễ trí tín thực tế chính là sự rút ngắn của “Đệ Tử Quy”, “Đệ Tử Quy” khi giảng ra chính là nhân nghĩa lễ trí tín. Ngược lại “Đệ tử Quy” cũng là phương cách sống của chúng ta, phương thức sống. Hiện nay phương Tây đi theo phương cách sống bệnh tật, tức là phương cách sống không đúng sẽ dẫn đến bệnh tật. Ngược lại chúng ta áp dụng theo lời giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, ước thúc phương cách sống của chúng ta thì sẽ tránh được rất nhiều bệnh tật, thậm chí có thể chữa khỏi rất nhiều loại bệnh. Cách chữa trị này vừa không tốn tiền và cũng không dùng thuốc vẫn có thể đạt hiệu quả rất tốt. Cổ nhân có câu: “Người khéo hiểu đạo trời, ắt có lợi ích cho bản thân” là có ý gì vậy? Tức là nói đến trời đất là chỉ quy luật tự nhiên của trời đất, đạo lý này, đạo lý là ứng vào trong cơ thể chúng ta. “Đệ tử Quy” đem lại cho chúng ta điều lợi ích gì vậy? Trước hết là khiến chúng ta phục hồi năm trạng thái tâm lý này được bình thường, sau khi phục hồi thì trạng thái sinh lý cũng trở lại bình thường và cũng đạt được sức khỏe.
III- KHUYÊN NGĂN SỰ THAM DÂM DỤC (Mời xem bản gốc)
+ Nguồn: trích từ Sách Thiếu Niên Bảo Thân
+ Sách tham khảo thêm: TÁC HẠI CỦA THỦ DÂM