TÓM LƯỢC
PHƯƠNG PHÁP TRÌ NIỆM THẦN CHÚ ĐẠI BI
(Trích trong Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni - HT Tuyên Hóa giảng)
(Bản tổng hợp từ nhiều nguồn, kính xin đọc tài liệu gốc để hành trì viên mãn)
Thọ trì đúng Như Lý Như Pháp mới có cảm ứng và thành tựu nhiệm mầu!
I- Ý NGHĨA VÀ CHỈ DẪN
+ Ý Nghĩa của Pháp hội hộ quốc lần này chủ yếu là tụng trì chú Đại Bi, vậy Sư Phụ ( HT Tuyên Hóa) có thể nói với chúng con về tâm đắc của Sư Phụ không?
Đáp: Bồ Tát Quán Thế Âm được thành tựu nhờ pháp lực của chú Đại Bi mà trở thành Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt. Pháp lực của chú Đại Bi thì thông thiên triệt địa và thần diệu vô cùng. Chỉ cần có tâm chân thành với tâm thường hằng thì dù có gặp chuyện không may cũng hóa thành kiết tường, gặp tai nạn cũng thành tốt lành. Sự diệu mầu này không thể nói hết dù có dùng hết lời cũng không sao diễn đạt được. Kỳ này, đoàn hoằng pháp trì chú Đại Bi liên tục không ngừng với hy vọng sẽ được cảm ứng để mọi người được tùy tâm mãn nguyện.
Trì Chú Linh Nghiệm: Lúc xưa con đã từng giết qua hơn cả vạn con trùng phân, trùng đất. Vậy nếu trì chú Vãng Sanh thì phải trì bao nhiêu biến mới tiêu trừ được những tội nghiệp sát sanh đó?
Đáp: Nếu con đoạn được dục niệm, thì trì một câu chú cũng linh rồi. Còn nếu không đoạn trừ được dục niệm thì dầu cho con có trì tới cả vạn câu cũng không có linh nghiệm đâu.
Pháp bình đẳng, không có cao thấp. Một tức là nhiều, nhiều cũng là một. Con niệm chú nhiều nhưng cũng phải chuyên tâm thì mới linh nghiệm. Nếu con có thể chuyên nhất trì tụng một bài chú thôi thì càng được linh nghiệm hơn. Đó là bởi vì con có lòng tham nên mới nói là muốn niệm nhiều chú, nhiều kinh thêm một chút. Đây đều là do lòng tham của con tác quái đó thôi! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng đáp câu 137 và 144 và 201)
Ngoài ra, mỗi cuối tuần nên có một buổi hành lễ chung của những người trong nhóm; đây cũng là dịp để tự sám hối, trao đổi kinh nghiệm tu tập. Việc tu học sẽ tăng tiến nhanh chóng nếu ta có những bạn đồng tu, những thiện trí thức đúng nghĩa.
===> Muốn tu hành thành tựu thì cần có Phước Huệ song tu, người không có Phước tu vô cùng khó khăn => Muốn tu thì cần tu Phước khởi đầu để duy trì cuộc sống tối thiểu. Chú Đại Bi dùng cho tất cả mọi người và đều có thành tựu lợi ích tương ứng tùy duyên. Nhưng với người có căn cơ cao, bậc trí, người tiến hóa nhất định - Tu hành là tu toàn diện thì có thành tựu toàn diện Chú Đại Bi (Nguồn: Xem tại đây)
+ CẦN PHẢI THẬT THÀNH TÂM CUNG KÍNH VÀ CHÍ THÀNH TIN TƯỞNG TUYỆT ĐỐI
Kinh viết: “Những người tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ý, không được mãn nguyện, thì Thần Chú này không gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni!” Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần phải lưu ý trước, đó là các trường hợp ngoại lệ, ”Chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành.”
“Chỉ trừ bất thiện.” Nếu quý vị một mặt thì tụng Chú Ðại Bi, mặt khác lại đi giết người, cướp của, hoặc tà dâm, vọng ngữ, rượu thịt say sưa…, chẳng từ một việc xấu nào cả, thì hẳn nhiên là Thần Chú sẽ không hiển linh, không công hiệu. “Bất thiện” là bao gồm hết thảy mọi hành vi bất chánh, tà vạy như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ…
“Trừ chẳng chí thành.” Nếu quý vị tụng niệm qua loa cho có lệ, nói là muốn thử xem Chú Ðại Bi có thật sự linh nghiệm hay không, như thế có nghĩa là quý vị không có lòng thành. Quý vị không có ý muốn thử, thì Chú sẽ linh ứng; song nếu quý vị muốn thử, thì Chú sẽ chẳng hiển linh! Vì sao ư? Vì Phật và Bồ-tát không phải là đối tượng để cho quý vị tùy tiện thử thách, thí nghiệm - Các ngài không cần quý vị đến thử nghiệm! Chư Phật và chư Bồ-tát có thể thử nghiệm chúng sanh, song chúng sanh không được phép thử nghiệm các ngài. Do đó, nếu quý vị rắp tâm muốn thử xem sự việc sẽ như thế nào, tức là quý vị không có lòng chí thành; mà không có lòng thành khẩn thiết tha thì chẳng thể nào có sự cảm ứng linh nghiệm được!
“Người nào còn sanh chút lòng nghi tất không được toại nguyện.” Tuy nhiên, nếu trong lòng quý vị có dấy lên dù chỉ một mảy may hoài nghi thì sự mầu nhiệm sẽ chẳng bao giờ xảy ra, và do đó, tâm nguyện của quý vị sẽ không được thành tựu.
+ Diệt Tội - Nghiệp: Câu “Chỉ trừ một việc, nếu đối với Thần Chú còn sanh lòng nghi thì ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ, huống hồ tội nặng? Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân xa của Bồ-đề.”
Giảng nghĩa: Nếu quý vị cứ phân vân: “Không biết Chú này có linh nghiệm như thế thật không nhỉ? Có thật là có sự mầu nhiệm đến thế không? Tuy nói rằng trì tụng Chú này thì được cảm ứng, nhưng đó chỉ toàn là nghe người ta kể lại chứ mình vẫn chưa được chứng kiến tận mắt; chẳng biết có đúng là như vậy hay không?”; tức là quý vị không có lòng tin đối với Thần Chú. Mà hễ quý vị không tin thì thế nào? Thì sẽ hoàn toàn không linh nghiệm! Vì sao ư? Bởi vì quý vị không đặt trọn lòng tin nơi Thần Chú!
+ Trong Kinh Chú Đại Bi Đức Phật bảo ngài A Nan:
- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có.
+ Tu niệm Kinh Chú phải có Tâm Từ Bi Hỷ Xả - Tâm vô nhiễm mới mong có thành tựu trong tu hành: .... Tâm vô nhiễm trước là cái tâm sáng trong thanh tịnh, không chấp trước, không tạp niệm, không vọng tưởng, không tà niệm, không dục niệm—nói rõ hơn, là không có các ý tưởng dâm dục. Nếu quý vị không có lòng tham đắm sắc dục, tức là quý vị có tâm vô nhiễm trước. Trái lại, nếu quý vị có những ý nghĩ dâm ô tà vạy, dục vọng nặng nề, tức là trong tâm quý vị có sự nhiễm trước, bợn nhơ; mà niệm Chú Đại Bi với cái tâm nhiễm trước thì không phải là niệm Chú Đại Bi! Cho nên, những người hiện đang trì niệm Chú Đại Bi đều cần phải chú ý đến đoạn kinh văn này! (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng về Chú Đại Bi)
1. Mỗi Tối đọc năm biến Thần Chúa Đại Bi
KINH VĂN - Nghĩa: Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên [Vương] rằng: “Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai chướng ma nghiệp, thì nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm sợi niệt. Trước tiên tụng năm biến, kế đến tụng hai mươi mốt biến, cứ tụng mỗi biến lại thắt một gút, cho đến hai mươi mốt gút như vậy, rồi đeo nơi cổ. Tâm Chú Đại Bi này là do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật quá khứ đã từng tuyên thuyết.”
LƯỢC GIẢNG:
Lúc bấy giờ, sau khi thuyết xong bài kệ, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên rằng: “... tụng Chú này năm biến ...” Vì sao lại tụng năm biến? Bởi vì trên thế giới này có năm bộ lớn (Ngũ Đại Bộ):
- Phương Đông là A Súc Bộ, còn gọi là Kim Cang Bộ;
- Phương Nam là Bảo Sanh Bộ;
- Phương Tây là Liên Hoa Bộ;
- Phương Bắc là Yết Ma Bộ;
- Trung ương là Phật Bộ.
Năm biến Chú là tiêu biểu cho năm bộ nói trên. Năm bộ này cai quản cả năm đại ma quân—Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung—của thế gian. Ma cũng có Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung; Ngũ Bộ thống nhiếp Ngũ Đại Ma.
Như vậy, quý vị niệm Chú Đại Bi năm biến, rồi “lấy chỉ ngũ sắc xe làm sợi niệt.” “Ngũ sắc” tức là năm màu: xanh (dương), vàng, đỏ, trắng, đen. Màu xanh là tiêu biểu cho phương Đông, màu đỏ là phương Nam, màu trắng là phương Tây, màu đen là phương Bắc, và màu vàng là trung ương. Đó là tượng trưng cho Ngũ Phương, Ngũ Bộ.
“Tác sách” tức là bện thành sợi dây.
“Tụng Chú hai mươi mốt biến, thắt làm hai mươi mốt gút, rồi đeo vào cổ.” Bây giờ quý vị tụng Chú Đại Bi hai mươi mốt biến, và thắt hai mươi mốt gút thắt trên sợi dây ngũ sắc, xong lấy đeo nơi cổ. (Nguồn: Giảng giải Chú Đại Bi_HT Tuyên Hóa)
+ Kính xin lưu ý: Quí vị muốn có sự nhiệm mầu chân thật. Hàng ngày cần có tín tâm thành kính không chút lòng nghi, tinh tấn tu hành không gián đoạn, xa lìa tham sân si kiêu mạn nghi và tà dâm, thường làm lành lánh giữ và hành bố thí theo khả năng, cũng tức là tu dưỡng tâm Từ Bi Hỷ Xả để phát triển Bồ Đề Tâm đúng như lời dạy của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngoài ra, quí vị cũng nên Phát nguyện mỗi khi Thọ trì đọc tụng Thần Chú Đại Bi (Xem TTCĐB). Sau khi đọc tụng xong thì nhớ Hồi hướng công đức cho Pháp giới chúng sinh và Vô Thượng Bồ Đề Chánh Đẳng Chánh Giác, như thế tạm gọi là thọ trì đọc tụng NHƯ LÝ - NHƯ PHÁP (Đúng Pháp), sự nhiệm mầu không thể không đến. Còn việc sử dụng bốn mươi hai Ấn Pháp cứu giúp chúng sinh thì rất cần lượng sức mình, vì chỉ người Tu Thánh Đạo đã thành tựu mới có đủ Đại Bi Tâm để thực hành Ấn Pháp an toàn tuyệt đối và mang lại sự lợi ích chân thật cho chúng sinh. Điều này Hòa Thương Tuyên Hóa đã giảng rõ, người muốn tu học để sử dụng được các Thủ Nhãn Ấn Pháp này cứu giúp chúng sinh thì phải được chân truyền từ một vị Thầy, nếu không sẽ bị ma chướng rất đáng sợ. Hòa Thượng Tuyên Hóa cũng dạy, việc truyền thừa này sẽ thực hiện trước tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn tại chùa Vạn Phật Thánh Thành ở Hoa Kỳ, điều này tuy là khó với Phật tử ở Việt Nam, nhưng nếu quí vị có đủ duyên và thành tâm, thì không gì là không thể. Ngoài ra, nếu có điều kiện thì cần Kiết giới đúng Như lý - Như pháp nữa thì việc thọ trì mới có được sự viên mãn tròn đầy như ý. (Mời xem: Việc chân truyền các thủ nhãn ấn pháp_HT Tuyên Hóa giảng)
* Mời tham khảo chuẩn bị thọ trì đọc tụng Thần Chú chi tiết: Xem tại đây
II- CHUẨN BỊ VÀ NGHI THỨC
A. Những bước chuẩn bị trước khi trì niệm chú đại bi.
Bồ Tát Quán Thế Âm đã hứa với chúng ta: “Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả Thiện thần, Long vương, Kim Cang, Mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hay thân mạng của chính họ“.
Như vậy, thế nào là tụng trì chú đại bi đúng pháp?
Trong phần hình trạng tướng mạo đã chỉ rõ mười đặc tính cốt yếu của Thần chú Đại Bi mà quan trọng hàng đầu là tâm Đại Từ Bi, cho nên mỗi lần trì tụng thần chú này hành giả phải bắt đầu hướng tâm vào việc quán tưởng khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh. Một cách lý tưởng, để đạt được những công năng mà thần chú mang lại, trong thời gian trì tụng, hành giả phải giữ gìn giới hạnh, đặc biệt là sát, đạo, dâm, vọng. Phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi, cùng các thức ăn hôi hám. Tốt nhất là nên ăn chay.
Phải giữ vệ sinh thân thể, thường xuyên tắm gội, thay đổi y phục sạch sẽ, không nên để cho trong người có mùi hôi. Trước khi trì chú cũng phải đánh răng, súc miệng sạch sẽ, nếu trước đó có đi đại tiện, tiểu tiện thì phải rửa tay sạch sẽ trước khi trì tụng. Tóm lại, “Giữ gìn trai giới, ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan đốt đèn, dùng hương hoa cùng thực phẩm cúng dường, buộc tâm một chỗ”, đó là tất cả những điều kiện lý tưởng để hành giả trì chú Đại Bi. Tuy nhiên, như phần trên đã nói, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện. Điều này cho phép hành giả có thể trì tụng bất cứ lúc nào mà điều kiện cho phép. Trên xe, trên tàu, trên máy bay, tại sở làm, tại nhà… Với tâm thành, tâm chúng ta lúc đó sẽ hòa nhập vào lời trì tụng đển cùng thể nhập vào pháp giới, mười phương chư Phật. Bởi vì Bồ Tát đã cho chúng ta biết, mỗi lần trì tụng thần chú Đại Bi, thập phương chư Phật đều đến chứng minh.
B. Nghi thức hành lễ trì niệm chú đại bi:
Hành giả ngồi xuống theo tư thế kiết già hay bán già, hoặc quỳ là tốt nhất. Điều chỉnh thế ngồi, lắc vai, lay chuyển thân thể chừng 5 lần, sửa xương sống cho ngay, chuẩn bị cho mình một thế ngồi thoải mái.
Rải ba tiếng chuông.
Lắng lòng thanh tịnh theo tiếng chuông ngân, hành giả thanh lọc nội tâm, tiêu trừ các tội chướng thân khẩu ý để bắt đầu bước vào nghi thức hành Thiền (An định thân tâm, buông xả vạn duyên ... giữ Tâm tĩnh lặng, chuyên nhất, tràn ngập tình thương...).
BÀN THỜ VÀ TƯỢNG PHẬT: Bàn thờ, tượng Phật, Bồ Tát và bát hương dù sao cũng chỉ là hình tướng, có thì tốt, không có không sao, không ảnh hưởng gì nhiều.
Tất nhiên, lý tưởng nhất thì là Hành giả có một phòng riêng yên tĩnh để lập bàn thờ Tam Bảo có tượng hay tranh ảnh hoặc màn hình tinh thể lỏng cũng tuyệt. Nếu thỉnh tượng thì nên thỉnh Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt. Nếu không có thì có thể sử dụng bất cứ hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nào mà mình hiện có. Hình tượng Bồ Tát nên để day mặt về hướng Tây như đức Phật dậy càng tốt. Trên bàn thờ tuy không bắt buộc nhưng nên có hoa tươi, trái cây, lư hương để cắm nhang, nước cúng. Nên để đèn sáng mỗi khi hành lễ, cả ngày đêm càng tốt, vì nó tượng trưng cho hào quang trí huệ của Phật.
Nhưng, như trên HT Tuyên Hóa đã giảng, nếu không có được những điều kiện lý tưởng, thì cũng không thành vấn đề gây trở ngại cho việc thọ trì đọc tụng, là vì bàn thờ hay tượng cũng chỉ là sắc tướng. Còn Tánh Phật có ở khắp hư không Pháp giới, cho nên Tâm chân thành cung kính không chút lòng nghi là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất để việc thọ trì đọc tụng có được sự lợi ích và cả nhiệm mầu nữa. Theo đó, chỉ cần có chỗ sạch sẽ, thanh tịnh trong lúc ngồi đọc tụng là được (Nếu có máy tính, điện thoại có thể giở Ảnh Thiên Thủ Thiên Nhãn ra đặt cao ở phía trước là ổn). Hãy quán tưởng hay hình dung Ngài trong khi đọc tụng để loại bỏ Vọng tưởng sen vào. Đức Phật dậy tu tại tâm, cho nên khi đọc tụng cần Tâm quán tưởng hình tượng cả hội thượng Phật, Bồ tát và Thiên Thủ Thiên Nhãn phóng quang chiếu soi khắp mười phương, cũng quán tưởng vô lượng vô biên chúng sinh đang tụ hội cùng mình tu hành lễ lạy đọc tụng => Đây mới là quan trọng bậc nhất.
Cách thức ngồi, lạy :
Mỗi người nên có một tọa cụ, hoặc đơn giản hơn, một miếng vải sạch hay khăn bông xếp lại để làm chỗ tọa thiền. Hành giả nên ngồi theo cách thức kiết già nhưng nếu gặp khó khăn thì có thể ngồi theo cách thức bán già (ngồi xếp bằng, chân phải gác lên chân trái hay ngược lại), lòng bàn tay để ngữa hướng lên trên, bàn tay mặt để lên trên bàn tay trái, hai đầu ngón cái đụng vào nhau. Mắt nên mở hé, nếu nhắm hẵn thì dễ rơi vào trạng thái hôn trầm, nếu mở lớn thì khó định tâm. nếu có thể quì lạy càng thể hiện sự tôn kính trang nghiêm.
Lạy là nghi thức biểu lộ sự cung kính, tôn trọng. Mỗi thời đại có một cung cách khác nhau để biểu lộ sự tôn trọng. Lối lạy kiểu cũ theo cách thức của người Trung Hoa có nhiều điểm rất bất tiện, không thích hợp cho không khí thiền đường. Trước hết, với kiểu lạy này, khi hành lễ mỗi người chiếm một khoảng diện tích đáng kể đủ để có thể đứng và qùy xuống lạy, gây trở ngại cho những thiền đường nhỏ. Việc đứng lên qùy xuống gây ra những tiếng động của động tác, tiếng sột soạt của quần áo, những động tác này cũng có thể làm phóng ra những bụi bặm, vi trùng mà ta mang trên quần áo, những mùi hôi của cơ thể – nhất là trong những xứ khí hậu nóng nực-, làm mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường ta cần có để thở. Chưa kể là việc đứng lên qùy xuống lộn xộn trong những tư thế rất khó coi… Cho nên, chúng ta có thể thực hành một cách lạy tương đối đơn giản trong khi hành lễ, là thiền sinh cứ ngồi theo tư thế hành thiền, kiết già hay bán già, khi lạy chỉ cúi gập đầu xuống sàn phía trước, kéo dài tư thế này một khoảng thời gian ngắn đủ để niệm một câu “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm BồTát”, xong ngồi dậy.
Cách thức tụng đọc chú đại bi :
Chú Đại Bi phải nên được trì tụng lớn tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là ta phải la lớn lên, nhưng giọng đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng.
Kinh “Nghiệp Báo Sai Biệt” cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn tiếng có mười công đức sau đây :
1. Dẹp được sự buồn ngủ ám ảnh
2. Thiên ma hoảng sợ.
3. Tiếng vang khắp mười phương
4. Ba đường hết khổ
5. Tiếng đời chẳng lọt vào tai
6. Lòng không tán loạn
7. Dõng mãnh tinh tấn
8. Chư Phật vui mừng
9. Tam muội hiện ra trước mắt
10. Vãng sanh Tịnh Độ
Thật sự, ta cũng sẽ không lo ngại cơn buồn ngủ ám ảnh. Bởi vì khi trì tụng chú Đại Bi, các vị Thiên, Long, Hộ Pháp sẽ luôn ở bên cạnh ta, khi ta rơi vào cơn buồn ngủ, các Ngài sẽ giúp đánh thức ta -mà rồi qúy vị sẽ chứng nghiệm khi thực hành trì chú một cách nghiêm túc- bằng một âm thanh như tiếng sấm nổ ở trong đầu khiến ta hoảng hồn, giật mình tỉnh thức. Thông thường sau đó ta sẽ không còn (hoặc không dám) buồn ngủ nữa. Tuy nhiên, nếu việc này xảy ra một lần thứ hai trong buổi hành Thiền, điều này có nghĩa là thể xác ta quá mỏi mệt, ta nên xin phép được xả thiền để nghỉ ngơi.
Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt phải tụng thầm chỉ riêng cho mình nghe, hoặc chỉ nhép môi không ra tiếng như khi chúng ta đang làm việc, đi chung xe tàu với người khác, hoặc đi nằm trước khi ngủ. (Nguồn tham khảo: Trì niệm Chú Đại Bi đúng cách 1)
+ Hiểu Về Đọc Tụng Kinh Chú đúng Pháp:
Câu Hỏi 27: Trong kinh Phật có rất nhiều chữ là tiếng Phạn, vậy nên phát âm theo giọng Đài Loan hay theo giọng Quan Thoại mới là chính xác?
Đáp: “Nếu lấy sắc để thấy Ta, dùng âm thanh mà cầu Ta, thì là người hành tà đạo, cho nên không thấy được Như Lai.” Tu tại tâm là vậy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Phân biệt sự khác nhau giữa Đọc tụng và Trì tụng Kinh Chú Đại Bi:
- Đọc tụng: Là dụng miệng lưỡi đọc to nhỏ tùy theo môi trường hoàn cảnh. Đọc to rõ từng từ, âm điệu không nhanh quá, không chậm trễ ề à. Tức cần giữ Tâm Bình, xả bỏ vạn duyên.
- Trì tụng: Trì là không dùng miệng lưỡi đọc, nhẩm - Lưỡi không động gọi là Trì. Thực hành Trì Chú hiệu nghiệm hơn nhiều là đọc tụng bằng miệng lưỡi. Xem (Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi - Phút 30 Clip)
+ Lợi ích trị bách bệnh và công đức vô lượng, diệt vô lượng tội, thành tựu các Pháp lành từ việc tín tâm thành kính hành trì Chú Đại Bi (Nguồn: Xem Clip Thầy Hằng Trường giảng)
+ Cách Trì Tụng và Tu Hóa Thân Quan Âm để có cảm ứng nhiệm mầu phụng sự cứu giúp chúng sinh như Ngài dạy: Xem tại đây
III- LỄ LẠY ĐỌC TỤNG THẦN CHÚ
NỘI DUNG CHÍNH BUỔI ĐỌC TỤNG THẦN CHÚ ĐẠI BI
LỄ LẠY - KÍNH BẠCH - PHÁT TÂM - PHÁT NGUYỆN - ĐỌC TỤNG - SÁM HỐI - HỒI HƯỚNG
(Tùy điều kiện mà hành giả có thể tiết giảm phần ghi thức và lễ lạy cho phù hợp,
hoặc có thể chọn cho mình các bài khấn nguyện quen thuộc khác).
+ Kính lưu ý:
Trong kinh Phật nói rõ Thiện nam tử, Thiện nữ nhân thọ trì đọc tụng kinh này được vô lượng phước ..... Có nghĩa là phải tu giữ ngũ giới, sống hiếu thuận với Cha Mẹ, kính trọng, thường lễ lạy Phật, ăn chay ít nhiều, không nóng giận, thực hành nhẫn nhịn và phải tin tưởng tuyệt đối không chút nghi ngờ như trong kinh dạy. Đồng thời, khi thọ trì đọc tụng Thần chú không được khởi nghĩ ham muốn Thần thông - Thần quyền - Phép phù biến hóa ... Không tham gì cả. Cũng không dính mắc vào các cảnh giới hiện, dù là cảnh đẹp hay xấu vì căn bản đều là Ma cảnh (Đọc kỹ đoạn 50 ấm Ma trong kinh Thủ Lăng Nghiêm). Buông xả vạn duyên ngoài cửa phòng tu, giữ Tâm ung dung tự tại, không nóng ruột, chỉ còn duy nhất tướng Quảng đại bồ đề tâm => TÂM CHỈ CÓ DUY NHẤT TÌNH THƯƠNG YÊU RỘNG MỞ, KHÔNG CÓ TÂM PHÂN BIỆT VÀ CHẤP TRƯỚC = Sẽ thành tựu viên mãn khóa tu (Nguồn: Xem tại đây)
Nên mời các chúng sinh chưa giải thoát ở sáu đường có duyên với Phật Pháp và các oan gia trái chủ của mình (của người thân) tụ hội cùng lễ lạy, cùng đọc tụng Chú Đại Bi. Hãy quán tưởng họ hiện diện rất là đông đúc xung quanh Hội Thượng Phật - Bồ tát và Thiên Thủ Thiên Nhãn, với vẻ mặt an nhiên tự tại tươi tắn thầm cảm ơn tất cả, bao gồm cả các Hộ Pháp bảo hộ người thọ trì mà Bồ Tát Quán Thế Âm giao phó cho họ phải bảo vệ người thọ trì đọc tụng Thần Chú Đại Bi".
* Kính lưu ý: Trên mạng hiện lưu hành rộng dãi bài Thần Chú Đại Bi bị thiếu một đoạn so với bản Hòa thượng Tuyên Hóa giảng Thần Chú Đại Bi (Ngài nói rõ, trong 300 năm trở lại đây, chưa có ai giảng kinh về Thần Chú Đại Bi này). Đoạn bị thiếu ở câu thứ 16, viết đủ là ...... Tát bà tát đa, na ma bà tát đa ...... Quý vị lưu ý nếu đang dùng bản thiếu thì khi đọc tụng nên thêm vào cho đủ.
CHUẨN BỊ THỜI TU
[ĐOẠN NÀY CHO NGƯỜI TU TẠI GIA THAM KHẢO]
1. Bày hoa quả, bánh kẹo .... (Tùy duyên). Nhưng cần thay nước mỗi ngày, thắp hương. Lễ lạy Phật ba lần rồi Kính bạch như sau (Quý vị có thể dùng bài Kính bạch khác với bài của Nhân Trắc Học chúng tôi).
Đệ tử con là ........., kính xin bắt đầu khóa tu buổi Sáng/ Trưa/ Tối tại lễ Phật đường .............. Con xin kính mời các chúng sinh hữu tình và oan gia trái chủ ở trên Thân con và chúng sinh hữu tình có duyên với Phật pháp, xin mời quý ngài tụ hội cùng con tu khóa lễ này (Nhớ quán tưởng các chúng sinh mình đã mời cùng cộng tu, và tin rằng họ đang có mặt quanh ta, Oan gia trái chủ ở trên Thân ta họ cũng cùng mình tu để cùng nhau hóa giải oán kết, khi sắp kết thúc tu nhớ hồi hướng công đức cho họ, mời họ cùng phát nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới)
Duy nguyện đức Thích Ca Từ Phụ, thất Phật Thế Tôn, ngũ thập tam Phật, tất cả các bậc giác ngộ, tha tâm đạo nhãn, thấy nghe vô ngại, Thần thông tự tại, quang lâm đạo tràng, nhiếp thủ chúng con khiến thành tịnh tín thời thời khắc khắc. Gia hộ độ trì cho chúng con có được buổi lễ tinh tấn, dũng mãnh, đánh tan những tư tưởng xấu xa và các lớp ác trược che chướng, che ám che lấp Tâm trí con, để đầu óc con được sáng suốt, minh mẫn, ngũ quan ngay ngắn tinh tường, có trí nhớ tốt như ngài A Nan đệ tử đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và để con tu tập với Tâm Bồ đề và trí tuệ bát nhã trong sự tỉnh thức và thành tựu viên mãn.
BẮT ĐẦU VÀO BÀI TU THẦN CHÚ ĐẠI BI
(Hiện có nhiều bài chỉ dẫn tu khác nhau, kính xin tùy duyên tham khảo thọ dụng)
1. Tịnh Pháp Giới và Tam Nghiệp Chơn Ngôn:
ÁN LAM (21lần)
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà phạ, truật độ hám (3 lần)
BẠCH Y THẦN CHÚ
Tịnh Khẩu Nghiệp Chân Ngôn :
Tu lị tu lị, ma ha tu li, tu tu lị, sa bà ha (3 lần )
Tịnh Thân Nghiệp Chân Ngôn :
Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha (3 lần )
An Thổ Địa Chân Ngôn :
Nam mô tam mãn đà, một đà nẫm, án, tô rô tô rô, địa vĩ, sa bà ha (3 lần )
2. Đãnh lễ chư PHẬT, BỒ TÁT (Nếu một nhóm hành thiền chung, người chủ trì sẽ dâng lời phát nguyện này, các thiền giả chỉ nhẫm đọc theo và lắng lòng suy nghĩ theo lời nguyện).
Nhất tâm đãnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A-Di-Đà-Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Quá Khứ Vô Lượng Ức Kiếp, Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Quá Khứ Vô Lượng Kiếp, Chánh Pháp Minh Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Thập Phương Nhứt Thiết, Chư Phật Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Hiền Kiếp Thiên Phật, Tam Thế Nhứt Thiết Chư Phật Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Thần Diệu Chương Cú. (Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Quán Âm Sở Thuyết Chư Đà La Ni, Cập Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Tôn Pháp.(Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát.(Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát(Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Tổng Trì Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Thập Phưong Tam Thế, Nhứt Thiết Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Ma HA Ca Diếp Tôn Giả, Vô Lượng Vô Số Đại Thanh Văn Tăng, Chư Lịch Đại Tổ Sư (Chuông, 1 lạy).
Kính bạch Tam Bảo, kính bạch đức Thế Tôn.
Đệ tử con là ..........., ngụ tại ...... Nay đến thời hành lễ buổi sáng/ chưa/ tối, đệ tử con kính bạch Tam Bảo, kính bạch đức Thế Tôn gia hộ độ trì để cho con có được buổi hành lễ được tinh tấn, dũng mãnh, đánh tan những tư tưởng sấu xa và các lớp ác trược tre chướng che ám che lấp tâm trí con, để con tu tập với Tâm Bồ đề và trí tuệ bát nhã với sự chú tâm tỉnh thức, an nhiên, tự tại và thành tựu viên mãn.
3. Tác Bạch Cúng Hương:
Lư hương vừa bén
Chiên đàn khói thơm
Ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Nguyện mong Chư Phật thương mà chứng minh.
NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ TÁT, MA HA TÁT. (3 lần).
4. Đệ tử con xin phát Quảng Đại Bồ Đề Tâm theo lời dạy của Bồ tát Quán Thế Âm:
1. Tâm Đại Từ Bi
2. Tâm Bình đẳng
3. Tâm Vô vi
4. Tâm Vô nhiễm trước
5. Tâm Quán không
6. Tâm Cung kính
7. Tâm Khiêm tốn
8. Tâm Vô Tạp loạn
9. Tâm Vô kiến thủ
10. Tâm vô thượng bồ đề
5- Phát Đại Nguyện theo Bồ Tát Quán Thế Âm dạy:
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết tất cả Pháp.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ các chúng sanh.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau lên thuyền bát nhã.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được qua biển khổ.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau được giới định đạo.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non niết bàn.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau về nhà vô vi.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi.
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hương về cõi địa ngục,
Địa ngục liền mau tự tiêu tan.
Nếu con hướng về loài ngã quỷ,
Ngã quỷ liền được tự no đủ.
Nếu con hướng về chúng Tu la,
Tu la tâm ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm ( 3 lần, nhiều càng tốt) (chuông, lạy).
Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần, nhiều càng tốt) (chuông, lạy).
BẮT ĐẦU VÀO BÀI TU ĐỌC TỤNG CHÚ ĐẠI BI
(Bản đầy đủ, mời xem nguồn: Chú Đại Bi - HT Tuyên Hóa)
* Nếu có Chuông Mõ thì dùng lấy nhịp cũng rất tuyệt.
Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
1. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
2. Nam mô a rị da
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
4. Bồ Đề tát đỏa bà da
5. Ma ha tát đỏa bà da
6. Ma ha ca lô ni ca da
7. Án
8. Tát bàn ra phạt duệ
9. Số đát na đát tỏa
10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
11. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà
12. Nam mô na ra cẩn trì
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
14. Tát bà a tha đậu du bằng
15. A thệ dựng
16. Tát bà tát đa, na ma bà tát đa
17. Na ma bà dà
18. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
19. Án. A bà lô hê
20. Lô ca đế
21. Ca ra đế
22. Di hê rị
23. Ma ha bồ đề tát đỏa
24. Tát bà tát bà
25. Ma ra ma ra
26. Ma hê ma hê rị đà dựng
27. Cu lô cu lô yết mông
28. Độ lô độ lô phạt xà da đế
29. Ma ha phạt xà da đế
30. Đà ra đà ra
31. Địa rị ni
32. Thất Phật ra da
33. Giá ra giá ra
34. Mạ mạ phạt ma ra
35. Mục đế lệ
36. Y hê di hê
37. Thất na thất na
38. A Ra sâm Phật ra xá lợi
39. Phạt sa phạt sâm
40. Phật ra xá da
41. Hô lô hô lô ma ra
42. Hô lô hô lô hê rị
43. Ta ra ta ra
44. Tất rị tất rị
45. Tô rô tô rô
46. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ
47. Bồ đà dạ bồ đà dạ
48. Di đế rị dạ
49. Na ra cẩn trì
50. Địa rị sắc ni na
51. Ba dạ ma na
52. Ta bà ha
53. Tất đà dạ
54. Ta bà ha
55. Ma ha tất đà dạ
56. Ta bà ha
57. Tất đà du nghệ
58. Thất bàn ra dạ
59. Ta bà ha
60. Na ra cẩn trì
61. Ta bà ha
62. Ma ra na ra
63. Ta bà ha
64. Tất ra tăng a mục khê da
65. Ta bà ha
66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
67. Ta bà ha
68. Giả kiết ra a tất đà dạ
69. Ta bà ha
70. Ba đà ma kiết tất đà dạ
71. Ta bà ha
72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73. Ta bà ha
74. Ma bà rị thắng yết ra dạ
75. Ta bà ha
76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
77. Nam mô a rị da
78. Bà lô kiết đế
79. Thước bàn ra dạ
80. Ta bà ha
81. Án. Tất điện đô
82. Mạn đà ra
83. Bạt đà gia
84. Ta bà ha.
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bô Tát ( 3 lần )
"Quán tưởng Bồ Tát Quan Thế Âm dưới nước Cam Lồ cho tất cả chúng sinh và chính hành giả"
+ HỒI HƯỚNG
Kính bạch Tam Bảo, kính bạch đức Thế Tôn, đức Bồ Tát Quán Thế Âm chứng minh, gia trì cho con:
Con nguyện đem công đức con tu tập được
Hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Hồi hướng về Tây Phương
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Hồi hướng cho Pháp giới chúng sinh
Hồi hướng cho các oan gia trái chủ
Hồi hướng cho các hương linh cửu huyền thất tổ
Dù đang ở cảnh giới nào, cũng được cảm ứng,
phát nguyện vãng sanh và cũng được thành tựu!
Hồi hướng cho toàn thể gia đình thân bằng quyến thuộc hiện tiền đời này,
thân tâm thường an lạc, tật bệnh tiêu trừ,
căn lành tăng trưởng, phước huệ trang nghiêm,
lòng tin Tam bảo càng thêm sâu sắc.
Phát tâm bồ đề, phát nguyện vẵng sanh, tinh tấn niệm Phật.
Khi hết báo thân này đều được vãng sanh tây Phương Cực lạc.
* Lưu ý: Nếu hành giả muốn hồi hướng công đức cho những người thân, bạn bè hoặc người mình muốn cứu giúp, lập danh sách, ghi rõ họ và tên, quan hệ, năm sinh, quê quán, tình trạng hiện tại, rồi đọc cùng với bài Hồi hướng công đức ở trên. Ví dụ, hồi hướng cho người sống thì đọc trước đoạn ... "Hồi hướng cho toàn thể gia đình thân bằng ....."
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi - A Di Đà Phật.
Nhất tâm đãnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A-Di-Đà-Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
Nhất tâm đãnh lễ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
............... Lễ lạy Phật, Bồ tát như mục 2 đoạn đầu tiên.
Nếu không có thời gian thì lễ rút gọn như dưới đây.
Con NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI CỨU KHỔ CỨU NẠN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT (3 lần)
Con NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (3 lần)
Phần sau cùng:
Quí vị nên quán tưởng một lần nữa về sự hiện diện của các Đấng cao cả (Chư Phật - Bồ tát),
các Thiên Long, Hộ Pháp bảo hộ và rất đông chúng sinh các cõi đang tụ hội tu tập cùng mình!
Kính bạch Tam Bảo, kính bạch đức Thế Tôn, khóa lễ của con đã được Tam bảo, đức Thế Tôn gia hộ độ trì nên đã có được thành tựu viên mãn, và tất cả các chúng sinh hữu tình cùng con lễ lậy đọc tụng, hoặc lắng nghe con đọc tụng Kinh Chú thì tất cả quí ngài cũng đều được thành tựu viên mãn công đức của mình. Xin mời quý ngài trở về nơi trốn của mình. (Nếu thường mở đài tụng kinh thì có thể mời chúng sinh có duyên ở lại nghe pháp qua đài)
Con cũng xin cảm ơn các Thiên long, thiện thần Hộ pháp đã bảo hộ cho con có được buổi lễ thành tựu viên mãn.
Đệ tử con xin được kết thúc khóa lễ ở đây.
6- Trì chú chữa bệnh: Trường hợp hành giả thọ trì đọc tụng có kết ấn trì chú vào nước để chữa bệnh, thì chuẩn bị nước sạch và lễ đàn tương ứng cúng dường Tam Bảo, sau khi kết thúc buổi lễ, dùng tâm cung kính, khiêm tốn cùng tứ vô lượng tâm bưng bê cốc nước đã trì chú, với tâm thanh tịnh, biết ơn bê cốc và uống với tâm hoan hỷ, đồng thời nên phát nguyện nước đại từ bi/ Cam lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm thấm nhuần và độ thoát cho mọi sự sống trong cơ thể con, cùng giúp chữa lành mọi bệnh tật.
Hãy giữ tâm hân hoan và phóng phát ban giải tình thương đến tất cả!
* Quí vị nên tham khảo các bài tu, bài hồi Hướng công đức khác (Hiện có nhiều bài Pháp hồi hướng khác nhau).
PHẦN KIẾN THỨC BỔ TRỢ THÊM
I- ỨNG DỤNG CHÚ ĐẠI BI ĐỂ CHỮA BỆNH - NẠN CHO MÌNH VÀ NGƯỜI
+ Một trong những mục đích quan trọng bậc nhất của Chú Đại Bi là CHỮA LÀNH MỌI BỆNH TẬT TRÊN THẾ GIAN. Biểu hiện tình thương vô bờ của Bồ Tát Quan Thế Âm với tất cả chúng sinh khắp các cõi trời người. Mời quí vị quan tâm xem: Ứng dụng Chú Đại Bi chữa Bệnh Tật
II- QUÍ VỊ NÊN HỌC PHÁP TU HÓA THÂN VÀ HIỂN THỊ HÓA THÂN QUAN ÂM BỒ TÁT
1. Tu Hóa Thân Quan Âm
... Lý tưởng Bồ tát đó bây giờ mình bỏ trong một cái phương trình rất là dễ hiểu và dễ nhớ, tức là mình tu làm sao để trở thành đức Quán Thế Âm Bồ tát. Trở thành đức Quán Thế Âm Bồ tát thì tức là mình tu để trở thành hóa thân của Ngài .... Nguồn: Thầy Hằng Trường thuyết giảng
2. Tu Hiển Thị Pháp Thân Quan Âm
... Tóm lại, con đường Hiển Thị Pháp Thân gồm có hai nhánh: Khai Mở Chân Tâm và Hội Nhập Chân Tâm (Thầy sẽ nói trong lần sau). Hôm qua, Thầy nói về con đường để thành Hóa Thân Quán Âm cho những người muốn dấn thân giúp đời. Riêng con đường Hiển Thị Pháp Thân thì dành cho tất cả mọi người, cho bất kỳ người nào. Ai cũng nên tu tập cả chứ không phải chỉ cho người xuất gia mà thôi. Khi các bác sống thì nên làm sao hiển thị pháp thân của mình.
Trong giai đoạn đầu tiên của con đường khai mở, các bác phải ngồi im lặng, càng lâu thì thân mới càng yên lặng, càng định được. Các bác muốn ngồi 1 giờ, 2 giờ hay 3 giờ gì đó, thì con đường khai mở này rất phù hợp. Do đó, con đường Hiển Thị Pháp Thân này là con đường dành cho những người xuất sĩ hay xuất gia, xuất tục, những người có nhiều thời gian để ngồi thiền và thích ngồi thiền. Đây là một phương pháp rất hay .... Nguồn: Thầy Hằng Trường thuyết giảng
Pháp nâng cao nhanh thành tựu: TU HÓA THÂN QUAN ÂM VÀ CÁCH TRÌ TỤNG Chú Đại Bi để có cảm ứng nhiệm mầu phụng sự cứu giúp chúng sinh như Ngài dạy: Xem tại đây
TU LUYỆN VÀ ỨNG DỤNG CHÚ ĐẠI BI CỨU NGƯỜI
Tự Tu: Người thọ trì Chú Đại Bi muốn có thành tựu thì phải Tu cho nhiều người/ Phải luôn vì pháp giới chúng sinh mới có thành tựu.
Ứng dụng cứu người: Người tu đã thành tựu Chú Đai Bi và 42 Thủ Nhãn, nếu đã được chân truyền Chủng Tử tự - Chỉ dùng một câu "Mật chú" để cứu người chứ không phải đọc cả bài Chú Đại Bi (Nguồn: Clip 6-Thầy Hằng Trường giảng)
Ứng dụng trị bệnh: Thọ trì Chú Đại Bi rất chỉ nên dùng để khuyến hóa mọi người tự thọ trì trị bệnh. Với các loại bệnh do Oan gia thì chỉ dùng Tâm Đại Bi giáo hóa, hòa giải không được thì thôi. Tốt nhất không dùng Thần lực/ Quyền năng của Chú Đại Bi để trị đuổi đẩy quỷ thần ra làm cho bệnh nhân khỏi, vì như thế là tuyên chiến với chúng Quỉ, họa hoạn vô cùng, chính HT Tuyên Hóa cũng luôn theo hướng này. (Nguồn: Giảng về Chú Đại Bi: Xem tại đây)
VỀ 42 THỦ NHÃN ẤN PHÁP CHÚ ĐẠI BI
(GIÀNH CHO NGƯỜI CHUYÊN TÂM TU HÀNH)
(Phần này thông thường người tu tại gia cần cân nhắc học hỏi và thực hành, cần lượng sức mình vì những nguy hiểm/ Chướng nạn thì rất lớn, vượt ngoài khả năng chống chịu của người tu chưa chứng đắc đạo quả mà Hòa Thương Tuyên Hóa đã cảnh báo nhiều lần. Ngài cũng dạy là người muốn sử dụng Ấn Pháp cần nên tu Thập Thiện Nghiệp Đạo và Bát Chánh Đạo và quan trọng là còn phải được chân truyền từ Vị Thầy đắc đạo chân thật. Trong thời nay chân thật là rất khó có được vị thầy như vậy, rất khó. Mọi người cần rất cảnh giác vì nhiều người tự xưng là đã đắc đạo -> Thường như thế chẳng đáng tin cậy chút nào cả)
* Kết Ấn Pháp: Mời xem Trì niệm Chú Đại Bi đúng cách_Hòa Thượng Tuyên Hóa
+ Đọc Tụng với Kết Ấn Pháp:
Phật tử tại gia, khi tụng chú Đại bi tuỳ theo duyên hạnh mà kiết ấn bất cứ thần chú nào cũng được, vẫn có giá trị và kết quả, miễn sao quý vị giữ vững chánh niệm, “thân Mật, khẩu Mật, ý Mật” dung thông tương tác. Tuy nhiên trong lúc trì tụng phải phát nguyện, nhập thất 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày hay 100 ngày, ở trong thất mới có phương tiện đủ lực cho các vị học pháp kiết các loại ấn.
Cách tu hành hôm nay, việc nhập thất, trừ các nhà sư Mật tông, riêng đối với Phật tử rất ít và không còn tu theo quy cách nhập thất nữa. Phật tử gia duyên bận buộc làm sao rảnh tâm rảnh tay mà kiết ấn tụng thần chú cho có lực và hiệu quả hiển linh. Có chăng là làm theo các đại sư hướng dẫn, tu theo hình thức tay cầm báu vật tích trượng, quyển kinh, cung kiếm... kiết ấn sơ sơ vậy thôi, mới đầu thì hiệu quả tinh tấn, lâu ngày bỏ cuộc hết linh thiêng. Thôi thì hiệp chưởng tụng thần chú là quý báu, có khi còn hiệu quả hơn đôi tay cầm báu vật kiết ấn. Nguồn: Hướng dẫn tụng Chú Đại Bi và Kết Ấn_HT Thích Giác Quang
+ Hướng dẫn Thủ ấn/ Bắt ấn (Qua 4 tầng tâm thức/ cảnh giới = 40 thủ ấn, cộng với 2 tầng cao => Tổng là 42). Muốn thành tựu phải xả bỏ bản ngã, mà vì chúng sinh thì tu mới có thành tựu. Thầy Hằng Trường giảng. Muốn thành tựu phải tu luyện truyền thừa, tự thực hành khó thành tựu, vì người tu phải TU HẠNH BỒ TÁT ĐẠO (1-Bố thí; 2- Trì giới; 3- Nhẫn nhục; 4- Tinh tấn; 5- Thiền định; 6- Trí tuệ; 7- Phương tiện; 8- Nguyện; 9- Lực; 10- Trí mới có thể thực hành an toàn và thành tựu.
Mời quí vị xem các Clip Thầy Hằng Trường giảng. Được biết, thầy đã từng theo học Hòa Thượng Tuyên Hóa. Thường hướng dẫn trì chú và kết ấn pháp giành cho người trì chú đại bi. Xin xem kỹ các Clip thầy giảng để hiểu rõ sự cần thiết tu hành, đắc định lực mức độ nào để có thể thực hành kết ấn hành trì, tránh các nguy hiểm có thể dẫn đến điên loạn, chết người ... nói chung rất cần lưu ý, theo Thầy Trường thì quí vị cần phải tu hành Hạnh Bồ Tát Đạo thì mới có thể an tâm học kết ấn - Đây chính là lý do cần phải học trực tiếp Thầy chân truyền mới có thể thực hành Ấn pháp tuyệt diệu này cùng trì Chú Đại Bi. Mời xem bắt đầu từ Clip 1: Xem tại đây ......
+ BÀN TAY KẾT ẤN CHÚ
- Lưu ý về Kết Ấn các Ngón Tay trên bàn Tay - 52 Tay Ấn: ... Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát ở trước mặt Đức Phật nói câu trí Pháp với Đà La Ni, 7 ngàn Đàn Pháp. Nói Pháp này xong lại bảo Đại Chúng rằng: “Nếu người muốn tu hành Chú Pháp này. Trước tiên nên vào Đàn, sau đó mới tu hành. Nếu chẳng vào thì chẳng được truyền dạy Ấn Chú Pháp này. Nếu truyền dạy thì Thầy với Đệ Tử bị tội lớn nặng”.
+ PHƯƠNG TIỆN TRÌ CHÚ: Chú đàn - Đàn tràng không có đàn thời mạt pháp:
Trì tức là thọ trì, thọ nơi tâm, trì nơi thân. ‘’Trì‘’ cũng giống như dùng tay cầm vật gì. Trì niệm thần Chú thì đừng quên nó, đừng thiếu nó, phải niệm từ từ, thời thời phút phút tụng trì Chú này.
Trì Chú nên có một đàn tràng, gọi là Chú đàn, cũng giống như truyền giới, cần có giới đàn.
Chú đàn phải thanh tịnh, không cho người vào hỗn tạp, chỉ có người trì Chú, tu pháp ở trong đó.
Nghi kiến lập đàn là phương tiện trước khi trì Chú, kiến lập đàn vốn có quy củ nhất định, trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến, đây là vì người tụng Kinh hành đạo, cầu hiện chứng mà thiết lập. Hiện chứng là đời này đắc được lợi ích của Chú. Nếu "truy tố" phát tâm tán trì. "Truy" là người xuất gia ; "tố" là người tại gia, tán trì tức là không có đàn tràng, như vậy phải chuyên nhất tâm ý kiền thành cung kính. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : ‘’Nếu có chúng sinh, tâm khởi tán loạn, thì chẳng phải là Tam Ma Địa (định lực). Tâm nhớ miệng trì là Kim Cang Vương, thường tùy tùng theo các người thiện nam, hà huống người quyết định phát đại tâm bồ đề.’’ ‘’ Tán tâm trì Chú không ở trong định, thì có tám vạn bốn ngàn Kim Cang Vương hộ pháp thường theo bạn, hà huống quyết định phát đại tâm bồ đề !‘’ Trong Kinh lại nói : ‘’ Nếu không làm đàn, không nhập đạo tràng, cũng không hành đạo, tụng trì Chú này, vẫn đồng công đức nhập đạo tràng không khác. Cho đến đọc tụng biên chép Chú này, có ở trong người, thì ở đâu cũng yên nhà cửa vườn tược, tích nghiệp như thế không lâu sẽ ngộ vô sinh nhẫn.’’...... Mời đọc và suy ngẫm kỹ nguồn: Giảng giải Chú Lăng Nghiêm - HT Tuyên Hóa
Nhân Trắc Học tổng hợp từ nhiều nguồn, kính xin quí vị đọc kỹ các bài giảng gốc của Thánh hiền để hiểu cho thấu đáo.
+ Xem bài giảng Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni của HT Tuyên Hóa: Mời xem tại đây
Nhân Trắc Học kính chúc quý vị tu hành tinh tấn và có thành tựu viên mãn. Xin cảm ơn!