+ Hạch thần kinh (Nerve ganglia): Các hạch thần kinh mà y học chính thống biết được là các phản ảnh (reflections) hay các hình bóng (shadows) của các bí huyệt sinh lực (vital plexi) chứ không còn gì khác. (ASCLH, 328–329)
+ Hệ thần kinh: Hệ thần kinh được tạo ra để biểu lộ các quyền năng tâm linh trên cõi trần.
Hoạt động: Hệ thần kinh giao cảm có liên quan trực tiếp với trạng thái Ý Chí, dưới hình thức Dục vọng, còn hệ thần kinh não tủy có liên quan trực tiếp hơn với trạng thái Hiểu Biết và trạng thái Ý Chí thuần túy. Hệ thần kinh giao cảm chi phối các tiến trình thiết yếu cho sự sống, như sự hoạt động của tim, phổi, bộ máy tiêu hóa. Bí huyệt nhật tùng nằm ở cao giữa 2 sương sườn thấp nhất (Không phải solar plexus, bí huyệt đan điền nằm dưới rốn) là bí huyệt (trung tâm) quan trọng nhất của hệ thần kinh giao cảm. (KCVTT, 334–335)
+ Thần kinh lực: Thần kinh lực được người Ấn Độ gọi là Prana. Nó được trí tuệ kềm chế xuyên qua não bộ. Nó là sinh lực (vitality) khơi hoạt các cơ quan cảm giác và tạo ra sự sống hướng ngoại của con người. Nó có phương tiện phân phối là hệ thần kinh, xuyên qua một vài trung tâm phân phối lớn gọi là các bí huyệt (plexi) hay liên hoa (lotuses).(ASCLH, 328)
+ Bí huyệt sinh lực: Vital plexi - X. Hạch thần kinh
+ Trung tâm lực tức là bí huyệt (chakra).(LVHLT, 362)
+ Trung tâm lực (Force centres): Toàn thể các dây thần kinh với hàng triệu từ lực đạo (nadis) hay “đối phần tuyến” (“thread counterparts”) trong thể dĩ thái, tạo thành một đơn vị, theo giáo huấn của Minh Triết Vô Thủy (Ageless Wisdom), đơn vị này có trong nó các điểm tập trung cho các loại năng lượng khác nhau. Các điểm tập trung này được gọi là “các trung tâm lực”, kinh nghiệm sống của linh hồn cùng biểu hiện của nó dựa vào các trung tâm lực này chứ không dựa vào thể xác. Chúng là các yếu tố chi phối hệ thống tuyến của cơ thể. (TLHNM–II, 64)
+ Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Prana Tâm linh: Theo các hành giả yogi thì có hai dòng thần kinh trong cột sống, gọi là Pingalā và Iḍā, và một cái rãnh gọi là Sushumnā chạy dọc theo tủy sống. Ở phần đáy của cái rãnh đó là cái mà các hành giả yogi gọi là “hoa sen Kundalini”. Họ mô tả nó giống như hình tam giác, trong đó, nói theo ngôn ngữ biểu trưng của hành giả yogi, có một năng lực đang thu mình, có tên gọi là Kundalini. Khi Kundalini thức giấc, nó cố gắng khai phá một thông lộ xuyên qua cái rãnh đó, và khi nó từng bước tỉnh giấc thì, có thể nói như vậy, tâm trí được khai thông hết lớp này đến lớp khác, và nhiều cảnh tượng khác nhau cùng nhiều quyền năng kỳ diệu đến với hành giả yogi. Khi Kundalini đi đến bộ não thì hành giả yogi hoàn toàn tách ly khỏi thể xác và tâm trí, linh hồn đã được giải thoát. Chúng ta biết rằng tủy sống được cấu tạo một cách đặc biệt. Nếu ta dùng ký hiệu có số 8 nằm ngang (∞) để minh họa thì có hai phần, và hai phần này được nối với nhau ở đoạn giữa. Giả sử cứ chồng các ký hiệu đó lên, cái này trên cái khác, ta sẽ có hình ảnh một tủy sống.
Bên trái là Iḍā và bên phải là Pingalā, còn cái rãnh chạy xuyên suốt giữa tủy sống là Sushumnā. Khi tủy sống dừng ở đốt sống vùng thắt lưng thì có một dây thần kinh rất nhỏ chạy xuống, cái rãnh thậm chí còn chạy xuyên suốt qua dây thần kinh đó, có điều là nhỏ hơn. Cái rãnh bị bít lại ở phía dưới cùng, gần cái gọi là đám rối thần kinh bàn tọa [sacral plexus], mà theo khoa sinh lý học hiện đại thì nó có hình tam giác. Những đám rối thần kinh [plexus] khác nhau có trung tâm là tủy sống đó đều có thể tượng trưng cho những “hoa sen” khác nhau của hành giả yogi.
ĐIỀU KHIỂN PRĀNA TÂM LINH: Bây giờ, chúng ta đề cập đến những bài tập trong prānāyāma. Chúng ta đã thấy rằng bước đầu tiên là, theo các hành giả yogi, điều khiển được sự chuyển động của lá phổi. Điều cần làm là chúng ta phải cảm nhận được những chuyển động tế vi đang diễn ra trong cơ thể. Tâm trí chúng ta đã bị biến thành ngoại cảnh, và đánh mất cái nhìn vào những chuyển động tế vi bên trong. Nếu có thể cảm nhận được chúng thì chúng ta có thể bắt đầu điều khiển chúng. Những dòng thần kinh này chạy khắp châu thân, mang sự sống và sinh khí đến từng cơ bắp, nhưng chúng ta lại không cảm nhận được chúng. Hành giả yogi bảo rằng chúng ta có thể học hỏi để làm được điều này. Làm như thế nào? Đó là điều khiển chuyển động của lá phổi. Khi đã thực hiện điều đó trong một khoảng thời gian đủ dài thì chúng ta cũng có thể điều khiển được những chuyển động tế vi này.
Bây giờ, chúng ta hãy đến với những bài tập trong prānāyāma. Hãy ngồi thẳng, toàn thân phải giữ thẳng đứng. Tủy sống, dù không dính chặt vào cột sống, nhưng vẫn nằm trong đó. Nếu ngồi cong vẹo là các bạn làm xáo trộn nó, bởi vậy hãy để cho nó được tự do thoải mái. Bất cứ khi nào các bạn ngồi cong vẹo mà muốn thiền quán là các bạn đang tự làm tổn thương mình. Cả ba phần của cơ thể – ngực, cổ và đầu – phải luôn luôn được giữ theo một đường thẳng đứng. Các bạn sẽ thấy rằng chỉ cần tập một chút thôi là các bạn sẽ thấy việc này dễ dàng như chuyện hít thở. Điều thứ hai là cần điều khiển các dây thần kinh. Chúng ta đã nói rằng trung tâm thần kinh điều khiển hệ hô hấp có ảnh hưởng đến các dây thần kinh khác, do đó hít thở nhịp nhàng là điều cần thiết. Kiểu hít thở lâu nay của chúng ta không có gì đáng để gọi là hít thở cả. Nó hoàn toàn không đúng cách. Rồi lại có sự khác biệt tự nhiên giữa kiểu hít thở của nam và nữ.
Chi tiết tu hít thở Prana xem tại bản văn .....
Khởi tu thiền: Bài học đầu tiên, do đó, là hãy ngồi yên trong một thời gian và cứ để mặc tâm trí tự do chạy nhảy. Tâm trí thường không ngừng sôi động. Nó giống như con khỉ lăng xăng nhảy nhót kia. Hãy để mặc cho con khỉ nhảy nhót tùy thích, các bạn chỉ việc chờ đợi và quan sát. Một câu ngạn ngữ cho rằng tri thức là quyền lực, điều đó đúng. Chỉ đến khi nào biết được tâm trí đang làm gì thì các bạn mới có thể điều khiển được nó. Hãy buông lỏng dây cương cho nó.
Nhiều tư tưởng gớm ghiếc có thể sẽ đi vào tâm trí, các bạn sẽ sửng sốt vì sao mình lại có thể suy nghĩ những điều như vậy. Nhưng rồi các bạn sẽ thấy rằng cứ mỗi ngày qua thì thói đồng bóng bất thường của tâm trí sẽ dần dần lắng dịu, và từng ngày tâm trí càng lắng dịu hơn. Sau một vài tháng đầu tiên, các bạn sẽ thấy rằng tâm trí có vô số tư tưởng; về sau, các bạn sẽ thấy rằng chúng giảm bớt đi, rồi cứ sau một vài tháng nữa thì chúng ít dần lại, cho đến cuối cùng thì tâm trí bị chế ngự hoàn toàn. Nhưng các bạn phải kiên nhẫn luyện tập hàng ngày.
Bước tiếp theo: Sau khi luyện tập pratyāhāra trong một thời gian, hãy thực hành bước tiếp theo là dhāranā, tức là chú tâm vào một điểm. Chú tâm vào một điểm có nghĩa là gì? Đó là buộc tâm trí chỉ cảm nhận được một bộ phận nào đó của cơ thể thôi, và loại bỏ những phần còn lại. Chẳng hạn, cố gắng chỉ cảm nhận bàn tay thôi, và bỏ qua tất cả những phần khác của cơ thể. Khi chitta – hay tâm – được giới hạn trong một vị trí nào đó thì điều đó được gọi là dhāranā. Dhāranā có rất nhiều loại, và kết hợp nó thì tốt hơn là nên có một ít trí tưởng tượng. Chẳng hạn, hướng tâm trí đến một điểm tại trái tim. Điều đó thật quá khó; có một cách dễ hơn, đó là tưởng tượng tại đó có một đóa hoa sen. Hoa sen này rực rỡ ánh hào quang. Hãy chú tâm vào đó. Hoặc quán tưởng đến hoa sen rực rỡ ánh hào quang trong não, hoặc quán tưởng đến những trung tâm khác trong Sushumnā đã nói ở phần trước.
Đối với những người muốn tiến bộ nhanh chóng và tinh tấn tập luyện thì chế độ ăn uống kiêng khem là điều tuyệt đối cần thiết. Họ sẽ thấy rằng sống bằng sữa và ngũ cốc trong một vài tháng sẽ rất thuận lợi cho việc tập luyện..... Khi bắt đầu tập trung tư tưởng thì một tiếng kim rơi cũng sẽ giống như tiếng sấm nổ ngang đầu. Các giác quan trở nên tinh tế hơn, và nhận thức cũng trở nên tinh tế hơn......
Giai đoạn nhập định: Cần có đạo hạnh cao mới có thể tu giai đoạn này,.... Những nguy hiểm thì rất nhiều cho những ai thiếu hiểu biết khi gặp cảnh giới đến. Cụ thể xem tại bản văn. (Nguồn: Triết học Kinh Vệ Đà_Tr 607 - 624)
1. Bí huyệt đầu (Head centre) ... Não, tuyến tùng quả và tuyến yên
2. Bí huyệt ở họng (throat) ... Thanh quản, dây thanh âm, khẩu cái và tuyến giáp.
3. Bí huyệt tim (heart) ... Màng bao tim, tâm thất, tâm nhĩ, ảnh hưởng tới lá lách. (ASCLH, 310)
– Các bí huyệt có ba chức năng chính:
1/ Đem sinh lực (vitalise) cho thể xác.
2/ Mang lại sự phát triển ngã thức trong con người.
3/ Truyền chuyển năng lượng tâm linh và đưa toàn bộ con người vào trạng thái hiện tồn tâm linh. (LVHLT, 285)
+ Các bí huyệt thứ yếu
4. Bí huyệt nhật tùng (Solar Plexus)... Bao tử
5. Bí huyệt lá lách (Spleen) ... Lá lách
6. Bí huyệt xương mông (Sacral) ... Các cơ quan sinh dục
7. Bí huyệt chót xương sống ... Các cơ quan bài tiết, thận, bàng quang. Các cơ quan ở xác thân này là các kết quả hay hậu quả, các bí huyệt là nguyên nhân thể chất của chúng và chúng được tạo ra nhờ hoạt động của các bí huyệt dĩ thái. (ASCLH, 310)
– Các bí huyệt có ba chức năng chính:
1/ Đem sinh lực (vitalise) cho thể xác.
2/ Mang lại sự phát triển ngã thức trong con người.
3/ Truyền chuyển năng lượng tâm linh và đưa toàn bộ con người vào trạng thái hiện tồn tâm linh. (LVHLT, 285)
+ Trung tâm lực tủy sống (The altar major centre): Trung tâm lực tủy sống được tạo nên ở điểm mà ống tủy sống tiếp xúc với hộp sọ và do đó, nằm ở phần thấp nhất của phía sau đầu. Nó được cấu tạo bằng chất dĩ thái thấp nhất, tức chất dĩ thái thứ tư, trong khi đó, các trung tâm lực dĩ thái của các đệ tử được cấu tạo bằng chất dĩ thái cao hơn.(LVLCK, 1129)
+ Hành tinh là luân xa: Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Các Hành tinh Thái dương hệ (Cuối sách Chiêm THNM): ... “Cần nên nhớ là ba trong số các hành tinh thánh thiện là trú sở (home) của ba Cung chính yếu, tức là các hình tướng được biểu hiện của Ba Ngôi Thượng Đế hay là các nguyên khí. Các hành tinh khác là các hiện thân (embodiments) của bốn Cung phụ. Chúng ta có thể xét – theo quan điểm ngày nay – rằng Venus, Jupiter và Saturn có thể được xem như là các vận thể của ba siêu nguyên khí (super - rinciples, nguyên khí trên) vào lúc này. Mercury, Địa Cầu và Mars được liên kết chặt chẽ với ba hành tinh, nhưng ở đây còn một bí mật ẩn giấu. Sự tiến hóa của nội tuần hoàn có một liên quan chặt chẽ với vấn đề này. Có lẽ một ít ánh sáng có thể được đưa ra về sự triều nguyên (obcurity) của vật chất do việc thực hiện những gì giống như Thượng Đế đang có (trong các hành tinh không thánh thiện) sự tương ứng đối với các nguyên tử thường tồn trong con người, cũng thế sự tiến hóa bậc trung giữa cả hai (Thượng Đế và con người) là Hành Tinh Thượng Đế, mà cơ thể của Ngài được làm bằng các Chân Thần con người và Chân Thần của thiên thần, và Ngài cũng có các nguyên tử thường tồn của Ngài. Luôn luôn ba nguyên khí cao có thể được phân biệt với bốn nguyên khí thấp ở mức độ quan trọng.” (LVLCK, 299)
“Các Agnishvattas đang hoạt động trong hành tinh hệ Uranus, Neptune và Saturn làm việc có phần khác với các vị đang hoạt động trong hành tinh hệ Venus, Vulcan, Mars, Mercury, Jupiter, Địa Cầu và hành tinh hệ ngoại môn Saturn, và các Manasadevas của vòng tuần hoàn nội cũng hành động như thế. Ở đây, chúng ta nên để ý rằng chúng ta lại có một bộ ba các nhóm, tiêu biểu cho một bộ ba thần lực và ở đây có một ẩn ngữ. Trong danh sách giữa của các hành tinh hệ, nhóm các Agnishvattas ở giữa và ở dưới đều linh hoạt. Trong các hành tinh hệ khác, nhóm ở trên và nhóm giữa có ảnh hưởng nhất vì các hành tinh này là các hành tinh huyền bí nhất và thánh thiện nhất đang biểu lộ và chỉ liên quan với các egos đang ở trên Thánh Đạo, và do đó họ mới linh hoạt – tập thể (group – active). Liên quan với Uranus, Neptune và Saturn, điều này có thể được mong đợi vì chúng là các hành tinh hệ tổng hợp, và đưa tới các tình trạng thích hợp chỉ dành cho chính các giai đoạn tiến hóa, Chúng là các “hành tinh đang thu hoạch.” (LVLCK, 777)
“Các hành tinh Venus và Jupiter có liên lạc vô cùng chặt chẽ với Địa Cầu, và sau rốt tạo thành một tam giác lực huyền bí.” (LVLCK, 370)
“Mỗi hành tinh – trong đó chỉ có 7 hành tinh được gọi là thánh thiện – dù cho biết rõ hoặc không biết rõ, là một thất bộ (septenary), vì cũng là dãy mà Địa Cầu tùy thuộc vào…” (GLBN I, 176)
“Các Hành Tinh Vật Chất Trọng Trược
Địa Cầu Dãy thứ tư Bầu thứ tư
Jupiter Dãy thứ ba Bầu thứ tư
Saturn Dãy thứ ba Bầu thứ tư
Mars Dãy thứ tư Bầu thứ tư
Vulcan Dãy thứ ba Bầu thứ tư
Venus Dãy thứ năm Bầu thứ năm
Mercury Dãy thứ tư Bầu thứ năm (LVLCK, 373)
Các Hành Tinh, Các Cung và Giáo Lý Nội Môn
1. Uranus (thứ 7) – Trường Phái Pháp Thuật (school of Magic) thuộc đẳng cấp thứ 10. Đôi khi còn được gọi là “hành tinh của lực màu tím”, và những người tốt nghiệp của trường đó sử dụng năng lực của prana dĩ thái vũ trụ.
2. Địa Cầu (thứ 3) – Trường Phái Đáp Ứng Từ Điện (School of Magnetic Response). Một tên gọi khác được dành cho các môn sinh của nó là “Những người tốt nghiệp của nỗ lực đau khổ” hay là “trọng tài giữa các đối cực”. Những người tốt nghiệp của Trường Phái này được cho là trải qua sự khảo sát trên cõi phụ thứ ba của cõi cảm dục.
3. Vulcan (thứ 1) – Trường Phái Hỏa Thạch (The School of Fiery Stones). Có một tiếp nối kỳ lạ giữa các đơn vị nhân loại, là kẻ đang vượt qua các phòng của Trường Phái đó với giới khoáng chất. Các đơn vị con người trên hành tinh hệ Địa Cầu được gọi là “các sinh thạch” (“the living stones”); trên Vulcan chúng được gọi là “các hỏa thạch”.
4. Jupiter (thứ 2) – Trường Phái các Huyền Thuật Gia Phúc Lợi (The School of Beneficent Magicians). Hành tinh này đôi khi được gọi theo cách nói thông thường là các Trường phái, “College of Quadruple Force Units” vì các thành viên của nó sử dụng bốn loại thần lực trong công tác huyền thuật kiến tạo. Một tên gọi khác được dành cho các phòng của nó là “Dinh Thự Sang Trọng” (“The Palace of Opulence”) vì những người tốt nghiệp của nó hoạt động với Luật Cung Cầu (Law of Supply) và thường được gọi là “những kẻ gieo” (“sowers”).
5. Mercury (thứ 4) – Các đệ tử của trường phái hành tinh này được gọi là “Các Con của Hoài Bão” (“The Son of Aspiration”) hay là “Các điểm Ánh Sáng Vàng”. Họ có một liên hệ chặt chẽ với hành tinh hệ Địa Cầu chúng ta. Tên gọi của trường phái này không được đưa ra.
6. Venus (thứ 5) – Trường Phái có 5 Cấp chặt chẽ (The School with five strict Grades). Đây là một hành tinh hệ có liên quan chặt chẽ với hành tinh hệ chúng ta. Hành Tinh Thượng Đế của nó thuộc vào một nhóm các môn sinh vũ trụ tiến hóa nhiều hơn là chúng ta. Hầu hết các bậc thầy của Huyền Giai của nó đều phát xuất từ cõi vũ trụ thứ năm.
7. Mars (thứ 6) – Trường Phái cho các Chiến Sĩ (The School for Warriors), hay là các cấp mở rộng cho các chiến sĩ. Bốn trong số các trường phái hành tinh này chịu trách nhiệm cho năng lượng đang tuôn chảy qua “bốn tập cấp” (“four castes”) trong mọi phần của thế giới. Các huấn sư của nó được nói đến như là “Các Học Viên của Ngọn Lửa Đỏ Hồng” (“Graduates of the Ruddy Flame”) và thường được mô tả như là được khoác trong các áo choàng đỏ…. Chúng hoạt động dưới Ngôi Một của Thượng Đế và huấn luyện cho những người mà công việc của họ đi theo các đường lối của tác nhân hủy diệt.
8. Neptune (thứ 6) – Trường phái này chính nó có liên quan với sự phát triển của yếu tố dục vọng và các học viên của nó được gọi là “Các Con của Vishnu”, (LVLCK, 1177 – 1179)
Các Trường Phái trên Saturn, Mặt Trời, Mặt Trăng và trên Pluto nữa không được để riêng, mà toàn bộ cả mười hai hành tinh nữa.
+ ĐƯỜNG ĐẠO VÀ CÁC CUNG [HÀNH TINH NTH bổ xung - Chỉ tham khảo]
Cung I: Mãnh lực - Năng lượng - Hành động - Huyền bí gia. [3. Vulcan (thứ 1) – Trường Phái Hỏa Thạch - Nhân loại là Sinh thạch]
Cung II: Tâm thức - Mở rộng - Điểm đạo - Nhà tâm thông thực sự. [4. Jupiter (thứ 2) – Trường Phái các Huyền Thuật Gia Phúc Lợi - Luật Cung và Cầu]
Cung III: Thích nghi - Phát triển - Tiến hóa - Thuật sĩ. [5. Mercury (thứ 4) - Hoài bão - Các điểm Ánh Sáng Vàng”]
Cung IV: Rung động - Đáp ứng - Biểu lộ - Nghệ sĩ. [2. Địa Cầu (thứ 3) – Trường Phái Đáp Ứng Từ Điện - Cặp đối cực - Qua đau khổ]
Cung V: Hoạt động trí tuệ - Hiểu biết - Khoa học - Nhà khoa học. [6. Venus (thứ 5) – Trường Phái có 5 Cấp chặt chẽ - Rất tiến hóa]
Cung VI: Lòng tôn sùng - Ý niệm trừu tượng - CN lý tưởng - Người sùng tín. [7. Mars (thứ 6) – Trường Phái cho các Chiến Sĩ]; [8. Neptune (thứ 6) – Phát triển của yếu tố dục vọng]
Cung VII: Thần chú - Huyền thuật - Hành Nghi thức - Người hành lễ. [1. Uranus (thứ 7) – Trường Phái Pháp Thuật]
+ Sự nghiệp các Hành tinh: Như bạn biết, Pluto thay cho cái chết hay là vùng chết; Địa Cầu thay cho lĩnh vực kinh nghiệm; Nguyệt Cầu hay Vulcan thay cho sự ca ngợi, qua sự thanh luyện và tách rời, đối với vật chất, và Venus thay cho sự xuất hiện của nguyên khí bác ái qua sức mạnh chỉ đạo của thể trí. Các nhà nghiên cứu sẽ thấy lý thú khi vạch ra các hàm ý cho chính mình. Chiêm tinh học chính thống chỉ ấn định có hai hành tinh cho bốn cung hoàng đạo này, mà trong chính nó cho thấy một tương tác rõ rệt. Jupiter và các ảnh hưởng của nó cho thấy rằng con đường lâm phàm là phương pháp khai mở tiến hóa “có lợi” và rằng con đường bác ái ‒ minh triết (cung 2) là con đường cho nhân loại bước đi. Mercury chỉ rằng con đường ít đối kháng nhất cho nhân loại là hài hòa qua xung khắc, vì Mercury biểu hiện cho năng lượng cung bốn vốn thuộc bồ đề, trực giác và biểu hiện của Christ, vì Mercury và Mặt Trời là một. Nhưng các hành tinh nội môn thì lộ rõ hơn trong các suy đoán của chúng, và khi sẵn sàng cho ảnh hưởng của chúng, con người dường như đáp ứng theo cách tứ phân mà y không đáp ứng trong các giai đoạn trước kia. Chúng biểu hiện cho sự thừa nhận và các phản ứng vốn chi phối tâm thức con người khi y chuẩn bị chuyển ra khỏi Thập Giá Khả Biến và leo lên Thập Giá Cố Định. Do đó, y đến
1. Qua Venus – dưới mãnh lực trí tuệ, biến đổi thành minh triết qua phương tiện tình thương.
2. Qua Nguyệt Cầu – dưới sự giam nhốt của hình hài để nhờ kinh nghiệm của hình hài mà đạt được giải thoát và “nâng cao vật chất” (“uplift of matter”) trong Vulcan.
3. Qua Địa Cầu – dưới ảnh hưởng của kinh nghiệm hành tinh (vốn dị biệt với kinh nghiệm cá nhân) ngõ hầu chuyển hóa tâm thức cá nhân của y thành hiểu biết tập thể (group awareness).
4. Qua Pluto – dưới sức mạnh hủy diệt của cái chết – cái chết của dục vọng, cái chết của phàm ngã và của tất cả những gì đang giữ y giữa các cặp đối ứng (pair of opposites), để đạt được sự giải thoát cuối cùng. Pluto hoặc cái chết không bao giờ hủy diệt trạng thái tâm thức (conciousness aspect).
Do đó, sáu hành tinh cai quản Thập Giá Khả Biến xét về mặt nhân loại, và trong chính nó điều này có ý nghĩa, vì sáu là con số của công việc lớn lao của giai đoạn biểu lộ, là con số của “the Beast” (“Thú Vật”), vốn là bản chất thấp xét về con người, và là tất cả những gì đang tìm cách hủy diệt sự sống cao siêu, nhưng cũng là những gì có thể được kiềm chế và sau rốt được điều khiển bởi linh hồn. Ý nghĩa của các con số đi vào khoa chiêm tinh học nội môn và huyền số học (numerology) vì chính nó là một nhánh của chiêm tinh học nội môn. Bác Ái ‒ Trí Tuệ ‒ Kinh Nghiệm ‒ Sắc Tướng ‒ Sự Hiểu Biết của Con Người ‒ Tử Vong: đây là các chủ âm của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, giới nhân loại và chúng được tiêu biểu cho các ảnh hưởng của hành tinh đang tuôn đổ qua các hành tinh này từ các cung có quan hệ gần gũi của chúng.....
Qua hoạt động của các lực này, mà ở giai đoạn này các lực đó tác động qua Thập Giá Khả Biến, con người được dẫn tới một Chuyển Biến lớn về Sự Phân Hóa và tới một mức độ thay đổi cơ bản mà đối với thay đổi đó mọi thay đổi trước kia và nhiều thay đổi nữa đã chuẩn bị cho y.....
Trong thời đại trước khi Leo ‒ Virgo được chia thành hai cung, Libra theo sát nghĩa là điểm giữa. Lúc bấy giờ tình hình như sau:
Aries - Taurus - Gemini - Cancer - [Leo-Virgo] - LIBRA - Scorpio - Sagittarius - Capricorn - Aquarius - Pisces
và trong vòng tròn hoàng đạo này (về phần nhân loại) bạn đã mô tả toàn bộ lịch sử của loài người. Điều này có liên quan các nguồn gốc trí tuệ của nó trong Aries (ý muốn biểu lộ) và việc khởi đầu của cuộc sống hướng ngoại (outgoing life); bạn có ý muốn có điều khiển của nó trong Taurus, tạo ra sự biểu lộ; lúc đó xuất hiện tâm thức kép của nó trong Gemini hay là nhận thức của linh hồn-xác thân; các tiến trình của việc lâm phàm hồng trần diễn ra trong Cancer, được noi theo bởi sự phát triển song đôi của linh hồn – xác thân, hay là tâm thức chủ thể và khách thể, và Thiên-nhân (God-man) trong Leo- Virgo. Tiếp theo là Libra, nơi mà điểm thăng bằng được đạt đến sau rốt giữa chân nhân với phàm nhân và giai đoạn được đưa ra cho tiến trình ngũ phân cuối cùng, mà thực ra vốn là sự tương ứng chủ quan/ bên trong (subjective) so với sự hiển lộ bên ngoài trên Con Đường Hướng Ngoại (the Path of Outgoing) và được tiến hành trên Con Đường Hướng Nội (the Path of Ingoing) hay là Con Đường Hoàn Nguyên (the Path of Return). Kế đó xảy ra sự đảo ngược của vòng hoàng đạo và việc bắt đầu cuộc định hướng mới và bắt đầu con đường đệ tử trong Scorpio, tức sự sống có điều khiển và có kiểm soát của vị đệ tử trong Sagittarius, điểm đạo trong Capricorn, được đi theo bằng việc phụng sự trong Aquarius và công việc của kẻ cứu thế trong Pisces và sự giải thoát tối hậu. (Chiêm THNM)
+ Hành tinh - Tinh tú:
+ Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Có 12 Hành tinh (7 H.Tinh thánh thiện và 5 không thánh thiện) có liên quan với sự sống bên ngoài, môi trường và các hoàn cảnh của cá nhân. Các mãnh lực biểu hiện trạng thái thiêng liêng thứ 3 - Ý muốn hiểu biết; (CTHNM, 38)
+ 12 HT chi phối 12 Cung HĐ, chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khía cạnh Phàm ngã con người, cộng với các tình trạng nghiệp quả kế thừa, tạo ra các trạng thái chung quanh và các hoàn cảnh sống và sau rốt việc kiểm soát khía cạnh hình tướng của sự sống (CTHNM, 63)
+ 12 Chòm Sao: Có liên quan trước tiên với việc kích thích của Linh hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong mà, đến lượt nó, tạo lên các thay đổi trong biểu hiện bên ngoài (CTHNM, 64)
+ Mỗi hành tinh ảnh hưởng đến một khu vực của cuộc sống, từ Mặt trời ra và mỗi hành tinh toả chiếu một màu đến chúng ta (CTHNM 4)
+ Xem thêm: Các Hành tinh - Các Sao - Tinh tú
+ Bí Huyệt Đan Điền/ Luân Xa Tùng Thái Dương: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu. Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài. Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm. Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện.
- Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.(LVHLT, 250)
+ Bí huyệt Đan điền khác bí huyệt Nhật tùng:
- Bí huyệt đan điền (tôi không biết tên tiếng Anh, nó nằm dưới rún) không phải là bí huyệt nhật tùng (solar plexus center) mà các sách của Chân Sư D.K, nói đến.
- Bí huyệt Nhật tùng: Theo tài liệu của Chân Sư đã được dịch, tôi đọc thấy có một chỗ Chân Sư mô tả vị trí của bí huyệt nhật tùng thật cụ thể, vị trí đó nằm giữa hai xương sườn cuối cùng, như vậy là không phải dưới rún. (Faceboook Thông Thiên Học)
+ Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Bí huyệt sinh lực: Vital plexi - X. Hạch thần kinh
+ Trung tâm lực tức là bí huyệt (chakra).(LVHLT, 362)
+ Trung tâm lực (Force centres): Toàn thể các dây thần kinh với hàng triệu từ lực đạo (nadis) hay “đối phần tuyến” (“thread counterparts”) trong thể dĩ thái, tạo thành một đơn vị, theo giáo huấn của Minh Triết Vô Thủy (Ageless Wisdom), đơn vị này có trong nó các điểm tập trung cho các loại năng lượng khác nhau. Các điểm tập trung này được gọi là “các trung tâm lực”, kinh nghiệm sống của linh hồn cùng biểu hiện của nó dựa vào các trung tâm lực này chứ không dựa vào thể xác. Chúng là các yếu tố chi phối hệ thống tuyến của cơ thể. (TLHNM–II, 64)
+ Các chòm sao là các luân xa (chakras) của Vũ trụ. Các hành tinh là luân xa của các Thái dương hệ, có quan hệ với các trung tâm lực/ luân xa con người (GQ1-C.Tạo con người)
+ Có hai sự kiện quan trọng là (LVHLT, 191):
1. Ba trung tâm lực dưới cơ hoành,
a/ Bí huyệt đáy xương sống,
b/ Bí huyệt xương cùng,
c/ Bí huyệt đan điền,
mà hiện nay là những bí huyệt có uy lực nhất trong nhân loại bậc trung, và là những bí huyệt “linh hoạt” nhất, cần được tái tổ chức, tái định hướng, và được đưa từ trạng thái tích cực sang trạng thái tiêu cực.
2. Tương tự, bốn trung tâm trên cơ hoành,
a/ Bí huyệt tim,
b/ Bí huyệt cổ họng,
c/ Bí huyệt giữa hai mày,
d/ Bí huyệt đầu,
phải được đánh thức và được đưa từ trạng thái tiêu cực sang trạng thái tích cực (Xem chi tiết chuyển trạng thái luân xa ở LVHLT, 192)
+ Mỗi bí huyệt hay chakra gồm có ba vòng xoắn (whorl) hay luân xa (wheel) đồng tâm trộn lẫn vào nhau mà trong con người tâm linh trên con đường dự bị, chúng từ từ chuyển động theo một hướng, nhưng dần dần tăng tốc độ hoạt động của chúng khi người này tiến gần đến cổng của con đường điểm đạo. Vào lúc điểm đạo, tâm điểm của luân xa (một điểm của lửa tiềm tàng) được chạm đến, độ quay trở nên mãnh liệt và có hoạt động theo chiều đo thứ tư. (LVHLT, 362)
+ Bí huyệt với Thái Dương hệ:
- Bí huyệt tim trong con người mở cánh cửa vào những gì được gọi là “tâm của Mặt Trời” (“heart of the Sun”).
- Bí huyệt cổ họng mở đường vào sự hiểu biết đầy đủ về đường đi của Mặt Trời vật chất, và tất cả các nhà chiêm tinh chân chính cuối cùng phải có bí huyệt đó hoạt động.
- Bí huyệt đầu mở đường tới Mặt Trời tinh thần trung ương, => Mỗi bí huyệt đi tới một trong những cõi vũ trụ, xuyên qua sự tương ứng hành tinh (LVHLT, 364)
+ Một mô tả khác về các luân xa:
- Luân Xa: Luân Xa là các trung tâm hay cơ quan siêu vật lý thông qua đó năng lượng của các trường khác nhau được đồng bộ hóa và phân phối cho cơ thể vật lý. Chúng ít nhiều hoạt động trên thể cảm dục, thể trí và (ở mức độ nào đó) trên các cấp độ cao hơn, có chức năng khác nhau ở mỗi thể, nhưng chúng có tầm quan trọng hàng đầu ở cấp độ dĩ thái, nơi chúng đóng vai trò là công cụ tập trung năng lượng trong cơ thể.
Bảy luân xa dĩ thái, có ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của cơ thể vật lý và thể dĩ thái, có các đối phần của chúng ở cấp độ cảm dục và thể trí...
Các luân xa đồng thời là các cơ quan truyền dẫn và biến đổi năng lượng từ trường này sang trường khác, vì cơ chế của chúng là đồng bộ hóa các năng lượng cảm xúc, trí tuệ và dĩ thái. Chúng biến đổi năng lượng lên hay xuống, làm chậm hay tăng tốc, từ trường này sang trường khác, khiến cho năng lượng nhanh hơn của trường cảm xúc có thể ảnh hưởng đến năng lượng chậm hơn của thể dĩ thái, và ngược lại.
Các luân xa không bao giờ tĩnh; tốc độ quay của chúng vừa nhanh vừa biến đổi theo tình trạng sức khoẻ và chất lượng dòng chảy. Toàn bộ quá trình này tương tự như cơ chế hô hấp, vì năng lượng cũng được con người hít vào và thở ra. Năng lượng đổ vào lõi trung tâm của luân xa, đến xương sống qua phần cuống, sau đó chảy dọc theo các đường dẫn nhỏ bé của thể dĩ thái được kết nối với hệ thần kinh cơ thể. Cuối cùng năng lượng quay trở lại các luân xa, di chuyển ra ngoài theo đường xoắn ốc thông qua các vòng xoáy của các cánh hoa, theo nhịp điệu vào ra đều đặn. Những xoắn ốc của năng lượng ngày càng mở rộng ra trong suốt quá trình tuần hoàn, dần dần lẫn vào và tan biến trong trường dĩ thái của toàn bộ cơ thể, và sau đó hòa lẫn vào trường vũ trụ, giống như hơi thở ra của con người trở thành một phần của toàn bộ bầu khí quyển trái đất.
Các luân xa chính của thể dĩ thái được nằm dọc theo một trục thẳng đứng, năm luân xa dưới nằm song song với tủy sống, kéo dài từ xương cùng tới hộp sọ, trong khi hai luân xa còn lại một nằm giữa hai lông mày và một nằm ở đỉnh đầu. Luân xa đỉnh đầu thường lớn hơn các luân xa khác, và là điểm tập trung tâm thức.
Sợi chỉ tâm thức thức tỉnh gắn liền với lõi trung tâm của luân xa đỉnh đầu. Trong giấc ngủ, luồng năng lượng ở đây giảm xuống, và được kích hoạt lại khi tỉnh thức. Tuy nhiên sợi chỉ sự sống kết nối luân xa tim với trái tim của cơ thể, và kết nối này không bị gián đoạn trong suốt cuộc đời. Vào lúc chết, sợi chỉ tâm thức rút khỏi luân xa đỉnh đầu, và sợi chỉ của sự sống rút khỏi trái tim, báo hiệu sự tan rã của tất cả các luân xa khác. Như vậy khi chết tất cả các kết nối bị phá vỡ; thể dĩ thái trước tiên nới lỏng liên kết khỏi cơ thể vật lý, sau đó tách ra, và tan rã trong vòng vài ngày sau khi chết trong điều kiện bình thường.
Tóm lại, các chức năng chính của luân xa dĩ thái là hấp thu và phân phối prana hay sinh lực cho thể dĩ thái, qua nó đến cơ thể vật lý, và để duy trì các liên kết động với các luân xa tương ứng trong thể cảm xúc và thể trí.
Chi tiết hệ thống các luân xa chính:
- Luân xa đỉnh đầu
Luân xa trên cùng nằm cách đỉnh đầu khoảng sáu centimet. Nó giống hình cái đĩa, bao gồm 12 cánh hoa vàng ở trung tâm, với 960 cánh hoa phụ được sắp xếp xung quanh chúng, vì vậy nó được gọi là “hoa sen ngàn hoa” trong Mật tông Ấn giáo. Những cánh hoa này hiển thị tất cả các màu sắc của cầu vồng, với màu tím chiếm ưu thế.
Trong Mật tông Ấn giáo, luân xa sahasrara, được mô tả là “chỗ ngồi đặc biệt và cao nhất của linh hồn, Jiva”, và như vậy khác với các luân xa khác nằm dọc theo cột sống. Đó là luân xa quan trọng nhất và cho thấy cả phẩm chất tinh thần và trạng thái của tâm thức của mỗi cá nhân ... Nếu lõi trung tâm của luân xa tỏa sáng rực rỡ, điều này thường cho thấy người đó thực hành tham thiền đều đặn.
Nói cách khác, đây là luân xa cho thấy mức độ tiến hóa tâm thức của cá nhân...
Khi các liên kết dĩ thái giữa luân xa đỉnh đầu và luân xa trán mở rộng và hoạt động, điều này cho thấy một mức độ thông nhãn nhất định, và cũng chứng tỏ có thực hành tham thiền và định trí. Trong cơ thể vật lý, sự kết nối với luân xa này chủ yếu thông qua tuyến tùng, nhưng nó ảnh hưởng đến toàn não bộ.
- Luân xa Trán
Luân xa trán, hay luân xa ajna, gồm 96 cánh hoa. Nằm trên trán ở giữa hai mắt... được xem như là một phần của “hoa sen ngàn cánh” đỉnh đầu.
Trong cấu trúc,... luân xa trán có liên quan với tuyến yên; Đây là luân xa chủ yếu liên quan đến việc tích hợp các ý tưởng và kinh nghiệm với năng lực tổ chức. Nó là cơ quan của hình dung và là trung tâm của nhận thức, có thể hướng lên những điều cao hơn hoặc hướng xuống thế giới trần tục; Nó phản ánh tính nhị nguyên của tâm thức.
Nếu luân xa trán của thể dĩ thái phát triển mạnh và các kết nối của nó với luân xa đối ứng ở thể cảm dục được khai mở và hoạt động, việc thông nhãn tới các cõi cao hơn có thể diễn ra. Khi nó được kết nối chủ yếu với luân xa cuống họng, điều này cho thấy việc sử dụng tích cực trí tưởng tượng sáng tạo.
- Các luân xa khac mời xem trên trang nguồn (Nguồn: Luân xa và năng lượng con người)
+ Tu đúng thứ tự: Trong Đại Tạng Kinh, đức Phật dậy Phật tử không học pháp Tiểu thừa trước rồi sau mới học pháp Đại thừa thì KHÔNG phải đệ tử Phật. Đây cũng giống như ctrwa học Tiểu học mà đã lên học Trung học. Không nương theo lời đức Phật dậy, vừa vào cửa Phật mà đã tu học Đại thừa là không thể được, như thế làm sao có thể thành tựu. [Lược theo Ps. Tịnh Không giảng]
+ Tu Tâm đúng pháp: Thánh hiền dậy, tu hành cần nhất nhất có sự tương ứng trong tâm ngoài thân. Tâm tu trước, Thân hành sau mới mong không phát sinh bệnh họa nơi Thân. Điều kiện tiên quyết cần có là học hiểu giáo lý, tu làm người Thiện lành, sau đó mới tu các pháp tu nâng cao mong có thành tựu đạo quả. Ví như:
- Tu trừ tâm tham ăn: Giác ngộ giúp Tâm tự ít ham muốn, Tâm tham lam đã giảm nhiều do hiếu biết ăn đúng dưỡng sinh, ăn chay chỉ có tốt không xấu. Sau đó thực hành từ từ, giảm từ ăn nhiều thành ăn ít, lắng nghe cơ thể, nếu Tâm còn thấy đói mà chỉ dùng ý chí nhẫn chịu kéo dài thì Thân sẽ rễ suy nhược, phát sinh bệnh nặng. Vậy nên, tu đúng và có thành tựu thì thân thể điều hòa, Tâm không thấy đói cồn cào, không phải nhẫn lại chịu đựng.
- Tu Thiền định đúng: Người Thiện lành thì Tâm tham sân si kêu mạn nghi ít phát khởi vọng tưởng làm chướng ngại, Thân thể điều hòa ... Họ rễ dàng vượt qua sự nóng lạnh của thời tiết chứ không phải mới tu lại tham muốn thành tựu nhanh, Dụng ý chí nhẫn chịu cái rét run cầm cập => Thân thể sẽ phát sinh bệnh. Hoặc Dụng ý chí nín nhịn hơi thở cho rễ nhanh vào được định, nhập định như thế làm cho tuần hoàn máu kém lưu thông, thiếu hụt ô xy, chân tay tê bì ... lâu ngày rễ sinh bệnh, nguy hiểm hơn thì tẩu hỏa nhập ma. Vậy nên, tu đúng là tu hành kiên trì, bắt đầu từ ngồi thiền mỗi ngày 5 phút, tăng nên sau nhiều năm mới tăng đến vài giờ, vài ngày ... Thiền định cần có vị Thiện tri thức dẫn đạo mới mong chánh được Họa hoạn rất nhiều nguy hiểm trong quá trình tu hành.
- Trên đây là 2 ví dụ, trong việc tu hành đều cần sự đều đặn, từ từ tiệm tiến, giúp tăng tiến liên tục nhưng bền vững lâu dài, chánh phát sinh bệnh nạn do tu sai, tu không có vị Thiện tri thức dẫn đạo.
+ Tâm Ðược Tu Tập
1. - Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói. Và tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Kẻ phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm kẻ phàm phu ít nghe, không tu tập được.
2. Tâm này, là sáng chói. Và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm bậc Thánh đệ tử nghe nhiều có được tu tập.
3. Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, vị Tỷ-kheo phát từ tâm; vị ấy, được gọi là vị Tỷ-kheo trú Thiền tịnh không có trống không, làm theo lời dạy bậc Ðạo Sư, là người làm theo giáo giới, ăn đồ ăn khất thực của xứ, không có uổng phí. Còn nói gì những người làm cho sung mãn từ tâm ấy.
4-5. Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, vị Tỷ-kheo tu tập từ tâm, tác ý từ tâm; vị ấy, được gọi là vị Tỷ-kheo trú Thiền tịnh không có trống không, làm theo ..... làm cho sung mãn từ tâm ấy.
6. Phàm những pháp nào, này các Tỷ-kheo, là bất thiện, thuộc thành phần bất thiện, đứng về phía bất thiện, tất cả các pháp ấy đều được ý đi trước. Ý khởi trước các pháp ấy. Các pháp bất thiện theo sau.
7. Phàm những pháp nào, này các Tỷ-kheo, là thiện, thuộc thành phần thiện, đứng về phía thiện, tất cả các pháp ấy đều được ý đi trước. Ý khởi trước các pháp ấy. Các pháp thiện theo sau.
8. Ta không thấy một pháp nào khác, do pháp ấy, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như phóng dật. Với người phóng dật, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.
9. Ta không thấy .... do pháp ấy, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận, như không phóng dật. Với người không phóng dật, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận.
10. Ta không thấy ... do pháp ấy, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận, như biếng nhác. Với người biếng nhác, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Trang 11)
+ Bài viết về nôi dưỡng vẻ đẹp Thân Tâm: Tám điều Phật dạy về Dưỡng Tâm
+ Phật pháp là giáo dục - Phát triển trí tuệ: Giáo dục là tu đạo Giác ngộ lý chân thật không hư giối giả tạm. Mời nghe giảng trên trang tổng hợp giảng nói Phật pháp của Pháp sư Tịnh Không rất nhiều bài giúp tu thành tựu đạo Người quân tử.
Ngài nói, tu hành Phật pháp như đi chùa lễ lạy Phật, Bồ tát, tu đọc tụng kinh chú không phải/ Không nên hiểu là để cầu Phật, Bồ tát ban cho mình được sức khỏe, ít bệnh, sống thọ hay giầu sang, quyền cáo chức trọng ... KHÔNG có đạo lý này. Mà tu là để Giác ngộ chánh pháp, thấu hiểu quy luật, đạo lý vũ trụ nhân sinh rồi tự mình ứng dụng tu hành sửa đổi Thân Tâm sẽ được lợi ích to lớn, cầu gì được ấy. Ví dụ như muốn nhiều phước để được giầu có, uy quyền, nhiều sức khỏe, thọ mạng dài ..... thì phải tu hành BỐ THÍ. Như thí cúng tiền của thì được tiền tài giầu có, thí kinh pháp thì được Trí tuệ, thí vô úy thì được sức khỏe ít bệnh, thọ mạng dài ..... tu hành thiền định thì được Tâm thanh tịnh, trí huệ viên mãn hướng đến giải thoát luân hồi sinh tử..... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng Phật pháp)
+ Tu đúng thứ tự mới có thể thành tựu: Trong Đại Tạng Kinh, đức Phật dậy Phật tử không học pháp Tiểu thừa trước rồi sau mới học pháp Đại thừa thì KHÔNG phải đệ tử Phật. Đây cũng giống như ctrwa học Tiểu học mà đã lên học Trung học. Không nương theo lời đức Phật dậy, vừa vào cửa Phật mà đã tu học Đại thừa là không thể được, như thế làm sao có thể thành tựu. [Lược theo Ps. Tịnh Không giảng]
+ Tu đạo giác ngộ: Học Phật pháp, khi hiểu rồi, trên phương diện quan hệ giao tiếp, chúng ta phải hóa giải oán kết này. Hóa giải từ đâu? Hóa giải từ bản thân chúng ta, đừng yêu cầu đối phương, yêu cầu đối phương là sai, quan trọng là bản thân làm như pháp như lý. Lục Tổ Huệ Năng nói rất hay: Người tu đạo thật sự, không thấy lỗi lầm của thế gian, như vậy tâm mới thanh tịnh. Người thế gian có lỗi lầm nghiêm trọng đến đâu, đều không để trong lòng, vì sao vậy? Tuyệt đối không để nó làm ô nhiễm tâm thanh tịnh, không để nó phá hoại tâm cung kính. Chúng ta vẫn cung kính đối với họ, giống như đối với Phật Bồ Tát, giống như đối với cha mẹ vậy. Đây là thật, không phải giả, phải tôn trọng họ. Chịu một chút thiệt thòi, “thiệt thòi là phước”, cổ nhân nói như thế, là thật không phải giả. Vì sao có hiện tượng này? Đương nhiên vì có nhân quả, có thể trong đời quá khứ ta hưởng mất lợi ích của họ, bây giờ ta chịu thiệt vì họ hưởng mất lợi ích của mình. Đó là trả lại cho họ, cần phải hoan hỷ. Người khác mượn tiền mình, ví dụ tôi cho họ mượn tiền, cho họ mượn đồng nghĩa với cho họ, tuyệt đối đừng nghĩ sau này họ phải trả lại, như vậy là sai. Họ trả lại thì rất tốt, không trả ta cũng hoan hỷ, như không có gì xảy ra. Đây là giao tiếp giữa người với người, chỉ bố thí ân đức chứ không kết oán, tuyệt đối không có đối địch. Xã hội hòa thuận, quốc gia an định, thiên hạ thái bình, là đạo lý này tạo nên. Một chút thiệt thòi cũng không chịu, cũng không nhường người khác, điều này thật đáng ngại! Gia đình quý vị không thể thuận hòa, xã hội động loạn, thế giới nguy cơ trùng trùng, đều là nó gây ra.
Phật pháp dạy chúng ta làm như vậy, trong đó có đạo lý lớn. Nếu thấu triệt được đạo lý này, ít nhất phải mất hai ba mươi năm, đây là đại học vấn!. Nếu thật sự rõ ràng minh bạch, tự nhiên ta sẽ thực hành và làm được điều đó, như vậy đời sống của ta sẽ vô cùng an vui. Phải làm được mới có thể giúp người khác, mới có thể dạy bảo người khác, người ta mới tin tưởng. Thân thể mạnh khỏe, ta không bị sanh bệnh. (Nguồn: PS Tinh Không giảng Tịnh Độ .... Tập 45)
+ Tu hành: ...là dựa theo tiêu chuẩn Đức Phật dạy, chúng ta phải sửa đổi cách nghĩ, cách nhìn sai lầm của mình trong cuộc sống hằng ngày thì gọi là tu hành. Nếu như hằng ngày chúng ta làm ra vẻ như người học Phật, nhưng trên thực tế thì lừa mình dối người, như thế nhất định có cảm ứng với ma, ma sẽ đến hộ trì cho bạn mà không phải là Phật. Dụng ý của ma đến hộ trì bạn để làm gì? Để chúng hủy diệt Phật pháp và gây chướng ngại cho Phật pháp...vậy nên, tu hành đúng như lý - Như pháp Phật dậy rất quan trọng, tránh lạc vào đường Ma, theo tà đạo biết bao kiếp mới thoát ra được ...
Tu hành là tùy thuận chúng sinh (Cha mẹ ...) chứ không phan duyên (Không yêu cầu, mong cầu ... , chỉ khuyến khích người khác tu, còn thành tựu thì tùy duyên, vì mỗi người mỗi nghiệp). (Nguồn: Ba phúc - PS Tịnh Không giảng)
+ Tu Hành: Là Pháp tu TRUNG ĐẠO - Là con đường Chánh đạo mà chính Đức Phật đã dậy, áp dụng cho mọi Pháp tu (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Q1)
* Là con đường như Lưỡi dao cạo thật khó đi. Quí vị phải cân bằng giữa Học Giáo lý Kinh Văn Phật pháp và tu tập thật hành hàng ngày để làm người Quân tử. Nên nghiêm trì giới luật, thực hành Thập thiện nghiệp đạo và Bát Chánh đạo. Thực hành Tham thiền tu Định lực hàng ngày để phát triển trí huệ, như thế mới có thể tránh rơi vào Tà đạo/ Ngoại đạo mà trở lên rời xa Chánh đạo, sẽ mãi vẫn ở trong vòng Luân hồi khổ đau, rất đáng sợ. Có câu "Thân người khó được - Phật Pháp khó nghe". Quí vị cần học hiểu để biết rằng ngàn vàng chẳng mua được trí tuệ chân thật, chỉ có tu hành mới mong thành tựu. (Lời NTH)
* Tu Hành - Ngài A Nan nói về việc Tu hành sai của mình: ... Ngày nay mới biết, tuy được nghe phật pháp nhiều, nếu chẳng tu hành thì cũng như chưa nghe. Như người chỉ nói đến thức ăn, rốt cục chẳng được no bụng. Có câu "Ai ăn người ấy no, nếu bạn chỉ nhìn thức ăn thì không biết mùi vị và không thể no được", cũng chẳng khác việc hàng ngày quí vị chỉ lo đếm tiền cho người khác vậy.
Vạn vật đồng nhất thể, hiểu là trong nghe giảng Kinh và tu tập, quí vị nên nhất tâm hòa làm một với người giảng hay vị Thầy Chánh đạo mình hướng tới, ví như đọc Chú Đại Bi thì Tâm làm một với Bồ Tát Quan Thế Âm - Gọi là tu Hóa thân Bồ Tát Quan Thế Âm, như vậy mới đúng Pháp và thu được nhiều thành tựu nhanh chóng (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q1- Phần Kinh văn)
+ Tu Hành: Người học Phật có hai hạng nhất định có thành tựu:
a) Một là người thông minh phi thường, nhà Phật thường gọi là “thượng căn lợi trí”. Hạng người này vừa nghe Phật pháp, giác ngộ ngay lập tức. Sau đó bèn chân chánh y giáo phụng hành, hạng người như vậy nhất định có thể thành tựu.
b) Hai là “thiện căn sâu dày”. Hạng người đối với những lời giáo huấn của Phật, Bồ Tát bèn nỗ lực vâng làm, họ chẳng cần biết đến lý luận, cứ dựa theo lời chỉ dạy của Phật mà làm theo. Hạng người chân thật như thế có thể thành tựu.(Nguồn: Tu Thanh Tịnh Tâm)
+ Tu Hành: Là phải đối diện với sự khó khăn, gian khó, khổ hạnh, thiệt thòi...., nhưng tương lai khi thành tựu thì hạnh phúc, huy hoàng, an lạc tự tại ... ngoài sức tưởng tượng. Còn nếu Tu hành để tìm sự an toàn thì là bản năng của Bản ngã, dậm chân tại chỗ, khó mà tiến hóa được, không phải là thật tu hành giải thoát khổ đau, luân hồi sinh tử. (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng Tu Hành Trụ)
+ Người ngu tối - Căn tánh chậm chạp - Trí tuệ chưa phát triển nên Tu tín nguyện và giữ giới: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặc chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
+ Mười phương pháp tu hành: Đây là mười phương pháp dạy trong kinh Hoa Nghiêm, nơi phần Trị Địa Trụ ở phẩm Thập Trụ. Thật sự ra phương pháp này không hạn cuộc nơi chư Tăng Ni, mà dành cho mọi người tu Bồ tát hạnh, tại gia và xuất gia. gồm:
1. Tụng tập đa văn
2. Hư nhàn tịch tịnh
3. Cận thiện tri thức
4. Pháp ngôn hòa duyệt
5. Ngữ tất tri thời
6. Tâm vô khiếp bố
7. Liễu đạt ư nghĩa
8. Như pháp tu hành
9. Viễn ly ngu mê
10. An trụ bất động
Mời xem bài giảng nguồn về mười phương pháp tu hành (Nguồn: Hòa thượng Tuyên Hóa giảng)
+ Học và hành: .... Đức Phật bảo, thế nên A-nan, tuy ông trải qua nhiều kiếp ghi nhớ những pháp bí mật diệu nghiêm của Như Lai (Ngài A Nan đa văn bậc nhất), cũng chẳng bằng một ngày tu pháp vô lậu, xa lìa hai cái khổ yêu ghét ở thế gian. Giảng:
Cũng chẳng hay bằng tu tập pháp môn không phiền não, không vọng tưởng. Đến quả vị thứ tư của hàng A-la-hán mới được gọi là vô lậu. Bồ-tát cũng có quả vị vô lậu. Để được quả vô lậu, quý vị phải dứt trừ sạch mọi tập khí sai lầm, mọi vô minh vọng tưởng, tham lam sân hận si mê. Đức Phật dạy pháp tu vô lậu là để xa lìa hai cái khổ yêu ghét ở thế gian. Con người tưởng rằng yêu là điều kỳ diệu nhất ở thế gian, thế nên có tình yêu giữa trai gái, tình yêu giữa cha con. Nhưng thực ra yêu là khổ. “Tôi biết, dĩ nhiên, xa lìa những gì mình yêu là khổ.” Quý vị nói. Nhưng dù quý vị không xa lìa nó, cũng vẫn khổ như thường.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Tu Hành - Phật dậy: "Tu 1 ngày 1 đêm ở cõi ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả 100 năm. Tại sao vậy? Cõi nước của đức phật đó đều hành thiện tích đức, không có một chút ác. Tu thiện ở ta bà 10 ngày đêm hơn làm lành 1000 năm ở các cõi phật khác. Vì cõi nước phật, không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là khổ độc chưa từng ngừng nghỉ" (Kinh Vô Lượng Thọ phẩm 37)
+ Cõi Vật Chất: Tập hợp các cõi vật chất, tức là cõi hồng trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí (lower mental plane); (GLTNVT, 104)
+ Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ Lưới dĩ thái (Etheric web):
- Theo nghĩa đen, lưới dĩ thái là mạng lưới tinh anh với các tuyến lửa trải rộng qua trung tâm và tạo thành một diện tích có kích thước khá rộng. Nó tách biệt 2 thể cảm dục và thể xác. (LVLCK, 944)
- Các lưới dĩ thái thực ra là dĩa (disks), đang quay tròn với các tốc độ riêng biệt, khác nhau tùy theo loại trung tâm lực và tùy theo mức độ tiến hóa của hệ thống trung tâm lực liên hệ. Chỉ khi nào các lưới này bị thiêu rụi bởi các luồng hỏa đi lên và đi xuống, người ta mới thật sự thấy đúng được các trung tâm lực. Nhiều người có nhãn thông lầm lẫn các trung tâm lực và các đối phần bảo vệ của chúng, vì các đối phần này (counterpart) có độ tỏa chiếu và ánh sáng riêng của chúng. (LVHLT, 592)
- Tấm màn ngăn cách cõi cảm dục khỏi cõi trần. (TLHNM I, 102)
+ Sinh lực (vital forces):
- Sinh lực (life force, prana, vitality) tức là từ lực (magnetism). (TVTTHL, 245)
- Sinh lực thuộc nhiều loại, đều chỉ là chất dĩ thái của không gian, chuyển động thường xuyên, đi qua lớp vỏ bên ngoài (outer sheath). (LVHLT, 289)
+ Từ lực là hiệu quả của cung thiêng liêng (Cung Bác ái ) khi biểu lộ, với cùng ý nghĩa rằng Điện năng là hiệu quả biểu lộ của cung nguyên thuỷ (Hoạt động sáng suốt) của Thông tuệ linh hoạt. Nên suy ngẫm kỹ về điều này vì nó nắm giữ một bí nhiệm (LVLCK, 59)
- Huyền thuật và từ lực (magnetism) là các thuật ngữ đồng nghĩa. Isis Unveiled I, 279.
+ Năng lượng sinh lực hay sinh khí (Pranic energy or vitality): Đây là sinh lực (vital force) có sẵn trong chính vật chất và mọi hình hài đều chìm ngập trong đó, vì chúng tạo thành các phần tử hoạt động của hình hài lớn hơn. Mọi hình hài đều đáp ứng với năng lượng này. Loại năng lượng này xuất phát từ mặt trời hồng trần và tác động tích cực lên các thể sinh lực của mọi hình hài trong cõi thiên nhiên (natural world), kể cả hình hài vật chất (physical form) của chính nhân loại. Theo thuật ngữ của Minh triết Vô Thủy (Ageless Wisdom), cả ba năng lượng này được gọi là lửa điện, lửa thái dương và lửa do ma sát. (LVHLT, 526)
+ Sinh lực: Theo y học Trung Hoa, sinh lực là năng lượng hay lực sinh sống được vận chuyển qua toàn thân thể; sức lực hệ trọng này lưu hành trong toàn thể vũ trụ.(Định nghĩa sinh lực - thuvienhoasen)
+ Phân hóa Vật chất: Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ Định nghĩa Akasha: Tinh tú quang - Akasha (Vật chất nguyên thuỷ) hay Linh hồn vũ trụ; cái Khuôn của vũ trụ; Bí Nhiệm Huyền Linh từ đó mọi vật vốn hiện tồn được sinh ra do sự phân ly hay biến phân. (LVLCK, 58) (Xem phân biệt: Tinh tú quang và Cảm dục quang)
+ Akasha - 8 danh xưng khác:
1) Vật chất nguyên thuỷ ....Tinh tú quang
2) Dĩ thái nguyên thuỷ ..... Biển lửa
3) TT N.Thuỷ mang điện ... Điện năng
4) Akasha .................... Prakriti
5) Siêu tinh quang .......... Vật chất Nguyên Tử
6) Hoả xà ...................... Tà xà
7) Mulaprakriti ..... Dĩ thái với 4 tiểu phân: là Phong, hoả, thuỷ, địa
8) Vật chất tiền căn nguyên (LVLCK, 58)
+ Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ Đại: Phong, Hỏa, Thủy, Địa. (LVLCK, 43)
+ Chất liệu nguyên thủy: Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí, là Chất liệu Vũ trụ tức Vật chất. Vật chất, tức là Đầu và Cuối của hiện tồn, chỉ là 2 phương diện của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất. (GLBN II, 39)
+ Tiên thiên khí (Akasha, có 8 danh xưng) (LVLCK, 43):
- Là tổng hợp của dĩ thái (ether).
- Là Nguyên thể (tính chất) của dĩ thái.
- Là dĩ thái nguyên thủy.
- Là Thượng Đế Ngôi 3 đang biểu hiện.
+ Với Nội Tại - Cung nguyên thủy biểu lộ ra Lửa hoạt nhiệt. Trên cõi cao nhất, sự phối hợp của 3 yếu tố (hoạt nhiệt, tiềm nhiệt và chất liệu nguyên thuỷ mà chúng làm cho linh động) được biết dưới dạng thức ‘biển lửa’, trong đó Tiên thiên khí (akasha - có 8 danh xưng) là biến phân thứ nhất của vật chất tiền căn nguyên. (LVLCK, 57)
+ Dĩ Thái: Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Tiên Thiên Khí (Akasha). (GLBN I, 78)
+ DĨ THÁI KHÔNG GIAN - NƯỚC CỦA KHÔNG GIAN - Ether. Chúng ta đã tạo ra một thuật ngữ mà chúng ta gọi là dĩ thái (ether). Nói theo huyền linh học, đây là cách hiện đại để diễn đạt “nước của không gian” (“waters of space”), vốn là khối nước của ham muốn (waters of desire), mà chúng ta bị chìm ngập trong đó. Nó lên xuống liên tục và là luồng sự sống, được tạo thành với 49 loại năng lượng, đang tuôn đổ qua hoa sen chân ngã vũ trụ, và (tỏa ra từ nó) cung cấp theo mức độ của nó để nuôi dưỡng hình tướng – thuộc thái dương, thuộc hành tinh, hoặc thuộc con người − mà nó chịu trách nhiệm. Điều này được bàn đến trong bộ sách “Luận Về Lửa Càn Khôn”. (LVHLT, 275)
+ Dĩ thái: Trong và qua Dĩ thái của không gian, các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Thể dĩ thái của hành tinh, thái dương hệ và 7 thái dương hệ (Có thái dương hệ chúng ta)... cung cấp môi trường truyền chuyển cho tất cả các năng lượng đang tác động trên và qua thái dương hệ .... Nó chuyển động liên miên không dứt- một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng.
* Dĩ thái không gian, Dĩ thái hành tinh, Dĩ thái trong con người ........ mời xem tại (CTHNM, 16)
+ Chất dĩ thái sẽ hoàn toàn thấy được đối với nhiều người vào cuối thế kỷ (XX-ND) này (LVHLT, 374)
+ Có 4 loại chất dĩ thái của các cõi phụ của Cõi trần (Cõi Hồng Trần Vũ Trụ Biểu Lộ này là 01 biến phân của Cõi Bảy - Cõi Hồng Trần Vũ Trụ, là Cõi thấp nhất của Bảy Cõi Vũ Trụ Hệ thống/ Gốc) (LVLCK, 320, 326):
a. Cõi phụ 1 - Cõi trần (cõi phụ cao nhất) chứa chất dĩ thái thứ 1.
b. Cõi phụ 2 - Cõi trần, chất dĩ thái 2, ánh sáng cõi trần sử dụng làm phương tiện truyền đi.
c. Âm thanh tác động qua Cõi phụ 3 - Chất dĩ thái 3.
d. Màu sắc có liên kết với Cõi phụ 4 - Chất dĩ thái 4. (Dĩ thái 4 là chất mà nhờ đó, đa số thể dĩ thái của con người được tạo thành)
+ Dĩ thái lực tức là sinh lực. (TLHNM II, 309)
+ Huyền linh học nhìn nhận có 7 Bản Tố Vũ Trụ, 4 hoàn toàn thuộc về vật chất, bản tố thứ 5, Dĩ Thái, bán vật chất, sẽ trở nên thấy được trong không khí vào cuối Cuộc Tuần Hoàn thứ 4. (GLBN I, 78)
+ Khoa học khám phá Dĩ thái: Còn Vật lý học với các khám phá về quark đã bước vào cõi phụ dĩ thái (etheric) của cõi trần. Trong tương lai, nếu khoa học có thể khám phá ra cách làm việc với các cõi phụ dĩ thái theo cách như hiện nay đang làm việc với thế giới vật lý (ba cõi phụ 5,6,7) thì có lẽ đó là một trong những tiến bộ vĩ đại nhất.
+ Dĩ thái/ Akasha là Prdhna dưới một dạng khác. (GLBN I, 300)
+ Dĩ thái: Là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) trên cõi sự sống Chân Thần, cõi Đại Niết Bàn.
+ Dĩ thái/ Akasha là dĩ thái vũ trụ thứ 2 ở cõi Chân Thần (Cõi Đại Niết Bàn). (LVLCK, 626)
* Xem thêm: Dĩ thái - Tiên thiên khí - Akasha. nhantrachoc
* Xem thêm: Điểm 6 - Quy Luật 5 - CT Con Người 13- Thể Hồng Trần- minhtrietmoi.org
+ Bản năng: Đó là lãnh vực của mặt trăng trong Chiêm tinh học. (Chân Sư DK: Phản ứng theo bản năng, nghĩa là không suy nghĩ, không giám sát hoặc kiểm soát, hoàn toàn tự động_Theo Tooltip "Phản ứng theo bản năng")
+ Bản năng nằm dưới trình độ của ý thức, nhưng bảo tồn và chi phối đa số các thói quen và sự sống của cơ thể. Nhiều lối sống theo tình cảm bị chi phối như thế. Bản năng kềm chế xuyên qua bí huyệt nhật tùng (solar plexus) và các bí huyệt thấp. (TLHNM–II, 232)
+ Bản năng tức là các kinh nghiệm được tích lũy lại do di truyền trong các hình hài mới (new forms). (MTNX, 211)
+ Năm bản năng chính vượt chội theo Tâm Lý Học
1. Bản năng tự bảo toàn (instinct of self – preservation) có nguồn gốc của nó trong nỗi sợ hãi bẩm sinh về cái chết; do có sự sợ hãi này mà nhân loại đã chiến đấu theo cách của nó đến mức hiện tại của nó về tuổi thọ và sức chịu đựng. Các ngành khoa học bận tâm đến việc bảo toàn sự sống, kiến thức y học hiện đại, và những thành tựu của sự tiện nghi văn minh, tất cả đã phát triển từ nỗi sợ hãi cơ bản này. Tất cả đã hướng tới sự tiếp tục tồn tại của cá nhân, và hướng đến điều kiện duy trì sự tồn tại (being) của y. Nhân loại tiếp tục tồn tại, với tư cách một giống loài và một giới trong thiên nhiên, là một kết quả của xu hướng sợ hãi này, phản ứng có tính bản năng này của đơn vị nhân loại đưa đến sự tự tồn mãi mãi (selfperpetuation).
2. Bản năng giới tính (instinct of sex), có gốc rễ chính của nó trong sự sợ hãi về sự tách biệt và sự cô lập, và trong một sự nổi dậy chống lại tính đơn nhất chia rẽ trên cõi trần, chống lại sự cô độc (aloneness); và nó đã dẫn đến việc tiến tới trước của nhân loại và sự tiếp tục tồn tại và sự nhân giống của các hình hài mà nhờ đó nhân loại có thể đi vào sự biểu lộ.
3. Bản năng sống bầy đàn (herd instinct) có thể dễ dàng được thấy là có gốc rễ của nó trong một phản ứng tương tự; vì cảm giác an toàn và vì sự an ninh được bảo đảm và được tin chắc – dựa trên những tập hợp về số lượng – con người đã luôn luôn tìm đến loại riêng của họ và sống thành bầy nhóm với nhau để phòng vệ, và để ổn định kinh tế. Nền văn minh hiện đại của chúng ta là kết quả từ phản ứng do bản năng này của nhân loại nói chung; các trung tâm rộng lớn của nó, các thành phố khổng lồ và các khu chung cư tập trung của nó đã xuất hiện, và chúng ta có việc sống theo bầy đàn hiện đại, được đưa đến bậc thứ n (nth degree).
4. Bản năng lớn thứ tư, là bản năng tự khẳng định (selfassertion), cũng dựa trên sự sợ hãi; nó bao hàm sự sợ hãi của cá nhân rằng y sẽ không nhận thức được và như thế mất đi nhiều thứ mà nếu không thì sẽ thuộc về y. Theo thời gian qua, sự ích kỷ của nhân loại đã phát triển như thế đó; ý thức về tính hám lợi của nhân loại đã phát triển và năng lực nắm lấy cơ hội đã xuất hiện (“ý muốn quyền lực” dưới hình thức này hoặc hình thức khác), đến ngày hôm nay chúng ta có chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ, và ý thức tích cực về tầm quan trọng vốn đã tạo ra nhiều sự rắc rối về kinh tế và quốc gia thời hiện đại. Chúng ta đã vun trồng tính tự quyết, tính tự khẳng định và tính tư lợi, cho đến khi chúng ta bị gặp phải một khó khăn hầu như không thể vượt qua. Nhưng ngoài mọi điều đó, nhiều điều tốt lành đã đến và sẽ đến, vì không có cá nhân nào có giá trị cho đến khi y nhận thức giá trị đó cho chính y, và lúc bấy giờ, một cách dứt khoát, y hy sinh các giá trị đã hoạch đắc cho lợi ích của tổng thể.
5. Đến lượt bản năng tìm hiểu (instinct to enquire) được dựa trên sự sợ hãi cái không biết, nhưng ngoài sự lo sợ này, đã xuất hiện – như là kết quả của cuộc tìm hiểu lâu đời – những hệ thống giáo dục và văn hóa và toàn bộ cấu trúc về nghiên cứu khoa học của chúng ta hiện nay.
Những xu hướng, dựa trên sự sợ hãi (vì con người vốn thiêng liêng) đã tác động như một sự kích thích phi thường của toàn bộ bản chất của con người, và đã đưa y tiến tới đến trình độ hiểu biết và hữu dụng rộng rãi hiện tại của y, chúng đã tạo ra nền văn minh hiện đại của chúng ta với mọi khuyết điểm của nó, và tuy thế, với mọi thiên tính được biểu thị của nó. Từ những bản năng này được đưa tới vô cùng tận, và từ tiến trình chuyển hóa của chúng thành các tương ứng cao hơn của chúng, Sự nở hoa trọn vẹn của sự biểu lộ của linh hồn sẽ xuất hiện. Tôi muốn nêu ra những điều sau đây:
- Bản năng tự bảo toàn tìm được tuyệt đỉnh của nó trong tính chất bất tử chắc chắn, và về việc này, công việc mà các nhà duy linh (spiritualists) và các nhà sưu khảo tâm linh đảm trách theo các thời đại là phương pháp tiếp cận và sự đảm bảo chắc chắn.
- Bản năng phái tính đã thể hiện và tìm thấy tuyệt đỉnh hợp lý của nó trong mối quan hệ − được nhận thức một cách hữu thức – của linh hồn và thể xác. Đây là ý chủ đạo (keynote) của chủ nghĩa thần bí và tôn giáo, mà ngày nay, cũng như luôn luôn, là sự biểu lộ của Luật Thu Hút (Law of Attraction), không phải khi nó tự thể hiện qua hôn nhân ở cõi trần, mà khi nó tìm thấy tuyệt đỉnh của nó (đối với con người) trong cuộc hôn nhân siêu phàm được tiến hành với mục đích hữu thức giữa linh hồn dương với sắc tướng âm và có tính tiếp thu.
- Bản năng sống bầy đàn tìm thấy tuyệt đỉnh thiêng liêng của nó trong một ý thức tập thể được khơi hoạt, ngày nay điều đó được chứng tỏ trong xu hướng chung hướng tới những sự pha trộn (amalgamations), và sự dung hợp và trộn lẫn rộng rãi vốn đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Nó thể hiện trong khả năng suy tư dưới dạng chủ nghĩa quốc tế, các quan niệm phổ biến, mà cuối cùng sẽ dẫn đến việc thiết lập tình huynh đệ đại đồng.
- Bản năng tự khẳng định, đến lượt nó, đã cung cấp cho nền văn minh hiện đại của chúng ta chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ của nó, sự sùng bái thần tượng, và tạo ra sự thờ cúng tổ tiên và tôn sùng anh hùng. Tuy thế, nó đang dẫn tới sự khẳng định về Bản Ngã (Self), về Chủ Thể Cai Trị thiêng liêng ở nội tâm, và từ khoa tâm lý học mới mẻ nhất của chúng ta, sẽ xuất hiện một kiến thức về Chân Ngã (spiritual Self) tự tin và chi phối, và cuối cùng dẫn đến sự biểu lộ của giới linh hồn trên trần thế.
Và điều gì về bản năng cần tìm hiểu? Được chuyển hóa thành sự nghiên cứu thiêng liêng và được biến đổi bởi việc áp dụng ánh sáng linh hồn trong lĩnh vực điều nghiên, chúng ta sẽ có nhân loại được tiến vào Phòng Minh Triết, và như thế con người sẽ bỏ lại sau những kinh nghiệm của Phòng Kiến Thức. Các trung tâm giáo dục lớn của chúng ta sẽ trở thành các trường học cho sự phát triển nhận thức trực giác và hiểu biết tâm linh. (LVHLT, 629)
+ Phẩm tính bẩm sinh quyết định đời sống: Trong thái [186] dương hệ này, tất cả đều vận hành theo đại luật hấp dẫn, thế nên, rất có thể sự chọn lựa của chúng ta tùy theo mức độ rung động, màu sắc và âm điệu của chúng ta. Ý chí tự do vĩ đại hơn của hệ vũ trụ cũng có giới hạn, giống như ý chí tự do của hệ thái dương mà chúng ta là một thành phần, và ý chí tự do của chính con người. Chiều hướng bước tiến tương lai của chúng ta sẽ tùy theo phẩm tính bẩm sinh...... (Điểm đạo trong nhân loại ... Chương XVI)
+ Tâm thức bản năng - Năng lượng Nguyên mệnh nghiệp báo: Nên nhớ rằng các mãnh lực nội môn (Tinh thần) kết hợp với các mãnh lực của các hành tinh ngoại môn (Chủ về tham dục) hay chính thống và rằng chúng không vô hiệu hóa ảnh hưởng của các hành tinh ngoại môn này. Các mãnh lực nội môn chỉ bổ sung và chi phối mãnh lực của các hành tinh ngoại môn. Do đó con người được phong phú hơn, kinh nghiệm của họ được mở rộng, tâm thức nâng cao nhờ các năng lượng mới. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, những tác động và sự định hình đã đạt được dưới các ảnh hưởng xưa cũ từ trước tới nay đều không bị biến đổi. Mãnh lực của các hành tinh ngoại môn đã “xác định” (“determined”) bản chất con người và cố định các phẩm chất của họ, do đó, vẫn tiếp tục tồn tại một cách mạnh mẽ và bền bỉ. Nhưng những ảnh hưởng và năng lực mới, sâu xa hơn, sẽ là những yếu tố trong tương lai, trên Thập Giá Cố định, dần dần chi phối cũng như thúc đẩy một cách đều đặn tất cả các hoạt động của con người... " [EA139]
+ Phản ứng theo bản năng:
Tôi (Chân Sư DK) không có ý định chỉ bàn riêng đến các ảo cảm đặc thù, mà chỉ muốn trao cho bạn một công thức mà - với một ít thay đổi và bổ sung - có thể giúp cho cá nhân và nhóm trong nhiệm vụ xóa tan ảo cảm.
1. Chân sư DK nói rằng Ngài không có ý định đề cập đặc biệt tới các ảo cảm cụ thể, vì Ngài đã liệt kê chúng ở trang 122, 123 của quyển sách Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới. Ngài chỉ cung cấp cho bạn một công thức mà với những thay đổi và bổ sung nhỏ có thể phục vụ cá nhân và nhóm trong nhiệm vụ xóa bỏ ảo cảm. Chân sư DK luôn luôn thực tế, và dù tầm vóc tư tưởng của Ngài thật vĩ đại, Ngài là một thành viên thực tế của Thánh Đoàn, cho chúng ta những phương pháp thực sự hữu ích.
Tôi muốn bắt đầu bằng cách nói rằng nhu cầu đầu tiên đối với con người là hiểu được rằng các phản ứng,
2. Thầy HT: Các bạn lưu ý từ “phản ứng”, từ đầu tiên trong nhóm từ các phản ứng, các ý tưởng, các ham muốn và kinh nghiệm, và khi bạn tìm thấy ở mình một phản ứng tự phát nào đó vượt lên trước khả năng của chính bạn để theo dõi phản ứng, bạn có thể nghi ngờ rằng có một ảo cảm nào đó đang rình rập.
+ Thầy HT: Các ý tưởng,
3. Chân Sư: Từ ý tưởng ở đây được dùng theo ý nghĩ thông thường, không phải các nguyên hình trên các cõi cao.
Thầy HT: Các ham muốn và kinh nghiệm trong đời sống của con người, về phương diện bản chất cảm xúc, bị chi phối bởi một hay nhiều ảo cảm, rằng y là nạn nhân của nhiều ảo cảm, đã nảy sinh qua nhiều kiếp sống, bám rễ sâu vào lịch sử quá khứ của y mà y phản ứng lại theo bản năng.
4. Chân Sư: Y phản ứng lại theo bản năng vì các ảo cảm đã bám rễ trong chúng ta từ rất lâu, có thể hàng triệu năm.
5. Chân Sư: Phản ứng theo bản năng, nghĩa là không suy nghĩ, không giám sát hoặc kiểm soát, hoàn toàn tự động - đó là lãnh vực của mặt trăng. Trong chiêm tinh học, Mặt trăng liên quan đến cái trong bạn được gọi là tiềm thức hoặc bản chất thứ hai. Do đó, bạn gần như có thể nhìn vào vị trí của mặt trăng, nhà của nó, dấu hiệu của nó, các góc hợp, v.v. để thấy các xu hướng đó, bởi vì ngoài các Cung, các dấu hiệu của hoàng đạo đều mang theo các ảo cảm đặc biệt của chúng, và sẽ là điều tốt để chúng ta có một ý tưởng về cách thức các năng lượng chiêm tinh không được quản lý có thể đóng góp phần vào tình trạng ảo cảm của chúng ta.
6. Chân Sư: Vì vậy, chúng ta phải nhận thực được, dù chúng ta có thể không nghĩ về điều này, rằng thực sự là chúng ta bị kiểm soát bởi một hoặc nhiều ảo cảm.
7. Chân sư DK là bậc thầy trong việc đặt tên, mô tả, xác định chính xác các ảo cảm mà đệ tử của Ngài đang chịu, ngay cả khi các ảo cảm đó không nằm trong số những ảo cảm thông thường hoặc được liệt kê .
8. Chân Sư: Ngài nói, tất cả những ảo cảm này có một lịch sử rất cổ xưa, và tiềm thức—nơi ẩn chứa lịch sử quá khứ đó—có thể trở lại sôi sục, và khi chúng ta chinh phục được ảo cảm, chúng ta đang cứu chuộc quá khứ và tiết lộ sự thật mà các khuynh hướng bản năng đã che giấu. [Thầy Hiệu trưởng giảng giải trang 207-209 của quyển Ảo Cảm Một Vấn đề Thế Giới.- Thầy Kiệt dịch]
+ Nguyên nhân của bạo loạn, cách mạng và chiến tranh: TRANH GIÀNH QUYỀN LỢI
Bản năng sinh tồn đưa đến tranh dành quyền lợi. Tranh dành quyền lợi đưa đến hận thù, giận dữ và mất mát. Hận thù, giận dữ và mất mát sẽ đưa đến bạo loạn, cách mạng và chiến tranh. Chuỗi dài lôi kéo đó không biến cải được tâm thức con người mà chỉ đưa đến khổ đau chồng chất mà thôi. Hạt mầm của bản năng sinh tồn vẩn còn nguyên bên trong tâm thức, nó nẩy mầm, bắt rễ, ăn sâu vào tâm thức và cả trên da thịt mình. Tranh dành quyền lợi, nổi loạn, chiến tranh, cách mạng chỉ là hậu quả bùng ra bên ngoài. Đức Phật diệt ngay hạt mầm đó của bản năng sinh tồn một cách thật đơn giản: một chiếc bình bát trên tay [Nguồn: Đại Lai Lạt Ma]
+ Dụng tâm: .... Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Có một pháp Đà la ni tên là Kim Cang tâm hay khiến chúng sanh một phen thấy, một phen nghe liền đặng đạo quả. Này gã trai lành! Thế nào gọi là Kim Cang tâm? Tâm này người người vẫn có không kẻ nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh này tự biết lấy, tự hiểu lấy. Vì sao?
Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ. Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm. Tại sao vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học, đức do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm ra, họa do tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành Phật, tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm ác là người của La Sát, nên cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm mình, làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật.
Phật nói: Người này không bao lâu sẽ được thành Phật; nếu có người trai lành, gái tín muốn cầu Phật đạo, mà không rõ được tâm của mình thì không thể thành Phật. Nếu có người người rõ được tâm, thấy được tánh, y theo Phật dạy tu hành, quyết định thành Phật, còn hơn công đức tụng ba mươi muôn biến kinh Kim Cang cũng không sánh kịp. ......
.... Nếu có người minh tâm kiến tánh thường nghe tâm Phật của mình, thường thường nói pháp, thường thường độ chúng sanh, thường thường hiện thần thông, thường thường làm việc Phật, hiểu được lý như vậy mới gọi là thọ trì Kinh Kim Cang, mới gọi là Kim cang bất hoại thân. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Dụng tâm: Vì sao không tương ưng với đạo?
“Chúng sanh sở dĩ không đắc được Ðạo chơn thật là vì có vọng tâm giả dối. Khi đã có tâm giả dối thì sẽ kinh động tới thần. Khi thần bị kinh động thì mình sẽ chấp trước vào vạn vật. Khi chấp trước vào vạn vật thì mình sanh ra tham cầu. Khi đã tham cầu thì sẽ sanh phiền não. Phiền não vọng tưởng thì thân tâm khổ đau. Do đó mình mới rớt vào chỗ ô trược, lưu lạc trong sanh tử, trầm luân nơi khổ hải và vĩnh viễn mất đi đạo chân thường. Ðạo chân thường, kẻ ngộ tự mình chứng đắc. Ðắc ngộ Ðạo rồi thì luôn thường thanh tịnh."
Vì sao bất luận mình dụng công thế nào cũng không _tương ưng với Ðạo được, cũng không thể tiến tới được. Ðó là vì nguyên nhân nào vậy? Chỉ vì mình còn có tâm hư vọng, hư ngụy không chân thật. Mình còn thích điều xa xôi vời vợi, cầu danh tham lợi.
Ðó tức là những tâm hư vọng, có tâm hư vọng thì đối với tự tánh còn có sự giao động. Ví như một thùng nước, khi không khuấy động thì bao nhiêu cát bùn sẽ tự nó lắng xuống dưới đáy, mặt nước sẽ trở nên thanh tịnh. Nếu dùng một cây que mà quậy thì nước sẽ thành ô trược, cây que ấy ví như cái vọng tâm. Từ đó mình không phân biệt được cái nào giả và cái nào là thiệt, không phân biệt được thiện ác. Lúc ấy con mắt nhìn sự thật (Trạch pháp nhãn) sẽ không đủ mà trí huệ sẽ không hiện tiền. Khi nước ô trược không thanh tịnh thì mình sẽ chấp trước vào vạn vật, tâm thần rối loạn, tìm không ra con đường giải thoát. Vì sao vậy? Bởi vì mình chấp trước vào vạn vật thì sẽ sanh ra tâm tham cầu, cho vạn vật là chân thật. Khi sanh ra tâm tham lam cầu cạnh thì tự mình sanh phiền não. Mình tham cầu không được thì sanh phiền não, tham cầu mà được cũng sanh phiền não, bởi vì phiền não và vọng tưởng liên kết chặt chẽ với nhau. Do đó mình bị chìm ngập trong dòng nước ngũ dục của cõi ngũ trược ác thế này và không thể khôi phục lại được tánh thanh tịnh. Bởi thế cho nên sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh; sanh tử không ngừng và chẳng bao giờ chấm dứt. Lúc sanh ra mà chẳng biết vì sao được sanh, do đó hồ đồ mê muội. Khi chết đi, cũng không biết vì sao mà chết, lại cũng hồ đồ mê muội. Không những lúc sanh bị mê muội mà cho đến lúc chết cũng mơ hồ mê muội. Ngay như lúc sanh cũng là mê muội cả đời, không biết được chuyện gì cho rõ ràng.
Vì thế luân hồi sanh tử đánh mất chân tâm, chân tâm đã đánh mất rồi thì mình lặn ngụp trong biển khổ, không ngoi lên, không bơi ra được. Nếu hiểu được đạo lý này thì mình sẽ giác ngộ, không bị những cảnh giới hư vọng làm cho xoay chuyển, mà trí huệ lúc nào cũng hiện tiền. Khi có trí huệ thì không còn điên đảo.
Kinh Lăng Nghiêm nói rằng: "Cuồng tâm đốn hiết, hiết tức bồ đề," tâm điên cuồng hư ngụy chấm dứt thì sự chấm dứt ấy tức là giác ngộ. Vì sao không tương ưng với Ðạo? Là bởi vì tâm điên cuồng hư ngụy chưa ngừng nghỉ. Tâm điên cuồng này cũng chính là tâm không bằng lòng với hiện thực, cũng chính là tâm tham lam không đáy, cũng chính là lòng thương yêu ghen ghét. Nếu dứt được cái tâm này thì đó là trí huệ, cũng chính là giác ngộ, cũng chính là bản thể của Phật tánh. Song le con người ai cũng quên mất đạo lý này, do đó trở nên mê muội. Trong cảnh giới mê muội lại cho rằng sung sướng, khoái lạc, vui vẻ lắm, rồi chẳng tìm cách thoát khỏi biển khổ sanh tử của Tam Giới. [Khai thị Q.3 - HT Tuyên Hóa]
+ Xem bài viết về Dụng Tâm: Tất cả duy tâm tạo
+ Dụng tâm đúng: Đức Phật dạy "Tất cả do Tâm tưởng sanh". Hiểu câu này thế nào cho đúng?
Bậc Thánh hiền thường nói, Tâm thanh tịnh thì KHÔNG có phiền lão khổ đau, KHÔNG có nghiệp chướng, KHÔNG có oan gia đối đầu .... Đây là nói trong TÂM KHÔNG CÓ phiền lão, chẳng có oan gia nghiệp chướng chướng ngại, cho dù oan nghiệp VẪN THƯỜNG CÓ đầy dãy hàng ngày xuất hiện và chướng ngại mỗi người chúng ta, nhưng trong Tâm ta chẳng có, chẳng ứng sử như thể họ là oan gia nghiệp chướng, cũng chẳng lữu giữ dù chỉ một chút nào cả. Ta hiểu rằng, tất cả chỉ là đang diễn nói Pháp, các cảnh giới sinh diệt hiện ẩn mà thôi - KHÔNG PHẢI chúng trường tồn. Chân Tâm ta mới trường tồn vĩnh hẳng bất biến, trong Tâm chỉ có duy nhất Tình thương yêu muôn người, muôn loài. Chân Tâm/ Phật tánh ai ai cũng có, là Tâm bao la rộng lớn bao trùm khắp Hư không biến pháp giới mà thôi. Theo đó, mọi sự sảy đến chướng ngại Ta, Tâm Ta không xem họ là oan gia, không ứng sử như họ là oan gia thì chính là Chân Tâm thanh tịnh, nên nói rằng chẳng còn có oan nghiệp nữa vậy. (Theo Pháp sư Tịnh Không giảng)
+ III. Phẩm Khó Sử Dụng
1-10. Tâm Không Tu Tập, này các Tỷ-kheo, khó sử dụng.
2. Tâm có tu tập, này các Tỷ-kheo, dễ sử dụng.
3. Tâm không tu tập, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
4. Tâm được tu tập, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
5. Tâm không tu tập, không làm cho hiển lộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi.
6. Tâm được tu tập, được làm cho hiển lộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
7. Tâm không tu tập, không làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
8. Tâm được tu tập, được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
9. Tâm không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đem lại đau khổ.
10. Tâm được tu tập, được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đem lại an lạc.
IV. Phẩm Không Điều Phục
1-10 Tâm Không Điều Phục
1. Tâm không được diều phục, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
2. Tâm được điều phục, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
3. Tâm không được hộ trì, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
4. Tâm được hộ trì, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
5. Tâm không được phòng hộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
6. Tâm được phòng hộ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
7. Tâm không được bảo vệ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
8. Tâm được bảo vệ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
9. Tâm không được điều phục, không được hộ trì, không được phòng hộ, không được bảo vệ, này các Tỷ-kheo, đưa đến bất lợi lớn.
10. Tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ, này các Tỷ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
V. Phẩm Đặt Hướng và Trong Sáng
1-10 Tâm Đặt Sai Hướng v.v...
1. -Ví như ... sợi râu của lúa mì/ lúa mạch đặt sai hướng, khi bị tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân/ đổ máu; sự tình này không xảy ra - Vì sợi râu bị đặt sai hướng. Cũng vậy, với tâm bị đặt sai hướng, không thể đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn.
2. Ví như các sợi râu của lúa mì/ lúa mạch đặt đúng hướng - Tay chân đè vào sẽ bị đam thủng, đổ máu. Cũng vậy, với tâm được đặt đúng hướng, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn;
3. Khi tâm một người là uế nhiễm, Ta rõ biết: "Nếu trong thời gian này, người này mệnh chung, người ấy bị rơi vào địa ngục như vậy tương xứng"......
4. Khi tâm một người là thanh tịnh, Ta biết rõ: "Nếu trong thời gian này, người này mệnh chung, người ấy được sanh lên Thiên giới như vậy tương xứng"......
5. Ví như, một hồ nước uế nhớp, bị khuấy động, đục bùn, không thể thấy các con ốc, các con sò,.... cũng vậy, với tâm bị khuấy đục không biết được lợi ích của mình, lợi ích của người, hay cả hai....
6. Ví như, một hồ nước trong sáng, sáng suốt, không bị khuấy đục. Tại đấy có thể thấy các con ốc, các con sò, các hòn sạn ... Cũng vậy, với tâm không bị khuấy đục biết được lợi ích của mình, của người, hay cả hai......
7. Ví như, .... Tâm được tu tập, được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, là nhu nhuyến và dễ sử dụng.
8. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, lại vận chuyển nhẹ nhàng hơn tâm. Thật không dễ gì, này các Tỷ-kheo, dùng một ví dụ để diễn tả sự vận chuyển nhẹ nhàng của tâm.
9. Tâm này, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào.
10. Tâm này, là sáng chói và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào.
VI. Phẩm Búng Ngón Tay
1-10 Tâm Được Tu Tập
1. - Tâm này, là sáng chói. Và tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Kẻ phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm kẻ phàm phu ít nghe, không tu tập được.
2. Tâm này, là sáng chói. Và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm bậc Thánh đệ tử nghe nhiều có được tu tập.
3. Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, vị Tỷ-kheo phát từ tâm .....
4-5. Nếu chỉ trong khoảnh khắc búng móng tay, vị Tỷ-kheo tu tập từ tâm, tác ý từ tâm; ....
6. Phàm những pháp nào, là bất thiện, thuộc thành phần bất thiện, đứng về phía bất thiện, tất cả các pháp ấy đều được ý đi trước. Ý khởi trước các pháp ấy. Các pháp bất thiện theo sau.
7. Phàm những pháp nào, là thiện, thuộc thành phần thiện, đứng về phía thiện, tất cả các pháp ấy đều được ý đi trước. Ý khởi trước các pháp ấy. Các pháp thiện theo sau.
8. ... Với người phóng dật, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.
9. ... Với người không phóng dật, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận.
10. ...Với người biếng nhác, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.
VII. Phẩm Tinh Tấn
1-10 Tinh Cần Tinh Tấn
1.- ... Với người tinh cần tinh tấn, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh được đoạn tận.
2. ... Với người có dục lớn, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận.
3. .... Với người có ít dục, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận.
4. (Như số 2 ở trên, chỉ thế vào "không biết vừa đủ")...
5. (Như số 3 ở trên, chỉ thế vào "biết vừa đủ")...
6. (Như số 2 ở trên, chỉ thế vào "không như lý tác ý")...
7. (Như số 3 ở trên, chỉ thế vào "như lý tác ý")...
8. (Như số 2 ở trên, chỉ thế vào "không tỉnh giác")...
9. (Như số 3 ở trên, chỉ thế vào "tỉnh giác")...
10. ... Với người làm bạn với cái ác, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn tận. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương I - Một Pháp)
+ Thuật ngữ tương ứng: Pháp ngoại môn - Pháp Thế gian - Giáo lý thế gian - Pháp hữu vi - Pháp tương đối. Đối nghịch lại là Pháp nội môn - Pháp xuất thế gian - Giáo lý xuất thế gian - Pháp vô vi - Pháp tuyệt đối.
+ Đạo lý thế gian - Pháp thế gian - Pháp hữu vi (Bình diện chân lý tương đối - Căn bản chỉ xem xét sự sống trong một đời): ... "Mất chỗ nào thì tìm chỗ đó - rách chỗ nào thì vá chỗ đó". Người học Phật pháp cũng phải minh bạch đạo lý thế gian, nếu bạn minh bạch pháp thế gian thì cũng minh bạch Phật pháp. Nếu không hiểu đạo lý thế gian thì pháp xuất thế bạn cũng hồ đồ, cho nên "Phật pháp không dời thế gian pháp". Muốn duy trì thân thể kiện khang, phải tu tìm lại cái đã mất đi từ bao kiếp sống, xa lìa tà dâm .... để giảm thiểu bệnh nạn phát sinh. Hỏa dược phóng ra sự "Nóng giận, tham lam ... vô minh phiền lão." Chúng ta phải tiêu diệt Hỏa dược vô minh phiền lão để trí huệ quang vốn có sẵn hiện tiền tỏa sáng. Đó gọi là mất chỗ nào, tìm chỗ đó........ Chúng ta học Phật pháp, hiểu chút Phật pháp, thấy các pháp thế gian chẳng ra thể thống gì, nói pháp thế gian hoàn toàn sai lầm. Thật ra, Phật pháp không dời pháp thế gian, chẳng phải là buông xả pháp thế gian mà học Phật pháp, mà là trong pháp thế gian bạn thông đạt rồi, hiểu biết rồi thì sẽ minh bạch Phật pháp. Nếu không thông pháp thế gian, thì Phật pháp cũng không thể thông. Vì hiểu biết một là hiểu tất cả, chưa hiểu một thì chưa hiểu tất cả. Bạn chưa hiểu một sao có thể hiểu hết tất cả. TINH ĐỦ THÌ KHÔNG LẠNH - KHÍ ĐỦ THÌ KHÔNG ĐÓI - THẦN ĐỦ THÌ KHÔNG NGỦ. Có người nghe đến cho rằng là đạo giáo, Phật pháp không nói đến Tinh - Khí - Thần. Xuất gia thì phải tu TINH - KHÍ - THẦN = TAM BẢO, giống như Phật - Pháp - Tăng. Thần mà tu đến viễn mãn sung túc chính là Phật. Thần không đủ thì đến A La Hán cũng chẳng thành, nói chi đến Phật quả.
Thần đủ thì khí thế mạnh mẽ, như A La Hán, nhắm mắt ngủ nhưng không gì không thấy biết; Khí đủ thì không đói, khí đủ cũng là pháp, bạn có khí rồi thì có pháp, pháp là khí duy trì tại đó, pháp là khí biến hóa, bạn không có khí thì cũng không có pháp. Người chết rồi thì học Phật pháp gì nữa, có khẩu khí mới học được. Cho nên khí là mẫu thẻ của pháp. Không có khí thì không có pháp. Tinh đủ thì không lạnh - Dù đi ra trời lạnh đóng băng, khi vào nhà khí huyết lưu thông, hồi phục, đây là do tinh đầy đủ. Tinh không đủ không thể chịu rét. Khí không đủ, không ăn cơm không chịu được. Nếu Thần không đủ, ngủ không đủ thì không thể chịu được. Cho nên, thiếu nam, thiếu nữ thường nói "Tôi thèm ngủ quá", đây đều là do Thần không đủ. Không dưỡng tinh chứa nhuệ, đây là điều hết sức quan trọng. Bạn đừng nói Phật pháp không nói đến Tinh - Khí - Thần, vì đây căn bản là do không hiểu Phật pháp. Không có Tinh - Khí - Thần cũng không có Phật - Pháp - Tăng.......
Pháp hữu vi - Pháp thế gian: Hết thảy pháp hữu vi - Như mộng huyễn bọt bóng - Như sương cũng như điện - hãy quán chiếu như thế. Pháp hữu vi là hết thảy pháp có sở tác vi, có biểu hiện, có hình tướng, tức cũng là pháp thế gian. Pháp hữu vi thì vô thường - Pháp vô vi thì thường hằng không sinh không diệt, không bắt đầu không kết thúc, không hình không tướng, pháp không thể biểu hiện. Pháp vô vi có nhiều loại. Đây là nói vô vi mà vô bất vi, đại tạo đại hóa, thứ pháp vô vi này không rễ gì tu hành, cũng không rễ gì thấu hiểu. Phần đông con người đều chấp trước vào pháp hữu vi, cho nên từ sáng đến tôi đều tranh, tham, cầu, tự lợi.... (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr277; 335 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đức Phật dậy có 8 pháp thế gian làm tùy chuyển thế giới. Đó là:
- Lợi dưỡng và không lợi dưỡng
- Danh vọng và không danh vọng
- Tán thán và chỉ trích
- An lạc và đau khổ.
Những pháp này vô thường Không thường hằng, biến diệt. Biết chúng, giữ chánh niệm Bậc trí quán biến diệt Pháp khả ái, không động Không khả ái, không sân Các pháp thuận hay nghịch Được tiêu tan không còn. Sau khi biết con đường Không trần cấu, không sầu Chơn chánh biết sanh hữu Đi đến bờ bên kia.
- Ngài giảng rằng khi chúng ta gặp phải 1 trong 8 sự kiện ấy, chúng ta không nên bám theo các điều thuận lợi như: lợi dưỡng, danh vọng, tán thán, an lạc; và chúng ta cũng không nên sân hận với các điều bất thuận lợi như: không lợi dưỡng, không danh vọng, chỉ trích, đau khổ. (Nguồn: Tám Pháp Thế Gian)
+ Hý luận: Phật lại dạy rằng: "Chỉ học thuộc lòng và nhiều kiếp nhớ ghi Kinh Văn diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian..."... A Nan! Bồ-đề Niết bàn còn xa, nếu ông không siêng năng tu tập, dù ông có nhớ diệu nghĩa 12 bộ kinh của thập phương Như Lai cũng chỉ thêm nhiều hý luận. Dù ông có huân tập đa văn, ông cũng không tự hóa giải nạn Ma Đăng Già, dù nhiều kiếp nhớ ghi diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q3 - HT Tuyên Hóa)
+ Pháp thế gian: Đức Phật bảo: Tại sao gọi đó là xuất thế gian ư ?
Nầy Hư Không Tạng ! Ngũ thọ ấm gọi là thế gian. Bồ Tát khéo phân biệt ngũ ấm, quán nó vô thường nhẫn đến như tánh Niết bàn rồi, biết trong Đạo ấy không có thế gian và pháp thế gian, biết Đạo ấy là vô lậu là xuất thế gian không có buộc dính. Đây gọi là xuất thế gian. Đây gọi là Bồ Tát Đạo vậy. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ Pháp thế gian - Khoa học kinh nghiệm: Người thông minh có lỗi thì liền sửa đổi. Kẻ ngu si có lỗi nhưng không chịu sửa. Pháp Thế Gian giống như một tấm lưới khổng lồ trói chặt hết thảy mọi người
- kẻ tham danh thì bị lưới danh vọng trói buộc,
- người tham tiền thì bị lưới tiền tài cột cứng,
- những ai mê sắc thì bị lưới sắc dục bủa vây.
Nói tóm lại là người đời bị Ngũ Dục tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ chi phối đến điên điên đảo đảo, trói buộc đến nổi thở chẳng ra hơi!
Ðáng thương thay là những kẻ không hiểu rõ đạo lý, tuy bị lưới vây bủa mà lại chẳng hay chẳng biết! Còn những kẻ hiểu biết thì tuy biết nhưng lại không có cách gì để thoát ly. Ðó chỉ làm mình thêm cảm thán mà thôi! (HT Tuyên Hóa giảng sách Hoa Sen Ngày Xuân)
+ Biết nhiều pháp - Hý luận: Tuy Phật pháp cao siêu mầu nhiệm và được dung chứa trong 12 bộ kinh, nhưng Đức Phật giáo hóa chúng sinh dựa theo 8 phương thức (tám khoa) khác nhau: Có những Pháp chung có mọi người, có pháp riêng cho từng căn cơ ... (Nguồn: Mục Lại rơi vào thuyết nhân duyên đối đãi ....)
+ Nhà Nho/ Nho giáo/ Tứ thư:
- "Lục Kinh" là nhà Nho. Toàn bộ điển tích của nhà Nho mọi người đều biết "Thập Tam Kinh", nó tổng cộng có mười ba bộ. "Lục kinh" trên thực tế cũng chính là chỉ "Thập Tam Kinh", tông chỉ của nó, tông chỉ của giáo học là "tế tục", hay nói cách khác, đoan chánh phong khí xã hội, mục đích của nó chính ngay chỗ này. (Kinh TTNĐ-Tập 2)
- Thật sự là thánh nhân, họ nhìn thấy, họ hiểu rõ, rất sáng tỏ, cho nên ở trong “Học ký” nêu ra “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”, (“quân” nghĩa là lãnh đạo). Bồi dưỡng nhân tài, xây dựng một quốc gia, xây dựng một chính quyền, thống trị nhân dân, lãnh đạo nhân dân, cái gì là quan trọng nhất, là ưu tiên nhất? Giáo dục, “Giáo học vi tiên” (Kinh TTNĐ-Tập 51)
- Đạo Nho với Phật Pháp: Phật là gì? “Phật” là tự tánh của bản thân chúng ta, là tự tánh của mỗi người. Không những Phật Thích Ca Mâu Ni như vậy, mà Khổng Tử, Mạnh Tử cũng như vậy. Học thuyết của nhà Nho hiện nay lưu truyền phổ biến nhất là “Tứ Thư”, “Đại Học”, “Trung Dung”, “Luận Ngữ”, “Mạnh Tử”. Đây có phải là tư tưởng của Khổng Tử, của Mạnh Tử không? Không phải! Tất cả cũng là tự tánh, là trí tuệ, đức năng vốn có trong tự tánh của mỗi người. Chúng ta phải có sự nhận thức này, thì sau đó chúng ta mới thật sự có thể có sở đắc. Sở đắc là gì vậy? Là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, chúng ta được là cái này; (Nguồn: Kinh Thập thiện - Tập 59 - PS Tịnh Không giảng)
+ Lục kinh/ Lục thư: Đến khi Khổng Tử san định lại Lục thư: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.IV)
+ Đạo Nho gia xem trọng luân thường - Ngũ luân: Các quan hệ vợ chồng, cha con, anh em, bạn bè, vua tôi. Cho nên, bạn bè là một trong ngũ luân, có mối quan hệ hết sức mật thiết với bản thân ta. Để chu toàn đạo nghĩa với bạn bè, đức Phật dạy chúng ta năm việc.
Thứ nhất, nếu bạn làm chuyện xấu ác, tạo nghiệp ác, phải khuyên bảo để bạn chấm dứt. Cho nên, bạn bè có nghĩa vụ giúp nhau sửa lỗi. Nếu thấy bạn mình làm chuyện sai trái mà không nói ra thì chưa đủ gọi là bạn bè, đó không phải bạn bè. Tuy nhiên, khuyên bảo uốn nắn cũng phải theo lễ nghi, nhất định phải giữ lễ, phải hiểu biết lễ nghi thích hợp. Lúc nói lỗi để khuyên bảo tuyệt đối không được có mặt người khác. Phải khuyên bảo trong chỗ riêng tư. Như vậy mới là bạn bè. Cha mẹ dạy con thì có thể dạy dỗ [sửa lỗi] lúc có mặt anh chị em. Đó là cha mẹ hay anh chị dạy dỗ [sửa lỗi] con em. Nhưng nếu có người ngoài, cha mẹ, anh chị cũng không nên nói ra. Đó là vì giữ thể diện cho con em mình. Thầy dạy dỗ [sửa lỗi] học trò, có thể nói ra trước mặt các bạn đồng học. Vì sao vậy? Vì chúng ta là bạn đồng học, thầy không chỉ dạy riêng một người, đó là dạy dỗ tất cả học sinh của thầy. Nhưng bạn bè với nhau thì không được. Bạn bè chỉ có thể khuyên bảo nói lỗi ở chỗ riêng tư kín đáo. Cho nên, ý nghĩa này chúng ta phải hiểu thật rõ ràng.
Khuyên bảo lẫn nhau để dứt trừ lỗi, đó là nói có sự giúp đỡ qua lại với nhau. Trong Phật pháp, thực sự rõ biết rằng nhân quả [báo ứng] tương quan trong cả ba đời: [quá khứ, hiện tại và tương lai], cho nên việc khuyên bảo sửa lỗi là quan trọng thiết yếu hơn hết. ... Bạn bè cũng chỉ nên khuyên bảo không quá ba lần. (Trích lục từ: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải, Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến. Giảng ngày 20 tháng 9 năm 1999 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 101, số hồ sơ: 19-012-0101)
+ Bậc Đại học - Theo Thế tục/ Đạo đời:
Ðạo của bậc “Ðại-Học” thì lấy ba cương lĩnh và tám điều mục làm tông chỉ. Thế nào là ba cương lĩnh? Tức là minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện. Minh đức có nghĩa rằng sau khi mình tự thanh tịnh, chiếu soi quang minh tự tánh của mình, nhiên hậu dạy người khác chiếu soi, thanh tịnh quang minh tự tánh của họ. Thân dân có nghĩa là khiến cho tất cả mọi người đều biết con đường chính đáng, làm sao trở thành những người thông hiểu đạo lý. Chỉ ư chí thiện là mọi người cùng đạt tới chỗ cùng cực thiện hảo.
Thế nào là tám điều mục, tám điều khoản, hay là tám điều kiện? Tức là cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
1- Cách vật là gì? Tức là nghiên cứu lý tánh của vạn vật vạn sự trong trời đất .
2- Trí tri là gì? Là vận dụng trí huệ, tỉ mỉ nghiên cứu phong cách mọi sự vật để biết đến chỗ cùng cực.
3- Chánh tâm là gì? Tức là tâm đoan chính làm chủ tể thân mình.
4- Thành ý tức là khởi ý thành thật.
5- Tu thân tức là sửa đổi, tu tập để trở nên người tốt, có đức hạnh.
Ðó là năm điều thuộc về việc học của thân tâm.
6- Tề Gia tức là cai quản nhà mình.
7- Trị quốc tức là quản lý, lãnh đạo đất nước mình .
8- Bình thiên hạ tức là làm cho thiên hạ được thái bình.
Ba điều này thuộc về môn học chính trị.
Trên đây là học thuyết của Ðức Khổng Tử và cũng là lý tưởng rất cơ bản, của đạo lý Nho-Giáo. Ngày hôm nay tôi chỉ giải thích sơ lược về ba cương lĩnh và tám điều mục trong sách “Ðại-Học,” tương lai tôi sẽ nói rõ hơn cho các bạn nghe. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Đạo Nho)
+ Tổng hợp - Giảng nghĩa về Tứ Thư: Tuy nhiên, nếu căn cứ vào hai tác phẩm quan trọng nhất là Kinh Dịch và Trung Dung, thì đạo Nho gồm có tới 3 phần: nhân đạo, thiên đạo và thánh đạo.
Nhân đạo là đạo lý làm người, bao gồm những qui luật cần thiết cho con người trong cõi đời, cốt để tạo nên trật tự ổn định, thái hồ trong quốc gia, xã hội. Nhân đạo gồm có Tam Cương, Ngũ Thường... dẫn dắt con người từ tiểu nhân lên bậc quân tử.
Thiên đạo là những qui luật chi phối vũ trụ thiên nhiên (dịch lý) với qui mô lớn lao, sâu rộng bao quát từ thế giới cực tiểu (các sinh thể nhỏ mọn) cho tới thế giới cực đại (thiên hà, tinh tú).
Thánh đạo là đường lối dẫn con người từ bậc quân tử lên hiền thánh. Con người thành tựu thánh đạo đạt tới cứu cánh là phối Thiên (kết hợp với Trời), tham dự vào việc hố dục trời đất (tán thiên địa chi hoá dục) ... Giảng giải rất ký về Nhân và Thiên đạo, Thánh đạo cũng có vài điều (Nguồn: Tứ thư và giảng giải - Lý Minh Tuấn)
+ CÁC PHÁP: Gồm Pháp Thế gian và Xuất thế gian
+ Phật Pháp - Giáo Lý Của Đức Phật: Cũng gồm Pháp Thế Gian và Pháp Xuất Thế Gian
+ Pháp Thế Gian - Pháp Ngoại Đạo - Pháp Tiểu thừa của Hàng Nhị Thừa Thanh văn Duyên giác (Là giáo pháp của thời A-hàm. Không hiểu về pháp môn Thật tướng. Đệ nhất nghĩa đế chính là Thật tướng) - Giáo Lý Quyền Thừa - Pháp Nhân Duyên Và Tự Nhiên - Pháp Hý Luận:
Trích ngài A Nan hỏi Đức Phật: ...Vì sao Như Lai bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên tự nhiên? Nay con không biết nghĩa đó như thế nào? HT Tuyên Hóa giảng:
.. Sự cố chấp của A-nan thật là sâu nặng. Trước đây ông đã được nghe Đức Phật giảng giải về lý nhân duyên và tự nhiên. Cơ bản đó là giáo lý quyền thừa, pháp phương tiện thiện xảo; pháp ấy chưa phải là pháp chân thật. Bây giờ Đức Phật mới giảng giải pháp môn chân thật (Đang giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm), mà A-nan lại chẳng dám tin. A-nan đã tin chắc vào pháp môn phương tiện Đức Phật đã giảng trước đây, đến nỗi bây giờ A-nan phải nghi ngờ cả pháp chân thật.(Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Giáo pháp tu lục độ:
+ Giáo pháp tu thiền:
- Tham thiền huyền môn theo Minh triết mới, minh triết cả các Chân sư và Thánh đoàn.
- Tu Thiền chỉ - Thiền quán: Đức Phật giảng trong Kinh văn
+ Các Phẩm trợ đạo trong Phật giáo: Có nhiều phẩm trợ đạo trong tu hành
* Tóm lược các Loại Pháp trong Phật Pháp (Nhân Trắc Học viết)
- Theo căn cơ chúng sinh: Pháp Tiểu thừa/ Nhị thừa và Đại thừa
- Pháp do nhân duyên sinh: Dùng cho Hàng vị tu đến Tiểu thừa, tạo tiền đề tu Bồ Tát đạo, hướng đến quả vị Phật.
- Thật Pháp: Pháp Đại thừa - Dùng cho hàng A La Hán Vô tiến tu lên Hàng Bồ Tát và đạt quả vị Phật quả. Ví như Kinh Thủ Lăng nghiêm - Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm - Kinh Pháp Hoa ...
+ Tóm lược các Loại Pháp trong nhân gian (Nhân Trắc Học viết)
- Tu Đạo đức thế gian hướng đến Pháp chánh đạo: Giành cho người tu hành tại gia, họ tin vào nhân quả, có thể tin vào có luân hồi. Đây là khởi đầu tốt đẹp giúp họ sớm phát triển trí tuệ, tiến tới hiểu và sống theo cách xóa bỏ Vô minh, hướng đến các Pháp tu hành cao hơn. Họ thường sống trong thanh thản, an vui dù việc gì sảy đến, họ có khả năng xả bỏ duyên xấu ác đến nhanh, họ thường sống mạnh khỏe, tuổi thọ cao...
- Pháp Hắc đạo - Sống luôn vì mình - Hại người làm vui: là của Hạng người không tin nhân quả nghiệp báo, không tin có luân hồi sanh tử. Họ sống trong đau khổ hết kiếp này đến kiếp khác. Luôn than trời trách người vì họ luôn sống trong Vô minh nặng lề, thường mê tín dị đoan ...Rất đáng thương.
* Mời đọc sách: Nghệ thuật sống của Người quân tử
* Mời đọc: Vài Pháp tu cải mệnh toàn diện
* Mời đọc: Tổng hợp những truyện về Phật Pháp nhiệm mầu
* Mời đọc: Tổng hợp về Hỏi - Đáp về Tâm Linh - Phật Pháp trong tu hành
+ Pháp phương tiện: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu rằng phương tiện?
Thế Tôn nói: Hai chữ phương tiện có nhiều nghĩa, nay ta lược nói có đến mười lăm nghĩa:
(01) chẳng nuôi chẳng giết - (02) chẳng ăn thịt uống rượu - (03) không nấu rượu - (04) không giết hại nhau - (05) đừng chỉ sai đường cho người - (06) chẳng nên đốt rừng - (07) đừng oán trời trách đất - (08) đừng khinh khi thần thánh (09) đừng nói những lời thô tục - (10) chứa nhân bố đức (11) cần kiệm biết đủ đừng tham - (12) kính người già cả thương kẻ nghèo đói - (13) phải cứu giúp nhau khi hoạn nạn - (14) tu nhơn chứng quả - (15) không oán thù kẻ bà con thân cận, cũng đều bình đẳng tế độ giúp nhau.
Nếu người làm đặng mười lăm phương tiện này thì được mười lăm phước báo thanh tịnh. Thường sanh làm người hoặc được về cõi trời, thọ hưởng những điều khoái lạc tiêu diêu. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Phật giảng Pháp nhân duyên hòa hợp để bác bỏ pháp tự nhiên của ngoại đạo:... Trước đây ông đã được nghe Đức Phật giảng giải về lý nhân duyên và tự nhiên. Cơ bản đó là giáo lý quyền thừa, pháp phương tiện, là phương tiện thiện xảo; pháp ấy chưa phải là pháp chân thật. Bây giờ Đức Phật mới giảng giải pháp môn chân thật (Đang giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm), mà A-nan lại chẳng dám tin. A-nan đã tin chắc vào pháp môn phương tiện Đức Phật đã giảng trước đây, đến nỗi bây giờ A-nan phải nghi ngờ cả pháp chân thật.... Phật dậy:
Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới – Tất cả các pháp nầy đều không sinh khởi do nhân duyên, cũng chẳng sinh khởi do tự nhiên. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Nhân Duyên Hòa Hợp biến hóa từ Tứ đại mà phát sinh muôn thứ
- Pháp nhân duyên hòa hợp thiên về KHÔNG - Chết là hết:... A-nan bạch Phật: Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về nhân duyên hòa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh. Giảng:
"A-nan bạch Phật: Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói– Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về các pháp nhân duyên và các pháp hòa hợp rằng. Thế tôn nói rằng Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian–'thế gian' ở đây là chỉ cho hữu tình thế gian và khí thế gian–tất cả mọi thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh."
Tứ đại là đất, nước, lửa, gió. Thân thể con người là hợp thể của tứ đại.
- Những phần cứng và chắc trong thân thể là thuộc về địa đại (đất),
- Hơi nóng trong cơ thể thuộc về hoả đại (lửa).
- Nước dãi, đàm dịch, nước mắt thuộc về thuỷ đại (nước).
- Hơi thở thuộc về phong đại (gió).
Khi chúng ta còn sống, thân thể chịu sự điều khiển của mình, nhưng sau khi chết thì tứ đại tan rã. Hơi ấm trong thân trở về với lửa. Các chất dịch trở về với nước. Các chất rắn trở về với đất. Hơi thở trở về với gió....
Nhưng người ta không biết là họ phải nhận ra Phật tánh của mình,... Cái thân vốn không có gì để bám víu lấy cả. Đừng xem nó quá quan trọng.... Đến khi quý vị chết và tứ đại tan rã, thì quý vị sẽ nhìn thấu suốt được những gì mà quý vị chưa từng nhìn được.
Vì sao Như Lai bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên tự nhiên? Nay con không biết nghĩa đó như thế nào? Giảng:
.. Sự cố chấp của A-nan thật là sâu nặng. Trước đây ông đã được nghe Đức Phật giảng giải về lý nhân duyên và tự nhiên. Cơ bản đó là giáo lý quyền thừa, pháp phương tiện, là phương tiện thiện xảo; pháp ấy chưa phải là pháp chân thật. Bây giờ Đức Phật mới giảng giải pháp môn chân thật, mà A-nan lại chẳng dám tin. A-nan đã tin chắc vào pháp môn phương tiện Đức Phật đã giảng trước đây, đến nỗi bây giờ A-nan phải nghi ngờ cả pháp chân thật. Nên A-nan hỏi, "Vì sao Như Lai bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên tự nhiên? Bạch Thế tôn, ngài vừa phê phán lý nhân duyên và tự nhiên, và tuyên bố rằng thuyết ấy sai lầm. Vậy có mâu thuẫn với chính lời của Như Lai chăng? Ngài đang phá hủy đạo lý do chính ngài đã lập ra. Ngài đang bác bỏ tiền đề do chính ngài đã nêu ra. Nay con không biết nghĩa đó như thế nào? Bây giờ con không hiểu nghĩa nầy như thế nào. Nghĩa ấy thuộc về pháp môn gì? Con thật chưa hiểu ra."
Xin Thế tôn rủ lòng thường xót, chỉ bày cho chúng sinh nghĩa rốt ráo Trung đạo, không còn các điều hí luận.
HT Tuyên Hóa giảng: Bấy giờ Thế tôn bảo A-nan rằng: "Trước đây ông nhàm chán các pháp Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác. Ông đã quyết định từ bỏ hẳn pháp môn của hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, giáo pháp của thời A-hàm, phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Nay ông phát tâm siêng năng cầu đạo giác ngộ Vô thượng, đạo giác ngộ của hàng Bồ-tát.
Do vậy, nên nay là lúc Như Lai sẽ chỉ bày cho ông Đệ nhất nghĩa đế.
Như Lai sẽ giảng giải pháp môn Thật tướng cho ông. Đệ nhất nghĩa đế chính là Thật tướng. Có ba loại Thật tướng:
1. Thật tướng vô tướng (vô tướng chi thật tướng): Không còn các tướng hư vọng, tất cả đều là Nhất chân bình đẳng thật tướng. Tức là Không Như Lai tạng.
2. Thật tướng của cái chẳng phải vô tướng (vô bất tướng chi thật tướng): Hoàn toàn đều chẳng phải là vô tướng, chỉ tuỳ duyên mà biến hiện ra tất cả tướng.
3. Thật tướng của chẳng tướng nào không phải là tướng (vô tướng vô bất tướng chi thật tướng): Tức là Không bất không Như Lai tạng. Cũng gọi là diệu hữu chân không, chân không diệu hữu.
Dù kể là ba, nhưng chỉ là một, đó là Thật tướng. Thật tướng là không có tướng, nhưng chẳng có gì là không có tướng cả. Đó là lý chân không diệu hữu, diệu hữu chân không. Nếu cứu xét đến tột cùng, thì vốn chẳng có tướng gì cả. Nhưng trong cái chẳng có tướng gì ấy lại có tất cả. Thế nên chẳng có tướng gì chính là chân không, và có tất cả là diệu hữu.
Đạo lý đang được giảng giải sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới.
Sao ông lại còn đem những nhân duyên vọng tưởng hí luận thế gian mà tự ràng buộc mình?
.... Như Lai sẽ chỉ bày cho ông đạo lý Thật tướng.
Ông tuy nghe nhiều, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà không phân biệt được thuốc thật ở trước mắt. Như Lai cho là rất đáng thương xót.
Nay ông hãy nghe kỹ, Như Lai sẽ vì ông mà chỉ bày tường tận. Và cũng để cho những người tu Đại thừa sau nầy thông đạt thật tướng. A-nan yên lặng, chờ nghe thánh chỉ của Đức Phật.
A-nan, như ông đã nói, tứ đại hòa hợp phát ra các thứ biến hoá trong thế gian.
A-nan, nếu tánh của các đại kia không hòa hợp nhau, thì không thể lẫn lộn với các đại khác. Cũng như hư không, không thể hòa hợp với các sắc tướng.
Nếu tính của tứ đại là hòa hợp, thì cũng đồng như các thứ biến hoá, trước sau biến thành nhau, sinh diệt nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ.
A-nan, như nước thành băng, băng tan thành nước.
Giảng:
A-nan, ông nên biết rằng chân như tự tánh tuỳ duyên nhưng bất biến, bất biến nhưng tuỳ duyên. Điều ấy được giải thích như thế nào? Chân như tự tánh cũng chính là tánh Như Lai tạng, cũng là Thật tướng, và cũng là chân tâm, như nước thành băng, băng tan thành nước.
Cũng như nước đóng thành băng: nghĩa là tuỳ duyên. Nhưng băng cũng có thể tan thành nước. Tôi đã từng giải thích đạo lý nầy rồi. Phật tánh của mọi người chính là chân tánh. Tâm bồ-đề giác ngộ chính là nước; phiền não là băng. Tâm bồ-đề của ông được ví như nước, hữu ích, lợi lạc cho mọi người, nó không hề làm hại ai. Mọi người đều cần nước. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Pháp Phương Tiện - Nhân Duyên Hòa Hợp: Ngài A Nan: Lại thương khóc, đảnh lễ sát dưới chân Phật. Quỳ gối chắp tay mà bạch Phật rằng, “Đức Vô Thượng Đại Bi Thanh tịnh Bảo Vương khéo dùng phương tiện khai mở tâm chúng con. Ngài hay dùng các phương tiện nhân duyên như thế để khuyến khích, dẫn dắt các chúng sinh mê mờ ra khỏi biển khổ.”
Giảng giải:
... Đức Phật đã khéo dùng phương tiện khai mở tâm chúng con. Ngài hay dùng các phương tiện nhân duyên như thế để khuyến khích – Ngài đã dùng tất cả pháp phương tiện, mọi loại thí dụ, các phương tiện thiện xảo. Pháp phương tiện là pháp chưa thật rốt ráo, chẳng hạn, giáo lý ngài giảng dạy trong thời gian đầu là nói về nhân duyên để phá trừ thuyết tự nhiên do ngoại đạo chủ trương. Đến bây giờ thì ngài lại phá bỏ giáo lý nhân duyên, vì đó thực sự là một phương tiện, như đã được giải thích, chưa thật sự rốt ráo. Đề tưởng 提獎, có nghĩa là khuyến khích, khích lệ, như khi thầy giáo nói với học trò, “Con viết chữ rất đẹp, có nhiều tiến bộ. Con sẽ rất thành công trong môn chữ Hán.” Hoặc thầy nói, “Mấy ngày hôm nay, con ngồi thiền tiến bộ hơn nhiều. Con thường có nhiều vọng tưởng, nhưng nay chúng đã bị hàng phục khá nhiều. Con đã có được chút ít định lực từ công phu thiền định.” Tất cả chúng ta đều khờ dại không biết phải tìm được hướng đi. Nhưng bây giờ chúng ta đã ra khỏi được biển khổ sinh tử, có nghĩa là, ra khỏi tình cảm tham ái.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Chương III)
+ Pháp Phương tiện: Là các pháp hữu vi, giành cho người mới tu, căn trí cạn, họ nghĩ:
.... Đức Phật nói pháp đại thừa, ý chúng ta không hiểu được, phải chi đức Phật phương tiện chỉ dạy những chỗ cạn thấp dễ dàng, chúng ta nhờ đó được tỏ ngộ tri kiến của Phật và chứng đạo quả. Ý muốn thưa hỏi mà chẳng dám lại gần. Bấy giờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi biết những tâm niệm của bốn chúng, nên phương tiện từ chỗ ngồi đứng dậy; đến trước đức Phật mà bạch rằng: Xin đức Thế Tôn mở lòng đại từ, lập những pháp phương tiện chỉ dạy cho những chúng sanh sơ cơ thấy tánh thành Phật, lại vì đời sau những chúng sanh mới bước vào nhà Phật, tìm học mối đạo đặng chánh tri kiến, không bị tà giáo phỉnh hoặc, không dụng công nhiều mà đặng thành đạo quả. Đức Phật nói: Hay lắm! Hay lắm! Nầy Văn Thù Sư Lợi, ông có phương tiện lớn lao, thỉnh hỏi Như Lai chỉ dạy ba căn và con đường tu hành ngay thẳng cho chúng sanh đời sau mới vào cửa đạo, theo lời ông hỏi ta sẽ nói rõ... (Nguồn: Mở đầu Kinh Kim Cang)
+ Người thiện ác:
I. Phẩm Người Ngu (1-10 Người Ngu)
1.- Như vầy tôi nghe..... Thế Tôn nói như sau:
- Phàm có sự sợ hãi nào khởi lên, này các Tỷ-kheo, tất cả sự sợ hãi ấy khơỉ lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất cả những tai họa ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí....
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi, người ngu có nguy hiểm, người trí không có nguy hiểm: người ngu có tai họa, người trí không có tai họa. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi đến với người trí, không có nguy hiểm đến với người trí, không có tai họa đến với người trí.
Do vậy, ở đây, cần phải học tập như sau: Thành tựu với ba pháp nào, một người ngu được biết là như vậy, hãy từ bỏ ba pháp ấy. Tướng của người ngu/ Người trí ở trong hành động (của mình). Trí tuệ chói sáng trong nếp sống (của mình)
Thành tựu với ba pháp, người ngu được biết đến. Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác....
Thành tựu với ba pháp, người trí được biết đến. Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện....
Do vậy, cần và phải học tập thành tựu với ba pháp, người trí được biết đến; hãy chấp nhận ba pháp ấy, và thực hành chúng....
3.- Có những pháp này, là đặc tính, là tướng trạng, là ẩn tích của người ngu. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác. Nếu người ngu này, này các Tỷ-kheo, không suy nghĩ ác, không nói ác và không làm ác, thời lấy gì người hiền trí biết được: "Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân"? Vì rằng, này các Tỷ-kheo người ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác, nên các người hiền trí biết được: "Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân". Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tánh của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của người ngu.
Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người hiền trí. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện. Nếu người hiền trí này, này các Tỷ-kheo, không suy nghĩ thiện, không nói thiện và không làm thiện, thời lấy gì người hiền trí biết được: "Người này là người hiền trí, bậc chân nhân"? Vì rằng, này các Tỷ-kheo người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện, nên các người hiền trí biết được: "Người này là người hiền trí, là bậc chân nhân". Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tánh của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ấn tích của người hiền trí.
4.- Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Phạm tội, không thấy là có phạm tội; phạm tội sau khi thấy là có phạm tội, không như pháp sám hối; được người khác pháp lộ có tội, không như pháp chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Phạm tội, thấy là có phạm tội; phạm tội sau khi thấy là có phạm tội, như pháp sám hối; được người khác pháp lộ có tội, như pháp chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
5.-Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Không như lý suy tư, đặt câu hỏi; không như lý suy tư, trả lời câu hỏi; khi người khác như lý trả lời câu hỏi với những câu, những chữ vuông tròn, với những hành văn trơn tru chải chuốt, không có chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Như lý suy tư, đặt câu hỏi; Như lý suy tư, trả lời câu hỏi; khi người khác như lý trả lời câu hỏi với những câu, những chữ vuông tròn, với những hành văn trơn tru chải chuốt, liền chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
6.-Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm bất thiện, miệng nói bất thiện, ý nghĩ bất thiện. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
7.-Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm có tội, miệng nói có tội, ý nghĩ có tội. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm không có tội, miệng nói không có tội, ý nghĩ không có tội. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
8.-Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm có não hại, miệng nói có não hại, ý nghĩ có não hại. ... (như trên)
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm không có não hại, miệng nói không có não hại, ý nghĩ không có não hại. ... (như trên)
9.-Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu vụng về, không phải bậc chân nhân, tự mình xử sự như một kẻ mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách và tạo nên nhiều điều vô phước. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác (như trên) ...
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí không vụng về, là bậc chân nhân, tự mình xử sự không như một kẻ mất gốc, không bị thương tích, không phạm tội, không bị kẻ trí quở trách và tạo nên nhiều phước đức ... (như trên) ...
10.- Do thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba cấu uế, tương xứng như vậy, bị quăng vào địa ngục. Thế nào là ba? Ác giới và cấu uế của ác giới không được đoạn tận; tật đố và cấu uế của tật đố không được đoạn tận; xan tham và cấu uế của xan tham không được đoạn tận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận ba cấu uế này, như vậy bị quăng vào địa ngục tương xứng.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy được sinh lên cõi Trời. Thế nào là ba? Có giữ giới và cấu uế của các giới được đoạn tận; không có tật đố và cấu uế của tật đố được đoạn tận; không có xan tham và cấu uế của xan tham được đoạn tận. Thành tựu với ba pháp này, đoạn tận ba cấu uế này, tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời.
+ Các Kinh các Bồ Tát và Hiền Thánh vấn Phật - Vấn minh - Hỏi Phật
+ Phầm Bồ Tát Vấn Minh (Kinh Hoa Nghiêm): Giảng nói nhiều điều lấy ví dụ về các tánh hạnh của các Đại - Tứ đại;
a/ ...Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát: 'Phật-tử! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác?
Những là: Đến đường lành nẻo dữ, căn thân có đủ có thiếu, thọ sanh đồng và khác, đẹp-đẽ cùng xấu-xí, nào vui nào khổ, nghiệp không biết tâm, mà tâm cũng chẳng biết nghiệp, thọ không rõ báo mà báo cũng chẳng rõ thọ, tâm chẳng biết thọ mà thọ cũng không biết tâm, nhơn không biết duyên mà duyên cũng chẳng biết nhơn, trí chẳng biết cảnh mà cảnh cũng chẳng biết trí. Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp:
* Các đại và các Pháp đều hoạt động theo quy luật tự nhiên, chúng mà chẳng biết nhau;
b/ Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu?
* Con người cùng thân xác Tứ đại, nhưng do Tiền nhân hậu quả nên có số phận khác nhau;
c/ Chỗ giác-ngộ của Đức Như-Lai chỉ là một pháp duy-nhứt, sao lại bảo là vô-lượng-pháp, hiện vô-lượng cõi, hóa vô-lượng-chúng, diễn vô-lượng âm, thị vô-lượng thân, biết vô-lượng tâm, hiện vô-lượng thần-thông, có thể chấn động khắp vô-lượng thế-giới, thị-hiện vô-lượng sự thù-thắng trang-nghiêm, hiển-.....
* Tất cả pháp là MỘT - Khi biểu lộ vô lượng, như Đất mọc muôn loài cây cỏ, hay muôn loài tu hội sống trên Đất mà Đất chẳng phân biệt; Như Nước muôn ngọn Sóng trào; Như Gió nhiều luồn lay chuyển muôn thứ; Như mây sấm, mưa khắp nơi nơi; Mặt Nhật Nguyệt có 1, chiếu sáng khắp
d/ Như-Lai phước-điền đồng một không sai khác, sao lại thấy chúng-sanh bố-thí được của quả-báo chẳng đồng?
Những là: Nhiều loại sắc, nhiều loại thân, nhiều loại căn, nhiều loại nhà, nhiều loại chủ, nhiều loại quyến thuộc, nhiều loại quan-chức, nhiều loại công-đức, nhiều loại trí-huệ. Nhưng đức Phật đối với họ, tâm Phật thường bình-đẳng, không có quan-niệm riêng khác
* Như Đất 1 vị, không thân sơ, mọi loài ở riêng khác; Như Nước 1 vị, đồ đựng sai khác;
e/ Phật-giáo là một, chúng-sanh được thấy biết, cớ sao không liền đều dứt trừ tất cả phiền-não hệ-phược mà được xuất-ly? Nhưng nơi chúng-sanh, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, năm uẩn, dục, sắc, vô-sắc, ba cõi, vô-minh, tham-ái đều không sai khác. Như thế thời Phật-giáo, đối với chúng-sanh, hoặc có lợi ích, hoặc không có lợi ích?
* Tu giải đãi ví như Lửa ít mà đốt ướt chóng tắt; Cọ cây lấy lửa mãi không thành lửa; Lửa to nước ít sao dập được; .....
g/ Nếu có chúng-sanh thọ-trì Chánh-pháp thời đều có thể dứt trừ tất cả phiền-não?
Nhưng cớ sao có người thọ-trì chánh-pháp lại tùy thế-lực của tham, sân, si, mạn, tùy thế-lực của phú, phẩn, hận, tật, xan, cuống, siểm ... xoay chuyển không rời nơi tâm. Người hay thọ-trì pháp, cớ sao lại ở trong tâm hành khởi các phiền-não? Đây nói về người Đa văn Giác ngộ mà chẳng tu hành...
* Như người không ăn chịu đói; Người giỏi Dược phương, chẳng trị nổi bệnh mình nếu chẳng tu đạo dưỡng sanh; Người điếc ca hát, người nghe mình không; Mù họa hình tượng, người thấy mình không;
h/ Trong phật-pháp, trí-huệ là trên tất cả, cớ sao với các chúng-sanh, đức Phật hoặc ca ngợi sự bố-thí, sự trì-giới, hoặc ca ngợi sự nhẫn-nhục, sự tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, từ-bi, hỉ xả ... , mà chẳng chỉ dùng một pháp để được giải-thoát, thành vô-lượng chánh-đẳng chánh-giác?
* Phật tùy thuyết: Tánh phận đều chẳng đồng; Tùy chỗ họ đáng thọ; Theo đó mà thuyết pháp; Vì kẻ tham, khuyên thí; Vì người lỗi, khen giới; Nhiều sân, thời khuyên nhẫn; Giải-đãi, thời khuyên siêng; Loạn tâm phải tu-định; Ngu-si trau trí-huệ; Bất-nhơn phải từ-mẫn; Giận-hại khuyên rèn bi; Lo rầu thời ngợi hỉ; Chấp trước lời khen xả; Tuần tự tu như vậy; Lần đủ các phật-pháp; Như trước xây nền móng - Rồi sau tạo nhà cửa - Thí và giới cũng vậy - Là gốc hạnh Bồ-Tát. .... (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm BT Vấn Minh)
Mục đích xem Số mệnh và Tư vấn cải mệnh phát phúc như ý:
+ Đạo lý thế gian - Pháp thế gian - Pháp hữu vi (Bình diện chân lý tương đối - Căn bản chỉ xem xét sự sống trong một đời): ... "Mất chỗ nào thì tìm chỗ đó - rách chỗ nào thì vá chỗ đó". Người học Phật pháp cũng phải minh bạch đạo lý thế gian, nếu bạn minh bạch pháp thế gian thì cũng minh bạch Phật pháp. Nếu không hiểu đạo lý thế gian thì pháp xuất thế bạn cũng hồ đồ, cho nên "Phật pháp không dời thế gian pháp". Muốn duy trì thân thể kiện khang, phải tu tìm lại cái đã mất đi từ bao kiếp sống, xa lìa tà dâm .... để giảm thiểu bệnh nạn phát sinh. Hỏa dược phóng ra sự "Nóng giận, tham lam ... vô minh phiền lão." Chúng ta phải tiêu diệt Hỏa dược vô minh phiền lão để trí huệ quang vốn có sẵn hiện tiền tỏa sáng. Đó gọi là mất chỗ nào, tìm chỗ đó........ Chúng ta học Phật pháp, hiểu chút Phật pháp, thấy các pháp thế gian chẳng ra thể thống gì, nói pháp thế gian hoàn toàn sai lầm. Thật ra, Phật pháp không dời pháp thế gian, chẳng phải là buông xả pháp thế gian mà học Phật pháp, mà là trong pháp thế gian bạn thông đạt rồi, hiểu biết rồi thì sẽ minh bạch Phật pháp. Nếu không thông pháp thế gian, thì Phật pháp cũng không thể thông. Vì hiểu biết một là hiểu tất cả, chưa hiểu một thì chưa hiểu tất cả. Bạn chưa hiểu một sao có thể hiểu hết tất cả.
TINH ĐỦ THÌ KHÔNG LẠNH - KHÍ ĐỦ THÌ KHÔNG ĐÓI - THẦN ĐỦ THÌ KHÔNG NGỦ.
Có người nghe đến cho rằng là đạo giáo, Phật pháp không nói đến Tinh - Khí - Thần. Xuất gia thì phải tu TINH - KHÍ - THẦN = TAM BẢO, giống như Phật - Pháp - Tăng. Thần mà tu đến viễn mãn sung túc chính là Phật. Thần không đủ thì đến A La Hán cũng chẳng thành, nói chi đến Phật quả.
Thần đủ thì khí thế mạnh mẽ, như A La Hán, nhắm mắt ngủ nhưng không gì không thấy biết; Khí đủ thì không đói, khí đủ cũng là pháp, bạn có khí rồi thì có pháp, pháp là khí duy trì tại đó, pháp là khí biến hóa, bạn không có khí thì cũng không có pháp. Người chết rồi thì học Phật pháp gì nữa, có khẩu khí mới học được. Cho nên khí là mẫu thẻ của pháp. Không có khí thì không có pháp. Tinh đủ thì không lạnh - Dù đi ra trời lạnh đóng băng, khi vào nhà khí huyết lưu thông, hồi phục, đây là do tinh đầy đủ. Tinh không đủ không thể chịu rét. Khí không đủ, không ăn cơm không chịu được. Nếu Thần không đủ, ngủ không đủ thì không thể chịu được. Cho nên, thiếu nam, thiếu nữ thường nói "Tôi thèm ngủ quá", đây đều là do Thần không đủ. Không dưỡng tinh chứa nhuệ, đây là điều hết sức quan trọng. Bạn đừng nói Phật pháp không nói đến Tinh - Khí - Thần, vì đây căn bản là do không hiểu Phật pháp. Không có Tinh - Khí - Thần cũng không có Phật - Pháp - Tăng..... (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr277; 335 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mười hai bệnh không tu thiện pháp - Không thấy được Phật: Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật. A Nan lại hỏi: ”Những bệnh như thế, chữa bằng cách nào?”. Đức Phật trả lời: “Dùng thuốc đúng bệnh, sẽ được thuyên giảm. A Nan lại hỏi: “Những thứ thuốc đó, tìm được ở đâu?” Đức Phật trả lời: “Ở núi Tu Di”. A Nan Lại hỏi: “Tu Di là gì?” Đức Phật trả lời: “Là thân người vậy. Hết thảy chúng sinh, đều có sáu nạn: Một là thân người khó được; hai là thân người khó đủ; ba là thiện tâm khó phát; bốn là Chính Pháp khó nghe; năm là trung quốc khó sinh; sáu là Đạo tràng khó gặp.”..... (Nguồn: Mục Liên Sám Pháp)
+ Biết bệnh - Cho thuốc [Mỗi người mỗi khí chất]: Lành bệnh là thuốc hay - Hợp cơ là pháp diệu.
Tôn giả Xá Lợi Phất có hai vị đệ tử tu hành nhiều năm mà chẳng thành tựu. Xá Lợi Phất hỏi đức Phật là lý do gì ? Đức Phật hỏi : ‘’ Vị đó trước khi xuất gia làm nghề gì ? ‘’
Xá Lợi Phất đáp: ‘’ Một là thợ bạc, một là xem mộ.’’ Đức Phật nói : ‘’ Nên dạy vị Tỳ kheo thợ bạc tu pháp sổ tức (đếm hơi thở), dạy vị Tỳ kheo xem mộ tu pháp quán xương trắng, như vậy thì có thể thành tựu.’’
Tôn giả Xá Lợi Phất trở về dạy tu theo như thế, không lâu hai vị đều chứng quả. Đó là theo căn tính thích ứng với họ mà thí giáo.
Theo bệnh cho thuốc: Chúng sinh đều có bệnh phiền não, bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh ngu si, vô minh .v.v. Thậm chí có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh. Phật pháp là thuốc thần, người thuyết pháp là bác sĩ. Bác sĩ trước hết phải xem bệnh gì? Sau đó dùng thuốc thích đáng để điều trị. Bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy mới hy vọng thuốc công hiệu chữa lành bệnh. Do đó :
"Thuốc không hay dở, lành bệnh là thuốc hay; Pháp không cao thấp, hợp cơ là pháp diệu".
Gặp chúng sinh căn lành thành thục, thì dạy họ xuất gia tu đạo. Gặp chúng sinh không có căn lành, thì dạy họ trồng căn lành tu phước đức. Gặp chúng sinh đã trồng căn lành, thì dạy họ phương pháp làm tăng trưởng căn lành..... (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Phật tùy thuyết [Tùy tâm bệnh của mỗi người]: Tánh phận đều chẳng đồng; Tùy chỗ họ đáng thọ; Theo đó mà thuyết pháp; Vì kẻ tham, khuyên thí; Vì người lỗi, khen giới; Nhiều sân, thời khuyên nhẫn; Giải-đãi, thời khuyên siêng; Loạn tâm phải tu-định; Ngu-si trau trí-huệ; Bất-nhơn phải từ-mẫn; Giận-hại khuyên rèn bi; Lo rầu thời ngợi hỉ; Chấp trước lời khen xả; Tuần tự tu như vậy; Lần đủ các phật-pháp; Như trước xây nền móng - Rồi sau tạo nhà cửa - Thí và giới cũng vậy - Là gốc hạnh Bồ-Tát. .... (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm BT Vấn Minh)
Xem Tooltip: Bí quyết trị bách bệnh [Gồm các bệnh Tâm sinh lý]
+ Bí nhiệm Thất phân: Sau khi tuyên thệ giữ kín điều bí nhiệm và không vi phạm, tân điểm đạo đồ một mình tiến đến gần vị Chủ lễ, rồi đặt tay lên phần dưới của Điểm đạo Thần trượng mà vị Chủ lễ cầm ở phần giữa. Bấy giờ, ba Vị đứng chung quanh ngôi chủ lễ mới đặt tay các Ngài lên viên kim cương chói rạng gắn trên đầu Thần trượng, và khi cả năm vị được liên kết theo cách này bởi năng lượng luân chuyển, phát ra từ Thần trượng, thì Đấng Điểm Đạo giao phó bí nhiệm cho điểm đạo đồ. Lý do của điều này là: Mỗi một trong năm cuộc điểm đạo trực tiếp liên quan đến chúng ta (hai cuộc điểm đạo cao hơn không có tính bắt buộc, nên chúng ta không xét đến) đều ảnh hưởng đến một trong năm luân xa nơi con người, [164]
1. Luân xa ở đầu,
2. Luân xa tim,
3. Luân xa cổ họng.
4. Luân xa nhật tùng,
5. Luân xa chót xương sống,
và tiết lộ cho y kiến thức về các loại mãnh lực và năng lượng khác nhau làm sinh động thái dương hệ, và đến với y qua một luân xa dĩ thái đặc biệt. Khi áp dụng Thần trượng, các luân xa của y được ảnh hưởng một cách đặc biệt. Qua việc truyền thụ Bí nhiệm, y được cho biết lý do của nó và cho thấy nó đồng nhất với lý do nhất thiết tạo nên một sự biểu lộ hành tinh đặc biệt, và gây nên một chu kỳ đặc biệt lớn hơn. Có thể nói rằng:
1. Mỗi bí nhiệm liên quan đến một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ.
2. Mỗi bí nhiệm liên quan đến và phát biểu một trong bảy định luật của thiên nhiên. Vì thế chúng liên hệ đến một trong các trường tiến hoá cơ bản của mỗi hành tinh hệ. Mỗi hệ thể hiện một trong các định luật là luật chính yếu của nó, và tất cả các trường tiến hoá của nó đều có khuynh hướng biểu dương sự hoàn thiện của định luật đó với sáu biến thái phụ thuộc của nó, sáu biến thái này khác nhau một chi tiết trong mỗi trường hợp, tùy theo định luật chính được phát biểu.
3. Mỗi bí nhiệm truyền đạt chìa khoá để hiểu bản tính của một vị Hành Tinh Thượng Đế, và do đó đưa ra manh mối để biết những đặc tính của các Chân thần thuộc cung hành tinh đó. Hiển nhiên là sự hiểu biết như thế rất cần cho vị Chân sư đang cố gắng làm việc cho nhân loại, vận dụng các dòng mãnh lực đang ảnh hưởng đến họ và do họ phát ra. [165] 4. Mỗi bí nhiệm liên quan đến một cung hay một màu sắc nào đó và cho biết con số, nốt nhạc và sự rung động tương ứng.
Bảy bí nhiệm này chỉ là những công thức ngắn gọn, không có giá trị của thần chú, như trong trường hợp của Linh từ, mà có tính chất toán học, ngôn từ được dùng chính xác để truyền đạt đúng đắn ý định của người nói. Đối với người chưa được điểm đạo thì các bí nhiệm này trông có vẻ và nghe giống như các công thức đại số, ngoại trừ (khi thấy bằng thần nhãn) thì mỗi bí nhiệm gồm một hình bầu dục với một màu nhất định, tùy theo bí nhiệm được truyền đạt, có chứa năm chữ tượng hình hay biểu tượng đặc biệt. Một biểu tượng chứa công thức của định luật liên hệ, một biểu tượng khác cho biết khoá và âm độ hành tinh, biểu tượng thứ ba đề cập đến rung động, trong khi biểu tượng thứ tư cho biết con số và ngành của cung liên hệ. Chữ tượng hình cuối cùng đưa ra một trong bảy chìa khoá của ĐĐCG để các thành viên của ĐĐCG hành tinh chúng ta có thể liên lạc với các cấp thái dương. Đây hiển nhiên là những chi tiết rất mơ hồ và tối nghĩa, nhưng để nêu rõ rằng, như trong trường hợp các Linh từ, phải dùng hai giác quan để hiểu, muốn nhận thức được các bí nhiệm cũng phải sử dụng hai giác quan, để nghe, và thấy các biểu tượng bằng nội nhãn. (Nguồn: Sách điểm đạo trong nhân loại và Thái dương hệ)
+ Xem thêm sách: Giáo Lý Bí Nhiệm I, II, III, IV,V
+ Thay Đổi Số Mệnh: Người không thể thay đổi vận mạng là Phàm Phu, Người thay đổi được vận mạng thì là người có trí tuệ (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Quân Tử Biết Cách Tạo Vận Mạng
Sách Trung Dung có nói rằng:
"Vui, giận, buồn, sướng khi chưa sinh thì gọi là Trung;
Khi phát ra rồi mà giữ ở mức trung thì gọi là Hòa".
Nếu hiểu đạo lý này thì bất luận làm gì mình cũng không thái quá, cũng không mê muội, không điên đảo. Cần phải biết rõ ràng đen là đen, trắng là trắng, thiện là thiện, ác là ác, phân chiết minh liễu thì mới không lẫn lộn thiện với ác. Những điều mà chúng ta gặp trong kiếp này đều là do nghiệp lực kiếp trước tạo thành. Hiện tại muốn cải biến vận mệnh của mình thì cần phải tạo nhiều công đức. Có câu rằng:
"Người quân tử biết cách tạo vận mạng.
Mạng do ta làm, Phước tự ta cầu.
Họa, phước không có cửa,
Chỉ do ta chuốc lấy."
Người học Phật nhất định phải nhận thức rõ ràng định luật nhân quả báo ứng; không thể tùy tiện tạo ác nghiệp, trồng ác nhân, cũng không được làm sai đạo lý nhân quả. Vì thế phải mười phần cẩn thận, nếu chờ đến lúc thọ quả báo thì hối hận đã muộn rồi! (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Cải mệnh: Tức là tu hành - Tu sửa Tâm tính - Làm lành lánh giữ theo Đạo của Người quân từ - Tức Pháp thế gian. Cao hơn và nhiệm mầu nữa là tu theo Pháp Xuất thế gian như Đức Phật dạy để được giầu có, an lành, hạnh phúc, thọ cao ... đến giải thoát luân hồi sinh tử. Du theo Pháp nào thì cũng nhằm mục đích không chấp nhận sự an bài của số phận. SỐ MỆNH CÓ THỂ THAY ĐỔI qua Tu hành chánh đạo - Tu theo Thành hiền đã dạy.
+ Cải mệnh: Các Phương pháp - Con đường tu hành để cải mệnh mạnh mẽ: Xem tại đây
A- CẢI MỆNH THEO PHÁP THẾ GIAN
+ Với Thế gian Pháp - Phật nói người thông thường đều là bị số mạng trói buộc. Còn Phật Pháp, kể cả Nho, Đạo hay tôn giáo khác đều có thể cải tạo vận mạng của chúng ta (Nguồn)
I- CẢI MỆNH THEO KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC/ DỊCH HỌC ĐÔNG TÂY KIM CỔ
+ Không cải mệnh - Khác gì chấp nhận Định mệnh an bài: Số mệnh hoàn toàn có thể thay đổi được. Ngày xưa Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư:" Phật giáo là gì?". Thiền sư đáp rằng: "Là không làm các điều ác, siêng làm các điều lành". Bạch Cư Dị nói: Điều này ai mà không biết. Thiền sư nói: Đứa bé 3 tuổi có thể hiểu được, nhưng ông già 80 chưa chắc đã làm được. Đây chính là cái khó? (Xem sách: Liễu Phàm Tứ Huấn)
+ Tuân theo Luật sinh tồn và Luật tự nhiên: Các quy luật cuộc sống và Dưỡng sinh Cải Mệnh mạnh mẽ (Lời dậy của Danh Y - Cẩm nang sống-NTH);
+ Thực Hành Tốt đời đẹp đạo: Quan hệ đời sông nhân sinh rất quan trọng với việc cải mệnh - Khổng Tử dạy: Xem Quan hệ gia đình -xã hội_NTH
+ Cải Mệnh qua Thể dục thể thao - Hatha Yoga
+ Cải mệnh - Chữa bệnh qua tuân thủ các Định luật vũ trụ: Một khái niệm về xung đột lâu đời, về bảy nguồn năng lượng lớn biểu hiện dưới dạng nhị nguyên và tạo ra khi neo giữ trong một cơ thể (cho dù đó là một hành tinh, một con người hay một nguyên tử) một khu vực hoặc chu kỳ đau khổ, như người ta gọi; [295] .... Những năng lượng này chảy qua bảy trung tâm của cơ thể hành tinh và—theo như chúng ta biết—là bảy năng lượng tia. Liên quan đến ý chí gây hại có thể và thực sự biểu hiện như bệnh tật trong cả bốn vương quốc trong tự nhiên, bạn có lý do tại sao tôi thiết lập, trong số các sinh viên bí truyền mà tôi đã tự mình chịu trách nhiệm, sự phát triển của sự vô hại. Đó là tác nhân chính để bù trừ nghiệp quả. Ở đây tôi sẽ cung cấp cho bạn Định Luật IX, và do đó hoàn thành một nhóm định luật mà khi tuân theo, sẽ thấy là thiết yếu để chữa khỏi bệnh tật và duy trì sức khỏe.... Định luật IX ..... (Nguồn: Chữa bệnh nội môn, Tr 295))
+ Các phương pháp Tham thiền thông dụng (TH Tham thiền_NTH);
Và nhiều phương pháp khác
II. DỰA VÀO LÁ SỐ SINH MỆNH: Theo Lá số sinh như Lá số Tứ trụ/ Tử vi/ Chiêm tinh: Cải mệnh = kiềm chế năng lượng vũ trụ và nghiệp quả quá lá số sinh. Trước tiên, con người học cách kiềm chế các phản ứng của mình đối với các hành tinh khi chúng chi phối và điều khiển các sự việc thuộc phàm ngã của y từ các “trạm” khác nhau của chúng trong 12 cung (houses) của lá số tử vi của con người, có 2 cách:
1- Lập lá số Chiêm tinh/ Tử vi giải đoán đúng và kế đó chọn các giai đoạn để xác định những gì cần làm để vô hiệu hóa các ảnh hưởng của hành tinh ở nơi nào xét thấy thích hợp để kiềm chế các phản ứng của phàm ngã. Điều này phải được làm bằng cách áp dụng sức mạnh của tư tưởng. Việc này đòi hỏi sự tin tưởng hoàn toàn vào việc tìm hiểu và lý giải của các nhà chiêm tinh học và việc biết thật đúng lúc sinh ra.
2- Bằng cách đảm nhiệm sáng suốt lập trường của Nhà Quan Sát tâm linh, và bằng cách vun trồng năng lực đáp ứng với Linh Hồn. Kế đó, từ quan điểm của Linh Hồn đó, con người phải học cách kiểm soát hoàn cảnh và các phản ứng kèm theo của phàm ngã.(Chiêm THNM, tr 24-26)
- Theo Phong thủy: Âm Dương trạch và Vật phẩm phong thủy: Cải Mệnh theo Phong thủy
B- CẢI MỆNH THEO PHẬT GIÁO - PHÁP XUẤT THẾ GIAN
+ Cải mệnh - Thay đổi vận mệnh: Trong đời của mỗi một con người chúng ta, việc đáng quan tâm nhất, hẳn là chính mình; mà trong vấn đề chính mình, quan trọng hơn cả chính là vận mệnh, số phận hay số kiếp. Về cách nhìn vận mệnh, có người cảm thấy rằng bất cứ việc gì của mình cũng không bằng người ta, vận mệnh lận đận éo le, liền giận trời trách người; có người thì tin rằng tất cả họa phước giàu nghèo đều là do sự sắp đặt của số phận, vì vậy khi gặp phải những khó khăn thì chỉ biết cam chịu số phận; có người thì lại bằng lòng với số phận, vì thế họ không còn lo sợ gì cả, đối với những khó khăn khốn đốn trong cuộc sống, thì lại an bần thủ tiết. ..... nhất ngôn nhất hành của đời này, lại là quyết định vận mệnh vị lai của mình. Cho nên, vận mệnh của chúng ta tùy theo nghiệp lực thay đổi trong từng phút giây, đồng thời không bị quản chế bởi một chủ tể đặc định nào, thống trị, chi phối vận mệnh của con người vẫn là chính mình ... => Chính mình tu hành tinh tấn đúng Như Pháp thọ trì thì vận mệnh chắc chắn thay đổi, vì nghiệp xấu ác thì được hóa giải, tiêu trừ, công đức phước đức ngày càng tích đầy. (Nguồn: Đại Sư Tinh Vân giảng)
+ Tu Hành - Phật dậy: "Tu 1 ngày 1 đêm ở cõi ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả 100 năm. Tại sao vậy? Cõi nước của đức phật đó đều hành thiện tích đức, không có một chút ác. Tu thiện ở ta bà 10 ngày đêm hơn làm lành 1000 năm ở các cõi phật khác. Vì cõi nước phật, không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là khổ độc chưa từng ngừng nghỉ" (Kinh Vô Lượng Thọ phẩm 37)
+ Cải mệnh = Tu hành: Ðức Phật dạy, ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải do lỗi nơi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi nơi người chỉ đường. Bạn Tu hành đúng Như lý - Như Pháp thì bạn sẽ nhận được sự cảm ứng nhiệm mầu. (Xem tại đây và Tại đây và theo Phật dậy_NTH)
+ Tu Cải mệnh toàn diện: Nếu các tỳ-kheo đoạn trừ tham nhiễm, tâm liền được giải thoát. Đoạn trừ vô minh, huệ liền được giải thoát. Trừ tham nhiễm ô gọi là "Thân tác chứng", được mạnh khỏe, trường thọ, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng cần phải uống thuốc, cũng chẳng phải tẩm bổ. Những thứ thuốc bổ, đồ bổ đó đều kèm theo nhiễm ô và tật bệnh. Chỉ có mỗi “thanh tịnh tâm” có dinh dưỡng cao nhất, có hiệu quả nhất. A Di Đà Phật là đồ bổ tốt nhất. Do vậy quí vị nên tu pháp Thanh tịnh tâm như lời Phật dậy. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh)
+ Thành Sự Cát Hung: Để thành sự Cát Hung cần hội đủ Nhân Duyên. Nhà Phật nói, điểm mấu chốt của quả báo chuyển biến là do duyên. Nếu như không có duyên, tuy có nhân ác nhưng quả ác sẽ không hiện tiền. “Nhân”, chúng ta không có cách gì điều khiển được, nhưng “duyên” thì chúng ta có thể điều khiển. Chúng ta tu tất cả duyên thiện, đoạn tất cả duyên ác, thì sự tổn hại của oán tặc sẽ xa lìa. Cho dù gặp phải một số tổn hại nhỏ cũng không đến nỗi trở ngại việc lớn. Cho nên, kiết hung họa phước là ở trong tâm chúng ta mà chuyển. Điều quan trọng là nhất định không được sát sanh, dứt khoát không được phép làm tổn hại việc của người. (PS Tịnh Khôn - Kinh TTNĐ, Tập 41)
+ Thay đổi tâm niệm - Sửa đổi tâm niệm - Thay đổi tư tưởng cực kỳ quan trọng => Số mệnh thay đổi:
.... Trong Tu tập bằng cách thắp hương niệm Phật trước khi có chuyện gì xảy ra là một phương pháp tạo sự thay đổi. Hoạ và phước chỉ nằm trong một niệm. Lão Tử nói:
“Khi nghĩ đến điều thiện, điều thiện ấy sẽ ảnh hưởng đến những việc chưa xảy ra và đem đến sự tốt lành.
Khi nghĩ đến điều ác, điều ác ấy sẽ ảnh hưởng đến những việc chưa xảy ra và đem đến sự rắc rối.”
...Điềm báo xấu - Nó không dứt khóat cố định.
..... Yuan Hsiao Hai hỏi: “Người ta có thể thóat khỏi số mệnh không? Đừng để cho định mệnh trói buộc được chăng?”
Thiền sư Yuan Ku đáp: “Anh là người có học. Anh không nghe Kinh Dịch nói: “Phát khởi điều tốt lành và tránh việc ác” đó sao?
Sau đó Yuan Hsiao Hai đổi tên mình là Dương Liễu Phàm, “không còn làm kẻ phàm phu nữa”. Ta không phải là kẻ phàm phu nữa. Ta không còn là phàm phu nữa. Sau đó lời tiên đoán của Lão K’ung không còn đúng nữa. Lão ta nói rằng Yuan Hsiao Hai sẽ chết vào ngày 14 tháng 8, lúc 54 tuổi, nhưng đến đó anh ta không chết. Tử vi nói rằng anh ta không có con, nhưng anh ta lại có hai người con. Anh ta sống đến 80 tuổi. Nên số mệnh của con người không phải là nhất định. Làm việc thiện là tất cả những gì quý vị cần phải thực hành, vì ngay khi thay đổi tâm niệm thì mọi thứ đều thay đổi. Tại sao có việc không lành? Vì có tâm niệm không lành của quý vị trong đó. Đó là lý do tại sao quý vị gặp việc chẳng lành. Điều này chứng tỏ rằng vọng kiến làm sinh khởi các nhân duyên hư dối. Nếu quý vị có chánh kiến, thì nhân duyên hư dối kia sẽ biến mất. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ CẢI MỆNH = TRÌ CHÚ NHIỆM MẦU: Không gì bằng tu sửa tâm tính như lý như pháp, kèm theo thọ trì đọc tụng Kinh Phật, các Thần chú, đặc biệt là thần chú phật giáo để có sự nhiệm mầu, không gì không chữa lành và còn diệt vô lượng tội, được vô lượng phước đức, tái sinh cõi lành, thọ ngàn vạn tuổi. (Mời xem cải mệnh bằng trì chú nhiệm mầu)
Xem: Nguồn gốc số mệnh - cải mệnh
Xem: Cải mệnh để khỏe và giầu sang
Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
+ Khổng tiên sinh bói số mạng - Sách Liễu Phàm Tứ: Sau ta gặp một cụ già tại chùa Từ Vân, cụ râu dài oai nghi, phơi phới như tiên. Ta do đó cung kính chào hỏi. Cụ thấy ta bèn nói: « Tướng ngươi có mạng làm quan, năm tới sẽ đậu Tú Tài, sao giờ này còn lang thang ở đây không lo học ? » Ta trình bày nguyên do và đồng thời xin cụ cho biết tên họ và quê quán. Cụ nói: « Ta họ Khổng, người Vân Nam. Ta được chân truyền quyển Hoàng-Cực-Số (3) của ông Thiệu. Ta biết môn này sau này sẽ truyền lại cho ngươi. » Ta mời cụ về nhà và kể lại cho mẹ. Mẹ dặn phải tiếp đãi tử tế và xem cụ đoán số ra sao. Cụ bói cho ta từ việc lớn đến việc nhỏ đều chính xác vô cùng. Làm ta ước mơ trở lại học văn và bàn giấy với ông anh họ Thẩm Xứng. Ông anh nói: « Thầy Úc Hải Cốc đang mở lớp học tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, anh sẽ gởi em đến đó học không thành vấn đề. » Ta bèn bái lạy thầy Úc làm thầy......
..... Thiền sư trả lời rằng: « Lòng người còn lăng xăng không yên, thì còn bị bị âm dương khí số (1) trói buộc, làm sao có thể bảo là không số mạng được ? Nhưng số mạng chỉ chi phối cho người thường, là những người suốt đời sống xuôi chiều theo tánh mình, không biết thay đổi mà thôi. Còn đối với những người có sự chuyển biến mạnh mẽ thì số mạng không thể chi phối. Như người trở nên quá tốt, sẽ thấy đời đi lên. Ngược lại, người trở nên quá xấu sẽ thấy đời đi xuống. Hai mươi năm nay Khổng tiên sinh cho ngươi thấy được số mạng mà ngươi không thể thay đổi chút nào, vậy không phải phàm phu là gì » .... Mạnh Tử dạy: .... Tìm bên ngoài ta thì vô ích, chẳng tìm được ...
Sư trả lời: « Mạnh Tử nói rất đúng, chỉ vì ngươi hiểu sai mà thôi. Ngươi không nghe Lục Tổ nói sao ? "Tâm ta như miếng ruộng, phước hoạ do mình trồng". Phải tìm trong lòng mà gieo, không gì mà không được cả. Tìm do ta, không riêng nhân nghĩa đạo đức, mà công danh phú quý cũng sẽ được hết. Trong và ngoài đều được, tìm như vậy mới có ích lợi vì tìm được. Ngược lại, nếu không biết xem xét trong lòng mà tìm cầu bên ngoài, thì có vẽ đúng cách tìm nhưng được hay không lại tuỳ thuộc số mạng. Cuối cùng trong và ngoài đều mất. Vì vậy Mạnh Tử nói "vô ích" là vậy ». (Nguồn: Liễu phàm tứ huấn)
+ Giảng về Liễu Phàm Tứ Huấn Cải Mệnh
... Khi lão già K’ung thấy Yuan Hsiao Hai, lão nói: “Anh nên đi học. Anh sẽ làm quan.” Yuan Hsiao Hai nói: “Nhưng cha mẹ tôi và toàn gia đình đều mong muốn tôi thành thầy thuốc.”
Lão K’ung đáp: “Đừng học thuốc. Anh nên đi học chữ. Vào chừng ấy năm, anh sẽ đỗ được học vị như vậy như vậy trong kỳ thi Đình, và trong chừng ấy năm anh sẽ trở thành một vị quan lớn. Rồi vào năm đó năm đó, ngày đó tháng đó, anh sẽ trở thành quan án sát, anh sẽ trở nên rất có danh vọng. Khi anh 45 tuổi, vào ngày 14 tháng 8, lúc nửa khuya, vợ anh sẽ qua đời. Anh không có con nối dõi.” Lão già K’ung không những định được ngày tháng cho những sự kiện lúc sinh thời mà còn biết được cả ngày chết của anh ta.
...... Anh ta ngồi và đợi người ta đưa thức ăn tới. Có câu ngạn ngữ nổi tiếng ở Trung Hoa: “Ngồi chờ sung rụng”, như vậy nghĩa là không làm gì cả, chỉ trông mong vào sự sắp đặt của tự nhiên, chỉ mong số mệnh hiển bày. Đó thật là sai lầm. .....
“Ồ!” –Thiền sư Yuan Ku nói – “Ông thật là bậc pháp khí, có khả năng nhập đạo. Ông đã ngồi thiền suốt ba ngày mà không nhúc nhích hoặc thay đổi tư thế.”
Yuan Hsiao Hai đáp lại: “Tôi biết mọi việc đều do nhân duyên tiền định. Thế nên tôi không mong cầu gì cả. Đó là nguyên nhân khiến tôi không có chút vọng tưởng nào khi ngồi ở đây, thế nên tôi chẳng thấy đau chân chút nào cả.”
Chân nhức mỏi do đâu? Do vọng tưởng, có nghĩa là vọng kiến mà kinh nầy đang nói đến. Vì vọng kiến, nên chân đau. ...
Thiền sư Yuan Ku nói: “Tôi nghĩ rằng anh là người kỳ đặc. Nhưng như điều anh vừa cho biết, thì anh chỉ là kẻ phàm phu.”.....
Thiền sư Yuan Ku nói: “Nếu ông chẳng phải là phàm phu, thì ông đã không bị trói buộc vào số mệnh sẽ xảy ra trong vài chục năm tới. Ông đã bị dính chặt vào định mệnh và chẳng có cách nào thóat ra được cả.”
..... Yuan Hsiao Hai hỏi: “Người ta có thể thóat khỏi số mệnh không? Đừng để cho định mệnh trói buộc được chăng?”
Thiền sư Yuan Ku đáp: “Anh là người có học. Anh không nghe Kinh Dịch nói: “Phát khởi điều tốt lành và tránh việc ác” đó sao?
Sau đó Yuan Hsiao Hai đổi tên mình là Dương Liễu Phàm, “không còn làm kẻ phàm phu nữa”. Ta không phải là kẻ phàm phu nữa. Ta không còn là phàm phu nữa. Sau đó lời tiên đoán của Lão K’ung không còn đúng nữa. Lão ta nói rằng Yuan Hsiao Hai sẽ chết vào ngày 14 tháng 8, lúc 54 tuổi, nhưng đến đó anh ta không chết. Tử vi nói rằng anh ta không có con, nhưng anh ta lại có hai người con. Anh ta sống đến 80 tuổi. Nên số mệnh của con người không phải là nhất định. Làm việc thiện là tất cả những gì quý vị cần phải thực hành, vì ngay khi thay đổi tâm niệm thì mọi thứ đều thay đổi. Tại sao có việc không lành? Vì có tâm niệm không lành của quý vị trong đó. Đó là lý do tại sao quý vị gặp việc chẳng lành. Điều này chứng tỏ rằng vọng kiến làm sinh khởi các nhân duyên hư dối. Nếu quý vị có chánh kiến, thì nhân duyên hư dối kia sẽ biến mất. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Mười hai bệnh không tu thiện pháp - Không thấy được Phật
Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật.
A Nan lại hỏi: ” Những bệnh như thế, chữa bằng cách nào?”
Đức Phật trả lời: “Dùng thuốc đúng bệnh, sẽ được thuyên giảm.
A Nan lại hỏi: “Những thứ thuốc đó, tìm được ở đâu?” Đức Phật trả lời: “Ở núi Tu Di”. A Nan Lại hỏi: “Tu Di là gì?” Đức Phật trả lời: “Là thân người vậy. Hết thảy chúng sinh, đều có sáu nạn: Một là thân người khó được; hai là thân người khó đủ; ba là thiện tâm khó phát; bốn là Chính Pháp khó nghe; năm là trung quốc khó sinh; sáu là Đạo tràng khó gặp.”
Phật nói kệ rằng, giả sử tạo nghiệp, trong trăm nghìn kiếp, nghiệp cũng không mất, đến khi nhân duyên, hòa hợp đầy đủ, thì người gây nghiệp, phải chịu quả báo. Nét mặt tươi vui, đó là cúng dàng, miệng không nói dối, đó là diệu hương, lòng không sân hận, đó là Tịnh Độ, ý không nóng nảy, đó là đạo tràng. Làm người học đạo, mà không biết nhân, suốt ngày bận bịu, ham đắm sắc trần, chỉ biết lấy nước, lau rửa mặt mình, mà không lấy thiện, gột rửa lòng mình, thôi làm mọi điều ác, đó là nhân Tịnh Độ. Dù trí hay ngu, điều cần trước nhất, là bỏ tham sân.
Nếu có người nào, được nghe pháp này, lòng tin bền chặt, tinh tiến tu trì, thường làm hạnh lành, được vui Niết Bàn. Kinh Niết Bàn nói: “Khi Phật còn sống, trong ao Ca La, có một con hến, nghe Phật thuyết pháp, liền bò lên bờ, ẩn trong đám cỏ, lắng nghe Phật nói. Có người chăn trâu, thấy số thính chúng, vây quanh đức Phật, mới chạy đến xem, vì muốn nghe pháp. Trong lúc vội vàng, giẵm lên con hến; nó liền chết nay, và được sinh lên, cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ nó nghĩ, mình vốn là hến, vì nhân duyên gì, được sinh lên trời? Bấy giờ người trời, tự biết thân trước, nhờ nghe thuyết pháp, mới được sinh thiên, liền rời cung điện, đến trước chỗ Phật, đính lễ bái tạ. Phật lại nói pháp, cho người ấy nghe, sau khi nghe rồi, chứng được Sơ quả, chỉ nhờ nghe pháp, mà thành Chính Giác. Súc sinh còn thế, huống là thân người, thế nên phải gắng, chăm nghe Phật pháp, một lời vào tai, nhớ nghĩ thật kỹ, sẽ làm hạt giống, đạo quả Bồ Đề, muôn kiếp không dứt; căn lành tăng trưởng, nghiệp ác tiêu dần, phát Bồ Đề tâm, lập chí kiên cố, cầu đạo Vô Thượng, rộng độ chúng sinh, cùng tu đạo quả, cùng chứng Bồ Đề, tinh tiến tu hành, quyết không thoái chuyển, hiểu rõ tự tâm, quyết thành Phật đạo, thoát ly sinh tử, chứng nhập Niết Bàn. Hiện tiền đại chúng, hãy dốc lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Quá Khứ Đa Bảo Phật
Nam Mô Thập Phương Phân Thân Chư Phật.
Nam Mô Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật
Nam Mô Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật
Nam Mô Đại Thông Trí Thắng Phật
Nam Mô Quá Khứ Vô Số Kiếp Nhất Thiết Chư Phật
Nam Mô Vị Lai Hoa Quang Phật
Nam Mô Thập Lục Vương Tử Phật
Nam Mô Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Phật
Nam Mô Xá Lợi Bảo Tượng Tháp Phật
Nam Mô Như Lai Toàn Thân Bảo Tháp Phật
Nam Mô Hạ Phương Thượng Hành Đẳng Phật
Nam Mô A Tăng Kỳ Hiền Kiếp Phật
Nam Mô Tam Thừa Hành Phật
Nam Mô Đại Nhạo Thuyết Pháp Phật
Nam Mô Phả Hiện Sắc Thân Quang Minh Phật
Nam Mô Vô Lượng Tuệ Phan Thắng Phật
Nam Mô Chư Căn Thanh Tịnh Phật
Nam Mô Diệu Tuệ Đức Quang Phật
Nam Mô Vô Biên Thân Bồ Tát
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả
Đệ tử chúng con, dốc lòng thành khẩn, cầu xin sám hối, nguyện xin tội chướng, thảy đều tiêu trừ, kiếp kiếp đời đời, được sinh trước Phật, được nghe Chính Pháp, tu hạnh Đại Thừa, rộng độ chúng sinh, cùng thành Chính Giác. (Nguồn: Mục Liên Sám Pháp)
+ Các sách trích dẫn Thiếu Niên Bảo Thân
Thứ tự kinh sách Đại tạng được trích dẫn:
Kinh Hoa Nghiêm,
|
Kinh Pháp Hoa,
|
Kinh Bát Nhã,
|
Kinh Bảo Tích,
|
Kinh Lăng Nghiêm,
|
Kinh Viên Giác,
|
Kinh Niết Bàn,
|
Kinh Phật Bản Hạnh,
|
Kinh Mật Nghiêm,
|
Kinh A Hàm,
|
Kinh Pháp Cú Dụ,
|
Kinh Quá Khứ Nhân Quả,
|
Kinh Phạm Võng,
|
Kinh Tạp Thí Dụ,
|
Kinh Thiền Bí Yếu,
|
Kinh Phổ Diệu,
|
Kinh Xuất Diệu,
|
Kinh Uy Đức Đà La Ni,
|
Kinh Duy Ma,
|
Kinh Tam Giới,
|
Kinh Bát Sư,
|
Kinh Xử Thai,
|
Kinh Ma Da,
|
Kinh Tu Hạnh Đạo Địa,
|
Kinh Tăng Hộ,
|
Kinh Ưu Điền Vương,
|
Kinh Đề Vị,
|
Kinh Nguyệt Thượng Nữ,
|
Kinh Ma Đặng Nữ,
|
Kinh Nghiệp Báo
Sai Biệt,
|
Kinh Liên Hoa
Diện,
|
Kinh Ni Kiền Tử,
|
Kinh Tạo Tượng,
|
Kinh Thất Phật Diệt
Tội,
|
Kinh Thiền Yếu
Ha Dục,
|
Kinh Đại A Di Đà,
|
Kinh Ưu Bà Tắc
Giới,
|
Kinh Tứ Thập Nhị
Chương,
|
Kinh Nhật Minh
Bồ Tát,
|
Kinh Hiền Ngu
Nhân Duyên,
|
Kinh Khởi Thế
Nhân Bản,
|
Kinh Lâu Thán
Chính Pháp,
|
Kinh Thập Nhị
Nhân Duyên,
|
Kinh Chánh Pháp
Niệm Xứ,
|
Kinh Quán Phật
Tam Muội,
|
Kinh Phật Bát Nê
Hoàn,
|
Kinh Giới
Hương,
|
Đức
|
Luận Du Già,
|
Luận Trí Độ,
|
Luận Câu Xá,
|
Thích Ca Phổ,
|
Quán Kinh Sớ Sao,
|
Hiển Mật Viên Thông,
|
Chuẩn Đề Tịnh Nghiệp,
|
Pháp Uyển Châu Lâm,
|
Tịnh Độ Văn,
|
Chánh Ngoa Tập,
|
Pháp Hỉ Chí,
|
Trúc Song Tam Bút,
|
Hiện Quả Tuỳ Lục,
|
Kê Cổ Lược.
|
|
|
|
|
|
|
Thứ tự sách Nho được trích dẫn: (phụ thêm sách Đạo giáo)
Kinh Dịch,
|
Kinh Thư,
|
Tứ Thư,
|
Lễ Kí,
|
Tả Truyện,
|
Liệt Tử,
|
Trang Tử,
|
Chu Thư Dị
Kí,
|
Sử Kí Chánh
Nghĩa,
|
Tiền Hán Thư,
|
Hậu Hán Thư,
|
Hoài Nam Tử,
|
Tấn Thư,
|
Tống Thư,
|
Nam Tề Thư,
|
Lương Thư,
|
Trần Thư,
|
Nguỵ Thư,
|
Bắc Tề Thư,
|
Chu Thư,
|
Tề Thư,
|
Nam Sử,
|
Bắc Sử,
|
Đường Thư,
|
Tống Sử,
|
Nguyên Sử,
|
Văn Hiến
Thông Khảo,
|
Bắc Sơn Lục,
|
Quảng Nhân Phẩm,
|
Quảng Nhân Lục,
|
Địch Cát Lục,
|
Ý Hạnh Lục,
|
Tri Phi Tập,
|
Đường Thị
Phổ,
|
Tiết Nghĩa
Truyện,
|
Trương Tử Ngữ Lục,
|
Hoàng Minh
Thông Kỷ,
|
Trịnh Cảnh Trọng Tập,
|
Mao Lộc Môn Tập,
|
La Trạng Nguyên Truyện,
|
Tam Giáo Bình Tâm Luận,
|
Dục Hải Thần
Chung,
|
Giới Dâm
Vựng thuyết,
|
Khoa Danh Khuyến Giới Lục,
|
Mạo Hiến Phó Kỉ Sự,
|
Bất Khả Bất
Khả Lục,
|
Tục Bút Thừa,
|
Văn Xương
Hoá Thư,
|
Văn Xương Bảo Huấn,
|
Cảm Khoa Giải Ứng Tập
|
|
Cảm Ứng Thiên Thuyết Định,
|
Cảm Ứng Thiên Quảng Sớ,
|
Cảm Ứng Thiên Đồ Thuyết,
|
Cảm Ứng Thiên Thược Chú.
|
|
|
+ Các pháp tu hành và đoán giải bệnh nạn theo Tâm linh và số mệnh - Cải mệnh: Tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian quy nạp vào 3 loại:
1- Pháp Thế gian: Theo khoa học đời sống THUẦN TÚY, triết lý lấy "Vật chất quyết định ý thức". Cho rằng vạn sự vật "Sinh trưởng phát triển và chết đi" tuân theo quy luật tự nhiên mà có, là pháp vô thần, pháp thiên về KHÔNG, xem như CHẾT LÀ HẾT - Không còn gì nữa cả. Về đạo làm người qua ngũ luân, ngũ thường, bát đức ... thì có thể xem là tương ứng pháp Tiểu thừa trong Phật pháp, bởi Phật pháp là giáo dục, bao gồm tất cả các pháp Thế gian - Tâm linh trong đó. Thánh hiền dậy, Phật pháp bao gồm nhưng không chống trái pháp thế gian là vậy.
2- Pháp Khoa học - Tâm linh: Theo khoa học đời sống TÂM LINH, triết lý lấy "Ý thức quyết định vật chất". Vạn sự vật sinh ra và sự sống đều do "Nhân duyên hòa hợp" theo NHÂN NÀO QUẢ ĐẤY mà có, pháp thiên về CÓ Thần, công nhận chết KHÔNG phải là hết, tất cả do vị Thánh Thần, đức Chúa trời ... tùy theo tôn giáo quyết định "Cát hung - Họa phúc". Phật pháp công nhận có Tánh linh luân hồi chuyển kiếp tái sanh, có vô cùng nhiều loại Quỷ Thần, có thể xem ứng với pháp Trung thừa trong Phật pháp.
3- Pháp Xuất thế gian: Minh triết Phật pháp là pháp cao siêu mầu nhiệm, căn bản nhân loại tiến bộ nhất, thông thái nhất như các nhà Bác học lừng danh cũng chỉ hiểu chút ít, nhiều là khoa học lừng danh đã công nhận triết lý của đức Phật dậy "Tất cả do Tâm tưởng sanh", vừa rất khoa học, vừa rất Tâm linh, công nhận có Nhân quả - Luân hồi - Tái sanh, công nhận sự sống chiếm lấy Vật chất theo Khoa học làm thân thể. Nhưng điểm khác là công nhận chính mình là Linh hồn/ Tánh linh luân hồi theo luật Nhân quả chứ KHÔNG có vị Thần Thánh nào can thiệp vào cuộc sống của mình, kể cả sau khi chết, thân xác tan dã. Do đó, Phật giáo giảng rằng, "Chính mình/ Linh hồn mình" chứ không phải ai khác can thiệp, quyết định số phận của mình, ban phước hay giáng học cho mình, thưởng phạt cho mình ... mà KHÔNG có vị Thần linh nào can thiệp, ban phước hay giáng họa ... cho ai cả. Đây là pháp "Tánh không", hiểu đơn giản là pháp "Vừa có - Vừa không", tức là có bao gồm 2 pháp Khoa học và Tâm linh, nhưng còn tiến lên siêu vượt hơn nữa, nói về sự Diệu nghĩa siêu vượt thượng đẳng này thì không thể dùng ngôn ngữ thế gian hay Tâm linh diễn tả được - Không thể nào.
Tiến hóa trong vũ trụ là "Tâm thức" do Vô minh mà "Sinh vô minh" để rồi đi vào luân hồi hàng tỷ năm, là để tiến hóa qua vật chất thô kệch vô tình, tiến dần tới vật chất hữu tình như cây cỏ, rồi nâng nên đến loài súc sinh có cảm xúc nhưng chưa có trí tuệ, rồi tiến đến loài người trải qua muôn kiếp phiền lão, khổ đau để dần dần phát triển trí tuệ phân biệt, đến trí phân biện, đến trí huệ bát nhà Phật gọi Trí bát nhã là Tánh không "Diệu Giác Minh Thanh Tịnh Sáng Suốt NHiệm Mầu Bao Trùm" khắp Pháp giới chúng sinh.
+ Dụng pháp Phật dậy thời nay: Thánh hiền thưởng giảng câu "Y Kinh giảng nghĩa - Tam thế Phật oan"? Các ngài giảng rằng, thời nay, việc giảng giải kinh Phật thời nay, nhiều vị thầy, đệ tử Phật bao gồm cả xuất gia và tại gia tu hành tinh tấn, nhưng vẫn thường giảng giải kinh Phật theo lối "Y kinh giảng nghĩa", tức là có mức độ cứng nhắc khác nhau mà chưa xét đến hoàn cảnh ra đời, đối tượng nghe kinh khi Phật thuyết pháp đó ... Các Thầy chưa xét thấu đáo tính thời đại ngày nay, nhân loại đã có trí tuệ rất phát triển, với nền khoa học siêu vượt xa thời đức Phật, và như thế, đối tượng nghe giảng pháp đã khác xa về trí tuệ so với hơn 2.600 năm về trước.
Vấn đề này cũng ứng câu HT Tuyên Hóa có giảng, đại khái "Với pháp ngoại đạo hay tà đạo, bậc Thiện tri thức ứng dụng vẫn có thể có lợi ích to lớn cho chúng sinh. Ngược lại, với pháp Chánh đạo mà người có Tâm tà dụng pháp tìm kiếm danh văn lợi dưỡng thì Chánh cũng thành Tà là vậy". Vậy nên, dụng pháp Chánh hay Tà, căn bản do con người dụng "Tâm Thiện Ác" ứng dụng mà phát huy ra kết quả "Cát hung họa phúc", không phải do Pháp mà ra. (Xem thêm: Diễn giải ứng dụng Phật pháp tu Cải mệnh)
+ Các Pháp Phật: Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật: Thế nào gọi là Phật thuyết hết thảy các pháp?
Phật đáp: Phật theo căn tính của chúng sinh và tùy cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi?..... Tất cả 4 loại đó, sau kết tập thành Kinh Tạng. (Nguồn: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân - Phẩm Ưu Ba Ly 8)
+ Lục Tổ Huệ Năng đại sư có nói :
"Phật pháp tại thế gian,
Không rời thế gian giác,
Bỏ thế gian cầu bồ đề,
Ví như tìm sừng thỏ". (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
+ Pháp Xuất Thế Gian/ Chân lý tuyệt đối - Không hý luận (Xét sự sống trong ba đời): Đạo Vô Thượng Bồ Để - Đạo Giác Ngộ Hàng Bồ tát - Bồ Tát Thừa - Pháp Đại Thừa Cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác - Giáo Lý Chân Thật - Là Pháp Trung Đạo - Là Thật Pháp - Pháp Môn Chân Thật - Đệ Nhất Nghĩa Đế - Chân Lý Cao Tột Nhất - Chân Lý Tuyệt Đối - Giáo Pháp Chân Thật Không Còn Hý Luận. Thế nào là nghĩa 'hí luận? Tất cả các pháp môn quyền thừa và lý thuyết của ngoại đạo đều được gọi là hí luận. Giáo pháp đang được giảng giải bây giờ, Thật pháp (Kinh Thủ Lăng Nghiêm), được gọi là nghĩa rốt ráo của Trung đạo (Trung đạo liễu nghĩa). Trung đạo là không rơi vào không, chẳng rơi vào có. Thuyết tự nhiên của hàng ngoại đạo rơi vào chấp không. Thuyết nhân duyên lại thuộc về có. Bây giờ cái chẳng không chẳng có đã được giải nghĩa; đó là nghĩa rốt ráo của Trung đạo, là pháp môn vượt qua mọi hí luận. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Giảng về phân biệt Pháp thế gian/ Hý luận với Pháp xuất thế gian: Tại Làng Mai, chúng ta thường học: Quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới, chỉ có hiện tại mới có thật. Chúng ta gần như đi theo lý thuyết của những người chống đối thầy Long Thọ, không có quá khứ, không có tương lai, chỉ có hiện tại thôi, và mình phải sống sâu sắc trong giây phút hiện tại. Nhưng trong khi nói như vậy thì chúng ta ý thức rằng mình đang nói trên bình diện chân lý tương đối mà không nói đến chân lý tuyệt đối. Chân lý tương đối (conventional truth) thì có chúng ta đang ăn cơm, có chúng ta sẽ đi ngủ, có tôi và có anh, có hai người khác nhau. Nhưng nếu chúng ta xé toạc được màng lưới của chân lý tương đối thì chúng ta có thể thấy được chân lý tuyệt đối. Khi học đến chương Tứ Đế thì thầy Long Thọ sẽ chỉ bày cho chúng ta thấy là có hai sự thật, sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Mời xem TS Thích Nhất Hạnh giảng giải hay và rễ hiểu,(Nguồn: xem tại đây)
+ PS Tịnh Không: Nhà Phật thường nói “y văn giải tự, tam thế Phật oan” nghĩa là y theo câu văn hiểu nghĩa theo mặt chữ, thì ba đời Phật bị oan. Cứ chiếu theo văn tự để nghiên cứu, giải thích thì tam thế chư Phật là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật đều kêu oan uổng, quý vị hiểu lầm ý Phật mất rồi!
Trong bài kệ Khai Kinh có câu “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, tôi nói con người hiện tại hiểu sai lệch, nên trở thành “khúc giải Như Lai chân thật nghĩa” tức là hiểu cong vạy ý nghĩa chân thật của Như Lai, hoặc “ngộ giải Như Lai chân thật nghĩa” là hiểu lầm lạc ý nghĩa chân thật của Như Lai.
- Quý vị xem: Học Phật pháp phải quy về tự tánh, điều này khẩn yếu lắm, giúp cho chúng ta đạt được tâm thanh tịnh, mở mang trí huệ, đấy chính là Phật pháp. ....” (Nguồn: Y Kinh Giải Nghĩa ...)
+ HT Thanh Từ: Chư Tổ nói "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan" có nghĩa là chấp chặt nơi văn tự mà giải nghĩa, thì oan cho ba đời đức Phật, mà rời bỏ kinh điển thì lại lạc vào những tà thuyết của ma vương". Vì lời nói của chư Phật như trên đã trình bày chỉ là phương tiện tạm thời, nghĩa là tùy bệnh cho thuốc. Thuốc trị bệnh của Phật là thuốc phá chấp, nếu chiếu theo văn tự để giải nghĩa, hễ Phật nói Có thì mình chấp cái Có đó là thật, hễ Phật nói Không thì lại chấp cái Không đó là thật, ấy là oan cho Phật.
- Kinh là phá chấp, nếu lìa kinh tức còn chấp, còn chấp là ma, không thể giải thoát được.
- Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy: Giáo pháp của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng, là phương tiện để đạt đến chân lý, cho nên đừng lầm ngón tay là mặt trăng, chân lý không nằm trong kinh điển. Nếu y theo kinh điển để giải nghĩa, để tìm chân lý trong những giòng chữ, thì đó chính là chỉ biết nhìn ngón tay mà chưa biết nhìn mặt trăng. Nhưng rời bỏ hẳn kinh điển đi thì lại có thể rơi vào những điên đảo vọng tưởng. Cũng vì không muốn cho môn đệ chấp chặt rằng kinh điển là chân lý mà thật ra chỉ là phương tiện chỉ bày chân lý cho nên đức Phật đã nói: "trong bốn mươi chín năm thuyết pháp ta chưa từng thuyết một chữ." Và chấp lấy phương tiện làm cứu cánh tức là làm oan ức cho chư Phật, mà bỏ mất phương tiện đi thì cũng không có cách gì đạt đến cứu cánh.
+ Kinh pháp Phật giáo: Phật dạy A Nan rằng: "Chỉ học thuộc lòng và nhiều kiếp nhớ ghi Kinh văn diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian..."..
- A Nan là một điển hình cho chúng sinh tập khí giỏi văn chương, giàu ngôn từ, nhưng không chịu tham thiền, nhập định nên không bao giờ thấy được Pháp thân thanh tịnh của mình. Tuy Phật pháp cao siêu mầu nhiệm và được dung chứa trong 12 bộ kinh, nhưng Đức Phật giáo hóa chúng sinh dựa theo 8 phương thức (tám khoa) khác nhau:
1) Tạng giáo: là các pháp môn tu học có dạy chung trong tam tạng kinh (Kinh tạng, Luận tạng và Luật tạng).
2) Thông giáo: là giáo pháp dạy chung cho tất cả ba hạng căn cơ : Thượng, Hạ, Trung và ba thừa: Tiểu, Trung và Đại.
3) Biệt giáo: là giáo pháp dạy riêng cho mỗi căn cơ hoặc Thượng, hoặc Trung, hoặc Hạ, hoặc riêng cho Tiểu thừa, hoặc riêng cho Trung thừa, Duyên giác, hoặc riêng cho Đại thừa Bồ-tát.
4) Viên giáo: là giáo pháp viên tròn, đầy đủ cũng còn gọi là “liễu nghĩa/ thắng nghĩa”. Thí dụ như kinh Hoa Nghiêm chỉ chuyên dạy cho các hàng Bồ-tát Đại sĩ Pháp thân (từ Thập trụ đến Thập Địa Bồ-tát).
5) Đốn giáo: là giáo pháp đốn ngộ tức là giác ngộ nhanh chóng. Đây là pháp môn trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật hay là “Trực chỉ Thiền” của Tổ Bồ-đề Đạt Ma hay Lục Tổ Huệ Năng.
6) Tiệm giáo: là giáo pháp dạy tu chứng dần dần, từ bậc thấp lên đến bậc cao. Thiền thì có Ngài Thần Tú và cũng là Tịnh độ pháp môn.
7) Bí mật giáo: là dạy vế cách bắt ấn, trì chú, tam mật tương ưng tức thân thành Phật. Nói cách khác thân, khẩu, ý của mình tương ứng với thân, khẩu, ý của Phật. Đây là Mật tông.
8) Bất định giáo: là giáo pháp mà Đức Phật tùy theo cơ nghi thuyết dạy chớ không nhất định là phải thuộc riêng về một căn cơ nào cả. (Nguồn: Mục Lại rơi vào thuyết nhân duyên đối đãi ....)
Cần Copi đoạn trong KInh Thủ Lăng Nghiêm, đoạn đức Phật hỏi đức Văn Thù Sư Lợi (Fai word)
Này Văn-Thủ-Sư-Lợi, nay Như Lai hỏi ông .....
HT Tuyên Hóa giảng: Đây là điểm quan trọng .....
Tướng của vọng tưởng là Trần, Thức tình phân biệt là cấu nhiễm. Cả hai đều dời bỏ, làm sao không thành Vô thượng trí giác ....
Đây chỉ là một đoạn kinh ngắn, nhưng mọi người nên đặc biệt chú ý, đừng dính mắc vào thức tình và dơi vào phân biệt vọng tưởng, quý vị nên tách mình ra khỏi thứ đó. Quý vị có nghe rõ không?
ĐÂY LÀ ĐOẠN KINH ĐẶC BIỆT QUÝ VỊ CẦN NGHI NHỚ KỸ
A-nan chắp tay đảnh lễ bạch Phật, “Con nay nghe Phật mở lòng vô giá đại bi dạy cho chúng con những lời pháp chân thật, thanh tịnh diệu thường. Nhưng tâm chúng con còn chưa được rõ mở từng nút theo thứ lớp, (chưa rõ) mở sáu nút thì một cũng không còn. Xin Đức Phật lại mở lòng từ bi, thương xót hội chúng nầy và những chúng sinh trong đời sau, mà ban bố cho pháp âm, để rửa sạch những cấu nhiễm sâu dày của chúng con.”
Liền khi ấy từ toà sư tử, Như Lai chỉnh y niết-bàn tăng, vén y tăng-già-lê, vin vào bàn thất bảo, tay cầm lên chiếc khăn hoa kiếp-ba-la do chư thiên dâng cúng.
Rồi Đức Phật ở trước đại chúng, (từ chiếc khăn) cột thành một nút, đưa cho A-nan xem và hỏi rằng, “Đây là cái gì?” (Giảng: Chiếc khăn hoa biểu tượng cho tánh Như Lai tạng. Sáu nút trên đó biểu tượng cho sáu căn.)
Đức Phật bảo A-nan, “Khi Như Lai mới cột khăn lại thì ông gọi là nút, cái khăn hoa nầy, trước đây chỉ một cái, tại sao lần thứ hai, thứ ba, ông vẫn gọi là nút.”
A-nan bạch Phật rằng, “Bạch Thế tôn, chiếc khăn hoa thêu quý báu nầy vốn chỉ một thể, song theo ý con, khi Như Lai cột một lần thì gọi là một nút, nếu cột 100 lần, thì thành 100 nút. Huống chi khăn nầy chỉ có sáu nút, không đến bảy, cũng không dừng ở năm. Sao Như Lai chỉ gọi cái đầu tiên là nút, mà cái thứ hai thứ ba thì không gọi là nút?”
Đức Phật bảo A-nan, “Cái khăn hoa báu nầy, ông biết nó vốn chỉ là một, khi Như Lai thắt sáu lần thì ông gọi là sáu nút. Ông quán sát kỹ, thấy thể của khăn nầy là đồng, do vì các nút mà thành ra khác.” (Giảng: Điều nầy biểu tượng cho tánh Như Lai tạng vốn là một; sáu căn là những nút thắt trong đó. Nhưng dù có đến sáu nút, thể của Như Lai tạng vẫn chỉ là một. Nếu quý vị mở được sáu nút, thì ngay cả một cũng chẳng còn.).
Ý ông nghĩ sao? Khi mới cột nút lần đầu thì gọi là nút thứ nhất, như thế cho đến nút thứ sáu. Nay Như Lai muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất có được không?
Bạch Thế tôn. Không. Nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ sáu, rốt cuộc chẳng phải là cái thứ nhất. Dù con có biện bạch hết đời, làm sao có thể lộn lạo tên gọi của sáu nút kia được?
Đức Phật dạy, “Đúng vậy, sáu nút không đồng nhau, Xét về căn gốc, vẫn do một cái khăn mà ra. Nhưng làm cho nó đảo lộn thứ tự thì rốt ráo không thể được.”
Sáu căn của ông cũng giống như vậy. Trong thể tánh tuyệt đối giống nhau, lại sinh ra cái tuyệt đối khác nhau.
Đức Phật bảo A-nan, ‘Ông chắc không muốn có sáu nút nầy, mà chỉ muốn thành một thể, việc ấy phải làm sao?’
Đức Phật bảo, ‘Nghĩa mở được sáu, một không còn cũng như vậy.’
Giảng giải:
Đức Phật bảo A-nan, ‘Ông chắc không muốn có sáu nút nầy. Ông chắc là không thích thành ra có sáu nút.’ Đức Phật nói với đệ tử, ‘Ông muốn mở sáu nút ra khiến chúng không còn nữa, mà chỉ muốn thành một thể. Ông muốn làm được chuyện ấy. Nhưng việc ấy phải làm sao?’
A-nan nghe Đức Phật hỏi và thưa rằng, ‘Nếu còn những nút đó, thì điều thị phi sẽ nổi dậy. A-nan thừa nhận, ‘Con muốn giải trừ sáu nút để chỉ còn một thể duy nhất, vì hễ còn sáu nút, thì vẫn còn những điều bàn tán thị phi về chúng.’ Lý do của sự tranh cãi là sự phân biệt giữa các nút ấy. Trong đó sẽ tự cho rằng nút nầy chẳng phải là nút kia, nút kia chẳng phải là nút nầy. Bên trong những nút nầy sẽ có những tranh cãi về nút nào là thật, nút nào chẳng thật. ‘Nút nầy,’ là nút thứ nhất, chẳng phải là nút thứ sáu; và ‘nút kia’ là nút thứ sáu, chẳng phải là nút thứ nhất. Sự phân biệt sinh khởi từ vấn đề cái nầy và cái kia.
Nhưng nay Như Lai giải trừ tất cả. Các nút đã không sinh ra thì không có bỉ thử. Không còn là nút thứ nhất, nút thứ nhì, nút thứ ba, nút thứ tư, nút thứ năm, nút thứ sáu. Đã không có một. Khi sáu nút đã được giải trừ sạch rồi thì một cũng chẳng còn. Thì sáu làm sao thành? ’
Đức Phật bảo, ‘Nghĩa mở được sáu, một không còn cũng như vậy.’
“Giỏi lắm,” Đức Phật bảo A-nan, “Ông nói điều ấy rất đúng. Nếu ông hiểu nguyên lý ấy, thì ông sẽ nhận ra rằng ‘mở được sáu, một không còn’; vì nó đồng một nghĩa. Nay ông đã rõ điểm nầy chưa?
Do từ vô thuỷ, tâm ông điên loạn. Tri kiến vọng phát mãi mãi không dừng, làm cho tri kiến sinh mệt nhọc.
Tất cả các tướng trong thế gian, núi sông đất liền, sinh tử niết-bàn, đều là tướng hoa đốm điên đảo, do bệnh mê lầm mà phát ra.
A-nan thưa, “Bệnh mê lầm nầy cũng giống như các nút thắt, làm sao để giải trừ?”
Đức Phật dùng tay cầm cái khăn có nút, kéo mối bên trái, hỏi A-nan rằng, “Thế này có cởi được không?”
A-nan đáp: “Bạch Thế tôn. Không.”
Đức Phật dùng tay kéo riêng mối bên phải, rồi hỏi A-nan rằng, “Thế này có cởi được không?”
A-nan đáp: “Bạch Thế tôn. Không.”
Đức Phật bảo A-nan, nay Như Lai dùng tay kéo mối bên phải rồi bên trái, rốt cuộc vẫn không cởi được. Vậy ông dùng phương tiện nào mà mở ra được?
A-nan bạch Phật ngôn, “Bạch Thế tôn, ngài phải cởi từ chính giữa, các nút sẽ được mở ra.”
Đức Phật bảo A-nan, “Đúng vậy, đúng vậy. Nếu ông muốn mở nút, ông phải mở từ chính giữa.”
A-nan, Như Lai nói Phật pháp do nhân duyên sinh, chẳng phải là căn cứ vào những tướng hoà hiệp thô trọng của thế gian. Như Lai nhận ra các tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ bản nhân của chúng do nhân duyên gì mà phát sinh ra.
Như thế cho đến một giọt mưa ngoài hằng sa thế giới, (Như Lai) cũng đều biết số mục. Cũng như nay trước mắt ông, các thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, (Như Lai) đều biết nguyên do.
Vậy nên A-nan, tuỳ tâm ông lựa chọn trong sáu căn, nếu trừ được nút thắt trong căn ấy rồi, thì trần tướng tự diệt. Các vọng đã tiêu, đó chẳng phải chân thì là gì?
A-nan, nay Như Lai hỏi ông, “Cái khăn hoa nầy hiện có sáu nút, nếu đồng thời cởi ra, thì có thể cùng lúc trừ hết được chăng?”
“Bạch Thế tôn. Không. Những nút nầy khi cột lại, vốn có thứ tự. Nay cũng phải theo thứ lớp mà mở. Sáu nút tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng thời, thì khi mở nút, làm sao cùng một lúc mà mở hết được?”
Đức Phật dạy rằng, “Việc giải trừ các nút nơi sáu căn cũng như vậy. Khi các căn bắt đầu được mở, trước hết sẽ được nhân không. Đến khi tánh không viên mãn sáng suốt, thì giải thoát được pháp chấp. Pháp chấp được giải thoát rồi, thì cả nhân không lẫn pháp không đều chẳng sanh khởi.”
Đó gọi là Bồ-tát do tam-ma-điạ mà chứng được vô sanh nhẫn. (Giảng giải: Bồ-tát đạt được định lực, như vậy có thể chứng được vô sinh pháp nhẫn, đó là cảnh giới của hàng Bồ-tát). (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ PHẬT DẬY CHỈ RÕ CHỖ HƯ VỌNG CỦA SÁU CĂN VÀ CHỌN PHÁP TU MỘT CĂN <=> SÁU CĂN THANH TỊNH
Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Vì sao đi sâu vào một căn lại có thể khiến cho sáu căn đồng thời thanh tịnh? Phật dạy rằng:
- A Nan! Ông được quả Tu Đà Hoàn, song tập khí vô thỉ còn thiếu, chưa thể một lúc tháo gở những lớp vô minh: sinh, trụ, dị, diệt.
- Ông hãy xét kỹ, sáu căn hiện tiền là một hay là sáu? Nếu bảo là một thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không nghe, đầu sao không đi, chân sao không nói? Còn nếu quyết định cho là sáu thì hiện tôi đang dạy cho ông pháp môn tu hành, vậy trong sáu căn của ông, căn nào tiếp thu, căn nào lãnh thọ?
Ông A Nan thưa:
-Tôi dùng lỗ tai nghe lời Phật dạy.
Phật bảo:
- Ông dùng lỗ tai nghe, vậy thì lỗ tai ông tự nghe nào dính dáng gì đến thân và miệng. Mà miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy tỏ vẻ kính vâng? Lấy đó mà suy nghĩ thì căn không phải một cũng không phải sáu. Mà cũng một cũng sáu. Tại vì sự chấp mê điên đảo vô thỉ cho nên cái thể viên minh kia lại sanh ra một, sanh ra sáu. Ví như hư không không tham hợp với các vật. Lu, bình, lọ, cốc do hình trạng đồ vật khác nhau mà hư không thành ra sai khác. Trừ bỏ đồ vật ấy đi thì người ta gọi hư không là một. Sự thật, hư không kia không vì ông mà thành đồng hay khác; huống nữa lại gọi là một hay không phải là một.
* Sáu căn hay biết của ông cũng vậy......
Tiếp theo, Đức Phật giảng về Nhãn quan cho ngài A Nan
- Thế nên A-nan! Nay ông phải biết, khi thấy sáng thì cái thấy không phải là sáng, khi thấy tối thì cái thấy không phải là tối, khi thấy hư không thì cái thấy không phải là hư không, khi thấy ngăn bít thì cái thấy không phải là ngăn bít.
HT Tuyên Hóa giảng:
Thế nên, A-nan! Do nghĩa lý vừa được giải thích, "nay ông phải biết, khi thấy sáng thì cái thấy không phải là sáng". Khi ông nhìn thấy sáng, thì cái thấy của ông chắc chắn không phải là sáng, tánh thấy của ông chắc chắn không phải là sáng, chắc chắn tánh thấy của ông không nhờ ánh sáng mà có được; tánh thấy của ông hòan toàn không bị cảnh ấy xoay chuyển.
"Khi thấy tối thì cái thấy không phải là tối", khi thấy tối đen thì cái thấy của quý vị chắc chắn không phải là cái tối. Cái thấy của quý vị vẫn không thay đổi. Nó cũng giống như cái thấy khi thấy được sáng; cái thấy là đồng nhất, chắng có gì khác biệt.
"Khi thấy hư không thì cái thấy không phải là hư không". Khi quý vị thấy hư không thì cái thấy của quý vị chắc chắn không bị xoay chuyển bởi hư không. Cái thấy ấy không chạy theo hư không.
"Khi thấy ngăn bít thì cái thấy không phải là ngăn bít".
Khi quý vị thấy nơi bị ngăn bít thì chắc chắn cái thấy của quý vị không phải theo đó mà trở nên ngăn bít. Tánh thấy không thể nào bị biến chuyển theo hòan cảnh bên ngoài. Tánh thấy không hề bị lay động bởi ngoại cảnh. Đó chính là tánh thấy thường trụ bất sinh bất diệt của quý vị.
Bốn nghĩa đã thành tựu. Ông lại nên biết khi ông thấy (biết) được tánh thấy, thì tánh thấy không phải là cái (bị) thấy. Tánh thấy còn vượt xa cả cái thấy và cái thấy còn không thể bắt gặp tánh thấy được. Làm sao ông còn nói nhân duyên tự nhiên và tướng hòa hợp?(Nguồn: xem mục Chỉ rõ chỗ hư vọng của sáu căn)
+ Tu sáu căn theo Pháp Đại Thừa - Tu Bồ Tát đạo: Trích đoạn Đức Phật bảo ngài A Nan:
Nghĩa thứ hai, các ông chắc muốn phát tâm bồ-đề, sanh tâm đại dõng mãnh với bồ-tát thừa, quyết định rời bỏ các tướng hữu vi. ( Giảng: ‘Hưũ vi’ là chỉ cho tất cả các pháp được tạo tác. Mọi thứ có hình tướng đều là pháp hữu vi.)
Ông nên xét rõ cội gốc phiền não. Những thứ vô minh phát nghiệp nhuận sanh từ vô thủy đến nay, là do ai làm ai chịu?
A-nan, ông tu đạo bồ-đề, nếu không quán sát rõ cội gốc phiền não, thì không thể biết được căn trần hư vọng, điên đảo chỗ nào. Chỗ (điên đảo) còn không biết, làm sao hàng phục được nó, để thủ chứng quả vị Như Lai?
A-nan, ông xem người muốn mở các gút buộc trong thế gian, nếu không thấy chỗ gút, thì làm sao biết mở?
Nhưng chẳng nghe hư không bị ông phá vỡ bao giờ. Sao vậy? Hư không chẳng có hình tướng, nên chẳng có thắt và mở.
Như hiện nay sáu thứ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà.
Do đây mà chúng sinh trong thế giới từ vô thủy phát sinh sự ràng buộc, không thể thoát khỏi các hiện tượng thế gian.
Ông nên xét rõ cội gốc phiền não. Những thứ vô minh phát nghiệp nhuận sanh từ vô thủy đến nay, là do ai làm ai chịu?
A-nan, ông tu đạo bồ-đề, nếu không quán sát rõ cội gốc phiền não, thì không thể biết được căn trần hư vọng, điên đảo chỗ nào. Chỗ (điên đảo) còn không biết, làm sao hàng phục được nó, để thủ chứng quả vị Như Lai?
A-nan, ông xem người muốn mở các gút buộc trong thế gian, nếu không thấy chỗ gút, thì làm sao biết mở?
Nhưng chẳng nghe hư không bị ông phá vỡ bao giờ. Sao vậy? Hư không chẳng có hình tướng, nên chẳng có thắt và mở.
Như hiện nay sáu thứ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà.
Do đây mà chúng sinh trong thế giới từ vô thủy phát sinh sự ràng buộc, không thể thoát khỏi các hiện tượng thế gian.
A-nan, thế nào gọi là chúng sinh và thế giới? Thế là dời đổi, giới là phương hướng.(Thế là thời gian; có nghĩa là dời đổi; Giới là không gian, tức là phương vị, nơi chốn. Hai từ nầy ghép lại gọi là thế giới_HT Tuyên Hóa)
Nay ông nên biết các phương đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới là giới; quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương vị có mười, số lưu chuyển của thời gian có ba (các phương đông, tây, nam, bắc– bốn phương – và tây nam, đông bắc, tây bắc– bốn hướng_HT Tuyên Hóa)
Hết thảy chúng sinh đan dệt cái giả dối mà thành. Sự dời đổi trong thân và thế giới gắn bó với nhau.
Nhưng tánh của thế giới ấy dù có thiết lập tuy cả mười phương, định vị có rõ ràng. Thì thế gian chỉ nhận phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc. Phương trên phương dưới không có vị trí rõ ràng, ở giữa cũng không có phương vị nhất định. Số bốn đã rõ, nhân với số thế. Ba lần bốn, bốn lần ba thành ra mười hai. (tam thế và tứ phương).
Nhân cho ba lớp, mười thành trăm, thành ngàn. Tổng quát trước sau trong lục căn, mỗi căn có một ngàn hai trăm công đức.[6]
A-nan, trong sáu căn đó, ông lại khắc định điểm mạnh điểm yếu. Như nhãn căn xem thấy phía sau tối, phía trước sáng; phương trước hoàn toàn sáng, phía sau hoàn toàn tối. Nhìn qua lại hai bên, chỉ được hai phần ba (⅔). Tóm lại, công năng của nhãn căn không được hoàn toàn. Trong ba phần công đức, một phần không có. Nên biết nhãn căn chỉ có tám trăm công đức.
Như nhĩ căn nghe khắp cả mười phương không sót. Động thì giống như có xa, có gần; tĩnh thì không ngằn mé. Nên biết nhĩ căn viên mãn một ngàn hai trăm công đức.
Như tỉ căn biết ngửi thông cả lúc thở ra thở vào. Có ra có vào, nhưng gián đoạn trong khoảng giữa. Xét kỹ tỉ căn ba phần khuyết một. Nên biết tỉ căn chỉ có tám trăm công đức.
Như thiệt căn có thể diễn nói về trí thế gian và xuất thế gian. Lời nói có phần hạn, nhưng lý thì vô cùng. Nên biết thiệt căn viên mãn một ngàn hai trăm công đức.
Như thân căn biết sự xúc chạm, biết các cảm xúc khó chịu và dễ chịu. Khi tiếp xúc thì biết, khi rời ra thì không. Rời ra chỉ một, hợp lại thành hai. Xét kỹ thân căn ba phần khuyết một. Nên biết thân căn chỉ có tám trăm công đức.
Như ý căn âm thầm dung nạp tất cả các pháp thế gian - xuất thế gian trong mười phương ba đời. Dù thánh hay phàm, chẳng pháp nào mà không bao dung đến tột cùng ngằn mé. Nên biết ý căn viên mãn một ngàn hai trăm công đức.
A-nan, nay ông muốn ngược dòng ái dục sinh tử, quay ngược lại các căn lưu ngại, đến chỗ không sinh diệt.
Ông nên xét trong sáu căn hiện đang thọ dụng nầy. Căn nào hợp, căn nào ly. Căn nào sâu, căn nào cạn. Căn nào viên thông, căn nào không viên mãn?
Nếu ngay nơi đây ngộ được căn tánh viên thông, ngược với dòng nghiệp hư vọng đan dệt từ vô thủy kia, theo tính viên thông, thì đối với việc tu tập ở các căn không viên thông hiệu quả sẽ gấp bội, một ngày bằng một kiếp.
Nay Như Lai đã chỉ rõ sáu căn vắng lặng sáng suốt viên thông, vốn có đầy đủ công đức như vậy. Tuỳ ông xét kỹ căn nào có thể nhập đạo được. Như Lai sẽ giảng rõ, giúp ông tiến bộ hơn.
Chư Phật Như Lai ở trong mười phương, đối với mười tám giới, mỗi giới tu hành đều được viên mãn vô thượng bồ-đề. Trong các giới đó, không có cái nào hơn kém.
Chỉ vì căn cơ ông còn thấp kém, chưa thể ở trong trí huệ viên mãn tự tại ấy được. Nên Như Lai mới giảng nói, khiến cho ông chỉ cần đi sâu vào một căn.
Vào một căn không còn vọng tưởng, thì cả sáu căn kia đồng thời thanh tịnh.
A-nan bạch Phật rằng, “Bạch Đức Thế tôn, thế nào là ngược dòng, đi sâu vào một căn, khiến cho sáu căn đồng thời thanh tịnh?”
Đức Phật bảo A-nan, “Nay ông đã chứng quả Tu-đà-hoàn. Đã diệt trừ được kiến hoặc[7] của chúng sinh và thế gian trong tam giới. Nhưng do chưa biết rõ những tập khí hư vọng chứa nhóm trong căn từ vô thủy. Các tập khí ấy phải do nhờ tu nhân mới trừ hết được. Huống gì trong đó, còn phải chịu sanh trụ dị diệt và nhiều chi tiết về sanh trụ dị diệt?
Nay ông hãy xem sáu căn hiện tiền là một hay là sáu? A-nan, nếu nói là một thì sao lỗ tai không thấy, mắt sao không nghe. Cái đầu sao không biết đi, chân sao không nói được?
Nếu các căn ấy quyết định là sáu, như nay Như Lai ở trong hội chúng vì các ông mà tuyên dương pháp môn vi diệu. Vậy trong các căn của ông cái gì đến lãnh thọ?
Do vậy nên biết, nếu không phải một thì phải là sáu, nếu không phải sáu thì phải là một. Thế nên các căn của ông, rốt ráo chẳng phải là một, chẳng phải là sáu.
A-nan nên biết, các căn ấy không phải là sáu, không phải là một. Do từ vô thủy đến nay điên đảo chấp trước, nên đối với tánh viên trạm, sinh ra nghĩa một và sáu. Ông đã chứng quả Tu-đà-hoàn, tuy chấp vào sáu đã tiêu, nhưng cái chấp một chưa quên. (Cái gì là “một?” Nó biểu tượng cho sự đắm chấp vào các pháp, một loại chấp trước vẫn đang còn. Mặc dù sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đã được tiêu trừ, nhưng cái chấp vào các pháp vẫn chưa được trừ sạch_HT Tuyên Hóa)
Như bầu hư không, chung hợp với các vật. Do hình trạng các vật có khác, nên gọi là hư không có khác. Nếu bỏ các vật ra mà quán sát hư không, thì nói hư không là một.(Đó là lý do ông không thể nói là sáu mà cũng không thể nói là một. Nó chẳng phải là một cũng chẳng phải là sáu. Nó chính là bầu hư không rộng lớn. Nếu quý vị giống như bầu hư không rộng lớn, tại sao còn muốn giữ lại quá nhiều vô minh phiền não? Chỉ vì quý vị không thể rời bỏ những điều nầy và không nhận ra được bản lại diện mục. Và do vì không nhận ra bản lại diện mục của mình, nên không thể nhập được trí huệ cứu cánh_HT Tuyên Hóa)
Hư không kia làm sao vì ông mà thành đồng hay khác? Huống chi lại gọi là một hay chẳng phải một. Thế ông đã biết, sáu căn thọ dụng cũng giống như vậy.
Do hai thứ tối sáng hiển bày lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái thấy. Cái thấy ánh hiện ra thành sắc, kết sắc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhãn căn’ như trái bồ đào. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo sắc.
Do hai tướng động tỉnh đối chọi lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái nghe. Cái nghe ánh hiện ra thành tiếng, cuộn cái tiếng lại thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘nhĩ căn’ là lá sen non. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo âm thanh.
Do hai tướng thông và bít phát hiện lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính ngửi. Tính ngửi ánh hiện ra thành hương, thu nạp các hương thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘tỉ căn’ như hai móng tay duỗi xuống. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo hương.
Do vị nhạt và vị khác xen lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra tính nếm. Tính nếm ánh hiện ra thành vị, thu nạp các vị thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi hình thể của ‘thiệt căn’ như mặt trăng lưỡi liềm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo vị.
Do hai tướng ly và hợp cọ xát lẫn nhau, kết dính sự yên lặng trong tánh diệu viên mà phát ra cái biết xúc chạm. Tính biết xúc chạm ánh hiện thành xúc, thu nạp các xúc thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi thể của ‘thân căn’ như cái trống cơm. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo xúc.
Do hai thứ sinh diệt tương tục lẫn nhau, kết dính tánh yên lặng nơi tánh diệu viên mà phát ra cái biết. Tính biết ánh hiện thành các pháp, thu nạp các pháp thành căn. Bổn nguyên của căn là tứ đại thanh tịnh. Nhân đó gọi là ‘ý tư,’ như cái thấy trong nhà tối. Phù căn tứ trần giong ruổi chạy theo pháp. (Đoạn kinh nầy nói đến ý căn, tức thức thứ sáu, là đối tượng của sinh diệt. Khi niệm trước vừa đình chỉ, niệm sau liền sinh khởi. Năng lực của tánh biết là thu nạp các pháp, chính là trần cảnh. Ý căn bị thu hút bởi pháp trần_HT Tuyên Hóa)
A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng. (Ánh sáng - Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám_HT Tuyên Hóa)
Vậy nên nay ông rời tối rời sáng, thì không có cái thể của thấy. Rời động rời tỉnh, thì không có cái nghe. Không có thông không bít, thì tính ngửi không phát sinh. Không có mùi vị, không lạt, thì tính nếm không có. Không rời xa, không kết hợp thì tánh xúc chẳng có. Không sanh không diệt, thì cái biết gá chỗ nào?
Ông chỉ cần không theo động tĩnh hợp li, điềm biến thông tắc, sanh diệt ám minh, mười hai tướng như vậy.
Tuỳ theo đó mà nhổ sạch một căn, thoát khỏi dính mắc, hàng phục nó từ bên trong. Hàng phục rồi trở về cội nguồn chân tâm, và phát ra tính sáng suốt vi diệu vốn có. Khi tánh sáng suốt phát minh thì năm mối kết dính kia cũng được mở sạch. (Hàng phục vô minh từ trong chính mình. Chuyển hoá mọi vọng tưởng. Khi vô minh và vọng tưởng đã được hàng phục, mình sẽ được quay về với bản nguyên, tức chân tâm. Khi một căn được nhổ sach những dính mắc, thì những căn khác đang bị khằng dính cũng được nhổ sạch. Chúng đồng thời được giải thoát._HT Tuyên Hóa)
Không do tiền trần mà khởi lên cái thấy biết, thì cái sáng suốt sẽ không theo căn, chỉ gá nơi căn mà tánh sáng phát ra. Do đó mà sáu căn được dùng thay cho nhau.
A-nan, ông sao không biết, trong hội chúng nầy, ông A-na-luật-đà không có mắt mà vẫn thấy. Rồng Bạt-nan-đà không có tai mà vẫn nghe. Thần nữ Căng-già không có mũi mà ngửi được mùi hương. Ông Kiều-phạm-ba-đề lưỡi khác lưỡi người mà vẫn nếm được mùi vị. Thần Thuấn-nhã-đa không có thân mà vẫn biết xúc chạm. Do hào quang của Như Lai ánh ra mà tạm hiện có thân, chứ bản chất của ông là gió, chứ không có thân thể. Các vị Thanh văn được tịch diệt trong diệt tận định như Ma-ha Ca-diếp trong hội nầy, ý căn đã diệt từ lâu rồi, mà vẫn rõ biết cùng khắp nhưng không do ở tâm niệm.
A-nan, nay các căn của ông nếu đã hoàn toàn nhổ sạch, sáng suốt bên trong sẽ phát ra. Như thế các phù trần và các tướng biến hoá trong thế gian như nước nóng làm tan băng. Ứng với tâm niệm,
A-nan như người thế gian kia gom cái thấy nơi mắt, nếu biểu nhắm kín thì tướng tối hiện ra. Cả sáu căn đều tối, thì đầu và chân đều giống nhau. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài thân thể, tuy không thấy được nhưng đã nhận ra đầu và chân rồi thì cái hiểu biết vẫn như nhau.
Nếu sáng là duyên cần thiết của cái thấy, thì khi tối sẽ thành ra không thấy. Chứ không có ánh sáng mà phát ra cái thấy, thì các tướng không thể nào làm mờ tối được.
Căn trần đã tiêu, làm sao tánh giác minh chẳng thành viên mãn và vi diệu? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương IV)
+ A lại gia thức (Alaya, tàng thức, toàn linh thức, Alaya Vijnana): - Alaya Vijnna tức là tri thức ẩn tàng (hidden knowledge). (Thư của Ch. S. 361)
+ Thức thứ 8: Trong kinh Giải Thâm Mật, đức Như Lai vì hàng Bồ-tát mới phát tâm chẳng hay nhận được thức thứ tám, cho rằng thức thứ tám có hai nghĩa: minh và chẳng minh (chân và vọng), nên riêng lập thức thứ chín (bạch tịnh thức), lấy phần Bạch tịnh Thiên Chân (nghiêng về chân) kia, cũng tùy phương tiện mà nói, cùng với nghĩa này giống nhau.
+ Thứ Thứ 8 - Phát Quang minh/ Ánh sáng: ... A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng; Giảng giải:
Vậy nên, do giáo lý đã được giải thích ở đoạn trên, là không cần phải soi lại tánh giác minh; chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà tánh giác ấy biến thành vọng giác và vọng minh– kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - IV)
* Thức thứ 8: HT Tuyên Hóa giảng: Phật tánh là tự tánh mà mỗi chúng sinh đều vốn có đầy đủ. Am-ma-la thức là vô cấu thức. Trước khi giác ngộ, thức nầy gọi là thức thứ tám, tức A-lại-da thức, có nghĩa là tàng thức, tên gọi cho ta biết trong đó chứa đựng mọi thứ. Am-ma-la thức là sự chuyển hoá của thức thứ tám thành thanh tịnh thức. Không Như Lai tạng là một tên gọi khác và Đại viên cảnh trí cũng chỉ là một tên. Bảy danh hiệu ấy tên gọi tuy khác, dù trong quả địa danh xưng có khác, mà thể tánh thanh tịnh. Mà đạo lý của nó, về phương diện bản thể, vẫn là thanh tịnh viên mãn vững chắc như kim cương vương, thường trụ bất hoại. Không bao giờ bị biến hoại. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.4 - Ch.V)
+ Các Thức Tâm:
- Thức tạo nghiệp gồm 6 Thức Căn: (1) Nhãn thức - (2) Nhĩ thức - (3) Tị thức - (4) Thiệt thức - (5) Thân thức - (6) Ý thức;
- Thức Luân hồi: 3 thức gồm Ý thức - Thức 6 và Thức 7 (Nhập - Xuất Nghiệp từ thức 6 vào thức 8) và Thức 8 / A Lại Da Thức/ Tàng thức chứa Nghiệp đi luân hồi sanh tử.
* Để bắt đầu, tánh Như Lai tạng vốn chẳng phải là đối tượng của sinh diệt. Nhưng tối tăm mê muội làm thành hư không (hối muội vi không). Ngay tại đó mà vô minh sinh khởi. Thế nên, mặc dù tánh Như Lai tạng là bất sinh bất diệt, nhưng nương nơi chân mà khởi vọng, theo đó là tâm đối tượng của sinh diệt phát sinh – đó là thức. Thức nầy phân thành thức thứ sáu, thức thứ 7 và thức thứ 8. Nhưng cội nguồn của thức thứ 8 vốn phát khởi từ vô minh, tạo ra các thứ sinh diệt, lại là tánh của Như Lai tạng, tánh Như Lai tạng nầy lại chẳng phải là đối tượng của sinh diệt. Căn nguyên của nó chính là chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể.
Do nương nơi chân mà khởi vọng, nên tánh Như Lai tạng biến thành A-lại-da thức, tức là thức thứ 8, còn gọi là tàng thức.
Thức thứ 8 là cơ sở hiện hữu của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Do thức uẩn sinh khởi đầu tiên mà có hành uẩn. Đây là thức thứ 7, tức Mạt-na thức, còn gọi là truyền tống thức. Thức nầy truyền đạt những thông tin từ thức thứ sáu vào thức thứ 8. Chính nó lập nên hành uẩn.
Uẩn tiếp theo là tưởng uẩn; đây là thức thứ sáu, còn gọi là ý thức. Thọ uẩn là một trong năm thức đầu tiên: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức. Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, mỗi thứ tương ứng với một nút thắt. Sắc uẩn được kể là 2 nút, vì nó thô trọng hơn. Như vậy, sáu nút bắt đầu với thức thứ 8 và hoạt dụng thông qua thức thứ 7 và thức thứ sáu rồi thông qua năm thức giác quan. Với sự hiện hữu của ngũ uẩn mà ngũ trược được hình thành, tạo ra không biết bao nhiêu chướng ngại.
... Hư Không Tạng Bồ-tát, từ trong chân tâm thường trú hiện ra đại viên kính trí. Kính nầy biểu tượng cho đại trí huệ. Khi thức thứ 8 được chuyển thành thanh tịnh, thì nó trở thành đại viên kính trí. Trong đó phóng ra 10 loại hào quang báu vi diệu, đều soi sắp cùng tận hư không khắp mười phương. Ánh sáng hào quang rất rực rỡ, chiếu khắp cùng tận hư không ở mười phương (Nguồn: Kinh Thủ LN- Q.5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thức thứ tám - Bổn thức hay Thần thức: "Bổn thức" hay "thần thức," là chỉ cho Thức Thứ Tám (đệ bát thức). Thức Thứ Tám này thì "khứ hậu lai tiên," đến trước nhưng lại đi sau; do đó có bài kệ nói rằng:
Tam Tàng mênh mông không cùng tận,
Vực sâu bảy sóng đùa trước gió,
Giữ gìn chủng tử căn thân khí,
"Ðến trước đi sau," làm "ông chủ"!
“Tam Tàng mênh mông không cùng tận”,(Hạo hạo Tam Tàng bất khả cùng.) "Hạo hạo" có nghĩa là rộng lớn, mênh mông. "Tam Tàng" là chỉ cho Thức Thứ Tám—tức là A-lại-da thức, hay còn gọi là "tàng thức" (thức chứa). Vì sao gọi là "Tam Tàng"? "Tam Tàng" ngụ ý rằng các chủng tử của ba đời —quá khứ, hiện tại và vị lai—đều được tàng trữ, giữ lại trong Thức Thứ Tám này. Các chủng tử ấy—niệm tâm của chúng ta—ví như những đợt sóng trên biển cả vậy, vô cùng vô tận, nên nói là "bất khả cùng."
“Vực sâu bảy sóng đùa trước gió " (Uyên thâm thất lãng cảnh tiền phong) " bảy sóng” (thất lãng) là chỉ cho Thức Thứ Bảy. Thức Thứ Bảy còn được gọi là "truyền tống thức," vì thức này có chức năng chuyển đạt ý tứ của sáu thức trước tới cho Thức Thứ Tám. "cảnh trước gió” (cảnh tiền phong)—tức là giống như ngọn gió từ phía trước thổi tới.
“Giữ gìn chủng tử căn thân khí " (Thọ huân trì chủng căn thân khí") Do vì Thức Thứ Tám nhận sự "truyền tống," chuyển giao ý tứ từ Thức Thứ Bảy, nên gọi là "giữ “ (thọ huân.) "gìn chủng tử” (trì chủng) có nghĩa là gìn giữ các chủng tử ở bên trong. "Căn thân khí" tức là "căn thân khí giới" đều ở trong các chủng tử đó. Thức Thứ Tám có công năng duy trì chủng tử của tất cả các pháp, thân căn, thế giới.
"Ðến trước đi sau," làm "ông chủ"! (Khứ hậu lai tiên tác chủ ông). Con người, khi sanh ra thì Thức Thứ Tám đến trước nhất, và lúc chết thì Thức Thứ Tám là thức đi sau cùng. Quý vị khởi vọng tưởng muốn làm điều gì thì đều do Thức Thứ Tám làm chủ tể ủng hộ, trợ giúp; cho nên nói thức này là "Ðến trước đi sau," làm "ông chủ"!
Trong phần kinh văn này, "bổn thức" là chỉ cho Thức Thứ Tám. Khi vừa mới chết, tuy các thức đã phân tán, đã rời khỏi xác thân rồi—nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức đều không còn—song Thức Thứ Tám thì vẫn còn nán lại, chưa đi hẳn. Ngay lúc này, nếu quý vị vì người chết mà tụng Kinh niệm Phật hoặc làm việc công đức, thì phải lớn tiếng tụng niệm và kể ra để cho Thức Thứ Tám của người ấy nghe biết—đó gọi là "nơi bổn thức nghe biết" (văn tại bổn thức) vậy. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ A Lại Da Thức: Hãy nghe lời giải thích của Bồ tát Thế Thân về A-lại-da thức như sau: “Dòng chảy của các biến cố tâm thần mà bạn trải nghiệm, để lại hạt mầm (chủng tử) của nghiệp trong thức lưu trử nên gọi là Tàng thức (A-lại-da thức). Các hạt mầm được tồn trử trong nhà kho đó cho tới sau cùng, khi hội đủ các điều kiện thích đáng, chúng chín muồi và rồi ảnh hưởng lên các biến cố về sau”.
A-lại-da thức chứa đựng mọi kinh nghiệm trong kiếp sống của mỗi con người và nguồn gốc của tất cả các quan niệm tinh thần. Theo quan niệm của Pháp tướng tông thì A-lại-da thức là nơi tập hợp mọi nghiệp quá khứ rồi tới một thời đểm nhất định, tác động lên kiếp tái sinh. Và cá thể thật ra chỉ là dòng sinh diệt tiếp nối của vô số chủng tử của nghiệp. Do đó, trong ta không có một bản ngã cố định.
Trong Thành Duy Thức Luận quyển ba giải thích thức A lại da thức có ba công năng như sau:
1) Giữ gìn (chấp trì) chủng tử của các pháp: Các pháp nói ở đây là chỉ cho tất cả các pháp hữu vi. Đó là “hữu lậu hữu vi” tức là các pháp tạp nhiễm thuộc về chúng sinh và “vô lậu hữu vi” tức là các pháp thanh tịnh thuộc về Thánh hiền. Tuy nhiên “chủng tử” chỉ có công năng tiềm tàng (ẩn núp) mà không khởi hiện. Nếu không có một cái gì để chứa giữ thì chủng tử của các pháp phải bị tản mất. Nếu chủng tử các pháp bị tản mất thì các pháp hiện hành ở thế gian và xuất thế gian cũng chẳng còn. Do đó phải có thức A lại da, tánh vô phú vô ký, nhất loại sinh diệt tương tục mới có thể duy trì chứa giữ chủng tử của các pháp.
2) Giữ chịu (chấp thọ) sắc căn và thế giới: Đây là muốn chỉ cho cái công năng giữ gìn báo thân của chúng sinh hữu tình được tương tục tồn tại trong một thời kỳ không tan hoại.
3) Giữ lấy (chấp thủ) việc kết nối đời sau tức là “kiết sanh tương tục” là do ba pháp: phiền não, nghiệp và sanh. Con người vì sống trong vô minh bất giác nên tạo ra nghiệp mà phải kết nối đời sau để thọ khổ. Chữ “kiết sanh” có nghĩa là thọ sanh tức là bắt đầu từ khi kết thai cho đến lúc sanh ra vậy. Tiến trình kết mối đời sau bắt đầu từ thân đang sống đến thân đang chết. Rồi từ thân đang chết đến thân trung ấm (thân mới chết chưa đầu thai). Và sau cùng từ thân trung ấm đến thân đời sau. Nếu các thân được tương tục không gián đoạn như thế ắt phải có một cái gì thường lưu hành và giữ gìn (chấp thủ). Cái đó chính là thức A lại da. Thật vậy, nếu không có thức thứ tám này để nắm giữ việc “kết nối đời sau” thì khi một người chết rồi phải mất luôn, không còn tái sanh được nữa. Như thế thành ra bị rơi vào thuyết Đoạn diệt của ngoại đạo rồi. Thêm nữa tất cả những chủng tử tốt xấu đều được gieo vào mảnh đất A lại da trong trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này được huân tập, chuyển biến, tương sanh, tương duyên, tương diệt liên tục. Tất cả những sự chuyển biến này xảy ra liên tục và tức thời, chớp nhoáng và liên tiếp. Cái này diệt thì cái kia sinh, tương tức tương tục liên miên bất tận nên được gọi là Sát Na Sinh Diệt. Sát Na Sinh Diệt có thể được ví như những khối nước liên tục chuyển động chẩy trong dòng thác lũ. Khối nước trước đổ qua thì có khối nước khác đổ tới, tiếp nối liên tục không ngừng nghĩ và dĩ nhiên dòng nước cũ không thể chẩy trở lại nơi mà nó đã chẩy qua. Sự sinh diệt triền miên đó cũng có thể ví như những đợt sóng dạt dào trên biển cả. Đợt sóng này đẩy đợt sóng kia, đợt sóng mới đẩy đợt sóng củ. Bởi có gió vọng tưởng thổi sóng dạt dào trên biển cả làm các ngọn sóng liên tiếp nhồi lên lặn xuống không ngừng nghĩ cho nên ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng mới khởi sanh. (Nguồn: Linh hồn Tái sinh và Giải thoát - Lê Sỹ Minh Tùng Tổng hợp)
+ A Lại Da Thức - Duy Thức Học: A Lại Da thức có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt giống chủng tử tăng trưởng, chuyển biến dị thục cho đến khi có đầy đủ nhân duyên thuần thục chín mùi thì hiện khởi ra căn thân và thế giới.(Nguồn: Đại cương A lại Da Thức)
Xem thêm: A Lại Da Thức - Thứ 8 luân hồi
+ Yêu Ghét - Nguyên nhân của sự đầu thai như thế nào?
Thật ra chúng sinh trong loài tứ sinh cũng đều do một niệm vô minh mà hình thành. Chúng sinh vì tạo vọng nghiệp nên sau khi chết đi vào thân trung ấm, sắc thân không còn mà chỉ còn ngũ thông nên mắt nhìn thấy rất xa. Do tập khí ái nhiễm nên thần thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu, cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi chiêu cảm cảnh ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình thành.
Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. Bây giờ “tưởng” bám vào tinh cha huyết mẹ mà lập thành chấp ngã. Do “nghiệp ái làm nhân, cảnh ái làm duyên” mà ở trong thai bảy ngày nên gọi là yết-ma-lam. Được hai tuần thì bào thai gọi là Át-bồ-đàm. Ba tuần thì gọi là Tế-thi. Kiện nam là bốn tuần và Bát-la-xa là hình thể khoảng 35 ngày. Sau 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ. (Nguồn: Kinh Thủ LN_HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thân trung ấm: Trước khi thức thứ tám ra đi, thân thể con người vẫn còn hơi ấm. Khi thức thứ tám đi rồi, thân xác trở nên lạnh. Khi thức thứ tám ra đi đầu thai, nó trở thành thân trung ấm.[13] Nếu đầu thai làm người, thì thân trung ấm có hình tướng người; nếu đầu thai làm súc sinh, thì thân trung ấm có hình tướng súc sinh. Giống như được mô phỏng từ một cái khuôn. Bất luận có ở nơi xa với cha mẹ trong tiềm thức bao nhiêu, thức thứ tám nầy cũng tìm đến được nếu nó có nhân duyên với họ. Đối với thân trung ấm, mọi thứ đều là một màu đen tuyền. Chúng ta có được ánh sáng đèn điện, ánh sáng mặt trời, mặt trăng; nhưng thân trung ấm thì không thấy được các thứ ánh sáng ấy. Nó chỉ thấy được một màu đen như mực. Thế nên khi cha mẹ trong tiềm thức của nó giao cấu nhau, nó sẽ thấy được một chút ánh sáng nhỏ như đầu kim loé lên, bởi vì nó có mối tương quan với họ. Soi rõ sự thấy thì có cái tưởng. Ngay lúc thấy ánh sáng loé lên, thì cái tưởng liền hiện hữu. Tưởng điều gì? Suy nghĩ, phân biệt. Ý kiến khác nhau thành có cái ghét. Khi người ta không đồng quan điểm với mình, thì mình ghét họ. Cái tưởng đồng nhau thành có luyến ái. Khi có người dù có những sai lầm giống như mình, mình cũng yêu thích họ.
Nếu thân trung ấm là nam, nó sẽ yêu mẹ mà ghét cha. Nó sẽ có ý muốn đánh đuổi cha nó đi để lấy mẹ nó. Nó muốn giao hợp với mẹ nó. Thế nên cội nguồn xuất phát của con người rất là tồi tệ. Yêu mẹ nó và ghét cha nó, bằng một niệm vô minh như vậy, nó liền nhập vào thai mẹ. Lưu giữ tính ái thành có chủng tử, thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai.
Nếu thân trung ấm là nữ, nó sẽ yêu cha và ghét mẹ. Đó là cách hình thành niệm tưởng....
“Tưởng” ở đây là chỉ cho thức thứ tám– tức là thân trung ấm....
“Vô minh duyên hành.” Hành ở đây chính là sự giao cấu.
“Hành duyên thức.” Tức là thức thứ tám được đề cập ở đoạn kinh trên, “thu nạp niệm tưởng thành ra bào thai.” Thức chính là thân trung ấm nhập vào bào thai. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4 - Chương I)
+ Kiến tư phiền lão: Kiến hoặc là đối cảnh khởi tham ái - Tư hoặc là Mê lý khởi phân biệt.
Bồ tát Quán Thế Âm thành tựu tu "Chân Không Quán" đã phá trừ hắc ám của kiến hoặc, Tư hoặc. Tu "Thanh Tịnh Quán" phá trừ hắc ám Trần xa hoặc, chứng được đức Giải thoát. Tu "Trí Huệ Quán" phá trừ hắc ám Vô minh hoặc, chứng được đức Pháp thân => BT Quán Thế Âm tu thành tựu ba Quán viên mãn đủ Tam Đức Bí Tạng - Bát Nhã Đức, Giải Thoát Đức, Pháp Thân Đức. Ba Quán đoạn chứng được ba Đức, đoạn trừ hắc ám Kiến Tư2 - Trần Xa - Vô Minh, cho nên nói nói là "Trời huệ phá tối tăm" (Huệ chính là Quán, Quán chính là Huệ). Ngài hay phục tam tai là Thủy tai - Hỏa tai - Phong tai hủy diệt Thế giới Ta Bà......(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng phẩm Phổ môn - Kinh Pháp Hoa)
+ Tham hướng thượng - Hướng hạ khác nhau
- Tham dục khiến ta chìm đắm trong luôn hồi sinh tử khổ đau
- Tham tu thiền là hướng thượng, hướng đến giải thoát luân hồi khổ đau (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ăn chay: Sau cùng còn 1 vấn đề, họ nói khi tôi chưa tiếp xúc Phật pháp thì đời sống đơn giản an vui, thế nhưng từ sau khi tiếp xúc học Phật qua, phát hiện khi cùng ở chung với mọi người, đời sống thay đổi quá phức tạp, thậm chí ngay đến nồi chén cũng đều không thể đụng chạm, cái này không thể ăn, cái kia không đúng pháp, tôi đang do dự có nên bước vào của Phật hay không?
Người mới học Phật có những vấn đề này, trường hợp của cư sĩ Hồ Tiểu Lâm giảng nói được rất rõ ràng, khi ông mới bắt đầu học Phật, ông làm cho người cả nhà đều lo sợ, việc này không thể làm, việc kia không thể làm, nói người nhà ông đều đang tạo nghiệp, tương lai đều là quả báo của ba đường ác, làm cho cha mẹ ông cũng đều lo sợ, xem ông như là một ác thần vậy. Nghe nói ông sắp đến, đồ ăn ở trên bàn có cá thịt phải mau đậy kín lại, không để cho ông nhìn thấy.
Cho nên về sau, cũng là 1 cơ duyên ngẫu nhiên, ông đến Hong Kong, xem thấy tấm hình của mẫu thân và tôi, bức hình lần đầu tiên chúng tôi gặp lại nhau sau 36 năm xa cách. Khi đó tôi liền nói với Hồ Tiểu Lâm, tôi nói: “Lão thái thái rất khó được, rất định tĩnh, gặp lại tôi sau thời gian lâu như vậy mà bà vẫn không hề kích động, tôi đang giảng Kinh, bà nghe Kinh, sau khi nghe xong thái độ rất an tường, tôi nói thật rất là khó được, bà sống ở ngay trong đạo tràng, khi ăn cơm tôi hỏi bà muốn ăn thứ gì? Bà nói muốn ăn cá. Tôi liền bảo nhà bếp mua cá, mỗi bữa ăn đều dọn ra trước mặt bà, trong lúc bà ăn, bà xem thấy mọi người chúng tôi đều ăn chay, bà ở qua 1 tuần, sau đó trở về Thượng Hải, từ đó trở về sau bà liền ăn trường chay. Phải chính bà tự động phát tâm, chúng tôi không thể khuyên bà, khổ cực cả 1 đời, muốn ăn 1 chút cá cũng không ăn được, vậy thì làm sao được ?”
Hồ Tiểu Lâm nghe những lời nói này rồi, thì mới khai ngộ, thì ra là như vậy. Tôi nói anh quay về nhà vạn nhất không gây chướng ngại cha mẹ anh, họ muốn ăn cái gì thì anh cho họ ăn cái đó, cho nên về sau quan hệ của họ rất tốt, cha mẹ đều rất cảm kích đối với Phật pháp, không hề nghĩ đến học Phật tốt đến như vậy, học truyền thống văn hóa tốt đến như vậy. Họ ở ngay trong bạn bè cũng truyền nói với nhau. Không hề có chướng ngại, làm gì có những chướng ngại như vậy chứ.
Phật pháp ở nơi ăn uống có khai duyên, nhất định phải nên biết, tại vì sao không bảo bạn ăn? Ăn thịt là sát sanh, không phải chúng nó cam tâm tình nguyện để cúng dường, nếu chúng ta không ăn thịt thì người ta sẽ không sát sanh. Khi họ sát sanh cái nghiệp đó của họ chúng ta phải gánh lấy 1 phần, hiểu rõ cái đạo lí này thì tự nhiên không thể ăn thịt. Ăn chay, ăn chay rất tốt! Tôi học Phật đại khái nữa năm tôi liền ăn trường chay. Đọc qua mấy biến Kinh Địa Tạng thì ăn trường chay. Trước khi chưa học Phật, lúc nhỏ, đại khái là năm 17, 18, 19 tuổi, đi săn bắn hết 3 năm, giết không ít chúng sanh, chân thật cầu sám hối, quả báo của sát sanh này, phụ thân tôi đã biểu diễn cho tôi thấy, khi phụ thân tôi chết, tình trạng khi lúc bệnh nặng hoàn toàn giống y như trên Kinh Địa Tạng, để cho tôi chính mắt xem thấy. Trước đó tôi không hề biết, vì sao ra đi thảm đến như vậy? Thật thê thảm. Về sau khi tôi học Phật mới biết đó là quả báo của săn bắn sát sanh, việc này có 1 sự cảnh tỉnh đối với tôi rất lớn, tôi liền đoạn dứt ăn thịt, liền đổi qua ăn chay. Khi ở nhà ăn cơ quan chúng tôi yêu cầu họ làm đồ chay, họ đặc biệt làm cho tôi, cơ quan của chúng tôi người ăn chay không nhiều, có 7- 8 người cũng vừa đủ 1 bàn.
Trong thức ăn rau cải, các vị phải nên biết, hành tỏi là rau cải, không phải là thịt, trên chữ Huân là bộ Thảo, nhục là gì? là tanh, gọi là huân tanh, tanh là ăn thịt. Cho nên trong rau cải có 5 loại rau cũng là năm loại không nên ăn: hành, hẹ, tỏi, nén, xà cừ. Vì sao vậy? Tánh chất của 5 loại này không tốt, ăn sống rất dễ khởi can hỏa, dễ tức giận, vậy thì không tốt, ăn quen 5 loại này nó sẽ sanh ra can hỏa, dễ dàng khởi tánh xung động. Phật do nguyên nhân này mà định giới luật, bạn phải hiểu rõ vì sao Ngài định ra giới luật này. Cho nên những thứ này có thể dùng làm hương liệu, phối liệu thì không vấn đề, đều có thể dùng. Vì sao vậy? số lượng ít, sẽ không sanh ra tác dụng thì có thể dùng. Cho nên có một số người hoàn toàn đoạn tuyệt hết, hoàn toàn không dùng. Nếu hoàn toàn không dùng những thứ này thì một số người không muốn ăn chay. Bạn dùng phối vị này, đồ ăn rất ngon, đều có thể dùng được, đặc biệt là với người tại gia.
Cho nên bạn phải hiểu rõ cái đạo lý này, phải thấu hiểu Phật chế định giới luật này dụng ý ở chỗ nào, phải áp dụng thế nào. Vậy mới thật biết, hiểu đạo lý! Khi bị bệnh thì có thể dùng, nếu như bác sĩ ra phương thuốc dùng những thứ này làm thuốc dẫn, thảy đều có thể dùng, thậm chí có rất nhiều xương cốt động vật có ở trong thuốc trung dược, tất cả đều có thể dùng, không có kỵ húy, dùng để trị bệnh. Còn có một việc, người 70 tuổi trở lên, thân thể suy yếu, cần phải có những thứ này để trở giúp thì có thể dùng, đều có khai duyên.
Phật pháp là linh động hoạt bát, không có pháp nào khô cứng. Cho nên nếu bạn không hiểu được đạo lý của nó, bạn trì giới sẽ không biết trì, nên khai mà không khai cũng gọi là phạm giới, không nên khai mà bạn khai cũng gọi là phạm giới. Cho nên giới luật bạn không cố gắng học thì bạn sẽ không biết trì, bạn không biết được cách làm như thế nào. Cho nên học Phật ngay trong đời sống không có được pháp hỷ. (Pháp Sư Tịnh Không giảng)
+ Khích lệ ăn chay: Đại sư Liên Trì: “Ai ai cũng yêu mạng, con vật nào cũng tham sống, lẽ đâu giết thân mạng chúng để no miệng mình. Hoặc mũi nhọn phanh bụng, hoặc dao sắc chọc tim, hoặc lột da, cạo vảy, hoặc cắt họng, bóc vỏ, hoặc nước sôi sùng sục nấu sống trạnh, lươn; hoặc muối rượu, muối sống cua, tôm. Ðáng thương thay! Ðau đớn cùng cực không cách giãi bày, khổ sở tột bậc khó lòng chịu đựng. Tạo tội ác ngập trời đến thế, kết thành muôn thuở thâm thù. Một mai vô thường, liền đọa địa ngục, vạc sôi, lò than, rừng kiếm, núi đao, vừa chịu tội xong lại làm loài vật. Oán oán vay trả, mạng mạng đắp đền. Rốt cuộc làm người, lắm bệnh, yểu thọ, hoặc bị rắn, cọp cắn chết, hoặc chết vì nạn đao binh, hoặc chết trong vòng tù tội, hoặc chết vì độc dược, đều là do sát hại cảm thành.
Tôi nay ứa lệ máu, dập trán, bi ai thưa cùng người đời: Chẳng dám ép các vị ăn chay, trước chỉ khuyên nên tránh giết. Nhà kiêng giết, thiện thần thủ hộ, tai họa bất ngờ sẽ tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiền hiếu, cát tường đủ thứ, khó thể thuật trọn! Nếu lại còn tùy sức phóng sanh, kèm thêm niệm Phật, không chỉ phước đức tăng trưởng, ắt còn tùy nguyện vãng sanh, VĨNH VIỄN THOÁT KHỎI LUÂN HỒI, LÊN BẬC BẤT THOÁI.
+ Mười ngày trai giới - Mười ngày Kết tập tội nghiệp
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng, ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi là những ngày kết tập các nghiệp tội, thẩm định nặng nhẹ. Tất cả mọi cử chỉ, động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không chi là không nghiệp, không chi là không tội, huống hồ là buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, trăm ngàn tội trạng. Lợi ích của 10 ngày trai giới rất nhiều, do những ngày này qủy thần du tuần ghi chép nghiệp tội của chúng sinh, cụ thể mời xem trong kinh văn (Nguồn: Pháp Sư Tịnh Không giảng)
+ Mười ngày trai giới - Mười ngày Kết tập tội nghiệp
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng, ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi là những ngày kết tập các nghiệp tội, thẩm định nặng nhẹ. Tất cả mọi cử chỉ, động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không chi là không nghiệp, không chi là không tội, huống hồ là buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, trăm ngàn tội trạng.
Nếu sau này trong đời vị lai, có chúng sanh nào trong mười ngày trai này có thể đối trước hình tượng của Phật, Bồ Tát, cùng chư Hiền Thánh mà đọc tụng Kinh này một biến, thì chung quanh chỗ người đó ở, bốn hướng Ðông Tây Nam Bắc, trong khoảng một trăm do-tuần, sẽ không có các tai nạn. Còn ở chính nhà của người đó, hoặc già hoặc trẻ, về hiện tại và vị lai, trong trăm ngàn năm được vĩnh viễn xa lìa ác đạo.
Nếu trong mười ngày trai này có thể mỗi ngày đều tụng một biến thì ngay đời hiện tại, những người trong nhà không bị tai ương hoặc bệnh tật, đồ ăn đồ mặc lại được dư dật."
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bồ Tát Phổ Quảng rằng: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng, ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi là những ngày kết tập các nghiệp tội, thẩm định nặng nhẹ."
Mỗi tháng, cứ vào mười ngày—mùng một, mùng tám, mười bốn, mười lăm (rằm), mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi là tất cả quỷ thần đều tụ họp lại để điều tra tội lỗi của chúng sanh, cho nên mười ngày này chính là những ngày xét xử nghiệp tội. "Kết tập các nghiệp tội" tức là đắn đo cân nhắc tội lỗi của mỗi người, xét xem người này phạm bao nhiêu tội, người kia gây bao nhiêu lỗi. "Thẩm định nặng nhẹ" tức là đưa ra phán quyết, định tội người này nặng như thế nào hoặc tội người kia nhẹ ra sao.
"Tất cả mọi cử chỉ, động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không chi là không nghiệp, không chi là không tội, huống hồ là buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, trăm ngàn tội trạng."
"Cử chỉ động niệm"—"cử" tức là "động," và "chỉ" tức là "tĩnh"—trong cả "động" lẫn "tĩnh" đều sanh khởi cái niệm nghĩ suy, mà những niệm này không có cái nào không là tội lỗi cả. Tất cả mọi cử chỉ động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề (tức Nam Thiệm Bộ Châu) đều là tội lỗi—dấy động cái niệm này là nghiệp tội, dấy động cái niệm kia cũng là nghiệp tội—không gì là không nghiệp, không gì là không tội cả. Dù cho quý vị không có hành động sát sanh hại mạng, nhưng chỉ khởi tâm động niệm, dấy lên cái ý muốn sát hại thôi thì cũng đủ để tạo nghiệp tội rồi, huống chi là lại tự ý làm càn, cố tình giết hại chúng sanh?
Trộm cắp đồ vật và tà dâm đều là những hành vi bất chánh. Ðối với đa số người Tây phương thì tà dâm không phải là một vấn đề nghiêm trọng lắm, nhưng trong kinh sách nhà Phật thì đã nói ngay từ đầu: Phạm tà dâm thì mang tội rất lớn, bởi "vạn ác dâm vi thủ" (trong vạn điều xấu thì dâm dục đứng hàng đầu).
"Vọng ngữ" là nói những lời huênh hoang, dối trá, không thật.
Trên đây chỉ kể ra một vài tội trạng đại khái như thế thôi, nếu kê khai cho tường tận thì có đến cả trăm ngàn vạn thứ.
"Nếu sau này trong đời vị lai, có chúng sanh nào trong mười ngày trai này có thể đối trước hình tượng của Phật, Bồ Tát, cùng chư Hiền Thánh mà đọc tụng Kinh này—Kinh Ðịa Tạng—một biến, thì chung quanh chỗ người đó ở, bốn hướng Ðông Tây Nam Bắc, trong khoảng một trăm do-tuần, sẽ không có các tai nạn."
"Trai" có nghĩa là "tịnh," tức là chay tịnh. "Mười ngày trai" tức là vào những ngày này thì chỉ ăn những thứ thanh tịnh, sạch sẽ; tuyệt đối không ăn những thức ăn có mùi tanh như thịt, cá ... và những thứ có mùi hôi nồng như hành, hẹ, tỏi, nén ...
"Do-tuần" là đơn vị đo chiều dài của Ấn Ðộ; và được phân làm đại, trung và tiểu do-tuần. Một đại do-tuần tương đương với tám mươi dặm (lý), một trung do-tuần là sáu mươi dặm (lý), và một tiểu do tuần là bốn mươi dặm (lý).
"Còn ở chính nhà của người đó, hoặc già hoặc trẻ, về hiện tại và vị lai, trong trăm ngàn năm được vĩnh viễn xa lìa ác đạo." Ngoài ra, tất cả những người đang sống trong nhà người tụng Kinh Ðịa Tạng đó, bất luận là người lớn hay trẻ con, người già hay người trẻ, ngay trong đời này hoặc trăm ngàn năm về sau, sẽ thoát khỏi hẳn mọi quả báo của các chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và A Tu La.
"Nếu trong mười ngày trai này có thể mỗi ngày đều tụng một biến thì ngay đời hiện tại, những người trong nhà không bị tai ương hoặc bệnh tật, đồ ăn đồ mặc lại được dư dật." Trong suốt mười ngày trai của mỗi tháng kể trên nếu quý vị đều đặn tụng mỗi ngày một biến Kinh Ðịa Tạng, thì ngay đời này có thể khiến cho gia đình của quý vị được đồ ăn đồ mặc sung túc, không ai bị gặp chuyện rủi ro, cũng không ai bị ốm đau bệnh hoạn. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kinh Bồ tát Bạch Thỏ Vương - Nhân duyên chẳng ăn thịt: (Trong Kinh: Vua thỏ trắng thời ấy, hiện nay là thân Ta Thích Ca Mâu Ni Phật. Thỏ con đó nay là La Hầu La, là con của Đức Phật.)
Trích đoạn trong Kinh: ... Khi ấy vua thỏ nói Kệ này xong, liền bảo các con thỏ rằng: “Nay Ta đem thân, muốn cúng dường Pháp, các ngươi thích hợp nên mỗi mỗi đều tùy vui. Tại sao thế ? Vì Ta từng ở nhiều Kiếp chôn thân vô số, ba Độc ( tham, sân, si ) đã sai khiến làm hình chim thú, sống không có căn cứ, chết không có căn cứ, chưa từng vì Pháp. Nay Ta muốn vì Pháp vô thượng cho nên vứt bỏ thân mệnh để cúng dường Pháp Sư ”
Lúc bấy giờ, vị Thần cây núi liền gom củi thơm lại, rồi nhóm lửa. Mẹ con thỏ vua nhiễu quanh bàn chân của Tiên Nhân đủ bảy vòng, rồi bạch rằng: “Đại Sư ! Nay con vì Pháp, xin cúng dường Tôn Giả”.
Tiên Nhân bảo rằng: “Ngươi là súc sinh, tuy có Tâm Từ muốn vui vẻ cúng dường, nhưng làm sao mà có thể làm như thế ?”
Thỏ thưa với Tiên Nhân: “Con tự đem thân của mình cúng dường Nhân Giả vì muốn Pháp trụ lâu, khiến cho chúng sinh được nhiêu ích”
Nói lời đó xong, liền bảo thỏ con rằng: “ Con ơi ! Ta sắp cúng dường Pháp Sư, con có thể tự mình tìm kiếm cỏ, nước… con nên buộc Tâm suy nghĩ chánh niệm, niệm niệm không rời Tam Bảo”.
Lúc đó thỏ con nghe điều mẹ đã nói, liền quỳ xuống thưa với mẹ rằng: “Như mẹ đã nói vì Đại Pháp vô thượng nên muốn cúng dường. Con cũng nguyện vui theo.” Nói lời này xong, liền tự nhảy vào trong lửa, thỏ mẹ cũng tùy theo sau nhảy vào. Ngay lúc Bồ Tát buông bỏ thân thì Trời Đất chấn động lớn, cho đến Sắc Giới cùng với chư Thiên đều tuôn mưa hoa Trời đến chỗ của Bồ Tát Vua Thỏ xả thân để cúng dường.
Sau khi thịt chín thời vị Thần cây núi bạch với Tiên Nhân rằng: “Mẹ con thỏ vua vì cúng dường cho nên ném thân vào trong lửa. Nay thịt đã chín, Ngài có thể ăn” . Bấy giờ, Tiên Nhân ấy nghe vị Thần cây nói, thì buồn bã chẳng nói nên lời, hồi rất lâu mới bình phục tâm trở lại. Tiên Nhân gắng kiềm nỗi lòng bi thương, âm thầm không một lời, đem Kinh Đại Từ Tam Muội Quang Đại Bi Hải Vân Kinh từng câu từng chữ viết lên lá cây, viết xong rồi lại nói Kệ rằng:
“ Chẳng thà thiêu thân móc con mắt
Chẳng nỡ giết hại, ăn chúng sanh
Kinh Từ Bi Chư Phật đã thuyết
Trong Kinh nói người thực hành Từ
Thà phá xương tủy đầu rơi rụng,
Chẳng nỡ nuốt thịt, ăn chúng sanh
Như Phật đã nói kẻ ăn thịt
Người này hành Từ chẳng đầy đủ
Thường bị đoản mệnh, thân nhiều bệnh
Mê đắm sinh tử, chẳng thành Phật”
Khi Tiên Nhân ấy nói Kệ này xong, nhân đây phát lời Thề rằng:
“Nguyện Ta đời đời chẳng khởi niệm giết hại chúng sanh, luôn đời đời kiếp kiếp chẳng ăn nuốt thịt chúng sanh, thường vào Bạch Quang Minh Từ Tâm Tam Muội mãi cho đến thành Phật, đặt ra giới cấm không ăn thịt ” . Nói dứt lời này xong, tự ném mình vào trong lửa, cùng với thỏ xả thân bỏ mạng.
Lúc đó Trời Đất chấn động theo sáu cách. Do sức của Thiên Thần cho nên cây phóng ra ánh sáng màu vàng ròng rực rỡ chiếu soi hàng ngàn cõi nước. Lúc bấy giờ, những người dân trong nước ấy thấy ánh sáng màu vàng ròng phát ra từ cây trên núi, liền lần theo ánh sáng đi đến, đã thấy Tiên Nhân cùng với hai con thỏ chết ngay trong lửa. Họ thấy bài Kệ đã nói và kèm được Kinh Phật, nên cầm lấy quay về dâng lên Đức Vua. Đức vua nghe Pháp này, liền truyền bá lưu hành, khiến cho người nghe được việc này đều phát Đạo Tâm Chánh Chân Vô Thượng. (Nguồn: Kinh Bồ tát Bạch Thỏ Vương)
+ Ba đạo: Nho - Thích - Đạo hay là Đạo Nho - Đạo Phật - Đạo giáo
261. Hỏi: Phật giáo cùng Đạo giáo (Nhất Quán Đạo) có gì khác biệt?
Đáp: Phật giáo là Phật giáo, Đạo giáo là Đạo giáo, Nhất Quán Đạo tức là Nhất Quán Đạo. Danh từ không giống nhau tức đã có sự khác biệt rồi.
262. Hỏi: Phải chăng Phật giáo và Đạo giáo là cùng chung một nhà?
Đáp: Người Trung Hoa và người Mỹ có phải đều là con người không hả?
263. Hỏi: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo thì có gì phân biệt, tất cả có phải là giống nhau không?
Đáp: Một bên có trình độ đạo đức Tiểu học, một bên có trình độ đạo đức Trung học và một bên có trình độ đạo đức Đại học. Khóa trình đạo đức của Đại học là dạy chú quy y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng và đừng quên Tam Bảo. Khóa Trung học là bảo chú tự quy y Tinh, Khí, Thần của chính mình và đừng để hao tán tinh, khí, thần. Lớp Sơ học là bảo chú cố gắng làm tròn Đạo Làm Người.
264. Hỏi: Đạo giáo và Phật giáo có chỗ nào không giống nhau?
Đáp: Đạo giáo chỉ là phân nửa, Phật giáo là triệt để rốt ráo. Nếu hiểu Phật pháp mà không hiểu Đạo giáo thì đó vẫn chưa thật sự hiểu Phật pháp. Nếu hiểu Đạo giáo mà không hiểu Phật giáo thì đó chỉ là phân nửa, chỉ là một bước, hai bước của sự bắt đầu thôi.
265. Hỏi: Phật giáo và Đạo giáo có chỗ nào là khác biệt?
Đáp: Vậy con nói đi, người già, tráng niên, thanh niên thì có gì phân biệt. Nho, Thích, Đạo là một nhà, nhưng một là trẻ con, một là trung niên và một là người già. Vậy họ có thể hiểu được tư tưởng của nhau hay không? (Nguồn: Cây gậy Kim Cang Het - HT Tuyên Hóa)
+ Ba đạo Nho - Thích - Đạo: Xưa kia, khi Phật Giáo chưa truyền sang, Trung Hoa Đại Lục lúc bấy giờ chỉ có đạo Nho và đạo Lão.
Nho Giáo... chính đạo Nho đã khai đường mở lối cho người dân sau này tiếp cận giáo lý đạo Phật một cách dễ dàng, gần gủi hơn. Do vậy, đức Khổng Tử chính là Thủy Nguyệt Đồng Tử trong Phật Giáo. Bởi vì đức Phật biết rằng trong tương lai Phật Pháp sẽ hưng thạnh tại Trung Hoa, cho nên mới phái Thủy Nguyệt Đồng Tử đến chu du các nuớc, đề xuớng các quy phạm đạo đức, dạy nhân dân những đạo lý, những nhân cách cơ bản làm người như hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ…
Đạo Lão lại tiến thêm một bước so với Đạo Nho về mặt tinh thần, cho nên nói Nho Giáo được so sánh như cấp tiểu học, Lão Giáo và các trường phái đồng quan điểm với Lão Giáo cũng như bậc Trung Học và Phật Giáo là chương trình Đại Học. Bởi vì Phật Giáo bao hàm vạn hữu thế giới, bất luận khoa mục nào trong Phật Giáo cũng có đề cập và phân tích.
Tuy nhiên, Phật Giáo muốn truyền sang Trung Hoa cũng cần phải hội đủ nhân duyên và thời cơ thích hợp, thời cơ ấy chính là lúc Hán Minh Đế lên ngôi..... Một đêm nọ, nhà Vua mộng thấy có người cao một truợng sáu, cổ đeo vòng nhật luân, phía sau từ cổ trở lên sáng rực như vầng ánh sáng mặt trời. Thật ra, nhật luân này chính là ánh hào quang của Đức Phật. ...
Sáng sớm hôm sau, nhà Vua bèn triệu quan thái sử chuyên coi về thiên văn hỏi xem giấc mộng đó báo với nhà vua điềm gì? Quan thái sử Phó Nghị đáp: “Theo hạ thần đựơc biết là bên Tây Phương có một vị thần tên gọi là Phật và như lời của Bệ Hạ kể thì người trong giấc mộng đêm qua chính là Đức Phật”. Thời đó, nguời Trung Hoa gọi xứ Ấn Độ là Tây phương, cho nên Hán Minh Đế liền phái các vị đại quan … gồm 16 vị đến Ấn Độ thỉnh Phật sang Trung Hoa. (Nguồn: Thủy Kính Hồi Thiên Lục_HT Tuyên Hóa)
+ Ba đạo: Là ba bộ giáo lý Kinh điển tương ứng ba cấp độ tu Đạo làm người - Đạo Nhân thiên - Đạo Giải thoát luân hồi sinh tử. Cụ thể:
- Đạo Nho: Sách Đệ Tử Quy - Chủ về Đạo làm người, gốc ở đạo Hiếu - Chữ Hiếu đứng đầu. Sách cũng tương ứng với Đạo Người Quân Tử tu Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. Mời xem bản toàn văn: Đệ Tử Quy rất tuyệt diệu
- Đạo Gia: Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên - Chủ về việc đón kiết, tránh hung, phước thiện và đặc biệt trừ dâm. Lời kinh vang vọng đến thượng thiên, chấn động đại địa, hễ đọc đến tâm liền xúc động.... Mời quí vị xem bản đầy đủ lời giảng của Ấn Quang Đại Sư: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
- Đạo Phật: Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh - Bao gồm cả hai sách trên, nhưng mở rộng thì vô cùng, từ thường nhân cho đến Thanh Văn - Duyên Giác - Bồ Tát vẫn tu, chỉ đến khi thành Phật mới viên mãn Thập Thiện. .... Trước đây khi Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc làm thế nào? Lão tổ tông Trung Quốc có những tiêu chuẩn, giống với thập thiện mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói, hoàn toàn tương đồng. Cái mà Trung Quốc nói đến có luân lí, ngũ luân, ngũ thường, ngũ thường chính là ngũ giới, có tứ duy, bát đức. Nhìn bề ngoài giảng còn kỹ hơn so với thập thiện, giảng rất rõ ràng, đây là nhìn vẻ bên ngoài. Nhìn vào chiều sâu thì không được vậy. Nhìn chiều sâu, Thanh Văn đem thập thiện mở rộng thành ba ngàn thiện, gọi là ba ngàn oai nghi; Bồ Tát càng thù thắng, đem thập thiện mở rộng thành tám vạn bốn ngàn thiện; thiện viên mãn rồi, thập thiện viên mãn thì thành Phật. Ý ở đây muốn nói là, chớ xem thường thập thiện, Đẳng giác Bồ Tát thập thiện nghiệp đạo còn không thể nói viên mãn, vẫn còn kém một chút, đến Phật mới viên mãn......
“Mệnh trung khí quyên, thử tứ cú- bốn câu ở dưới - mạc thuỳ tuỳ giả, bần phú đồng nhiên, ưu khổ vạn đoạn”. Bốn câu này, chỉ cho tất cả người đời, khi lâm mạng chung, thì tất cả gia tài quyến thuộc, đều phải xả ly. Một mình đến đi, không ai làm bạn, người thương yêu nhất, có thể chết theo, nhưng không thể đi cùng, nghiệp nhân bất đồng, quả báo sai khác, nơi đến chẳng ai giống ai. Nên gọi là: “mạc thuỳ tuỳ giả”
.... đúng là có thể chết cùng lúc, đặc biệt là thiên tai, quý vị thấy người chết cùng lúc nhiều biết bao, nơi đến không giống nhau, chân tướng sự thật này chúng ta nhất định phải hiểu rõ...... Trong kinh đức Phật dạy rằng: Thượng phẩm thập thiện sanh thiên, trung phẩm thập thiện không mất thân người. Hạ phẩm là không được rồi, hạ phẩm mặc dù không đọa vào ba đường ác, phần lớn rơi vào ma đạo, A Tu La, La Sát đi đến chỗ đó, đó cũng không phải là nơi tốt đẹp. Từ đó cho thấy, thập thiện nghiệp đạo là tiêu chuẩn. (Nguồn: PS Tịnh Không _ Đời sống vô thường - Chết đi về đâu)
+ Tam giáo: Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên cùng với Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh là ba căn bản của Nho - Thích (Phật) - Đạo (Lão), bất luận là ai cũng phải từ ba căn bản này mà học tập vun bồi cội rễ, như thế mới có thể đạt được thành tựu chân thật trong một đời. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng từ tập 1 đến tập 128: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên)
+ Nho Phật Lão: Mọi sự việc trên đời đều có liên hệ tương quan, cũng giống như bên Trung Hoa, ba đạo Nho, Phật, Lão (Đạo), đều hỗ trợ lẫn nhau. Nho-giáo thì như ở trình độ sơ đẳng, tức là tiểu học (Đạo làm người thiện nhân/ Người quân tử), Ðạo-giáo thì như là trình độ trung học (Vừa đạo thế gian vừa xuất thế gian), còn Phật-giáo thì như là trình độ đại học (bao gồm cả hai loại kia).... Ðạo lý của ba tôn giáo này đều có liên quan, song lẽ người ở tiểu học thì không biết được trình độ của lớp trung học, nhưng kẻ ở đại học thì biết được trình độ và bài vở của lớp trung học hay tiểu học...... (Nguôn HT Tuyên Hóa giảng: Xem tại đây)
+ Sách Đệ Tử Quy - Đạo làm người con hiếu thảo
TỔNG TỰA
1. Phép người con, Thánh nhân dạy.
Hiếu đệ trước, kế cẩn tín.
Yêu bình đẳng, gần người nhân.
Có dư sức, thì học văn.
Ở NHÀ PHẢI HIẾU
2. Cha mẹ gọi, trả lời ngay.
Cha mẹ bảo, chớ làm biếng.
Cha mẹ dạy, phải kính nghe.
Cha mẹ trách, phải thừa nhận.
3. Đông phải ấm, hạ phải mát.
Sáng phải thăm, tối phải viếng.
Đi phải thưa, về phải trình.
Ở ổn định, nghề không đổi.
4. Việc tuy nhỏ, chớ tự làm.
Nếu đã làm, thiếu đạo con.
Vật tuy nhỏ, chớ cất riêng.
Nếu cất riêng, cha mẹ buồn.
5. Cha mẹ thích, dốc lòng làm.
Cha mẹ ghét, cẩn thận bỏ.
Thân bị thương, cha mẹ lo.
Đức tổn thương, cha mẹ tủi.
Cha mẹ thương, hiếu đâu khó.
Cha mẹ ghét, hiếu mới tốt.
6. Cha mẹ lỗi, khuyên thay đổi.
Mặt ta vui, lời ta dịu.
Khuyên không nghe, vui can tiếp.
Dùng khóc khuyên, đánh không giận.
7. Cha mẹ bệnh, nếm thuốc trước.
Ngày đêm hầu, không rời giường.
Tang ba năm, thường thương nhớ.
Chỗ ở đỗi, không rượu thịt.
Tang đủ lễ, cúng hết lòng.
Việc người chết, như người sống.
Còn dài, mời xem bản toàn văn: Đệ Tử Quy rất tuyệt diệu
+ Tu Thập thiện: ... Cơ sở Thập thiện Nghiệp đạo là Cảm ứng thiên, cơ sở của Cảm ứng thiên là Đệ Tử Quy; Thập Thiện Nghiệp Đạo coi như đã xong thì hai điều ở trước không có gì để nói, vì Bồ Tát Địa Tạng đã giám định cho chúng ta, nên chúng ta mới có thể an ổn, mới có tín tâm, thì ra bây giờ là lúc thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ hay các Kinh Đại Thừa, Pháp tu Đại thừa. (Trang 64 - Kinh Chiêm Sát)
+ Thập Thiện: Bạn phải hiểu được “thiện nghiệp” này là thiện nghiệp của trời người. Người có được Thập thiện này là đã xa lìa và không còn bị đọa lạc ba đường ác. Vì họ vô tham, vô sân, vô si, họ lìa tham sân si rồi. Tham sân si là nghiệp nhân của ba đường ác. Phật yêu cầu chúng ta: “Ngày, đêm thường niệm thiện pháp (chính là chỉ thập thiện), tư duy thiện pháp, quan sát thiện pháp” (PS Tịnh Không_Kinh TTNĐ)
+ Mục tiêu Kinh Thập Thiện: Ở trong phương tiện, điều quan trọng nhất là “Từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”, kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo chính là giảng giải hai câu này (Tập 13, 14 trang 14)
+ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo - Mười Nghiệp: Ðức Phật dạy, có 10 hành động từ thân, khẩu, ý, rất nhiều người đời ưa thích thực hiện:
- Ba nghiệp từ thân, một là sát hại, hai là trộm cắp, ba là ngoại tình.
- Bốn nghiệp từ miệng, một là lừa dối, hai là đâm thọc, ba là lời ác, bốn là tán gẫu.
- Ba nghiệp từ ý, một là tham ái, hai là giận dữ, ba là si mê.
* Vì mười nghiệp ác, rất nhiều chúng sanh sống trong bất hạnh, khổ đau cho mình, gây họa cho người. Đến lúc qua đời, sanh vào cõi dữ. Những người có trí thấy rõ hậu quả của các nghiệp xấu nên nỗ lực tu, tinh tấn làm phúc, chuyển hóa thân tâm.- KINH PHÂN BIỆT NGHIỆP BÁO.
+ Mười nghiệp thiện là chỗ nương tựa - Đức Phật dậy: Ví như tất cả thành ấp, xóm làng đều nương nơi mặt đất mà được đứng vững. Tất cả cỏ thuốc, cây cối, rừng rậm cũng đều nương vào đất mà được sinh trưởng.
- Mười nghiệp thiện này cũng như thế, là chỗ nương tựa vững chắc cho hàng Trời người.
Tập 6 - 7: "Tất cả Pháp từ Tâm tưởng sanh" hay Thân người khó được nhưng rễ mất; Pháp còn phải xả, huống hồ phi pháp_ Y báo tùy theo chánh báo chuyển; Tâm là tinh thần, không phải vật chất (Chân tâm và Vọng tâm) - Sắc là vật chất; Đức Phật dậy. (MỜI XEM TÓM LƯỢC Ở ĐÂY)
Nguồn - Xem đầy đủ Kinh Thập thiện - PS Tịnh Không giảng
Kinh gốc Đức Phật nói Kinh Thập Thiện: Xem tại đây
+ Tu Cảm Ứng Thiên: ... Cơ sở Thập thiện Nghiệp đạo là Cảm ứng thiên, cơ sở của Cảm ứng thiên là Đệ Tử Quy; Thập Thiện Nghiệp Đạo coi như đã xong thì hai điều ở trước không có gì để nói, vì Bồ Tát Địa Tạng đã giám định cho chúng ta, nên chúng ta mới có thể an ổn, mới có tín tâm, thì ra bây giờ là lúc thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ hay các Kinh Đại Thừa, Pháp tu Đại thừa. (Trang 64 - Kinh Chiêm Sát)
+ Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên: Là một quyển sách khuyến thiện tốt nhất trong kho tàng kinh điển của Đạo gia, được Ngài Đại Sư Ấn Quang hết sức tán thán. Đại Sư Ấn Quang một đời cung kính ấn tống Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, ước khoảng có hơn ba triệu bản. Hơn nữa, Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Lão Pháp sư Tịnh Không cũng đều khích lệ người đời "khuyến đọc, khuyến hành, khuyến in, khuyến giảng".
Quyển sách này cùng với Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh là ba căn bản của Nho - Thích - Đạo, bất luận là ai cũng phải từ ba căn bản này mà học tập vun bồi cội rễ, như thế mới có thể đạt được thành tựu chân thật trong một đời.
Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên hàm nhiếp đầy đủ những lý luận về việc đón kiết, tránh hung, phước thiện, cho đến những đạo lý về mối họa dâm, lời kinh vang vọng đến thượng thiên, chấn động đại địa, hễ đọc đến tâm liền xúc động. Cái gì gọi là thiện? Cái gì gọi là ác? Người làm việc thiện sẽ được thiện báo thế nào? Kẻ làm điều ác sẽ bị ác báo ra sao? Hiểu rõ được căn nguyên rồi, nhìn người sẽ vô cùng thấu suốt. Còn có kẻ ngu không chịu làm thiện, mặc tình làm điều xấu ác, lại dùng cái tâm tự tư tự lợi xem đó là điều hiển nhiên. Ngược lại, nay ta đã biết, những kẻ tự tư tự lợi sẽ bị tổn hại lợi ích rất lớn, rước lấy đại tai ương, há còn dám không khuyến khích nhau làm điều lương thiện để mong thoát họa, gặp phước hay sao? Vì lẽ đó, đây là cuốn sách rất ích lợi cho người đời. Các vị đại Nho thời xưa đa phần đều dựa vào cuốn sách này mà tu hành.
ĐẠI SƯ ẤN QUANG KHUYÊN THỌ TRÌ THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN TRỰC GIẢNG
Tính người vốn thiện, nhưng do đối cảnh gặp duyên, không gắng lòng kiểm soát, dần dần khởi niệm chấp trước, sinh tâm yêu ghét, khởi các loại tình kiến, bản tính bị mai một đều vì những thứ như thế cả. Thế nên, thánh nhân thời xưa rủ lòng thương ban lời dạy dỗ, kỳ vọng người đời theo đó mà làm, nhằm hồi phục cái tâm vốn thiện. Lời dạy tuy có nhiều, nhưng đều không ngoài việc “cách vật trí tri, minh minh đức, chỉ ư chí thiện”........, Dưới đây xin tóm lược các chương:
CHƯƠNG 01 - Minh nghĩa: Nhân quả như hình với bóng... (HT Tịnh Không giảng từ Tập 1 - 5)
CHƯƠNG 02 - Giám sát: Trời đất có Thần ghi tội lỗi nặng nhẹ, định thọ mạng ngắn dài, theo đó chiêu cảm họa hoạn nhiều phúc ít, sao sấu chiếu. Có Thần tam, Bắc đẩu thần quân chiếu sét, ghi chép tội lỗi quanh năm. Táo quân tấu trình bẩm báo việc trần gian. (Tập 6-11)
Câu 14- “Kỳ quá đại tiểu, hữu sổ bách sự, dục cầu trường sanh giả, tiên tu tị chi; Tóm lược: Quá thất đại tiểu, hữu kỉ bách chủng”: Tội nặng trừ 12 năm thọ mạng, tội nhẹ giảm trăm ngày; Giảng giải: (Tập11)
CHƯƠNG 03 - Tích thiện - Phước báu: Từ câu 15 đến câu 36
Tóm lược chương: Thường làm lành lánh dữ, xa lìa tà niệm. Trung thành và hiếu thảo, anh em kính nhường nhau, mình làm gương để cảm hóa người. Cứu giúp kẻ nghèo hèn cô đơn, trẻ nhỏ, lúc cấp bách. Không gây tổn hại, vui cùng với điều thiện, buồn cùng kẻ sa cơ lỡ bước, sót thương kẻ làm ác. Không xét lỗi người, không khoe khoang mình. Tu nhẫn nhục, thi ân không cầu báo đáp. Cho rồi chớ hối tiếc....
Câu 15: Đạo là gì? Ngũ giới - Thập thiện là Đạo, đây là mức thấp nhất của Đạo - Đạo làm người ai ai cũng phải có, tương ứng Tịnh Nghiệp Tam Phước. (Tập 11)
CHƯƠNG 04 - Thiện báo: Người tu tích đức hành thiện được trời Phật, Thần linh bảo hộ, không cầu mà tự đến. Tà thần ác quỷ tự lánh xa ....
CHƯƠNG 05- Chư ác:
+ Phần Thượng: Hành vi trái luân thường đạo lý
Ác là việc phi nghĩa
Trái đạo, trái lương tâm
Dùng thủ đoạn độc ác
Cho đó là tài năng.
Nhẫn tâm và tàn bạo
Mưu toan hại người hiền.
Thầm khinh khi cha mẹ
Bất kính với thầy cô
Bất trung với chức phận
Gạt gẫm người ngây ngô
Chê bai bạn đồng học........
+ CHƯƠNG 06 - Phần hạ:
Dùng tà thuật, độc dược hại người. Hành vi trái đạo bất hiếu, cướp đoạt, tham danh lợi, thủ đoạn sảo trá, đê hèn. Sống phóng dật hưởng lạc quá độ - Lộc tận nhân vong, chớ lên hưởng hết phước. Không oán trười trách người. Ngu mê nghe lời vợ, làm trái đạo mẹ cha dạy dỗ. Quân tử và Tiểu nhân khác nhau ở dụng Tâm. Trọng đạo nghĩa, giữ ngũ giới. Bố thí đúng pháp, chớ sinh tâm hối tiếc. Nên sống an phận. Dâm quá độ sinh con ngu đần, tổn âm đức. Chớ khẩu phật tâm xà. Ham mê riệu thịt khó tránh sát đạo dâm. Qủe Khiêm - Kinh dịch, sáu hào cát tường....
Khâm liệm không như lễ.
Cúng tế chẳng chí thành.
Tổ tiên dù đã khuất.
Anh linh vẫn thường quanh.
Thường tự mình thề thốt
Nguyền mình và rủa người
Dù thọ mạng chưa hết.
Ác báo sắp đến rồi.
Không bước qua giếng, bếp.
Giếng vốn có vị Thần
Bếp có ngài Táo Quân
Xin chớ có mạn khinh.
Hướng Bắc có sao Đẩu
Nơi ngự của thần linh
Chớ hướng về phương này
Khạc nhổ, đại tiểu tiện.
Tránh làm các việc sau:
Khạc nhổ hướng sao băng
Tay chỉ trỏ cầu vồng
Chỉ nhật, nguyệt, tinh tú
Chăm chú nhìn mặt trăng.
CHƯƠNG 07 - Ác báo: Tội ác nặng nhẹ - Tư mệnh thần định đoạt, phán thọ mạng ngắn dài. Nếu chế chưa trả hết, di hại đến con cháu đời sau. Dùng thế lực ức ép đoạt của, cả gia đình chịu tội, giảm thọ.
CHƯƠNG 08- Chỉ vi (Chi ra ý nghĩa tinh thâm vi diệu): Tâm khởi niệm thiện ác chịu nhận quả báo tương ứng.
CHƯƠNG 09- Sám hối:
Từng làm việc sai trái
Sau biết tự ăn năn
Không còn gieo nhân ác
Thiện hạnh ngày mỗi tăng.
Lâu dần việc thiện nhỏ
Sẽ chứa đầy chum to
Việc cát tường như ý
Ắt sẽ đến không lo.
Họa chuyển dần thành phúc
Từ sám hối mà ra.
CHƯƠNG 10: Giới định
Hiền nam tử, nữ nhân
Mỗi ngày miệng, mắt, thân
Đều là thiện không khác
Ba năm như một ngày
Trời sẽ ban phúc báu.
Kẻ nói, nhìn, làm ác
Trong thời gian ba năm
Một ngày tạo ba nghiệp
Trời sẽ giáng họa tai.
Rõ ràng việc họa phúc
Do chính mình gây nên
Thấu rõ đạo lý trên
Nên hành Thiên Cảm Ứng.
Mời quí vị xem bản đầy đủ lời giảng của Ấn Quang Đại Sư: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
+ Mời đọc PS Tịnh Không giảng từ tập 1 đến tập 128: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
+ Phật Giáo: Chúng ta đã nói rất nhiều lần rồi, Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục chí thiện viên mãn của Phật Đà, cho nên không luận chủng tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau đều phải nên học Phật, vì sao vậy? Phật pháp là trí tuệ cứu cánh viên mãn, hư không pháp giới tất cả chúng sanh đều cần đến trí tuệ, cần đến trí tuệ chân thật, cần đến trí tuệ viên mãn mới có thể trải qua đời sống hạnh phúc mỹ mãn. Chúng sanh sống ở thế gian, sống khổ đến như vậy, vì sao đời sống khổ đến như thế? Vì không có trí tuệ, sống ở trong phiền não, lo buồn, gian nan, đây là điều rất bất hạnh. Phật pháp muốn độ chúng sanh, "độ" là ý nghĩa của giúp đỡ, hiệp trợ. Hiệp trợ chúng sanh lìa khổ được vui, đây không phải là một khẩu hiệu rỗng không, mà là mục tiêu chân thật.(Kinh Thập thiện- Tập 31 - PS Tịnh Không giảng)
+ Hai Quan Điểm Triết Lý Tôn Giáo khác biệt:
- Tôn Giáo Hữu Thần: Có Thượng Đế - Mọi thứ là do Thượng đế tạo nên.
- Tôn Giáo Vô Thần: Không Có Thượng Đế. Ví dụ như Kỳ Na giáo, Phật giáo, và Ấn giáo, một con người có nhiều kiếp sống. Họ tin rằng một số kinh nghiệm trong kiếp sống này là hậu quả của những hành động của họ trong kiếp sống trước (Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
+ Phật giáo là triết lý tôn giáo do Đức Phật Thích Ca dạy ra. Hiện nay, chia làm 2 giáo hội rõ rệt: Nam Tông và Bắc Tông. Không chính xác hoàn toàn.
- Nam Tông - Gần với nguyên thủy hơn vì đã bảo tồn một cách cẩn thận hơn các giáo huấn ban đầu của Đức Phật.
- Bắc Tông - Giới hạn vào các nước như Tây Tạng, Trung Hoa và Nê–pan.
* Phật giáo Nam Tông đi gần và thực sự không đi lệch khỏi các giáo huấn dành cho đại chúng hay hiển giáo của Đức Thích Ca, nhờ bởi nhiều cuộc kiết tập được tổ chức sau khi Đức Bổn Sư viên tịch.
* Giáo hội Bắc Tông là kết quả của giáo huấn bí truyền của Phật Thích Ca mà Ngài chỉ dạy riêng cho các Tỳ Khưu và La Hán được tuyển chọn của Ngài.
Trong thời đại chúng ta, Phật giáo không thể được phán đoán một cách đúng đắn thực sự bằng hình thức này hoặc hình thức kia trong số các hình thức đại chúng công truyền của nó.
- Phật giáo chân chính chỉ có thể được đánh giá bằng cách phối hợp phần triết học của Nam Tông và phần siêu hình học của Bắc Tông. Nếu một bên có vẻ quá đả phá thần tượng và cứng nhắc thì bên kia quá siêu hình và siêu việt, các sự kiện bị chứa đầy cỏ dại của học thuyết ngoại lai của Ấn Độ – nhiều vị thần của Đền Thờ Phiếm Thần đã được đem trồng vào mảnh đất Tây Tạng dưới các tên mới – đó là do cách diễn tả đại chúng của Phật giáo trong cả 2. Một cách tương tự, cả hai giáo hội có mối liên hệ nhau như Đạo Tin Lành so với Thiên Chúa giáo La Mã. Cả hai đều sai lầm do quá nhiệt tâm và do các giải thích lầm lạc, mặc dù không một tu sĩ Nam Tông lẫn tu sĩ Bắc Tông nào đã bao giờ cố tình đi lệch khỏi Chân Lý, vả lại, họ còn hành động theo các mệnh lệnh của giai cấp tăng lữ, theo tham vọng, hay theo lợi lộc và quyền hành cá nhân như các giáo hội sau này đã làm. (CKMTTL, 245)
+ Tu theo Đạo Phật: ... Mọi sự việc trên đời đều có liên hệ tương quan, cũng giống như bên Trung Hoa, ba đạo Nho, Phật, Lão (Đạo), đều hỗ trợ lẫn nhau. Nho-giáo thì như ở trình độ sơ đẳng, tức là tiểu học (Đạo làm người thiện nhân/ Người quân tử), Ðạo-giáo thì như là trình độ trung học (Vừa đạo thế gian vừa xuất thế gian), còn Phật-giáo thì như là trình độ đại học (bao gồm cả hai loại kia).... Ðạo lý của ba tôn giáo này đều có liên quan, song lẽ người ở tiểu học thì không biết được trình độ của lớp trung học, nhưng kẻ ở đại học thì biết được trình độ và bài vở của lớp trung học hay tiểu học...... (Nguôn HT Tuyên Hóa giảng: Xem tại đây)
+ Phật học cơ bản: Giáo trình Phật học cơ bản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam giảng rất rễ hiểu, gồm 4 tập:
- Tập 1: Phần 2 nói về Giáo lý cơ bản
Bài 1: Bốn Chân Lý (Tứ Diệu Đế)
Bài 2: Bát Chánh Đạo
Bài 3: Nhân Quả
Bài 4: Nghiệp (Karma)
Bài 5: Luân Hồi
Bài 6: Tam Vô Lậu Học (Giới-định-tuệ) ..........
- Tập 2: Phần Giáo Lý Cơ Bản nói về các Pháp 12 nhân duyên, Ngũ uẩn, các đại và 18 giới ......
Bài 1: Mười Hai Nhân Duyên (Giảng giải rễ học, rễ hiểu)
Bài 2: Năm Uẩn (Ngũ Uẩn)
Bài 3: Bốn Đại, Sáu Đại, Mười Hai Xứ, Và Mười Tám Giới
Bài 4: Ba Dấu Ấn Của Chánh Pháp (Tam Pháp Ấn)
Bài 5: Bốn Đề Mục Quán Niệm (Tứ Niệm Xứ)
Bài 6: Bảy Phương Pháp Đi Đến Giác Ngộ
Bài Đọc Thêm: Tôn Giáo Và Giá Trị Thực Tại
Bài Đọc Thêm: Năm Căn, Năm Lực ...
- Tập 3: Phần 2 Giới thiệu về Thiền trong Phật giáo, học thuyết phân kỳ, về các trường phái tu Tịnh Độ, Mật Tông, Hóa Tông; Giới thiệu Kinh Hoa Nghiêm, Giới luật công truyền hay bí truyền ....
- Tập 4: các giảng giải về các vấn đề Phật giáo (Nguồn: Phật Học Cơ Bản - GHPGVN)
+ Tôn chỉ mục đích của Phật giáo: ... Người theo Phật Giáo không có kẻ thù, không tìm người để trả thù. Ðối với kẻ cố ý hại mình, mình phải nhẫn nại, tu hạnh Nhẫn Nhục Ba-la-mật; không sinh tâm báo thù. Ðó là chỗ cao siêu, là ưu điểm của Phật Giáo mà các tôn giáo khác thiếu sót.
Tôn chỉ hết sức trọng yếu của Phật Giáo là: Nếu bạn là ma quỷ thì tôi tuyệt đối không làm tổn hại bạn, không sinh lòng đối kháng, mà ngược lại, sẽ tìm cách để nhiếp thọ bạn. Ðây là giáo nghĩa đặc biệt nhất của đạo Phật. Ðối với chúng sinh luôn phát tâm từ bi, không làm hại kẻ khác.
Khổng Tử nói rằng: "Ngôn tất trung tín, Hành tất đốc kính, Tuy man mạch chi bang, hành hỹ." (Lời nói chân thật, Hành động chắc thật, cung kính, thì dù ở nơi nguy hiểm cũng vẫn được an toàn.). (Nguồn: Trì chú theo Chánh pháp và Thành ý.)
+ Học Phật Pháp: HT Thanh Từ giảng, Chư Tổ nói "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan" có nghĩa là chấp chặt nơi văn tự mà giải nghĩa, thì oan cho ba đời đức Phật, mà rời bỏ kinh điển thì lại lạc vào những tà thuyết của ma vương". Vì lời nói của chư Phật như trên đã trình bày chỉ là phương tiện tạm thời, nghĩa là tùy bệnh cho thuốc. Thuốc trị bệnh của Phật là thuốc phá chấp, nếu chiếu theo văn tự để giải nghĩa, hễ Phật nói Có thì mình chấp cái Có đó là thật, hễ Phật nói Không thì lại chấp cái Không đó là thật, ấy là oan cho Phật.
- Kinh là phá chấp, nếu lìa kinh tức còn chấp, còn chấp là ma, không thể giải thoát được.
- Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy: Giáo pháp của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng, là phương tiện để đạt đến chân lý, cho nên đừng lầm ngón tay là mặt trăng, chân lý không nằm trong kinh điển. Nếu y theo kinh điển để giải nghĩa, để tìm chân lý trong những giòng chữ, thì đó chính là chỉ biết nhìn ngón tay mà chưa biết nhìn mặt trăng. Nhưng rời bỏ hẳn kinh điển đi thì lại có thể rơi vào những điên đảo vọng tưởng. Cũng vì không muốn cho môn đệ chấp chặt rằng kinh điển là chân lý mà thật ra chỉ là phương tiện chỉ bày chân lý cho nên đức Phật đã nói: "trong bốn mươi chín năm thuyết pháp ta chưa từng thuyết một chữ." Và chấp lấy phương tiện làm cứu cánh tức là làm oan ức cho chư Phật, mà bỏ mất phương tiện đi thì cũng không có cách gì đạt đến cứu cánh.
+ Học Phật pháp: PS Tịnh Không giảng, nhà Phật thường nói “y văn giải tự, tam thế Phật oan” nghĩa là y theo câu văn hiểu nghĩa theo mặt chữ, thì ba đời Phật bị oan. Cứ chiếu theo văn tự để nghiên cứu, giải thích thì tam thế chư Phật là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật đều kêu oan uổng, quý vị hiểu lầm ý Phật mất rồi!
Trong bài kệ Khai Kinh có câu “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, tôi nói con người hiện tại hiểu sai lệch, nên trở thành “khúc giải Như Lai chân thật nghĩa” tức là hiểu cong vạy ý nghĩa chân thật của Như Lai, hoặc “ngộ giải Như Lai chân thật nghĩa” là hiểu lầm lạc ý nghĩa chân thật của Như Lai.
- Quý vị xem: Học Phật pháp phải quy về tự tánh, điều này khẩn yếu lắm, giúp cho chúng ta đạt được tâm thanh tịnh, mở mang trí huệ, đấy chính là Phật pháp. ....”Nguồn: Y Kinh Giải Nghĩa ...
+ Phật dạy A Nan rằng: "Chỉ học thuộc lòng và nhiều kiếp nhớ ghi Kinh Văn diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian..."..
- A Nan là một điển hình cho chúng sinh tập khí giỏi văn chương, giàu ngôn từ, nhưng không chịu tham thiền, nhập định nên không bao giờ thấy được Pháp thân thanh tịnh của mình. Tuy Phật pháp cao siêu mầu nhiệm và được dung chứa trong 12 bộ kinh, nhưng Đức Phật giáo hóa chúng sinh dựa theo 8 phương thức (tám khoa) khác nhau:
1) Tạng giáo: là các pháp môn tu học có dạy chung trong tam tạng kinh (Kinh tạng, Luận tạng và Luật tạng).
2) Thông giáo: là giáo pháp dạy chung cho tất cả ba hạng căn cơ : Thượng, Hạ, Trung và ba thừa : Tiểu, Trung và Đại.
3) Biệt giáo: là giáo pháp dạy riêng cho mỗi căn cơ hoặc Thượng, hoặc Trung, hoặc Hạ, hoặc riêng cho Tiểu thừa, hoặc riêng cho Trung thừa, Duyên giác, hoặc riêng cho Đại thừa Bồ-tát.
4) Viên giáo: là giáo pháp viên tròn, đầy đủ cũng còn gọi là “liễu nghĩa”. Thí dụ như kinh Hoa Nghiêm chỉ chuyên dạy cho các hàng Bồ-tát Đại sĩ Pháp thân (từ Thập trụ đến Thập Địa Bồ-tát).
5) Đốn giáo: là giáo pháp đốn ngộ tức là giác ngộ nhanh chóng. Đây là pháp môn trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật hay là “Trực chỉ Thiền” của Tổ Bồ-đề Đạt Ma hay Lục Tổ Huệ Năng.
6) Tiệm giáo: là giáo pháp dạy tu chứng dần dần, từ bậc thấp lên đến bậc cao. Thiền thì có Ngài Thần Tú và cũng là Tịnh độ pháp môn.
7) Bí mật giáo: là dạy vế cách bắt ấn, trì chú, tam mật tương ưng tức thân thành Phật. Nói cách khác thân, khẩu, ý của mình tương ứng với thân, khẩu, ý của Phật. Đây là Mật tông.
8) Bất định giáo: là giáo pháp mà Đức Phật tùy theo cơ nghi thuyết dạy chớ không nhất định là phải thuộc riêng về một căn cơ nào cả. (Nguồn: Mục Lại rơi vào thuyết nhân duyên đối đãi ....)
+ Tham thiền thanh lọc: ... Hiện nay nhân loại trên thế giới, do vì tranh danh đoạt lợi, nên tạo ra sát khí đằng đằng, ích kỷ tự lợi, nào là ta tranh, người giành, khiến thế giới biến thành đen tối u ám, đầy dẫy độc khí. Nhân loại đấu tranh ác liệt, càng ngày càng dữ dội càng ngày càng nguy hiểm, mỗi lúc mỗi thêm nghiêm trọng....
Lúc dụng công tu hành trong Thiền-đường, vô hình trung chúng ta có thể tiêu diệt những thứ sát khí ấy, khiến thế giới tránh được nguy cơ....
Quý vị hãy xem, hiện nay các thứ tật bịnh quái dị càng ngày càng nhiều, khiến các bác sĩ phải bó tay. Ðó là do không khí bị ô nhiễm, chẳng được trong lành sạch sẽ, đâu đâu cũng toàn là độc khí. Người tu Ðạo chúng ta phải dùng một loại điện liệu để làm tiêu tan chất độc trong không khí....
Tức là tĩnh tọa, và từ đó mà ánh sáng trí huệ được phóng đi. Ánh sáng trí huệ này chính là một luồng điện lực. Luồng điện ấy di chuyển trong không gian và sẽ có tác dụng giải độc, khiến cho không khí hỗn trược biến thành thanh khiết. Ðó gọi là cách chữa trị các căn bệnh của thế giới bằng phương pháp điện liệu.
... Ðảnh lễ Thiên trung Thiên (tức là Phật) - Hào quang chiếu vũ trụ - Tám gió thổi chẳng động - Ngồi vững tòa sen vàng..... Bây giờ chúng ta hãy lấy câu "Hào quang chiếu vũ trụ" để thuyết minh một nguyên lý. Hào quang này chính là điện liệu, rọi chiếu toàn đại thiên thế giới và làm cho tiêu độc. Hào quang này có thể làm tiêu trừ không khí hỗn trược trong vũ trụ, tẩy sạch hoàn toàn cho đến một chút xíu độc tố cũng không còn. Nếu quý vị có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ, thì phần độc khí của quý vị sẽ được tiêu tan. Nếu kẻ khác có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ thì phần độc khí của kẻ ấy sẽ được diệt trừ. Nếu mọi người có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ thì độc khí của mọi người sẽ được tiêu trừ.
Nếu ai ai cũng đồng tâm hiệp lực dùng phương pháp điện liệu để chữa trị các căn bịnh của thế giới thì không khí ô nhiễm sẽ càng ngày càng giảm bớt, không khí trong lành sẽ càng ngày càng gia tăng. Dần dần bầu không khí sẽ trở nên hoàn toàn trong sạch. Quý vị phải biết rằng không khí ô trược là độc tố, còn không khí trong lành là trí huệ. ..... Lợi ích (Thiền định) là có thể tiêu diệt độc tố làm ô nhiễm không khí, khiến nhân loại không còn bị tai họa vì các chứng bịnh hiểm nghèo. Ðây chính là lợi ích gián tiếp cho tất cả mọi người vậy..... (Nguồn: Khai thị - HT Tuyên Hoá - Q.5)
+ Ăn uống - Ăn ít - Ăn chay - Nhịn ăn làm thân thể khỏe mạnh - Thân tâm tinh sạch ít bệnh tật
Trì trai tu phạm hạnh: Nguyên văn trong chữ Hán là trai. Trì trai tức là ăn chay chứ không ăn mặn. Nhưng chữ trai này có nghĩa khác hơn, sâu hơn nữa, khi tham cứu nguyên bản bằng tiếng Pali thì chữ trai này ngày xưa người ta sử dụng để dịch chữ thanh lọc (purification). Ngày xưa người ta dùng chữ trai chung với chữ giới, gọi là trai giới, nghĩa là ăn chay và giữ giới. Đây không phải là vấn đề riêng của người xuất gia mà đây cũng là sự thực tập của người tại gia, tức là phải khổ hạnh một chút xíu, phải tiết chế, không được hưởng thụ nhiều để có thể thanh lọc được thân và tâm. Trai giới để cho thân và tâm được nhẹ nhàng, thân tâm nhẹ nhàng thì hạnh phúc sẽ dễ dàng có được, còn thân hoặc tâm quá nặng thì hạnh phúc sẽ ít hơn. Vì vậy không những người xuất gia giữ trai giới mà người tại gia cũng nên giữ trai giới.
Tại Làng Mai thỉnh thoảng có khóa tu sức khỏe, trong khóa tu mọi người ăn rất ít, không những ăn chay mà ăn rất là ít, uống nước rất nhiều, tập thể thao rất nhiều, súc ruột (nhịn ăn) để thanh lọc thân thể. Khi thân nhẹ nhàng thì tâm cũng nhẹ nhàng, mình cũng làm thế nào để cho những lo lắng, buồn phiền, tham đắm nhẹ bớt. Mình được tham dự một khóa tu, được nghe pháp thoại, được thực tập thiền tọa, thiền hành, và đi bộ một ngày mấy giờ đồng hồ, và cố nhiên là mình không có liên hệ tình dục thì thân tâm của mình được thanh lọc. Đây không phải chỉ là thực tập của những người xuất gia mà là cả của người tại gia. Nếu biết cách thực tập thì trong giai đoạn đó mình có hạnh phúc liền, còn bị bắt buộc phải làm thì mình không có hạnh phúc lắm.
Trong nguyên văn tiếng Phạn có chữ tapas có nghĩa là khổ hạnh, tiết chế, thanh lọc. Khổ hạnh (duskaracarya) tức là thực tập tiết chế. Trì trai và giữ giới, chữ trai dịch nguyên văn từ chữ tapas, tức là tiết chế khổ hạnh. Người cư sĩ cũng nên có những giai đoạn thực tập như vậy để thanh lọc thân và tâm của mình. Giữ giới là không gần gũi, chung chạ về vấn đề sắc dục. Cho nên phạm hạnh (brahmacarya) không phải chỉ cho người xuất gia mà người tu tại gia thỉnh thoảng cũng nên làm như vậy.
Bản dịch của kinh Phước Đức là biết tinh cần, tỉnh thức. Tinh cần ở đây tức là tinh cần thanh lọc. Thành ra mình phải sửa cho gần với nguyên văn hơn. Biết ăn chay, biết tu theo phạm hạnh mình nên dịch là biết tinh cần thanh lọc thân tâm và tu theo phạm hạnh thì hay hơn dịch là ăn chay. Ăn chay ở đây có nghĩa là thanh lọc thân, thanh lọc tâm, khổ hạnh một chút xíu để cho nhẹ nhàng. Trong bản dịch từ tiếng Pali mình cũng phải sửa lại là sống tinh cần, tỉnh thức. Tinh cần ở đây là chuyên cần thanh lọc thân tâm cho thường, chứ đừng có lâu lâu mới làm một lần mà mỗi năm phải làm nhiều lần. Đi một khóa tu sức khỏe, một khóa tu bảy ngày hay hai mốt ngày để thanh lọc thân tâm và tu theo phạm hạnh (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức - HT Thích Nhất Hạnh)
+ Thức ăn tinh khiết (pure food): Điều này bao hàm một chế độ ăn chay, được chọn với sự phân biện sáng suốt; nó đòi hỏi việc chỉ ăn các loại rau và trái cây đem lại sinh lực. Phải suy xét cẩn thận trong việc chọn thức ăn, cố tránh thức ăn quá khó tiêu, một ít thức ăn tốt lành trong sạch, tiêu hóa được hoàn toàn là tất cả những gì mà một đệ tử cần đến. Bạn hỏi đó là thức ăn gì ư? Đó là sữa, mật ong, bánh mì làm bằng lúa mì lức, tất cả các loại rau củ mọc ngoài nắng, cam (nhất là cam), chuối, nho khô, quả hạt (nuts), một vài loại khoai tây, gạo lức (unpolished rice), và tôi nhắc lại, chỉ cần bao nhiêu thứ nói trên để đảm bảo sự hoạt động (TVTTHL, 335)
+ Thức Ăn chay: Chọn thức ăn, sáng suốt hạn chế thức ăn khó tiêu, một ít thức ăn tươi tốt và tinh khiết được tiêu hóa hoàn toàn là tất cả những gì mà vị đệ tử cần có. Là Sữa, mật ong, bánh mì làm bằng bột mì lức, tất cả các loại rau mọc ngoài nắng, cam (nhất là cam), chuối, nho khô, quả hạt (nuts), khoai tây, gạo lứt, và tôi xin lặp lại, chỉ bao nhiêu thứ kể trên cũng đủ để cho cơ thể hoạt động. (TVTTHL, 334–335)
- Thức ăn chay: Người tiến hóa ăn gồm rau, quả tươi, nước tinh khiết, quả hạt (nuts) và cốc loại (grains), hoặc nấu chín, hoặc còn sống, thì bấy giờ các thể được tạo ra mới trở nên thích hợp để trở thành các hiện thể cho các Chân Ngã tiến hóa cao. (LVHLT, 84)
+ Đệ tử phải là người ăn chay nghiêm nhặt, không được vi phạm, chỉ ăn giới hạn vào việc ăn rau, đậu, trái cây và quả hạt (nut). Chỉ có như thế y mới tạo được loại thể xác có thể chịu được sự giáng nhập của Chân Nhân và đứng trước Đấng Điểm Đạo trong các thể tinh anh của mình. (ĐĐNLVTD, 196–197)
+ Khi vị đệ tử sống cuộc đời mực thước, tránh xa thịt, chất nicotin (trong thuốc lá–ND) và rượu, thực hành việc tiết dục thì tuyến tùng quả không còn teo tóp nữa mà trở nên hoạt động sớm hơn. (LVLCK, 1012)
+ Ðức Phật dạy: Ở đời vị lai, sẽ có một số người vô minh nói rằng nhiều giới luật Phật giáo cho phép ăn thịt. Họ rất thích mùi vị thịt do thói quen ăn thịt trong quá khứ, họ nói những lời đó chỉ đơn giản theo quan điểm của họ. Nhưng thật ra Phật và Thánh không bao giờ nói thịt là thức ăn _Kinh Lăng Già.
+ Tại sao người ăn chay không được ăn trứng?
Đáp: Không có gà trống, gà mái cũng có thể ấp trứng nở ra gà con như thường. Ngày xưa người ta không hiểu điều này nên họ nói là, nếu trứng không có trống thì không thể nở ra gà con. Nhưng lối nói này cũng không có gì làm chứng cớ. Tại sao người ăn trứng lại lý luận như thế? Tức là vì họ muốn ăn trứng đó mà. Bất luận trứng có trống hay không có trống, nó đều có thể sanh ra gà con, chớ không phải không thể sanh đâu. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói “Noãn duy tưởng sanh,” tức trứng do tưởng mà sanh ra.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu 252)
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạo - Điểm đạo
Xem: Đức Phật dậy Ăn chay - Ăn Thịt
+ Kinh Phân Biệt Thiện Ác Báo Ứng
Tôi nghe như vầy: ........ Bấy giờ trưởng giả bạch đức Thế tôn rằng:
– Con chó Thương khư này không biết kiếp trước nó như thế nào, cúi mong đức Phật diễn thuyết cho.
Đức Phật bảo:
– Thôi đi, đừng hỏi việc này. Nếu ngươi nghe việc này càng thêm ảo não, không thể chịu nổi đâu.
Trưởng giả Du ca ba lần thưa đức Phật như vầy:
– Cúi mong đức Phật diễn thuyết việc này cho con, con rất muốn nghe.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo trưởng giả rằng:
– Nay ngươi hãy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ, ta sẽ phân biệt, diễn thuyết cho nghe. Con chó ấy chính là thân của Đâu nễ dã, cha của ngươi đó. Ở trong đời quá khứ vọng chấp thân này, vô ngã chấp là ngã, xan tham, tật đố, không chịu bố thí, tham tiếc tiền của, không tin tam bảo, cho nên phải đọa vào loài súc sanh vậy. Nay con chó Thương khư này chính là cha của trưởng giả.
Trưởng giả Du ca lại bạch đức Thế tôn:
– Cha của con là Đâu nễ dã những ngày còn sống thường hay bố thí, thờ cúng thiên hỏa và các quỉ thần, như vậy thân của cha con nhất định phải được sanh lên trời Phạm, hưởng sự giàu có, sung sướng, vì cớ gì lại đọa vào trong loài súc sanh vậy? Điều này thật khó tin!
Đức Phật bảo trưởng giả:
– Cha của ngươi là Đâu nễ dã, do sự phân biệt này vọng sanh kế chấp, không hành huệ xả, không tin Tam bảo, do nhơn duyên ấy phải đọa vào loài chó vậy.
Ngài lại bảo:
– Nay ta đã nói sợ ngươi không tin, vậy ngươi hãy trở về nhà hỏi con Thương khư (thì rõ).
Bấy giờ trưởng giả chào đức Phật rồi trở về nhà. Đến nhà rồi, bảo con chó:
– Này Thương khư! Ngươi nếu thật là cha của ta tên là Đâu nễ dã, thì này chó, ngươi hãy ngồi lên tòa chiên đàn đi!
Trưởng giả lại nói.
– Này Thương khư! Nếu ngươi thật là cha của ta tên là Đâu nễ dã thì hãy đến mâm đồng ăn món thịt này đi!
Sau khi con Khương khư ăn xong, trưởng giả lại bảo:
– Nếu ngươi thật là cha của ta, tên là Đâu nễ dã, vậy làm sao hãy hiển bày điều kỳ dị đi!
Bấy giờ con Thương khư nghe lời nói ấy rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ cũ, lấy mũi ngửi đất ở dưới tòa chiên đàn, dùng chân bươi ra một cái hũ, bên trong chứa đầy bình bằng vàng, mâm bằng vàng và các loại tạp khí. Khi ấy trưởng giả Du ca thấy các thứ kim ngân châu báu hy hữu này liền sung sướng nhảy nhót, yêu thích những đồ được cất giấu này. Bấy giờ trưởng giả đi ra khỏi thành Xá vệ, đến chỗ đức Phật một lòng quy y.......
..... Thế tôn bảo Du ca rằng:
– Con chó Thương khư này quả thật là cha của ngươi?
Trưởng giả thưa:
– Đúng vậy, Thưa Thế tôn, như lời đức Phật đã nói chân thật không hư dối, tất cả những điều nghi hoặc của con đều đã đoạn trừ.
Khi ấy trưởng giả Du ca thưa đức Thế tôn rằng:
– Tất cả loài hữu tình chết yểu, sống lâu, có bệnh, không bệnh đoan nghiêm, xấu xí, sanh nhà hào quý, đê tiện, thông minh, ngu độn, mềm mại, thô lỗ... Các việc ấy không giống nhau. Vậy nhân quả thiện ác báo ứng như thế nào?.
Đức Phật bảo Du ca trưởng giả tử rằng:
– Lành thay! Lành thay! Ngươi hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho: Tất cả hữu tình tạo nghiệp, tu nhân thiện ác không giống nhau, cho nên mới có sự báo ứng sang hèn, trên dưới, chủng tộc cao, thấp, sai biệt khác nhau. Nay ta lược nói những việc như vậy. Nếu phân biệt rộng rãi thì nghĩa ấy hết sức thâm sâu.
Bấy giờ trưởng giả lại thưa đức Phật rằng:
– Cúi mong đức Phật diễn thuyết cho con nghe!
Bấy giờ đức Phật bảo trưởng giả rằng:
Kinh rất dài, đức Phật giảng về các nghiệp xấu ác và quả báo về nghiệp xấu ác phải nhận chịu. Mời xem Kinh Phân Biệt Thiệt Ác Báo Ứng
+ Xem thêm: Thiện ác nhân quả
+ Nhân quả của Nghiệp sát - Nghiệp báo tội sát sanh - Nghiệp báo tội sát sinh - Quả báo tội sát sanh - Quả báo tội sát sinh
A-Nan lại bạch Phật rằng: Có người không phải tự tay mình sát sanh, không tự tay mình sát sanh là không có tội, phải vậy không, bạch đức Thế Tôn?
Phật dạy rằng: Sai khiến người làm việc sát sanh tội nặng hơn là tự mình làm? Vì sao? Bởi vì, hoặc là kẻ nô tì, người ngu muội, trẻ con, hạng thấp hèn không biết tội phước, hoặc là bị quan quyền sai sử chứ không phải tự ý xuất phát làm việc sát sanh. Do đó, tuy mắc tội sát sanh, nhưng tâm và việc chẳng đồng, khinh trọng khác biệt. Sai khiến người sát sanh là cố ý phạm, âm thầm ôm lòng ngu ác, thích thú tự tay sát hại sanh mạng chúng sanh, như thế thiếu mất từ tâm, khi dối Tam Bảo, lừa đảo lương tâm, tổn thương sanh mạng, tội nặng không biết đường nào!
Sát sanh tạo nghiệp oán thù tương báo, đời đời phải gánh chịu oan ương, không thể đoạn dứt, hiện đời bất an, thường gặp phải tai họa hung hiểm.
Khi bỏ thân người thì phải đọa vào địa ngục, được ra khỏi địa ngục lại đọa vào súc sanh, bị người làm thịt. Cứ thế ba đường tám nạn số vạn ức kiếp thịt mình cung cấp cho người, chưa có lúc nào dứt, thân chịu khốn khổ, phải ăn cỏ uống nước mương rạch.
Loài súc sanh cầm thú hiện nay trong đời, đều do tạo nhân đời trước, khi làm người thì vô đạo bạo ngược, ám hại tổn thương sanh mạng, không tin nhân quả, do vậy mà ngày nay phải cái quả báo như thế. Đời đời làm việc oán thù thì phải bồi thường cho nhau, đồng tánh linh mà mang thân khác biệt, tội sâu như vậy đó. (Nguồn: Kinh A Nan vấn về Phật sự)
29. Quả Báo Sát Sanh
Sự thù oán lớn nhất của thế giới không gì hơn là “sát sanh”. Cho nên nói: “Giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền.” Nếu quý vị giết cha, anh của người ta thì người ta sẽ giết cha, anh của quý vị. Cứ như vậy mà tàn sát lẫn nhau, không bao giờ chấm dứt. Bởi nhân sát sanh quá nhiều, cho nên quả báo đến rất mau, gọi là: “hiện thế hiện báo” tức quả báo hiện tiền. Tôi xin lược nói hai ví dụ về quả báo nghiệp sát ........... (Mời xem chi tiết: HT Tuyên Hóa khai thị - Mục 29)
+ Phật lại dạy rằng: “A Nan, nếu không trừ tâm sát hại mà muốn cầu được đạo, thì cũng như người tu bịt hai lỗ tai của mình, la tiếng thật lớn, mà muốn cho mọi người không nghe thì không thể được”. (Nguồn)
+ Nghiệp sát - Chết yểu: Thưa Thế tôn, hữu tình bị chết yểu là do nghiệp gì mà bị như vậy? Đức Phật bảo: Do sát sanh nên bị như vậy. Nghiệp sát có 10 loại:
1. Tự tay giết.
2. Khuyên người khác giết.
3. Thấy giết thì hoan hỷ.
4. Tùy hỷ việc giết.
5. Giết bào thai.
6. Khuyên trục thai cho chết.
7. Oán thù mà giết.
8. Giết bằng cách đoạn nam căn.
9. Bằng phương tiện giết.
10. Sai người giết.
Mười thứ như vậy đưa đến quả báo chết yểu.
+ Không làm 10 loại như trên thì được quả báo trường thọ
+ Đoạn hai: Quả báo của nghiệp sát sanh.
1. A-Nan thỉnh bạch Phật: A-Nan lại bạch Phật rằng: Có người không phải tự tay mình sát sanh, không tự tay mình sát sanh là không có tội, phải vậy không, bạch đức Thế Tôn?
2. Phật dạy rằng: Sai khiến người làm việc sát sanh tội nặng hơn là tự mình làm? Vì sao? Bởi vì, hoặc là kẻ nô tì, người ngu muội, trẻ con, hạng thấp hèn không biết tội phước, hoặc là bị quan quyền sai sử chứ không phải tự ý xuất phát làm việc sát sanh. Do đó, tuy mắc tội sát sanh, nhưng tâm và việc chẳng đồng, khinh trọng khác biệt. Sai khiến người sát sanh là cố ý phạm, âm thầm ôm lòng ngu ác, thích thú tự tay sát hại sanh mạng chúng sanh, như thế thiếu mất từ tâm, khi dối Tam Bảo, lừa đảo lương tâm, tổn thương sanh mạng, tội nặng không biết đường nào! (Nguồn: KINH ANAN VẤN PHẬT SỰ CÁT HUNG HT Tịnh Không giảng)
Nguồn: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng
Xem thêm: Kinh thiện ác nhân quả
Xem: Giữ ngũ giới
+ Vô tổn hại (harmlessness): X. Bất tổn hại.
+ Điều này bao gồm các hành động ở cõi trần của một người, vì các hành động đó có liên quan đến mọi hình hài của biểu hiện thiêng liêng và đặc biệt có liên quan đến bản chất sức mạnh (force nature) hay là năng lượng mà người đó biểu hiện qua các hoạt động ở cõi trần của mình. Y không gây đau khổ hay làm tổn thương bất cứ ai. (ASCLH, 184–185)
+ Bất tổn hại là tác nhân chính yếu (major agent) đối với việc làm cho cân bằng (offsetting) nghiệp quả. (CTNM, 295)
+ Do đó, bạn có thể thấy lý do tại sao tôi rất nhấn mạnh vào việc cần có đức tính không gây tổn hại nơi tất cả các bạn vì đó là phương pháp khoa học (một cách tuyệt diệu, và nói về mặt huyền môn) để tẩy sạch con người và để thanh lọc các bí huyệt. Việc thực hành đức vô tổn hại sẽ làm thông suốt các vận hà bị tắt nghẽn và để cho các năng lượng cao siêu tiến nhập vào.(CTNM, 40)
+ Thực hành đức vô tổn hại để chận đứng việc tạo nhân và để ngăn chận bất cứ cách diễn biến thêm nào của tình trạng bất hạnh (nhất là do bệnh tật –ND). (CTNM, 296)
+ Các tình trạng từ lực có hại, như là kết quả của việc vận dụng sai lầm các sức mạnh của con người, là các nguyên nhân của tà lực trong thế gian xung quanh chúng ta, bao gồm cả ba giới dưới nhân loại. Với tư cách các cá nhân, làm thế nào chúng ta có thể thay đổi việc này? Bằng việc phát triển trong chính chúng ta đức tính Vô Tổn Hại (Harmlessness). Vì vậy, hãy nghiên cứu chính bạn theo khía cạnh này. Nghiên cứu cách cư xử, các lời nói và các tư tưởng hằng ngày của bạn để làm cho chúng hoàn toàn vô hại. Hãy làm cho bạn suy nghĩ những tư tưởng về chính bạn và về những người khác sẽ mang tính xây dựng và tích cực, và như thế các hiệu quả của chúng sẽ không gây tổn hại. Hãy nghiên cứu ảnh hưởng về mặt cảm xúc của bạn trên người khác sao cho bạn không thể gây tổn thương một huynh đệ của bạn do bởi một tính khí (mood), một sự ngã lòng (depression), và một phản ứng cảm xúc nào. Hãy nhớ rằng, trong mối liên kết này, khát vọng tinh thần và sự nhiệt tình mãnh liệt, bị đặt sai chỗ hoặc bị hướng dẫn sai, có thể rất dễ dàng gây tổn hại cho một huynh hữu, vì vậy không những chỉ nhìn vào các xu hướng sai lầm của bạn, mà còn nhìn vào việc sử dụng các đức tính của bạn.
+ Nếu sự vô tổn hại là nguyên tắc cơ bản (keynote) của kiếp sống của bạn, bạn sẽ hành động để tạo ra các tình trạng hài hòa đúng đắn trong phàm ngã của bạn, nhiều hơn bất kỳ số lượng giới luật theo các đường lối khác. Sự thanh tẩy mạnh mẽ được mang lại bởi nỗ lực không gây tổn-hại sẽ tiến triển rất nhiều để loại bỏ các trạng thái ý thức sai trái. Do đó, hãy chăm lo cho nó và đưa ý tưởng này vào việc kiểm điểm ban tối của bạn.
* Xem ĐỨC VÔ TỔN HẠI _ Chân Sư DK (LVHLT, 101)
Tôi muốn thúc giục mỗi người đang đọc các trang này tạo ra một khởi đầu mới trong đời sống tâm linh. Tôi muốn nói với người đọc, hãy quên tất cả những thành tựu trong quá khứ, thể hiện sự nhiệt tình, và tập trung vào Thiên Cơ (Plan).
Vì vậy, vào lúc này, Tôi nói với bạn rằng, Tôi – là một đệ tử lớn tuổi và có lẽ có kinh nghiệm hơn, và là người phụng sự trong vườn nho vĩ đại của Đức Chúa – thực hành đức tính vô-tổn-hại với niềm vui thích và sự hiểu biết, vì đó là (nếu thực sự được thực hiện) tác nhân hủy diệt mọi sự hạn chế. Tính gây tổn hại dựa trên sự ích kỷ, và dựa vào một thái độ tập trung vào bản ngã (ego-centric attitude). Đó là sự biểu hiện của các lực được tập trung cho sự tự thúc ép, sự tự cao, và sự tự-mãn. Tính vô tổn hại là cách biểu lộ sự sống của người nhận ra mình ở khắp mọi nơi, y sống một cách hữu thức với tư cách một linh hồn, mà bản chất của linh hồn là bác ái, phương pháp của linh hồn là tính bao gồm, và đối với người đó, mọi hình tướng đều giống nhau ở chỗ chúng che giấu ánh sáng, và chỉ là các ngoại hiện (externalizations) của Thượng Đế Vô Hạn duy nhất (the one Infinite Being). Hãy để Tôi nhắc nhở bạn rằng sự nhận thức này sẽ biểu hiện trong một sự hiểu biết thực sự về một nhu cầu của tình huynh đệ, tách ra khỏi tình cảm và động cơ cá nhân. Nó sẽ dẫn đến sự im lặng của ngôn ngữ, vốn nảy sinh từ việc không liên quan gì đến bản ngã riêng biệt. Nó sẽ tạo ra đáp ứng tức thời đối với nhu cầu đích thật, đặc trưng cho các Đấng Cao Cả (Great Ones), các Ngài (bỏ qua vẻ bề ngoài) nhìn thấy nguyên nhân bên trong vốn tạo ra các tình trạng được nhận thấy trong đời sống bên ngoài, và vì vậy, từ mức độ minh-triết đó, các Ngài có thể cung cấp sự giúp đỡ và hướng dẫn thực sự. Tính Vô Tổn Hại mang lại trong đời sống sự thận trọng trong phán đoán, dè dặt trong lời nói, khả năng kiềm chế hành động bốc đồng, và sự thể hiện một tinh thần không chỉ trích. Vì vậy, con kênh thông suốt có thể được cung cấp cho các mãnh lực của tình thương đích thực, và cho các năng lượng tinh thần vốn dường như truyền sinh khí cho phàm ngã, do đó dẫn đến sự hành động chân chính.
Cho nên, hãy để cho đức tính vô tổn hại, trở thành chủ âm (keynote) của kiếp sống của bạn. Việc hồi tưởng (review) buổi tối nên được xúc tiến hoàn toàn theo đường lối này; hãy chia công việc hồi tưởng làm ba phần và xem xét:
1. Tính Vô Tổn Hại trong tư tưởng. Việc này chủ yếu sẽ dẫn đến việc kiểm soát lời nói.
2. Tính Vô Tổn Hại trong phản ứng tình cảm. Điều này sẽ dẫn đến việc trở thành một vận hà cho khía cạnh bác ái của linh hồn.
3. Tính Vô Tổn Hại trong hành động. Điều này sẽ tạo ra sự tự tin, khéo léo trong hành động và việc giải phóng ý chí sáng tạo.
Ba phần này tiến gần đến chủ đề cần được nghiên cứu do các ảnh hưởng của chúng lên chính bản ngã và sự phát triển của một người, và do ảnh hưởng của chúng lên những người mà người đó tiếp xúc, và lên những người cùng cộng tác xung quanh của người đó. (LVHLT, 103)
+ Người tìm đạo phải sống một cách vô tổn hại (harmlessly) trong tư tưởng (thought), lời nói (word) và hành động (deed). Bằng cách này, mỗi người trong các bạn sẽ cung ứng một vận hà tinh khiết, sẽ trở thành một tiền đồn cho tâm thức của Chân Sư và cung ứng một trung tâm năng lượng mà qua đó tình huynh đệ có thể tác động. (LVHLT, 354)
+ Không gây tổn hại vốn là đặc tính nổi bật của moi người con của Thượng Đế. Không gây tổn hại nghĩa là không nói lời nào có thể làm tổn thương kẻ khác, không nghĩ đến bất cứ ý tưởng nào có thể gây đau khổ (poison) hoặc tạo ra hiểu lầm, không làm một hành động nào có thể gây thương tổn (hurt), dù là tối thiểu cho huynh đệ mình – đây là đức tính quan trọng nhất (main virtue) sẽ giúp cho đạo sinh huyền môn (esoteric student) bước một cách an toàn trên con đường phát triển khó khăn. (SHLCTĐ, 20)
+ Không Gây Tổn Hại - Không Sát Sanh: Đối với tất cả chúng sanh, bạn không còn ý nghĩ sát hại nữa, chúng sanh sẽ nhìn thấy bạn giống như bạn bè vậy, vì biết bạn sẽ không hại chúng. Bạn có thể yêu thương và có thể giúp đỡ chúng, chúng sẽ gần gũi bạn. Ngược lại, chúng sẽ chúng đều hoảng sợ, bỏ chạy - Do Tâm ta là bất thiện/ Người có sát khí rất nặng => Chúng bỏ chạy, chạy thoát thân. Giúp chúng sinh thoát khổ đau chết chóc - Đây là bố thí vô úy - Được sức khỏe, trường thọ, Chúng sinh hoan hỷ gần gũi;
Điều thứ hai: Bạn không nhẫn tâm làm tổn hại chúng sanh, bạn chắc chắn có tâm thương yêu, không những đối với động vật mà đối với thực vật và tất cả mọi sinh vật đều khởi tâm yêu thương chân thành...kể cả cây cỏ. Đây là pháp ly não, trưởng dưỡng tâm từ bi của mình, rèn luyện sức nhẫn nhục của mình, phải có tâm nhẫn nại (Nguồn: Tập 16 - Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Giác Tâm - Giác ngộ (Illumination): Thánh hiền thường dạy, Tu đạo với bất cứ pháp môn nào, quí vị cần Giác Tâm trước mới không xem là tu mù, luyện tối rất rễ gặp họa tai, đọa lạc tam đồ ác đạo. Đây là do khi chưa học Minh triết - Phật pháp để Giác tâm trước giúp hiểu biết những nguy hiểm, chướng nạn trong tu hành, thì rất thường đường quang không đi, đi quàng vào bụi dậm lầy lội, hầm hố nhiều nguy hiểm hoạn nạn. Như thế tu không tiến lên được, rễ phát sinh bệnh nạn do tu sai thứ tự KHÔNG NHƯ PHÁP TU HÀNH, rất rễ lầm lạc xa lầy vào đường tà đạo dước họa vào thân, sai một ly đi một dặm vì tạo duyên nghiệp với tà đạo, ngoại đạo, xa dời chánh đạo biết bao giờ mới thoát ra được (Như Thánh hiền thường cảnh báo Thày trò cùng nhau đọa lạc tam đồ ác đạo). Vậy nên, chỉ khi Tâm đã giác ngộ mới có thể tu Đạo an toàn, sớm có thành tựu, đặc biệt với các pháp tu đại thừa như tu Thiền định, đọc tụng kinh và trì các Thần chú như Chú Đại Bi, Chú Lăng Nghiêm mới dần thành tựu viên mãn, có Tâm Bất thối chuyển như câu "Bồ đề dạ" trong Chú Đại Bi, tương ứng Tay Ấn pháp Bất Thối Kim Luân Thủ Nhãn. (Nguồn: Bất Thối Kim Luân Thủ Nhãn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Sự giác ngộ và ánh sáng của tri thức có thể được xem như là các thuật ngữ đồng nghĩa.(ACMVDCTG, 144)
+ Sự giác ngộ và nhận thức chân lý cũng là các thuật ngữ đồng nghĩa, nhưng cần nhớ rằng trong trường hợp này, chân lý không phải là chân lý trên các cõi trừu tượng mà là chân lý cụ thể và khả tri – tức là chân lý có thể được trình bày và diễn tả bằng các hình thức và thuật ngữ cụ thể. (ACMVDCTG, 145)
+ Sự giác ngộ: Đây là một từ ngữ nên được dùng một cách dứt khoát để chỉ tâm thức siêu nhân loại. Bản năng thiêng liêng này khiến cho một người nhận biết được cái tổng thể mà y là một phần trong đó. Sự giác ngộ tác động xuyên qua linh hồn của con người bằng cách dùng bí huyệt đầu, và sau rốt làm tràn ngập mọi bí huyệt bằng ánh sáng hay năng lượng, như vậy, liên kết một người bằng tâm thức với tất cả các phần tương ứng của Tổng thể thiêng liêng. (TLHNM–II, 233)
+ Giác ngộ tám điều: Là đệ tử Phật thì phải thường cả ngày lẫn đêm hết lòng thành kính đọc và nghĩ nhớ tám điều giác ngộ này:
1- Giác ngộ rằng cuộc đời là vô thường;
2- Giác ngộ rằng càng lắm ham muốn thì lại càng nhiều khổ đau
3- Giác ngộ rằng vì tâm ta rong ruổi chạy theo danh lợi không bao giờ biết chán,
4- Giác ngộ rằng tính lười biếng đưa đến chỗ đọa lạc;
5- Giác ngộ rằng chính vì vô minh nên mới bị giam hãm trong cõi sinh tử.
6- Giác ngộ rằng vì nghèo khổ cho nên người ta sinh ra nhiều oán hận và căm thù, và vì thế lại tạo thêm những nhân xấu.
7- Giác ngộ rằng năm thứ dục vọng [5] đã gây nên tội lỗi và hoạn nạn
8- Giác ngộ rằng vì lửa sinh tử cháy bừng cho nên mọi loài đang chịu biết bao niềm thống khổ
Tám điều như vậy đều là chỗ giác ngộ của chư Phật, Bồ Tát, bậc Đại Nhân.... (Nguồn HT Thích Nhất Hạnh giảng: Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác)
+ Kinh Bát Đại Nhân Giác: ... Kinh này dung hợp cả đạo Bụt Nguyên Thủy và đạo Bụt Đại Thừa. Tám điều mà kinh văn nói đến có thể coi như tám đề tài thiền quán.. .. Nhà khoa học nếu chịu quán niệm thường trực về vô ngã nơi tự thân và nơi sự vật như thế thì cũng có ngày đạt ngộ dễ dàng vậy. (Nguôn: Kinh Bát Đại Nhân Giác_TS Thích Nhất Hạnh)
+ Xóa vô minh - Thêm Giác ngộ: Nếu chúng ta biết nhận thức mỗi loại pháp rõ ràng và ra công thêm thì mới có thể trị liệu được. Nghĩa là dứt được một phần vô minh tức là chứng được một phần pháp tánh. Từ những giác ngộ nhỏ mà dần dần đi lần đến chỗ giác ngộ lớn và tiến thẳng đến đạo quả vô thượng Bồ-đề... (HT Tuyên Hóa giảng Luận Đại Thừa Trăm Pháp Minh Môn))
+ Các mức độ Giác ngộ: Đức Phật nói "Như thế cho đến...". HT Tuyên Hóa giảng: Có nghĩa là các mức độ của giác ngộ, từ lục độ cho đến thập trụ, thập tín, thập hạnh, thập hồi hướng và thập địa; cho đến cả quả vị Phật, đều được bao gồm trong không Như Lai tạng. Từ các giai vị của hàng Bồ-tát đến quả vị Phật phải cần rất nhiều thời gian, và cần rất nhiều công hạnh tu tập, nhưng tất cả đều là không, quả vị Phật cũng là không.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Hình thức Giác ngộ: Trong ba hình thức giác ngộ. Sự giác ngộ của hàng A-la-hán và Bích-chi Phật[1] là để phân biệt họ với hàng phàm phu chưa giác ngộ.
Bích-chi Phật ngộ đạo thông qua tu tập mười hai nhân duyên.
Hàng A-la-hán ngộ đạo nhờ tu tập Tứ diệu đế.
Chư vị Bồ-tát khác hẳn hàng Bích-chi Phật và A-la-hán. Họ kiên quyết giúp cho mọi chúng sinh được giác ngộ, và cũng được gọi là làm lợi lạc quần sinh.
Nói tóm lại, A-la-hán, Bích-chi Phật, Bồ-tát là người đã tu tập giác ngộ. Ở đây, chúng ta có thể nói một người tu tập lần lượt đạt được các quả vị A-la-hán, rồi Bích-chi Phật, rồi đến quả vị bồ-tát thông qua phương tiện Lục độ ba-la-mật và vô số công hạnh. Như một người hiện thân ở cả ba trình độ tu tập khác nhau.
Ba hình thức giác ngộ có thể thảo luận rất dài. Còn nếu muốn thực hành thì có rất nhiều sự sai biệt. Trong mỗi trình độ lại có nhiều cấp độ khác nhau. Trong sự phân biệt lại có thêm nhiều phân biệt. Tiến trình của hình thức giác ngộ này rất nhiều giai đoạn. Cho đến khi ba hình thức giác ngộ này được viên mãn mới gọi là hoàn thành. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh - Quyển 1)
[Đại Nhân: Theo đạo Phật, người chưa biết tu gọi là phàm phu. Người nghe lời Phật dạy, phát tâm tu chứng từ Sơ quả Tu-đà-hoàn, đến Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, thì gọi là Thanh văn. Còn người phát tâm tu Lục độ vạn hạnh chứng từ Thập tín… lên Sơ địa tiến dần đến Thập địa, gọi là Bồ-tát. Và khi công hạnh tự giác giác tha của Bồ-tát đã viên mãn thì thành Phật. Như vậy, hàng Bồ-tát, Phật gọi là đại nhân. (HT Thích Thanh Từ giảng Kinh Bát Nhã Đại Nhân Giác)]
+ Chữ không - Quán không - Con đường vào đạo - Siêu phàm nhập thánh - Bốn câu kệ đức Phật thường giảng nói. Pháp tu giải thoát cho các hàng thừa.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Trong Kinh Kim Cang đức Phật thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v... giảng nói cho người khác nghe thì phước đức ấy còn hơn là phước đức đem bảy báu chất đầy Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên dưới hư không ra bố thí, lại hơn phước ngày đầu, ngày giữa, ngày sau nhẩn đến trăm nghìn kiếp đem thân mạng như số cát sông Hằng mà bố thí. Chẳng biết thế nào là bốn câu kệ?
Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.
Tại sao? Chúng sanh thường mê không giác ngộ cho nên nhiều kiếp đọa lạc. Chư Phật thường giác ngộ chẳng mê cho nên thành Phật đạo. Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật, công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ: là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp.
Sao gọi là không thân? Vì thân này do cha mẹ sanh ra đầy đủ khí huyết của cha mẹ, chín khiếu thường chảy những vật không sạch, bốn đại giả hiệp, sau rồi cũng tan rã; nhưngười trai lành gái tín tin có trí huệ biết thân này là giả, thì khi chưa chết tưởng như thân này đã chết, mượn thân giả này mà học Phật tu hành, gọi là Sắc không, câu kệ thứ nhất.
Thường quán sát tâm của mình chẳng sanh chẳng diệt, chí thánh chí linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay biết được chân tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng tưởng kéo dắt, chỉ nương chân tánh làm chủ, gọi là ngộ Tâm không, câu kệ thứ hai.
Lại quán sát tánh của mình thường lặng yên không lay động, nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là ngộ Tánh không, câu kệ thứ ba.
Lại quán sát đức Như lai giảng nói kinh pháp đều phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào cửa pháp, như nước rửa bụi, như bịnh gặp thuốc, nay chứng được tâm không, pháp không, như bịnh mạnh thì thuốc không dùng nữa, gọi là ngộ Pháp không, câu kệ thứ tư.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh. Tại sao?
Nếu ngộ đặng ý câu kệ thứ nhất, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Dự lưu Tu đà hoàn;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ hai, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Nhứt lai Tư đà hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ ba, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất lai A na hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ tư, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Vô sanh A la hán.
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.
Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật trước Phật sau cũng đồng một thể, đều tại mỗi người tự mình minh tâm kiến tánh mà thành công đắc quả, vì Phật tánh người sẵn có, nếu không y theo Phật mà tu hành thì chẳng đặng thành Phật.
Tại vì sao? Vì chưa có công đức gì ở trong Phật pháp. Nếu muốn cầu đặng bậc Phật, phải y theo mười điều dưới đây:
1.- Phải dùng trai giới làm nền tảng đi đến bậc Phật.
2.- Tìm minh sư chỉ dạy công phu.
3.- Phải biết tâm tánh rốt ráo tỏ rõ.
4.- Phải làm các phuớc lành giúp cho gốc đạo được sung túc.
5.- Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày mỗi thêm lớn.
6.- Rõ nhân quả việc làm đừng có vọng động.
7.- Trừ tà ma xa lìa ngoại đạo.
8.- Phải thông chơn lý chớ chấp hữu vi.
9.- Phải tinh tấn theo đức hạnh Phật.
10.- Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt.
Nếu đủ mười điều công đức này thì mau đặng thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi! Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều chúng sanh căn trí thấp kém, tâm ý mê say, trí tính mờ tối, tuy có trì trai giữ giới đều không trí huệ, cái tâm ngu mê cống cao ngã mạn, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ tâm mình để cầu thầy học hỏi những pháp chân chánh, khư khư chấp trước, nhận giả làm thiệt,hoặc chấp trước kinh sách văn tự, hoặc chấp trước tụng trì cho nhiều số, hoặc học được hai câu nói của Phật thì cho là hoàn toàn. Chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, căn lành tu ít mà muốn quả to, thiệt người ngu mê không hiểu ý Phật, tự mình điên cuồng tự dối mình, tuy có nhân lành mà khó tránh họa dữ. Tại sao? Hột giống không chắc, khó mà kết trái Bồ đề, một khi mất thân người, muôn kiếp khó phục hồi đặng. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang luận)
+ Đạo Giáo - Tu Luyện Hợp Nhất Thân Tâm: Là trường phái tu học chánh đạo khó nhất, thuật ngữ là “Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, và luyện Thần nhập hư”. Do đó họ thiết lập ra được cái quan hệ giữa thân và luyện thân này như thế nào để mà khắc phục cái Vọng Tâm và đạt tới cái Chân Tâm/ Giải thoát. Đó là một sự phát minh độc đáo nhất ở trong văn học của Đạo giáo; Nhưng đến nay không còn người có khả năng tu đạo giải thoát này. Với sự kết hợp của Thân và Tâm không phải Phật giáo mới có mà thôi, mà chính trong Đạo giáo đã nói rồi.(Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Đạo giáo - Mạnh Tử: HỎI: Bùa, Bát Quái có hiệu quả gì không? ĐÁP: Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo ở Trung Quốc vốn là một thể, nhưng tại sao chúng ta lại phải tin Phật? Bởi vì Đạo giáo, Nho giáo, cho đến các tông giáo khác đều không phải là cứu cánh; pháp của họ không cứu cánh, còn Phật giáo thì cứu cánh. Tôi vừa nói với quý vị về cái đại dụng toàn thể (cứu cánh tức là triệt để, mà Nho giáo thì rất gần gũi với Phật giáo). Lão Tử trong Đạo giáo là Ngài Tôn giả Ca Diếp hóa thân trong Phật giáo, còn Khổng Tử là hóa thân của đồng tử Thủy Nguyệt. (Gậy Kim Cang Hét 2 - Hoà Thượng Tuyên Hóa)
+ Tinh Khí Thần: Nếu tinh đầy đủ, bạn chẳng cảm thấy lạnh; nếu khí đầy đủ, bạn chẳng thấy đói; nếu thần đầy đủ, bạn chẳng buồn ngủ. Tinh, khí, thần (theo Ðạo giáo) gọi là Tam Bảo. Lý này cũng tương tợ như Phật Pháp Tăng của nhà Phật.
Nếu mình không hao tán tinh khí thần thì có hay không có ăn uống không thành vấn đề nữa. Chính bởi vì mình ngày ngày cứ xoay chuyển trong cảnh giới hữu lậu nên mới cần phải ăn uống.
Năm mới tới, mình hãy tiếp đón thần tài, thần hỉ, thần quý. Sao gọi là thần tài? Nếu bạn đừng đem tinh khí vất đi thì đó là thần tài. Sao gọi là thần quý? Nếu một năm bạn không nổi nóng, đó là thần quý. Nếu bạn phát tâm, rằng: Sang năm mới tôi không nổi giận nữa, tôi phải sửa đổi tính tình của tôi, thì đó là thần quý. Nếu bạn lúc nào cũng vui vẻ, thì đó là bạn tiếp đón thần hỉ rồi. Ba vị thần này đều tại nơi ta. Bất quá bạn không biết nó, nên phải chạy đi cầu thần ở bên ngoài.
Nếu suốt ngày bạn không phí phạm lời nói, không nghĩ chuyện vô vị; bạn điều hòa tâm tình khiến cho yên ổn thái nhiên, không buộc trói, không quái ngại, không nhân ngã, không thị phi thì đó không phải là âm nhạc rồi sao? (Pháp ngữ HT Tuyên Hóa)
+ Đạo Thanh tịnh: Dòng Bà La Môn (Ở Ấn Độ) này tuy cũng tu pháp môn "viễn ly," song tu tới tu lui vẫn không đến được chỗ cốt tủy, không đạt được đạo lý rốt ráo. Ðây là một giáo phái có tự ngàn xưa của nước Ấn Ðộ; và cho đến hiện nay, tại Ấn Ðộ vẫn còn rất nhiều loại giáo phái như thế. Ðiển hình là phái Du Già, một giáo phái thoát thai từ đạo Bà La Môn. Ðối với người Trung Hoa thì đạo Bà La Môn chính là Ðạo Giáo (đạo Lão), một giáo phái cũng chủ trương tu hạnh thanh tịnh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tinh - Khí - Thần:
Theo Hải Thượng Lãn Ông thì trong cơ thể người có hai nguồn Hỏa, thứ hoả ở trên là quân hoả, thứ hoả ở dưới, là tướng hoả; Trong thiên nhiên hoả ở mặt trời là hoả phần trên, hoả ở trong lòng đất là hoả ở phần dưới. Có hoả thì mới có quang, có nhiệt, có động, có chưng bốc, có cũng như không có nước thì không có hoá sinh, không có sự sống. Người ta là một vũ trụ nhỏ nằm trong vũ trụ lớn, cho nên mỗi sự hoá sinh trong cơ thể cũng cần có hoả. Trong cơ thể người tâm hoả ở phần trên là Quân hoả, chủ về thần minh; mệnh môn hoá là hoả của thận ở phần dưới, là tướng hoả và chủ về sinh thành.
Sách nội kinh viết: "Tâm là quân chủ chi quan, thần minh xuất yên". Tâm là quân hoả, có tâm hoả tác động vào thận thuỷ thì mới có sáng suốt, minh mẫn được. Thần sinh ra ở tịnh khí của thận lên quy vào tâm hợp thành quẻ ly, là khi âm tinh tàng ở trong, dương tinh bọc ra ngoài thì hoả của tâm mới quang minh, sáng rực và soi được muôn vật (Như mặt trời có dương hỏa bên ngoài chiếu rạng khắp hư không, trong lõi mặt trời là âm Hỏa - Linh tánh sự sống). "Như vậy thần là tâm hoả được thận âm giúp đỡ vào, đó cũng là con đường "thuỷ tế hoả".
.... Đường Dung Xuyên lại nói: "Con người sở dĩ có tri giác là do thần làm chủ, mà tâm là nơi tàng thần" (Điều này phù hợp với Minh triết giảng rằng, trong Tâm mỗi người đều có Linh tánh - Tâm hồn, do chưa tiến hóa nên chỉ ví như "điểm phát sáng" nhỏ như đầu mũi kim).
Nội kinh viết: "Tâm là một cơ quan quân chủ, nếu chủ minh thời dưới yên. Chủ không minh thời 12 cơ quan sẽ nguy". (Nguồn: Học thuyết Thủy - Hỏa)
+ Pháp Nhãn trong Ngũ nhãn Lục thông
1. Con mắt pháp, năng lực nhận ra các pháp một cách tường tận. Với Pháp nhãn này, Bồ Tát có thể cứu độ tất cả chúng sinh;
2. Dạng thứ 2 trong Ngũ nhãn (五眼);
3. Tên của một vị Thiền sư quan trọng (885-958) vào đời Đường Trung Hoa, thường được biết với thuỵ hiệu là Thanh Lương Quốc Sư (清涼國師). Còn được biết qua pháp danh Văn Ích (文益). Pháp Nhãn Văn Ích.
I. Pháp Nhãn. Chỉ cho mắt trí tuệ có khả năng thấy được thực tướng của tất cả các pháp và thấu suốt các pháp duyên sinh sai biệt 1 cách rõ ràng. Là 1 trong Ngũ nhãn. Bồ tát vì hóa độ chúng sinh, dùng Pháp nhãn thanh tịnh quan sát khắp các pháp, tu hành chứng đạo; lại biết rõ các pháp môn phương tiện thích hợp với mỗi chúng sinh, nên có thể giúp chúng sinh tu hành chứng đạo. [X. kinh Đại phẩm bát nhã Q.2; kinh Vô lượng thọ Q.hạ; luận Đại trí độ Q.33; luận Du già sư địa Q.14]. (xt. Ngũ Nhãn).(Nguồn: Xem tại đây)
+ Tu đạo cần có con mắt pháp: HỎI: Trong kinh nói: “Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. Tự quy y pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. Tự quy y Tăng đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. Hòa nam Thánh chúng.”
Vậy khi làm một vị Pháp sư xuất gia tất nhiên phải thống lý đại chúng và làm mọi việc đều phải phù hợp với đạo Phật mới phải. Nhưng là con người thì không thể mười phần vẹn toàn được; vì người rốt cuộc cũng vẫn là người. Nếu như tự bản thân các vị Pháp sư vẫn chưa hoàn toàn giữ được thanh quy giới luật, vậy loại thống lý đại chúng này, không phải là sẽ dẫn dắt chúng sanh đến chỗ sai lầm hay sao?
ĐÁP: Trên thế giới này hễ có tốt là có xấu. Có người tuhành nhưng cũng có người không tu hành. Có vị chân chánh hành trì theo Phật giáo, nhưng cũng có người chỉ ỷ lại mà mặc áo nhà tu, ăn cơm nhà Phật, lấy danh nghĩa Phật giáo để tính chuyện làm ăn, lập xí nghiệp để chơi đùa, đó tức là mắt cá trộn lẫn với ngọc châu. Vậy phải xem coi mỗi người có con mắt chọn pháp hay không. Người có trạch pháp nhãn sẽ biết nhận thức đâu là phải, cái gì là trái; còn như không có mắt chọn pháp thì sẽ nhận giặc làm con, lấy khổ làm vui, đen trắng đều điên đảo.
HỎI: Tại sao Phật giáo của chúng ta không đơn giản hóa một chút để cho nhiều người hiểu biết ngay?
ĐÁP: Tại sao các vị không nghĩ ra cách cho tụi con nít mới sanh ra là có thể làm việc được liền? (Gậy Kim Cang Hét 2 - Hoà Thượng Tuyên Hóa)
+ 4. Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của chư Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy.
Năm thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ " Pháp Nhãn quán tục đế (Pháp Nhãn duy quán tục). "Con mắt Pháp" chỉ quán xét, nhìn thấy tục đế. "Tục đế" tức là những tình hình của thế gian nói chung. Nếu quý vị được mở Pháp Nhãn thì khi tụng kinh sẽ không cần phải nhìn vô sách nữa. Bấy giờ, quý vị chỉ việc "mở con mắt Pháp" ra thì sẽ thấy cùng tận hư không và khắp Pháp Giới đều toàn là kinh điển, đâu đâ cũng thấy tràn ngập vô lượng vô biên Pháp bảo. Quý vị chỉ cần chứng đắc Pháp Nhãn Tịnh là có thể quán thấy được tất cả thật tướng của các pháp. Vậy, Pháp Nhãn chỉ quán xét tục đế. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Sức mạnh tư tưởng và năng lực trí tuệ (Thought power and mental ability). Một người không thể có được sức mạnh tư tưởng, cũng không thể có được năng lực trí tuệ, nếu người đó không tự tạo ra cho chính mình bằng sự suy tư được lặp lại một cách kiên nhẫn. (MTNX, 276)
+ Khổng Tử [X. Siêu nhân bậc năm]: HỎI: Bùa, Bát Quái có hiệu quả gì không? ĐÁP: Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo ở Trung Quốc vốn là một thể, nhưng tại sao chúng ta lại phải tin Phật? Bởi vì Đạo giáo, Nho giáo, cho đến các tông giáo khác đều không phải là cứu cánh; pháp của họ không cứu cánh, còn Phật giáo thì cứu cánh. Tôi vừa nói với quý vị về cái đại dụng toàn thể (cứu cánh tức là triệt để, mà Nho giáo thì rất gần gũi với Phật giáo). Lão Tử trong Đạo giáo là Ngài Tôn giả Ca Diếp hóa thân trong Phật giáo, còn Khổng Tử là hóa thân của đồng tử Thủy Nguyệt. (Gậy Kim Cang Hét 2 - Hoà Thượng Tuyên Hóa)
+ Khổng Tử – Nhà Ðại Giáo Dục: Nhà nho - Nho giáo
Vào thời Xuân-Thu Chiến-Quốc ở bên Trung Hoa, có vị đại thánh nhân ra đời, tên là Khổng Tử. Ngài suốt đời chu du các nước để tuyên dương học thuyết nhân nghĩa đạo đức, hiếu đễ trung tín, song lẽ không được ai hoan nghinh tiếp nhận, đâu đâu cũng bài xích Ngài cả. Tuy Ngài gặp hoàn cảnh không vừa ý như vậy, nhưng Ngài vẫn không thay đổi tông chỉ giáo dục, Ngài vẫn thủy chung đề xướng chủ nghĩa đại đồng.
Khổng Tử là nhà đại giáo dục. Ngài đề xướng một nền giáo dục bình dân được phổ cập tới tất cả mọi người. Ngài có tinh thần “dạy không hề nhàm chán, học không biết mỏi mệt.” Ngài không sáng tác, chỉ chép lại tích cũ người xưa. Ngài tin vào những điều của thánh nhân nói xưa kia, rồi đem ra thực hành. Cuối đời, Ngài san định năm cuốn: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu, tức là Ngũ-kinh.
Khổng Tử có ba ngàn học sinh. Ngài thông suốt lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, gọi là lục nghệ. Ðệ tử Ngài có bảy mươi hai người cũng thông suốt lục nghệ. Lễ tức là những lễ tiết, lễ nghi về hôn nhân, mai táng, hay là cúng tế. Nhạc tức là âm nhạc. Xạ tức là bắn cung. Ngự tức là cởi ngựa, đánh xe. Thư tức là ghi chép, lịch sử. Số tức là toán thuật. Mỗi một môn nào cũng phải hoàn toàn tinh thông, thì mới được gọi là một người hoàn toàn.
Phương châm giáo dục của Khổng Tử là lấy con người làm trọng tâm, lấy thân mình làm gương. Môn đệ của Ngài có bốn hạng xuất sắc:
Xuất sắc về đức hạnh, có ngài Nhan Hồi và Mẫn Tử Khiêm.
Xuất sắc về ngôn ngữ, biện luận có ngài Tử Hạ, và Tể Ngã.
Xuất sắc về chính trị, có ngài Tử Lộ, và ngài Nhiễm Hữu.
Xuất sắc về văn học, có ngài Tử Hạ và Tử Du.
Khi Ðức Khổng Tử qua đời, Nho-giáo phân làm hai phái. Tăng Tử thì chủ trương truyền Ðạo, và Mạnh Tử đại biểu cho phái này, trở thành phái chính thống. Tử Hạ thì chủ trương truyền Kinh, và ông Tôn Tử là đại biểu của phái này. Phái truyền Kinh thì hưng thịnh vào ba triều đại Hán, Ðường, và Thanh. Phái truyền Ðạo thì hưng thịnh vào ba đời Tống, Nguyên, và Minh.
Mọi sự việc trên đời đều có liên hệ tương quan, cũng giống như bên Trung Hoa, ba đạo Nho, Phật, Lão, đều hỗ trợ lẫn nhau. Nho-giáo thì như ở trình độ sơ đẳng, tức là tiểu học, Ðạo-giáo thì như là trình độ trung học, còn Phật-giáo thì như là trình độ đại học. Ðạo lý của ba tôn giáo này đều có liên quan, song lẽ người ở tiểu học thì không biết được trình độ của lớp trung học, nhưng kẻ ở đại học thì biết được trình độ và bài vở của lớp trung học hay tiểu học.
Nho giáo thuyết giảng đạo lý làm người, thí dụ như rèn luyện nhân cách cho lương hảo. Ðạo giáo một nửa thì chú trọng rèn luyện nhân cách đạo đức, còn một nửa thì chú trọng đến việc tu hành xuất thế. Do đó các vị đạo sĩ thì chẳng cạo đầu, cạo râu, không khác gì người tại gia cả. Họ chỉ mặc y phục của những vị ẩn sĩ thời cổ xưa. Phật giáo thì phải cạo râu cạo tóc, mặc áo hoại sắc, không chú trọng đến bề ngoài, song le áo cà-sa thì không bao giờ rời thân và phải thể hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tướng. Phật giáo là tu pháp xuất thế, phải chăng là ly khai pháp thế gian, tạo ra một Phật pháp riêng biệt? Không phải đâu. Chỉ cần phải nhận thức pháp thế gian một cách rõ ràng, không bị nó làm mê muội, đó chính là Phật pháp.
Có người chủ trương tam giáo hợp nhất, (tức là Ðạo giáo, Khổng-giáo và Phật giáo hợp thành một), cho nên có câu:
Hồng hoa bạch ngẫu thanh hà diệp,
Tam giáo nguyên lai thị nhất gia.
(Hoa hồng, thân trắng, lá xanh,
Ba tôn giáo ấy vốn chung một nhà.)
Ðó là biểu thị đạo lý vậy. Căn bản của Phật giáo, để phát khởi tâm tín ngưỡng thì chính là Nho giáo, do đó cần phải đọc sách, hiểu rõ nghĩa lý, trước hết phải hiểu thế nào là Căn bản làm người, sau đó mới theo Pháp mà tu hành: Quy nguyên tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn. Nghĩa là: trở về nguồn thì tánh không hai, nhưng phương tiện thì có nhiều cửa vào. Người học Phật Pháp cần phải thông suốt đạo lý nầy. (Ngày 25 / 9 / 1983 - HT Tuyên Hóa giảng: Xem tại đây)
+ Đức Khổng tử dự báo sắp tái sanh: ...."Sau cùng, khi một phong trào được Thánh Đoàn thành lập, hoạt động liên quan đến CĂN CHỦNG THỨ TƯ; phong trào đó [1080] cũng sẽ là một phần của tiến trình kích thích, và sẽ dẫn đến việc đem lại tính phóng xạ cho một số tư tưởng gia hàng đầu của căn chủng đó. Đó sẽ là thời cơ của họ, và tầm quan trọng quá lớn được gắn với việc này, đến nỗi một thành viên của Thánh Đoàn (Lodge), là Đức Khổng Tử (Confucius), như Ngài đã được gọi trong quá khứ, sẽ lâm phàm để trông nom công việc. (LVLCK 2, 1079-80)
+ Tu đạo cần phải phát nguyện: HỎI: kinh Phật có nói rằng: “Muốn vãng sanh Tây phương thì phải phát nguyện.” Vậy là chúng ta tự phát nguyện trong lòng muốn vãng sanh Tây phương, hay là phải phát nguyện trước bàn thờ Phật?
ĐÁP: Nguyện là vì sợ ý chí của mình không kiên cố. Cho nên phát nguyện là giúp mình có chí khí. Mình có chí thánh hiền thì là thánh hiền, có chí như anh hùng hào kiệt thì là anh hùng hào kiệt; chí như Phật, Bồ tát thì là Phật, Bồ Tát. Chúng ta lập chí thì lập được rồi, nhưng e rằng ý chí sẽ không kiên cố nên phải phát nguyện.
Phát nguyện là tỏ rõ ý nguyện của mình muốn làm như vậy, không hối hận, không thoái tâm. Mình phải “niệm bất thoái,” niệm tư tại tư, sanh niệm nào biết niệm đó và y theo nguyện lực của mình mà làm; “hành bất thoái” là hành động của mình cũng y theo nguyện lực mà làm. Sau đó được quả vị cũng tức là “vị bất thoái, đắc được sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả".
Cho nên phát nguyện là giúp ích cho chí khí của mình. Phát nguyện trước tượng Phật cũng được, hoặc tự kiên định chí khí của mình cũng được. Chúng ta không nên làm với tánh cách bề ngoài, mà phải chân thật thực hành một cách thực tiễn. (Gậy Kim Cang Hét 2 - Hoà Thượng Tuyên Hóa)
+ Ở đâu có Phát tâm nguyện thiện lành - Ở đó có con đường mở ra
Ma-ha Ca-diếp cùng tỷ-khưu ni Tử Kim Quang cùng những người khác liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật và bạch Phật rằng:
Giảng giải: Ma-ha Ca-diếp; Ma-ha (s: mahā) là lớn; Ca-diếp (s: Kaśyapa) là tên. Do thời ấy nhiều người có họ Kaśyapa nên chữ mahā–đại được thêm vào để gọi tên ngài. Kaśyapa dịch theo tiếng Hán có nghĩa là Đại quy thị–大龜氏. Tổ tiên của ngài là loài rùa khổng lồ với những đồ hình trên lưng, và có tên gọi ấy do sự kiện trên. Mahā-kaśyapa còn được địch là Đại ẩm quang 大飲光. Ánh sáng trên thân ngài như thể nuốt trọn hết mọi thứ ánh sáng khác, vì các thứ ánh sáng ấy biến mất vào trong ánh sáng của thân ngài.
Tên của ngài là Pippala, là tên của một loại cây. Cha mẹ ngài hiếm muộn con, nên họ đến cầu đảo ở thần cây Pippala; kết quả là họ có được người con, họ lấy tên cây đặt tên cho con mình. Ma-ha Ca-diếp vốn là ngoại đạo thờ lửa. Ông tu tập công phu ngửi mùi khói. Có rất nhiều loại ngoại đạo ở Ấn Độ, ngoại đạo thờ nước, ngoại đạo thờ lửa, ngoại đạo thờ đất. Ngoại đạo thờ đất tu theo lối chuyên vùi mình trong đất, nếu còn sống sót sau một số ngày nhất định nào đó, thì sẽ được thành thần. Những ngoại đạo nầy thật là mê lầm.
Tỷ-khưu ni Tử Kim Quang là vợ của Ma-ha Ca-diếp. Vào thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, Ma-ha Ca-diếp 120 tuổi và vợ ông có lẽ phải gần 100 tuổi. Từ kiếp lâu xa, vào thời Đức Phật Ca-diếp, bà thấy một tượng Phật bị mòn vẹt bởi gió mưa, đến mức chẳng còn chút sắc vàng nào trên thân Phật. Bà ta phát tâm sửa lại ngôi chùa, nhưng không có đủ tiền. Nhưng bà ta cũng hy vọng mạ vàng tựơng Phật, nhưng việc ấy đòi hỏi chi phí rất nhiều. Tuy nhiên, ở đâu có tâm nguyện, ở đó liền có con đường mở ra, tâm nguyện của người phụ nữ nầy rất mạnh và chân thực. Cô ta đi khắp nơi để quyên góp tiền bạc, sau một thời gian dài, cô ta quyên được số tiền tương đương 100.000 dollars Mỹ. Cô ta nhờ thợ kim hoàn mạ vàng tượng Phật. Người thợ kim hoàn cảm động bởi quyết định tu sửa tượng Phật dù cô ta rất nghèo, nên anh ta chỉ làm công với một nửa chi phí. Thế nên hai người ấy chia nhau công đức việc nầy. Chẳng bao lâu ngôi chùa được tu sửa xong, không còn bị dột nữa, tượng Phật đã được mạ vàng. Từ đó về sau, thân thể người phụ nữ phát ra ánh sáng màu tím. Còn người thợ kim hoàn, chính là Ma-ha Ca-diếp, sau khi hoàn thành việc mạ vàng tượng Phật, đã có một chuyện rất kỳ lạ diễn ra giữa ông và người phụ nữ. “Tâm của cô rất tốt.” Ông nói với cô ta, “Tôi sẽ cưới cô làm vợ, ta sẽ thành vợ chồng. Không phải chỉ trong đời nầy, mà trong muôn vàn đời sau, chúng ta sẽ là vợ chồng của nhau.” Đó là lý do tôi đoán chừng Ma-ha Ca-diếp 120 tuổi, và vợ ít nhất là 100 tuổi. Dù vậy, họ vẫn rất mạnh khỏe và tinh cần tu tập. Người vợ của Ma-ha Ca-diếp cũng siêng năng tu tập và chứng được đạo quả. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nên phát nguyện: ... Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, không thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thời cần phải nguyện rằng: “Ta sẽ thiện xảo trong hành tướng tâm của ta.” Như vậy, các Tỷ-kheo các Thầy cần phải học tập. Và này các Tỳ kheo, như thế nào, Tỷ-kheo thiện xảo trong hành tướng tâm của mình?
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người đàn bà hay một người đàn ông, còn trẻ, trong tuổi thanh niên, tánh ưa trang điểm, quán sát hình ảnh mặt mình trong tấm gương thanh tịnh trong sáng, hay trong một bát nước trong. Nếu thấy trên mặt có hột bụi hay dấu nhớp gì, người ấy cố gắng đoạn bụi hay dấu nhớp ấy. Nếu không thấy hột bụi hay dấu nhớp, người ấy hoan hỷ, thỏa mãn: “Thật lợi đắc cho ta! Ta thật là trong sạch! “Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như vậy, được nhiều lợi ích trong các thiện pháp. “Có phải ta sống nhiều với tham? Có phải ta sống nhiều với không tham? Có phải ta sống nhiều với tâm có sân? Có phải ta sống nhiều vớt tâm không có sân? Có phải ta sống nhiều với hôn trầm thụy miên chi phối, hay ta sống nhiều với hôn trầm thụy miên được từ bỏ, Có phải ta sống nhiều với trạo cử, hay ta sống nhiều với không trạo cử? Có phải ta sống nhiều với nghi ngờ, hay ta sống nhiều vượt qua được nghi ngờ? Có phải ta sống nhiều với phẫn nộ, hay ta sống nhiều không bị phẫn nộ? Có phải ta sống nhiều với tâm bị ô nhiễm, hay ta sống nhiều với tâm không bị ô nhiễm? Có phải ta sống nhiều với thân
nhiệt nóng, hay ta sống nhiều với thân không nhiệt nóng? Có phải ta sống nhiều với biếng nhác, hay ta sống nhiều với tinh tấn, tinh cần? Có phải ta sống nhiều với không định tĩnh, hay ta sống nhiều với định tĩnh? “
4. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo quán sát như vậy, biết rằng: “Ta sống nhiều với tâm tham; ta sống nhiều với tâm sân; ta sống nhiều với tâm bị hôn trầm thụy miên chi phối; ta sống nhiều với trạo cử; ta sống nhiều với nghi ngờ; ta sống nhiều với phẫn nộ; ta sống nhiều với tâm bị nhiễm ô; ta sống nhiều với thân nhiệt nóng; ta sống nhiều với biếng nhác; ta sống nhiều với không định tĩnh”, thời Tỷ-kheo ấy cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi khăn bị cháy, hay khi đầu bị cháy, cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để dập tắt khăn hay đầu ấy.
Cũng vậy này Tỷ kheo, Tỷ kheo ấy cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để đoạn tận các pháp bất thiện ấy.
5. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo quán sát như vậy biết rằng: “Ta sống nhiều với tâm không tham, ta sống nhiều với tâm không sân, ta sống nhiếu với tâm không trầm thụy miên; ta sống nhiều với tâm không trạo cử; ta sống nhiều với tâm nghi ngờ được vượt qua; ta sống nhiều với tâm không phẫn nộ; ta sống nhiều với tâm không nhiễm ô; ta sống nhiều với thân không nhiệt nóng; ta sống nhiều với tâm tinh tấn, tinh cần; ta sống nhiều với tâm định tĩnh”, thời Tỷ-kheo ấy, sau khi an trú trong các thiện pháp ấy, rồi hơn nữa cần chú tâm đoạn diệt các lậu hoặc. (Nguồn: Phẩm tâm của mình - Chương 10 - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Lời Nguyện Xấu - Tốt: Đức Phật dậy, lời nguyện xấu tốt đều được thành tựu. Cho nên không nên phát thề/ nguyện với lời nguyện (Nguyền) không trong sáng, không lợi tha. (Xem: TH về Phát Tâm - Nguyện:Bài viết số 4)
+ Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm (HT Tuyên Hóa Giảng Chú Đại Bi - câu thứ 37: Thất na thất na là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện”)
- Tu - Nguyện: Trong tu hành, không phát nguyện cũng giống như cây ra Hoa mà không thành quả được. Lời Phát nguyện mà có thể làm lợi ích cho người thì dù là vọng tưởng cũng không đáng ngại; (Nguồn: Vấn đáp Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay)
+ Phát nguyện phù hợp: Nên phát triển từ nhỏ đến lớn, đến đại nguyện theo hạnh Bồ Tát đạo. Lời Nguyện vị tha - Làm gì cho người khác được lợi ích - Nên phát nguyện trước bàn thờ Phật, tượng Phật, Bồ tát, đức Thầy hay hội chúng nhiều người. Nên phát nguyện hợp với khả năng, có tính khả thi trong thực hiện trong một thời gian có thể kiểm chứng nhanh, tạo nhiều động lực hơn (Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi - 42 Thủ Nhãn_Clip 06, phút thứ 19)
+ Phát nguyện cần thành tâm: ... Mọi việc mình làm đều phải chân thật thì mới tương ưng với Ðạo được. Vì vậy phát nguyện cần phải thành tâm, thành ý, không thể có hành vi dối trá hoặc tham cầu hư danh được. Ðó là điểm mà tôi hy vọng các vị chú ý ....(Nguồn: Khi phát nguyện cần thành tâm - HT Tuyên Hóa)
+ Nguyện vọng rực lửa: Sự bừng cháy với lòng nhiệt thành và nỗ lực “tinh tấn” hướng đến lý tưởng, hoặc tự rèn luyện nhằm đạt mục tiêu phải thật sâu xa trong tâm đến mức không khó khăn, trở ngại nào có thể khiến y lùi bước. Khi hành giả đã tỏ ra rằng không vấn đề khó khăn nào, không sự tối tăm hay thời gian lâu dài nào ngăn trở được y, thì bấy giờ y mới được phép trở thành đệ tử của một vị Chân sư. Sự cố gắng mãnh liệt, lòng thiết tha kiên định và liên tục, và sự trung thành không dời đổi đối với lý tưởng thấy được qua thị kiến tinh thần, là điều kiện thiết yếu của Con đường Đệ tử. (Sách: Ánh Sáng Của Linh Hồn)
+ Phát nguyện - Cảm ứng: Nguyện vọng phải phát khởi trước khi có sự lưu nhập của nguồn cảm hứng tinh thần. Phàm ngã phải thở ra trước khi có sự thở vào của Chân ngã cao siêu. Nguyện vọng có ẩn ý là lửa. Nó ngụ ý ước vọng bừng cháy, và quyết tâm nồng nhiệt, rốt cuộc mang lại ba điều cho người chí nguyện. (Xem nguyện vọng rực lửa.)
+ Lời nguyện giải tỏa lỗi lo sợ: Tôi muốn đề nghị họ nhớ nằm lòng và luôn luôn sử dụng, khi bị cuốn đi bởi nỗi sợ hãi do ảo tưởng và điềm báo vô ích, công thức hoặc lời cầu nguyện sau đây: “Xin cho thực tại chi phối mọi suy nghĩ của tôi, và chân lý là chủ nhân của cuộc đời tôi”. (LVHLT, 239)
+ Lập đại nguyện - Phát Tâm Bồ Đề: Phật nói: Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát, khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề phải lập đại nguyện, và nói như thế này: “Nếu tôi chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tôi sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh được an trụ trong cảnh đại Niết Bàn, lại sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh, thảy đều được đầy đủ bát nhã ba la mật”. Như thế gọi là tự lợi cũng gọi là lợi tha. (Xem: TH về Phát Tâm - Phát nguyện: Bài số 1)
+ Phát Nguyện tùy theo nhân duyên và công việc hàng ngày
- Phát nguyện với Phật sự: HT Tuyên Hóa khi gặp nhân duyên có người bán Nhà đất đắc địa là một bệnh viện cũ bỏ hoang nhiều năm do không có nước dùng, ngài muốn mua để làm chùa, tuy không có tiền tài, nhưng ngài đã phát nguyện mua khu dự án này tại Hoa kỳ để làm chùa Vạn Phật Thánh Thành. Rất tuyệt diệu .
- Mỗi người tu đều nên phát nguyện hàng ngày
- Phát Đại Nguyện của Bậc Thánh. Ví dụ như HT Tuyên Hóa có 18 Đại nguyện trong kiếp tái sanh gần nhất, trong đó nguyện thứ 14. Nguyện rằng tất cả chúng sinh nào, khi thấy mặt tôi, cho đến chỉ nghe tên tôi, đều phát tâm Bồ-đề, mau đắc thành Phật đạo. (Mời xem 18 đại nguyện tại: Sơ lược tiểu sử HT Tuyên Hóa)
+ Kinh Ước Nguyện: Đức Phật giảng cho các Tỳ kheo/ Người xuất gia cách ước nguyện chân chánh... Mời xem tại Kinh Ước Nguyện
+ Mời đọc bài viết: Tổng hợp về phát nguyện
+ Xem thêm về Phát nguyện quan trọng như thế nào
+ Thuốc trị bệnh: HỎI: Người bệnh đi bác sĩ được bác sĩ bảo phải uống thuốc, nhưng trong thuốc lại có loại giết vi khuẩn, vậy bệnh nhân đó có kể như là phạm giới sát sanh không?
ĐÁP: Quý vị vì trị bệnh nên mới uống thuốc và thuốc này cũng đâu phải tự quý vị muốn uống. Bởi quý vị có bệnh nên phải trị bệnh. Bác sĩ kê thuốc, chứ đâu phải tự ý quí vị muốn, nên không phải là quý vị muốn giết chúng, mà vì chúng xâm nhập vào để phá hại quý vị.
Nhưng nói đi thì cũng nói lại, trong thân có vi khuẩn là bởi quí vị có quá nhiều vọng tưởng nên mới chiêu lại các loại vi khuẩn này. Vậy trước hết các vị nên hồi quang phản chiếu, tự mình hãy diệt trừ các vi khuẩn trong tâm mình trước đã. (Gậy Kim Cang Hét 2 - Hoà Thượng Tuyên Hóa)
+ Nghiệp quả của việc bào chế thuốc cho người bệnh dùng gây chết người:
Ngài A Nan hỏi Đức Phật: Tì-kheo bào chế thuốc men bố thí cho người, nhưng không biết cách pha chế, người uống vào liền chết thì phạm tội gì?
Đáp: Nếu có tâm tốt ban cho thì không phạm tội, còn có tâm ác ban cho thì phạm tội trọng. (Trích: Kinh Ngũ Bách Vấn)
+ Tà chú: HỎI: Tại sao những bài chú của Mật tông lại linh nghiệm quá vậy? Thí dụ như “Tử Chú” có thể trù tới chết người.
ĐÁP: Không sai, sức mạnh của mật chú rất lớn, nhưng vì đa số các hành giả đều có tâm sân hận, tâm báo thù nặng nề. Nếu như có người làm ngược ý, hoặc không nghe lời họ thì họ sẽ niệm Chú và họ niệm những câu Chú này trong vòng bảy ngày là có thể trù cho người đó chết, hoặc mức độ thấp nhất là cũng đem lại tai ương tật bịnh, thậm chí còn khiến cho gia đình đó phân ly, tán gia bại sản, hoặc là tự đi đến chỗ chết. Cho nên có rất nhiều người tu theo Mật tông nhưng lại thiếu lòng từ bi và có tánh Tu La rất nặng. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hét 2 - Hoà Thượng Tuyên Hóa)
+ Thần Chú - Matram Của Hắc Đạo - Hắc Thuật: Tà Chú/ Tà Yếm/ Tà Thuật/ Yếm Mị/ Ếm Thư Hại Người
Kinh văn - Nghĩa:
“Chúng sanh ác trược khởi lòng ác,
Trù ếm thư chú kết oán thù,
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Trù ếm trở về người trù yếm.”
LƯỢC GIẢNG:
“Chúng sanh ác trược, lòng bất thiện.” Có nhiều chúng sanh, quý vị bảo họ sanh thiện tâm thì họ không chịu nghe theo, nhưng bảo họ hãy thường xuyên sanh lòng bất thiện, tâm đố kỵ, tâm chướng ngại, thì họ lại nảy sanh những thứ tâm ấy rất dễ dàng.
“Trù ếm thư chú kết oán thù.” “Yếm mị chú thư” tức là tà chú, tà thuật thư ếm hại người. Có phái ngoại đạo dường như có một loại chú thư. Trong Mật Tông chẳng hạn, có một loại chú mà kẻ nào niệm được bài chú này, tu luyện được thứ phép thuật này, thì nội trong bảy ngày, kẻ ấy bảo quý vị chết thì quý vị sẽ chết, bảo quý vị sống thì quý vị được sống. Cho nên, Mật Tông xem ra cũng rất lợi hại! Quý vị nào có bạn bè theo Mật Tông thì cần phải cẩn thận một chút! Nếu quý ý đắc tội với họ, thì coi chừng họ sẽ niệm chú cho quý vị chết! Thế nhưng, đây chính là một thứ tánh nết của A tu la, không có tâm từ bi. Như vậy tức là “yếm mị.”
Họ làm một “tiểu nhân” tức là một hình nhân nho nhỏ, trên đó có ghi rõ “sanh thần bát tự” [năm tháng ngày giờ sinh viết theo can chi] của quý vị; rồi hôm nay thì lấy kim chọc vào mắt hình nhân cho mù, ngày mai dùng kim đâm vào tai hình nhân cho điếc, ngày mốt lấy kim châm vào cổ họng hình nhân—và bấy giờ quý vị sẽ bị đứt hơi mà chết! Đây là phép thuật của bàng môn tả đạo.
Tuy nhiên, quý vị chớ nên sợ hãi, chỉ cần quý vị có thể niệm Chú Đại Bi, thì họ có dùng phép thuật gì cũng đều không công hiệu cả.
“Kết oán thù.” “Kết” tức là cột vào với nhau; “oán thù” tức là thù hận vô cùng sâu nặng.
“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi.” Bấy giờ, quý vị chí thành khẩn thiết xưng tụng Thần chú Đại Bi, thì “trù ếm trở về nơi bổn nhân.” Họ muốn ám hại người khác, nhưng các phép thuật độc ác đó lại trở về nơi thân họ, khiến họ tự thọ quả báo! (Nguồn: Giảng Chú Đại Bi_HT Tuyên Hóa)
+ Tín tâm: Là cần có đủ lòng tin bất động - Lòng tin tuyệt đối vào không sao động, không chút nghi ngờ, cụ thể:
11) Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử đầy đủ lòng tin bất động, đối với đức Phật: "Đây là vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Tượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
12) Vị ấy đầy đủ lòng tin bất động đối với Pháp: "Đây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu".
13) Vị ấy đầy đủ lòng tin bất động đối với chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp hạnh; tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở trên đời".
14) Vị ấy đầy đủ các giới đức, được bậc Thánh quý mến, không bị bể vụn, không bị hủy hoại, không có tỳ vết, không có vết nhơ, đưa đến tự do, được người trí tán thán, không bị nhiễm trước, đưa đến Thiền định, bốn Dự lưu chi này được đầy đủ. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ưng nhân duyên)
+ TÍN là căn bản của người tu. Nếu còn nghi thì hoa không nở.
Thứ nhứt: Phải tin chắc chắn rằng, vì lòng từ bi, Đức Phât Thích Ca dạy cho chúng ta những lời trong kinh đều chân thật. Lo cho mình không tu niệm, lo chi Phật Di Đà, Thích Ca nói gạt. Rất đỗi phàm tục những người ngay thẳng còn không nói dối đặt chuyện gạt ai, huống chi luật Phật cấm vọng ngữ, lẽ nào ngài gạt đời làm chi.
Thứ hai: Phải tin chắn chắn rằng: Ngoài thế giới chúng ta vẫn sống đây, chắc chắn có thế giới Cực lạc, có nhiều điều vui do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ.
Thứ ba: Phải tin chắc chắn rằng; ta là phàm phu nhiều nghiệp chướng, không thể chỉ nương cậy vào sức mình để thoát sanh tử ngay trong một kiếp này, phải nhờ Phật giúp.
Thứ tư: Phải tin chắc chắn rằng: Đức Phật A Di Đà có lời thệ nguyện rộng lớn, nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, cầu nguyện về nước Ngài, khi chết chắc chắn sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc. (Nguồn: Tín Nguyện hạnh - Ấn Quang PS)
+ Phát âm trong đọc tụng và trì niệm Kinh Chú:
356. Hỏi: Nếu trì chú mà phát âm không đúng thì có linh nghiệm không?
Đáp: Lúc trước có một lão tu hành thường tụng sáu chữ Đại Minh Chú, nhưng vì ông tự tụng theo cách của mình, chớ không hỏi người khác, hoặc là vì trí nhớ kém cỏi, nên dù có người dạy, ông cũng quên mất. Ông đoán là: chữ khẩu dù có thêm chữ nào thì sẽ đọc theo âm chữ đó. Thí dụ như chữ Khẩu 口 mà thêm chữ Bát 八kề bên thì đọc là bát 八. Chữ Khẩu 口 mà thêm chữ Di 彌 thì đọc là di 彌. Chữ khẩu 口mà thêm chữ Ngưu 牛kề bên thì chắc cũng đọc là ngưu 牛, tức là trâu vậy. Bởi thế mà ông niệm thành Án Ma Ni Bát Di Ngưu. Ông niệm rất thành tâm, rất hăng hái với chữ Ngưu đó. Mỗi ngày ông ta niệm đến cả trăm vạn biến Án Ma Ni Bát Di Ngưu. Rồi ông nghĩ, nếu dùng xâu chuỗi tràng để đếm thì rất là phí công, nên ông dùng một trăm vạn hột đậu nành để đếm số. Khi niệm một câu thì ông lấy một hột đậu bỏ qua một bên. Dần dần ông không cần lấy tay bóc, mà hột đậu nành cũng tự động nhảy qua. Sau đó có người bảo ông nên niệm là "Án Ma Ni Bát Di Hồng” mới đúng. Do đó, ông đổi lại niệm thành Án Ma Ni Bát Di Hồng. Nhưng kỳ quái thay, đậu nành không tự động nhảy qua nữa. Sau đó ông lại niệm Án Ma Ni Bát Di Ngưu, mà hột đậu cũng chẳng chịu nhảy qua. Đó chẳng qua là do lòng tin của ông đã bị dao động, vì tự biết là mình đã niệm sai.==> Tin tưởng tuyệt đối là quan trọng nhất trong tu tập. (Nguồn: Gậy Kim Cang Hát 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người có trí Không tin - Không nên tin bốn việc. Kinh Hiền Nhân
- Người có trí biết bốn việc không tin: Một là bạn tà ngụy; Hai là bề tôi nịnh siểm; Ba là vợ yêu nghiệt; Bốn là con bất hiếu. Ấy là bốn cái không nên tin theo. Vì thế kinh dạy: "Bạn tà hại người, tôi nịnh loạn triều, vợ yêu nghiệt phá nhà, và con bất hiếu hại cả cha mẹ." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Quán Sát tâm - Dùng Tư Tưởng đối nghịch trong tham thiền để Tu tâm thiện lành. Giáo lý dạy chúng ta rất nhiều câu mẫu thiện lành làm đối nghịch với các ác tâm, ác pháp cần xa lìa, trừ diệt trong tu. Vài ví dụ đã có trong Tooltip)
- Quán bản ngã - Quán tự ngã - Tư lượng tự ngã - Tư lượng bản ngã. (Xem Tooltip)
+ Mantra Yoga: Khoa Yoga về âm thanh hay linh từ sáng tạo (creative Word). (ASCLH, 347)
+ Nhạc tần số cao được chia thành nhiều loại, mỗi loại có tần số và tác dụng đặc biệt riêng. Dưới đây là một số phân loại chính của nhạc tần số cao: Nhạc Tần Số Solfeggio:
Tần số 174 Hz: Giảm đau về thể chất và cảm xúc.
Tần số 285 Hz: Chữa lành mô và tế bào.
Tần số 396 Hz: Giải phóng cảm xúc sợ hãi và tội lỗi.
Tần số 417 Hz: Xóa bỏ các sự kiện tiêu cực và tạo ra sự thay đổi.
Tần số 528 Hz: Biến đổi và chữa lành ADN.
Tần số 639 Hz: Tăng cường mối quan hệ và kết nối tình yêu.
Tần số 741 Hz: Giải quyết các vấn đề và cải thiện giao tiếp.
Tần số 852 Hz: Tăng cường trực giác và kết nối tâm linh.
Tần số 963 Hz: Thức tỉnh và kết nối với nguồn năng lượng vũ trụ. (Nguồn: Nhạc tần số cao tốt cho sức khỏe )
+ Tu hành với âm thanh: Không khởi vọng tưởng thì chính là tu hành.
Có vị đệ tử đang vọng tưởng: Tại sao âm thanh ồn ào trong thiền đường không thể lắng yên xuống được?
HÒA THƯỢNG: Nếu muốn tìm một chỗ mà không có âm thanh nào thì rất khó. Có các âm thanh ở bên ngoài đến như máy bay, xe cộ và có âm thanh bên trong như tim đập, mạch nhảy. Hãy còn có âm thanh các làn sóng điện trong không trung, và hơn nữa lại còn có thêm âm thanh của vi trần, âm thanh của mỗi hạt bụi vi trần di động bay phất phơ trong không trung.
Chúng ta dù ở trong hang dưới lòng đất, rồi dùng bê tông cốt sắt che đậy hang lại, nhưng vẫn có âm thanh trong lòng đất mà. Trong thiền đường thì cũng có tiếng của người ho. Ở cái thế giới Ta Bà này, chúng ta không thể tìm ra một nơi nào mà không có âm thanh nào cả.
Quý vị đừng đi tìm âm thanh thì sẽ không có âm thanh. (Nguồn: HT Tuyên hóa khai thị - Q.3)
+ Thính giác: Đây là giác quan đầu tiên được biểu lộ một cách rất thích hợp; trạng thái biểu lộ thứ nhất là trạng thái âm thanh, do đó, tất nhiên là chúng ta thường tin tưởng âm thanh là cái đầu tiên mà con người để ý đến trên cõi trần, cõi biểu lộ trọng trược nhất và có các hiệu quả âm thanh đáng ghi nhận nhất được xem là yếu tố sáng tạo. Một cách nổi bật, cõi trần là cõi của thính giác và như thế là giác quan được gán cho cõi tiến hoá thấp nhất và của mỗi một trong 5 cõi.
Do đó, chúng ta ghi nhận rằng trên cõi trần, con người phải tìm ra chính nốt của mình, phải tìm nốt đó dù cho hình hài có trọng trược đến đâu.
a. Trên cõi trần, con người đang tìm kiếm nốt của riêng mình.
b. Trên cõi cảm dục, con người đang tìm kiếm nốt của huynh đệ y, qua sự tương đồng về cảm xúc, con người tiến đến chỗ nhận được sự tương đồng của huynh đệ y.
c. Trên cõi trí, y đang bắt đầu tìm được nốt của nhóm y.
d. Trên cõi Bồ đề hay cõi minh triết, con người bắt đầu tìm thấy nốt của Hành Tinh Thượng Đế của y.
e. Trên cõi Niết bàn hay cõi Tinh Thần, nốt của Thượng Đế bắt đầu ngân lên trong tâm thức y.
Thính giác trên cõi cảm dục thường được gọi là nhĩ thông và có nghĩa là khả năng nghe được âm thanh của cõi cảm dục.....
.... Khi sự tiến hoá tiếp tục, cảm giác bên trong của tai trở nên nhạy, các âm thanh khác của cõi trần cũng sẽ ở trong phạm vi hiểu biết của con người, và y sẽ nhận biết một cách tinh nhạy về mọi âm thanh trên cõi cảm dục và cõi trần - điều mà hiện giờ nếu có thể xảy ra, sẽ đưa đến kết quả làm vỡ tan cơ thể. Thí dụ, nếu nốt của thiên nhiên chỉ tác động một lần thôi trên tai của một người (một nốt làm bằng toàn thể các rung động sinh ra bởi mọi hình hài vật chất trọng trược) thể xác của y sẽ hoàn toàn bị phá vỡ. Y chưa sẵn sàng đón nhận một biến cố như vậy; tai trong chưa được chuẩn bị thích đáng. Chỉ khi nào thính giác gồm ba phần được hoàn thiện, bấy giờ trên cõi trần con người mới được phép có thính giác hoàn hảo.
Thính giác trên cõi trí chỉ là một sự mở rộng khả năng phân biệt âm thanh..... (LVLCK, 190)
+ Âm thanh (sound, âm) Thật là điều hiển nhiên khi nói rằng âm thanh là màu sắc và màu sắc là âm thanh... Xin bạn luôn luôn nhớ rằng mọi âm thanh đều tự biểu hiện thành màu sắc. (TVTTHL, 205)
+ Âm thanh sản sinh ra, hay đúng hơn là thu hút các nguyên tố lại để tạo ra một ozone, việc chế tạo chất này ở ngoài tìm tay của ngành hóa học, nhưng ở trong các ranh giới (limits) của khoa luyện kim đan (alchemy). Âm thanh có thể làm hồi sinh (resurrect) ngay cả một người hoặc một con thú mà thể dĩ thái (astral “vital body”) chưa hoàn toàn tách ra khỏi thể xác bởi sự gián đoạn của tuyến từ điển (magnetic or odic chord). Với tư cách một người được cứu sống ba lần bằng quyền năng này, tác giả (tức bà H.P.Blavatsky–ND) có đủ uy tín để nói là bản thân mình biết được ít nhiều về điều đó. (GLBN II, 279)
+ Nhạc tần số cao được chia thành nhiều loại, mỗi loại có tần số và tác dụng đặc biệt riêng. Dưới đây là một số phân loại chính của nhạc tần số cao: Nhạc Tần Số Solfeggio:
Tần số 174 Hz: Giảm đau về thể chất và cảm xúc.
Tần số 285 Hz: Chữa lành mô và tế bào.
Tần số 396 Hz: Giải phóng cảm xúc sợ hãi và tội lỗi.
Tần số 417 Hz: Xóa bỏ các sự kiện tiêu cực và tạo ra sự thay đổi.
Tần số 528 Hz: Biến đổi và chữa lành ADN.
Tần số 639 Hz: Tăng cường mối quan hệ và kết nối tình yêu.
Tần số 741 Hz: Giải quyết các vấn đề và cải thiện giao tiếp.
Tần số 852 Hz: Tăng cường trực giác và kết nối tâm linh.
Tần số 963 Hz: Thức tỉnh và kết nối với nguồn năng lượng vũ trụ. (Nguồn: Nhạc tần số cao tốt cho sức khỏe )
Xem: Tổng hợp về mầu sắc
+ Truyền giáo gian nan - Phật giáo truyền vào Trung Quốc: GIẢNG:
Xưa kia, khi Phật Giáo chưa truyền sang, Trung Hoa Đại Lục lúc bấy giờ chỉ có đạo Nho và đạo Lão.
Nho Giáo đã khai thông con đuờng để sau này khi Phật Giáo truyền sang, nhân dân tiếp cận dễ dàng hơn. ... Do vậy, đức Khổng Tử chính là Thủy Nguyệt Đồng Tử trong Phật Giáo. Bởi vì đức Phật biết rằng trong tương lai Phật Pháp sẽ hưng thạnh tại Trung Hoa, cho nên mới phái Thủy Nguyệt Đồng Tử đến chu du các nuớc, đề xuớng các quy phạm đạo đức, dạy nhân dân những đạo lý, những nhân cách cơ bản làm người như hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ…
Đạo Lão lại tiến thêm một bước so với Đạo Nho về mặt tinh thần, cho nên nói Nho Giáo được so sánh như cấp tiểu học, Lão Giáo và các trường phái đồng quan điểm với Lão Giáo cũng như bậc Trung Học và Phật Giáo là chương trình Đại Học. Bởi vì Phật Giáo bao hàm vạn hữu thế giới, bất luận khoa mục nào trong Phật Giáo cũng có đề cập và phân tích.
Tuy nhiên, Phật Giáo muốn truyền sang Trung Hoa cũng cần phải hội đủ nhân duyên và thời cơ thích hợp, thời cơ ấy chính là lúc Hán Minh Đế lên ngôi. .....
Một đêm nọ, nhà Vua mộng thấy có người cao một truợng sáu, cổ đeo vòng nhật luân, phía sau từ cổ trở lên sáng rực như vầng ánh sáng mặt trời. Thật ra, nhật luân này chính là ánh hào quang của Đức Phật. Hào quang chiếu sáng bốn phía, mầu vàng ròng chói lọi, còn người vàng thì bay khắp nơi trong điện Kim Loan.
Sáng sớm hôm sau, nhà Vua bèn triệu quan thái sử chuyên coi về thiên văn hỏi xem giấc mộng đó báo với nhà vua điềm gì? Quan thái sử Phó Nghị đáp: “Theo hạ thần đựơc biết là bên Tây Phương có một vị thần tên gọi là Phật và như lời của Bệ Hạ kể thì người trong giấc mộng đêm qua chính là Đức Phật”. Thời đó, nguời Trung Hoa gọi xứ Ấn Độ là Tây phương, cho nên Hán Minh Đế liền phái các vị đại quan Thái Âm, Tần Cảnh, Vương Tuân… tổng cộng gồm 16 vị đến Ấn Độ thỉnh Phật sang Trung Hoa.
..... Bộ Kinh được dịch đầu tiên là Kinh Tứ Thập Nhị chương, và cũng là bộ kinh đầu tiên được phiên dịch từ tiêng Ấn Độ sang tiếng Trung Hoa.
Sau khi Bộ kinh Tứ Thập Nhị chương được dịch xong, các vị đạo sĩ lúc bấy giờ bắt đầu hiềm khích và đố kỵ nên tâu với Vua Hán Minh Đế rằng kinh điển của Phật giáo là giả tạo, kinh điển của Lão giáo mới là kinh thật và đưa đề nghị rằng nếu vua không tin, hãy thử đem hai loại kinh nhập lại rồi dùng lửa thiêu, nếu loại kinh nào không cháy thì là kinh thật, nếu cháy, thì là kinh giả. Thế là lúc đó xây một cái đài thiêu kinh tại Lạc Dương, sau đó cho hai loại kinh vào lửa đốt. Kết quả, kinh Lão giáo đều cháy thành tro bụi, kinh Phật giáo thì còn nguyên vẹn. Ngay lúc đó, các đạo sĩ chứng kiến sự việc này, họ vô cùng kính phục, bèn tự nguyện cởi áo đạo gia, thế phát xuất gia làm tu sĩ Phật giáo.
Bước đầu truyền sang Trung Hoa, đạo Phật đã trãi qua sự gian nan thử thách như thế, do đó chúng ta, những người học Phật ngày nay cũng nên biết qua những điều này. ....
Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan là hai vị A La Hán thánh tăng, tháp của hai ngài hiện nay vẫn còn ở Lạc Dương. Hai vị thánh tăng ấy lại có thể, đi lại trên không, biến hóa vô cùng, các ngài có mười tám pháp thần thông biến hóa, có thể đi, đứng, ngồi và nằm lại trên không trung, trên thân ra lửa , dưới thân ra nước, hoặc trên thân ra nước, dưới thân ra lửa tùy ý biến hiện bay đi tự tại, biến hóa vô cùng.
..... chính trong thời điểm này đã phát sinh tám tông phái lớn như: Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ tông, Luật tông, Thiên Thai tông, Pháp Hoa tông, Tam Luận tông, Chân Ngôn tông…....
Lại có kệ rằng:
Hán Triều cơ duyên đã thành thục: Đến Triều Hán Minh Đế, cơ duyên đã thành thục, Phật giáo đã đủ duyên truyền đến Trung Hoa.
Đại Giáo Đông lai chỉ mê đồ: Phật Giáo là một tôn giáo lớn, từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa cho nên gọi là đến phương Đông. Phật giáo hướng dẫn chúng sinh thoát khỏi con đường mê trở về bến giác.
Vô lượng chúng sinh hoạch cam lồ: Phật Giáo với vô số phương tiện đã cứu giúp chúng sinh, mỗi mỗi đều thắm nhuần nước cam lồ giải thoát.
Vạn thiên thiện tín ẩm đề hồ: Tất cả chư thiện nam, tín nữ đều được chung hưởng pháp vị đề hồ, được an lạc vui tươi trong biển pháp từ bi giải thoát.
Nam nữ cần tu tập bách pháp: Lúc đó, nam nữ đều chuyên cần tu tập Phật Pháp, học tập “Bách Pháp Minh Môn Luận”. Bách Pháp gồm có: 11 sắc pháp, 8 món tâm vương, 51 tâm sở pháp, 24 tâm bất tương ưng và 6 món vô vi pháp, tổng cộng là 100 pháp. Đây là nói khái quát bao hàm hết thảy vạn vật, gom tất cả các pháp thế gian cũng như xuất thế gian, sắp xếp lại thành một trăm pháp. Nếu nói chi tiết thì có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn........
Lại nói về Tùy Văn Đế lúc tại vị, Vua hết lòng vì dân vì nước, cho nên thời đất nứơc thịnh hưng, binh lực hùng mạnh, được lịch sử ghi danh là: “Khai Hoàng chi trị.” Một vị Vua đã tận lực tận tâm vì dân vì nước như vậy, ấy thế mà lại phải mất hết tất cả, thậm chí luôn thân mạng đều tiêu vào bàn tay của con trai mình. Chúng ta đọc sách, nghiên cứu lịch sử, thiết tưởng rất nên lưu tâm về vấn đề này. Vua Tùy Văn Đế tại sao lại bị như vậy, tại sao lại phải chết dưới tay của chính con trai của mình? Câu trả chính xác nhất là luật nhân quả, tạo nghiệp tất nhiên là phải thọ nhận quả báo.
Chính vì xưa kia Tùy Văn Đế đã giết chết người cháu ngoại thân yêu của mình để cướp ngôi, rồi tự xưng là Hoàng Đế. Đến lượt con của Ông ta là Dương Quảng, chính là do linh hồn oan nghiệt của người cháu ngoại xưa kia nay lại đầu thai làm con ruột của Ông ta, luôn cận kề bên Ông chờ cơ hội giết chết Ông ta để đòi mạng báo thù xưa.
Dương Quảng sau khi giết cha mình rồi, về sau cũng lại bị Vũ Văn Hoá Cập giết chết. Cứ như thế mà giết đi giết lại trong nổi khổ luân hồi về nghiệp sát.
Đến thời nhà Đường đã rút ra được bài học xương máu này! ..... Tùy Dạng Đế cũng không thể trụ được lâu, Ông đã bị Lý Uyên đoạt vương vị. Lý Uyên đã nhanh chóng bình định quần hùng, kiến lập quốc gia Đại Đường thịnh trị, triều Đường lại không có nạn phụ tử tương tàn, cho nên đã không bị thọ nhận quả báo Dòng tộc, cha con giết nhau như nhà Tùy. Thế nhưng nhà Đường về sau cũng đi dần theo vết xe đổ lịch sử (của các triều đại phong kiến), đạo đức hoàng cung ngày càng suy giảm, tồn tại không lâu rồi cũng diệt vong!
Gương xưa vẫn còn đó, lịch sử cho chúng ta thấy rằng sự thay ngôi đổi chúa đẫm máu của các triều đại phong kiến cũng chính là một bộ Kinh Đại Nhân Quả, bằng sự minh chứng hùng hồn về lịch sử người thật việc thật. Gương nhân quả đó giúp mỗi người chúng ta tự rút ra bài học cảnh giác cho riêng mình. Từ vết xe đổ của người xưa, chúng ta dùng làm tấm gương tự soi chính bản thân. Do vậy, sau khi soi gương xưa rồi ngẫm lại chính mình, bất kỳ ai cũng không muốn làm Hoàng Đế nữa rồi. Không làm Hoàng Đế vậy bây giờ chúng ta phải làm gì đây nào? Thôi, không làm Hoàng Đế nữa, chỉ làm A DI ĐÀ PHẬT thôi...... (Nguồn: Thủy Kính Hồi Thiên Lục_HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cảm ứng Tâm Linh: Cảm ứng đạo giao, tâm chân thành có thể cảm. Tâm của chúng ta là tâm hư ngụy, là tự tư tự lợi, tham sân si mạn. Chúng ta theo đuổi những danh vọng lợi dưỡng này, loại tâm này là tâm luân hồi, không thể cảm ứng với Phật Bồ Tát. Đạo lý này nhất định phải biết.
Tâm như thế nào mới có thể cảm ứng với Phật Bồ Tát vậy? Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ, tâm từ bi, niệm niệm cảm ứng đạo giao với Phật Bồ Tát.(Kinh TTNĐ - Tập 61 - PS Tịnh Không giảng)
+ Đức Tin Với cảm ứng: D.K: Năng lượng của Đức tin có thể làm khởi động các dòng năng lượng cao siêu vốn có thể hóa giải hoặc trì hoãn bệnh tật (karma - minhtrietmoi.org)
- Nguyện vọng phải phát khởi trước khi có sự lưu nhập của nguồn cảm hứng tinh thần. Phàm ngã phải thở ra trước khi có sự thở vào của Chân ngã cao siêu.
+ Thành tựu Cảm ứng khi Tu: Khi quý vị nỗ lực tu hành, đầu óc quý vị không nên bị phân tán. Quý vị nên có chút định lực. Nếu quý vị có được định lực rồi, thì trí tuệ sẽ phát sinh. Nhưng nếu quý vị thiếu định lực, thì trí tuệ sẽ không hiển lộ. Điều này rất là quan trọng. Chúng ta không thể phạm những sai lầm nhỏ nhặt nhất. Như có câu: Sai một ly, đi một dặm (*)
Nếu quý vị chỉ sai một chút xíu thì sự tu tập của quý vị sẽ không có cảm ứng gì. Dù quý vị tu tập Pháp gì, quý vị đều cần phải nhẫn nại. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng về Cảm Ứng Tu hành)
+ Cảm Ứng Đạo Giao: Tu Đạo muốn hồi hướng cho Cha mẹ. Nếu con thành tâm, thì dù cha mẹ con có xa cách bao nhiêu đi nữa cũng được cảm ứng đạo giao; còn nếu như con không thành tâm, thì mẹ con dù có ở ngay trước mặt con cũng không có cảm ứng gì.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 245)
+ Linh Ứng nhiệm mầu của Thần Chú Đại Bi: Nên biết rằng nếu chúng ta thành tâm tụng Chú Đại Bi, chắc chắn có cảm ứng. Chú Đại Bi thông thiên địa, và có thể chữa khỏi tất cả 84.000 các loại bệnh trên thế gian. Nhưng người tụng chú phải thành tâm mới có cảm ứng. Họ cũng không được nói dối để có hiệu quả. Nếu quý vị luôn nói dối thì tụng Chú Đại Bi sẽ không có linh ứng gì. ... Với dịch bệnh hoành hành dân làng, HT Tuyên Hóa đã không chờ được mời, mà dẫn vài đệ tử đi xung quanh làng bị dịch bệnh tụng Thần Chú Đại Bi = Dịch bệnh giảm, hết nhanh. Còn với cá nhân, cần xem họ có Lòng thành kính và tín tâm đến để cân nhắc, không nên tiếp tay cho cái ác. (Mời xem Những Việc Hòa Thượng Tuyên Hóa đã ứng dụng Thần Chú nhiệm mầu)
+ HT Tuyên Hóa, vấn đáp ký lục.
- HỎI : Nếu như có người làm nghề giết gà, giết vịt để sinh sống, chúng ta nên có pháp môn phương tiện nào để khuyên giải họ không ?.
ĐÁP : Nếu lúc trước làm chuyện lầm lỗi, khi biết ra là sai quấy thì con nên sửa đổi. Cho nên bảo là : "Quá năng cái, quy ư vô", nghĩa là biết sai mà chịu sửa thì xem như vô tội.
- HỎI : Trong sách có nói về Chú Đại Bi như : "Thân bị bệnh nan y quấy rầy, tức thời sẽ tiêu trừ hết". Nhưng có một số người nói : "Chuyện này không thể được, vì chẳng lẽ mình bị bệnh, rồi chỉ cần niệm Chú Đại Bi thì sẽ hết bệnh sao"? Thịnh Hòa Thượng khai thị.
ĐÁP : Tâm thành tất linh. Nếu không thành tâm, dù niệm cũng không linh nghiệm. Nếu các vị thành tâm niệm tức sẽ linh ứng. Cho nên nói : "Khi oán hận mà sanh tâm hoan hỷ, thì người chết sẽ sống trở lại. Nếu cho đây là lời giả dối, thì nên biết chư Phật không nói dối bao giờ". Do đó mình có lòng tin, tất nhất định sẽ có cảm ứng. Chú Đại Bi có thể trị được 8 vạn 4 ngàn thứ bệnh trên thế gian, nhưng phải là người có thiện căn. Người không có thiện căn, dù muốn niệm cũng niệm không ra và có muốn trị bệnh cũng không ăn nhằm gì.
+ Chú Đại Bi chữa khỏi ung thư và trị quỷ thần (Xem nguồn)
+ Hiển mật - Cảm ứng tâm linh: 6) Hiển Mật: “Hiển” là hiển lộ rõ ràng; “Mật” là bí mật kín đáo. Quý vị trì tụng Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm thì có lúc được sự cảm ứng rõ ràng, và cũng có lúc được sự cảm ứng âm thầm.
Cảm ứng rõ ràng tức là sự cảm ứng mà mọi người đều có thể nhìn thấy, đều biết được.
Ví dụ như quý vị đang ngồi trong phòng, nhất tâm nhất ý niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, bất ngờ có hỏa hoạn xảy ra. Lúc ấy, chỉ cần quý vị có thể thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thì dù cho nhà bên cạnh có bị cháy, nhà của quý vị vẫn được vô sự. Nhưng đó phải là vô ý chứ không phải cố ý!.....
Như nhà kế bên cháy mà nhà mình không cháy; đó không phải là hiển lộ rõ ràng sao? Ai nấy đều biết rõ: “A! Người ấy nhờ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát nên được sự cảm ứng đấy! Tin Phật thật là có sự mầu nhiệm.” Ðó là sự cảm ứng hiển lộ.
Lại còn có sự cảm ứng bí mật nữa. Ví dụ đáng lẽ quý vị phải gặp tai nạn hoặc té xuống biển bị nước cuốn, nhưng trong vô hình, được sự cảm ứng từ Quán Thế Âm Bồ Tát, quý vị không phải gặp sự nguy hiểm ấy nữa. Trong thầm kín, Ngài làm cho tai nạn của quý vị tiêu mất đi, mà ngay cả quý vị cũng hoàn toàn không hay biết; đó gọi là sự cảm ứng bí mật.
Như có người đáng lẽ bị chết thiêu trong trận hỏa hoạn, nhưng nhờ người ấy tin tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài bèn âm thầm giải trừ tai nạn cho. Ðó cũng là sự cảm ứng bí mật.
Thậm chí quý vị đang ngồi trên phi cơ, lẽ ra phi cơ bị trục trặc – giao thông hiện nay tuy rất tiện lợi, song số người tử vong do phi cơ, xe lửa, xe taxi… gây ra cũng rất nhiều-nhưng quý vị nhờ tụng phẩm Phổ Môn, nhờ niệm chú Ðại Bi, nhờ tin tưởng ở Quán Thế Âm Bồ Tát, nên Ngài âm thầm, không để cho ai biết, lặng lẽ giúp quý vị “chuyển rủi thành may.” Ðó gọi là “gặp hung hóa kiết, biến nguy thành an.”
Nhân có sự quan hệ Hiển Mật cho nên nói Phẩm Phổ Môn. Phẩm này có Hiển Mật Viên thông-Hiển cũng viên thông mà Mật cũng viên thông; bởi Hiển Mật đều viên thông cả, nên công đức của Phẩm Phổ Môn là không thể nghĩ bàn.
Phẩm Phổ Môn có vô số diệu dụng, chú Ðại Bi cũng có những diệu dụng như thế. Bây giờ tôi kể một việc cảm ứng xảy ra ở quê tôi cho quý vị nghe.
Ở Ðông Bắc (Mãn Châu) quê tôi, có một người nông dân rất giàu có. Mùa thu năm ấy, ông chất nông phẩm lên xe đem ra chợ bán; bán xong mang tiền về nhà. Khi còn cách nhà độ ba dặm đường, bất ngờ gặp phải đám thổ phỉ chặn đường đánh cướp. Người nông dân này thấy phía trước có cướp thì hốt hoảng than thầm: “Phải làm sao đây? Chạy trốn ư?” Nhưng bọn thổ phỉ nhìn thấy rồi, muốn trốn cũng không được; nếu không trốn thoát thì nhất định phải bị cướp. Ngay lúc ấy, ông ta niệm chú Ðại Bi, và chiếc xe ngựa của ông ta cứ thẳng đường tiến tới trước.
Khi xe ông tiến gần đến chỗ bọn thổ phỉ, thì từ trong đám thổ phỉ có một người bước ra, đi đến trước xe và nói: “Ông đưa roi cho tôi để tôi đánh xe cho!”
Ông nghe lời, đưa roi đánh xe cho người kia. Xe ông đi ngang qua chỗ đám thổ phỉ mà bọn họ dường như không thấy không nghe gì cả, cho nên ông không bị cướp. Ðợi xe chạy tới chỗ bọn thổ phỉ không còn thấy được nữa, người đánh xe giùm ấy trả roi lại cho ông và nói: “Bây giờ ông hãy đi đi, không có việc gì nữa đâu.”
Ông nông dân ấy vì nhìn thấy người đánh xe giúp mình vốn từ trong đám thổ phỉ đi ra, nên cứ đinh ninh anh ta cũng là thổ phỉ, mới nói: “Thưa tiên sinh, hôm nay nhờ tiên sinh cứu giúp mà tôi khỏi bị nạn cướp, dám hỏi quý danh tiên sinh là chi? Hiện ở đâu? Tương lai tôi sẽ đến quý phủ hầu bái tạ.”
Người kia đáp: “Tôi tên là A Thệ Dựng.”
Quý vị niệm chú Ðại Bi ắt đều biết rõ, trong chú Ðại Bi không phải có một vị Hộ pháp tên là A Thệ Dựng sao? Trong đồ hình, vị Hộ pháp ở phía sau vai có hai cánh, tên là A Thệ Dựng. Nhưng đương lúc ấy, người nông dân lại tự hỏi: “Ồ, A Thệ Dựng là ai vậy kìa?” Bấy giờ ông ta quên bẵng rằng “A Thệ Dựng” chính là một câu trong chú Ðại Bi và là tên của một vị Hộ pháp.
Tới chừng vị A Thệ Dựng ấy đi rồi, không còn nhìn thấy nữa, người nông dân mới sực nhớ ra: “À, đây không phải là vị Hộ pháp A Thệ Dựng trong chú Ðại Bi hay sao?” Song, khi ông nhớ ra thì tìm không thấy “A Thệ Dựng” nữa, chẳng biết là đã đi về đâu!
Trên đây là một trong những cảnh giới không thể nghĩ bàn của chú Ðại Bi. Nếu như người nông dân ấy nghĩ: “Ðể mình thử niệm chú Ðại Bi xem có linh nghiệm không,” tất A Thệ Dựng sẽ không hiện thân đến cứu ông ta. Chính nhờ ông ta không có ý muốn thử nghiệm, mà chỉ một lòng tin tưởng: “Trì niệm chú Ðại Bi thì sẽ có thể gặp hung hóa kiết, đổi nguy thành an”; và quả nhiên ông ta được toại ý nguyện, không bị thổ phỉ cướp bóc. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa)
+ Linh Ứng nhiệm mầu của Thần Chú Đại Bi: Nên biết rằng nếu chúng ta thành tâm tụng Chú Đại Bi, chắc chắn có cảm ứng. Chú Đại Bi thông thiên địa, và có thể chữa khỏi tất cả 84.000 các loại bệnh trên thế gian. Nhưng người tụng chú phải thành tâm mới có cảm ứng. Họ cũng không được nói dối để có hiệu quả. Nếu quý vị luôn nói dối thì tụng Chú Đại Bi sẽ không có linh ứng gì. ... Với dịch bệnh hoành hành dân làng, HT Tuyên Hóa đã không chờ được mời, mà dẫn vài đệ tử đi xung quanh làng bị dịch bệnh tụng Thần Chú Đại Bi = Dịch bệnh giảm, hết nhanh. Còn với cá nhân, cần xem họ có Lòng thành kính và tín tâm đến để cân nhắc, không nên tiếp tay cho cái ác. (Mời xem Những Việc Hòa Thượng Tuyên Hóa đã ứng dụng Thần Chú nhiệm mầu)
+ Linh Cảm Quán Thế Âm
Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi và linh cảm ra sao, thật là không thể nghĩ bàn. Nếu mọi người chúng ta thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì nhất định nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, căn lành sẽ tăng trưởng. Có rất nhiều sự tích nói về sự linh cảm của Ngài, nay tôi xin kể một chuyện xẩy ra tại đất Mỹ. Có một bà đến nhà thương để sanh con. Ðây là một trường hợp đẻ khó, nên bác sĩ phải giải phẫu để lấy đứa nhỏ ra, nhưng trong khi mổ người ta cắt phải ống dẫn nước tiểu của sản phụ mà không hay biết. Sau khi mổ và khâu lại, người sản phụ về nhà được mấy ngày mà không hề đi tiểu tiện, trong khi đó thân thể sưng lên. Thấy sự việc xảy ra bất thường, bà này bèn đến bác sĩ hỏi bệnh nhưng bác sĩ cũng không hiểu là bệnh gì. Sau thấy toàn thân phù thũng, bệnh nhân đành phải đi khám lại bệnh tình, lúc đó huyết áp đã xuống thấp tới 18 độ, độc tố tích lại cùng mình, không cách gì chữa trị, đành nằm chờ chết. Một số thân hữu của nạn nhân gọi điện thoại tới Vạn Phật Thành cầu cứu. Người ta báo cáo cho tôi hay, tôi bảo họ hãy thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Họ rất thành tâm niệm Ngài Quán Âm, và chỉ hai tiếng rưỡi đồng hồ sau, phù thũng tiêu dần, huyết áp tăng lên, đường nước tiểu thông trở lại, nạn nhân phục hồi sức khỏe rất nhanh chóng rồi xuất viện. Các sự tích về trường hợp từ cửa tử thần, hay từ bệnh nguy ngập mà hồi sanh, hay các chuyện tiêu tai giải nạn, ở tại thành Vạn Phật, kể ra không hết, nay tôi chỉ kể một câu chuyện đó mà thôi.
+ HT Tuyên Hóa, vấn đáp ký lục.
- HỎI : Nếu như có người làm nghề giết gà, giết vịt để sinh sống, chúng ta nên có pháp môn phương tiện nào để khuyên giải họ không ?.
ĐÁP : Nếu lúc trước làm chuyện lầm lỗi, khi biết ra là sai quấy thì con nên sửa đổi. Cho nên bảo là : "Quá năng cái, quy ư vô", nghĩa là biết sai mà chịu sửa thì xem như vô tội.
- HỎI : Trong sách có nói về Chú Đại Bi như : "Thân bị bệnh nan y quấy rầy, tức thời sẽ tiêu trừ hết". Nhưng có một số người nói : "Chuyện này không thể được, vì chẳng lẽ mình bị bệnh, rồi chỉ cần niệm Chú Đại Bi thì sẽ hết bệnh sao"? Thịnh Hòa Thượng khai thị.
ĐÁP : Tâm thành tất linh. Nếu không thành tâm, dù niệm cũng không linh nghiệm. Nếu các vị thành tâm niệm tức sẽ linh ứng. Cho nên nói : "Khi oán hận mà sanh tâm hoan hỷ, thì người chết sẽ sống trở lại. Nếu cho đây là lời giả dối, thì nên biết chư Phật không nói dối bao giờ". Do đó mình có lòng tin, tất nhất định sẽ có cảm ứng. Chú Đại Bi có thể trị được 8 vạn 4 ngàn thứ bệnh trên thế gian, nhưng phải là người có thiện căn. Người không có thiện căn, dù muốn niệm cũng niệm không ra và có muốn trị bệnh cũng không ăn nhằm gì.
+ Chú Đại Bi chữa khỏi ung thư và trị quỷ thần (Xem nguồn)
+ Xem: Chánh Tâm Thành ý Trì Chú để có Cảm ứng Linh nghiệm
+ Xem thêm: Sách: Chữa Lành Bệnh Tật - Hóa Giải Ác Nạn - Cầu Được Ước Thấy Bằng Phật Pháp Nhiệm Mầu
+ Phật Pháp - Mặt trời chiếu soi, mắt mới nhìn thấy sắc: .... Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có năm trăm Bồ Tát Được Vô sanh Pháp nhẫn. Đức Phật khen rằng : "Lành thay lành thay Hư Không Tạng Bồ Tát khéo nói pháp tánh xứng với Bồ Tát hạnh chơn thiệt không có khác".
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn ! Đây là sự khéo lành của Đức Thế Tôn, tại sao, vì do Phật huệ chiếu sáng nên chúng tôi Được có phần luận biện này.
Dụ như ánh sáng mặt nhựt chiếu Diêm Phù Đề, do sức sáng mặt nhựt mà người có mắt Được thấy các sắc tượng làm những sự nghiệp. Do sức Đại trí của Phật chiếu tất cả chúng sanh và các thế giới khác cũng như vậy. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật)
+ Phật Pháp: Giáo Lý Của Đức Phật bao gồm Pháp Thế Gian và Pháp Xuất Thế Gian
- Pháp Thế Gian - Pháp Ngoại Đạo - Pháp Tiểu thừa của Hàng Nhị Thừa Thanh văn Duyên giác (Là giáo pháp của thời A-hàm. Không hiểu về pháp môn Thật tướng. Đệ nhất nghĩa đế chính là Thật tướng) - Giáo Lý Quyền Thừa - Pháp Nhân Duyên Và Tự Nhiên - Pháp Hý Luận:
Trích ngài A Nan hỏi Đức Phật: ...Vì sao Như Lai bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên tự nhiên? Nay con không biết nghĩa đó như thế nào? HT Tuyên Hóa giảng:
.. Sự cố chấp của A-nan thật là sâu nặng. Trước đây ông đã được nghe Đức Phật giảng giải về lý nhân duyên và tự nhiên. Cơ bản đó là giáo lý quyền thừa, pháp phương tiện thiện xảo; pháp ấy chưa phải là pháp chân thật. Bây giờ Đức Phật mới giảng giải pháp môn chân thật (Đang giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm), mà A-nan lại chẳng dám tin. A-nan đã tin chắc vào pháp môn phương tiện Đức Phật đã giảng trước đây, đến nỗi bây giờ A-nan phải nghi ngờ cả pháp chân thật.
+ Phật Pháp: Nhà Phật thường nói: “Phật pháp ở thế gian không phá hoại pháp thế gian” - Thế gian pháp với Pháp xuất thế đều không chướng ngại nhau; (Nguồn Kinh Thập thiện - Tập 37 - PS Tịnh Không giảng)
[Lục Tổ Đàn Kinh có nói: “Phật pháp là từ nơi thế gian pháp, không có sự giác ngộ ngoài pháp thế gian, bỏ thế gian để đi tìm Bồ-đề, chẳng khác gì đi tìm lông rùa sừng thỏ”]
+ Đức Phật dạy Về Pháp Của Ngài “Chư Tỳ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy” (Trung Bộ Kinh 1, Kinh Ví Dụ Con Rắn, trang 305).
+ Phật Pháp: A-nan, Như Lai nói Phật pháp do nhân duyên sinh, chẳng phải là căn cứ vào những tướng hoà hiệp thô trọng của thế gian. Như Lai nhận ra các tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ bản nhân của chúng do nhân duyên gì mà phát sinh ra.
Giảng giải:
A-nan, Như Lai nói Phật pháp do nhân duyên sinh, chẳng phải là căn cứ vào những tướng hoà hiệp thô trọng của thế gian. Chẳng phải là Như Lai y cứ vào những tướng thô phù trên thế gian mà mọi người đều thấy. Như Lai nhận ra các tướng thế gian và xuất thế gian. “Tướng thế gian” là chỉ cho các pháp nhiễm và tịnh trong lục đạo luân hồi sinh tử. “Pháp xuất thế gian” là chỉ cho các pháp thanh tịnh trong cảnh giới của của bốn thánh quả A-la-hán. Như Lai biết rõ bản nhân của chúng do nhân duyên gì mà phát sinh ra. Như Lai biết rõ nguồn gốc xuất phát sinh của các pháp nầy và cách mà chúng hoà hiệp với các nhân duyên.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ Pháp Tiểu Thừa và Đại Thừa: Ngài A Nan thưa: Nay con như kẻ lang thang, bỗng được Thiên vương ban cho ngôi nhà đẹp. Tuy được ngôi nhà lớn, phải nhờ có cửa mới vào nhà được.
Cúi mong Như Lai mở lòng đại bi, chỉ dạy cho chúng con và những người còn tối tăm trong hội chúng, từ bỏ pháp Tiểu thừa, nhận được con đường phát tâm tu tập đi đến vô dư niết-bàn của Như Lai. Khiến cho hàng hữu học, biết cách nhiếp phục tâm phan duyên từ trước. Được pháp tổng trì, chứng nhập tri kiến Phật. Thưa lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất. Trong hội chúng một lòng trông chờ lời dạy từ bi của Đức Phật.
Giảng giải:
Những người còn mê mờ tối tăm, là những ai trong hội chúng chưa chứng ngộ. Từ bỏ pháp Tiểu thừa. Trong đạo Phật có pháp tu Tiểu thừa và pháp tu Đại thừa. Ngày nay những ai ở Miến Điện, Śrī Lanka, và Thái Lan vẫn còn tôn sùng pháp tu Tiểu thừa. Đức Phật giảng pháp Tiểu thừa trong giai đoạn ban đầu. Sau khi thâm nhập pháp nầy, các vị đệ tử đi các nơi để truyền bá giáo pháp. Về sau, khi Đức Phật giảng pháp Đại thừa, họ không có mặt để nghe. Về sau, họ bảo là không nghe không thấy Đức Phật không giảng pháp Đại thừa. Họ tuyên bố, pháp Đại thừa là giả mạo, là do người khác dựng lên chứ không phải Đức Phật. Họ không công nhận. Nhưng ở đây trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm, chính A-nan khẩn cầu Đức Phật giảng giải cho họ phương pháp tu tập để họ có thể từ bỏ pháp tu Tiểu thừa.
Để giải thích điều nầy, Tôi sẽ kể cho quý vị nghe một trường hợp tương tự: Khi tôi còn ở Mãn Châu. Tôi ít khi nói chuyện và tiếp xúc với các đệ tử của tôi. Vì một điều, đó là gốc gác quê hương của tôi, và mọi người đều biết tôi và quê quán của tôi. Họ biết tôi là “Bạch hiếu tử–Người con có hiếu họ Bạch,” vì trước khi xuất gia, tôi đã tu tập hạnh hiếu. Khi tôi ngồi bên cạnh mộ mẹ tôi suốt ba năm, mọi người nhìn tôi với sự nể phục, như là người mẫu mực. Dần dần tiếng tăm đó vượt xa những người đã từng biết tôi. Vì đến khi đó tôi lại có những việc làm kỳ đặc. Vào mùa đông tôi mặc áo bông dày; tôi chỉ mặc hai hay ba lớp áo vải ngày thường vẫn mặc. Tôi không mang vớ trong đôi giày a-la-hán của tôi, và tôi có thể đi chân trần trên tuyết không chút khó khăn. Thế nên khi họ để ý đến tôi, họ muốn xuất gia. Bất kỳ tôi đi qua vùng nào, cũng có vài chục người muốn xin xuất gia, thậm chí trong mỗi làng cách chùa chừng trăm dặm cũng có nhiều đệ tử tôi đang sinh sống. Bởi vậy nên tôi ít nói; tôi chỉ lập hạnh cho thật tốt. Khi họ quy y, là quy y với tánh hạnh của tôi. Bất kỳ ở đâu, tôi cũng ngồi thiền. Ở Mãn Châu cũng thế, mặc dù tôi có thể giảng kinh, nhưng ít khi giảng; hầu như rất ít nói.
Khi sang Hồng Kông, tôi giảng kinh thuyết pháp và ít khi dạy Phật tử ngồi thiền. Cũng chẳng dạy cho họ pháp môn Đại bi Thiên nhủ thiên nhãn.
Nay ở Mỹ, tôi đã truyền những yếu pháp nầy cho những đệ tử ‘nhập thất.’[4] Nếu có ai từ Hồng Kông sang và quý vị nói rằng mình đã học pháp đó với tôi thì họ sẽ nói, “Không, sư phụ đâu có biết pháp Đại bi Thiên nhủ thiên nhãn. Làm sao truyền cho quý vị được?” Họ cũng giống như những đệ tử Tiểu thừa không biết rằng chính Đức Phật đã giảng pháp Đại thừa.
Một số người cho rằng pháp Tiểu thừa là sai; một số lại phê phán rằng pháp Đại thừa là sai. Thực ra, chẳng có gì đúng sai trong Phật pháp cả. Việc mà tất cả quý vị cần phải làm đó là nhất tâm trong khu tu tập, và quý vị có thể thành tựu quả vị Phật trong mọi pháp. Nhưng phải nói rằng pháp Tiểu thừa nặng về phương tiện hơn; pháp Đại thừa còn được gọi là pháp môn thật tướng, là giáo lý viên dung vô ngại. Đó không phải là giáo lý mà đệ tử Tiểu thừa có thể hiểu nỗi.
Nhận được con đường phát tâm tu tập đi đến vô dư niết-bàn của Như Lai. Hàng A-la-hán đạt được niết-bàn hữu dư. Đến quả vị Phật là thể nhập niết-bàn vô dư. Trong cảnh giới vô dư y niết-bàn, các vị đạt được trạng thái bất sanh bất diệt.
Nhận được con đường phát tâm tu tập có nghĩa là, thực tế con đường chúng ta phát tâm tu tập ban đầu cũng chính là con đường dẫn đến cứu cánh bồ-đề mà ta sẽ chứng ngộ. Như vậy, có thể giải thích rằng đó là cả hai con đường phát tâm ban đầu và cứu cánh giác ngộ.
Khiến cho hàng hữu học, tức là các vị A-la-hán chứng được quả vị thứ nhất, quả vị thứ hai, quả vị thứ ba và quả vị thứ tư. biết cách nhiếp phục tâm phan duyên từ trước. Dạy cho chúng ta cách hàng phục vô minh phiền não, nhiếp phục tâm phan duyên nhiều đời. Được pháp tổng trì– tổng trì vốn là gốc tiếng Sanskrit, phiên âm là đà-la-ni. Chứng nhập tri kiến Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương III)
+ Phật giao nguyên thủy - Phật giáo tiểu thừa: Vua [A Dục] còn phái cao tăng đến các nước lân bang hoằng pháp, xây chùa, cúng tăng. Lúc đó ngoại đạo trà trộn, làm tặc trú Tỳ kheo, sửa đổi Tam Tạng, không trọng giới luật, cho nên vua cử hành cuộc kết tập lần thứ ba, viết bằng văn tự Pali trên lá bối, làm kinh tạng của Nam Truyền Tiểu Thừa.
Người em là Tỳ Kheo Đế Tu cũng đến nước Sư Tử để hoằng dương Chánh Pháp.
Vua A Dục có xu hướng thiên về Đại chúng Bộ, bài xích Thượng Tọa Bộ, do đó, Phật Giáo nguyên thủy bị phân chia thành các tông phái...... (Nguồn: Thủy Kính Hồi Thiên Lục_HT Tuyên Hóa)
+ Sửa mình - Gương soi lỗi: Lúc Đường Thái Tông còn tại vị, ngay cả thiên tướng cũng đến hộ giá, do vậy trong thời gian làm vua của Đường Thái Tông cả hai mặt văn hóa và chính trị đều được phát triển tốt đẹp như thế. Khi Ngụy Trưng qua đời, Đường Thái Tông đã phải tiếc thương mà cảm than rằng:
“Như người ta lấy đồng làm gương soi, để chỉnh sửa áo mão; lấy việc xưa làm gương soi, mà biết được việc thịnh suy ở đời; lấy người làm gương soi để thấy cái đúng cái sai của chính mình. Ta thường giữ ba thứ gương soi này để phòng cái lỗi của chính mình. Nay Ngụy Trưng mất đi, một tấm gương theo đó mà vỡ tan rồi”... (Nguồn: Thủy Kính Hổi Thiên Lục_HT Tuyên Hóa)
Chính là nói: Nếu như dùng đồng làm gương soi, soi vào đó thì có thể thấy được áo quần mình đang mặc có ngay thẳng hay không. Lấy chuyện của lịch sử xưa nay, lấy người xưa làm tấm gương soi, thì có thể thấy được cái lý của chuyện hưng thịnh suy vong, thái bình loạn lạc, điều gì nên phát triển, điều gì nên thay đổi, đều có thể biết. Nếu như lấy một con người nào đó làm tấm gương soi, thì có thể thấy rõ những việc đúng sai của con người, điều gì nên làm, điều gì không nên làm; thấy những cái hay của người khác thì học hỏi từ họ, thấy những cái xấu của người khác thì trở lại nhắc nhở mình, tránh những sai sót tương tự. Ta thường giữ ba tấm gương soi này để phòng ngừa những sai sót của chính mình; giờ Ngụy Trưng đã mất, ta đã mất đi một tấm gương soi.
+ Tu hành theo Phật pháp: ... Bởi vì, trọng tâm tu học Phật pháp là thiền định, là tâm thanh tịnh. Nếu như tâm bạn luôn nghĩ đến hoàn cảnh bên ngoài rồi phân biệt nó thì đến khi nào bạn mới đạt được định? Sẽ không bao giờ đạt được mục đích ấy!.....
Bạn muốn thành tựu thiền định, thành tựu tâm thanh tịnh thật sự thì hoàn toàn không duyên theo cảnh bên ngoài, trở lại duyên bên trong; đây là Phật pháp cao minh; vì thế Phật pháp được gọi là “nội học” là dạy bạn không phan duyên bên ngoài. Cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng được; người tốt cũng được, người xấu cũng chẳng sao, bạn không cần để ý. Bạn đối với cảnh bên ngoài tâm luôn chân thật cung kính, thuận cảnh cũng như thế mà nghịch cảnh cũng như vậy; đối xử người thiện và người ác bình đẳng như nhau, tuyệt đối không được phân biệt, chỉ có tâm chân thành. Bạn vận dụng được tâm này thì không những người tốt, người thiện ca ngợi bạn mà người xấu cũng tán dương bạn; người xấu được bạn cảm hóa, đoạn ác tu thiện. Vì thế, Lục Tổ nói rất hay:
Nếu người thật tu đạo
Không thấy lỗi thế gian.
Người thường thấy lỗi thế gian là tự rước họa vào thân. Ngày nay, chúng ta mắc chứng bệnh nặng này rất phổ biến; từ sáng đến tối luôn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình. Khi nào chúng ta không thấy lỗi người khác mà chỉ thấy lỗi mình thì chúng ta thành công. Công phu tu tập của bạn đạt được hiệu quả, bạn được thọ dụng thật sự.
Người khác thì thế nào? Họ tự có nhân quả của họ, quan trọng là chính mình. Nhân quả của họ, bạn không thể chịu thay cho họ, cũng không thể giúp họ thay đổi. Huống gì ở thời buổi này, ai chịu nói lỗi của người khác? Người xưa cũng không nói. Chúng ta đọc Lễ ký, tác phẩm đời Hán ghi, người nào nói lỗi của bạn? Chỉ có cha mẹ của bạn và thầy giáo của bạn. Vì họ có trách nhiệm dạy dỗ nên mới nói lỗi của bạn, bạn không được cãi lại. Bạn nói lỗi của bạn đồng học thì bị họ oán hận, thù hiềm rình chờ cơ hội báo thù. Do đó, ai chịu nói lỗi cho mình? Không có người nào chịu.
Phật, Bồ-tát giảng kinh, thuyết pháp một cách khéo léo để chúng ta nghe rồi nghĩ lại, mình có lỗi hay không, nếu có lỗi thì hãy mau tự mình phản tỉnh; đây gọi là “có lỗi thì sửa, không có lỗi thì khen ngợi”. Các ngài không nói thẳng lỗi của chúng ta mà các ngài chỉ nói một cách khéo léo để chúng ta tự mình phản tỉnh, tự giác ngộ, vì tâm của các ngài thanh tịnh. Vì thế trong kinh, luận nói lỗi lầm của hàng phàm phu rất nhiều, nhưng trên thực tế Đức Phật chẳng thấy lỗi lầm của người nào; đây là sự tài tình trong cách dạy học của Đức Phật nên Ngài chẳng mất tâm thanh tịnh.
Chúng ta phải hiểu rõ những điều này để tự mình phản tỉnh, hiểu được lòng từ bi chân thành của chư Phật, Bồ-tát thật bao la. Chỉ cần chúng ta tự nỗ lực, tu hành đúng lời dạy của các ngài, không cần quan tâm đến hoàn cảnh thì tự nhiên có Phật hộ niệm; Hộ pháp, Thiện thần ủng hộ chúng ta. Chúng ta không cần lo lắng có người đến phá hoại, gây chướng ngại. Bằng không, dù người khác không đến gây chướng ngại mà chính mình lại tự gây chướng ngại trước. Chúng ta nghĩ làm việc gì thì đó chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm hỏng chính mình trước tiên; điều này chúng ta cần phải nhìn kỹ mà buông xả.
Chúng ta phải tin chắc có sự hộ niệm của chư Phật. Sự hộ niệm này chính là tất cả chư Phật thường nhớ nghĩ và quan tâm chúng ta; đây là sự thật. Hộ pháp, Thiện thần tôn kính, khâm phục nên luôn luôn ủng hộ chúng ta. Còn nếu mình luôn nghi ngờ thì chẳng những Đức Phật không hộ niệm mà Thiện thần, Hộ pháp cũng không che chở. Chúng ta phải tự xét kỹ, bằng không thì chịu thiệt thòi rất lớn.
Vì thế, hai chữ “tin Phật” thật không dễ dàng, tin Phật rồi, chúng ta có còn vọng tưởng không? Còn lo âu, còn bận tâm không? Tất cả đều không còn, như thế mới nhất tâm hướng về đạo. Đạo ở đâu? Đạo chính là ngay trong cuộc sống, là chuyện ăn cơm, mặc áo. Chúng ta đọc đoạn mở đầu trong kinh Kim Cang ghi: “Đức Phật Thích-ca đắp y, ôm bát, vào thành Xá Vệ khất thực”; đây chính là đạo. Do đó, chúng ta có thể biết trong cuộc sống thường ngày chẳng có gì thay đổi, công việc hằng ngày cũng như vậy; những việc xử sự, đãi nhân tiếp vật, xã giao vẫn như thường....
Đại tự tại, đại viên mãn đều từ trong tâm thanh tịnh sinh ra. Kinh Kim cang nói rất hay: “Tín tâm thanh tịnh thì sinh thật tướng” tức là sinh trí tuệ thật tướng Bát-nhã. Trí tuệ thật tướng Bát-nhã hiện ra thì làm sao mà không được tự tại! Làm sao mà không viên mãn! Rốt cuộc đều do tâm thanh tịnh.
Nói về nhân duyên ở đời, như trong kinh Đức Phật dạy: “Chúng ta có thể làm được việc thế gian, nhưng không được làm theo ý thế gian”. Hai câu nói này thật là hay. Việc thế gian chúng ta có thể làm được, kinh Hoa nghiêm ghi: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Vậy chướng ngại ở đâu? Chướng ngại ở ý thế gian. Ý thế gian là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bạn phải đoạn trừ những thứ này. Ý nghĩa hai câu này rất sâu rộng.....
Tôi nêu ra một ví dụ, khi chúng ta đọc kinh điển thấy lời Đức Phật dạy có hay không? Rất có thứ tự, lớp lang không một chút lộn xộn; bất luận là giảng lý hay sự, đều đâu ra đó....
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật, đồng tâm đồng nguyện, đồng đức đồng tâm. Chúng ta có hiểu được ý nghĩa này không? Ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta làm được bao nhiêu phần? Đây chính là điều chúng ta tu hành. Tại sao chúng ta hành không đạt hiệu quả? Vì sao không cải thiện được cuộc sống của chúng ta? Nguyên nhân là ở tại chỗ này.......
Trong kinh Đức Phật dạy hai chữ “thọ trì”; chẳng những chúng ta không làm được mà không hiểu ý nghĩa hai chữ này, nếu có hiểu thì lại hiểu sai; cho rằng mỗi ngày tôi tụng kinh một lần là thọ trì. Chúng ta biết sai ở đâu không?
Tôi nói thật, chúng ta muốn đạt được hiệu quả công phu tu tập là cải thiện cuộc sống của chúng ta, chẳng những cải thiện đời sống hiện tại mà còn cải thiện đời sau. Cuộc sống đời sau, ý nghĩa này thật là rất dài. Theo cách sống hiện tại của chúng ta đúng như trong kinh, luận Đại, Tiểu thừa Đức Phật dạy, sau khi chúng ta mất thân người, đời sau muốn được thân người, thật là khó. Vậy chúng ta sẽ đi về đâu? Phần đông đọa trong ba đường ác.
Làm sao chúng ta biết mình đọa vào ba đường ác? Chỉ cần nghe mọi người nói một câu thì biết rõ: “Chết rồi làm quỷ”. Mọi người đều cho rằng, sau khi chết rồi đều làm quỷ. Tôi chưa nghe ai nói chết rồi làm người mà chỉ nghe nói sau khi chết rồi làm quỷ.
Đức Phật thường dạy chân lý: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Theo cách nghĩ của bạn người chết đều thành quỷ. Bạn có ý nghĩ, quan điểm như vậy thì nhất định bạn đi làm quỷ rồi! Có bao nhiêu người suy nghĩ sau khi chết được làm người, hoặc sinh lên cõi trời hay làm Phật, Bồ-tát; điều này rất ít nghe nói đến, chỉ có nghe người chết đều bị làm quỷ. Chúng ta không nên cho câu nói này là bình thường, chưa chắc là đúng. Thật ra câu nói này là đúng, câu nói này thật không bình thường.
Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh, kinh Hoa nghiêm ghi: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đây cũng là lời Đức Phật dạy, con người sau khi chết, được thân người lại rất khó; huống gì theo nguyên lý kinh Phật đã dạy, đời sau muốn được làm thân người thì nhất định phải đầy đủ điều kiện của năm giới. Năm giới với năm thường của nhà Nho ở Trung Quốc nội dung giống nhau. Năm thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. ... (Nguồn: Ba phúc-PS Tịnh Không giảng)
+ Tú Diệu Lịch Kinh - Mở đầu sự phân định Tú trực (chòm sao- có tính chất thẳng đứng, dọc...)
Bài giảng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các Tiên về cát hung ngày giờ thiện ác trong Tú Diệu Kinh(quyển thượng)
Khai Phủ Nghi đồng Tam Ti đặc tiến thí Hồng Lư Khanh túc quốc công thực ấp tam thiên hộ tứ tử tặng Tư Không thụy Đại Giám.
Chính hiệu Đại Quảng Trí Đại Hưng Thiện Tự Tam Tạng Sa Môn Bất Không phụng chiếu dịch (từ tiếng Phạn sang tiếng Hán).
Đệ tử Thượng Đô Thảo Trạch Dương Cảnh Phong tu sửa chú thích.
Phẩm thứ nhất.
Trời Đất thuở mới thành lập, lấy tinh hoa của nóng với lạnh mà tạo thành Nhật Nguyệt. Ô Thố (tức ám chỉ Mặt Trời - Kim Ô, và Mặt Trăng - Ngọc Thố) đối kháng sinh thành vạn vật. Phân chia các Tú (chòm sao) thiết lập cung quản ghi chép thứ hạng của chúng.
+ Nhật quản lý dương vị, theo tinh tú đi thuận, lấy 13 Tú như Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, cho đến phân nửa của tú Hư vừa khớp với chính giữa địa phận của Tý, phân chia thành 6 cung (Hoàng Đạo) vậy.
Nhưng Nhật Nguyệt thiên tử đều lấy Ngũ Tinh làm bề tôi phụ tá.
- Ánh sáng của Nhật (Mặt Trời) chiếu sáng nóng bức dữ dội, vật loại tương cảm nên lấy con thú thuộc dương là Sư Tử làm thần của cung (Hoàng đạo) vậy.
- Ánh sáng của Nguyệt (Mặt Trăng) thì mát lành thanh lương, vật loại tương cảm nên lấy loài trùng thuộc âm là Cự Giải (con cua lớn) để làm thần của cung vậy.
Đồng thời Nhật tính thì cương nghĩa, Nguyệt tính thì nhu huệ, Nghĩa thì lấy giúp đỡ bên dưới, Huệ lấy cùng chung tôi thần mà Nhật Nguyệt cũng đều dùng các cung thần ban chia đều đặn.
+ Ngũ Tinh thì lấy nhanh cho đến chậm, chính là Thần Tinh (sao Thủy), Thái Bạch (sao Kim), Huỳnh Hoặc (sao Hỏa), Tuế (tinh - sao Mộc), Trấn (tinh - sao Thổ). Sắp xếp thành thứ tự, hành độ đi nhanh chậm rõ ràng. Phàm 12 cung, tức là triền thứ của Thất Diệu, mỗi khi trải qua đều bày tỏ họa phúc theo tai họa hay cát tường của Kinh với Vĩ (QNB chú: Kinh là ám chỉ Kinh độ tính theo chiều dọc căn cứ vào các Hằng Tinh - chính là 28 Tú hoặc 27 Tú, còn Vĩ là ám chỉ Vĩ độ tính theo chiều ngang căn cứ vào các Hành Tinh - chính là 5 sao Thủy - Kim - Hỏa - Mộc - Thổ mà được gọi là Ngũ Tinh) cho nên các cung mới có hình dạng của Thần, dùng làm tượng của cung vậy. Đồng thời mỗi một cung lại phối quản nhóm các chòm sao "9 bước" (liệt tú cửu túc - 列宿九足), mà tất cả các thứ loại tương cảm với nhau.
- Phạm vi của Nguyệt là 50 căn cứ vào Tuần, được gắn liền với Mệnh mà làm trung tâm cát hung, đại thể thuộc vào Nhật Nguyệt (ngày tháng).
- Phạm vi của Nhật là 51 căn cứ vào Tuần (QNB chú: Tuần có nghĩa là 10 ngày).
- Phạm vi của Phong tinh Thái Bạch/ Sao kim là 10 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Không tinh Tuế tinh/ Sao mộc là 9 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Nguyệt tinh Thần tú/ Sao Thủy là 8 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Hỏa tinh Huỳnh Hoặc/ Sao hỏa là 7 căn cứ vào Tuần.
- Phạm vi của Nhật tinh Thổ Tinh/ Sao thổ là 6 căn cứ vào Tuần.
Những phạm vi của các Tinh Tú ấy đều có nơi chỗ ở.
Nhật cung bên dưới có cái quý của pha lê, có chất của lửa vậy, nóng ấm soi chiếu vạn vật.
Nguyệt cung bên dưới có cái quý của lưu ly, mát lành soi chiếu vạn vật.
Nhật Nguyệt và chư Diệu, chúng sinh có nghiệp được sắp đặt ở không trung, cưỡi gió mà dừng, hướng về nửa của Tu-Di, leo lên trên Kiện-Đà-La. Vận hành ở 27 Tú và 12 cung. Sự phân chia Cung Tú nay giải thích, thêm cả Đồ Thư mà thôi.
1. Thứ nhất sao Tinh 4 bước, Trương 4 bước, Dực 1 bước, chỗ khí dương to lớn (QNB chú: Đại Dương, có lẽ ám chỉ Mặt Trời). Thần của nó như Sư Tử, cho nên tên là cung Sư Tử (QNB chú: tương ứng với cung Ngọ), chủ sự thăng quan tiến chức, được tài lộc. Nếu người ta sinh ra thuộc cung này, noi theo pháp hợp đạt được tinh thần phú quý hiếu thuận, được nắm giữ đảm nhiệm quân đội vậy.
2. Thứ hai sao Dực 3 bước, Chẩn 4 bước, Giác 2 bước, chỗ Thần Tinh (sao Thủy, Mercury). Thần của nó như cô gái, nên tên là cung Nữ (QNB chú: Xử Nữ, Thất Nữ, tương ứng với cung Tị), chủ thê thiếp và các việc của người đàn bà. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp khó mà có được tâm phúc thân tín, nhiều con cái, đủ tiền tài, chức cao cho nên hợp với việc đảm nhiệm quản lý các cung các phòng.
3. Thứ ba sao Giác 2 bước, Cang 4 bước, Đê 3 bước, chỗ sao Thái Bạch (sao Kim, Venus). Thần của nó như cái cân, nên tên là cung Xứng (QNB chú: Thiên Xứng, Thiên Bình, tương ứng với cung Thìn), chủ những việc liên quan tới của báu và kho tàng quý. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp được tâm thẳng thắn, công bình, tín nghĩa, tôn trọng, lắm tài, hợp với việc đảm nhiệm quản lý kho tàng.
4. Thứ tư sao Đê 1 bước, Phòng 4 bước, Tâm 4 bước, chỗ sao Huỳnh Hoặc (sao Hỏa, Mars). Thần của nó như con Bọ Cạp, nên tên là Bọ Cạp cung (QNB chú: Thiên Hạt cung, tương ứng với cung Mão), chủ những việc thuộc các phần thân thể, bệnh tật, tấn công, ngăn cấm. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp nhiều bệnh, bạc tướng ác tâm, đố kị, cho nên hợp với đảm nhiệm việc quản lý bệnh tật hoạn nạn.
5. Thứ năm sao Vĩ 4 bước, Cơ 4 bước, Đẩu 1 bước, chỗ Tuế Tinh (sao Mộc, Jupiter). Thần của nó như cái cung, nên tên là cung Cung (QNB chú: Nhân Mã, Cung Thủ, tương ứng với cung Dần), chủ những việc mừng vui đắc tài lộc. Nếu người nào sinh ra thuộc những cung này theo pháp hợp nhiều kế sách lắm mưu kế, hợp đảm nhiệm việc làm tướng, quân sư.
6. Thứ sáu sao Đẩu 3 bước, Nữ 4 bước, Hư 2 bước, chỗ Trấn Tinh (sao Thổ, Saturn). Thần của nó như cái cối xay cho nên gọi là cung Ma Kết (QNB chú: còn gọi là Nam Dương, tương ứng với cung Sửu), chủ về những việc đấu tranh. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp thì tâm thô khí nghịch, không coi trọng vợ con, hợp đảm nhiệm nắm quyền hình sát.
Bên trên là 6 vị tổng thuộc phần Thái Dương.
Bên dưới là 6 vị tổng thuộc phần Thái Âm.
7. Thứ bảy sao Hư 2 bước, Nguy 4 bước, Thất 3 bước, chỗ của Trấn Tinh (sao Thổ, Saturn). Thần của nó như cái lọ bình, cho nên tên là cung Bình (QNB chú: Bảo Bình, tương ứng cung Tý), chủ những việc thắng lợi, mạnh mẽ. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp nhiều học vấn, trung thực, tín nghĩa, hợp đảm nhiệm nắm giữ học quán.
8. Thứ tám sao Thất 1 bước, Bích 4 bước, Khuê 4 bước, chỗ của Tuế Tinh (sao Mộc, Jupiter). Thần của nó như con cá, cho nên tên gọi là cung Ngư (QNB chú: Song Ngư, tương ứng cung Hợi), chủ về những việc thăng quan tiến chức. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, hợp làm tướng không sai khác, có học vấn, phú quý, trung trực, hợp đảm nhiệm nắm giữ quan tướng.
9. Thứ chín sao Lâu 4 bước, Vị 4 bước, Mão 1 bước, chỗ của sao Huỳnh Hoặc (sao Hỏa, Mars). Thần của nó như con Dê, cho nên tên gọi là cung Dương (QNB chú: Dương Cưu, tương ứng với cung Tuất), chủ những việc hoàn cảnh đi lại nghề nghiệp. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp được nhiều phúc đức, trường thọ, lại hay chịu đựng nhẫn nhục, hợp đảm nhiệm quản lý việc ăn uống thưởng ngoạn.
10. Thứ mười sao Mão 3 bước, Tất 4 bước, Tư (Chủy) 2 bước, chỗ của sao Thái Bạch (sao Kim, Venus). Thần của nó như trâu bò, cho nên tên gọi là cung Ngưu (QNB chú: Kim Ngưu, tương ứng với cung Dậu), chủ những việc về các súc vật bốn chân. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp có phúc đủ bạn bè thân hữu, được trường thọ, được người yêu quý kình trọng, hợp đảm nhiệm quản lý chuồng trại.
11. Thứ mười một sao Tư (Chủy) 2 bước, Tham (Sâm) 4 bước, Tỉnh 3 bước, chỗ của Thần Tinh (sao Thủy, Mercury). Thần của nó như vợ chồng, cho nên tên gọi là cung Dâm (QNB chú: cũng gọi là Song Tử, tương ứng với cung Thân), chủ những việc về thai sản con cháu. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp lắm thê thiếp, được người yêu mến kính trọng, hợp đảm nhiệm quản lý chìa khóa nhà cửa hộ tịch.
12. Thứ mười hai sao Tỉnh 1 bước, Quỷ 4 bước, Liễu 4 bước, chỗ của Thái Âm (Mặt Trăng). Thần của nó như con cua, cho nên tên gọi là cung Giải (QNB chú: Cự Giải, tương ứng với cung Mùi), chủ những việc quan phủ khẩu thiệt thị phi. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp có ác tính, lường gạt dối trá, thông minh nhưng đoản mệnh, hợp đảm nhiệm quản lý hình ngục kiện tụng.
Thời thượng cổ phân chia tách bạch ngày Sóc Xuân Phân tháng Hai lúc tại triền xá của diệu chỗ tú Lâu. Nói rằng tình huống ngày chính (chính nhật) của các Trung Khí phân đều bằng nhau, để mà dần dần được tươi tốt hết thảy đều tăng trưởng.
Phạm Thiên (QNB chú: Brahma, Đấng sáng tạo của đạo Bà La Môn, chữ Phạm đó cũng đọc là Phạn - chỉ Ấn Độ hay những thứ thuộc về Ấn Độ thuộc về Phật giáo) vui vẻ lệnh đặt cho làm Tuế Nguyên
[Cảnh Phong viết: Đại Đường lấy Kiến Dần làm Tuế Sơ khởi đầu năm. Thiên Trúc lấy Kiến Mão làm Tuế Thủ đứng đầu năm. Như vậy quy tắc Nguyệt Lệnh của Đại Đường đều lấy Chính Nguyệt (tháng Giêng), Hai, Ba, Tư, cho đến Mười Hai. Quy tắc của Thiên Trúc toàn là căn cứ theo ngày 15 "tháng trắng" (QNB chú: một tháng 30 ngày âm lịch thì theo họ chia này nửa trắng 15 ngày gọi là Bạch Nguyệt, còn nửa 15 ngày kia gọi là Hắc Nguyệt, hai phần Trắng-Đen này đều dựa vào sự Sáng-Tối của chu kỳ Trăng), khi Thái Âm ở chỗ chòm sao nào mà lấy làm tên tháng cho nên gọi Kiến Mão là Giác Nguyệt (QNB chú: tháng Giác, tháng mà Mặt Trăng tròn ở chỗ chòm sao Giác), gọi Kiến Thìn là Đê Nguyệt (QNB chú: tháng Đê, tháng mà Mặt Trăng tròn ở chỗ tú Đê). Tức là chỉ gọi tháng theo Giác, Đê, Tâm, Cơ,... chứ không luận về Kiến Mão hay Kiến Thìn với Giêng Hai Ba Tư gì cả, cho nên hai cái đó là Đông với Tây khác nghĩa nhau (QNB chú: hai chữ Đông - Tây này là ông Cảnh Phong ám chỉ nước Đường ở Đông và nước Thiên Trúc ở phương Tây). Học giả trước tiên cần phải hiểu rõ điều này để sau còn rõ ràng những phần giải thích nữa].
QNB chú thêm: Đối với thuật ngữ "Bạch Nguyệt" và "Hắc Nguyệt" cần phải lưu ý độc giả thêm rằng, ở trong Lịch Thời Luân của Tây Tạng, vào thời đại tương ứng triều Đường thì người ta gọi 15 ngày từ ngày Không Trăng đến ngày Trăng Tròn gọi là Hắc Nguyệt, còn 15 ngày từ ngày Trăng Tròn đến ngày Không Trăng thì gọi là Bạch Nguyệt. Nhưng đến thời gian tương ứng với triều Nguyên thì họ lại đổi ngược lại nửa Trắng trước còn nửa Đen sau. Tuy vậy nhiều khi những Chùa chiền Thiền viện ở Tây Tạng vẫn căn cứ vào quy tắc "Đen trước Trắng sau" để ghi chép ngày tháng và các hoạt động tâm linh. Điều này độc giả cần phải biết để khi đọc các tài liệu có nguồn gốc Mật Tông Tây Tạng hay Ấn Độ còn biết đường mà suy lường cho rõ thời điểm.
1. Giác Nguyệt (tháng Giác) [Cảnh Phong viết: Tháng Hai của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Mão vậy (Đẩu kiến Mão vị chi Thần)]
2. Đê Nguyệt (tháng Đê) [Cảnh Phong viết: Tháng Ba của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Thìn vậy]
3. Tâm Nguyệt (tháng Tâm) [Cảnh Phong viết: Tháng Tư của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Tị vậy]
4. Cơ Nguyệt (tháng Cơ) [Cảnh Phong viết: Tháng Năm của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Ngọ vậy]
5. Nữ Nguyệt (tháng Nữ) [Cảnh Phong viết: Tháng Sáu của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Mùi vậy]
6. Thất Nguyệt (Tháng Thất) [Cảnh Phong viết: Tháng Bảy của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Thân vậy]
7. Lâu Nguyệt (Tháng Lâu) [Cảnh Phong viết: Tháng Tám của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Dậu vậy]
8. Mão Nguyệt (Tháng Mão) [Cảnh Phong viết: Tháng Chín của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí của Tuất vậy]
9. Chủy Nguyệt (Tháng Chủy) [Cảnh Phong viết: Tháng Mười của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Hợi vậy]
10. Quỷ Nguyệt (Tháng Quỷ) [Cảnh Phong viết: Tháng (mười) Một của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Tý vậy]
11. Tinh Nguyệt (Tháng Tinh) [Cảnh Phong viết: Tháng Chạp (mười hai) của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Sửu vậy]
12. Dực Nguyệt (Tháng Dực) [Cảnh Phong viết: Tháng Giêng của nhà Đường thì đuôi chòm Bắc Đẩu chỉ vào vị trí Thần của Dần vậy]
Bảng tĩnh sẵn các ngày trong năm theo 27 ngôi sao của nhị thập thất tú
Tiên nhân dạy rằng:
Phàm thiên đạo Nhị Thập Thất Tú có rộng có hẹp, đều dùng 4 bước mà phân chia đều nhau, Nguyệt (mặt Trăng) đi hoặc ở thì trước sau trong kết quả dự tính giữa tự nhiên và lý thuyết có sai lệch bất đồng. Phải định Tú trực như thế nào cho phù hợp.
Bồ Tát nói:
Phàm Nguyệt tú có 3 loại Hợp pháp, loại thứ nhất Tiền Hợp, loại thứ hai Tùy Hợp, loại thứ ba Tịnh Hợp. Biết ba loại ấy thì có thể biết được Tú trực vậy.
- Nói thế nào về Tiền Hợp. Sáu tú là Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, chính là Tiền Hợp vậy.
- Nói thế nào về Tịnh Hợp. Mười hai tú là Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, chính là Tịnh Hợp.
- Nói thế nào về Tùy Hợp. Chín tú là Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, chính là Tùy Hợp.
Phàm, Tú (chòm sao) ở chỗ trước Nguyệt còn Nguyệt ở sau Tú thì chính là Tiền Hợp.
Nguyệt ở chỗ trước Tú còn Tú ở chỗ sau Nguyệt, như nghé con theo mẹ chính là Tùy Hợp.
Tú với Nguyệt cùng đi thì chính là Tịnh Hợp.
[Cảnh Phong viết: Hễ là phép của Thiên tượng, thì phía Tây là trước (tiền) còn phía Đông là sau (hậu), như Nguyệt ở phía Đông của Tú còn Tú ở phía Tây của Nguyệt thì tức là Tú ở chỗ trước Nguyệt còn Nguyệt ở chỗ sau Tú. Ngoài ra cứ phỏng theo đó].
Ca tụng viết:
Lục Tú vị đáo danh Tiền Hợp
Thập Nhị Tú Nguyệt tả hữu Hợp
Cửu Tú như độc tùy tùng mẫu
Khuê Tú trực ứng đương tri nhĩ.
(Sáu chòm sao mà chưa đến nơi thì tên gọi là Tiền Hợp
Mười Hai chòm sao là Hợp ở hai bên trái phải
Chín chòm sao như nghé đi theo trâu mẹ
Tú Khuê trực ứng với việc biết chỗ bắt đầu).
[Tân diễn giải như bên dưới. (Nguồn: Tú Diệu Lịch Kinh - cohoc.net)
+ Thuỷ tinh - Sao Thủy: Thủy tinh và Mặt trăng (ẩn Vulcan) truyền dẫn Cung 4 (GQ1- CT con người) - Sao Thủy điều khiển thể trí, là lực chiếm ưu thế ở cấp độ phàm ngã. Đáp ứng với câu châm ngôn "Hãy để vật chất thống trị " tâm trí tràn ngập những tư tưởng về tiền bạc và tài sản......
Jupiter và các ảnh hưởng của nó cho thấy rằng con đường lâm phàm là phương pháp khai mở tiến hóa “có lợi” và rằng con đường bác ái ‒ minh triết (cung 2) là con đường cho nhân loại bước đi. Mercury chỉ rằng con đường ít đối kháng nhất cho nhân loại là hài hòa qua xung khắc, vì Mercury biểu hiện cho năng lượng cung bốn vốn thuộc bồ đề, trực giác và biểu hiện của Christ, vì Mercury và Mặt Trời là một.... (CTHNM, 80);
(Vài Cung tự biểu hiện qua 2 hành tinh. Thí dụ Cung 4, qua Mặt Trăng và cả qua Mercury, trong khi Cung 1, đến với chúng ta qua Vulcan và qua Pluto. Lý do thực sự là một trong các bí mật của điểm đạo và được ẩn giấu trong vận mệnh của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư - Nhân loại).
+ Mercury: Ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến Tứ nguyên ở người; Chân Sư DK (CTHNM, 338):
Sirius Leo Mercury Saturn
Tinh Thần ... Linh hồn .... Trí tuệ ....... Bộ óc
Sự sống ..... Tính chất ... Giác ngộ .. Sắc tướng
Hít vào ........Tạm nghỉ ... Thở ra ...... Tạm nghỉ
- Lời nói, viết, suy nghĩ có ý thức, logic
- Cách chúng ta nghĩ và xử lý thông tin, và do đó ảnh hưởng đến cách chúng ta giao tiếp. Suy nghĩ là một quá trình chứ không phải là một đặc điểm tĩnh bên ngoài của một người. Nói chung, các nhà chiêm tinh vẫn giải thích Thuỷ tinh một cách đơn giản hơn là liên kết một số lượng lớn các hiện tượng dường như không liên quan với Thuỷ tinh . Có sự đồng thuận rộng rãi về ý nghĩa của nó, vì vậy chúng ta không cần phải thảo luận về các cách hiểu khác nhau.
- Thống kê và ý nghĩa: Các quy luật và tạo lập Lá số Chiêm tinh; Định vị các Nhà; Vòng Hoàng Đạo và Mặt phẳng Hoàng đạo, đường Xích đạo Trời; Các Hành tinh có tính Ngũ Hành của nó mạnh hơn Ngũ hành cùng loại của các Cung Hoàng Đạo; Ý nghĩa các Cung Hoàng Đạo; Các Nhà; Các Góc hợp và Chủ tinh các Cung Hoàng Đạo; cũng như khái niệm về vượng, tướng, tù, tử; Cung chủ quản một Nhà; Mẫu sắc Ngũ hành; Tính điểm ngũ hành; Các góc hợp Tam hợp, Lục hợp ....
+ Thuỷ tinh (☿): Thuỷ tinh ảnh hưởng đến cách chúng ta nghĩ và xử lý thông tin, và do đó ảnh hưởng đến cách chúng ta giao tiếp. Suy nghĩ là một quá trình chứ không phải là một đặc điểm tĩnh bên ngoài của một người. Nói chung, các nhà chiêm tinh vẫn giải thích Thuỷ tinh một cách đơn giản hơn là liên kết một số lượng lớn các hiện tượng dường như không liên quan với Thuỷ tinh . Có sự đồng thuận rộng rãi về ý nghĩa của nó, vì vậy chúng ta không cần phải thảo luận về các cách hiểu khác nhau. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Thủy tinh: 11. Thứ mười một sao Tư (Chủy) 2 bước, Tham (Sâm) 4 bước, Tỉnh 3 bước, chỗ của Thần Tinh (sao Thủy, Mercury). Thần của nó như vợ chồng, cho nên tên gọi là cung Dâm (QNB chú: cũng gọi là Song Tử, tương ứng với cung Thân), chủ những việc về thai sản con cháu. Nếu người nào sinh ra thuộc cung này, theo pháp hợp lắm thê thiếp, được người yêu mến kính trọng, hợp đảm nhiệm quản lý chìa khóa nhà cửa hộ tịch. (Nguồn: Tú Diệu Lịch Kinh - cohoc.net)
+ Hành Tinh Thủy tinh - Mercury (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Mercury chỉ vừa mới bắt đầu rời khỏi trạng thái triều nguyên.
a/ Mercury không có vệ tinh nào.
b/ Mercury là dãy thất phân.” (188, 189)
2. “Mercury già hơn Địa Cầu nhiều”. (I, 180)
3. “Mercury được gọi là thần thứ nhất trong số các Thần thiên giới, Thần Hermes… mà Thượng Đế được gán cho là sáng tạo ra và cuộc khai mở đầu tiên của con người vào Huyền Thuật. …Mercury là Budh, Minh Triết, Giác Ngộ hay là “làm sống lại” trong khoa học thiêng liêng”. (I, 513)
4. “Mercury là Chúa của Minh Triết”. (II, 31)
5. “Mercury còn huyền bì và ẩn mật hơn là Venus. Nó vốn:
a/ Đồng nhất với Mithra.
b/ Bạn đồng hành vĩnh cửu của Mặt Trời Minh Triết.
c/ Lãnh tụ và kẻ trục triệu (evocator) của linh hồn.
d/ Đồng nhất với Mặt Trời”. (II, 31)
6. “Mercury chữa lành kẻ mù, và phục hồi sự thấy của tinh thần và vật chất”. (II, 571)
7. “Mercury đôi khi tượng trưng:
a/ Như là có ba đầu, bởi vì là một với Mặt Trời và Venus.
b/ Như hình lập phương, không có tay, vì ‘sức mạnh của sự nói và hùng biện có thể chiến thắng mà không cần sự trợ giúp của tay và chân’”. (II, 572)
8. “Giống dân thứ năm được sinh ra dưới Mercury” (giống dân Aryan. A.A.B.) (II, 32)
9. “Mercury là anh của Địa Cầu”. (II, 48)
10. “Mercury nhận được ánh sáng bảy lần nhiều hơn bất cứ hành tinh nào khác”. (II, 570)
11. “Buddhi và Mercury tương ứng với nhau và cả hai đều vàng (yellow) có màu hoàng kim sáng rực. Trong hệ thống con người, mắt phải tương ứng với Buddhi, còn mắt trái tương ứng với Manas và Venus hay là Lucifer”. (III, 447, 448)
12. “Mercury được gọi là Hermes; Venus được gọi là Aphrodite và sự liên kết của chúng trong con người trên bình diện tâm lý – vật lý (psycho-physical plane) mang lại cho y tên gọi Hermaphrodite (Lưỡng Tính, Bán Thư Bán Hùng)” (III, 458) Tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn
13. “Venus, Jupiter và Saturn có thể được xem như là các hiện thể của ba siêu nguyên khí hay nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars được liên kết chặt chẽ với ba hành tinh này, nhưng ở đây có ẩn một bí mật còn bị che giấu”. (299).
14. “Gợi ý thứ hai mà Tôi tìm cách đưa ra, nằm trong tam giác được hợp thành bởi Địa Cầu, Mars, Mercury. Liên quan với tam giác này, sự tương tự nằm trong sự kiện rằng Mercury và trung tâm lực ở đáy xương sống trong con người có liên kết chặt chẽ. Mercury cho thấy kundalini ở trạng thái hoạt động sáng suốt trong khi Mars cho thấy kundalini ở trạng thái tiềm tàng”. (181)
15. “Vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm, cùng với Thượng Đế của hành tinh hệ Venus và của Địa Cầu chúng ta, Đấng Chủ Quản (Lord) của Mercury tạo ra một tam giác lực tạm thời”. (371)
+ Thủy tinh trong Song tử: Đọc Tooltip nói nhiều điều về Thủy tinh ... Xem tại đây
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
* Xem: Chiêm tinh học 1- 2 - 3; Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh; Xem: Tổng hợp về Thủy tinh
+ Chú Lăng Nghiêm hóa giải năng lượng xấu: A Nan, nếu trong các thế giới có các chúng sanh, tùy cõi nước mình sinh ra, như vỏ cây hoa, lá cây bối, hoặc như giấy trắng, thảm trắng, dùng để bên chép chú này, đựng trong túi thơm; nếu người đó tối tăm, tùng chưa nhớ được, nhưng hoặc đeo trên người, hoặc viết trong nhà ở, thì nên biết là người ấy trọn đời, tất cả các thứ độc không thể hại được.
Giảng giải:
Đây là Luận về chức năng của chú. A Nan, nếu trong các thế giới có các chúng sanh. Chỉ chung cho các chúng sanh trong cõi này và tất cả các thế giới khác. Tùy cõi nước mình sinh ra, có thể đó là nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái, Miến Điện, Tích Lan, hoặc một khu vực nào khác. Họ có thể viết trên các loại như vỏ cây hoa, lá cây bối, hoặc như giấy trắng, thảm trắng, dùng để bên chép chú này. Vật liệu dùng để viết không phải là vấn đề quan trọng, và người ta có thể viết một cách cẩn thận, kính cẩn, hoặc viết tháo cho nhanh. Sau đó đựng trong túi thơm; nếu người đó tối tăm, tùng chưa nhớ được, nhưng hoặc đeo trên người, hoặc viết trong nhà ở, thì nên biết là người ấy trọn đời, tất cả các thứ độc không thể hại được. Nếu người đó không có trí nhớ tốt, hoặc đầu óc mơ hồ không tụng chú được thuận lợi, họ có thể viết chú, cho vào túi nhỏ đeo bên người, hoặc treo trên tường nhà. Làm được vậy, người đó suốt đời không bị độc hại.....
Nếu như sau khi ta diệt độ rồi, chúng sanh trong đời mạt pháp, có người tự mình biết tụng, hoặc dạy người khác tụng chú này, nên biết những chúng sanh trì tụng như vậy, lửa sẽ không đốt được, nước không đắm được, các độc lớn độc nhỏ đều không hại được ......
Kinh văn (Hóa giải các ác tinh): Như vậy, cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mị, có những chú dữ đều chẳng làm gì được. Tâm người ấy được chính thụ, tất cả mọi chú trớ, yểm cổ, thuốc độc, kim độc, ngân độc, những độc khí vạn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy đều thành vị cam lộ.
Kinh văn: Tất cả ác tinh cùng với các quỷ thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy cũng không thể khởi lên niệm ác. Tần Na Dạ Ca và các quỷ vương khác, cùng với quyến thuộc, đều nhận lấy ân sâu, thường giữ gìn ủng hộ.
Giảng giải:
Đoạn trước có nói về các loại độc khi vào miệng người trì tụng chú Lăng Nghiêm thì nó thành vị cam lồ. Căn bản là những loại độc đó đã biến đổi vị, sự biến đổi ấy là do người trì tụng chú Lăng Nghiêm. Tât cả ác tinh liên hệ với nhiều sao dữ như Trư Đầu và Bạch Hổ tinh, hoặc sao Tượng Ti rất xấu, có thể gây chết người. Nhưng các loại sao ấy không thể gây hại, cùng với các quỷ thần, lòng dữ hại người. Có người nói họ không tin có quỷ. Họ không thấy nên không tin, nếu nhìn thấy, họ không thể không tin, cho dù có không muốn tin cũng phải tin thôi. Lòng dữ là một loại thuốc độc rất nguy hại, nhưng nó có ngấm vào tim một người trì chú Lăng Nghiêm cũng sẽ chẳng gây hại gì, cho nên đối với người ấy cũng không thể khởi lên niệm ác. Sự độc hại trong tim người đó đã được chuyển hóa.
Tần Na Dạ Ca (Vinayaka) được nói đến trong phần Bồ đề đạo tràng, đây là vị quỷ thần thường hiện thân mình người, đầu heo hoặc đầu voi, trông rất dữ dằn, xấu xí. Và các quỷ vương khác, cùng với quyến thuộc, đều nhận lấy ân sâu, thường giữ gìn ủng hộ. Các quỷ vương và thần Hộ pháp thấm nhuần lòng từ sâu xa của Phật trong quá khứ nên thảy đều ra sức gìn giữ, bảo hộ người tụng chú Lăng Nghiêm này.....
Thiện nam tử đó, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoạc giữ, hoặc dùng nhiều cách cúng dường thần chú này thì kiếp kiếp không sinh vào các nơi bần cùng hạ tiện, không thể ưa thích.
Vậy nên, có thể khiến cho người phá giới mà giới căn cũng được thanh tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới, người chưa tinh tấn, khiến cho tinh tấn, người không trí tuệ, khiến được trí tuệ, kẻ chẳng thanh tịnh, chóng được thanh tịnh, kẻ chẳng giữ trai giới, tự thành có trai giới.
Lại có thể trấn được tất cả các ác tinh, chúng tùy nơi mà biến ra nhiều điều quái dị, tai chướng không khởi lên, người không chết bất ngờ, chết yểu, gông cùm, xiềng xích không mang vào thân, ngày đêm ngủ yên, thường không ác mộng.
A Nan, cõi ta bà này có tám mươi bốn nghìn ác tinh tai biến, hai mươi tám đại ác tinh làm thượng thủ, lại có tám đại ác tinh làm chủ, xuất hiện trên đời với nhiều hình dạng, có thể sinh ra các tai nạn kỳ dị cho chúng sinh.
* Lợi ích còn dài, mời xem kỹ trong kinh văn (Nguồn: Kinh Thủ LN 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thang tiến hóa (The scale of evolution): Đạo sinh nên tập cho quen với sự thật rằng tiến lên (rising in) trên thang tiến hóa không phải là chính mình di chuyển (move) từ chỗ này đến chỗ khác mà chỉ là làm cho chính mình ngày càng có thể nhận được nhiều ấn tượng (impressions) hơn. (MTNX, 129–130)
+ Các mức độ Giác ngộ: Đức Phật nói "Như thế cho đến...". HT Tuyên Hóa giảng: Có nghĩa là các mức độ của giác ngộ, từ lục độ cho đến thập trụ, thập tín, thập hạnh, thập hồi hướng và thập địa; cho đến cả quả vị Phật, đều được bao gồm trong không Như Lai tạng. Từ các giai vị của hàng Bồ-tát đến quả vị Phật phải cần rất nhiều thời gian, và cần rất nhiều công hạnh tu tập, nhưng tất cả đều là không, quả vị Phật cũng là không.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Các giai đoạn tiến hóa:
4- Năm giai đoạn tiến hóa: Cuộc sống của phàm ngã đang tiến hóa có thể được chia làm 5 phần. Mỗi bậc được đo lường bằng tình trạng của Ngọn lửa Tinh thần ẩn bên trong. Như tôi đã nói cùng các bạn, theo quan điểm của Thánh đoàn thì chúng ta được đo lường bằng ánh sáng của chính mình.
- Giai đoạn đầu: Người thoát kiếp thú trở thành sinh linh biết suy nghĩ, thời lemuria và đầu Alantis, từ bé - 7 tuổi. Thể dục vọng đồng hóa thể xác. Ngọn lửa trong Tâm như đầu Kim, chỉ L.Xa đáy cột sống hoạt động (3 Chiều).
- Giai đoạn 2: Người thời Alantis phát triển, từ 7 - 14 tuổi. Thể dục vọng và thể xác chỉnh hợp. Ngọn lửa trong Tâm nở lớn hơn, nhưng vẫn nhỏ. Luồng Hòa xà Kundalini kích thích Luân xa Tùng Thái dương và L.xa tương ứng trong thể tình cảm hoạt động chậm.
- Giai đoạn 3: Người có thể Trí bắt đầu phát triển, từ 14 - 28 tuổi. Thể nguyên nhân ngày càng tròn đầy, cân đối. Ánh sáng Chân Ngã nội tâm chiếu từ trung tâm đến ngoại vi, thắp sáng thể Nguyên nhân, dấu hiệu bùng cháy. Sự ham muốn hướng lên cao => Chí nguyện. Chân ngã ngày càng tỉnh thức trên cảnh giới của mình và ngày càng quan tâm đến cuộc sống của Phàm ngã. Bây giờ ngọn lửa thiêng Kundalini lên đến luân xa tim, và cả ba luân xa đều xoay trong sự hòa hợp, nhịp nhàng và trật tự.
- Giai đoạn 4: Từ 28 - 35 tuổi. Phàm Ngã hoàn toàn điều hợp. Tham thiền thần bí đã bắt đầu. “Tôi sẽ vươn lên và về với Cha tôi.” Đây là kết quả của lần tham thiền thứ nhất. Con người giờ đây là một sinh linh có tình cảm, biết suy nghĩ và chủ động, và đang hữu thức chuyển sự phân cực từ cuộc sống Phàm ngã sang Chân ngã => Dự bị, Đệ tử. L.Xa cổ họng được kích thích. Ánh sáng rễ bừng lên thành ngọn lửa, ở trong tầm nhìn của Chân sư đang thiết tha tìm kiếm.
- Giai đoạn 5: Bắt đầu Tham thiền huyền môn, Phàm ngã đã cảm được sự rung động của Chân ngã, đến giai đoạn cuối này trở thành Chân ngã chứ không còn là Phàm ngã nữa. Nguyên tử trường tồn hồng trần bị bỏ đi, và sự phân cực trở thành của thượng trí. Nguyên tử trường tồn thể tình cảm bị bỏ đi và sự phân cực lên đến thể bồ-đề (trực giác). Nguyên tử trường tồn hạ trí bị bỏ đi và sự phân cực lên đến atma (thể tinh thần). Bấy giờ, con người trở thành một Chân sư Minh triết, được tượng trưng ở tuổi 42, mức trưởng thành hoàn hảo trong Thái dương hệ.
- Giai đoạn 6: Tương ứng 42 - 49 tuổi, giai đoạn hành giả có thể được điểm đạo lần 6 và lần 7, cao cùng tột. (Nguồn: Cấu tạo con người 7 - Các Giai đoạn tiến hóa của Phàm Ngã)
+ 5- Diễn trình tiến hóa: Giống như trong mọi biểu lộ (manifestation), diễn trình tiến hóa là kết quả của ý muốn (desire), tác động lên các khả năng sáng tạo (creative faculities) và tạo ra những gì biểu lộ ra ngoại cảnh (objective). (LVLCK, 924)
+ 8- Mức Tiến Hóa: Nhờ Nghiên Cứu các Thập Giá, Chiêm Tinh Gia biết ai đó đang ở đâu trên đường tiến hóa. Mỗi Thập giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (Là các biến phân ba mặt của sự sống duy nhất):
1- Thập Giá Cơ Bản ‒ Aries, Cancer, Libra, Capricorn:
a. Về con người thông thường, cá biệt.
b. Về các cội nguồn tập thể.
c. Về ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 1.
2- Thập Giá Cố Định ‒ Taurus, Leo, Scorpio và Aquarius ‒ y sẽ đi đến lý giải chính xác về các sự sống:
a/ Của các điểm đạo đồ.
b/ Của sự thu hút tập thể thành tổng hợp.
c/ Của ý nghĩa về cuộc điểm đạo thứ 3.
3- Thập Giá Khả Biến ‒ Gemini, Virgo, Sagittarius và Pisces ‒ y có thể đi đến ý nghĩa:
a/ Của các đệ tử.
b/ Của hoạt động tập thể.
c/ Ý nghĩa của cuộc điểm đạo thứ 2.
Các nội dung tiến hóa khác, rất nhiều (Nguồn: Chân Sư DK - CTHNM, 379, 380)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa
Xem thêm: Tổng hợp về Tâm thức
+ Kiến tánh: Có năng giác sở giác mới thành bệnh.[71] Nếu bổn giác không ở trong bệnh, đây mới thật là nhận ra tánh thấy (kiến tánh). Sao còn gọi nó là thấy, nghe, hay, biết? Giảng:
Có năng giác sở giác mới thành bệnh. Nếu bổn giác không ở trong bệnh, đây mới thật là nhận ra tánh thấy (kiến tánh).
Ý nầy cũng như đoạn kinh văn trước: Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến – Khi thấy (biết) được tánh thấy, thì tánh thấy không phải là cái (bị) thấy. Cái biết được mắt bệnh của ông bệnh tự nó chẳng hề thiếu sót sai lầm. Đó chính là cái biết chân thật của ông. Cái thấy chân thật của tánh thấy. Cái thấy thiếu sót sai lầm là như khi đang ở trong nước mà không thấy nước. Như sinh vật trầm mình trong nước mà không biết đến nước. Cái gì tách rời hẳn nước mà có thể thấy được đó là nước thì gọi là cái thấy chân thực.
Cái thấy sáng suốt, biết được bệnh, không phải là cái thấy thiếu sót sai lầm. Chỉ khi ông tách rời hẳn những thiếu sót sai lầm mà vẫn thấy biết được. Thì đây chính là cái biết chân thực.
Sao còn gọi nó là thấy, nghe, hay, biết?
Sao ông vẫn còn muốn đắm chấp nơi các giác quan kia mà tìm cầu sự phân biệt? Đây chính là cái thấy. Còn cái thấy nào khác để ông tìm kiếm nữa?
Chúng ta không nên lấy vọng làm chân. Cũng không nên biến chân thành vọng. Quả thật nếu nhận kiến văn giác tri làm tâm, thì sẽ bị kiến văn giác tri che mờ, không thể nào nhận ra thể của tánh thấy giác ngộ sáng suốt (kiến tinh giác minh). Phải biết rằng chân tâm vốn tách rời, chẳng phải kiến văn giác tri, cũng chẳng thuộc về kiến văn giác tri. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q2 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kiến Tánh: ... Sư lại nói: Thấy tánh là công, giữ lòng bình đẳng là đức. Niệm niệm tâm không ngưng trệ, thường thấy Bổn tánh, diệu dụng chơn thật, ấy gọi là công đức. Bên trong giữ lòng khiêm hạ là công, bên ngoài hành động theo lễ là đức. Tánh mình lập ra muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm trần là đức. Muốn tìm cái công đức Pháp thân, thì phải y theo đây mà tu hành. Thế mới là thiệt có công đức.
Giảng: Lục Tổ Đại sư lại nói: Công đức là gì? Kiến tánh là công, thấy tự tánh bổn lai của mình, thấy diệu tánh quang minh vốn có của mình. Nếu quý vị có công phu, thì có thể kiến tánh. Ví như ngồi thiền, ban đầu miễn cưỡng sau đó trở thành tự nhiên, lúc vừa mới ngồi thiền cảm thấy chân đau lưng nhức, nhưng lúc quý vị hàng phục, chiến thắng được cái chân nhức này, khi chân không còn đau nhức nữa, đó chính là công phu, chân vẫn còn đau thì không có công. Kiến tánh là gì? Tức là nhìn thấy bổn lai diện mục của mình, nhưng đòi hỏi quý vị phải tự mình tìm kiếm, tôi không thể nói với quý vị được. Nếu tôi nói cho quý vị nghe, đó vẫn là cái đắc từ bên ngoài. Quý vị cần phải tự tánh tự ngộ mới có thể được, nhưng sau đó cần phải do Thiện tri thức ấn chứng quý vị mới được, chớ không thể tự phong mình là quốc vương, là Bồ Tát. Giống như một kẻ hippy lúc trước đến đây, hút thuốc phiện làm cho đầu óc quay cuồng, rồi nói mình là Bồ Tát, thật ra đó chính là ma quỷ.... (Nguồn: Trích Lục Tổ Huệ Lăng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thấy Chân Ngã: HỎI: Con người sau khi chết rồi, thân thể bị thiêu ra tro, lúc này cái ngã lại đi về đâu?
ĐÁP: Muốn tìm cái ngã này, cái chân ngã của tự tánh thì phải tham thiền nội tình, nội uẩn cho thật tinh tế. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị Q.3)
+ Hoa sen Chân Ngã (Egoic lotus): X. Chân Ngã liên hoa
+ Chân Ngã liên hoa: Tức là linh hồn thể (soul body). (ĐĐTKNM, 763)
Câu 37 Chú Đại Bi: Thất na thất na
+ Câu Thần Chú Đại Bi số 37. Thất na thất na:
Câu chú này được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô minh.
Quang minh là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn.
Những người có trí tuệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt được trí tuệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy.
Nhưng quý vị không thể nào biết rõ việc làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị không thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự non yếu trí tuệ.
Ồ! Không – Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!
Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nghĩa là:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.
Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không có trí tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:
Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng
Nghĩa là:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.
Khi trong công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì nước trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực vậy, khi một người không còn bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại trí tuệ.
Người có trí tuệ thường thành công trong bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí tuệ thường bị thất bại trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ là vô cùng quan trọng.
Ngu muội là gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì rõ:
- Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời:
- Tôi không rõ nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:
- Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì không có trí tuệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn được ví như thanh gươm.
Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý vị đã cầm lên rồi!
Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy, thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái gì là thế giới y báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi sự vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đã tụng một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ của quý vị chiếu sáng như một đài gương trong.
Người có trí tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Mặc dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí tuệ chân chính thì rất hiếm.
Quý vị cũng nên phân biệt rõ trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thế gian. Trí tuệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”. Thực ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.
Cũng vậy, trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người như vậy.
Khi quan sát người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt hay không. Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí tuệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là trí tuệ. Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.
Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng.
Thất na thất na là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.
Thật chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên quý vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông.
Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến.
Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại:
…“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề”.
Nghĩa là:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.
Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Thần Chú Đại Bi)
+ Nguồn gốc can chi và lục thập hoa giáp: Hoàng Đế (Hiên Viên - Tỉnh Hà Nam ngày nay, cách nay hơn 4600 năm) là một vị vua anh minh, ban hành chính sách nhân từ, lập nên những quy tắc, điều lệ, tất cả đều theo một quỷ đạo chung, thống nhất được lưu vực sông Hoàng Hà, bản đồ đất nước dần dần mở rộng. Phát minh ra La bàn chỉ hướng..... Trước thời Hoàng Đế, dân chúng chưa có đồ mặc, nhà ở, chánh phi của Hoàng Đế là Luy Tổ, tình cờ trong rừng dâu phát hiện kén của con tằm, vô ý kéo ra những sợi tơ dài, liền đem tơ tằm dệt thành vải, khâu thành áo quần, đây là bước đầu trang phục của Trung Hoa. Hoàng Đế còn dạy người dân làm nhà ở, làm mồ mả, giải quyết những vấn đề ăn ở đi đứng cho người dân và cả việc tang chế cho người đã chết. Trăm họ được sống trong sự bình an, vui với nghề nghiệp, dân tộc Trung Hoa từ đó bắt đầu bước lên con đường văn minh, công lao của Hoàng Đế thật không thể lãng quên được.
Trong triều có quan Thương Hiệt (có bốn mắt), quan sát các hiện tượng trên trời và các địa hình của đất, xem kỹ các vết tích bay nhảy của cầm thú chim muông, linh cảm sáng tạo ra chữ tượng hình và ‘Lục thư’ (xem chú thich [1]) từ đó Trung Hoa bắt đầu có chữ viết. Trước thời gian đó, người ta chỉ biết đùng giây kết bằng cỏ rồi đánh dấu cho một sự kiện, việc lớn kết làm mối lớn, việc nhỏ kết làm mối nhỏ. Bắt đầu từ đây mới dùng ký hiệu chữ để ghi chép.
Một vị quan khác tên là Đại Nạo, lại phát minh ra phương pháp dùng Thiên can Địa chi để tính tháng ngày, lập ra Giáp tử. 10 Thiên can gồm: giáp, ất, bính , đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí; 12 Địa chi gồm: tý, sữu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Lấy Thiên can phối hợp với Địa chi mà tính, 60 năm là hết một vòng chu kỳ, gọi là một Giáp tử (Sexagenary Cycle or sixty-year cycle). Dùng cách này để ghi sự xoay chuyển của tháng ngày thật là tiện lợi, cho đến hơn 4000 năm sau vẫn còn có người sử dụng cách tính toán ấy. Hoàng Đế còn sắc lệnh cho Linh Luân định ra Luật Lữ (tức là luật âm nhạc), Dung Thành tạo ra lịch pháp, Hoàng Đế còn đích thân tìm hiểu nghiên cứu y thuật với Kỳ Bá, nhà y thuật nổi tiếng thời ấy, từ đó mà có cuốn sách y học “Hoàng Đế Nội Kinh” ra đời. Từ đó chỉ dạy cho nhân dân, nước nhà càng thêm hưng thịnh, trăm họ thân cận, thiên hạ một lòng. Ân đức của Hoàng Đế thấm nhuần, đến nay đã ngót 5000 năm, con cháu dân tộc Trung Hoa vẫn còn nương nhờ đức ấy. Có thể tôn xưng là bậc thánh quân đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. ... (Nguồn: Thủy Kính Hồi Thiên Lục_HT Tuyên Hóa)
+ Âm dương hòa hợp biến hóa thành vật chất:
Ví dụ Nước có nhiều trạng thái, mầu sắc, là chất lỏng khi nhiệt độ ấm, là chất hơi khi nhiệt quá nóng, là chất đặc/ Nước đá khi nhiệt suy yếu.
Nước với nhà Hóa học là H2O. Là Hydro và O xy kết hợp lại thành nước.
Nguyên tử Hydro và Ô xy có cấu tạo nên từ điện tử dương và âm.
Con người trong không gian sống bằng Ô xy, con Cá sống bằng nước, loài ngã quỷ thấy nước là máu. Cõi Thiên thấy Nước là Lưu Ly (HT Giác Khang giảng)
Tùy theo Tâm chúng sinh mà nước nhìn thấy là vật chất khác nhau.
+ Hóa giải - Đối trừ/ Bù trừ nghiệp bệnh nạn: Một khái niệm về xung đột lâu đời, về bảy nguồn năng lượng lớn biểu hiện dưới dạng nhị nguyên và tạo ra khi neo giữ trong một cơ thể (cho dù đó là một hành tinh, một con người hay một nguyên tử) một khu vực hoặc chu kỳ đau khổ, như người ta gọi; [295] ... Những năng lượng này chảy qua bảy trung tâm của cơ thể hành tinh và - theo như chúng ta biết - là bảy năng lượng tia. Liên quan đến ý chí gây hại có thể và thực sự biểu hiện như bệnh tật trong cả bốn vương quốc trong tự nhiên, bạn có lý do tại sao tôi thiết lập, trong số các sinh viên bí truyền mà tôi đã tự mình chịu trách nhiệm, sự phát triển của sự vô hại. Đó là tác nhân chính để bù trừ nghiệp quả. Ở đây tôi sẽ cung cấp cho bạn Định Luật IX, và do đó hoàn thành một nhóm định luật mà khi tuân theo, sẽ thấy là thiết yếu để chữa khỏi bệnh tật và duy trì sức khỏe.... ĐỊNH LUẬT IX:
Sự hoàn hảo gọi sự không hoàn hảo lên bề mặt. Cái thiện luôn đẩy cái ác ra khỏi hình dạng con người trong thời gian và không gian. Phương pháp mà Đấng Hoàn Hảo sử dụng và phương pháp mà Cái Thiện sử dụng là sự vô hại. Đây không phải là sự âm cực mà là sự cân bằng hoàn hảo, một quan điểm hoàn thiện và sự hiểu biết thiêng liêng.... (Nguồn: Chữa bệnh nội môn, Tr 295)
+ Một phương pháp hóa giải nghiệp xấu ác toàn diện nhiệm mầu:
Hôm nay tôi xin truyền cho quý vị một yếu quyết. Ðó là yếu quyết để áp dụng trong giờ phút thật khẩn cấp. Gặp những trường hợp đó chúng ta phải giữ bình tĩnh, đừng hốt hoảng, chuyện sống chết hãy tạm gác một bên, một lòng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì chắc chắn sự hiểm nguy sẽ hóa thành tốt lành, thoát khỏi ách nạn.
Trong giây phút khẩn trương, chúng ta hãy nghĩ rằng: “Ðàng nào cũng chết, vậy trước khi chết ta hãy dốc lòng niệm Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, biết đâu đó là niềm hy vọng.” Hành động như thế, tức là từ hiểm nguy mà gặp may mắn....
Từ các hoạn nạn đột ngột sảy đến, cho đến các ác duyên như bệnh ác, người ác, oán tặc giặc giã ... có thể chết đến nơi, cái chết khó chánh nhưng nếu nhất tâm niệm Ngài Quán Âm thì chắc chắn được cứu. (Nguồn: Xem hướng dẫn của HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA TẠI ĐÂY)
+ Hóa giải nghiệp xấu - Tai nạn:
- Sống đúng luân thường đạo lý - Thuận theo tự nhiên: Đời sống của ta được vô cùng sung sướng, ta cảm thấy mình là người vui sướng nhất thế gian, người hạnh phúc nhất, người mỹ mãn nhất. Ta không có thứ khác, ta hoàn toàn tuân thủ quy luật của đại tự nhiên, nhất quyết không chống lại quy luật của đại tự nhiên. => Quy luật của đại tự nhiên là chí thiện, chí thiện có thể hóa giải tất cả tai nạn. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
+ Hoá Giải Bệnh: Cho dù tai nạn hiện tiền chúng ta cũng không lo sợ, chúng ta cũng không có bất cứ lo lắng nào, dùng cái tâm bình thường để đối diện, việc này rất cần thiết. Không khiếp không sợ, mãi mãi giữ gìn tâm an định, bình lặng thì bạn mới có trí tuệ, có trí tuệ thì bạn mới có thể hóa giải vấn đề, khi bạn loạn lên, thì phiền phức liền đến.
Thí dụ: Một người bệnh ung thư, bệnh ung thư cùng bệnh cảm mạo không có gì khác nhau, việc nhỏ như nhau, người bị bệnh ung thư chết rất nhiều, đều là do sợ mà chết, các vị phải hiểu được cái đạo lí này,
Nếu như họ bị cái bệnh này, bác sĩ tuyên bố với họ, anh chỉ có thể sống được 1 tháng đến 2 tháng, họ nghe rồi thì thế nào? Họ nghe rồi không hề để ý, cũng không còn nghĩ đến bệnh, cũng không muốn đi bác sĩ, thành thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm qua 1 tháng thì không hề gì, khi đi kiểm tra lại thì không bệnh gì cả. Do nguyên nhân gì? Chuyển đổi được ý niệm, đây chính là dùng tâm để khống chế. Bạn không nên nghĩ đến nó, bạn càng nghĩ thì càng phiền phức, nếu bạn không nghĩ sự tồn tại của nó, cũng không nghĩ nó tốt cũng không nghĩ nó xấu, cả thảy đều không nên nghĩ, vậy thì nó không có bất cứ tác dụng gì.
Bạn xem, đem cái ý niệm này chuyển đổi, chuyển thành A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là ý niệm tốt nhất, quên hết đi ý niệm xấu nhất, căn bản là không để ý đến nó, rất nhanh để chuyển đổi tế bào bệnh tật trở lại bình thường, là dùng ý niệm, việc làm này có đạo lý, có lý luận để làm căn cứ, có rất nhiều kì tích đã chứng minh cho chúng ta thấy, việc này không phải là giả. Cho nên ý niệm là chủ tể tất cả, nếu bạn chân thật hiểu thông rồi, tường tận rồi, thì bạn có thể giữ gìn được thanh xuân dài lâu. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Một cách Hóa giải mọi họa tai bệnh nạn và quỉ thần quấy nhiều bằng Phật Pháp nhiệm mầu: Dùng các loại Thần chú trong Phật giáo, tuy nhiên yêu cầu người hóa giải cần sửa đổi tâm tính, ăn chay trì giới để đạt được Tâm thanh tịnh nhất định thì mới nói đến linh nghiệm, cảm ứng nhiệm mầu được (Xem: Giới thiệu Phương pháp Cải mệnh nhiệm mầu)
+ Hóa giải tai nạn: Các thiên tai nhân học, thủy tai, phong tai, hỏa tai, chiến tranh cho đến tai nạn tầu xe, lở đất.... khiến vô số người chết. Những tai nạn như thế phát sinh đều từ tâm con người tạo thành nhưng nhân loại không ai chịu nhận lỗi nơi mình. Nguyên nhân là do sát sinh ăn thịt. Cho nên biện pháp để cải biến hóa giải tai nạn không phí sức, tốn tiền đó là ăn chay, phóng sinh. Như vậy các tai nạn, chiến tranh trên thế giới sẽ tiêu diệt trong vô hình. Tai nạn đều do sát sinh ăn thịt kết thành oán khí , đầy khắp vũ trụ mới hình thành đủ thứ tai nạn như thế. Ăn thịt thì nóng giận, hận thù hừng hực lửa cháy, sinh tâm sân hận không có lòng từ bi. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 338 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Điều khí (Pranayama, chuyển khí) :
1. Nhờ việc điều khí, công việc được thực hiện có thể nói vắn tắt như sau:
Đem lại dưỡng khí cho máu, nhờ đó thanh lọc dòng máu và sau đó làm cho thể xác khỏe mạnh.
Đưa thể xác vào rung động đồng bộ với rung động của thể dĩ thái. Điều này đem lại kết quả là hoàn toàn khuất phục được thể xác trọng trược và làm cho nó hòa hợp được với thể dĩ thái. Hai phần của thể xác hợp lại thành một.
2. Truyền chuyển năng lượng xuyên qua thể dĩ thái đến mọi phần của thể xác trọng trược. (ASCLH, 219–220)
+ Prana - Sinh khí biểu lộ: Các nhà Huyền bí học biết rằng ít nhất có ba lực riêng rẽ và phân biệt do mặt trời xạ ra để đến với hành tinh của chúng ta. Có thể có vô số lực khác vì mọi thứ chúng tôi biết đều ngược lại; nhưng dù sao đi nữa chúng tôi cũng biết có ba loại này. Đó là:
1.- Fohat tức Điện
2.- Prana tức Sinh Khí
3.- Kundalini tức Hỏa Xà.
Fohat tức Điện, bao gồm hầu hết các lực vật lý mà chúng ta đã biết, tất cả đều chuyển đổi được ra lẫn nhau; chẳng hạn như điện, từ, ánh sáng, nhiệt, âm thanh, ái lực hóa học, sự vận động v.v. . .
Prana tức Sinh Khí, là một lực sinh động mà sự tồn tại của nó chưa được các nhà khoa học Tây phương chính thống chính thức công nhận, mặc dù có lẽ một số ít người cũng phỏng đoán về nó.
Kundalini tức Hỏa Xà là một lực mà cho đến nay chỉ rất ít người biết được. Khoa học Tây phương chính thống hoàn toàn không biết tới và không phỏng đoán gì về nó.
Ba lực này vẫn còn riêng rẽ và ở mức này thì không một lực nào có thể chuyển đổi ra thành một trong các lực kia. Đây là một điều rất quan trọng mà học viên nên hiểu cho rõ.
Hơn nữa ba lực này không có liên quan gì tới ba Luồng Lưu Xuất Lớn; các Luồng Lưu Xuất là những nỗ lực nhất định do Thái Dương Thượng Đế thực hiện. Mặt khác, Fohat, Prana và Kundalini dường như đúng hơn là kết quả sự sống của Ngài. Các phẩm tính của Ngài đang biểu lộ mà không có bất kỳ cố gắng hữu hình nào.
[Từ khi tài liệu này được biên soạn thì tác phẩm Các Luân Xa của C.W. Leadbeater đã xuất hiện. Trong quyển Các Luân Xa, nó nêu rõ rằng ba lực kể trên có liên quan tới các Luồng Lưu Xuất như sau:
Luồng Lưu Xuất thứ Nhất xuất phát từ Thượng Đế Ngôi Ba, là lực Nguyên sơ chế biến các nguyên tố hóa học. Điều này dường như là Fohat. Luồng Lưu Xuất thứ Nhì xuất phát từ Thượng Đế Ngôi Hai, có Prana là một trong những khía cạnh. Kundalini là sự phát triển thêm nữa trên vòng cung đi lên của Luồng Lưu Xuất thứ Nhất.].
Mỗi một trong những thứ này đều biểu lộ trên mọi cõi của Thái Dương Hệ
Prāna là một từ Bắc phạn có ngữ căn là Pra tức là ra, và an tức là thở, vận động, sinh hoạt. Như vậy, Pra-an tức Prana có nghĩa là thở ra (breathe forth), sinh khí (life-breath) hoặc năng lượng sự sống (life-energy) là từ tương đương gần nhất trong tiếng Anh so với thuật ngữ tiếng Bắc phạn. Bởi vì theo tư tưởng Ấn Độ, chỉ có một Sự Sống duy nhất, một Tâm Thức duy nhất, cho nên Prana đã được dùng để chỉ Tự ngã Tối Cao, năng lượng của Đấng Nhất Như, Sự Sống của Thượng Đế. Vì thế cho nên Sự Sống trên mỗi cõi có thể được gọi là Prana của cõi ấy, Prana trở thành sinh khí trong mọi tạo vật.
Đấng Indra, vị đại Thiên Thần đứng đầu huyền giai sự sống trong hạ giới dạy rằng: “Ta là Prana . . . Prana là sự sống”. Ở đây Prana rõ ràng có nghĩa là toàn thể sinh lực. Trong tác phẩm Mundakopanishad, người ta nêu rõ rằng Prana tức Sự Sống xuất phát từ Brahman tức Đấng Nhất Như. Prana cũng được miêu tả là Atma trong hoạt động hướng ngoại: “Prana này sinh ra từ Atma” (Prashnopanishad). Shankara nói rằng Prana là Kriyashakti – Quyền năng để làm chứ không phải để biết. Nó được xếp loại là một trong bảy Nguyên tố tương ứng với bảy cõi của vũ trụ, bảy lớp vỏ của Brahman v.v. . . Đó là Prana, Manas, Dĩ thái, Hỏa, Phong, Thủy, Địa. ..... (Xem nguồn: Năng lượng vũ trụ biểu lộ)
+ "Thể dĩ thái" rất phức tạp - Cần suy ngẫm: .... Tôi tự hỏi không biết bạn có thể nắm bắt được ít nhất một phần và một cách tượng trưng sự thật rằng các tam giác (Đại và tiểu Thiên địa/ Con người) này ... Chúng phải được xem như đang chuyển động nhanh chóng, luôn luôn xoay tròn trong không gian và không ngừng di chuyển về phía trước, và như là có sự kéo dài bề đo thứ tư và thứ năm. Không có cách nào để mô tả chúng ... vì chỉ có con mắt bên trong của linh thị mới có thể tưởng tượng ra sự tiến triển, vị trí hay dáng vẻ của các tam giác đó. .... Do đó, toàn bộ mạng lưới vũ trụ và thái dương hệ là một loạt các tam giác phức tạp, luôn luôn chuyển động, đan vào nhau, trong đó mỗi điểm của một tam giác phóng xuất ra ba tuyến (lines) hay luồng năng lượng (tất cả là chín), nó cũng đáp ứng với và tiếp nhận các năng lượng – cũng tam phân trong thiên nhiên – vốn ở trong chu vi hoặc là lĩnh vực ảnh hưởng và hoạt động rung động của nó.
Thật là vô ích cho các nhà nghiên cứu khi cố gắng tháo/lần ra manh mối (unravel) tập hợp các dòng năng lượng đang trộn vào nhau này. Tất cả những gì hiện nay có thể xảy ra đối với con người với thiết bị hiện có của y là chấp nhận dựa trên giả thuyết các diễn đạt về một vài tam giác chính yếu đang ảnh hưởng đến nhân loại, và tìm cách chứng minh ảnh hưởng của chúng, và cố gắng đi đến một số hiểu biết về mạng lưới phức tạp, đan dệt vào nhau mà chính y sở hữu và y gán danh xưng là “thể dĩ thái” (“etheric body”) cho mạng lưới này. (Nguồn: Chiêm tinh học NM)
+ Tuân thủ những định luật để phòng, trị bệnh = Sức khỏe hoàn hảo: Một khái niệm về xung đột lâu đời, về bảy nguồn năng lượng lớn biểu hiện dưới dạng nhị nguyên và tạo ra khi neo giữ trong một cơ thể (cho dù đó là một hành tinh, một con người hay một nguyên tử) một khu vực hoặc chu kỳ đau khổ, như người ta gọi; [295] sự đau khổ này tạo ra động lực tiến hóa và chính nó là nguyên nhân của sự biểu lộ, trong khi tác động của nó (là nghiệp quả) là sự giải thoát cuối cùng của sự hoàn hảo và tốt đẹp. Những điều này không dễ hiểu. ...
Những năng lượng này chảy qua bảy trung tâm của cơ thể hành tinh và - theo như chúng ta biết - là bảy năng lượng tia. Liên quan đến ý chí gây hại có thể và thực sự biểu hiện như bệnh tật trong cả bốn vương quốc trong tự nhiên, bạn có lý do tại sao tôi thiết lập, trong số các sinh viên bí truyền mà tôi đã tự mình chịu trách nhiệm, sự phát triển của sự vô hại. Đó là tác nhân chính để bù trừ nghiệp quả. Ở đây tôi sẽ cung cấp cho bạn Định Luật IX, và do đó hoàn thành một nhóm định luật mà khi tuân theo, sẽ thấy là thiết yếu để chữa khỏi bệnh tật và duy trì sức khỏe. ... (Nguồn: Chữa bệnh nội môn, tr 295)
+ THÁI CỰC: Nguồn gốc Sinh khởi Nhị nguyên - Các cặp đối lập
1- Dịch học Đông phương - Pháp Thế gian:
+ Thái cực: Lão Tử viết: Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.... Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu. [Thái cực là đồng. Phật giáo có Hư không là đồng - Thế giới là dị => Thái cực đồng nghĩa Hư không_Lời Nhân trắc học]
Lão Tử giảng về chữ Đạo và chữ Đức của Pháp Thế gian và Xuất thế gian. (Nguồn: Đạo là gì - HT Tuyên Hóa)
+ Vô cực sinh Thái cực: Thái cực sinh Lưỡng nghi => Sinh Tứ tượng => Sinh Bát quái ... Sinh không ngừng, vô cùng tận => Tạo ra sự khác biệt từ MỘT THỂ TÁNH.
2- Theo Minh Triết Thiêng Liêng - Nhị nguyên nguyên thủy và thứ cấp:
+ Thái cực: Thái cực, trên nguyên tắc là một Thực Thể (Không gian là một Thực thể_Chân sư), không dính dấp gì đến những liên hệ nhân quả của Thế giới hiện tượng. Chỉ khi nào đề cập đến Linh Hồn của vũ trụ nội tại (intra-cosmic Soul), tức Vũ Trụ lý tưởng còn trong Tư Tưởng Thiêng Liêng bất biến, ta mới có thể nói rằng: “Nó không bao giờ có lúc khởi thủy và cũng không bao giờ có lúc cáo chung”. Còn nói về phần sắc tướng hay tổ chức cơ cấu của vũ trụ, tuy người ta không thể nói rằng trong dĩ vãng đã từng có một cuộc tạo dựng đầu tiên, hoặc trong tương lai sẽ có một cuộc tạo dựng cuối cùng, nhưng ở vào mỗi chu kỳ Khai Nguyên mới (Manvantara), cơ cấu tổ chức của vũ trụ có thể coi như một cơ cấu mới mẻ nhất và cũng độc đáo nhất vì mỗi lần như vậy, nó lại tiến hóa trên một cõi cao hơn. (Giáo lý bí nhiệm - Q1)
- Nguyên thủy (Primordial duality): Tinh thần và vật chất (Spirit and matter).
- Thứ cấp (Secondary duality): Linh hồn và thể xác (Soul and body). (TLHNM II, 381)
* Cặp Nhị nguyên: Theo triết học Đông phương thì trong thiên nhiên, mọi vật đều có tiềm phục hai yếu tố đối hợp như: nóng với lạnh; nước với lửa; không với có; âm với dương; tịnh với động vv… Các yếu tố đối hợp này va chạm nhau, xô đẩy nhau, tìm kiếm nhau để rồi điều hòa với nhau mà hợp lại, sinh ra cái mới. Hợp thể mới này dần dần phân hóa, tạo ra hai thể mới để lại tác động nhau, rồi hợp lại với nhau, cứ diễn biến như thế mãi để đưa tới tiến hóa.
Chú ý: Đối hợp không phải là đối lập hay mâu thuẩn. Đối lập hay mâu thuẩn thường hàm ý là chống đối nhau, còn đối hợp chẳng những không chống đối, mâu thuẩn nhau mà còn sóng đôi nhau, nương tựa nhau, hòa hợp nhau để tạo ra cái mới. (Chú thích của người dịch)
+ Năng lượng 7 cung biểu lộ nhị nguyên: Một khái niệm về xung đột lâu đời, về bảy nguồn năng lượng lớn biểu hiện dưới dạng nhị nguyên và tạo ra khi neo giữ trong một cơ thể (cho dù đó là một hành tinh, một con người hay một nguyên tử) một khu vực hoặc chu kỳ đau khổ, như người ta gọi; [295] .... Những năng lượng này chảy qua bảy trung tâm của cơ thể hành tinh và - theo như chúng ta biết - là bảy năng lượng tia. .... (Nguồn: Chữa bệnh nội môn)
3- Pháp xuất Thế gian - Phật pháp:
+ Tánh giác và Hư không: .. Phật nói về Tánh giác sinh năng sở (Vọng năng/ Năng minh và Vọng sở/ Sở minh): “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng/ Năng minh nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới.... có kim luân giữ gìn cõi nước ...có hỏa đại..... có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh.
Ngoài tứ đại còn có không đại, kiến đại và thức đại. Vì không đại là phản ánh của chơn không. Kiến đại là chỗ lưu lộ của chân như, thuộc năm hiện lượng. Nó chính là phần Năng kiến nói trong luận Khởi Tín, là phần Kiến tinh nói trong kinh Lăng Nghiêm. Thức đại là để biết do đâu có sự phân biệt cảnh.... (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên hay tự nhiên - Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Theo Pháp ĐẠI THỪA Phật Giáo, đức Phật giảng về Tánh Giác/ Phật Tánh/ Chân Tâm/ Tâm bản nguyên/ Như Lai Tạng ... vốn Diệu minh bao trùm không cùng tận khắp Pháp giới Chúng sinh, chỉ vì sinh Khởi Vọng tưởng muốn Minh Giác => Soi lại Tánh giác Diệu minh => TÁNH GIÁC biến thành cặp đối lập gồm Vọng giác - Vọng minh kết dinh => Phát ra ÁNH SÁNG và làm mất Bản THỂ thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu;
(Trích giảng: A-nan, sáu căn như vậy do tánh giác minh soi lại tính minh giác. Làm mất tính sáng suốt kia, kết dính với cái vọng mà phát ra ánh sáng. (chỉ vì qua sự sinh khởi một niệm vọng tưởng muốn soi lại tánh giác minh mà TÁNH GIÁC ấy biến thành Vọng giác và Vọng minh – kết quả là, bản thể bị mất đi; và do kết dính vào cái vọng, ánh sáng của tánh thấy trở thành hiện hữu. Điều này tạo ra những tác dụng riêng biệt của tánh thấy, tánh nghe và các tánh khác. Đó thuộc về quang minh của thức thứ tám_HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q4)
+ Xem thêm: Tương tác các cặp đối nghịch và đối hợp
+ Làm người có 20 điều khó - Đức Phật dạy rằng:
1- Nghèo khổ bố thí là khó
2- Giàu sang học đạo là khó
3- Bỏ thân mạng vì lẽ phải là khó
4- Hiểu được và thông suốt kinh Phật là khó
5- Sinh cùng thời với Phật và gặp Phật là khó
6- Nhẫn chịu được sắc dục là khó
7- Thấy tốt đẹp không ham cầu là khó
8- Bị nhục mà không oán hờn là khó
9- Có thế lực không cậy uy quyền là khó
10- Đối cảnh tâm không lay động là khó
11- Học rộng, nghiên cứu nhiều là khó
12- Trừ diệt cống cao ngã mạn là khó
13- Không khinh khi người chưa học là khó
14- Thực hành tâm bình đẳng là khó
15- Chẳng nói phải trái là khó
16- Gặp được thiện tri thức là khó
17- Học đạo, kiến tánh là khó
18- Tùy duyên hóa độ là khó
19- Thấy cảnh vô tâm là khó
20- Khéo biết phương tiện độ sinh là khó
Xem nguồn: Phật dậy Làm người có 20 điều khó
+ Điều khó ở đời: ... Có mười hai điều khó: Một là làm việc với người ngu; Hai là yếu đuối chống lại được với sức mạnh; Ba là thù nhau mà ở chung một nhà; Bốn là học ít mà đứng ra nghị luận; Năm là nghèo hèn mà trả nợ; Sáu là ra trận không có tướng sĩ; Bảy là thờ vua trọn đời; Tám là học đạo mà thiếu mất tín tâm; Chín là làm ác mà muốn được quả báo đẹp; Mười là sinh ra đời gặp Phật; Mười một là nghe được chánh pháp của Phật; Mười hai là làm theo được chánh pháp ấy mà thành tựu . Đấy là mười hai cái thật khó. Kinh dạy: "Được làm người là khó, gặp Phật ra đời là khó, được nghe giáo pháp của Ngài là khó, vâng làm theo được giáo pháp ấy thật là khó."(Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Hành Tinh Thượng Đế: Nói chung, thuật ngữ này được dùng cho 7 Đấng cao cả nhất tương ứng với 7 Nhất Đẳng Thiên thần (Archangels) của Cơ Đốc giáo. Tất cả các Ngài đều đã trải qua giai đoạn nhân loại và hiện nay đang biểu lộ qua một hành tinh và các mức tiến hóa của hành tinh đó, giống như cách con người biểu lộ qua thể xác của mình vậy. Vị Hành Tinh Thượng Đế cao nhất hoạt động qua bất cứ bầu hành tinh (globe) đặc biệt nào, thực ra là vị Thượng Đế riêng (personal God) của hành tinh ấy.
* Trong hành tinh, hay Hành Tinh Thượng Đế: Nói chung, những gì được đưa ra liên quan tới Thái Dương Hệ đều có thể được xác định đối với mọi hành tinh mà bản chất của chúng là hình ảnh phản chiếu của thái dương, người anh cả của chúng. (ĐĐNLVTD, 222)
+ Hành Tinh Thượng Đế: Đức DK gọi các Hành Tinh Thượng Đế là các Thiên Nhân (Heavenly Men), trong khi Ngài gọi đức Thái dương Thượng đế là Đại Thiên Nhân (Grand Man of the Heaven). Đấng cao hơn nữa Ngài gọi là Cosmic Logos (Vũ Trụ Thượng đế). Ngài cũng hay dùng từ Đấng Mà Chúng Ta Không thể Nói Gì Cả (The One About Naught May Be Said) để chỉ Cosmic Logos, hoặc đôi khi là đấng còn cao hơn đó nữa là Cosmic ParaBrahman. Trong giới Huyền Linh học hay viết tắt tên gọi One About Naught May Be Said thành OABNMBS để chỉ Đấng Không Thể Nghĩ Bàn, Đấng Bất Khả Tư Nghị. Chúng tôi sẽ trích từ A Treatise On Cosmic Fire các đoạn sau đây nói về Hành Tinh Thượng Đế, kèm theo đó là các diễn giải:
Mỗi Hành Tinh Thượng Đế được xem như có dạng hình cầu [12]. Cũng giống như hạt nguyên tử và con người, Ngài có vòng giới hạn (ring-pass-not) của Ngài. Vòng giới hạn này bao gồm toàn thể hệ thống hành tinh. [13] Trong trường hợp của Ngài, bầu vật chất trọng trược của bất cứ một dãy hành tinh nào cũng tương tự như thể hồng trần của một người và hạt nguyên tử trên cõi trần. Mỗi hệ thống tiến hoá gồm 7 dãy hành tinh là biểu hiện của sự sống của một Thực Thể sử dụng nó cho mục đích hiển lộ nhằm hoạch đắc kinh nghiệm, giống như con người đối với thể xác của y. [14]
Một Hành Tinh Thượng Đế chứa đựng bên trong chính Ngài những gì tương ứng với tế bào bên trong các hiện thể biểu lộ của con người.......
Bảy Hành Tinh Thượng Đế, được xem như có liên quan đến Đấng Cao Cả mà Thái Dương Thượng Đế là một phản ảnh của Ngài, có vai trò như là bảy trung tâm lực trong thể xác con người. Điều này sẽ được hiểu rõ khi sự tương đồng giữa cõi hồng trần vũ trụ và cõi hồng trần Thái dương hệ được nghiên cứu. [18] Do đó, ba trong các trung tâm lực này
– Liên hệ đến các trung tâm lực thấp của Đấng Thực Thể Vũ Trụ. [19]
– Có sự tương đồng của chúng trên các cõi chất đặc, chất lỏng và chất hơi.
– Hiện nay đang là mục tiêu chú tâm của hỏa xà vũ trụ. [20]
* [18] Đối với đức Thái dương Thượng đế thì các Hành Tinh Thượng Đế lại tạo thành chính là các luân xa hay các Trung tâm lực bên trong cơ thể của đức Thái dương Thượng đế. Đây là điểm đặc biệt quan trọng mà các bạn cần nhớ.
* [19] Ba Trung tâm lực thấp là các luân xa tùng thái dương, luân xa xương cùng và luân xa đáy cột sống.
* [20] Trong Thái dương hệ cũng có luồng xà hỏa Kundalini tương tự như trong con người. Đức DK nói rằng luồng xà hỏa Kundalini Thái dương đang kích hoạt các luân xa thấp là luân xa xương cùng, luân xa tùng thái dương, luân xa đáy cột sống.
Như vậy, các bạn thấy định luật tương đồng “trên sao, dưới vậy” thể hiện ra sao trong trường hợp thái dương hệ và con người..... (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 10 - Thông Thiên Học)
+ Tứ nguyên: c. Một trong các trung tâm lực này tương ứng với luân xa tùng thái dương, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp, như thế tạo thành một Tứ nguyên (bộ bốn – quaternary). [21] Đức DK nói rằng “Một trong các trung tâm lực này (Các Hành tinh Thượng đế) tương ứng với luân xa tùng thái dương, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp, như thế tạo thành một Tứ nguyên”. Nhưng Ngài không chỉ rõ hành tinh nào tương ứng với luân xa này, mà để người học đạo tự suy gẫm và khám phá lấy.... Chi tiết xem thêm: Thái dương hệ phần 11
+ Tạo Hóa (Creator, Hóa Công, Đấng Sáng Tạo, Thợ Tạo): Ngôi Ba của Ba Ngôi (Trinity), Ngôi Thánh Thần, tức Tạo Hóa. (CTHNM, 245)
+ Đấng tạo hóa Hành tinh: Bạn sẽ thấy rõ rằng những luồng năng lượng này, phát ra từ Vị Chúa của Bảy Tia, do đó bị nhuốm màu và "bị ô uế"—nếu tôi có thể dùng một từ như vậy—bởi những hạn chế của chính những Đấng vĩ đại này; Họ là các vị Tạo Hoá, theo quan điểm của chúng ta, nhưng trên thực tế, là các vị Tạo Hoá đang được hình thành, mặc dù gần với thần tính thái dương hơn nhiều so với con người tiên tiến nhất gần với thần tính hành tinh.[293] Họ là "các vị Tạo Hoá không hoàn hảo" được nói đến trong Giáo Lý Bí Nhiệm và là các Tạo Hoá hành tinh của các hành tinh thiêng liêng và không thiêng liêng. Nếu các Sự sống thông tin vĩ đại của các hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta không hoàn hảo, thì tác động của sự không hoàn hảo này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các sáng tạo hành tinh của Họ, các cơ thể biểu hiện của Họ, và do đó đưa vào một điều kiện nghiệp quả mà con người cá nhân hoàn toàn không thể kiểm soát, nhưng trong đó anh ta di chuyển và anh ta chia sẻ. Rõ ràng là tôi không thể làm sáng tỏ chủ đề này. Tất cả những gì tôi có thể làm hoặc được phép làm là đưa cho bạn bảy khổ thơ từ một trong những tập sách cổ nhất trên thế giới; nó đề cập đến bảy tia nguyên nhân gây ra sự không hoàn hảo trong các biểu lộ hành tinh của chúng ta. Cần phải thêm vào những khổ thơ này (nếu có thể) các khổ thơ truyền đạt ý nghĩa của các khiếm khuyết phát sinh từ các điều kiện chiêm tinh và tạo ra các hiệu ứng mang tính chất hành tinh và do đó liên quan đến lá số tử vi của Tạo Hoá hành tinh cụ thể của chúng ta. Nhưng những điều này quá khó hiểu, phức tạp và có chủ đề sâu rộng, và chỉ có thể được nghiên cứu và xem xét khi nhân loại đã đạt đến giai đoạn phát triển trực giác đến mức con người có thể "đánh giá cao nguyên nhân và kết quả như những quá trình tổng thể và có thể thấy cả sự khởi đầu và kết thúc trong một khoảnh khắc thời gian trong không gian". Bằng những lời này, Đạo Sư Serapis đã từng tóm tắt vấn đề khi cố gắng đào tạo một nhóm đạo đồ đã được đổi mới theo cách tiếp cận các chủ đề rộng lớn này. ..... (Nguồn: Chữa bệnh nội môn)
+ Các Thiên nhân - Đấng Hành Tinh: Đức DK gọi các Hành Tinh Thượng Đế là các Thiên Nhân (Heavenly Men), trong khi Ngài gọi đức Thái dương Thượng đế là Đại Thiên Nhân (Grand Man of the Heaven). Đấng cao hơn nữa Ngài gọi là Cosmic Logos (Vũ Trụ Thượng đế). Ngài cũng hay dùng từ Đấng Mà Chúng Ta Không thể Nói Gì Cả (The One About Naught May Be Said) để chỉ Cosmic Logos, hoặc đôi khi là đấng còn cao hơn đó nữa là Cosmic ParaBrahman. Trong giới Huyền Linh học hay viết tắt tên gọi One About Naught May Be Said thành OABNMBS để chỉ Đấng Không Thể Nghĩ Bàn, Đấng Bất Khả Tư Nghị. Chúng tôi sẽ trích từ A Treatise On Cosmic Fire các đoạn sau đây nói về Hành Tinh Thượng Đế, kèm theo đó là các diễn giải ... (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 10 - Thông Thiên Học)
+ Người trời (God man): X. Thiên nhân.
+ Hành Tinh Thượng Đế: Đức DK gọi các Hành Tinh Thượng Đế là các Thiên Nhân (Heavenly Men), trong khi Ngài gọi đức Thái dương Thượng đế là Đại Thiên Nhân (Grand Man of the Heaven). Đấng cao hơn nữa Ngài gọi là Cosmic Logos (Vũ Trụ Thượng đế). Ngài cũng hay dùng từ Đấng Mà Chúng Ta Không thể Nói Gì Cả (The One About Naught May Be Said) để chỉ Cosmic Logos, hoặc đôi khi là đấng còn cao hơn đó nữa là Cosmic ParaBrahman. Trong giới Huyền Linh học hay viết tắt tên gọi One About Naught May Be Said thành OABNMBS để chỉ Đấng Không Thể Nghĩ Bàn, Đấng Bất Khả Tư Nghị. Chúng tôi sẽ trích từ A Treatise On Cosmic Fire các đoạn sau đây nói về Hành Tinh Thượng Đế, kèm theo đó là các diễn giải .... (Nguồn: Thái dương hệ - Phần 10 - Thông Thiên Học)
Đấng Sáng tạo (Creator): X. Tạo Hóa, Hóa Công.
+ Sáng tạo (Creation): Từ ngữ sáng tạo phải được hiểu theo ý nghĩa huyền linh và có nghĩa là sự xuất hiện thành biểu lộ tích cực của một hình thức năng lượng nào đó. (LVLCK, 774)
+ Sáng Tạo chỉ là Ý chí tác động lên Vật chất cõi hiện tượng (phenomenal Matter), làm phát lộ ra ngoài vật chất đó Anh sáng Thiêng liêng Nguyên thủy (primodial Divine Light) và Sự sống Vĩnh cửu (Eternal Life). (GLBN III, 180)
+ Đấng Sáng tạo (Creator): X. Tạo Hóa, Hóa Công.
+ Cung 3 - Hoạt động sáng tạo: Năng lượng sáng tạo biểu lộ thành hai, gồm đời sống sáng tạo và nghệ thuật sáng tạo. Hiện nay thời Cung 3 biểu lộ đời sống sáng tạo là chủ yếu (Sách Vận mệnh các quốc gia)
+ Hạt giống nghiệp phúc: Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi: Nếu người không giữ giới sát sanh ăn thịt thì đoạn dứt hột giống từ bi; người không giữ giới trộm cắp, của người không cho mà mình lấy là đoạn tuyệt hột giống giàu sang; người không giữ giới tà mị dâm dục là đoạn tuyệt hột giống thanh tịnh; người không giữ giới nói dối, nói thêu dệt là đoạn tuyệt hột giống thành thật; người không giữ giới say rượu mê man là đoạn tuyệt hột giống thông minh trí huệ. Cho nên không giữ năm giới là tuyệt đường nhơn thiên, còn năm giới mà giữ được thời đoạn tuyệt ba đường dữ; lành dữ tại mình tạo ra mình chịu lấy. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
264. HẠT GIỐNG BỊ MỤC NÁT
Ví như hạt giống không hư, vỡ, mục nát, bị gió nắng làm thương tổn, mùa thu không được cất giấu kín đáo. Nếu người cư sĩ kia không phải là nông phu giỏi, lại không khéo canh tác, gieo hạt giống xuống và mưa không phải thời, thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống lúa có dần dần lớn lên được chăng?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, dạ không.
Thế Tôn nói: Cũng vậy, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, Ta không thấy người này có được chút pháp bạch tịnh, dù bằng sợi lông. Người này pháp ác bất thiện hoàn toàn dẫy đầy, ô uế, làm gốc rễ cho sự hữu trong tương lai, lại phiền nhiệt, khổ báo, nguyên nhân của sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người này khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như vậy. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
265. HẠT GIỐNG GẶP ĐẤT TỐT
Cũng như hạt giống, các loại hạt giống, các loại thảo mộc, trăm giống lúa, cây thuốc được phát sanh, trưởng dưỡng, tất cả đều nhân nơi đất, y cứ trên đất, thiết lập trên đất mới được sanh trưởng.
Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất. (Trung A Hàm, Kinh Dụ, Phẩm 11, số 141)
266. HẠT GIỐNG KHỔNG THỂ NẢY MẦM
Ví như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió, nắng làm thương tổn, mùa thu đến được cất giấu kín đáo. Nếu người cư sĩ kia giỏi, sửa sang ruộng tốt rồi vãi hạt giống vào nhưng mưa xuống không phải thời, thì này A-nan, ý ông nghĩ sao, hạt giống này có dần dần lớn lên được không?
Tôn giả A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, không thể được.
Cũng vậy, Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát tâm người khác, biết người này thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện. Sau đó Như Lai dùng Tha tâm trí quán sát lại tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện; người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, thiện căn còn sót chưa đoạn tuyệt, chắc chắn rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp suy thoái.
A-nan, đó gọi là Đại nhân căn trí của Như Lai. Như Lai hiểu biết chân chánh về gốc rễ của các pháp như vậy. (Trung A Hàm, Kinh A-Nô-Ba, Phẩm 10, số 112)
+ Trí tuệ và ngu si: Bồ tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là người trí, sao kêu là người ngu, sao kêu là người mê, sao kêu là người ngộ. Xin đức Phật từ bi giảng dạy cho tôi được biết?
Đức Phật nói: Chữ trí là biết, người trí biết có đạo Phật cần phải tu, biết có thánh giáo cần phải học, biết có minh sư cần phải cầu. Biết có phước cần phải làm, biết có tội cần phải sám hối, cho đến biết rõ pháp thế gian, pháp xuất thế gian và sự luân hồi quả báo như trên trời có mặt nhật, như đêm tối có đèn. Được hiểu biết, được nghe thấy sự báo ứng của việc lành việc dữ, hễ hiểu biết nghe thấy rồi liền bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh. Việc phi lý không bao giờ nói, ngoài phận sự không bao giờ làm, không phải đạo chơn chánh không theo, không phải vật của mình không lấy. Tư tưởng trung chánh mỗi mỗi chơn thật, tích đức nêu danh lưu truyền đời sau, như vậy gọi là người trí thức.
Ngu là tối, người ngu cái lòng tối tăm, chẳng biết cao thấp lớn nhỏ, chẳng biết thiên đàng địa ngục, chẳng tin có tội phước luân hồi. Một bề tham luyến tửu sắc, sát sanh hại mạng để cung cấp cho cái miệng hay bao tử. Trong một đời sát sanh trăm ngàn súc vật, gây cái nợ oan trái trăm ngàn muôn ức tánh mạng, luân hồi gặp gở ăn nuốt lẫn nhau, không biết bao giờ thôi dứt. Hết thảy các loại trâu, dê, heo, ngựa đều là đòi trước hoặc kẻ thân nhân, hoặc người thù oán, sau khi luân hồi thay hình đổi dạng làm thân súc sanh. Người si mê không biết giết hại mà ăn, cũng như giết cha mẹ của mình, hay ăn thịt bà con dòng họ của mình. Cha bị con giết, con bị cháu giết, trên đường luân hồi cha con chẳng biết nhau, giết nhau ăn nhau không bao giờ dứt, một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi đặng.
Người mê muội tham mến tửu sắc, muốn được khoái lạc, buông lung sáu căn tham mến sáu trần, làm nhiều cách điên đảo đủ điều, chỉ nhớ sự thọ dụng hiện tiền, không ngó lại thân sau chịu khổ, mê muội chơn linh đuổi theo huyễn vọng, bỏ xa tánh giác phối hợp trần duyên. Ví dù gặp bậc thánh hiền cũng không cứu độ được, chìm sâu biển khổ mất hẳn tánh linh, một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi đặng. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Người trí: ... Có mười sự chứng tỏ đó là người trí:
Một là biết kẻ hiền người ngu; Hai là biết kẻ sang người hèn; Ba là biết kẻ giàu người nghèo; Bốn là biết việc nào khó việc nào dễ; Năm là biết việc nào đáng bỏ việc nào nên làm; Sáu là biết nhiệm vụ của mình; Bảy là vào nước nào biết được phong tục của nước đó; Tám là biết được chỗ trở về; Chín là học rộng hiểu nhiều; Mười là biết được túc mạng. Mười việc đó chứng tỏ người có trí.
Kinh dạy: "Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn, có đánh nhau mới biết kẻ yếu người mạnh, có luận nghị mới biết được người trí, lúc cơm thua gạo kém mới biết người có lòng nhân." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Người có trí - Người trí: Đức Phật bảo A-nan: Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông, những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ. HT Tuyên Hóa giảng:
Hàng trí thức thích dùng những thí dụ để được khai ngộ. Vì khi quý vị thực sự có trí tuệ thì quý vị có thể hiểu được mười điều khi chỉ cần nghe một điều - Đó là có trí tuệ chân chính. “Người trí” mà trong kinh văn nói đến không phải là người có trí tuệ chân chánh mà là những người có trí thức thông thường, không cao không thấp. Họ có thể được giác ngộ thông qua việc sử dụng những thí dụ. Nhưng nếu những người chậm lụt, thiếu trí tuệ, nếu đưa cho họ một ví dụ, họ sẽ không hiểu nổi (Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần kinh văn)
+ Người có trí tuệ - Đức Phật dậy:
14- Này các đệ tử, có trí tuệ thì không có tham trước, luôn luôn tự tỉnh thức và tự dò xét, nhờ đó người ấy có khả năng giải thoát trong giáo pháp của Như Lai. Nếu không có trí tuệ thì không xứng danh là bậc xuất gia. Trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sanh tử, là ngọn đèn sáng chói trong hắc ám vô minh, là dược liệu thần y của mọi bịnh tật và là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế, các vị cần trau dồi tuệ giác “văn, tư, tu” để tăng trưởng lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu thì dẫu là mắt thịt vẫn là người chánh kiến, thấy rõ bản chất mọi vật. Nguồn
+ Ðức Phật dạy: "Tỳ-kheo các ông! Nếu có trí huệ thì không tham đắm, vướng mắc. Thường tự xét mình, chẳng để có sai sót. Như vậy thì ở trong pháp ta có thể được giải thoát. Nếu chẳng được vậy, thì chẳng phải người tu đạo, cũng chẳng phải người thế tục, chẳng có tên để gọi. "Trí huệ thật là chiếc thuyền bền chắc đưa người vượt qua biển già, bệnh, chết; lại như ngọn đèn lớn sáng soi trong chỗ vô minh đen tối; như món thuốc hay trị được hết thảy bệnh tật; như cái rìu sắc bén đốn ngã cây phiền não. Vậy nên các ông phải lấy các môn trí huệ là nghe biết, suy xét, tu tập mà tự làm tăng thêm phần ích lợi. Nếu người được sự chiếu sáng của trí huệ, thì dù chỉ có mắt thịt, nhưng chính thật là người thấy rõ tất cả. Như vậy gọi là trí huệ." - Nguồn: Xem tại đây
+ 154. Có Trí Tuệ_Đức Phật dậy
- Là Người ham học hỏi và thực hành các Pháp lành: Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có trí tuệ tốt đẹp? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào thường hay đến nơi kia hỏi việc. Nếu có Sa-môn, Phạm chí danh đức, người ấy thường đến nơi ấy mà hỏi đạo nghĩa, rằng ‘Thế nào là nghiệp thiện, thế nào là bất thiện? Thế nào là tội, thế nào là không tội? Thế nào là vi diệu, thế nào là không vi diệu? Thế nào là trắng, thế nào lào đen? Trắng và đen từ đâu sanh ra? Ý nghĩa của quả báo hiện tại là thế nào? Ý nghĩa của quả báo vị lai là thế nào? Ý nghĩa quả báo hậu thế như thế nào? Hỏi xong lại thường thực hành. Người ấy thọ nghiệp này, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời, lại sanh vào nhân gian, có trí tuệ tốt đẹp. Nguồn (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ LỜI PHẬT DẠY VỀ SỰ NHÌN THẤU ĐỂ CÓ MỘT CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC
- KHÔNG TRANH CHẤP LÀ TỪ BI
- KHÔNG TRANH LUẬN LÀ TRÍ TUỆ
- KHÔNG NGHE THẤY LÀ SỰ THANH TỊNH
- KHÔNG QUAN SÁT LÀ SỰ TỰ TẠI
- KHÔNG THAM LAM LÀ BỐ THÍ
- BỎ ÁC LÀ CÁI THIỆN
- SỬA ĐỔI BẢN THÂN LÀ SÁM HỐI
- NHÚN NHƯỜNG CHÍNH LÀ LỄ PHẬT
- THA THỨ LÀ GIẢI THOÁT
- BIẾT ĐỦ CHÍNH LÀ BIẾT BUÔNG BỎ
- LỢI CỦA MỌI NGƯỜI CHÍNH LÀ CÁI LỢI CỦA BẢN THÂN.
* NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
+ Ðức Phật dạy:
Người trí tuệ vì bị vô minh che khuất, ái duyên ràng buộc, nên có được thức thân này. Kia vô minh dứt trừ, ái duyên hết sạch. Do vô minh dứt trừ, ái duyên hết sạch, nên sau khi chết không còn tái sanh nữa. Vì chẳng thọ sanh trở lại nên giải thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Vì sao? Vì người này trước đây đã tu phạm hạnh, chân chánh hướng đến dứt sạch khổ, tận cùng của mé khổ, nên người này sau khi chết không tái sanh trở lại. Bởi không thọ thân nên giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Đó là chỗ sai khác giữa phàm phu và người trí tuệ khi ở nơi Ta tu các phạm hạnh.(Kinh A Hàm).
+ Người Trí Tuệ - Người Quang minh: Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”. (Trích lời giảng của HT Tuyên Hóa trong câu Thần Chú Đại Bi số 37. Thất na thất na)
+ Người Trí: Ðức Phật dạy, Người trí được ví như con ngựa phi nước đại, bỏ sau con ngựa yếu hèn kém để nêu rõ hạnh tinh cần của người trí giữa các người phóng dật, và sự tỉnh thức của người trí giữa quần mê: "Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn (Kinh Pháp Cú 29)
- Kẻ trí thấy rõ cần phải nhiếp phục tự thân: "Người trị thủy dẫn nước, Kẻ làm tên nắn tên, Người thợ mộc uốn gỗ, Bậc trí nhiếp tự thân. (Kinh Pháp Cú 80)
- Và sau đây là hạnh của người trí giữa khen chê ở đời: "Như tảng đá kiên cố, Không gió nào lay động, Cũng vậy giữa khen chê, Người trí không giao động." (Kinh PC 81)
- Nói cho rõ hơn, người trí có một lựa chọn dứt khoát giữa thiện và bất thiện: "Kẻ trí bỏ pháp đen, Tu tập theo pháp trắng, Bỏ nhà sống không nhà Sống viễn ly, khó lạc." (Kinh PC 87)
+ Chúng sinh ngu si bị chướng che nên phải luân hồi sinh tử khổ đau
Chúng sinh ngu si bị chướng che
Mù tối thường ở trong sinh tử
Như Lai mở bày đạo thanh tịnh
Giải thoát này của Tu Di Âm.
‘’ Chúng sinh ngu si bị chuớng che.’’ Chúng sinh là do chúng duyên giả hợp mà sinh. Chúng sinh thông minh thì đi trên con đường chánh, chúng sinh ngu si thì đi theo con đường tà. Người ngu si, vì họ mà nói chánh pháp thì họ không tin. Tại sao ? Vì họ ngu si ! Tại sao ngu si ? Vì không tin Phật pháp, cho nên càng ngày càng ngu si. Phải học Phật pháp thì càng ngày càng thông minh. Người thông minh thì chẳng có nghiệp chướng che đậy, kẻ ngu si thì có nghiệp chướng che đậy.
Che đậy là gì ? Tức là bị một vật che đậy, chẳng được giải thoát. Giống như La Hầu La con của Đức Phật. La Hầu La dịch là "che đậy". Vì nghiệp chướng quá nặng, ở trong thai mẹ sáu năm mới sinh ra, tại sao ? Vì trong quá khứ, La Hầu La là một đứa trẻ nghịch ngợm. Một ngày nọ, thấy một con chuột chạy vào hang động, La Hầu La lấy đá lấp hang động sáu ngày, tạo ra ác nghiệp này, do đó mới thọ quả báo che đậy ở trong thai mẹ sáu năm.
Có thuyết nói rằng : Đức Phật Thích Ca lúc mười bảy tuổi, thì kết hôn với Gia Du Đà La. Kết hôn rồi, Gia Du Đà La muốn có con, đức Phật dùng tay chỉ vào bụng thì phu nhân thọ thai. Đức Phật xuất gia rồi, tu hành ở trong núi Tuyết sáu năm, La Hầu La mới sinh ra. Lúc đó hoàng tộc Thích Ca nói Gia Du Đà La không giữ đạo làm vợ. Không có chồng mà sinh con ? Bèn dùng lửa để thiêu sống Gia Du Đà La, để bảo tồn danh dự dòng họ Thích Ca, Gia Du Đà La vì muốn chứng minh sự thanh bạch của mình mới phát thệ rằng :’’ Nếu tôi giữ đạo làm vợ, thì lửa đỏ biến thành hoa sen, nếu tôi không giữ đạo làm vợ thì lửa sẽ thiêu hủy thân của tôi, không một lời oán trách.’’ Nói xong bồng con là La Hầu La, nhảy vào trong đống lửa cháy dữ dội, quả nhiên lửa biến thành hoa sen màu đỏ, do đó ‘’ Hoa sen trong lửa,’’ là để chứng minh quyết thực không phải là không giữ quy cụ.
‘’ Mù tối thường ở trong sinh tử.’’ Người mù tối thì vừa điếc vừa câm. Nghĩa là sinh thì hồ đồ mà đến, chết thì hồ đồ mà đi, luôn luôn ở trong biển sinh tử, vĩnh viễn không được giải thoát.
‘’ Như Lai mở bày đạo thanh tịnh.’’ Vì người mù tối, không biết đạo lý sinh tử, luôn luôn sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Cho nên Phật từ bi thương xót chúng sinh, hướng dẫn chỉ dạy họ tu đạo thanh tịnh. Đạo thanh tịnh là gì ? Tức là chẳng có tư tưởng ô nhiễm. Tóm lại, tức là chẳng có quan hệ tình dục nam nữ. Ai ai cũng đoạn dục khử ái, thì thức thứ tám tuy nhiên có hạt giống, nhưng chẳng có duyên với cha mẹ thì cũng chẳng sinh ra. Cho nên đoạn dục khử ái, là phương pháp cơ bản giải quyết vấn đề sinh tử, chẳng có gì là huyền diệu. Ai ai cũng biết nhưng chẳng làm được. Tại sao ? Vì ngu si che đậy. Vua Đường Thái Tông có nói câu này : ‘’ Xuất gia mới là việc đại trượng phu.’’ Xuất gia thật là như thế, ném vứt năm dục lên chín từng mây, thứ nhất là không tham tài, thứ hai là không cưới vợ, thứ ba là không cầu danh, thứ tư là không ăn thịt, thứ năm là không ngủ nhiều. Tại sao phải khổ như thế ? Là vì muốn chấm dứt sinh tử, cầu tự tại, cầu giải thoát.
‘’ Giải thoát này của Tu Di Âm.’’ Vị Tu Di Âm Thiên Vương đắc được cảnh giới môn giải thoát này. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1)
+ Chúng sinh ‘’ Ngu si kiến trược rất đáng sợ.’’ Ngu si tức là mạng trược. Vì sao ? Vì vận mạng người ngu si là ô trược, sinh ra thì chẳng thông minh, đều có mối quan hệ với nhau.
Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
1. Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
2. Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Đều rơi vào hai bên.
3. Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
4. Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
5. Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành. Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1)
+ Nhận diện kẻ Ngu Si và người Trí_Ðức Phật dạy:
- Kẻ ngu có thể được nhận biết qua ba điều, bằng cách cư xử của nó trong hành động, lời nói và tư tưởng;
- Cũng vậy người trí cũng được biết qua ba điều, qua cách ứng xử của người đó trong hành động, lời nói và tư tưởng (Tăng Chi Bộ Kinh_đoạn 3)
* Trên đời nầy có ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật (Tăng Chi Bộ Kinh_đoạn 28)
+ Kệ về người ngu si:
Hoa đẹp sáng sáng đều xinh tươi,
Trăng sáng ngại gì mỗi đêm tròn,
Ðại địa có suối đều thành rượu,
Rừng già không cây chẳng lay tiền.
Người ham thích hoa sanh tâm ngu si nói: “Tôi muốn đóa hoa này mãi mãi xinh tươi, chẳng tàn phai; sáng sáng đều đẹp như thế này.”
Người tham trăng tròn thì nói: Tối hôm qua trăng tròn thật đẹp, nếu trăng mỗi đêm đều tròn như thế cả thì tốt biết bao!
Như thế không phải là ngu si sao? Trăng có tròn có khuyết, hoa có nở có tàn. Hoa nở thì phải có lúc hoa tàn, trăng tròn thì phải có lúc trăng khuyết, đó là luật tuần hoàn của trời đất.
Người thích uống rượu lại nghĩ: “Mỗi ngày tôi đều đi mua rượu, mà whisky hoặc brandy thì rất đắt. Nếu tất cả ao nước trên trái đất này đều biến thành ao rượu, để khi nào tôi thèm rượu thì chỉ việc đến ao múc lên uống, thật tiện lợi biết bao!”
Còn kẻ tham tiền thì mơ mộng: “Mình bây giờ phải đi làm kiếm tiền, thật là quá sức vất vả. Ước gì tất cả cây cối đều biến thành ‘cây tiền,’ trên cây kết toàn những đĩnh vàng đĩnh bạc và tiền đô-la, để khi mình cần tiền thì chỉ việc hái xuống tiêu xài, thật tiện lợi biết bao!”
Những ước muốn không thể thực hiện được ấy đều là những ảo tưởng ngu si.
Như có người không có đi học, thậm chí cũng chưa học tiểu học-trung học thì khỏi nói rồi-nhưng lại muốn được một học vị Tiến sĩ ở đại học.
Lại còn có những người, không làm ruộng bao giờ, song đến vụ mùa lại muốn thu hoạch như thiên hạ! Ðó đều là ngu si!
Thậm chí có người không mua vé số mà lại mong trúng lô độc đắc, quả là một ý tưởng quá ngu si!
Thế nhưng, đa số người đời đều mắc phải chứng bịnh vọng tưởng “không làm mà muốn có ăn.”
Vậy thì phải làm sao? Có thứ bịnh này thì cần phải sửa đổi đi mới được.
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai điều mong cầu, đó là đại bi. Ngài lại làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh, khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui, đó là Ðại từ. Vì nhân duyên đại từ đại bi, nên Ngài nói phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn này. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa)
+ Phẩm Người Ngu - Chương hai pháp. Đức Phật dậy:
1. Có hai loại người:
Người ngu: Người có phạm tội nhưng không thấy có phạm tội, và người không chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình.
Người có trí: Người có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình.
2. Có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai: Người độc ác với tâm đầy sân hận, và người có lòng tin với tà kiến.
3. Có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết.
4. Có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai có nói, có thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai không nói, không thuyết.
5. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh đã được giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩ là kinh cần phải giải nghĩa.
6. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai: Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh cần phải giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩ là kinh đã được giải nghĩa.
7. Với người có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: địa ngục hay bàng sanh.
Với người không có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: chư Thiên hay loài Người.
8. Với người có tà kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: địa ngục hay loại bàng sanh.
Với người có chánh kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: chư Thiên hay loài Người.
Người theo ác giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: địa ngục hay loài bàng sanh.
Người đầy đủ thiện giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: chư Thiên và loài Người.
9. Do quán thấy hai lợi ích: Thấy tự mình hiện tại lạc trú, và có lòng thương tưởng đến những chúng sanh về sau. Do quán thấy hai lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nên Ta đi đến các ngôi rừng hẻo lánh, các trú xứ xa vắng.
10. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, thuộc thành phần minh: Chỉ và Quán.
+ Chỉ được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận.
+ Quán được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận.
Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát.
Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập.
=> Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Người ngu - Chương ba pháp. Đức Phật dậy
...1.- Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi, người ngu có nguy hiểm, người trí không có nguy hiểm: người ngu có tai họa, người trí không có tai họa. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi đến với người trí, không có nguy hiểm đến với người trí, không có tai họa đến với người trí.
3.- Đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ẩn tích của người ngu: Kẻ ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác => Nên các người hiền trí biết được: “Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân”.
Đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người hiền trí: Người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện => Nên các người hiền trí biết được: “Người này là người hiền trí, là bậc chân nhân”. (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)
Xem thêm: Tổng hợp về người thượng - Trung - Hạ căn
+ Tánh Phật - Tự Tánh mình: ..... Huệ Năng nầy ngay lời đó đạt đại ngộ, biết rằng cả thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình, mới bạch với Tổ Sư rằng: Nào dè tánh mình vốn tự thanh tịnh, Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt, Nào dè tánh mình vốn tự đầy đủ, Nào dè tánh mình vốn không lay động, Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp! (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thể tánh - Tự tánh: Đức Phật bảo: A-nan, như tất cả sự vật hiện hữu trong thế giới từ ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, nút thắt… khi gạn xét cội gốc của nó, mỗi thứ đều có thể tánh. Cho đến như hư không cũng có tên gọi và dáng mạo; HT Tuyên Hóa giảng: Hết thảy mọi thứ trên thế gian này gồm cả núi sông đất liền, tất cả vạn tượng như cây cỏ, thảo mộc, sợi dây, nút thắt cho đến như cả hư không, nó vẫn có cái tên là “hư không” và dáng mạo về “hư không.” Tất cả đều có một thể tánh.
Huống gì bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là bản chất của tất cả mọi tâm niệm mà tự nó lại không có thể tánh hay sao? (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần chánh văn-Mục 90)
+ Thể Tánh của Chân Tâm - Tự Tánh (Không phải Tâm thức/ Tâm Nhị nguyên):
Đức Phật bảo A Nan. ... Đó chính là thức tinh nguyên minh - Tâm Bản Nguyên của ông.
HT Tuyên Hóa giàng: Chữ “nguyên” có nghĩa là cội gốc của bản thể thanh tịnh. Nghĩa là cái mà chẳng phải nhiễm ơ, chẳng phải thanh tịnh, không thêm, không bớt. Ánh sáng của nó vốn thường soi chiếu khắp nơi. Chữ “thức” ở đây không phải là tám thức, chẳng phải mạt-na hay a-lại-da thức. Nó chẳng liên quan gì đến tám thức ấy cả. Nó chính là cái tối tinh, tối diệu của thức, thể tánh của nó bản nguyên thanh tịnh, nó chỉ là tên gọi khác của bồ-đề niết-bàn. Cụm từ được dùng ở đây là nhờ vào lối văn chương bóng bẩy tránh sự lặp lại. Nó chính là khía cạnh rất tinh vi và mầu nhiệm của thức, của Phật tánh bản hữu của chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể.... Bồ-đề niết-bàn là của báu chân thực trong nhà quý vị. Cơ bản là nó ở ngay bên cạnh quý vị nhưng quý vị không biết cách sử dụng nó để làm lợi ích cho mình.... Trong khi quý vị quên mất chơn tâm của mình và một khi chơn tâm đã bị bỏ quên thì nó cũng hoàn toàn giống như bị mất. Đây chính là lý do tại sao quý vị không thể thành Phật, thay vì vậy lại bị trói buộc trong vòng sinh tử, do vì quý vị không nhận ra chơn tâm. (Theo mục 86 - 93 Đức Phật giảng về Chân Tâm và Tâm thức phân biệt..- HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Căn Tánh - Mỗi Căn đều có tự Tánh: ... Chúng sinh sống trong thể tánh thanh tịnh, trong chân tâm thường trú hằng ngày. Bởi vì vọng tưởng vốn xuất phát từ chơn tâm, đó chính là tâm phan duyên lưu xuất từ một niệm sinh khởi từ vô thỉ. Tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là sự biểu hiện từ chân tâm và niệm khởi này theo sát quý vị từ sáng đến tối, nhưng quý vị không thể nào nhận biết được niệm ấy. Quý vị chỉ biết làm thế nào để vận dụng tâm vọng tưởng của mình mà thôi.
Chơn tâm được biểu hiện qua tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh biết. Có người từng hỏi: “Phật tánh là gì?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp:
– Tại mắt gọi là tánh thấy
– Tại tai gọi là tánh nghe
– Tại mũi gọi là tánh ngửi
– Tại lưỡi gọi là tánh nếm
– Tại thân gọi là tánh biết (do xúc chạm)
– Tại nơi ý gọi là tánh hay biết/ Tánh nhạy bén linh lợi/
Đức Phật đã trả lời như vậy.
Cái gì là Phật tánh? Đó là tánh thấy, tánh nghe… Đó là cách thế tự nhiên như khi tay mình cầm đồ vật. Tất cả những điều này đều là biểu hiện sự vi tế, bất khả tư nghì của chân tâm. Nhưng không ai biết được điều này. Bây giờ A-nan vẫn còn mê mờ, thế nên Đức Phật dùng rất nhiều cách ví dụ để giảng giải cho A-nan.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q1-Giảng giải)
+ Đức Phật bảo: ... "Nên từ đầu đến cuối các ông đều ở trong niệm niệm sinh diệt".
Các ông chấp chặt vào thân tâm các ông, cho đó là ông chủ của mình. Các ông dùng thức tâm phân biệt làm suy nghĩ của mình. Niệm tưởng từ thức tâm là chủ thể của sinh diệt. Niệm đầu tiên sinh rồi diệt, niệm tưởng kế tiếp theo nhau sinh diệt. Sinh diệt tiếp nối sinh diệt. Quý vị hết sức chú tâm vào cảnh giới sinh diệt nên không có được sự hiểu biết chân chính về tánh thấy.
Các ông bỏ mất chân tánh, làm những việc điên đảo. Đã đánh mất tâm tánh chân thật rồi, còn nhận vật làm chính mình, nên chính mình bị trôi lăn theo vòng lưu chuyển. (Nguồn: mục 77- 94 HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Căn Tánh - Tự Tánh: ... Thế tự tánh của quý vị giống như cái gì (Tánh các căn: Tánh nghe, Tánh thấy... không phải là đối tượng sinh diệt ... Đức Phật dậy, dù thân này tiêu tan thì Tánh nghe (các Tánh) không tiêu mất khi mình chết_HT Tuyên Hóa).
Tánh Thấy - A-nan, như khi ông thấy, thì chính ông chứ chẳng phải Như Lai, tánh thấy trùm khắp đó chẳng phải ông thì ai?...
Bởi do tánh giác sáng suốt nhiệm mầu ấy, nên khiến ông vượt ra khỏi cái ‘chỉ ra được’ và cái ‘chẳng chỉ ra được’ vậy....
Phải biết tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu nầy chẳng phải nhân chẳng phải duyên, chẳng phải tự nhiên, chẳng phải không tự nhiên.
Chẳng phải không tự nhiên, không có cái chẳng phải (phi) và chẳng chẳng phải (bất phi), không có cái phải (thị) và chẳng phải (phi thị).
Lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp.
+ CÁC CĂN TÁNH - TỰ TÁNH - TÁNH NGHE, NẾM, NGỬI, XÚC TRẠM, Ý cũng tương tự. Mời xem Kinh văn gốc.
- Tánh Ngửi: Bây giờ sẽ đề cập đến mùi hương và lỗ mũi với tính biết ngửi....
- TÁNH THẤY: Đoạn giảng về Tứ đại - Tánh Không, Kiến giác và Tánh Thấy (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Tự tính/ Tự tánh/ Chân Tâm diệu dụng: Chân tâm phải tìm ở bên trong, chẳng phải ở bên ngoài, cũng do tự tính trí huệ sinh ra, cho nên Lục Tổ Huệ Năng nói Tự tính vốn tự: Thanh tịnh, Không động, đầy đủ và thường sinh trí huệ. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr73 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tự tánh: Tự tánh của các pháp không thể tìm thấy trong bốn duyên. Tự tánh là gì? Tự tánh là sự có mặt đích thực, sự có mặt như một thực tại biệt lập. Tự tánh là svabhāva. Bất cứ một cái gì mà ta công nhận là có thật thì nó phải có tự tánh của nó. Tự tánh (self-nature) là tánh của mình, nó làm cho ta khác với những cái khác (tha tánh). Chúng ta có thể tìm tự tánh của các pháp trong duyên của nó hay không? Hình như là tìm không được. Có thể là cái đó chưa sinh hay đã sinh rồi. Và ta có thể tìm tự tánh đó trong những điều kiện đang sinh hay sắp sinh đó hay không? Ví dụ chúng ta có một hộp diêm và ta đi tìm tự tánh của ngọn lửa trong hộp diêm đó. Trong hộp diêm có diêm sinh, có gỗ; ngoài hộp diêm có dưỡng khí. Chúng ta đi tìm trong những điều kiện đó, xem có thể có tự tánh của những cái đang sinh hay sắp sinh (tức ngọn lửa); nhưng chúng ta không tìm thấy tự tánh đó.
Nếu tự tánh đã không có thì làm gì có tha tánh? Tự tánh là đối với tha tánh. Giống như bên phải và bên trái, nếu bên phải không có thì làm gì có bên trái. Tự là đối với tha. (Nguồn: Pháp Nhân Duyên - TS Thích Nhất Hạnh)
+ Tự tánh: Phật có năng lực gì vậy? Phật không hề nói Ngài có năng lực. Phật nói là "Bản năng tự tánh của mỗi một người". ... Tự tánh là gì vậy? Là chân tâm. Chân tâm, bổn tánh của chúng ta vốn dĩ đầy đủ vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng hảo. Chúng ta thường nói Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, nhưng trên thực tế, trong kinh Đại thừa nói "Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp". .... “Sanh/ Chúng sanh, Phật bình đẳng, tánh tướng là một, sự lý không hai", đây là kinh nghĩa trên kinh đại thừa nói. Đây là chân tướng sự thật. (Nguồn: Kinh Thập thiện - PS Tịnh Không)
+ Xin mời quí vị đọc bài tổng hợp chuyên đề với thuật ngữ Thể dụng vi diệu: Mời xem tại đây
+ Hiếu thuận: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Làm sao kêu là hiếu thuận?
Thế Tôn nói: Hiếu là lòng từ, thuận là chẳng nghịch chánh lý; người có hiếu từ chẳng ngại sanh linh, để cho mình được sống chẳng giữ lấy việc tư làm trái sự công bình; tôn trọng ngôi Tam bảo, kính trọng cha mẹ, chẳng sai chẳng dối, không thương không ghét. Khuyên bảo trong nhà đồng tu phước huệ, ở trong thời thuận hòa, ở ngoài thời trên cung dưới kính, cha mẹ còn hiện tiền an vui tâm thể, cha mẹ mãn số đặng lìa tội khổ. đặng sanh cung trời mới thiệt là thế gian nam nữ hiếu thuận. Còn như mỗi ngày sát hại sanh vật cúng dưng cha mẹ ông bà, làm thêm tội nghiệp cho tổ tông, thiệt là người đại bất hiếu, lúc sống đồng tạo nghiệp, sau chết đồng đọa với cha mẹ, oan trái dẫn dắt với nhau chung vào một chỗ đồng đi luân hồi, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Hiếu thuận làm đầu - Xuất gia tu hành là đại phúc: Phải chăng ngày ngày chúng ta mua cho cha mẹ vài món ngon vật lạ, dăm bộ quần áo mới, tức là có hiếu rồi? Chưa phải! Ðó chỉ là "hình thức," là lớp vỏ ngoài của sự hiếu thuận mà thôi. Vậy thì "nội dung" của hiếu thuận là gì? Chúng ta phải "lấy thuận làm hiếu"—chiều theo tâm ý và nguyện vọng (Chánh đáng, chánh đạo) của cha mẹ mình. Cha mẹ vui thì mình cũng nên vui, những gì cha mẹ yêu thích thì mình cũng nên mến chuộng.
Xuất gia tu hành là một hành động thể hiện lòng "đại hiếu," bởi đó chính là hạnh hiếu thảo vĩ đại nhất, cao cả nhất. Có câu:
"Một người con về cửa Phật, tổ tiên chín đời được lên cõi trời."
Nếu quý vị xuất gia tu Ðạo thì tất cả tổ tiên trong chín đời đều nhờ công đức tu hành của quý vị mà được siêu thăng lên cõi trời. Cho nên, xuất gia không phải là chỉ báo hiếu cho cha mẹ hiện đời, mà còn báo hiếu cho cả cha mẹ và tổ tiên trong những đời quá khứ nữa! Tuy nhiên, quý vị xuất gia mà phải chân chánh tu hành thì mới báo hiếu được; còn nếu quý vị cứ giải đãi, không tinh tấn dụng công tu tập, thì "cửu tổ" của quý vị vẫn phải đọa địa ngục ... Họ than thở với nhau rằng: "Tôi cứ tưởng là có được đứa cháu xuất gia tu Ðạo thì chúng ta sẽ nhờ đó mà được thăng thiên. Ngờ đâu đứa cháu này lại chẳng chuyên cần tu tập, suốt ngày chỉ biết ngủ với nghỉ, vô cùng lười biếng! Giờ đây những nghiệp tội của chúng ta không được xá miễn chút nào cả, và chúng ta vẫn phải tiếp tục trầm luân trong địa ngục." (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng P3 - Kinh Địa Tạng)
+ Người Hiếu Thảo - Có Hiếu - Báo Hiếu Cha Mẹ Đúng
1. Ngày Cha Mẹ trong Phật giáo: Ngày rằm tháng 7 hàng năm, noi theo gương hiếu của đức Mục Kiền Liên, long trọng tổ chức đại lễ Vu Lan Bồn, để tưởng nhớ và báo đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ - Ngày Cha Mẹ trong Phật giáo.
+ Năm trách nhiệm hiếu thảo
(1) Tôi nuôi dưỡng cha mẹ: Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất ở đây bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.
(2) Làm tròn bổn phận đối với cha mẹ: Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau. Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ/chồng, con cái chu đáo, thăm viếng cha mẹ khi có thời gian, phụng dưỡng đời sống vật chất cho cha mẹ,…
(3) Giữ gìn truyền thống gia đình: Lời dạy trên không chỉ kêu gọi ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát huy các truyền thống tốt đẹp của một gia phả, một làng xóm, một cộng đồng, một sắc tộc, một quốc gia mà thôi. Điều này có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa của tổ chức UNESCO. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần về phương diện vật chất.
(4) Bảo vệ tài sản thừa tự: Nếu “duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia” là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu. Theo tinh thần Phật dạy thì “bảo vệ tài sản thừa tự” là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính Tam bảo thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật, Pháp, Tăng, trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều kích hơn.
(5) Chu toàn tang lễ của cha mẹ đúng pháp: Điều hiếu thảo cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là khi cha mẹ qua đời, con cái phải tổ chức tang lễ cho cha mẹ một cách chu toàn và đúng pháp. Đúng pháp ở đây theo tinh thần lời Phật dạy là con cái không hiến tế súc vật, cúng tam sên, trổ nhạc tây nhạc tàu, thuê người khóc mướn, tổ chức ca hát xướng, không cúng đạo lộ, mở cửa mả. Trong thời gian tang lễ, con cái không nên khóc lóc, than vãn mà trái lại nên chánh niệm tỉnh giác trước cơn vô thường sinh ly tử biệt để hỗ trợ cho cha mẹ không còn quyến luyến tình cảm thế gian, vãng sinh một cách nhẹ nhàng và dễ dàng.
+ Hai phương diện báo hiếu
1. Báo hiếu về phương diện vật chất
Trước nhất những người con nên báo đáp công ơn sinh thành của cha mẹ bằng của cải vật chất, tiền bạc, sự chăm sóc, thăm viếng và lòng thương kính. Nuôi dưỡng cha mẹ bằng tất cả khả năng của mình. Phật tử sẽ nhận thức được rằng “không có thứ hạnh phúc nào to lớn và quý báu cho bằng thứ hạnh phúc khi cha mẹ còn sống với ta”.
Trong kinh Dhananjani, tôn giả Xá Lợi Phất thay lời Đức Phật giải thích cho Bà-la-môn Dhananjani về cái sai và cái đúng, cái nên làm và cái không nên làm trong vấn đề phụng dưỡng cha mẹ: “Này Dhananjani, người con hiếu thảo không nên vì cha mẹ mà làm các điều phi pháp, bất chính. Trước sự phán xét của nhân quả, người ấy không thể viện lý do vì muốn cho cha mẹ sung sướng, vui lòng để bào chữa cho mình là vô tội. Hành động như vậy sẽ bị đọa lạc dù nó có khóc than hay cha mẹ nó có van xin hay kể lể”.
Chính vì thế chúng ta thấy hành động hiếu thuận, hiếu dưỡng của người con chí hiếu phải được thiết lập trên đạo đức nhân quả và luật pháp. Người con hiếu chỉ làm những gì thật sự có lợi cho cha mẹ và có lợi cho mình mà không gây bất cứ tổn hại nào cho tha nhân. Tiêu chí báo hiếu đó được đoạn kinh dưới đây mô tả thật cô đọng và đủ nghĩa:
“Này Mahanam, người con hiếu với những tài sản mà mình đã nỗ lực thu hoạch được, do sức mạnh của đôi tay, bằng những giọt mồ hôi đổ ra một cách hợp pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường cha mẹ với thiện ý thì sẽ được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và hằng cầu mong cho con được sống lâu, mạnh giỏi. Này Mahanam, người con hiếu được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và mong cầu như vậy thì gia đình ấy chắc chắn sẽ thịnh vượng, không bao giờ bị suy giảm”.
Trong kinh Thọ giáo Thi-ca-la-việt, Đức Phật đã nêu ra năm tiêu chí đạo đức phù hợp với chánh pháp mà một người con hiếu thảo cần phải thực hiện để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Năm tiêu chí đó như sau: “Hiếu dưỡng cha mẹ đúng pháp; Làm tròn bổn phận con cái; Giữ gìn gia phong và truyền thống; Bảo vệ tốt các tài sản thừa tự và Chu đáo tang lễ khi cha mẹ qua đời”.
Theo Đức Phật, người con hiếu thảo đền ơn cha mẹ bằng đời sống đạo đức của mình. Sự báo hiếu đó phải bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần. Bởi lẽ mục đích của cuộc sống nhân sinh không chỉ phải là có được chén cơm manh áo mà thôi. Người ta phải cần đến chân lý, đạo đức và đời sống tinh thần như cây cỏ cần ánh sáng, con người cần không khí để sống vậy. Do đó báo hiếu chỉ đơn thuần về phương diện vật chất sẽ có giá trị giới hạn so với báo hiếu về phương diện tinh thần.
2. Hiếu thảo về phương diện tinh thần
Người con hiếu thảo phải tự nỗ lực gột bỏ các bợn nhơ của tâm lý như tham lam, sân hận, si mê, từ bỏ sự giết chóc, gạt người cướp của, không quan hệ tình cảm bất chính, không nói láo, không uống rượu và các chất kích thích tố có hại cho sức khỏe và tâm trí, nỗ lực làm các việc thiện đem lại lợi ích cho mình và tha nhân. Nói chung hiếu thảo trước nhất là biết cách hoàn thiện nhân cách đạo đức cho chính mình, để cha mẹ an tâm, hoan hỷ và hãnh diện.
Theo Đức Phật, người con có hiếu thảo không phải là người con “cha mẹ đặt đâu thì ngồi đó” hay chỉ biết “vâng dạ nuông chiều”. Trái lại, người con hiếu phải có đầy đủ bản lĩnh, sẵn sàng và khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về con đường chân chính, lợi ích, để cha mẹ thật sự an lạc: “Nếu cha mẹ cố chấp, si mê tà kiến, không tin Tam bảo, hung hiểm bạo ngược, tàn ác bất nhân, gây nhiều nghiệp dữ, người con có hiếu phải biết khuyên can cha mẹ, khiến sinh tín tâm, quay về chánh đạo, gần gũi bạn lành, mở lòng Bồ Đề, tu thiền niệm Phật, làm cho cha mẹ thường được an ổn”.
Trong kinh Tăng Chi, Đức Phật cũng dạy tương tự: “Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ -kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ Kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha”.
Như vậy, hiếu thảo trong đạo Phật không chỉ đơn thuần đáp ứng cho cha mẹ đời sống vật chất, tiền bạc, sự cung phụng và vâng lời. Hiếu trong Phật giáo được đặt vào trong mục tiêu hướng đến đời sống đạo đức và trí tuệ của cha mẹ và bản thân. Hiếu như vậy thật sự là một thiện pháp, để cha mẹ và con cái cùng bước đi trên con đường chân–thiện–mỹ, an lạc và hạnh phúc trong chánh pháp của Đức Phật. (Nguồn: Chữ Hiếu- Thích Nhật Từ)
+ Báo hiếu tối thượng: “Phật hỏi các Thầy Sa môn: Con nuôi cha mẹ, lấy cam lồ trăm vị làm thức ăn, dùng thiên nhạc làm vui tai, sắm y phục hảo hạng mặc nơi thân, vai cõng cha mẹ đi khắp bốn phương, suốt đời phụng dưỡng như vậy, đáng gọi là hiếu chăng? Các Thầy Sa môn thưa: Người này là đại hiếu.
Phật dạy: Chưa gọi là hiếu.
Phật bảo các Thầy Sa-môn : Xem người thế gian không có hiếu thảo, chỉ thế này mới gọi là hiếu: Hãy khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, thọ tam Quy giữ ngũ Giới. Dù cha mẹ sớm mai thọ trì quy giới , chiều về cõi chết , đối với ơn nặng cha mẹ nuôi dưỡng , cũng gọi tạm đền”. (Nguồn: Kinh Hiếu Tử)
+ Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân: Đức Phật dậy về người mẹ mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày thai nhi thành hình, sinh thành dưỡng dục. Con hiếu thảo thì con chuyển thuận ngôi, mẹ sanh rễ dàng. Con ngỗ nghịch bất hiếu thì mẹ sanh đẻ trong dãy đạp, đau đớn tột cùng rồi mới chào đời .... Ai biên chép thọ trì đọc tụng Kinh này công đức vô lượng, cũng là cách báo hiếu chân chánh. (Nguồn: Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân)
+ Xem bài viết tổng hợp về Chữ hiếu - Các tấm gương hiếu thảo mang lại sự cát tường nhiệm mầu, khỏi bệnh và họa hoạn: Mời xem tại đây
A- Các Hành - Theo âm dương ngũ hành
1. Nhất Nguyên hay Thái Cực: Vật chất hỗn độn, dung hợp
2. Chia Âm Dương: Duyên khởi chia Âm Dương và phân chia mãi vô cùng tận, thiên biến vạn hóa biến thành muôn vật, muôn việc vi diệu
3. Tứ đại: ... Kế đó Vật Chất Nguyên Thuỷ tự phân tán và hợp thành những Nguyên Tố qui định thành Tứ Đại trong Nguyên Tố thứ năm, tức Dĩ Thái, một biến thể của Akasha, tức chất Tinh Quang (Anima Mundi) hay Mẹ của Vũ Trụ. Tại sao và bằng cách nào có sự hình thành những “Chấm điểm, Đường thẳng, Tam giác, Khối vuông, Vòng tròn” và sau cùng là những khối “Bầu Tròn”? Thiên bình luận nói rằng đó là luật Thiên Nhiên và vì Thiên Nhiên tự biểu lộ theo những phương pháp hình học. (Nguồn: Giáo lý bí nhiệm)
+ Ngũ hành: ... Sự liên hệ chặt chẽ giữa những Mãnh Lực thiên nhiên đó (dưới bàn tay dìu dắt của các Đấng Cao Cả) với các loại ngũ hành của Vật chất thuần tuý tạo nên những hiện tượng vật chất như ánh sáng, nhiệt lực, từ điện, v.v....... Điện lực, ánh sáng, nhiệt lực v..v… đã được gọi một cách chính xác là “Cái Bóng của Vật Chất Vận Chuyển” ....
.... Nhưng, đằng sau mãnh lực này, có tiềm ẩn những nguyên nhân thâm diệu cao xa hơn, cũng như người chủ xe điều khiển người đánh xe từ bên trong. Đó là những Đấng Thông Tuệ, sáng suốt, từ tinh hoa của các Ngài phát xuất những trạng thái “Mẹ”, tạo nên vô số Tinh Linh thuộc về ngũ hành trong thiên nhiên, cũng như mỗi giọt nước chứa đựng vô số Sinh vật vô cùng nhỏ bé (Infusoria) (1).....
g) NHÓM THỨ SÁU và THỨ BẢY có đặc tính thấp hơn của Tứ thể hạ. Đó là những Thực Thể hữu thức, thể chất mong manh như sương và vô hình như chất Dĩ Thái, xuất phát từ nhóm trung ương đầu tiên gồm có Bốn vị Thiên Vương. Đến lượt các Nhóm ấy lại phóng phát ra vô số các nhóm nhỏ, nhóm thấp nhất là những tinh linh ngũ hành, gồm vô số loại, từ những loại vô sắc và không có thể chất - những TƯ TƯỞNG tuyệt đích của các Đấng sáng tạo ra chúng - dẫn xuống đến vi trần mà mắt người không nhìn thấy ..... (Nguồn: Giáo lý bí nhiệm)
B- THEO MINH TRIẾT MỚI:
+ Tứ đại (vật chất vi tử, yếu tố): X. Yếu tố, Hợp tố.
+ Tứ đại - Dĩ thái: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ đại: Phong (Air), Hỏa (Fire), Thủy (Water), Địa (Earth). (LVLCK, 43)
+ Ngũ Đại có 5 yếu tố: Dĩ thái (Ether), Không khí/ Phong (Air), Lửa (Fire), Nước (Water), và Đất (Earth) .(ASCLH, 157)
+ Dĩ thái - "Thuộc về Sao": Khi tiếp xúc với thế giới dĩ-thái, ấn tượng đầu tiên được mang lại luôn luôn là một ánh sáng đầy sao, sự sáng chói, sự nhấp nháy (LVHLT, 221)
+ Tattva hay vật chất vi tử của một cõi là kết quả của một vùng xoáy được tạo nên bởi tattva của cõi kế trên trong các tập hợp thô trược nhất của cõi cao kế trên đó, vùng xoáy này được tạo ra bởi một tanmatra mới phát ra từ Isvara, các yếu tố:
1. Cõi Tối Đại Niết Bàn (cõi thứ 7). Do sự phối hợp của vật chất vi tử Cõi này mà 6 phân cảnh thấp của cảnh giới (cõi) cao nhất được tạo thành.
2. Cõi Đại Niết Bàn, vật chất vi tử của cảnh giới Đại Niết Bàn, cõi thứ 6.
3. Tiên thiên khí (Tiên thiên khí đại, tương ứng với Dĩ thái (ether), âm thanh (sound), vật chất vi tử của cõi Niết Bàn (Nirvana), cõi thứ năm.
4. Yếu tố Phong (Phong đại), tương ứng với Không Khí (Air), xúc giác (Touch), vật chất vi tử của cõi thứ tư, cõi Bồ Đề. (Bất cứ sự động nào đều phát sinh gió)
5. Yếu tố Hỏa (Hỏa đại), tương ứng với Lửa, ánh sáng, vật chất vi tử của cõi thứ ba, cõi trí (Manasic plane).
6. Yếu tố Thủy (Thủy đại), tương ứng với Nước, Vị giác (taste), vật chất vi tử của cõi thứ hai, cõi cảm dục
7. Yếu tố Thổ (Thổ đại), tương ứng với Đất, khứu giác (smell), vi tử hồng trần của cõi thứ nhất, cõi trần. (LVLCK, 56, 94)
- Xem thêm Hợp tố, Tattvas hay là các biến phân của lực dưới 7 hình thức của chúng. (ASCLH, 153)
- Xem thêm: Sách Ngũ hành - Minh Triết mới
+ Thứ tự tính vật chất tăng dần thì bảy nguyên tố vũ trụ là (Thư của Chơn sư, 90):
1. Akāsha (đôi khi được gọi là Aether),
2. Thủy (Linh hồn Thế giới hoặc chính xác hơn là phần cao của nó),
3. Dĩ thái (thường được viết là Aether),
4. Tứ Đại: Lửa, Gió, Nước (phần thấp của Linh hồn Thế giới) và Đất.
- Ba nguyên tố đầu tiên tương ứng với ba cõi cao, “vô sắc giới” (aroupa) của vũ trụ,
- Bốn nguyên tố cuối cùng đôi khi được gọi là 4 phương chính (Giáo Lý Bí Truyền I, 359, 501) tương ứng với bốn cõi thấp, “sắc giới” (roupa). (Nguồn: Thông thiên học)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây. (Xem Tooltip: Các đại và luân xa)
+ Theo truyền thống Ấn Độ thì 4 đại: Địa, Thủy. Hỏa, Phong là 4 đặc tính của vật chất hay là các nhân tố tạo thành vật chất. Trong đó:
- Địa Đại là nguyên tố rắn chắc có tác dụng giữ gìn tức là tính bền của vật chất.
- Thủy Đại là nguyên tố ướt mềm có tác dụng nhóm họp tức là tính dính ướt của vật chất.
- Hỏa Đại là nguyên tố phóng quang ấm áp có tác dụng thiêu cháy, nấu chín tức là tính ấm áp của vật chất.
- Phong Đại là nguyên tố bốc hơi (Chất hơi) rung chuyển có tác dụng lay động tức là tính động của vật chất.
Như vậy bất kỳ một thứ nào nếu không có 4 tính năng lớn đó thì không phải là vật chất, nghĩa là mọi thứ vật chất đều phải dựa vào sự tương tác tương tùy của bốn đặc tính này mà tồn tại.
+ Linh hồn của các Hành Tố. Các sinh vật tiến hóa trong 4 giới/ 4 Hành – Địa, Phong, Hỏa và Thủy. Tín đồ Do Thái Bí giáo gọi các tạo vật này là Thổ tinh linh (thuộc về đất), Phong tinh linh (thuộc về không khí), Hỏa tinh linh ( thuộc về lửa) và Thủy tinh linh (thuộc về nước).… (NGMTTL, 111–112)
C- THEO PHẬT GIÁO: Trong Phật giáo có các thuyết: Tứ đại, Ngũ đại, Lục đại, Thất đại...
I. Tứ Đại:
+ Sao gọi Tứ đại: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là tứ đại?
Thế Tôn nói: Đất có tánh chắc, nước có tánh thông, lửa có tánh nóng, gió có tánh động kêu là tứ đại. Trong thân người cũng có tứ đại hòa hiệp mới thành một thể, nên da thịt gân cốt hiệp thành cái thân tên là địa đại. Nước miếng, nước tiểu và máu tươi nhuận cái thân tên là thủy đại. Trong mình hơi ấm vận chuyển điều hòa cái thân tên là hỏa đại. Tay chân co duổi đi đứng tới lui, chuyển động cái thân tên là phong đại. Hễ tứ đại điều hòa thì thân an lạc; tứ đại chẳng hòa ắt sanh bệnh khổ. Nên địa, thủy, hỏa, phong kêu là tứ đại. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
1. Tứ đại vốn lay động: Nếu như các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tính viên mãn cùng khắp, vốn không lay động; thì nên biết kiến đại cùng với hư không vô biên chẳng dao động và bốn thứ vốn lay động là địa, thủy, hỏa, phong, gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng, vốn không sinh không diệt.
Giảng: ".... đất, nước, lửa, gió, không và kiến – gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng." Đó đều là biểu hiện của tánh Như Lai tạng. "Vốn không sinh không diệt.". (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q.3 tiếp Q.2- HT Tuyên Hóa)
2. Tứ Đại nương tựa vào nhau để tồn tại: Con Người nương tựa vào lúa gạo để tồn tại - Lúa gạo dựa vào Đất - Đất dựa vào Nước - Nước dựa vào Gió - Gió Tựa vào Hư Không - Hư Không không có nương tựa, nhưng Nhân (nhờ Mặt Trời và Mặt Trăng) mà mà có Hư Không - Mặt trời, mặt trăng nương vào Tứ thiên vương mà tồn tại - Tứ Thiên vương nương vào Tam thập tam thiên mà tồn tại .... Nhẫn Nhục dựa vào Niết Bàn tồn tại - Niết Bàn không dựa vào đâu mà tồn Tại - Là Pháp Tối Thắng Của Đức Phật. (Nguồn: mục 777- Xem tại đây)
3. Hiểu đơn giản: Gồm đất (địa đại), nước (thủy đại), gió (phong đại) và lửa (hỏa đại). Bốn đại là bốn yếu tố căn bản tạo thành vật chất:
- Đất tượng trưng cho độ rắn chắc, kết cấu của vật chất;
- Nước tượng trưng cho độ ẩm, sự hiện diện của nước trong vật chất;
- Lửa tượng trưng cho nhiệt năng hay năng lượng, hàm chứa trong mọi vật chất;
- Gió tượng trưng cho sự chuyển động, thay đổi của các phân tử cấu thành vật chất.
Tất cả vật chất trong vũ trụ đều do bốn tính chất này hòa hợp theo những tỷ lệ khác nhau mà tạo thành. Thân thể con người cũng không phải ngoại lệ, nên được gọi là thân tứ đại. Vì thân tứ đại là cội nguồn của mọi sự tham dục, khổ não nên người tu tập nên quán xét nó như là con rắn độc (tứ đại độc xà).(Nguồn: Định nghĩa tứ đại)
+ Đại khái các tông Câu xá, Duy thức... đều áp dụng thuyết Tứ đại, vì tứ đại tạo ra tất cả các sắc pháp nên gọi là Tứ đại chủng hay Năng tạo tứ đại.
- 4. Hiểu toàn diện: Bốn yếu tố lớn hình thành nên vật chất, gồm:
(1) Địa Đại (Đất), bản chất của nó cứng rắn, có tác dụng bảo trì.
(2) Thủy Đại (Nước), bản chất ẩm ướt, có tác dụng thâu nhiếp, tập trung.
(3) Hỏa Đại (Lửa), bản chất ấm nóng, có tác dụng thành thục.
(4) Phong Đại (Gió), bản chất động, có tác dụng sinh trưởng.
- Khi 4 yếu tố này hợp lại thì có thể hình thành nên vạn vật, và khi chúng tan biến thì vạn vật cũng theo đó mà tiêu diệt; cho nên, không có người sáng tạo ra vạn vật, mà cũng chẳng có vạn vật nào được sáng tạo cả; vì vậy, trong Phật Giáo vẫn thường dùng từ “Tứ Đại giai không, bốn đại đều không thật có).
- Tứ đại luôn động/ thay đổi: Bốn yếu tố lớn cấu tạo nên vạn hữu. Bốn thành phần nầy không tách rời nhau mà liên quan chặt chẽ lẫn nhau. Tuy nhiên, thành phần nầy có thể có ưu thế hơn thành phần kia. Chúng luôn thay đổi chứ không bao giờ đứng yên một chỗ trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Theo Phật giáo thì vật chất chỉ tồn tại được trong khoảng thời gian của 17 chập tư tưởng, trong khi các khoa học gia thì cho rằng vật chất chỉ chịu đựng được 10 phần 27 của một giây. Nói gì thì nói, thân thể của chúng ta chỉ là tạm bợ, chỉ do nơi tứ đại hòa hợp giả tạm lại mà hành, nên một khi chết đi rồi thì thân tan về cát bụi, các chất nước thì từ từ khô cạn để trả về cho thủy đại, hơi nóng tắt mất, và hơi thở hoàn lại cho gió. Chừng đó thì thần thức sẽ phải theo các nghiệp lực đã gây tạo lúc còn sanh tiền mà chuyển vào trong sáu nẻo, cải hình, đổi xác, tiếp tục luân hồi không dứt.
- II- Ngũ Đại - Cũng gọi Ngũ đại chủng. Chỉ cho 5 nguyên tố của thể tính rộng lớn, sinh thành ra muôn pháp, tức là: Đất, nước, lửa, gió và không. Tính chất của 5 nguyên tố này theo thứ tự là cứng, ướt, nóng, động và vô ngại; tác dụng là giữ gìn, thu nhiếp, thành thục, tăng trưởng, không ngăn ngại.
+ Mật giáo thì chuyên sử dụng thuyết Ngũ đại, Lục đại (đất, nước, lửa, gió, không, thức), chủ trương tứ đại không lìa tâm đại, cho rằng tâm và sắc tuy khác nhưng thể tính của chúng thì chẳng phải 2;
- Lại đem Ngũ đại phối với ngũ phương(vị), ngũ sắc, ngũ Phật, ngũ môn và ngũ trí.
- Còn nói về hình tướng và màu sắc thì đất là hình vuông màu vàng; nước hình tròn màu trắng; lửa hình tam giác màu đỏ; gió hình bán nguyệt màu đen; không là hình bảo châu màu xanh. Đây chính là tháp Ngũ luân hình Tam muội da của đức Đại nhật Như lai. [Nguồn: X. kinh Vô lượng thọ Q.hạ; phẩm A xà lê chân thực trí trong kinh Đại nhật Q.5....).
- 2. Ngũ Đại. Chỉ cho 5 đại: Không đại, phong đại, hỏa đại, thủy đại và địa đại do Ngũ duy sinh ra. (Ngũ duy chỉ cho: Thanh duy, xúc duy, sắc duy, vị duy và hương duy).
Đây là 1 khoa trong 25 đế do học phái Số luận thành lập. Cứ theo Thành duy thức luận thuật kí, thì có thuyết cho rằng từ Ngã mạn sinh ra 10 pháp là ngũ đại và ngũ duy; nhưng cũng có thuyết chủ trương Ngã mạn chỉ sinh ra ngũ duy, còn ngũ duy thì sinh ra ngũ đại, và ngũ đại sinh ra 11 căn.
- Phật giáo thì cho tứ đại và ngũ đại là năng tạo, còn học phái Số luận thì chủ trương ngũ đại là sở tạo. Đây là sự sai khác căn bản giữa 2 bên. [ Nguồn: X. kinh Niết bàn Q.35, 36 (bản Nam).... (Nguồn: Định nghĩa ngũ đại)
+ Tứ đại do năng tạo, ở Thiên là khí, ở đất là hình: Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới.... có kim luân giữ gìn cõi nước ...có hỏa đại..... có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh.
Ngoài tứ đại còn có không đại, kiến đại và thức đại. Vì không đại là phản ánh của chơn không. Kiến đại là chỗ lưu lộ của chân như, thuộc năm hiện lượng. Nó chính là phần Năng kiến nói trong luận Khởi Tín, là phần Kiến tinh nói trong kinh Lăng Nghiêm. Thức đại là để biết do đâu có sự phân biệt cảnh.... (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên hay tự nhiên- Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ MỤC HỎI ĐÁP VỀ TỨ ĐẠI (Phật dậy trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Đại chủng là bốn giới - Tức đất, nước, lửa, gió - Khả năng và tính chất
- Luận: Đất, nước, gió, lửa có khả năng gìn giữ các tính chất riêng của mình và các sắc pháp được chúng tạo thành (sở tạo sắc) vì thế gọi là giới. Bốn giới này được gọi là đại chủng vì chúng làm chỗ dựa cho tất cả các loại sắc khác và vì thế tính vốn rộng khắp; hoặc vì đại chủng đất, nước, v.v., tập trung với số lượng lớn trong đất, nước, v.v., hoặc vì khởi đủ các loại tác dụng lớn.
- Hoạt động tương tác - Tạo nghiêp: Theo thứ tự trên, chúng có thể trì giữ, kết dính (nhiếp), làm chín và làm tăng trưởng.
* Địa giới có khả năng trì giữ, thủy giới có khả năng kết dính, hỏa giới có khả năng làm chín và phong giới có khả năng làm tăng trưởng. Nói “tăng trưởng” có nghĩa là làm chuyển dịch (prasarpaṇa) và lớn mạnh (vṛddhi).
* Các tính chất bốn Đại: cứng, ướt, nóng, động. Địa giới có tính cứng, thủy giới có tính ướt, hỏa giới có tính nóng, và phong giới có tính động. Nhờ vào tính chất động này mới có thể dẫn dắt đại chủng tạo sắc tương tục sinh khởi đến các chỗ khác; cũng giống như trường hợp của ánh đèn. Phẩm Loại Túc luận (Prakaranas) và Khế kinh (Garbhāvakrantisūtra) nói: Phong giới là gì? - Là tính chất nhẹ nhàng (laghutva). Phẩm Loại Túc luận lại nói: “Tính chất nhẹ nhàng này là một sở tạo sắc.” Vì thế một pháp có tính động (iraṇātmaka) là phong giới; tức ở đây đã dựa vào tác dụng động (iraṇātmakrman) để trình bày thể tính cho nên mới nói là “nhẹ nhàng”.
+ Những khác biệt giữa đại chủng đất, v.v., là gì? Đáp: Đất là hiển và hình; Tùy thế tục đặt tên; Nước, lửa cũng như vậy; Gió là phong giới cũng là hiển sắc và hình sắc.
- Luận: Địa là màu sắc và hình dạng, có sắc xứ làm thể, thế gian gọi như vậy. Bởi vì thế gian khi chỉ cho nhau xem đất đều dựa vào màu sắc và hình dạng của nó. Về nước và lửa cũng vậy.
+ Gió chính là phong giới, vì thế gian căn cứ vào sự chuyển động để gọi tên hoặc giống như trường hợp của đất v.v. Ở đây cũng tùy theo cách gọi của thế gian nên gọi là gió. Gió chính là màu sắc và hình dạng vì thế mới nói là “cũng như vậy” (diệc dĩ). Như thế gian nói “gió đen,” “gió xoáy,” v.v., tức đã dựa vào màu sắc và hình dạng để chỉ cho gió. (Nguồn: (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q3- HT Tuyên Hóa)
+ Hành kim trong ngũ hành cũng tương ứng là/ Nhiếp thuộc Địa đại trong tứ Hành tố (Đất - Nước - Gió - Lửa là vật chất đậm đặc nhất (Được chia tương ứng 4 phương). Tứ Hành tố là "biến phân" của các tứ Đại gồm Địa đại - Thủy đại (Phần cao của nước) - Hỏa đại - Phong đại; Ngoài ra còn Không, Kiến, Thức đại). Các đại hình thành trời đất/ muôn vũ trụ khắp hư không. Tứ đại ở trời là KHÍ thì động, biến đổi không ngừng, đều do nhân Phong luân/ Gió lay động mà phát sinh các nhân duyên hòa hợp hoặc phân ly mà thành ra các sắc vô tướng biến đổi không ngừng. Ở đất thành hình đều do Đất ngăn ngại hòa hợp với Nước - Gió - Lửa mà thành Tướng vạn vật biến đổi không ngừng, muôn sai vạn biệt, sinh diệt diệt sinh không cùng. Đại khái, hiểu theo nghĩa thế gian thì bảy đại trong hư không, có tứ đại (Địa - Thủy - Hỏa - Phong) thì động, ba đại là Không - Ý - Thức thì tịnh) - Nhân trắc học tổng hợp - Mong chỉ tham khảo;
Xem thêm: Phần 1: Phân biệt các Giới: Đại chủng bốn giới - Tứ đại: Đất nước Gió Lửa
Xem thêm: Các Đại Dựa Vào Nhau Để Tồn Tại
Xem thêm: Tổng hợp Tooltip các đại và các Hành
Xem thêm: Các Đại và các hành tương tác
Xem thêm: Các Đại và các Hành trong Đại Thiên Địa
A- LUÂN HỒI (Incarnation, đầu thai, lâm phàm): X. Định luật luân hồi:
+ Chân Ngã - Linh Hồn - Thức Thứ tám Luân hồi hay incarnating - Reincarnating ego - Luân hồi hay Tái sanh.
+ Chân Ngã luân hồi tức là hồn thiêng (divine soul).
+ Sutratma theo nghĩa đen là Thread Soul (Hồn Dây), đồng nghĩa với Chân Ngã luân hồi (tức là Manas liên kết với Buddhi). (CKMTTL,120,125)
+ Trong 1 kiếp sống: (i) - Con người lại có được một thể xác tiến hoá hơn,(ii)- có tính chất ứng đáp nhiều hơn, (iii)- được điều hợp với một khoá cao hơn, với sự tinh vi và thích hợp hơn, rung động với một mức độ khác hơn. Ba ý tưởng này cần nghiên cứu cẩn thận và quảng diễn một cách hợp lý (LVLCK, 169)
+ Giai đoạn chuẩn bị Luân hồi: Nhân hồn được tái hấp thu vào đại hồn trước khi lại tái luân hồi.… Có ba chủng tử liên quan một cách đặc biệt với các vi tử thường tồn thể xác và thể cảm dục, như thế tạo ra mãnh lực ngũ phân vốn dĩ sẽ tạo ra các sắc tướng
+ Luân hồi, thời gian tạm ngưng: Không hề có sự cố định về thời gian tạm ngưng, đó chỉ là vấn đề nhu cầu của linh hồn mà thôi; (VLH, 199)
+ Người ta cho rằng bí nhiệm ẩn tàng trong 777 lần luân hồi. Con số này đem lại cơ hội cho nhiều suy gẫm. Cần nói rõ rằng đó không phải là con số chu kỳ luân hồi mà con người phải vượt qua nhưng nó nắm giữ chìa khóa cho 3 chu kỳ chính đã nói trước (chu kỳ của Chân Thần, chu kỳ của Chân Ngã, và chu kỳ của Phàm ngã –ND). Trước tiên, con số này áp dụng cho Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống hành tinh chúng ta chứ không phải cho các hành tinh hệ khác. Mỗi Đức Hành Tinh Thượng Đế có con số của Ngài, còn con số của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta ẩn giấu trong 3 con số nói trên, cũng như 666 và 888 nắm giữ cái huyền bí được che giấu của hai Đức Hành Tinh Thượng Đế khác. Số 777 này cũng là số chuyển hóa, vốn là công việc căn bản của tất cả các Hành.
+ Con Người đầu thai luân hồi: Làm sao mà con người trở thành con người? Khi con người được hình thành, thức thứ tám có mặt trước tiên; và khi chết, thì thức thứ tám ra đi sau cùng (HT Tuyên Hóa giảng kinh Phật). THỨC THỨ TÁM Luân hồi: Xem chi tiết tại trang: Tổng hợp về Luân hồi - Chết và Tái sinh
+ Quy luật con người đầu thai: Đại sư Liên Hoa Sanh có khuyên rằng: Trong giờ phút lâm chung hãy buông bỏ mối quan tâm đối với thế giới nầy; hãy buông bỏ sự dính mắc với bất cứ ai mà bạn có mối quan liên mạnh mẽ nhất trong đời nầy........ Hãy nhớ rằng, theo Du Già Sư Địa Luận (Yogacarabhumi) được thánh giả Vô Trước (Asanga) ghi chép lại từ Bồ Tát Di Lặc (Maitreya), thì con người chết đi và đầu thai lại chỉ luẩn quẩn trong vòng những người thân của mình trong vô lượng lần. (Xem nguồn)
+ Nhân tái sanh các loài theo kiểu sanh: .... Nay nói sơ qua nghiệp chướng bốn loại:
1.- Noãn sanh: Là người đời trước vì kế sinh hoạt, tâm hay sắp đặt mưu mô xảo trá lừa gạt, nên đọa làm noãn sanh như các loài chim cá v.v... Người tham kế cao thì làm chim, thấy người thì bay cao. Người mưu sâu thì làm cá, gặp người thì lặn xuống.
2.- Thai sanh: Người này đời trước tham đắm dâm dục nên đọa thai sanh như người, dê, heo, cùng thú có vú đẻ con như trâu, bò, ngựa, mèo, chó. Tội tham dâm sanh làm người thì đặng đứng thẳng, nếu lòng ngang ngược, tham dục không có tiết độ thì sanh làm thú đi ngang bốn cẳng (chân).
3.- Thấp sanh: Người này đời trước tham ăn rượu thịt làm việc vui chơi, đánh lộn giữa chợ, loạn tâm điên đảo, nên đọa làm thấp sanh là loài cua, tôm, rùa, trạnh v.v...
4.- Hóa sanh: Người này đời trước hay dời đổi, ý niệm khác thường, trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy, làm nhiều tội ác, nên đọa hóa sanh như loài ve, bướm, muỗi, ruồi v.v...
Phật nói cùng ông Văn Thù Sư Lợi: Trong lục đạo tứ sanh, con người là quý trọng, vì người có tánh linh. Phật cũng từ trong loài người mà tu hành, nghiệp cũng do người tạo ra, như người tu phước thì được về cõi Trời, người làm ác thì đọa vào địa ngục, người có đức thời làm Thần, người có đạo thì làm Thánh. Phước và tội đều có liên quan nhiều đời, không thể đem hiện tại mà nhận định, đến khi lâm chung theo nghiệp trả quả. Trong sáu đường, đường người là quý, năm đường kia không sánh kịp, nên một khi mất thân người, muôn kiếp không thể phục hồi lại được. ......
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa làm ngạ quỷ?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng thí, tham mến ăn mặc, lường gạt lấy tiền của công đem thọ dụng riêng.Có người nghèo khó xin ăn, một đồng chẳng thí lại thêm mắng chửi, cứ lo cho mình no ấm không thương người đói lạnh. Đến khi chết rồi quyết đọa trên đường ngạ quỷ, chịu đói khổ sở, cái cuống họng nhỏ như cây kim, nuốt ăn chẳng xuống, cái bụng lớn như cái trống đồng, như hòn núi, thoảng như gặp đồ ăn uống thì đồ ăn uống ấy hóa đồng sôi sắt nóng, đói cho đến đổi trong miệng hóa ra lửa, lỗ mũi ra khói, hình thể ốm đen, đền tội đủ rồi mới hết nghiệp khổ.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa làm súc sanh?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm thú, bày tiệc ăn chơi đàn ca vui sướng, nên trả quả làm súc sanh đền thường mạng trước. Lại có người mượn vay tiền bạc của người đoạt lấy chẳng trả, quả báo làm súc vật trả cái nợ cho người, trả cho hết cái nghiệp đó mới ra khỏi luân hồi......
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tu những phước nghiệp gì được làm người đàn ông?
Thế Tôn nói: Người biết cung kính Tam bảo, thảo nuôi cha mẹ, thường làm mười việc lành, thọ trì năm giới, lòng ở công chánh, quí mến người hiền lương, tu những căn lành như vậy thời đặng làm người đàn ông. Nếu trong ba kiếp chẳng tu thời đọa làm đàn bà. Trong năm trăm năm làm thân đàn ông một lần, hoặc khi chuyển đổi thân, quên mất kiếp trước, gặp nhân duyên ác lại tạo việc chẳng lành, nên mất thân đàn ông muôn kiếp khó trở lại đặng.
Lại nữa Văn Thù Sư Lợi! Thân đàn ông có đầy đủ bảy báu; thân người đàn bà có năm thứ lậu. Sao tên là bảy báu? ..........
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có người trai lành gái tín một đời trai giới, gieo trồng các căn lành, đến già sa ngã bỏ ăn chay phạm giới cấm, sau bị quả báo chi?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh như vậy tuy có căn lành mà không có nguyện lực lớn, không có chánh tri kiến, xa lìa thầy bạn, quên hết các công lao khi trước tu hành, trở lại bị lục tặc lôi kéo, cướp đoạt công đức của mình, tâm sanh điên đão không thành Phật đạo. Trong đó hoặc có người phạm về việc ăn thịt thời phải đọa lạc về thần đạo, như bực trên thì làm quỷ vương, bực giữa thì làm dọa xa, bực dưới thì làm la sát, chịu hưởng của người cúng tế. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Trong đó hoặc có người phạm dâm dục thời làm ma đạo, bực trên thời làm ma vương, bực giữa thời làm ma dân, bực dưới thời làm ma nữ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Trong đó hoặc có người phạm tội uống rượu, thời đọa lạc về quỷ đạo, bực trên làm hữu tài quỷ, bực giữa thời làm phong nguyệt quỷ, bực dưới thời làm tiêu tán quỷ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Hoặc phạm tội trộm cắp, phải đọa lạc tà đạo, bực trên thời làm tinh linh, bực giữa thời làm yêu quái, bực dưới thì làm người ta. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Hoặc phạm tội vọng ngữ, chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, cái lòng tự cao nên phải đọa làm loài yêu, bực trên thời làm ly mị, bực giữa thời làm vọng lượng, bực dưới thời dựa gá cỏ cây. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Lại có người hay oán giận, tuy có phước đức cũng đọa Tu la ác đạo, bực trên là A tu la vương, bực giữa là A tu la chúng, bực dưới là A tu la nữ, thường ham tranh đấu, chịu những lao khổ mãi mãi. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Người tu đúng phải giữ ngũ giới, không ăn thịt ... (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Tu đúng như pháp tu hành: KHÔNG HỌC ĐỆ TỬ QUY, CẢM ỨNG THIÊN, THẬP THIỆN NGHIỆP MÀ HỌC KINH VÔ LƯỢNG THỌ, QUÝ VỊ HỌC 300 NĂM NỮA CŨNG VÔ ÍCH.
... Trong tất cả những kinh Phật có sâu cạn khác nhau. Nhưng tu học nhất định từ nơi cạn đến sâu, không thể vượt bậc. Vượt bậc nhất định tu không thành tựu được. ..... trong Đại Tạng Kinh có, Phật dùng cách khuyên dạy như vầy: "Phật tử không học Tiểu thừa trước rồi sau đó học Đại Thừa thì không phải là đệ tử Phật". Câu nói này rất quan trọng. Phật không thích dạy người vượt cấp, nhất định theo từng bước mà làm, từng bước vững vàng, quí vị mới thành tựu. [...]
Nhưng ngày nay Nho cũng không cần, Đạo cũng không cần, Tiểu thừa cũng không cần nữa, vừa vào đã học Đại Thừa, sau khi học được đều cuồng vọng tự đại, cho nên không thành tựu gì cả. Đây là gì? Không nghe lời giáo huấn của Phật.
Người Trung Quốc cho rằng: "không nghe lời người lớn, chịu thiệt ngay trước mắt". ... Ngày nay phải cắm rễ từ đâu? Nhất định phải từ Đệ tử quy, Cảm ứng thiên, Thập thiện nghiệp để cắm rễ. Nếu như không phải từ đây mà cắm rễ, quí vị học thêm 300 năm nữa cũng vô ích. Quí vị có thể khai ngộ không, đắc định không? Chắc chắn không thể. Đạo lý này nhất định phải hiểu được, phải vô cùng chăm chỉ nổ lực, dùng công phu hai ba năm để cắm rễ cho chắc. Nhất định phải hiểu được đức Thế Tôn năm xưa tại thế, dùng thời gian 12 năm để cắm rễ, gốc rễ đó sâu biết bao. Vì vậy đương thời người chứng A La Hán rất nhiều...... (Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không)
+ Đức Phật dạy Tu hành:
Lạy, không phải là quỳ lưng nằm sấp mà là buông bỏ ngạo mạn.
Niệm, không phải là tính số lần mà là thanh tịnh lương tâm.
Xá, không phải là chắp tay cái chào mà là cung kính đối phương.
Định, không phải là ngồi yên bất động mà là ngoài tâm vô vật.
Hỷ, không chỉ là nét mặt tươi vui mà là thân tâm thư thái.
Tu, không chỉ buông bỏ dục vọng mà là tâm không ích kỷ.
Thí, không phải là buông bỏ tất cả mà là tích lũy từ bi.
+ Tu đạo - Tu hành đúng: Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù:
Nếu tu hành còn uống rượu mà muốn thành đạo, thì cũng như người uống thuốc độc mà muốn được an vui, không có thể được. Cớ sao vậy?
Nếu tu hành mà còn ăn thịt, muốn được thành đạo, cũng như nhận kẻ oán thù cho là con mình, muốn được thân yêu không có thể được.
Nếu tu hành phạm tội trộm cắp, muốn đặng thành đạo, cũng như lấy cái lu thủng đựng nước, muốn nước đầy mãi không có thể được.
Nếu tu hành còn phạm dâm dục, muốn cầu thành đạo thì như nấu cát đá muốn cho thành cơm, không có thể được.
Nếu tu hành chẳng dứt bỏ nói dối, lấy cái dối làm thiệt, muốn cho thành đạo cũng như người thường dân xưng là vị quốc vương, muốn cầu giàu sang không có thể được.
Nếu tu hành mà tâm thường hay giận hờn, tánh thường hay tranh hơn thua, thiếu lòng từ bi bình đẳng mà muốn thành đạo, cũng như mình đi chiếc ghe lủng, muốn qua biển lớn thì phải bị chìm, tại nơi người muốn nên phải bị đọa, chẳng phải đức Phật chẳng cứu.
Nếu như muốn đoạt kết quả tốt đẹp của đạo Bồ đề thì phải giữ gìn trai giới của đức Như lai cho được thanh tịnh, thà là bỏ thân mạng, nhứt định không hủy phạm; đức Phật nhìn nhận người này chắc được thành Phật.... (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Nguyên nhân sinh tử luân hồi tái sanh
“Ngươi hãy đến chỗ Xá-lê Tử/ Xá Lợi Phất nói rằng ‘Đức Thế Tôn muốn gọi ngài.’”..... Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lợi-phất, có thật vừa rồi thầy tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật, rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’ chăng?”
Tôn giả Xá-lê Tử bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, không phải với lời văn ấy, không phải đi với câu ấy mà con nói về nghĩa ấy”..... Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Xá-lê Tử nếu có vị phạm hạnh nào đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, biết thế nào, thấy thế nào, để có thể tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’ Này Xá-lê Tử nghe như vậy thầy sẽ trả lời sao?”
Tôn giả Xá-lê Tử trả lời rằng:
“Bạch Thế Tôn,.... con sẽ trả lời như vầy: ‘Chư Hiền, sanh có nhân. Nhân của sự sanh ấy diệt tận, thì biết nhân của sự sanh diệt tận; tôi tự tuyên bố là chứng đắc trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa?’ ..... con sẽ trả lời như thế.
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Nếu các vị phạm hạnh đến hỏi như thế, thầy nên trả lời như vậy. Vì sao thế? Vì nói như thế nên biết đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu có vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, sự sanh do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc[6]?” Thầy nghe những câu hỏi đó, trả lời như thế nào?”......... Con nghe như vậy sẽ trả lời rằng: ‘Này chư Hiền, sự sanh lấy hữu làm nhân, lấy hữu làm duyên, từ hữu mà sanh, lấy hữu làm gốc’. ...
Đức Thế Tôn khen: “Hay thay! Hay thay! .....
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, hữu do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế nào?”...... ‘Này chư Hiền, hữu lấy thủ[7] làm nhân, lấy thủ làm duyên, từ thủ mà sanh, lấy thủ làm gốc.’....
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! ..... đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, thủ do nhân gì, do duyên gì, từ đâu mà sanh, lấy gì làm gốc?’ ........ ‘Này chư Hiền, thủ lấy ái làm nhân, lấy ái làm duyên, từ ái mà sanh, lấy ái làm gốc’. Bạch Thế Tôn, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi con như thế, con sẽ trả lời như vậy”.
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! .... đó là nghĩa”.
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Xá-lê Tử, nếu các vị phạm hạnh đến hỏi thầy thế này: ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, thế nào là ái?’ Thầy nghe những lời ấy sẽ trả lời thế nào?”......: ‘Này chư Hiền, có ba cảm thọ[8]; cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ không lạc không khổ. Ở trong đó mà ham muốn, đắm trước, đó gọi là ái’. ....
Đức Thế Tôn khen rằng: “Hay thay! Hay thay! ... đó là nghĩa”..... Kinh còn dài nữa (Nguồn: 23.Kinh Trí 1 - Kinh A Hàm)
+ Chuyển kiếp tái sanh cần nhân duyên đặc biệt:
"Cho nên, Phổ Quảng, khinh chê sự cúng dường của người khác mà còn mắc phải tội báo như thế, huống là tự sanh ác kiến hủy diệt!"
Lược giảng:
... Khinh chê và hủy báng những người cúng dường Ðịa Tạng Vương Bồ Tát thì phải nhận lãnh những ác báo: phải trải qua 1.000 đày đọa ở chốn địa ngục, 1.000 đường ngạ quỷ, 1.000 chốn súc sanh, sau đó mới được đầu thai làm người mà lại là người bần cùng hạ tiện và các căn không toàn vẹn.
... Ðây là luật pháp của địa ngục do chính Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên nói. Tuy nhiên, trong đó vẫn có sự ngoại lệ đối với những nhân duyên đặc biệt ...
Ví dụ: Trong lúc đang mang thân ngạ quỷ thì kẻ ấy phát tâm từ bi, tự nguyện trợ giúp những người đang tu Ðạo, hoặc thấy người khác lạy Phật, lạy Bồ Tát thì kẻ ấy cũng tùy hỷ phát tâm lễ bái theo và hoan hỷ bảo vệ người tu Ðạo; như vậy là trong thời gian thọ tội, kẻ ấy đã lập được công đức thiện lành, nhờ đó kẻ ấy có thể được đi đầu thai làm súc sanh hoặc làm người. Hoặc là có người mang thân súc sanh mà được gần gũi Phật pháp, cũng sanh tín tâm, tội chướng cũng giảm dần, có thể được thác sanh làm người sớm hơn!
Lúc Hư Vân Lão Hòa Thượng ở Vân Nam (Trung Hoa), có một con gà được mang đến thả nuôi trong chùa, và hằng ngày nó thường lẽo đẽo đi theo những người tu hành ở đó. Khi chư Tăng lên chánh điện niệm Phật thì nó cũng đi theo, và cùng mọi người nhiễu Phật, niệm Phật. Như thế được ba năm thì có một hôm con gà đó đến đứng trước tượng Phật mà vãng sanh. Ðây là một trong những trường hợp nhân duyên đặc biệt vậy.
Nếu trong lúc thọ thân làm người bần cùng hạ tiện, biết nhân nào quả đấy, kẻ ấy biết dũng mãnh tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, ăn chay niệm Phật hoặc chăm chỉ tu Ðạo, thậm chí xuất gia làm Tỳ Kheo, thì kẻ ấy sẽ không phải đọa vào ác đạo lại nữa.
Nói tóm lại, nếu gặp trường hợp có nhân duyên đặc biệt - Biết tu hành tinh tấn thì ác thọ, Phật Pháp rất linh động, uyển chuyển và rất hữu lý.
Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện (Kinh Hoa Nghiêm) có nói rằng, nếu quý vị biết ăn năn hối cải thì bao nhiêu tội chướng cũng đều có thể tiêu diệt, vì vậy mới có câu:
“Trước Phật lễ bái, tội diệt vô số.” tội chướng dù nhiều như cát sông Hằng cũng đều được tiêu tan, không còn nữa.
“Buông xả một đồng, phước tăng vô lượng”: Trước Tam Bảo xả bỏ tiền của, dốc lòng bố thí, có bao nhiêu thì hoan hỷ bố thí bấy nhiêu, thì phước báo của quý vị sẽ vô lượng vô biên; song cần phải dốc hết chân tâm, đem lòng chí thành mà cúng dường mới được...
"Huống là tự sanh ác kiến hủy diệt!" Khinh chê người khác cúng dường mà còn phải bị quả báo đọa lạc trong ba đường ác suốt mấy ngàn kiếp, thế thì nếu chính mình nảy sanh ác kiến hủy diệt Tam Bảo, phá hoại Tam Bảo, tội ấy hẳn càng lớn, càng nặng biết bao nhiêu! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các loài tái sanh chuyển kiếp: (1-44. Một Pháp)
1. Ví như trong cõi Jambudipa (Diêm-phủ-đề) này, số ít là các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các vùng đất khả ái, các hồ ao khả ái, còn nhiều hơn là các chỗ đất cao đất thấp, các con sông khó lội qua, các khu vực râm rạp những gậy gộc, gai góc, các núi non lởm chởm. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít là các loài hữu tình sanh trên đất liền. Và số nhiều là các loài hữu tình sanh ở trong nước.
2. ...Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít là các loài hữu tình được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn là các loài hữu tình được tái sanh ra ngoài loài Người.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, số ít ... được tái sanh ở các quốc độ trung ương. Và nhiều hơn ... ở quốc độ biên địa, giữa các loài man rợ không biết nhận thức.
3. ... số ít là các chúng sanh có trí tuệ, nhanh trí, không điếc, không câm, có khả năng suy xét ý nghĩa của những lời khéo thuyết hay vụng thuyết. Và nhiều hơn là các chúng sanh có ác trí tuệ, châm trí, điếc và câm. không có khả năng suy xét ý nghĩa của những lời khéo thuyết hay vụng thuyết.
4. ... số ít đầy đủ cặp mắt trí tuệ của bậc Thánh. Và nhiều hơn bị chìm đắm trong vô minh si ám.
5. ... số ít được thấy Như Lai. Và nhiều hơn không được thấy Như Lai.
6. ... số ít được nghe pháp luật do Như Lai thuyết giảng. Và nhiều hơn không được nghe pháp luật do Như Lai thuyết giảng.
7. ... số ít sau khi nghe, thọ trì pháp. Và nhiều hơn sau khi nghe không thọ trì pháp.
8. ... số ít quán sát ý nghĩa các pháp chúng học thuộc lòng. Và nhiều hơn không quán sát ý nghĩa các pháp chúng học thuộc lòng.
9. ... số ít sau khi hiểu được ý nghĩa, sau khi hiểu được pháp, thực hành đúng theo pháp và tùy pháp. Và nhiều hơn sau khi hiểu được ý nghĩa, sau khi hiểu được pháp, không thực ..
10. ...số ít được khích động bởi những vấn đề đáng được khích động, Và nhiều hơn không được khích động bởi những vấn đề đáng được khích động.
11. ... số ít sau khi được khích động, như lý tinh tấn. Và nhiều hơn sau khi được khích động, không như lý tinh tấn.
12. ... số ít sau khi từ bỏ pháp sở duyên, được định, được nhất tâm. Và nhiều hơn sau khi từ bỏ pháp sở duyên, không được định, không được nhất tâm.
13. ... số ít được đồ ăn tối thắng, được vị ăn tối thắng. Và nhiều hơn không được đồ ăn tối thắng, vị ăn tối thắng, chỉ nuôi sống với các áo và đồ ăn lượm lặt.
14. ... số ít đã dược vị ngọt của mục đích, vị ngọt của pháp, vị ngọt của giải thoát. Và nhiều hơn không được vị ngọt của mục đích...,
15-17. ... trong cõi Diêm-phủ-đề này, số ít là các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các vùng đất khả ái, các hồ ao khả ái. Và nhiều hơn là các chỗ đất cao đất thấp, các con sông khó lội qua, các khu vực rậm rạp những gậy gộc gai góc, các núi non lởm chởm.
... số ít sau khi chết từ loài Người được tái sanh trong loài Người. Và nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục... ở các loại bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.
18-20. ... số ít sau khi chết từ loài Người được tái sanh giữa chư Thiên. Còn nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục... .
21-23. ... số ít sau khi chết từ chư Thiên được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
24-26. ... số ít sau khi chết từ chư Thiên được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
27-29. ... số ít sau khi chết từ địa ngục, được tái sanh giữa loài Người. Và nhiều hơn bị tái sanh ở cõi địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
30-32. ...số ít sau khi chết từ cõi địa ngục, được sanh lên chư Thiên. Và nhiều hơn bị tái sanh ở cõi địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
33-35. ... số ít sau khi chết từ loài bàng sanh bị tái sanh giữa loài Người, Và nhiều hơn bị tái sanh ở địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
36-38. ... số ít sau khi chết từ các loài bàng sanh được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn được tái sanh ở cõi địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ.
39-41. ... số ít sau khi chết ở cõi ngạ quỷ được tái sanh giữa các loài Người. Và nhiều hơn bị tái sanh ở cõi địa ngục/ bàng sanh/ Ngạ quỷ..
42-44. ....số ít sau khi chết ở cõi ngạ quỷ được tái sanh giữa chư Thiên. Và nhiều hơn bị tái sanh ở cõi địa ngục... ở các loài bàng sanh... ở cõi ngạ quỷ.(Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một - Một Pháp)
+ Ma: Ma Oán - Oán Ma - Oán Khí các loại Ma:
Oán là oán thân trái chủ, Ma là các thứ thử thách, chướng ngại trên đường tu hành - Tu giải thoát thành Phật không rễ. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này thường xông khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê rợn. (HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi câu 68 - “Hàng phục oán ma”, bất luận loại Ma nào)
+ Ma/ Ngạ Quỷ Và Chúng sống ở đâu:
- Ma: Theo Phật giáo, Ma gọi đúng hơn là ngạ quỷ, là một trong lục đạo luân hồi, xếp trên súc sanh và địa ngục. Loài ngạ quỷ có hai nơi ở, một là nước Diêm La của nó, hai là sống trên dương gian cùng với người, vì vậy người ta hay nói đi đêm có khi gặp quỷ. Cuốn Petavatthu (Peta = Quỹ + vatthu = Truyện) là quyển sách thứ bảy trong Khuddaka Nikaya. (Nguồn: Xem chi tiết tại đây).
+ Quỷ Thần sợ cây nào: Trong kinh Diệm khẩu ghi rằng "Chẳng được viết vào gốc cây của những cây như lựu, đào, liễu, vì quỷ thần hoảng sợ, chẳng ăn được vậy" (Nguồn: Kinh Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên ngạ quỷ Đà La Ni).(Như vậy trong phong thủy trồng những cây này có giá trị ngăn ngừa quỷ thần_Ý này Nhân trắc học ghi)
+ Loài Ma/ Quỷ Thần/ Ngạ Quỷ: Trong đường ngạ quỷ cũng có phước báo. Hãy coi những loài quỷ vương như sơn thần, thổ địa thần, tại Đài Loan có Ngũ Phủ Thiên Tuế, Vương Gia Công v.v… đều là những quỷ thần có phước báo. Được nhiều người đến tế lễ, cúng dường, van vái, đó chính là phước báo trong quỷ đạo. Bởi vậy, chúng ta phải biết tu Định như thế nào thì mới có thể đạt được Chánh Định.(Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm_PS Tịnh Không)
+ Cõi Ngã quỷ được minh họa với những hình ảnh quái dị, chúng sinh đầu to, bụng lớn, cổ nhỏ như cây kim, và miệng thường phun lửa đỏ rực. Cõi này được hình thành từ những ác nghiệp do tâm tham lam, bủn xỉn được đẩy lên cao độ (Xem nguồn)
+ Vong Linh Thai Nhi do Phá Thai - Tiểu Quỷ: Tôi xin khuyên các vị nên thủ đạo phu thê, đừng ly dị và nên lo chăm nom con cái của mình cho đàng hoàng. Nếu gia đình đều được hòa thuận vui vẻ, thì đất nước tự nhiên sẽ thái bình. Còn một việc nữa là tôi khuyên quý vị chớ nên phá thai. Quý vị thử nghĩ xem, một sanh mạng chưa ra đời mà đã trở thành oan hồn thì chúng tiểu quỷ đó sẽ đi khắp nơi để tìm mạng sống. Quý vị nói đi, như vậy thì xã hội sẽ được an ổn sao? Cần phải có vị tu đạo hạnh và không tham tài lợi mới có thể siêu độ được chúng quỷ nhỏ này. Bọn tiểu quỷ khó chịu lắm đấy, rất khó mà trị được chúng. Tội lỗi, nghiệp báo khắp nơi như vậy, thì quý vị nói là có thể an ổn được sao? Có câu "Diêm Vương dễ gặp - Tiểu quỷ khó độ".
* Hiện tại chuyện tối quan trọng là thế giới đầy dẫy bọn tiểu quỷ và không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao có nhiều tụi tiểu quỷ như vậy? Bởi vì người ta phá thai quá nhiều. Thai nhi chưa thành hình mà đã bị giết rồi, nên khi làm quỷ chúng có tâm báo thù rất nặng nề. Do đó, nếu giữ giới không sát và phóng sanh thì bao hàm không được phá thai. Thật không dễ độ thoát bọn tiểu quỷ này đâu. Cho nên có câu “Diêm Vương dễ gặp, tiểu quỷ khó độ.” (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
Xem: Không nên qua lại với cõi Quỷ thần
Xem: Tên và nhân quả, tướng mạo 12 Quỷ
Xem: 36 loại Ngạ Quỷ trong Kinh điển
Xem: 24 loại trong Kinh Ngạ quỷ kinh giải
+ Có quỷ thần tồn tại hay không vậy? Đáp án khẳng định là có: Quỷ thần có quyền lực can thiệp chúng ta hay không? Điều này không thể hoàn toàn khẳng định. Trong kinh Phật nói, quỷ thần không có quyền can thiệp chúng ta, quỷ thần cũng là một loại chúng sanh. Vì vậy kiết hung họa phước là do bản thân chúng ta tạo tác nghiệp thiện ác chiêu cảm nên, đây là sự thật, đây là trong kinh điển Phật nói lời chân thật với chúng ta. Quỷ thần cùng lắm chẳng qua là ngoại duyên mà thôi, giống người chấp hành pháp luật ở trong xã hội này của chúng ta như thẩm phán, thám tử, cảnh sát. Nhân dân không phạm tội họ không có quyền can thiệp, bạn có phạm tội thì họ mới can thiệp đến bạn. Trong quỷ thần cũng có một loại chấp hành pháp luật tương tự như tình trạng này. Cho nên khoa học kỹ thuật phát triển thì phủ định có quỷ thần, đây là quan niệm sai lầm. Chúng ta khẳng định họ có tồn tại, nhưng chúng ta cũng khẳng định kiết hung họa phước là do nghiệp thiện ác chiêu cảm (Nguồn: Kinh Thập Thiện_PS Tịnh Không)
+ Người - Quỷ Thần: Người Sợ Quỷ 3 phần - Quỷ sợ người 7 phần (Nguồn - PS Tịnh Không giảng)
+ Con Người Đối Sử Với Quỷ Thần: Khổng lão phu tử dạy chúng ta "Đối với quỷ thần cần phải tôn kính, nhưng phải lánh xa". Nguồn: Thần Cây - Quỷ Thần Gá Sống Ở Cây
+ Có 8 bộ quỷ thần: Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già (HT T.Không-Kinh Phật); Tin gốc
+ Quỷ thần Quy Y và nghe kinh: Nhiểu Quỷ thần cũng muốn được quí vị làm lễ quy y cho họ đi. Sau khi làm lễ quy y xong, mời họ đến để nghe Kinh (Chỉ để ánh sáng mờ nhẹ). Họ thích nghe “Kinh Bồ Tát Địa Tạng Bổn Nguyện”. Quỷ thần đặc biệt là thích bộ Kinh này. Bạn nên mở phát Kinh suốt 24 giờ không ngừng, họ được lợi ích vô lượng vô biên. Mở Kinh 24 giờ không gián đoạn, quỷ thần hoan hỷ (Nguồn: PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH (tập 263)_ Lão Pháp Sư Tịnh Không)
+ Đời sống của quỷ thần: Người và quỷ ở cùng nhau, khác cảnh giới, không chướng ngại nhau ... mời xem bài giảng của PS Tịnh Không: Quan hệ giữa người với quỷ thần
+ Ngoại đạo tu thiền định: Phải biết, các pháp thiền định (tam muội) của ngoại đạo tu tập, đều không rời phiền não hữu lậu vì tâm còn ngã mạn, chấp ngã tham lam danh lợi ở thế gian và cầu người cung kính.
=> Còn tu pháp Chơn như tam muội (thiền định) này thì không có tướng gì để được, lại có công năng làm cho các phiền não lần lần mỏng ít; cho đến khi xuất định hành giả cũng không giãi đãi. Nếu người tu hành mà không tu pháp Chơn như tam muội này, thì không thể nhập được dòng giống của Như Lai.
- Tu các pháp thiền định tam muội của thế gian, cũng như thiền định của ngoại đạo, đều thuộc trong Tam giới, vì còn các phiền não chấp ngã và say đắm nhiễm trước nơi cảnh thiền. Bởi thế nên người tu thiền định, nếu không có Thiện tri thức dẫn dắt, thì quyết định sẽ lạc vào ngoại đạo. (Nguồn: Chi tiết về Ma chướng)
+ Tà sư và Lục sư ngoại đạo:
- Tà sư nghoại đạo: Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng: Trong thế gian có người tà sư ngoại đạo, chẳng biết việc lành việc dữ nhân quả ra sao, chẳng hiểu được việc ứng hiện của luân hồi quả báo, tâm cứ điên cuồng tin theo tà kiến tôn thờ thần quỷ, làm theo phép tà mị phỉnh gạt người đời, giết hại bao nhiêu thân mạng sanh linh heo, dê, trâu, ngựa v.v... tham ăn rượu thịt, bày đặt gọi rằng cúng tế trời đất quỷ thần, đặng cầu phước cầu thọ, trấn giữ nhà cửa thân mạng, lấy cớ dâng cúng quỷ thần, lường ăn của người. Lại thêm vẽ bùa niệm chú truyền dạy người khác nói gạt rằng: bùa chú này có công lực độ người sanh về cõi trời. Bởi ham muốn tài vật của người để nuôi dưỡng thân sống đều do tà kiến sanh ra.
Như giết mạng mà cứu đặng mạng, thời bậc vương hầu thường sống đời đời không chết. Như vẽ bùa niệm chú mà cứu độ đặng người thành đạo, thời thầy tà đặng lên trời. Có lẽ đâu đặng vậy! Trong đời người mê tính những tà mị, đồng nhau dẫn vào địa ngục, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Cớ sao vậy? Như cầu phước chẳng qua trai giới bố thí; cầu thọ chẳng qua giới sát phóng sanh; cầu huệ chẳng qua học rộng nghe nhiều; cầu an tâm chẳng qua xét ngăn những việc phải quấy. Cho nên muốn cầu đạo chánh thì đừng tin thầy tà, muốn ra khỏi luân hồi thời đừng có phạm luật nhân quả.
Bởi sự báo ứng của tội và phước như bóng theo hình, vì tà với chánh khác nhau, khổ vui cách biệt.
- Lục Sư Ngoại Đạo: Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là lục sư ngoại đạo?
Thế Tôn nói: Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ ma Ba tuần xen vào trong pháp ta.
1. Ở chùa cạo đầu mặc áo Phật xưng là đệ tử của Phật, chung lộn với người đời ăn thịt uống rượu làm nhơ bẩn đức Phật, là ngoại đạo thứ nhất.
2. Có người dắt vợ đem con vào trong chùa học theo tà thuật, cho là để truyền lại đệ tử, ăn thịt uống rượu, cũng đi làm chay tụng kinh cho người, không phải người tục, là ngoại đạo thứ hai.
3. Lại có những người trên thời không có thầy truyền, dưới không có thầy chứng, bị ma quỷ ám ảnh mê muội, trí biết bậy bạ cho là thông minh, chẳng có công tu tự xưng thành đạo, bên ngoài làm giống theo Phật, trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật, là ngoại đạo thứ ba.
4. Có người làm theo việc hữu tình, học phép hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đưổi quỷ sai thần, phỉnh gạt người đời, ác kiến càng nhiều thì chánh kiến của Phật càng tiêu diệt, là ngoại đạo thứ tư.
5. Có người y theo việc tốt xấu, học theo chiếm quẻ, bàn luận kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điềm họa phước, dối chúng gạt người, tiêu diệt chánh pháp của Phật, là ngoại đạo thứ năm.
6. Có người sửa soạn hình tướng bụng trống lòng sao, mình không có tài năng mà lòng tự cao cho mình giỏi, chưa có chứng ngộ cho mình chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu muối, trà quả, tương dấm, chấp theo tà tướng dối gạt người không trí, chẳng cần xem kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền, chẳng cần xuất gia thọ giới, chẳng cần tầm sư học đạo. Dám đem cái sắc thân giả dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng vào chỗ hắc ám, dứt đoạn căn lành tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo ngu si, là ngoại đạo thứ sáu.
Sáu hạng ngoại đạo này là ma Ba tuần; đến sau mạt pháp xen vào giáo pháp ta, phá hoại già lam, hủy báng chánh pháp của Phật, chê bai những giáo tướng nghi thức tụng niệm.
Nên Phật dạy những vị Bồ tát đại thừa phải đem nguyện lực, tùy chỗ ứng hiện hoặc làm vị Đế vương, hoặc làm vị Tể quan, hoặc làm vị Trưởng giả, đều ở mọi chỗ làm vị đàn việt đặng diệt trừ tà đạo, ủng hộ chánh pháp, không cho ngoại ma tự tiện khuấy phá, y theo lời Phật dạy đây mới thật là đệ tử của Phật. Còn như thuận theo tà là đồng với ma Ba tuần ngoại đạo, hủy báng pháp đại thừa, sa đọa vào địa ngục A Tỳ như tên bắn, hễ mất thân người rồi, muôn kiếp khó trở lại đặng.(Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
+ Xem giảng về ngoại đạo tu thiền định và định lực và sự nhiễu loạn của các loài Ma trong tu thiền và cả với Đức Phật và Đức Phật hóa giải chúng rất hay tại nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh
+ Chín mươi lăm thứ tà sư ngoại đạo: Nguyên là 96 thứ ngoại đạo, trừ bớt một phái còn 95. Ở Ấn Độ trước và sau Phật xuất hiện, có sáu phái ngoại đạo. Sáu lưu phái này, đạo sư mỗi phái có 15 đệ tử, mỗi đệ tử sau lập ra mỗi lưu phái riêng, tổng cộng là 96 phái. Sáu đạo sư gốc là: 1. Phú Lan Na Ca Diếp. 2. Mạt Già Lê Câu Xa Lê Tử. 3. San Xà Da Tỳ La Chi Tử. 4. A Tỳ Đa Xí Xá Khâm Bà La. 5. Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên. 6. Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử. Trong 96 thứ đạo này, về sau có một phái nhập chung với Phật giáo, đó là phái Độc Tử, còn vào 95 phái bộ. Một thuyết khác nói trong 96 phái ngoại đạo thì giáo nghĩa của phái Ni Kiền Tử ngoại đạo gần với Phật Pháp, cho nên trừ phái này ra, còn lại 95 phái. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Ngũ Nhãn: Trích đoạn Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tri kiến thế nào gọi là ngũ nhãn? Thế Tôn nói:
1. Nhục nhãn chỉ thấy được chỗ tối, thấy trước mắt chớ không thấy sau lưng.
2. Thiên nhãn trước sau, trong ngoài, núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại.
3. Huệ nhãn thấy được nghĩa lý trong văn tự cạn sâu và nhân quả lành dữ kiếp trước kiếp sau, rõ rệt như chỉ trong bàn tay.
4. Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của chư Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy.
5. Phật nhãn tròn sáng chói khắp, trước kiếp vô thỉ, sau kiếp vô chung tất cả nhân quả như thấy trước mắt, mảy lông cộng tóc không sót.
Năm thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Diễn giải ngũ nhãn:
1. " Nhục Nhãn ngại, chẳng thông ? Nhục Nhãn tức là "con mắt thịt," chỉ có thể nhận thấy được con người và đồ vật. Nhục Nhãn - cái nhìn còn gặp sự chướng ngại của đồ vật cụ thể, không nhìn xuyên qua được.
2. " Thiên Nhãn thông, chẳng ngại ? Thiên Nhãn thì nhìn cái gì cũng thông đạt, có thể thấy được vô cùng thấu triệt, không có sự ngăn ngại.
Với mắt Nhãn này thì chẳng những đồ đạc trong phòng mà ngay cả ở ngoài, thậm chí bất luận là bao xa, chỉ cần quý vị muốn nhìn là đều có thể thấy được. Nếu quý vị không nhìn thì sao? Thì đương nhiên là sẽ không thấy! Tuy rằng có thể nhìn thấy được, nhưng tốt nhất là đừng nhìn! Vì sao vậy? Bởi khi quý vị nhìn một vật nào đó thì sẽ bị phân tâm, và liền khởi tâm động niệm. Sanh thêm một tâm niệm thì không bằng ít bớt một tâm niệm; giảm đi một vọng tưởng thì vẫn hơn là tăng thêm một vọng tưởng. Quý vị dùng Nhục Nhãn này để nhìn mọi vật, xem xét sự việc, và đó đều gọi là "niệm." Mặc dù cái "niệm" này có phần nào không giống với những tâm niệm hoặc ý nghĩ thông thường khác, song cũng chẳng có ích lợi gì cả. Do đó, có những lúc dù có thể nhìn thấy được đi chăng nữa, thì quý vị cũng chẳng nên nhìn!
3. " Pháp Nhãn quán tục đế: "Con mắt Pháp" chỉ quán xét, nhìn thấy tục đế. "Tục đế" tức là những tình hình của thế gian nói chung. Nếu quý vị được mở Pháp Nhãn thì khi tụng kinh sẽ không cần phải nhìn vô sách nữa. Bấy giờ, quý vị chỉ việc "mở con mắt Pháp" ra thì sẽ thấy cùng tận hư không và khắp Pháp Giới đều toàn là kinh điển, đâu đâ cũng thấy tràn ngập vô lượng vô biên Pháp bảo. Quý vị chỉ cần chứng đắc Pháp Nhãn Tịnh là có thể quán thấy được tất cả thật tướng của các pháp. Vậy, Pháp Nhãn chỉ quán xét tục đế.
4. " Huệ Nhãn rõ chơn không (Huệ Nhãn liễu chân không). "Con mắt trí huệ" thì quán xét tánh "không." "Tục đế" còn được gọi là "giả đế," bởi nó không phải là loại có thực thể. Huệ Nhãn liễu chân không nghĩa là con mắt trí huệ có thể nhìn thấu triệt được thật tướng chơn không của các pháp.
5. " Phật Nhãn, ngàn mặt trời? (Phật Nhãn như thiên nhật). Mắt của Phật thì quang minh, chiếu sáng như cả ngàn mặt trời vậy.
" Khác tánh, thể vẫn đồng? (Chiếu dị, thể hoàn đồng). Cái thấy của năm thứ mắt này tuy chẳng giống nhau, song về bản thể thể vẫn chỉ là một mà thôi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tâm Quán Không - Bồ Tát Quán Tự tại:
Hành tức là tu hành. Thâm là đối ngược với thô thiển mà gọi là thâm. Bát nhã là trí huệ. Ba la mật đa là đạt đến bờ giác. Thời là thời gian.
Đoạn này nói về Bồ Tát Quán Tự Tại tu hành thâm nhập bát nhã, chớ không phải tu bát nhã thô thiển. Sao gọi là thâm bát nhã ? Đó là diệu trí huệ. Sao gọi là bát nhã thô thiển ? Đó là giáo pháp tiểu thừa, bốn diệu đế, mười hai nhân duyên. Nhờ diệu trí huệ chân chánh mới đạt đến bờ giải thoát. Nếu chư vị không có trí huệ chân chánh thì không thể đạt đến bờ giác được. Ai năng đạt đến bờ giác ? Là Bồ Tát Quán Tự Tại.
Nơi đây Phật Thích Ca Mâu Ni đề cử ra Bồ Tát Quán Tự Tại, là vị Bồ Tát tu hành pháp Bát Nhã thậm thâm và đã đạt đến bờ giải thoát. Thế nên nói rằng hành thâm bát nhã ba la mật đa thời.
Người nhị thừa chỉ tu bát nhã thô thiển mà không tu pháp bát nhã thậm thâm. Sao gọi là bát nhã thô thiển ? Tức là năng phân tích, gở tháo pháp không. Tích tức là phân tích. Phân tích vi tế. Phân tích nhũng gì ? Phân tích sắc pháp, tâm pháp. Sao gọi là sắc pháp ? Sắc pháp là có hình có tướng, có thể nhìn thấy được. Sao gọi là tâm pháp ? Tâm pháp là không thể nhìn thấy được. Hữu hình tức là có sắc pháp. Vô hình tức là tâm pháp. Hữu hình là gì ? Tất cả vật có tướng trạng đều gọi là hữu hình. Tâm pháp thì vô hình vô tướng, chỉ có trí giác. Có trí giác và vô hình vô tướng gọi là tâm pháp. Có hình tướng nhưng lại vô tri giác là sắc pháp. Sắc trong năm uẩn tức là sắc pháp, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là tâm pháp. Thọ tưởng hành thức thì vô hình tướng. Lúc Bồ Tát Quán Tự Tại hành thâm bát nhã ba la mật đa, thì thấy rõ năm uẩn đều không. Ngài nhận thấy chúng đều không. Ngài bảo : "Sắc không khác không, không không khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Thọ tưởng hành thức giống như sắc pháp, cũng là không"=> nói về Tánh không.
Chữ Không - Tánh Không:
Nay giảng về không vì Bát Nhã đàm luận về không.
Tánh không có rất nhiều loại. Nay chỉ giản lược nói về năm loại.
1. Thứ nhất là ngoan hư không. Ngoan tức là ngoan bì (ngu hèn). Gọi là hư không vì nó vô tri vô thức, không có sự tồn tại của tánh tri giác. Tất cả mọi người đều biết là hư không (trống rỗng). Mọi người đều chấp trước hư không. Mắt thấy hư không nhưng không có tánh tri giác, nên gọi là ngoan hư không. Phàm phu chấp trước cũng là ngoan hư không.
Sao gọi là hư không ? Tức là không có chi hết, nhưng có thật là chân không, không ? Không phải, đó là ngoan (ngu ngơ) hư không. Đây là hư không mà phàm phu thường chấp trước.
2. Thứ hai là đoạn diệt không. Đó là gì ? Là không mà ngoại đạo chấp trước vào. Ngoại đạo không biết ý nghĩa của không. Họ cho rằng người chết rồi là hết, đoạn diệt luôn, cũng là không. Thế nên, họ chấp vào đoạn diệt không.
3. Thứ ba là pháp không quán. Người nhị thừa tu tích pháp không quán. Tích cũng là phân tích sắc tức là sắc, tâm tức là tâm. Họ không biết tất cả đều là không. Thế nên không thể đắc và chứng được diệu lý chân không, chỉ tạm trú tại hóa thành thôi, không đồng với địa vị của Bồ Tát. Hóa thành là nơi không vọng, chỉ là trạm dừng chân. Họ tu loại tích pháp không quán, nên gọi là bát nhã thô thiển. Bát nhã thô thiển tức là bát nhã không thâm sâu. Họ tu hành pháp bát nhã này thì chấm dứt phần đoạn sanh tử, nhưng biến dịch sanh tử vẫn còn. Sao gọi là phần đoạn sanh tử ? Ai ai cũng có thân thể. Chư vị có một phần. Tôi có một phần. Từ sanh đến chết có một đoạn. Một phần một đoạn gọi là phần đoạn sanh tử. Phần đoạn cũng gọi là hình đoạn của mỗi người. Chư vị cao năm thước. Họ cao sáu thước. Lại có người cao bảy thước. Mỗi người đều có một phần đoạn. Thánh nhân chứng sơ quả, nhị quả, tam quả, và tứ quả A La Hán chặt đứt được phần đoạn sanh tử mà vẫn còn biến dịch sanh tử.
Sao gọi là biến dịch sanh tử ? Biến tức là biến hóa. Dịch tức là dung dịch, cũng là biến hóa, giao dịch, mậu dịch. Biến dịch sanh tử là gốc của phần đoạn sanh tử. Vì sao gọi là thế ? Biến dịch sanh tử cũng là bao loại vọng tưởng. Những vọng tưởng này luôn lưu xuất, vọng niệm trước diệt, vọng niệm sau sanh, vọng niệm sau diệt, vọng niệm kế lại sanh. Sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, nên gọi là biến dịch sanh tử. một niệm diệt tức là mất. Một niệm sanh tức là đã sanh, cũng là vọng niệm của chúng ta. Tứ quả A La Hán chưa đoạn diệt hẳn hết, nên chỉ có Bồ Tát đại thừa mới năng đoạn tận hết. Biến dịch sanh tử cũng là cội gốc sanh tử của chúng ta. Sao chúng ta có sanh tử ? Vì chúng ta có vọng tưởng. Những vọng tưởng này phát sanh từ đâu ? Vọng tưởng vốn do vô minh phát sanh. Vì có vô minh nên mới phát sanh bao loại vọng tưởng.
4. Thứ tư là thể pháp không quán: Duyên Giác tu thể pháp không quán
5. Thứ năm là diệu hữu không quán: Bồ Tát tu diệu hữu không quán
Chân không diệu hũu.
Lúc Bồ Tát Quán Thế Âm hành thâm bát nhã ba la, Ngài soi thấy năm uẩn đều không. Đó là đắc được công năng tu hành bát nhã ba la mật đa. Nay y chiếu theo kệ của tôi mà giảng giải.
"Hành đạo tu thân mạc ngoại tầm, (hành đạo tu thân chớ tìm ngoài)".
Chư vị muốn tu đạo, tu thân, thì chớ tìm bên ngoài. Không nên hướng ngoại tìm cầu, mà hãy tìm lại tự tánh của mình.
"Tự tánh bát nhã thâm mật nhân, (tự tánh bát nhã nhân thâm mật)".
Trong tự tánh bát nhã có hạt giống thâm mật.
"Bạch lãng xung tiêu hắc ba chỉ, (sóng bạc tiêu lặn biển đen dừng)".
Lúc tu đạo, sóng bạc tức là trí huệ, như nước chảy tạo thành sóng màu sắc trắng. Sóng biển đen tức là phiền não. Khi sóng đen ngừng thì trí huệ tăng, pháp thậm thâm cũng cao siêu. Hành bát nhã ba la mật đa, lưu xuất pháp thậm thâm không ? Vì pháp này rất cao siêu, nhìn xem không thể thấy, nên gọi là bát nhã thậm thâm. Sóng đen dừng tức là phiền não dừng.
"Niết bàn bỉ ngạn nhậm vận đăng, (bờ Niết Bàn, từ từ leo lên)".
Một khi đã có trí huệ thì tự nhiên biết cách để đạt đến bờ niết Bàn, không bỏ phí sức lực nào.
"Thời hề thời vật thác quá, (thời qua thời chớ để trôi qua)".
Chúng ta tu đạo, thời gian rất quý báu, đừng để chúng trôi qua vô ích. Thế nên, thời qua thời chớ để trôi đi. Thời gian nào ? Tức là lúc hành thâm bát nhã ba la mật. Chư vị chớ nên để thời gian trôi qua vô ích.
"Thận chi thận thủ thiên chân, (thận trọng, thận trọng giữ thân chân)".
Chư vị phải cẩn thận, đừng để thời gian trôi mất, ngày đêm luống qua vô ích. Hiện tại phải tu hành đắc được pháp bát nhã thậm thâm, chân lý cao thượng.
"Yểu yểu minh minh thông hưu tức, (mờ mờ ảo ảo thông tin tức)".
Mờ mờ ảo ảo, nói nghe nhưng thực không nghe, nói thấy nhưng thực không thấy.
"Hoảng hoảng hốt hốt kiến bổn tôn, (vội vội vàng vàng thấy bổn tôn)".
Hiện nay, chư vị phải được tin tức mờ mờ ảo ảo, vội vội vàng vàng thấy bổn chân. Lại như không có hình tướng mà nói thấy hình tướng. Thấy bổn tôn tức là thấy rõ tự tánh của chính mình.
Soi thấy năm uẩn đều không.
"Ba quang phổ chiếu thấu ba tài
Nhất quy hợp xứ lại nhất lai
Thấy sắc tức không thọ nạp thế
Vọng tưởng chuyển lưu, tan hạnh nghiệp
Thức vẫn phân biệt đủ năm âm
Gương hoa trăng nước tuyệt trần ai
Không mà chẳng không rõ đại dụng
Thấy như chưa thấy vui vô vàn".
"Tam quang phổ chiếu thấu tam tài, (ba quang phổ chiếu thấu ba tài)".
Ba quang là mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao. Phổ chiếu tức là phổ biến chiếu sáng. Ba tài là trời, đất, người.
Ba quang là văn tự bát nhã quang, quán chiếu bát nhã quang, thật tướng bát nhã quang. Thật tướng bát nhã quang tức là thậm thâm bát nhã quang. Soi thấy năm uẩn đều không. Dùng ba quang chiếu thấu ba tài, tức chiếu khắp trời, đất, người.
"Nhất quy hợp xứ lại nhất lai".
Nhất quy hợp xứ tức tự tánh của mình. 'Nhất' là nói tự tánh. 'Hợp xứ' cũng là chỗ của tự tánh. Xưa nay muôn pháp đều quy về một. Một quy về hợp xứ. Ngài Thần Quang có nói bài kệ :
"Muôn pháp quy về một
Một quy về hợp nhất
Thần Quang vốn chẳng sớm biết Đạt Ma
Vếch tai núi quỳ nghe Ngài dạy chín năm
Chỉ cầu thoát khỏi Diêm La".
Vì sao thế ? Tâm chúng ta cũng chính là tánh. Một khi quay về liền hợp xứ. Hợp tức là tương hợp. Tương hợp với gì ? Cùng tương hợp với Phật tánh. Chư vị cùng Phật tánh tương hợp, rồi trở về cội gốc, lại xuất sanh diệu dụng. Diệu dụng này chính giúp thành tựu Phật quả, gọi là trở về nhất lai, cũng là ông Phật của chư vị.
"Thấy sắc tức không thọ nạp thế".
Thấy sắc tức không, nghĩa là thấy được sắc mà sắc vốn là không. Sao nói sắc vốn không ? Phàm phu chúng ta đều chấp trước sắc này. Chấp vào sắc gì ? Tổng thể của sắc. Sắc pháp tuy có nhiều loại, mà tổng thể của sắc chính là thân thể chúng ta, gọi là sắc thân. Sao sắc thân lại là không? "Thật sự thân này có mà !"
Chư vị biết mặc đồ, ăn uống, ngủ nghỉ, sao chẳng biết không ? Nếu chư vị hiểu rõ sắc thân này được hình thành như thế nào thì chư vị sẽ hiểu rõ tánh không của nó. Vì vậy nên giảng về chân không tích pháp, cũng là pháp phân tích.
Thân này là tổng tướng của sắc. Đất nước gió lửa là biệt tướng (tướng riêng) của sắc. Thân thể của chúng ta do đất nước gió lửa hợp thành. Xương cốt thịt thà chính là đất. Nước mắt, nước mũi, máu, tiểu tiện, mồ hôi, là nước. Thân thể được ấm áp là nhờ có lửa. Vận động hô hấp nhờ thân thể có gió. Bốn đại hòa hợp thì thân thể còn. Chúng phân tán thì thân thể mất. Đất trở về đất đá. Nước trở về nước. Gió trở về gió. Lửa trở về lửa. Mỗi đại đều trở về cội gốc, nên không thật có. Vì thế, mọi người chấp trước vào thân thể, tự cho là có, thật là sai lầm. Sao thân thể không phải là mình ? Thân thể không phải là mình. Mình là gì ? Có thể giữ gìn thân thể, có thể thấy, nghe, ngửi, biết, nhận thức bằng tri giác. Tri giác này cũng là mình. Thân thể là gì ? "Thân thể chính là mình, mình là thân thể".
Không thể cho rằng thân thể chính là mình được, vì thân thể chỉ giống như nhà ở. Chư vị không thể cho rằng nhà mình ở chính là mình. Chư vị gọi nhà ở chính là mình thì sợ rằng người ngoài cười cho. Nhưng nói thân thể chính là mình thì không ai cười cả. Sao không ai cười chư vị ? Vì ai cũng cho rằng thân thể chính là mình, tức là chấp nhà ở chính là mình. Thấy, nghe, ngữi, nếm, giác, biết đều là Phật tánh. Phật tánh cũng chính là tự tánh của chư vị. Thân thể bất quá chỉ do nhân duyên hòa hợp. Nhân duyên ly biệt thì thân thể phân tán. Thế nên, chư vị đừng cho rằng thân thể chính là mình. Mình ở trong nhà, những việc bên ngoài không thể biết. Thế nên đừng chấp trước nhà ở chính là mình.
Bàn về sắc, chư vị hãy phân tích rõ, nó cũng là không. Do từ không mà biến thành sắc pháp. Đất nước gió lửa hợp thành thân thể mà có người lại nói rằng thượng đế tạo ra người. Dùng gì để tạo ra ? Cũng dùng đất nước gió lửa mà tạo thành. Chúng ta cũng có thể dùng một chút đất, nước, gió, lửa để tạo ra thân người. Ai ai cũng đều tạo ra người khác được. Con người do nhân duyên hòa hợp tạo thành. Nhân duyên biệt ly thì thân thể phân tán. Thế nên đừng gọi thân thể là mình. Sắc tức là không. Chư vị nếu hiểu rõ sắc tức là không thì không chấp trước thân thể là mình. Tất cả vật dụng thuộc về mình, mình đều bảo tồn, phụ trợ. Đó là làm nô lệ cho thân mình. Tâm của chư vị chính là tánh tri giác. Chư vị phải hiểu rõ thân thể là sắc pháp, là giả hợp, đừng nên chấp trước. Nếu không chấp trước thân thể tức là phá được sắc uẩn. Khi phá được sắc uẩn rồi thì nó biến thành không.
Thọ nạp như thế. Thọ uẩn cũng giống như sắc uẩn, là không thật có.
"Vọng tưởng quyện lưu hạnh nghiệp an bài, (vọng tưởng chuyển lưu, nghiệp an bài)".
Vọng tưởng là tưởng uẩn. Quyện lưu tức là hành uẩn. Hành nghiệp an bài là hành uẩn được an bài cùng hành nghiệp.
"Thức nãi liễu biệt ngũ âm cụ, (thức cũng liễu biệt đủ năm ấm)".
Liễu biệt là thức uẩn. Phân biệt đầy đủ năm ấm. Năm ấm là sắc thọ tưởng hành thức.
"Cảnh hoa thủy nguyệt liễu trần ai, (hoa gương trăng nước tuyệt bụi trần)".
Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giống như hoa hiện trong gương, như trăng hiện trên mặt nước. Tuyệt bụi trần tức là không còn một vết ô nhiễm bụi trần. Nói lên ý nghĩa là năm uẩn đều không.
"Không nhi bất không minh đại dụng, (không mà chẳng không rõ đại dụng)".
Chư vị phải hiểu rõ năm uẩn đều không. Lúc không hiểu rõ năm uẩn là không thì có nhiều phiền não, vọng tưởng. Hiểu rõ được thì chuyển thức thành trí. Khi ấy đắc đại diệu dụng phi thường. Hiểu rõ diệu dụng này tức thấy mà như chưa thấy thì an lạc sung sướng.
"Kiến do vị kiến lạc khoái tai, (thấy như chưa thấy, vui vô vàn)".
Nơi chân không xuất sanh ra diệu hữu, cùng đại dụng. Khi ấy chư vị thấy rõ mà cũng đồng như chưa thấy. Không bị cảnh giới chuyển. Có thế, chư vị mới đắc được an lạc chân chánh. Vì vậy nói rằng vui vẻ vô vàn. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -1- HT Tuyên Hóa giảng)
+ “Là tâm Không Quán.” Chúng ta cần phải quán tưởng về tánh “không” của tất cả các pháp. Có “không quán,” thấy được các pháp đều là “không,” thì quý vị sẽ không còn chấp trước gì nữa cả. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng về Chú Đại Bi)
+ Tâm Quán Không / Quán Tâm Không: ... Bàn đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang minh” hay “trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm trong mười nghĩa của Bồ Đề Tâm, đó là “quán tâm không”. Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí tuệ. Với trí tuệ, hành giả mới có được quang minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu, soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là không còn tối tăm, mê muội, tức là không còn vô minh.
Sao gọi là “vô minh”, vì tâm của quí vị không có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì quí vị không có được “đại quang minh”. Nếu quí vị có được “đại quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô minh. Một khi vô minh đã bị chuyển hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây chính là trí tuệ chân thật của quí vị. (Nguồn: Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng về Thần Chú Đại Bi)
+ Chữ không - Quán không - Con đường vào đạo - Siêu phàm nhập thánh - Bốn câu kệ đức Phật thường giảng nói. Pháp tu giải thoát cho các hàng thừa.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Trong Kinh Kim Cang đức Phật thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v... giảng nói cho người khác nghe thì phước đức ấy còn hơn là phước đức đem bảy báu chất đầy Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên dưới hư không ra bố thí, lại hơn phước ngày đầu, ngày giữa, ngày sau nhẩn đến trăm nghìn kiếp đem thân mạng như số cát sông Hằng mà bố thí. Chẳng biết thế nào là bốn câu kệ?
Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.
Tại sao? Chúng sanh thường mê không giác ngộ cho nên nhiều kiếp đọa lạc. Chư Phật thường giác ngộ chẳng mê cho nên thành Phật đạo. Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật, công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ: là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp.
Sao gọi là không thân? Vì thân này do cha mẹ sanh ra đầy đủ khí huyết của cha mẹ, chín khiếu thường chảy những vật không sạch, bốn đại giả hiệp, sau rồi cũng tan rã; nhưngười trai lành gái tín tin có trí huệ biết thân này là giả, thì khi chưa chết tưởng như thân này đã chết, mượn thân giả này mà học Phật tu hành, gọi là Sắc không, câu kệ thứ nhất.
Thường quán sát tâm của mình chẳng sanh chẳng diệt, chí thánh chí linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay biết được chân tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng tưởng kéo dắt, chỉ nương chân tánh làm chủ, gọi là ngộ Tâm không, câu kệ thứ hai.
Lại quán sát tánh của mình thường lặng yên không lay động, nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là ngộ Tánh không, câu kệ thứ ba.
Lại quán sát đức Như lai giảng nói kinh pháp đều phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào cửa pháp, như nước rửa bụi, như bịnh gặp thuốc, nay chứng được tâm không, pháp không, như bịnh mạnh thì thuốc không dùng nữa, gọi là ngộ Pháp không, câu kệ thứ tư.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh. Tại sao?
Nếu ngộ đặng ý câu kệ thứ nhất, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Dự lưu Tu đà hoàn;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ hai, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Nhứt lai Tư đà hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ ba, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất lai A na hàm;
Ngộ đặng ý câu kệ thứ tư, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Vô sanh A la hán.
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.
Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật trước Phật sau cũng đồng một thể, đều tại mỗi người tự mình minh tâm kiến tánh mà thành công đắc quả, vì Phật tánh người sẵn có, nếu không y theo Phật mà tu hành thì chẳng đặng thành Phật.
Tại vì sao? Vì chưa có công đức gì ở trong Phật pháp. Nếu muốn cầu đặng bậc Phật, phải y theo mười điều dưới đây:
1.- Phải dùng trai giới làm nền tảng đi đến bậc Phật.
2.- Tìm minh sư chỉ dạy công phu.
3.- Phải biết tâm tánh rốt ráo tỏ rõ.
4.- Phải làm các phuớc lành giúp cho gốc đạo được sung túc.
5.- Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày mỗi thêm lớn.
6.- Rõ nhân quả việc làm đừng có vọng động.
7.- Trừ tà ma xa lìa ngoại đạo.
8.- Phải thông chơn lý chớ chấp hữu vi.
9.- Phải tinh tấn theo đức hạnh Phật.
10.- Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt.
Nếu đủ mười điều công đức này thì mau đặng thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi! Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều chúng sanh căn trí thấp kém, tâm ý mê say, trí tính mờ tối, tuy có trì trai giữ giới đều không trí huệ, cái tâm ngu mê cống cao ngã mạn, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ tâm mình để cầu thầy học hỏi những pháp chân chánh, khư khư chấp trước, nhận giả làm thiệt,hoặc chấp trước kinh sách văn tự, hoặc chấp trước tụng trì cho nhiều số, hoặc học được hai câu nói của Phật thì cho là hoàn toàn. Chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, căn lành tu ít mà muốn quả to, thiệt người ngu mê không hiểu ý Phật, tự mình điên cuồng tự dối mình, tuy có nhân lành mà khó tránh họa dữ. Tại sao? Hột giống không chắc, khó mà kết trái Bồ đề, một khi mất thân người, muôn kiếp khó phục hồi đặng. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang luận)
+ Phiền lão là Bồ đề: ... Chư Thiện tri thức! Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ đề. Niệm trước mê muội tức là phàm phu, niệm sau giác ngộ tức là Phật. Niệm trước vướng cảnh tức là phiền não, niệm sau lìa cảnh tức là Bồ đề.
Giảng:
Phàm phu chính là Phật, mà Phật chính là từ phàm phu tu thành. Vì Phật lúc trước tu Bát nhã pháp, cho nên thành Phật. Còn chúng ta tại sao vẫn là phàm phu? Vì không tu Bát nhã pháp, không tu Bát nhã hạnh, cho nên tánh đổi thành tình, tình biến thành dục, cuối cùng không thể thoát ra khỏi vòng ái dục vô minh. Nếu có thể đem lòng dục quy trở về bổn tánh, không giao động, không bị vô minh chuyển, đó chính là Phật. Phiền não là Bồ đề, nếu không có phiền não thì cũng không có Bồ đề.
Có người nói:
–Vậy thì không cần phải diệt trừ phiền não, cứ để cho nó ở đó!
Nếu để nó ở đó thì phiền não vẫn là phiền não. Quý vị cần phải dùng phương pháp khoa học thực nghiệm. Thực nghiệm như thế nào? Chính là phản bổn hoàn nguyên. Ví dụ lòng bàn tay và lưng bàn tay, lòng bàn tay là phiền não, lưng bàn tay là Bồ đề, chỉ cần lật ngược lại tức là phiền não hay Bồ đề, không có nhiều cũng không có ít, chỉ khác một chút như vậy – vừa lật qua lại, thì phiền não biến thành Bồ đề. Tôi thường nói:
Phiền não Bồ-đề băng là nước,
Sanh tử Niết-bàn pháp tức không.
Nếu quý vị hiểu rõ thì nhân pháp đều không, nếu không hiểu thì vẫn còn pháp chấp.
Niệm trước ngu si chính là phàm phu, niệm sau khai ngộ trí huệ chính là Phật. Niệm trước chấp vào cảnh chính là phiền não. Nếu quý vị nói chỗ này là thành phố Cựu Kim Sơn, nó không giống thành phố Nữu Ước, kỳ thực nó đều là những thành phố lớn. Nếu quý vị nói thành phố Cựu Kim Sơn không có tuyết, Nữu Ước có tuyết, đó chỉ là tâm phân biệt gây ra sai lầm! Nếu quý vị không có tâm phân biệt như thế thì cũng không có nhiều phiền não như vậy. Cho nên nói: "Niệm trước dính mắc cảnh giới chính là phiền não, niệm sau ly khai cảnh giới chính là Bồ đề." Nếu phân biệt thành phố Cựu Kim Sơn và Nữu Ước không giống nhau liền có phiền não. Nếu biết thành phố Cựu Kim Sơn và Nữu Ước đều là không, phân biệt nó làm gì? Không phân biệt tức là Bồ đề.
Nói thì rất dễ, nhưng thực tế không sanh tâm phân biệt là một việc rất khó. Nếu thấu rõ được cảnh giới này thì không có nhà, cũng không có quốc gia, cái gì cũng không có, đây chính là Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm màø cũng gọi là "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ thân." Quý vị có thể hiện thân đến bất cứ địa phương nào mà không có bất cứ sự chướng ngại nào, quý vị xem điều này tuyệt diệu không? Chỗ này chính là Bồ đề, quý vị hà tất phải than thở? Nếu quý vị có thể được như vậy thì là như vậy (như thị); còn nếu chưa thể đạt đến cảnh giới đó, thì từ từ luyện tập. Cho nên nói: "Tánh định ma phục triêu triêu lạc, vọng niệm bất khởi xứ xứ an." Nếu tâm tánh đã định, không còn nhiều vọng tưởng, thì ngày ngày giờ giờ đều an lạc. Vọng niệm không khởi thì nơi nơi chốn chốn đều an vui. Tại sao quý vị cảm thấy không an lạc? Tại vì có vọng niệm, nếu không vọng niệm thì khắp nơi mọi lúc đều là Thế giới Cực Lạc........
Sư nói: "Đạo không sáng tối, sáng tối là cái nghĩa thay thế. Sáng sáng không cùng, cũng là có cùng. Hai cái tối sáng đối đãi nhau mà lập ra cái tên, cho nên kinh Tịnh Danh nói: ‘Pháp không có chi sánh, không có gì tương đối được.’"
Tiết Giản bạch: "Sáng tỷ như trí huệ, tối tỷ như phiền não. Người tu hành nếu như không lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, thì nhờ đâu mà ra khỏi chỗ vô thủy sanh tử?"
Sư nói: "Phiền não tức là Bồ-đề, chẳng phải hai và chẳng phải khác nhau. Lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, là chỗ thấy hiểu của hàng Nhị thừa, là cái căn cơ của xe nai, xe dê. Bực đại trí thượng căn chẳng phải làm như vậy."
Tiết Giản bạch: "Chỗ thấy hiểu của bực Đại thừa như thế nào?"
Sư nói: "Sáng và không sáng, người phàm thấy có hai, còn người trí rõ thông, thấy cái tánh sáng và không sáng chẳng phải là hai. Cái tánh không hai chính là Thật tánh. Cái Thật tánh ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, ở nơi Hiền Thánh mà chẳng thêm, ở nơi phiền não mà chẳng rối, ở nơi cảnh thiền định mà không lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng lại chẳng đi, chẳng phải ở giữa, ở trong hay ở ngoài, chẳng sanh chẳng diệt; tánh và tướng đều như như, thường trụ, không dời đổi. Cho nên gọi cái Thật tánh là Đạo." (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phiền lão là Bồ đề: Ðức Phật thấy chúng sanh chịu đựng bốn nỗi khổ to lớn là sanh, già, bệnh, chết, nên Ngài bèn phát tâm xuất gia tu hành, tìm cách giải quyết vấn đề ấy. Trong sự vô minh của chúng ta, phiền não bất giác xuất hiện - Khi thì bộc lộ qua sắc tướng, lúc lại tiềm tàng trong tâm trí, và cũng có khi vô minh dấy khởi nên cái gì cũng không biết cả. Hễ vô minh vừa tác oai tác quái là mình trở nên hồ đồ ngay, cho nên phiền não chính là nhân duyên cản trở việc tu Ðạo, là chướng ngại vật trên đường Ðạo.
Song le, chẳng thể không có phiền não! Vì sao? Bởi "phiền não tức là Bồ-đề." Nếu biết vận dụng thì phiền não chính là Bồ-đề, nếu không biết vận dụng thì Bồ-đề biến thành phiền não! Bồ-đề ví như nước và phiền não ví như băng vậy; nước chính là băng, băng chính là nước.....
Bệnh tật của chúng ta là từ đâu mà ra? Chính là từ ba cái độc tham, sân, si! Nếu con người không có ba thứ độc này thì bệnh tật gì cũng không có cả. Giới, Ðịnh, Huệ trong Phật Pháp chính là phương thuốc đặc hiệu để trị căn bệnh "tham, sân, si." Thuốc này hiệu nghiệm như thần, "thuốc đến, bệnh đi," nên nói:
... Tâm vọng tưởng dừng hẳn, ý niệm phan duyên không còn, đó đúng là giàu sang thật sự. Nói tóm lại, không tham tức là giàu sang. Vì sao người ta tham lam? Vì họ không "tri túc," nên cảm thấy thiếu thốn, chưa đầy đủ! Không có tư dục chính là ruộng phước, nếu dứt bỏ được mọi ham muốn ích kỷ thì đúng là ruộng phước thật sự. Các bạn hãy đặc biệt lưu ý:
(Tâm bình lặng, trăm nạn tiêu tan, Ý an định, muôn sự được kiết tường.)
Câu danh ngôn trên đây rất chí lý và vô cùng hữu ích, đáng cho mọi người lấy làm khuôn vàng thước ngọc. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chuyển hóa khổ đau:
Câu hỏi của một bạn trẻ: Thưa Thầy, khi con nhìn thấy Thầy, con cảm nhận được sự định tĩnh và niềm an lạc nơi Thầy, nhưng đồng thời con lại thấy một niềm đau trong con… Con muốn được như Thầy. Làm sao con có thể chuyển hóa niềm đau trong con thành niềm vui, sự an lạc và tĩnh lặng như Thầy?
HT Thích Nhất Hạnh: Con biết đó, ở Làng Mai, chúng ta luôn nói rằng không có bùn thì không có sen. Nếu như có một chút bùn thì chúng ta nên biết cách tận dụng bùn để trồng nên những đóa sen. Vào thời điểm này ở Làng Mai, sen bắt đầu nở ở các xóm. Và con thấy đó, nếu không có bùn thì làm sao có thể trồng sen được. Cũng như vậy, những khổ đau trong ta chính là một loại bùn và chúng ta nên biết cách tận dụng những khổ đau đó. Bản thân Thầy cũng có nhiều khổ đau, nhưng Thầy may mắn có được cơ hội học hỏi từ Bụt, từ Thầy Tổ cũng như các huynh đệ của mình cách thức xử lý khổ đau và chuyển hóa rác thành hoa.
Con vẫn còn rất trẻ, con còn nhiều cơ hội để làm điều đó. Chắc chắn là con có thể làm như Thầy, thậm chí là còn làm hay hơn nữa. Khi con đi, mỗi bước chân của con có thể mang lại cho con niềm vui và sự bình an. Khi con rửa chén hay chuẩn bị bữa sáng cũng vậy, mỗi giây phút rửa chén hay làm đồ ăn sáng có thể trở thành những giây phút đầy niềm vui và hạnh phúc. Và để làm được điều này chỉ đòi hỏi một chút tập luyện mà thôi. Con có rất nhiều cơ hội để tập luyện. Chẳng hạn như từ bãi đỗ xe cho đến nơi làm việc, con có thể tận hưởng từng bước chân của mình. Con phải đi như thế nào để mỗi bước chân đều mang lại cho con sự bình an, nuôi dưỡng và trị liệu. Ai cũng có thể làm được như vậy nếu mình thực sự muốn làm. Muốn thì sẽ được! (Nguồn: HT Thích Nhất Hạnh giảng)
+ Vọng tưởng (Chuyển lưu nghiệp): ... Những vọng tưởng này phát sanh từ đâu? Vọng tưởng vốn do vô minh phát sanh. Vì có vô minh nên mới phát sanh bao loại vọng tưởng. (HT Tuyên Hóa giảng Bát Nhà Tâm Kinh)
+ Vọng tưởng hay Khách trần: Chữ “khách trần” cũng có nghĩa là vọng tưởng của quý vị. Vọng tưởng chính là khách trần và phiền não. Quý vị cũng có thể gọi khách trần là hai món hoặc (惑) kiến hoặc và tư hoặc. Phiền não cũng còn được gọi là vô minh hoặc hay là trần sa hoặc. ... Ví như Ông chủ (Nhà trọ) với Khách trọ. Ông chủ nghĩa là thể tánh thanh tịnh thường trụ chân tâm. “Khách” nghĩa là vọng tưởng, phiền não, khách trần. Tại sao vọng tưởng phiền não lại được so sánh với khách trần? Vì đối với chúng ta vọng tưởng phiền não là một thứ gì đó không chắc chắn, không bền vững. Phiền não vọng tưởng ấy không thực sự hiện hữu. Người khách chính là phiền não và vô minh, phiền não chướng và sở tri chướng, là kiến hoặc và tư hoặc. Đây đang nói về Thân xác là Khách và Linh hồn đầu thai/Là chủ (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần chánh văn-Mục 116)
+ Vọng Tưởng: Trích lời giảng của HT Tuyên Hóa trong câu Thần Chú Đại Bi số 37. Thất na thất na:
Câu chú này được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô minh.
Quang minh là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn.
Những người có trí tuệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt được trí tuệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy.
Nhưng quý vị không thể nào biết rõ việc làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị không thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự non yếu trí tuệ.
Ồ! Không – Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!
Chỉ sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.
Nhưng tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không có trí tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.
Khi trong công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì nước trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực vậy, khi một người không còn bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện của đại trí tuệ.
Người có trí tuệ thường thành công trong bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí tuệ thường bị thất bại trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ là vô cùng quan trọng.
Ngu muội là gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì rõ:
- Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời: Tôi không rõ nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:
- Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì không có trí tuệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn được ví như thanh gươm.
Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý vị đã cầm lên rồi!
Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy, thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái gì là thế giới y báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi sự vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đã tụng một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ của quý vị chiếu sáng như một đài gương trong.
Người có trí tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Mặc dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công phu sẽ nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những người có trí tuệ chân chính thì rất hiếm.
Quý vị cũng nên phân biệt rõ trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thế gian. Trí tuệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”. Thực ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.
Cũng vậy, trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người như vậy.
Khi quan sát người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt hay không. Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí tuệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là trí tuệ. Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.
Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng.
Thất na thất na là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.
Thật chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên quý vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông.
Phát nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng dẫn đường đi và nơi đến.
Tại sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.
Nguyện lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Các pháp: .... Cặp đối phát sanh gồm 12 Tướng các cặp đối lập động tĩnh hợp li, điềm biến thông tắc, sanh diệt ám minh phát sinh Căn tánh:
1. Sáng - Tối hiển bày lẫn nhau => Cái Thấy - Ánh hiện thành SẮC;
2. Động - Tịnh đối chọi => Cái Nghe;
3. Thông - Bít phát hiện lẫn nhau => Tính Ngửi;
4. Không vị - Mặn nhạt xen lẫn nhau => Tính Nếm;
5. Ly - Hợp cọ sát => Biết Xúc chạm;
6. Sinh - Diệt tương tục => Cái Biết - Ánh hiện thành các Pháp;
Cho nên, đức Phật dạy, "Tất cả Pháp lấy Dục làm căn bản" là như thế. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngăn không khởi niệm: HỎI: Rốt cuộc thì chúng ta phải làm sao mới có thể không sanh khởi một niệm nào?
ĐÁP: Không có cách nào cả. Tuy không có cách để có thể khiến chúng ta không sanh một niệm nào, nhưng có cách có thể khiến một niệm không diệt. Diệt thì sẽ sanh, sanh thì sẽ diệt; có thể không diệt, thì có thể không sanh, mà không sanh thì tức là Phật. Đạo lý của Thiền Tông là như thế đấy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị Q.3)
+ Vọng niệm: Nếu còn nghĩ mình hiện nay trong Tâm "Một niệm không sinh", cái niệm này cũng là vọng niệm điên đảo vậy.
1. Học Phật thì phải dùng cái tâm bình thường để học, phải gìn giữ sự bình thường. Nói thật ra, tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đã nêu ra rất hay: “thanh tịnh, bình đẳng”. Trong tâm khởi niệm là cuộn sóng, là chẳng thanh tịnh, là bất bình đẳng. Kẻ ấy có vọng niệm, một niệm là một nhiễm ô, là chẳng thanh tịnh, là bất bình đẳng. Đạt đến “thanh tịnh, bình đẳng” là một niệm chẳng sinh. Nói thật thà, một niệm chẳng sinh cũng là nhiễm ô, cũng là bất bình đẳng, vì sao? Người ấy có “một niệm chẳng sinh”, cũng là phiền phức! Tôi chỉ nói tới đây, quý vị hãy thấu hiểu cặn kẽ: Hễ có “một niệm chẳng sinh” thì cũng không được. [Nếu cảm thấy] “nay ta rất thanh tịnh”, thôi rồi, quý vị chấp trước (dính mắc) thanh tịnh, vướng mắc nơi thanh tịnh, sự thanh tịnh ấy chính là chẳng thanh tịnh, cũng không được! (Nguồn: Khai thị niệm Phật_PS Tịnh Không)
+ Vọng niệm:...Vọng niệm chính là những niệm không chân, không thật, không thực tại, chỉ là hư vọng, vọng tưởng. Điên đảo chính là hiểu rõ việc này không đúng mà cứ làm, lại cãi chày cãi cối cho nó là đúng. Những điều quý vị ưa thích tuy không hợp với Phật pháp nhưng vẫn làm theo ý mình, đó là điên đảo. Không những chính quý vị làm như vậy mà còn ảnh hưởng đến người khác học theo tánh xấu của quý vị, đây là điên đảo. Người muốn học Phật pháp nhất định cần phải không điên đảo, không tà mê mới có chỗ thành tựu. Tuy có thầy sáng, bạn hiền giáo hóa, nếu quý vị không nghe, họ cũng không có cách nào giúp được. Thiện tri thức không giống cảnh sát thấy quý vị không tôn trọng pháp luật, liền bắt đem bỏ vào tù. Thiện tri thức không có nhà tù. Nếu quý vị không nghe lời dạy bảo, vị Thiện tri thức vẫn hy vọng quý vị từ từ sửa đổi những lỗi lầm quay về con đường thiện lành. Đối với những chúng sanh biết nghe lời, Thiện tri thức cũng không sanh lòng hoan hỷ; đối với những chúng sanh không nghe lời giáo hóa, Thiện tri thức cũng không vì đó mà phiền não tức giận, trong tâm chỉ có chút buồn bã, không vui lắm mà thôi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Lục Đàn Kinh)
+ Vọng niệm và ứng sử:
Hỏi: Lúc niệm khởi lên thì làm sao khống chế được nó? Làm sao để không bị lôi cuốn theo niệm bậy?
Đáp: Vừa khởi niệm mà biết được ngay, thì đó là giác. Giác rồi liền không còn nó nữa. Nếu chú giác ngộ, biết nó là niệm bậy thì nó sẽ biến mất. Còn nếu chú chạy theo niệm xấu và không nhận ra đó là niệm xấu thì không ai cứu nổi chú đâu. Niệm khởi liền giác, giác rồi liền không. Khi đã giác ngộ thì chú sẽ không còn theo vọng niệm nữa. Vọng niệm là không có căn gốc, vậy chú đi đâu tìm gốc rễ của vọng niệm đó chứ? Chú không chạy theo vọng niệm, nhưng nếu niệm có nổi lên thì chú đừng hợp tác với chúng là được rồi. (Nguồn: Cây gậy Kim Cang Het - HT Tuyên Hóa)
+ Đức Đại Lai Lạt Ma hướng dẫn cách ứng sử với người gặp khổ đau
HỎI: Tôi muốn biết mục tiêu của đời sống là gì và ngài có tin tưởng vào định mệnh hay không? Nếu có, thế thì vai trò của định mệnh trong đời sống là gì?
ĐÁP: Theo quan điểm của Phật giáo (mặc dù quan điểm của riêng tôi thì khác), đôi mắt, tâm thức, và khát vọng vượt thắng điều gì đó tất cả là một bộ phận của bản chất. Tôi nghĩ một cách thế tục, đó là câu trả lời. Chính mục tiêu của sự sống, tôi tin, là hạnh phúc. Không có gì bảo đảm trong cuộc sống, nhưng chúng ta tồn tại do bởi hy vọng. Nếu chúng ta đánh mất hy vọng thế thì điều đó sẽ làm ngắn lại sự sống của chúng ta. Sự tồn tại của chúng ta căn cứ trên hy vọng cho một tương lai tốt đẹp, không phải là một tương lai tệ hại. Từ quan điểm này, hạnh phúc là mục tiêu duy nhất cho sự sống.
- Định mệnh là cố định và chúng ta không có năng lực để thay đổi, theo những niềm tin khác nhau. Nhưng theo con đường thế tục, không có định mệnh. Những sự kiện xảy ra qua các nguyên nhân và điều kiện; thí dụ, một thân thể bệnh hoạn sẽ đưa đến một định mệnh yếu đuối. Nếu thân thể được chăm sóc, thế thì định mệnh có thể thay đổi. Vì vậy, định mệnh có thể thay đổi nếu có nổ lực thực hiện.(Nguồn: Đại Lai Lạt Ma giải đáp thắc mắc)
+ Hy vọng: 1-12 Hy Vọng
1. Có hai hy vọng này, này các Tỷ-kheo, khó được từ bỏ. Thế nào là hai? Hy vọng được lợi dưỡng và hy vọng được sống. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai hy vọng khó được từ bỏ.
2. Có hai hạng người ... khó tìm được ở đời.... Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm.
3. Có hai hạng người .... khó tìm được ở đời.... Người thỏa mãn và người làm người khác thỏa mãn.
4. Có hai hạng người ... khó làm cho thỏa mãn.... Người cất chứa các lợi dưỡng và người phung phí các lợi dưỡng.
5. Có hai hạng người ... dễ làm thỏa mãn. ... Người không cất chứa các lợi dưỡng và người không phung phí các lợi dưỡng.
6. Có hai duyên này, ... khiến tham sanh khởi. ... Tịnh tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tham sanh khởi.
7. Có hai duyên này, ... khiến sân sanh khởi. ... Chướng ngại tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến sân sanh khởi.
8. Có hai duyên này, .., khiến tà kiến sanh khởi. ... Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tà kiến sanh khởi.
9. Có hai duyên này, .. khiến chánh kiến sanh khởi. ... Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến chánh kiến sanh khởi.
10. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm . ... Tội phạm nhẹ và tội phạm nặng. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai tội phạm.
11. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm. ... Tội phạm thô trọng và tội phạm không thô trọng. ..
12. Này các Tỷ-kheo, có hai tội phạm. ... Tội phạm có dư tàn và tội phạm không có dư tàn. ... (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Giữ Tâm một chỗ:
2- Này các đệ tử, trong các giác quan của con người, Ý là quan trọng nhất. Các vị phải thận trọng chế ngự tâm ý mình. Tâm ý rất đáng sợ, nguy hiểm còn hơn thú dữ, rắn độc, thậm chí nguy hại hơn cả nạn hỏa hoạn. Cũng như có người mải mê cầm giữ chén mật trên tay và quên đi hầm hố trên đường, sẽ bị vấp ngã. Cũng như voi say mà không có móc sắt; như khỉ vượn gặp được cây rừng tha hồ mà chuyền nhảy, muốn chế ngự chúng thì thật là khó. Vì vậy các vị siêng năng chế ngự tâm mình, để giữ gìn tất cả các pháp thiện. Khi tâm được chế ngự một chỗ thì không việc gì không thành. .......
13- Này các đệ tử, nhiếp phục được tâm ý là làm cho tâm an trụ vào định. Tâm trụ thiền định thì sẽ thấu triệt được trạng thái sinh diệt, chuyển biến của thế giới. Các vị phải tinh tấn tu tập thiền định. Tâm định thì trạng thái chao động, tán loạn sẽ tiêu mất cũng như người biết cách giữ nước thì phải bảo vệ tốt đê điều. Cũng vậy, muốn có nước trí tuệ, các vị phải khéo tu tập thiền định, không để cho rỉ chảy. (Nguồn: Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật)
+ An Trụ Tâm: Người thiện nam, nữ, phát Tâm bồ-đề (vô thượng chánh đẳng chánh giác), nên làm sao trụ, làm sao hàng phục được tâm vọng tưởng, tâm phan duyên, tâm phóng túng, tâm hư vọng, tâm cống cao ngã mạn, tâm tham, tâm sân, tâm si?". "Hàng phục được tâm" là chế phục tâm xấu. Như hai bên giao chiến, thì khi hàng phục chính là chiến thắng đối phương => Phải vun trồng để có giới, định, huệ thì không có tham, sân, si. ...
Ðối với người ngu si thì giới, định, huệ sẽ biến thành tham, sân, si. Nước với băng cũng vậy, nước chẳng khác băng, băng chẳng khác nước, nước tức là băng, băng tức là nước. Cùng một nghĩa lý này, ta thấy phiền não tức bồ-đề, bồ-đề tức phiền não, phiền não và bồ-đề chẳng phải là hai thứ. .... (Nguồn: Trích Kinh Kim Cang)
+ 22. AN TRÚ BÊN TRONG
Tỳ kheo, tâm hướng về bên ngoài, bị phân rải, tán loạn, tâm không an trú vào bên trong, không chấp thủ nhưng sợ hãi. Nhưng, này các Tỳ-kheo, hãy quán như thế nào mà sau khi các ngươi đã quán như vậy, tâm không hướng về bên ngoài, không bị phân rải, tán loạn, tâm trú bên trong, không chấp thủ, không sợ hãi. Như vậy các ngươi không còn sanh, lão, bệnh, tử nữa. Đó là tận cùng sự khổ. (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, Phẩm 13, số 164)
+ 23. AN TRỤ TỨ NIỆM XỨ VÀ BẢY GIÁC CHI
Nếu ai không đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, mà tâm có thể an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém mà tâm an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ, trường hợp này tất có.
Nếu ai không đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm không an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ mà muốn tu bảy giác chi, trường hợp này hoàn toàn không có. Nếu ai đoạn trừ năm triền cái, những thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, tâm an trụ vững vàng trên bốn niệm xứ mà tu bảy giác ý, trường hợp này tất có. (Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
+ Chỉ dẫn an trụ tâm: Bài hướng dẫn Trụ tâm rất tuyệt vời, rễ hiểu, rễ làm với sự Buông xả vạn duyên, giữ Tâm như đứa trẻ ngây thơ nhưng Trí bản nguyên vốn Biết tất cả, chỉ Thấy và dừng lại như Bầu trời có Mặt trời, Mặt trăng có lúc bị Mây che chướng ... hãy canh giữ tâm bạn như canh giữ một viên ngọc để không bị kẻ trộm lấy đi. Sự tương đồng cuối cùng là đừng nghi ngờ rằng tâm như thế này hay thế kia, giống như không gian không có những tính chất.... Đối với Trần cảnh hiện trong thiền định, Milarepa nói rằng khi bạn thiền định về tâm như không gian, những đám mây sẽ xuất hiện. Nhưng chúng sẽ biến mất vào bầu trời. Khi bạn thiền định về tâm như ngọn núi, đừng bám chấp vào các bụi cây. Khi bạn thiền định tâm như đại dương, dường như sóng rất mạnh mẽ, nhưng những con sóng ấy có cùng bản tánh như đại dương và tan hòa trở lại vào đại dương. Tương tự như thế, khi một cảm xúc sinh khởi, hãy nhận ra bản tánh của nó và nó sẽ biến mất vào tâm. Đôi khi những xúc cảm hay cảm nhận về hỉ lạc phát khởi và chúng rất mạnh mẽ. Khi sân hận phát khởi, đừng nói năng trong sự giận dữ. Chỉ nhận ra nó và sân hận sẽ bớt dần đi. Một ngày kia bạn sẽ có thể giải thoát khỏi những cảm xúc phiền não khi chúng phát khởi.... Thực hành theo cách này, Nyama Paldarbum đã không đi vào ẩn thất trong núi non hay cạo đầu. Cô vẫn là một gia chủ và đã đạt được thân cầu vồng .......(Nguồn: Đức Milarepa dạy về Thiền định)
+ Thơ về An trụ tâm rât tuyệt vời: Làm thế nào để ngươi an trụ tâm - Bí mật nằm ở chỗ là buông xả - Không có một pháp nào để làm, và hãy gắng sức trong pháp không thấy gì để gắng sức. Ngươi hãy làm y hệt một em bé đang ngủ..... (Nguồn: Đức Milarepa dạy An trụ Tâm)
699. TỊNH TĨNH
Thế Tôn nhập định quán tâm các Tỳ-kheo. Lúc đó Thế Tôn thấy chúng Tỳ-kheo tĩnh tọa im lặng, rất im lặng, không có thụy miên vì đã dứt trừ ấm cái. Chúng Tỳ-kheo ngồi thậm thâm, rất thậm thâm; tịch tĩnh, rất tịch tĩnh; vi diệu, rất vi diệu. (Trung A Hàm, Kinh Tam Thập Dụ, Phẩm 6, số 69)
700. TĨNH TỌA
Tỳ-kheo ưa thích sự tĩnh tọa, nội hành tĩnh chỉ vắng lặng, cũng không rời tư sát, thành tựu quán hạnh, tăng trưởng không hành. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất ưa thích sự tĩnh tọa, thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy. (Trung A Hàm, Kinh Toán Số Mục-Kiền-Liên, Phẩm 12, số 144)
704. TỌA THIỀN
Tôn giả Xá-lê Tử hỏi rằng: ‘Khả ái thay, rừng Ngưu giác sa-la này, ban đêm có trăng sáng, các cây sa-la đều tỏa hương thơm ngát, ví như hoa trời’. Hiền giả Ly-việt-đa, những Tỳ-kheo nào làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la?’
Hiền giả Ly-việt-đa đáp rằng, ‘Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, nếu có Tỳ-kheo ưa yên tọa, bên trong tu hành nội tâm tĩnh chỉ, không bỏ tọa thiền, thành tựu quán tưởng, thường thích nhàn cư, ưa chỗ yên tĩnh. Thưa Tôn giả Xá-lê Tử, vị Tỳ-kheo như vậy làm rực sáng khu rừng Ngưu giác sa-la’.
Thế Tôn khen rằng: Lành thay! Xá-lê Tử, đúng như lời Tỳ-kheo Ly-việt-đa đã nói. Vì sao? Vì Tỳ-kheo Ly-việt-đa ưa Tọa thiền. (Trung A Hàm, Kinh Ngưu Giác Sa-la Lâm, Phẩm 15, số 184)
701. TĨNH TỌA NƠI RỪNG VẮNG
Này Đại Mục-kiền-liên, ở nơi rừng vắng kia, Ta nói pháp này có thể cùng hợp hội: núi rừng, dưới cây, chỗ an tĩnh không nhàn, núi cao, hang đá, vắng bặt âm thanh, viễn ly, không ác, không người, có thể tùy thuận mà tĩnh tọa. (Trung A Hàm, Kinh Trưởng Lão Thượng Tôn Thụy Miên, Phẩm 7, số 83)
+ Tham thiền đến cảnh giới "Mặt trăng nằm trên đỉnh đầu": Nguyệt đáo thiên tâm xứ - Phong lai thủy diện thời - Nhất ban thanh ý vị - Liễu đắc thiểu nhân tri. Nguyệt đáo ...: Hình dung người dụng công đạt được cảnh giới giống như Mặt trăng nằm ở trên đỉnh đầu; Phong lai ....: Gió thổi đến mặt nước còn chưa có sóng; Nhất ban ....: Ý nói cảnh rất thanh tịnh và ôn hòa; Liễu đăc....: Nhưng rất ít người biết thưởng thức ý vị cảnh giới này. ===> Dụng công đến không thấy Ta - Người - Chúng sinh - Thọ mạng thì như bên trong không thấy Thân Tâm. bên ngoài không thấy có thế giới. Thân tâm đều không, thế giới cũng không còn tồn tại. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 32 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Làm việc ngay há phải tu thiền: Hành vi công bình chính trực, đó chính là thiền, thiền cũng chính là dạy quý vị trừ đi tất cả tập khí tật xấu. Có người nói: "Tâm bình không cần trì giới, vậy tôi không trì giới nữa," nhưng tâm của quý vị đã bình hay chưa? Quý vị không kể tâm mình bình hay chưa, liền không trì giới. Tâm của quý vị cần phải bình mới có thể không trì giới, nếu tâm không bình thì làm sao có thể không trì giới? Nếu dối gạt người nói tâm tôi đã bình rồi, nhưng khi làm việc gì thì không công bình, lại tự tư, tự lợi, ích kỷ, tật đố chướng ngại, loại người này tâm làm sao có thể bình được. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu thanh tịnh thiền/ Thiền định giải thoát luân hồi: Phải tu đúng theo lời đức Phật dạy, tu Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối gồm
a/ Đoạn dâm: Không đoạn dâm dù có Định lực vẫn không để thoát luân hồi (Nấu cát mong thành cơm), nên vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương ứng Ma vương - Ma dân - Ma nữ. Thời mạt pháp ma dân rất nhiều
b/ Đoạn giết: Không đoạn giết hại (Ăn thịt và uống sữa ...) dù có Định lực cao thì vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương tương ứng Đại lực quỷ vương - Thủ lãnh loài quỷ (Bay trên không) - Quỷ bạo ác đi trên đất. Thời mạt pháp nói ăn thịt không trở ngại con đường giác ngộ. Ăn thịt không phải đệ tử Phật (Ngài dạy ăn Tam tịnh nhục là thịt do Ngài biến hiện ra). Người tu không đoạn giết ví như người tự bịt tai mình hô lớn tiếng, lại mong người khác chẳng nghe vậy (Bịt tai ăn cắp chuông). Đây như người muốn che dấu chứng cớ giành giành.
c/ Đoạn trộm cắp: Không đoạn trộm cắp dù có Định thì vẫn là thuộc ba hạng Thượng - Trung - Hạ tương tương ứng Quỷ hút tinh khí - Yêu ma quỷ quái - Ma qủy nhập thân người. Mạt pháp, nơi nào chúng đi qua gia đình suy bại và ly tán. Tu giải thoát mà phạm trộm cắp như đổ nước vào Ly nước bị thủng lỗ, muôn kiếp không đầy.
d/ Đoạn vọng ngữ: Không đoạn vọng ngữ (4 khẩu nghiệp, tự xưng chưa chứng đắc nói đã chứng) dù có Định lực cao thì vẫn là đọa lạc luân hồi. Người đó như lấy phân nặn thành hương đốt muốn thơm thì không thể được. Khi khởi đầu không chân thật thì kết quả sẽ chuốc lấy quanh co, muốn cầu đạo vô thượng mà phạm thì như người muốn tự cắn rốn mình - Không thể được.
=> Thành tựu Tứ chủng thanh tịnh minh hối đạt bất thoái chuyển thì Tâm không còn vướng Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, việc ma sự không thể phát sinh.
Với ai tập khí tiền kiếp sâu dày, tu Chú Lăng Nghiêm sẽ sớm thành tựu. Ví như dâm nữ có duyên sâu dày nhiều kiếp với ngài A Nan, dù tiền kiếp đã từng là dâm nữ, chưa từng khởi tâm tu hành bao giờ, thế mà khi nghe được đức Phật tuyên dương giáo pháp chỉ một lần, do năng lực âm thầm của Thần Chú Lăng Nghiêm mà còn mau chứng quả vị vô học. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Tu thiền định - Cách an trụ tâm: Bài hướng dẫn Trụ tâm rất tuyệt vời, rễ hiểu, rễ làm với sự Buông xả vạn duyên, giữ Tâm như đứa trẻ ngây thơ nhưng Trí bản nguyên vốn Biết tất cả, chỉ Thấy và dừng lại như Bầu trời có Mặt trời, Mặt trăng có lúc bị Mây che chướng ... hãy canh giữ tâm bạn như canh giữ một viên ngọc để không bị kẻ trộm lấy đi. Sự tương đồng cuối cùng là đừng nghi ngờ rằng tâm như thế này hay thế kia, giống như không gian không có những tính chất.... Đối với Trần cảnh hiện trong thiền định, Milarepa nói rằng khi bạn thiền định về tâm như không gian, những đám mây sẽ xuất hiện. Nhưng chúng sẽ biến mất vào bầu trời. Khi bạn thiền định về tâm như ngọn núi, đừng bám chấp vào các bụi cây. Khi bạn thiền định tâm như đại dương, dường như sóng rất mạnh mẽ, nhưng những con sóng ấy có cùng bản tánh như đại dương và tan hòa trở lại vào đại dương. Tương tự như thế, khi một cảm xúc sinh khởi, hãy nhận ra bản tánh của nó và nó sẽ biến mất vào tâm. Đôi khi những xúc cảm hay cảm nhận về hỉ lạc phát khởi và chúng rất mạnh mẽ. Khi sân hận phát khởi, đừng nói năng trong sự giận dữ. Chỉ nhận ra nó và sân hận sẽ bớt dần đi. Một ngày kia bạn sẽ có thể giải thoát khỏi những cảm xúc phiền não khi chúng phát khởi.... Thực hành theo cách này, Nyama Paldarbum đã không đi vào ẩn thất trong núi non hay cạo đầu. Cô vẫn là một gia chủ và đã đạt được thân cầu vồng .......(Nguồn: Đức Milarepa dạy An trụ Tâm)
+ Nguyệt tinh ma ni thủ. 42 Thủ nhãn Ấn pháp Chú đại Bi
Nhiệt độc vi hoạn nhật tương tiễn
Triền miên sàng đệ bội thương thảm
Nguyệt tinh ma ni thanh lương tán
Tiêu tai diên thọ lợi kiền khôn.
Phiên dịch:
Bệnh vì khí nóng ngấm vào thân
Trên giường trăn trở khổ nhân đôi
Ngọc phóng luồng trăng tươi khí lạnh
Xua tan hoạn nạn nhuận đất trời. (Nguồn: 42 Thủ nhãn CĐB - HT Tuyên Hóa)
+ Từ hóa đồ vật: Người ta có thể dùng từ khí hoặc lưu chất sinh khí, chẳng những để thôi miên mesmer hoặc chữa bệnh cho người khác, mà còn có thể dùng nó để thấm nhuần các đồ vật trên cõi trần theo một cách thức hơi giống như thế. Thật vậy, bất cứ đồ vật nào đã cận kề tiếp xúc với một cá thể đều hấp thu từ khí của cá thể ấy, vì vậy nó có khuynh hướng mô phỏng lại nơi người đang đeo nó một điều gì đó có cùng trạng thái xúc cảm hoặc tư tưởng mà nó đã được tích đầy. Điều này cố nhiên là một phần của cơ sở lý luận về bùa, bùa yêu và thánh tích, cũng như những cảm xúc sùng tín và kính nễ tôn sùng đôi khi hoàn toàn rịn ra theo sát nghĩa từ những bức vách trong nhà thờ chính và nhà thờ; mỗi viên đá trong đó đều thật sự là một lá bùa được tích đầy lòng sùng kính và sùng tín của người xây dựng, được vị giám mục tận hiến và được củng cố bởi những hình tư tưởng sùng tín của hết thế hệ này sang thế hệ khác trong hàng ngàn năm.
Đá quí, vốn là hình thức phát triển cao nhất của thế giới khoáng vật có khả năng rất lớn trong việc tiếp nhận và duy trì các ấn tượng. Nhiều loại ngọc quí nhiễm đầy những xúc cảm ganh tị và tham lam; trong trường hợp một số ngọc quí nổi tiếng trong lịch sử, chúng nhiễm đầy những luồng phóng phát trên cõi trần và các cõi khác liên quan tới những tội ác mà người ta đã phạm phải để chiếm được chúng. Những ngọc quí ấy còn giữ lại những ấn tượng không phai nhòa đi trong hàng ngàn năm, sao cho nhà trắc tâm có thể thấy xung quanh chúng những hình ảnh khủng khiếp hết chỗ tả. Chính vì lý do ấy, nói chung các huyền bí gia khuyên ta không nên đeo ngọc quí.
Mặt khác, ngọc quí cũng có thể là kho chứa rất nhiều quyền năng có tác dụng tốt và đáng mong muốn. Chẳng hạn như ngọc quí của phái Ngộ đạo được dùng trong lễ Điểm đạo cách đây hai ngàn năm vẫn còn giữ lại được cho đến tận ngày nay ảnh hưởng từ khí mạnh mẽ. Một số con bọ hung của người Ai cập vẫn còn có tác dụng, mặc dù chúng thậm chí còn xưa hơn nhiều so với ngọc quí của phái Ngộ đạo.
Tiền bạc, dưới dạng tiền xu và tiền giấy, thường nhiễm đầy từ khí rất khó chịu. Chẳng những nó tích đầy thứ từ khí hỗ lốn mà ngoài ra nó còn bị bao bọc bởi những tư tưởng và xúc cảm của những kẻ đã sờ mó tới đồng tiền. Tác dụng gây nhiễu loạn và kích động ấy của những thứ phóng phát trên thể vía và thể trí đã được so sánh với tác dụng do sự phóng phát của radium oanh kích thể xác. Những thứ gây tệ hại nhất là tiền xu bằng đồng và đồng thau, những giấy bạc dơ dáy và cũ kỹ. Kền ít tiếp nhận tác dụng xấu hơn đồng, còn bạc và vàng lại tốt hơn về phương diện này.
Khăn trải giường cung ứng một ví dụ khác về những vật trên cõi trần hấp thu và phóng ra ảnh hưởng từ khí, nhiều người đã nhận xét rằng những giấc mơ kinh hoàng thường xảy ra khi ta ngủ đầu nằm trên một cái gối mà một người có tính tình khó chịu đã sử dụng. Nếu người ta dùng len làm khăn trải giường hoặc quần áo thì tốt hơn đừng để cho nó chạm vào da, vì len nhiễm đầy ảnh hưởng của con thú. ....
Quá trình khử từ điển của phòng ở v.v. . . có thể được dễ dàng qua việc đốt nhang trầm hoặc thuốc viên hoặc rảy nước; nhang trầm và nước thoạt tiên phải được chuyển qua quá trình làm bùa mà ta vừa khuyến cáo....
Ta cũng nên nhớ rõ rằng vì vật chất hồng trần nơi con người tiếp xúc cực kỳ mật thiết với chất trung giới và chất trí tuệ, cho nên sự thô thiển và thô trược của thể xác hầu như tất yếu hàm ý là một tình hình tương ứng nơi các hiện thể khác: vì thế cho nên đối với huyền bí gia thể xác sạch sẽ cũng quan trọng không kém sự trong sạch về từ khí hoặc chất dĩ thái.
Việc muối có chứa chất clor cũng không sao vì clor là một nguyên tố “bốc lửa”, cho nên khi nó tổ hợp với nước là một dung môi vĩ đại, còn lửa là chất thiêu hủy vĩ đại thì đó là một tác nhân tẩy sạch rất hữu hiệu....
Vả lại khi nước được từ điển hóa chạm vào trán thì nó làm chất dĩ thái rung động mãnh liệt, kích thích bộ óc và thông qua tuyến yên ảnh hưởng tới thể vía rồi thông qua đó ảnh hưởng tới thể hạ trí. (Nguồn: Từ hóa đồ vật - Thông TH)
+ Thể cảm dục (ASCLH, 186)/ (KCVTT, 253)
+ Thể tri giác_Chân Sư DK: Một thuật ngữ mà Tôi rất thích hơn thuật ngữ cảm dục [astral], và Tôi sẽ tiếp tục sử dụng nó (LVHLT, 293)
+ Tình trạng Nước - Chất liệu tình cảm - Vật chất cõi cảm dục: Nguyên nhân thứ hai của sự thất bại nằm ở việc y không chú ý xem xét tình trạng của nước, hay là trạng thái của chất liệu tình cảm (emotional substance) mà hình trí tuệ này phải đến, và như thế thu hút vào nó vật chất của cõi cảm dục, điều này sẽ cho phép nó trở thành một thực thể hoạt động trên cõi đó. Nếu nó không thể làm được điều này, thì cuối cùng nó chỉ là một hình-tư-tưởng chết trên cõi trí, vì nó sẽ thiếu lực thúc đẩy đó của dục vọng, vốn cần để đưa nó tiến tới chỗ hoàn tất trên cõi trần. (LVHLT, 160)
+ Thể cảm dục là hiện thể của kinh nghiệm đối với đa số, và có vài người không vượt qua phần lớn cuộc sống có ý thức của họ, ghi nhận những phản ứng của thể đó, và dao động giữa hai cực của hạnh phúc và đau khổ, của sự hài lòng hoặc không hài lòng, của sự tin chắc hoặc nghi ngờ, của can đảm hoặc của sợ hãi. Điều này thực sự có nghĩa là mãnh lực cố hữu và sự sống của hiện thể tri giác tình cảm chi phối sự biểu hiện của đời sống, và uốn nắn kinh nghiệm của linh hồn nhập thể. Do đó, thật đáng cho chúng ta để hiểu một điều gì đó về việc các lực này là gì, chúng từ đâu đến và chúng tác động và phản ứng trên con người như thế nào. Bãi chiến trường của y nằm ở đó, và trận địa thắng lợi của y cũng nằm ở đó.(LVHLT, 293)
+ CON NGƯỜI: Nói chung, con người là những gì mà thể cảm dục của y tạo ra cho y. Sau nữa, “con người tưởng nghĩ như thế nào thì y trở nên thế ấy”. Thể cảm dục, với các mong mỏi, các thèm muốn, các tâm trạng, các cảm xúc và các khao khát của nó đúc nặn nên thể xác nhờ các lực thu hút tuôn chảy qua nó, và như thế dắt dẫn con người một cách chính xác để thực hiện các ham muốn của y. Nếu các khao khát của bản chất tri giác có tính thú vật vượt trội trong mục tiêu của chúng, chúng ta sẽ có con người với các thèm muốn mạnh mẽ, sống một cuộc đời dành hết nỗ lực để làm thỏa mãn chúng. Nếu sự khát khao để có tiện nghi và hạnh phúc, chúng ta sẽ có con người có tính khí thiên về giác quan, yêu cái đẹp và thích khoái lạc, về thực tế thì bị chi phối hoàn toàn bởi sự nỗ lực ích kỷ. Vì vậy, nó đi suốt tất cả các cấp độ ham muốn, tốt, xấu, và thông thường, cho đến khi sự tái-định-hướng xảy ra, nó tái-tập-trung (refocusses) các năng lượng cảm dục sao cho chúng được chuyển theo một hướng khác. Ham muốn (desire) trở thành nguyện vọng (aspiration). Như vậy, việc giải thoát khỏi bánh xe sinh tử được mang lại và một người được thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh. Khi đó thì lá số tử vi, như được hiểu hiện nay, tỏ ra vô ích, sai và vô dụng, còn thuật ngữ đôi khi được dùng, nhưng không đúng, là “lá số tử vi của chân ngã (ego) hay linh hồn”, thì không có ý nghĩa gì hết. Linh hồn không có vận mệnh cá nhân nào cả, mà được chìm vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của nó là vận-mệnh của tập thể, và của Tổng Thể (the Whole); mong muốn của nó là thể-hiện Thiên Cơ vĩ đại, và ý chí của nó là sự tôn vinh Thượng Đế nhập thể (the incarnated Logos). (LVHLT, 296)
+ Thể tri giác - Nguồn gốc bệnh sinh lý: Thể cảm dục đôi khi được gọi là thể tình cảm là kết quả của sự tương tác của dục vọng và của sự đáp ứng hữu cảm thức vào cái ngã ở trung tâm, và đưa đến kết quả – trong thể đó – là kinh nghiệm được tạo ra dưới hình thức cảm xúc như là đau khổ và vui sướng và các cặp đối hợp khác. Trong hai thể này, tức thể dĩ thái và cảm dục, người ta thấy có tới 90% các nguyên nhân của bệnh hoạn và bất ổn của xác thân. (CTNM, 3)
+ Cảm dục: ... H.P.B. chịu trách nhiệm một phần lớn vì đã dùng từ ngữ “astral” (cảm dục) để chỉ một số lớn tri thức liên quan đến thể dĩ thái cũng như thể cảm dục. Điều này là do việc nhận thức rằng thể cảm dục, trong một vài thế hệ nữa (nói một cách tương đối) sẽ bị biến mất, còn đặc biệt là đối với H.P.B., nó đã không còn tồn tại do bởi đệ tử này đã đạt được mức tiến hóa cao. Do biết được rằng thể dĩ thái luôn luôn là một biểu lộ của năng lượng vượt trội đang kềm chế nhân loại trong bất cứ chu kỳ đặc biệt nào, H.P.B. dùng thuật ngữ “astral body” như là có thể thay thế cho nhau với (thể dĩ thái).
+ Thể Cảm dục (Thể astral, thể vía): Gồm các ham muốn và xúc cảm của chúng ta – sợ hãi, hạnh phúc, hy vọng, nhạy cảm, cảm xúc mạnh, âu lo, tình cảm dồn nén, bám chấp, và yêu thương. (MQ - Hình dung và 7 Cung)
+ Thể tình cảm: Có hình dạng bầu dục bao quanh xác thân như Thể trí. Mục đích Tham thiền là nên làm cho hình bầu dục của thể tình cảm trở nên tích cực (Loại tà - Nghĩ chánh) đối với những gì thấp kém và đối với những gì chung quanh nó, và chỉ thụ cảm đối với Tinh thần thông qua thể nguyên nhân (Linh hồn). Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách phát triển khả năng kiểm soát hữu thức - sự kiểm soát mà ngay trong những lúc rung động và tiếp xúc cao nhất, khả năng này vẫn linh mẫn trông nom và bảo vệ các hạ thể. “Hãy trông chừng và cầu nguyện” là lời dạy của Chúa khi Ngài còn tại thế. (TTHM_Nguy hiểm khi tham thiền_Chân Sư DK)
+ Cảm Dục/ Dục Vọng:
1. Sợ hãi – Có ảnh hưởng tới hoạt động ngày nay;
2. Căm ghét (hate) – Vốn là một yếu tố trong sự điều tiết các mối liên hệ;
3. Tham vọng – Đang chi phối các mục tiêu (CTHNM, 231)
+ Thể Tri Giác: Trong việc xem xét thể cảm giác (sentient body) của một người,.. việc bàn đến các ảnh hưởng của thể cảm giác và trong việc tìm cách để chế ngự các ảnh hưởng của nó, thì con người mới đạt đến sự tự tri và nhờ thế trở thành một Chân Sư. Những biểu hiện thông thường nhất của hoạt động cảm dục (astral activity) là:
1. Sợ hãi (fear)
2. Phiền muộn hoặc đối cực của nó, sự vui tươi.
3. Mong muốn thỏa mãn các thèm khát thú tính.
4. Mong cầu hạnh phúc.
5. Ước muốn giải thoát. Đạo tâm.
Hầu hết các kinh nghiệm về tri giác của con người được tổng kết thực tế trong năm mục này, và chúng ta sẽ xem xét mỗi mục theo các khía cạnh sau:
1. Nguyên nhân.
2. Hậu quả.
3. Phương pháp điều hướng (method of direction)... (LVHLT, 297)
Xem thêm: Dục vọng con người
Xem thêm: Kiểm soát, thanh luyện dục vọng
Xem thêm: Thể phách và Hào quang sức khỏe con người
I - THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Chúng ta có 3 thành phần chính trong cấu tạo của chúng ta: Chân thần, Linh hồn, và Phàm ngã. (Trích TL MQ/ MF)
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo. (5 Cõi: Người thường ở 3 cõi thấp "Cõi hồng trần - Cõi cảm dục - Cõi trí cụ thể, tổng 18 phân cảnh"; Người tiến hóa thêm phân cảnh trừu tượng của cõi trí và 2 cõi: Cõi Bồ đề và Cõi Atma/ Tinh thần_Minhtrietmoi.org) (CTHNM, 483)
+ Thể: Dùng để chỉ một hình thể có khả năng hoạt động độc lập trong cõi hữu hình và vô hình. (KCVTT, 128)
+ Thể, các thể: Các thể của con người hay các hiện thể biểu lộ được tạo thành bằng các đơn vị năng lượng. Chúng ta gọi các đơn vị năng lượng này là các nguyên tử và các đơn vị nguyên tử này được giữ lại với nhau dưới hình thức thể bằng mãnh lực cố kết của các năng lượng còn mạnh mẽ hơn. Các thể chính là bộ máy đáp ứng. Các thể gồm Thể Xác - Dĩ thái và Thể Cảm dục/ Tình cảm và Thể Trí (Thượng trí và Hạ trí) và Phàm ngã (Tổng hợp 3 thể thấp) và Chân Ngã và Chân Thần; (CTNM, 36).
+ Con người có 7 thể để hoạt động trên các cõi giới khác nhau. 3 thể cao (Tam nguyên tinh thần) và 4 thể thấp (tứ nguyên hạ). 4 thể thấp (Xác - Dĩ Thái - Cảm Dục - Trí) này được xem là 3 (tam nguyên hạ) khi chúng ta xem thể nhục thân và thể dĩ thái cấu thành một thể là thể hồng trần,hay thể xác/ Thể Vật Lý - Thể Hồng trần tam phân gồm: (1) Thể dĩ thái. (2) Các nadis chủ yếu. (3) Xác thân. Thể Trí gồm hạ trí và Thượng trí. Tất cả gọi là Thể Phàm Ngã. Cao hơn là Thể Linh Hồn/ Linh tánh; Thể Chân Thần.
+ Thể cảm dục và thể hạ trí đều là vật chất (Theo cách riêng của nó) (LVLCK, 73)
+ Linh hồn được nghiên cứu với tư cách là một trung tâm tâm thức, và các thể với tư cách là các trung tâm của kinh nghiệm (EPII 335); (Trích TLHNM)
+ Trong mỗi kiếp sống, Phàm Ngã con người thuộc 1 trong 7 cung đó, luân phiên thay đổi tùy theo cung Chân Ngã. Sau lần điểm đạo thứ 3, con người xác định được vị trí linh hồn của mình (tôi tạm nói như thế) ở trên 1 trong 3 cung chính... Phàm Ngã vô thường thay đổi hết cung này đến cung khác, hết kiếp này đến kiếp khác, cho đến khi mọi tính chất đều được phát triển và biểu lộ. (TLHNM I, 128–129).
+ Cơ thể con người: Chất liệu của 2 phân cảnh (cõi phụ) thấp nhất của cõi trần và cõi cảm dục không bao giờ được kiến tạo thành cơ thể con người như ngày nay; chất liệu đó có rung động quá thấp và có mức độ quá thô trược ngay cả đối với hạng người thấp kém nhất trên địa cầu hiện giờ. Cũng cần nói thêm rằng nơi kẻ thường nhân, chất liệu của một cõi phụ nào đó sẽ chiếm đa số tùy theo mức tiến hóa của người đó. (LVLCK,942)
+ Các Thể và các Đại/ Nguyên tố: Như chúng ta biết, thể xác con người gồm có 5 nguyên tố hồng trần: Địa, Thủy, Phong, Hỏa, và dĩ thái xuyên suốt tất cả. Các thể thanh của con người, tức là thể cảm dục hay tình cảm, thể trí và thể bồ đề hay còn gọi là thể tinh thần, thì cũng gồm các trạng thái tinh vi hơn của ngũ đại vừa kể, với những mức độ khác nhau. Ví dụ như thể cảm dục thì có liên quan đến nguyên tố Thủy, thể trí liên quan đến Phong, và dĩ thái và thể bồ đề liên quan đến Hỏa.
Trong lá số tử vi của mỗi cá nhân, một nguyên tố thường nổi bật lên các nguyên tố kia, nhưng mục tiêu tối hậu của con người là đạt được sự hiểu biết tự thức và kiểm soát được lần lượt mỗi nguyên tố trên con đường hướng thượng của mình đi vào ánh Sáng. Để đạt mục đích của tham thiền, hầu như không thể được giữa các giòng tư tưởng xung đột trong những thành phố, tôi thường sống ẩn dật ở một nơi hoang vắng trên bờ biển. Ở đó, khí địa, Phong và Thủy giao hòa, thì một số vị Thánh Sư đã có thể dùng quan năng thần thông để tạo ấn tượng cho tôi về nhiều vấn đề đang có trong thời đại hiện nay. (Nguồn: Ngũ hành và các vị Thánh Sư)
+ Sự cấu tạo của con người, xét trong những trang sau đây, cơ bản gồm có ba phần, như sau:
I. Chân thần, hay Tinh thần thuần khiết, là Cha ở trên Trời. Trạng thái này phản ánh ba trạng thái của Thượng Đế:
1. Ý chí hay Quyền lực Đức Chúa Cha
2. Bác ái - Minh triết Đức Chúa Con
3. Thông tuệ Linh hoạt Chúa Thánh thần
và chỉ có thể tiếp xúc với trạng thái này vào những lần điểm đạo cuối cùng, khi hành giả gần đến mức cuối cuộc hành trình và trở nên hoàn thiện.
+ Chân thần lại tự phản ánh trong
II. Chân nhân, Chân ngã, hay là Cái Ta cao siêu. Trạng thái này có tiềm năng là:
1. Ý chí tinh thần Atma.
2. Trực giác Bồ-đề, Bác ái-Minh triết, nguyên khí Christ.
3. Trí tuệ cao siêu hay trừu tượng Thượng trí.
Trong những người tiến hóa cao, Chân nhân bắt đầu phát lộ quyền lực của mình, và ngày càng tăng trên Đường Dự bị cho đến lần điểm đạo thứ ba thì Chân ngã hoàn toàn chế ngự phàm ngã, và trạng thái cao nhất bắt đầu phát lộ năng lượng.
+ Chân nhân tự phản ánh trong
III. Phàm nhân hay phàm ngã, con người hồng trần. Trạng thái này cũng tam phân:
1. Thể trí hạ trí.
2. Thể tình cảm thể cảm dục.
3. Thể hồng trần thể xác và thể dĩ thái.
Do đó, mục đích của tham thiền là giúp hành giả ý thức được Chân nhân để Chân nhân chế ngự phàm tính. Đây là mục tiêu ngay trước mắt của người sơ cơ. (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
II - THEO PHẬT PHÁP
+ Thân Tâm hay Danh Sắc: Đức Phật dạy rằng con người là sự tập hợp của 2 thành phần chính gọi là danh và sắc.
Danh - Tâm: Là phần tư tưởng gồm có 4 hợp tố, đó là thọ, tưởng, hành và thức.
Sắc - Thân xác: Gồm có nội sắc và ngoại sắc, nhưng đại để là sự kết hợp của tứ đại đất, nước, gió, lửa. (Xem nguồn)
+ Con người - Tứ đại: Do tứ đại và Ngũ ấm mà thành ra chúng sinh. Ngũ ấm là Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức là ngũ ấm. Sắc là Thân xác do tứ đại làm thành. Cõi Thiên không có thân xác tứ đại, nhưng còn Thọ Tưởng Hành Thức - Do Si mê mà có. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Tứ đại với xác thân con người: Trích: A-nan bạch Phật: Bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về nhân duyên hòa hợp rằng: Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh.
Giảng:
"A-nan bạch Thế tôn, Như Lai thường nói về các pháp nhân duyên và các pháp hòa hợp rằng. Thế tôn nói rằng Tất cả các thứ biến hoá trong thế gian – 'Thế gian' ở đây là chỉ cho hữu tình thế gian và khí thế gian – Tất cả mọi thứ biến hoá trong thế gian đều nhân bốn thứ 'đại' mà phát sinh."
Thế nào là bốn thứ 'đại' (tứ đại)? Đó là đất, nước, lửa, gió. Thân thể con người là hợp thể của tứ đại.
- Những phần cứng và chắc trong thân thể là thuộc về địa đại (đất),
- Hơi nóng trong cơ thể thuộc về hoả đại (lửa).
- Nước dãi, đàm dịch, nước mắt thuộc về thuỷ đại (nước).
- Hơi thở thuộc về phong đại (gió).
Khi chúng ta còn sống, thân thể chịu sự điều khiển của mình, nhưng sau khi chết thì tứ đại tan rã. Hơi ấm trong thân trở về với lửa. Các chất dịch trở về với nước. Các chất rắn trở về với đất. Hơi thở trở về với gió.
'Chuyện chết' đề cập ở đây là như thế nào? Mặc dù chúng ta còn đang sống, nhưng thân xác chúng ta được xem như là đã chết rồi. Cái đang sống được nói đến là gì? Mặc dù chúng ta không biết là nó đang sống, nhưng tinh thần chúng ta rất trẻ và đầy sức sống– đó chính là Phật tánh hằng có của chúng ta. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN- Q.3)
+ Tứ đại trong bảy đại:
+ Tâm thức nhị nguyên sinh lành dữ: Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Có một pháp Đà la ni tên là Kim Cang tâm hay khiến chúng sanh một phen thấy, một phen nghe liền đặng đạo quả. Này gã trai lành! Thế nào gọi là Kim Cang tâm? Tâm/ Chân tâm này người người vẫn có không kẻ nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh này tự biết lấy, tự hiểu lấy. Vì sao?
Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ.
Tâm là chủ của thân; Thân là dụng của tâm. Tại sao vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học, đức do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm ra, họa do tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành Phật, tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm ác là người của La Sát, nên cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm mình, làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật. (Nguồn: Kinh Kim Cang)
Xem thêm: Các Thể của con người
Xem thêm: Thể vía ; Thể phách ;
Xem: T.H Tooltip và Thuật Ngữ, Cấu Tạo Con Người
+ Sách Chân Sư DK: Tháng 11/ 1919, tôi tiếp xúc với A.A.B.(Alice A. Bailey) và yêu cầu bà giúp tôi bằng cách viết ra cũng như lo việc xuất bản một số sách — theo trình tự phổ truyền chân lý — đã đến lúc cần được cho ra. Tôi giải thích cho bà hiểu rằng sự liên hệ bằng thần giao cách cảm (viễn cảm) là một điều đã được chứng minh và là một vấn đề đang được giới khoa học quan tâm nghiên cứu. - Các sách của Ngài:
1. Điểm Đạo trong Nhân Loại và Thải Dương Hệ: Có mục đích khiến cho công chúng chú ý đến sự kiện thật về Đại Đoàn Chưởng Giáo (Đ.Đ.C.G).
2. Thư về Tham Thiền Huyền Môn: Các bức thư này đã chỉ ra một khảo hướng khá mới về tham thiền
3. Luận về Lửa Vũ Trụ (Càn Khôn): Quyển sách này triển khai giáo huấn đã đưa ra trong Giáo Lý Bí Nhiệm về 3 loại lửa — lửa điện, lửa thái dương và lửa ma sát. Nó cũng đưa ra chìa khóa tâm lý cho bộ Giảo Lý Bí Nhiệm và nhằm cung ứng tài liệu nghiên cứu cho những người đệ tử và các điểm đạo đồ ở cuối thế kỷ này và đầu thế kỷ tới, mãi đến năm 2025.
4. Luận về Chánh thuật/ Luận về Huyền Linh Thuật: Nhằm huấn luyện người chí nguyện thời nay trong việc kiểm soát thể cảm dục của mình, với sự trợ giúp của thể trí, vì đến lượt thể trí ấy lại được linh hồn soi sáng.
5. Bộ Luận về Bảy Cung - Gồm 4 tập:
5.1- Gồm 2 tập đầu: Tập 1 - Luận về 7 cung và Tập 2: 7 mẫu tâm lý của 7 cung (Tâm lý học nội môn)
5.2- Tập 3 - Chiêm Tinh Học Nội Môn: Khoa chiêm tinh mới trên căn bản là linh hồn chứ không phải phàm nhân.
5.3- Tập 4 - Trị liệu huyền môn: Vấn đề trị liệu, lập cầu Antahkarana để nối liền giữa Chân thần và phàm nhân. - Sách của A.A.B và Chân Sư DK kết hợp 1. Sách Ánh Sáng của Linh Hồn: Chân Sư dịch ra tiếng Anh các câu kinh Phạn ngữ của Patanjali, còn bà đóng góp phần luận giải, thỉnh thoảng bà cũng tham khảo ý kiến tôi để nắm chắc ý nghĩa.
+ Sách Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới (Không biết có trùng với sách Điểm Đạo trong Nhân Loại và Thải Dương Hệ nêu trên hay không): Có cả một loạt mắt, và một số bạn đã đọc qua quyển Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên
Mới, tập 2. Trong quyển sách đó, Chân sư DK có đưa ra Sáu Công Thức (Con Mắt) cho các đệ tử sử dụng trước khi được điểm đạo lần tiếp theo, và trong Sáu Công Thức đó, Công Thức đầu tiên nói về một loạt các con mắt và các cách nhìn khác nhau của chúng (Anh Kiệt dịch tài liệu Thầy HT giải nghĩa sách của Chân Sư)
+ Sách của riêng Bà A.A.B: Bà chứng minh rằng 1 người có thể làm 1 công việc nhất định bằng quan năng thần thông mà vẫn có thể thật sự thông minh.
1. Tâm thức của Hạt Nguyên tử.
2. Linh hồn và các Thể.
3. Từ Trí tuệ đến Trực giác.
4. Từ Bethlehem đến Calvary.
Xem thêm: Tập hợp các Thu của các Chân sư Minh triết
Xem: Viễn cảm của AAB với CSDK và CSKH
Nguồn: Thư Của Chân Sư DK
Xem: về các Chân Sư Minh Triết
Xem: về các tác phẩm của Chân Sư DK
+ Minh Sư - Bậc "Sáng mắt" - Đã khai mở ngũ nhãn, có được Phật Nhãn
Mười năm thiền định trong núi vắng,
Chẳng bằng một lời chỉ điểm của minh sư.
‘Minh sư’ có nghĩa là là ‘người sáng mắt’, là người đã có được ‘Phật nhãn.’ Một bậc Thiện tri thức như vậy có thể nhìn thông suốt nhân duyên. Vị ấy có thể giảng pháp khế hợp đến mức có thể khiến cho nhân duyên được chín muồi. Thế nên quý vị có thể ngồi thiền 10 năm trong núi vắng, nhưng không bằng gặp được một vị minh sư điểm đạo cho mình.
Do vậy trong đạo Phật, được thân cận một vị minh sư là điều rất quan trọng. Trong số các vị Thiền sư trưởng lão, có rất ít vị chân thực là minh sư. Có thể họ là người thông thái, nhưng chưa hẳn là bậc ‘sáng mắt’ có nghĩa là, chưa hẳn họ đã được ‘khai ngũ nhãn.’ Quý vị đừng cho rằng đây là việc dễ làm. Thực vậy. Khai được Phật nhãn chắc chắn không phải như chứng được quả vị A-la-hán, mà đòi hỏi quý vị phải trồng nhiều căn lành trong quá khứ.
Để có được Phật nhãn, quý vị phải nhất tâm tu tập pháp đại bi, đặc biệt là 42 Đại bi thủ nhãn ấn pháp (Forty-two Greatly Compassionate Hands and Eyes). Nếu quý vị nhiệt tâm tu tập pháp nầy thì có thể đạt được Phật nhãn. Đó là pháp ‘vượt cầu môn.’ (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 5)
+ 5- NGHI NGỜ - NGHI HOẶC
- Không phân biệt được Pháp lành giữ, không có tín tâm và khả năng thực hành giáo lý lên nghi ngờ (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ 16. KINH TÂM HOANG VU (Cetokhila Sutta)
Thế Tôn thuyết giảng như sau:
-- Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu, chưa đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này không xảy ra. Thế nào là năm tâm hoang vu chưa được đoạn trừ?
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nghi ngờ bậc Ðạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ bậc Ðạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ hai chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Tăng, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ ba chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ các học pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì; tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư chưa được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phẫn nộ đối với các đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn, thời tâm của vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm chưa được diệt trừ.
Như vậy là năm tâm hoang vu chưa được diệt trừ.
Thế nào là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, đối với những dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào đối với những dục, không phải không tham ái... không phải không khát ái, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất chưa được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không phải không tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai chưa được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không phải không tham ái ... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ ba chưa được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái lạc về sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thụy miên. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thê cho đến bụng chứa đầy... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư chưa được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh với mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ:
"Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ năm chưa được đoạn tận.
Như vậy là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu này, chưa đoạn tận năm tâm triền phược này, vị ấy có thể lớn mạnh trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này không xảy ra.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã diệt trừ năm tâm hoang vu, đã đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này có xảy ra.
Thế nào là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo không nghi ngờ bậc Ðạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ bậc Ðạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất đã được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ hai đã được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Tăng, không do dự, quyết đoán, tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ ba đã được diệt trừ.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ học pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư đã được diệt trừ.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm đã được diệt trừ.
Như vậy là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ.
Thế nào là năm tâm triền phược đã được đoạn tận?
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái, tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất đã được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai đã được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ ba đã được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống không thiên nặng về khoái lạc sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghĩ, khoái lạc về thụy miên... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư đã được đoạn tận.
Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác", tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ năm đã được đoạn tận.
Như vậy là năm tâm triền phược đã được đoạn tận.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã đoạn tận năm tâm triền phược này, thời vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong pháp luật này, sự kiện này có xảy ra.
Vị này tu tập như ý túc câu hữu với dục Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tâm Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tư duy Thiền định; và tinh cần hành với nỗ lực là thứ năm.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đầy đủ mười lăm pháp kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn khỏi các ách phược.
Chư Tỷ-kheo, như có khoảng tám, mười hay mười hai cái trứng của con gà mái, những trứng này được con gà mái khéo ấp, ngồi lên trên, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng, thời dầu cho con gà mái không khởi lên sự mong ước: "Mong rằng những con gà con của ta, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng, hay với mỏ của chúng, có thể thoát ra một cách yên ổn", những con gà con ấy, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng hay với mỏ của chúng, có khả năng thoát ra một cách yên ổn. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Tỷ-kheo đầy đủ mười lăm pháp, kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn khỏi các ách phược.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn. (Nguồn: 16. Kinh Tâm Hoang Vu)
+ Nghi hoặc: .... Bèn thấy đại Bồ Tát Di Lặc từ nơi khác đến, có vô lượng chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, .............. Thiện Tài thấy rồi, hoan hỉ hớn hở, năm thể sát đất.
Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc quán sát Thiện Tài, chỉ thị đại chúng, khen ngợi công đức của Thiện Tài, mà nói kệ rằng: Tr 233
Sinh tâm nghi hoặc, thì sẽ ở trong sương mù, không biết được phương hướng, tìm chẳng được con đường chân chánh. Phải tin tam tạng mười hai bộ, lời nói hành động phải phải căn cứ nơi tam tạng Kinh điển, không đi trật đường, đó mới là bản sắc của người tu đạo ... Tr269
Nếu ai nghe pháp nầy
Mà sinh tâm thệ nguyện
Nên biết người như vậy
Đã được lợi rộng lớn. Tr 271
Sáu mươi ba bài kệ ở trên là khen ngợi Thiện Tài (Di Lặc BT khen).
Hai mươi sáu bài kệ trước là khen quả đức, bảy bài kệ kế tiếp là khen hiện đức, tám bài kệ kế tiếp là khen gặp hữu đức, năm bài kệ kế tiếp là khen sớm thành bậc hạnh đức, bảy bài kệ cuối là tổng minh các đức. (Nguồn: Tr274 - T24. Kinh Hoa Nghiêm)
+ CHÂN SƯ TIẾP XÚC VỚI ĐỆ TỬ
Những người dành cho công việc rơi vào ba nhóm:
a/ Những người có thể cảm nhận được thiên-cơ và được giao nhiệm vụ để thực hiện thiên-cơ đó.
b/ Những người có thể được sử dụng nhưng họ không thấy được những vấn đề lớn hơn.
c/ Những người không thể cảm nhận được gì ngoài những điều có liên quan đến những quyền lợi ích kỷ của riêng họ.
- Các Chân Sư có thể tiếp xúc với nhóm thứ nhất. Các Ngài làm việc với các đơn vị này của gia đình nhân loại, và hy vọng triển vọng tốt đẹp về sự thành công ở mức trung bình. Cả hai nhóm này đều nghe được linh-âm, và thấy được Thiên Cơ (Plan).
- Nhóm thứ hai phải được các đệ tử trên thế gian sử dụng một cách tốt nhất có thể được.
- Nhóm cuối cùng thì thường xuyên bị đặt ra ngoài theo quan điểm về năng lượng, và chỉ được sử dụng khi cần thiết.
=> Một trong những điều kiện chủ yếu mà một đệ tử phải trau dồi, để cảm nhận được thiên-cơ, và được Chân Sư sử dụng, là sự cô độc (solitude). Trong sự cô độc, hoa hồng của linh hồn mới phát triển; trong sự cô độc, linh-ngã (divine self) mới có thể lên tiếng; trong sự cô độc, các năng lực và những ân sủng của Chân Ngã mới có thể bén rễ và nở hoa trong phàm-ngã. Cũng trong cô độc, Chân Sư mới có thể tiếp cận và ghi khắc lên linh hồn tĩnh-lặng (quiescent soul) tri thức mà Ngài tìm cách truyền đạt, bài học phải được học, phương pháp và kế hoạch cho công việc mà đệ tử phải nắm vững. Trong sự cô độc, diệu-âm được nghe thấy. Các Đấng Cao Cả phải làm việc qua các công cụ là con người, vì vậy kế hoạch và tầm nhìn bị trở ngại nhiều bởi sự không thích hợp về phía những công cụ này.
Thứ ba: Điều này đưa Tôi đến điểm thứ ba, những vấn đề và những khó khăn mà các Chân Sư phải đấu tranh với chúng, khi các Ngài muốn xúc tiến các kế hoạch tiến hóa qua trung gian các con của nhân loại. Theo cách mật nghị (conclave wise), các Ngài soạn thảo các kế hoạch của các Ngài; sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, các Ngài phân chia công việc một cách có suy xét; sau đó, các Ngài tìm cách truyền đạt càng nhiều về kế hoạch càng tốt cho những người tự hiến mình cho việc phụng sự và có sự tiếp xúc với linh hồn ở một mức độ nào đó. Các Ngài ghi khắc kế hoạch và một gợi ý nào đó về phạm vi của nó vào trí của một người nam hoặc một người nữ nào đó trên cõi trần. Nếu thể trí đó không ổn định hoặc quá thỏa mãn (oversatisfied), nếu nó tràn đầy kiêu hãnh, đầy thất vọng, hoặc đầy sự tự ti (self depreciation), tầm nhìn không tiếp nhận được thông tin liên lạc với độ rõ ràng về đường nét; nếu thể tình cảm đang rung động dữ dội với một nhịp điệu nào đó do phàm ngã dựng nên, hoặc nếu thể xác đang đau ốm và do đó việc tập trung chú ý bị ngăn chận, điều gì sẽ xảy ra? Chân Sư sẽ buồn bã quay đi, đau buồn khi nghĩ đến cơ hội phụng sự mà người phụng sự đã đánh mất do khuyết điểm của chính họ, và Ngài sẽ tìm một người khác để lấp đầy nhu cầu, một người mà có lẽ về cơ bản không thích hợp lắm, nhưng là người duy nhất có thể dùng được do sự thất bại của người được tiếp cận đầu tiên. (LVHLT, 132)
+ Các tác phẩm của chân sư tây tạng - Chân sư DK
Trong tháng Mười Một năm 1919, tôi tiếp xúc với A.A.B. (Alice A. Bailey) và yêu cầu bà giúp tôi bằng cách viết ra cũng như lo việc xuất bản một số sách — theo trình tự phổ truyền chân lý — đã đến lúc cần được cho ra......
Các tác phẩm:
Quyển sách đầu tiên được xuất bản là Điểm Đạo trong Nhân Loại và Thải Dương Hệ. ...Từ đó trở đi, A.A.B. đã viết sách cho tôi trong gần hai mươi lăm năm. Các sách này đã ra đời, phù hợp với một chủ đích sâu xa tiềm ẩn mà có lẽ các bạn quan tâm muốn biết, và chúng đã được khắp thế giới thừa nhận.
Điểm Đạo trong Nhân Loại và Thái Dương Hệ có mục đích khiến cho công chúng chú ý đến sự kiện thật về Đ.Đ.C.G......
Kế đó là quyển Thư về Tham Thiền Huyền Môn. Các bức thư này đã chỉ ra một khảo hướng khá mới về tham thiền, không dựa trên lòng tôn sùng các Chân sư, mà dựa vào việc nhận thức được linh hồn nơi mỗi cá nhân. Rồi tiếp theo là Luận về Lửa Vũ Trụ. Quyển sách này triển khai giáo huấn đã đưa ra trong Giáo Lý Bí Nhiệm về ba loại lửa — lửa điện, lửa thái dương và lửa ma sát — và nó đã đúng theo lịch trình mà người ta mong đợi. Nó cũng đưa ra chìa khóa tâm lý cho bộ Giảo Lý Bí Nhiệm và nhằm cung ứng tài liệu nghiên cứu cho những người đệ tử và các điểm đạo đồ ở cuối thế kỷ này và đầu thế kỷ tới, mãi đến năm 2025.
Về sau, A.A.B. cảm thấy rằng sẽ rất hữu ích cho tôi và công việc chung nếu bà tự viết ra một số sách giúp ích cho các sinh viên, ngoài việc ghi bài, viết sách cho tôi, rồi đưa chúng ra dưới hình thức Anh ngữ nhiều gợi ý mà chúng tôi đã phát triển làm phương tiện truyền chuyển các ý tưởng mà tôi có phận sự công bố’. Người có thần thông và người đồng tử trung bình thì thường không có mức thông minh cao, và A.A.B. muốn chứng minh (để giúp ích cho công việc trong tương lai) rằng một người có thể làm một công việc nhất định bằng quan năng thần thông mà vẫn có thể thật sự thông minh. Thế nên, bà đã viết bốn quyển sách hoàn toàn là tác phẩm của chính bà:
Tâm thức của Hạt Nguyên tử.
Linh hồn và các Thể.
Từ Trí tuệ đến Trực giác.
Từ Bethlehem đến Calvary.
Bà cũng đã cộng tác với tôi, viết một quyển sách, nhan đề là Ánh Sáng của Linh Hồn; trong sách này tôi dịch ra tiếng Anh các câu kinh Phạn ngữ của Patanjali, còn bà đóng góp phần luận giải, thỉnh thoảng bà cũng tham khảo ý kiến tôi để nắm chắc ý nghĩa.
Kế đến là Luận về Chánh thuật. Quyển này đã được viết cách đây nhiều năm, và khi viết nó đã được đưa ra từng chương cho các sinh viên cao cấp của Trường Arcane chỉ để dùng làm bài đọc mà thôi. Nó là cuốn sách đầu tiên được đưa ra bàn về việc huấn luyện và kiểm soát thể tinh tú hay là thể cảm dục. Nhiều cuốn sách nội môn đã viết về thể xác, cách thanh luyện nó, và về thể dĩ thái hay là thể sinh lực. Hầu hết chúng là tuyển tập của các sách khác, cả xưa và nay. Tuy nhiên, quyển sách này của tôi thì nhằm huấn luyện người chí nguyện thời nay trong việc kiểm soát thể cảm dục của mình, với sự trợ giúp của thể trí, vì đến lượt thể trí ấy lại được linh hồn soi sáng.
Tác phẩm tiếp theo là bộ Luận về Bảy Cung. Đó là một bộ sách dài, chưa hoàn tất. Nó bao gồm bốn tập, hai tập đầu đã được xuất bản, một tập đã sẵn sàng để in, và tập chót thì đang được viết. Các tập một và hai bàn về bảy cung và bảy mẫu tâm lý của bảy cung, để đặt nền tảng cho khoa tâm lý mới mà khoa tâm lý hiện nay (dù có tính xu phụng vật chất) đã tạo được một cơ sở rất tốt. Tập ba thì hoàn toàn dành cho chủ đề khoa chiêm tinh nội môn, và tự nó là một quyển sách. Tập này nhằm đưa ra khoa chiêm tinh mới trên căn bản là linh hồn chứ không phải phàm nhân. Khoa chiêm tinh công truyền xác lập một đồ biểu để đưa ra vận mệnh của phàm nhân, và khi phàm nhân này kém tiến hóa hoặc chỉ phát triển ở mức trung bình thì thường lá số ấy đoán đúng đến mức gây kinh ngạc. Tuy nhiên, nó sẽ không đúng đến mức đó, nếu đương sự là những người tiến hóa cao, những người chí nguyện, các đệ tử và điểm đạo đồ là những người đang bắt đầu chế ngự các ngôi sao chiếu mệnh và do thế mà kiểm soát được các hành động của mình. Bấy giờ các sự kiện và các diễn biến trong đời họ sẽ không thể nào tiên đoán được. Khoa chiêm tinh mới của tương lai sẽ cố gắng đưa ra chìa khóa để lập lá số của linh hồn, vì nó chịu sự chi phối của cung linh hồn chứ không phải cung phàm nhân. Những điều tôi đưa ra đã đủ để giúp cho những nhà chiêm tinh nào quan tâm theo đường hướng mới có thể giải đoán tương lai, dựa vào khảo hướng mới mẻ này. Khoa chiêm tinh là một khoa học nền tảng và hết sức cần thiết. A.A.B. không biết gì về chiêm tinh cả; thậm chí bà không thể lập được một đồ biểu, hay có thể kể tên các hành tinh và những cung nào chúng chi phối. Do đó, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả những gì nói trong sách này và tất cả những quyển sách khác của tôi chỉ trừ một quyển là Ánh Sáng của Linh Hồn như trước tôi đã có giải thích.
Tập bốn bàn về vấn đề trị liệu, cũng như việc lập cầu Antahkarana để nối liền khoảng cách giữa Chân thần và phàm nhân. Nó cũng đưa ra Mười bốn Qui luật mà những người nào đang dự cuộc huấn luyện để được điểm đạo đều phải tận tường.....
Thế là các quyển sách được liên tục ra đời trong nhiều năm, và khi bộ Luận về Bảy Cung hoàn tất, một cuốn sách nhỏ về ảo cảm đã sẵn sàng để in, và một quyển sách nói về đường đạo trong thời đại mới được trao vào tay công chúng, thì công việc A.A.B. làm cho tôi sẽ chấm dứt. Bấy giờ bà có thể trở lại làm công việc của mình — công việc của một người đệ tử — trong Đạo viện của Chân sư bà.
Nhà Trường
Giai đoạn kế tiếp của công việc mà tôi muốn thấy được thành tựu thì nay đang được tiến hành đều đặn. Đó chính là mong muốn của tôi (cũng như là sự mong muốn của nhiều nhân viên trong Đ.Đ.C.G.) muốn thấy một trường huyền môn được mở ra mà để cho các môn sinh được tự do.... A.A.B. đã mở ra một trường như thế nào năm 1923 với sự giúp đỡ của F.B. và một số môn sinh có sự thông hiểu và tầm nhìn tinh thần. Bà đã đặt điều kiện là tôi sẽ không có gì liên quan đến Trường Arcane, và tôi sẽ không chi phối học trình và các phương sách của nhà trường, ở điểm này bà đã khôn ngoan và đúng đắn và tôi hoàn toàn ủng hộ quan điểm của bà. Ngay cả những quyển sách của tôi cũng không được dùng làm sách giáo khoa, và chỉ ba năm qua, một quyển sách trong đó, Luận về Chánh thuật, mới được điều chỉnh để dùng trong một khóa học, và đó là do sự yêu cầu tha thiết của nhiều sinh viên. Một vài phần của giáo huấn về Antahkarna (sẽ cho ra trong một quyển sau này của bộ Luận về Bảy Cung) cũng đã được dùng trong hai năm qua cho một phần của cấp thứ tư. Giáo huấn về ảo cảm đã được đưa ra làm bài đọc trong một phần khác.
*Phát hành năm 1932 dưới tựa đề, Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian.
Khi thế chiến nổ ra và toàn thể thế giới lao vào những hậu quả xáo trộn, khủng khiếp, thảm họa, chết chóc, đau thương, thì nhiều người có khuynh hướng tinh thần đã lo đứng ngoài cuộc đấu tranh. ..... Khi tôi viết tập sách Cuộc Khủng hoảng của Thế giới Hiện tại và các bài viết kế tiếp về tình hình thế giới, tôi đã khẳng định rằng Đ.Đ.C.G. ủng hộ thái độ và các mục tiêu của Liên Hiệp Quốc, là chiến đấu cho sự tự do của toàn nhân loại và cho sự giải thoát của những người đau khổ. Sự kiện này đã nhất thiết đặt Đ.Đ.C.G. ở vào vị thế không cách nào ủng hộ lập trường của phe Trục. .... Những người đó đã không suy nghĩ cặn kẽ rõ ràng, họ lẫn lộn thái độ không chịu ủng hộ với tình huynh đệ, mà quên đi những lời Đức Christ đã nói rằng “người nào không cùng với ta tức là chống lại ta.” Tôi xin lặp lại những điều tôi đã thường nói. Đ.Đ.C.G. và tất cả các nhân viên, gồm cả tôi, đều yêu thương nhân loại, nhưng các Ngài không hề ủng hộ những gì tà vạy, gây hấn, tàn ác và giam nhốt linh hồn con người. Các Ngài đại diện cho tự do, cho cơ hội dành cho mọi người có thể tiến tới trên con đường ánh sáng, cho phúc lợi của toàn nhân loại, không phân biệt, cho lòng tử tế tốt đẹp, và cho quyền của mỗi người có thể tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do làm việc. Thế nên, tất nhiên là các Ngài không thể ủng hộ các quốc gia nào hoặc những người trong bất cứ quốc gia nào đi ngược lại quyền tự do và hạnh phúc của con người. Trong tình thương và thấu hiểu được trường hợp này, các Ngài biết rằng, trong một kiếp sống hay những kiếp sống về sau, phần đông những người mà hiện đang là kẻ thù của quyền tự do của con người, chính họ cũng sẽ được giải thoát và dấn bước trên con Đường sáng. Đồng thời, toàn lực của Đ.Đ.C.G. được đổ về phía các quốc gia đang đấu tranh giải thoát nhân loại, cũng như đổ về phía những người, ở trong bất cứ quốc gia nào, đang làm công việc đó. Nếu đứng về phía tự do và điều thiện bị xem là phương hại cho các vấn đề tinh thần, thì bấy giờ Đ.Đ.C.G. sẽ làm việc để thay đổi thái độ của mọi người về thế nào là tinh thần.
Vậy là, tôi đã quan tâm đến ba giai đoạn của công việc: những quyển sách, Trường Arcane, và Đ.N.M.P.S.T.G.. Tác động của ba phương diện công việc này vào thế giới đã rõ ràng là hữu hiệu và hữu ích. .....
Huấn Luyện Cá Nhân
Song hành với các hoạt động chính yếu nói trên, từ năm 1931 tôi đã huấn luyện một nhóm người nam, nữ rải rác trên khắp thế giới, về các kỹ thuật của con đường đệ tử nhập môn, hiểu về mặt lý thuyết. .... Những người này đã nhận giáo huấn cá nhân trực tiếp từ tôi cùng một số giáo huấn tổng quát thể hiện cách cận tiến mới mẻ hướng về Đ.Đ.C.G. và cuộc sống tinh thần, dù rằng dĩ nhiên là căn cứ vào các qui luật xưa. Chẳng bao lâu, các giáo huấn đó sẽ được đưa ra cho công chúng, nhưng không kèm theo các chi tiết liên quan đến những người đã thụ huấn; tên tuổi, ngày tháng, nơi chốn đều được thay đổi, chỉ có giáo huấn là được giữ y như đã truyền đạt.*
Tất nhiên, qua giao tiếp với tôi, những người này đã xác định được lai lịch của tôi. Trong nhiều năm rồi họ đã biết tôi là ai..... nói chung người ta đã nhận ra rằng tôi là một Chân sư và đã gán cho tôi một danh hiệu. ...... Sau bao nhiêu năm giữ kín lai lịch của tôi, bà (A.A.B) đã mắc phải điều sơ sót này (Trên báo chí), nên nó đã công nhiên xác định rằng tôi là một Chân sư.
*Các giáo huấn này hiện có trong quyển “Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới”. Tập II của sách này sắp được xuất bản. – Foster Bailey.
Trong vấn đề này tôi muốn các bạn chú ý đến ba điều:
Nhiều năm trước đây, tôi đã nói trong Luận về Chánh thuật rằng tôi là một điểm đạo đồ ở một cấp bậc nào đó nhưng cần phải giữ kín tính danh..... Đã từ lâu, chủ đích của tôi là làm tất cả những gì cần thiết để giúp cho công chúng hiểu được rõ ràng đích xác sự kiện thật về Đ.Đ.C.G. cùng các nhân viên, bằng một phương cách tạo nhiều quan tâm hơn nữa.
Các Chân sư làm việc thông qua đệ tử của các Ngài trong nhiều tổ chức; ..... Muốn làm đệ tử dự bị, hành giả có thể là một người sùng tín rồi sau đó chú trọng vào việc thanh luyện và có được một sự hiểu biết thông minh về tình huynh đệ và nhu cầu của nhân loại. Muốn làm một người đệ tử chính thức, làm việc trực tiếp dưới các Chân sư và tích cực phụng sự thế giới với một tầm ảnh hưởng ngày càng tăng, hành giả cần trí tuệ phát triển có định hướng, cần tâm hồn tăng trưởng, mở mang, và một ý thức giá trị chân thực.
Vì đã biết rõ toàn bộ vấn đề này, và đã trông thấy các hậu quả tai hại của giáo huấn thường đưa ra về các Chân sư, nên A.A.B. đã bị buộc phải làm ngược lại, để trình bày thực tính của Đ.Đ.C.G., các thành viên và những mục tiêu của các Ngài, và bà đã tìm cách đặt sự chú trọng — như chính Đ.Đ.C.G. đang chú trọng — vào nhân loại, chứ không phải chú trọng vào một nhóm các huấn sư. .... Các danh xưng mà một số đệ tử ở Tây Tạng dùng cho chúng tôi có dính dáng đến trình độ thành đạt. Họ gọi Đ.Đ.C.G. là “hội của các bậc tuệ trí có tổ chức và được khai ngộ” — được khai ngộ bởi tình thương và sự thông hiểu, bởi lòng từ ái sâu xa bao trùm vạn loại, được khai ngộ bởi một sự hiểu biết Thiên cơ và nhằm thấu rõ được Thiên ý, hy sinh sự tiến bộ ngay trước mắt của riêng mình để trợ giúp nhân loại. Đó là một vị Chân sư.
Điểm thứ nhì tôi muốn đưa ra dưới hình thức một câu hỏi. Có điều tai hại gì xảy ra hay chăng, khi người ta cáo buộc một vị Chân sư và gán cho Ngài thế này thế nọ, miễn sao các thành tích của Ngài đủ chứng minh giá trị của lời cáo buộc, và ảnh hưởng của Ngài lan rộng khắp thế giới? .....
Qua 25 năm làm việc cho tôi trong lĩnh vực huyền môn, A.A.B. không hề lợi dụng sự kiện thực rằng tôi là một Chân sư, .... không đến Chân sư xin giúp sức để đứng vững. Y cố gắng tiến bước trong ánh sáng của chính linh hồn mình và dựa vào sức mạnh của Sự Sống tinh thần nơi chính mình; và bằng cách đó y học trở thành Chân sư qua thông hiểu và chế ngự mọi sự.
Điểm thứ ba tôi muốn các bạn quan tâm là trong chu kỳ mới sẽ đến khi thế chiến chấm dứt, phải làm sao cho công chúng ngày càng chú ý nhiều hơn đến sự kiện thật về Đ.Đ.C.G. và công việc của các Chân sư, thông qua đệ tử các Ngài. Những người đệ tử ở khắp nơi sẽ trình bày ngày càng nhiều hơn về kế hoạch của Đ.Đ.C.G. nhằm gây dựng tình huynh đệ, cuộc sống tinh thần và sự thông hiểu bao dung cho thế giới. Công việc này sẽ không được thực hiện theo lối (vẫn thường thấy trong những người khờ dại) họ bảo rằng “Chân sư đã chọn tôi”, hoặc “Chân sư đang ủng hộ nỗ lực của tôi”, hoặc “Tôi là đại diện của Đ.Đ.C.G.”; nhưng công việc này được thực hiện bằng một cuộc đời phụng sự, bằng cách nêu rõ rằng các Chân sư vẫn hằng hiện diện và nhiều người ở khắp nơi đã biết được các Ngài; bằng cách nêu rõ rằng Thiên cơ là một kế hoạch phát triển tiến hóa và giáo dục tiến bộ hướng đến mục tiêu thông tuệ tinh thần; nêu rõ rằng nhân loại không phải cô đơn một mình mà còn có Đ.Đ.C.G. đứng cận kề, Đức Christ vẫn ở với dân Ngài, và thế giới đang có rất nhiều đệ tử huyền môn nhưng họ làm việc trong im lặng nên ít ai nhận biết; nêu rõ rằng Đ.N.M.P.S.T.G. đang hiện diện và những người nam, nữ thiện chí có mặt ở khắp nơi; nêu rõ rằng các Chân sư không hề quan tâm đến các chỉ trích cá nhân mà sử dụng những người nam, nữ với tất cả các lề lối suy tư, tín ngưỡng, quốc tịch, miễn sao động cơ thúc đẩy họ là tình thương, miễn sao họ có trí tuệ điêu luyện, thông minh, cũng như có ảnh hưởng chói ngời từ lực, để hấp dẫn mọi người đến với chân lý và điều thiện chứ không phải với cá nhân — dù đó là một vị Chân sư hay một người đệ tử. Các Ngài không bận tâm gì đến lòng trung thành với cá nhân mà chỉ hiện mình để nâng nhẹ nỗi khổ đau, để nâng cao cuộc tiến hóa của nhân loại và chỉ rõ các mục đích tinh thần. Các Ngài không tìm cách khiến cho công việc của các Ngài được người đương thời ngợi khen, thừa nhận, mà chỉ tìm cách tăng cường ánh sáng trên thế giới và khai mở tâm thức con người.
Tháng Tám, 1943.
1 . Ghi chú: Sau đó, Chân sư Tây Tạng và A.A.B. đã quyết định cho ra các Qui luật này thành một cuốn riêng. Bởi vậy, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ xuất hiện dưới hình thức tập V của bộ “Luận về Bảy Cung” – Foster Bailey (F.B.). (Nguồn: Các Sách của Chân Sư Tây Tạng). Trân Châu dịch.
10. Các Chân Sư (EP II 208): Là những người đã đạt được sự giải thoát khỏi tất cả những giới hạn của bản chất sắc tướng và an trú vĩnh viễn trong tâm thức của Linh Hồn Duy Nhất, đã thoát khỏi sự đồng nhất hóa với bất cứ khát vọng nào của sự sống sắc tướng, bất kể phát triển cao như thế nào. Các Ngài có thể và vẫn sử dụng hình tướng tùy ý cho các mục đích công ích chung. Đây là những Chân Sư của Sự Sống, những vị adepts hoàn thiện.(GQ1.1, tr 24,Trích dẫn TLHNM)
+ Một Chân Sư hay một người đã vượt qua con đường tiến hóa và đi vào giai đoạn cuối cùng của thánh đạo, tức Con đường Điểm đạo, đủ được 5 lần điểm đạo và do đó, đã bước vào giới thứ năm hay giới Tinh thần, chỉ còn nhận thêm 2 cuộc điểm đạo nữa. (ĐĐNLVTD, 215)
+ Một Chân Sư là một vị sáng tạo bằng chất liệu cõi trí, một vị phát khởi các xung lực trên cõi trí, nhờ đó tạo được các kết quả trong biểu hiện ở cõi cảm dục hoặc cõi hồng trần. Các kết quả này mạnh mẽ và hữu hiệu, do đó vị phát khởi phải có tư tưởng thanh khiết, lời nói chính xác và hành động khéo léo. (ĐĐNLVTD, 198–199)
+ Các Chân Sư chuyên về khoa học thị giác và âm thanh là một số Chân Sư thông thái nhất và tiến hóa nhất trong Thánh Đoàn.
+ Vị Chân Sư có được tự do hoàn toàn để hoạt động trong 3 cõi thấp cộng với cõi Bồ Đề (buddhic realm), trong khi Đức Christ và các Vị cùng cấp điểm đạo với Ngài có được tự do hoạt động trong 5 năm cõi tiến hóa của con người. (ASCLH, 354, 356)
+ Trạng thái nhận thức bằng trực giác. Chúng ta nhận thấy các Chân Sư Minh-Triết (Masters of Wisdom) tiến hành công việc của các Ngài ở trình độ tâm thức này, và chính trong phạm vi ảnh hưởng này mà các Ngài hoạt động một cách thoải mái và dễ dàng nhất, cũng như người thông minh bình thường hoạt động trên cõi trần. . Thể trí của các Ngài luôn luôn giao tiếp với các thể trí ở cõi nguyên-hình (archetypal minds), vốn là những vị bảo quản những công thức, và các Ngài – sau khi tiếp nhận các bản thiết kế (Tôi lại nói theo cách biểu tượng nữa rồi) − xử lý các đặc điểm kỹ thuật (specifications), tìm kiếm những người thích hợp để kiểm soát công việc, và tập hợp nhân sự cần thiết (LVHLT, 459)
Xem thêm về các Chân Sư Minh Triết
Xem thêm về các tác phẩm của Chân Sư DK
+ Cảm giác:
- Cảm giác là phản xạ của dục vọng (LVLCK, 661)
- Trạng thái Hoạt Động (Activity-aspect) của Chân Thần tự biểu lộ trên cõi cảm dục dưới hình thức cảm giác (sensation). (KCVTT 244)
+ Hệ thống cảm giác - Thần kinh: .... Bản thân các trung khu thần kinh dĩ nhiên do thể xác tức “cái túi cơm” cung ứng, nhưng Prana là năng lượng kềm chế tác động thông qua các trung khu thần kinh, khiến cho cái túi cơm ấy phải vâng lời và uốn nắn nó theo mục đích yêu cầu của bản ngã vốn ngự trong trí tuệ cao siêu.
Thật quan trọng mà lưu ý thấy rằng mặc dù các dây thần kinh ở trong thể xác nhưng tự thân thể xác không có khả năng cảm giác. Với vai trò là một lớp vỏ, thể xác không hề cảm giác: nó chỉ tiếp nhận các ấn tượng thôi. Cơ thể nơi ngoại giới tiếp nhận tác động, nhưng khả năng cảm nhận đau khổ và vui sướng ở nơi chính các tế bào, ngoại trừ thể hiện một cách rất mơ hồ, đờ đẫn và mang tính “tập thể”, sinh ra những cảm giác lơ mơ bàng bạc, chẳng hạn như cảm giác mệt mỏi nói chung.
Những sự tiếp xúc của thể xác được Prana truyền vào bên trong, những tiếp xúc ấy thật sắc xảo, đau nhói, nhức nhối, chuyên biệt, khác hẳn với những cảm giác bàng bạc nặng nề bắt nguồn từ chính các tế bào. Như vậy là trong mọi trường hợp Prana đều sinh ra hoạt động cảm giác cho các cơ quan của thể xác, nó truyền rung động từ bên ngoài tới cho các trung khu cảm giác vốn ở nơi Kāma, tức lớp vỏ kế tiếp với Prana, đó là Manomayakosha. Chính nhờ có thể Phách thì Prana mới chạy dọc theo các dây thần kinh trong cơ thể, khiến cho chúng có thể tác động chẳng những chuyển di các tác động từ bên ngoài mà còn chuyển tiếp lực phát động bắt nguồn từ bên trong.
Chính tác động của các dòng Sinh khí trong thể Phách của các loài khoáng vật, thực vật và động vật đã khiến cho vật chất cõi Trung giới tham gia vào cấu trúc của phân tử và nguyên tử chuyển từ dạng tiềm tàng sang dạng hoạt động; nhờ vậy nó tạo ra một “sự rung rẩy” khiến cho Chơn Thần trong hình tướng thu hút được các vật liệu cõi Trung giới, vốn được các tinh linh thiên nhiên xây dựng thành ra một khối có cấu tạo lỏng lẻo tức là thể Vía trong tương lai.
Nơi loài khoáng vật, vật chất cõi Trung giới ít hoạt động đến nỗi không nhận thức được tác động từ cõi Trung giới lên cõi Hồng trần. Nơi loài thực vật cao cấp hoạt động tăng cường của vật chất Trung giới ảnh hưởng tới thể Phách và thông qua đó tác dụng lên vật chất thô trược. Nơi loài động vật, tâm thức cõi Trung giới còn lớn hơn nữa, ảnh hưởng tới thể Phách của chúng nhờ vào những rung động trong cõi dĩ thái mới xây dựng được hệ thần kinh bị kích thích mà ở loài thực vật mới chỉ lờ mờ được báo trước thôi.
Như vậy, chính những xung lực do tâm thức phát động – sẵn lòng trải nghiệm – để gây ra những rung động trên cõi Trung giới, đến lượt chúng tạo ra các rung động trong vật chất cõi dĩ thái: xung lực vốn từ tâm thức mà ra, nhưng việc thực sự xây dựng hệ thần kinh (mà tâm thức ở giai đoạn này không thể đảm đương được) là do các tinh linh thiên nhiên của cõi dĩ thái thực hiện dưới quyền điều động của các Đấng Quang Minh thuộc giới Tinh hoa Ngũ hành thứ Ba và Thượng Đế hoạt động thông qua Hồn Khóm.....
Như ta thấy, hệ thần kinh giao cảm được các xung lực xây dựng trước hết từ các tế bào thần kinh này, đó là xung lực bắt nguồn từ cõi Trung giới; sau này thì hệ thần kinh não tủy được xây dựng do các xung lực bắt nguồn từ cõi Trí tuệ.
Hệ thần kinh giao cảm luôn luôn vẫn còn có quan hệ trực tiếp với các trung tâm lực của thể Vía; nhưng điều quan trọng mà ta cần lưu ý là các trung tâm lực của thể Vía này không phải là các luân xa của thể Vía (sau này ta sẽ nói tới các luân xa ấy) mà chỉ là khối tập hợp trong thể Vía tạo thành phần sơ khởi của những trung tâm lực vốn sẽ kiến tạo nên các cơ quan trong thể xác. Mãi cho tới một thời kỳ rất lâu sau này trong cơ tiến hóa thì các luân xa của thể Vía mới được tạo dựng.
Thế là từ các trung tâm lực này – không phải là các luân xa – mười cơ quan của thể xác được tạo thành: năm cơ quan để tiếp nhận ấn tượng tức Jnanendriyas, “giác quan hiểu biết”, tức trung tâm cảm giác của bộ óc, rốt cuộc có liên quan tới mắt, tai, lưỡi, mũi và da cùng với năm cơ quan chuyển rung động từ tâm thức ra ngoại giới, Karmendriyas, “giác quan hành động”, tức trung tâm cảm nhận gây ra tác động; đó chính là các trung khu vận động trong bộ óc, có liên quan tới các cơ quan cảm giác ở tay, chân, cổ họng, cơ quan sinh dục và cơ quan bài tiết.
Học viên phải cẩn thận lưu ý là Prana chạy dọc theo các dây thần kinh vốn khác hẳn và riêng biệt với cái gọi là từ khí hoặc lưu chất thần kinh của con người, lưu chất này được sản sinh ra trong nội bộ cơ thể y. Lưu chất thần kinh tức từ khí này giữ cho vật chất dĩ thái lưu chuyển dọc theo các dây thần kinh hoặc nói chính xác hơn, là dọc theo một lớp vỏ bằng chất dĩ thái bao xung quanh mỗi dây thần kinh cũng giống như máu tuần hoàn qua các tĩnh mạch. Và cũng như dòng máu chuyển oxy tới cho cơ thể, cũng vậy dòng lưu chất thần kinh chuyển Prana.
Vả lại, cũng giống như các hạt của xác phàm thường xuyên thay đổi và được thay thế bằng những hạt mới rút ra từ thức ăn, nước và không khí; cũng vậy các hạt của thể Phách thường xuyên thay đổi và bị thay thế bởi các hạt dĩ thái mới mẻ, những hạt này được thu nhận vào trong cơ thể qua thức ăn, qua những khí hít vào và qua Prana dưới dạng mà ta gọi là Sinh Khí Cầu, và bây giờ ta sẽ miêu tả.
Prana tức Sinh Khí tồn tại trên mọi cõi: cõi trần, cõi Trung giới, cõi Trí tuệ v.v. . . Prana là Sự Sống Nhất Như, là cái “trục bánh xe có gắn bảy cái căm của bánh xe vũ trụ”. (Thánh Ca về Prana trong Artharva Veda XI, 4). Tuy nhiên, ở đây ta chỉ quan tâm tới dáng vẻ và phương thức hoạt động của nó trên cõi thấp nhất tức cõi Hồng trần.
Ta cũng phải lưu ý rằng Prana trên cõi Hồng trần vốn thất bội, nghĩa là có bảy biến thể của nó.
Ta đã thấy rằng nó hoàn toàn riêng biệt và riêng rẽ với ánh sáng, nhiệt v.v. . . ; tuy nhiên biểu lộ của nó trên cõi Hồng trần dường như tùy thuộc vào ánh nắng mặt trời bởi vì khi ánh nắng chói chang thì dường như Prana cũng xuất hiện nhiều còn khi thiếu ánh nắng thì Prana cũng bị thiếu hụt.
Prana xuất hiện từ mặt trời rồi nhập vào một số cực vi tử hồng trần vốn trôi nổi hằng hà sa số trong bầu khí quyển của trái đất. Mặc dù ta bảo rằng lực Prana này “nhập vào” nguyên tử cõi trần, nhưng nó không từ bên ngoài nhập vào: nó nhập vào từ một chiều đo cao hơn, chiều đo thứ tư, và như vậy nhà thần nhãn thấy nó có vẻ trào dâng từ bên trong nguyên tử.
Như vậy có hai lực nhập vào nguyên tử từ bên trong: 1- lực Ý Chí của Thượng Đế giữ nguyên tử lại đúng hình dạng của nó; 2- lực Prana. Ta nên lưu ý rằng Prana xuất phát từ Ngôi Hai của Thái Dương Thượng Đế, trong khi lực Ý Chí xuất phát từ Ngôi Ba.
Tác dụng của Prana đối với các nguyên tử khác hẳn tác dụng của điện, ánh sáng, nhiệt hoặc các biểu hiện khác của Fohat. Khi điện lướt xẹt qua các nguyên tử thì nó làm lệch hướng các nguyên tử giữ chúng lại theo một cách nào đó, cũng như truyền cho chúng một nhịp độ rung động riêng biệt và cá biệt. Bất cứ biến thể nào của Fohat chẳng hạn như điện, ánh sáng hoặc nhiệt, đều gây ra một dao động của nguyên tử xét chung, dao động ấy có kích thước khổng lồ so với kích thước của chính nguyên tử, dĩ nhiên các lực ấy tác động lên nguyên tử từ bên ngoài.
Học viên huyền bí học ắt đã quen thuộc với hình dáng và cấu trúc của cực vi tử hồng trần, tức hạt vật chất nhỏ nhất trên cõi hồng trần, tổng hợp của nó tạo ra đủ thứ chất mà ta gọi là chất đặc, chất lỏng, chất hơi v.v. . . Vì vậy trong những hình vẽ của tài liệu này người ta chỉ phác họa các cực vi tử hồng trần thôi.
Bấy giờ lực Prana xạ ra từ mặt trời, nhập vào một số nguyên tử trong bầu khí quyển và gây cho chúng chói sáng. Như vậy, một nguyên tử được tích thêm sự sống, có năng lực hấp dẫn lục bội, sao cho nó ngay tức khắc thu hút sáu nguyên tử khác xung quanh mình. Nó sắp xếp những thứ này theo một hình dạng nhất định, tạo ra cái được gọi là một siêu việt sơ nguyên tố (a hyper-meta-proto-element) trong Hóa Học Huyền Bí, tức là một tổ hợp vật chất trên cảnh giới dưới nguyên tử. Tuy nhiên, tổ hợp này khác với mọi tổ hợp khác đã được quan sát cho đến nay ở chỗ lực tạo ra nó và giữ nó lại với nhau xuất phát từ Ngôi Hai của Thái Dương Thượng Đế thay vì từ Ngôi Ba. Dạng này được gọi là Sinh Khí Cầu và được trình bày trong hình vẽ đính kèm theo đây vốn là hình mở rộng của hình ở trang 45 của quyển Hóa Học Huyền Bí. (Nguồn: Prana - Sinh khí vũ trụ)
+ Xúc cảm (Emotion, xúc động):
- Xúc cảm - Xảy ra do các rung động của chất liệu thuộc cõi cảm dục (astral matter). (CKDCLH, 19)
- Xúc cảm chỉ là dục vọng được biểu lộ thuộc loại này hay loại khác. (TLHNM II, 418)
- Xúc động hay xúc cảm sơ khai, là phản ánh của tình thương trên cõi trần. (TTCNT, 81)
+ Thiên thần Devas: Trong trường hợp của các devas, tình thương là làm tròn thiên luật mà không đau khổ hoặc phiền não. Đó là con đường dễ nhất đối với họ, vì họ là trạng thái mẹ, phương diện âm của biểu lộ, và con đường dễ dàng cho họ là cống hiến, bảo dưỡng và chăm sóc. (LVLCK, Tr 903)
+ Thần, Thiên thần (Devas): Devas là các thực thể tiến hóa (progressing entities) của một chu kỳ hành tinh trước. (GLBN III, 235)
+ Thần chất (Deva substance, chất liệu của thiên thần):
- Tinh chất kiến tạo (building essence) tức là thần chất.
- Vật chất được các Agnishvatta làm linh hoạt (vitalised). (LVLCK, 936, 774)
+ Thiên Thần: Ban giải cho con người Từ lực (Prana) để chữa trị. Thiên thần gìn giữ Prana, Từ lực và Sinh lực (Như con người là kẻ gìn giữ Nguyên khí thứ 5 = Trí tuệ)- TTHM,183
+ Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo (TVTTHM, 185)
* Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy (TVTTHM, 174)
+ Các Sinh linh - Biểu lộ vật chất thấp nhất:
Gồm 2 loại chi phối sự sống bên ngoài/ Sắc tướng ở cõi Trần: (i) - Các Sinh linh / Thiên thần/ Devas; (ii) - Các Tinh linh Ngũ hành.
.... Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. Vì vậy, một số bạn vốn đã nghiên cứu bộ Luận Về Lửa Càn Khôn có thể nhận thấy các chi tiết sau là đáng chú ý:
1. Các loại devas thấp nhất hay các nhà kiến tạo trên Con Đường Tiến Hóa thăng thượng là các thiên thần màu tím; kế tiếp là các thiên thần màu xanh lá cây, và cuối cùng là các thiên thần trắng (white devas). Tất cả các thiên thần này đều bị chi phối bởi một nhóm đặc biệt thứ tư. Các Thiên thần này kiểm soát các tiến trình bên ngoài của sự sống ở cõi trần.
2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là Hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên Trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (Hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. Loại bỏ những sản phẩm được kiểm soát bởi nhiệt (heat) và bạn sẽ đưa nền văn minh của chúng ta đến một trạng thái dừng lại, bạn sẽ đưa mọi phương tiện vận chuyển đến một kết thúc cùng với mọi phương cách chiếu sáng; bạn sẽ vứt bỏ tất cả các nhà máy chế tạo. Ngoài ra, về cơ bản, những sinh linh lửa (fiery lives) này, được tìm thấy trong tất cả những gì bốc cháy, và trong sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Phân biệt Sinh Linh: Bộ Giáo Lý Bí Truyền bảo rằng Prana là những sinh linh “vô hình”, “bốc lửa”, cung cấp “năng lượng kiến tạo sự sống” cho các con vi trùng, như vậy khiến cho chúng xây dựng được các tế bào của thể xác, kích thước của con vi khuẩn nhỏ nhất so với kích thước của “sinh linh bốc lửa” cũng giống như con voi so với loài trích trùng nhỏ nhất. “Mọi vật hữu hình trong vũ trụ đều được những sinh linh ấy kiến tạo, từ con người nguyên thủy thiêng liêng và hữu thức xuống mãi tới những tác nhân vô thức kiến tạo vật chất”. Do sự biểu lộ của Prana, tinh thần vốn không biết nói xuất hiện thành ra người biết nói.
Như vậy, trọn cả Sinh Khí kiến tạo trong vũ trụ và nơi con người được tổng kết thành Prana.
Nguyên tử cũng là một “sinh linh” nhưng tâm thức của nó là thuộc về Thượng Đế Ngôi Ba. Vi trùng là một “sinh linh” có tâm thức thuộc Thượng Đế Ngôi Hai, đã được Hành Tinh Thượng Đế và “Tinh Linh Trái Đất” chiếm hữu rồi biến đổi đi.
Giáo Lý Bí Truyền cũng nói tới một “giáo điều căn bản” của khoa học huyền bí, theo đó Mặt Trời là kho chứa Sinh Lực và từ Mặt Trời xạ ra những dòng sinh khí phập phồng chạy qua không gian, cũng như cơ thể của mọi sinh vật trên trần thế. Paracelsus đề cập tới Prana như sau: “Toàn thể Tiểu vũ trụ được chứa đựng tiềm tàng trong Nước Hằng Sống, một lưu chất thần kinh . . . trong đó bao hàm bản chất, phẩm tính, tính tình và bản chất của vạn vật”. Paracelsus cũng gọi nó là Archaeus. Bác sĩ B. Richardson, Hội viên Hội Hoàng Gia gọi nó là “ether thần kinh”. Những lá liễu Nasmyth là kho chứa sinh năng của Mặt Trời; Mặt Trời thực ẩn đằng sau Mặt Trời hữu hình và sản sinh ra lưu chất sinh khí vốn chu lưu trong Thái Dương Hệ với chu kỳ 10 năm. (Con người hoạt động trên 5 Cõi giới_NTH) (Nguồn: Prana - Sinh khí Thái dương hệ)
+ Hiện diện 4 hành: Ở Thái dương hệ này, Hỏa Tinh linh đông nhất, nhì đến Tinh Linh Không khí hiện diện khắp các cõi. Thủy hay Thổ tinh linh ít hơn nhiều, chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số Hành tinh của Thái dương hệ (CTHNM, 188)
+ Tinh linh của các bản tố; các tạo vật có liên quan đến 4 lãnh vực, hay các bản tố: Địa (Earth), Phong (Air), Hỏa (Fire), và Thủy (Water). Ngoại trừ một số ít ở đẳng cấp cao và các vị cai quản, chúng là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. (ĐĐTNLVTD, 217)
+ Tinh Linh Thiên Nhiên - Tinh Linh các Hành: Gồm các Tiên nữ, thổ thần, thần. Người ta thấy chúng trong chất dĩ thái cũng như trong các thể bằng chất hơi, chất lỏng. Các sinh linh bé nhỏ bận rộn này thường che các hoạt động ở cõi trần trọng trược của chúng nhờ ảo cảm và phủ lớp màn che giấu biểu lộ bên ngoài của chúng. (LVLCK, 892)
+ Mãnh lực Thiên nhiên tức là Tinh linh thiên nhiên, cũng tức là các Tinh linh Ngũ hành có khả năng thông linh. (GLBN I, 202)
+ Tinh linh là các thực thể còn phải tiến hóa thành người vào một thời gian trong tương lai. (GLBN III, 235)
+ Tinh linh là các mãnh lực bán-thông-tuệ của các giới. (GLTNVT, 311)
+ Các tinh linh có bản chất dưới nhân loại. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc chúng trên cõi cảm dục không có gì đảm bảo rằng chúng ở trên con đường tiến hóa thăng thượng. Trái lại, chúng ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có mặt trên mọi cõi giới, riêng các loại tinh linh dĩ thái – như là Thần lùn, Thổ tinh linh, Thổ tiểu tiên thì được biết rõ hơn. Chia thành 4 nhóm:
1. Tinh linh của đất (Thổ tinh linh).
2. Tinh linh của nước (Thủy tinh linh).
3. Tinh linh của không khí (Phong tinh linh).
4. Tinh linh của lửa (Hỏa tinh linh).
* Nếu các bạn có thể biết được, thì chúng là tinh hoa của mọi vật. Chúng là những loài tinh hoa của thái dương hệ, có 4 cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu.( TVTTHL, 174)
+ Các nhà kiến tạo dĩ thái, tức là tinh linh phụ trách việc kiến tạo thể xác con người. (KCVTT, 77)
* Vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy(TVTTHM, 174)
+ Các Luân xa mà qua đó sự sống Tinh Linh (SSTL) và Linh hồn hoạt động (EP II 290. 304)
1. Đời sống 3 tinh linh này được tạo thành chủ yếu ở 3 luân xa thấp nhất:
1. LX xương cùng, - SSTL trí tuệ => LX cổ họng.
2. LX tùng T.Dương- SSTL cảm dục => Luân xa tim.
3. LX đáy cột sống, - SSTL hồng trần => Luân xa đầu.
- Sự sống của linh hồn nội tại qua 3 luân xa cao.
1. Luân xa đầu - Tâm thức trí tuệ.
2. Luân xa cổ họng - Tâm thức sáng tạo.
3. Luân xa tim - Tâm thức cảm giác[304]
+ Linh hồn của các Hành Tố. Các sinh vật tiến hóa trong 4 giới hay 4 Hành – địa, phong, hỏa và thủy. Tín đồ Do Thái Bí giáo gọi các tạo vật này là Thổ tinh linh (thuộc về đất), Phong tinh linh (thuộc về không khí), Hỏa tinh linh ( thuộc về lửa) và Thủy tinh linh (thuộc về nước). Ngoại trừ một vài loại cao cấp và các vị điều khiển của chúng, các tạo vật này là các mãnh lực của thiên nhiên hơn là những người nam và nữ tinh anh. Với vai trò là các tác nhân thấp kém của các nhà Huyền linh học, các mãnh lực này có thể tạo ra các hiệu quả khác nhau. Nhưng nếu được các “Âm ma” sử dụng – trong trường hợp chúng bắt đồng tử phục tùng – chúng sẽ lừa gạt người dễ tin. Tất cả các sinh linh vô hình thấp kém được tạo ra trên cõi thứ 5, 6 và 7 của bầu khí quyển trái đất chúng ta được gọi là các Elementals (Tinh linh): Peris, Devas, Djins, Sylvans, Satyrs, Fauns, Elves, Dwarfs, Trolls, Kobolds, Brownies, Nixies, Goblins, Pinkies, Banshees, Moss People, White Ladies, Spooks, Fairies, vv… và vv… (NGMTTL, 111–112)
+ Các Tinh linh thiên nhiên thuộc các phân cảnh dĩ thái (Elementals of the Ethers). Bây giờ, chúng ta xem xét các phân cảnh dĩ thái của cõi trần hay là 4 phân cảnh cao nhất của cảnh hồng trần. Các phân cảnh dĩ thái này chỉ là các mức độ vật chất của cõi trần thuộc loại hiếm hơn và được tinh luyện hơn tuy thuộc về cõi trần. Trong đa số sách giáo khoa, chúng được đặt tên như sau:
1. Dĩ thái 1 hay chất liệu vi tử (atomic matter).
2. Dĩ thái 2 hay chất liệu á vi tử (sub–atomic matter).
3. Dĩ thái 3 hay chất liệu siêu dĩ thái (super–etheric matter).
4. Dĩ thái 4 hay chất dĩ thái đơn thuần (simply etheric matter).
Cho đến nay, dĩ thái 4 là chất duy nhất được các nhà khoa học nhận biết và là đề mục trong các tìm tòi hiện nay của họ, mặc dù họ có thể hiểu được chút ít chất này.
+ Tinh linh sinh lực (Pranic elementals): Các tinh chất nhỏ bé của Lửa này (minute fiery essences) có khả năng thẩm thấu (permeate) qua cấu trúc (texture) của cơ thể con người, của một thân cây hay của tất cả những gì có thể có trong giới nhân loại, giới thực vật và động vật, và hòa hợp với lửa của hệ thống tiểu thiên địa.(LVLCK, 67)
+ Tinh linh nhân tạo hay hình tư tưởng: Những tư tưởng mơ hồ, lỏng lẻo (loose) phần lớn được tạo ra do các thể trí chưa phát triển, gom lại chung quanh chúng những đám mây tinh chất Hành khí rời rạc khi đến cõi cảm dục, và trôi vật vờ, bị hút vào các đám mây khác ở khắp nơi và có bản chất tương tự, rồi bám quanh các thể cảm dục của những ai có từ điển – hoặc tốt hoặc xấu – thu hút lấy chúng, và sau một thời gian sẽ tan rã, để lại tạo nên thành phần của bầu khí chung của loài tinh chất Hành khí. Khi nào chúng còn duy trì sự sống riêng biệt (separate existence) thì chúng là các thực thể linh hoạt (living entities), có cơ thể (bodies) bằng tinh chất Hành khí, còn các tư tưởng có vai trò như là các sinh vật tạo linh hồn (ensouling lives), và lúc bấy giờ, chúng được gọi là các tinh linh nhân tạo (artificial elementals) hay là hình tư tưởng (thought–forms). (MTNX, 66–67)
Nơi kẻ thường nhân, tinh linh nhân tạo do cảm xúc (feelings) hoặc dục vọng (desire) tạo ra thì mạnh mẽ và rõ ràng hơn là tinh linh nhân tạo do tư tưởng (thought) tạo ra. Như vậy, một cơn giận bùng lên sẽ tạo ra một tia chớp đỏ mạnh mẽ và có đường nét rõ ràng, và nếu cơn giận kéo dài, nó sẽ tạo ra một tinh linh nhân tạo nguy hiểm, có màu đỏ, sắc nhọn, có ngạnh (barbed), nói khác đi, có mang tính chất làm hại. Tình thương, tùy theo tính chất của nó, sẽ tạo ra các hình thể ít hay nhiều gì cũng có màu sắc đẹp đẽ, đủ mọi sắc thái, từ đỏ thẫm đến hồng dịu, vô cùng tinh tế, giống như màu hồng thật nhạt của hoàng hôn hay bình minh, tình thương cũng tạo ra các đám mây hay các hình dạng có tính bảo vệ mạnh mẽ.
+ Tinh linh hồng trần:
- Tinh linh hồng trần là tên gọi dành cho sự sống đã hội nhập của thể xác.(CTNM, 462)
- Tinh linh hồng trần là toàn thể các nguyên tử sinh động của phàm ngã (body nature) (LVLCK, 118)
+ Tinh linh của lửa: Các hình hài trọng trược hơn của cuộc sống thể hơi, thường được gọi là hỏa tinh linh, tinh linh của lửa. Chúng trực tiếp ở dưới sự kiềm chế của Hỏa tinh quân, Tinh quân của cõi trí.(LVHLT, 389)
+ Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.(CTHNM, 188)
+ Hoả tinh linh (Cõi Trần), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của lò sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy (LVLCK, 87)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn ; Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Tinh linh của không khí (Elemental of the air): Tinh linh của không khí được hiểu một cách tượng trưng là lớp nền (substratum) của năng lượng đang tác động qua các hình hài của thể dĩ thái. (LVHLT, 216)
+ Tinh linh của đất (Elemental of earth): Là toàn thể nhiều sinh linh tạo thành thể xác. (LVHLT, 215)
+ Tinh linh cảm dục (Astral elemental, Desire–elementals): - Sự sống giáng hạ tiến hóa bé nhỏ tạo thành Tinh linh cảm dục của chúng ta. (LVHLT, 311)
- Các tinh linh thiên nhiên có liên quan đến việc tạo ra thể cảm dục của loài vật và loài người được dành cho tên gọi đặc biệt là tinh linh cảm dục (còn gọi là “thần cảm dục“ – desire–gods) vì chúng được làm cho sinh động một cách mạnh mẽ bằng đủ loại dục vọng và luôn luôn dự vào việc kiến tạo thể cảm dục của con vật lẫn con người. (MTNX, 76)
+ Các tinh linh thiên nhiên của vật chất trọng trược nhất (The elementals of densest matter). Đây là các tác nhân hoạt động và tác nhân kiến tạo có liên hệ đến phần hữu hình và biểu hiện ra bên ngoài của mọi biểu lộ. Theo nghĩa đen, toàn bộ chúng hợp thành những gì mà con người có thể đụng tới, nhìn thấy và tiếp xúc được trên cõi trần. … Trong số các thần hoạt động thuộc phân cảnh thấp nhất của cõi trần, người ta thấy có một số hình thức sự sống ngầm dưới đất mà các sách huyền linh cổ có nói tới. Người ta thấy tận trong lòng đất có sự tiến hóa của loại tinh linh đặc biệt rất giống với con người. Các vị này có thân thể thuộc loại đặc biệt thô kệch, không thể được xem như thể xác một cách rõ ràng theo tên gọi mà chúng ta hiểu. Họ cư trú trong các vùng đất cố định, hoặc là các nhóm, dưới một hình thức cai trị thích hợp với nhu cầu của họ trong các hang động trung ương sâu nhiều dặm dưới lớp vỏ địa cầu. Công việc của các thần này có liên quan chặt chẽ với giới khoáng chất, và các “hỏa thiên thần” (“agnichaitans”) của các đám cháy lớn đều ở dưới sự kiểm soát của các thần này. Các thể của họ được cấu tạo để cho có thể chịu nỗi áp suất lớn. Họ không tùy thuộc vào luồng khí lưu chuyển tự do như con người, mà cũng không bực bội vì sức nóng cao độ có bên trong địa cầu. Ở đây, chỉ có thể nói ít về các sự sống này, vì các thần này có liên hệ với các phần ít quan trọng của thể xác của Hành Tinh Thượng Đế, có sự tương ứng về mặt tiểu vũ trụ nơi chân và giò (feet and legs) của con người. Các thần này là một trong các yếu tố gây ra chuyển động vừa quay tròn vừa tiến tới của một hành tinh.
+ Các tinh linh thiên nhiên và các thiên thần thứ yếu của chất lỏng (Elementals and lesser devas of liquid matter). Nhiều nhóm thủy thần (water devas) thuộc loại hoạt động đã được các văn sĩ viết thần thoại tập hợp một cách sơ sài dưới các tên gọi nữ thủy tiên (undines), nữ nhân ngư (mermaids) và các cách diễn tả khác, còn nhiều nữa, và điều này tất nhiên rõ ràng thôi khi nhớ rằng tổng số nước trên địa cầu (biển lớn, biển nhỏ, sông, hồ và suối) vượt xa phần khô hay đất liền, và mọi giọt nước trong chính nó là một sự sống bé nhỏ, làm tròn chức năng của nó và chạy suốt chu kỳ của nó. Các hình thức thần thoại nói ở trên chỉ là vô số sự sống tạo thành một hình hài mà qua đó, vị thần đang tiến hóa tìm cách biểu lộ.
+ Các Tinh linh cõi trần (Physical plane Elementals). Các thiên thần có thể được chia thành ba nhóm trên cõi trần:
1. Các tác nhân truyền đạt Ý chí của Thượng Đế.
2. Các tác nhân vận dụng năng lượng được triển khai.
3.Các tác nhân tích chứa thần lực.
+ Sinh linh và Tinh linh - Biểu lộ vật chất thấp nhất: Gồm 2 loại chi phối sự sống bên ngoài/ Sắc tướng ở cõi Trần: (i) - Các Sinh linh / Thiên thần/ Devas; (ii) - Các Tinh linh Ngũ hành .... Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. (LVHLT, 389)
Xem: Tổng Hợp Các Tinh Linh Và Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thần
+ Thuật ngữ tương ứng: Thể dĩ thái - Thể sinh lực; Thể phách - Thể vía - Thể tình cảm - Thể dục vọng - Thể cảm dục = Tham dục là nói Thể này.
+ "Thể dĩ thái" rất phức tạp - Cần suy ngẫm: .... Tôi tự hỏi không biết bạn có thể nắm bắt được ít nhất một phần và một cách tượng trưng sự thật rằng các tam giác (Đại và tiểu Thiên địa/ Con người) này ... Chúng phải được xem như đang chuyển động nhanh chóng, luôn luôn xoay tròn trong không gian và không ngừng di chuyển về phía trước, và như là có sự kéo dài bề đo thứ tư và thứ năm. Không có cách nào để mô tả chúng ... vì chỉ có con mắt bên trong của linh thị mới có thể tưởng tượng ra sự tiến triển, vị trí hay dáng vẻ của các tam giác đó. .... Do đó, toàn bộ mạng lưới vũ trụ và thái dương hệ là một loạt các tam giác phức tạp, luôn luôn chuyển động, đan vào nhau, trong đó mỗi điểm của một tam giác phóng xuất ra ba tuyến (lines) hay luồng năng lượng (tất cả là chín), nó cũng đáp ứng với và tiếp nhận các năng lượng – cũng tam phân trong thiên nhiên – vốn ở trong chu vi hoặc là lĩnh vực ảnh hưởng và hoạt động rung động của nó.
Thật là vô ích cho các nhà nghiên cứu khi cố gắng tháo/lần ra manh mối (unravel) tập hợp các dòng năng lượng đang trộn vào nhau này. Tất cả những gì hiện nay có thể xảy ra đối với con người với thiết bị hiện có của y là chấp nhận dựa trên giả thuyết các diễn đạt về một vài tam giác chính yếu đang ảnh hưởng đến nhân loại, và tìm cách chứng minh ảnh hưởng của chúng, và cố gắng đi đến một số hiểu biết về mạng lưới phức tạp, đan dệt vào nhau mà chính y sở hữu và y gán danh xưng là “thể dĩ thái” (“etheric body”) cho mạng lưới này. (Nguồn: Chiêm tinh học NM)
+ Thể Sinh lực: .... Về vấn đề này, xét trên vài phương diện thì thể cảm dục lại là thể thứ ba của tâm thức nếu tính xác thân và thể Dĩ thái/ Sinh lực điện (Thể sinh lực Điện - Có thể Ngài nói đến Hệ thống Luân xa_Nhân TH) là hai đơn vị [Khi nói về cấu tạo con người, thường xem 2 Thể này là một - Không tính thể xác như là một thể độc lập]. Tôi không thể nói thêm, vì tất cả đều hoán chuyển và xuyên thấu lẫn nhau, tôi chỉ đưa ra tài liệu để các bạn suy ngẫm. (Tham thiền huyền môn)
+ Thể sinh lực tức là thể dĩ thái (LVHLT, 206)
+ Thể dĩ thái là một mạng lưới các dòng năng lượng, các tuyến lực và ánh sáng. Dọc theo các tuyến năng lượng này, các mãnh lực vũ trụ tuôn chảy, giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và động mạch (Nguồn)
+ Thể dĩ thái: Thể xác con người có 2 phần: Nhục thể và thể dĩ thái. Nhục thể được tạo thành bằng chất liệu của 3 phân cảnh thấp nhất của cõi trần. Thể dĩ thái được tạo thành bằng chất liệu của 4 phân cảnh cao hay phân cảnh dĩ thái của cõi trần. (ĐĐNLVTD, 218)
+ Ẩn dưới xác thân và hệ thống thần kinh phức tạp và bao quát của nó, là một thể sinh lực hay thể dĩ thái vốn là đối phần và là hình hài đích thực của trạng thái hữu hình bên ngoài của cõi hiện tượng. Đó cũng là môi trường/ phương tiện chuyển thần lực đến tất cả các phần của thân thể con người và là tác nhân thừa hành của sự sống nội tại và tâm thức. Nó qui định và chi phối thể xác, vì chính nó là nơi lưu trữ và nơi truyền chuyển năng lượng từ các trạng thái bên trong khác nhau của con người và cũng từ môi trường mà trong đó, cả con người bên trong lẫn con người bên ngoài đều có được sở trường. Khoa học đang chứng minh điều này [Điểm này cũng có thể suy ra Thể dĩ thái đang nói đến là Hệ thống Trung tâm Điện = Hệ thống các Luân xa năng lượng phát xạ_Nhân TH] (CTHNM, 17).
+ Bảy trung tâm lực chính vốn là một kiểu của các tác lực phân phối và các bộ pin điện, cung cấp mãnh lực năng động và năng lượng định tính cho con người; chúng tạo ra các hiệu ứng rõ rệt lên biểu lộ vật chất bên ngoài của y. “Việc kiểm soát sắc tướng qua bộ 7 năng lượng” là một qui luật không thể thay đổi trong việc cai quản bên trong của vũ trụ chúng ta và của thái dương hệ đặc biệt của chúng ta, cũng như trong trường hợp của con người cá biệt (CTHNM, 19)
+ Nhà huyền linh không bận tâm đến nhục thể. Y xem thể dĩ thái mới là hình hài đích thực còn nhục thể được xem như chỉ là vật chất dùng để lấp đầy hình hài này. Thể dĩ thái là hình hài chủ yếu đích thực, cái khung sườn, vật liệu làm giàn giáo mà nhục thể tất nhiên phải phù hợp với nó. (ASCLH, 348–349)
+ Thể dĩ thái kép: 6. Thể hồng trần bao gồm hai thể: thể hồng trần và thể dĩ thái, và thể hồng trần đã được khoa học nghiên cứu thật tường tận. Chân sư DK nói rằng Y khoa (và cũng có lẽ khoa học nói chung) là món quà mà Thượng đế dành cho nhân loại...... Do đặc tính chất liệu tạo ra, ta có thể phân biệt chúng thành thể hồng trần thô kệch và thể ‘‘dĩ thái kép’’ (etheric double). Thể dĩ thái kép là bản sao chính xác từng phần của thể hồng trần hữu hình; qua trung gian nó, mọi dòng điện và sinh lực được cung cấp cho những hoạt động của thể hồng trần..... Hơn nữa, danh từ ‘‘dĩ thái kép’’ diễn đạt rất đúng bản chất và sự cấu tạo phần thanh nhẹ của thể hồng trần, nó cũng dễ nhớ, ‘dĩ thái’ (etheric) vì được cấu tạo từ chất dĩ thái (ether), ‘kép’ (double) vì là bản sao (duplicate) của thể hồng trần thô kệch, hay cái bóng của nó.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét thể đậm đặc, có thể gọi là phần hữu hình của thể hồng trần, dù những chất hơi cũng là thành phần của thể đậm đặc cũng không thấy được bằng mắt thường. Thể hồng trần đậm đặc là ‘‘lớp áo’’ ngoài cùng và là biểu lộ thấp nhất của con người. .... Những tu sĩ Hatha Yoga phát triển rất cao năng lực kiểm soát hệ thần kinh giao cảm, với mục đích kích thích những quyền năng tâm linh bậc thấp. Người ta có thể làm phát triển những năng lực này bằng cách tác động trực tiếp lên thể hồng trần. Tu sĩ Hatha Yoga học cách kiểm soát hơi thở, có thể đến giai đoạn ngưng thở trong một thời gian khá lâu, kiểm soát nhịp đập quả tim, làm sự tuần hoàn nhanh hay chậm tùy theo ý muốn. Do những cách thức này, họ đưa thể hồng trần vào trạng thái xuất thần, để cho thể cảm xúc tự do thoát ra khỏi thể hồng trần.....
Hệ thống thần kinh, giống như những thành phần khác của cơ thể, được tạo nên bởi nhiều tế bào. Tế bào là một thể nhỏ xác định, có màng bao bọc và những thành phần bên trong, .... Tế bào được tạo thành bởi nhiều phân tử nhỏ, và đến lượt những phân tử nhỏ này cũng do những nguyên tử hợp lại, mỗi nguyên tử là thành phần của một nguyên tố hóa học. Những nguyên tử hóa học này kết hợp theo vô số cách thức khác nhau để tạo nên chất khí, chất lỏng, và chất đặc của cơ thể đậm đặc..... Người muốn thanh lọc thể hồng trần phải tức khắc bắt đầu loại bỏ các thực phẩm không trong sạch, độc hại cho sự cấu tạo những phần tử trong cơ thể..... Rượu là thực phẩm do sự thối rữa tạo ra, tự nó không những đáng ghê tởm,.... còn hấp dẫn, thu hút ma quỷ nghiện ngập lang thang ở Cõi Trung giới ... cố gắng thâm nhập vào người nghiện ... => Cơ thể nặng lề, thô kệch.... Cũng thế, những thể xác được nuôi sống bằng thịt các loài thú vật, loài bò sát, chim, cá v.v… không thể nào nhạy cảm, thanh nhẹ, quân bình, khỏe mạnh và bền chắc như thép đã được tôi luyện,....
* Chúng ta bước sang phần thanh nhẹ hơn của thể hồng trần, tức thể dĩ thái kép, thường được gọi là thể dĩ thái.
Thu nạp vào thể xác vật chất của những cõi phụ cao và loại trừ những chất thô của các cõi phụ thấp. Điều này cần thiết bởi vì người có các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao..... Có nghĩa là có 4 yếu tố "cần ăn chay - Sạch sẽ - Ánh nắng - Ngủ đủ".... Khi thực hiện đầy đủ thì một tiến trình thải trừ rõ rệt sẽ tiếp diễn, và trong vòng vài năm toàn bộ xác thân sẽ từ từ chuyển sự phân cực lên cao hơn để rốt cuộc chúng ta có được một thể xác cấu tạo bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử. . . . . . Việc này có thể cần nhiều kiếp sống,....
Dùng ánh sáng màu chiếu vào cơ thể, tạo tiến trình thải bỏ tạp chất và đồng thời kích thích các nguyên tử. Việc này chỉ có thể được thực hiện khi có kiến thức về các Cung.
Sự kích thích bằng âm nhạc. Một số âm thanh có thể làm tan rã và đổ vỡ....
Tôi muốn nói thêm một điểm nữa là sự vận dụng điện lực có ẩn bí quyết làm sinh động các thể, đặc biệt là đối với thể dĩ thái hiện nay. Công dụng chính của mặt trời là làm sinh động thể dĩ thái. Sức nóng của mặt trời là điện lực đã được chuyển hóa thích ứng cho nhu cầu của đại đa số các sinh vật trung bình trong mọi giới của thiên nhiên. .... Với các Thể Cảm dục, Trí tuệ thì phương pháp còn là Bí mật điểm đạo.(Nguồn: Cấu tạo con người-Minhtrietmoi)
+ Thể dĩ thái, vốn là một mô phỏng đúng y như đối phần trọng trược của nó, là cơ quan của lửa linh hoạt hay lửa bức xạ, và, như được biết rõ, đó là hiện thể của prana. Chức năng của nó là tích chứa các tia sáng bức xạ và nhiệt nhận được từ mặt trời và truyền chúng, qua lá lách, đến mọi phần của thể xác => Xương sống và Lá lách cực kỳ quan trọng cho sức khỏe thể xác con người. Khi lò lửa vật chất cháy sáng và khi nhiên liệu của thể xác (tức tia prana) được đồng hoá một cách thích ứng, xác thân con người sẽ vận hành như ý muốn (LVLCK, 75)
+ Cấu tạo Thể Dĩ thái: b/ Điều hơi kỳ lạ là trong giới nhân loại và chỉ giới nhân loại, thể dĩ thái ngày nay được tạo thành bằng 4 loại chất dĩ thái.... Chất liệu vận hà/ ống vận chuyển làm bằng prana hành tinh, tức năng lượng đem lại sự sống, sức khỏe chính hành tinh. Các ống này có thể chuyên chở tất cả hoặc bất cứ năng lượng có thể có nào – thuộc tình cảm, trí tuệ, Chân ngã, thượng trí, bồ đề hay thuộc niết bàn, tùy theo trình độ tiến hóa mà người có liên hệ đã đạt đến (Chân Sư DK)
+ Thể Dĩ Thái:
- Khái niệm, nằm sau các lý thuyết chiêm tinh học, là thể dĩ thái của bất kỳ hình hài nào cũng tạo thành một phần của thể dĩ thái của thái-dương-hệ, và do đó là trung gian cho việc truyền các năng lượng của mặt trời, của các lực hành tinh, và của các xung lực ngoài thái dương hệ hay vũ trụ, mà về mặt nội môn được gọi là “các linh khí”. Các lực và năng lượng này của các tia vũ trụ không ngừng luân lưu và đi theo các đường lối rõ ràng xuyên qua tất cả các phần trong dĩ thái không gian, và do đó liên tục đi qua các thể dĩ thái của mọi hình hài thông thường. Đây là một chân lý cơ bản và phải được ghi nhớ kỹ,
- Ý tưởng cơ bản thứ hai là sự đáp ứng của hiện thể dĩ thái của tất cả các hình hài và khả năng của nó để chiếm hữu, để sử dụng, và để truyền tải, đều phụ thuộc vào điều kiện của các bí huyệt, tức là của các luân xa như chúng được gọi ở Phương Đông. Chúng bao gồm không chỉ bảy bí huyệt chính được biết rõ mà còn vô số các xoáy lực nhỏ mà cho đến nay chưa được đặt tên và chưa biết đến ở Phương Tây. Nó cũng phụ thuộc vào tính chất của hiện thể dĩ-thái, vào tính sinh động của nó, và cũng phụ thuộc vào mạng lưới xen kẽ mà các bí huyệt tọa lạc ở đó, và tất cả được gọi là “mạng lưới” (“web”) hay “kim bôi” (“golden bowl”). Nếu lưới này sạch hết những trở ngại và chất lắng đọng (sediment), và nếu các vận hà (channels) của nó không bị tắc nghẽn thì các tia sáng, các năng lượng và các thần lực đang lưu thông có thể tìm thấy một phương tiện dễ dàng và có thể lưu thông không bị cản trở xuyên suốt toàn bộ cơ thể. Khi đó chúng có thể sử dụng các bí huyệt này, vốn đáp ứng với các rung động của chúng, và có thể được tiếp tục đi xuyên qua các hình hài trong các giới khác hoặc cùng giới trong thiên nhiên. Ở đây ẩn chứa bí mật của mọi việc chữa trị khoa học và huyền bí. Các nhà chữa trị đang thử nghiệm với thể dĩ thái và tuy vậy, họ ít có hiểu biết thực sự. Họ biết rất ít hoặc không biết gì về các bí huyệt trong chính cơ thể của họ, mà qua đó các luồng từ lực hoặc các luồng khác phải chảy qua; họ không biết về tình trạng của các bí huyệt dĩ thái của những người mà họ tìm cách chữa trị và về bản chất của các lực mà họ muốn vận dụng. Tất cả những gì họ có thể làm là gìn giữ giới luật trong đời sống của họ, và kiểm soát những ham muốn của họ sao cho họ tạo ra một cơ thể lành mạnh, và cung cấp các vận hà thông thoáng cho đường đi của các mãnh lực từ họ và xuyên qua họ đến những người khác.
Khái niệm thứ ba phải được lưu ý, đó là các hình hài đó, cho đến nay chủ yếu đáp ứng với các lực vốn đến với chúng từ các hình hài khác trên hành tinh, với bảy loại năng lượng cơ bản phát ra từ bảy hành tinh, và cũng với tia sáng mặt trời ban phát sự sống. Mọi hình hài trong cả bốn giới đang đáp ứng với nhiều mãnh lực này, với bảy năng lượng này và với tia (ray) duy nhất. Gia đình nhân loại cũng đáp ứng với các năng lượng khác và với các tia mặt trời – tuy nhiên tất cả đều bị nhuốm màu bởi mãnh lực được tạo ra trong vòng giới hạn thái dương (solar ring-pass-not). (LVHLT, 290-291)
+ Nói chung, công việc của giới nhân loại là để truyền năng lượng cho các giới thấp trong Thiên Nhiên, Thánh đoàn cho nhân loại (Các năng lượng này khi hạ thấp xuống để truyền đi, sẽ phân hóa thành các mãnh lực) (LVHLT, 291)
+ Thể Dĩ Thái: Chức năng quan trọng nhất của thể dĩ thái là dẫn truyền năng lượng sống hay sinh lực từ trường vũ trụ sang trường cá nhân, và từ đó đến cơ thể vật lý. Đó là mối liên hệ chính yếu với đại dương năng lượng sống duy trì toàn bộ thế giới tự nhiên... Với phương Đông, sinh lực, được gọi là prana, luôn luôn được coi là lực vũ trụ trong tự nhiên liên quan mật thiết đến hô hấp và hơi thở.
Đối với những người có nhãn thông, thể dĩ thái ở một người khỏe mạnh trông giống như một mạng lưới các đường từ lực sáng trắng tinh tế, vuông góc với bề mặt da. .. Mỗi bộ phận của cơ thể đều có đối phần tương ứng ở thể dĩ thái, qua đó năng lượng dĩ thái tuần hoàn liên tục.
Màu sắc của thể dĩ thái là màu xám-xanh lơ nhạt hay là màu xám-tím, chói sáng một cách lờ mờ, trông giống như làn không khí nóng dợn sóng trên mặt đường trong những ngày trời nóng. Ở một người bình thường, thể dĩ thái ló ra khỏi cơ thể từ năm đến bảy centimet (2-3 inch) và hòa lẫn vào trường năng lượng dĩ thái xung quanh - Một đại dương năng lượng thường xuyên chuyển động một cách lẹ làng nhanh chóng, bao quanh thể dĩ thái giống như bầu không khí bao quanh quả đất
Thể dĩ thái không phải là một dẫn thể của tâm thức, nó giữ vai trò dẫn truyền tâm thức đến bộ óc xác thịt, và nếu vì lý do gì đó thể dĩ thái bị tách rời khỏi thể vật lý, kết quả sẽ tạo ra những rối loạn và bệnh tật cho cơ thể.
[Nguyên nhân của nghiện ngập] Có một mạng lưới dĩ thái .. như một lớp lá chắn tự nhiên giữa thể dĩ thái và thể cảm dục, và bảo vệ con người khỏi sự liên thông giữa hai thể này quá sớm. .. Nó có tác dụng như một thiết bị bảo vệ, và những tổn thương của nó đều gây nên những hậu quả nghiêm trọng, vì điều này mở ra cánh cửa đến với các nguồn lực vượt quá sự kiểm soát của cá nhân... nếu bị rách lưới dĩ thái ..., là nguồn cơn của thói nghiện rượu, sử dụng ma túy và các chất kích thích tương tự. (Nguồn: Luân xa và năng lượng)
+ Thể dĩ thái Địa cầu: Có một trạng thái năng lượng mà nhà chiêm tinh học hiện đại rất ít để tâm đến, tuy thế nó lại vô cùng quan trọng. Đây là năng lượng phát ra hay là xạ ra từ chính Địa Cầu. Linh hoạt như tất cả mọi con người đang sống trên bề mặt của Địa Cầu và do đó được phóng vào thể dĩ thái của hành tinh (vì lý do là “con người đứng thẳng”) thân thể con người lúc nào cũng ngập trong các phóng xuất và các phát xạ của Địa Cầu chúng ta và trong tính chất toàn vẹn của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta khi Ngài phát ra và truyền năng lượng bên trong vùng chung quanh hành tinh của Ngài. Các nhà chiêm tinh học luôn luôn nhấn mạnh vào các ảnh hưởng và các năng lượng đang đi đến khi chúng đập mạnh vào (beat upon) và tác động qua hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia đã bỏ quên không xem xét thích đáng các tính chất và các lực phát ra vốn là sự đóng góp của thể dĩ thái của Địa Cầu chúng ta vào tổng thể lớn hơn. Chúng ta sẽ xem xét điều này sau, nhưng Tôi cảm thấy cần kêu gọi sự chú ý của các bạn vào lúc này. (Nguồn: Chiêm tinh học NM)
+ Thể sinh lực: Tính chất - Các trung tâm lực - Tương ứng
Xem thêm: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem thêm: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Từ lực hay là prana, sinh lực, sinh khí. (TVTTHL, 245)
+ Prana: X. Sinh khí, thần kinh lực
+ Sinh khí: Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo (TTHM, 185)
+ Sinh khí thể (body of prana): Là thể sinh lực hay thể dĩ thái (vital body or etheric body). LVHLT, 206)
+ Sinh khí không phải là hơi thở mặc dù thường được dịch như thế. Đó là toàn thể năng lượng vũ trụ. Đó là năng lượng hiện hữu trong mỗi thể, và biểu lộ rõ rệt nhất của nó là sự vận động của phổi. Vận động này được tạo ra bởi sinh khí được cuốn vào trong hơi thở và là những gì mà chúng ta tìm cách kiềm chế trong thuật chuyển khí (Pranayama). Chúng ta bắt đầu bằng cách kiểm soát hơi thở vì đó là cách dễ nhất để kiểm soát prana. (ASCLH, 218)
+ Là yếu tố chủ quan ẩn bên dưới luồng khí được hít vào và thở ra. (LVHLT, 206)
+ Nhiệt linh hoạt (active heat) là prana. (LVLCK, 45)
+ Lửa linh hoạt (active fire) là prana. (LVLCK, 47)
+ “Prana hay nguyên khí sinh động (vital principle) là liên hệ chuyên biệt của Atma với hình thức vật chất nào đó, mà nhờ mối liên hệ với Atma, nó được tổ chức và kiến tạo như là một phương tiện để có được kinh nghiệm. Mối liên hệ chuyên biệt này tạo thành sinh khí cá biệt trong cơ thể một người. Sinh khí vũ trụ thấm nhuần vạn vật không phải là prana theo nghĩa thô thiển mà là một tên gọi dành cho Brahman như là Đấng Sáng tạo prana cá biệt ... Mọi thực thể, dù là thiên thần, con người hay con vật, chỉ tồn tại bao lâu mà prana còn ở trong cơ thể. Đó là kỳ gian sự sống của vạn vật ... Prana hay sức sống là chức năng chung của thể trí và mọi giác quan” Trích Serpent Power, trang 94–95.(LVLCK, 77)
+ Prana: Mặt trời cũng truyền sinh khí (revitalises) có prana, và điều này nên được xem xét (Trong phục hồi, duy trì sức khỏe) (LVHLT, 342)
+ Phân biệt Bức xạ từ thể dĩ thái - Bức xạ của prana với từ điển: Prana là một sự phóng phát từ một thể tinh anh (VD: thể cảm dục) và từ điển (Giải thích lửa bức xạ). Sự phân biệt này rất quan trọng và phải được nhận ra một cách cẩn thận (LVLCK, 72)
1. Lửa Nội Tại truyền sinh lực (Lửa do ma sát). Là hoả xà cá nhân, nó làm linh hoạt xác thân và biểu lộ theo 2 cách:
- Tiềm nhiệt (Nhiệt tiềm ẩn): Nó là căn bản của sự sống của tế bào tựa hình cầu, hay nguyên tử, và điều chỉnh sự quay của tế bào này so với tất cả tế bào khác.
- Hoạt nhiệt hay prana: Làm linh hoạt vạn vật và là lực phát động của hình hài đang tiến hoá. Prana tự biểu lộ trong 4 loại dĩ thái và trong trạng thái hơi. Sự tương ứng trên cõi hồng trần, với con người so với Akasha và biểu lộ ngũ phân của nó trên cõi của Thái dương hệ. (LVLCK, 61)
2. Kế tiếp là Lửa hay Tia Lửa của Trí Tuệ (Lửa Thái dương trong con người). Lửa này tạo thành đơn vị suy tư hữu ngã thức hay là linh hồn. Lửa của trí tuệ này bị chế ngự bởi Định Luật Hút. Chính tia lửa trí tuệ này trong con người, biểu lộ như hoạt động xoắn ốc có chu kỳ, nó đưa đến sự bành trướng và rốt cuộc trở về trung tâm của hệ thống nó, tức Chân Thần - nguồn cội và mục tiêu cho Chân Thần nhập thế tức là con người. Vì trong đại vũ trụ, lửa này cũng biểu lộ theo 2 cách:
1. Lửa linh hoạt hay prana. (Tiềm nhiệt hay thân nhiệt).
2. Năng lượng trí tuệ trong thể trí. Hai điều này hợp thành một tứ nguyên huyền bí, với yếu tố thứ năm, tức là điểm linh quang của ý chí sáng suốt, tạo thành năm của biểu lộ Chân Thần - biểu lộ trong trường hợp này có nghĩa là một biểu lộ nội tâm thuần tuý vì không hẳn là tinh thần, cũng không hẳn là vật chất.
3. Cuối cùng có Ngọn Lửa Chân Thần Thiêng Liêng. Ngọn Lửa này biểu hiện rung động cao nhất mà Chân Thần có thể có được, bị chế ngự bởi định luật Tổng hợp và là nguyên nhân của chuyển động luỹ tiến của Nguyên sinh khí đang tiến hoá.
Khi cả 3 toả chiếu như một lửa duy nhất, sự giải thoát khỏi vật chất hay khỏi hình hài vật chất được thành tựu, tạo thành một vận hà cho sự giải thoát (LVLCK, 64)
+ Akasa và Prana biểu lộ vũ trụ: ..... Theo nhiều triết gia Ấn Độ, toàn thể vũ trụ được cấu tạo bằng hai loại chất liệu, một loại là ākāśa, còn loại kia là prāna. Ākāśa là sự tồn tại toàn nhiên phổ hiện, bao trùm vạn hữu. Mọi sự vật mang hình tướng, mọi sự vật hình thành do hòa hợp đều tiến hóa từ ākāśa này. Chính ākāśa chuyển biến thành thể khí, thể lỏng, rồi thành thể rắn; chính ākāśa đã chuyển biến thành mặt trời, trái đất, mặt trăng, thành tinh tú, sao chổi; chính ākāśa chuyển biến thành thể xác con người, thể xác loài vật, cây cỏ, thành tất cả những gì ta có thể tri giác được, tất cả những gì tồn tại. Ta không thể nhận thức được ākāśa, nó tế vi đến mức bất khả tư nghì, vượt ra ngoài mọi sự nhận thức, ta chỉ có thể nhìn thấy được ākāśa khi nó biến thành dạng thô, và mang một hình tướng. Ngay từ buổi khởi thủy sáng tạo, chỉ có ākāśa, đến cuối chu kỳ thì mọi vật thể rắn, lỏng và khí đều tan chảy vào ākāśa trở lại, và một chu kỳ sáng tạo tương tự khác lại xuất phát từ ākāśa này. Là nguồn sinh lực trong mọi vật, và hoạt động tinh tế nhất, cao siêu nhất của prāna là tư tưởng.
Do năng lực nào mà ākāśa hiển lộ thành vũ trụ? Đó là nhờ năng lực của prāna. Giống như ākāśa là chất liệu vô biên và toàn nhiên phổ hiện của vũ trụ thì prāna cũng thế, nó là năng lực hiển thị vô biên và toàn nhiên phổ hiện của vũ trụ. Tại khởi thủy và chung cục của một chu kỳ thì vạn vật đều biến thành ākāśa, và tất cả những lực trong vũ trụ này đều hồi chuyển vào prāna. Trong chu kỳ tiếp theo từ prāna lại tiến hóa ra tất cả những thứ ta gọi là năng lượng, tất cả những thứ ta gọi là lực. Prāna tự thân hiển lộ như là sự vận động, prāna tự thân hiển lộ như là lực hấp dẫn vạn vật, như là từ lực. Prāna tự thân hiển lộ như là hoạt động của thể xác, như là những dòng thần kinh, như là sức mạnh của tư tưởng. Từ tư tưởng cho đến những lực vật lý thấp kém nhất, tất cả đều là sự biểu hiện của prāna. Tổng số các lực trong vũ trụ, tinh thần hay vật chất, khi hồi chuyển về trạng thái nguyên thủy, được gọi là prāna. “Khi không có một gì cả, cũng không có hư không, khi bóng tối bao trùm bóng tối thì cái gì tồn tại? Đó là ākāśa tồn tại trong trạng thái bất động”. Chuyển động vật lý của prāna dừng lại, nhưng nó vẫn luôn tồn tại y nhiên bất biến. Đến cuối chu kỳ, tất cả năng lượng đang phô bày trong vũ trụ sẽ lắng dịu lại và biến thành dạng thế năng. Đến đầu chu kỳ kế tiếp thì chúng lại khởi động, tác động mạnh vào ākāśa, rồi từ ākāśa xuất phát ra muôn ngàn hình tướng đa thù, và khi ākāśa chuyển biến thì prāna cũng chuyển biến thành những tất cả những dạng biểu hiện năng lượng này. Tri thức và năng lực kiểm soát prāna được gọi là prānāyāma. ........
Prāna là nguồn sinh lực trong mọi vật, và hoạt động tinh tế nhất, cao siêu nhất của prāna là tư tưởng.....
Đối với thế giới nội tâm cũng vậy. Vật chất được biểu trưng bằng khí ê-te; khi hoạt động của prāna là hoạt động tế vi nhất thì khí ê-te này, trong trạng thái dao động còn tế vi hơn, sẽ biểu trưng cho tâm trí, và khi đó, ê-te vẫn là một khối vật chất nguyên vẹn....... (Nguồn: Triết học Kinh Vệ Đà_Tr 593-596)
+ Tìm hiểu thêm về Prana - Sinh khí biểu lộ: Năng lượng vũ trụ biểu lộ
Xem thêm: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem thêm: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Sinh khí hành tinh (Planetary prana): Bức xạ (emanation) của hành tinh được chúng ta đặt tên là sinh khí hành tinh. Đó là những gì được đề cập đến khi người ta nói về các tính chất ban phát sức khỏe (health–giving qualities) của Từ mẫu Thiên nhiên (Mother Nature) và nằm sau tiếng kêu gọi việc nhà vật lý học hiện đại, khi y hô hào “Hãy hướng về Địa cầu”. Chính bức xạ lưu chất của sinh khí này tác động lên thể xác, dù rằng trong trường hợp này, nó không xuyên qua thể dĩ thái. Nó được thu hút hoàn toàn qua lớp da và các lỗ chân lông (pores) là con đường dễ dàng nhất của nó (LVLCK, 60–61)
+ Lá lách (spleen) là cơ quan mà sinh khí hành tinh hay sinh lực (vitality) được thu nhận và chuyển đi. (TLHNM II, 65)
+ Giãm sút sinh khí (vitality) trong thể xác. Trường hợp này xảy ra là do thể cảm dục đòi hỏi quá nhiều sinh khí của thể xác, nên khi nỗ lực để đáp ứng và khi cảm thấy bất lực không thể đáp ứng được một cách đầy đủ, người ta lại có cảm giác ngã lòng. Việc này thường xảy đến cho những người mà thể xác được cấu tạo một cách tinh tế.
+ Akasa và Prana biểu lộ vũ trụ: ..... Theo nhiều triết gia Ấn Độ, toàn thể vũ trụ được cấu tạo bằng hai loại chất liệu, một loại là ākāśa, còn loại kia là prāna. Ākāśa là sự tồn tại toàn nhiên phổ hiện, bao trùm vạn hữu. Mọi sự vật mang hình tướng, mọi sự vật hình thành do hòa hợp đều tiến hóa từ ākāśa này. Chính ākāśa chuyển biến thành thể khí, thể lỏng, rồi thành thể rắn; chính ākāśa đã chuyển biến thành mặt trời, trái đất, mặt trăng, thành tinh tú, sao chổi; chính ākāśa chuyển biến thành thể xác con người, thể xác loài vật, cây cỏ, thành tất cả những gì ta có thể tri giác được, tất cả những gì tồn tại. Ta không thể nhận thức được ākāśa, nó tế vi đến mức bất khả tư nghì, vượt ra ngoài mọi sự nhận thức, ta chỉ có thể nhìn thấy được ākāśa khi nó biến thành dạng thô, và mang một hình tướng. Ngay từ buổi khởi thủy sáng tạo, chỉ có ākāśa, đến cuối chu kỳ thì mọi vật thể rắn, lỏng và khí đều tan chảy vào ākāśa trở lại, và một chu kỳ sáng tạo tương tự khác lại xuất phát từ ākāśa này. Là nguồn sinh lực trong mọi vật, và hoạt động tinh tế nhất, cao siêu nhất của prāna là tư tưởng.
Do năng lực nào mà ākāśa hiển lộ thành vũ trụ? Đó là nhờ năng lực của prāna. Giống như ākāśa là chất liệu vô biên và toàn nhiên phổ hiện của vũ trụ thì prāna cũng thế, nó là năng lực hiển thị vô biên và toàn nhiên phổ hiện của vũ trụ. Tại khởi thủy và chung cục của một chu kỳ thì vạn vật đều biến thành ākāśa, và tất cả những lực trong vũ trụ này đều hồi chuyển vào prāna. Trong chu kỳ tiếp theo từ prāna lại tiến hóa ra tất cả những thứ ta gọi là năng lượng, tất cả những thứ ta gọi là lực. Prāna tự thân hiển lộ như là sự vận động, prāna tự thân hiển lộ như là lực hấp dẫn vạn vật, như là từ lực. Prāna tự thân hiển lộ như là hoạt động của thể xác, như là những dòng thần kinh, như là sức mạnh của tư tưởng. Từ tư tưởng cho đến những lực vật lý thấp kém nhất, tất cả đều là sự biểu hiện của prāna. Tổng số các lực trong vũ trụ, tinh thần hay vật chất, khi hồi chuyển về trạng thái nguyên thủy, được gọi là prāna. “Khi không có một gì cả, cũng không có hư không, khi bóng tối bao trùm bóng tối thì cái gì tồn tại? Đó là ākāśa tồn tại trong trạng thái bất động”. Chuyển động vật lý của prāna dừng lại, nhưng nó vẫn luôn tồn tại y nhiên bất biến. Đến cuối chu kỳ, tất cả năng lượng đang phô bày trong vũ trụ sẽ lắng dịu lại và biến thành dạng thế năng. Đến đầu chu kỳ kế tiếp thì chúng lại khởi động, tác động mạnh vào ākāśa, rồi từ ākāśa xuất phát ra muôn ngàn hình tướng đa thù, và khi ākāśa chuyển biến thì prāna cũng chuyển biến thành những tất cả những dạng biểu hiện năng lượng này. Tri thức và năng lực kiểm soát prāna được gọi là prānāyāma. ........
Prāna là nguồn sinh lực trong mọi vật, và hoạt động tinh tế nhất, cao siêu nhất của prāna là tư tưởng.....
Đối với thế giới nội tâm cũng vậy. Vật chất được biểu trưng bằng khí ê-te; khi hoạt động của prāna là hoạt động tế vi nhất thì khí ê-te này, trong trạng thái dao động còn tế vi hơn, sẽ biểu trưng cho tâm trí, và khi đó, ê-te vẫn là một khối vật chất nguyên vẹn....... (Nguồn: Triết học Kinh Vệ Đà_Tr 593-596)
+ Tìm hiểu thêm về Prana - Sinh khí biểu lộ: Năng lượng vũ trụ biểu lộ
+ Sự biểu hiện ra ngoại cảnh - Tức là biểu lộ (LVLCK, 158)
+ Năng lượng biểu lộ qua nhân loại: .... xung lực ý chí nổi bật này biểu lộ qua tiếng nói của đại chúng trên khắp thế giới. Ý chí này biểu lộ qua âm thanh, như tâm thức hay tình thương biểu lộ qua ánh sáng. (Nguồn: sách Điểm đạo trong nhân loại _Tr 17)
+ Đại dương ánh sáng (Lửa - Nhiệt - Chuyển động), biểu lộ:
* Đại Thiên Địa - Thượng Đế các ngôi:
- Ngôi 1… Lửa …….Linh hoạt - ý chí hiện tồn. Điện.
- Ngôi 2… Nhiệt….. Lưỡng nguyên - Bác ái. Thái dương
- Ngôi 3.. Chuyển động...Lửa trí tuệ. Lửa do ma sát.
* Biểu lộ nội tại Đại thiên địa.
- Thái dương ……....… Ý chí hay quyền năng
- Kim tinh & Thuỷ tinh ... Bác ái và Minh triết
- Thổ tinh (Saturn)…….. Hoạt động hay Thông tuệ
* Biểu lộ ở Tiểu thiên địa
- Chân thần….. Lửa điện……….. Ý chí - quyền năng.
- Chân ngã…… Lửa thái dương.. Bác ái và minh triết
- Phàm ngã….. Lửa do ma sát… Hoạt động - thông tuệ.
* Đây là biểu lộ bên trong.
- Thể hạ trí………… Ý chí hay quyền năng….. Lửa
- Thể cảm dục…….. Bác ái - Minh triết ………. Nhiệt
- Thể xác………….. Hoạt động thông tuệ…….. Chuyển động
* Biểu lộ ngoại cảnh của Tiểu thiên địa
- Thể xác Não bộ… Chân thần…Ý chí - quyền năng. Lửa điện.
- Tim… Chân ngã…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương.
- Các cơ quan thấp… Phàm ngã… Hoạt động thông tuệ. (Nguồn: LVLCK, 124)
+ Tìm hiểu thêm về Prana - Sinh khí biểu lộ: Năng lượng vũ trụ biểu lộ
III- XEM CHIÊM TINH QUA LÁ SỐ SINH:
+ Xem Nội môn hay Ngoại môn đều dùng chung 01 Lá số chiêm tinh, nhưng cách giải thích khác nhau (Nguồn)
+ Trong lá số chiêm tinh, cần nhớ rằng hiện giờ tháng và cung hoàng đạo không trùng hợp nhau chút nào. VD: Mặt trời thực ra không ở trong Hải Sư (Leo) trong tháng 8. (Thuật ngữ bác Khá)
+ Các Cung đặc biệt quan trọng: Trong lá số chiêm tinh, Cung Mặt Trời/ Thái dương - Cung mặt trăng - Cung Mọc (Cung mệnh theo CTHNM). (17 độ Bạch Dương. Cũng là đường giáp cung thứ nhất; Các cung: 12 phần lá số; Số của cung ở trong vòng bên trong. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Lá số Chiêm Tinh: Lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì tùy theo mức tiến hóa của mỗi người mà có phương pháp tương ứng: (i) - Theo Công truyền/ Ngoại môn; (ii) Theo Bí truyền hay Nội môn. Cụ thể:
I- Xem thông thường/ Ngoại môn/ Công truyền:
1. Xem Vận mệnh của phàm nhân kém tiến hóa hoặc chỉ phát triển ở mức trung bình thì thường lá số ấy đoán đúng đến mức gây kinh ngạc. Tuy nhiên, với người tiến hóa cao, người chí nguyện, đệ tử và điểm đạo đồ là người bắt đầu chế ngự các ngôi sao chiếu mệnh và do thế mà kiểm soát được các hành động của mình, dự đoán họ sẽ kém/ Không chính xác (Thư Chân Sư DK);
2. Hai cách xem: Phương pháp là Lá số hành tinh quá cảnh và Lá số tiến trình và một số kỹ thuật mới. Nguồn: Chiêm THNM 6
3. Xem hành tinh tương ứng với lực tác động lên chủ thể, các Cung Hoàng đạo tương ứng với cách thức các lực đó tác động, và Nhà, nơi các lực đó tác động vào. 3 nhóm Cung Hoàng Đạo gồm - Ba Thập giá: Cung Chính, Cung Cố định, và Cung Khả biến; Các Nhà: Các Nhà Góc, Nhà Kế và Cadent. (Xem mục 12 nhà)
4. Điều khôn ngoan: Là Chiêm tinh gia luôn xem Cung đối nghịch hoặc cung hoàn tất (CTHNM, 384)
5. Liên hệ hỗ tương: Giữa 12 cung hoàng đạo với 12 hành tinh đang chi phối 12 cung, ảnh hưởng mạnh mẽ phàm ngã, cộng với nghiệp quả. (CTHNM, 64):
- 12 chòm sao kích thích linh hồn bên trong hình hài, tạo ra hoạt động bên trong và biểu hiện bên ngoài:
a. Cung thái dương chi phối con người dần đáp ứng với linh hồn, còn gọi là “thế mạnh của Mặt Trời Khả Hữu”
b. Giai đoạn phát triển theo cung mệnh, thúc đẩy tiến hóa và khai mở sự sống nội tâm, gọi là “Mặt Trời của Triển Vọng”
+ Khi tôi đọc một lá số, với mỗi Cung Mặt Trăng, Mặt Trời, cung Mọc, tôi sẽ dùng kỳ công của Hercules cho từng cung để có chút thông tin về người đó. Ví dụ như cung Mọc Hổ Cáp, liên hệ với kỳ công của Hercules ở Hổ Cáp để hiểu được điều gì tôi cần vượt qua và thực hiện. Tôi sử dụng châm ngôn của phàm ngã cho cung Mặt Trăng và Mặt Trời; dùng linh từ cho cung Mặt Trời và cung Mọc. Những linh từ này là những hướng dẫn được đưa đến bởi Đấng Thái Dương Thiên Thần của chúng ta khi chúng ta tái sinh lại vào kiếp sống trong mỗi cung. Chúng thiết lập khuynh hướng cho đời sống phàm ngã, và những chiều cao mà con người bên trong, hay linh hồn, có thể khao khát đạt đến. (Nguồn: Các chỉ dẫn trên trong Chiêm tinh học nội môn 10)
II- Xem Chiêm tinh học bí truyền/ Nội môn:
Là xem để định hướng con người cho mỗi kiếp sống theo sự định hướng của Linh hồn. Phương pháp này chỉ áp dụng với những người có Tâm thức tiến hóa ở trình độ nhất định, tức thể hạ trí đã phát triển, cuộc sống đã có định hướng đến các mục tiêu Linh hồn (Phụng sự nhân loại), tức họ chọn cuộc sống phụng sự vô kỷ - Luôn sẵn sàng vì người khác, vì tập thể và cả nhân loại, rộng hơn là với hết thảy chúng sinh, thay vì chọn cuộc sống vị kỷ - Nặng về chính mình và gia đình, dòng tộc hay đơn vị nhỏ của mình của đa số nhân loại hiện nay; (Lời Nhân TH)
+ Trạng thái bác ái (Love aspect): Linh hồn tức là trạng thái bác ái. (LVHLT, 382)
+ Linh hồn: Như bạn biết rõ, không có vị Thượng Đế phẫn nộ (no angry God), không có địa ngục (no hell) và không có việc chuộc tội thay (no vicarious atonement). Chỉ có một nguyên khí bác ái vĩ đại làm sinh động toàn thể vũ trụ; có Bản Lai Diện Mục của Đức Chirst hướng dẫn cho nhân loại biết sự thật của linh hồn và chúng ta được cứu bằng nguồn sống (livingness) của linh hồn đó, và địa ngục duy nhất là chính cõi trần, nơi mà chúng ta học hỏi để tiến hành sự cứu rổi (salvation) riêng của chúng ta, được thúc đẩy bằng nguyên khí bác ái và ánh sáng, và thêm vào đó, được kích động bằng tấm gương của Đức Chirst và sự thôi thúc bên trong của linh hồn riêng của chúng ta. (CTNM, 393)
LINH HỒN THEO MINH TRIẾT THIÊNG LIÊNG: Có các định nghĩa dưới đây (Với Quan điểm của Phật Giáo gọi là Thức - Mời xem Tooltip THỨC ĐẦU THAI để biết.
+ Linh hồn: Bản chất chủ yếu của nó là ánh sáng. Ánh sáng linh hồn này tác động vào hình hài khi sự tiến hóa tiếp diễn và tạo ra theo trình tự sự khai mở của hình hài đó, và của bản chất về không gian - thời gian cũng như về mục tiêu. Mỗi cung Hoàng đạo tương ứng với kiểu ánh sáng riêng (CTHNM, 372)
+ Vật chất nguyên sơ (Primeval Matter, vật chất bản sơ. Vật chất xuất hiện ngay lần biến phân đầu tiên của nó từ trạng thái trung hòa (laya condition, vượt quá các đường tác dụng zero).(GLBN 2, 313)
+ 10 loại Linh hồn tiến hóa: Người Thú giật lùi; 2- Người Thú; 3- Người Lemuria; 4- Người Atnantis (Người trung bình); 5- Nhóm Người Aryan ( Chuyển tiếp - Tích hợp - Thức tỉnh); 6- Người tìm đạo; 7- Người Dự bị; 8- Đệ tử; 9- Điểm đạo đồ; 10 - Chân Sư (Xem thêm GQ1.1)
+ Linh hồn: Vốn không chia rẻ, có ý thức tập thể và có tính bao quát, sẽ ngày càng trở nên nổi bật (trong Lá số, CTHNM, 12)
+ Linh hồn: ( GQ1.6, Tr 2)
1. Linh hồn là Con của Cha và của Mẹ (Tinh thần-Vật chất). Sự sống của Thượng Đế được hiện thân, đi vào luân hồi....
2. Linh hồn: Nguyên khí thông tuệ (Nhận thức về tâm trí và trí tuệ-Năng lực phân tích, phân biện, tách biệt và phân biệt, chọn lấy hoặc loại ra).
3. Linh hồn là một đơn vị ánh sáng, được nhuộm mầu bởi rung động của một Cung đặc biệt nào đó.
4. Linh hồn là nguyên khí hữu cảm thức, Khi Linh Hồn bị đắm chìm trong vật chất, thì nó đơn giản chỉ là khả năng chi giác....Đây là Linh hồn tự biểu lộ trong các Giới dưới nhân loại trong thiên nhiên...
5. Linh hồn, trong mối liên quan với con người, là nguyên khí trí tuệ.
+ Trong mọi hình hài con người đều có một Linh hồn. Linh hồn dùng phương diện thấp của con người chỉ như các phương tiện để biểu lộ. Mục tiêu của diễn trình tiến hóa là nhằm tăng cường và củng cố sự chế ngự của Linh hồn đối với khí cụ này (Tâm thức-Các Cõi)
+ Linh hồn có ba chân lý trường tồn (Nguồn: Xem tại đây)
+ Công nhận - Nhận Thức Về Linh Hồn: Có 2 nhóm người công nhận Linh hồn là sự thật
- Một là những người cả tin, kém phát triển, thật thà như trẻ con, họ viện dẫn dựa vào một thánh kinh trên thế giới, và có khuynh hướng về tôn giáo, chấp nhận các nguyên lý cơ bản (postulates) của tôn giáo – như là linh hồn, Thượng Đế và sự bất tử − mà không thắc mắc.
- Hai là: Họ là nhóm nhỏ nhưng đang tăng lên đều đặn, nhóm của Những Người Hiểu Biết về Thượng Đế, và về thực tại, họ biết linh hồn là một sự thực theo kinh nghiệm riêng của họ, nhưng không thể chứng minh sự tồn tại của nó một cách thỏa đáng cho người nào chỉ thừa nhận những gì mà trí cụ thể có thể hiểu, phân tích, phê phán và thử nghiệm (LVHLT, 17)
+ Ngọc sáng trong hoa sen, Hồn linh bảo (Jewel in the lotus): Chính là sinh điểm nhờ đó Chân Thần giáng xuống cõi trần và do đó, là nguyên khí sự sống của tất cả các hiện thể vô thường – đã phát triển, chưa phát triển hoặc đang phát triển. Sinh điểm này chứa trong chính nó mọi khả năng, tiềm năng, kinh nghiệm và mọi hoạt động rung động. Nó là hiện thân của ý chí hiện tồn, của tính chất hấp dẫn từ điện (thường được gọi là bác ái) và trí tuệ linh hoạt sẽ giúp cho sự sinh động và bác ái được biểu lộ trọn vẹn. Phát biểu và định nghĩa nêu trên có tìm mức rất quan trọng. Do đó, điểm ở trung tâm này thực sự là vạn hữu và ba trạng thái khác của sự sống – như được liệt kê – chỉ là các dấu hiệu về sự tồn tại của nó. Nó là cái có khả năng rút về Cội Nguồn của nó, hoặc là tự chồng chất lên chính mình hết lớp vật liệu này đến lớp khác; nó là nguyên nhân của cái gọi là Kẻ Hành Hương vĩnh cửu trở về nhà Đấng Từ Phụ sau bao thiên kỷ kinh nghiệm, cũng như những gì tạo ra thực nghiệm sau rốt đưa tới kinh nghiệm và biểu hiện tối hậu. (VCVTDT, 169–170)
+ ĐỊNH NGHĨA LINH HỒN
1. Linh hồn, của đại thiên địa và tiểu thiên địa, của vũ trụ và con người, là thực thể được tạo ra khi trạng thái tinh thần và trạng thái vật chất được liên kết với nhau.
a/ Do đó linh hồn không phải là tinh thần, cũng không phải là vật chất mà là mối quan hệ (relation) giữa cả hai.
b/ Linh hồn là chủ thể trung gian (mediator) giữa nhị nguyên tính này; nó là nguyên khí giữa, khoen nối giữa Thượng Đế với sắc tướng của Ngài.
c/ Do đó, linh hồn là một tên gọi khác để chỉ nguyên khí Christ, dù là trong thiên nhiên hoặc trong con người.
2. Linh hồn là lực hút của vũ trụ được sáng tạo và (khi hoạt động) giữ cho mọi hình thể (forms) kết lại nhau để cho sự sống của Thượng Đế có thể biểu lộ hay tự biểu hiện qua các hình thể đó.
a/ Do đó, linh hồn là trạng thái kiến tạo hình hài, và là yếu tố thu hút trong mọi hình hài trong vũ trụ, trong hành tinh, trong các giới của thiên nhiên và trong con người (con người tổng kết trong chính mình mọi trạng thái) linh hồn tạo ra hình hài, nó giúp cho hình hài phát triển và tăng trưởng để cung cấp nơi trú ngụ thích hợp hơn cho sự sống nội tại, và thúc đẩy mọi tạo vật của Thượng Đế tiến tới theo con đường tiến hóa, qua hết giới này đến giới khác, hướng đến mục tiêu cuối cùng và một thành tựu huy hoàng.
b/ Linh hồn là chính mãnh lực tiến hóa và điều này đã ở trong trí Thánh Paul khi ngài nói đến “Đấng Christ trong bạn, niềm hy vọng vinh quang” (“Christ in you, the hope of glory”).
3. Linh hồn này biểu lộ khác nhau trong các giới khác nhau của thiên nhiên, nhưng chức năng của nó bao giờ cũng như nhau, cho dù chúng ta đang đề cập đến một nguyên tử của vật chất và sức mạnh của nó để gìn giữ sự đồng nhất của nó với hình tướng và xúc tiến hoạt động của nó theo đường lối riêng của nó, hoặc là chúng ta bàn đến một hình hài ở một trong ba giới của thiên nhiên, được giữ cố kết với nhau, thể hiện các đặc trưng, theo đuổi đời sống theo bản năng riêng của nó, và hoạt động thành một khối hướng đến một điều gì đó cao cả hơn và tốt đẹp hơn.
a/ Do đó, linh hồn là nhân tố mang lại các đặc điểm riêng biệt và các biểu lộ sắc tướng khác nhau.
b/ Linh hồn tác động lên vật chất, thúc đẩy vật chất đảm nhận một số hình thức (shapes), để đáp ứng với một số rung động, và để tạo ra các hình tướng đặc biệt thuộc cõi hiện tượng mà chúng ta nhận biết trong thế giới của cõi hồng trần dưới hình thức khoáng chất, thực vật, động vật và con người, − và đối với điểm đạo đồ thì còn có một số hình thức khác nữa.
4. Các tính chất, các rung động, các màu sắc và các đặc điểm của tất cả các giới trong thiên nhiên là các tính chất của linh hồn, như là các năng lực tiềm tàng trong bất cứ hình hài nào đang tìm cách biểu lộ và chứng tỏ tiềm năng. Trong tổng thể của chúng vào cuối giai đoạn tiến hóa, chúng sẽ tiết lộ những gì là bản chất của sự sống thiêng liêng và của linh hồn thế giới, − linh hồn tối cao đó sẽ tiết lộ đặc tính (character) của Thượng Đế.
a/ Do đó, qua các tính chất và các đặc điểm này, linh hồn biểu lộ như là sự đáp ứng hữu thức đối với vật chất, vì các tính chất được xuất hiện thông qua sự tương tác của các cặp đối ứng, tinh thần và vật chất, và ảnh hưởng của chúng lên nhau. Đây là nền tảng của tâm thức.
b/ Linh hồn là yếu tố hữu thức trong mọi hình hài, cội nguồn của tâm thức mà mọi hình hài biểu lộ và của sự đáp ứng với các điều kiện tập thể chung quanh mà các hình hài trong mọi giới của thiên nhiên thể hiện.
c/ Do đó linh hồn có thể được định nghĩa như là khía cạnh đầy ý nghĩa trong mọi hình hài (được tạo ra qua sự hợp nhất của tinh thần và vật chất), nó cảm nhận, biểu lộ sự hiểu biết, thu hút và xua đuổi, đáp ứng hoặc từ chối đáp ứng, và giữ mọi hình hài trong một tình trạng thường xuyên hoạt động rung động.
d/ Linh hồn là thực thể có tri giác được tạo ra qua sự hợp nhất của Cha−Tinh Thần và Mẹ−Vật Chất. Đó là cái mà trong giới thực vật chẳng hạn, tạo ra sự đáp ứng với tia nắng mặt trời và việc nở ra của chồi búp; đó là cái mà trong giới động vật khiến cho nó thương yêu chủ của nó, đi săn mồi, và tuân theo cuộc sống bản năng của nó; đó là cái mà trong con người, nó làm cho y ý thức về môi trường chung quanh y và nhóm của y, nó khiến cho y sống cuộc đời của y trong ba cõi của sự tiến hóa bình thường của y như kẻ bàng quan, chủ thể nhận thức, diễn viên (actor). Sau rốt chính điều đó khiến cho y phát hiện rằng linh hồn này nơi y vốn có hai phần (dual), phần kia của y đáp ứng với sinh hồn (animal soul), còn phần của y thì nhận ra hồn thiêng (divine soul) của mình. Tuy nhiên, vào lúc này, đa số con người sẽ được nhận thấy là đang hoạt động một cách đầy đủ, không hoàn toàn là sinh hồn, cũng không hoàn toàn là hồn thiêng, mà có thể được xem như nhân hồn (human souls). (LVHLT, 35-37)
* Không nên gọi là Linh Hồn - Nên gọi là Linh Tánh_PS Tịnh Không: Học Phật, tôi thường hay nói, học Phật việc tốt nhất trước tiên chính là gì: Biết được sinh mạng là vĩnh hằng, ta không hề chết, “chết” - thân thể này thì có sanh diệt, ta thì không có sanh diệt. Thông thường chúng ta nói ta là cái gì? Linh hồn là ta, người nước ngoài cũng thừa nhận, trong Phật pháp gọi là thần thức, đây là cái ta chân thật. Nếu như nói cái ta này có sanh tử, còn đi đầu thai, còn có cái gì là kiếp trước đời sau… Không hề có. Cho nên vấn đề chính ngay chỗ này. Chân thật từ nơi Phật pháp nói, Phật pháp vẫn không gọi là linh hồn, gọi là Linh Tánh. Kỳ thật nếu gọi là linh hồn thì cái hồn đó tuyệt nhiên không linh, nếu như là linh thì nó sẽ chọn thế giới Cực Lạc để đi, hà tất phải đi vào sáu cõi luân hồi chứ? Nó không linh! Không nên gọi là linh hồn mà gọi là mê hồn, quyết định không phải là linh hồn. .... (Linh Hồn) Mê mất đi tự tánh thì trí tuệ đức tướng của chúng ta liền bị bóp méo đi, bị biến chất. Có khởi được tác dụng hay không? Có. Tác dụng gì vậy? Hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta chính là tác dụng, thế nhưng tác dụng này đã bị biến chất rồi. (PS Tịnh Không giảng)
+ Linh hồn - Phật giáo gọi là Mê hồn luân hồi/ Thức/ Nghiệp Thức/ A Lại Da Thức/ Tàng thức: Thức - Đi đầu thai; gồm có 8 thức, trong đó 6 Thức tạo nghiệp là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức; 7 là: Mạt na Thức/ Thức Xuất nhập Nghiệp duyên từ 6 Thức tạo Nghiệp qua thức 7 vào thức 8 là: A Lại Gia Thức/ Tàng thức là năng lượng tàng chưa Nghiệp, là sức mạnh gọi là nghiệp lực/ Tàng thức đi đầu thai luân hồi sáu cõi; Thức 9 là Thanh Tịnh Thức/ A Đà Na Thức rất vi tế; (Nguồn: Sự tái sinh của Linh hồn - Lê Sỹ Minh Tùng); * [HT Tuyên Hóa cũng giảng Thức thứ 9 này trong Kinh Thủ LN - Q5]
+ Linh hồn: Trung Quốc, Khổng Tử gọi là Du hồn. Du hồn di chuyển rất nhanh. Nên Phật giáo gọi là Mê hồn, vì Mê lên Hồn luân hồi sáu cõi nên nếu gọi là Linh không tương ứng, vì Linh là Tánh của Linh hồn. Do Mê đắm sức dục lên chẳng Linh nữa. Trong Mê hồn có Tánh linh/ Tánh Giác/ Linh hồn không sanh không diệt/ Sanh diệt đồng thời, tương ứng tên gọi Linh hồn. (Ps Tịnh Không giảng)
+ Linh hồn - Linh Tánh: Đại khái chúng ta hiểu Linh Tánh bao gồm Linh Hồn. ... Cái chết này, mệnh chung là thân mệnh chung, điều này phải ghi nhớ, linh tánh không có mệnh chung, linh tánh bất sanh bất diệt. Chẳng những linh tánh không có sanh diệt, linh hồn cũng là bất sanh diệt, linh hồn có chuyển biến, cho nên gọi là biến dị sanh tử. Thân thể gọi phần đoạn sanh tử. Chúng ta đến với thế gian này, sống mấy chục năm, khoảng thời gian này, từng đoạn từng đoạn, vì vậy nói có thân thể này phần đoạn sanh tử. Không có thân thể này, linh tánh gọi là biến dị sanh tử. Biến dị là cái gì? Nó không ngừng đi lên, hoặc là đoạn lạc đi xuống, đều đang biến dị. Đến lúc đó quý vị thật sự minh bạch rồi, mọi thứ quý vị yêu thích, họ hàng tài bảo mà quý vị lưu luyến, quý vị đều không mang theo được, đều phải xa lìa. Phật giáo gọi là “mọi thứ mang không được, chỉ có nghiệp theo mình”..... PS Tịnh Không giảng: Đời sống vô thường - Chết đi về đâu
+ Linh hồn: Chân Ðế Của Sanh Mạng. Sanh mạng không phải là tiền mà là báu vật vô giá. Chúng ta cũng không thể dùng tiền để mua bán sanh mạng. Thế nhưng đã có nhiều người bán rẻ sanh mạng đời mình. ....
Ðức Khổng Tử nói: “Thiên mạng gọi là Tánh, tuân theo Tánh gọi là Ðạo, tu Ðạo là vì Giáo và không thể xa rời, dù trong tích tắc.” Nếu đạo có thể xa rời thì không phải là Ðạo. Thời nay, có thể sửa lại như thế nầy: “Thiên mạng gọi là Tiền, tuân theo Tiền gọi là Ðạo, tu Ðạo là vì Tiền. Tiền thì không thể xa rời, dù trong tích tắc.” Cho nên “mở rộng cửa sau, nhưng đóng kín cửa trước” là thế đấy. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng 4 / 7 / 1986)
Xem thêm: A Lại Da Thức - Thứ 8 luân hồi
+ Huyền gia Tinh thần = Thánh Đoàn: Gồm những người thuộc về giới thứ 5 và giới thứ 6 là thành viên (Tập đoàn Tiên Thánh hoặc Hội đoàn Tiên thánh hay Thánh đoàn). Một tên gọi chỉ các đệ tử đang hoạt động thuộc mọi đẳng cấp. (SHLCTĐ, 20)
+ Thánh Đoàn: Luôn mạnh mẽ và kiên định, bao giờ cũng hướng đến sự cứu rỗi thế gian (Học MF- Khóa MQ)
+ Thánh Đoàn là một đoàn thể cứu độ vĩ đại, gồm có các Đấng Cao Cả đã giải thoát, có nhiệt tâm, hoạt động theo cấu trúc nhóm với mọi hình hài và sự sống trong mọi giới, đặc biệt là với mọi linh hồn. (SHLCTĐ, 526)
+ Thánh Đoàn là một trạm năng lực và ánh sáng. (SHLCTĐ, 557)
+ Nhóm các Đấng Tinh thần trên các nội cảnh giới của Thái Dương Hệ, các Ngài là các mãnh lực thông tuệ của thiên nhiên, điều khiển các diễn trình tiến hóa. Chính các Ngài tách ra thành 12 Huyền Giai. Trong hệ thống hành tinh của chúng ta, tức hệ địa cầu, có một hình phản chiếu của Thánh Đoàn này mà các nhà huyền linh học gọi là Đại Đoàn Huyền linh, Thánh Đoàn này hợp thành bởi các vị Chohans, các Chân Sư và các đệ tử được điểm đạo, hoạt động xuyên qua đệ tử của các Ngài và nhờ đó, hoạt động khắp thế gian. (ĐĐNLVTD, 218)
+ “Huyền giai này gồm những Đấng đã hoàn toàn chiến thắng vật chất, và đã đạt mục tiêu qua cùng những bước tiến mà các cá nhân đang thực hiện ngày nay. Những nhân vật tinh thần này, các vị cao đồ và Chân sư, đã phấn đấu và chiến đấu để chiến thắng và chế ngự cõi trần. Các Ngài phấn đấu trong chướng khí, sương mù, nguy hiểm, khó khăn, đau buồn và thống khổ của đời sống hằng ngày. Các Ngài đã tiến lên từng bước trên con đường đau khổ, đã trải qua mọi kinh nghiệm, và khắc phục bao nỗi khó khăn, và đã chiến thắng.. . . Vì đã thấu đáo sự tự do qua việc hy sinh hình thể nhờ lửa tinh luyện, các Ngài có bàn tay mạnh mẽ, khả năng kiên trì cho dù khi hình thể dường như phải chịu quá nhiều đau khổ, và lòng yêu thương chiến thắng mọi trở lực, vì có nền tảng là sự nhẫn nại và kinh nghiệm (Huyền giai - MQ)
+ Thánh Đoàn không trung lập. Thánh Đoàn ủng hộ những phần tử chân chánh trong mọi quốc gia, và chống lại mọi thái độ chia rẽ, biệt lập và ham mê vật chất. Những thái độ như thế khiến người ta không hiểu được các giá trị tinh thần chân thực, và ngăn trở sự phát triển của nhân loại. Đồng nhất với tất cả và tham gia vào các điều kiện trên thế giới – một cách tự nguyện và không do cưỡng chế – là lối thoát hiện nay cho tất cả các dân tộc. Hãy suy ngẫm kỹ điều này. (Vận mệnh các quốc gia)
+ Huyền Giai con người (Nhân loại) là Huyền giai Sáng tạo Thứ tư (Thực gia là thứ 9) trong số 7 Huyền Giai đang hoạt động hay biểu lộ (CTHNM, 46 và 298);
+ Huyền Giai thứ 4 (Thứ 9): Là Huyền giai của Chân Thần con người. (LVLCK, 1099);
+ Jerusalem: Tân Jerusalem (new Jerusalem), Thánh Đoàn.(VMCQG, 23)
+ Jerusalem (nghĩa đen là “chốn yên bình”) không phải là thủ đô của một nước nhỏ gọi là Palestine hay là Thánh Địa. Từ này tượng trưng cho một thế giới thái bình - một thế giới mà nhờ các nỗ lực tự lực của riêng nó, đã đạt được một yên tịnh chung và đã đạt được một mức nào đó đối với các liên giao đúng đắn giữa con người.(SHLCTĐ, 575)
+ Jewel in the lotus (Ngọc sáng trong hoa sen, Hồn linh bảo): Chính là sinh điểm nhờ đó Chân Thần giáng xuống cõi trần và do đó, là nguyên khí sự sống của tất cả các hiện thể vô thường – đã phát triển, chưa phát triển hoặc đang phát triển. Sinh điểm này chứa trong chính nó mọi khả năng, tiềm năng, kinh nghiệm và mọi hoạt động rung động. Nó là hiện thân của ý chí hiện tồn, của tính chất hấp dẫn từ điện (thường được gọi là bác ái) và trí tuệ linh hoạt sẽ giúp cho sự sinh động và bác ái được biểu lộ trọn vẹn. Phát biểu và định nghĩa nêu trên có tìm mức rất quan trọng. Do đó, điểm ở trung tâm này thực sự là vạn hữu và ba trạng thái khác của sự sống – như được liệt kê – chỉ là các dấu hiệu về sự tồn tại của nó. Nó là cái có khả năng rút về Cội Nguồn của nó, hoặc là tự chồng chất lên chính mình hết lớp vật liệu này đến lớp khác; nó là nguyên nhân của cái gọi là Kẻ Hành Hương vĩnh cửu trở về nhà Đấng Từ Phụ sau bao thiên kỷ kinh nghiệm, cũng như những gì tạo ra thực nghiệm sau rốt đưa tới kinh nghiệm và biểu hiện tối hậu.(VCVTDT, 169–170)
Xem: Sơ đồ Huyền giai Thái dượng - Hành tinh - Tinh thần/ Thánh đoàn
Xem Tổng hợp về huyền giai
Sơ đồ: Vị trí Huyền giai Tinh thần với tiến hóa.
Xem: Huyền Giai Tinh thần = Thánh Đoàn
+ Bản chất tương tác năng lượng Cung: .... Tác dụng của các năng lượng và các cung đang đến, hoạt động tích cực vào một thời gian nào đó, được cảm nhận theo trình tự sau đây:
1. Cảm nhận một lý tưởng.
2. Đề ra một học thuyết.
3. Phát triển công luận.
4. Áp đặt mô hình mới đang phát triển vào cuộc sống đang tiến hóa.
5. Tạo nên hình thể, dựa vào mô hình đó.
6. Hoạt động ổn định của của đời sống trong hình thể mới.
Cần lưu ý rằng mỗi cung thể hiện một ý tưởng, có thể được cảm nhận như một lý tưởng. Các cung đương thời tạo mô hình cho thế giới, nó nắn đúc tất cả các hình thể trên hành tinh, và do đó mang chứng tích mãnh lực nội tại của các diễn trình tiến hóa. Khoa tâm lý học hiện nay nhận biết được khuynh hướng tạo mô hình này cho con người, nên các kiểu mẫu tình cảm hay tư tưởng của họ đều được lập đồ biểu và nghiên cứu. Điều này cũng đúng với các quốc gia và các chủng tộc. Mỗi cung đều tạo ra ba mô hình chính, được áp đặt lên tính chất hình thể, dù đó là hình thể của một con người, một quốc gia hay một hành tinh. Ba mô hình đó là:
Mô hình tình cảm, thể hiện nguyện vọng của một người, một quốc gia hay chủng tộc, là trọn cả khuynh hướng ham muốn vào một thời gian nào đó.
Mô hình trí tuệ, bộc lộ về sau và chi phối các tiến trình tư tưởng của một người, một quốc gia hay chủng tộc.
* Các mô hình tình cảm và trí tuệ là các phương diện tiêu cực và tích cực của phàm nhân một người, một quốc gia hay chủng tộc.
Mô hình linh hồn là mục tiêu tinh thần tiền định, là vòng giới hạn hay vận mệnh mà rốt cuộc nguyên khí tinh thần áp đặt thành công trên phàm nhân của một người, một quốc gia hay chủng tộc. Mô hình này của linh hồn rốt cuộc thay thế và xóa bỏ các tiến trình tạo mô hình trước đó.
Ví dụ (NTH Tóm lược): Nước Pháp có Linh hồn Cung 5 ... nếu Phàm ngã nước Pháp đã phối kết đủ để làm chủ Thể xác và Dục vọng, thì với phiền lão khổ đau của nhân loại hiện nay, rễ có cơ hội nhận thức về sự hiểu biết, chi phối của Linh hồn rồi phổ biến cho Nhân loại biết; Còn với nước Đức có Linh hồn cung 4, họ đã từng đã cống hiến cho nhân loại âm nhạc và triết học. Hiện nay Linh hồn đó vẫn chưa biểu lộ vì Phàm nhân lộng hành của nước này đã mang lại những điều hết sức tà ác, theo thời gian ....; Anh Quốc có Cung Phàm nhân Lý tưởng và Công bằng, khả năng sáng tạo mô hình chính quyền chân thực, mẫu mực, tổ chức Liên hiệp quốc cũng theo đó; Còn Hòa kỳ hiện Cung 6 Phàm nhân đang chế ngự với sự Sùng tín - Chủ nghĩa lý tưởng, cho nên có ham muốn mạnh mẽ, Tình dục và vật chất quá mức ... Thiên hướng thực dụng (Lý tưởng/ Có lợi là theo đuổi, không cứng nhắc) này sẽ được Soi sáng bằng Luật Tình thương trong tương lai; Còn Nước Ý có linh hồn cung sáu, vì thế mà nước này tôn sùng quá khứ của mình, luôn muốn phục hồi nhưng với rất ít thù ghét, oán hận ; Còn Nga có Linh hồn cung 7 và Phàm ngã Cung 6.- - Đang chịu ảnh hưởng của cả 2 Cung. Do đó, có xung đột dữ dội giữa sự cuồng tín tàn bạo thuộc cung sáu của Nga và tính vô hại về tinh thần vốn là nguyên tắc cơ bản trong ý thức hệ của quốc gia này ... Nga liên kết 2 con đường/ LK thánh thiện Tinh thần và Xung phụng Vật chất/ LK Ích kỷ với Vô tư/ LK Cuồng tín tàn bạo với thông hiểu đến Tình thương, cũng là LK Đông và Tây ... Nước Nga bí ẩn và phi thường với 2 Trung tâm lực (Cung 6 và 7).
=> Ánh sáng bao giờ cũng chói rạng ở phương Đông rồi từ đó soi sáng phương Tây => Toàn thế giới sẽ ngập tràn sự huy hoàng của ngôi Mặt trời Công chính (Một tôn giáo tinh thần vĩ đại mở ra).
Tây Ban Nha có chân nhân cung sáu và phàm nhân cung bảy – vì thế mà đảo ngược các mãnh lực vốn đang biểu lộ qua tinh thần của nước Nga.... Cũng liên kết Châu âu và Châu phi và cả với Nga ...chiến trường của hai ý thức hệ lớn – là Phát-xít và Cộng sản – từ đầu bên Phát-xít đã thắng vì có mối liên hệ ở cấp chân nhân giữa Tây Ban Nha và Ý. Và cũng vì hai nước này ở gần nhau, nên ấn tượng thần giao cách cảm của chủ nghĩa lý tưởng Phát-xít dễ ảnh hưởng đến tâm thức vốn nhạy cảm của người Tây ban Nha. Về sự cuồng tín, tính tàn ác tự nhiên, chủ nghĩa lý tưởng nồng nhiệt, lòng kiêu căng ngạo mạn, phẩm chất tôn giáo và thần bí trong tâm tính của người Tây Ban Nha, đều hiển nhiên là bắt nguồn từ cung sáu, và đã trở nên cố kết...
Khi nghiên cứu kỹ những gì mà mỗi quốc gia tiêu biểu, chúng ta sẽ phát hiện được nhiều điều và thấy được mô hình của tính ích kỷ phàm nhân hoặc mô hình về các mục tiêu của linh hồn (Sách: Vận mệnh các Quốc gia)
+ Thuật ngữ Tương tác trong Chiêm tinh - Nhà Chiêm tinh gia nên biết:
.... Ở đây Tôi đưa ra cho bạn các gợi ý mà chúng có thể có kết quả bổ ích nếu được diễn dịch chính xác và dựa theo động cơ đúng, trong việc tạo ra nhóm và với mục đích vô kỷ.
Qua hành tinh Uranus, Libra cũng được liên kết với Aries và Aquarius, và chính nhờ Uranus mà cặp đối ứng (pair of opposites, cặp đối nhập) Aries-Libra được đưa vào tiếp xúc với nhau theo ý nghĩa rất sâu xa. Qua hoạt động của nó, một sự tương tác mạnh mẽ xảy ra, làm cho việc đạt được sự thăng bằng trong Libra của những gì có sự bắt đầu của nó trong Aries. Do đó Aries, Libra và Aquarius tạo thành một tam giác lực khác mà sau đó phải được xem xét. Như Tôi có ám chỉ trước kia, các tam giác lực này sẽ chi phối chiêm tinh học mới theo một cách lý thú nhất, và chi phối các biểu đồ của những người mà lá số tử vi của họ đang được nghiên cứu.
Do đó Libra được liên kết với năm cung hoàng đạo – Aries, Taurus, Gemini, Capricorn và Aquarius. [Aries Bắt đầu cũng là Cung Đảo nghịch tiến hóa thăng thượng/ Nội môn]
1. Aries ............. Bắt đầu ................ Sáng Tạo .......... Tiến hóa.
2. Taurus .......... Dục vọng ............ Thôi thúc .......... Tiến bộ.
3. Gemini ......... Lưỡng nguyên .... Tình trạng .... Sự tương tác.
4. Capricorn ..... Tổng hợp ............ Điểm đạo ........ Thành đạt.
5. Aquarius ...... Mục tiêu .............. Bao gồm ......... Phụng sự.
Mối liên hệ này được thiết lập bởi ba chủ thể cai quản: Venus, Uranus và Saturn. Năm cung này, với Libra ở điểm thăng bằng tạo ra một trong các ngôi sao sáu cánh của tiến hóa, và cũng đưa vào liên hệ với chúng ba hành tinh vốn có liên hệ đặc biệt với biểu hiện của tâm thức Christ trên thế gian. Tất cả ba hành tinh này (qua các cung năng lượng mà chúng là trung gian) đều được tìm thấy trên tuyến lực chính thứ nhất, tức là tuyến ý chí hay quyền năng và có mục tiêu và mục đích được hình dung:
1. Uranus – Cung 7, Chúa Cha. Nguồn Cội của Lưỡng Nguyên. Ngài là Đấng nhận thức được mục tiêu từ khởi thủy. Linh Thức. Trực giác đưa đến Linh Hứng.
2. Venus – Cung 5, Chúa Con. Con của Trí Tuệ. Ngài là Đấng bao gồm. Chân Ngã thức. Trí tuệ đưa đến Trực Giác.
3. Saturn – Cung 3, Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng thông suốt. Trí tuệ. Nhân loại thức. Bản năng đưa đến Trí Tuệ.
Chính vì lý do căn bản này – được tạo ra dựa trên mối liên hệ tam phân nói trên – mà Libra là “điểm quân bình” trong hoàng đạo......
Chính cũng trong mối liên hệ của hai cung hoàng đạo này với nhau mà bạn có được một trong các bức tranh rõ rệt nhất về sự tương tác giữa các cặp đối ứng như chúng hiện hữu trong hoàng đạo, và điều đó có thể làm lợi cho chúng ta ở đây trong giây phút nghiên cúu hai kiểu mẫu của hoàn thiện mà sự tương tác giữa các cung đối nghịch này mang lại. Tôi sẽ cố gắng đặt hai kiểu mẫu này cho bạn dưới hỉnh thức bản liệt kê và gợi ý cho bạn xem xét và nghiên cứu sau này. Cái tuyệt đích ở hai khía cạnh hình hài và khía cạnh linh hồn có thể được diễn tả như sau, lúc nào cũng ghi nhớ các giới hạn của ngôn ngữ: nhân loại Trên Vòng Quay Theo Chiều Kim Đồng Hồ (Aries đến Taurus, xuyên qua Pisces) Dành cho nhân loại thông thường:
1. Aries ‒ Libra (Dương Cưu ‒ Thiên Xứng). Dục vọng phôi thai cho biểu lộ hoàn thành trong sự đam mê thỏa mãn. Yêu thương thấp kém kiềm chế.
2. Taurus ‒ Scorpio (Kim Ngưu ‒ Bò Cạp). Dục vọng thấp kém được tập trung mạnh mẽ, dẫn đến tử vong và thất bại. Sự chiến thắng của bản chất thấp dẫn tới kết quả là làm nổi dậy bản chất chán chường và sự chết. Con người là tù nhân của dục vọng và vào lúc hoàn thành biết được nhà ngục của mình.
3. Gemini ‒ Sagittarius (Song Nam ‒ Nhân Mã). Sự tương tác uyển chuyển có tính không ỗn định dẫn đến sự tập trung và sự định đoạt của phàm ngã. Con người nhất tâm tôn sùng sự thành tựu của phàm ngã. Bản chất tam phân hạ đẳng, được tổng hợp và được chỉ đạo, kiểm soát mọi hoạt động.
4. Cancer ‒ Capricorn (Bắc Giải ‒ Nam Dương). Sự thôi thúc luân hồi dẫn đến việc nhập thể đông đúc nhất và sự chìm đắm trong hình hài. Sức hút của sự sống sắc tướng và các diễn trình kiểm soát chặt chẽ. Sau nhiều luân hồi, con người đạt đến một điểm kết tinh.
5. Leo ‒ Aquarius (Hải Sư ‒ Bảo Bình). Các cá nhân mưu tìm biểu hiện đầy đủ và sau cùng đạt đến điểm nơi mà nó sử dụng môi trường chung quanh mình cho các mục đích thuần túy cá nhân. Y chi phối đồng loại mình vì các mục đích hoàn toàn thuộc phàm ngã. Cá nhân riêng rẻ trở thành kẻ cai trị của nhóm hoặc kẻ độc tài.
6. Virgo ‒ Pisces (Xử Nữ ‒ Song Ngư). Vật chất ở trạng thái tự nhiên (virgin matter) thu hút linh hồn, và Mẹ thiêng liêng trở thành quan trọng hơn là con. Sự sống của linh hồn còn ẩn tàng.
Trên Vòng Xoay Ngược Chiều Kim Đồng Hồ (Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus) Đệ Tử và Điểm Đạo Đồ.
1. Libra ‒ Aries (Thiên Xứng ‒ Dương Cưu). Ỏ điểm yên nghỉ, mức thăng bằng được đạt đến, cho thấy sự thúc đẩy của trí tuệ đối với sự kiềm chế của linh hồn. Đam mê (passion) được chuyển hóa thành bác ái (love) và ham muốn (desire) ban đầu của Aries trở thành biểu lộ đầy đủ của bác ái-minh triết. Ham muốn biểu lộ trở thành nguyện vọng/ đạo tâm sẽ thành.
2. Scorpio ‒ Taurus (Hổ Cáp ‒ Kim Ngưu). Vinh quang cuối cùng của linh hồn vượt lên trên sắc tướng. Cái chết và bóng tối biểu hiện dưới hình thức sự sống và ánh sáng như là kết quả của mối liên hệ về năng lượng này. Đêm đen của linh hồn trở thành mặt trời chói lọi......
Đôi khi cung này được gọi là “chòm sao của cách phân giải nhị nguyên thành một tổng hợp uyển chuyển”. Nó đang chi phối tất cả các cặp đối hợp trong hoàng đạo, nó duy trì sự tương tác từ điện giữa các cặp đó, giữ cho chúng được uyển chuyển trong các liên hệ của chúng, sau rốt để làm dễ dàng cho sự chuyển hóa thành duy nhất, vì cả hai sau cùng phải trở thành Một. Cần nên nhớ rằng ‒ theo quan điểm phát triển cuối cùng của mãnh lực mười hai cung hoàng đạo ‒ mười hai đối cực (opposites) phải trở thành sáu phối hợp (the blended six), và điều này được mang lại bằng sự dung hợp trong tâm thức của các đối cực.
Sự phân tích này tạo thành trong chính nó một lĩnh vực suy đoán lý thú và rộng khắp......
..... sự tương tác từ lực do tương ứng giữa trung tâm vĩ đại ở Shamballa với trung tâm nhân loại là một sự kiện đang tăng lên vững chắc, .... Tất nhiên và đồng thời, sự tương tác này khơi dậy sự đáp ứng từ kẻ thiếu chuẩn bị, kẻ không sẵn sàng, và từ kẻ có định hướng sai lầm và kẻ an trụ một cách ích kỷ. Việc này kích thích ý-muốn-có-quyền-lực (will-to-power) trong cá nhân và nuôi dưỡng sự hội nhập phàm ngã thuộc loại sai lầm và các dục vọng được củng cố của nó. Như thế, qua các phàm ngã này, cùng sự chú tâm sai lầm và các giáo huấn tệ hại của chúng, các quốc gia cũng bị dẫn vào con đường lầm lạc – lại tạm thời – và thần lực Shamballa bị sử dụng và bị hướng dẫn sai chỗ. Kết quả của tác dụng kép này của thần lực Shamballa hiện nay là sự ném xuống (precipitation) của tiến trình tẩy sạch nhưng khủng khiếp đó mà chúng ta gọi là Chiến Tranh. Chiến tranh này là cực điểm (consummation) của sự xung đột giữa các cặp đối ứng (pairs of opposites) với lưỡng nguyên tính căn bản của biểu lộ, và về căn bản, không bị thúc đẩy như là tất cả các cuộc chiến tranh trước đây. Khi nói tói xung đột này, Tôi muốn nhắc nhở bạn rằng, đối với chúng ta (những kẻ hoạt động trên khía cạnh bên trong), cuộc xung đột năm 1914 và cuộc xung đột này là hai giai đoạn (phases) của một tình trạng duy nhất.....
Nỗi đau, sự mất mát, sự lo lắng và phiền muộn có thể dẫn đến một đảo lộn sự định hướng của con người trên vòng sự sống, giống như nó đang xảy ra trong trường hợp của người tìm đạo riêng biệt. Nó có thể dẫn đến việc tập trung mọi khuynh hướng sự sống dựa vào một thế giới có các giá trị đích thực hơn và thực tại chân thực hơn, như thế mở ra nền văn minh mới và tốt đẹp hơn mà tất cả chúng ta đều hy vọng (Như hiện nay)......
....... Đến đây chúng ta chỉ xem xét vắn tắt, tuy vậy Tôi tin tưởng đã nêu ra được một vài trong số các ảnh hưởng bên trong và các ý nghĩa của mười hai cung hoàng đạo. Chúng ta đã đề cập đến mối tương quan lẫn nhau và sự tương tác thuộc hành tinh của chúng, đồng thời đã cố gắng mô tả các phản ứng của nhân loại đối với nhiều loại năng lượng và thần lực này. Khi tuôn đổ ra từ các cội nguồn vũ trụ, các lực này tìm thấy con đường của chúng đi vào thái dương hệ chúng ta, ngoài ra, còn được thu hút qua tính chất tương đồng hay là – theo Định Luật Tương Phản (Law of Contradiction) hay Định Luật về Các Trái Ngược (Law of Contraries) – tìm ra con đường của chúng đến một vài hành tinh. Như vậy chúng tác động và chi phối các đơn vị của sự sống trên mỗi một trong các hành tinh tiếp nhận này. Chúng ta đã thấy con người được kích thích tới tiến bộ do bản chất của các thần lực của sức hút thiêng liêng và đã ghi nhận các tính chất thiêng liêng khác nhau mà sự tác động của các năng lượng này khơi dậy trong con người .......... (Chiêm tinh học NM)
+ Xem Bài tổng hợp về TƯƠNG TÁC: Sự tương tác Giữa các Hành tinh dẫn truyền Cung năng lượng trong Thái dương hệ và các Cặp đối làm phát sinh ra các biến đổi Vui buồn, sướng khổ, tranh giành, ích kỷ, chiến tranh trong Nhân loại: Thuật ngữ Tương tác Hành tinh trong Vòng Hoàng đạo
+ Gemini - Song Tử - ♊
+ Song Tử/ Gemini (Song Nam - Song Sinh): Hành Không Khí (Xem); Dẫn truyền(Cung 2) (Xem) - Ánh sáng, thoáng mát, nhiều sở thích, thông minh; ;Xem nguồn - Chủ quản Nhà thứ 3, có đặc tính tương ứng: Quan tâm về môi trường sát bên. Cách hiểu và học hỏi + Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4 (CTHNM, 80);
Kim Tinh dẫn Cung 5 - Khẩu hiệu: Hãy để sự bất ổn làm công việc của nó. + Nội Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi thấy cái ngã khác của tôi và trong sự suy tàn của cái ngã đó, tôi tăng trưởng và bừng sáng.
+ Gemini là cung quan trọng nhất trong số 12 cung hoàng đạo và ảnh hưởng của nó nằm đàng sau mỗi một trong các cung đó ‒ cho đến nay ít chiêm tinh gia nhận ra. Điều này sẽ được hiểu một cách đầy đủ hơn khi tam giác hợp bởi Gemini và hai cung đối lập được nghiên cúu. Vì Cung Bác ái-Minh triết, tức Cung 2, đang tuôn đổ qua Gemini, nên hiển nhiên là chính xác biết bao khi giáo lý huyền môn dạy rằng tình thương nằm dưới toàn thể vũ trụ. Chúng ta tin chắc rằng Thượng Đế là tình thương, và cách diễn đạt này chính xác cả về ngoại môn lẫn nội môn. Tình thương ẩn bên dưới của Thượng Đế đi đến thái dương hệ chúng ta trước tiên qua Gemini / Song tử, mà cùng với chòm sao Đại Hùng và Pleiades, Gemini hợp thành một tam giác vũ trụ. Nói một cách tượng trưng và theo Cổ Luận : “Trên tam giác vàng, Christ vũ trụ xuất hiện; đầu của Ngài ở trong Gemini; một chân ở trên khu vực của bảy Từ Phụ, còn chân kia được đặt vững vàng trong khu vực của bảy Từ Mẫu (hai chòm sao này đôi khi được gọi là Bảy Huynh Đệ và Bảy Tỷ Muội ‒ A.A.B).....
3. Gemini – Sự dung hợp của các đối nghịch (opposites); công phu sáng suốt của sự nhất quán; tổng hợp. Trên vòng tuần hoàn thông thường, các cung này mang lại:
1. Gemini – Kinh nghiệm của các cặp đối ứng (pairs of opposites). Lưỡng nguyên rõ ràng và riêng biệt. Sự tương tác giữa các Cặp Đôi (Twins): Linh hồn và phàm ngã.
2. Taurus – Sự tái tập trung của các ham muốn thấp trước khi một sự quay vòng khác của Vòng Đại Tuần Hoàn để tìm sự mãn nguyện của phàm ngã. Đứa Con Đi Hoang (Prodigal Son) đi vào một xứ xa.
3. Aries – Một lần nữa bắt đầu cũng như kết thúc. Cần nên nhớ rằng tất nhiên Aries chính là biểu lộ thiêng liêng mà Đức Christ đề cập đến khi Ngài nói “Ta là Alpha và Omega, cái bắt đầu và kết thúc”....
Gemini ‒ Tính hay thay đổi. Tính không ổn định. Sự tương tác.
Sagittarius – Khát vọng ham muốn. Phương hướng. Định hướng.
Virgo – Sự sống vật chất. Yêu chuộng một lý tưởng.
Pisces – Cảm giác. Tình trạng trung gian. Tính lưu động.
Gemini – Nhận thức của linh hồn và sắc tướng. Tương tác linh hồn.
Sagittarius – Chỉ hướng về hoài vọng tinh thần. Các đệ tử.
Virgo – Mẹ của Chúa Hài Đồng. Ấp ủ hoài bão (Gestation).
Pisces – Đấng Cứu Thế. Tình trạng trung gian.
Liên quan tới danh sách trên, thật là lý thú mà ghi nhận rằng Cặp Song Sinh (Twins) được dành riêng và không dính dáng trong Gemini trở thành Centaur (Con Nhân Mã), tức thú ‒ người (man-beast), trong Sagittarius, trong khi Virgo, tức Xử Nữ (the Virgin), trở thành nữ thần Cá trong đối cực (polar opposite), tức Pisces. Một luận đề có thể được viết ra dựa vào đề tài về sự liên hệ của các đối nghịch (opposites) trong vòng hoàng đạo, vì chúng thể hiện tinh thần và vật chất và mối liên hệ hỗ tương của chúng, cộng với sự tác động của các năng lượng định tính; đồng thời chúng làm chứng cứ cho sự kiện rằng hai đối nghịch đó là một, và chỉ là biểu hiện của Người chưa tiến hóa....
Liên hệ hỗ tương (inter-relation), sự tương thuộc (inter-dependence), tương giao thông tin (inter-communication), sự tương tác (interplay, ảnh hưởng lẫn nhau) – đây là các thuật ngữ chi phối nền tảng khoa học của chiêm tinh học, và chúng đang bắt đầu trở thành các thuật ngữ được dùng nhiều ngày nay, liên quan tới các sự việc của con người và cách hành xử (conduct) của con người.....
Sự phân tích này tạo thành trong chính nó một lĩnh vực suy đoán lý thú và rộng khắp.
Do đó, Gemini là cung quan trọng nhất trong số mười hai cung hoàng đạo và ảnh hưởng của nó nằm đàng sau mỗi một trong các cung đó ‒ cho đến nay đó là một sự kiện mà chỉ có ít chiêm tinh gia nhận ra. Điều này sẽ được hiểu một cách đầy đủ hơn khi tam giác hợp bởi Gemini và hai cung đối lập được nghiên cúu. Vì Cung Bác ái-Minh triết, tức Cung 2, đang tuôn đổ qua Gemini, nên hiển nhiên là chính xác biết bao khi giáo lý huyền môn dạy rằng tình thương nằm dưới toàn thể vũ trụ. Chúng ta tin chắc rằng Thượng Đế là tình thương, và cách diễn đạt này chính xác cả về ngoại môn lẫn nội môn. Tình thương ẩn bên dưới của Thượng Đế đi đến thái dương hệ chúng ta trước tiên qua Gemini, mà cùng với chòm sao Đại Hùng và Pleiades, Gemini hợp thành một tam giác vũ trụ. Đây là tam giác của Christ vũ trụ (tức Ngôi Hai của Tam Vị Nhất Thể ‒ xin xem lại trang 200 –ND) và là biểu tượng nội môn nằm đàng sau Thập Giá vũ trụ......
Trong cách diễn đạt theo huyền môn này có ẩn giấu lý do giải thích tại sao Gemini được xem như một cung thuộc không khí (air sign), vì về mặt vũ trụ, nó có liên quan (như Aquarius và Libra, hai điểm khác của bộ ba không khí) theo cách đặc biệt nhất với Đại Hùng Tinh, với Pleiades và với Sirius. Mối liên hệ chủ yếu là một liên hệ sáu mặt, và, ở đây bạn sẽ tìm thấy một ám chỉ về cách giải quyết của các cặp đối hợp ‒ vì cả ba chòm sao này có liên quan đến ba ý tưởng về đối kháng - thăng bằng - tổng hợp (opposition - equilibrium - synthesis) hay là dung hợp đại đồng. Có thể trình bày như sau:
1- Gemini ‒ tạo thành một điểm nhập vào cho năng lượng vũ trụ từ Sirius (Sao Thiên Lang).
2- Libra ‒ được liên kết với và đang truyền chuyển các thần lực của Pleiades (chòm sao Rua, sao Mão).
3- Aquarius ‒ thể hiện tâm thức vũ trụ (universal consciousness) của Great Bear (Đại Hùng Tinh).
...... Như ngày nay bạn có thể bắt đầu hiểu, Gemini có liên quan tới thể dĩ thái; đó là người bảo quản của năng lượng điều tiết và là người trung gian, đối với các điều cốt yếu cơ bản, giữa linh hồn và thể xác. Đây là hai huynh đệ có liên hệ. Nơi con người bậc trung, thể dĩ thái là tác nhân truyền năng lượng tâm linh, làm phấn khích và phối kết nhục thân, do đó giúp cho thể cảm dục và thể trí kiểm soát phàm ngã. Khi con người ở trên Con Đường Đệ Tử, do đó ở trên vòng hoàng đạo đảo ngược, đưa tới điểm đạo, thể dĩ thái trở thành tác nhân truyền năng lượng linh hồn, chứ không truyền lực của phàm ngã nữa. ... Có nhiều điều cần học hỏi từ việc nghiên cứu hoạt động kép – cao và thấp – của thể dĩ thái và mối liên hệ và sự đáp ứng của thể đó với chòm sao Gemini, nhưng việc đó quá khó hiểu đối với nhà nghiên cứu bình thường. Tuy nhiên, đó là một sự kiện huyền bí cần ghi nhớ, ... Cách lý giải đích thực sẽ đến và cách chữa trị đúng trong mọi lĩnh vực của cách sống con người qua cách hiểu biết thích hợp đối ới các sức mạnh và năng lượng có sẵn đang tuôn đổ vào hành tinh ở bất cứ thời điểm đặc biệt nào.
.....Thứ nhất, Chủ thể cai quản chính là Mercury, mà với cương vị Sứ Giả của Thượng Đế hay là “Trung Gian thiêng liêng, mang thông điệp giữa các thái cực (poles) với tốc độ và ánh sáng”. Trong hành tinh quan trọng và mạnh mẽ nhất này, ý tưởng về tính đối ngẫu/tính nhị nguyên (duality) lại được tìm thấy, đang nâng cao và được nâng cao bởi ảnh hưởng của Gemini. Mercury là biểu hiện của trí tuệ vì nó hòa giải giữa cái cao và cái thấp. Sự hòa giải này lại rơi vào hai giai đoạn: dùng trí cụ thể làm tác nhân trung gian bên trong phàm ngã, chi phối sự sống phàm ngã, phân tích và phân biệt giữa cái ngã với phi ngã và nhấn mạnh ý thức “tôi và anh” (“me and thou” consciousness) cũng như ý thức của phàm ngã và môi trường chung quanh của nó...... Thứ hai, nó chuyển di các thông tin giữa linh hồn và não, đồng thời lập nên liên hệ trung thực giữa phàm ngã với chân ngã; do đó, chính thể trí giác ngộ làm liên kết linh hồn và phàm ngã......
Do đó, theo một cách đặc biệt, Mercury làm tăng lên trong người thuộc cung Gemini ý thức tiềm tàng về lưỡng nguyên tính trong các giai đoạn khác nhau của nó và cũng làm tăng ý thức phân biệt, đưa đến chính bản chất lanh lợi trí tuệ và chính sự uyển chuyển của thể trí vốn là một trong các kỷ năng chủ yếu cũng như là một trong các khó khăn hàng đầu của cung này. ... ngài có khả năng hiểu được các thái cực và liên kết chúng một cách tuyệt diệu với nhau. Một cách nổi bật, Gemini là cung của nhà tiên tri/sứ giả (messenger), và cung này tạo ra nhiều sứ giả của Thượng Đế khi các vị đó xuất hiện qua các thời đại, các nhà khai mở (revealers) đối với các chân lý thiêng liêng mới, và là các nhà trung gian (intermediaries) giữa giới thứ tư và giới thứ năm. Chính vì lý do này mà bạn có được chủ thể cai quản bên ngoài được tạo ra như Mercury và chủ thể bên trong như Venus, vì các chủ thể này biểu hiện cho giữa chúng và các năng lượng của Cung 4 và Cung 5, vốn là sự hiểu biết phôi thai về các nguyên nhân và các tình trạng từ đó mà ra và cũng là của Thiên Cơ.......
Như vậy, chính vì Venus làm liên hệ một số cặp đối hợp mà hành tinh này (she) đã bị liên kết một cách sai lầm trong trí con người với tính dục (sex), và sự sống tính dục (sex life), và với mối liên hệ của các trái ngược vật chất, nam và nữ.
Thật là lý thú mà phát hiện rằng chủ thể chi phối của Gemini là chính Địa Cầu, lại là một hành tinh không thánh thiện. Địa Cầu cũng là chủ thể chi phối của Sagittarius, đối cực (polar opposite) của Gemini. Đây chỉ là hai tinh tòa bị Địa Cầu chi phối (ruled), và sự kiện này có tầm quan trọng lớn lao, tạo ra một tình huống khác thường trong thái dương hệ và một mối liên hệ độc đáo. Tuyến lực thuộc vũ trụ từ Gemini đến Sagittarius và ngược lại có liên quan về mặt bên trong và mặt huyền bí với Địa Cầu chúng ta, nhờ thế đảm bảo sự phát triển linh hồn của nó, việc khai mở hình tướng dưới hình thức một biểu hiện của linh hồn đó, và tất nhiên dẫn dắt nhân loại đau khổ chúng ta trên hành tinh đầy sầu muộn này đến tận cửa điểm đạo trong Capricorn.
Trong cách diễn đạt này và trong sự kiện về đau khổ và phiền muộn vốn là các tính chất phân biệt của sự sống hành tinh chúng ta có ẩn giấu môt bí ẩn thầm kín.....
Ba năng lượng (Cung 3/ Địa cầu - Cung 4/ Thủy tinh - Cung 5/ Kim tinh) này, được tập trung qua ba hành tinh đang chi phối Gemini, chủ yếu được dành cho sự phát triển của giới thứ tư trong thiên nhiên và được tập trung vào Địa Cầu, chính nó là một trong các chủ thể chi phối (rulers)...... Mercury, thiên thể (star) của sự xung khắc, cũng là hành tinh chủ yếu của các mối liên hệ, vì nó cai quản và “bố trí” (“engineers”, vạch ra, sắp đặt) (Tôi tạm dùng một thuật ngữ như thế) sự tương tác giữa Địa Cầu chúng ta với các chòm sao đang chi phối của nó....
Khi xét chủ đề này, bạn sẽ phải xét đến các cơ cấu chiêm tinh sau đây:
1. Gemini ........ Virgo .......... Mercury Địa Cầu
2. Gemini ........ Aries .......... Mercury Địa Cầu
3. Gemini ........ Scorpio ...... Mercury Địa Cầu
(CTHNM)
+ Ba Thập Giá ( 3 Thể Thức; 3 Phẩm tính; 3 Tam nguyên; 3 Phương Thức): Dựa trên bộ ba ý chí, ham muốn và hoạt động (ý chí hoặc động lực, mong muốn hoặc ham muốn, hoạt động hoặc khả năng thích ứng); (Xem: Chiêm THNM - Thể Thức, Phẩm tính)
+ Ba Phương Thức: Mô tả cách thức chúng ta hoạt động, phẩm chất vật lý của các Cung. – Chúng thiết lập các trục và thập giá (chữ thập) trong lá số – – Các vấn đề được thực thi qua góc hợp đối nghịch và vuông góc (góc hợp cứng) – – Tất cả chúng ta đều có 12 cung, một số cung được nhấn mạnh hơn các cung khác. (Con Thượng đế "Christ" đang lâm phàm trong bốn Thập giá Khả biến là Christ Hành tinh, ở đây là đang xét với các Thập giá của quần chúng (Trong Thập giá cố định là Christ cá nhân; Thập giá Cơ bản là Christ Vũ trụ)_NTH-Giảng về Song Ngư CTHNM)
+ Ba Thập Giá: Khả Biến (Chung/ Khả chuyển) - Cố Định - Cơ Bản (Chủ yếu/ Chính yếu/ Cốt lõi) (Xem: GQ2.1 - Giới thiệu chiêm tinh)
+ Ba Thập Giá: Theo Tâm thức phát triển từ thấp đến cao của 12 Cung Hoàng Đạo qua các Kỳ công theo thứ tự là: (Khả Biến - Cố Định - Cơ Bản); Xem: GQ2.1-Giới thiệu Chiêm TH);
- Ba Thập giá đều là các dòng năng lượng bắt chéo nhau (CTHNM, 290)
- Mỗi Thập giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó (CTHNM, 380)
- Hành tinh quan trọng ứng thập giá: Thập giá Cố định - Saturn/ Thổ tinh; Thập giá Biến đổi - Mercury/ Thủy tinh; Thập giá Cơ bản - Jupiter/ Mộc tinh. (CTHNM, 396)
1. Các Cung Khả biến: Có tính thích nghi, linh hoạt, và phục vụ (Song Tử, Xử Nữ, Nhân Mã và Song Ngư) – Nhưng cũng có thể quá bất nhất – Về mặt nội môn chúng giúp phát triển sự sống sắc tướng thông qua kinh nghiệm. (TG Khả biến này, Písces là một nhánh của nó, chủ yếu là Thập giá của (Các cuộc lâm phàm được lặp lại), của các thử nghiệm khác nhau dưới Cung Hoàng đạo khác nhau và các Chủ thể điều khiển chính thống và của những ai mà nhiều kinh nghiệm đang dẫn đến mở rộng Tâm thức liên tục và kế tiếp_NTH-Giảng về Song Ngư CTHNM)
2. Các Cung Cố định: Có tính vững vàng, bướng bỉnh, và quyết đoán (Kim Ngưu, Sư Tử, Hổ Cáp và Bảo Bình) – Nhưng cũng có thể quá cứng nhắc – Về mặt bí truyền chúng phát triển linh hồn thông qua khủng hoảng và thử thách
3. Các Cung Cơ bản: Có tính mạnh mẽ, khởi xướng, và quan trọng (Bạch Dương, Cự Giải, Thiên Bình và Ma Kết) – Nhưng có thể thiếu sự kiên trì – Về mặt bí truyền chúng thể hiện hoạt động có định hướng, được kiểm soát bởi linh hồn
+ Ba Thập Giá của vòng Hoàng đạo phản ánh Tam Nguyên được các tôn giáo công nhận ( Shiva, Vishnu, Brahma), được xem qua các khía cạnh của cuộc sống, diễn dịch thành sinh (Ý chí), có, cho, giữ, phát triển (Mong muốn), và làm (Hoạt động) (Nguồn: Chiêm THNM 17);
+ Thập giá chi phối và Thành tựu: Ở đây, có thể vạch rõ ràng:
a/ Kinh nghiệm trên Thập Giá Khả Biến đưa một con người đi vào trung tâm mà chúng ta gọi là nhân loại.
b/ Kinh nghiệm trên Thập Giá Cố Định làm cho vị đệ tử hội nhập vào Trung Tâm Hành Tinh thứ hai mà chúng ta gọi là Thánh Đoàn (Hierarchy).
c/ Kinh nghiệm trên Thập Giá Cơ Bản làm cho điểm đạo đồ hội nhập vào Trung Tâm Hành Tinh thứ nhất mà chúng ta gọi là Shamballa.......
Điểm căn bản nhất mà các chiêm tinh gia ngày nay cần hiểu rõ là họ cần biết ‒ trước khi lý giải ‒ trên con đường tiến hóa, đối tượng xem xét đang đứng nơi đâu. Tôi sẽ đưa ra một gợi ý khác. Chính do nghiên cúu về những người được sinh ra trong các Cung Cơ Bản mà thông tin rõ ràng nhất sẽ xuất hiện trong mối liên hệ này. Ở đây, có thể hữu ích mà nêu ra rằng:
1- Nhờ việc nghiên cúu về Thập Giá Cơ Bản ‒ Aries, Cancer, Libra, Capricorn ‒ chiêm tinh gia có thể đi đến một hiểu biết rõ ràng hơn:
a. Về con người thông thường, cá biệt.
b. Về các cội nguồn tập thể.
c. Về ý nghĩa của cuộc điểm đạo đầu tiên.
2- Nhờ nghiên cúu về Thập Giá Cố Định ‒ Taurus, Leo, Scorpio và Aquarius ‒ y sẽ đi đến lý giải chính xác về các sự sống:
a/ Của các điểm đạo đồ.
b/ Của sự thu hút tập thể thành tổng hợp.
c/ Của ý nghĩa về cuộc điểm đạo thứ ba.
3- Nhờ nghiên cúu về Thập Giá Khả Biến ‒ Gemini, Virgo, Sagittarius và Pisces ‒ y có thể đi đến ý nghĩa:
a/ Của các đệ tử.
b/ Của hoạt động tập thể.
c/ Của cuộc điểm đạo thứ hai.
Các chỉ dẫn trên không thể phù hợp với các ý tưởng thường được tin tưởng, và dường như cũng đi ngược với các điểm mà Tôi đã đưa ra trước đây, nhưng nghiên cúu kỹ càng về các hàm ý được đưa ra có thể làm cho quan điểm đó rõ ràng hơn. Mỗi Thập Giá đều có ý nghĩa ngoại môn của nó, và tất cả các chiêm tinh gia đều phần nào quen thuộc với ý nghĩa bên ngoài đó; nó cũng có ý nghĩa nội môn và tầm quan trọng của nó, và cho đến nay, đây là một lĩnh vực tìm kiếm chưa được thử nghiệm (untried); đồng thời nó cũng có tầm quan trọng về tinh thần của nó, và dĩ nhiên điều này chỉ được tiết lộ ở các cuộc điểm đạo chính yếu. Cần nên nhớ rằng đây là các biến phân ba mặt của Sự Sống Duy Nhất, và rằng Capricorn chẳng hạn, không những chỉ ghi dấu mức độ cố kết sâu xa nhất và do đó của sự chết, mà còn mức độ điểm đạo cao nhất và của tiến nhập vào trạng thái Sự Sống của Thượng Đế.....
Có thể là đáng chú ý nếu Tôi nêu ra:
1- Thập Giá Khả Biến ‒ đưa đến các tình huống vốn dĩ sẽ tạo ra các chu kỳ thay đổi lớn trong sự sống của hành tinh, của một giới trong thiên nhiên hoặc của một con người. Mercury đóng một vai trò trong việc này.
2- Thập Giá Cố Định ‒ theo trình tự, mang lại cho các thay đổi bên trong này một vài điểm chuyển biến lớn không thể tránh khỏi và cơ hội rõ rệt hiện tại. Saturn có tác dụng vượt trội trong việc tạo ra sự kiện này.
3- Thập Giá Cơ Bản ‒ có trách nhiệm trong việc mang lại một vài điểm tổng hợp lớn, theo trình tự của cả sự thay đổi lẫn sự tổng hợp. Jupiter có trách nhiệm cho việc tập trung các năng lượng ở điểm này.
Tôi sẽ quảng diễn về điểm này sau, ..... Trong biểu hiện của hoạt động của cung lưỡng nguyên này, chính năng lượng chủ thể (subjective energy) mà chúng ta phải xem xét vì nó tạo ra các hiệu ứng khách thể. Về mặt huyền bí, cung này kiểm soát tâm của thái dương hệ chúng ta và như thế kiểm soát nhịp đập của sự sống vốn duy trì/ chống đỡ (substains) tất cả những gì hiện hữu. Do đó, Gemini có liên hệ với tâm của Mặt Trời (Ngôi II), cũng như Cancer có liên hệ với Mặt Trời vật chất (Ngôi III) và Aquarius có liên hệ với Mặt Trời tinh thần (Ngôi I) trung ương.
Qua các cung này, ba ngôi chính của thánh linh (divinity) được tập trung vào lúc này.... trong Aquarius, bạn có các kết quả của hoạt động của Cancer và Gemini, tạo ra một tổng hợp cao siêu và một hiểu biết tập thể phổ thông.....Do đó, lực hút và lực đẩy là các yếu tố chi phối trong sự sống thái dương chúng ta, và sự điều tiết này đến với chúng ta qua Gemini. (Nguồn: Chiêm tinh học NM)
Xem thêm: Tổng hợp về Ba Thập Giá; (Xem nguồn) và CTHNM 4;
Xem thêm: Chiêm THNM 17)
+ Các loại biểu tượng:
1- Bốn loại biểu tượng
a) Biểu tượng của các vật bên ngoài ... các vật ở cõi trần.
b) Biểu tượng về bản chất tình cảm ... các sự vật ở cõi cảm dục, các tranh ảnh.
c) Biểu tượng học về số ............. Hạ trí. Con người dùng chính mình để tính.
d) Biểu tượng học hình học ... biểu tượng học trừu tượng, thượng trí. (LVLCK, 1140)
2- Bốn biểu tượng hình tròn: Hình tròn - Hình có tâm điểm - Hình chia hai - Hình chia bốn (Xem Tooltip)
3- Ý nghĩa các biểu tượng (Xem hình trang 296, LVLCK)
Trước tiên dấu • (dấu chấm), Chân Thần, Bythus (the Deep, Thái Uyên), là Đấng Cha bất tri và bất khả tri.
Rồi đến Δ (Tam Giác), Bythus và cặp (pair) được phóng phát đầu tiên hay Duad (Bộ Hai, Nhị nguyên), Nous (Mind, Trí Tuệ) và ngày sóc vọng Aletheia (Chân Lý) của nó.
Kế đó (Hình Vuông), Nhị nguyên kép (dual Duad), Tetractys hay Tứ Nguyên (Quarternary), hai người nam | |, Thượng Đế (Ngôi Lời) và Anthropos (Con Người), hai người nữ, các ngày sóc vọng (syzygies) của họ, Zoe (Sự Sống) và Ekklesia (Giáo Hội hay Tập Hợp), Bảy trong vạn vật. Tam giác là Tiềm Năng của Tinh Thần, Hình Vuông là Tiềm Năng của Vật Chất; Đường Thẳng Đứng là Uy Lực của Tinh Thần, còn Đường Thẳng Nằm Ngang là Uy Lực của Vật Chất.
Kế đến là Pentagram (Ngôi Sao Năm Cánh) , Bộ Năm, biểu tượng huyền bí của các Trí Tinh Quân (Manasaputras) hay là các Con của Minh Triết, hợp cùng các ngày sóc vọng của chúng tạo thành 10, hay là Bộ Mười (Decad);
và cuối cùng, Hexalpha hay hai Tam Giác đan vào nhau , Bộ Sáu, với các ngày sóc vọng của chúng tạo thành 12, hay Bộ Mười Hai.
Đó là các Nội Dung của Pleroma hay Sự Hoàn Thành, các Ý Niệm trong Thiên Trí, 28 trong vạn vật, vì Bythus hay Cha không được kể đến, vì đó là Cội Nguồn của vạn vật.
Hai vòng tròn nhỏ bên trong Pleroma là ngày sóc vọng Christos-Pneuma (Christ và Chúa Thánh Thần); đây là các sự phóng phát sau đó (after-emanations), và, vì thế, từ một trạng thái, tiêu biểu cho sự giáng xuống của Tinh Thần để thấm nhuần và làm Vật Chất tiến hoá, về mặt bản thể thì bắt đầu từ cùng một cội nguồn; và từ một trạng thái khác, sự giáng xuống hay sự nhập thể của các Kumaras hay là các Chân Ngã cao siêu (Higher Egos) của Nhân Loại. (Trích từ ‚ Lucifer‛ tháng 5 - 1890)
+ Ý nghĩa các Hình tượng: Liên quan với khoa học nội môn của chiêm tinh học là các môn học phụ như là Môn Học Về Các Tam Giác Lực mà tôi thường đề cập tới; cũng có Khoa Học Về Các Liên Hệ, khoa này nối liền các liên hệ giữa nhiều tứ nguyên vốn có thể được tìm ra trong mối liên hệ hỗ tương hành tinh, liên hệ giữa bốn chòm sao, cộng với nhiều tứ bộ thiêng liêng và con người. Lại có Khoa Học Về Các Tinh Tú Có Năng Lượng, giống như ở đây tôi có lưu ý khi nhắc đến ngôi sao sáu cánh của nhân loại, và về Môn Học này, Ấn Tín của Vua Solomon là biểu tượng lừng danh nhất. Các ngôi sao, tam giác và các hình vuông được tìm thấy trong mọi lá số tử vi ‒ thuộc con người, hành tinh, thái dương hệ và thuộc vũ trụ ‒ và tạo kiểu mẫu sự sống của Thực Thể (Being) đặc biệt ở dưới sự tìm tòi; những định đoạt thời gian biểu lộ và bản chất của các phóng phát (emanations) và các ảnh hưởng. Các hình vuông hay các tứ bộ liên kết với sự xuất hiện vật chất hay là biểu hiện hình tướng (form expression); các hình sao liên quan với các trạng thái tâm thức, còn các tam giác được liên kết với tinh thần và với sự tổng hợp. Trong các văn khố của các chiêm tinh gia nội môn có liên kết với Thánh Đoàn, các biểu đồ được lưu giữ của các thành viên của gia đình nhân loại, những người đã đạt được quả vị adept và cao hơn nữa. Các Ngài hợp thành các hình vuông, các hình sao và các tam giác được đặt chồng lên, chứa bên trong các vòng hoàng đạo và được gắn vào biểu tượng của Thập Giá Cơ Bản. Các hình vuông, mỗi cái có bốn góc và các điểm trong chòm này hoặc chòm kia trong bốn chòm sao hoàng đạo, được miêu tả bằng màu đen; hình sao năm cánh được mô tả bằng màu vàng hoặc hoàng kim và năm chấm của nó tiếp xúc với năm trong các chòm sao trên vòng hoàng đạo lớn; các tam giác được miêu tả bằng màu xanh dương (blue), và trên mỗi chấm của tam giác có một biểu tượng huyền bí thay cho các chòm sao của Đại Hùng Tinh, Sirius và Pleiades. Các biểu tượng này ở đây không thể được tiết lộ nhưng báo cho biết trình độ ý thức tinh thần đã đạt được và sự đáp ứng của điểm đạo đồ đối với các ảnh hưởng vũ trụ chính yếu này. Một cái nhìn lướt qua vào các biểu đồ hình học này sẽ cho thấy ngay tình huống của điểm đạo đồ, và cũng là điểm mà y đang cố gắng hướng về. Các biểu đồ này có bản chất của chiều đo thứ tư và không có các mặt phẳng như là các biểu đồ của chúng ta..... (Chiêm tinh học NM_305)
+ Xem thêm: Các biểu tượng cần suy ngẫm
+ ♒ Ký Hiệu Bảo Bình
+ Bảo Bình/ Aquarius (Thủy Bình): Hành Không Khí (Xem); (Dẫn truyền Cung 5; Xem)
- Thân thiện, năng động trong xã hội, thông minh, vô tư, đô thị; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 11, có đặc tính tương ứng: Tổ chức, câu lạc bộ, hoạt động xã hội
+ Ngoại Môn: Chủ tinh: Thiên Vương Tinh; Cung 7 (CTHNM, 80); (Chiêm TH cổ điển dùng Thổ Tinh; Cung 3)
- Khẩu hiệu: Hãy để khao khát hình tướng là kẻ thống trị.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Mộc Tinh; Cung 2 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi là nước sự sống, tuôn đổ cho những người khát.
- Các năng lượng cảm dục phát xuất từ cung hoàng đạo mới mà hiện nay chúng ta đang tiến vào, cung Bảo Bình. Cung này, cung của người mang nước là một cung linh hoạt và là một cung thuộc tình cảm. Nhờ tác dụng của thần lực mạnh mẽ của nó, cung này sẽ kích thích các thể cảm dục của con người vào một tình trạng cố kết mới, vào tình huynh đệ của nhân loại, tình huynh đệ này không có mọi dị biệt về chủng tộc và quốc gia và sẽ đưa sự sống của nhân loại tiến vào tổng hợp và hợp nhất. (LVHLT, 313-314)
+ Bảo bình với lưu thông máu: Chúng ta được dạy rằng Aquarius chi phối hệ thống máu và sự lưu thông của máu. Nhờ vào dòng máu, sinh lực (life force) được phân phối khắp toàn cơ thể. Do đó, chính biểu tượng của nhiệm vụ của người thuộc cung Aquarius phóng khoáng, tức là kẻ phân phát sự sống thiêng liêng khắp giới thứ tư trong thiên nhiên.... (CTHNM)
+ ♍ Ký Hiệu Xử Nữ
+ Xử Nữ/ Virgo (Thất Nữ/ Trinh Nữ): Hành Thổ (Xem); Dẫn truyền(Cung 2 - Cung 6) (Xem) - Có phương pháp, tổ chức, cầu kỳ, chính xác, lạnh lùng, khắc nghiệt, đòi hỏi;Xem nguồn - Chủ quản Nhà thứ 6, có đặc tính tương ứng: Công việc, nỗ lực thực tế + Cung của Xử Nữ: 2,6 "Tôi Phân Biện" + Ngoại Môn/ Phàm ngã: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4 (CTHNM, 80);
(Cung của sao Thủy dẫn: Cung 4) - Sao Thủy điều khiển thể trí, là lực chiếm ưu thế ở cấp độ phàm ngã. Đáp ứng với câu châm ngôn "Hãy để vật chất thống trị " tâm trí tràn ngập những tư tưởng về tiền bạc và tài sản. - Cung 4 Điều Hòa trong Xung Đột thêm màu sắc chiến tranh và đối nghịch vào tâm trí của Xử Nữ. Bề ngoài của phàm ngã có vẻ cư xử tốt, nhưng tâm trí lại có một quan điểm hạn hẹp, khó khăn, xét nét, chỉ trích. - Mặt tích cực: thúc đẩy tính phân tích cẩn trọng và chú ý đến từng chi tiết, khuyến khích phàm ngã phấn đấu để hoàn thiện trong hình thể và đời sống của phàm ngã. - Khẩu hiệu ngoại môn: “ Hãy để vật chất thống trị .” + Nội Môn: - Chủ tinh: Mặt Trăng; Cung 4 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu/ Mantram: “Tôi là Mẹ và Con; Tôi là Thượng đế, Tôi là Vật chất.”;
+ Những linh hồn tiến hoá làm việc qua cung Xử Nữ là những người phụng sự thực sự, thầm lặng cống hiến cho những lý tưởng cao cả nhất, cho sự nâng cao nhân loại. Là hạt giống của Thời Đại Mới, gieo vào những người khác ánh sáng sẽ chiếu rọi khắp thế gian trong thời đại Bảo Bình. Có nhiều ở lãnh vực chữa bệnh và giáo dục, nghề nghiệp mà các Ashram Cung 2 chịu trách nhiệm. Năng lượng của Vulcan là Cung 1 rực lửa, ban tặng sức mạnh và khả năng lãnh đạo. <theo tài liệu Trường MF>
+ Xử nữ đồng hóa Ngôi III: Như Tôi có nói với bạn, các huấn sư nội môn của Thánh Đoàn xem Virgo như được đồng hóa với Ngôi Ba của Thượng Đế, với nguyên khí mẹ (mother principle) và được tin tưởng là chủ thể điều phối (director) các năng lượng, đã phát triển và được nhận biết trong thái dương hệ thứ nhất. Chính vì lý do này trong thái dương hệ này, mà Virgo được phụ thuộc chủ yếu vào các năng lượng của cung 2, cung 4 và cung 6 qua Jupiter (cung 2), Nguyệt Cầu và Mercury (cung 4) và Neptune (cung 6). Nguyệt Tinh (Moon) và Mercury cùng là dấu hiệu của hoạt động của thượng trí và hạ trí, do đó, có liên quan với cung 3, Cung Trí Tuệ Linh Hoạt, vốn kiểm soát thái dương hệ thứ nhất. Tất nhiên chỉ có một hành tinh duy nhất, tức Vulcan, vốn là năng lượng thuần túy thuộc cung 1 và một cách rõ ràng. Đây là các điểm mà các chiêm tinh gia tiến hóa sẽ thảo luận chi tiết sau này nhưng hiện tại ít có ý nghĩa.
Có một điểm khác liên quan với các ảnh hưởng hành tinh mà Tôi muốn nhắc đến ở đây, vì nó nhấn mạnh lần nữa vị thế tổng hợp của Virgo và vai trò đóng góp của cung này, như là một điểm tập trung chính yếu cho việc phân phối năng lượng cho Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư. Jupiter cai quản bốn cung và mỗi một trong các cung đó tiêu biểu cho một yếu tố (element, hành tố) khác nhau, trong số bốn yếu tố (đại) vốn đang tự biểu hiện trong ba cõi tiến hóa của nhân loại. Bảng liệt kê sau đây sẽ làm cho vấn đề rõ ràng hơn:
Virgo Pisces Sagittarius Aquarius
Đất (earth) .... Nước (water) ... Lửa (fire) ...... Gió (Air)
Christ ẩn tàng .. Vị Cứu Độ ....... Đức Thầy .... Kẻ Phụng Sự ẩn tàng Jupiter ‒ chủ thể cai quản và kẻ vận chuyển của Mở Rộng.
Trong cung Virgo này, vị trí và cách biểu hiện của các hành tinh có sự lôi cuốn rất lớn, mặc dù có hàm ý huyền bí nhất và khó hiểu nhất.
Mercury được đề cao trong cung này, vì mẹ nhất thiết được cai quản bởi con của bà, Con của Trí Tuệ mà cũng là Con của Thượng Đế. Đối với con này, bà là người che chở và chịu trách nhiệm cho sự phát triển và kinh nghiệm nhận được một cách chậm chạp của con. Mercury, nguyên là Sứ Giả của các Thượng Đế và là Tác Nhân (Agent) của sự kiềm chế được áp dụng của Các Ngài, do đó là vị thừa hành của Ngôi Ba (thông tuệ linh hoạt) theo một quan điểm, và của Ngôi Hai (bác ái-minh triết) theo quan điểm khác. Y được xem như là đang biểu hiện trong chính y – cả hai trạng thái này của nguyên khí trí tuệ, biểu hiện của trí cụ thể và trí trừu tượng của Thượng Đế. Hạ trí cụ thể được khai mở trong thái dương hệ thứ nhất, còn thượng trí trừu tượng thiên về trực giác, tức lý trí thuần túy, được khai mở trong thái dương hệ này. Mercury là tổng hợp của manas-buddhi, tức trí tuệ ‒ minh triết vốn tự biểu hiện qua nhân hồn (human soul); Mercury cai quản nhịp cầu hay antahkarana (giác tuyến).
Trong Virgo, Mercury đạt đến quyền năng đầy đủ, vì Virgo là sự thông tuệ, còn Christ ẩn tàng là minh triết hay lý trí thuần túy.
Venus, tức bác ái ‒ minh triết thuần túy, nảy sinh trong cung này và về mặt huyền linh “giáng xuống địa cầu” và trụ (như GLBN đã thận trọng nêu ra) vì món quà của trí tuệ và của thánh linh, được biểu hiện trong Con của Trí Tuệ và thế là cho sự giáng xuống của nguyên khí Christ vào sự sinh sản (generation) hay là vào trong vật chất. Virgo và Venus đều cùng là hai trạng thái của trí tuệ. Biểu tượng học của việc giáng xuống của Tinh Thần vào trong cái khuôn (womb) của mẹ đồng trinh được bảo tồn cho chúng ta trong sự kiện chiêm tinh học rằng Venus liên quan với cung này; về mặt nội môn, bà biến mất khỏi tầm nhìn và mất tăm trong bóng tối.....
Jupiter và các ảnh hưởng của nó cho thấy rằng con đường lâm phàm là phương pháp khai mở tiến hóa “có lợi” và rằng con đường bác ái ‒ minh triết (cung 2) là con đường cho nhân loại bước đi. Mercury chỉ rằng con đường ít đối kháng nhất cho nhân loại là hài hòa qua xung khắc, vì Mercury biểu hiện cho năng lượng cung bốn vốn thuộc bồ đề, trực giác và biểu hiện của Christ, vì Mercury và Mặt Trời là một.... (Nguồn: Chiêm THNM)
+ Mặt trời và Mộc tinh truyền dẫn Cung 2, Nguồn: (GQ1- CT con người);
+ Mộc tinh: Mở rộng bất cứ cái gì nó chạm vào. Lớn, quá mức, hạnh phúc. (Nguồn: Ý nghĩa các hành tinh và cung hoàng đạo)
+ Sao Mộc (♃): Mộc tinh có liên quan đến nhiều hiện tượng khác nhau: giáo dục, du lịch, luật, minh triết, đạo đức. Là một tín đồ trong cách tiếp cận quá trình năng lượng của chiêm tinh học, tôi thích xem sao Mộc như mở rộng và phát triển bất cứ cái gì nó tiếp xúc. Sao Mộc tìm cách phát triển mọi thứ, làm cho chúng lớn hơn, mở rộng biên giới của chúng. Sao Mộc mở rộng quan điểm của chúng ta và nhìn thấy bức tranh lớn hơn. Nếu Thủy tinh có một góc hợp cứng với sao Mộc, người đó quan tâm đến những vấn đề lớn như triết học, tôn giáo, chính trị, kinh tế, hoặc du lịch. Nếu sao Hỏa có góc hợp cứng với Mộc tinh, người đó muốn đạt được những điều to lớn và làm việc chăm chỉ để đạt được tầm nhìn rộng lớn, có lẽ vĩ đại. (Nguồn: Các hành tinh - Minhtrietmoi)
+ Mộc tinh phát triển nhị bộ: Liên quan với một nhị bộ (duality) nhỏ hơn được tìm thấy trong mọi con người, nhị bộvề đầu và tim, về trí và tình thương, và về ý chí và minh triết,công việc của Jupiter là phát triển hai tính chất này và đưachúng vào sự tương tác tổng hợp. Sau rốt, cần phải có sự phatrộn hoàn hảo của bác ái và trí tuệ trước khi một vị cứu thế cóthể xuất hiện và hoạt động một cách hiệu quả, và đặc biệt đâylà kết quả sau rốt của các lực của Thập Giá Khả Biến,... (CHTNM)
+ Hành Tinh – Jupiter (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Jupiter…là một Thiên Đế (deity), Ngài là biểu tượng và nguyên hình kiểu của … tôn thờ nghi thức. Ngài là tu sĩ, vị tế lễ, người khấn nguyện và đồng tử mà nhờ đó, các khấn nguyện của thế nhân đến được với các Thánh Thần”. (II, 49. Ghi chú)
2. Jupiter được xem như “thánh toà của Brahma”. (II, 829)
3. “Jupiter là hiện thân của luật chu kỳ”. (II, 830)
4. “Mặt Trời thường được gọi là “mắt của Jupiter”. (III, 278)
5. “Pluto làm cho Jupiter thành Logos, Linh Ngữ (Word) của Mặt Trời”. (III, 279)
6. “Các Bí Pháp (Mysteries)… được lãnh đạo bởi Jupiter và Saturn”.
7. “Huyền linh học làm cho Jupiter thành màu lam (blue) vì Ngài là con của Saturn”.
8. “Dấu hiệu của việc tái lâm của Đấng Cứu Thế (Messiah) là sự kiên kết của Saturn và Jupiter trong Cung Song Ngư”. (III, 152) Các trích dẫn trong Luận về Lửa Càn Khôn
9. “ Venus, Jupiter và Saturn có thể được xét theo quan điểm của hiện tại, như là các hiện thể của ba siêu nguyên khí (super principles) hay là nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars được kết hợp chặt chẽ với ba hành tinh này, nhưng ở đây còn ẩn giấu một bí ẩn”. (299)
10. “Venus và Jupiter được liên kết chặt chẽ với Địa Cầu và sau rốt hợp thành một tam giác nội môn” (370)
11. “Trong hành tinh hệ Jupiter, các Con của Trí Tuệ chỉ mới bắt đầu công việc của các Ngài”. (742)
Xem thêm Tổng hợp về Mộc tinh
+ Sao Hỏa thời mạt pháp: Trong thời mạt pháp, ngài tiếp tục sau khi ngưng một lúc, vị Hành Tinh Thượng Đế, đấng chủ trì địa cầu, sẽ thải bỏ và chuyển hóa độc chất như thỉnh thoảng cơ thể con người thải bỏ và chuyển hóa độc tố. Kết quả là thể tình cảm chung của nhân loại có xáo trộn, và những ai chưa biết tự kiểm sẽ có phóng túng về tình dục, rượu chè hoặc ngay cả tội phạm. Đây là chuyện đang xẩy ra lúc này, và ở mức độ rộng lớn đến nỗi lẽ tự nhiên nó ảnh hưởng nhân loại và sự phát triển của con người. Nếu con hỏi anh bạn chiêm tinh gia, anh sẽ cho con biết là ảnh hưởng của Mars đã gây ra điều ấy. (Nguồn: David Anrias: Chiêm Tinh gia và Huyền Bí gia - Chương IX)
+ Hỏa tinh và Hải Vương Tinh truyền dẫn Cung 6, Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người); Xem thêm: Bài viết ngày 13/10/2016a
+ Tóm lược về Mars: Hỏa Tinh dứt khoát là hành tinh đang chi phối và kiểm soát thể xác...... Hỏa Tinh có liên quan chặt chẽ với giới tính..... bồi bổ (vitalise, làm cho sống động) dòng máu; nó bồi bổ, thanh luyện và làm phấn khích mọi trạng thái và cơ quan trong cơ thể, xuyên qua dòng máu......Như bạn biết, màu sắc được qui cho Mars là đỏ và đây là một tương ứng với màu của dòng máu và do đó cũng là sự phối hợp/ liên tưởng của Mars với tham dục, với tức giận và một ý thức về sự phản kháng chung. Ý thức về lưỡng nguyên, cực kỳ mạnh mẽ.........
Leo (Hải Sư) đưa tới cho chúng ta Jupiter, Nguyệt Cầu và Hỏa Tinh (Mars)..... Cho đến giờ Vulcan còn ẩn giấu, nhưng ảnh hưởng của nó đã dần dần thay thế mọi kiểm soát của Nguyệt Cầu, vì phàm ngã hay là khía cạnh hình hài của sự sống bị bỏ qua dưới ánh rực rỡ của Mặt Trời, tức linh hồn. Ánh sáng của Vulcan và ánh sáng Mặt Trời là ánh sáng duy nhất và ba thiên thể này –Mercury, Vulcan và Mặt Trời ‒ thay cho một sự tổng hợp và một ánh sáng chói lọi mà sau rốt làm lu mờ ánh sáng của Mecury và nó “rơi” vào hậu cảnh, còn Vulcan cũng thế trở nên vô hình và chỉ Mặt Trời còn lại. Kết quả là chúng ta có một hình ảnh về Mặt Trời, tức kinh nghiệm của phàm ngã và nỗ lực, chính là cách thành đạt được cai quản bởi Hỏa Tinh (Mars).(CTHNM, 236 .....)
+ Hoả tinh: Sao Hỏa (♂) - Mars là hành tinh của chiến binh, tham vọng, lực đẩy, năng lượng, bản chất hung hăng và chiến đấu. Nhiều nhà chiêm tinh cũng liên kết sao Hỏa với tình dục.
Tôi thấy sao Hỏa là động lực để đạt được và hoàn thành. Động lực thúc đẩy chúng ta và kích thích chúng ta. Tôi không liên kết trực tiếp Mars với tình dục, mặc dù mức năng lượng vật lý tổng thể của một người bị ảnh hưởng bởi sao Hỏa, và mối quan tâm đến giới tính có một tương quan tới mức năng lượng thể chất chung của một người.
Một cảm giác thoả mãn và hài lòng được tạo ra khi chúng ta thành công, cho dù thành công đó là một khu vườn có một vụ thu hoạch tốt, một mảnh đồ nội thất, một tác phẩm nghệ thuật hay một mối quan hệ thành công. Danh sách những thành tựu có thể đạt được gần như vô tận, và một dự án có thể rất cụ thể hoặc trừu tượng.
Sự hung hăng và chiến đấu có thể phát triển khi nỗ lực nhưng không thành công. Thất vọng cũng tương tự như ma sát. Động lực để đạt được điều gì đó gặp trở ngại, và bị chậm lại. Sau đó, nhiệt lượng cảm xúc phát triển, sức nóng của sự thất vọng có thể dẫn đến sự hiếu chiến. Có nhiều kỹ thuật để xử lý các sự thất vọng, chẳng hạn như giữ một quan điểm lành mạnh về những gì thực sự quan trọng và những gì chúng ta thực sự có thể đạt được. Trong phần lớn các trường hợp, những thất vọng mà chúng ta phải đối mặt có thể tránh được bằng cách học hỏi từ những sai lầm của chúng ta và có một tầm nhìn lành mạnh hơn về cuộc sống nói chung. Tuy nhiên, sự thất vọng là rủi ro chúng ta phải nhận khi chúng ta cố gắng làm bất cứ điều gì. Chúng ta phải có can đảm để nhận rủi ro này, cũng như chúng ta phải chịu rủi ro bị tổn thương nếu chúng ta yêu một ai đó. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta không ít, và chúng ta phải cố gắng tiến lên phía trước.
Động lực thúc đẩy chúng ta và kích thích chúng ta. Một người thức dậy cảm thấy chán nản, không quan tâm, và không động lực có thể cảm thấy ít năng lượng hơn người thức dậy với động lực để làm điều gì đó.
Tôi không liên kết trực tiếp Mars với tình dục, mặc dù mức năng lượng vật lý tổng thể của một người bị ảnh hưởng bởi sao Hỏa, và mối quan tâm đến giới tính có một tương quan tới mức năng lượng thể chất chung của một người. Những người có sức khỏe cải thiện thông qua một sự thay đổi trong chế độ ăn uống hoặc phong cách sống thường báo cáo rằng sự quan tâm của họ trong tình dục tăng lên cùng với sức sống và sức chịu đựng gia tăng của họ. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Hành Tinh - Mars (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. Khoa học thông thường, ngoài Mercury, Mars và bốn hành tinh khác mà thiên văn học không biết gì về chúng cả. Sự suy đoán chính là vì các hành tinh này, A. B. và Y. Z. tồn tại trong chất dĩ thái. (I, 187)
2. “Về phần Mars, Mercury và “bốn hành tinh khác”, chúng có liên quan với Địa Cầu mà về việc đó không một Đức Thầy nào… sẽ bao giờ nói đến…” (I, 187).
3. Hiện nay Mars đang ở vào trạng thái qui nguyên (state of obscuration, triều nguyên):
a/ Mars có hai vệ tinh mà nó không có quyền có (Mars has two satellites to which he has no right) (astral and mental). A.A.B.
b/ Mars là một dãy thất phân. (I, 188, 189)
4. Mars là Đấng Chủ Quản của sự sinh, sự tử, sự sinh hoá và sự huỷ diệt. (II, 410)
5. Mars được gọi là hành tinh có sáu mặt. (II, 399) Tham khảo trong Luận về Lửa Càn Khôn 662
6. Có một… “tam giác được tạo thành bởi Địa Cầu, Mars và Mercury. Liên quan với tam giác này, sự tương đồng nằm ở sự kiện là Mercury và trung tâm lực ở đáy xương sống trong con người được liên kết chặt chẽ.” (181)
7. “Mercury, Mars và Địa Cầu được liên kết chặt chẽ với ba hành tinh này (Venus, Jupiter và Saturn)”. (299)
+ Cặp bài trùng: Hỏa tinh - Mars và Pluto - Diêm Vương tinh là cặp bài trùng (nội môn), nó tương tự như Kim tinh và Địa cầu (CTHNM, 568)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem thêm: Tong-hop-ve-sao-hoa-hoa-tinh
+ 2. Manas là điện - Biểu lộ ở Thái dương hệ chúng ta.
Điện:… “Chúng ta biết không hiện tượng nào trong thiên nhiên – hoàn toàn không liên hệ với từ lực hoặc là điện lực – vì, nơi nào có chuyển động, nhiệt, ma sát, ánh sáng, nơi đó có từ lực và Alter Ego của nó (theo thiển ý chúng tôi) – điện sẽ luôn luôn xuất hiện như là nguyên nhân hoặc là hậu quả - hay đúng hơn là cả hai, trừ phi, nếu chúng ta thăm dò sự biểu lộ đến nguồn cội của nó. Tất cả các hiện tượng về sự vận hành của địa cầu, địa từ và điện trong khí quyển, đều do bởi sự kiện địa cầu là vật tích điện, điện thế của nó bao giờ cũng thay đổi do sự xoay của nó và do chuyển động theo quỹ đạo hằng năm, sự lạnh và nóng nối tiếp nhau của không khí, việc tạo ra mây, mưa, dông, gió ..v..v.. Điều này bạn có thể tìm thấy trong một số sách giáo khoa. Nhưng sau đó Khoa Học sẽ miễn cưỡng thừa nhận rằng, tất cả các thay đổi này đều do từ lực tiên thiên khí (Akasic magnetism) không ngừng tạo ra các luồng điện có khuynh hướng lập lại sự cân bằng đã bị xáo trộn”.
…”Thái dương không phải là chất rắn cũng không phải là chất lỏng, tuy vậy cũng không phải chất khí phát ra ánh sáng; mà là một quả cầu khổng lồ chứa các Lực điện từ, tức kho Sự Sống và sự Chuyển Động của vũ trụ, từ đó khối cầu này đập nhịp theo tất cả mọi hướng, cung cấp cho nguyên tử nhỏ nhất cũng như vị thần lớn nhất với cùng một chất liệu cho đến cuối Đại Cuộc biểu lộ”. (Thánh Thư gởi cho A.P. Sinnett, trang 160, 165).
Về căn bản, lửa của trí tuệ là điện, biểu lộ trong cách vận hành cao của nó, và không được xét tới nhiều như sức mạnh trong vật chất. Điện trong Thái dương hệ tự biểu lộ thành 7 dạng chính có thể được diễn tả như sau:
- Điện trên cõi thứ nhất, tức cõi Thượng Đế hay cõi thiêng liêng, biểu lộ dưới hình thức Ý- Chí- hiện- tồn, trạng thái nguyên sơ của loại sức mạnh mà sau rốt sẽ dẫn đến kết quả là biểu lộ ra ngoài. Xét về phương diện vũ trụ, chính là xung lực hay rung động mở đầu này, vốn phát xuất từ linh hồn thể của Thượng Đế trên cõi trí vũ trụ, và tạo nên sự tiếp xúc với chất dĩ thái vũ trụ thứ nhất hay là cõi Tối Đại Niết Bàn của thái dương hệ.
- Điện trên cõi Chân Thần lộ ra dưới hình thức biểu lộ đầu tiên của hình hài, như những gì tạo ra hình hài cố kết.
Vật chất (được tích điện bởi “lửa do cọ xát” và lửa điện của tinh thần gặp nhau, phối hợp để rồi hình hài xuất hiện. Hình hài là kết quả của ước muốn hiện tồn, do đó lửa năng động của Ý Chí được chuyển hóa thành lửa bùng cháy của dục vọng. Tôi xin kêu gọi sự chú ý để chọn hai câu sau này mà có thể cũng được diễn tả bằng các thuật ngữ:
– Biểu lộ điện năng động.
– Biểu lộ điện bùng cháy.
Nơi đây, trên cõi thứ hai, bể lửa điện, vốn tách biệt với cõi thứ nhất, được biến đổi thành tiên thiên khí, hay là chất dĩ thái đang cháy. Đó là cõi của mặt trời đang cháy, cũng như cõi thứ nhất là cõi của sương mù lửa (fire mist) tức tinh vân. Ý tưởng này sẽ dễ dàng hiểu được, nếu bạn nhớ rằng chúng ta đang bàn về cõi hồng trần vũ trụ. Một số việc xảy ra trên cõi thứ nhì cần hiểu rõ ngay cả nếu đã thừa nhận về mặt lý thuyết.
- Sức nóng hay bức xạ nhiệt được nhận thấy trước nhất.
- Hình hài được chiếm hữu, và dạng thức gần hình cầu của mọi sự sống đang xuất phát.
- Sự tương tác đầu tiên giữa các đối cực được cảm nhận.
- Sự biến phân được nhận ra trước nhất, không những trong lưỡng nguyên được nhận biết của mọi sự vật, mà còn trong sự biến phân ở chuyển động, hai rung động được nhận ra.
- Một số yếu tố rung động bắt đầu tác động như lực hút, lực đẩy, sự loại bỏ nhờ phân biện, đồng hóa do cố kết và biểu lộ liên kết của các hình hài đang xoay tròn, các quỹ đạo ( ) và điểm xuất phát của những gì lôi cuốn xuống dưới vào trong vật chất; kết quả là tạo nên chính sự tiến hóa.
- 7 biểu lộ nguyên thủy của bản thể Thượng Đế mưu tìm sự biểu lộ và 3 với 4 bắt đầu công trình của các Ngài.
- 7 bánh xe hay là các trung tâm lực dĩ thái trong dĩ thái thể của Đại Thực Thể Thông Linh vũ trụ, Đấng mà Thái Dương Thượng Đế của chúng ta là một phản ảnh của Ngài, bắt đầu rung động và hoạt động linh hoạt của Ngài có thể được nhận thấy.
Vào lúc này, chúng ta đang xem xét các biểu lộ về điện trên các cõi khác nhau của cõi hồng trần vũ trụ, hay là trên các cõi của Thái dương hệ chúng ta. Như vậy, tất cả những gì có thể nhận thấy được trong sự biểu lộ, về cơ bản là điện hồng trần. Chúng ta đã thấy rằng biểu lộ sơ khởi là biểu lộ vốn đem lại sinh lực, nhuốm màu và lan khắp vật chất của không gian, như vậy biểu hiện – liên quan đến sự biểu lộ của Thượng Đế - những gì tương đồng với nhiệt, hoạt động và bức xạ linh hoạt của con người đang biểu lộ trên cõi trần của thái dương hệ. Một số hiện tượng điện phân biệt con người (vì chúng không được diễn tả hay xem xét bằng các thuật ngữ về điện) chỉ vì sự tương đồng đã bị thất lạc. Các biểu lộ này có thể được xem xét dưới hình thức :
Thứ nhất: đó là Sinh Khí cố kết đang nắm giữ toàn bộ vật thể đang quay quanh đơn vị lực trung ương. Ở đây, nên nhớ rằng toàn thể biểu lộ của một Thái dương hệ gồm có dĩ thái thể và thể xác trọng trược của một Thượng Đế.
Thứ hai: đó là Từ Lực bức xạ (radioratory Magnetism) vốn phân biệt con người, làm cho y hoạt động theo hai cách:
– Liên quan đến vật chất mà các hiện thể của y được tạo thành.
– Liên quan với các đơn vị tạo thành nhóm của y.
Thứ ba: đó là Hoạt Động trên cõi trần đưa đến việc thực hiện đúng ý chí và mong muốn của thực thể nội tại, và trong con người vốn là sự tương ứng của trạng thái Brahma.
Ba biểu lộ về điện này – sinh khí, từ lực và xung lực Fohat – được thấy đang tác động trong một Thái Dương Thượng Đế, một Hành Tinh Thượng Đế và một con người.
Các Ngài là các biểu lộ ngoại tại của bản chất tâm thông mà (thí dụ trong một Thái Dương Thượng Đế) chúng ta nói đến bằng các thuật ngữ chỉ tính chất và gọi là ý chí, minh triết, hoạt động. Do đó, ở đây nên chú ý rằng 3 cõi đầu tiên của cõi hồng trần vũ trụ - tức là các cõi Thượng Đế, cõi Chân Thần và cõi Niết Bàn (thuộc Thái Dương hệ chúng ta ND) – thì quan trọng vào bậc nhất và là các cõi căn bản từ đó xuất phát 4 cõi thứ yếu. Nói cách khác, 3 chất dĩ thái vũ trụ đầu tiên, theo nghĩa đen, tượng trưng cho 3 Thực Thể Thông Linh mà chúng ta biết là Mahadeva, Vishnu và Brahma. Theo cùng ý nghĩa, ba Đấng này mưu tìm sự biểu lộ trọng trược nhất trong ba chất dĩ thái hồng trần. 4 chất dĩ thái thấp kém hơn biểu lộ trong khi tiến hóa, nhưng sau rốt được tổng hợp thành 3 chất cao hơn. Cũng nên nhớ rằng trên tất cả 7 cõi phụ của một cõi chính của thái dương hệ, một diễn trình, liên hệ với hiện tượng điện trong chất dĩ thái, sẽ xảy ra song song với mọi diễn tiến trên các cõi chính. Điều này dễ dàng nhận thấy trên cõi trí, chẳng hạn, liên hệ với con người. Về mặt lý thuyết, sự thu hút của mọi khả năng bởi linh hồn thể và sự bất liên tục của tất cả mọi biểu lộ ngoại cảnh bị bắt buộc trong 3 cõi thấp vào lúc kết thúc giai đoạn tổng hợp được thừa nhận. Trên các cõi khác, không rõ rệt như thế. Trên cõi Bồ đề, các Đấng Kiến Tạo trên vòng cung thăng thượng tiến hóa, hay là một phần lớn của cuộc tiến hóa thiên thần, trải qua một sự tổng hợp song song. Trên cõi hồng trần, một sự tổng hợp huyền bí liên hệ với “Tinh Quân của Địa cầu” được trải qua và 3 chất dĩ thái đầu tiên có liên quan tới Ngài theo cách thức cho đến nay ít được biết tới. Chúng ta có thể tổng kết điều đó như thế này:
Thứ nhất, sự cân bằng của hiện tượng điện hay là đạt được sự tổng hợp, có liên hệ với con người xảy ra trên 3 cõi phụ cao của cõi trí.
Thứ hai, một diễn trình tương tự liên quan với Hành Tinh Thượng Đế diễn ra trên 3 cõi phụ cao của Cõi Chân Thần. Xét theo nghĩa rộng hơn điều đó xảy ra trên 3 cõi chính – Niết Bàn, Bồ Đề và thượng trí – cũng như trong 3 cõi tiến hóa của nhân loại – hồng trần, cảm dục và hạ trí – tiến trình tổng hợp tiếp diễn trên cõi phụ cao của 3 cõi đã nói trên.
Thứ ba, liên quan với Thái Dương Thượng Đế (bên trong Thái dương hệ và không xét phần tổng hợp vũ trụ của Ngài), 3 cõi phụ cao của cõi Thượng Đế chứng kiến sự thu hút cuối cùng hay sự trừu tượng hóa của Ngài, và 3 cõi của 3 Ngôi Thượng Đế đều có liên hệ giống như thế.
Nơi đây nên thận trọng ghi nhớ rằng chúng ta đang bàn đến chất liệu điện và do đó liên quan với chất dĩ thái vũ trụ; mọi vật chất trong Thái dương hệ tất yếu là dĩ thái. Vì vậy cho nên chúng ta bàn đến hiện tượng vật chất trên mọi cõi của Thái dương hệ. Trong thời gian và không gian, chúng ta có liên quan với các đơn vị có cực khác nhau – trong diễn trình tiến hóa – vốn dĩ đang mưu tìm sự hợp nhất, sự quân bình, thăng bằng hoặc tổng hợp và sau rốt tìm ra chính mình. Sự tương tác về điện này giữa hai đơn vị tạo nên cái mà chúng ta gọi là ánh sáng và do đó biểu lộ ra bên ngoài. Trong khi tiến hóa, điều này biểu lộ dưới hình thức nhiệt và sự tương tác từ lực, và là cội nguồn của mọi sự tăng trưởng thiết yếu; vào lúc hoàn thành mục tiêu mong muốn, vào lúc hợp nhất hay là nhất quán (at-one-ment), xảy ra 2 sự việc:
Thứ nhất, sự tiến gần lại của hai cực hay là sự phối hợp của chúng tạo nên một tỏa chiếu hay là ánh sáng chói lọi.
Thứ hai, sự qui nguyên hay là sự tan rã cuối cùng của vật chất do bởi sức nóng mãnh liệt.
Điều này có thể thấy có liên hệ đến con người, một Hành Tinh Thượng Đế, một Thái Dương Thượng Đế, cùng là các thể biểu lộ ra ngoài của các Ngài. Trong con người, sự hướng cực (polarity) này đã được thành đạt, ba loại hiện tượng điện khác nhau đã được chứng minh, và ánh sáng tỏa ra, soi sáng linh hồn thể và chiếu sáng toàn thể kim quang tuyến hay sợi chỉ (theo nghĩa đen của Thánh Đạo) vốn nối liền hiện thể thượng trí với bộ óc vật chất. Lúc bấy giờ sự phân hủy hay tàn phá sẽ xảy ra; linh hồn thể tan biến trong sự tỏa chiếu của lửa, điện, và “con người” thật sự hay bản ngã tách ra khỏi các thể của ba cõi thấp. Cũng thế, điều đó sẽ được nhận thấy trong cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế, một hệ thống hành tinh và cũng trong cơ thể của Thượng Đế, tức một thái dương hệ.
Cái khó để hiểu các ý tưởng này thật là to tát, vì hẳn là chúng ta bị trở ngại do việc thiếu ngôn từ chính xác, nhưng các ý tưởng chính yếu chỉ là những ý tưởng mà tôi đang tìm cách bàn đến, và ý tưởng mà chúng ta đã bàn đến trước nhất trong đoạn này là sự biểu lộ có tính chất điện của từ lực, cũng như trước kia chúng ta đã bàn sơ qua về cùng một hiện tượng điện, biểu lộ dưới hình thức hoạt động của vật chất. Do đó, bạn có:
1. Hoạt động … biểu lộ có tính cách điện của vật chất.
2. Từ lực …….. biểu lộ có tính cách điện của hình hài.
3. Sinh lực …… biểu lộ có tính cách điện của sự sống.
Điều này, theo nghĩa đen (như đã được H.P.B. nêu ra) chính là lửa do ma sát, lửa thái dương và lửa điện (GLBN I, 567, II, 258).
Lửa do ma sát là điện đang làm linh hoạt các nguyên tử của vật chất, hay là chất liệu (substance) của thái dương hệ, và tạo ra kết quả trong:
Dạng thức gần như hình cầu của mọi biểu lộ.
Nhiệt bẩm sinh (innate heat) của tất cả các bầu hành tinh.
Sự phân hóa của tất cả các nguyên tử từ nguyên tử này đến nguyên tử khác.
Lửa thái dương, là điện lực đang làm sinh động các hình hài hay là khối nguyên tử và tạo ra kết quả trong:
- Các nhóm kết hợp.
- Sự phát xạ từ mọi nhóm hay là sự tương tác từ lực của các nhóm này.
- Sự tổng hợp hình hài.
Lửa điện là điện lực đang biểu lộ dưới hình thức sinh lực hay là ý chí hiện tồn của một Thực Thể Thông Linh nào đó, và biểu lộ dưới hình thức - Thực thể trừu tượng (Abstract Being) - Bóng tối (Darkness) - Sự hợp nhất.
Chúng ta đã thấy rằng biểu lộ có tính cách điện trên cõi thứ nhất đã tạo nên rung động mở đầu, và trên cõi thứ hai, hoạt động của nó dẫn đến dạng thức nguyên hình của mọi biểu lộ, từ một Thượng Đế đến con người và một nguyên tử.
Trên cõi thứ ba, vốn chủ yếu là cõi của Brahma, mãnh lực điện này tự biểu lộ thành mục tiêu sáng suốt. Ý chí hiện tồn và hình hài mong đợi được liên kết bằng mục đích sáng suốt ẩn dưới vạn hữu. Mục đích sáng suốt này hay là ý chí linh hoạt, đang vận dụng một khí cụ đưa chúng ta đến cái khó khăn nhất của các vấn đề siêu hình, đó là sự tương phản giữa ý chí với dục vọng. Ở đây, không thể vận dụng đề tài tế nhị này, ngoại trừ chỉ để nêu ra rằng trong cả hai ý chí và dục vọng, thì trí tuệ hay manas là một yếu tố cơ bản và phải được nhận ra. Nguyên khí manas này đang lan khắp – nhuốm màu cả hai trạng thái ý chí và trạng thái dục vọng – là nguyên nhân của nhiều lầm lẫn đối với các nhà nghiên cứu và sự trong sáng của tư tưởng sau rốt sẽ chỉ được nhận thức như sau:
Thứ nhất, đó là mọi biểu lộ xuất phát hay là được điện hóa (electrified) từ cõi trí vũ trụ.
Thứ hai, Toàn Linh Trí hay là chủ thể suy tưởng thiêng liêng, là Nguyên Khí sáng suốt làm cho chính nó được biết như là Ý Chí hiện tồn, Dục vọng hay là Love-of-Being, và mục đích sáng suốt linh hoạt đó làm sinh động Thái dương hệ.
Thứ ba, Mahadeva hay là Ý Chí Thiêng Liêng, Vishnu, trạng thái minh triết, hay là “Đứa Con Thiết Yếu” biểu lộ và Brahma hay mục tiêu linh hoạt là toàn bộ tâm thức sáng suốt và là (đối với Thực Thể Thông Linh vũ trụ đang biểu lộ) những gì mà hạ trí, thể cảm dục và thể xác đang có đối với con người, chủ thể suy tưởng trong ba cõi thấp, đang tác động trong linh hồn thể. Ta đừng nên quên rằng linh hồn thể chứa ba nguyên tử thường tồn, hay là ba hình cầu vốn biểu hiện cho nguyên khí trí tuệ, nguyên khí dục vọng, và nguyên khí biểu lộ ở cõi trần. Luôn luôn phải giữ sự tương đồng giữa Thượng Đế Ba Ngôi với con người tam phân, và sự rõ ràng của tư tưởng với ý niệm tạo nên tư tưởng đó, khi sự giống nhau duy nhất giữa hai điều này được cân nhắc. Con người là một đơn vị tác động như một đơn vị trong linh hồn thể. Con người là một bộ ba hoạt động dưới trạng thái ý chí, hay thể trí; hoạt động dưới trạng thái dục vọng hay minh triết, tức thể cảm dục; còn dưới trạng thái hoạt động, thì có thể xác. Y tích điện hay đem lại sinh lực cho cả 3 thể hay 3 trạng thái, tập hợp chúng lại thành một và gây ra – bằng sự sáng suốt mà y có – sự mạch lạc của hành động, sự đồng bộ của mục đích và nỗ lực tổng hợp.
Sau cùng, do đó, điều rõ ràng là không kể đến khía cạnh mà chúng ta đang khảo cứu, Thượng Đế Ba Ngôi (hay hình ảnh của Ngài tức tiểu thiên địa) qua nguyên khí trí tuệ, làm cho vật chất thành hình hài một cách sáng suốt, và sử dụng hình hài đó để hoàn thành ý chí, ước vọng và mục tiêu của Bản Thể nội tại; nguyên lý này có thể thấy ẩn dưới tất cả ba ngôi (aspects). (LVLCK, 318)
+ Các cặp đối: Thuật ngữ này có nhiều nghĩa tương ứng, trong vòng Địa bàn hay Thiên bàn thường nói về các cắp "Đối cung", như trong Chiêm tinh học có người dịch là "Đối hợp", người dịch là "Đối cực". "Đối xung"... Nên tùy ngữ cảnh để suy xét.
- Cặp đối xung: Đối xung chủ yếu thiên về đối lập và khắc chế, tương hại nhau. Trong xung cũng vẫn có hợp, có sinh nhưng chiếm phần nhỏ.
- Cặp đối nghịch/ Đối lập: Đối lập hay mâu thuẩn thường hàm ý là chống đối nhau. Thường sự chống đối mãnh liệt, khó hòa giải.
- Cặp đối hợp: Đối hợp không phải là đối lập hay mâu thuẩn. Đối lập hay mâu thuẩn thường hàm ý là chống đối nhau, còn đối hợp chẳng những không chống đối, mâu thuẩn nhau mà còn sóng đôi nhau, nương tựa nhau, hòa hợp nhau để tạo ra cái mới. (Chú thích của người dịch TLHNM II, 381)
+ Tương tác giữa các cặp đối: ... Tất cả đều cần thiết – các hố sâu, các đồng bằng và đỉnh núi. Như bạn biết, Sagittarius là một trong bốn cánh của Thập Giá Khả Biến [Trong môn dự đoán Tứ trụ ứng trạng thái Lâm quan của ngũ hành tương ứng. Thập giá cố định tương ứng trạng thái Đế vượng; Thập giá Cơ bản tương ứng trạng thái Suy - Thay đổi từ Vượng cực sang Suy - Vật cực thì biến] Một ý tưởng về hệ thống ký hiệu tổng quát của Thập Giá này, theo quan điểm về tính chất, có thể nhận được nếu chúng ta đưa ra hai tập hợp về các đặc điểm vốn phân biệt con người trên Thập Giá này – cả người kém tiến hóa lẫn người có khát vọng đối với thiêng liêng. Chúng ta có thể liệt kê các cánh Thập Giá này như sau, tìm cho mỗi cánh (arm) một nhóm từ riêng biệt:
Gemini ‒ Tính hay thay đổi. Tính không ổn định. Sự tương tác.
Sagittarius – Khát vọng ham muốn. Phương hướng. Định hướng.
Virgo – Sự sống vật chất. Yêu chuộng một lý tưởng.
Pisces – Cảm giác. Tình trạng trung gian. Tính lưu động.
Gemini – Nhận thức của linh hồn và sắc tướng. Tương tác linh hồn.
Sagittarius – Chỉ hướng về hoài vọng tinh thần. Các đệ tử.
Virgo – Mẹ của Chúa Hài Đồng. Ấp ủ hoài bão (Gestation).
Pisces – Đấng Cứu Thế. Tình trạng trung gian.
Liên quan tới danh sách trên, thật là lý thú mà ghi nhận rằng Cặp Song Sinh (Twins) được dành riêng và không dính dáng trong Gemini trở thành Centaur (Con Nhân Mã), tức thú ‒ người (man-beast), trong Sagittarius, trong khi Virgo, tức Xử Nữ (the Virgin), trở thành nữ thần Cá trong đối cực (polar opposite), tức Pisces. Một luận đề có thể được viết ra dựa vào đề tài về sự liên hệ của các đối nghịch (opposites) trong vòng hoàng đạo, vì chúng thể hiện tinh thần và vật chất và mối liên hệ hỗ tương của chúng, cộng với sự tác động của các năng lượng định tính; đồng thời chúng làm chứng cứ cho sự kiện rằng hai đối nghịch đó là một, và chỉ là biểu hiện của Người chưa tiến hóa. Người tiến hóa cái dễ thay đổi lớn lao, tuy vậy là các Sự Sống tinh thần cố định và được khai mở. Chính vì lý do này mà chòm sao Libra (Thiên Xứng) chiếm một vị trí độc đáo trong Vòng Hoàng Đạo Lớn, vì năng lượng đến từ chòm sao này đang kiểm soát những gì mà chúng ta gọi là (vì thiếu từ ngữ thích hợp hơn) “trục của bánh xe” (“hub of the wheel”). Đây chính là điểm ở trong không gian nằm giữa nơi mà năng lượng của 12 cung hoàng đạo gặp và giao nhau. Do đó, Libra kiểm soát “thời điểm đảo ngược của vòng hoàng đạo” trong sự sống của mỗi người tìm đạo, vì sẽ đến một thời điểm trong chu kỳ của các sự sống lúc mà một điểm thăng bằng được đạt tới và một trạng thái cân bằng tương đối được đạt tới, và chính Thiên Xứng chịu trách nhiệm về biến cố này. Một ngày nào đó sẽ rất lý thú khi biến đổi một sưu khảo và tìm tòi khoa học thành sức mạnh quân bình mà Libra sử dụng, và một phân tích sau đó về ảnh hưởng của Libra trong một kiếp sống cá biệt. Lúc đó có thể khám phá liệu sự sống đặc biệt mà một người đưa vào tiến trình đảo ngược, có lẽ không thể là tiến trình mà mặt trời ở vào cung Leo, với Libra đang đi lên. Các khảo cứu về thống kê đó chưa được tạo ra, nhưng có nhiều điều cần làm theo các đường lối này; Tôi chỉ đưa ra các gợi ý, nhưng Tôi nghĩ người ta sẽ tìm thấy đây là trường hợp cần thiết. Một tìm kiếm đúng đắn thêm nữa vào lịch sử sự sống của giáng ma học và của các đồng tử hợp tác với nó, có thể chứng minh rằng đa số các đồng tử trên thế giới vốn thuộc loại trình độ thấp, hoặc là các đồng tử hoàn toàn ở trạng thái xuất thần (trance) – tiêu cực và thường thường kém thông minh – đều được sinh ra trong Cung Cancer với Pisces đang đi lên, hay là trong Pisces với Cancer đang đi lên. Các khảo cứu đó tất nhiên phải liên quan đến hàng trăm trường hợp và được tiến hành qua thời gian dài để chứng minh điểm mà Tôi tìm cách đưa ra. Tôi cũng cảm thấy lý thú khi phân tích các lần luân hồi đặc biệt này và các lá số tử vi của chúng, trong đó cả hai đối cực đều xuất hiện có liên quan với nhau – một dưới hình thức cung thái dương, còn một dưới hình thức cung mệnh (ascendent), vì hai sự sống này thường biểu lộ một độ thăng bằng hoặc một cực điểm nào đó; chúng sẽ không thuộc về trường hợp trở thành các sự sống tiêu cực hoặc thiếu phương hướng, biến cố hoặc mục tiêu. Đặc biệt đây là trường hợp ở trên Thập Giá Cố Định của các Cõi Trời.
Bạn nên chú ý rằng mục tiêu của Tôi trong đoạn này là tạo ra sự chú ý và thẩm tra, đồng thời thúc đẩy cho các nhà nghiên cứu tiến tới việc tìm kiếm khoa học, thống kê và phân tích. Chỉ bằng cách này thì các tiền đề căn bản của Tôi mới được chứng minh và sau rốt thay thế cho các phương pháp không thỏa đáng hiện tại – các phương pháp mà hầu hết các chiêm tinh gia có năng lực thực sự và nhìn xa hiểu rộng xem như là đáng phàn nàn và không thỏa đáng. (Chiêm tinh học NM)
Kiến thức Chiêm tinh học: MỘT VÍ DỤ CON NGƯỜI TIẾN HÓA QUA HOÀNG ĐẠO
+ Chiêm tinh học ngoại môn đã bàn đến và được chấp nhận rộng rãi rằng Vulcan (Hỏa Vương Tinh), Uranus (Thiên Vương Tinh), Pluto (Diêm Vương Tinh) và Neptune (Hải Vương Tinh) không cai quản các cung hoàng đạo mà chỉ có ái lực với các cung này. .... Hiển nhiên là chiêm tinh học cổ hãy còn bất toàn, nhưng cho đến khi con người trở nên đáp ứng công khai với các ảnh hưởng đến với ... Linh hồn thể sau này khi nhân loại tiến hóa.
Cung này cũng có hai mặt. Trong Aries chúng ta có nhị nguyên vốn gắn liền với việc tập hợp lại tinh thần và vật chất trong hoạt động sáng tạo lớn lao là hoạt động biểu lộ vào lúc bắt đầu chu kỳ tiến hóa, trong khi đó ở cung Pisces chúng ta có sự hợp nhất hay pha trộn của linh hồn và sắc tướng đối với con người, tạo nên sự biểu lộ của Christ Lâm Phàm (Incarnated Christ), tức linh hồn cá biệt hoàn thiện, sự biểu lộ hoàn hảo của tiểu thiên địa..... Nhị nguyên tính của Pisces phải được nghiên cứu liên quan đến ba chủ âm, đó là: 1. Nô lệ hoặc giam cầm; 2. Từ bỏ hoặc đoạn tuyệt; 3. Hy sinh và tử vong.......
Khi con người cá biệt nhập vào chu kỳ các cuộc lâm phàm của mình và xuất lộ vào cung Cancer, vốn được tìm thấy trong Thập Giá Cơ Bản, thì về mặt ẩn dụ, y leo lên Thập Giá Khả Biến, và kỳ hạn dài giam nhốt của y trong hình tướng bắt đầu và các bài học khổ sai phải được học hỏi. Y tiếp tục học cho đến khi y đã biến đổi việc khổ sai (servitude) thành việc phụng sự (service). Y dao động giữa các cặp đối ứng, cả theo quan điểm chiêm tinh, tình cảm, lẫn theo quan điểm của bốn nhánh của Thập Giá Khả Biến. Tính lưu chuyển (fluid), tính nhạy bén trong Pisces – thuộc đồng cốt (mediumistic) và được an trụ về mặt tâm thần (psychically polarised) – phải được ổn định trong Virgo, nơi cung nào mà sự phản tỉnh trí tuệ và phân tích quyết định có thể xảy ra và dùng để ngăn chận tính chất dễ lưu chuyển của Pisces. Hai cung này quân bình lẫn nhau. Chúng ta có thể khảo cứu tiến trình lưỡng phân đang xảy ra trên vòng hoàng đạo qua trung gian của Thập Giá Khả Biến mà Pisces tạo thành một phần theo cách sau đây:
1. Pisces (Song Ngư). Ở chỗ này kẻ bắt đầu trên con đường sống khởi sự với tính dễ thụ cảm vật chất, tính chất này sẽ giúp cho y đáp ứng với mọi tiếp xúc trong chu kỳ biểu lộ. Ở giai đoạn này y có tính tiêu cực, hay thay đổi (fluid) và được phú cho một ý thức theo bản năng, vốn chứa trong chính nó tiềm năng của trực giác. Nhưng hạt giống của trực giác còn trong trạng thái hôn thụy (dormant). Thể trí vốn là khí cụ tiếp nhận từ trực giác, ở giai đoạn này, chưa được khơi hoạt.
2. Sagittarius (Nhân Mã). Ở đây người thông thường bắt đầu lộ ra một khuynh hướng, ấy là trở nên tập trung hơn và tính hay thay đổi và tiêu cực của Pisces trở nên tập trung vào việc đạt được những gì được ưa thích. Con người lộ ra các bản năng ích kỷ cố chấp và mặc dầu y có thể tỏ ra hòa mục và tốt bụng chẳng hạn, chính là vì muốn có sự nổi tiếng. Đây là một biểu hiện tốt của chủ thể cá nhân Sagittarius và cũng cho thấy khuynh hướng của linh hồn là cuối cùng muốn đổi mọi xấu xa thành ra tốt lành. Các bài học của sự sống đang được học hỏi và kinh nghiệm đang diễn tiến.
3. Virgo (Xử Nữ). Trong cung Virgo, con người hay thayđổi (fluid) trong Song Ngư và ích kỷ về mặt tình cảm cũngnhư đầy tham vọng trong Nhân Mã, bắt đầu tập trung mộtcách chăm chú hơn và bắt đầu lý luận và suy tư. Linh hồntiềm tàng đang trở nên linh hoạt ở bên trong; một tiến trìnhnảy mầm đang tiếp diễn; con người ẩn giấu đang làm cho sựhiện hữu của mình được nhận ra. Trí tuệ đang khơi hoạt vàbản năng – sau khi vượt qua giai đoạn tình cảm – đang đượcchuyển hóa thành trí tuệ (intellect).
4. Gemini (Song Nam). Nơi người chưa phát triển hoặcngười bậc trung, các kinh nghiệm được trải qua trên ba nhánh của Thập Giá Khả Biến đưa con người tới giai đoạn mà “giấc mơ của sự sống” có thể được đổi thành nhận thức về thực tại và Đại Ảo Tưởng (Great Illusion) có thể được thấy như là không được ưa thích và không đúng thực tế. Ở giai đoạn này, nhận thức về lưỡng nguyên, theo bản năng nhưng đang trở nên ngày càng xác thực và vững chắc hơn.. Con người bắt đầu mơ đến sự bền vững, đến các thay đổi được an bài và mơ đến sự hợp nhất với những gì mà y cảm nhận là thành phần hiện thực nhất của chính y. Linh thị thần bí hiện vào trong tâm thức y và y trở nên biết được bản ngã cao siêu qua các tia sáng lung linh yếu ớt đầu tiên của trực giác. Kinh nghiệm trên Thập Giá Khả Biến kéo dài một lúc lâu và đưa con người luôn luôn trở lại hết lần này đến lần khác vào lĩnh vực ảnh hưởng của Aries, mà qua hoạt động chi phối của cung 1, cả việc củng cố ý chí của con người (dù cho y thuộc cung nào), lẫn kết thúc chu kỳ này đến chu kỳ khác với “từ hủy diệt” (“word of destruction”). Hết lần này đến lần khác, y nhập vào cung Pisces và tìm ra con đường của mình chung quanh vòng hoàng đạo lớn cho đến khi kinh nghiệm của sự thay đổi và của sự khả biến, và việc thiết lập tiến trình chuyển hóa đưa tâm thức của y từ giai đoạn bản năng và trí tuệ đến các bắt đầu của các tiến trình trực giác trong Gemini. Kế đó đến một tiến trình lớn, tiến trình an trụ,và một thời điểm chuyển di, sau đó ảnh hưởng của Thập Giá Cố Định gây nên sự đảo ngược và các bài học được thu thập trên Thập Giá Khả Biến phải được thể hiện và các ảnh hưởng được chứng minh trên Thập Giá Cố Định. Trong các giai đoạn khai mở ban đầu, đừng nên tưởng rằng kinh nghiệm được thu thập chỉ qua Thập Giá Khả Biến mà thôi. Con người sinh hoạt và trải qua kinh nghiệm trong tất cả các cung hoàng đạo, nhưng các ảnh hưởng tuôn đổ qua Thập Giá Khả Biến có tác động mạnh vào y hơn là các ảnh hưởng tuôn đổ trong các giai đoạn ban đầu qua Thập Giá Cố Định. Chỉ khi nào linh hồn trở nên linh hoạt hơn bên trong hình hài và con người nhận biết được lưỡng nguyên của mình (his duality), thì cácnăng lượng của Thập Giá Cố Định mới thay thế một cách có hiệu quả các năng lượng của Thập Giá Khả Biến, giống như sau cuộc điểm đạo thứ ba, các năng lượng của Thập Giá Cơ Bản (Cardinal Cross) bắt đầu kiểm soát con người và có sự thúc đẩy triệt để hơn là các năng lượng của hai thập giá kia.
Virgo (Xử Nữ). Sẵn có tính phân tích và chỉ trích dưới ảnh hưởng của Virgo, thể trí biến đổi tính chất đó của trí vốn được mô tả đúng nhất bằng các từ ngữ giác ngộ (illumination)và khai mở (revelation). Đấng Christ, Đấng mà sau rốt Đức Mẹ Đồng Trinh đã khai sinh ra, được nhận biết như hiện hữu trong khuôn sáng tạo, mặc dù chưa được sinh ra. Sự Sống được nhận biết. Tiến trình khai mở của tâm thức Christ được xúc tiến một cách sáng suốt, còn các hoài bão ích kỷ và các kinh nghiệm của người kém phát triển bị thay thế bởi lòng vô kỷ của vị đệ tử giác ngộ và có trực giác.
Sagittarius (Nhân Mã). Ngày nay, đây là cung của vị đệ tử nhất tâm. Sự sống có sự đáp ứng uyển chuyển với vật chất trở thành sự sống của sự đáp ứng có tập trung với tinh thần và việc chuẩn bị cho điểm đạo trong Capricorn. Mũi tên của trí tuệ được phóng một cách không thể sai chạy về phía mục tiêu.
Pisces (Song Ngư). Nơi đây, ở giai đoạn cuối, Pisces thay cho cái chết của phàm ngã và sự giải thoát của linh hồn ra khỏi tình trạng bị giam cầm và sự quay lại của linh hồn vào nhiệm vụ của Đấng Cứu Thế. Thành quả lớn lao được chấm dứt và cái chết cuối cùng được trải qua. “Không còn biển nữa” đó là lời của cổ thư, câu đó hiển nhiên hàm ý “cái chết của loài cá” và sự giải thoát của sự sống bị giam nhốt vào hình thức mới hay là các chu kỳ mới của cuộc Phiêu Lưu thiêng liêng.
Thập Giá Khả Biến này, mà Pisces là một trong các nhánh của nó, chủ yếu là Thập Giá của “các cuộc lâm phàm được lặp lại”, của các thử nghiệm khác nhau dưới cung hoàng đạo khác nhau và các chủ thể điều khiển chính thống và của những ai mà nhiều kinh nghiệm đang dẫn đến các mở rộng tâm thức liên tục và kế tiếp.......
Ý tưởng mà Tôi muốn truyền đạt cho bạn nơi đây là vào lúc này, ảnh hưởng của Pisces trên cung tiến hóa đi xuống, và vì Thái Dương đi giật lùi qua các cung, được cảm thấy phần lớn trong anima mundi (linh hồn thế giới) và trong Christ ẩn giấu, hóa thân và bị giam nhốt; ... Christ ẩn giấu này không thể tự tháo gỡ ra khỏi “sự tiếp xúc với Nước”. ... Sự thay đổi bao giờ cũng cần thiết, nhưng phương pháp tự thay đổi từ khuynh hướng thay đổi thường xuyên và tính chất thay đổi của Thập Giá Khả Biến sang một số thay đổi thuộc loại chính yếu, được mang lại bởi một khuynh hướng sống thường xuyên và có hướng dẫn.....
... Ở giai đoạn này con người có trong chính mình các sức mạnh và các tính chất của Christ nội tại, nhưng chúng không lộ ra và chỉ là các khả năng tiềm tàng vì cho đến nay y hoàn toàn bị kiềm chế bởi bản chất sắc tướng của mình (ngục tù) và môi trường quanh y. Các quyền năng ẩn tàng của linh hồn còn tiêu cực, và các sức mạnh của phàm ngã thì tích cực và bắt đầu tìm thấy biểu hiện mạnh mẽ ngày càng tăng. Các khuynh hướng tâm linh tự nhiên của con người bị ức chế (vìPisces thường là một cung ức chế và có các cản trở) còn thú tính tự nhiên và các sức mạnh của phàm ngã – đặc biệt là sức mạnh của xúc cảm – là các tính chất hiển nhiên và dễ thấy được của con người.....
Đồng tử cấp thấp thông thường là thí dụ nổi bật của các khía cạnh tồi tệ nhất của Pisces – tính chất tiêu cực, tính dễ xúc cảm (impressionability), tính nhạy cảm về xúc cảm với sự kém phát triển hoàn toàn của nguyên khí trí tuệ. Thật là lý thú khi tìm thấy hai sự kiện khoa học:
1. Bất luận thế nào đi nữa đa số loại đồng tử thấp nhất (đặc biệt là các đồng tử xuất thần) đều có cung Pisces vượt trội theo một cách thức mạnh mẽ nào đó trong các biểu đồc của các đồng tử này.
2. Bất luận các đồng tử này, dù họ đang trở nên tích cực hơn và có tự chủ hơn (self-controlled), họ đang bắt đầu có được một sự thoáng nhìn về các tương ứng cao hơn trong công việc của họ ‒ trạng thái đồng tử và hoạt động diễn dịch– không có Virgo xuất hiện một nơi nào đó với sức mạnh thực sự và hoạt động thực sự........
Đối với các cung năng lượng đang tự thể hiện qua các chủ thể chi phối thuộc hành tinh và cung năng lượng đang thu hút hoặc là đang cộng tác với các ảnh hưởng của cung hoàng đạo Pisces và như thế ảnh hưởng đến hành tinh chúng ta và nhân loại, chúng ta tìm thấy một tình huống vô cùng lý thú. Hai cung năng lượng chính tự thể hiện qua các chủ thể chi phối Pisces, chính thống và huyền bí: Cung 1, Cung Ý Chí hoặc Quyền Năng, tập trung qua Pluto, và Cung 2, Cung BácÁi ‒ Minh Triết. Chính sự tương tác của hai sức mạnh này, sẽ:
1. Tạo ra nhị nguyên của cung hoàng đạo này.
2. Đưa tới vấn đề chính của Pisces – sự bén nhạy tâm linh..........
+ Sự nghiệp các Hành tinh: Như bạn biết, Pluto thay cho cái chết hay là vùng chết; Địa Cầu thay cho lĩnh vực kinh nghiệm; Nguyệt Cầu hay Vulcan thay cho sự ca ngợi, qua sự thanh luyện và tách rời, đối với vật chất, và Venus thay cho sự xuất hiện của nguyên khí bác ái qua sức mạnh chỉ đạo của thể trí. Các nhà nghiên cứu sẽ thấy lý thú khi vạch ra các hàm ý cho chính mình. Chiêm tinh học chính thống chỉ ấn định có hai hành tinh cho bốn cung hoàng đạo này, mà trong chính nó cho thấy một tương tác rõ rệt. Jupiter và các ảnh hưởng của nó cho thấy rằng con đường lâm phàm là phương pháp khai mở tiến hóa “có lợi” và rằng con đường bác ái ‒ minh triết (cung 2) là con đường cho nhân loại bước đi. Mercury chỉ rằng con đường ít đối kháng nhất cho nhân loại là hài hòa qua xung khắc, vì Mercury biểu hiện cho năng lượng cung bốn vốn thuộc bồ đề, trực giác và biểu hiện của Christ, vì Mercury và Mặt Trời là một. Nhưng các hành tinh nội môn thì lộ rõ hơn trong các suy đoán của chúng, và khi sẵn sàng cho ảnh hưởng của chúng, con người dường như đáp ứng theo cách tứ phân mà y không đáp ứng trong các giai đoạn trước kia. Chúng biểu hiện cho sự thừa nhận và các phản ứng vốn chi phối tâm thức con người khi y chuẩn bị chuyển ra khỏi Thập Giá Khả Biến và leo lên Thập Giá Cố Định. Do đó, y đến
1. Qua Venus – dưới mãnh lực trí tuệ, biến đổi thành minh triết qua phương tiện tình thương.
2. Qua Nguyệt Cầu – dưới sự giam nhốt của hình hài để nhờ kinh nghiệm của hình hài mà đạt được giải thoát và “nâng cao vật chất” (“uplift of matter”) trong Vulcan.
3. Qua Địa Cầu – dưới ảnh hưởng của kinh nghiệm hành tinh (vốn dị biệt với kinh nghiệm cá nhân) ngõ hầu chuyển hóa tâm thức cá nhân của y thành hiểu biết tập thể (group awareness).
4. Qua Pluto – dưới sức mạnh hủy diệt của cái chết – cái chết của dục vọng, cái chết của phàm ngã và của tất cả những gì đang giữ y giữa các cặp đối ứng (pair of opposites), để đạt được sự giải thoát cuối cùng. Pluto hoặc cái chết không bao giờ hủy diệt trạng thái tâm thức (conciousness aspect).
Do đó, sáu hành tinh cai quản Thập Giá Khả Biến xét về mặt nhân loại, và trong chính nó điều này có ý nghĩa, vì sáu là con số của công việc lớn lao của giai đoạn biểu lộ, là con số của “the Beast” (“Thú Vật”), vốn là bản chất thấp xét về con người, và là tất cả những gì đang tìm cách hủy diệt sự sống cao siêu, nhưng cũng là những gì có thể được kiềm chế và sau rốt được điều khiển bởi linh hồn. Ý nghĩa của các con số đi vào khoa chiêm tinh học nội môn và huyền số học (numerology) vì chính nó là một nhánh của chiêm tinh học nội môn. Bác Ái ‒ Trí Tuệ ‒ Kinh Nghiệm ‒ Sắc Tướng ‒ Sự Hiểu Biết của Con Người ‒ Tử Vong: đây là các chủ âm của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, giới nhân loại và chúng được tiêu biểu cho các ảnh hưởng của hành tinh đang tuôn đổ qua các hành tinh này từ các cung có quan hệ gần gũi của chúng.....
Qua hoạt động của các lực này, mà ở giai đoạn này các lực đó tác động qua Thập Giá Khả Biến, con người được dẫn tới một Chuyển Biến lớn về Sự Phân Hóa và tới một mức độ thay đổi cơ bản mà đối với thay đổi đó mọi thay đổi trước kia và nhiều thay đổi nữa đã chuẩn bị cho y....
Ngày nay, những con người ở hàng đầu của thời đại – đệ tử, người tìm đạo và giới trí thức (intelligentsia) – đều được thử thách dưới kinh nghiệm của Scorpio, trong khi quần chúng đều ở trong Scales; sức nặng của dục vọng của quần chúng (mass desire) sẽ chuyển đổi họ, hoặc là hướng lên quyết định tâm linh, hoặc là hướng xuống các mục tiêu vật chất và ích kỷ...........
Cùng một cách thức căn bản để xem xét ba Thập Giá có thể được tiến hành với Gemini, Taurus, Aries hoặc là đảo lại:
Aries, Taurus và Gemini, luôn luôn nhớ rằng Thập Giá Khả Biến chi phối vòng tuần hoàn (the wheel) trong tiến trình thông thường, còn Thập Giá Cố Định chi phối vòng tuần hoàn đó trên tiến trình đảo ngược trong giai đoạn đệ tử. Trong thực tế, Thập Giá Cơ Bản chi phối cả hai tiến trình, nhưng việc này chỉ được hiểu khi cuộc điểm đạo xảy ra. .....
Một luận đề có thể được viết ra dựa vào đề tài về sự liên hệ của các đối nghịch (opposites) trong vòng hoàng đạo, vì chúng thể hiện tinh thần và vật chất và mối liên hệ hỗ tương của chúng, cộng với sự tác động của các năng lượng định tính; đồng thời chúng làm chứng cứ cho sự kiện rằng hai đối nghịch đó là một, và chỉ là biểu hiện của Người chưa tiến hóa. Người tiến hóa cái dễ thay đổi lớn lao, tuy vậy là các Sự Sống tinh thần cố định và được khai mở. (Chiêm THNM)
+ Xem đầy đủ: Chỉ dẫn Xem Chiêm tinh học Nội - Ngoại môn
+ Chân Sư DK có 12 Gợi ý cho Chiêm tinh gia:
1. Khi thay các hành tinh nội môn = ngoại môn, nhiều thông tin sáng tỏ, và các ý tưởng của Tôi sẽ được xác minh.
2. Muốn phân biệt, sẽ thấy, hành tinh thánh thiện - dung hợp phàm ngã, hướng đến linh hồn; Hành tinh không thánh thiện ảnh hưởng đặc biệt đến phàm ngã; nhiều ánh sáng về sức lôi kéo giữa các cặp đối ứng sẽ đến.
3. Nghiên cứu 3 hành tinh bị che khuất bởi Mặt Trời và Mặt Trăng, là chủ thể chi phối, y sẽ có được nhiều hiểu biết do trực giác, hữu ích với đệ tử dự bị khi xét chủ thể cai quản ngoại môn, hay đệ tử với quản nội môn (CTHNM, 571)
1. Mọi trung tâm lực đều được chi phối bởi một trong các cung năng lượng.
2. Các cung năng lượng sử dụng các hành tinh thánh thiện - Không thánh thiện như là các môi giới truyền chuyển - trong chu kỳ thế giới này.
3. Nhân loại thông thường bị chi phối bởi các hành tinh ngoại môn; nhân loại tiến hoá, các đệ tử và các điểm đạo đồ bị chi phối bởi các hành tinh nội môn.
4. Cung Thái Dương - Hành tinh ngoại môn – Chi phối phàm ngã, cho biết sự kế thừa, trang bị và là một tóm tắt của những gì đã là, như vậy cung cấp nền tảng.
5. Cung mệnh, hành tinh ngoại môn, cho biết mục tiêu của linh hồn và con đường đến tương lai, cơ hội.
6. Lá số tử vi, với chung quanh cung Thái Dương, trở nên thích hợp đối với nhân loại thông thường. Các hành tinh ngoại môn chi phối và con người sống với các giới hạn 12 cung hoàng đạo.
7. Lá số tử vi với chung quanh cung mệnh, với hành tinh nội môn đang chi phối, sẽ truyền đạt vận mệnh của đệ tử giai đoạn đầu...
8. Cung Thái Dương, với với lá số tử vi của điểm đạo đồ; khi được đặt chồng lên nhau.....
9. Cung Thái Dương với chủ thể ngoại môn, cung mệnh với chủ thể quản nội môn và cả hai được đặt chồng lên nhau, vấn đề của đệ tử trong bất cứ lần luân hồi nào sẽ xuất hiện (CTHNM, 575)
+ Ba yếu tố Chân Sư DK dạy về độ chính xác các tiên đoán Chiêm tinh và diễn giải nó (CTHNM, 83)
1- Sức mạnh của các Hình tư tưởng đã tạo được liên hệ với 12 Cung
2- Trực giác nhà Chiêm tinh: Việc xem Lá số giúp đặt Chiêm tinh gia giao tiếp với cá nhân, nhưng điều này chỉ giúp chút ít cho mỗi bên, trừ khi trực giác và độ nhạy cảm của Chiêm tinh gia hiện hữu tích cực.
3- Năng lực của Chiêm tinh gia trong bất cứ giai đoạn nào khi đáp ứng với các thay đổi đang sảy ra luôn luôn, chủ yếu là ảnh hưởng Hành tinh và các Chòm sao. Do đó, cốt tủy là phải nắm bắt TRÌNH ĐỘ TIẾN HÓA của đối tượng (Tức nghiên cứu các Cung năng lượng)
+ Khoa Chiêm Tinh là 5 KHOA HỌC:
(1)- Các Cung;
(2)- Giải thích huyền bí;
(3)- Các Tam giác;
(4)- Các Trung tâm lực;
(5)- Khoa học về Vận Mệnh, khoa này dựa vào 4 Khoa học trước, và Lá số tiến bộ cá nhân là khởi đầu của khoa học này (CTHNM,99).
+ Các Chiêm tinh gia quan tâm trước tiên đến ba loại năng lượng (LVHLT, 434):
a/ Năng lượng của chòm sao mà Mặt Trời được an vị nơi đó vào lúc sinh ra.
b/ Cung mệnh (rising sign) mà con người sẽ đáp ứng.
c/ Mặt trăng vốn cai quản khía cạnh hình hài của con người, và nhất là hình hài vật chất.
Năng lượng của chòm sao đặc biệt hay là cung hoàng đạo (sign) mà trong đó một người được sinh ra có ý nghĩa sâu xa hơn là ý nghĩa đã được đề xuất từ trước đến giờ. Nó tiêu biểu hoặc chỉ ra vấn đề hiện tại của y, ấn định tốc độ phát triển hoặc nhịp độ (or tempo) của sự sống của y, và có liên quan đến tính chất của phàm-ngã của y. Nó chi phối, nếu Tôi có thể diễn tả nó như thế, trạng thái động (raja) hay trạng thái hoạt động của sự sống con người trong khi lâm phàm.
Cung mệnh (ascendant or rising sign) cho thấy đường lối mà toàn bộ năng lượng của con người có thể tuôn chảy theo đó, nếu y hoàn thành mục tiêu của một lần luân hồi nào đó. Dĩ nhiên nếu điều này được vận dụng đúng. Nó nắm giữ bí mật của tương lai của y, và theo biểu tượng và trong sự tìm hiểu về nó, y có thể tìm thấy đầu mối cho vấn đề về cuộc sống của y, và một dấu hiệu của những gì mà y có thể trở thành và thành đạt. Nó bộc lộ cho y loại thần lực vốn sẽ giúp cho y thành công. Khi được hoàn tất đầy đủ, điều này có thể được coi như tạo ra trạng thái điều hòa (sattva) hay là trạng thái hài hòa của cuộc đời y, vì khi nó thể hiện vai trò của nó và được vận dụng, nó tạo ra sự hòa hợp với ý chí của linh hồn trong bất kỳ lần luân hồi đặc biệt nào.
Trong ảnh hưởng của nguyệt cầu, chúng ta đã chỉ ra quá khứ của người được sinh ra. Nó tổng kết các hạn chế và các bất lợi mà y phải làm việc dưới các điều kiện đó, và do đó có thể được coi là tiêu biểu cho khía cạnh tĩnh (tamas) của vật chất, hay những gì vốn “ngăn giữ” và vốn – nếu được phép gây ảnh hưởng thái quá – sẽ tạo ra sự trì trệ (inertia). Trong thân thể mà con người được trang bị, có ẩn giấu cái bí mật của kinh nghiệm quá khứ, và mỗi nguyệt thể (lunar form, thể cảm dục – ND) mà nhờ đó chúng ta phải đạt đến sự biểu lộ thích đáng, bản chất nó là sản phẩm hoặc sự tổng hợp của toàn bộ quá khứ. Để Tôi xem liệu Tôi có thể diễn đạt chân lý hiện nay về chiêm-tinh-học theo hình thức đơn giản đến nỗi mà những người không biết chút gì về khoa học phức tạp này cũng có thể hiểu được.
Tháng sinh cho biết ngày của thời cơ. Cánh cửa được mở ra. Tháng đặc biệt mà trong đó một linh hồn đi vào luân hồi được biểu thị cho linh hồn đó bởi tháng mà trong đó linh hồn chuyển ra khỏi luân hồi (passed out of incarnation, chết) trong một chu kỳ sống trước đây. Thí dụ, nếu linh hồn đã qua đời trong tháng được chi phối bởi cung Leo, linh hồn sẽ trở lại luân hồi trong cùng cung đó, phục hồi dòng (thread) kinh nghiệm mà linh hồn đã để nó lại, và bắt đầu với cùng một loại năng lượng và với sự trang bị đặc biệt, mà cùng với những thứ đó linh hồn đã ra khỏi kiếp sống trần gian, cộng với sự thành tựu về tư tưởng và thái độ bàng quan hữu thức (conscious onlooking). Tính chất của năng lượng và bản chất của các mãnh lực cần được vận dụng trong kiếp sống được chỉ ra cho linh hồn theo cách này.
Cung mệnh, tiêu biểu cho một loại năng lượng khác nữa, sẽ mạnh lên (wax in strength) trong khi luân hồi, vì nó chỉ ra bản chất của thần lực linh hồn, mà đứa con đang nhập thể của Thượng Đế đang tìm cách vận dụng qua trung gian của một phàm-ngã đặc biệt, sở hữu một số đặc điểm nhất định.
Ảnh hưởng của mặt trăng chủ yếu là về thể chất. Nhà tù của linh hồn được ngụ ý như thế. Các trở ngại phải gặp được gìn giữ chắc chắn như thế; loại thể xác hoặc loại của các thể (bodies) mà qua đó mãnh lực của cung bổn mạng (native’s sign), và tính chất của năng lượng vốn sẽ đưa con người đến mục tiêu của mình được xác định như thế. Con người phải tự biểu lộ trên cõi trần thông qua các nguyệt thần (lunar lords), và những gì mà các thần này đã cung cấp cho y dưới hình thức là kết quả của kinh nghiệm quá khứ trải qua nhiều thời đại.
Do tuế sai (precession) của các phân điểm (equinoxes), một tình huống được mang lại, trong đó một loại thần lực thứ tư tự biểu lộ. Thực ra thì mặt trời ở nhiều cấp độ cách xa trong vòng tròn lớn của các cõi trời, từ nơi mà nó được cho là đang hiện hữu trong phạm vi liên quan với vòng hoàng đạo lớn (greater zodiac). Dĩ nhiên, đây là theo quan điểm của thời gian. Vì đường quét của mặt trời qua một chòm sao bao gồm một chu kỳ khoảng 2200 năm, sự dịch chuyển trong tiến trình các thế kỷ là rất nhỏ, quá nhỏ để ghi nhận sự dị biệt nhỏ bé đó trong việc lấy số tử vi hành tinh. Trong việc lấy số tử vi của một thái-dương-hệ, nó sẽ rất quan trọng, nhưng điều này cho đến nay vượt quá xa khả năng của các nhà chiêm tinh thông thái nhất trên hành tinh của chúng ta, đến nỗi việc thảo luận là không quan trọng.
Tuy nhiên, khi lấy lá số tử vi của một người được sinh ra trong một tháng đặc biệt (particular month), nên nhớ rằng (vốn rất ít khi được nhớ) hiện giờ tháng và cung hoàng đạo không ăn khớp chút nào. Ví dụ, thực sự thì mặt trời không ở trong cung Leo (Hải Sư) trong tháng tám. Do đó, việc giải thích chính xác một lá số phần lớn thuộc về trắc tâm (psychometrical) và tùy vào hình-tư-tưởng của chòm sao vốn đã được tạo ra trong nhiều kỷ nguyên bởi các nhà chiêm tinh. Năng lượng theo sau tư tưởng. Trong nhiều ngàn năm qua, một số loại năng lượng và các hiệu ứng định tính của chúng gây ra trên vật chất và hình hài đã được xem xét đại loại như thế. Vì vậy, chúng trở thành như thế rồi, ngoại trừ trong trường hợp của người tiến hóa cao, của người tìm đạo chân chính, tức là những người đã định hướng cho mình, và như thế thoát khỏi bánh xe của sự sống và bắt đầu chi phối các sao bổn mạng (stars) của mình, và thế là không còn dưới sự cai quản và sự thống trị của chúng nữa.
Chiêm tinh học bây giờ chủ yếu đề cập đến phàm-ngã vì đó là đối tượng mà người ta có thể lập lá số tử vi, và đề cập đến các sự kiện của sự sống phàm-ngã. Khi, nhờ tham thiền và phụng-sự, cộng với giới luật của các nguyệt thể, một người đi vào ảnh hưởng của cung linh hồn của mình một cách hữu thức và chắc chắn, lúc đó y mới chịu ảnh hưởng của một trong bảy thái-dương-hệ (seven solar systems), khi chúng tập trung năng lượng của chúng qua chòm sao này hoặc khác của các chòm sao, và rồi tới hành tinh này hoặc hành tinh khác trong bảy hành tinh thánh thiện. Cuối cùng sẽ có mười hai hành tinh thánh thiện, tương ứng với mười hai chòm sao, nhưng giờ thì chưa phải lúc. Như bạn biết, tháidương-hệ chúng ta là một trong bảy thái-dương-hệ. Khi một người đã đạt đến mức tiến hóa này, các tháng sinh, chiêm tinh học thế tục, và các ảnh hưởng đang tác động trên các khía cạnh hình hài trở thành ngày càng kém quan trọng. Quỹ đạo (circle) này của các thái-dương-hệ vô cùng ảnh hưởng đến linh hồn, và linh hồn trở thành tụ điểm của các năng lượng tâm linh. Đây là vấn đề của linh hồn trên cõi riêng của nó, − đó là sự đáp ứng với các loại năng lượng này, và, phàm ngã hoàn toàn không biết về các năng lượng đó.
Do đó, các cung (signs) rơi vào bốn loại: đất (địa), nước (thủy), lửa (hỏa) và gió (phong) có liên quan trước tiên đến người nào đang sinh hoạt phía dưới cơ hoành, và vận dụng bốn bí huyệt thấp: bí huyệt ở đáy cột sống, bí huyệt xương cùng, bí huyệt đan điền và bí huyệt lá lách. Nhóm bên trong của bảy năng lượng chính yếu hay năng lượng thái-dương-hệ tạo ảnh hưởng của chúng vào người nào đang sinh hoạt phía trên cơ hoành, và hoạt động qua bảy trung tâm tiêu biểu trong đầu. Bốn trong số đó tập trung qua bí huyệt cổ họng, bí huyệt tim, bí huyệt ấn đường và bí huyệt đầu. Ba bí huyệt ở trạng thái tiềm tàng trong khu vực của các bí huyệt đầu (hoa sen ngàn cánh) và chỉ đi vào hoạt động chức năng sau kỳ điểm đạo thứ ba. Do đó theo quan điểm của lá số tử vi (cũng như của vấn đề cá nhân), hiển nhiên là sự gặp gỡ này của các năng lượng của hai loại chòm sao sẽ rất phức tạp, trong trường hợp của người nào không thuần là con người mà cũng không thuần tâm linh. Lá số tử vi thông thường bị phủ nhận. Cho đến nay, lá số tử vi này không thể phác thảo ra được. Lá số tử vi duy nhất, về mặt cơ bản và đúng gần như không thể sai là lá số của một người hoàn toàn thuộc cấp thấp, sinh hoạt hoàn toàn dưới cơ hoành, và chỉ bị chi phối bởi bản chất thú tính của mình.
Các chiêm-tinh-gia cũng phải nhớ rằng có một vài hành tinh chưa được khám phá, chúng đang tạo ra các lực hút (pulls), các dịch chuyển và các dòng năng lượng tập trung trên trái đất của chúng ta, có xu hướng làm cho vấn đề phức tạp hơn nữa. Diêm Vương Tinh (Pluto) là một trong số các hành tinh đó, và hiện đã và đang biểu lộ (hay đúng hơn là được nhìn nhận) để nó sẽ được qui cho tất cả các tình trạng không giải thích được. Diêm Vương Tinh sẽ được biến thành con dê tế thần cho chiêm tinh học đầy khuyết điểm trong một thời gian dài sắp tới. Lá số (chart) này không hữu ích và thiếu chính xác bởi vì Diêm Vương Tinh phải có ảnh hưởng trong đó, mà chúng ta lại biết rất ít về Diêm Vương Tinh. Thế rồi, câu chuyện cứ tiếp diễn. Tuy nhiên, Diêm Vương Tinh đã và đang luôn luôn quay quanh mặt trời của chúng ta, và tạo ra các ảnh hưởng của nó. Tuy nhiên nó chi phối (govern) cái chết hoặc chấm dứt các ý tưởng và tình cảm cũ xưa, và do đó ảnh hưởng của nó phần lớn thuộc về trí não (cerebral) và trong đó bạn có đầu mối cho sự khám phá muộn màng về nó. Nhân loại chỉ mới ở ngưỡng của việc trở nên thiên về trí tuệ. Các ảnh hưởng của nó đang được cảm nhận trước tiên trong thể trí. Tên gọi của các hành tinh không phải là kết quả của sự lựa chọn độc đoán mà chính các hành tinh tự đặt tên cho chúng.
Cuối cùng các nhà chiêm tinh sẽ thấy là cần lấy ba lá số tử vi hay ba biểu đồ (charts):
1. Một thuần về vật chất bàn đến thể xác (body of nature);
2. Một chủ yếu về tình cảm, bàn đến tính chất (quality) của phàm-ngã và tính nhạy cảm của nó, hoặc trạng thái của ý thức;
3. Lá số thứ ba sẽ là biểu đồ về các xung lực và các tình trạng trí tuệ.
Người ta thấy rằng ba biểu đồ này sẽ chứa một vài đường hình học nhất định, các tuyến năng lượng sẽ tạo thành các mô hình. Ba biểu đồ này được xếp chồng lên nhau, sẽ cung cấp sơ đồ phàm-ngã, mô hình sự sống cá nhân. Các biểu đồ mang tính biểu tượng đáng ngạc nhiên và các hình thức trực hệ (lineal) sẽ được thấy xuất hiện khi điều này được thực hiện, và “hình học của cá nhân” sẽ nảy sinh ra từ đây, vì người ta sẽ thấy rằng mỗi đường (line) sẽ hoạt động liên quan đến một đường khác, và các xu hướng của các năng lượng sự sống sẽ trở nên rõ ràng. Cuối cùng, ngay cả trong bộ môn kiến thức này, “ngôi sao sẽ tỏa sáng ra”. Điều này sẽ tạo thành một chi nhánh mới của tâm lý học và người xuất chúng thực sự của nó trong kỷ nguyên chúng ta sẽ được tìm thấy đúng lúc. Tôi chỉ trình bày sơ qua các đường lối của chiêm tinh học tương lai để bảo vệ cho chiêm tinh học hiện tại.
Một điều mà các nhà chiêm tinh cần làm vào lúc này, đó là tính cho đúng giai đoạn chuyển tiếp này: ra khỏi cung Song Ngư, tiến vào cung Bảo Bình. Điều này hiếm khi được thực hiện, nhưng rõ ràng là sự xáo động dữ dội gắn liền với các chuyển đổi này ảnh hưởng đến lá số cá nhân, và thường hóa giải vận mệnh hoặc karma cá nhân. Con người bị chìm đắm trong vận mệnh hành tinh và chủng tộc, và các sự việc bé nhỏ của riêng họ bị hóa giải gần như hoàn toàn và đôi khi hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Không thể lấy số tử vi của hành tinh, những người dự định làm như vậy là lừa dối chính mình và những người khác. Lá số tử vi của giới thứ tư trong thiên nhiên, tức là của nhân loại, cuối cùng sẽ được lập, nhưng nó sẽ được thực hiện bởi các điểm đạo đồ, và không có nhà chiêm tinh được điểm đạo nào đang hoạt động trên cõi trần vào lúc này.(LVHLT, 434)
+ Chiêm Tinh Gia với Bí huyệt/ Luân xa
- Bí huyệt tim trong con người mở cánh cửa vào những gì được gọi là “tâm của Mặt Trời” (“heart of the Sun”).
- Bí huyệt cổ họng mở đường vào sự hiểu biết đầy đủ về đường đi của Mặt Trời vật chất, và tất cả các nhà chiêm tinh chân chính cuối cùng phải có bí huyệt đó hoạt động.
- Bí huyệt đầu mở đường tới Mặt Trời tinh thần trung ương,
===> Mỗi bí huyệt đi tới một trong những cõi vũ trụ, xuyên qua sự tương ứng hành tinh (LVHLT, 364)
+ Sự Hiểu biết tương ứng - Trí tuệ tương ứng của Chiêm tinh gia - Thầy dự đoán Số mệnh
Khi các ảnh hưởng này tuôn đổ qua hành tinh chúng ta và từ đó đi đến các trung tâm lực trên hành tinh, chúng tạo ra một hiệu quả song đôi:
1. Chúng tạo ra một hiệu quả nơi người tiến hóa, kích hoạt các trung tâm lực phía trên cách mô đi vào hoạt động và giúp cho con người đáp ứng với phóng phát (radiation) và hoạt động của Thánh Đoàn (Hierarchy).
2. Chúng tạo ra một hiệu quả nơi người kém tiến hóa giúp cho y hoạt động như một con người thông thường chưa giác ngộ.
Tuy nhiên, ở đây cần nên lưu ý rằng mọi năng lượng – thuộc hoàng đạo, thái dương hệ và hành tinh – đều có hiệu quả nhất định trên mọi sự sống trong mọi hình tướng trong tất cả các giới của thiên nhiên. Không gì có thể thoát được các ảnh hưởng bức xạ và từ lực này. Mục tiêu tiến hóa cho nhân loại là trở nên hiểu biết một cách sáng suốt và linh động về bản chất của các năng lượng này và bắt đầu biết đến chúng và vận dụng được chúng. Đây là lĩnh vực của huyền linh học như Thánh Đoàn đã luôn luôn dạy cho con người. Có thể nói rằng đệ tử phải hiểu biết một cách sáng suốt về các ảnh hưởng của hành tinh và bắt đầu sử dụng chúng cho việc xúc tiến mục đích của linh hồn. Điểm đạo đồ phải biết về các ảnh hưởng của hoàng đạo đang phóng phát ra bên ngoài của toàn thể thái dương hệ. (CTHNM, 29)
+ Lưu ý các Chiêm tinh gia: Liên quan với các cách phân chia theo tam bộ (decanates: Ngoại môn/ Nội môn/ Huyền giai). Tôi xin nêu ra rằng, những gì mà Tôi luôn luôn nhấn mạnh trong bộ luận này là cái mà chiêm tinh gia cần nghiên cứu lá số tử vi của một cá nhân, theo quan điểm về vị trí của y trên vòng hoàng đạo, và xem xét cách mà y đang tiến tới. Có phải y đang tiến chung quanh vòng hoàng đạo với tư cách một phàm ngã, hay là y đang di chuyển tới trước như một linh hồn? Xung đột mà tất cả mọi đệ tử bị lệ thuộc vào, có thể truy nguyên tới sự kiện rằng sự sống sắc tướng của đệ tử bị ảnh hưởng theo một hướng bởi vòng hoàng đạo, còn trạng thái tâm thức theo một hướng khác hoặc là theo hướng đảo ngược. Vị đệ tử tiến vào cung hoàng đạo dưới ảnh hưởng của cách phân chia theo tam bộ đó, mà đối với y là đích nhắm đầu tiên mà cũng là đích nhắm thứ ba đối với người thông thường. Điều này được dẫn chứng một cách đáng chú ý và một cách thực tế bằng chòm sao mà hiện nay chúng ta đang tiến vào. Theo quan điểm của đệ tử, ba cách phân chia theo tam bộ của Aquarius là Saturn, Mercury và Venus. Chính ở trong trình tự này mà chúng có ảnh hưởng đến y và đưa y tin tới theo cách ưa thích của y, như thế đem đến cơ hội qua xung khắc, sự giác ngộ của thể trí và sau rốt việc đạt được tình huynh đệ (brotherly love) mới là minh triết. Nói theo cách thông thường, đa số con người muốn vượt qua cung này xuyên qua Venus, Mercury và Saturn, vì người kém phát triển chịu ảnh hưởng bởi các tính chất này, chúng có thể được mô tả chính xác nhất như là trí tuệ do bản năng (instinctual mind), hay là tình thương (affection) (Venus), đó là tình huynh đệ ở dạng phôi thai; bằng sự phát triển từ thể trí qua hoạt động của Mercury; sau rốt, theo kết quả của phát triển này, sự xung khắc xảy đến và Saturn đưa tới cơ hội cho đau khổ, và qua đau khổ, học được cách chọn lựa đúng đắn, phân tích chính xác và quyết định dựa vào các giá trị cao siêu. Chiêm tinh gia phải thận trọng xem xét các điểm này. Nhưng vào lúc này, chúng ta đang ở vào điểm khủng hoảng và vấn đề chiếm các hàm ý rộng lớn hơn, vì lý do là lần đầu tiên trong lịch sử của mình, nhân loại đang bắt đầu leo lên Thập Giá Cố Định của bậc đệ tử, như vậy đảo ngược sự tiến bộ của họ trên vòng hoàng đạo. Nói chung, và do tỉ lệ lớn lao của những người tìm đạo và những người theo chủ nghĩa lý tưởng biết suy tư, nhân loại đang tiến vào cung Aquarius, xuyên qua cánh cửa mở rộng của Saturn. Đồng thời, một số người rất lớn đang ở trong giai đoạn không suy tư theo bản năng (non-thinking instinctual stage) còn tâm thức của họ chủ yếu còn thuộc vào thời Atlantis.
Những người này tiến vào xuyên qua Venus và do đó mà có xung khắc.
Theo Sepharial, ba phân chia theo bộ ba mà Virgo được chia trong đó, được chi phối bởi Thái Dương, Venus và Mercury, trong khi Alan Leo đưa ra cho chúng ta là Mercury, Saturn và Venus. Ở đây Tôi muốn nhắc bạn một điểm mà các chiêm tinh gia thường bỏ quên; đó là, trong trường hợp của đệ tử, Mercury và Thái Dương là các thuật ngữ có thể thay cho nhau.(Chiêm THNM)
+ Kiến thức cần học tương ứng: Toàn bộ lịch sử về hoàng đạo có thể được tóm tắt một cách sinh động tuy vẫn chính xác trong diễn đạt sau: có ba quyển sách mà ba loại người nghiên cứu và học hỏi trong đó:
1. Sách về Sự Sống – Các Điểm Đạo Đồ ‒ 12 chòm sao.
2. Sách về Minh Triết – Các Đệ Tử ‒ 12 hành tinh.
3. Sách về Hình Hài hay về Sự Biểu Lộ ‒ Nhân Loại – 12 Huyền Giai Sáng Tạo (12 Creative Hierarchies). (CTHNM, tr31)
Xem : Tổng hợp về xem Chiêm Tinh
+ Các cặp tương ứng và tương đồng:
* Trung đạo: Nói Trung đạo luận theo sắc tướng bao gồm sáu cõi chúng sinh (Dịch học gọi là Hậu thiên) thì là số 1. Theo Vô sắc tướng (Dịch học gọi là Tiên thiên) thì là số 0. Chư Phật, Bồ tát, La hán đều sinh ra từ Trung đạo. Trung đạo là Mẹ sinh ra hình tướng. Trung đạo ứng số 0 là Tánh không - Diệu Giác (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
I- Tương ứng Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ (Trời - Đất; Thiên - Địa)
+ Tương ứng Tam phân - Tiền vũ trụ biểu lộ: Hư không Linh Minh phân thân sinh ra Tam lửa gốc vũ trụ là Lửa/ Điện/ Ý chí - Lửa nhiệt/ Lửa Thái dương/ Trung đạo - Chuyển động/ Lửa Trí tuệ/ Lửa ma sát). Tương ứng theo thuyết Tam tài, ở Trời có Tam Quang tương ứng ba lửa gốc phổ chiếu vũ trụ của chúng ta là Mặt Trời - Mặt Trăng - Các vì Sao, tương ứng Tam tài là Trời - Đất - Người.
- Sơ đồ Tiền vũ trụ biểu lộ theo con số: THÁI CỰC- HƯ KHÔNG LINH MINH gọi là TRUNG ĐẠO theo quan điểm Vô sắc tướng - Tiền vũ trụ - Vũ trụ đang khởi sinh. Đây là Chân Thái cực, xuất sanh ra chư Phật, Bồ Tát và A La Hán. Ứng số 0 - Trung đạo Chân thật là Không (Chuyển Thức thành Chí - Chuyển từ Linh hồn thành Ý chí bản nguyên vũ trụ)
+ Tương ứng Nhị phân - Vũ trụ biểu lộ thành Trời - Đất (Thiên - Địa): THÁI CỰC- LƯỠNG NGHI cũng gọi là TRUNG ĐẠO theo quan điểm Sắc tướng. Vũ trụ đã hình thành Trời - Đất, tức Thái cực sinh Lưỡng nghi Âm - Dương. Ứng số 1 trong Nhị phân Âm - Dương tương ứng con số 0 - 1. Trong trường hợp Hậu thiên đã hình thành Vật chất này, số 0 là biểu thị cho KHÔNG LÀ Vật chất để phân biệt với số 1 là LÀ VẬT CHẤT, ví như các cặp đối ứng Không có và Có như: Tinh thần/ Vật chất; Có/ Không; Khí/ Hình ..., từ đây phân thân liên tục, liên tục sinh ra muôn loài, muôn vật cái gì cũng có. Ứng số 1 - Trung đạo ẩn tàng Âm Dương trong đó. (Xem như Linh hồn, Thức thứ 8 hay Tàng thức luân hồi)
+ Tương ứng Đạo Pháp qua con số (các Quy luật - Chu kỳ - Tiên thiên - Hậu thiên)
-Trong ngoài Tiên thiên và Hậu thiên theo con số:
-Thành - Trụ - Hoại - Không
-Sinh - Lão - Bệnh - Tử
+ Tương ứng Đạo Pháp Vũ trụ qua Các Đại - Các Hành
III. Trung đạo - Điểm quân bình với Libra trong Chiêm tinh học Nội môn:
Như bạn biết, Libra chi phối đức tin hợp pháp và nắm giữ các cán cân giữa cái gọi là phải và trái, giữa âm và dương, cũng như giữa Đông và Tây. Điểm điều chỉnh sau cùng này có thể dường như đối với bạn là một câu vô nghĩa, nhưng khi mối liên hệ đúng và thực được thiết lập giữa Đông với Tây (vốn chưa xảy ra trường hợp này) nó sẽ đến qua hoạt động của Libra và công việc của đức tin hợp pháp (legal profession). “Libra là tác nhân bảo trợ của luật pháp”. Việc soạn thảo luật pháp từ trước đến giờ đã bị chiếm hết thời gian, với việc buộc phải tuân theo các phủ nhận và các thái độ sợ sệt vốn được duy trì đối với chúng ta trong bộ luật của Mose (luật Do Thái cổ), và được áp đặt qua phương tiện/ cách (medium) trừng phạt do vi phạm. Điều này hẳn là giai đoạn cần thiết cho các giống dân ấu trĩ (child races) và việc cho bảo tồn một “chế độ nhà trẻ” (“nursery regime”) đối với con người. Nhưng nhân loại đang đạt tới trưởng thành nên một cách diễn giải khác về các mục tiêu và các chủ đích (intents) của Libra qua trung gian của luật pháp bây giờ là cần thiết. Luật pháp phải trở thành kẻ bảo quản công lý tích cực chứ không chỉ là khí cụ của sự cưỡng chế (enforcement). Giống như chúng ta đang cố gắng gạt bỏ bạo lực (force) ra khỏi các mối liên hệ quốc gia của chúng ta, và giống như điều hiển nhiên hiện nay là tiến trình của các hình phạt mạnh mẽ đã không thành công trong việc ngăn chặn tội ác, hoặc trong việc ngăn chặn con người khỏi sự ích kỷ cực độ (vì đó là những gì mà mọi tội ác đang có), và giống như cách hành xử xã hội (khác với lập trường chống xã hội của tất cả những kẻ phạm luật), đang được xem như đáng ao ước và được giảng dạy trong các trường học của chúng ta, cũng thế, nó đang bắt đầu hiện ra trong ý thức quần chúng mà việc in sâu các liên hệ đúng và việc lan rộng khả năng tự chủ, và việc phát triển lòng vị tha (và các điều này chắc chắn là mục tiêu, thuộc về bên trong và thường không được hiểu rõ, về mọi phương thức hợp pháp) là sự tiếp cận cần thiết đối với thanh niên. Ảnh hưởng của cung Thiên Xứng (Libra) sẽ được đặt vào giới trẻ theo các đường lối tinh thần. Tội ác sẽ bị dập tắt/ loại trừ khi các tình trạng chung quanh nơi trẻ con sinh sống trở nên được cải thiện, khi sự chăm sóc vật chất được đưa ra trong các năm tạo hình đầu tiên đối với sự thăng bằng của các tuyến (glandular balance) cũng như đối với răng, mắt và tai, đối với tư thế đúng và việc nuôi nấng chính xác, và khi cũng có việc phân chia thời gian thích hợp hơn; khi tâm lý học nội môn và chiêm tinh học nội môn đưa ra sự đóng góp kiến thức của chúng vào việc nuôi dạy người trẻ tuổi. Các phương pháp cổ xưa phải nhường chỗ cho các phương pháp mới, và thái độ bảo thủ phải bị loại bỏ có lợi cho việc huấn luyện và thực nghiệm về tôn giáo, tâm lý và thể chất, được áp dụng một cách khoa học và được cổ vũ về mặt thần bí. Khi Tôi nói về tôn giáo, Tôi không đề cập tới sự giảng dạy có tính giáo điều hoặc có tính thần học. Tôi ám chỉ sự vun trồng các cách hành xử và các tình trạng vốn sẽ khơi hoạt tính thực tế trong con người, đưa chân nhân bên trong đến vị trí tối quan trọng (foreground) của tâm thức và nhờ thế tạo ra sự nhận thức về Thượng Đế Nội Tại.(Chiêm tinh học nội môn)
III- Quy luật tương ứng Con người và Cảnh vật [Trong - Ngoài)
+ Tương ứng Chánh - Y báo (Người - Cảnh/ Không gian sống): Con người sinh ra có xác thân là Chánh báo. Y báo là hoàn cảnh sống bao gồm phong thủy nhà cửa, không gian sống, áo quần, giầu nghèo ... Theo luật nhân quả, "Tất cả do Tâm tưởng sanh. Bên trong có gì, bên ngoài có cái đó, từ nhà cửa, tiền tài, danh vọng ... cho đến quỷ thần nhiêu loạn chướng ngại đều tuân theo quy luật tương ứng trong ngoài.
+ Tương ứng Thân - Tâm: Tát cả do Tâm tưởng sanh. Trong Tâm có thì ngoài cảnh có. Sửa Tâm chuyển thì cảnh chuyển. Chỉ sửa cảnh thì Tâm chẳng sửa thì chẳng mấy ích lợi. Ví như sửa Phong thủy và sử dụng Vật phẩm phong thủy theo Mệnh ...
-Trong Tâm Trí suy nghĩ thiện ác thì Ngoài Tướng mạo, hành vi biểu lộ rõ thiện ác
+ Tương ứng pháp Tâm Trí Chánh - Tà (Cát - Hung; Họa - Phúc)
+ Tương ứng Pháp:
+ Phân chia giới tính: Tội lỗi của kẻ không có thể trí (the mindless) có liên quan với thời kỳ phân chia giới tính vào đầu giống dân chính thứ ba (early third rootrace), căn chủng Lemuria. (LVLCK, 563)
+ Phân chia giới tính: Ngày nay, những con người ở hàng đầu của thời đại – đệ tử, người tìm đạo và giới trí thức (intelligentsia) – đều được thử thách dưới kinh nghiệm của Scorpio, trong khi quần chúng đều ở trong Scales; sức nặng của dục vọng của quần chúng (mass desire) sẽ chuyển đổi họ, hoặc là hướng lên quyết định tâm linh, hoặc là hướng xuống các mục tiêu vật chất và ích kỷ.
Chính vì tính chất cân bằng này trong Libra mà chòm sao này có thể được kết hợp một cách đặc biệt với vấn đề phái tính hơn là bất cứ chòm sao nào khác. Phái tính (sex) thường có liên quan trong trí tuệ của nhà nghiên cứu chiêm tinh học bậc trung với cung Taurus và Scorpio. Có lẽ điều này do bởi sự kiện là Kim Ngưu (the Bull) rất thường được xem như là biểu tượng của các thôi thúc rất dại dột của nguyên khí giới tính thiếu kiểm soát và bởi vì trong Scorpio, các thử thách cơ bản được áp dụng. Đối với hầu hết những người tìm đạo (aspirants) trong các giai đoạn ban đầu, giới tính nhất định tạo ra một vấn đề cơ bản. Tuy nhiên, về mặt nội môn, chính trong Libra mà toàn bộ vấn đề nảy sinh và sẽ nảy sinh ngày càng nhiều để đáp ứng, và chính trong Libra mà sự thăng bằng của các cặp đối ứng phải xảy ra và đạt tới cách giải quyết qua hoạt động của thể trí biết phán đoán, và việc thiết lập một điểm quân bình giữa nguyên khí dương với nguyên khí âm. Điều này lại (vì đó là một mẫu của biểu tượng học có định kỳ) là vấn đề hiện có thực về mặt cơ bản giữa Cừu với Dê, giữa tiêu cực với tích cực, và giữa những người mù quáng đi theo hoặc bản năng hoặc tập quán với những người tự do đi theo hướng mà họ chọn và được tự định hướng trong cách hành xử và thái độ. Sự tự định hướng này có thể đưa họ hoặc là hướng về vòng sinh hóa, đi theo dục vọng ích kỷ, hoặc là hoài bão tinh thần, nhưng điểm cần nhớ là một cách có phán đoán, có chủ đích và sau sự quán tưởng đúng đắn và cân nhắc các đường lối khác nhau, bấy giờ họ làm theo như họ muốn 234 và dường như đối với họ là đúng và đáng ước muốn. Tự nó đây chính là một hữu ích cơ bản và nhờ có nó họ mới có dịp học hỏi; vì mọi hành động đều tạo ra các hậu quả, nên một thể trí biết phán đoán sẽ cân nhắc nguyên nhân và hậu quả một cách chính xác hơn bất cứ thể trí nào khác.
Ở đây Tôi không định đưa ra giải pháp về vấn đề giới tính. Tất nhiên nhân loại sẽ giải quyết vấn đề đó khi các thiên kỷ trôi qua và khi bản năng hợp đoàn (herd instinct) thay chỗ cho cách hành xử có mưu tính trước và thái độ hữu ngã thức của người tìm đạo và giới trí thức. Tuy nhiên, Tôi xin nhắc nhở bạn rằng khi liên quan đến giới tính, thì bản năng hợp đoàn có nền tảng của nó, hoặc là ở trong ước vọng bình thường và ước vọng theo bản năng thú tính tự nhiên, hoặc là theo các quan điểm tình cảm, và trong số các loại này thì loại cuối cùng tệ hại hơn cả, và mang theo với chúng những mầm mống ăn sâu hơn cả của phiền toái. Chúng xếp theo đủ mọi hạng, từ giai đoạn luyến ái tự do (free love) và một tình trạng hỗn tạp chung đối với quan điểm hẹp hòi của chính thống, và quan điểm bảo thủ hạn hẹp của Cơ Đốc giáo, như quan điểm được hiểu một cách bình thường mặc dù không theo ý nghĩa mà trong đó sự sống được xét theo quan điểm Christ. Quan điểm chật hẹp này và thái độ Anglo-Saxon bình thường (một hậu quả của giáo huấn thời Trung Cổ) xem tính dục (sex) như là phạm tội một cách khác thường, luôn luôn gây khó chịu, và như một điều gì đó cần quên đi và vượt qua, và giữ một cách kín đáo ở vị trí kín đáo (background) của ý thức Cơ Đốc giáo, nơi mà nó được ẩn giấu như là một bí ẩn dâm đãng.
Một lần nữa, điều này là do ảnh hưởng của Thánh Paul chứ không do giáo lý của Đức Christ........
Giáo huấn về các thói quen tính dục sai lầm, thí dụ về tình trạng mãi dâm lan rộng (Tôi dùng thuật ngữ này cho cả người nam cũng như người nữ), sự phát triển của đồng tính luyến ái (không hiện hữu dưới các hình thức sinh lý học hiếm hoi và các tố bẩm của nó, trừ phi theo quan điểm của một tâm tính lệch lạc và một tưởng tượng không lành mạnh, mà ngày nay đang nằm đàng sau rất nhiều trong biểu lộ của nó), sự thừa kế trí óc hạn hẹp của Cơ Đốc giáo về “phức cảm phạm tội” (“guilt complex”) về phương diện tính dục và sự kế thừa đối với các thể xác bệnh hoạn và có khát vọng tình dục quá độ hoặc yếu sinh lý, đã đưa nhân loại đến cách ứng xử thiếu sáng suốt và hỗn độn hiện nay đối với vấn đề quan trọng của nhân loại. Giải pháp sẽ không dược tìm thấy qua các phán quyết của tôn giáo, căn cứ trên một lý thuyết lỗi thời, hoặc là qua sự ức chế sinh lý hay là sự cho phép được hợp pháp hóa; không một giải pháp nào sẽ đến qua việc ban hành luật, được thúc đẩy bởi các trường phái tư tưởng khác nhau trong bất cứ cộng đồng hoặc quốc gia nào. Đó sẽ là kết quả của hoạt động hợp nhất của tâm thức trí tuệ thiên về tâm linh, thái độ phán đoán, nhận thức trí tuệ và sự thôi thúc kiên định của diễn trình tiến hóa. Không gì có thể ngăn chận tính tất yếu của giải pháp và việc xuất hiện của các thái độ và tình trạng đáng mong mỏi trong đó tính dục có thể tìm thấy biểu hiện đúng. (Chiêm tinh học NM)
+ Tiến trình thiền định qua Cung Hoàng Đạo: Cung Hoàng đạo Libra - Thiên Bình có thể được nói đến bằng các thuật ngữ về tiến trình thiền định như được chỉ dạy cả ở Đông lẫn Tây. Năm giai đoạn này diễn ra song song trong 5 cung hoàng đạo hoàn toàn thuộc con người:
1. Leo – Định trí – Sự sống linh hồn được tập trung trong hình hài. Sự biệt ngã hóa. Ngã thức. Người kém phát triển và người bình thường. Kinh nghiệm con người.
2. Virgo – Thiền định – Sự sống linh hồn, như được cảm nhận trong con người, giai đoạn ấp ủ hoài bão. Giai đoạn Christ ẩn tàng. Người thông tuệ. Phàm ngã, dưới hình thức che giấu sự sống Christ.
3. Libra – Đại định – Sự sống của linh hồn và sắc tướng được quân bình. Không cái nào chiếm ưu thế. Trạng thái cân bằng. Khoảng giao thời trong đó linh hồn tự tổ chức cho trận chiến, còn phàm ngã đang chờ. Đây là con đường dự bị. Nhị nguyên tính được thấu triệt.
4. Scorpio – Giác ngộ ‒ Linh hồn chiến thắng. Kinh nghiệm trong Taurus được hoàn thành. Huyễn cảm thuộc cõi cảm dục tan biến. Ánh sáng linh hồn tuôn đổ vào. Con Đường của Đệ Tử. Vị Đệ Tử.
5. Sagittarius – Linh hứng – Chuẩn bị điểm đạo. Linh hồn truyền cảm hứng cho sự sống phàm ngã. Linh hồn tự biểu lộ qua phàm ngã. Điểm đạo đồ. (CTHNM, 257)
+ Các giai đoạn thiền định ứng cung Hoàng đạo: Tôi muốn chỉ ra cho các bạn đã nghiên cứu chiêm tinh nội môn ở một mức độ nhất định rằng mỗi một trong những giai đoạn thiền định này tương quan với một dấu hiệu chiêm tinh. Ví dụ, sự tập trung tương ứng với Leo, với vòng tròn có dấu chấm ở tâm là Mặt trời, kết hợp tất cả lại với nhau, không để trí của bạn phân tán. Tiếp đến tham thiền là sự tập trung suy nghĩ kéo dài trên một chủ đề nhất định, được cai quản bởi Xử Nữ. Rồi chiêm ngưỡng hay đại định, trong đó chúng ta học cách lướt vào trạng thái thiền định đang diễn ra của linh hồn, chủ thể và đối tượng hợp nhất, là một yếu tố Thiên Bình. Kế tiếp là Khai Ngộ thường được cho là liên quan đến Kim Ngưu, và chắc chắn có liên quan đến Mẹ của Ánh Sáng, Kim Ngưu, nhưng trong trường hợp này, nó liên quan đến Bọ Cạp, và khai ngộ có nghĩa là cuối cùng chúng ta đã thâm nhập vào phân cảnh giới dĩ thái vũ trụ đầu tiên, tức cõi Bồ đề của Thái dương hệ. Cuối cùng là linh hứng tương quan với Nhân Mã, nơi bạn bắt đầu chạm vào hơi thở thiêng liêng của Chân thần. Có sự tương quan thú vị ở đây liên quan đến Cung 6: Chân thần ở cõi thứ 6, Nhân Mã là dấu hiệu cung 6 chính yếu vào lúc này. Sau Nhân Mã là Ma Kết gắn liền với sự điểm đạo, Bảo Bình với phổ quát hoá và Song Ngư với đồng nhất hoá. (Nguồn: Thư của thày Hiệu trưởng)
Xem Tham thiền - Nhập định và những nguy hiểm cần tránh và Tổng quan về Tham Thiền
+ HÌNH THÀNH VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CON SỐ - BỘ SỐ HAY NHÓM CÁC SỐ ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG NHÂN LOẠI VÀ DỰ ĐOÁN THIÊN CƠ
I- Ý NGHĨA BỘ SỐ THEO MINH TRIẾT MỚI VỚI NHÂN LOẠI TIẾN HÓA TRONG KHÔNG - THỜI GIAN
+ Bộ số trong Không - Thời gian: ..... Năm bí huyệt với 48 ánh hoa của chúng do đó được tổng hợp thành hoa sen có 2 cánh hoa, và khi đó chúng ta có 48 cộng với 2 bằng 50, con số của phàm-ngã hoàn thiện, vì 5 là con số của người và 10 là con số của sự hoàn hảo. Cũng về mặt biểu tượng, nếu tổng số của 48 cánh hoa của 5 bí huyệt được thêm vào 96 cánh hoa của bí huyệt giữa hai lông mày, số 144 hiện ra. Con số này có nghĩa công việc được hoàn thành của 12 Huyền Giai sáng tạo, 12 lần 12 và do đó tập hợp linh hồn chủ quan và thể xác khách quan trong sự hợp nhất và sự nhất-quán hoàn hảo. Đây là viên mãn. Số 144 cộng với các con số này, tức số 1000 (số cánh hoa trong hoa sen của bí huyệt đầu), và bạn có số của những người được cứu trong Sách Khải Huyền (Book of Revelations), 144.000 người có thể đứng trước mặt Thượng Đế, vì ba con số không (000 − ciphers) được tìm thấy ngụ ý cho phàm-ngã. Khi con người đã hoàn thành nơi y công việc vĩ đại, khi số 144.000 được xem như tượng trưng cho mức độ thành tựu của y, bấy giờ y có thể đứng trước Thượng Đế − bấy giờ không chỉ trước khi Thiên Thần của Bản Lai Diện Mục (Angel of the Presence) mà là trước chính Bản Lai Diện Mục (Presence Itself). (LVHLT, 200)
+ Số 3: Bản chất là 3 x 3 = 9. Như vậy 9 có bản chất cấp 3 (LVLCK, 1165). Cũng theo LVLCK, Ba cung gốc tự phân thân, mỗi cung làm 3 loại năng lượng => Có 3 nhóm, mỗi nhóm có 9 năng lượng;
+ Bộ số 666 - 777 - 888: Không hề có sự cố định về thời gian tạm ngưng, đó chỉ là vấn đề nhu cầu của linh hồn mà thôi; (VLH, 199)
+ Người ta cho rằng bí nhiệm ẩn tàng trong 777 lần luân hồi. Con số này đem lại cơ hội cho nhiều suy gẫm. Cần nói rõ rằng đó không phải là con số chu kỳ luân hồi mà con người phải vượt qua nhưng nó nắm giữ chìa khóa cho 3 chu kỳ chính đã nói trước (chu kỳ của Chân Thần, chu kỳ của Chân Ngã, và chu kỳ của Phàm ngã –ND). Trước tiên, con số này áp dụng cho Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống hành tinh chúng ta chứ không phải cho các hành tinh hệ khác. Mỗi Đức Hành Tinh Thượng Đế có con số của Ngài, còn con số của Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta ẩn giấu trong 3 con số nói trên, cũng như 666 và 888 nắm giữ cái huyền bí được che giấu của hai Đức Hành Tinh Thượng Đế khác. Số 777 này cũng là số chuyển hóa, vốn là công việc căn bản của tất cả các Hành.
II- Ý NGHĨA BỘ SỐ THEO PHẬT GIÁO VỚI NHÂN LOẠI TIẾN HÓA TRONG KHÔNG - THỜI GIAN
Bắt đầu từ một. Có một thì sau này mới có hai. Có hai rồi lại có ba, có bốn, có năm, cho đến vô số trăm ngàn, muôn vạn v.v..., đều từ một mà phát xuất ra. Vì vậy, một là vô số, vô số là một. Nếu không có một thì không có vô số. Nếu không có vô số thì không có một. Vì tôi biết rằng con số trong toán học bắt đầu bằng số một. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh -3 - HT Tuyên Hóa giảng)
III- Ý NGHĨA BỘ SỐ THEO DỊCH HỌC VỚI NHÂN LOẠI TIẾN HÓA TRONG KHÔNG - THỜI GIAN
+ ... Do đó, 6 hành tinh cai quản Thập Giá Khả Biến xét về mặt nhân loại, và trong chính nó điều này có ý nghĩa, vì sáu là con số của công việc lớn lao của giai đoạn biểu lộ, là con số của “the Beast” (“Thú Vật”), vốn là bản chất thấp xét về con người, và là tất cả những gì đang tìm cách hủy diệt sự sống cao siêu, nhưng cũng là những gì có thể được kiềm chế và sau rốt được điều khiển bởi linh hồn. Ý nghĩa của các con số đi vào khoa chiêm tinh học nội môn và huyền số học (numerology) vì chính nó là một nhánh của chiêm tinh học nội môn. Bác Ái ‒ Trí Tuệ ‒ Kinh Nghiệm ‒ Sắc Tướng ‒ Sự Hiểu Biết của Con Người ‒ Tử Vong: đây là các chủ âm của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, giới nhân loại và chúng được tiêu biểu cho các ảnh hưởng của hành tinh đang tuôn đổ qua các hành tinh này từ các cung có quan hệ gần gũi của chúng.(Chiêm THNM)
Xem thêm sự biểu lộ vũ trụ qua con số và phân thân: Hư Không - Thái cực - lương nghi
+ Tâm bình: .... Lục Tổ dạy: Lòng bình đẳng đâu cần giữ giới: Bình chính là không có tham sân si. Tại sao quý vị cần phải trì giới, vì có tam độc tham sân si. Nếu năng trì giới luật, thì không bị tam độc làm hại. Nếu tâm bình, chính là trong tâm không có sóng, không có sóng chính là không có vô minh. Không có vô minh, thì cần gì phải cực khổ trì giới. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tâm thư thái an nhiên:
"Như như bất động tâm quân thái, (như như bất động tâm thư thái)".
Như như bất động tức là không pháp nào mà không như như. Tất cả pháp đều là như pháp. Mọi phiền não, chướng ngại đều không có. Như như bất động cũng là định lực. Tâm quân thái nghĩa là tâm luôn luôn thư thái an nhiên.
Kinh Pháp Hoa nói :"Kỳ tâm thái nhiên (tâm thư thái an nhiên này)". (Nguồn tại: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Bình thản - Tâm Bình: ... Bậc không còn bị kẹt trong sanh tử. Sanh tử không có gì xa xôi cả, sanh tử là những chuyện hằng ngày mình cứ bị kẹt vào, bị vướng vào, bị dính vào, những thứ mà mình không thể nào tự tại được; mìnhnhìn và mỉm cười được. Những chuyện mà mình gọi là bị đụng độ. Mình đang ngồi ngon lành, có người tới ngồi cạnh bên mình ồn ào, là mình chịu không nổi rồi. Các Bác tưởng đi xi nê là sung sướng, nào ngờ Bác vô ngồi, người sau lưng để cái chân lên đầu của mình. Bác ngồi máy bay cũng vậy, Bác tưởng mình ngồi có thể bay sung sướng, không ngờ vừa ngồi, hai người bên cạnh dành đồ để tay cầm của Bác lên, hất tay của Bác xuống. Nhiều khi Bác muốn để vali lên trên, không còn chổ để nữa, thành ra đụng độ nhiều cái. Nhiều trường hợp Bác muốn theo ý mình, mà không theo ý mình được. Nhiều khi Bác tức giận lung tung cả. Nhiều khi con cái mình, mình nói nó đường này, nó nói đường khác. Ý mình như vậy mà nólại nghĩ chiều khác. Chồng vợ cũng vậy, nhiều khi mình nói, mình nghĩ là người ta hiểu mình, té ra không hiểu gì hết; làm cho mình cứ giằng co mãi. Chuyện nhỏ thôi Bác, tại sao mà ngày nào mình cũng phải đối phó với nó, ngày nào mình cũng phải đụng độ với nó. Chữ đụng độ là chữ người Việt mình dùng rất là hay; đụng giống như xe đụng đó Bác, không thể kiểm soát được. Bác đụng độ mà, đụng xong rồi thế nào cũng nổ cái đùng lên, và làm cho mình không bình an nữa... (Thầy Hằng Trường giảng Chú Đại Bi)
Xem: 66 Lời Phật dậy trong cuộc sống
Xem: Lời Phật dậy về đạo làm người
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạo - Điểm đạo
+ 69. GIỮ GIỚI CÓ NĂM CÔNG ĐỨC
1. Cầu gì đều được như nguyện.
2. Tài sản đã có thì thêm mãi không hao sút.
3. Ở đâu cũng được mọi người kính mến.
4. Tiếng tốt đồn khắp thiên hạ.
5. Thân hoại mệnh chung được sanh lên cõi trời. Nguồn: mục 69- (Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
+ Trì giới - Sám hối có công đức có thể hóa giải - Tiêu trừ nghiệp chướng:
... Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám.
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng.
3. Tiêu trừ nghiệp chướng: Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Tuy họ nghiêm trì giới luật rất thanh tịnh, thật là hiếm có, được mọi người rất khen ngợi. Thế nhưng họ còn phiền não. Tức là họ còn thấy người này phá giới, người kia không trì giới. Họ còn có những phân biệt này, nếu còn có những phân biệt này thì công đức trì giới của họ bị phá hoại thì họ làm sao được định. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại trong đàn Kinh có nói “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” tức là người thật sự trì giới tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Người thế gian đã phạm nhiều lỗi lầm, nếu như họ thật không thấy thì họ trở thành mất chứng ngu đần sao? vậy cái gì gọi là không thấy nghĩa là thấy như không thấy, tuyệt không để trong tâm.....(Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối nghiệp chướng)
+ Giới tức là một thế giới riêng biệt cho căn, trần và sắc:
- Thí dụ nói về cái thấy chúng ta có 3 giới là:
1. Căn là Nhãn giới - Căn mắt
2. Trần là Sắc giới - Là các vật, đối tượng như nhà cửa, xe cộ
3. Thức là Nhãn thức giới - Là cái biết của sự thấy.
=> Mà Con người chỉ có 18 giới
- 6 giới của căn: Nhãn giới, Nhĩ giới, Tỷ giới, Thiệt giới, Thân giới, Ý giới.
- 6 giới của trần: Sắc giới, Thanh giới, Hương giới, Vị giới, Xúc giới, Pháp giới.
- 6 giới của thức: Nhãn thức giới, Nhĩ thức giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới và Ý thức giới.
Tổng cộng: 18 giới mà thường được gọi là thập bát giới.
+ Nội Ngoại của 18 Giới:
- 6 Nội giới: 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) trong cơ thể, gọi là nội giới;
- 6 Ngoại giới: 6 trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm, các pháp) bên ngoài, gọi là ngoại giới;
- 6 Trung giới - Ở giữa: 6 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) ở giữa giúp 6 căn nhận biết 6 trần, gọi là trung giới. (Xem nguồn.)
+ Mười Tám Giới - HT Tuyên Hóa giảng về Các Thức Phát Sinh Phân biệt:
" Lại nữa, A-nan, như ông thường biết được rằng, như ông đã rõ, ông đã được nghe giáo lý quyền thừa trước đây. Giáo lý quyền thừa đề cập đến năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Ông đã hiểu được toàn bộ giáo lý nầy. Nhưng, giáo lý về mười tám giới chỉ được diễn bày như là một pháp môn phương tiện cho hàng Nhị thừa và ngoại đạo để dẫn dắt họ. Nay Như Lai sẽ giảng giải giáo lý ấy thật chi tiết. Đừng trở nên chấp trước với những pháp trần nầy. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Mười Tám Giới: Trích đoạn Đức Phật dậy..... Lại nữa, A-nan, thế nào mà 18 giới vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng? Giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo A-nan, "Thế nào mà 18 giới vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng?"
Mười tám giới là những gì? Là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý–cùng với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; cộng thêm sáu thức nữa: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Cả ba nhóm gộp lại thành 18. Sáu căn đi với sáu trần, giữa hai cái nầy phát sinh ra sáu thức. Thức được định nghĩa như là tạo nên sự phân biệt, Căn (các giác quan) được xem là nơi các chức năng tri giác ấy phát xuất, nó có gốc là thân thể của chúng ta. Trần (cảnh, đối tượng) được định nghĩa như vậy là do phẩm tính của nó là nhiễm ô. Nó không thanh tịnh, nên nó làm nhiễm ô bản tính của sáu căn. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì các thức sinh khởi. Mắt thấy sắc liền sinh khởi phân biệt như đẹp hoặc là xấu xí. Khởi tâm thích hoặc không thích hình sắc ấy, nên có sự phân biệt. Ở tai cũng như vậy: nghe tiếng êm dịu hoặc không êm dịu, hoặc thích nghe hoặc không thích nghe âm thanh ấy. Khi sinh khởi tâm phân biệt như vậy được gọi là nhĩ thức. Mũi ngửi được mùi thơm và mùi thối. Hai hương trần thơm và thối cũng được phân biệt như trên vậy. Quý vị có thể thích hương thơm và không thích những mùi hương khác, như vậy là trong quý vị đã sinh khởi tị thức. Lưỡi phân biệt được mùi vị. Khi lưỡi (thiệt căn) đi chung với mùi vị (vị trần[41]) liền có sự phân biệt về mùi vị, hoặc là dễ chịu hoặc là ghê tởm–mình có thể thích hoặc không thích, Thân căn đi chung với xúc trần–trơn láng hoặc xù xì, thô ráp hoặc mịn màng, có nhiều dạng cảm giác khác nhau, hoặc ưa thích hoặc không ưa thích. Thân căn đi chung với xúc trần sẽ làm phát sinh thân thức để phân biệt những cảm giác nầy.
Ý căn đi chung với pháp trần. Năm trần vừa mới đề cập ở trên– sắc, thanh, hương, vị, xúc– tất cả đều có sắc tướng biểu hiện.[43] Chỉ có pháp trần là không được biểu hiện qua sắc tướng.[44] Chúng không có một biểu tượng nào. Tuy nhiên, khi ý căn tiếp xúc với pháp trần, tâm ý liền khởi phân biệt, thế nên trong tâm cũng có ý thức phân biệt. Đó là cách mà sáu căn tiếp xúc với sáu trần khiến sinh khởi sáu thức và cùng lập nên 18 giới.
Tất cả chúng đều chứa trọn trong tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Quyển 3)
+ 768. TỲ KHEO BIẾT GIỚI
Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về mười tám giới: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới.
1) Sáu giới: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
2) Sáu giới: dục giới, nhuế giới, hại giới, vô dục giới, vô nhuế giới, vô hại giới.
3) Sáu giới: lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh giới.
4) Bốn giới: thọ giới, tưởng giới, hành giới, thức giới.
5) Ba giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
6) Ba giới: sắc giới, vô sắc giới, diệt giới.
7) Ba giới: quá khứ giới, vị lai giới, hiện tại giới.
8) Ba giới: diệu giới, bất diệu giới, trung giới
9) Ba giới: thiện giới, bất thiện giới, vô ký giới.
10) Ba giới: học giới, vô học giới, phi học vô học giới.
11) Hai giới: hữu lậu giới, vô lậu giới.
12) Hai giới: hữu vi giới, vô vi giới.
Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu mươi hai giới này. (Nguồn: mục 768- (Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
+ Các giới: Là Phật tử, mức độ thấp nhất là phải nghiêm giữ năm đại giới cơ bản nầy và thực hành theo một cách triệt để, như vậy chúng ta mới được an lạc và tự tại. Giả như năm giới nầy mà không giữ được, thế thời 250 giới của Tỳ Kheo, 348 giới của Tỳ Kheo Ni lại càng khó giữ hơn. Cho nên tại rừng Ta-la song thọ, lúc Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni sắp nhập Niết Bàn, Ngài đã nói với Tôn giả A Nan rằng: “Lấy giới luật làm thầy.” Do đó, chúng ta biết rằng giới luật thật là trọng yếu biết bao! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Xem thêm: Các giới trong thiên nhiêm
+ Các Giới (Kingdom) của Thiên Nhiên và các Hành Tinh trong chu kỳ này:
1. Giới Khoáng chất – Pluto và Vulcan (Diêm Vương Tinh và Vulcan).
2. Giới thực vật – Venus và Jupiter (Kim tinh và Mộc tinh).
3. Giới động vật – Mặt Trăng và Hoả tinh (Mars).
4. Giới nhân loại – Thuỷ Tinh và Thổ tinh (Mercury và Saturn).
5. Giới linh hồn – Hải vương tinh (Neptune) và Thiên Vương tinh (Uranus).
* Tổng hợp 5 giới – Mặt Trời. (CTHNM, 720)
+ Bảy Giới với 7 Cung năng lượng :
1. Giới khoáng chất, Cung VII.
2. Giới thực vật, Cung VI.
3. Giới động vật, Cung V.
4. Giới nhân loại, Cung IV.
5. Giới linh hồn, Cung III.
6. Giới các Đấng Hành tinh, Cung II.
7. Giới các Đấng Thái Dương, Cung I.
- Các giới này có thể được xem như là các biến phân của Sự sống Duy nhất (One Life): Bạn cũng nên chú ý rằng giới khoáng chất và giới các Đấng Thái Dương (giới thứ 1 và giới thứ 7) là kết quả sự hoạt động của cung I và cung VII. Ở đây có sự đan bện vào nhau bằng số chặt chẽ. Hai giới này theo thứ tự, ở vào mức tinh tế nhất và trọng trược nhất và được tạo ra bởi ý chí và năng lực tổ chức của Thái Dương Thượng Đế. (TLHNM I, 215, 218)
+ Tam Giới (TLHNM GQ1.1_Các cung của nhân loại):
1. Giới linh hồn - Trực giác.
2. Giới nhân loại - Trí năng.
3. Giới động vật - Bản năng.
+ Ba giới
5) Ba giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
6) Ba giới: sắc giới, vô sắc giới, diệt giới.
7) Ba giới: quá khứ giới, vị lai giới, hiện tại giới.
8) Ba giới: diệu giới, bất diệu giới, trung giới
9) Ba giới: thiện giới, bất thiện giới, vô ký giới.
10) Ba giới: học giới, vô học giới, phi học vô học giới.
Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu mươi hai giới này. (Nguồn: mục 768- (Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
+ Xem thêm: Tổng hợp các Giới
* CTHNM: Vẫn sử dụng các hành tinh thông thường nhưng có bổ sung thêm Vulcan, một hành tinh được cho là nằm gần mặt trời. Vòng hoàng đạo sử dụng là vòng hoàng đạo xích đới (tropical).
+ Chiêm tinh học: Là chân lý huyền môn trên thế gian hiện tại, là khoa học có bàn đến các năng lượng và các lực đang chi phối và cai quản, chúng tác động qua và vào trong toàn thể lĩnh vực không gian và tất cả những gì nằm trong lĩnh vực đó .... các mối liên hệ giữa các thực thể cá nhân, hành tinh, thái dương hệ và vũ trụ sẽ được hiểu rõ và lúc bấy giờ chúng ta sẽ bắt đầu sống một cách khoa học, đó là mục tiêu, vì qua đây ta biết được Vận mệnh của mình và biết Y nên làm gì (CTHNM, 11)
+ Rộng nghĩa: Các quy luật và tạo lập Lá số Chiêm tinh; Định vị các Nhà; Vòng Hoàng Đạo và Mặt phẳng Hoàng đạo, đường Xích đạo Trời; Các Hành tinh có tính Ngũ Hành của nó mạnh hơn Ngũ hành cùng loại của các Cung Hoàng Đạo; Ý nghĩa các Cung Hoàng Đạo; Các Nhà; Các Góc hợp và Chủ tinh các Cung Hoàng Đạo; cũng như khái niệm về vượng, tướng, tù, tử; Cung chủ quản một Nhà; Mẫu sắc Ngũ hành; Tính điểm ngũ hành; Các góc hợp Tam hợp, Lục hợp .... (Xem: Chiêm tinh học 1; Xem: Chiêm tinh học 2; Xem: CTH nội môn 3)
+ Mỗi yêu tố Đất, Nước, Lửa, Gió chi phối 3 dấu hiệu, tương ứng các năng lượng thuộc các Cung Hoàng Đạo này (Xem nguồn)
+ CTH Chính thống/ Công truyền chỉ xem các đặc điểm và tính chất của phàm ngã, khía cạnh hình tướng, và cũng với các sự kiện, các diễn biến, các hoàn cảnh và môi trường qui định vốn xuất hiện trong lá số chiêm tinh cá nhân, biểu thị sự kiểm soát của các hành tinh chứ không phải sự kiểm soát của mặt trời. (EA 145 )
+ CTH huyền bí/ Bí truyền: Là khoa học về Linh Hồn, tượng trưng cho trạng thái Bác ái và Minh triết của Thượng Đế và luôn luôn được hướng tới điều tốt đẹp cao cả hơn....... bàn đến Sự Sống “các điểm ánh sáng” bên trong Sự Sống vũ trụ. Các tinh tòa, các thái dương hệ, các hành tinh, các giới trong thiên nhiên và con người tiểu vi (CTHNM, 16)
=> 3 mức quản: Công truyền - Bí truyền - Huyền giai ứng với các mức tiến hóa của Tâm thức (Xem nguồn); Xem 3 cấp độ Tâm thức
+ Khoa Chiêm Tinh là 5 KHOA HỌC: (1)- Các Cung; (2)- Giải thích huyền bí; (3)- Các Tam giác; (4)- Các Trung tâm lực; (5)- Khoa học về Vận Mệnh, khoa này dựa vào 4 Khoa học trước, và Lá số tiến bộ cá nhân là khởi đầu của khoa học này (CTHNM,99).
+ 3. Chiêm tinh học, với các chỉ dẫn của nó về vị trí của một người “trong mặt trời”, và trong hệ thống chung của sự vật. Những việc này liên kết y với hệ thống hành tinh … Đó là chiêm tinh học của địa vị đệ tử và mối quan hệ của các tinh tú với các hoạt động của Linh Hồn … chiêm tinh học của sự điểm đạo [vốn rất quan trọng]. (Trích tài liệu TLHNM - Khóa GQ - Học MF)
+ Sách CTHNM: Tôi không viết ra một luận thuyết về chiêm tinh học, mà là luận thuyết về 7 cung và các năng lượng tương đương và tương ứng của chúng, về các hiệu quả của năng lượng cung và sự tương tác của các năng lượng này với, và ảnh hưởng của chúng trên, các mãnh lực hành tinh khác nhau, đặc biệt là các lực của Địa Cầu (CTHNM, 36)
+ Chiêm tinh học có liên quan với hiệu quả được tạo ra trong vật chất của các thể thấp (sheaths, lớp vỏ) bởi các ảnh hưởng, các rung động v.v… của các hành tinh khác nhau. Chúng gồm 9 năng lượng + Từ Địa cầu chúng ta sống = 10 Năng lượng (CTHNM, 22 - Trích từ LVLCK, 1051)
+ Trường không gian (Field of space) và Khoa Chiêm Tinh Học: Bản chất của trường không gian là dĩ thái, và thể sinh lực của nó được tạo bằng tổng số các thể dĩ thái của tất cả các chòm sao, các Thái Dương Hệ và các hành tinh nằm trong đó. Toàn bộ mạng lưới quý báu của vũ trụ này có một sự lưu chuyển không ngừng của các năng lượng và các thần lực, điều này tạo thành nền tảng khoa học của các thuyết chiêm tinh học. Giống như các thần lực của hành tinh và của chân nhân (chỉ ghi nhận một trong số nhiều yếu tố) đang tuôn đổ qua thể dĩ thái của từng người trên cõi trần và chi phối ngoại hiện của con người, các hoạt động và các tính chất của y, cũng thế, các thần lực khác nhau của vũ trụ đang tuôn đổ qua mọi phần thể dĩ thái của thực thể mà chúng ta gọi là không gian, rồi chi phối, định đoạt phần ngoại hiện, các hoạt động và các tính chất của mọi hình hài nằm trong chu vi vũ trụ. (CTHNM, 11)......
Nguồn: Chiêm TH nội môn 8
Xem: Số mệnh - Định Mệnh - Định Nghiệp
Xem : Tổng hợp về xem Chiêm Tinh
+ Diêm Vương Tinh - Pluto: Vulcan và Diêm Vương tinh truyền dẫn Cung 1 (GQ1- CT con người)
+ Pluto: Ám ảnh, ép buộc, cuồng tín, ý thức nhiệm vụ, bị tình cảm tác động. (Nguồn: Xem thêm)
+ Pluto là hành tinh tái sinh và chuyển đổi. Nhiều nhà chiêm tinh nhấn mạnh rằng Sao Diêm Vương sẽ biến đổi cuộc sống của bạn. Bất cứ khi nào Pluto hoạt động, cuộc sống sẽ bị biến hình thành một cái gì đó khác với cách nó bắt đầu.
+ Cặp bài trùng: Hỏa tinh - Mars và Pluto - Diêm Vương tinh là cặp bài trùng (về nội môn), nó tương tự như Kim tinh và Địa cầu ( Xem thêm: Tổng hợp về Diêm Vương tinh)
+ Sao Diêm Vương:
Pluto là hành tinh tái sinh và chuyển đổi. Nhiều nhà chiêm tinh nhấn mạnh rằng Sao Diêm Vương sẽ biến đổi cuộc sống của bạn. Bất cứ khi nào Pluto hoạt động, cuộc sống sẽ bị biến hình thành một cái gì đó khác với cách nó bắt đầu.
Reinhold Ebertin gắn với Sao Diêm Vương với sự cuồng tín, ám ảnh, và ép buộc. Nhiều nhà chiêm tinh học lưu ý rằng ảnh hưởng của Pluto có vẻ như nắm bắt cá nhân và cảm thấy vượt quá sự kiểm soát của người đó. Họ cảm thấy những động lực cưỡng ép hoặc biến đổi dường như kiểm soát cuộc sống của một người.
Tôi đã phát triển một giả thuyết về ảnh hưởng của Sao Diêm Vương sau khi nhà chiêm tinh Charles Jayne nói với tôi rằng ảnh hưởng của Pluto hoạt động ở mức độ cảm xúc và ảnh hưởng của Pluto có mối liên hệ với ảnh hưởng của Mặt Trăng. Sau khi nghiên cứu nhiều lá số, tôi bắt đầu tin rằng Jayne đã đúng.
Tôi kết hợp lý thuyết của Jayne với Ebertin trong khi nghiên cứu ảnh hưởng của Pluto trong các lá số để đưa ra giả thuyết này: Pluto buộc các cảm giác chôn sâu trồi lên bề mặt, Pluto buộc những thứ ẩn sâu trong trồi lên nhận thức có ý thức và vào cuộc sống của chúng ta, theo cách mà chúng ta ít có thể kiểm soát. Mặt trăng khiến chúng ta liên hệ với quá khứ qua những tâm trạng và cảm xúc của chúng ta. Pluto buộc những cảm giác bị đè nén hoặc tiềm ẩn lên bề mặt. Như Ebertin chỉ ra, Pluto có khuynh hướng làm một người bị ám ảnh, cưỡng ép, hoặc cuồng tín.
Người Plutonic không được thúc đẩy bởi logic và lý trí hay bởi thiện chí. Anh ta bị thúc ép bởi ham muốn cưỡng bách. Bất cứ khi nào một người đi đến cực đoan có vẻ như không cân bằng hoặc cuồng tín, Pluto thường có liên quan, đặc biệt nếu nó không phải là chủ nghĩa lý tưởng đang dẫn dắt họ. Vận động viên hoặc người biểu diễn luyện tập 8 tiếng mỗi ngày, hoặc người hy sinh những sở thích và những thói quen “bình thường” để theo đuổi những gì quan tâm có thể sẽ có Pluto nổi bật trong lá số sinh. Diễn giả sôi nổi khuyến khích bạn thực hiện theo nguyên tắc của mình rất thường xuyên bị thúc đẩy bởi một sự thúc giục cuồng tín vượt ngoài lí trì và sự phán đoán hợp lý về tình trạng; Anh ta bị sức mạnh của Pluto khống chế. Sao Diêm Vương ép buộc cảm xúc sâu sắc trồi lên bề mặt và do đó ép chúng ta bằng sức mạnh của nó giống như làn sóng thủy triều có cường độ cảm xúc không thể phủ nhận.
Nhiều nhà chiêm tinh học sẽ thấy rằng giải thích trên về ý nghĩa Pluto đã bỏ qua tính năng quan trọng nhất của Sao Diêm Vương: sự chuyển đổi. Sự biến đổi thường là kết quả của sự tràn ngập cảm xúc của cảm xúc sâu xa, nhưng sự biến đổi này có thể là một sản phẩm phụ của quá trình cơ bản.
Có lẽ việc rút gọn mỗi hành tinh thành một quá trình năng lượng cơ bản có vẻ là một bài tập vô ích đối với bạn. Tuy nhiên, nếu không còn gì khác, nó có thể đơn giản hóa nhiều việc luận giải lá số; Chúng ta tập trung vào quy trình năng lượng cơ bản trong công việc, và chúng ta không phải lựa chọn trong số rất nhiều chi tiết dường như không liên quan để giải thích lá số. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Pluto: Chiêm tinh học ngoại môn đã bàn đến và được chấp nhận rộng rãi rằng Vulcan (Hỏa Vương Tinh), Uranus (Thiên Vương Tinh), Pluto (Diêm Vương Tinh) và Neptune (Hải Vương Tinh) không cai quản các cung hoàng đạo mà chỉ có ái lực với các cung này. Ở đây Tôi đề cập đến điều này vì chúng ta sẽ xem xét hành tinh Pluto liên quan đến cung Pisces (Song Ngư). Ái lực này chỉ trình bày một phần sự thật và chỉ tạm thời đúng theo quan điểm của chiêm tinh học hiện nay. ... Nhiều người trước đây trong lịch sử nhân loại, họ phải chấp nhận sự kiện về Mars (Hỏa Tinh) và Mercury (Thủy Tinh) như các chủ thể cai quản của các cung hoàng đạo theo lối giả thuyết và kế đó bắt đầu chứng minh mức chính xác của giả thuyết đó. Hiển nhiên là chiêm tinh học cổ hãy còn bất toàn, nhưng cho đến khi con người trở nên đáp ứng công khai với các ảnh hưởng đến với ... Linh hồn thể.
+ Hành Tinh Pluto - Diêm Vương Tinh (Trích dẫn trong Giáo Lý Bí Nhiệm)
1. “Pluto là một vị thần (deity) có các thuộc tính của rắn. Pluto là tay chữa bệnh, kẻ ban phát sức khoẻ, về tinh thần, thể chất và về giác ngộ”. (GLBN II, 30. Chú thích).
2. “Theo truyền thuyết, Orpheus tìm kiếm linh hồn thất lạc của mình trong vương quốc của Pluto. Krishna cứu ra khỏi Pluto sáu nguyên khí của y (II, 30), vốn là cái thứ bảy chính y… y là điểm đạo đồ hoàn toàn, toàn bộ sáu nguyên khí của y nhập vào cái thứ bảy.” (GLBN III, 142)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Vulcan: Với Ngoại môn xem như dùng Mặt Trời (CTHNM, 772)
+ Vulcan tức Hỏa Vương Tinh - Cung 1. Không bao giờ tương tác Ngoại môn
- Vulcan dẫn truyền Cung 1; Pluto cũng dẫn truyền Cung 1 (Vài Cung tự biểu hiện qua 2 hành tinh. Thí dụ Cung 4, qua Mặt Trăng và cả qua Mercury, trong khi Cung 1, đến với chúng ta qua Vulcan và qua Pluto. Lý do thực sự là một trong các bí mật của điểm đạo và được ẩn giấu trong vận mệnh của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư - Nhân loại).
+ Vulcan - Nằm Giữa Sao Thủy và Mặt Trời: Trong chiêm tinh học nội môn, vẫn sử dụng các hành tinh thông thường nhưng có bổ sung thêm Vulcan, một hành tinh được cho là nằm gần mặt trời. Vòng hoàng đạo sử dụng là vòng hoàng đạo xích đới (tropical). (Chiêm THNM 8)
+ Việc đặt Vulcan lên Mặt Trăng hay Mặt Trời là đúng, bởi vì (trên đường đạo/ Nội môn) lực của Vulcan tuôn chảy trực tiếp quá Mặt Trăng/ Hải vương tinh (Tình cảm), Mặt Trời/ Thiên vương tinh (Bản Ngã); (Nguồn: Trả lời câu hỏi Chiêm THNM 9;)
+ Ba hành tinh bị che lấp – Vulcan/ Hỏa vương tinh, Uranus và Neptune: Là các hành tinh thánh thiện, Cung thứ nhất, thứ bảy và thứ sáu. Vulcan không bao giờ là chủ thể cai quản Ngoại môn/ bên ngoài, và chỉ hoạt động thực sự khi một người đang ở trên Thánh Đạo, trong khi Uranus và Neptune là các chủ thể cai quản của cung thứ 11 và 12, và chi phối Aquarius cùng Pisces. Các hàm ý sẽ trở nên sáng tỏ cho bạn (CTHNM, 570)
+ Vulcan/ Hỏa Vương Tinh: Hành tinh thánh thiện tương ứng với 7 Trung tâm lực trong con người, tức 7 Luân Xa (TLHNM III, 19):
1. Hỏa vương tinh (Vulcan) ......Cung 1
2. Thủy vương tinh (Mercury)...Cung 4
3. Kim tinh (Venus) .................. Cung 5
4. Mộc tinh (Jupiter) ................. Cung 2
5. Thổ tinh (Saturn) .................. Cung 3
6. Hải vương tinh (Neptune) .... Cung 6
7. Thiên vương tinh (Uranus) ... Cung 7
+ Vulcan/ Hỏa VT (Tham khảo trong Giáo Lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Jehovah được đồng hoá với Saturn và Vulcan.” (GLBN I, 632)
2. “Vulcan ở bên trong quỹ đạo của Mercury.” (LVLCK, 206. Chú thích)
3. “Định Luật Hy Sinh và Tử Vong, ‘theo một cách bí ẩn’, là đối nghịch của định luật thứ nhất, Định Luật Rung Động. Chính Vulcan và Neptune đang đối nghịch (in opposition), mà cho đến nay là một ý tưởng không thể hiểu được đối với chúng ta.” (LVLCK, 597)
4. “Trong Vulcan, Các Con của Trí Tuệ hầu như đã hoàn tất công việc của họ.” (LVLCK, 742) . * Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem: Tổng hợp về Hành tinh
+ Từ điện (Magnetism, từ lực, từ khí):
- Từ điện là tác dụng của Cung thiêng liêng đang biểu lộ theo cùng ý nghĩa như điện khí là hiệu quả biểu hiện của cung nguyên thủy, cung Thông tuệ–Linh hoạt . (LVLCK, 44)
- Từ lực là một bức xạ (emanation) từ một thể tinh anh (thường là thể cảm dục) và có liên quan với sự biểu lộ của Linh Hỏa (Divine Flame) bên trong các lớp vỏ vật chất. Linh Hỏa được tạo thành trên cõi thứ nhì, cõi Đại Niết Bàn (Monadic plane), còn từ lực (vốn là phương pháp để biểu hiện lửa phát xạ–radiatory fire), do đó, được nhận thấy là quan trọng nhất trên cảnh giới thứ tư và thứ sáu, hay là qua các thể trực giác và thể cảm dục. Như chúng ta đã biết, các thể này có liên quan chặt chẽ với cõi thứ nhì. (LVLCK, 53–54)
- Từ điện tức là prana, sinh lực (life force), sinh khí (vitality). (TVTTHL, 245)
+ Hào quang (Aura): Hào quang của con người có hình dáng bên ngoài là một lùm mây sáng có hình trứng (egg-shaped luminous cloud), ở giữa đám mây là nhục thân (dense physical body). Do cái hình dáng bên ngoài đó mà hào quang thường được nói đến như là không có gì khác hơn là một đám mây. Những gì thường được gọi là hào quang chỉ là những thành phần của các thể tinh anh kéo dài ra và vượt quá chu vi của nhục thân. Mỗi thể tinh anh đó đều còn nguyên vẹn và xuyên thấu qua các thể thô đặc hơn nó. Thể tinh anh này lớn hoặc nhỏ tùy theo mức phát triển của nó, và mọi phần của nó đang phủ lên mặt ngoài của nhục thân được đặt tên là hào quang (aura).
+ Hào quang sức khỏe (Health aura): Có một vùng của thể dĩ thái luôn luôn bao quanh nhưng lại không xuyên thấu vào thể xác trọng trược. Vùng này đôi khi được gọi một cách sai lầm là hào quang sức khỏe và nó có thể được chụp hình một cách dễ dàng và thành công trong lúc diễn ra sự hấp hối hơn là bất cứ lúc nào khác, do bởi việc tích tụ lại (accumulation) của các lực bị rút ra bên ngoài thể xác hữu hình độ vài inches. (CTNM, 466)
+ Hào quang noãn bậc thấp (lower auric egg): Tức là linh hồn thể (causal body). (TVTTHL, 16)
+ Hào quang noãn (Auric egg): Tên gọi để chỉ linh hồn thể do hình dạng của thể này. (ĐĐNLVTD, 216)
+ Phân biệt Vầng hào quan: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, giảng về 50 ấm Ma thì Thiên ma, ngoài đạo cũng có vầng hào quang như đức Phật tỏa sáng nơi quanh đầu, chỉ khác biệt là Hào quang của đức Phật thì thanh sạch mát mẻ, mang đến cho người nhìn và trong vùng Hào quang của Ngài có được sự An lạc vô biên nên dù nhìn mãi vẫn an lạc, càng nhìn càng an, nếu còn niệm Phật thì càng niệm Hào quang Phật càng sáng chói rực rỡ vi diệu hơn. Còn Hào quang của Ma thì nóng bức như nhìn vào Mặt trời, khó chịu nên khó nhìn lâu .... vì họ còn Tham Sân Si Mạn Nghi nhất định, nên nếu khi đó ta niệm Phật tinh tấn thì hình ảnh dần mờ đi và biến mất. ĐÂY LÀ SỰ KHÁC BIỆT mà Thánh hiền giảng ki9nh vẫn nói.
Các Thuật ngữ thanh luyện thể xác - Thể Dĩ Thái:
+ Kẻ tìm đạo: Ngọn lửa thanh luyện cháy lu mờ và yếu ớt khi giới thứ ba bị hy sinh cho giới thứ tư. Do đó, vị đệ tử hãy ngưng việc giết chóc và hãy nuôi dưỡng phần thấp nhất bằng sản vật của giới thứ hai”. Phàm ngã trở nên bị trì trệ và nặng nề, còn ngọn lửa nội tâm không thể tỏa chiếu khi thịt được dùng làm thức ăn. Mỗi đệ tử cần phải ăn chay nghiêm túc, không thể bị vi phạm. Kẻ tìm đạo có thể chọn ăn thịt hay không tùy thích, nhưng đến một giai đoạn nào đó trên thánh đạo, điều thiết yếu là phải ngưng ăn mọi loại thịt và chú tâm nhiều vào việc ăn uống. Vị đệ tử phải tự giới hạn vào việc ăn rau quả, ngũ cốc loại và quả hạt (nuts). Chỉ bằng cách này, đệ tử mới tạo được loại thể xác có thể chịu đựng việc giáng nhập của Chân nhân là vị ngự trong các thể tinh anh của mình trước Đấng Điểm đạo. Nếu không làm được như thế và nếu đệ tử có thể được điểm đạo mà không tự chuẩn bị như thế thì thể xác sẽ bị xé tan bởi năng lượng đang tuôn đổ qua các bí huyệt mới được kích hoạt và mối nguy hiểm lớn lao sẽ xảy tới cho não bộ, xương sống hoặc tim. (ĐĐNLVTD, 196–197)
+ Khi hướng tới cõi giới giá trị cao siêu xảy ra thì bấy giờ dĩ thái lực hay sinh lực lại xung đột với trạng thái thấp nhất của con người, tức thể xác trọng trược, và trận chiến của các cặp đối hợp xảy ra. Trong giai đoạn này cần phải chú trọng vào việc giữ giới luật cho xác thân, vào các yếu tố kềm chế như là hoàn toàn có tiết độ, sống độc thân và theo chế độ ăn chay, chú trọng vào việc vệ sinh xác thân và tập thể dục. Nhờ các yếu tố này mà việc kềm chế sự sống bởi hình hài có thể được xóa bỏ, con người thoát khỏi cuộc chiến thực sự của các cặp đối hợp. (TLHNM II, 309)
+ Những ai tìm cách đọc tiên thiên ký ảnh, hay những ai cố hoạt động trên cõi cảm dục mà muốn cho không có sự thất thoát nào, để tìm kiếm nơi đó hình ảnh của các biến cố trong cảm dục quang một cách chính xác, đều bắt buộc phải là người ăn chay nghiêm túc và không có ngoại lệ nào cả. Chính kho tàng tri thức cổ xưa này của thời Atlantis nằm đàng sau sự kiên trì của kẻ ăn chay về sự cần thiết của cách ăn chay vốn đem lại sức mạnh và chân lý đối với nghiêm lệnh này. Chính vì không tuân theo quy luật sáng suốt này đã tạo ra các giải thích sai lầm đối với các ký ảnh cảm dục và tiên thiên ký ảnh của nhiều nhà tâm thông hiện tại và đã tạo ra việc soi kiếp bừa bãi và thiếu chính xác. Chỉ có người nào ăn chay nghiêm nhặt trong 10 năm mới có thể hoạt động như vậy trong trạng thái có thể được gọi là “trạng thái ghi nhận ánh sáng cảm dục”. (TLHNM I, 241)
+ Rèn luyện thể xác (gồm ăn chay): Việc này gồm một số điều kiện cần thiết:
- Thu nạp vào thể xác vật chất của những cõi phụ cao và loại trừ những chất thô của các cõi phụ thấp. Điều này cần thiết bởi vì người có các thể thô không thể tiếp xúc được với các rung động cao. Chân nhân không thể nào chuyển tri thức và sự hướng dẫn từ cõi cao xuyên qua một thể xác thô kệch. Những dòng tư tưởng cao cả không thể nào ảnh hưởng đến bộ não hồng trần kém tiến hóa. Vì thế mà việc tinh luyện thể xác là điều thiết yếu...
- Ăn chay - Thực phẩm tinh khiết: Chọn lựa thực phẩm với sự phân biện khôn ngoan. Thể xác chỉ cần ăn những thứ rau quả tăng cường sinh lực...cần xem xét cẩn thận khi chọn lựa thực phẩm, sáng suốt tránh những thức ăn nặng nề khó tiêu, một ít thức ăn lành và tinh khiết được tiêu hóa hoàn toàn, thế là đủ, nó gồm Sữa, mật ong, bánh mì lức (làm bằng bột mì lức), tất cả những loại rau trồng ngoài nắng, các loại cam chanh (nhất là cam), chuối, nho khô, những hạt có chất béo, khoai tây, gạo lức, và tôi xin lặp lại là chỉ cần [335] bao nhiêu thứ đó cũng đủ bảo đảm cho sự hoạt động của người đạo sinh.
- Sự sạch sẽ. Dùng nhiều nước để gội rửa bên ngoài và bên trong cơ thể, là điều rất cần thiết.
- Giấc ngủ. Nên luôn luôn ngủ từ 10 giờ đêm đến năm giờ sáng, càng ngủ ngoài trời nhiều càng tốt.
- Ánh nắng. Rất cần nên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vì các tia nắng mang lại sinh lực cho cơ thể. Ánh nắng diệt các loại vi trùng và giúp ngăn ngừa bệnh tật.
Khi bốn yêu cầu này được chú tâm thực hiện đầy đủ thì một tiến trình thải trừ rõ rệt sẽ tiếp diễn, và trong vòng vài năm toàn bộ xác thân sẽ từ từ chuyển sự phân cực lên cao hơn để rốt cuộc chúng ta có được một thể xác cấu tạo bằng vật chất của cõi phụ nguyên tử... Việc này có thể cần nhiều kiếp sống, nhưng các bạn nên nhớ rằng cứ mỗi lần đầu thai lại thì mỗi thể vẫn giữ đúng y phẩm chất (xin tạm gọi như thế) của cơ thể trước kia đã bị thải bỏ khi chết. Vì vậy, thời gian dùng để kiến tạo không hề bị mất.
Cuối cùng còn có 2 phương pháp khác có thể dùng để tinh luyện mau có hiệu quả hơn:
- Dùng ánh sáng màu. Những loại ánh sáng này được chiếu vào cơ thể của người đệ tử, tạo tiến trình thải bỏ tạp chất và đồng thời kích thích các nguyên tử. Việc này chỉ có thể được thực hiện khi có thêm kiến thức về các Cung. Khi đã biết được cung của hành giả thì có thể kích thích y bằng cách dùng màu sắc của chính y, dùng màu bổ túc của y để thu nạp những chất mới, và dùng màu tương khắc để thải bỏ những chất bất hảo. Về sau sự hiểu biết này sẽ được truyền đạt cho những đoàn thể lớn có phận sự giữ gìn các Bí nhiệm, là Giáo hội và các Hội Tam điểm. Các bạn hãy chờ đợi, vì chưa đến lúc (Hiện tại không áp dụng). Khi các Bí nhiệm được phục hồi thì một số kiến thức loại này sẽ được giao cho hai đoàn thể vừa kể.
- Sự kích thích bằng âm nhạc. Một số âm thanh có thể làm tan rã và đổ vỡ. Một số âm thanh khác lại kích thích và hấp dẫn. Khi biết được âm khóa của cuộc sống hành giả, biết được âm thanh mà y ứng đáp, thì có thể dùng âm thanh để tinh luyện. Hiện nay, tất cả những gì người phụng sự có thể làm là chú tâm vào những điều chính yếu nói trên và tìm cách tiếp xúc với những rung động thanh cao.
Tôi muốn nói thêm một điểm nữa là sự vận dụng điện lực có ẩn bí quyết làm sinh động các thể, đặc biệt là đối với thể dĩ thái hiện nay. Công dụng chính của mặt trời là làm sinh động thể dĩ thái. Sức nóng của mặt trời là điện lực đã được chuyển hóa thích ứng cho nhu cầu của đại đa số các sinh vật trung bình trong mọi giới của thiên nhiên. Khi người đạo sinh càng tiến bộ thì mãnh lực này càng được tăng cường theo từng trường hợp cá nhân. Đây cũng là một bí mật điểm đạo... (TTHM, 336)
+ Thanh luyện thể dĩ thái: Việc thanh luyện này trùng với việc thanh luyện thể xác. Phương pháp chính yếu cũng gồm cách sống dưới ánh sáng mặt trời, che chở cho khỏi lạnh và tiêu hóa một vài hỗn hợp gồm các sinh tố mà không bao lâu nữa sẽ được đưa ra cho nhân loại. .... Việc nghiên cứu các bệnh của thể dĩ thái – bệnh sung huyết (congestion) và gầy yếu (atrophy) – không bao lâu nữa sẽ là một nghiên cứu được nhận biết và sẽ đưa đến các cách chữa trị và các công thức nhất định. .. hãy làm cho thể xác nhị phân được nhạy bén là chú ý đến các quy luật nói trên và để cho thời gian đảm trách phần việc còn lại.
+ Đối với con người, bí nhiệm của sự giải thoát nằm trong việc làm cân bằng các mãnh lực và làm quân bình các cặp đối hợp. (LVHLT, 225)
+ Tuyến tùng quả là cơ quan bên ngoài, ở cõi trần của nội nhãn thông. (LVLCK, 965)
+ Hình Hài của Phàm-Ngã, hiện thể đó bằng chất hồng trần, chất cảm dục và chất trí, vốn cung cấp phương tiện tiếp xúc trong ba cõi thấp. Nó được tạo ra trong mỗi kiếp sống, chủ âm (key) rung động được thiết lập trong kiếp sống trước kiếp sống hiện tại. Hình hài đó tỏ ra thích hợp đối với người trung bình và phục vụ y cho đến khi chết. Người đang bước vào trên con đường huyền bí bắt đầu với hiện thể được cung cấp, nhưng trong khi lâm phàm, luôn kiến tạo cho y một hiện thể mới hơn và tốt đẹp hơn, và càng tiến hóa thì y càng hành động một cách có ý thức hơn. Điều đó dẫn đến sự rối loạn liên tục và sức khỏe thường không tốt ở người sơ cơ (beginner) trong đời sống huyền linh. Y cảm nhận được thiên-luật, y nhận thức sự cần thiết của việc nâng cao chủ âm (key) của y, và thường thì y bắt đầu với những sai lầm. Y bắt đầu kiến tạo thể xác của mình một lần nữa bằng chế độ ăn kiêng và giới luật, thay vì hoạt động từ trong ra ngoài. Bằng giới luật cẩn thận của tâm trí, bằng việc vận dụng chất liệu tư tưởng, và bằng sự chuyển hóa cảm xúc, đi đến việc thể hiện ra trên cõi trần. Thêm vào hai điều trên, sự thanh khiết ở cõi trần đối với thực phẩm và cách sống, và trong thời gian bảy năm, người ấy đã xây đắp cho chính mình ba thể mới xung quanh các nguyên-tử thường tồn. (LVHLT, 263)
Xem: TH Các chướng ngại Tu và Chứng đạo - Điểm đạo
Xem: Đức Phật dậy Ăn chay - Ăn Thịt
Xem: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái
Xem: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Có 7 bí huyệt chính, theo thứ tự sau:
1/ Bí huyệt đầu (Head Centers): Nằm ở ngay đỉnh đầu. Thường được gọi là “hoa sen ngàn cánh” hay Brahmarandra. Nó hoạt động sau lần điểm đạo thứ ba và là cơ quan phân phối năng lượng Chân Thần, thuộc trạng thái ý chí của thánh linh. Nó nối liền với Phàm ngã tam phân bằng giác tuyến... Ngoại hiện trên cõi trần (physical externalisation) là tuyến tùng quả ở trong đầu.
2/ Bí huyệt ấn đường (Ajna centre): Ở giữa hai mày, nằm ở vùng đầu ngay bên trên hai mắt. Nó hoạt động đầy đủ vào lúc được điểm đạo lần ba. Nó là cơ quan phân phối năng lượng của Ngôi Ba – năng lượng thông tuệ linh hoạt. Nó nối liền với Phàm ngã bằng sinh mệnh tuyến sáng tạo. Ngoại hiện trên cõi trần của nó là tuyến yên (pituitary body).
3/ Bí huyệt cổ họng (throat centre): Nằm ở sau cổ, đi tới phần cuối não dính với tủy sống (medulla oblongata), như vậy liên quan tới tuyến động mạch cảnh và xuống đến hai bả vai. Nó liên quan tới cuộc điểm đạo thứ nhất. Đó là cơ quan phân phối năng lượng sáng tạo, năng lượng của Ngôi Ba. Nó nối liền với Phàm ngã bằng tuyến sáng tạo (creative thread), nối liền với linh hồn bằng tuyến ý thức và với Chân Thần bằng sutratma hay sinh mệnh tuyến. Ngoại hiện hồng trần của nó là tuyến giáp (thyroid gland).
4/ Bí huyệt tim (Heart centre): Nằm ở giữa hai bả vai. Nó hoạt động sau lần điểm đạo thứ hai. Đó là cơ quan phân phối năng lượng của Thánh Đoàn. Nó nối liền chủ yếu với Phàm ngã khi tiến trình chỉnh hợp với linh hồn được chế ngự. Ngoại hiện hồng trần của nó là tuyến ức (thymus gland). Hiện nay, người ta biết rất ít về tuyến này... Tâm lý học hiện đại kết hợp với y học, nhận thấy rằng khi tuyến này quá hoạt động (overactive) sẽ tạo ra người vô trách nhiệm và vô luân (irresponsible and amoral person).
5/ Bí huyệt nhật tùng (solar plexus centre): Nằm đúng ngay dưới xương bả vai trong cột xương sống và đang cực kỳ linh hoạt. Các bí huyệt thấp này đặc biệt không liên quan tới các cuộc điểm đạo như là các bí huyệt trên cách mô, vì chúng là các bí huyệt thuộc Phàm ngã và phải ở dưới sự kiểm soát của linh hồn khi nhận được các cuộc điểm đạo thuộc đẳng cấp nào đó. Bí huyệt nhật tùng là nơi thanh toán quan trọng (great clearing-house) cho tất cả các năng lượng dưới cách mô. Bí huyệt này liên quan đến ba bí huyệt chính và 21 bí huyệt nhỏ liệt kê ở trang 72 (bản tiếng Anh–ND). Ngoại hiện hồng trần của nó là tụy tạng (pancreas), với ngoại hiện phụ ở trong bao tử (stomach).
6/ Bí huyệt xương cùng (Sacral centre): Nằm ở phần dưới của vùng thắt lưng (lumbar area), là một bí huyệt rất mạnh, hiện đang chi phối đời sống tính dục. Một trong các điều lý thú về bí huyệt này là nó phải luôn luôn là bí huyệt mạnh mẽ cho đến khi 2/3 nhân loại được điểm đạo, vì tiến trình sinh sản phải tiếp diễn và vẫn linh hoạt ngõ hầu cung cấp các thể cho linh hồn sắp đến. Nhưng khi nhân loại tiến hóa, bí huyệt này sẽ bị kềm chế và các hoạt động của nó sẽ được xúc tiến một cách sáng suốt và như là kết quả của sự hiểu biết, của việc nhìn xa thấy rộng và các giao tiếp cao siêu và tinh tế, chứ không phải như là kết quả của dục vọng không giới hạn và không được kềm chế như hiện nay. Bí huyệt này biểu lộ (register) năng lượng của Ngôi Ba của thánh linh, cũng như bí huyệt nhật tùng biểu lộ năng lượng của Ngôi Hai và bí huyệt chót xương sống biểu hiện (express) năng lượng của Ngôi Một. Ngoại hiện hồng trần của nó nằm trong các tuyến sinh dục (gonads), các cơ quan sinh sản.
7/ Bí huyệt chót xương sống (Centre at the Base of the Spine): Bí huyệt này nằm đúng chót xương sống và chống đỡ (support) cho mọi bí huyệt khác. Vào lúc này, nó tương đối nằm yên, vì nó chỉ được đánh thức để hoạt động đầy đủ bằng một tác động của ý chí được vị đệ tử điểm đạo điều khiển và kềm chế. Như chúng ta được dạy rằng nguyên khí sự sống được “đặt trong tim”, cũng thế, ý chí hiện tồn (will-to-be) được đặt trong chót xương sống... Tuyến thượng thận (Adrenal glands). (CTNM, 144–202)
+ Thái dương hệ (TDH) chúng ta là 1 hệ thống ở cấp thứ 4; vị trí của nó trên cõi dĩ thái vũ trụ thứ 4 (Từ trên xuống), cõi 4 này là nơi gặp gỡ cho quá khứ và tương lai và chính là hiện tại. (LVLCK, 152)
+ Mỗi TDH là 1 biểu lộ của đấng Vũ Trụ Vĩ Đại, gọi là Thái Dương Thượng Đế (TDTĐ). TDTĐ ngài lâm phàm biểu lộ qua trung gian là 1 TDH - Là Xác thể của Đấng vũ trụ (Tức TDTĐ) và do chính TDTĐ này tam phân => TDH cũng có tam phân tương ứng.
- TDH tam phân có 3 trang thái/ 3 ngôi tương ứng. Có Lửa đặc trưng là Ngôi 1- Lửa Điện/ Tinh Thần; Ngôi 2- Lửa Thái Dương/ L.Hồn; Ngôi ba, ngôi Chúa Thánh Thần - Sắc Tướng - Thông tuệ hoạt động: Lửa Ma sát/ Vật chất hay Xác thân. Mỗi ngôi lại tam phân
- 10 biểu lộ - Con người hoàn hảo: Ba ngôi lại tam phân, thành 9 biểu lộ, với tổng thể tạo ra 10 biểu lộ - Con người hoàn thiện - Thái TDTĐ tam phân (TDH tam phân) này tiếp tục biểu lộ qua 7 Trung tâm lực (Thiên lực), gồm 3 chính và 4 phụ. Các Thiên lực này được tạo nên để hợp thành các Thực Thể Thông Linh kết hợp như: 7 Hành tinh Thượng Đế; 7 Tinh Quân Trước Thiên Tòa; 7 Cung (Rays); 7 Thiên Đế. - 7 H.Tinh T.Đế là hiện thân của 7 loại Thần Lực, trong sách LVLCK này gọi là các Huyền Cung Tinh Quân - Bảy Cung (Rays). (LVLCK, 29)
+ 7 Thái Dương Hệ: Không gian là một thực thể, Không gian của TDH của chúng ta là một thực thể, chính thực thể này là một phần nguyên vẹn của một Sự Sống còn vĩ đại hơn đang tự biểu lộ qua 7 TDH, mà TDH của chúng ta là 1 (CTHNM, 15)
+ Thái Dương Hệ Chúng Ta: Chúng ta hãy chọn các sự kiện (Hình hài Thai Nhi và Hình Hài Thái Dương hệ) và các tương tự như chúng đang có, và nghiên cứu chúng theo cả hai quan điểm của đại-thiên-địa lẫn tiểu-thiên-địa.
Chúng ta lưu ý rằng hình hài hấp thu và sử dụng các chất mà trong đó nó được nhúng vào. Thái-dương-hệ chúng ta là một trong nhiều thái-dương-hệ, và không phải là thái dương-hệ lớn nhất. Nó chỉ là một mảnh của tổng thể lớn hơn. Cái tổng thể lớn hơn này, gồm bảy phần (hay là bảy thái dương-hệ), bản thân nó bị ngập trong nước của không gian, được sinh ra do sự mong muốn (desire) và do đó, là một đứa con thiết yếu (child of necessity). Nó thu hút sự sống của nó từ môi trường xung quanh nó. Các dòng thần lực tuôn vào thái-dương-hệ chúng ta từ mọi phía, phát ra từ Đấng mà bộ sách Luận Về Lửa Càn Khôn gọi là “Đấng Bất Khả Tư Nghị”. Các luồng này tiêu biểu cho ý chí và ước muốn của Ngài, biểu hiện lòng bác ái của Ngài, tức năng lực thu hút, và biểu lộ dưới hình thức của hình-tư-tưởng vĩ đại mà chúng ta gọi là thái-dương-hệ chúng ta. (LVHLT, 273)
+ Khi biết sự tương ứng này và áp dụng một cách khôn ngoan, chúng sẽ được soi sáng khi dùng Thánh ngữ trong tham thiền.
- Thái dương hệ I . ... . . tương ứng với thể xác.
- Thái dương hệ II . .... . tương ứng thể tình cảm.
- Thái dương hệ III . . . với thể trí (TTHM, 53)
+ TDH gồm có: 01 mặt trời trung ương với các hành tinh đi kèm mặt trời, vốn được giữ trong sự tương quan từ lực trong các quỹ đạo của chúng chung quanh mặt trời. (TLHNM–I, 152)
+ 10 hành tinh hệ hợp thành một Thái Dương Hệ. (LVLCK, 63)
+ Ba năng lượng đến từ 3 chòm sao chính: Các năng lượng đó là các phóng phát từ tinh tòa Đại Hùng (Great Bear), từ Pleiades (Tua Rua) và từ Sirius (Ngưu Lang), chúng chi phối rộng, nhưng ngày nay vẫn tiềm tàng hơn là biểu lộ ; Riêng chòm Tua Rua có 7 năng lượng ảnh hưởng lên xác thân.(CTHNM, 470)
+ 9 năng lượng: Toàn bộ mạng lưới vũ trụ và TDH là một loạt các tam giác phức tạp, luôn luôn chuyển động, đan vào nhau, trong đó mỗi điểm của một tam giác phóng xuất ra 3 tuyến (lines) hay luồng năng lượng (tất cả là 9), nó cũng đáp ứng với và tiếp nhận các năng lượng – cũng tam phân trong thiên nhiên – vốn ở trong chu vi hoặc là lĩnh vực ảnh hưởng và hoạt động rung động của nó. Y cố gắng chứng minh qua Thể Dĩ thái; (CTHNM, 472)
+ Các Năng Lượng Xuất Phát Trong Thái Dương Hệ Thái dương hệ
Thực thể biểu lộ.– Thái Dương Thượng Đế.
Thể biểu lộ.– Thái dương hệ
Trung tâm tiếp nhận.– Cực của Mặt Trời trung ương.
Phát xạ hay phóng phát bề mặt.– Prana thái dương.
Hoạt động được tạo nên.– Sự quay của thái dương hệ.
Hiệu quả phân phối.– Phát xạ dĩ thái Mặt Trời. (Được cảm nhận về mặt vũ trụ).
Hành tinh: Thực thể biểu lộ - Một Hành Tinh Thượng Đế.
Thể biểu lộ.– Một hành tinh.
Trung tâm tiếp nhận.– Cực hành tinh.
Phát xạ hay phóng phát bề mặt.– Prana hành tinh.
Hoạt động được tạo ra.– Sự quay của hành tinh.
Hiệu quả phân phối.– Phát xạ dĩ thái hành tinh. (Được cảm nhận bên trong thái dương hệ).
Con người: Thực thể biểu lộ - Chủ Thể Suy Tư, một Dhyan Chohan.
Thể biểu lộ – Xác thân.
Trung tâm tiếp nhận – Lá lách.
Phát xạ hay phóng phát bề mặt – Hào quang sức khoẻ.
Hoạt động được tạo ra – Sự quay của nguyên tử.
Hiệu quả phân phối.– Phát xạ dĩ thái con người. (Được cảm nhận bởi môi trường xung quanh). (Chiêm tinh học NM)
Xem thêm: Tổng hợp về 7 Cung đến Thái Dương hệ - Địa cầu và Nhân loại
+ Số căn bản của Thái Dương Hệ chúng ta: Số Bảy (Root number of our system: number seven) Câu hỏi thường được nêu ra: Tại sao các nhà Thông Thiên Học luôn luôn đề cập đến con số bảy? Đó là vì số bảy là “số căn bản của Thái Dương Hệ chúng ta”. Có một lý do rõ rệt giải thích tại sao con số này đóng vai trò tích cực trong cách phân nhóm (grouping) các sự việc khi chúng ta lưu tâm tới các nhóm ba (triplicities) có nói đến và giải thích trước đây. Một bộ ba (triad) đương nhiên tạo ra một bộ bảy (septenate) bởi các liên quan bên trong của chính nó, vì lẽ ba yếu tố của nó có thể tự tập hợp thành bảy cách không hơn không kém. Ở ngoài các ranh giới của một vũ trụ, vật chất (matter) có ba tính chất, đó là tịnh (inertia), động (mobility) và nhịp (rhythm) khi ở trạng thái quân bình. Khi sự sống của Thượng Đế khởi động (causes motion), tức khắc chúng ta có bảy nhóm, vì trong bất cứ nguyên tử hay nhóm nguyên tử đã cho nào, tính chất này hay tính chất kia có thể nhận được sinh lực nhiều hơn, như thế, một tính chất chiếm ưu thế sẽ hiện ra. Vậy là chúng ta có thể có ba nhóm. Ở nhóm một, tính chất TỊNH chiếm ưu thế, ở nhóm hai, tính chất ĐỘNG chiếm ưu thế, ở nhóm ba, tính chất NHỊP chiếm ưu thế. Mỗi một trong các nhóm này lại chia nhỏ tùy theo ưu thế trong đó của một trong hai tính chất còn lại, thí dụ, trong hai nhóm TỊNH, thì một nhóm có tính động vượt trội (tức là dưới chữ “động” có gạch dưới–ND) hơn là tính nhịp, và nhóm còn lại có tính nhịp vượt trội (tức là dưới chữ “nhịp” có gạch dưới–ND) hơn là tính động. Đối với hai nhóm ĐỘNG và hai nhóm NHỊP, sự việc cũng diễn ra giống như trên.
+ Ý chí và dục vọng (Will and desire): Ý chí và dục vọng đều là các phát xạ của lực (force emanations). Chúng khác nhau ở tính chất và mức độ rung động, nhưng về bản thể đều là các dòng năng lượng, một bên tạo thành xoáy sơ khởi hay trung tâm hoạt động, có tính chất ly tâm, và một bên có tính chất hướng tâm và là nhân tố chính trong việc bồi đắp dần vật chất vào trong một hình hài xung quanh xoáy trung tâm. (LVLCK, 1017)
+ Mầm mống của ý chí bắt đầu tự biểu lộ trong giai đoạn tiến hóa lớn lao thứ hai của tâm thức. Dục vọng và ý chí dẫn dắt các hành động của con người, ngay cả ý chí còn được định nghĩa như là dục vọng đang hiện ra một cách chiến thắng từ sự phản kháng (contest) của dục vọng. Nhưng đây là một quan điểm thô thiển và phiến diện, không giải thích được gì cả. Dục vọng là năng lượng hướng ngoại (out-going energy) của Chủ Thể Tư Tưởng (Thinker, Linh hồn), chiều hướng của nó được xác định bằng sự thu hút của các đối tượng bên ngoài. Ý chí là năng lượng hướng ngoại của Chủ Thể Tư Tưởng, chiều hướng của nó được xác định bằng các kết luận được lý trí (reason) rút ra từ các kinh nghiệm trong quá khứ, hay bằng huệ giác trực tiếp (direct intuition, trực giác đốn ngộ) của chính linh hồn. Nói cách khác, dục vọng được dẫn dắt từ bên ngoài, còn ý chí được dẫn dắt từ bên trong. Vào lúc bắt đầu công cuộc tiến hóa của con người, dục vọng hoàn toàn làm chủ và thôi thúc con người theo đủ mọi hướng. Vào giữa cuộc tiến hóa, dục vọng và ý chí luôn luôn xung đột nhau, chiến thắng đôi khi thuộc về bên này, đôi khi nằm về bên kia. Vào cuối cuộc tiến hóa, dục vọng tàn lụi đi, ý chí trở nên thống ngự, không còn bị chống đối, không còn bị thách thức nữa. (MTNX, 233-234)
+ Dục vọng và Ý chí: Tôi có thể minh giải điều này bằng cách nêu ra rằng dục vọng thì không (theo quan điểm của thực tại) phải là một tính chất cơ bản (subjective quality, tính chất nội tại, bên trong) ngoại trừ ở mức độ mà đó là một lệch lạc hoặc một vận dụng có ma lực lôi cuốn (glamorous use) đối với năng lượng của ý chí. Dục vọng (desire) là sức mạnh của bản chất sắc tướng; ý chí (will) là năng lượng của linh hồn tự biểu hiện theo sự hướng dẫn, sự tiến bộ và tuân theo Thiên Cơ (Plan). ... Các phân biệt này cũng đáng xem xét. Kẻ thường nhân có thể xem dục vọng như là thuộc về bên trong (subjective, thuộc về chủ quan) vì y hoàn toàn đồng hóa với sự sống sắc tướng trên các mức độ (planes, bình diện) bên ngoài đến nỗi các xung lực và các động cơ thúc đẩy đến với y theo dòng ý thức được y xem như vô hình và thần bí. Tuy nhiên, thực ra chúng chỉ là các phát xạ và các phản ứng của sắc tướng chứ không thực sự, và về mặt chuyên môn không thuộc bên trong chút nào.... Dần dần đệ tử học cách phân biệt giữa các trạng thái năng lượng và lực riêng biệt này, chúng tác động không ngừng vào tâm thức của đệ tử. Theo thời gian trôi qua, cách phân tích của đệ tử trở nên ngày càng tinh tường và rõ rệt hơn, cho đến cuối cùng, đệ tử biết được thế nào là một biểu hiện của lực (đến từ hình hài) và thế nào là các tiếp xúc năng lượng (energy contacts) (đến từ linh hồn).
+ Tinh linh nhân tạo hay hình tư tưởng: Những tư tưởng mơ hồ, lỏng lẻo (loose) phần lớn được tạo ra do các thể trí chưa phát triển, gom lại chung quanh chúng những đám mây tinh chất hành khí rời rạc khi đến cõi cảm dục, và trôi vật vờ, bị hút vào các đám mây khác ở khắp nơi và có bản chất tương tự, rồi bám quanh các thể cảm dục của những ai có từ điển – hoặc tốt hoặc xấu – thu hút lấy chúng, và sau một thời gian sẽ tan rã, để lại tạo nên thành phần của bầu khí chung của loài tinh chất hành khí. Khi nào chúng còn duy trì sự sống riêng biệt (separate existence) thì chúng là các thực thể linh hoạt (living entities), có cơ thể (bodies) bằng tinh chất hành khí, còn các tư tưởng có vai trò như là các sinh vật tạo linh hồn (ensouling lives), và lúc bấy giờ, chúng được gọi là các tinh linh nhân tạo (artificial elementals) hay là hình tư tưởng (thought–forms). (MTNX, 66–67)
Nơi kẻ thường nhân, tinh linh nhân tạo do cảm xúc (feelings) hoặc dục vọng (desire) tạo ra thì mạnh mẽ và rõ ràng hơn là tinh linh nhân tạo do tư tưởng (thought) tạo ra. Như vậy, một cơn giận bùng lên sẽ tạo ra một tia chớp đỏ mạnh mẽ và có đường nét rõ ràng, và nếu cơn giận kéo dài, nó sẽ tạo ra một tinh linh nhân tạo nguy hiểm, có màu đỏ, sắc nhọn, có ngạnh (barbed), nói khác đi, có mang tính chất làm hại. Tình thương, tùy theo tính chất của nó, sẽ tạo ra các hình thể ít hay nhiều gì cũng có màu sắc đẹp đẽ, đủ mọi sắc thái, từ đỏ thẫm đến hồng dịu, vô cùng tinh tế, giống như màu hồng thật nhạt của hoàng hôn hay bình minh, tình thương cũng tạo ra các đám mây hay các hình dạng có tính bảo vệ mạnh mẽ. (Xem: Tổng Hợp Hỏa Tinh Quân gồm Hỏa Tinh Linh Và Hỏa Thiên Thân)
+ Hình tư tưởng (Thought form): Hình tư tưởng được con người tạo nên, là sự kết hợp của bức xạ dương (positive emanation) và bức xạ âm. Cả hai đều là bức xạ của một Nhất thể (Unity), tức là Chủ thể Tư Tưởng cố kết (coherent Thinker). (LVLCK, 560)
+ Hình tư tưởng là các sự vật có thực chất (substantial things). (ACMVĐCTG, 72)
+ Định nghĩa HÌNH TƯ TƯỞNG: MỘT THỰC THỂ SỐNG ngay khi nó được tạo ra, nó không còn phụ thuộc vào người tạo ra nó (Không thay đổi được), nó có sự thông minh sơ khai, TỒN TẠI phụ thuộc năng lượng người tạo ra nó (Sự tập chung, lặp lại) > Tạo năng lượng), luôn tìm cách thu thêm năng lượng để kéo dài sự sống của nó ở CÕI TRUNG GIỚI; MẠNH có thể hiện hình ở cõi HẠ GIỚI. Phụ thuộc vào 3 yêu tố:
(i) - Phẩm chất của tư tưởng quyết định Mầu sắc;
(ii) - Năng lượng lớn – Tư tưởng càng sắc nét, rõ rệt;
(iii) - Bản chất mỗi tư tưởng mang hình dạng riêng biệt;
* Bản thân: Chân sư DK dạy tham thiền lập hạnh rất tốt cho bản thân (Chỉ Nghĩ về đức tính tốt của bản thân, nó luôn ở quanh ta và phát huy tác dụng với ta và cả người xung quanh => Một người Tu cả nhà được hưởng
- Người thường (Kém tiến hóa, trí tuệ chưa phát triển = Dục vọng nhiều): Tư tưởng tạo ra chủ yếu quanh quẩn, không thoát ra khỏi Hào quang người đó => Không hại cho người xung quanh nhiều.
* Người ảnh hưởng: Tính toán, suy nghĩ, vận dụng năng lực trí năng > Tạo ra Hình Tư Tưởng > Sức sống riêng, có ảnh hưởng tốt, xấu đến người khác theo quy luật, nó liên kết với người tạo ra nó bằng “Từ điện” > Nhà Huyền thuật muốn tách nó ra khỏi người tạo ra tư tưởng, cần niệm một từ Huyền bí ... (Tiếng Phạn) >
- Đức DK dạy: Mỗi người cần tìm và luyện cho mình một cụm từ huyền bí để tách tư tưởng của mình tạo ra khỏi Hào quang của mình - nếu muốn). Bạn là người khởi niệm tìm chọn để LÀM công việc Thiện > Bạn được hưởng Quả đó, nếu có người gợi ý thì Quả được chia cho người gợi ý Ý tưởng bạn sẽ làm => Tự mình cần suy ngẫm, tìm chọn để nói, hành động về việc Thiện (Nguồn: Cứu rỗi khỏi các hình tư tưởng)
+ Hình tư tưởng = Mặt trăng: Trong chiêm tinh học huyền bí, ảnh hưởng của mặt trăng được ghi nhận dưới hình thức một ảnh hưởng của tư tưởng và như kết quả của một hình tư tưởng mạnh mẽ và cổ xưa nhất; tuy nhiên mặt trăng không có tính chất nào của chính nó và không thể truyền qua cho Địa Cầu thứ gì cả. Tôi xin lặp lại: mặt trăng là một hình hài chết; nó không có một phóng phát nào cả. Đó là lý do giải thích tại sao mặt trăng được nói đến trong giáo lý cổ xưa như là “đang che phủ hoặc là hành tinh Vulcan, hoặc là hành tinh Uranus”. Ẩn dụ hoặc suy đoán này luôn luôn nằm ở chỗ này và các chiêm tinh gia sẽ thành công khi làm thí nghiệm với gợi ý đó mà Tôi đã đưa ra về mặt trăng và (thay vì hành động với mặt trăng) hãy để họ hoạt động với Vulcan khi liên quan đến người kém tiến hóa hay người bình thường và hoạt động với Uranus khi xét đến người phát triển cao. Họ sẽ rút ra được một vài kết quả lý thú và có tính thuyết phục. (Nguồn: Chiêm tinh HNM)
+ Cung Mặt trăng cai quản khía cạnh sắc tướng của con người, và nhất là hình thể vật chất. Xem nguồn
+ Chu kỳ lớn: Cứ 28 năm lại quay trở lại chu kỳ mới, gây ra các ảnh hưởng tương tự [Có lẽ nói theo chu kỳ 28 năm của Thổ tinh chủ về Nghiệp quả] (Nguồn: Minhtrietmoi_Bài viết)
+ Cung Mặt trăng: Là Cung Hoàng Đạo mà Mặt trăng ở trong đó vào thời điểm một người sinh ra đời (Lá số sinh)
1. Cung Mặt Trăng tượng trưng cho mức độ vô thức: Trong bí truyền, Mặt Trăng được gọi là Mẹ của tất cả mọi Hình Tướng (EA, 321), và tượng trưng cho chất liệu vật chất của vũ trụ. Các cá nhân sử dụng cùng một nhóm chất liệu để xây dựng cơ thể của họ – hết kiếp này sang kiếp khác. Các thói quen vốn được thể hiện trong mỗi kiếp, để lại một dấu ấn hay “mô hình phản ứng” trên chất này. Mô hình này chuyển sang kiếp sau, làm tăng thêm cường độ của nó. Điều này có nghĩa rằng trong một kiếp mới, chúng ta đến với những thói quen và những phản ứng theo khuôn mẫu có trước, vốn có nguồn gốc của chúng trong quá khứ. Cung Mặt Trăng tượng trưng cho những “thói quen” này. Nhiệm vụ quan trọng nhất trong mỗi kiếp theo quan điểm tinh thần là để thanh luyện, cải tiến và sau đó phá vỡ mô hình ‘nhà tù của linh hồn” này. (Xem Chiêm tinh học)
+ Ảnh hưởng Mặt trăng: Trong ảnh hưởng của Mặt trăng, chúng ta thấy quá khứ của người được sinh ra. Nó tổng kết các hạn chế và các trở ngại mà y phải làm việc trong các điều kiện đó, và do đó có thể được coi là tiêu biểu cho khía cạnh tĩnh (tamas) của vật chất, hay những gì vốn “ngăn giữ” và– nếu được phép gây ảnh hưởng thái quá – sẽ tạo ra sự trì trệ (inertia). Trong cơ thể mà con người được ban cho ẩn giấu điều bí mật của kinh nghiệm quá khứ, và mỗi nguyệt thể mà nhờ đó chúng ta phải đạt đến sự biểu lộ thích đáng, bản chất nó là sản phẩm hoặc sự tổng hợp của toàn bộ quá khứ. Hãy để xem liệu Tôi có thể diễn đạt chân lý hiện nay về chiêm-tinh-học theo hình thức đơn giản đến mức mà những ai không biết chút gì về khoa học phức tạp này cũng có thể hiểu được. (Xem Chiêm TH nội môn 7)
+ Xem Lá số với Cung Mặt Trăng: Cho đến kỳ điểm Đạo thứ 3, chúng ta vẫn đang dọn dẹp đồ đạc >>> Cung Mặt Trăng cần phải xem để biết Người trên đường Đạo đang làm công việc chuyển hóa cần thiết (Nguồn: Câu hỏi)
+ Thứ tự các Hành tinh: Theo thứ tự khoảng cách, các hành tinh là Vulcan *, Thủy Tinh, Kim tinh, Trái Đất, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. [Vulcan được Mặt trăng che dấu. Trong Lá số Chiêm tinh nó che dấu Vulcan và chi phối những Phàm nhân chưa tiến hóa, cho đến khi họ bước vào con đường người chí nguyện. Người điểm đạo bậc 3 vẫn đang dọn dẹp Nghiệp quả/ Ảnh hưởng của Mặt trăng của họ. Mặt trăng là Hành tinh chết, nó không có phóng phát năng lượng nào. Nó được nhận diện như là Hình tư tưởng cổ xưa, dẫn truyền Nghiệp quả, cung cấp chất liệu để các Sự Sống thu nạp tạo thành Thể xác của muôn loài theo đúng Xác thể - Theo Khuôn Dĩ thái có sẵn tương ứng Y nguyên Thân xác của họ ở thời điểm họ Chết ở tiền kiếp họ đã Tạo dựng và thanh luyện. Nên nói Tháng sinh là Tháng tử vong của tiền kiếp để tiếp nối nghiệp quả và vạn sự_NTH tóm lược theo Minh triết Chân sư]
+ Chìa khóa Chiêm tinh học (Chân Sư DK)
3. Điều này đưa Tôi đến giải trình thứ ba, nó có nền tảng và căn bản đến nỗi Tôi muốn các bạn tạm dừng và xem xét nó, cho dù cho đến nay bạn không hiểu đủ hết các hàm ý của nó. Minh Triết Nghìn Xưa dạy rằng “không gian là một thực thể” (“space is an entity”). Chính là với sự sống của thực thể này và với các thần lực và năng lượng, các xung lực và các nhịp điệu, các chu kỳ và mùa tiết mà chiêm tinh học huyền bí bàn đến. H.P.B. có nói đến điều này trong Giáo Lý Bí Nhiệm.
Tôi xin nhắc các bạn rằng có một chìa khóa chiêm tinh học cho Giáo Lý Bí Nhiệm mà chưa thể được đưa ra đầy đủ. Tuy nhiên, Tôi có thể trao cho các bạn một số ẩn ngôn và gợi ra một số đường lối tiếp cận, và các đường lối này, nếu được tiến hành trong tâm thức của các nhà chiêm tinh học giác ngộ, có thể giúp một trong số họ vào một thời đại sau này khám phá ra chìa khóa đó và lúc bấy giờ ‒ giải thích nó cho nhân loại – tiết lộ nguyên lý cơ bản vĩ đại thứ tư của Minh Triết Muôn Thuở mà 3 nguyên lý căn bản đã được đưa ra trong lời nói đầu của GLBN.
Không gian là một thực thể và toàn bộ “vòm trời” (như nó được gọi một cách thi vị) là cái bề ngoài hiện tượng (phenomenal appearance) của thực thể đó. Bạn nên để ý rằng Tôi không nói bề ngoài vật chất (material appearance) mà nói bề ngoài hiện tượng. Việc suy đoán về bản chất, lịch sử và tung tích / chân tướng (identity) của thực thể đó là vô dụng và không có giá trị. Ý tưởng mơ hồ nào đó, cung cấp sự giống nhau dù cho khi vượt quá các đặc điểm, có thể trở thành có lợi, nếu bạn cố gắng suy tưởng về gia đình nhân loại, tức giới thứ tư trong thiên nhiên, dưới hình thức một thực thể, khi tạo thành một đơn vị đơn độc, tự biểu lộ qua biết bao dạng thức biến cải của con người. Với tư cách một cá nhân, bạn là một phần nguyên vẹn của nhân loại, tuy thế bạn sống cuộc sống riêng của chính bạn, bạn phản ứng lại với các ấn tượng của chính bạn, bạn đáp ứng với các ảnh hưởng và các tác động bên ngoài, và đến lượt bạn, bạn phóng xuất ra các ảnh hưởng, đưa ra một hình thức phóng phát cá tính nào đó và lộ ra một hoặc nhiều đặc tính nào đó. Bằng cách ấy và ở một phạm vi nào đó, bạn tạo ảnh hưởng lên chung quanh bạn và những người mà bạn tiếp xúc. Tuy nhiên, suốt thời gian đó bạn vẫn là một phần của một thực thể hiện tượng (phenomenal entity) mà chúng ta gán cho tên gọi là nhân loại. Bây giờ, nới rộng ý tưởng này đến một thực thể hiện tượng vĩ đại hơn, tức là một thái dương hệ. Chính thực thể này là một phần nguyên vẹn của một Sự Sống còn vĩ đại hơn đang tự biểu lộ qua bảy thái dương hệ, mà thái dương hệ của chúng ta là một. Giá mà bạn có thể hiểu được ý tưởng này, một minh họa mơ hồ về một chân lý vĩ đại đang nằm dưới chân lý huyền bí sẽ xuất hiện trong tâm thức của bạn. Chính sự sống và ảnh hưởng, các bức xạ (radiations) và các phóng phát (emanations) của thực thể này, và ảnh hưởng hợp nhất của chúng trên sự sống hành tinh chúng ta, các giới trong thiên nhiên và các nền văn minh đang khai mở của nhân loại, mà chúng ta sẽ phải xem xét một cách vắn tắt.
Đề tài quá rộng lớn đến nỗi Tôi đã đối mặt với khó khăn của phương pháp hữu hiệu nhất để nhờ đó mà vận dụng nó. Tôi lựa chọn sự ngắn gọn, việc giải trình chính xác các sự kiện (các sự kiện đối với những ai trong chúng ta đang hoạt động ở khía cạnh nội môn của sự sống, nhưng chúng phải hữu lý chỉ ở các giả thuyết đối với bạn) đồng thời tránh đi vào chi tiết và bàn thảo tỉ mỉ. Chúng ta sẽ cố gắng hoạt động từ cái phổ quát đến cái đặc thù, và từ khái quát đến cụ thể, nhưng trọng điểm của chúng ta sẽ luôn luôn ở trên cái phổ quát và khái quát, chứ không dựa vào cái đặc thù và cụ thể. Nó sẽ dựa vào những ai trong các bạn vốn là các nhà nghiên cứu chiêm tinh học để áp dụng đúng chân lý cho cái đặc thù.
Chắc chắn là về điều này, chiêm tinh học hiện đại đã đi lạc đường. Nó đã đảo ngược phương pháp chân thực và đúng đắn và đã nhấn mạnh vào cái đặc thù và riêng biệt; dựa vào lá số cá nhân và mệnh số cá biệt, và đã không nhấn mạnh vào các năng lượng vĩ đại và Cội Nguồn các năng lượng đó. Các cội nguồn này đều chịu trách nhiệm tối hậu cho sự biểu lộ của cái đặc thù. Lập trường và cách trình bày chân lý này phải được thay đổi.
Do đó, trong chiêm tinh học huyền bí, chúng ta bàn đến Sự Sống và Các Sự Sống đang làm linh hoạt (inform) “các điểm ánh sáng” bên trong Sự Sống vũ trụ (universal Life).
Các tinh tòa, các thái dương hệ, các hành tinh, các giới trong thiên nhiên và con người tiểu vi (microscopic man) hầu như là kết quả của hoạt động và sự biểu lộ năng lượng của một số Đấng Cao Cả (Lives) mà chu kỳ biểu lộ và các mục tiêu bao la của các Ngài nằm ngoài sự hiểu biết của các thể trí giác ngộ và tiến hóa nhất trên hành tinh chúng ta.
Điểm kế tiếp mà mỗi người trong các bạn cần hiểu rõ đó là sự kiện dĩ thái của không gian chính là lĩnh vực mà trong và qua đó các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Vì lẽ đó chúng ta chỉ đề cập tới thể dĩ thái của hành tinh, của thái dương hệ và của bảy thái dương hệ mà trong đó thái dương hệ của chúng ta là một, cũng như bàn đến thể dĩ thái rộng lớn hơn của vũ trụ mà chúng ta đang nằm trong đó. Ở đây Tôi sử dụng từ ngữ “located” (“nằm”, “có vị trí”…) một cách có cân nhắc và vì các suy đoán mà thuật ngữ đó dẫn đến. Lĩnh vực rộng lớn này, cũng như các lĩnh vực nhỏ hơn và có giới hạn hơn, cung cấp môi trường truyền chuyển (medium of transmission) cho tất cả các năng lượng đang tác động trên và qua thái dương hệ chúng ta, các bầu hành tinh chúng ta và mọi hình thức, sự sống trên các bầu này. Nó tạo thành một lĩnh vực hoạt động liên tục trong một chuyển động liên miên không dứt – một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng. (CTHNM, 14)
+ Định luật Quy Định (Law of Fixation): Định luật này chi phối cõi trí, nó có mối tương ứng nhiều hơn với luật Nghiệp Quả trên các phân cảnh trí tuệ vũ trụ. Định luật này là một trong các định luật quan trọng nhất mà chúng ta có liên quan vào bất cứ lúc nào và nó sẽ biểu lộ đầy đủ nhất trong cuộc tuần hoàn tới tức cuộc tuần hoàn thứ năm. (LVLCK, 591)
+ Định luật Quy Định (Law of Fixation): Đây là định luật đang chi phối cõi trí, có sự tương ứng to tát hơn của nó trong Định luật Nghiệp Quả trên cõi trí Vũ trụ.
Đây là 01 trong 07 Định luật Thái Dương Hệ, đều có tương quan với 7 cõi, là ...... (LVLCK, 574–596)/ Thuật ngữ Bác Khá
+ Các Mô Hình và Việc Quy Định: Hai từ ngữ đang nổi lên hiện nay liên quan với tâm lý học hiện đại, vốn có một mối quan hệ mật thiết với Định Luật Nhân Quả. Ý tưởng về CÁC MÔ HÌNH và ý tưởng về VIỆC QUY ĐỊNH. Các Mô Hình xuất phát từ tâm trí của Thượng Đế, theo sát nghĩa là các ý tưởng thiêng liêng, vì thế tương đối không thay đổi. Chúng là những loại năng lượng đang đấu tranh để xuất hiện trong sự biểu lộ vật chất, khơi gợi và đánh thức sự đáp ứng, và cuối cùng làm cho các năng lượng hời hợt hơn phụ thuộc vào nhịp điệu áp đặt của chúng. Chúng khoác lấy các hình thức trí tuệ vốn có thể được đánh giá cao, và các cung điệu (notes), các âm sắc (tones) và các vẻ ngoài khác nhau. Việc Quy Định là sự đáp ứng của vật chất hay chất liệu, đối với mô hình. Sự tương tác giữa mô hình và vật chất bị quy định tạo ra loại vỏ (thể trí, thể cảm dục, thể xác và dĩ thái), mà linh hồn chiếm giữ. Tính chất của lớp vỏ phụ thuộc vào tính chất của bộ máy đáp ứng mà con người đã phát triển cho đến nay – bộ máy tinh vi hơn đưa đến một cơ thể có chất lượng cao hơn (LH dựa trên các trang 55-56) Khi một người tiến trên con đường tiến hóa và gần tới trạng thái của một điểm đạo đồ, việc quy định của hình tướng, bẩm sinh và vốn có, sẽ liên tục tiếp cận càng lúc càng gần hơn với các yêu cầu của mô hình. Trong nhiều thời đại, linh hồn vật lộn với vật chất đó, xây dựng thành các hình thức thử nghiệm, loại bỏ nó nếu muốn, tập hợp vật liệu cần thiết lại với nhau lần nữa, và kiên trì tạo nên các kiểu mẫu thích hợp hơn như mô hình đã được hình dung. Sự đáp ứng với mô hình phụ thuộc vào giai đoạn phát triển tâm thức: Việc (nắm bắt có kiểm soát mà Linh hồn có trên bộ máy) phụ thuộc vào … “tuổi của linh hồn” … (có nghĩa) chiều dài thời gian mà một linh hồn đã sử dụng phương pháp đầu thai trong thể xác … (Hình tướng được tạo ra phản ánh tuổi hay mức phát triển này) … loại của bộ não, cơ thể, tình trạng của hệ thống nội tiết … tập hợp các phẩm chất, loại phản ứng tâm trí, và tính cách. Khi, ở cuộc điểm đạo thứ ba, sự hợp nhất của mô hình và hình tướng quy định được đạt đến, Sự Biến Hình của điểm đạo đồ diễn ra, dẫn đến cuộc khủng hoảng cuối cùng, trong đó hai được biết như là một, và bản chất hình tướng (trong giai đoạn này bao gồm thể nguyên nhân cùng các hiện thể thấp) lúc bấy giờ bị phân tán và biến mất. Theo (EPII 55-58), xem Tóm lược Tâm LHNM
+ Hình tư tưởng, chức năng (function of thought form): Chức năng của hình tư tưởng gồm có ba phần:
1. Ứng đáp với rung động (to respond to vibration).
2. Cung ứng một thể (body) cho một ý niệm (idea).
3. Tiến hành mục tiêu chuyên biệt (specific purpose) (LVLCK, 552)
+ Cung 4 là Cung Hài Hòa thông qua Xung Khắc, với màu đặc trưng của nó là màu vàng. Nhiều người có thể trí ở cung 4.
- Cảm xúc <> trực giác, tinh thần chiến binh, “phát triển” thông qua đau khổ, khủng hoảng, đấu tranh liên tục. Khuynh hướng hòa giải, yêu vẻ đẹp / phim / nghệ thuật / giải trí / sáng tạo. ( Năng lượng 7 cung - GQ/MF )
+ Phẩm tính Cung Bốn: Điều hòa qua Xung độ.
- Ưu điểm: Tình thương mạnh mẽ, đồng cảm, can đảm về thể chất, rộng lượng, cởi mở, trí tuệ và nhận thức nhanh nhạy.
- Nhược điểm: Lấy cái tôi làm trung tâm, âu lo, không chính xác, thiếu can đảm về đạo đức, nhiều ham muốn, biếng nhác, ngông cuồng.
+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI 205-7 (Xem Bảy đấng ....)
- Các Đức Tính đặc biệt: Tình cảm mạnh mẽ, sự thông cảm (Cảm tình), can đảm thể chất (Liều mạng), lòng quảng đại (Rộng lượng), sự tận tâm (Sùng tín), nhanh chóng (Nhanh trí) về trí tuệ và nhận thức mau lẹ.
- Các Tật Xấu của Cung: Ngã chấp (tự cho mình là trung tâm), hay lo lắng, thiếu chính xác (Sai sót), thiếu can đảm về đạo đức, nhiều đam mê (niềm đam mê mạnh mẽ), lười biếng/ Thụ động, phung phí/ Vô độ.
- Các Đức Tính cần có: Trầm tĩnh (Sự bình thản), tự tin, tự kiềm chế, Trong sạch (thanh khiết), vị tha, sự chính xác, sự thăng bằng về trí tuệ và đạo đức (Sự quân bình).
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung.
+ Luận về Cung 4 với 2 trường hợp Ngoại môn với Phàm ngã chưa Phối kết và đã phối kết:
- Mặt trăng dấu Vulcan: c. Cung 4. – Hài hòa qua Xung đột, qua Mặt trăng, trong trường hợp này che giấu hành tinh Vulcan. Ở đây, Vulcan "rèn trên chiếc đe của mình, nhờ lửa và búa đập, mạng lưới liên kết bao gồm cả quốc gia và khiến chúng gắn bó với nhau." Cung này nối kết nước Đức và Hoa Kỳ với nhau, vì cung bốn là cung linh hồn của Đức, trong khi cung một, được Vulcan truyền qua Mặt trăng, liên kết linh hồn và phàm nhân của Đức với Hoa Kỳ. Do vậy, một số đông người Đức đến Hoa Kỳ, để thoát khỏi hoạt động phàm nhân của Đức khi nó biểu lộ qua khía cạnh hủy diệt thuộc cung một của nó.
- Mặt trăng trực tiếp: d. Cung 4. – Tôi kể ra cung này lần thứ hai, vì ở đây nó biểu lộ qua Thủy tinh, vị Sứ giả, và nhấn mạnh khía cạnh hài hòa trái với phương diện xung đột mà Mặt trăng và Vulcan đã cùng nhau tuôn đổ. Chính mối liên hệ Mặt trăng - Vulcan tạo sự xung đột chính trị luôn bùng lên tại Hoa Kỳ.
- Mặt trăng che Thiên VT: h. Cung 4. – Như bạn thấy, ảnh hưởng này thường xuất hiện. Nhưng lần này nó biểu lộ qua Mặt trăng, khi Mặt trăng che giấu Thiên vương tinh. Ảnh hưởng này tạo sự xung đột có tính chất khác với những gì xảy ra khi Mặt trăng che giấu Vulcan, hoặc truyền trực tiếp năng lượng của cung bốn. Thiên vương tinh là phương tiện cho cung 7, và việc nó hòa hợp với cung bốn, qua Mặt trăng, có chức năng mang lại mối quan hệ kỳ diệu giữa nhiều quốc tịch khác nhau ở Hoa Kỳ. Vì thế mà hòa hợp và phối hợp họ thành một toàn thể đồng nhất – mà hiện nay chưa có được. (Trang 92) (Vận mệnh các quốc gia)
+ Mùa giáng sinh - Mùa lễ hội:
8. Đức Christ và Thời đại Mới Sắp đến.
... Tôi muốn thêm vào một điểm cuối trong lĩnh vực tôn giáo, liên quan đến lễ Giáng sinh. Như các bạn biết rõ, từ ngàn xưa, thời gian mặt trời di chuyển trở về hướng bắc đã được xem là mùa lễ hội.
Qua nhiều ngàn năm, thời gian này đã có liên quan đến sự giáng lâm của Thần Thái dương để cứu giúp, mang ánh sáng và sự thành tựu cho thế gian, và qua công tác của vị Thiên Đế tử, nhằm mang lại nguồn hy vọng cho nhân loại.
Với những ai không hiểu biết nhiều hơn, thì lễ Giáng sinh được xem chỉ là cuộc Lễ riêng của Đức Christ, và các giáo hội Thiên Chúa đã nhấn mạnh điều này, mà tất cả các giáo sĩ đều chứng tỏ. Điều này vừa đúng vừa sai. Vị Sáng lập Giáo hội Thiên Chúa – hiện thân của Thượng Đế – đã nhân thời gian này mà đến với chúng ta trong giai đoạn tối của năm để phát khởi một kỷ nguyên mới, trong đó ánh sáng là điều nổi bật. Điều này đúng trong nhiều phương diện, kể cả phương diện thuần vật chất, vì ngày nay chúng ta có thế giới được soi sáng. Đâu đâu cũng có ánh sáng, và đêm đen của thời xưa đang nhanh chóng tan biến đi. Ánh sáng cũng đã giáng xuống trần gian dưới dạng "ánh sáng hiểu biết."
Ngày nay, giáo dục, với mục tiêu dẫn dắt mọi người đi tới trên "con đường sáng," là chủ âm của nền văn minh chúng ta và là quan tâm chính yếu trong mọi nước. Việc xóa nạn mù chữ, phát triển nền văn hóa đích thực, và xác minh chân lý trong mọi lĩnh vực tư tưởng và nghiên cứu, đều hết sức quan trọng trong mọi quốc gia.
Thế nên, khi Đức Christ tuyên bố (một cách chắc chắn), cùng với tất cả các vị Cứu thế và Thần Thái dương, rằng Ngài là Ánh sáng của thế giới, tức là Ngài đã mở ra một thời kỳ huy hoàng mà trong đó nhân loại đã được khai ngộ một cách rộng rãi ở khắp nơi. Thời kỳ này bắt đầu từ Ngày Chúa Giáng sinh ở Palestine, cách đây hai ngàn năm. Đó là ngày trọng đại nhất trong tất cả những Ngày lễ Giáng sinh. Ảnh hưởng của nó phát ra mạnh mẽ hơn bất cứ sự giáng lâm nào trước đó của một Đấng Mang Ánh sáng, vì nhân loại đã sẵn sàng hơn để đón nhận ánh sáng. Đức Christ đến trong cung Song ngư, Hai con Cá – cung của vị Trung gian thiêng liêng theo ý nghĩa cao nhất, hoặc của người đồng tử theo ý nghĩa thấp hơn. Đó là cung của nhiều vị Cứu thế, của những vị Khải thị thiên tính, thiết lập các liên giao trên thế giới. Sức thôi thúc chính yếu trong công tác đặc biệt của Đức Christ là ý muốn thiết lập các liên giao chính đáng trong nhân loại. Đó cũng là ý muốn của nhân loại – dù mọi người đã hoặc chưa nhận thức được. Và chúng ta biết rằng một ngày kia tất cả các quốc gia đều có Ý muốn đó, rằng các liên giao chính đáng của nhân loại sẽ có ở khắp nơi, và thiện chí sẽ hoàn thành điều đó, đưa đến hòa bình trong mọi nước và trong mọi dân tộc. (Trang 148)
Qua các thời đại, Ngày lễ Giáng sinh đã được công nhận và cử hành như là mùa của những khởi đầu mới mẻ, của những giao tiếp tốt đẹp hơn giữa mọi người, và của những liên giao hạnh phúc hơn trong các gia đình và cộng đồng. Thế nhưng, các giáo hội đã hạ thấp, trình bày Thiên Chúa giáo một cách hết sức vật chất.
Thế nên, Ngày lễ Giáng sinh giản dị, lẽ ra sẽ làm hài lòng Đức Christ, đã thoái hóa thành cuộc chi tiêu hoang phí, thủ đắc những món đồ tốt đẹp, và được xem là thời gian "kinh doanh phát đạt." Do đó, cần lưu ý rằng khi một giai đoạn nào của tôn giáo được nguồn sống linh cảm, rồi bị lý giải hoàn toàn theo vật chất, khi một nền văn minh và văn hóa đánh mất ý thức về các giá trị tinh thần và hầu như đáp ứng với các giá trị vật chất, thì bấy giờ nó không còn hữu ích và phải qua đi. Đây là điều lợi ích cho đời sống và sự tiến bộ.
Bức thông điệp về sự giáng sinh của Đức Christ bao giờ cũng mang ý nghĩa mới mẻ, nhưng ngày nay không được mọi người thấu hiểu. Chúng ta đang nhanh chóng bước vào thời đại Bảo bình. Trong đó, sự chú trọng sẽ chuyển từ Bethlehem đến Jerusalem, và từ vị Cứu thế còn trẻ thơ đến Đức Christ Phục sinh.
Trong hai ngàn năm qua, Song ngư đã chứng kiến ánh sáng lan tỏa. Bảo bình sẽ chứng kiến Ánh sáng Bừng chiếu, và Đức Christ bao giờ cũng là biểu tượng của cả hai ánh sáng này.
Câu chuyện cổ xưa về sự Giáng sinh sẽ trở thành phổ quát, và được xem là câu chuyện của mọi người đệ tử và điểm đạo đồ được điểm đạo lần thứ nhất, và trở thành người phụng sự và người mang ánh sáng trong thời kỳ và địa phương của họ. Trong Thời đại Bảo bình, hai phát triển rất quan trọng sẽ xảy ra:
1. Cuộc Điểm đạo Giáng sinh sẽ chi phối sự suy tư và nguyện vọng tinh thần của mọi người ở khắp nơi.
2. Nét đặc trưng sẽ là tôn giáo của Đức Christ Phục sinh, chứ không phải là của Đức Christ mới sinh, hay của Đức Christ chịu khổ hình thập tự.
Người ta ít khi nhận thức được rằng muôn ngàn người trong mọi nước đã nhận, hoặc đang chuẩn bị nhận cuộc điểm đạo thứ nhất này, gọi là sự Giáng sinh ở Bethlehem, Ngôi nhà Bánh mì. Nhân loại, tức là người đệ tử thế gian, nay đang sẵn sàng cho cuộc điểm đạo này. Có thể thấy những dấu hiệu chính xác của lời phát biểu nói trên. Đó là sự tái định hướng của mọi người ở khắp nơi về những điều tinh thần. Đó là sự quan tâm của họ về những gì tốt đẹp và phúc lợi cho con người. Đó là việc họ bền lòng tìm kiếm ánh sáng, khao khát và mong muốn có hòa bình thực sự, dựa vào các liên giao chính đáng trong nhân loại, được thực hiện nhờ thiện chí. Có thể thấy "trí tuệ như có trong Đức Christ" trong việc họ phản đối tôn giáo thiên về vật chất, và trong cố gắng ở khắp nơi như ở Châu Âu và nơi khác nhằm giao lại đất đai (tức là Mẹ-Địa cầu, Đức Mẹ Đồng Trinh thực sự) cho người dân. Cũng có thể thấy trí tuệ đó trong việc dân chúng di chuyển liên tục từ nơi này đến nơi khác trên khắp thế giới. Việc này được tượng trưng trong câu chuyện Phúc âm qua cuộc hành trình của Đức Mẹ cùng trẻ thơ Jesus đi vào Ai Cập.
Như đã nói trong Kinh Tân ước, tiếp theo là một chu kỳ ba chục năm mà tất cả những gì chúng ta biết trong đó là trẻ thơ Jesus khôn lớn nên người, rồi nhận cuộc điểm đạo thứ hai, tức là Lễ Rửa tội ở Jordan, và bắt đầu phụng sự công chúng. Ngày nay, có nhiều người trong kiếp sống này đã được điểm đạo lần thứ nhất. Họ đang bước vào thời gian im lặng lâu dài theo biểu tượng ba chục năm nói trên, trong đó họ cũng trưởng thành và nhận cuộc điểm đạo thứ hai. Cuộc điểm đạo này chứng tỏ sự hoàn toàn kiểm soát cảm tính và tất cả các đặc tính của Song ngư. Có thể xem ba chục năm là khoảng thời gian khai mở tinh thần trong ba giai đoạn mà Bảo bình (tức là Thời đại Mới của chúng ta hiện nay) sẽ được phân chia. Ý tôi muốn nói đến những gì hiểu theo nghĩa chuyên môn là ba giai đoạn của mỗi cung hoàng đạo. Nói theo lối biểu tượng, trong cung này, những dòng nước của thời đại Song ngư sẽ được thu vào bình nước mang trên vai của Bảo bình – biểu tượng đặc biệt của nó, vì Bảo bình là người mang bình nước, đem nước của sự sống đến cho dân chúng – sự sống phong phú hơn.
Trong Thời đại Bảo bình, chính Đức Christ Phục sinh là Người Mang Bình Nước. Lần này, Ngài sẽ không biểu dương sự sống hoàn thiện của người Con Thượng Đế, mà trước đây đã là sứ mệnh chính của Ngài. Ngài sẽ xuất hiện với tư cách Thủ lãnh tối cao của Huyền giai Tinh thần – đáp ứng nhu cầu của các quốc gia đang khao khát trên thế giới – khao khát chân lý, khao khát các liên giao chính đáng cho nhân loại, và khao khát sự thông hiểu yêu thương.
Lần này Ngài sẽ được tất cả mọi người công nhận, và chính Cá nhân Ngài sẽ chứng tỏ tính cách thực tế của sự phục sinh, và đồng thời cho thấy sự thực bất tử của linh hồn, tức là con người tinh thần. Trong hai ngàn năm qua, người ta đã nhấn mạnh về sự chết. Nó đã ảnh hưởng đến toàn cả giáo huấn của các giáo hội chính thống. Chỉ một ngày trong năm là dành cho tư tưởng về sự phục sinh. Trong Thời đại Bảo bình sẽ có chú trọng vào sự sống và giải thoát ra khỏi nấm mồ của vật chất. Đây sẽ là chủ âm của nền tân tôn giáo thế giới, khác với tất cả những gì đã có trước đó.
Lễ Phục sinh và lễ Hạ trần sẽ là hai ngày nổi bật trong năm của tôn giáo. Như hẳn bạn đã biết rõ, lễ Hạ trần là biểu tượng của các liên giao chính đáng trong nhân loại. Qua đó tất cả mọi người và các quốc gia sẽ hiểu biết lẫn nhau chỉ nhờ ngôn ngữ tinh thần duy nhất – dù họ nói nhiều thứ tiếng khác nhau.
Thật có ý nghĩa khi hai sự kiện quan trọng này lại liên quan đến phần cuối của câu chuyện Phúc âm – một xảy ra trước và một xảy ra ngay sau sự chết thấy ở bề ngoài của Đức Christ. Đó là:
1. Câu chuyện về căn phòng ở tầng trên mà người đàn ông mang bình nước (tiêu biểu cho Bảo bình) đưa những người môn đồ đến, và trong đó đã cử hành lễ ban thánh thể đầu tiên. Lễ này được tất cả mọi người tham dự và báo trước mối liên giao tốt đẹp của nhân loại, sẽ thấy rõ trong thời đại sắp đến, sau những thử thách của Thời đại Song ngư. Lễ ban thánh thể này chưa bao giờ được cử hành, nhưng Thời đại Mới sẽ chứng kiến nó xảy ra.
2. Câu chuyện về căn phòng ở tầng trên mà trong đó các môn đồ họp lại và thực sự công nhận Đức Christ đã Phục sinh. Họ cũng hoàn toàn cảm thông, hiểu biết lẫn nhau, dù có sự khác biệt tượng trưng về tiếng nói. Họ thoáng thấy, với phần nào thấu hiểu tiên tri và dự kiến sự kỳ diệu của Thời đại Bảo bình.
Viễn ảnh trong trí của mọi người hiện nay là viễn ảnh về Thời đại Bảo bình, cho dù họ chưa nhận thức được nó. Trong tương lai mọi người sẽ thấy những mối liên giao chính đáng, lễ ban thánh thể thực sự, tức là việc chia sẻ mọi thứ (rượu vang, máu huyết, sự sống và bánh mì, hài lòng về kinh tế) và thiện chí. Chúng ta cũng có hình ảnh về tương lai của nhân loại khi tất cả các quốc gia đều kết hợp trong sự hoàn toàn hiểu biết lẫn nhau. Bấy giờ sự khác biệt tiếng nói – biểu tượng của các truyền thống, những nền văn hóa, văn minh, và quan điểm khác nhau – sẽ không còn ngăn trở các liên giao chính đáng trong nhân loại. Đức Christ sẽ hiện diện ở trung tâm của mỗi hình ảnh nói trên.
Rốt cuộc, các mục tiêu và nỗ lực rõ rệt của Liên Hiệp Quốc sẽ hoàn thành mỹ mãn. Đồng thời, giáo hội mới của Thượng Đế, có sự góp phần của tất cả các tôn giáo và những tập thể tinh thần, sẽ cùng nhau chấm dứt đại tà thuyết chia rẽ. Sẽ có tình thương, sự hợp nhất, và Đức Christ Phục sinh, và Ngài sẽ cho chúng ta thấy thế nào là cuộc đời hoàn thiện. (Vận Mệnh Các Quốc Gia_Tr 152/ 277)
+ Vị đệ tử Jesus đã trải qua nhiều năm giữa sự ra đời và lễ rửa tội. Ba cuộc điểm đạo còn lại được thực hiện trong ba năm. Bạn có cùng tình huống như vậy trên con đường của người tìm đạo. (LVHLT, 352)
+ Chân Sư Jesus là điểm hội tụ của năng lượng đang lưu chuyển qua nhiều Giáo hội Cơ Đốc. Hiện nay, Ngài đang sống trong một thể xác người Syrya và ngự đâu đó trong vùng Thánh Địa (Holy Land). Ngài đi hoằng khai đạo pháp ở nhiều nơi của Châu Âu. Ngài chuyên hoạt động với quần chúng hơn là với cá nhân, mặc dù Ngài quy tụ được quanh Ngài rất đông đệ tử. Ngài thuộc Cung 6, Cung Sùng Tín hay Lý Tưởng Trừu Tượng (Abstract Idealism) và các môn đồ của Ngài thường được nhận ra bằng sự cuồng tín và sùng tín lộ rõ trong các thời kỳ đầu của Cơ Đốc Giáo trong số người tử đạo. Chính Ngài là một nhân vật uy dũng, một người đề cao kỹ luật và một người có luật lệ và ý chí sắt đá. Ngài có dáng dấp cao lớn và xương xương, gương mặt dài và không được đầy đặn, tóc đen, nước da tái, với đôi mắt xanh sắc sảo. Hiện nay, công việc của Ngài cực kỳ quan trọng vì Ngài được giao cho việc lèo lái tư tưởng của Tây Phương ra khỏi tình trạng bất ỗn hiện nay vào dòng nước an bình của xác tín và tri thức, và chuẩn bị con đường ở Âu Châu và Mỹ Châu cho sự tái lâm sau rốt của Đức Chưởng Giáo. Ngài nổi tiếng trong câu chuyện Thánh Kinh, trước tiên xuất hiện dưới tên Joshua, con trai của Nun, tái hiện vào thời Ezra dưới tên Jeshua, được điểm đạo lần ba dưới tên Joshua, như đã được nhắc đến trong sách Zechariah. Trong câu chuyện Phúc Âm, Ngài được biết tới do hai hy sinh lớn, cuộc hy sinh mà trong đó, Ngài nhường thể xác cho Đức Christ sử dụng, và cuộc đại từ bỏ vốn là đặc điểm của lần điểm đạo thứ tư. Dưới tên là Appolonius ở Tyana, Ngài được điểm đạo lần 5 và trở thành một Chân Sư Minh triết. Kể từ đó, Ngài đã ở lại và làm việc với Giáo Hội Cơ Đốc, nuôi dưỡng mầm mống của sự sống tinh thần đích thực có trong các thành viên của mọi chi phái và môn phái, cố gắng làm trung hòa các sai sót và lỗi lầm của các giáo sĩ và các nhà thần học. Rõ ràng Ngài là vị Đại Lãnh Đạo, vị Tướng Lĩnh và nhà hành pháp khôn khéo. Trong các vấn đề Giáo Hội, Ngài cộng tác chặt chẽ với Đức Christ, như thế đỡ đần cho Đức Christ nhiều việc và đóng vai trò trung gian cho Đức Christ khi có thể được. Không ai hiểu biết các vấn đề của Phương Tây một cách sáng suốt bằng Ngài, không ai tiếp xúc một cách mật thiết với những người tiêu biểu cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trong giáo lý Cơ Đốc bằng Ngài và không ai biết rõ bằng Ngài về nhu cầu của thời hiện tại. Một số vị đại Giám Mục của Giáo Hội Anh Giáo và Cơ Đốc Giáo là các nhân viên sáng suốt của Ngài. – Đức Jesus là vị Chohan trên cung 6. (LVLCK, 439)
+ Tôi xin minh họa cho các bạn thấy ... Một trong những biểu lộ cấp cao của cung sáu đang ra đi có trong Thiên Chúa giáo. Tinh thần và các nguyên lý của tôn giáo này được thể hiện trong cuộc đời của Chân sư Jesus. Đến lượt Ngài được truyền cảm hứng, ứng linh và sử dụng bởi Đức Christ, là Đấng Lý tưởng vĩ đại của Ngài. ...
Như tôi đã nói trong một quyển sách trước đây, về mặt tinh thần, toàn lĩnh vực tôn giáo sẽ nhận được nguồn cảm hứng mới, và định hướng mới từ La Mã, vì Chân sư Jesus sẽ lại tiếp quản Giáo hội Thiên Chúa, nhằm nâng cao tinh thần và tái tổ chức nó. Từ cương vị Giáo hoàng của La Mã, Chân sư Jesus sẽ cố gắng đưa chi nhánh lớn này của tín ngưỡng tôn giáo trên thế giới trở về vị thế quyền lực tinh thần, và từ bỏ sức mạnh chính trị tạm thời cũng như thẩm quyền hiện nay của nó. (Sách Vận Mệnh các quốc gia)
+ Ở cuộc điểm đạo I, sự kiềm chế của Chân Ngã đối với thể xác phải đạt được mức độ thành tựu cao. Tội lỗi của nhục thân” theo cách nói của người Cơ đốc, phải bị khống chế, tính tham ăn, tham uống (rượu), cách sống bừa bãi không còn chế ngự nữa. Giữa cuộc điểm đạo I và II có nhiều kiếp sống chen vào. (ĐĐNLVTD, 82)
+ Ở cuộc điểm đạo thứ nhất, cái mà Kinh Tân Ước gọi là “Hài nhi trong Christ” (“Babe in Christ”) bắt đầu cuộc hành hương của con đường đạo. Cuộc điểm đạo thứ nhất chỉ tượng trưng cho sự bắt đầu. Một cấu trúc nào đó của đời sống chân chính, của tư duy và của hành vi đã đạt được; hình hài mà Đức Christ sẽ chiếm ngụ đã được kiến tạo, và bây giờ hình hài đó sẽ được làm linh hoạt và được ngự bên trong (indwelt). Sự sống Christ nhập vào, và hình hài trở nên sống động. Ở đây có ẩn chứa sự dị biệt giữa lý thuyết và việc làm cho lý thuyết đó thành một thành phần của chính bạn. Bạn có thể có một bức tranh hoặc hình ảnh hoàn hảo, nhưng nó còn thiếu sự sống. Bạn có một người đã bắt chước cuộc đời của y theo thánh linh tới hết sức của y. Y có một bản sao tốt đẹp, tuy nhiên vẫn thiếu cái gì đó. Cái gì đó này là gì? Đó là sự biểu lộ của Christ nội tại. Mầm mống đã ở đó, nhưng nó nằm yên không hoạt động. Bây giờ nó được nuôi dưỡng và được sinh ra, và đạt được cuộc điểm đạo đầu tiên. Khi đó thì vẫn còn nhiều điều cần được thực hiện. Sự tương đồng được hoàn thành. Vị đệ tử Jesus đã trải qua nhiều năm giữa sự ra đời và lễ rửa tội. Ba cuộc điểm đạo còn lại được thực hiện trong ba năm. Bạn có cùng tình huống như vậy trên con đường của người tìm đạo. (LVHLT, 352)
+ Đường đạo: Con đường tri thức là con đường của nhà huyền linh học và bậc hiền triết; con đường bác ái là con đường của nhà thần bí và vị thánh. Sự tiếp cận ở đầu hoặc ở tim không phụ thuộc vào cung, vì cả hai cách phải được hiểu biết; nhà thần bí phải trở thành nhà huyền linh học; nhà huyền linh học bên chính đạo (white occultist) đã là nhà thần bí thánh thiện (saintly mystic). Tri thức thực sự (true knowledge) là lòng bác ái sáng suốt, vì đó là sự phối hợp của trí tuệ (intellect) và lòng sùng đạo. (LVHLT/ LVCT 80)
+ Con đường đạo: Là Pháp tu TRUNG ĐẠO - Là con đường Chánh đạo mà chính Đức Phật đã dậy qua nhiều Kinh văn Phật Giáo. Là con đường như Lưỡi dao cạo thật khó đi. Quí vị phải cân bằng giữa Học Giáo lý Kinh Văn Phật pháp và tu tập thật hành hàng ngày để làm người Quân tử trước khi muốn tu thành tựu bất cứ pháp môn nào cao hơn. Muốn vậy, đầu tiên phải giữ giới luật, thực hành Thập thiện nghiệp đạo và Bát Chánh đạo, tuân thủ theo nguyên tắc "Giữ giới sinh Định - Có Định sanh trí huệ". Cao hơn thì thực hành Tham thiền tu Định lực hàng ngày để phát triển trí huệ, như thế mới có thể tránh rơi vào Tà đạo/ Ngoại đạo mà trở lên rời xa Chánh đạo, sẽ mãi vẫn ở trong vòng Luân hồi khổ đau, rất đáng sợ. Có câu "Thân người khó được - Phật Pháp khó nghe". Quí vị cần học hiểu để biết rằng ngàn vàng chẳng mua được trí tuệ chân thật, chỉ có tu hành mới mong thành tựu. Như HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, là Vạn vật đồng nhất thể, hiểu là trong nghe giảng Kinh và tu tập, quí vị nên nhất tâm hòa làm một với người giảng hay vị Thầy Chánh đạo mình hướng tới, ví như đọc Chú Đại Bi thì Tâm làm một với Bồ Tát Quan Thế Âm - Gọi là tu Hóa thân Bồ Tát Quan Thế Âm, như vậy mới đúng Pháp và thu được nhiều thành tựu nhanh chóng (Lời NTH)
+ ĐƯỜNG ĐẠO VÀ CÁC CUNG - HÀNH TINH
Cung I: Mãnh lực - Năng lượng - Hành động - Huyền bí gia.
Cung II: Tâm thức - Mở rộng - Điểm đạo - Nhà tâm thông thực sự.
Cung III: Thích nghi - Phát triển - Tiến hóa - Thuật sĩ.
Cung IV: Rung động - Đáp ứng - Biểu lộ - Nghệ sĩ.
Cung V: Hoạt động trí tuệ - Hiểu biết - Khoa học - Nhà khoa học.
Cung VI: Lòng tôn sùng - Ý niệm trừu tượng - CN lý tưởng - Người sùng tín.
Cung VII: Thần chú - Huyền thuật - Hành Nghi thức - Người hành lễ.
+ Đây sẽ là một điểm quan trọng cần phải tính đến, vì nhóm các thần bí gia này đang mỗi năm mỗi trở nên mạnh mẽ hơn.
- Các Năng Lượng Hành Tinh phát ra từ:
a/ 7 hành tinh.
b/ Trái Đất.
c/ Mặt trăng.
Tổng là 9 Hành tinh: Chỉ có một vài điều có thể được lưu ý về tiết đoạn nói về các năng lượng này và về tiết đoạn kế tiếp, vì đây là một loạt các hướng dẫn cho người tìm đạo chứ không phải là một luận thuyết về năng lượng.
- Năng Lượng Mặt Trời (Nơi đầu tiên tiếp nhận các năng lượng vũ trụ đến Thái dương hệ rồi phóng phát tới các Hành tinh) phát ra từ :
a/ Mặt trời vật chất.
b/ Các nguồn vũ trụ.
Trong mọi tư tưởng liên quan đến các năng lượng này, cần nhớ rằng chúng được chuyển đến chúng ta thông qua, hay đúng hơn là chúng tạo thành các thể của một số sinh linh mà chúng ta gọi là các devas, trong các nhóm lớn và nhỏ hơn của họ, và do đó chúng ta vào mọi lúc đều đang hoạt động trong các thể (bodies) của các sinh linh này và do đó ảnh hưởng đến họ. Vì vậy, một số bạn vốn đã nghiên cứu bộ Luận Về Lửa Càn Khôn có thể nhận thấy các chi tiết sau là đáng chú ý:
1. Các loại devas thấp nhất hay các nhà kiến tạo trên Con Đường Tiến Hóa thăng thượng là các thiên thần màu tím; kế tiếp là các thiên thần màu xanh lá cây, và cuối cùng là các thiên thần trắng (white devas). Tất cả các thiên thần này đều bị chi phối bởi một nhóm đặc biệt thứ tư. Các thiên thần này kiểm soát các tiến trình bên ngoài của sự sống ở cõi trần.
2. Tuy nhiên, không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, là những nhóm sinh linh khác, được gọi sai là devas, họ làm việc tuân theo thiên luật, và được kiểm soát bởi các thực thể cao hơn. Chẳng hạn như, có các hình thể dày đặc hơn của sự sống khí hơi, thường được gọi salamanders, tức là hỏa-tinh-linh (elemental of the fire). Các tinh linh này ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hỏa Tinh Quân (Lord Agni), là vị Chúa Tể của cõi trí (Lord of the mental plane), và trong kỷ nguyên trí tuệ này, chúng ta có yếu tố lửa (hành hỏa) nhập vào quy trình sống mà trước đây không bao giờ có. Loại bỏ những sản phẩm được kiểm soát bởi nhiệt (heat) và bạn sẽ đưa nền văn minh của chúng ta đến một trạng thái dừng lại, bạn sẽ đưa mọi phương tiện vận chuyển đến một kết thúc cùng với mọi phương cách chiếu sáng; bạn sẽ vứt bỏ tất cả các nhà máy chế tạo. Ngoài ra, về cơ bản, những sinh linh lửa (fiery lives) này, được tìm thấy trong tất cả những gì bốc cháy, và trong sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Sự sống các Hành: Theo Tooltip "sự sống", thì tất cả vật chất đều có sự sống dù ẩn tàng [Tinh thần ở trung tâm nguyên tử].
Xem thêm: Các phẩm tính của hành tinh Chủ về - Chi phối - Dẫn truyền Cung NL - Quản 4 phương
Xem thêm: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh/ Hành tinh Cai quản
+ Kinh là gì: ví dụ: Bát nhã ba la mật đa là pháp. Tâm là ví dụ. Kinh là bộ kinh này. Kinh có thông danh và biệt danh. Thông danh là thống nhiếp hết mọi bộ kinh. Biệt danh là mỗi bộ kinh có danh tự riêng biệt, những bộ kinh khác không có tên giống nhau. Tâm kinh bát nhã ba la mật đa là biệt danh của bộ kinh này. Bộ tâm kinh bát nhã ba la mật đa này thuộc trong bộ Bát Nhã, biểu thị tâm trong tâm.
Sao gọi là kinh ? Kinh tức là kinh pháp thường bất chuyển, không thể thay đổi. Một chữ cũng không thể bỏ được, hay cũng không một chữ được. Đó là kinh pháp thường bất biến.
Lại "kinh" là một con đường, nghĩa là tu hành phải đi qua một con đường nhất định. Chư vị có muốn tu hành à ? Nhất định chư vị phải đi trên đường đạo này. Nếu chư vị không đi trên đường đạo này thì sẽ bị lạc vào rừng rậm hoang vu. Chư vị phải nên đi trên đường tu hành thì không bị lạc đường. Ngày này qua ngày nọ đều được bình an, sáng suốt. Sao gọi là đi lạc ? Vì chư vị xưa nay quên mất, không biết tụng niệm kinh này. Qua ba bốn tháng, không tụng niệm nên quên mất, mới đi lạc. Tụng kinh được lợi ích gì ? "Tụng kinh không được lợi ích gì cả, chỉ mất thời gian, tốn sức thôi. Tụng bộ kinh này từ đầu cho đến cuối tốn khí lực, thời gian, tinh thần. Sao lại cho là có ích lợi ?"
Kinh cũng có bốn loại ý nghĩa, tức là quán, nhiếp, thường, pháp.
Chữ quán, nghĩa là quán xuyến, tức là tất cả nghĩa lý đều nối thông với nhau như nối lại tất cả đường chỉ với nhau.
Nhiếp tức là nhiếp trì hóa độ những chúng sanh có duyên lành. Kinh năng nhiếp thủ những chúng sanh có cơ duyên, tùy theo bịnh mà cho thuốc. Sao gọi là nhiếp ? Chư vị có thấy nam châm hút sắt không ? Tuy sắt ở xa, nhưng nam châm vẫn hút được. Kinh cũng giống như nam châm hút sắt. Tất cả chúng sanh như sắt cứng, ương ngạnh cứng cõi, tánh nóng giận hẩy hừng, lỗi lầm đầy dẫy. Nhưng nhờ sức hút của kinh, tâm tánh chúng sanh từ từ nhũn nhặn, tập khí cững dần dần tiêu hết.
Chữ thường nghĩa là vĩnh viễn thường hằng bất biến. Mãi không biến đổi là từ đầu đến cuối, từ xưa đến nay, đều y chiếu theo kinh mà tu hành.
Pháp là phương pháp. Dùng phương pháp này để tu hành. Đời quá khứ, hiện tại và vị lai đều dùng phương pháp này mà tu hành. Vì vậy ba đời đồng tôn kính gọi là pháp. Xưa và nay không đổi nên gọi là thường.
Lại nữa, kinh nghĩa là mực thước. Thợ mộc xưa kia dùng dây nhuộm phấn đen. Khi muốn gạch lằn ngang liền căng dây ra, rồi ấn xuống. Khi lấy dây lên tạo ra một lằn phấn đen để làm mực thước, không như hiện nay có phấn có thước kẻ đường ngay ngắn.
Tóm lại, kinh là quy củ, tiêu chuẩn, mực thước. Nay chúng ta nghiên cứu kinh Bát nhã, cũng là y theo quy tắc Bát Nhã. Chư vị nếu y theo quy tắc Bát Nhã thì nhất định sẽ khai mở trí huệ.
Giải thích danh đề tổng quát.
Giảng về đề kinh, đại khái cũng giống như những lời giảng ở phần trên. Nay giảng trạch về người phiên dịch. Hiện tại, chúng ta hiểu rõ bộ kinh này phải nhớ ơn người phiên dịch. Nếu không có người phiên dịch, sợ rằng ngày nay chúng ta không thể đọc, nghe được tên kinh này. Nếu không được nghe, không được đọc đến tên kinh này thì chúng ta y chiếu theo kinh nào, phương pháp nào để tu hành ? Không có phương pháp thì làm sao chúng ta tìm được con đường tu hành. Thế nên, chúng ta phải tri ân người phiên dịch kinh. Trải qua bao thời đại, người dịch giả, vì lòng từ bi giáo hóa chúng sanh nên phát tâm phiên dịch kinh điển và lưu truyền lại cho đến hôm nay. Thế nên, công đức của người phiên dịch kinh điển không thể nghĩ bàn, thật to lớn. Người phiên dịch kinh này là ai ? Chính là do tam tạng pháp sư Đường Huyền Trang vâng chiếu dịch kinh. Đường tức là Đường triều. Tam tạng là kinh tạng, luật tạng, và luận tạng. Tạng kinh có rất nhiều bộ kinh. Tạng luật giảng về giới luật. Tạng luận giảng về đạo lý kinh điển.
Pháp Sư là lấy pháp làm thầy, đem pháp bố thí cho người. Dùng tam tạng kinh điển của Phật pháp làm thầy mình, và đem pháp giáo hóa chúng sanh, nên gọi là tam tạng Pháp Sư. Mỗi vị pháp sư hiện nay tôn tam tạng kinh điển làm thầy và đem pháp ra giáo hóa chúng sanh. Đầy đủ hai nghĩa này thì chư vị mới có thể gọi họ là vị pháp sư tôn kính pháp làm thầy và dùng pháp để giáo hóa chúng sanh. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Phật Giáo là Pháp chân thật, chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay mê đắm trong sanh tử lục đạo, Phật lay tỉnh chúng ta, dạy chúng ta phải giác ngộ. Chân Chánh Giác ngộ thì Ngã chẳng còn nữa, bạn mới có thể thoát lìa tam giới, lục đạo, chẳng còn Ta nữa.
Cho nên tôi khuyên mọi người, đừng có Ta, chúng ta sống trên Thế Giới này để làm gì? Để diễn kịch. Diễn cách nào?
- Kinh Điển chính là kịch bản, y theo kịch bản mà diễn thì sẽ chẳng có ý niệm về Ta. Chiếu theo kịch bản, kịch bản dạy chúng ta làm như thế nào, hoàn toàn y theo kịch bản để diễn kịch. Hết thảy Kinh do Phật nói đều là kịch bản, Phật diễn theo bản Kinh ấy, Bồ Tát diễn theo bản Kinh ấy, do đó họ trên thế gian này gọi là du hý thần thông.
Nếu bạn hỏi các Ngài có ý tứ về tự kỷ về Ta, về mình không? Chẳng có.
Kinh do Phật nói ra, đó có phải là ý tứ của Phật không? Không phải. Trong Kinh Bát Nhã, Đức Phật đã phủ nhận, Phật chẳng giảng Kinh, chẳng có ý tứ của riêng mình.
Vậy Kinh Điển rốt cuộc là gì? Kinh Điển là trong tự tánh vốn sẵn như vậy.
Thế nên chúng ta sinh sống như vậy là sống đời sống của tự tánh vốn có, đời sống vốn có của tự tánh tức là đời sống của Phật, Bồ Tát, làm gì có ý tứ về mình. Vĩnh Gia đáp Lục Tổ rất hay Phân biệt cũng chẳng có Ý, chấp trước cũng chẳng có ý, Phân biệt, chấp trước chẳng phải ý tứ của mình, ý tứ gì? Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức.
- Chúng sanh phân biệt như thế nào, thì tôi noi theo phân biệt như vậy, Chúng sanh chấp trước như thế nào thì tôi noi theo chấp trước như vậy, Tự tôi chẳng có phân biệt và cũng chẳng có chấp trước, do đó phân biệt, chấp trước đều chẳng có ý, như vậy tự tại biết bao! Vô ngã, vô ngã thì sẽ chẳng có sanh tử, tất cả đều là biểu diễn, là diễn kịch.
Phải hiểu đạo lý này, đây mới là chân tướng sự thật của nhà Phật, và cũng là chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh. Nếu bạn chẳng chịu diễn kịch thì sẽ phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi. (Nguồn: PS Tịnh Không)
+ Giáo pháp: “Kinh A Hàm kể rằng có lần một đệ tử hỏi Phật Thích Ca: – “Bạch Thế Tôn, giáo pháp của Thế Tôn có thể tóm tắt nói lên bằng một câu rất đơn giản hay không?” Phật trả lời: “Có thể”. Đệ tử lại hỏi: “Đó là câu gì?” Phật nói: – “Đối với tất cả, đều không chấp trước. Đó là lời nói quan trọng nhất trong tất cả giáo pháp của Ta”. Tiếp theo Phật lại nói: – “Nếu có người nào đó “hiểu” được câu ấy, thì sẽ tin theo toàn bộ giáo pháp của Ta, nếu có người nào đó “thực hành” được câu ấy, thì tức là thực hành được toàn bộ giáo pháp của Ta”. (Nguồn: Kinh A Hàm - Tóm Tắt Giáo Pháp Đức Phật)
+ Kinh là gì: Kinh tức là kinh pháp thường bất chuyển, không thể thay đổi. Một chữ cũng không thể bỏ được, hay cũng không một chữ được. Đó là kinh pháp thường bất biến.
Lại "kinh" là một con đường, nghĩa là tu hành phải đi qua một con đường nhất định. Chư vị có muốn tu hành à ? Nhất định chư vị phải đi trên đường đạo này. Nếu chư vị không đi trên đường đạo này thì sẽ bị lạc vào rừng rậm hoang vu. Chư vị phải nên đi trên đường tu hành thì không bị lạc đường. Ngày này qua ngày nọ đều được bình an, sáng suốt. Sao gọi là đi lạc ? Vì chư vị xưa nay quên mất, không biết tụng niệm kinh này. Qua ba bốn tháng, không tụng niệm nên quên mất, mới đi lạc.....(HT Tuyên Hóa giảng Tâm Kinh Bát Nhã)
+ Phật Giáo là Pháp chân thật, chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay mê đắm trong sanh tử lục đạo, Phật lay tỉnh chúng ta, dạy chúng ta phải giác ngộ. Chân Chánh Giác ngộ thì Ngã chẳng còn nữa, bạn mới có thể thoát lìa tam giới, lục đạo, chẳng còn Ta nữa.
Cho nên tôi khuyên mọi người, đừng có Ta, chúng ta sống trên Thế Giới này để làm gì? Để diễn kịch. Diễn cách nào?
- Kinh Điển chính là kịch bản, y theo kịch bản mà diễn thì sẽ chẳng có ý niệm về Ta.
Chiếu theo kịch bản, kịch bản dạy chúng ta làm như thế nào, hoàn toàn y theo kịch bản để diễn kịch. Hết thảy Kinh do Phật nói đều là kịch bản, Phật diễn theo bản Kinh ấy, Bồ Tát diễn theo bản Kinh ấy, do đó họ trên thế gian này gọi là du hý thần thông.
Nếu bạn hỏi các Ngài có ý tứ về tự kỷ về Ta, về mình không?
Chẳng có.
Kinh do Phật nói ra, đó có phải là ý tứ của Phật không? Không phải. Trong Kinh Bát Nhã, Đức Phật đã phủ nhận, Phật chẳng giảng Kinh, chẳng có ý tứ của riêng mình.
Vậy Kinh Điển rốt cuộc là gì? Kinh Điển là trong tự tánh vốn sẵn như vậy.
Thế nên chúng ta sinh sống như vậy là sống đời sống của tự tánh vốn có, đời sống vốn có của tự tánh tức là đời sống của Phật, Bồ Tát, làm gì có ý tứ về mình. Vĩnh Gia đáp Lục Tổ rất hay Phân biệt cũng chẳng có Ý, chấp trước cũng chẳng có ý, Phân biệt, chấp trước chẳng phải ý tứ của mình, ý tứ gì? Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức.
- Chúng sanh phân biệt như thế nào, thì tôi noi theo phân biệt như vậy, Chúng sanh chấp trước như thế nào thì tôi noi theo chấp trước như vậy, Tự tôi chẳng có phân biệt và cũng chẳng có chấp trước, do đó phân biệt, chấp trước đều chẳng có ý, như vậy tự tại biết bao! Vô ngã, vô ngã thì sẽ chẳng có sanh tử, tất cả đều là biểu diễn, là diễn kịch.
Phải hiểu đạo lý này, đây mới là chân tướng sự thật của nhà Phật, và cũng là chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh. Nếu bạn chẳng chịu diễn kịch thì sẽ phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi. (Nguồn: PS Tịnh Không)
+ Tinh chất Hành khí [xem như bao gồm các tập hợp vật chất, ở một trong sáu cõi phụ phi nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục - KHÔNG được dùng làm hình hài]: Nếu chúng ta muốn đi sâu vào đề tài Tinh chất hành khí, chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong các sách của bà Annie Besant và ông CW Leadbeater. Trong tất cả các sách của Chân sư DK, thuật ngữ Elemental Essence được nhắc đến mười lần, và chỉ một lần nó được định nghĩa như sau:
Tinh chất Chân thần (Monadic Essence), là vật chất của cõi phụ nguyên tử (hay cõi phụ cao nhất) của mỗi cõi chính. Tinh chất hành khí (Elemental Essence), tức vật chất của sáu cõi phụ phi nguyên tử. Đó là vật chất phân tử.
"Chúng ta có thể định nghĩa Tinh chất Chân thần là vật chất nguyên tử được tạo thành bởi sự sống của [69] Thượng đế thứ hai. Đó là y phục của Ngài nhằm linh hoạt hoá và kết hợp các hình tướng lại với nhau; Ngài được bao phủ bởi vật chất nguyên tử. Với cương vị Thượng Đế, Sự Sống của chính Ngài tách biệt với sự sống của Atma-Buddhi-Manas trong con người, tách biệt với bất cứ sự sống nào trên cõi giới đó - mặc dầu Ngài truyền sức mạnh, thấm nhuần, và bao gồm tất cả các sự sống kia - chỉ được bao bọc trong vật chất nguyên tử, và chính điều này là ý nghĩa của thuật ngữ Tinh chất Chân thần. Vật chất của cõi đó, do bản chất của các nguyên tử của cõi đó, có khả năng đáp ứng bằng các rung động với các thay đổi linh hoạt của tư tưởng, được Làn Sóng Sinh Hoạt Thứ Hai đưa vào các kết hợp vật chất thích hợp để biểu lộ các tư tưởng—các tư tưởng trừu tượng ở trong vật chất tinh anh hơn, còn tư tưởng cụ thể ở trong vật chất thô thiển hơn. Các kết hợp vật chất của cõi phụ cao thứ hai và thứ ba tạo ra Giới Hành Khí Thứ Nhất. Các kết hợp vật chất trên bốn cõi phụ thấp tạo ra Giới Hành Khí Thứ Hai. Vật chất được giữ lại trong các phức hợp vật chất như thế được gọi là Tinh chất hành khí và dễ nhạy cảm để được tạo hình thành càc hình tư tưởng. Đạo sinh đừng nên nhầm lẫn Tinh chất hành khí với Tinh chất Chân thần (Monadic Essence); một bên [70] có cấu tạo nguyên tử, bên kia có cấu tạo phân tử_Annie Besant"
Tinh chất hành khí được xem như bao gồm các tập hợp vật chất, ở một trong sáu cõi phụ phi nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục - các tập hợp mà bản thân chúng không được dùng làm các hình hài dành cho bất cứ thực thể nào trú ngụ, mà là vật liệu nhờ đó các hình hài này có thể được tạo dựng.
Làn Sóng Sinh Hoạt Thứ Hai lúc đó mới tuôn đổ vào cõi thứ sáu, cõi của Nước, hoặc cõi của cảm giác được cá nhân hóa, cõi của dục vọng. Các Thiên Thần được nói ở trên, liên kết Jivatma - các nguyên tử được gắn kết hay các nguyên tử thường tồn của cõi thứ năm, với một số các nguyên tử tương ứng trên cõi thứ sáu, và Thượng Đế Ngôi Hai làm tràn ngập các nguyên tử này và các nguyên tử còn lại bằng Sự Sống của chính Ngài—nhờ thế các nguyên tử này trở thành Tinh chất Chân thần như đã giải thích ở trên. Làn sóng sinh hoạt tiếp tục hướng tới, tạo ra trên mỗi cõi phụ các kết hợp vật chất thích hợp để biểu lộ các cảm giác. Các kết hợp vật chất này tạo thành Giới Hành Khí Thứ Ba, và vật chất được giữ trong phức hợp như thế được gọi là Tinh chất hành khí, như trên, và trên cõi thứ sáu này, dễ nhạy cảm để được nắn tạo thành các hình-dục vọng.
Như thế ta thấy Tinh chất hành khí gồm có các tập hợp vật chất ở trên mỗi một trong số sáu cõi phụ phi-nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục, các tập hợp này chính chúng không dùng như các hình hài cho bất cứ thực thể nào trú ngụ, mà như [71] các vật chất mà từ đó, các hình hài như thế có thể được kiến tạo. Kế đó, làn sóng sinh hoạt đi vào cõi thứ bảy, tức cõi trần, cõi của các hoạt động được cá thể hóa, cõi của hành động. Giống như trước, các nguyên tử gắn với Jivatma hay nguyên tử thường tồn của cõi thứ sáu, được liên kết với một số nguyên tử tương ứng trên cõi thứ bảy, và Thượng Đế Ngôi Hai tràn ngập các nguyên tử này và các nguyên tử còn lại với sự sống của chính Ngài—như thế tất cả các nguyên tử này trở thành Tinh Chất Chân Thần. Làn sóng sinh hoạt lại tiến tới, tạo ra trên mỗi cõi phụ các kết hợp vật chất thích hợp để tạo thành thể xác, các nguyên tố hóa học trong tương lai, như chúng được gọi thế trên ba cõi phụ thấp.....
Bà Annie Besant đã đưa ra một giải thích để giúp chúng ta hiểu bản chất của những Tinh chất hành khí này. Làn Sóng Sinh Hoạt đầu tiên từ Thượng đế Thứ Ba chuẩn bị các nguyên tử với Sự sống của Thượng đế Ngôi Ba, trong khi Làn Sóng Sinh Hoạt thứ hai kết hợp các nguyên tử này thành tập hợp các nguyên tử để được kiến tạo thành các hình tướng cho các thực thể sinh sống:
Nhìn vào công việc này của Làn Sóng Sinh Hoạt thứ hai nói chung, chúng ta thấy rằng việc đi xuống của làn sóng này có liên quan đến những gì có thể được gọi một cách gần đúng là việc tạo ra các mô (tissues) đầu tiên, từ đó các thể tinh anh và các thể trọng trược sẽ được tạo thành tiếp theo đó. Trong một số cổ thư, việc đó đã được gọi rất đúng là việc ‘đan dệt’, vì nó thực như vậy theo nghĩa đen. ........
"Các loại Tinh Chất Hành Khí" được Ông CW Leadbeater cho rằng có 2401 loại tinh chất hành khí khác nhau trên cõi trung giới, nhưng về cơ bản chúng là một “giới” (kingdom—vương quốc), “một kho chứa khổng lồ các tinh chất hành khí, nhạy cảm tuyệt vời với những suy nghĩ thoáng qua nhất của con người, chúng đáp ứng một cách rất tinh vi, nhanh chóng từng sát-na, đối với một rung động phát ra từ ý muốn hoặc dục vọng của con người, dù ý muốn hay dục vọng này chỉ xảy ra trong vô thức. Điều này có nghĩa rằng chúng luôn ở trong trạng thái “căng thẳng”, sẵn sàng kết tụ lại thành một hình thể dưới sự thúc đẩy của một suy nghĩ hoặc một mong muốn thoáng qua, hoặc sự kết hợp của cả hai. Rất khó để nhận ra tình huống khi bất kỳ thành phần nào trong kho tinh chất hành khí này không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tác động bên ngoài nào (một tình huống hiếm khi xảy ra). Khi ở trong điều kiện như vậy, nó hoàn toàn “không có bất kỳ hình thức xác định nào của riêng nó, mặc dù chuyển động của nó vẫn nhanh chóng và không ngừng nghỉ”. Nhưng khi bị ảnh hưởng bởi một dòng suy nghĩ đi qua, nó “tức khắc bị xáo trộn, thay đổi hình thể, khi ẩn khi hiện nhanh chóng như những bọt trên mặt nước đang sôi.” Kể từ đó, nó bị tách ra khỏi kho chứa nguyên tố khổng lồ và trở thành một thực thể biệt lập được gọi là một tinh linh. Ông CW Leadbeater đã cẩn thận thêm tính từ nhân tạo vào trước danh từ tinh linh để nhấn mạnh sự khác biệt giữa một thực thể như vậy và một nature spirit mà đôi khi cũng được gọi là một elemental.
"Tính chất của tinh chất hành khí" - Chúng là những trung tâm của mãnh lực hoặc năng lượng được chúng ta tác động lên khi suy nghĩ và trong các chuyển động cơ thể khác. Chúng ta cũng tác động lên chúng, ban cho chúng một hình thể bởi kiểu suy nghĩ mà chúng ta không nhận ra được. Giống như một người có thể tạo hình một elemental trông giống như một con côn trùng, và không thể biết được liệu anh ta đã nghĩ ra điều đó hay chưa. Vì có một đất nước rộng lớn chưa được biết đến trong mỗi con người mà bản thân anh ta không hiểu được cho đến khi anh ta đã cố gắng, và chỉ sau nhiều lần điểm đạo.
Vì nó (thế giới tinh linh) là tự động và giống như một tấm phim âm bản, tất cả các nguyên tử liên tục đến và đi từ “hệ thống của con người” liên tục nắm bắt ấn tượng được truyền đạt bởi các hành động và suy nghĩ của người đó, và do đó, nếu anh ta thiết lập một luồng tư tưởng mạnh mẽ, anh ta thu hút các tinh linh với số lượng lớn hơn, và tất cả chúng đều mang một khuynh hướng hoặc màu sắc nổi bật, sao cho tất cả những tinh linh mới đến đều tìm thấy một màu sắc hoặc hình ảnh đồng nhất mà chúng ngay lập tức khoác lấy.
Thế giới tinh linh đã trở thành một nhân tố mạnh mẽ trong Nghiệp Quả của con người. Là vô thức, tự động và hoàn toàn ‘chụp ảnh’, nó khoác lấy màu sắc của chính gia đình nhân loại...... thế giới elemental, là lực lượng vô thức, quay trở lại hoặc phản ứng với nhân loại chính xác như cách con người đã hành động với nó [Nghiệp quả], .......
Khái lược "PHÂN LOẠI TINH CHẤT HÀNH KHÍ". Trước hết là cách phân loại tổng quát tùy theo loại chất liệu mà loài tinh hoa chất cư ngụ. Theo đặc tính “thất phân” của sự tiến hóa, chúng được chia thành bảy nhóm chính, liên hệ đến bảy trạng thái của vật chất: đất, nước, không khí, và lửa; chuyển dịch từ biểu tượng thời trung cổ sang từ ngữ hiện đại là: chất đặc, chất lỏng, chất hơi, và 4 trạng thái của chất dĩ thái.
Những gì mà chúng ta cố gắng nhận ra là, theo cách nói của những học giả thời trung cổ, trong mỗi phân tử chất đặc đều có chứa một số lượng tinh chất hành khí sống động của đất tương ứng, cũng thế, mỗi phân tử của vật chất ở trạng thái lỏng, hơi, và dĩ thái đều chứa tinh hoa chất của nước, không khí, và lửa. Như thế, loài tinh hoa chất thứ ba được phân chia thành nhiều phân loại, và sự phân chia này được xếp theo hàng ngang, mỗi phân loại lại chia thành bảy tiểu phân loại, tất cả khác biệt về độ đậm đặc, tuy mỗi bậc có sự chênh lệch rất nhỏ, như chúng ta cũng thấy rõ là có nhiều độ đậm đặc khác nhau trong các chất đặc, lỏng và hơi.
Từ sự giải thích trên, chúng ta có thể thấy rằng có bảy tinh chất hành khí chính tương ứng với bảy trạng thái của vật chất—đất, nước, khí và lửa (bốn tình trạng dĩ thái). Điều này được gọi là sự phân chia theo chiều ngang. Mỗi phần có thể được chia lại thành bảy phần nhỏ, tạo thành 7×7 = 49 phần theo chiều ngang, bởi vì “có nhiều độ độ đậm đặc của các chất rắn, chất lỏng và khí, v.v.” Một sự phân chia khác mà ông gọi là “sự phân chia theo chiều dọc,” và điều này là ” khó hiểu hơn”. Theo lời của ông:
Ngoài ra, còn sự phân hạng theo chiều dọc, khó hiểu hơn, chỉ có những huyền bí gia mới nắm vững mà thôi, đặc biệt các nhà huyền bí học giữ lại một số sự kiện không tiết lộ giúp giải thích nó rõ hơn. Tuy nhiên, nói một cách tổng quát là ở mỗi phân loại thuộc hàng ngang, ta có thể tìm gặp bảy loài elemental hoàn toàn khác nhau, sự khác biệt giữa chúng không còn là vấn đề độ đậm đặc của vật chất, mà là giữa tính chất và hấp dẫn lực của chúng.
Mỗi chủng loại phản ứng trên các chủng loại khác, nhưng các tinh chất không trộn lẫn. Mỗi chủng loại chia làm bảy phân loại, khác nhau bởi màu sắc đặc biệt do ảnh hưởng từ nguồn gốc của nó. Cách phân chia theo chiều thẳng đứng hoàn toàn khác với cách chia theo chiều ngang, vì nó ổn định và căn bản hơn. Sự tiến hóa của loài tinh hoa chất rất chậm chạp, lần lượt qua những loại và “phân loại” khác nhau theo chiều ngang.
Do đó, chúng ta có:
7 phân chia theo chiều ngang x 7 phân chia phụ x 7 phân chia dọc x 7 phân chia phụ theo chiều dọc = 2401 loại tinh chất hành khí.
Nhưng chúng ta cũng nên lưu ý rằng các giới tinh chất hành khí đang trong vòng tiến hóa giáng hạ, do đó tiến trình của nó là đi vào vật chất. Điều này có nghĩa là giới tinh chất hành khí đầu tiên ít tiến hóa hơn giới tinh chất hành khí thứ hai, và giới tinh chất hành khí thứ hai ít tiến hóa hơn giới tinh chất hành khí thứ ba.
Chuyển sang giáo lí của Chân sư DK, Ngài dường như sử dụng từ Tinh Linh Elementals, theo một nghĩa nào đó, để chỉ bất kỳ sự sống giáng hạ tiến hoá bất kì được xây dựng từ các tinh chất hành khí như vậy:
Các tinh linh (elementals), trong bản chất chủ yếu, là nhóm dưới nhân loại. Sự kiện chúng có thể được tiếp xúc trên cõi cảm dục không bảo đảm rằng chúng đang ở trên con đường tiến hóa thăng thượng. Trái lại, chúng đang ở trên con đường tiến hóa giáng hạ, trên đường cong đi xuống. Có thể tìm gặp chúng trên tất cả các cõi, và những hình thể tinh linh dĩ thái—chẳng hạn như các tiểu thần (brownies), các thần lùn (gnomes) và các tiên đồng (pixies)—rất nổi tiếng. Chúng có thể được tạm chia làm 4 nhóm:
1.- Tinh linh đất; 2.- Tinh linh nước; 3.- Tinh linh không khí; 4.- Tinh linh lửa.
Chúng là tinh hoa của mọi vật, nếu bạn có thể nhận ra điều đó. Chúng là những loài tinh hoa của Thái dương hệ, trong 4 cấp bậc, như chúng ta biết về chúng, trong chu kỳ thứ tư này trên hành tinh thứ tư tức trái đất. ....
Chân sư DK đã nói rõ rằng: Thứ hai. Nhiều devas chuyển ra khỏi nhóm các sự sống thụ động với cố gắng trở thành các sự sống điều hành xuyên qua giới chim muông, và trước khi trở thành tiên nữ, thảo tinh linh, thổ tinh linh hoặc các tinh linh thiên nhiên khác, chúng trải qua một số chu kỳ trong loài chim. Từ đoạn văn trên, các tiên nữ, thần lùn, elves và các tinh linh khác đang ở trên cung thăng thượng tiến hoá vì giai đoạn tiến hóa của chúng cao hơn của loài chim.
Một đoạn văn khác trong quyển Lửa Vũ Trụ cũng gợi ý rằng một số elemental như undines, tiên cá, v.v. thực sự là những devas trên đường thăng thượng tiến hoá:
Nhiều nhóm thủy thần thuộc nhóm điều hành đã được phân nhóm một cách đại khái bởi các văn sĩ viết chuyện thần tiên, dưới tên tiên cá (undines), nhân ngư (mermaids) và [897] các mô tả khác, nhưng sự đa dạng của chúng rất lớn, và điều này tất nhiên sẽ rõ ràng khi người ta nhớ rằng toàn bộ nước trên địa cầu (đại dương, biển, sông, hồ, suối), đều vượt quá xa chỗ khô hay đất liền, và mỗi giọt nước đọng lại chính nó là một sự sống bé nhỏ, đang hoàn thành chức năng của nó và thực hiện chu kỳ của nó. Các sinh vật thần thoại được nói ở trên, chỉ là vô vàn các sự sống được kiến tạo thành một hình thể mà qua đó một deva tiến hóa đang tìm cách biểu lộ.
(Nguồn: Sự tiến hóa giới Thiên thần Giáng hạ và Thăng thượng)
+ Tinh chất Chân Thần: Tinh chất Chân Thần có thể được định nghĩa như là vật chất nguyên tử (atomic matter) được Sự sống của Thượng Đế Ngôi 2 làm linh hoạt. (KCVTT, 54)
+ Tinh chất Chân Thần, tức vật chất của phân cảnh nguyên tử (hay phân cảnh cao nhất) của mỗi cảnh (cõi). (LVLCK, 75)
+ Phân biệt Tinh chất Chân thần với Tinh chất Hành khí: Nếu chúng ta muốn đi sâu vào đề tài Tinh chất hành khí, chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong các sách của bà Annie Besant và ông CW Leadbeater. Trong tất cả các sách của Chân sư DK, thuật ngữ Elemental Essence được nhắc đến mười lần, và chỉ một lần nó được định nghĩa như sau:
Tinh chất Chân thần (Monadic Essence), là vật chất của cõi phụ nguyên tử (hay cõi phụ cao nhất) của mỗi cõi chính. Tinh chất hành khí (Elemental Essence), tức vật chất của sáu cõi phụ phi nguyên tử. Đó là vật chất phân tử.
"Chúng ta có thể định nghĩa Tinh chất Chân thần là vật chất nguyên tử được tạo thành bởi sự sống của [69] Thượng đế thứ hai. Đó là y phục của Ngài nhằm linh hoạt hoá và kết hợp các hình tướng lại với nhau; Ngài được bao phủ bởi vật chất nguyên tử. Với cương vị Thượng Đế, Sự Sống của chính Ngài tách biệt với sự sống của Atma-Buddhi-Manas trong con người, tách biệt với bất cứ sự sống nào trên cõi giới đó - mặc dầu Ngài truyền sức mạnh, thấm nhuần, và bao gồm tất cả các sự sống kia - chỉ được bao bọc trong vật chất nguyên tử, và chính điều này là ý nghĩa của thuật ngữ Tinh chất Chân thần. Vật chất của cõi đó, do bản chất của các nguyên tử của cõi đó, có khả năng đáp ứng bằng các rung động với các thay đổi linh hoạt của tư tưởng, được Làn Sóng Sinh Hoạt Thứ Hai đưa vào các kết hợp vật chất thích hợp để biểu lộ các tư tưởng—các tư tưởng trừu tượng ở trong vật chất tinh anh hơn, còn tư tưởng cụ thể ở trong vật chất thô thiển hơn. Các kết hợp vật chất của cõi phụ cao thứ hai và thứ ba tạo ra Giới Hành Khí Thứ Nhất. Các kết hợp vật chất trên bốn cõi phụ thấp tạo ra Giới Hành Khí Thứ Hai. Vật chất được giữ lại trong các phức hợp vật chất như thế được gọi là Tinh chất hành khí và dễ nhạy cảm để được tạo hình thành càc hình tư tưởng. Đạo sinh đừng nên nhầm lẫn Tinh chất hành khí với Tinh chất Chân thần (Monadic Essence); một bên [70] có cấu tạo nguyên tử, bên kia có cấu tạo phân tử_Annie Besant". ......
Vì vậy, rõ ràng từ trích dẫn trên, Tinh chất Chân thần là vật chất nguyên tử của cõi trí và cõi cảm dục được linh hoạt bởi Sự sống của Thượng đế Thứ Hai, trong khi các tập hợp vật chất trên các cõi phụ khác ngoài cõi phụ nguyên tử được gọi là Tinh chất hành khí, và từ vật chất đó các hình tướng khác được xây dựng để biểu hiện của một số thực thể nào đó. Trên Biểu đồ II, chúng ta thấy ba giới hành khí tồn tại trên các cõi thượng trí, hạ trí, và cảm dục. Một câu hỏi được đặt ra: Liệu các Tinh chất Chân thần và Tinh chất hành khí có tồn tại trên cõi vật lí không? Giáo sư Michael D. Robbins gợi ý rằng nếu Tinh chất hành khí tồn tại trên cõi trí và cõi cảm dục, “Tôi không hiểu tại sao chúng ta không thể bao gồm cả cõi dĩ thái.” Đoạn cuối của phần trên cũng gợi ý rằng Tinh chất Chân thần tồn tại trên cõi phụ vật lý nguyên tử, và tinh chất hành khí trên ba cõi phụ thấp nhất của cõi vật lý cấu thành cái được gọi là nguyên tố hóa học. (Nguồn: Sự tiến hóa giới Thiên thần Giáng hạ và Thăng thượng)
+ Dĩ thái - Tứ đại: Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là phong, hỏa, thủy, địa. (LVLCK, 43)
Dương ..... Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
* Tập trung năng lượng vào các ý tưởng chưa được thực hiện; Có thể là người mơ mộng không thực tế; Khả năng buông xả; Thân thiện nhất trong tất cả các yếu tố; Có thể đánh giá quá cao các khả năng trí tuệ; Cần phải có khoảng cách và tính khách quan để khám phá chính mình.
+ Không khí (Air): Không khí chỉ là chất dĩ thái phức tạp và đã biến phân. (GLBN II, 258)
+ Không đại - Không khí: ... dạy cho họ biết xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại....(Nguồn: Kinh Thập Nhất Thiết Xứ dạy)
+ Phong (Air; Không khí): Là biến phân (differentiation) của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi trực giác, cõi Bồ Đề. (LVLCK, 43)
+ Các Dấu hiệu Không khí: Song Tử, Thiên Bình, và Bảo Bình; (Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Giao tiếp. Thông minh. Thích làm việc về mặt tinh thần. Nắm bắt ý tưởng nhanh chóng. Có thể nói hoặc viết hiệu quả. Có quan điểm hợp lý. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ Không Khí hay Không Gian: Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. (Nguồn: Phật dậy về các Đại và Tứ Đại tương tác)
+ 522. PHONG GIỚI - Thế nào là phong giới? nội phong giới và ngoại phong giới - Đức Phật dậy
Nội phong giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Đó là gió đi lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang, gió co thắt lại, gió như dao cắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, được chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội phong giới.
Ngoại phong giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Nguồn: mục 522- (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ Phong thần - Thần gió: Tối thắng dũng mãnh đại phong thần - Nhà xập cây ngã rất kinh người ... Sân hận chiêu cảm tự trầm luân.
Giảng giải: Tối Thắng là tên của vị phong thần (thần gió). Vị thần này khí lực rất lớn, thường thường muốn tranh thắng, rất mãnh liệt, làm việc rất nhanh. Gió có nhiều loại như gió mát, gió ấm, gió này chẳng hại người, lúc thái bình thịnh thế, khi thì mưa, khi thì gió, thời tiết khí hậu điều hòa.
... Chủ thần gió, có thế lực rất lớn, ra oai rất là lợi hại, nhà cửa phòng ốc đều thổi ngã xập, cây cối trốc gốc, khí lực rất mãnh liệt, cho nên nói : ‘’Tối thắng dũng mãnh đại phong thần.’’ Ai có nóng giận tức là thần gió này trợ giúp. Cho nên nói: ‘’Nhà xập cây ngã rất kinh người.’’
‘’Tam Thiền đều sợ tai nạn này.’’ Lửa thiêu đốt đến cõi trời Sơ Thiền, Nước tràn ngập đến cõi trời Nhị Thiền, Gió thổi tan cõi trời Tam Thiền.
... Nạn gió này làm thế nào mà chiêu lại? ‘’Sân hận cảm chiêu tự trầm luân.’’ Vì làm người thì sự nóng giận quá lớn, tuy nhiên tu phước được sinh về cõi trời, nhưng phải thọ thứ quả báo nạn gió này. Gốc sân hận mà không đoạn trừ thì kết quả phải thọ quả báo nạn gió đó. (Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Phân biệt Phong đại [Gió] với Phong luân - Thành lập khí thế gian nơi Địa cầu:
Phong luân ở dưới cùng,
Bề trên là thủy luân.
Phần nước ở dưới sâu tám ức,
Phần còn lại ngưng kết thành vàng
Thủy luân và kim luân [ Có đường kính mười hai ức - Ba ngàn bốn trăm năm mươi; Chu vi gấp ba lần.]
Giảng: Phong luân - Thể của nó thuộc chất rắn. Giả sử như có một đại Nặc-kiện-na (mahānagna) dùng kim cương ném vào nó thì kim cương sẽ bị vỡ tan mà phong luân vẫn không tổn hoại gì.
Vàng, bạc, các chất báu và đất được cấu tạo như vậy đã kết tụ lại nhờ các thứ gió do nghiệp lực tạo ra; và chúng đã tạo thành núi cũng như các đại châu. (Nguồn: Câu Xá luận - BT Thế Thân)
+ Tham thiền về lửa trong đại và tiểu vũ trụ:
Ngày 19-8-1920. Các hình thức thần chú kết hợp với lửa.
Có lẽ nên bàn đôi điều về vai trò của lửa trong cơ tiến hóa và trên các ngành liên quan đến lửa trong thái dương hệ chúng ta. Tôi đặc biệt nhấn mạnh điều này bởi vì vào thiền là chúng ta đi vào lĩnh vực của lửa, và vì vấn đề này tối quan trọng. Lửa đóng vai trò quan trọng trong năm ngành nêu dưới đây. Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người. Ngọn lửa này phân biệt Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta với các vị Thượng Đế khác, và đây chính là tổng kết tất cả các đặc tính của Ngài. “Thượng Đế của chúng ta là Lửa đang thiêu hủy.”
Tất cả những phân biệt này về lửa, thực tế là những biến phân của cái duy nhất. Trong căn bản tất cả đều như nhau dù khi biểu hiện lại khác nhau. Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền.
1. Những loại lửa sống động giữ cho sự điều hòa nội tại của con người (hệ thống tiểu vũ trụ) biểu hiện đầy đủ. Khi sự cháy bên trong này chấm dứt thì sự chết xảy đến, và hệ thống vật chất hồng trần bên ngoài sẽ tan biến. Đại vũ trụ cũng vậy. Giống như mặt trời là tâm của thái dương hệ chúng ta, trái tim là tiêu điểm cho sức nóng của tiểu vũ trụ. Tương tự, quả đất cũng được làm sinh động bằng chính sức nóng đó và trong dãy địa cầu của chúng ta nó ở mức vật chất trọng trược nhất, với sức nóng của vật chất cao nhất. Cơ quan sinh dục cũng là trung tâm thứ yếu cho lửa nội tại trong đa số các trường hợp. Sự tương ứng này rất chính xác, mầu nhiệm và thú vị.
2. Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, [185] ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo. Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau.
3. Có thể dễ dàng chứng minh sự tương ứng với lửa của cõi trí. Vì công việc của các Hỏa Tinh Quân là ban rải tia lửa trí tuệ, đã được triển khai và tăng tiến cho đến đỗi người ta thấy ngọn lửa tri thức đang cháy sáng trong các dân tộc văn minh. Mọi năng lượng đều tập trung vào việc nuôi dưỡng tia trí tuệ đó, nhằm sử dụng nó cách nào lợi ích nhất.
4. Có thể biết được phần nào các hỏa tinh linh trong tiểu vũ trụ qua các hình tư tưởng mà người đủ khả năng có thể tạo nên và làm cho sống động. Người có sức suy tư mạnh mẽ tạo ra các hình tư tưởng này và làm sinh động bằng sự sống hay khả năng gia nhiệt của y, và chúng vẫn tồn tại chừng nào y còn năng lực làm sinh động chúng. Hiện nay sự tồn tại này không được lâu vì người ta còn hiểu rất ít về năng lực thực sự của tư tưởng. Trong đại chu kỳ thứ năm của dãy hành tinh này, chúng ta sẽ thấy sự phát triển tột đỉnh của nguyên khí thứ năm là trí tuệ. Sự tương ứng này về sau sẽ được hiểu nhiều hơn. Hiện nay mối liên hệ này tất nhiên là còn khó hiểu.
5. Tia lửa sống động ẩn tàng trong mỗi người cho thấy y có cùng bản tính với Đức Thái Dương Thượng Đế.
Như vậy, các bạn thấy rằng trong các hệ thống lớn, nhỏ đều có lửa. Ở đây, tôi chỉ tóm tắt cho các bạn về mục đích của lửa trong tiểu vũ trụ và những gì phải nhắm đến. Chúng ta có ba loại lửa:
1. Tia lửa thiêng sinh động.
2. Tia lửa trí tuệ.
3. Luồng hỏa hậu (kundalini), sự hòa lẫn nhị nguyên của sức nóng nội tại và dòng sinh lực prana. Nơi ẩn trú [186] của mãnh lực này là luân xa chót xương sống, và luân xa lá lách hằng bồi dưỡng sức nóng đó.
Khi cả ba loại lửa này – một của tứ hạ thể, một của tam nguyên và một của nguyên khí thứ năm – gặp nhau và hòa lẫn với nhau một cách thích hợp về mặt hình học, thì mỗi luân xa sẽ được sinh động đúng mức, mọi quyền năng sẽ tự biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết và cặn bã sẽ bị đốt sạch, và hành giả đạt đến mục tiêu. Tia lửa đã trở thành ngọn lửa, và ngọn lửa là thành phần của khối lửa Đại ngã đang làm sống động trọn cả vũ trụ khách quan.
Vì thế, có thể nói một cách hợp lý rằng ba loại thần chú này sẽ được kết hợp và hòa hợp bằng một câu thần chú khác. Thực tế là chúng ta có:
Các câu chú ảnh hưởng đến kundalini và khơi dậy luồng nội hỏa này một cách đúng đắn. Bằng năng lực rung động, các câu chú này làm ngọn lửa luân chuyển qua các luân xa theo diễn tiến tự nhiên và hình học của chúng. Một nhóm thần chú thứ yếu của loại này liên hệ đến luân xa lá lách, và sự kiểm soát các lưu chất sinh lực prana để giữ gìn sức khỏe, để làm sinh động, và ảnh hưởng đến lửa ở luân xa chót xương sống.
Các thần chú tác động vào vật chất của cõi trí, ở một trong hai lĩnh vực chính (trừu tượng và cụ thể) của cõi này và tác động ở đó theo hai cách. Một là tăng cường khả năng suy tư, vận dụng vật chất của cõi hạ trí. Hai là kích thích thể nguyên nhân, làm cho thể này mau trở thành một vận cụ của tâm thức và chuẩn bị cho nó cuối cùng chịu tan rã do lửa.
Các câu chú mang lại sự đáp ứng của Thượng Đế nội [187] tâm và đặc biệt tác động đến Chân nhân. Từ đó tạo sự rung động mạnh mẽ trong Tam nguyên, khiến cho mãnh lực từ Chân thần tuôn xuống thể nguyên nhân. Các câu thần chú này đều có thể được sử dụng riêng rẽ và có kết quả riêng biệt.
Có bảy đại thần chú, mỗi câu dùng cho một cung (khi Chân sư hay một nhân viên của Đ.Đ.C.G. sử dụng) sẽ kết hợp được cả ba hiệu quả kể trên. Chúng khơi dậy luồng hỏa hậu, tác động vào thể nguyên nhân trên cõi trí, và tạo sự rung động trong Tam nguyên để thực hiện sự nhất quán giữa các thể thấp, các thể cao và nguyên khí thứ năm. Điều này phản ánh những gì đã xảy ra khi các Hỏa Tinh quân đến. Nó đưa đến sự thống hợp toàn vẹn, và từ đó về sau con người biểu lộ rõ tình thương trong hành động, với sự trợ giúp của trí tuệ đã khai ngộ.
Trên đây là bốn loại thần chú quan trọng nhất cho cuộc tiến hóa và phát triển cá nhân, mà những vị nào huấn luyện các môn sinh sắp điểm đạo đều hiểu rõ. Cho dù kẻ chưa chuẩn bị sẵn sàng có khám phá ra được chính các câu thần chú này thì công hiệu của chúng cũng rất ít. Vì sự sử dụng các câu thần chú này phải kèm theo năng lực do áp dụng Điểm đạo Thần trượng. Nhờ viên kim cương gắn trên đỉnh nên Thần trượng này tập trung được ba loại lửa, tương tự như chiếc kính hội tụ gom được ánh sáng mặt trời, để làm bùng lên một ngọn lửa.
Ở đây dù nói ít nhưng tôi đã trao cho các bạn nhiều hiểu biết. Vấn đề này còn rất cô đọng. Nó có ý nghĩa đặc biệt cho người nào đến gần Con đường Điểm đạo. Các bạn hãy suy nghĩ kỹ về các điều đã được trao truyền, vì khi yên lặng suy ngẫm điều đó trong tâm, ánh sáng có thể đến và ngọn lửa nội tại sẽ bùng cháy với sức nóng nhiều hơn.
Cũng có thể kể ra những loại thần chú khác nữa liên quan đến lửa. Có hai nhóm có thể vận dụng được nhờ sử dụng những âm thanh với nhịp điệu nhất định. [188]
Những hỏa tinh linh và các nhóm của chúng ở trong lòng đất, trên mặt đất, và trong không khí.
Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí.
Các câu chú để kêu gọi, điều khiển và giải tán các tinh linh này vốn rất thông dụng vào thời Atlantis. Những nguy hiểm đã nổi lên và đe dọa vùng đất này vì các tinh linh bị sử dụng một cách bừa bãi làm xáo trộn các công trình chính xác của Thiên cơ, làm phiền lòng các Đấng Hướng dẫn nhân loại, nên sự hiểu biết về các câu chú này bị thu hồi. Căn chủng Atlantis bị hủy diệt vì các thủy tai, vì bị ngập lụt, vì bị nhận chìm. Nếu các bạn nhớ rằng nước là kẻ thù tự nhiên của lửa, và cả hai nhóm tinh linh này không có điểm nào kết hợp được ở giai đoạn này, thì các bạn mới có thể hiểu một điểm thú vị về các cuộc đại biến thời Atlantis.
Những câu chú kêu gọi các hỏa thần cũng được gìn giữ rất kỹ, không chỉ vì các nguy hiểm có thể xảy ra, mà do những trở ngại về thời gian khi các thiên thần này bị kêu gọi một cách vô tình và họ bị mãnh lực của thần chú cầm giữ, nên không làm phận sự cần thiết của họ được. Ngoài hai loại thần chú này, có nhiều loại thứ yếu, chỉ sử dụng đặc biệt với những nhóm tinh linh và thiên thần khác nhau. [189]
Chúng ta đã kể ra sáu loại thần chú kết hợp với lửa. Cũng có một vài loại nữa mà tôi có thể kể ra vắn tắt như sau:
Những loại thần chú thanh lọc, khơi dậy một loại lửa tinh luyện và cháy trên một cõi trong tam giới. Việc này được thực hiện nhờ hoạt động của các tinh linh (được các hỏa thần kiểm soát) và dưới sự hướng dẫn trực tiếp của một điểm đạo đồ hay đệ tử Chân sư, nhằm một mục đích thanh luyện đặc biệt nào đó. Mục đích này có thể là tẩy sạch một trong các thể của con người, thanh lọc một địa điểm, một ngôi nhà hay một đền thờ.
Các câu chú để kêu gọi lửa giáng xuống để truyền từ lực vào các bùa phép, vào các loại đá quí hay những thánh địa.
Các câu chú dùng để chữa bệnh, nhờ công dụng huyền bí của lửa.
Những câu chú được sử dụng bởi:
a. Đức Bàn cổ, vận dụng những gì cần thiết để chuyển di các lục địa, hay nhận chìm các lãnh thổ.
b. Đức Chưởng giáo, để kích thích ngọn lửa tiềm ẩn trong mỗi người.
c. Đức Văn minh Đại đế, khi Ngài làm việc với trí thông tuệ hay là nguyên khí thứ năm.
Hiện có tất cả các hình thức thần chú này và nhiều loại khác .... Muốn hoạch đắc các thần chú này thì bước đầu tiên là phải có khả năng thiền huyền môn. Vì không phải chỉ việc xướng lên các từ của thần chú là có thể đạt mục đích, mà phải định trí để hình dung ra các kết quả cần đạt. Điều này cũng phải kèm theo ý chí của người xướng đọc, để y chế ngự những kết quả đó. Các câu chú này sẽ thành nguy hiểm và vô ích, nếu không có sự quân bình trí tuệ tập trung của hành giả, cùng với khả năng điều khiển và làm sinh động của y. [190] (Tham thiền huyền môn)
+ “Sức khỏe không phải chỉ là không có bệnh tật, hay khuyết tật mà là một sự thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội”(WHO)
+ Tương ứng với Fohat ở tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo, ta sẽ đề cập sau.(TTHM, 185)
+ Sức khỏe: Tùy thuộc vào sức khỏe của mọi tiến hóa có kết hợp, tùy thuộc vào sự hợp tác, biểu lộ của vật chất của hành tinh và hành khí hành tinh,mà chính nó là biểu lộ của hành khí hồng trần của toàn thể thiên nhiên biểu lộ (LVLCK, 101)
+ Dĩ Thái và Prana (Bức xạ Sinh Khí Thái Dương - BXSKTD): Nó không kiến tạo mà chỉ duy trì, bảo tồn hình hài. Chúng kích thích, kiến tạo, liên kết, điều chỉnh tế bào chất. Một số tia khác thì hủy diệt hình hài. Chúng hoạt động theo ĐL Hút và Đẩy (của Cung 2-LVLCK, 55).
BXSKTD tác động trong 4 chất dĩ thái (Cõi Trần-Không thể nhìn thấy), chúng là nền tảng của Lửa ma sát. Cần xem kỹ hơn tại LVLCK, 102;
+ Sử dụng mãnh lực đúng và tham Thiền về lửa: Ngày 17-8-1920. Hiểu biết về mãnh lực.
. . . . . . Tình trạng căng thẳng hiện nay rất lớn, và mãnh lực tuôn vào tất cả các luân xa khác nhau, nếu không được điều chỉnh đúng cách, sẽ thường gây ra một cảm giác mệt mỏi, căng thẳng, khích động và bứt rứt không yên. Rất ít người biết được bí quyết của sự điều chỉnh bằng cách không đối kháng. Thế nên, sự tăng cường xúc cảm, các phản ứng thô bạo, và thời đại tội ác lan tràn hiện tại, phần rất lớn là hậu quả của việc sử dụng sai và áp dụng sai các mãnh lực. Điều này có thể xảy ra trong mọi tầng lớp xã hội, và chỉ những ai biết được bí quyết thấy mình không gì khác hơn là một kênh vận chuyển và vẫn điềm tĩnh trong chốn bí mật ở nội tâm, mới có thể vượt qua cuộc khủng hoảng hiện tại mà khỏi bị những đổ vỡ và khổ đau không đáng có. Sự kích thích – đều khắp như hiện nay – đưa đến sự đau khổ với hậu quả là các phản ứng mà chúng ta phải hết sức đề phòng, cũng như phải đề phòng điều trái lại là mất sinh lực. Hãy đề cao cảnh giác chứ không phải là bưng tai bịt mắt lẩn tránh sức kích thích, mà thu nhận mãnh lực này, cho nó đi qua bản thể của mình, và chỉ hấp thu một phần tùy theo khả năng. Phần còn lại sẽ đi qua luôn như một tác nhân chữa bệnh trên đường trở về kho chứa chung. Cái ý nghĩa đích thực và huyền bí của các mãnh lực trong thiên nhiên, của các dòng điện [180] trong vũ trụ và sức nóng ẩn tàng trong mọi hình thể, cho đến ngày nay, các nhà khoa học ở ngoại môn và những đạo sinh tương lai cũng ít biết đến...... Người đạo sinh tiến hành nghiên cứu huyền bí học từ phương diện này, và vì thế y đạt được sự hiểu biết sâu xa về định luật....
Nếu các bạn hiểu được phần nào ý nghĩa của vấn đề và hiểu rằng định luật chỉ là sự thích ứng của hình thể với một trong các dòng mãnh lực vĩ đại thì các bạn sẽ soi sáng trọn cả cuộc sống của mình. Các bạn sẽ lần theo những dòng mãnh lực, các dòng từ lực, lưu chất sinh lực, và các tia điện lực kể trên (hoặc gọi theo từ khác) đến tận trung tâm của những gì chưa được biết....
Vì thế, các bạn hãy suy ngẫm kỹ vấn đề này để nhớ rằng các hiểm nguy sẽ là sự kích thích quá độ, sự đổ vỡ thình lình, và sự tan rã do lửa hay sức nóng. Còn nếu y qui tụ các sinh linh tiến hóa giáng hạ đến quanh y, thì sự hiểm nguy sẽ khác đi, hay đúng hơn là có hiệu quả ngược lại. Đó là kiệt lực vì bị ma cà rồng hút máu, bị rút hết mãnh lực ở một trong các thể của y, hoặc thu nạp một chất liệu bất bình thường vào trong một thể nào đó (do tác động của các tinh linh thuộc cõi trần hay cõi cảm dục) và chết vì nước, vì đất hay vì lửa (hiểu theo nghĩa huyền môn).(Tham thiền huyền môn_179)
+ Hoàng Đế nội kinh: “Giữ lòng điềm đạm, vô tư, ít thị dục thì chân khí được sung túc, tinh thần được vững chãi ở bên trong thì bệnh tật làm sao mà phạm đến được”. Phải biết thích nghi thời tiết; an hòa; làm việc nghỉ ngơi chừng mực, đúng phép, đúng thời hợp với quy luật âm dương. “Giận hại Can, Bi ức chế cái giận; Vui hại Tâm, Sợ hãi ức chế vui mừng; Lo âu tư lự hại Tỳ, Sự giận dữ thì ức chế được sự lo âu; Ưu sầu bi ai hại Phế, Vui mừng làm tan biến nỗi bi ai; Sợ hãi hại Thận, Lo âu, tư lự sẽ ức chế sợ hãi”.(Xem nguồn)
- Đông y: Ngũ tạng (Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận) với ngũ chí tương ứng (Nộ, Hỉ, Tư, Ưu, Khủng) theo quy luật sinh - khắc và chế hóa của ngũ hành. Nếu biết khéo vận dụng các quy luật đó, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp.
Xem thêm: Tổng hợp Thể Xác - Chất và Thể Dĩ Thái Xem thêm: Tổng hợp về Con Người và Bảy Nguyên Khí
+ Lưu ý khi Tham thiền dụng Thánh ngữ: ... Giờ đây chúng ta hãy đề cập vắn tắt đến những nguy hiểm nơi thể xác khi hành thiền. Giống như rất nhiều điều khác trong Thiên cơ, những mối nguy hiểm này cũng có tính [102] tam phân, tấn công vào ba thành phần của thể xác. Chúng biểu lộ trong: a. Bộ não; b. Hệ thần kinh; c. Các cơ quan sinh dục.
... Mỗi cá nhân khi sinh ra đều có một thể xác và thể dĩ thái với những thành phần nhất định, những thành phần này là sản phẩm của tiền kiếp. Thực ra thì các thể này được tái tạo y hệt như các thể cũ mà mỗi người bỏ lại khi từ trần. ...
Khi sự tham thiền bị thúc bách, hoặc là hành thiền quá mãnh liệt, trước khi sự chỉnh hợp giữa các thể cao và thấp xuyên qua thể cảm dục được hoàn tất thì lửa này có thể tác động vào luồng lửa ẩn tàng ở chót xương sống (gọi là kundalini) và có thể khiến nó vận chuyển quá sớm.....
Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.
Những nguy hiểm cho não bộ hồng trần. Bộ não thường chịu hai nguy hiểm chính:
Sự sung huyết, làm cho tràn dịch các huyết quản và hậu [104] quả căng thẳng ở mô não mảnh mai. Điều này có thể làm tổn thương vĩnh viễn, thậm chí có thể gây nên sự đần độn. Trong những giai đoạn đầu, nguy hiểm này có biểu hiện mất cảm giác hay mệt mỏi. Nếu người môn sinh vẫn cứ tiếp tục tham thiền khi thấy tình trạng đó thì hậu quả sẽ thành nghiêm trọng. Luôn luôn khi hành thiền, người môn sinh phải đề phòng khi cảm thấy mệt mỏi, phải ngưng ngay khi bắt đầu thấy có bất cứ dấu hiệu trở ngại nào. Có thể dùng lương tri để đề phòng tất cả những nguy hiểm này, và hãy nhớ rằng bao giờ việc rèn luyện và kiến tạo các thể cũng phải chậm rãi, từ từ. ...
Sự điên khùng. ... khi khơi hoạt Kuldalini thiếu hiểu biết, vì thế mà gây nên điên khùng và đôi khi tử vong....
Những nguy hiểm cho hệ thần kinh.
Những trở ngại liên quan đến hệ thần kinh thường có hơn các mối nguy tấn công bộ não như điên khùng hay phá vỡ mô não. Hầu hết những người hành thiền đều cảm biết có [105] ảnh hưởng đối với hệ thần kinh. Đôi khi đó là tình trạng mất ngủ, dễ bị kích động hoặc năng lượng căng thẳng và bứt rứt không được thư thả. Hoặc họ trở nên dễ bực bội khác với tính khí trước khi tham thiền. Hoặc đó là một lối phản ứng thần kinh – như co giật tay chân, ngón tay hay mắt – hoặc buồn nản hay giảm sút sinh lực. Cũng có những ảnh hưởng khác như thần kinh căng thẳng, bồn chồn, tùy theo tính khí và bản chất của mỗi cá nhân. Những dấu hiệu bệnh thần kinh này có thể nặng hay nhẹ, nhưng tôi muốn nói rõ rằng điều đó không nhất thiết là phải có nếu người môn sinh tuân theo những qui tắc của lương tri, nếu y nghiên cứu tính khí của mình một cách khôn ngoan và không mù quáng theo những thể thức và phương pháp nào nếu không hiểu được lý do tại sao phải làm như thế. Nếu các môn sinh huyền bí tuân theo giới luật trong cuộc sống một cách khôn ngoan hơn, nếu họ nghiên cứu cẩn thận hơn về vấn đề thực phẩm, nếu họ cương quyết hơn để ngủ đủ số giờ cần thiết, nếu họ làm việc một cách chậm rãi thận trọng, chứ không theo những kích động nhất thời (dù ước nguyện của họ có cao đến đâu), thì họ sẽ thấy có những kết quả lớn lao hơn và các Đấng cao cả sẽ có những phụ tá nhiều hiệu năng hơn trong việc phụng sự nhân loại....
+ Dụng Linh từ - Thánh ngữ - Đà la ni ... trong tham thiền và chữa trị bệnh - Bí quyết có sức khỏe hoàn hảo:
1. Kể tên các luân xa: Như các bạn biết, những luân xa trong thể hồng trần là: [7 Lx chỉ xem là 5)
1. Luân xa chót xương sống
2. Luân xa nhật tùng. [Là 1 với Lx 1]
3. Luân xa lá lách [Không tính]
4. Luân xa tim.
5. Luân xa cổ họng.
6. Luân xa tuyến tùng.
7. Luân xa tuyến yên.
[Lx Lá lách quan trọng nhưng con người chỉ cần nhận đủ Sinh lực của Mặt trời, với các thể Xác thân, Cảm dục, Trí tuệ ... thanh sạch là phát triển tự nhiên ]
Kể như vậy là đúng rồi, nhưng tôi chỉ các bạn một lối phân chia khác, dựa trên những sự kiện tôi đã nói trước đây, và về thái dương hệ. Bảy luân xa này có thể được kể là năm, nếu không tính đến luân xa lá lách, còn hai luân xa đầu thì xem như một. Năm luân xa được xác định như thế, có thể áp [72] dụng cho cuộc tiến hóa năm giai đoạn của chúng ta trong thái dương hệ thứ hai này......
Ba luân xa nền tảng (Thể dĩ thái), rất quan trọng đối với những người tiến hóa trung bình, đã phân cực trong thể tình cảm và có cuộc sống hình thường ở thế gian, là:
1. Luân xa chót xương sống [Có bốn cánh, xếp theo hình chữ thập, tỏa ánh lửa màu vàng cam]
2. Luân xa nhật tùng [Có mười cánh, màu hồng pha màu xanh lục]
3. Luân xa tim [Có mười hai cánh, màu vàng chói]
Ba luân xa chính yếu đối với người đến gần Con đường Dự bị, đối với người đang hướng đến cuộc sống vị tha và đã khảo xét những hấp dẫn của tam giới, là:
1. Luân xa chót xương sống.
2. Luân xa tim.
3. Luân xa cổ họng [Có mười sáu cánh, màu xanh óng ánh bạc, nhưng màu xanh là chủ yếu]
Bấy giờ luân xa nhật tùng của y được để cho hoạt động bình thường, sau khi đã đạt mục đích làm một trung tâm hội tụ tình cảm. Hoạt động của lửa thiêng ngày càng gom vào luân xa cổ họng. [74]
Ba luân xa chính đối với người đang đi trên đường Đạo (gồm hai giai đoạn) là:–
1. Luân xa tim.
2. Luân xa cổ họng.
3. Luân xa đầu. [Gồm hai phần:
a. Luân xa giữa hai chân mày. Có chín mươi sáu cánh, một nửa hoa sen này màu hồng và vàng, nửa kia màu xanh và đỏ tía.
b. Luân xa đỉnh đầu. Có mười hai cánh chính màu trắng và vàng ánh, và 960 cánh phụ xếp chung quanh mười hai cánh trung tâm. Như vậy, cả hai luân xa ở đầu có tất cả 1.068 cánh, hay là 356 bộ ba. Tất cả những con số này đều có ý nghĩa huyền bí].
.... Phát âm và Sử dụng Thánh ngữ trong Tham thiền Cá nhân.
Giờ đây tôi nói đến việc thực hành. Tôi nói cho người đang trên Đường Dự bị, là người chỉ hiểu được bằng trí những gì phải thành tựu. Y cần nhận thức được gần đúng vị trí của mình trên đường tiến hóa và những việc cần phải làm nếu y muốn một ngày nào đó bước qua được cửa Điểm đạo. Như thế, những gì tôi sắp nói sẽ hướng dẫn được hầu hết những người nghiên cứu các bức thư này...... Người hành thiền phải cố gắng tuân thủ các qui luật cần thiết. Sau đây là vài điểm sơ khởi:
Hằng ngày, người chí nguyện nên tìm một chỗ yên tĩnh, nơi y khỏi bị quấy rầy, phiền rộn. Nên luôn luôn dùng cùng một nơi, vì ở đó y sẽ tạo nên một cái vỏ bao quanh, vừa để bảo vệ, vừa khiến cho sự giao tiếp cần có với cấp cao được dễ dàng hơn. Vật chất ở nơi ấy, vật chất của cái mà bạn gọi là môi trường chung quanh, sau đó sẽ trở nên hòa điệu với một mức rung động nhất định (là mức rung động cao nhất của chính hành giả, đạt được trong những buổi thiền liên tiếp) khiến cho mỗi lần nhập thiền y dễ bắt ngay vào điểm cao nhất, khỏi mất công làm lại từ đầu.
Hành giả nên ở trong vị thế sao cho có thể không còn ý thức về xác thân. Ở đây không thể đặt những qui luật cứng nhắc, vì chính xác thân phải được xem xét, – nó có thể bị vài trở ngại, như tê cứng hay thương tật. Mục tiêu nhắm tới là tư thế thoải mái với sự chú tâm và linh mẫn. Sự uể oải và buông thả không đưa hành giả đến đâu cả. Tư thế thích hợp nhất cho một người bình thường là ngồi xếp bằng tréo chân trên mặt phẳng, lưng dựa vào một vật gì để cho cột sống được thẳng. Trong giai đoạn thiền thâm sâu hay khi hành giả đã thành thạo và các luân xa đang được khai mở mau lẹ (có lẽ ngay cả luồng nội hỏa cũng đang rung động nhịp nhàng ở chót xương [62] sống) thì lưng phải được giữ thẳng đứng mà không dựa vào đâu cả. Đầu đừng ngửa ra sau để tránh căng thẳng, mà phải giữ cân bằng tức là cằm hơi hạ xuống một chút. Khi đã thực hiện các điều này, sự căng thẳng mà nhiều người bị mắc phải sẽ hết, và thể này sẽ được thoải mái. Nên nhắm mắt, hai bàn tay chắp lại trong lòng.
Sau đó, hành giả xem hơi thở của mình đã điều hòa, đều đặn và nhịp nhàng hay chưa. Nếu đã được, thì giữ cho toàn thân thoải mái, trí tuệ tích cực và xác thân mềm dịu, dễ ứng đáp.
Sau đó, hành giả hình dung ba hạ thể. Khi đã quyết định sẽ tham thiền ở luân xa đầu hay luân xa tim (tôi sẽ nói đến điểm này sau), y rút tâm thức ra khỏi ba thể và chú tâm vào một trong hai luân xa vừa kể. Khi thực hành điều này, hành giả hãy thận trọng nhận thức rằng y là một Người Con của Thượng Đế, đang trở về với Đấng Cha lành; rằng y chính là Thượng Đế, đang tìm kiếm tâm thức của Thượng Đế mà cũng là tâm thức của y; rằng y là một vị sáng tạo đang tìm cách sáng tạo; và nhận thức rằng y là trạng thái thấp của Sự Sống Thiêng liêng đang tìm cách chỉnh hợp với trạng thái cao. Sau đó, hành giả xướng lên Thánh ngữ ba lần. Lần đầu xướng lên nhẹ nhàng để ảnh hưởng thể trí. Kế đó xướng lớn hơn để ổn định thể tình cảm. Và lần cuối lớn hơn nữa để tác động vào thể xác. Hiệu quả đối với mỗi thể đều có ba phương diện. Nếu xướng Thánh ngữ đúng cách và trụ vững tâm thức trong luân xa hành giả đã chọn, thì hiệu quả sẽ như sau:
Ở các cấp Trí tuệ:
a. Tiếp xúc với luân xa đầu, khiến nó rung động; làm cho thể hạ trí yên lặng.
b. Nối kết được ít nhiều với Chân nhân, nhưng luôn luôn đến mức nào đó qua hạt nguyên tử trường tồn.
c. Loại ra những phần tử thô kệch và thu nạp những chất tinh anh hơn.
Ở các cấp Tình cảm:
a. Qua hạt nguyên tử trường tồn làm ổn định thể cảm dục, tiếp xúc với luân xa tim và khiến nó hoạt động. [61]
b. Thải ra những chất thô kệch, làm cho thể tình cảm hay cảm dục ngày càng trở nên không màu, nhờ đó mà phản chiếu được các ảnh hưởng cao một cách trung thực hơn.
c. Gây nên một đợt sóng xúc cảm từ các cấp nguyên tử của cõi tình cảm đến cõi trực giác, qua đường truyền bằng vật chất nguyên tử nối liền hai cõi này. Sóng ấy dâng lên cao và khai thông đường truyền.
Ở các cấp Hồng trần:
a. Ở đây, hiệu quả xảy ra cũng tương tự, nhưng hiệu quả đầu tiên là ở thể dĩ thái; nó kích thích sự lưu thông thần lực.
b. Nó vượt ra ngoài phạm vi của thể này và tạo nên lớp vỏ bảo vệ, và xua tan các yếu tố bất hòa trong môi trường chung quanh.
Hòa âm của Thượng Đế và sự Tương Đồng.
Giờ đây chúng ta hãy nghiên cứu tiếp đến việc dùng Thánh ngữ trong nhóm và áp dụng Thánh ngữ cho những mục tiêu đặc biệt. Chúng ta đã bàn vắn tắc về cách sử dụng Thánh ngữ [64] của người mới học thiền, – hiệu quả của nó phần lớn là sự tinh luyện, ổn định và tập trung. Tất cả những gì có thể làm được cũng chỉ ở mức này thôi, nếu người môn sinh chưa đến trình độ được phép xướng lên một âm phụ của Chân nhân. Chúng ta sẽ thấy nốt của Chân nhân cũng có âm trình giống như nốt của Thượng Đế. Chúng ta có những gì? Chúng ta có một hòa âm bảy nốt gồm những điểm quan trọng trong giai đoạn phát triển của chúng ta là:
1. Nốt căn bản.
2. Nốt chánh thứ ba.
3. Thống âm hay nốt thứ năm.
4. Nốt chót thứ bảy.
Ở đây, có thể theo lối tương đồng để đưa ra một ngụ ý. Có sự liên kết chặt chẽ giữa nốt thứ năm (thống âm) và nguyên khí thứ năm là Manas hay Trí tuệ. Và trong thái dương hệ này (chứ không phải trong hệ I hay hệ III) có sự ứng đáp thú vị giữa cảnh giới thứ năm (cõi trí) với thống âm, và sự đáp ứng của cảnh giới thứ sáu (cõi cảm dục) với nốt chánh thứ ba. Về vấn đề này, xét trên vài phương diện thì thể cảm dục lại là thể thứ ba của tâm thức nếu tính xác thân và thể sinh lực điện (thể của prana hay thể dĩ thái) là hai đơn vị. Tôi không thể nói thêm, vì tất cả đều hoán chuyển và xuyên thấu lẫn nhau, tôi chỉ đưa ra tài liệu để các bạn suy ngẫm.
Như trước tôi đã nói, trong nốt của Chân ngã các bạn cũng có diễn trình tương tự, vì trên cảnh giới của Chân nhân nó phản hưởng nốt của Thượng Đế. Vì thế, các bạn có nốt căn bản của thể xác, nốt thứ ba của thể cảm dục và nốt thứ năm của thể nguyên nhân. Khi hành giả đã làm chủ được âm khóa và đã tìm được âm phụ của chính mình thì bấy giờ y sẽ xướng lên Thánh ngữ một cách chính xác và đạt được mục tiêu mong muốn. Sự chỉnh hợp này sẽ hoàn hảo, các thể sẽ [65] tinh khiết, đường truyền thông suốt và nguồn linh cảm cao siêu sẽ tuôn xuống. Đó là mục tiêu của mọi cuộc tham thiền đích thực và có thể đạt được bằng việc sử dụng Thánh ngữ một cách đúng đắn. Trong khi chờ đợi, vì chưa có huấn sư và vì những khuyết điểm nơi môn sinh, tất cả những gì có thể làm hiện nay là đọc Thánh ngữ càng đúng càng tốt, và biết rằng với mục đích chân thành, chúng ta có thể tránh được nguy hiểm và có thể đạt được một số kết quả, như là sự bảo vệ, an định và hiệu chỉnh. (Tham thiền huyền môn)
+ Ái tình - Ái biệt ly khổ: Vì sao mình làm người? Bởi vì mình có ái, có yêu nên mới tới thế giới Ngũ Trược này. Nếu yêu đương mà ít thì mình không sinh vào thế giới này đâu, mà sẽ sinh về Cực Lạc Thế Giới, Lưu Ly Thế Giới, hoặc những thế giới khác.
Cổ nhân nói rằng: "Ái bất trọng bất sanh Ta Bà, Nghiệp bất không bất sanh Cực Lạc." (Ái tình không nặng đâu sinh Ta Bà, Nghiệp chướng chẳng hết sao về Cực Lạc?). Nghiệp hết, tình không, thì thành Phật; nghiệp nặng, tình nhiều, tức là phàm phu. Kẻ phàm phu thì bị tình ái làm mê loạn, không phá thủng nổi lưới tình, lại cho rằng ái tình là cao quý nhất. Người đời cho rằng ái tình trai gái là chuyện hết sức quý giá. Kỳ thật, ái càng nặng thì tình càng thâm, càng giam hãm mình vào vòng ngu si mê muội. Có kẻ biết là bẫy rập nhưng rồi cũng chui vào lưới tình. Con trai, con gái khi trưởng thành rồi thì chỉ nghĩ tới chuyện mau mau mà kết hôn. Thật là quen đường cũ quá rồi! "Ái" là thứ tình cảm quyến luyến. Có người thì yêu tiền, có người thì yêu sắc. Tiền tài là vật ở ngoài thân, sắc đẹp thì cảm nhận ở trong lòng. Tình cảm quyến luyến cũng là do yêu thương mà ra.
Tinh thần đau khổ thì tâm không tự tại, đủ thứ khó chịu là cũng vì có ái tình này. Ái biệt ly khổ là cái khổ chia ly khi hai người đang thương yêu nhau. Hai kẻ yêu nhau như keo sơn, như cá với nước, thì đột nhiên có chuyện xảy ra khiến họ bất đắc dĩ phải chia tay. Họ lâm vào tình cảnh thật khó ly biệt, khó chia tay; còn có nỗi khổ nào bằng không dễ khống chế được, cho nên gọi là Ái biệt ly khổ. (HT Tuyên Hóa khai thị - Q.2)
+ Tính dục (Sex): Thực ra, tính dục là bản năng hướng về sự hợp nhất: trước tiên hợp nhất ở cõi trần. Mặc dù bị hiểu sai lệch nhiều, đó là nguyên tắc tự nhiên (innate principle) của thần bí học (mysticism), đó là tên gọi mà chúng ta gán cho sự thúc đẩy tới hợp nhất với cái thiêng liêng (the divine). Giống như mọi điều khác mà người ít tiến hóa đã nói tới, chúng ta đã hiểu sai và làm lệch lạc một ý niệm thiêng liêng và làm giảm giá trị (prostituted) một động lực phi vật chất (immaterial urge) thành một ham muốn vật chất (material desire). Chúng ta đã đảo ngược chiều hướng của năng lượng tại bí huyệt xương mông (sacral energy), vì thế, bản chất động vật và các chức năng của nhân loại bậc trung trở thành quá phát triển. (CTNM, 180)
+ Phái Tính (Sex): Chính vì tính chất cân bằng này trong Libra mà chòm sao này có thể được kết hợp một cách đặc biệt với vấn đề phái tính hơn là bất cứ chòm sao nào khác + Kết hợp phái tính thực sự (True sexual Union): Đây là cách sinh sản ở giai đoạn sau của Căn chủng thứ ba. (GLBN III, 173–174)
+ Tình dục là gốc của khổ. Bởi vì có tình, có dục là có chấp trước. Trong kinh “A Hàm” có câu chuyện kể, Phật hỏi học trò: “Các người nói xem nước 4 đại dương nhiều hay là nước mắt chúng ta đổ ra vì trong quá khứ phải biệt ly với người thân, bên nào nhiều hơn?” Học trò trả lời: “Nước mắt đổ ra nhiều hơn”. Đức Phật tỏ ra vui vẻ, vì học trò của mình đã trả lời đúng (Nguồn: Xem tại đây)
7.3. Định luật về tính dục (law of Sex): Đây là tên gọi được dùng để chỉ mãnh lực mang lại sự phối hợp thể chất của hai cực liên quan với giới động vật, và của con người khi xem con người như là đáp ứng với tiếng gọi của bản chất động vật. Tự nó có liên quan với việc bảo vệ hình hài trong chu kỳ đặc biệt này và bảo tồn hình hài đó.
- Định luật này là Định Luật phụ của Định luật Hấp dẫn (Law of Attraction): Định luật hấp dẫn là định luật về lửa, lửa này được tạo ra do sự phối hợp trong lúc tiến hóa của hai cực… (LVLCK, 1168–1173).
+ Bệnh phát sinh do Tình cảm: Chúng ta có thể nói khái quát như sau: [159]
25% bệnh tật thể xác phát sinh từ thể dĩ thái.
25% do thể trí.
50% bắt nguồn từ thể tình cảm.
... khi được tạo ra trong tham thiền, sẽ tác dụng ngay vào các kênh sinh lực đi vào cơ cấu của thể dĩ thái – mạng lưới phức tạp này có phần tương ứng của nó trong hệ tuần hoàn của xác thân. Chúng là nguồn gốc của nhiều bệnh tật trong thể xác hiện nay, hoặc là trực tiếp hay do những nguyên nhân từ thể tình cảm phản ứng vào thể dĩ thái.
b. Những hình thức thiền để chữa bệnh cho thể tình cảm. Như đã nói trên, nhiều bệnh tật hiện nay là do những nguyên nhân phát khởi trong thể tình cảm. Các nguyên nhân này có ba loại chính, và tôi chỉ đưa ra những lời chỉ dẫn tổng quát thôi.
Tình cảm dữ dội và sự rung động không ổn định. Nếu buông thả sẽ gây đổ vỡ và phản ứng vào thần kinh hệ. Nếu bị dồn nén hay ức chế, nó cũng gây hiệu quả nguy hiểm tương tự, gây bệnh gan và mật, chất độc tiết ra trong cơ thể, biểu lộ trong các trường hợp ngộ độc do nhiễm khuẩn, các bệnh ngoài da và vài chứng thiếu máu.
Sự sợ hãi và các tiên cảm tai nạn, âu lo và thất vọng. Các loại tình cảm này thường xảy ra, có hiệu quả làm suy nhược cơ thể, đưa đến mất sinh lực, làm trì trệ sự hoạt động của các cơ quan và nhiều hình thức bệnh hoạn tiềm ẩn trong hệ thần kinh, trong não bộ và trong cột sống. [160]
Xúc cảm tình dục, chiếm phần rất lớn trong tình cảm, từ sự đè nén dục tình (mà các nhà tâm lý học đang bắt đầu nghiên cứu) cho đến các tình cảm tội lỗi, nhơ bợn, biểu lộ trong sự ăn chơi trụy lạc và phóng đãng.
Nhiều điểm có thể gom lại để bàn dưới những đề mục này, nhưng các bức thư này không phải viết để chữa bệnh mà là thư về tham thiền nên tôi không thể nói rộng thêm. (Tham thiền huyền môn)
+ Cung Bảy: Nghi lễ, Trật tự, Huyền thuật. Cung 7 có Hành tinh dẫn truyền và Chủ quản Cung Hoàng đạo là Cung Bảo bình - Chủ tinh: Thiên Vương Tinh dẫn truyền cung 7; (Chiêm TH cổ điển dùng Thổ Tinh - Dẫn truyền Cung 3). (CTHNM, 80)
+ Trong mọi điều Tôi đã nói liên quan tới thể dĩ thái của con người, liên quan đến hành tinh, liên quan đến chơn linh của địa cầu, mấu chốt của toàn bộ tình hình nằm trong sự kiện là năm cung vào lúc này, có cung 7 là cung chiếm ưu thế của chúng. Cung 7 là cung kiểm soát thể dĩ thái (the etheric) và các devas dĩ thái. Nó kiểm soát cõi phụ thứ bảy của tất cả các cõi nhưng vào lúc này nó chi phối cõi phụ thứ bảy của cõi trần. Cũng vì đang ở trong vòng tuần hoàn thứ tư, khi một cung tiến vào sự nhập thế (incarnation) rõ ràng, nó không những chỉ kiểm soát trên các cõi có cùng một số, mà còn có một ảnh hưởng đặc biệt trên cõi phụ thứ tư. Hãy lưu ý cách mà cung này tác động vào lúc này trong ba cõi thấp:
1. Cõi dĩ thái thứ tư, cõi thấp nhất trong số các cõi dĩ thái, sẽ là cõi vật chất kế tiếp của tâm thức. Chất dĩ thái ngay lúc này đang trở nên có thể thấy được đối với một số người, và sẽ có thể nhìn thấy hoàn toàn vào cuối thế kỷ này đối với nhiều người.
2. Cõi phụ thứ tư của cõi cảm dục giữ lại phần lớn con người khi họ qua đời, và tất nhiên nhiều công việc với số lượng lớn nhất nhờ đó có thể được hoàn tất.
3. Cõi phụ thứ tư của cõi trí là cõi devachan (thiên đường tạm). (LVHLT, 374)
+ Cung 7: Hiện nay, sự nhập cuộc của cung màu tím, tức là Cung Nghi thức hay Cung bảy ...(TTHM, Thư 08.10.1919)
+ Thí dụ gọi là Huyền giai: Thí dụ như địa vị của màu tím (violet) trong quang phổ (103) có tầm quan trọng bậc nhất, liên quan với các chu kỳ lớn, và đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ và sự bắt đầu một chu kỳ mới. Cõi bồ đề đặc biệt là cõi của màu tím, mặc dù tất cả các màu sắc đều có nơi đó; Đấng Chủ Quản của Cung Nghi Lễ Huyền Thuật vốn tiêu biểu cho tia tím hay huyền giai tím, có một mối quan hệ đặc biệt với cõi bồ đề. Phải nhớ rằng mỗi Hành Tinh Thượng Đế hoạt động trước tiên trên một trong bảy cõi, từ điều này, chúng ta có thể suy ra rằng ảnh hưởng của Ngài tìm thấy đường lối ít đối kháng nhất của nó trên một cõi nào đó, mặc dù nó được áp dụng trên mọi cõi. (Nguồn: LVLCK, 424)
+ Cung nghi lễ - Cung hôn phối: ... Cung nghi lễ thường được gọi là “nghi thức hôn phối của Con”, bởi vì Tinh thần và vật chất có thể đáp ứng và hợp nhất trên cung này. Sự kiện này cũng sẽ được ghi nhớ trong một trăm năm tới đây, vì chúng sẽ chứng kiến các thay đổi lớn trong các luật hôn nhân. (LVLCK, Tr 909)
+ Cung đang biểu lộ - Ngày Cơ hội: Câu hỏi có thể dặt ra ở đây là kiến thức này có phần nào giá trị đối với môn sinh chăng. Để minh giải điều này, các môn sinh nên khôn ngoan suy gẫm kỹ ý nghĩa sự giáng nhập của Cung hiện nay, là cung Định luật Nghi lễ hay Pháp thuật. Đó là cung vận dụng các mãnh lực kiến tạo của thiên nhiên, liên quan đến việc trạng thái sự sống sử dụng hình thể một cách thông minh. Đây chính yếu là cung của công tác chấp hành, có mục đích kiến tạo, phối hợp và tạo sự nối kết trong bốn giới thấp của thiên nhiên. Nó được phân biệt chính yếu bởi năng lượng tự biểu hiện trong nghi lễ, nhưng từ nghi lễ này không được thu hẹp đến mức sử dụng hiện nay của nó trong nghi lễ của hội Tam Điểm hay tôn giáo. Áp dụng của nó thì rộng lớn hơn rất nhiều, và gồm các phương pháp tổ chức được phô diễn trong tất cả các cộng đồng văn minh, như trong giới thương mại hay tài chính, và các tổ chức kinh doanh lớn ở khắp nơi. Trên hết mọi sự, điều thú vị ở chỗ đây là cung mang cơ hội đến cho các giống dân Tây phương, và qua trung gian của mãnh lực sự sống của tổ chức thừa hành, của sự quản trị bằng luật lệ và trật tự, bằng tiết điệu và nghi thức, sẽ đến lúc các chủng tộc Tây phương (với trí tuệ cụ thể, tích cực và năng lực làm việc rộng lớn của họ) có thể được điểm đạo - một cuộc điểm đạo mà chúng ta phải nhớ là trên một cung tạm thời được thừa nhận là một cung chính. Phần đông các điểm đạo [183] đồ và những vị đã đạt được trình độ Chân sư trong chu kỳ trước, là người Đông phương và trong xác thân người Ấn. Chu kỳ đó đã do cung sáu cùng hai cung trước thống ngự, và đang trôi qua. Để giữ thế quân bình, nay sẽ đến một thời kỳ thành đạt của người Tây phương, trên một cung thích hợp với loại trí tuệ của họ. Nên ghi nhận điều thú vị là mẫu người Đông phương đạt mục tiêu của họ qua tham thiền, với một phần nhỏ tổ chức chấp hành và nghi thức, còn người Tây phương sẽ thành đạt phần lớn qua tổ chức mà hạ trí tạo ra, và một lối tham thiền mà sự tập trung cao độ trong công việc có thể xem là một ví dụ. Sự áp dụng trí tuệ chuyên nhất của một thương gia người U hay người Mỹ có thể được xem là một loại tham thiền. Nếu sự áp dụng này dựa trên động lực nội tâm trong sạch, thời cơ tốt đẹp sẽ đến với người Tây phương. (Sách điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Cung bảy biểu lộ: ... Cung Bảy (Định luật Nghi thức hay Trật tự) đang gia tăng quyền lực và cho người phương Tây những gì mà từ lâu đã là đặc quyền của người phương Đông. Cơ hội hiện nay rất lớn lao, và trên đà chế ngự của cung này có sức thúc đẩy cần thiết (nếu áp dụng đúng) sẽ đưa người Tây phương đến dưới chân Đức Chúa tể Hoàn cầu. (Tham thiền huyền môn)
+ Cung năng lượng - Cung bảy:
+ Phẩm tính Cung Bảy: Nghi lễ, Trật tự, Huyền thuật
- Ưu điểm: Mạnh mẽ, bền chí, can đảm, lịch sự, hết sức chú ý về chi tiết, tự lập, trật tự, cơ cấu, hoàn thiện hình thức, tuân thủ.
- Khuyết điểm: Chuộng hình thức, cố chấp, tự cao, hẹp hòi, phán đoán nông nổi, quá tự phụ, quá thủ cựu.
+ Các Đức Tính và các Tật Xấu EPI 210-211( Xem Bảy đấng ....)
- Đức Tính đặc biệt: Sức mạnh, nhẫn lại/ sự kiên trì, can đảm/ lòng dũng cảm, tao nhã/ lịch sự, cực kỳ cẩn thận trong chi tiết, tính tự lực.
- Tật Xấu của Cung: Tính(chủ nghĩa) hình thức, cố chấp, tự cao/ kiêu hãnh, cư sử hẹp hòi, các phán đoán hời hợt/ phiến diện, cố chấp/ bảo thủ ý kiến quá mức. quá đam mê
- Các Đức Tính cần có: Nhận thức về tính thống nhất, tâm trí rộng mở, lòng khoan dung, khiêm tốn, dịu dàng và bác ái. + Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung
+ Hành tinh dẫn truyền và Chủ quản Cung Hoàng đạo: Cung Bảo bình - Chủ tinh: Thiên Vương Tinh dẫn truyền cung 7; (Chiêm TH cổ điển dùng Thổ Tinh - Dẫn truyền Cung 3). (CTHNM, 80)
+ Đạo làm người: Có nhiều pháp giảng về các đức hạnh của đạo làm người
- Theo Nho đạo/ Khổng Tử ...: Ngũ luân - Ngũ thường/ Bát đức. Tương ưng với Đạo
- Đạo lý làm người cơ bản: Theo HT Tuyên Hóa thì lục đại tông chỉ là một cách mô tả đạo lý cơ bản làm người, gồm KHÔNG: Tranh/ Tham/ Cầu/ Ích kỷ/ Tự lợi/ Nói dối. Có được các hạnh này cũng tức là đã trì giới. Giữ được giới là có được cái gốc để phát triển trí tuệ (Giới - Định - Tuệ). Kết hợp với bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định mà đắc được trí huệ. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr123 - HT Tuyên Hóa giảng)
- Theo Phật giáo: Thập thiện là đạo làm người cao sâu rộng hơn cả. Giản lược với người tu tại gia là giữ ngũ giới.
+ Đạo làm người qua Luân Thường Đạo Lý (Hai cách nói)
Ngũ Luân: Năm đạo lý tôn trọng lẫn nhau gồm Vua Thần - Cha con - Vợ chồng - Anh em - Bằng hữu.
Ngũ Thường: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín
* Cách nói khác: Tám đức ở Trung Quốc có hai cách nói, hai cách nói trừ đi những cái giống nhau trong đó còn lại 12 chữ. “Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, Nhân, Ái, Hòa, Bình”.
Hoặc nói 12 chữ: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ; cùng với Nhân, Nghĩa, Đạo và Đức. Đó là căn bản của con người.
=> 12 chữ này là hoàn toàn tương ưng với đạo, tương ưng với nguyên tắc của tự nhiên. Không có nó - Thế giới liền loạn thôi, bạn sẽ khổ.
* Khi gia đình và xã hội sống đúng Đạo, thì vạn sự theo Đạo chẳng cần nhắc đến. Nhưng khi bất hòa phát sinh mới nói đến chữ hiếu - Đạo nghĩa - Trung thần ... Đạo lý trong đoạn kinh nầy cũng giống như điều của Lão Tử muốn nói. Nếu chỉ có một yếu tố, thì sẽ không có gì trở nên hỗn trược. Nhưng vì chúng kết hợp với nhau và hình thành một khối, nên hư vọng sanh khởi. Điều nầy chứng minh rằng trong mọi pháp, đều có cái chân cái nguỵ, cái giả cái thật. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Năm đức tính của con người quân tử theo Đạo đời:
1. Nhân: Nhân (trong "nhân hậu")
2. Nghĩa: Nghĩa (trong "chính nghĩa")
3. Lễ: Lễ (trong "lễ phép")
4. Trí: Trí (trong "trí tuệ")
5. Tín: Tín (trong "uy tín")
Mất nhân cách: Còn như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là không phải người
Người nào phạm 5 điều này thì đời sau không làm được thân người. Chúng ta làm được năm điều này thì lương tâm không có hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người. Chúng ta xem những người này trong xã hội ngày nay, lại so với mình, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm mình, tự mình có làm được hay không? Tự mình đời sau có được thân người không? Nếu như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì đời sau nhất định đọa trong ba đường ác. (Nguồn: Ba Phúc Hiếu - Phụng sự Sư trưởng - Hành thập thiện)
+ Bàn về chữ Đạo: Đạo vũ trụ, đạo trời, đạo đất và đạo người, ngài Mạnh Tử có cuốn sách Đạo Đức Kinh rất tuyệt diệu. Xin mời xem đầy đủ về chữ Đạo tại: Đạo Đức Kinh của Mạnh Tử rất tuyệt đỉnh.
+ Chữ Đạo - Đạo của tự nhiên: Cái gì là đạo? Vợ chồng là đạo, cha con là đạo, anh em là đạo, bè bạn là đạo, vua tôi là đạo, (vua là người lãnh đạo, tôi là người bị lãnh đạo), đây là “ngũ luân”. Hỏi bạn năm thứ này do ai đặc ra? Là ai phát minh? Là ai quy định? Không có! Đây là nguyên tắc tự nhiên. Cho dù bạn có văn hóa hay không, người mọi rợ họ cũng có, người văn minh cũng Đạọ làm người, bạn không thể nào thoát khỏi năm cái này, cho nên năm cái này là nguyên tắc tự nhiên, đây là "đạo", đạo của tự nhiên => Đức/ Ngũ Thường: Tùy thuận theo đạo chính là "đức". Đầy đủ là 8 đức tính của con người. Trái ngược với đạo thì tai nạn sẽ đến ngay. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
+ Tâm Tính/ Đức Tính thiện lành: Căn cứ vào Tooltip "Lợi ích của người tu tập theo Thập thiện" và Bát tránh đạo để đánh giá người có các đức tính thiện lành, Tooltip "người đại thiện" theo Đức Phật dậy => Làm căn cứ dự đoán số mệnh (Nguồn: Kinh thập thiện - PS Tịnh Không giảng)
+ Phẩm tính người Đông - Tây phương: Người Đông phương thiên về triết lý, bản tính mơ mộng, qua nhiều thế kỷ đã được tập suy tư trừu tượng, thích những biện chứng khó hiểu, tính tình yếu đuối và thái độ chậm chạp. Qua nhiều thời đại suy tưởng siêu hình, sống chay lạt, tính trì trệ, thích bảo thủ những hình thức và qui luật sống nghiêm khắc, đã tạo nên mẫu người trái ngược hẳn với người anh em phương Tây.
Người phương Tây thích thực tế, làm việc có hệ thống, năng động, hành động mau lẹ, lệ thuộc sự tổ chức (vốn là một hình thức khác của nghi lễ), được thúc đẩy bằng trí tuệ rất cụ thể, thích thu đạt, ưa chỉ trích, làm tận lực khi công việc trôi chảy mau lẹ, và dùng lý trí quyết định nhanh chóng khi cần thiết. Họ không thích những tư tưởng trừu tượng nhưng biết đánh giá khi hiểu được và khi họ có thể làm những tư tưởng [113] đó thành hiện thực ở cõi trần. Họ dùng luân xa đầu nhiều hơn luân xa tim, và luân xa cổ họng của họ thường được sinh động. Người Đông phương thì dùng luân xa tim nhiều hơn luân xa đầu và tất nhiên là dùng trung tâm ở đầu tương ứng với luân xa tim. Luân xa ở đáy xương sọ, đầu cột sống hoạt động mạnh mẽ hơn luân xa cổ họng.
Người Đông phương tiến hóa bằng cách thu tâm thức vào luân xa đầu, qua cố gắng tham thiền tích cực. Đó là luân xa y phải chế ngự. Y học hỏi bằng cách dùng các câu thần chú một cách khôn ngoan, bằng cách sống ẩn dật và tham thiền theo những phương thức đặc biệt, mỗi ngày nhiều giờ trong thời gian dài.
Người Tây phương trước hết phải nhằm rút tâm thức vào luân xa tim, vì họ đã dùng luân xa đầu quá nhiều. Họ thường sử dụng các hình thức tập thể thay vì các chú nguyện dùng riêng cho cá nhân. Họ không thường làm việc trong đơn độc như người anh em phương Đông mà phải tập trung tâm thức ngay cả trong sự náo nhiệt và quay cuồng của cuộc sống kinh doanh và trong những đám đông ở các đô thị lớn. Họ dùng những hình thức tập thể để đạt mục tiêu của mình, và việc đánh thức luân xa tim tự biểu lộ trong phụng sự. Vì vậy, người phương Tây phải chú trọng đến tham thiền ở luân xa tim và cuộc sống phụng sự sau đó. (Tham thiền huyền môn)
+ Đạo làm Người rất hay: Xem 28 Điều Lời Khai thị của Ấn Quang Đại Sư
+ Linh Từ: Các từ đồng nghĩa gồm Thánh ngữ - Thần Chú - Mantrams - Chân Ngôn - Châm Ngôn - Đà La Ni - Mật Chú - Bảo bối (NTH)
+ Mantram/ Thần chú: Một mantram là một từ hoặc cụm từ mà kết hợp các âm thanh và suy nghĩ một cách nhịp nhàng và đầy ý nghĩa tạo nên uy lực mạnh mẽ với sư sử dụng thường xuyên. "OM" là một mantram và là âm thanh của tiếng Phạn huyền bí có gốc từ Ấn độ. Chúng ta được biết rằng OM là Linh tự, là lời của Thượng Đế mang theo sự rung động của Bác Ái và Trí Tuệ Thiêng Liêng. Do đó, khi xướng lên với ý định tốt, nó có một ảnh hưởng tốt lành. Ví dụ, nó trung hòa các rung động tiêu cực trong người xướng tụng nó và trong môi trường xung quanh ... Khi bạn xướng nó lên để kết thúc một buổi thiền, nó nâng cao các nguồn năng lượng tích cực được cầu xin, gửi chúng ra trên đôi cánh của ánh sáng và tình yêu để thực hiện công việc của chúng – hướng tới sự vinh quang của Thượng Đế (Nguồn: Khóa thiền MQ - MFVN)
+ Linh từ hay nốt của Thiên nhiên (Word or Note of Nature): Đây là Linh từ hay diệu âm của mọi hình thức của mọi hình tướng hiện hữu trong vật chất cõi trần, và như thường được biết rõ, nó được ngân lên dựa vào nốt căn bản “FA”. Đó là một nốt chẳng có liên quan gì đến nhà huyền linh học, vì công việc của người này không liên quan gì đến việc gia tăng tính hữu hình, mà lại có liên quan đến sự biểu hiện của cái nội tâm hay vô hình. Đây là Linh từ của Ngôi Ba, Ngôi Brahma hay Ngôi Thánh Thần (Holy Ghost Aspect)
+ Linh từ: Là những đoạn rút từ kinh Vedas. Theo nghĩa công truyền thì thần chú (hay khả năng tâm thông hoặc quyền năng để truyền đạt nhận thức hoặc tư tưởng) là phần cổ xưa của kinh Vedas, phần thứ nhì gồm các kinh Brahmanas. Theo ngữ cú nội môn thì thần chú là Thượng Đế đã hiện thân hay làm cho biểu hiện ra ngoài nhờ huyền thuật. Một hình thức các ngôn từ hay các âm vận được sắp có tiết điệu sao cho khi được xướng lên sẽ tạo ra một số rung động. (ĐĐNLVTD, 221)
+ Thần chú là tập hợp các âm thanh, các từ và các nhóm từ để nhờ một vài hiệu quả nhịp nhàng mà đạt được các kết quả vốn không thể có được nếu không có chúng. Cho đến nay, thần chú linh thiêng nhất trong tất cả các thần chú ở Đông Phương được đưa ra cho quần chúng là thần chú nằm trong các linh từ “OM MANI PADME HUM”. Mỗi vần của nhóm linh từ này đều có một mãnh lực huyền bí và toàn thể nhóm có 7 ý nghĩa có thể mang lại 7 kết quả khác nhau.. (LVLCK, tr 927)
+ Linh từ và diệu âm (Word and sound): Đạo sinh cần phân biệt cẩn thận giữa linh từ và diệu âm, vì linh từ (word) che giấu tư tưởng, hay ý định hoặc mục tiêu, còn diệu âm (sound) làm cho tư tưởng hay ý định hoặc mục tiêu đó có thể biểu hiện ra trong loại vật chất nào đó trên một trong bảy cảnh giới. (ĐĐNLVTD, 155)
+ Linh từ hay Diệu âm (Word or Sound): Các đạo sinh nên nhớ rằng có ba Linh từ hay Diệu âm căn bản đang biểu lộ. Đây là trường hợp đối với giới nhân loại.
+ Trong khi tham thiền, nhờ ngân lên Linh từ... (Word), đạo sinh mới khơi dậy sự đáp ứng trong bí huyệt chính ở đầu, tạo nên sự rung động hỗ tương giữa bí huyệt đó với bí huyệt hồng trần trên đầu và dần dần phối kết các mãnh lực trong đầu. (LVLCK, 1012)
+ Diệu Âm (the Sound) hay Thánh Ngữ (Sacred Word) khi được sử dụng đúng sẽ có các hiệu quả khác nhau có thể được đề cập đến ở đây. OM khi được ngân lên, với tư tưởng tập trung ở sau sẽ tác động như một tác nhân khuấy động (disturber), một tác nhân giải phóng (loosener) vật chất thô trược (coarse) của thể tư tưởng, thể tình cảm và của thể xác. Khi được ngân lên với đạo tâm tâm linh mạnh mẽ ở sau, nó sẽ tác động như một phương tiện thu hút (attractive medium), và thu thập lại các phân tử vật chất tinh khiết để lấp đầy chỗ trống của các phân tử bị vứt ra trước đó. Các đạo sinh nên cố gắng có hai hoạt động này trong trí khi sử dụng Thánh Ngữ trong lúc tham thiền. Việc sử dụng Thánh Ngữ này rất có giá trị thực tiễn và dẫn đến kết quả trong việc kiến tạo các thể tốt lành để cho linh hồn sử dụng. (LVHLT, 140)
+ Linh từ thất truyền: Ý niệm về Linh từ thất truyền này đã được duy trì cho chúng ta trong nhóm Tam Điểm. Đó là Linh từ của Ngôi Một, Ngôi Tinh thần, và chỉ có đệ tử điểm đạo bậc ba mới có thể thật sự bắt đầu tìm kiếm Linh từ này vì chỉ có Linh hồn giải thoát mới có thể tìm được nó. Linh từ này liên quan tới các cuộc điểm đạo cao tột, và chúng ta chẳng có lợi gì khi nghiên cứu thêm. (ASCLH, 54–55)
+ Lựa chọn ngôn ngữ: Với người bắt đầu, rất nên cố gắng lựa chọn ngôn ngữ không thuộc quốc gia, chủng tộc nào cả là tốt nhất. Trường hợp sử dụng tiếng mẹ đẻ thì cũng nên mở rộng tâm thức bao trùm, hiểu rằng dù tiếng nào cũng không có phân biệt. (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Chân ngôn (mantra) hay Đà-la-ni hay Thần chú: Theo Ðại Trí Ðộ Luận thì: “Đà-la-ni có nghĩa là duy trì và ngăn ngừa: duy trì là duy trì những thiện pháp không để cho thất lạc, như một cái bình nguyên vẹn có thể chứa nước không để nước rịn ra; ngăn ngừa là ngăn ngừa những ác pháp không cho phát sinh, nếu có khuynh hướng tạo tác tội ác thì ngăn ngừa không cho tạo tác: Đó là Đà-la-ni”.
+ Chân ngôn - Hòa Thượng Tuyên Hóa nói đến trong giảng Kinh Chú Đại Bi
81. Án tất điện đô
Nay phần kinh văn của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án luôn luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”.
Tất nghĩa là “thành tựu”.
Điện đô. Hán dịch là “ngã giới” là đạo tràng, lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi kiết đại giới là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần. Trong phạm vi đã được kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được như ý.
Chẳng hạn như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên tai khác. Vì các vị hộ pháp, thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng được thành tựu.
Phạm vi và ý nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi trần của hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới, và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần tồn tại thì vô lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết giới.
+ Đà la ni - Thần chú - Tổng trì ...: Trong tiếng Phạn, chữ đà-la-ni [53] có nghĩa là thần chú.[54]
Có lọai đà-la-ni gồm nhiều chữ, như thần chú Thủ Lăng Nghiêm, thần chú Phật đảnh tôn thắng. Có lọai đà-la-ni gồm ít chữ, như thần chú Lục tự đại minh. Có khi dùng chữ man-tra. Có khi dùng chữ đà-la-ni. Khi dùng chữ đà-la-ni, thì có nghĩa là “tổng trì.” Nghĩa là “Tổng nhất thiết pháp, trì vô lượng nghĩa.” Tất cả các pháp đều bao hàm trong man-tra. Vô lượng diệu nghĩa đều xuất sinh từ man-tra. Đây là một cách giải thích. Tôi còn có một cách giải thích khác. “Tổng trì” có nghĩa là giữ cho ba nghiệp thân khẩu ý được hòan toàn thanh tịnh. Tam vô lậu học giới, định, huệ được thọ trì. Đại đà-la-ni khác với tiểu đà-la-ni. Tiểu đà-la-ni là những câu chú nhỏ, công năng của nó không lớn lắm. Điều đang nói đây là đại đà-la-ni. (HT Tuyên Hóa giảng đang giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Xem TH về thần chú, matram, ...của phật giáo
Xem TH về thần chú, matram ....minh triết mới
Xem: Thuật ngữ "Chân Ngôn" Phật Giáo
+ Sức mạnh của Linh từ - Diệu âm/ Nốt âm - Thánh ngữ: ... Có nhiều hình thức thần chú khác nhau dựa vào công thức này và dựa vào Linh từ, mà nếu được ngân lên một cách nhịp nhàng và bằng nhiều khóa khác nhau sẽ hoàn thành được một số mục tiêu mong muốn như là triệu thỉnh các thiên thần hộ trì và thực hiện được công việc nhất định, có tính chất xây dựng hoặc có tính chất hủy diệt trên các cõi.
[Sức mạnh của một thần chú tùy thuộc vào mức tiến hóa của người vận dụng nó. Khi được phát ra bởi một người thông thường, nó dùng để kích thích phần tốt lành bên trong các thể của y, bảo vệ y, và nó cũng sẽ chứng tỏ ảnh hưởng có lợi lên chung quanh người này. Khi được phát ra bởi một adept hoặc điểm đạo đồ, năng lực của nó đối với sự tốt lành càng rõ rệt và có ảnh hưởng sâu rộng.
Có nhiều loại thần chú và nói chung có thể liệt kê như sau:
1. Một số thần chú rất huyền bí, có trong tiếng Senza nguyên thủy, dưới sự giám sát của Thánh Đoàn (Great White Lodge).
2. Một số thần chú bằng tiếng Bắc Phạn được các điểm đạo đồ và các adepts sử dụng.
3. Các thần chú có liên quan với các Cung khác nhau.
4. Các thần chú dùng trong việc chữa bệnh.
5. Các thần chú dùng trong các phần hành của hoặc là Đức Bàn Cổ (Manu), Đức Bồ Tát hoặc Đức Mahachohan.
6. Các thần chú được dùng có liên quan với các thiên thần và các giới tinh hoa chất (elemental kingdom).
7. Các thần chú đặc biệt có liên quan với lửa.
Tất cả các thần chú này có được sức mạnh của chúng là tùy thuộc vào âm thanh và tiết điệu và tùy thuộc sự nhấn mạnh vào âm tiết được truyền cho chúng khi phát ra và ngân lên (intoning). Chúng cũng tùy thuộc vào năng lực của người sử dụng chúng để hình dung (visualise) và để mong mỏi (will) hiệu quả muốn có được]
Tạo ra hình hài (Form production)
1. Tư tưởng thiêng liêng ........... Cõi trí vũ trụ
2. Ước muốn thiêng liêng ........ Cõi cảm dục vũ trụ
3. Hoạt động thiêng liêng ........ Cõi hồng trần vũ trụ
(7 cõi thuộc thái dương hệ của chúng ta).
Linh Khí Thượng Đế… Cõi thứ nhất … Âm (1) A
Đây là sự xuất hiện đầu tiên bằng dĩ thái của thái dương hệ trên cõi phụ nguyên tử của cõi hồng trần vũ trụ. Các mầm sự sống hoàn toàn còn tiềm tàng. Năng lực vốn có từ tinh hoa thái dương hệ trước.
Linh Âm Thượng Đế … Cõi thứ nhì … Âm A U
Đây là thể xác (body) của thái dương hệ trong chất dĩ thái thứ hai. Cõi này là cõi nguyên hình (archetypal plane). Các mầm sự sống đang rung động hay đang nảy sinh. Bảy trung tâm năng lượng lộ rõ. Vị deva duy nhất được nhìn thấy dưới hình thức bảy. Giờ đây hình hài có khả năng hoàn hảo một cách tiềm năng.
Linh Ngôn tam phân của Thượng Đế... Cõi thứ ba... Âm A U M.
Thể xác của thái dương hệ bằng vật chất của cõi dĩ thái thứ ba được nhìn thấy và ba chức năng dưới hình thức một. Năng lượng tam phân của Thượng Đế được phối kết, và giờ đây không gì có thể cản trở công việc tiến hóa. Ba nhóm devas đều linh hoạt, và hình tướng nguyên hình đang ở trong diễn trình cụ thể hóa (materialization, xuất hiện).
Linh từ Thượng Đế thất phân… Cõi thứ tư… Linh Ngôn bảy vần. Các trung tâm dĩ thái của Thượng Đế trở nên linh hoạt.
Thể dĩ thái của thái dương hệ giờ đã đầy đủ, dù nó sẽ không được hoàn chỉnh cho đến cuối kỳ khai nguyên nữa. Thể sinh lực vĩ đại đã sẵn sàng đem lại sinh lực cho thể xác trọng trược. Bảy trung tâm lực với bốn mươi chín cánh hoa chính của chúng trở nên rung động, và tâm thức rung động nhẹ qua mọi nguyên tử trong thái dương hệ. (LVLCK, tr 927)
+ Trạng thái sắc tướng (Form aspect): Phàm ngã tức là trạng thái sắc tướng. (ASCLH, 397)
+ Thể Xác - Thể Sinh lực [Hai là một - Một cũng là hai]: .... Về vấn đề này, xét trên vài phương diện thì thể cảm dục lại là thể thứ ba của tâm thức nếu tính xác thân và thể sinh lực điện (thể của prana hay thể dĩ thái) là hai đơn vị [Khi nói về cấu tạo con người, thường xem 2 Thể này là một - Không tính thể xác như là một thể độc lập]. Tôi không thể nói thêm, vì tất cả đều hoán chuyển và xuyên thấu lẫn nhau, tôi chỉ đưa ra tài liệu để các bạn suy ngẫm. (Tham thiền huyền môn)
+ Sắc tướng (Appearance): Tôi sẽ dùng từ ngữ sắc tướng để diễn tả cái mà ta gọi là vật chất (matter) hay hình hài (form) hay biểu lộ ngoại cảnh (objective expression); chính cái sắc tướng hữu hình giả tạm chỉ có bề ngoài đó được sức sống làm cho linh hoạt. Đây là trạng thái thứ ba, Mẹ, được ứng linh và làm cho tụ sinh (fertilised) bởi Chúa Thánh Thần, tức Sự Sống, kết hợp với chất liệu thông tuệ. (TLHNM–I, 18)
+ Chữ sắc trong Sắc tướng theo Phật giáo: ...Chư Hiền, ngũ uẩn/ 5 Thủ uẩn là khổ gồm SẮC THỦ UẨN và THỌ - TƯỞNG - HÀNH - THỨC. Chữ SẮC - Những gì có sắc gồm Tứ đại và do Tứ đại tạo. (Kinh Tượng Tích Dụ - Kinh A Hàm)
+ Hai loại hình hài, có vị trí khác nhau trong thiên cơ
- Hình hài trong giới thực vật, động vật và khoáng vật: Các hình hài chính là kết quả của công trình 2 ngôi của Thượng Đế (Ngôi 3 và Ngôi 2) và sự sống hợp nhất của các Ngài.
- Hình hài của thiên thần và con người: Hình hài là kết quả của tác động hợp nhất của 3 ngôi Thượng Đế.
- Hình hài đơn giản hơn được tiêu biểu trong chất liệu nguyên thuỷ mà từ đó mọi hình hài khác được tạo thành. Vật chất này nói đúng ra là vật chất nguyên tử và phân tử và được làm cho linh hoạt bằng sự sống hoặc năng lượng của Thượng Đế Ngôi Ba (LVLCK, 120)
+ Hình tướng (sắc tướng, forms): Hình tướng hay lớp vỏ (sheath) hay các thể (bodies) đều có mục đích biểu hiện. (ASCLH, 74)
+ Thể, các thể: Các thể của con người hay các hiện thể biểu lộ được tạo thành bằng các đơn vị năng lượng. Chúng ta gọi các đơn vị năng lượng này là các nguyên tử và các đơn vị nguyên tử này được giữ lại với nhau dưới hình thức thể bằng mãnh lực cố kết của các năng lượng còn mạnh mẽ hơn. Các thể chính là bộ máy đáp ứng. (CTNM, 36).
+ Thể Xác: Dùng để chỉ một hình thể có khả năng hoạt động độc lập trong cõi hữu hình và vô hình. (KCVTT, 128)
+ Thể xác trọng trược - Dense physical body: nhục thể, nhục thân;
+ Sthula sharira: Thể xác trọng trược / Dense physical body (LVLCK, 264)
+ Thể Xác: Là toàn thể các cơ cấu (organism) tạo thành thể xác; các cơ cấu (bộ máy) này có các chức năng khác nhau để cho phép linh hồn tự biểu lộ trên cõi trần hay cõi bên ngoài (objective plane) như là thành phần của một bộ máy vĩ đại hơn và bao quát hơn. Thể xác là bộ máy đáp ứng của con người tâm linh bên trong và cung cấp phương tiện để đưa thực thể tâm linh đó tiếp xúc được với bộ máy đáp ứng (response apparatus) của Hành Tinh Thượng Đế, tức Đấng mà trong đó chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn.(CTNM, 2)
+ Thể hồng trần để ta sử dụng, không để nó sử dụng ta; ta không làm tôi tớ nó. Nếu để nó làm chủ, trọn mục đích của cuộc đời bị hủy diệt, và con người không thể tiến bộ được.
- Huấn luyện: Khi nó đã quen làm việc theo một đường lối đặc biệt nào, nó sẽ sẵn sàng tiếp tục tự động và hoàn toàn vui thích làm việc theo đường lối đó, như trước kia nó đã thích làm theo những đường lối khác. (......đưa thể hồng trần vào trạng thái xuất thần, để cho thể cảm xúc tự do thoát ra khỏi thể hồng trần - Không khuyến khích. Chân sư DK: đó là con đường đi ngược lại sự tiến hóa)
- Nên nhớ: Cứ mỗi lần đầu thai lại thì mỗi thể vẫn giữ đúng y phẩm chất (Tạm gọi như thế) của cơ thể trước kia đã bị thải bỏ khi chết. Việc kiến tạo cơ thể không hề bị mất.
- Thể xác làm cho sự hiện hữu của nó được cảm nhận khi có một bộ phận nào đó bị trục trặc, hoặc qua sự hài lòng của một thèm muốn này hay thèm muốn khác (LVHLT, 293)
+ Hình Hài Chánh/ Tà Đạo: Tất cả các hình hài được tạo ra ở mọi giai đoạn hoặc bị giới hạn vào tả-đạo, hoặc bao gồm lấy nó, và tuy thế lại vượt qua nó, và đi theo chính-đạo (right hand way). Câu này cung cấp chất liệu cho tư tưởng và ý nghĩa của nó thật khó mà hiểu được. Cần ghi nhớ rằng mọi hình hài, cho dù chúng theo chính-đạo hoặc tả-đạo, đều giống nhau cho đến một mức độ nào đó; chúng đi qua các giai đoạn phát triển như nhau và ở vào một lúc trong quá trình phát triển của chúng, chúng xuất hiện đồng dạng và giống nhau. Chỉ khi mục đích của chúng xuất hiện thì sự phân biệt mới trở nên rõ ràng, và do đó việc huấn luyện cho người tìm đạo theo động cơ đúng đắn như là một bước chuẩn bị cho công việc huyền linh đích thực.(LVHLT, 267)
+ Sắc thân - Thân xác ta là do Tứ đại giả hợp - Thân xác giả tạm - Xác thân hữu hình hữu hoại
Thân này là tổng tướng của sắc. Đất nước gió lửa là biệt tướng (tướng riêng) của sắc. Thân thể của chúng ta do đất nước gió lửa hợp thành. Xương cốt thịt thà chính là đất. Nước mắt, nước mũi, máu, tiểu tiện, mồ hôi, là nước. Thân thể được ấm áp là nhờ có lửa. Vận động hô hấp nhờ thân thể có gió. Bốn đại hòa hợp thì thân thể còn. Chúng phân tán thì thân thể mất. Đất trở về đất đá. Nước trở về nước. Gió trở về gió. Lửa trở về lửa. Mỗi đại đều trở về cội gốc, nên không thật có. Vì thế, mọi người chấp trước vào thân thể, tự cho là có, thật là sai lầm.
Không thể cho rằng thân thể chính là mình được, vì thân thể chỉ giống như nhà ở. Chư vị không thể cho rằng nhà mình ở chính là mình. Thế nên đừng chấp trước nhà ở chính là mình. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
Xem: Thể Hồng trần và cách nuôi dưỡng nó thanh sạch theo Chân Sư DK
Xem: Tổng Hợp Thể Xác/ Hồng Trần (So sánh Cung 3 – 7); Chất và Thể Dĩ Thái.
+ Có 3 nhóm trí tuệ mãnh liệt kích động bản chất dục vọng:
2.3.1. Người hướng nội về mặt trí tuệ: Bận rộn một cách sâu sắc với các hình tư tưởng tự tạo và thế giới tư tưởng được họ tạo ra, tập trung quanh một hình tư tưởng năng động duy nhất mà họ đã xây dựng. Họ luôn luôn làm việc hướng tới một bước ngoặt, và bước ngoặt này có thể được giải thích bởi thế giới như: sự phát hiện một thiên tài; một nỗ lực sáng tạo nào đó; hoặc những biểu lộ dữ dội của sự tuyệt vọng khi người này cố gắng để thoát khỏi kết quả của sự nghiền ngẫm bên trong của y theo đường lối đã chọn. (460-1)
2.3.2. Tự ám ảnh, cô lập, tính tự cao tự đại hoang tưởng: Trong các giai đoạn đầu thì có thể chữa khỏi – chuyển sự tập trung thông qua việc gợi lên một mối quan tâm khác cao hơn, bởi sự phát triển ý thức xã hội, và nếu có thể bằng sự tiếp xúc với linh hồn. Nếu không nó sẽ làm cho người này cuối cùng trở thành không thể xúc động, vì y trở nên cố thủ trong một thành lũy của các hình tư tưởng riêng của y liên quan đến bản thân y và hoạt động của y. Loại người cung 1 và 5 dễ xảy ra. (461)
2.3.3. Người hướng ngoại về mặt trí tuệ: Những người trở nên hướng ngoại mạnh mẽ bởi sự mong muốn áp đặt các kết luận họ đã đạt được lên trên đồng loại của họ. những người cung 3 và 6 dễ bị sự rối loạn này. Họ gồm mọi loại người, từ nhà thần học có thiện ý và người theo giáo điều cố chấp hầu như được tìm thấy trong các trường phái tư tưởng; đến người cuồng tín làm cho cuộc sống thành một gánh nặng cho mọi người xung quanh y khi y tìm cách áp đặt quan điểm của y lên họ; và người điên vì trở nên bị ám ảnh với linh thị của y rằng y phải được cất giữ cẩn thận. (462)
+ Các Nhóm Chữa trị Bệnh Huyền mô: Sau này sẽ có những nhóm được thành lập cho các mục tiêu đặc biệt. Đó là điểm thứ ba cần bàn: việc sử dụng Thánh ngữ cho các mục tiêu có tính toán.
Tôi sẽ kể ra đây vài mục tiêu mà các nhóm sẽ nhắm tới, khi được thành lập để đạt được những kết quả nhất định bằng cách sử dụng Thánh ngữ và hành thiền huyền môn thực sự. Chưa đến lúc làm việc này nên không cần phải đi vào chi tiết, nhưng nếu mọi việc tiến triển như dự tính, thì các bạn cũng có thể thấy đôi điều được thực hiện ngay trong kiếp sống này.
a. Những nhóm có mục đích giúp thể cảm dục con người để phát triển, thu phục và thanh lọc nó.
b. Những nhóm có mục đích phát triển trí tuệ, tăng cường sự quân bình và tạo sự tiếp xúc với thượng trí.
c. Những nhóm trị bệnh thân xác. [68]
d. Những nhóm có mục đích giúp chỉnh hợp, khai thông đường truyền giữa Chân ngã và phàm ngã.
e. Những nhóm chữa trị các trường hợp ám ảnh và các bệnh tâm thần.
f. Những nhóm có phận sự nghiên cứu sự phản ứng do việc đọc Thánh ngữ, ghi nhận và phân loại những dạng hình học được tạo nên, lưu ý hiệu quả của nhóm đối với các cá nhân trong nhóm, và lưu ý sức hấp dẫn của nó đã kêu gọi được những thực thể nào bên ngoài. Đây hẳn phải là những nhóm tiến hóa khá cao, có khả năng nghiên cứu bằng nhãn thông.
g. Những nhóm có công tác rõ rệt là giao tiếp với các thiên thần và hợp tác với giới này theo Thiên luật. Trong thời kỳ hoạt động của cung bảy, công việc này sẽ được dễ dàng hơn nhiều.
h. Những nhóm làm việc một cách rõ rệt và khoa học là nghiên cứu định luật của các cung, nghiên cứu màu sắc và âm thanh, sự tương quan giữa chúng và hiệu quả của chúng nơi cá nhân và tập thể. Đây nhất thiết là một nhóm chọn lọc và chỉ những người có trình độ tinh thần cao hay gần được Điểm đạo mới được phép gia nhập. Đừng quên rằng những nhóm ở cõi trần này chỉ là sự biểu hiện tất nhiên của những nhóm ở nội giới gồm những người chí nguyện, các môn sinh, các đệ tử và các điểm đạo đồ.
i. Những nhóm làm việc trực thuộc một vị Chân sư, tuân theo những phương thức nhất định mà Ngài đã vạch. Vì thế, nhân viên của các nhóm này phải do Ngài chọn.
j. Những nhóm hoạt động đặc biệt, thuộc một trong ba ngành lớn (ba cung chánh). Dưới sự hướng dẫn chuyên môn, họ tìm cách ảnh hưởng đến nhân loại về [69] mặt chính trị và tôn giáo, và đẩy nhanh diễn trình tiến hóa như đã được ngành của Đức Văn minh Đại đế điều hành. Một vài nhóm này sẽ hoạt động trong giáo hội, vài nhóm khác thì trong hội Tam điểm, còn những nhóm khác thì làm việc kết hợp với vị thủ lãnh điểm đạo đồ của những tổ chức lớn. Khi xem xét vấn đề này, các bạn nên nhớ rằng theo thời gian toàn thế giới ngày càng mở mang trí tuệ nhiều hơn, – vì thế, phạm vi hoạt động loại này ngày một tăng.
k. Các nhóm khác hoàn toàn lo làm công việc có thể gọi là chuẩn bị cho cộng đồng sinh hoạt tương lai.
l. Có những nhóm được gọi là nhóm hóa giải, được thành lập để giải quyết những vấn đề khó khăn phát sinh thuộc tôn giáo, chính trị, kinh tế và xã hội. Họ nghiên cứu những hiệu quả của tham thiền, của màu sắc và âm thanh.
m. Còn có những nhóm chuyên lo việc dưỡng dục trẻ em, việc rèn luyện của từng cá nhân, việc hướng dẫn những đạo sinh trên đường dự bị, và việc phát triển các khả năng cao.
n. Sau này, khi Đức Chưởng Giáo tức là Đức Christ giáng lâm cùng các vị Chân sư phụ tá Ngài, sẽ có vài nhóm rất nội môn được chọn từ tất cả các nhóm kia, trong đó các thành viên (do căn quả và trình độ cao) sẽ được huấn luyện tư cách đệ tử và được Điểm đạo lần thứ nhất. Sẽ có bảy nhóm như thế hay bảy trung tâm được thành lập cho cuộc Huấn luyện huyền môn đích thực….Chỉ những người nào có khả năng rung động thích hợp mới gia nhập các nhóm này. (Nguồn: Tham Thiền Huyền Môn)
(Xem: Rối loạn Chia rẽ, Kích thích, Tích hợp và cách chữa trị )
Nguồn: Tổng hợp về cõi trí - thượng và hạ trí
+ Khám bệnh - Xác định vị trí mắc bệnh:
2. Nhóm trị liệu phải xác định đầy đủ các chi tiết về bệnh nhân, dựa theo những câu hỏi sau đây:
a. Bệnh nhân có những lối suy tư cơ bản nào?
b. Chính yếu là những hình tư tưởng nào đang bao bọc quanh y?
c. Màu sắc nào nổi bật trong thể tình cảm của bệnh nhân? Với mức độ rung động ra sao?
d. Bệnh nhân có đang bị một xáo trộn bất ngờ khiến cho toàn bộ thể tình cảm của y bị rối loạn không?
e. Y thường đề cập đến những vấn đề nào? Những quan tâm chính của y là gì?
f. Y thường nghiên cứu những loại sách báo gì?
g. Và thích theo đuổi những điều gì?
h. Tình trạng các luân xa trong cơ thể của y ra sao? Những luân xa nào đã được đánh thức?
i. Có luân xa nào đang quay trong phạm vi bề đo thứ tư không? Trong một trường hợp đặc biệt nào đó thì luân xa nào là chính yếu?
j. Tình trạng thể dĩ thái của bệnh nhân ra sao?
Nó có triệu chứng mất sinh lực hay bế tắc không?
Bệnh nhân có thiếu sinh lực không?
Ảnh hưởng từ lực của y đối với người khác như thế nào?
[244] Khi đã xem xét bệnh nhân theo tất cả các khía cạnh này rồi (chứ không sớm hơn), nhóm trị liệu mới quan sát chi tiết trong chính thể xác của y. Sau đó, khi đã có ý niệm về các tình trạng gây bệnh, nhóm sẽ nghiên cứu đến:
a. Tình trạng hệ thần kinh của bệnh nhân, đặc biệt lưu ý đến cột sống và tình trạng của luồng nội hỏa.
b. Tình trạng của các cơ quan trong cơ thể, nhất là cơ quan hay những cơ quan đang gây bệnh.
c. Cấu trúc cơ thể của bệnh nhân, xương, thịt và tình trạng của chất lỏng thiết yếu là máu.
Nhãn quan cao và sức khỏe.
Như các bạn có thể thấy, nhất thiết việc định bệnh này phải cần kiến thức khoa học trực tiếp, hoặc bằng cách khác là dùng nội nhãn thông để thấy được căn bệnh ở đâu, và có thể dùng nhãn thông quan sát toàn thân và các cơ quan, để định ngay được vị trí bệnh tật. Muốn có khả năng này cần phải phát triển các quyền năng nội tại để thu được kiến thức trong tam giới. Nhờ đó tránh được những sai lầm tai hại thường xảy ra trong việc thực hành y khoa hiện nay, gọi là thuật điều trị. Trong tương lai sẽ không còn nguy cơ sai lầm nhiều đến thế trong trị liệu. Thế nhưng, dù có thể tránh được các sai lầm này trong trường hợp điều trị thể xác, hãy còn lâu sự hiểu biết đầy đủ về thể tình cảm mới đến mức mà khoa học hiện đại đã đạt đối với thể xác. Việc chữa trị thể xác và sự hiểu biết hay nghiên cứu đúng đắn về thể xác có thể thực hiện được do một người có nội nhãn thông. Nhờ khả năng thấy được các cấp độ tình cảm, y có thể hợp tác với người [245] thầy thuốc sáng suốt hiện nay để giúp vị này khỏi bị sai lầm, xác định đúng tầm mức của cơn bệnh, nguyên nhân bệnh tật, phương tiện trợ giúp, và tiến độ trị liệu.
Bệnh tật của thể tình cảm biểu lộ trong thể xác, như phần lớn các bệnh thân xác của nhân loại hiện nay, thường có thể định bệnh và loại trừ được nhờ điều trị đúng. Nhưng đối với các bệnh ở thể tình cảm đã ăn sâu vào thể thanh này thì phải đối trị từ các cấp độ trí tuệ, vì thế phải cần người có nhãn thông thể trí để đối trị và tiêu trừ. Dĩ nhiên là tất cả những phương pháp này đều cần đến sự hợp tác hữu ý và tích cực của chính bệnh nhân.
Tương tự, bệnh tật của thể trí thì phải đối trị ngay từ cấp của thể nguyên nhân, cho nên cần sự trợ giúp của Chân nhân, và người đã có nhãn quan và tâm thức của thể này. Phương pháp sau cùng vừa kể và phần lớn các bệnh loại này còn lâu mới xảy ra cho nhân loại, nên ngày nay không mấy liên quan đến chúng ta. Tuy nhiên, việc trị liệu các bệnh của xác thân (bắt nguồn từ thể tình cảm) thì đã bắt đầu được biết và nghiên cứu đôi chút. Khi kết hợp nghiên cứu tâm lý học và thấu hiểu các loại bệnh thần kinh, y khoa sẽ tiến đến bước kế tiếp. Thể dĩ thái là thể nối liền thể tình cảm và thể xác. Bước kế tiếp là nghiên cứu thể dĩ thái theo hai lối, hoặc xem nó là bộ máy truyền dẫn prana, sức sống, sinh khí hay từ lực, hoặc là vận cụ nối liền bản tính tình cảm với xác thân. Thể xác triệt để tuân theo mệnh lệnh của bản tính này truyền qua thể dĩ thái.
Khi thành lập các nhóm trị liệu theo những điều kiện lý tưởng, vị trưởng nhóm phải là người có được tâm thức của thể nguyên nhân. Người này có thể đối trị được bất cứ bệnh tật nào trong thể trí, và có thể khảo sát được sự chỉnh hợp của [246] các thể với Chân nhân. Nhóm cũng sẽ bao gồm:–
a. Một người hay nhiều người có nhãn thông, thấy được thể thanh là thể tình cảm.
b. Một số người hiểu được phần nào các nguyên tắc căn bản của luật rung động. Họ có thể dùng quyền năng tư tưởng để áp dụng chính xác những sóng màu sắc trong một số cuộc trị liệu, và nhờ kiến thức khoa học mà đạt được những kết quả mong muốn.
c. Một thành viên của nhóm là người của ngành y để trị bệnh xác thân, dưới sự chỉ đạo của các nhà nhãn thônghữu thức. Vị này sẽ nghiên cứu sức đề kháng của cơ thể, sẽ áp dụng một số dòng mãnh lực, màu sắc, và rung động có tác dụng trực tiếp vào thể xác. Nhờ sự hợp tác của toàn nhóm mà các kết quả đạt được sẽ đáng gọi là phép lạ.
d. Trong nhóm cũng có một số người có khả năng thiền huyền môn, và nhờ năng lực tham thiền tạo nên đường dẫn hình phễu cần thiết để truyền các mãnh lực chữa trị của Chân ngã và Chân sư.
e. Ngoài ra trong nhóm cũng có người có thể ghi chép một cách chính xác mọi việc xảy ra, để làm hồ sơ và tài liệu học tập cho trường phái y khoa mới.
Tôi đang nói đến nhóm trị liệu lý tưởng. Hiện tại nhóm này chưa thể nào có được. Nhưng có thể khởi đầu bằng cách sử dụng bất cứ kiến thức và quyền năng nào có được trong những người đang tìm cách phụng sự chủng tộc mình và Chân sư
+ Tụng Mật Chú: Mật Chú có nhiều quyền lực trong việc chữa trị bệnh tật khi tụng bằng tâm chân thành, tập trung sâu sắc, và ý định chính đáng. Chú Đại Bi và Chú Phật Dược là hai ví dụ như vậy. Khi tụng, mỗi Mật Chú tạo ra số lượng công đức to tát và có tác dụng chữa bệnh và biến đổi tuyệt vời (Nguồn: Phật giáo với y học)
+ Chữa Bệnh Bằng Niệm Chú/ Thần Chú: Trong Phật kinh nói đến "niệm chú", đích thực đây là phương pháp rất cao minh. Khi bị bệnh, Phật dạy bạn niệm chú, chú vừa niệm thì bệnh liền khỏi. Chúng ta cảm thấy việc này rất thần kỳ, thần kỳ không ngờ, kỳ thật phương pháp này rất là khoa học, nó là dùng âm nhạc để chấn động, làm cho bộ phận không thông này của bạn được đã thông. Trong Phật kinh có rất nhiều chú ngữ dùng để trị bệnh, hiện tại chúng ta niệm không linh, là vì âm niệm không chính xác, cho nên việc này nhất định phải có truyền thừa, phải khẩu truyền. Âm không chính xác thì không đạt được hiệu quả. Ngoài ra âm lượng cần phải có lớn nhỏ, phải là lời rất chuẩn xác, thì nó sẽ chấn động một bộ phận nào đó trong nội tạng thân thể bạn. Phương pháp này của Phật còn cao minh hơn so với châm cứu Trung Quốc. Châm cứu còn phải dùng kim, còn phải dùng tay để xoa bóp, phương pháp của Phật không cần thiết như vậy, dùng âm thanh để chấn động. Phương pháp rất cao minh, rất đáng tiếc là văn tự chú ngữ này ghi chép còn ở trong Đại Tạng Kinh, nhưng không có người biết đọc, bị thất truyền, thế nhưng nó nói với chúng ta một chân lý, chân lý này chính là phải "quán thông" mới được.(Kinh Thập thiện- Tập 31 - PS Tịnh Không giảng)
+ Kết Ấn Trì Chú - THỦY CHÚ Chữa Bệnh:
+ Ví dụ Trì Chú: 6. Dược Sư Quán Đỉnh Chân Ngôn
namo bhagavate, bhaisaijya guru, vaiturya, prabha, rajaya tathagataya, arhate, samyak sambuddhaya, tadyatha. om bhaisạijye, bhaisaijye, bhaisaijya, samudgate svàhà.
Âm Việt:
Nam mô Bạc-già-phạt-đế, bệ sát xả lụ-rô, thích lưu-li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà gia, đát điệt tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
Dịch Nghĩa:
Quy mạng lễ Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác – Chân ngôn nói rằng: Xin Ngài hãy ban cho con thuốc diệt trừ bệnh Quả Báo, bệnh Nghiệp Ác, bệnh Kiến Tư, bệnh Trần Sa, bệnh Vô Minh để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.
Trich Xuất Xứ:
Kinh Dược Sư: Theo truyền thuyết, nếu ai có bịnh, chỉ chuyên nhứt tâm đọc thần chú này 108 biến để chú nguyện vào ly nước sạch rồi uống thì các bệnh đều tiêu trừ. Còn người nào chuyên tâm trì tụng trọn đời thì được không đau ốm, đến lúc mạng chung được vãng sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly bên Đông Phương của Phật Dược Sư.(Nguồn: Kinh Dược Sư)
+ Gia Trì Chữa Bệnh Cho Người Khác: Câu Hỏi 123: Làm thế nào để gia trì cho người bệnh?
Đáp: Nếu muốn trị bệnh cho người thì trước tiên hãy chữa bệnh cho chính mình rồi hãy nói? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Chữa bệnh bằng Chú Đại Bi: Chú Đại Bi tức là đại chú của tâm đại bi. Nó có thể thông thiên triệt địa. Nếu bạn có thể mọi ngày trì tụng 108 biến, liên tục trong suốt ba năm, thì sau đó bạn có thể dùng Chú Đại Bi để trị bệnh.
Lúc ấy, tay tới là bệnh trừ. Tôi biết về công hiệu của Chú Đại Bi. Hy vọng các bạn mỗi người dùng sức mạnh của Chú Đại Bi để vãng cứu hạo kiếp (tai ương, đại nạn) của thế giới, khiến cho người ta vĩnh viễn không còn tai nạn, và chánh pháp vĩnh viễn ở mãi trong thế gian. (Nguồn: Facebook Palmlien - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thần chú trị bệnh: .... Cũng có những câu chú dùng để trị bệnh và để mở các quan năng thần thông. Một số câu chú có tác dụng trực tiếp vào các luân xa của cơ thể, và sau này sẽ được sử dụng dưới sự hướng dẫn của Chân sư để tăng cường rung động, để tạo chuyển động theo bề đo thứ tư và để làm cho luân xa hoàn toàn linh hoạt. Còn có những câu chú khác tác động vào lửa tiềm ẩn trong con người, nhưng tôi sẽ đề cập sơ lược sau này. Có nhiều kinh sách ở Đông phương bàn về vấn đề này, một đề tài thật rộng rãi đến đỗi tôi khuyên các bạn nên thận trọng, đừng nên tìm kiếm quá nhiều vì làm thế chỉ phí thì giờ của người phụng sự thế gian. Tôi đã đề cập đến vấn đề này vì không quyển sách thiền nào đầy đủ nếu không đề cập đến những điều mà một ngày kia sẽ thay thế tất cả các phương pháp thiền sơ cấp. Khi nhân loại đã đạt đến một mức phát triển nào đó, và khi thượng trí có ảnh hưởng lớn lao hơn, thì các câu chú huyền bí này – được truyền dạy đúng đắn và xướng lên đúng đắn – sẽ là một phần trong chương trình học thông thường của người môn sinh. Y sẽ bắt đầu tham thiền bằng việc sử dụng câu thần chú thuộc cung y, vì thế mà điều chỉnh được vị thế của mình trong đại cuộc. Sau đó y sẽ dùng câu chú kêu gọi đến Chân sư y, và tạo sự hòa hợp với Đ.Đ.C.G.. Bấy giờ, y sẽ bắt đầu tham thiền với các thể đã được chỉnh đốn, và với khoảng chân không mà y tạo ra để làm môi trường thông đạt. (Sách: Tham thiền huyền môn_Thư 20.08.1920)
+ DƯỢC SƯ PHẬT GIA TRÌ DƯỢC VẬT TRỊ BỆNH PHÁP
Tu Pháp này, dùng 7 ngày, 21 ngày, hoặc 49 ngày làm một kỳ hạn. Mỗi ngày tu Pháp từ một đến ba lần. Nếu chuyên tu Pháp này dùng làm Thường Khóa (khóa tu hàng ngày) ắt công hiệu rất lớn
_Kính Lễ:
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (3 lần)
Nam mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát (3 lần)
Nam mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát (3 lần)
Nam mô Thập Nhị Dược Xoa Đại Tướng (3 lần)
_Cầu Nguyện:
Đệ Tử (họ tên là…) chí thành cầu xin Đức Đại Từ Đại Bi Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai với các Đại Thánh Chúng trong Dược Sư Hải Hội, chẳng trái ngược
với Bản Thệ, thương xót chúng hữu tình, gia trì vào thuốc này [hoặc thức ăn, hoặc nước sạch, hoặc người bệnh (họ tên là….)] khiến cho người bệnh (họ tên là…) với tất cả chúng sinh hữu tình trong Pháp Giới được tiêu trừ bệnh khổ, thân tâm mạnh khỏe, kéo dài thọ mệnh. (Nguồn: Kinh DƯỢC SƯ PHẬT GIA TRÌ DƯỢC VẬT TRỊ BỆNH PHÁP - Trang 200)
+ Chân lý về bất cứ sự vật nào là cách thức mà sự vật đó tự thị hiện (presents itself) trước Thái Dương Thượng Đế, tức là trước Đấng Tạo Lập (the Maker) của toàn bộ Thái Dương Hệ. (GLASTTĐ, 293)
+ Chân lý: ... Hy vọng rằng độc giả các bức thư này sẽ cố gắng làm hai điều:
1. Luôn luôn đọc với trí tuệ cởi mở. Xin nhớ rằng chân lý là viên kim cương nhiều mặt, và khi những vị Hướng đạo Nhân loại thấy cần đáp ứng một nhu cầu nào đó thì các phương diện khác nhau của chân lý sẽ xuất lộ vào những thời điểm khác nhau. Có nhiều sách thiền đã được viết ra, một số thì quá sâu xa, một số lại quá hời hợt, nên khó làm hài lòng người có học vấn trung bình. Rõ ràng tác giả các bức thư đã cố gắng đáp ứng nhu cầu khi trình bày một cách vắn tắt nhưng khoa học các yếu lý của thiền, nhấn mạnh đến mục tiêu trước mắt và những giai đoạn trung gian. (Nguồn: Sách Tham thiền huyền môn)
+ Cung 1 - Ý chí, Quyền lực: Y là nhà lãnh đạo bẩm sinh trong bất kỳ và trong mọi sự nghiệp công....; Y có thể là kẻ trộm hay vị thẩm phán lên án y, nhưng y luôn ở đầu.
- Áo choàng màu xanh của Ngài che đậy mục đích muôn đời của Ngài, nhưng trong lúc mặt trời mọc và lặn, thiên thể màu đỏ của của Ngài được nhìn thấy.
- Lời Ngài là quyền lực.
- Ánh sáng của Ngài là điện. Sét là biểu tượng của Ngài.
- Ý chí của Ngài ẩn trong dự định của tư tưởng Ngài. Không có gì được tiết lộ.
+ Các Đức tính và các Tật xấu EPI 201-2
- Các Đức Tính đặc biệt của Cung 1: Sức mạnh, lòng can đảm, sự kiên định, sự trung thực, phát sinh từ sự vô úy tuyệt đối, năng lực cai trị, là khả năng nắm bắt những vấn đề lớn theo cách thức nhìn xa trông rộng, và năng lực xử lý con người và các biện pháp.
- Các Tật Xấu của Cung: Tự cao, tham vọng, bướng bỉnh, cứng rắn, kiêu ngạo, ham muốn kiểm soát người khác, ngoan cố, giận dữ.
- Các Đức Tính phải có: Sự dịu dàng, khiêm tốn, sự cảm thông, lòng khoan dung, kiên nhẫn.
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung (Nguồn: Xem Bảy đấng kiến tạo bảy cung GQ1 ...)
+ Biểu lộ 3 ngôi chính:
Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, lập pháp, tính hợp pháp, công lý;
Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục;
Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... (CTHNM, 275)
+ Cung I: Luật Tuần Hoàn là một, nhưng vì nó dựa trên xung động ban đầu, và dựa trên nhịp đập của “trái tim trung tâm” hay “mặt trời trung tâm” của bất kỳ cơ thể nào (thái dương hệ, cơ chế hành tinh, chuỗi hành tinh, nhóm chân ngã hay đời sống chân ngã cá nhân).
- Năng lượng của Chủ Quản cung 1 vận hành qua Luật Tuần Hoàn. Năng lượng của Chủ Quản cung này mang đến cái chết của một con kiến hay của một thái dương hệ, một tổ chức, một tôn giáo, hay một chính phủ, một dạng giống dân hay một hành tinh. Ý chí hay mục đích của Ngài thể hiện qua Luật Tuần Hoàn. (EP I 65)
+ Vi phạm Định Luật Tuần Hoàn là một nguyên nhân của bệnh tật: Tôi muốn nói đến, trước hết, với tiền đề cơ bản rằng bệnh tật và trở ngại thể chất không phải là kết quả của suy nghĩ sai lầm. Một ví dụ thú vị của sự thất bại này là sự thật rằng con người không tuân theo Luật cơ bản về Nhịp Điệu, luật thống trị tất cả các quá trình trong tự nhiên, và con người là một phần của tự nhiên. Sự thất bại trong việc hoạt động theo Luật Tuần Hoàn chính là gây ra khó khăn nội tại trong việc sử dụng và lạm dụng kích thích tình dục. .... Trong thế giới hiện đại ngày nay, bắt đầu xuất hiện khắp nơi việc vi phạm những luật tinh thần này, đặc biệt là Luật Chu Kỳ, luật xác định thủy triều, điều khiển các sự kiện thế giới và cũng tác động đến cá nhân và thiết lập những thói quen nhịp điệu của đời sống - một trong những khuynh hướng thúc đẩy chính dẫn đến sức khỏe tốt.
Do phá vỡ Luật Nhịp Điệu, con người đã làm tan rã những mãnh lực mà nếu được sử dụng đúng đắn, sẽ giúp cơ thể khỏe mạnh; bởi làm thế, con người đã tạo nên nền tảng cho sự suy nhược tổng quan và những khuynh hướng hữu cơ nội tại mà chúng có khuynh hướng mở đường cho sức khỏe yếu và cho phép những vi khuẩn đi vào cơ thể, .... (EH 90)
+ Mười Thái Ðộ Tất Yếu Khi Bắt Ðầu Tu Hành - Thái độ sống đúng Chánh đạo: Sau đây là mười công-hạnh cần phải thực tập khi bắt đầu tu hành theo phương pháp Kinh Hoa Nghiêm. Mười công.hạnh này phát xuất từ mười tâm thái của bậc Thập Tín gồm: Nhẫn lại - Thân gần Thiện hữu - Cúng dường chư Phật - Tu tập thiện căn - Chí cầu thắng Pháp - Tâm thường nhu hòa - Từ Bi Thâm Hậu - Thân Tâm Bình đẳng - Ái lạc Đại thừa - Cầu Phật trí huệ (Nguồn: Thái độ tất yếu của người mới tu theo Kinh Hoa Nghiêm- HT Tuyên Hóa)
+ Tu hành Giải Thoát Khổ đau - Thoát khỏi khổ đau - Thoát khổ được vui là Pháp Tu giải thoát Luân hồi sinh tử:
Chết, ai ai cũng đều không thích chết. Vì sao ? Vì quan hệ đến khổ đau. Lại có khổ vì thương nhau mà xa lìa, ghét nhau mà thường gặp, cầu mà không được như ý, năm ấm luôn thay đổi hẩy hừng. Những loại khổ này đều gọi là khổ. Nay chúng ta tu hành nên phải dẹp trừ ba khổ, tám khổ, vô lượng khổ, nên gọi là độ thoát tất cả khổ ách.
"Độ qua khổ ải xuất luân hồi, (vượt qua biển khổ xuất luân hồi)".
Mọi khổ đều nằm trong biển khổ. Nếu chư vị vượt qua hết tất cả khổ ách thì chắc chắn sẽ thoát khỏi sáu nẻo luân hồi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, người, trời.
"Vũ tễ thanh tịnh nguyệt chánh huy, (mưa tạnh trời trong trăng sáng hiện)".
Khi ấy mưa tạnh tức là không còn hạt mưa nào hết. Bầu trời trong sáng. Trăng sáng hiển hiện. Mặt trăng trong không trung chiếu sáng. Năm ấm đều không. Không còn năm ấm giống như không còn mây, mưa. Bầu trời trong sáng, thanh tịnh. Trăng treo lơ lững, muôn dặm không áng mây. Cảnh giới này khiến chư vị phát sanh trí huệ chân chánh, chiếu sáng khắp cả, nhờ đó mà độ thoát qua hết tất cả khổ ách.
"Càn nguyên đạo thể nhân trung thánh, (Càn nguyên đạo thể thánh giữa người)".
Khi chứng sơ quả A La Hán, thân thể chư vị tràn ngập khí dương. Càn là số dương trong kinh dịch, nên gọi là càn nguyên. Đạo thể là thể chất của việc tu đạo. Trung nhân thánh là thánh nhân trong loài người.
"Bất hoại kim khu thế thượng hy, (vàng chẳng hoại diệt thế gian hiếm)".
Khi chứng sơ quả Tu Đà Hoàn, chư vị cắt đứt được tám mươi tám phần kiến hoặc. Thân thể chư vị bất hoại như vàng ròng, trên thế gian rất hiếm có.
"Thoát sanh hà thuận thiên niên dược, (thoát sanh tử cần chi thuốc tiên)".
Xưa, vua Thái Thủy (221-207 BC) đến đảo Bồng Lai tìm thuốc trẻ mãi không già, giải thoát sanh tử. Chư vị không cần thiết phải đi tìm thuốc trẻ mãi không già, chỉ nên độ thoát hết tất cả khổ ách. Khi đó muốn sống thì sống, muốn chết thì chết. Chết sống do tự chính mình. Vua Diêm La không thể cai quản được, giống như tổ Bồ Đề Đạt Ma.
"Chứng diệt khải thị vạn kiếp kỳ, (chứng diệt đợi chi muôn kỳ kiếp)".
Pháp bốn diệu đế : Khổ, tập, diệt đạo. Khi chứng đắc diệt đế thì thành đạo, đắc vô dư Niết Bàn, không đợi trải qua tám muôn bốn ngàn kiếp, mà mau chứng đắc vô dư Niết Bàn.
"Nhị tử vĩnh vong ngũ trụ tận, (hai chết mất hẳn năm trụ diệt)".
Chư vị chứng đến độ thoát tất cả khổ ách, vượt khỏi vòng luân hồi, đắc được thân kim cang bất hoại. Khi ấy nhị tử mãi không mất. Sao gọi là nhị tử ? Có phải là chết hai lần không ? Không phải là chết hai lần mà là hai lần chết. Một lần là phần đoạn sanh tử. Một lần là biến dịch sanh tử. Gọi là hai lần chết.
Khi chứng quả A La Hán thì cắt đứt phần đoạn sanh tử.
Khi chứng quả vị Bồ Tát mới cắt đứt biến dịch sanh tử.
Nay, Bồ Tát Quán Thế Âm đã cắt đứt được biến dịch sanh tử. Chữ vong (mất), đây không phải là tử vong (chết mất). Trong sách đại học nói :" Nhi kim vong hỷ (như nay mất rồi)". Chữ 'vong' đọc là không. Chúng ta có thể đọc là vong, hay không cũng được, không cần giảng giải.
Hai loại chết này đều không.
"Ngũ trụ tận (tận hết năm trụ)". Nghĩa là năm trụ phiền não. Chúng là gì ?
Thứ nhất, kiến trụ phiền não, là trụ ái kiến.
Thứ hai, trụ ái dục.
Thứ ba, trụ sắc ái.
Thứ tư, trụ vô sắc ái.
Thứ năm, trụ vô minh ái.
Vì năm trụ ái này mà chúng ta sanh chấp trước, biến thành năm loại phiền não.
Bồ Tát Quán Thế Âm dẹp trừ hết năm loại phiền não này.
"Tiêu diêu pháp giới nhậm đông tây, (dạo chơi pháp giới khắp đông tây)".
Tiêu diêu có nghĩa là tự tại. Tự tại cũng là tiêu diêu. Tiêu diêu cũng là tự do. Tự do, nghĩa là an lạc, sung suớng. Sao an lạc sung sướng ? Vì có thể tùy tiện đi nơi này nơi nọ. "Nhậm đông tây", nghĩa là nếu chư vị muốn qua cõi tây phương cực lạc thì tùy ý mà đi. Muốn qua cõi đông phương Tịnh Lưu Ly Phật thì cũng có thể đi. Muốn đến cõi Ta Bà thì không thành vấn đề, cũng không cần hộ chiếu do tòa lãnh sự sứ quán cấp. Không có những thủ tục rườm rà. Nếu muốn đi thì cứ đi, nên gọi là tiêu diêu pháp giới. Pháp giới không phải chỉ trong vòng, đông tây, nam, bắc, mà cả trên dưới, mười phương. Chư vị muốn đi đến đâu thì đều được hoan nghinh khi đến những nơi đó. Không phải nói là muốn đi đến nơi kia, nơi kia không hoan nghinh tiếp đón chư vị, không cho nhập cảnh. Muốn đến nơi nào cũng được hết. Tiêu diêu pháp giới nhậm đông tây. Chư vị thấy cảnh giới này có an lạc lắm không, tự do lắm không ! Tiêu diêu, tự do, đó là tánh pháp giới chân chánh bình đẳng. Khi hai lần chết và năm trụ đều tận diệt thì đắc được tự do. Đó là tự do chân thật, an lạc chân thật, bình đẳng chân thật, và tiêu diêu chân thật. (Nguồn: Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh -1- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu giải thoát: Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp và không hòa hợp, thì diệt trừ được các nhân sinh tử, đó chính là tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt, chính là chân tâm bản giác thanh tịnh thường trú.
Giảng:
Đối với chánh báo thì trải qua các tiến trình sinh, lão, bệnh, tử. Con người cần 20 năm để sinh ra lớn lên, 20 năm để học tập trưởng thành, 20 năm bệnh và già yếu, 20 sau cùng họ tiến dần đến cái chết.
Có hai loại sinh tử: phần đoạn sinh tử– sự sống chết, sinh diệt của xác thân– và biến dịch sinh tử. Thuật ngữ phần đoạn sinh tử xuất phát từ thực tế là mỗi người đều có một thọ mạng riêng và mỗi người có một thân tướng khác nhau. Chẳng hạn, chiều cao của quý vị có thể là 5 feet[73] 6 inches, và chiều cao của tôi là 5 feet 9 inches, trong khi người khác thì cao 3 feet. Mọi người đều có một thân tướng khác nhau. Hàng phàm phu là đối tượng của phần đoạn sinh tử.
Các vị thuộc hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, đã chấm dứt được phần đoạn sinh tử, nhưng họ vẫn còn trong vòng biến dịch sinh sinh tử.
Thế nào là “biến dịch sinh sinh tử?” Có nghĩa là niệm này kế tiếp niệm khác sinh khởi mãi không dừng. Niệm niệm kế tiếp sinh khởi, niệm niệm kế tiếp hoại diệt.
Nhân của sinh tử chính là vô minh, duyên của sinh tử chính là nghiệp thức. Khi nhân – vô minh, và duyên –nghiệp thức nầy hòa hợp với nhau thì có sinh tử. Như Đức Phật dạy trong kinh nầy:
Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp–sự hòa hợp của nhân vô minh và duyên nghiệp thức–và không hòa hợp– và sự kết hợp của bất kỳ các nhân duyên không hòa hợp – thì diệt trừ được các nhân sinh tử. Khi ấy quý vị thóat khỏi phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử.
Đó chính là tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt. Khi xa lìa sạch mọi nguyên nhân sinh tử thì quý vị đạt được quả niết-bàn vi diệu, tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt.
Đó chính là chân tâm, là bản tánh giác ngộ thường trú không sinh không diệt: nghĩa là Tự tánh. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q2 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tinh hoa của lửa [2 nhóm: Hỏa tinh linh - Hỏa thiên thần]:
3. Lửa thiết yếu hay Hoả hành khí: Chính chúng sẽ là tinh hoa của lửa. Phần lớn, chúng được chia thành 2 nhóm:
a. Hoả thiên thần (Fire devas) hay các thực thể tiến hoá thăng thượng.
b. Hoả tinh linh (Fire elementals) hay các thực thể tiến hoá giáng hạ
+ Tất cả các Hành khí (Hỏa Tinh Linh) và Thiên thần này đều ở dưới sự kiểm soát của Hoả Tinh Quân, tức là Agni. (LVLCK, 70)
* Bản chất của các Hành khí biết suy tư
+ Hỏa Tinh Quân - Agni (Lửa của vật chất): Cai quản khắp các hoả tinh linh và hoả thiên thần trên 3 cõi tiến hoá nhân loại là hồng trần, cảm dục và hạ trí, và thống ngự chúng không những trên địa cầu này mà còn trên 3 cõi giới trong mọi phần của Thái dương hệ.
"Hỏa Tinh Quân" Ngài là 1 trong số 7 Huynh Đệ, mỗi vị tượng trưng cho một trong 7 nguyên khí hay chính các vị là 7 trung tâm lực trong cơ thể của Hoả Tinh Quân vũ trụ mà bà Blavatsky gọi là “Fohat”, Ngài là Đấng Thông Tuệ linh hoạt của lửa, là cơ bản của các lửa bên trong của Thái dương hệ. Mỗi một trong số các Đấng này thống ngự trên mỗi cõi và 3 vị Huynh Trưởng (luôn luôn là 3 vị hiển lộ và sau đó là 7 vị, các Ngài rốt cuộc sẽ phối hợp thành 3 nguyên thuỷ) ngự trị trên cõi 1, 3, và 5 hay là trên cõi Tối Đại Niết Bàn (adi), cõi Niết Bàn (atma) (1) và cõi trí (manas). Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng các Ngài là lửa được xét trong trạng thái thứ 3, tức lửa của vật chất. Trong toàn thể của các Ngài, 7 Đấng này hợp thành tinh hoa của Tinh Quân vũ trụ mà các sách huyền linh gọi là Fohat (LVLCK, 85)
+ Phân hóa khi biểu lộ: Mỗi 1 trong số 7 Hoả Tinh Quân này được phân hoá ra thành nhiều nhóm hoả thực thể, từ các Thiên Thần Tinh Quân (Deva-Lords) của một cõi giới xuống đến các hoả tinh linh (Tinh Linh Tinh Quân) nhỏ bé của các lò lửa trong nhà (LVLCK, 87).
+ Hỏa Tinh Quân: Một trong các Đại Huyền Giai có các Đấng Tinh thần đang hướng dẫn Thái Dương Hệ. Các Ngài nắm quyền điều khiển cuộc tiến hóa của nhân loại trên hành tinh này cách đây khoảng 18 triệu năm, vào giữa giống dân Lemuria hay căn chủng thứ ba. (ĐĐNLVTD, 220)
+ Khi bậc điểm đạo đồ nỗ lực mở rộng tâm thức của mình, khi anh ta học được cách ổn định tâm thức mình trong Tam Nguyên Tinh Thần, khi đó anh ta trở thành một phần của nỗ lực huyền giai vĩ đại và liên tục hướng đến “Nơi của Ánh Sáng Điện Quang Minh,” ánh sáng lạnh (ví như Trăng hiện trên đỉnh đầu khi thiền định thanh tịnh) minh bạch của lý trí, là chìa khóa đầu tiên của cánh cửa đầu tiên.(CCVĐĐ/ RI 139)
Xem: Tổng hợp về Hỏa Tinh Quân - Fohat - Năng Lượng
+ Ðời Người Như Giấc Mộng, Hãy Thức Tỉnh: Tại thế giới này con người lại buông cái chân thật để nắm giữ cái giả dối, do đó đời đời kiếp kiếp quay lưng với sự giác ngộ để hoà hợp với bụi trần, túy sanh mộng tử. Túy sanh có nghĩa rằng trong lúc sống thì như kẻ uống rượu say, không biết mình từ đâu sanh về đây. Mộng tử có nghĩa rằng đến lúc chết thì như kẻ đang nằm mộng, không biết chết sẽ về đâu. Ai ai cũng sống trong mộng. Lấy cái giả mà cho là thật, ham danh ham lợi, lòng tham không bao giờ ngừng dứt.
Ở trong mộng thì bạn thấy mình làm quan, hoặc phát tài, hoặc có địa vị, quyền lợi, danh dự, hoặc có vợ đẹp thiếp xinh, con cái đầy nhà, vinh hoa phú quý, hưởng thọ không hết. Giả như trong lúc mộng ấy mà có người nói với bạn rằng: "Ông ơi! đây chỉ là hư vọng thôi, không phải thật đâu," thì bạn sẽ chẳng bao giờ tin. Chờ đến khi bạn tỉnh dậy rồi thì chẳng ai nói với bạn là bạn đã nằm mộng, bạn cũng biết rõ là mình vừa trải qua một giấc chiêm bao.
Ðêm qua nằm mộng thấy đậu trạng nguyên, làm tể tướng, làm hoàng đế, thành thần tiên, hạnh phúc vô cùng. Ngày hôm nay tỉnh lại: "Ôi! Tất cả chỉ là một trường xuân mộng!" (xuân mộng tức là giấc mộng rất ngắn ngủi). Ðó là sự tỉnh thức. Nếu không tỉnh mà chọn mộng là thật, thì sẽ tham luyến, không buông bỏ, chấp trước sự mê mờ, và chẳng bao giờ được giác ngộ. Bây giờ mình chính là đang chiêm bao giữa ban ngày mà chưa thức tỉnh, do đó sống một cách hồ đồ, rồi cũng hồ đồ mà chết đi. Sanh ra đây là từ đâu tới? Chết rồi mình sẽ đi đâu? Không biết! Cả một đời chẳng bao giờ tỉnh. Các vị hãy nghĩ xem, như vậy thì có ý nghĩa gì? Có gì mình phải lưu luyến? Có gì đáng để mình không buông bỏ tất cả ?
Cả đời mình đều bị sợi dây tam độc và ngũ dục trói buộc vô cùng chặt chẽ đến nổi không có tự do để chuyển hóa bản thân, thì đừng nói chi đến chuyện giải thoát. Do đó bạn phải phát tâm xuất gia tu đạo, dụng công ngồi thiền, nên lễ lạy Phật, tức là mình tự cởi mở sợi dây tam độc và ngũ dục, cuối cùng sẽ có một ngày sẽ được hoàn toàn giải thoát. Lúc ấy mình sẽ thức tỉnh, quay đầu nhìn lại những điều mình đã làm trong quá khứ đều hoàn toàn như ảo mộng, tất cả đều chẳng phải là chân lý. Nay thức tỉnh rồi mình mới thoát ra khỏi vòng tam giới, không còn bị hạn chế trong sanh tử, tự do muốn sanh thì sanh, muốn chết thì chết, tự do tới và đi theo ý mình. Ðó mới là chơn chính giải thoát, đó là: "Ðại mộng sơ tỉnh" vậy.
Thói thường chúng ta cứ giữ chặt cái hư giả dối trá mà quên mất cái chân thật. Thế nào là cái hư giả dối trá? Chính là sự khoái lạc sung sướng của ngũ dục: tài sắc danh thực thùy. Thế nào là cái chân thật? Tức là sự sung sướng của Niết-bàn ở trong bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Song lẽ con người rất quái lạ, điều chân thật mất đi thì không sợ, nhưng khi điều giả dối mất đi thì lại sợ hãi vô cùng. Vì sao vậy? Bởi vì người đời ai cũng nhận giặc làm con, bỏ gốc chạy theo ngọn, lấy cái giả cho là thật, không thức tỉnh, do đó vẫn còn trong mộng, tham luyến cảnh giới của giấc chiêm bao.
Bởi do nhân duyên mình dấy khởi sự mê mờ, tạo ra ác nghiệp rồi thọ sự báo ứng, giống như một hạt bụi bay lượn trên không trung, không tự làm chủ mình được. Hạt bụi ấy cứ tùy theo nghiệp lực rồi luân chuyển trong lục đạo luân hồi không lúc nào ngừng nghỉ. Cho nên nói rằng: "Ðả bất phá danh lợi quan, khiêu bất xuất luân hồi khuyên," nghĩa rằng đánh không sập cửa danh lợi thì nhảy không thoát vòng luân hồi. Ðến lúc nào bạn không bị cảnh giới làm động tâm, lúc ấy bạn mới thoát ly khỏi cái vòng lục đạo luân hồi. (Nguồn: Đời người như mộng)
+ Kiếp con người: Đối với chánh báo/ Thân người thì trải qua các tiến trình sinh, lão, bệnh, tử. Con người cần 20 năm để sinh ra lớn lên, 20 năm để học tập trưởng thành, 20 năm bệnh và già yếu, 20 sau cùng họ tiến dần đến cái chết. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q2 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Giải thoát - Đức Phật dạy: Là giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
+ Giải thoát: Đối với nhân loại, cái huyền nhiệm của sự giải thoát nằm trong việc làm cân bằng các mãnh lực và làm quân bình các cặp đối hợp. Thánh đạo là con đường hẹp giữa các cặp đối hợp này mà người tìm đạo phải tìm ra và bước lên, không rẽ sang phải, cũng không sang trái. (LVHLT, 225)
+ Phật nói với Ðịa Tạng Bồ Tát: ‘Hết thảy chúng sanh chưa được giải thoát thì tánh thức không định, quen làm điều ác thì kết thành nghiệp, quen làm điều thiện thì kết thành quả; làm thiện làm ác đều theo cảnh mà sanh, luân chuyển trong Năm Ðường, chưa từng ngưng nghỉ, trải qua trần kiếp, mê hoặc chướng nạn.
- Giải: Là nói về phiền não, phiền não chẳng giải trừ, thuật ngữ ngày nay gọi là „giải phóng‟, phiền não chưa được giải phóng.
- Thoát là nói về sanh tử, sáu nẻo luân hồi, bạn chưa thể thoát khỏi sáu nẻo luân hồi. "Tánh thức vô định‟, "Tánh‟ là tâm tánh, "Thức‟ là phân biệt, chấp trước; chẳng định, biến đổi quá lớn, niệm trước vừa diệt, niệm sau liền sanh, chẳng nhất định tiếp nối, thường thường thay đổi chủ ý, như vậy gọi là "tánh thức vô định‟. Trong hết thảy ý niệm, Phật quy nạp thành 3 loại lớn: "thiện, ác, vô ký", là ba loại này. Thiện và ác là tạo nghiệp, vô ký là vô minh, cũng chẳng phải là việc tốt, chúng ta hiểu vô ký cũng tạo nghiệp. Vô ký tạo nghiệp gì? Nghiệp hồ đồ, vô minh hồ đồ, chẳng có trí huệ.
- Ác tập kết nghiệp‟, đã tạo ác nghiệp thì tương lai phải thọ ác báo.
- Thiện tập kết quả‟quả‟ là nói về thiện báo, phước báo nhân thiên, nhà Phật gọi là tiểu quả.
Câu „Vi thiện vi ác, trục cảnh nhi sanh‟ là nói một người tại sao lại tạo thiện, tại sao tạo ác? Gặp duyên khởi hiện hành. Thiện, ác là hạt giống chất chứa trong A Lại Da Thức, hạt giống tập khí vĩnh viễn sẽ không tiêu mất, một khi gặp duyên nó sẽ khởi lên. Gặp ác duyên liền moi tập khí ác đem ra, gặp thiện duyên thì hạt giống thiện sẽ khởi lên, tự mình chẳng thể làm chủ, chẳng thể khống chế, thường gọi là chẳng có định lực, chẳng có trí huệ.
* Trí huệ là quán sát minh liễu, định lực là chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc, phải đến cảnh giới này thì con người mới không tạo nghiệp. Trích: A DI ĐÀ PHẬT-KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN tập 10- LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG GIẢNG GIẢI.
+ Thuật ngữ giải thoát - “liberation”: Thực ra có hàm ý năng lực của bất cứ nguyên tử hữu thức nào khi ra khỏi một lĩnh vực có ảnh hưởng về năng lượng vào một lĩnh vực khác có rung động cao hơn, có phạm vi nhận thức của tâm thức rộng lớn hơn (Định luật Phát xạ).
+ Quy trình Tu để đạt được thành tựu Giải thoát: Đó là, người thiện liền có đủ sự gần gũi thiện tri thức => Liền có đủ sự nghe điều thiện. Có đủ sự nghe điều thiện liền có đủ tín. Có đủ tín liền có đủ chánh tư duy. Có đủ chánh tư duy liền có đủ chánh niệm chánh trí. Có đủ chánh niệm chánh trí mới có đủ sự thủ hộ các căn. Có đủ sự thủ hộ các căn liền có đủ ba diệu hành. Có đủ ba diệu hành liền có đủ bốn niệm xứ. Có đủ bốn niệm xứ liền có đủ bảy giác chi. Có đủ bảy giác chi liền đầy đủ minh giải thoát. Như vậy, minh giải thoát này lần lượt được thành tựu toàn vẹn. Mục 369- (Trung A Hàm, Kinh Thực, Phẩm 5, số 52)
+ Nhiệt (heat): Các nội hỏa làm linh hoạt và đem lại sinh lực, tự biểu lộ theo 2 cách:
- Thứ nhất là tiềm nhiệt. Đây là nền tảng của chuyển động quay và là nguyên nhân của biểu lộ cố kết của dạng hình cầu của mọi sự sống, từ vi tử của Thượng Đế, vòng giới hạn của thái dương, xuống đến nguyên tử nhỏ nhất của nhà hóa học hoặc nhà vật lý học.
- Thứ hai là hoạt nhiệt. Điều này đưa đến kết quả là sự hoạt động và thôi thúc hướng tới của công cuộc tiến hóa vật chất. (LCVCK, 41–42)
+ Diễn tả hiệu quả các hỏa thực thể (Lửa bên trong vật chất, VD: Trong Thái dương hệ, trong hành tinh, trong con người gồm có
+ 3) với môi trường bao quanh là: NHIỆT VÀ PHÁT XẠ (LVLCK, 70)
+ X. Phát xạ. Bức xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình thành toàn (process of accomplishment). (TBĐC, 148)
+ Phát xạ - Phóng quang - Khí: ..... các môn sinh nên nhớ rằng trong tất cả những gì liên quan đến sự phát xạ, (Phật giáo gọi là phóng quang, Đạo giáo gọi là Khí trong Tinh - Khí - Thần_HT Tịnh Không) giống như trong mọi hiện tượng khác, sẽ có những giai đoạn im lìm, và những giai đoạn hoạt động mãnh liệt. Điều này sẽ được thấy khá rõ ràng liên quan với GIỚI THỨ TƯ của thiên nhiên. (LVLCK 2, 1078)
+ Phát xạ (Bức xạ, Radiation): Phát xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình hoàn thành. Chuyển hóa vốn là sự giải thoát của tinh chất ngõ hầu nó có thể tìm được một trung tâm mới, tiến trình có thể được hiểu như là tính chất phóng xạ, hiểu theo mặt chuyên môn và áp dụng cho tất cả các thể nguyên tử, không trừ một thể nào. Chỉ gần đây, khoa học mới biết đến chất radium (một thí dụ của tiến trình chuyển hóa) chỉ là lỗi lầm của khoa học. Khi điều này được hiểu rõ hơn, người ta sẽ thấy rằng mọi bức xạ, như là từ lực (magnetism) hay phóng phát tâm thông chỉ là diễn trình chuyển hóa đang tiến hành trên một mức rộng lớn. Ở đây, điểm cần phải hiểu là tiến trình chuyển hóa khi có hiệu quả, nhìn theo bề ngoài, là kết quả của các yếu tố bên ngoài. Về căn bản thì đó là kết quả của hạt nhân tích cực bên trong của mãnh lực hay sự sống đang đạt tới một mức rung động khủng khiếp đến nỗi sau rốt, nó phân tán các điện tử hay các điểm âm (negative points) vốn tạo thành khối cầu ảnh hưởng của nó và phân tán chúng ở khoảng cách xa đến mức mà Định luật Đẩy chi phối. Bấy giờ, chúng không còn bị hút vào trung tâm ban đầu nữa mà tìm kiếm một trung tâm khác. Khối cầu nguyên tử, nếu tôi có thể nói như thế, tan rả ra, các điện tử chịu ảnh hưởng của Định luật Đẩy, tinh chất trung ương thoát ra và tìm kiếm một khối cầu mới, hiểu về mặt huyền linh. (LVLCK, 478)
+ Định luật Phát xạ: Một ĐL quan trọng, chi phối mọi nguyên tử tiến hóa Sinh ra - Phát triển - Hoàn nguyên. Phát xạ là sự chuyển hóa trong tiến trình hoàn thành. Chuyển hóa vốn là sự giải thoát của tinh chất ngõ hầu nó có thể tìm được một trung tâm mới, tiến trình có thể được hiểu như là tính chất phóng xạ, hiểu theo mặt chuyên môn và áp dụng cho tất cả các thể nguyên tử, không trừ một thể nào.
Mặt trăng là một thí dụ lý thú của tiến trình chuyển hóa hay là tiến trình giải phóng được hoàn tất thực sự trong một bầu: sự sống chính yếu của giới nhân loại đã triệt thoái và đã tìm thấy một lĩnh vực biểu lộ mới. Mọi sự sống động vật cũng được hấp thụ bởi một trung tâm vĩ đại hơn trong một dãy khác. Một cách thực tế, cùng một sự việc cũng có thể được nói về giới thực vật trên mặt trăng mặc dù có một vài các hình thức thấp kém của sự sống thực vật (thuộc một loại mà chúng ta không thể nhận biết được) vẫn còn được tìm thấy ở đó. Trong khi giới khoáng chất bị phóng xạ và tinh hoa của mọi hình hài khoáng chất đang nhanh chóng thoát ra.(Nguồn: Định Luật Phát Xạ / Bức xạ)
+ Đạo Giáo Tu Thân Tâm Hợp nhất:
Đạo giáo hồi xưa nghĩ tới bùa chú, mê tín ..v.v... Đến thời ông Trương Bá Đoan là một người trong văn hóa khai mở; và ông nói “không”, không phải bên ngoài đâu, mà là bên trong Đạo Giáo với phái Tu Thân Tâm hợp nhất có thuật ngữ rất quan trọng, là “Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, và luyện Thần nhập hư”. Đó là cái phương thức làm sao luyện sức nóng trong người mình, luyện sức nóng để trở thành một cái năng lượng nội tại gọi là Energy. Sức nóng này hội tụ kinh khủng lắm. Cái Tinh là sức nóng bên ngoài thôi, nhưng khi mà nó chuyển thành nội tại thì rất là mạnh. Sức nóng lên tới Solar Plexus, từ đó nó chuyển hóa lên trên đỉnh đầu của mình. Gọi là “Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí nhập Thần”. Thần là đỉnh đầu, trên đó có chỗ gọi là cung Ni Hoàn, Ni Hoàn là chữ mà họ mượn từ kinh điển Phật giáo, Nirvana là Ni Hoàn. Từ đó mình bắt đầu nhập hư, nhập hư là tới chỗ bất nhị. Tức là quá trình tu luyện đó là không còn là bên ngoài nữa các Bác, và nhất là họ nói thêm một câu rất là đặt biệt nửa gọi là: “Ngũ Khí Triều Nguyên”, là năm cái năng lượng trong Tâm, Cang, Tỳ, Phế, Thận. Tu làm sao trở về gốc gác của nó. Gốc gác của nó chính là Tâm linh. Do đó họ thiết lập ra được cái quan hệ giữa thân và luyện thân này như thế nào để mà khắc phục cái Vọng Tâm và đạt tới cái Chân Tâm. Đó là một sự phát minh độc đáo nhất ở trong văn học của Đạo giáo; và ảnh hưởng đó lan truyền ra khắp mọi nơi; đi vào trong Phật giáo. Vì thời Tống bắt đầu chịu ảnh hưởng rất lớn về cái dụng từ, dụng ngữ. Cái chữ Đạo, là cái chữ thuần túy của những người Đạo giáo được áp dụng extensively trong kinh điển nhà Phật.
Khi ngài Trương Bá Đoan này chết, có ngài Trương Bá Đoan, gọi là “Hậu Sinh Khả Úy”, là ông Vương Trùng Dương, là một nhân vật tu luyện rất là thâm sâu vô cùng, người dạy tất cả đệ tử làm sao mà năng lượng của ngũ tạng trong người của mình phải hội tụ lại - Là hài hòa lại. Ông nói như thế này: “Cái Tâm của mình là cái nhà của cái Thần, là cái Spririt; cái Gan là cái nhà của cái Hồn, gọi là cái Soul; cái Thần là cái nhà của Tinh, là Vitality; cái Phổi là cái nhà của Phách, có nghĩa là communicative, community đó, communicative là liên lạc, liên hệ, community là một cái tập thể; và cái Tỳ là cái năng lượng của Ý chí, hay là Will power.” Ông nói rằng tất cả những năng lượng đó, làm sao mà hội tụ lại, trở về nguyên bản của nó, trở lại lúc nó chưa có phân ra làm năm. Khi mà bản chất của 1 phân ra làm 5 trở thành năm cái loại khí trong Tâm, Cang, Tỳ, Phế, Thận. Tu một hồi rồi, thì năm cái năng lượng Tâm, Cang, Tỳ, Phế, Thận này nó hội tụ lại thì cái Chân Tâm nó sẽ hiển hiện ra.
Đó là triết lý căn bản nhất của người Đạo giáo, gọi là Internal Alchemy, có nghĩa là sự tu luyện chuyển hóa nội tại, và đó là một bước cách mạng của Đạo giáo. Rất tiếc là sự cách mạng đó không được giữ cho tới ngày hôm nay nửa. Các Bác biết là Đạo quan không phải bùa chú, thì cũng là thần thông quảng đại, nói những chuyện trên trời, dưới đất, mê tín và đồng thời từ từ người ta không còn biết cách làm sao “luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần nhập hư”. Và người ta đã quên cách làm sao mà cho ngũ tạng hội tụ chân khí, gọi là Quy Nguyên, cho nên ông Trương Bá Đoan, ông viết một cuốn sách gọi là “Ngộ Chân”, ngộ chân nghĩa là giác ngộ Chân tánh của mình; là điểm chính của con đường này.
Ông Vương Trùng Dương sáng lập ra một phái gọi là Toàn Chân, mình dịch ra tiếng Mỹ gọi Complete Reality. Phái này dạy cho con người mình thức tỉnh, chứ không có mê muội. Rất tiếc là câu chuyện của Kim Dung làm cho mình nghĩ rằng là phái Toàn Chân này chỉ là phái võ nghệ lung tung hết, và là phái ở gần phái Cổ Mộ của cô Tiểu Long Nữ, thật ra đó chỉ là chuyện giả sử thôi, nhưng mà sự thật ông Vương Trùng Dương là một người rất là độc đáo ở trong Đạo gia, và đã làm một cách mạng rất lớn, đào tạo rất là nhiều người đi theo con đường chính đạo.
Hôm nay nói rằng sự kết hợp của Thân và Tâm không phải Phật giáo mới có mà thôi, mà chính trong Đạo giáo đã nói rồi. Trong nhà Phật, thì mình nói là mình phải ngồi tỉnh lặng, để mà mở ra từng tầng ánh sánh, xuyên phá từng tầng ánh sáng, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Còn bên Đạo giáo thì nói rằng hãy để cho năm khí trở lại nguyên dạng của nó gọi là “Ngũ Khí Triều Nguyên”. Tất cả đều nói tới cái connection, cái liên hệ giữa Thân và Tâm. Nghĩa là nếu mình không chuyển hóa cái Thân thì mình không có cơ hội chuyển hóa cái Tâm đâu. Vì cái Tâm nó vững và không nghe lời mình đâu. Cho nên muốn vậy, chúng ta phải tiên học lễ, hậu học văn. Phải làm sao hiểu được cái lễ nghĩa để cho mình đừng có chạy sai đường và mình phải làm sao tu cái thân, cái năng lượng trong thân xác mình, chuyển hóa như thế nào đó để cho mình càng ngày càng có dương tính, càng ngày càng hướng thiện hơn, chứ không phải là cái năng lượng chỉ ích kỷ mà thôi. Đạo Phật hay một chổ là cái năng lượng thân thể mình có, thì mình chia sẽ với chúng sanh để mình phát triển lòng vị tha. (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
7.5. Định luật Phát xạ (Law of Radiation): Đây là định luật lý thú nhất trong các định luật vì nó chỉ hoạt động liên quan tới các kiểu mẫu cao nhất của các giới khác nhau, và chính nó có liên quan với sự thu hút mà một giới cao trong thiên nhiên sẽ có đối với các sinh linh cao nhất của giới thấp kế tiếp. Nó chi phối tính phóng xạ (radio activity) của các khoáng chất, các phát xạ của giới thực vật và (khá kỳ lạ) toàn bộ vấn đề về mùi thơm. Khứu giác là giác quan cao nhất trong số các giác quan thuần túy hồng trần; thế nên, trong giới thực vật, một loạt các mùi thơm nào đó là bằng chứng về sự phát xạ trong giới đó.
* Định luật này là Định Luật phụ của Định luật Hấp dẫn (Law of Attraction): Định luật hấp dẫn là định luật về lửa, lửa này được tạo ra do sự phối hợp trong lúc tiến hóa của hai cực… (LVLCK, 1168–1173).
+ Lưu ý quan trong khi ứng dụng ĐLPX (Nguyên tử Dương trong 01 Hình thể, khi tiến hóa đủ điều kiện thì "Bỏ/ hình hàì của chính nó => Thoát ra" để tiến hóa thành Thực thể độc lập => Chuyển thành Âm với "Thực thể Mẹ/ Lớn hơn = Dương thôi thúc nó làm thế ... Tiến trình lặp lại mãi trên đường tiến hóa ở bất kỳ Swh sống Hình hài của bất kỳ Giới nào trong thiên nhiên): .... Sự phóng xạ xảy ra khi sự sống độc lập bên trong của bất cứ nguyên tử nào bị hóa giải bởi một thôi thúc mạnh mẽ, hoặc sự lôi kéo, xuất phát từ sự sống vĩ đại hơn đang bao bọc của cơ thể mà nó có thể hợp thành một phần. Tuy thế, điều này chỉ đúng khi nó được tạo nên bởi sự lôi cuốn dựa vào sự sống chủ yếu bởi sự sống cơ bản của hình hài vĩ đại hơn; nó không do mãnh lực thu hút của khía cạnh hình hài của sự sống vĩ đại hơn đó. Một sự phân biệt rất rõ rệt cần được tạo ra ở đây. Chính việc không nhận ra điều này đã đưa rất nhiều nhà nghiên cứu hóa học và nhà khảo cứu khoa học mất phương hướng và thế là đảo ngược/ làm tiêu tán các kết luận của nhiều năm nghiên cứu. Họ lẫn lộn sự thôi thúc của nguyên tử khi đáp ứng với lực hút do rung động từ điển của hình hài mạnh mẽ và có khả năng lĩnh hội hơn với sức lôi cuốn huyền bí đích thực mà một mình nó tạo ra “bức xạ huyền linh” (“occult radiation”), – bức xạ của sự sống cốt yếu ở trung tâm của hình hài mà yếu tố ở dưới sự xem xét có thể có vị trí trong đó. Minh giải việc này ngay từ lúc đầu là điều rất cần. Có lẽ toàn bộ vấn đề có thể trở nên sáng tỏ hơn nếu chúng ta nghiên cứu việc đó theo cách sau đây:
Trong một hình hài (form), nguyên tử xoay trên chính trục của nó, tuân theo động tác xoay riêng của nó, và sống theo cuộc sống bên trong của riêng nó. Điều này liên quan với nhận thức (awareness) ban đầu của nó. Theo thời gian trôi qua, nó trở nên biết được, bằng từ điển, bản chất thu hút của những gì đang bao bọc nó ở mọi phía và trở nên biết được hình hài đang bao bọc nó. Đây là tri thức thứ nhì của nó, nhưng điều đó vẫn còn liên quan tới những gì mà chúng ta có thể, vì thiếu một danh xưng thích hợp hơn, gọi là vật chất (matter). Do đó, nguyên tử này có một tương tác với các nguyên tử khác.
Về sau, nguyên tử trong một hình hài trở nên biết được rằng không những nó chỉ xoay quanh trên trục của nó, mà nó cũng còn tuân theo một quỹ đạo chung quanh một trung tâm lực lớn hơn bên trong một hình hài vĩ đại hơn. Đây là tri thức thứ ba và được tạo nên bởi lực hút từ điển của trung tâm lớn hơn được cảm nhận, như vậy tạo nên một thôi thúc bên trong nguyên tử đang đẩy nó hoạt động bên trong một vài chu kỳ đặc biệt. Hiểu về mặt huyền bí, tri thức này tự nó có liên quan với vật chất hoặc với hình hài đích thực bên trong hình hài lộ ra bên ngoài.
Sau cùng, lực hút của trung tâm lớn hơn trở nên mạnh đến nỗi sự sống tích cực bên trong nguyên tử (bất kể đó có thể là loại nguyên tử nào và thuộc bất cứ giới nào) cảm nhận được lực của năng lượng trung ương đang nắm giữ nó, cùng với các nguyên tử khác kết hợp đầy đủ chức năng của chúng. Năng lượng nhập vào qua vòng-giới-hạn, không gợi ra sự đáp ứng nào từ những gì có thể được gọi là các sự sống điện tử hoặc sự sống tiêu cực bên trong chu vi nguyên tử, nhưng rõ rệt khơi hoạt một đáp ứng từ cái nhân dương thiết yếu của nguyên tử. Điều này do bởi sự kiện rằng sự sống thiết yếu của bất luận nguyên tử nào, tức là khía cạnh tích cực/dương tính cao siêu nhất của nó, bao giờ cũng có bản chất như bản chất của sự sống vĩ đại hơn đang đưa sự sống đó về chính nó. Khi điều này được cảm nhận đủ mạnh, chu kỳ nguyên tử được hoàn tất, hình hài trọng trược bị xua đi, hình hài đích thực bị tiêu tan, và sự sống trung ương thoát ra để tìm điểm tập trung từ lực lớn hơn của nó.
Qua tiến trình này (vốn được thấy khắp thái dương hệ trong tất cả các bộ môn của nó) mọi nguyên tử đến lượt trở thành một điện tử. Vào thời điểm thích hợp của cơ tiến hóa, sự sống dương của bất cứ nguyên tử nào cũng trở thành sự sống âm đối với sự sống vĩ đại hơn hướng về những gì mà nó bị thúc đẩy hoặc lôi cuốn, và thế là diễn trình tiến hóa đưa mọi sự sống lúc nào cũng xuyên qua bốn giai đoạn liệt kê ở trên. Bên trong ba giới thấp của thiên nhiên, diễn trình được trải qua một cách không chủ ý, theo hàm nghĩa của con người về thuật ngữ đó; điều đó được trải qua một cách có chủ tâm khắp trong giới nhân loại, và trong các lĩnh vực hiện tồn cao hơn, với một tâm thức đang bao bọc mà chỉ có thể được ám chỉ bằng thuật ngữ mơ hồ “nhận thức hữu ngã thức của tập thể”. Nguồn: Định luật Phát xạ trên nhantrachoc.net.vn
+ Chu Kỳ: Sự chuyển động lặp đi lặp lại theo Định Luật Chu Kỳ bao chùm và điểu khiển mọi hoạt động của vạn sự, vạn vật trong vũ trụ, sự tuần hoàn của các chu kỳ tuân theo Định Luật Tuần Hoàn - Định Luật Tiến Hóa của Vũ trụ.
6. Mỗi sự sống biểu hiện có ba chu kỳ vĩ đại của nó (6-7)
Sinh ra Sống Chết.
Xuất hiện Phát triển Biến mất.
Giáng hạ tiến hoá Tiến hóa Qui nguyên
Bất động hoạt động Chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại Sự sống sinh động Sự sống nhịp nhàng.
7. Kiến thức của các chu kỳ liên quan đến kiến thức về con số, âm thanh và màu sắc (7)
8. Kiến thức toàn bộ của các chu kỳ chỉ được biết đến khi đã là một người tinh thông lão luyện hoàn thiện (7)
Tri thức trọn vẹn của bí ẩn của các chu kỳ chỉ được sở hữu bởi Chân sư hoàn thiện. (LVLCK, 39)
+ Các chu kỳ: .... "Nhiều sự biểu thị về bản chất chu kỳ của hiện tượng này được rải rác khắp Bộ Luận này, và các môn sinh nên nhớ rằng trong tất cả những gì liên quan đến sự phát xạ, (Phật giáo gọi là phóng quang, Đạo giáo gọi là Khí trong Tinh - Khí Thần_HT Tịnh Không) giống như trong mọi hiện tượng khác, sẽ có những giai đoạn im lìm, và những giai đoạn hoạt động mãnh liệt. Điều này sẽ được thấy khá rõ ràng liên quan với GIỚI THỨ TƯ của thiên nhiên. (LVLCK 2, 1078)
+ Bản chất của Chu kỳ (LVLCK, 1036 - 1040): Các nhà nghiên cứu bàn về các chu kỳ xuất hiện của các Cung năng lượng (Rays), đưa ra các niên đại độc đoán, như là 2 500 năm, cho sự biểu lộ của bất cứ Cung đặc biệt nào. Một Cung nào đó trải qua chu kỳ của nó trong đoạn thời gian đó, nhưng chỉ có cung đó thôi, các cung khác hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn. Sự dị biệt có một ảnh hưởng lớn tới các chu kỳ Chân Ngã, và chịu trách nhiệm cho độ dài thời gian giữa các lần hóa nhập (incarnations). Một số Egos theo chu kỳ xuyên qua các lần hóa nhập của chúng và các chu kỳ qui ẩn (pralayas) của chúng rất nhanh chóng; các Chân Ngã khác trải qua các kỳ gian dài không đếm xuể, do đó không thể nói rằng có các “mức trung bình” (“averages”) bằng nhau nối tiếp với sự xuất hiện của các Egos trên cõi cảm dục chẳng hạn. Sự kiện này có liên quan tới cách diễn tả của H.P.B. về nỗ lực của Thánh Đoàn (Lodge) mỗi 100 năm. Dưới loại mãnh lực đặc biệt theo chu kỳ phát xuất từ Thánh Đoàn, dấu nước cao (high water mark) của hoạt động của Thánh Đoàn được tìm thấy một lần trong mỗi bảy chu kỳ. Tất cả những gì xuất phát trên Cung đó đều được kiểm soát bằng các nỗ lực xoắn ốc theo chu kỳ dựa trên con số 10 và các bội số của nó, và tìm thấy rung động theo chu kỳ cao siêu nhất của nó, khi nó xảy ra, trong phần tư cuối cùng của mỗi thế kỷ. Điều mà các nhà nghiên cứu hiện đại hơn của chúng ta thường hay quên trong mối liên hệ này là ở chỗ hoạt động này chỉ là biểu hiện của một loại thần lực trong số 7 thần lực có được và thần lực đó có liên quan trước tiên với nhóm các adepts (cao đồ) đang ở trên hướng năng lượng đặc biệt đó, và tất nhiên sẽ tác động nhiều lên tất cả các đệ tử và con người ở trên hướng tương tự. Đồng thời, công việc mà loại thần lực đó khai mở được Thánh Đoàn bảo trợ nói chung, vì nó là thành phần của phóng xuất lực (force emanation) của Hành Tinh Thượng Đế. Tất nhiên, lực đó rất quan trọng do sự kiện là năng lượng cung này là năng lượng của một trong ba Cung chính; nhưng trong tiến trình lập lại thăng bằng, nó sẽ được làm quân bình bởi hoạt động phóng phát có chu kỳ tương tự từ hai Cung chính kia.
Ở đây có thể thêm rằng khi điều này được nhận biết, điều sẽ trở nên rõ rệt là các khám phá khoa học có tính cách mạng vốn có thể được truy xuống nhiều thế kỷ, như là việc thiết lập Định Luật Hấp Dẫn, sự tuần hoàn của máu, xác định về bản chất của hơi nước, việc con người khám phá ra dạng thức của hiện tượng điện mà con người đã khai thác, và nhiều khám phá gần đây về chất radium, đều ở trong bộ môn riêng của các Ngài (bộ môn của Đức Mahachohan), tương tự với nỗ lực được tạo ra trong phần tư cuối của mỗi thế kỷ để thúc đẩy sự tiến hóa của con người qua một phát hiện thêm về phần nào đó của bộ GLBN. Newton, Copernicus, Galileo, Harvey và Curies đều ở trên tuyến lực riêng của họ, tức là những kẻ mang ánh sáng ngang hàng với H.P.B. Tất cả đều làm thay đổi hoàn toàn tư tưởng của thời đại của họ; tất cả đều đem đến một thúc đẩy lớn cho năng lực của con người để giải thích các định luật của thiên nhiên và để hiểu được tiến trình vũ trụ, và chỉ những ai có thị kiến giới hạn mới không nhận ra sự hợp nhất của nhiều sự thôi thúc của thần lực phát xuất từ Thánh Đoàn duy nhất.
- Các chu kỳ này sẽ không trùng hợp, vì không phải tất cả chúng đều tương tự với đường xoắn ốc 100 năm. Một ý tưởng nào đó về chu kỳ của Đức Mahachohan với các xung lực tỏa ra có thể được gom lại bằng cách xét các niên đại của các khám phá khoa học quan trọng nhất từ thời Plato (Pháp ngữ: Platon, 427 ? – 347/348 trước T.C.);
- Các chu kỳ của Cung hai cũng có thể được tính bình quân bằng một bản tóm tắt về các xuất hiện của các Đại Huấn Sư qua các thời đại.
Các phóng phát thần lực từ Đức Bàn Cổ (Manu), hay các Đấng thuộc Cung Một, được truy nguyên một cách dễ dàng khi xem xét về các giống dân, và điều này đã được làm trong việc thừa nhận các căn chủng và phụ chủng. Những gì thường bị bỏ qua đó là mỗi một trong các cung năng lượng này biểu lộ một cách xây dựng, qua các tác nhân kiến tạo hình hài, và một cách hủy diệt qua khả năng của mãnh lực hủy diệt trước khi kiến tạo. Như vậy các chu kỳ có thể được xét theo hai khía cạnh.
Chính ở điểm này mà các nhà nghiên cứu thuộc một chi bộ của phong trào minh triết thiêng liêng của chúng ta phải nhận ra sự thật rằng, giống như H.P.B. xuất lộ dựa vào một trào lưu năng lượng theo chu kỳ để hủy diệt các hình hài giới hạn phải được tìm thấy trong thế giới của khoa học và tôn giáo, cũng thế, công việc của con người cũng phải thích hợp với các phóng phát thần lực, như là công việc xây dựng của Cung hai liên kết với năng lượng của Cung bảy vào lúc này.
Khi các nhà nghiên cứu học được cách phối hợp các chu kỳ 100 năm chứa loại năng lượng cung thứ nhất với các xung lực cũng mạnh mẽ từ Cung hai và Cung ba, bấy giờ, chúng ta sẽ có việc ngưng lại nhiều tranh cãi. Không có một thôi thúc quan trọng nào sẽ đến từ Thánh Đoàn theo đường lối Cung Một, tức Cung Ý Chí hay Quyền Năng mãi cho đến khi cuối một thế kỷ. Một thôi thúc như thế theo đường lối thần lực khác đã đến khi việc khám phá ra bản chất của nguyên tử được đạt đến xuyên qua việc nghiên cứu về điện và về các chất phóng xạ, và một thôi thúc từ Ngôi Hai đang sắp xảy ra. Thật là không an toàn cho các đạo sinh với cái nhìn hạn hẹp đối với giáo điều về vấn đề các chu kỳ. Không kể đến các thôi thúc theo chu kỳ luôn luôn được ban ra, trùng lắp và thay thế, đồng thời pha trộn với nhau, có nhiều sự thôi thúc mà chúng ta có thể gọi là các thôi thúc nhỏ (và chu kỳ của 100 năm mà HPB nhắc đến chỉ là một thôi thúc nhỏ. Có một chu kỳ 1 000 năm quan trọng hơn nhiều). Có các chu kỳ rộng lớn với 2 500 năm, 7 000 năm, 9 000 năm, 15 000 năm và nhiều chu kỳ khác mà chỉ những đệ tử điểm đạo mới biết được và có thể theo dõi; các chu kỳ này có thể gián đoạn dựa trên bất cứ các thôi thúc nhỏ nào, và có thể được thấy xuất hiện, một cách không mong đợi, xét theo sự hiểu biết của con người bậc trung, và tuy thế họ chỉ là các sức thôi thúc quay trở lại được tạo ra theo chuyển động có chu kỳ có lẽ cách đây hàng ngàn năm.
H.P.B. có lý trong xác nhận của bà xét về sự thôi thúc của Cung một; nhưng các môn đệ của bà đều không đúng, bao giờ mà họ bỏ sót và phủ nhận sáu loại xung lực kia, bằng hoặc là quan trọng hơn, vốn có thể phát ra theo chu kỳ từ Thánh Đoàn và vốn sẽ đáp ứng với sự đáp ứng từ những người rung động với loại năng lượng đặc biệt.
Xem: Tổng hợp về Chu kỳ
+ Tứ Nguyên Huyền Bí Trong Con Người:
+ Một nhận xét trong khi nghiên cứu cung Hoàng đạo Leo - Sư Tử, rất thú vị của Chân Sư DK với Mercury - Thủy Tinh: Ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến tứ nguyên của con người – Tinh thần, Linh hồn, Trí tuệ và Bộ óc. Năng lượng này nó chuẩn bị cho người tìm đạo được điểm đạo. Tứ nguyên cao cấp này, bạn có:
Sirius Leo Mercury Saturn
Tinh Thần ... Linh hồn .... Trí tuệ ....... Bộ óc
Sự sống ..... Tính chất ... Giác ngộ ... Sắc tướng
Hít vào ........Tạm nghỉ ... Thở ra ...... Tạm nghỉ
- Bảng trên mang lại cho bạn manh mối cho thực tại căn bản, và việc cần thiết thiền định như được thực hành bởi đệ tử và điểm đạo đồ (CTHNM, 338)
+ Tam nguyên/ Tam phân: - Tam nguyên: Là tinh thần, linh hồn và thân thể. (TLHNM II, 391)
+ Tam nguyên tinh thần của con người. - Sự sống, ý thức và hình hài. (LVHLT, 21)
+ Tam nguyên - Ba Thập Giá của vòng Hoàng đạo phản ánh Tam Nguyên được tất cả các tôn giáo công nhận, và thể hiện ba giai đoạn của cuộc sống hoặc các khía cạnh của cuộc sống. Shiva, Vishnu, Brahma là ba thể hiện của người Hindu về ý chí, mong muốn và hoạt động. Shiva đại diện cho ý chí. Ngài được cho là nhảy múa để đưa vũ trụ vào hiện hữu. Vishnu được biết đến như là Người Giữ Gìn; và Brahma là người đứng đàng sau công việc của mọi thứ trong Vũ trụ và được xem là Thần Sáng tạo.
Ba Vị là 3 phương diện: Thứ nhất, thứ hai và thứ ba của Thượng đế. Trong Cơ Đốc Giáo, 3 Phương diện này là Cha, Con và Chúa Thánh Thần. Cha là ý chí thuần túy, Con muốn đem ánh sáng vào thế gian, và Đức Thánh Linh thể hiện tinh thần tích cực di chuyển trên thế giới. (Nguồn: Chiêm THNM 17)
+ Tam giác và hình vuông
- Tam nguyên Tinh thần: Có đỉnh là Atma, 2 cạnh là Buddhi và Manas
- Tứ hạ thể - Tứ nguyên hạ: là hình vuông, trên là Hạ trí, 2 cạnh là Dĩ thái và Cảm xúc, dưới là Thể xác (Nguồn: Con người và các thể - Thông thiên học)
+ Tứ Nguyên Huyền Bí trong Con Người: Một nhận xét trong khi nghiên cứu cung Hoàng đạo Leo - Sư Tử, rất thú vị của Chân Sư DK, với Mercury - Thủy Tinh, Ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến tứ nguyên của con người – Tinh thần, Linh hồn, Trí tuệ và Bộ óc. Năng lượng này nó chuẩn bị cho người tìm đạo được điểm đạo. Tứ nguyên cao cấp này, bạn có:
Sirius Leo Mercury Saturn
Tinh Thần ... Linh hồn .... Trí tuệ ....... Bộ óc
Sự sống ..... Tính chất ... Giác ngộ ... Sắc tướng
Hít vào ........Tạm nghỉ ... Thở ra ...... Tạm nghỉ
- Bảng trên mang lại cho bạn manh mối cho thực tại căn bản, và việc cần thiết thiền định như được thực hành bởi đệ tử và điểm đạo đồ (CTHNM, 338)
Xem: Sơ đồ Tam nguyên Tinh thần/ Thánh đoàn và con người
+ Vi tử nguyên hình (archetypal atom): Vi tử hồng trần (physical atom) chứa trong chu vi của nó 14 ngàn triệu (14.109) vi tử nguyên hình, tuy nhiên, vô số các vi tử này biểu lộ như là một. (LVLCK, 246)
+ Tiên đoán (Prediction): Tiên đoán là một kỹ năng (asset) của linh hồn thức và con người tạm thời có dự phần vào đó. (CTNM, 497)
+ Tiên đoán Thiên cơ Vận mệnh: ... Nhưng nên lưu ý rằng không điều tiên đoán nào hoàn toàn tách rời khỏi quá khứ, và bao giờ cũng phải ẩn chứa mầm mống của sự thật. Luật Nhân Quả bao giờ cũng đúng, và đặc biệt đúng trong phạm vi nhận thức tinh thần (hiện đang phát triển mau lẹ). Nó giúp người có tầm nhìn tinh thần có thể thấy được những gì khả hữu trong tương lai, và dự báo các tình huống có thể sẽ xảy ra. Trong ba thế kỷ tới đây, có thể tiên đoán một số đường lối khả dĩ phát triển trong nhân loại:
1. Qua sự phát triển giao tiếp với linh hồn trong số những người tiến hóa cao trong nhân loại ....;
2. Qua sự phát triển khoa chiêm tinh – một khoa học cho đến nay vẫn còn non trẻ. Nó còn dựa vào quá nhiều yếu tố bất định, đến đỗi người môn sinh khó tìm ra những chỉ báo đích thực cho thấy đúng về tương lai. Thường thì có thể đoán được các đặc điểm trong tính tình, và những điều nhỏ nhặt xảy ra trong cuộc sống phàm nhân. Thế nhưng, nói chung cho đến nay vấn đề vẫn còn quá mơ hồ, chưa đáng tin cậy. Về sau, tôi sẽ đề cập đến vấn đề này, và sẽ nêu rõ những đường hướng nên tiến hành khảo cứu trong tương lai.
3. Với sự trở lại của “thuật tiên tri” và sự tái xuất hiện “của những người báo tin cho nhân loại” ngày xưa, được gọi là “các thầy bói” vào thời kỳ La Mã. Những đồng tử này (thực sự họ đã là như vậy) sẽ được huấn luyện bởi các phụng sự viên của cung bảy, để nói lên theo nguồn cảm hứng của Thánh Đoàn. Sự tiên tri của các Ngài dù có xa về tương lai nhưng cũng không hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên, các đồng tử này sẽ chỉ được dùng theo sự hướng dẫn, sau khi đã huấn luyện thuần thục, và chỉ hai lần mỗi năm vào các cuộc lễ Trăng Tròn tháng Năm và tháng Sáu. ... (Vận mệnh các quốc gia - Tr 27)
+ Dự đoán Vận mệnh các quốc gia: ... Trong những ngày tháng này, khi thế giới chịu nhiều khó khăn và xáo trộn, thật quá nguy hiểm nếu tôi nói rõ hơn về những đường hướng phát triển trong tương lai. Vận mệnh và hoạt động của các quốc gia trong tương lai tiềm ẩn trong những hành xử hiện nay của họ. Đa số các độc giả của tôi quá nặng mang chủ nghĩa dân tộc trong suy nghĩ, và quá bận tâm đến tầm quan trọng chính yếu cũng như ý nghĩa tối thượng của quốc gia mình. Cho nên, tôi chỉ có thể nói tổng quát và nêu lên những đường hướng chính trong tiến bộ. Làm kẻ tiên tri là điều nguy hiểm, vì vận mệnh nằm trong tay dân chúng, và không ai biết chắc họ sẽ làm gì khi đã tỉnh ngộ và được giáo dục. Chưa đến lúc đa số dân chúng trong mỗi quốc gia có thể thấy được toàn thể bức tranh, hay được phép biết chính xác phận sự mà quốc gia họ phải làm tròn trong lịch sử các quốc gia. Quốc gia nào cũng có những đức tốt và tật xấu riêng, tùy theo trình độ tiến hóa, mức độ chi phối của cung phàm nhân, sự chế ngự ngày càng tăng của cung linh hồn, và mối quan tâm chung của quốc gia đó.
Cũng cần nên hiểu rằng một số quốc gia có nữ tính và tiêu cực, trong khi những quốc gia khác thì có nam tính và tích cực. Ấn Độ, Pháp, Hoa Kỳ, Nga và Brazil tất cả đều mang nữ tính, nên có phương diện bảo dưỡng của người mẹ. Họ có nữ tính trong tâm lý – với năng khiếu trực giác, thần bí, quyến rũ, xinh đẹp, thích phô trương và màu sắc. Đồng thời họ cũng có các nhược điểm thuộc về nữ tính, như quá chú trọng vào các khía cạnh vật chất trong đời sống, những màn trình diễn ngoạn mục, thích sở hữu, tiền bạc, hay những thứ tương tự, tương trưng cho phương diện hình hài sắc tướng của cuộc sống. Họ chăm lo và nuôi dưỡng nền văn minh cũng như các ý tưởng.
Trung Quốc, Đức, Anh và Ý có nam tính và tích cực. Các quốc gia này thiên về trí tuệ, chính trị, thống trị, chuẩn hóa, có ý thức tập thể, có khuynh hướng huyền môn, thích gây hấn, thái độ đường bệ, quan tâm đến luật pháp, chú trọng vào chủng tộc và đế chế. Nhưng họ có tính bao gồm nhiều hơn và suy tư trong phạm vi rộng lớn hơn các phương diện nữ tính của biểu hiện thiêng liêng. (Vận mệnh các quốc gia)
+ Sự khai mở (unfoldment).
- Sự sống ở tâm của thái dương-hệ đang tạo ra một sự khai mở các năng lượng của vũ trụ từ sự tiến hóa, mà cho đến nay, con người hữu hạn không thể hình dung được.
- Tâm Linh: Tương tự, trung tâm năng lượng mà chúng ta gọi là khía cạnh tâm linh trong con người (qua việc sử dụng vật chất hoặc chất liệu) đang tạo ra một phát triển tiến hóa của cái mà chúng ta gọi là linh hồn, và nó là sự biểu lộ cao nhất của các biểu lộ thuộc sắc tướng – giới nhân loại. Con người là sản phẩm cao nhất của sự hiện tồn trong ba cõi thấp. Bằng thuật ngữ con người (man), Tôi ám chỉ con người tâm linh, tức một con của Thượng Đế đang lâm phàm. Các hình tướng của mọi giới trong thiên nhiên – nhân loại, động vật, thực vật và khoáng vật − góp phần vào sự biểu lộ đó. Năng lượng của Ngôi Ba của thánh linh hướng tới sự thiên khải của linh hồn, hay là Ngôi Hai, mà đến lượt nó tiết lộ trạng thái cao nhất. Phải luôn nhớ rằng bộ Giáo Lý Bí Nhiệm của H.P. Blavatsky diễn tả điều này một cách chính xác bằng các từ “Sự Sống mà chúng ta xem như là một hình thức hiện tồn, đang biểu lộ trong cái được gọi là Vật Chất; hay những gì mà, phân biệt chúng một cách không chính xác, chúng ta gọi là tinh thần, linh hồn và vật chất trong con người. Vật chất là vận thể cho sự biểu lộ của linh hồn trên cõi hiện tồn này, còn linh hồn là vận thể trên cõi cao hơn cho sự biểu lộ của tinh thần, và ba hình thức này là một tam bộ (trinity) được sự sống tổng hợp, sự sống này thấm nhuần cả ba”. (GLBN, 79 – 80, quyển I).
- Khai mở Linh Hồn: Nhờ sử dụng vật chất, linh hồn khai mở và tìm thấy sự tột đỉnh của nó trong linh hồn con người, và bộ luận này sẽ quan tâm đến sự khai mở của linh hồn đó và việc con người khám phá ra nó. (LVHLT, 14)
+ Tâm rộng mở: Phía trên thì dễ dạy - Trái thì rễ thương - Phải thì rễ chịu - Dưới rễ thở. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tâm thức, các trạng thái nối tiếp (Succession of states of consciousness).
1. Thực ra, Vũ trụ chỉ là một tập hợp bao la của các trạng thái tâm thức. SD II, 633; I, 70, 626.
2. Tinh thần và tâm thức là các tên gọi đồng nghĩa. SD I, 43, 125, 349, 593.
3. Mọi nguyên tử trong vũ trụ đều được phú cho tâm thức. SD I, 105.
+ Sáu loại tâm thức như được biểu hiện trong Giới Thiên Nhiên trên năm cõi tiến hóa của nhân loại. (SD I, 123; II, 678)
+ Khi bậc điểm đạo đồ nỗ lực mở rộng tâm thức của mình, khi anh ta học được cách ổn định tâm thức mình trong Tam Nguyên Tinh Thần, khi đó anh ta trở thành một phần của nỗ lực huyền giai vĩ đại và liên tục hướng đến “Nơi của Ánh Sáng Điện Quang Minh,” ánh sáng lạnh minh bạch của lý trí, là chìa khóa đầu tiên của cánh cửa đầu tiên.(CCVĐĐ/ RI 139)
+ Trình tự mở rộng tâm thức: ... Những người tiến hóa cao trong nhân loại sẽ nhận thức được trình tự mở mang tâm thức này như sau:
1. Cấp sinh hoạt tâm thông. Sinh hoạt này đòi hỏi não bộ ý thức được sự cần phải có kiểm soát trí tuệ và tinh thần, là bước đầu tiên.
2. Cấp khai mở trí tuệ.
3. Thế giới của linh hồn hay chân nhân, người có cá tính. Khi những nhận thức này phát triển trong người chí nguyện, thì y trở thành đệ tử và nhận biết được vị Chân sư sẽ hướng dẫn y.
4. Linh hồn chế ngự cuộc sống ở cõi trần.
5. Các quan năng thần thông tác động, được sử dụng, giúp ích, và góp phần vào công tác phụng sự thông minh.
6. Trí tuệ được khai ngộ có khả năng lý giải.
7. Cuộc sống sáng tạo với hứng khởi tinh thần ở cõi trần.
Trong sự phát triển tâm thức nói trên của nhân loại, tiến trình không nhất thiết theo đúng bảy giai đoạn và trình tự vừa kể...... (Vận mệnh các quốc gia_Tr 49)
Xem: Tổng hợp chi tiết về tâm thức
+ Cung năng lượng biểu lộ: .... Bạn cũng sẽ thấy rõ những biểu lộ cấp thấp và cấp cao của một cung liên quan mật thiết với nhau như thế nào. Đồng thời, rất dễ xảy ra tình trạng các biểu lộ cấp cao bị mất kiểm soát, trong khi biểu lộ cấp thấp đi vào biểu hiện – một điều mà rốt cuộc chính cuộc tiến hóa sẽ điều chỉnh. [Thời Bảo Bình, Thật khó phân biệt các biểu lộ cấp cao và cấp thấp của Cung bảy Trật tự Nghi lễ. Ngay cả các Chân sư cũng không thể đoán chính xác] ....
Nếu các bạn sáng suốt hiểu được những điều tôi đã nói, thì sẽ thấy rõ hai điều liên quan đến các hoạt động ban đầu và trực tiếp của hai cung này – tức là cung sáu và cung bảy [Thời Bảo Bình, Cung 6 đang rút và Cung 7 đang tiến nhập].
Thứ nhất, nhiều nhóm người ngày càng chịu ảnh hưởng của chúng, và khi các nhóm này (đáp ứng với mãnh lực của cung sáu hoặc cung bảy) thì tất họ sẽ chống đối và xung khắc với nhau. Vấn đề là do nhân loại đã phát triển tính nhạy cảm, nên nay sự chống đối này đang có trên qui mô toàn thế giới. Vì thế, hiện có nhiều xung đột giữa các ý tưởng, và các ý thức hệ đối kháng nhau. Đồng thời cũng có sự đối nghịch giữa một mặt là các truyền thống đã có từ lâu đời và những hình thức cũ kỹ của văn minh, chính quyền, tôn giáo, và mặt khác là những ý tưởng mới hơn đang xuất lộ. Các quan niệm mới này sẽ mở ra Thời đại Mới, và rốt cuộc sẽ cách mạng hóa đời sống và các tiêu chuẩn hiện nay của chúng ta. Chúng sẽ cho thấy những ý tưởng cũ kỹ này giống như các ý tưởng đã chi phối nhân loại cách đây một triệu năm, nay được đánh giá trong tâm thức chúng ta. (Tr 45)
Thứ hai: Tình trạng còn rắc rối hơn khi thực tế là cả hai cung này có ảnh hưởng và (bao giờ cũng) tự biểu lộ theo hai cách. Bao giờ chúng cũng biểu hiện dưới dạng thấp và dạng cao, về mặt này tương ứng với biểu lộ ở cấp phàm nhân và chân nhân của mỗi người. Trong trường hợp của cung ra đi, thì dạng cấp cao (bao giờ cũng biểu hiện trước ở mức phôi thai) tan biến nhanh chóng, hoặc được hấp thu vào lý tưởng mới. Bằng cách đó, nó góp thêm tất cả những gì tốt đẹp nhất vào việc trình bày chân lý theo lối mới, nhờ đó mà nền văn hóa đang xuất lộ sẽ đặt căn bản thích hợp trên nền tảng cũ. Tuy nhiên, các dạng cấp thấp lại bám chặt và chế ngự. Vì thế, ngày nay chúng thực sự trở thành vấn đề khó khăn nghiêm trọng của Thánh Đoàn, đến đỗi cần phải kêu gọi cung một (hay thần lực của Shamballa) để hủy diệt chúng. Cần lưu ý điều này khi bạn khảo sát tình hình thế giới. Các dạng biểu lộ cấp thấp của cung bảy vẫn còn trong giai đoạn phôi thai. Bạn có thể thấy rõ điều này khi xem xét phong trào thông thần mà tôi đã chọn đề cập đến. Nó chỉ mới bắt đầu hình thành trong thế kỷ trước, nhưng đã đạt mức tăng trưởng nhanh chóng lạ thường chỉ vì nó khởi đầu trên châu Mỹ. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là trung tâm của Atlantis thời xưa và, do đó, thừa hưởng một dạng tôn giáo cổ liên quan đến thần thông, vốn đã tồn tại và hoạt động mạnh mẽ trong phần đất này của thế giới qua nhiều thế kỷ..... (Vận mệnh các quốc gia_Tr 46)
+ Các Chu Kỳ Cung biểu lộ (EPI 26-27)
Cung Một Không biểu lộ.
Cung Hai Biểu lộ từ năm 1575 sau Công Nguyên
Cung Ba Biểu lộ từ năm 1425 sau Công Nguyên
Cung Bốn Đi dần vào biểu lộ sau năm 2025 sau Công Nguyên
Cung Năm Biểu lộ từ năm 1775 sau Công Nguyên
Cung Sáu Đang nhanh chóng ra khỏi biểu lộ. Nó bắt đầu chuyển ra năm 1625 sau Công Nguyên
Cung Bảy Biểu lộ từ năm 1675 sau Công Nguyên. (26)
Có rất ít chân nhân (ego) cung bốn trên Trái đất ở thời điểm này, và một số lượng rất lớn chân nhân cung sáu, vì sẽ mất khoảng hai trăm năm trước khi tất cả họ chuyển ra khỏi luân hồi. Không có loại người cung một thuần túy trên hành tinh … tất cả cái gọi là các chân nhân cung một đều ở trên cung phụ thứ nhất của cung hai, đang luân hồi (Các Cung luân hồi hiểu là: Chân nhân Cung 2.1 - 2.2 - 2.3 - 2.4 ...).
Tất cả các chân thần con người, được đưa vào biểu lộ bởi ý chí và mong muốn của một vị Chúa Tể cung nào đó, là thành phần của thể biểu lộ của Ngài. Họ biểu lộ mạnh mẽ tính chất của Ngài và xuất hiện một cách phi thường tùy theo thời gian cấp bách trong sự biểu lộ tiến hóa đã được đạt tới. “Giống như Ngài, chúng ta sẽ như thế trong thế giới này,” nhưng cho đến nay chỉ mới là tiềm năng, – mục tiêu tiến hóa là làm cho tiềm năng thành thực tế, và điều tiềm tàng thành điều được biểu lộ. Công việc của huyền bí gia chỉ là chính điều này: mang ra khỏi trạng thái tiềm tàng tính chất còn bị che dấu. (trích tóm lược Tâm lý học nội môn - Khóa GQ)
+ Ví dụ về Năng lượng các cung biểu lộ cao thấp [Biến phân thành Âm dươn Ngũ đại - Ngũ hành Can Chi ... và các phẩm tính]:.... Tôi xin minh họa cho các bạn thấy những sự thực kể trên về hai cung mà chúng ta đang xem xét. Theo định luật thì bao giờ cũng vậy, cả hai cung này đều tự biểu lộ qua một hay nhiều hình thức ở cấp cao và cấp thấp. Một trong những biểu lộ cấp cao của cung sáu đang ra đi có trong Thiên Chúa giáo. Tinh thần và các nguyên lý của tôn giáo này được thể hiện trong cuộc đời của Chân sư Jesus. Đến lượt Ngài được truyền cảm hứng, ứng linh và sử dụng bởi Đức Christ, là Đấng Lý tưởng vĩ đại của Ngài. Từ “chủ nghĩa lý tưởng” là chủ âm của cung này – chủ nghĩa lý tưởng thành hình, nêu gương sống động và cho nhân loại thấy những tiềm năng thiêng liêng của mình. Khi Đức Christ giáng lâm, lý tưởng thiêng liêng đã được trình bày lần đầu tiên cho toàn nhân loại. Những Người con khác của Thượng Đế trong thời gian đầu đã trình bày các phẩm tính và thuộc tính thiêng liêng khác nhau. Thế nhưng, ba vị trong họ đã đạt được mức hoàn thiện (trong thời kỳ của thế giới hiện nay) mà chưa có ai vượt qua được.
Ba vị này là: Hercules, người đệ tử hoàn thiện nhưng chưa phải là Người con hoàn thiện của Thượng Đế; Đức Phật, người điểm đạo đồ hoàn thiện, đã đạt sự giác ngộ, nhưng chưa phát triển tất cả các thuộc tính của thiên tính đến mức hoàn thiện; Đức Christ, sự biểu lộ hoàn hảo tuyệt đối của thiên tính trong chu kỳ này, do đó, Ngài là Huấn sư của cả thiên thần và loài người........ Tất cả các Ngài đều thuộc về tập thể các Đấng điều hành đang thực hiện Thiên cơ, được thành lập dựa vào nguồn bác ái của Thượng Đế. Đức Phật và Đức Christ vẫn còn kết hợp chặt chẽ, và làm việc hợp tác với Thánh Đoàn. Hercules đã đi vào trung tâm Shamballa, nhưng vẫn còn làm việc, hợp tác trong cơ bản với Đức Phật; Ngài là một trong các Lực liên kết Shamballa và Thánh Đoàn. (Tr 38)
Tôn giáo thuần túy, không nhơ bợn và tập trung vào tinh thần, là biểu lộ cấp cao của cung sáu (bao giờ cũng hoạt động dưới ảnh hưởng và mãnh lực của cung hai). Thiên Chúa giáo trong thời gian đầu là biểu tượng vĩ đại mang lại nguồn hứng khởi của cung này.
Đồng thời, trong những khía cạnh thấp kém của cung sáu có mọi hình thức tôn giáo theo giáo điều, và dựa vào thẩm quyền, như biểu lộ bởi các giáo hội chính thống, có tổ chức. Mọi lối trình bày thần học đều là biểu lộ cấp thấp của các chân lý tinh thần cao siêu. Chúng tiêu biểu cho các phản ứng trong trí của người sùng đạo, khi y tin vào những diễn dịch trong trí của cá nhân mình, và chắc rằng mình hoàn toàn đúng. Chúng không thể hiện các giá trị tinh thần đích thực. Do đó, có thể thấy tính chất khủng khiếp trong các biểu lộ cấp thấp của cung sáu, và sự chế ngự của các mãnh lực gây chia rẽ (bao giờ cũng là đặc trưng rõ rệt trong hoạt động cấp thấp của cung sáu).......(Tr 40)
Bạn cũng sẽ thấy rõ những biểu lộ cấp thấp và cấp cao của một cung liên quan mật thiết với nhau như thế nào. Đồng thời, rất dễ xảy ra tình trạng các biểu lộ cấp cao bị mất kiểm soát, trong khi biểu lộ cấp thấp đi vào biểu hiện – một điều mà rốt cuộc chính cuộc tiến hóa sẽ điều chỉnh.
Thật khó phân biệt các biểu lộ cấp cao và cấp thấp của Cung bảy Trật tự Nghi lễ. Lý do là vì cung này chỉ đang trong tiến trình biểu hiện, và chúng ta chưa biết biểu lộ chủ yếu của nó sẽ như thế nào, dù ở cấp cao hay cấp thấp. Những phản ứng của con người cũng có tầm quan trọng. Vì thế, như tôi đã nêu trên, ngay cả các Chân sư cũng không và không thể đoán trước được các tác động của mãnh lực khả dĩ sẽ có kết quả như thế nào, hoặc kết cục của chúng sẽ ra sao, dù các Ngài thường có thể xác định được những sự việc có khả năng xảy ra. Nếu tôi nói rằng biểu lộ cấp cao của cung bảy là chánh thuật, thì bạn có thực sự hiểu ý tôi muốn nói gì không? Có lẽ là không. Bạn có ý niệm thực sự nào về thâm nghĩa của hai từ này chăng? Tôi cho là không. Chánh thuật thực tế là năng lực của người phụng sự viên và quản trị viên thành thạo có thể kết hợp “cái bên trong và cái bên ngoài” thành một tổng hợp xây dựng. Nhờ đó mà cái bên dưới có thể theo khuôn mẫu của cái bên trên một cách rõ rệt. Đó là nhiệm vụ cao cả nhằm kết hợp lại, đúng theo chủ đích và kế hoạch ngay trước mắt vì lợi ích của sự sống đang tiến hóa trong một chu kỳ nào đó của thế giới:
1. Tinh thần và vật chất.
2. Sự sống và hình thể.
3. Chân nhân và phàm nhân.
4. Linh hồn và biểu lộ bên ngoài của nó.
5. Các thế giới cao siêu của atma – buddhi – manas và phản ánh ở cấp thấp gồm trí tuệ – tình cảm và tính chất hồng trần.
6. Luân xa đầu và luân xa tim, qua sự thăng hoa năng lượng của các luân xa sinh dục và nhật tùng.
7. Các cảnh giới dĩ thái-cảm dục và cảnh giới hồng trần thô trược.
8. Các cấp của đời sống vô hình nội tại, và các thế giới hữu hình bên ngoài.
Đó là nhiệm vụ của nhà chánh thuật. .... Vì thế, tất cả những gì giúp con người thêm nhạy cảm và nâng cao ý thức - Tất cả những gì có khuynh hướng tạo ra những hình thể tốt đẹp hơn để qua đó nguyên khí sống động của thiên tính có thể tự biểu lộ - Tất cả những gì làm thưa mỏng hay loại bỏ bức màn che giữa các thế giới mà những người không dùng thể xác đang sống, hoạt động và làm việc, và các ngoại giới của hình thể, cũng đều là công việc của nhà chánh thuật. Luôn luôn có nhiều loại công việc này, nhưng chưa bao giờ nhiều như hiện nay, vì cung bảy, cung của nhà thuật sĩ (hắc thuật và chánh thuật), đang vào cuộc biểu hiện. ..... Vì thế, cũng có sự quan tâm sâu sắc đến đời sống bên kia cửa tử, và ngày nay có nhiều nhóm đang khảo cứu xem mỗi người vẫn tồn tại sau khi từ trần, và khả dĩ là bất tử hay không. Do đó, hiện nay phong trào thông thần đang tái xuất hiện. ... Khoa thông thần vốn là tôn giáo của Atlantis cổ xưa, và cung bảy đã chế ngự nền văn minh cổ đại ấy trong khoảng thời gian rất lâu, đặc biệt là trong nửa đầu thời gian tồn tại của nó, giống như cung năm cũng có mãnh lực chế ngự như thế trong thời đại và chủng tộc Aryan hiện nay. (Tr 43)
Nếu khoa thông thần được phát triển đúng đắn theo những đường hướng tâm lý, và không còn nhấn mạnh vào các hiện tượng (vốn là đặc trưng nổi bật và sự chú trọng của nó ngày nay) thì thực chất của sự chết và đời sống sau khi từ trần sẽ được tiết lộ. Thế nhưng, dựa vào khoa thông thần tôi có thể minh họa rõ nhất sự biểu lộ cấp thấp của những ảnh hưởng sắp đến của cung bảy. Như bạn biết, công tác của cung bảy là liên kết sự sống và hình thể. Tuy nhiên, khi phương diện hình thể được chú trọng, thì rốt cuộc mang lại qui trình sai, và nhà hắc thuật có thể bắt đầu làm việc, và nhằm đạt các mục tiêu không thích đáng. Đây là những gì đã xảy ra trong phong trào thông thần. Những nhà nghiên cứu trong phong trào này chỉ chú ý đến phương diện hình thể của đời sống. Còn những người ủng hộ nó thì chỉ muốn thỏa mãn những ước muốn tình cảm của mình (cũng liên quan đến phương diện hình thể). Vì thế, phong trào này có nguy cơ mất đi tầm quan trọng thực sự của nó.
Khoa thông thần, trong phương diện vật chất và thấp nhất của nó, là biểu lộ cấp thấp của cung bảy. Đối với đại chúng, nó là đường lối ít trở ngại nhất, và vì thế mà không mấy quan trọng về mặt tinh thần cho sự phát triển tiến hóa của họ. Ngày nay, đại chúng vẫn còn tâm thức của dân Atlantis, và chỉ đang từ từ hòa nhập vào quan điểm của người Aryan. Phải thay đổi điều này, và phải nhanh chóng nâng cao hoạt động trí tuệ của họ, nếu không thì khoa thông thần đích thực không thể biểu lộ được. Bấy giờ, qua phong trào thông thần hiện nay, những mãnh lực và thực thể bất hảo nhất có thể được phóng rải trên thế giới. Tính tiêu cực của đa số những người quan tâm đến khoa thông thần, và tình trạng hoàn toàn tiêu cực của phần lớn những người đồng tử đã mở rộng cửa cho những mối nguy rất rõ rệt. Cũng may, trong giới thông thần có phong trào nhằm khắc phục nguy cơ này, và chuyển sự quan tâm hiện nay về hiện tượng vào thế giới của các giá trị chân thực và hiểu biết đúng đắn. Vấn đề này quá rộng lớn, nên tôi không thể bàn đầy đủ ở đây, trừ việc minh họa một số điểm, và chỉ đưa ra một điều gợi ý. Nếu các hội đoàn và tổ chức có liên quan đến phong trào thông thần và các nhóm nghiên cứu tâm linh, cố gắng tìm thấy các nhà tâm thông tự nhiên (chứ không phải là các đồng tử xuất thần) cũng như những người có nhãn thông và nhĩ thông tự nhiên, đồng thời nghiên cứu các tiết lộ, lời nói, phản ứng, và phương thức làm việc của những người này, thì họ sẽ khám phá ra nhiều điều về một số quyền năng tự nhiên và bình thường của con người. Những quyền năng này đã tạm thời tiềm ẩn trong thời kỳ dành cho mục tiêu phát triển thể trí, là những quyền năng mà nhân loại có chung với hai nhóm lớn – tức là các Thành viên của Thánh Đoàn, và giới động vật. Hãy suy ngẫm kỹ điều này. Vì thế, nếu các hội đoàn nói trên tập trung vào các đồng tử thông minh và có trí tuệ và loại bỏ những điều kiện xuất thần, thì không bao lâu sự thiên khải sẽ đến. Không nên có điều kiện xuất thần, vì nó tách rời người đồng tử khỏi linh hồn của y, khiến y hoàn toàn rơi vào lĩnh vực của các mãnh lực vật chất tiêu cực mà y không thể kiểm soát. Tuy nhiên, các lực lượng vật chất sẽ ngăn cản sự phát triển này nếu có thể, vì khi thế giới có sự hiểu biết thông minh tích cực về bên kia bức màn sinh tử, thì mọi người sẽ không còn sợ chết, bấy giờ các lực lượng ấy sẽ không còn quyền lực gì, và không thể cầm giữ nhân loại được nữa.
Nếu các bạn sáng suốt hiểu được những điều tôi đã nói, thì sẽ thấy rõ hai điều liên quan đến các hoạt động ban đầu và trực tiếp của hai cung này – tức là cung sáu và cung bảy.
Thứ nhất, nhiều nhóm người ngày càng chịu ảnh hưởng của chúng, và khi các nhóm này (đáp ứng với mãnh lực của cung sáu hoặc cung bảy) thì tất họ sẽ chống đối và xung khắc với nhau. Vấn đề là do nhân loại đã phát triển tính nhạy cảm, nên nay sự chống đối này đang có trên qui mô toàn thế giới. Vì thế, hiện có nhiều xung đột giữa các ý tưởng, và các ý thức hệ đối kháng nhau. Đồng thời cũng có sự đối nghịch giữa một mặt là các truyền thống đã có từ lâu đời và những hình thức cũ kỹ của văn minh, chính quyền, tôn giáo, và mặt khác là những ý tưởng mới hơn đang xuất lộ. Các quan niệm mới này sẽ mở ra Thời đại Mới, và rốt cuộc sẽ cách mạng hóa đời sống và các tiêu chuẩn hiện nay của chúng ta. Chúng sẽ cho thấy những ý tưởng cũ kỹ này giống như các ý tưởng đã chi phối nhân loại cách đây một triệu năm, nay được đánh giá trong tâm thức chúng ta. (Tr 45)
Thứ hai: Tình trạng còn rắc rối hơn khi thực tế là cả hai cung này có ảnh hưởng và (bao giờ cũng) tự biểu lộ theo hai cách. Bao giờ chúng cũng biểu hiện dưới dạng thấp và dạng cao, về mặt này tương ứng với biểu lộ ở cấp phàm nhân và chân nhân của mỗi người. Trong trường hợp của cung ra đi, thì dạng cấp cao (bao giờ cũng biểu hiện trước ở mức phôi thai) tan biến nhanh chóng, hoặc được hấp thu vào lý tưởng mới. Bằng cách đó, nó góp thêm tất cả những gì tốt đẹp nhất vào việc trình bày chân lý theo lối mới, nhờ đó mà nền văn hóa đang xuất lộ sẽ đặt căn bản thích hợp trên nền tảng cũ. Tuy nhiên, các dạng cấp thấp lại bám chặt và chế ngự. Vì thế, ngày nay chúng thực sự trở thành vấn đề khó khăn nghiêm trọng của Thánh Đoàn, đến đỗi cần phải kêu gọi cung một (hay thần lực của Shamballa) để hủy diệt chúng. Cần lưu ý điều này khi bạn khảo sát tình hình thế giới. Các dạng biểu lộ cấp thấp của cung bảy vẫn còn trong giai đoạn phôi thai. Bạn có thể thấy rõ điều này khi xem xét phong trào thông thần mà tôi đã chọn đề cập đến. Nó chỉ mới bắt đầu hình thành trong thế kỷ trước, nhưng đã đạt mức tăng trưởng nhanh chóng lạ thường chỉ vì nó khởi đầu trên châu Mỹ. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là trung tâm của Atlantis thời xưa và, do đó, thừa hưởng một dạng tôn giáo cổ liên quan đến thần thông, vốn đã tồn tại và hoạt động mạnh mẽ trong phần đất này của thế giới qua nhiều thế kỷ.... (Nguồn: Sách Vận mệnh các quốc gia - Tr 46)
+ Năng lượng giao thời: .... Như các bạn biết, hiện nay có hai cung thứ yếu (tức là các cung thuộc tính) đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến vận mệnh của nhân loại. Đó là Cung sáu Sùng tín Trừu tượng hay Chủ nghĩa Lý tưởng và Cung bảy Pháp thuật Nghi lễ hay Tổ chức. Cung sáu bắt đầu ra khỏi cuộc biểu hiện từ năm 1625 sau một thời kỳ ảnh hưởng lâu dài, trong khi Cung bảy Trật tự Nghi lễ bắt đầu đi vào cuộc biểu hiện từ năm 1675. Cần lưu ý ba điều liên quan đến hai cung này và ảnh hưởng của chúng đối với nhân loại. (Vận mệnh các quốc gia)
* NTH diễn giải năng lượng Cung tiến nhập: Quy luật chu kỳ các Cung năng lượng tri phối Thái dương hệ/ Nhân loại theo chu kỳ Sinh - Vượng - Mộ - Tuyệt. Có nghĩa, khi năng lượng đang chủ trị kỳ chi phối đạt đến cực điểm thì phải biến thoái/ Rút dần ra theo quy luật "Vật cực thì biến", năng lượng này tương ứng với giai đoạn MỘ (Vòng trường sinh), năng lượng khi thoái lui hoàn toàn tương ứng vời kỳ "TUYỆT/ Tính không". Theo đó, một Cung năng lượng khác Khởi sinh tiến nhập vào chi phối, quy định sự tiến hóa của Nhân loại một Thời kỳ mới/ Chu kỳ mới - Tương ứng kỳ SINH trong Sinh - Vượng - Mộ - Tuyệt. Ở trên ta thấy giữa năm "Bắt đầu Ra - Vào" là 1625 đến 1675 = 50 năm [Đây xem như thời điểm năng lượng khởi sinh như đứa trẻ mới sinh cần 50 năm để có thể chi phối (Xem như chưa phát huy tác dụng). Nếu xem một kỳ Bảo Bình = 2.100 năm, với sự phát triển năng lượng qua 3 kỳ (Một Cung Hoàng đạo chia 3 phần) tương ứng 700 năm. Chia Sinh - Vượng là 350 năm, Mộ - Tuyệt là 350 năm là năng lượng đó chi phối hết giai đoạn SINH của chu kỳ lớn 2.100 năm. Vậy mỗi kỳ 350 năm có 50 năm chưa thể phát huy tác dụng => 300 năm để xét năng lượng mới tiến nhập đó thật sự bắt đầu chi phối sự tiến hóa Thái dương rõ dàng, có thể dự đoán_ Lời NTH.
+ Những tiên đoán với nhân loại đầu kỳ thời Bảo Bình: ... cung sáu (Đang rút) đang biểu hiện mạnh nhất hiện nay, và rất nhiều người đang đáp lại ảnh hưởng của nó. Nó vẫn là đường lối ít trở ngại nhất dành cho đa số, đặc biệt là trong chủng tộc Aryan.... một nhịp điệu và động lượng (Cung 6) được tạo ra, tồn tại rất lâu và tăng cường năng lượng nhờ chính sức mạnh của đông đảo những người trong tổ chức. Đương nhiên, người thuộc cung sáu có tính bảo thủ, phản động, cố chấp, và cuồng tín..... Họ bám chặt vào tất cả những gì thuộc về quá khứ, với ảnh hưởng mạnh mẽ ngăn trở bước tiến của nhân loại đi vào thời đại mới. Họ đông vô kể. Tuy nhiên, họ tạo sự cân bằng cần thiết, và mang lại tiến trình bền vững rất cần trên thế giới hiện nay.
2. Cung bảy đã liên tục tích lũy động lượng, và từ lâu đã kích thích và tăng cường hoạt động của tất cả các quốc gia thuộc cung năm. Một trong những mục tiêu chủ yếu của năng lượng cung bảy là nhằm phối hợp và liên kết tinh thần và vật chất, cũng như nối kết chất liệu và hình thể (cần phân biệt rõ điều này). Hiểu như thế, bạn có thể thấy rằng công tác của khoa học có liên quan mật thiết với cố gắng này, và thấy rằng việc tạo nên các hình thể mới rõ ràng là kết quả tương tác hoạt động giữa các vị chúa cung năm, cung hai và cung bảy, với sự trợ giúp của vị chúa cung một – khi có yêu cầu. Một số đông các chân nhân hay linh hồn thuộc cung bảy cũng như những người nam và nữ có phàm nhân thuộc cung bảy hiện đang lâm phàm. Họ được giao nhiệm vụ tổ chức các hoạt động của thời đại mới, chấm dứt những phương pháp sinh hoạt cũ kỹ, cùng những thái độ cứng nhắc, lỗi thời về sự sống, sự chết, thời gian nhàn rỗi, và đối với tha nhân.....
Hiện nay: Số ít những Linh hồn Cung 2 lâm phàm dẫn lối tiến hóa đa số nhân loại thời kỳ Cung bảy nhập.
Rất nhiều, đa số linh hồn đang giáng trần có phàm nhân thuộc cung sáu hay cung ba. Họ chi phối nền văn minh sắp đến rất nhiều, gồm tất cả các lĩnh vực giáo dục và tài chính,... (Vận mệnh CQG_Tr31)
+ Xung đột năng lượng nhập xuất: .... 1. Ảnh hưởng của các cung ra đi và nhập cuộc vào một thời gian nào đó ... - vì sự xuất lộ và tan biến của ảnh hưởng một cung là một sự kiện xảy ra trong vòng thời gian – vốn phát triển chậm chạp, có tính chất thuộc về tâm lý, và chịu chi phối bởi định luật. Khoảng thời gian mà một cung xuất hiện, biểu hiện, và thực thi công tác của nó rồi cuối cùng tan biến, (Sinh - Vượng - Mộ - Tuyệt_NTH) là một trong những bí mật của điểm đạo. Thế nhưng, theo thời gian và khi tính chất của thời gian được hiểu rõ hơn, thì thời khoảng và sự hiệu chỉnh thời gian của các cung thuộc tính sẽ được xác lập. (Tr 32)
+ Ngày nay, cả thế giới đều bị lôi cuốn vào tình trạng xáo trộn và hỗn loạn do sự va chạm của các mãnh lực cung sáu và cung bảy. Khi một cung ra đi và một cung khác đi vào cuộc biểu hiện, và tác động của chúng đối với địa cầu cũng như mọi hình thể trong tất cả các giới của thiên nhiên đến mức hai ảnh hưởng này cân bằng, thì bấy giờ sẽ đến thời điểm khủng hoảng rõ rệt.
A- HUYỀN THUẬT HAY CHÁNH ĐẠO
+ Huyền thuật (Magic). GLBN I, 284.
- Huyền thuật là một khoa học thiêng liêng dẫn đến việc tham dự vào các phẩm đức (attributes) của chính sự thiêng liêng. Isis Unveiled I, 25.
- Mọi hoạt động huyền thuật cốt ở việc gạt bỏ các khúc cuộn của Con Rắn Cũ xưa (Ancient Serpent). Isis Unveiled I, 138.
- Mục tiêu của Khoa huyền thuật là sự hoàn thiện của con người. Isis Unveiled I, 309.
- Pháp thuật thiêng liêng cốt ở khả năng nhận ra tinh hoa của các sự vật dưới ánh sáng của thiên nhiên (cảm dục quang, astral light) và – bằng cách dùng các sức mạnh - linh hồn của Tinh Thần – để tạo ra các sự việc vật chất từ vũ trụ không nhìn thấy, và bằng các hoạt động như thế, Thượng (Above) và Hạ (Below) phải được tập hợp lại và tạo ra một tác động hài hòa. GLBN II, 538.
- Huyền thuật và từ lực (magnetism) là các thuật ngữ đồng nghĩa. Isis Unveiled I, 279.
- Huyền thuật là toàn bộ tri thức tự nhiên (natural knowledge). Isis Unveiled II, 99, 189.
- Huyền thoại không hàm ý sự vi phạm các định luật của thiên nhiên. Isis Unveiled I, Preface.
+ Căn bản của Huyền thuật.
- Huyền thuật được dựa vào các quyền năng bên trong của linh hồn con người . Isis Unveiled I, 459.
- Trinity của thiên nhiên là ổ khóa của huyền thuật, trinity của con người là chìa khóa vừa với nó. Isis Unveiled II, 635. 3.
- Huyền thuật là tâm lý học huyền linh. Isis Unveiled I, 612 – 616 4.
- Cảm dục quang là tác nhân chính của huyền thuật. Isis Unveiled I, 128. GLBN I, 275; II, 537.
+ Huyền thuật. Chính thuật ngữ Magic (Huyền Thuật) mang bằng chứng về nguồn cội cao siêu của nó. Tiếng La Tinh Magus, tiếng Hy Lạp Magos, tức nhà huyền thuật (magician), đem lại cho tất cả chúng ta các thuật ngữ khác này biểu thị cho uy quyền, minh triết, sự vượt trội. Kế đó chúng ta có phạm vi ảnh hưởng lộng lẫy, khoa trương, để diễn tả sự lớn lao ở vị thế, trong hành động và trong ngôn từ. Với âm tiết cuối hơi thay đổi, các từ giống nhau trở nên oai vệ, hàm ý quyền chi phối, và lần nữa, chúng ta có vị thẩm phán (magistrate), bất cứ điều gì có uy quyền mà lần nữa đã được đơn giản hóa thành Đức Thầy, và sau cùng bằng tiến trình tiến hóa ngôn từ đã trở thành chữ Mister (Ông) dễ hiểu. Nhưng chữ La Tinh chỉ là một cách truyền đạt các từ. Chúng ta cũng có thể lần theo sự phát triển lịch sử của ngữ căn này đến lúc chúng ta đạt đến ngôn ngữ Zend nơi mà chúng ta tìm thấy nó làm nhiệm vụ dưới tên dành cho toàn thể đẳng cấp tu sĩ. Các nhà huyền thuật (magi) được biết đến trên khắp thế giới vì sự minh triết và khéo léo của họ trong huyền linh học, và chắc chắn là từ ngữ huyền thuật hầu như mắc nợ vào cội nguồn đó vì sự tồn tại và ý nghĩa hiện nay của nó. Vậy chúng ta không cần dừng lại ngay cả nơi đây để trở lại ngôn ngữ Zend “mag”, hiện ra mờ mờ từ Bắc Phạn ngữ, maha, có nghĩa là vĩ đại”. Các học giả lỗi lạc nghĩ rằng chữ maha (lớn, đại) được viết theo chính tả lúc đầu mà “magha”. Phải công nhận là trong Bắc Phạn ngữ (sanskrit) có chữ Maga nghĩa là một thầy tu của Mặt Trời, nhưng chữ này rõ ràng là một từ vay mượn từ Zend (ngôn ngữ ?-ND) có nguồn gốc của nó từ ngôn ngữ láng giềng của nó là Bắc Phạn ngữ. (Nguồn: Tạp chí Lucifer, q X, 157.)
+ Huyền Thuật (Magic). Pháp thuật thiêng liêng cốt ở khả năng nhận ra tinh hoa của các sự vật dưới ánh sáng của thiên nhiên (cảm dục quang, astral light) và – bằng cách dùng các sức mạnh - linh hồn của Tinh Thần – để tạo ra các sự việc vật chất từ vũ trụ không nhìn thấy, và bằng các hoạt động như thế, Thượng (Above) và Hạ (Below) phải được tập hợp lại và tạo ra một tác động hài hòa. GLBN II, 538.
+ Magic là Vidya thứ hai trong bốn Vidyas (Minh Triết Tri Thức) và là maha - Vidya vĩ đại trong các tác phẩm Vạn Pháp Kỳ Thư (Tantric writtings). Nó cần có ánh sáng của vidya thứ tư (atma vidya, minh triết tinh thần) chiếu rọi lên nó để trở thành White Magic (Huyền Linh Thuật). GLBN I, 192.
+ Xem thêm: Chánh đạo/ Huyền thuật và Tà đạo/ Hắc thuật (LVLCK)
A- CHÁNH ĐẠO - Huyền thuật / Từ lực / Huyền linh thuật/ Tâm lý học huyền linh (Magic).
- Mục tiêu của Khoa huyền thuật là sự hoàn thiện của con người. Pháp thuật thiêng liêng cốt ở khả năng nhận ra tinh hoa của các sự vật dưới ánh sáng của thiên nhiên (cảm dục quang - Tác nhân chính) và – bằng cách dùng các sức mạnh - linh hồn của Tinh Thần – để tạo ra các sự việc vật chất từ vũ trụ không nhìn thấy, và bằng các hoạt động như thế, Thượng (Above) và Hạ (Below) phải được tập hợp lại và tạo ra một tác động hài hòa. GLBN II, 538.
- Trinity của thiên nhiên là ổ khóa của huyền thuật, trinity của con người là chìa khóa vừa với nó.
+ Ứng Dụng Của Pháp thuật Hành Đạo Với Hắc Đạo Và Quỷ Thần
Hỏi: Dùng bùa chú như thế nào để đối phó với ma quỷ yêu tinh?
Đáp: Pháp thuật của ngoại đạo, của các loài yêu ma quỷ quái có lúc làm cho quý vị nhức đầu, đau răng, đau mắt, hoặc khiến cho quý vị không thể đi đứng, bị chóng mặt, hay phát cuồng nói bậy. Lúc đó các vị tụng chú thì sẽ phá được pháp thuật của chúng nó, khiến pháp thuật của chúng không còn linh nghiệm, chớ không phải là vô cớ bảo quý vị đi đối phó loài yêu ma quỷ quái đâu! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp câu hỏi 270)
+ Giờ đây những phương pháp nào có thể được sử dụng để bảo toàn người phụng sự nhân loại? Làm thế nào để bảo đảm an toàn cho họ trong cuộc xung đột hiện tại và trong cuộc xung đột còn lớn lao hơn của các thế kỷ sắp đến?
1. Hãy nhận thức rằng sự thanh khiết của tất cả các thể là điều kiện tiên quyết. Nếu một vị Hắc đạo chế ngự được một người nào thì điều ấy chứng tỏ rằng cuộc sống y có một vài nhược điểm. Cánh cửa xâm nhập phải do người đó tự mở ra, và kẽ hở mà sức mạnh độc hại có thể tràn vào phải do chủ nhân các thể tự tạo. Vì thế cần phải thận trọng gìn giữ xác thân hết sức sạch sẽ, chỉ có những tình cảm thanh khiết, vững vàng trong thể tình cảm, và tư tưởng trong thể trí phải thật thanh cao. Khi làm được như vậy, sẽ có sự điều hợp trong các hạ thể và Người suy tưởng (Chân ngã) ở nội tâm sẽ ngăn được mọi sự xâm nhập.
2. Hãy chấm dứt mọi nỗi sợ hãi. Những mãnh lực thăng thượng tiến hóa rung động mau lẹ hơn các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, đây có thể hiểu là yếu tố an toàn. Sự sợ hãi làm suy yếu; suy yếu làm tan rã; một điểm yếu vỡ ra tạo nên khoảng trống, qua đó mãnh lực ác hại có thể xâm nhập. Yếu tố xâm nhập là sự sợ hãi của chính đương sự, y tự mở ra cánh cửa theo cách đó.
3. Hãy điềm tĩnh, vững vàng dù điều gì xảy ra cũng vậy. Chân bạn có thể chìm trong bùn lầy của mặt đất, nhưng đầu bạn có thể tắm trong ánh nắng mặt trời ở trên cao. Hãy nhận biết bùn lầy của thế gian nhưng đừng để bị nhiễm bẩn.
4. Hãy biết cách dùng lương tri và áp dụng lương tri vào vấn đề đang có. Hãy ngủ nhiều và trong khi ngủ tìm cách làm cho cơ thể trở nên tích cực. Hãy cố gắng làm công việc trên cõi tình cảm và giữ gìn sự an tịnh nội tâm. Đừng bắt thân xác làm việc quá mệt mỏi, và chơi đùa bất cứ khi nào có dịp. Những giờ ngơi nghỉ, thư thả giúp điều chỉnh, ngăn ngừa những sự căng thẳng về sau.
Cõi Chánh Đạo Ngự trị: Ở cõi trần và cõi tình cảm huynh đệ Hắc đạo chiếm ưu thế. Nhưng ở cõi trí thì không mạnh như vậy, vì đó là cõi mà các Huynh đệ Chánh đạo đang hoạt động. Những nhà hắc thuật cao cường có thể hoạt động ở cõi hạ trí, chứ ở cõi thượng trí thì Chánh đạo ngự trị (TTHM, 136_Nguy hiểm trong tham thiền)
B- HẮC THUẬT HAY TÀ ĐẠO/ TÀ THUẬT
+ Đối–Christ (Anti–Christ): Người tìm đạo thuộc cung hai tạo ra Tổng Quả Báo (Dweller) của mình và để cho sự kềm chế ngày càng mạnh của nó trở thành “kẻ lừa phỉnh của linh hồn” (“deluder of souls”). Y là kẻ Đối – Christ thực sự, và qua giáo huấn sai lầm và sự tác động của những gì được gọi là huyền diệu, qua sự thôi miên và sự ám thị tập thể (mass suggestion), y giăng bức màn qua thế gian và bắt con người bước đi trong đại hão huyền. (LVHLT, 240)
+ Hãy nhớ rằng nhà hắc thuật thật sự (ở đây Tôi không đề cập đến một người có xu hướng hắc thuật) là một thực thể mất linh hồn (a soulless entity). Y là một thực thể mà trong y, Chân Ngã (Ego) – theo như chúng ta hiểu thuật ngữ đó ngày nay – không tồn tại (non-existent). Nó thường không được …. ác, kết quả là tận thế và bắt đầu ngày phán xét cuối cùng.-- ND …. chú ý và ít khi được thấu hiểu hoặc được biểu lộ, nên do đó, chúng không tồn tại trong thể xác. Thế giới của chúng bao giờ cũng là thế giới ảo tưởng. Từ cõi hạ trí, chúng tác động vào chất liệu dục vọng và vào thể cảm dục của những người trên cõi trần, vốn là những người bị ảo giác lôi cuốn và bị giữ lại trong xiềng xích của lòng ích kỷ cực độ, và việc tự cho mình là trung tâm (self-centeredness). Điều mà những người vô minh gọi là một nhà hắc thuật trên cõi trần chỉ là một người nam hoặc nữ nào đó nhạy cảm với, hoặc đồng cảm với một nhà hắc thuật thực sự trên cõi cảm dục. Mối quan hệ này chỉ có thể xảy ra khi đã có nhiều kiếp sống ích kỷ, dục vọng thấp kém, khát vọng trí tuệ lầm lạc, và ưa thích thông-linh-thuật (psychism) hạ đẳng, và điều này chỉ có thể xảy ra khi con người đã tự nguyện để cho chúng giam giữ trong cảnh nô lệ. (LVHLT, 545)
+ Pháp Thuật Hắc Đạo “Trù yếm thư chú kết oán thù.”
“Yếm mị chú thư” tức là tà chú, tà thuật thư ếm hại người. Có phái ngoại đạo dường như có một loại chú thư. Trong Mật Tông chẳng hạn, có một loại chú mà kẻ nào niệm được bài chú này, tu luyện được thứ phép thuật này, thì nội trong bảy ngày, kẻ ấy bảo quý vị chết thì quý vị sẽ chết, bảo quý vị sống thì quý vị được sống. Cho nên, Mật Tông xem ra cũng rất lợi hại! Quý vị nào có bạn bè theo Mật Tông thì cần phải cẩn thận một chút! Nếu quý vi có ý đắc tội với họ, thì coi chừng họ sẽ niệm chú cho quý vị chết! Thế nhưng, đây chính là một thứ tánh nết của A tu la, không có tâm từ bi. Như vậy tức là “yếm mị.”
Họ làm một “tiểu nhân” tức là một hình nhân nho nhỏ, trên đó có ghi rõ “sanh thần bát tự” [năm tháng ngày giờ sinh viết theo can chi] của quý vị; rồi hôm nay thì lấy kim chọc vào mắt hình nhân cho mù, ngày mai dùng kim đâm vào tai hình nhân cho điếc, ngày mốt lấy kim châm vào cổ họng hình nhân và bấy giờ quý vị sẽ bị đứt hơi mà chết! Đây là phép thuật của bàng môn tả đạo.
Tuy nhiên, quý vị chớ nên sợ hãi, chỉ cần quý vị có thể niệm Chú Đại Bi, thì họ có dùng phép thuật gì cũng đều không công hiệu cả.
“Kết oán thù.” “Kết” tức là cột vào với nhau; “oán thù” tức là thù hận vô cùng sâu nặng.
“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi.” Bấy giờ, quý vị chí thành khẩn thiết xưng tụng Thần chú Đại Bi, thì “trù ếm trở về nơi bổn nhân.” Họ muốn ám hại người khác, nhưng các phép thuật độc ác đó lại trở về nơi thân họ, khiến họ tự thọ quả báo! (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ NÊN NHỚ: Hắc đạo họ không kính trọng ai cả, xem mọi người như là miếng mồi ngon. Họ bắt buộc mọi người phải làm theo đường lối của họ, và dùng những phương tiện đúng đắn hay bẩn thỉu để triệt hạ mọi chống đối và để cá nhân họ đạt được những gì họ muốn. Vị hắc đạo không để ý đến nỗi đau khổ mà y có thể gây ra. Y không bận tâm đến sự đau đớn tinh thần mà y mang lại cho kẻ chống đối y. Y cứ thực hiện ý định và không ngừng gây tổn thương cho bất cứ ai, đàn ông, phụ nữ hay trẻ em, miễn là việc làm đó khiến y thêm đến gần mục đích. Tuyệt đối không bao giờ nên trông mong lòng nhân từ của những kẻ chống lại Quang minh Chánh đạo.
Ở cõi trần và cõi tình cảm, các vị bàng môn có nhiều quyền lực hơn các Huynh đệ Ánh sáng (Ở Cõi trí, đặc biệt Thượng trí Chánh đạo ngự trị), không hơn về quyền năng thực sự, mà chỉ hơn về quyền năng bề ngoài, vì các Huynh đệ Chánh đạo không tìm cách thi thố quyền năng của mình trên hai cảnh giới đó, như phe Hắc đạo làm. Họ có thể vận dụng thẩm quyền của mình nhưng lại tự hạn chế, chỉ làm việc với các quyền năng thăng thượng tiến hóa, chứ không với các quyền năng tiến hóa giáng hạ. Những lực lượng tinh linh ở hai cảnh giới này được vận dụng bởi hai yếu tố.
a. Những mãnh lực cố hữu của cơ tiến hóa đang hướng dẫn tất cả đi tới hướng về sự hoàn thiện cuối cùng. Các Chân sư Chánh đạo đang hợp tác trong công cuộc này.
b. Các vị Hắc đạo đôi khi sử dụng các lực lượng tinh linh này để thỏa mãn ý muốn của họ và trả thù những người chống lại họ. Dưới sự điều khiển của họ, đôi khi có những tinh linh của cõi trần phục vụ như những thần giữ của và các loài tinh hoa hình dạng xấu xa, vài loại thần lùn và các tiên nữ màu nâu, màu xám và màu tối. Họ không thể kiểm soát được các thiên thần tiến hóa cao, cũng như các tiên nữ màu xanh, màu xanh lục và vàng, dù một số tiên nữ màu đỏ có thể bị buộc phải làm việc theo chỉ thị của họ. Những tinh linh dưới nước (không phải là thủy thần hay thủy tiên) có khi cũng đến trợ giúp họ. Khi kiểm soát được các lực lượng tiến hóa giáng hạ này họ cũng đôi lần gây tổn thất cho công việc của chúng ta.
Thường thì vị Hắc đạo giả làm một nhân viên Chánh đạo, họ thường đóng vai một sứ giả của thần thánh. Nhưng tôi đoán chắc với các bạn rằng, người nào hành động dưới sự hướng dẫn của Chân nhân mình sẽ có tầm mắt sáng tỏ và tránh được sự lừa gạt. (TTHM, 136_Nguy hiểm trong tham thiền)
+ Các ghi chú về Hắc thuật và huyền thuật: (LVLCK, tr 393-399)
+ Tả đạo (The Left–hand Path): Là con đường mà kẻ theo hắc đạo (black magician) và các huynh đệ trong bóng tối (brothers of the Shadows) đi theo. Nó bắt nguồn từ việc sử dụng các mãnh lực của thiên nhiên vào các mục đích ích kỷ; điểm nổi bật của nó là lòng ích kỷ và tính chia rẽ mạnh mẽ và chấm dứt nơi cõi A tỳ (Avitchi), tức cõi thứ 8, trú sở của các linh hồn bị sa đọa (lost soul) hay các lớp vỏ (shells) của con người hạ đẳng đã trở nên tách biệt với nguyên khí sự sống Chân Ngã hay cá nhân. (LVLCK, 642)
+ Tà thuật (Voodooism, tà đạo/ Black magic): Chỉ là việc lạm dụng các quyền năng thông linh (psychic powers), hoặc lạm dụng bất cứ bí nhiệm nào của thiên nhiên, đúng ra là dùng sức mạnh của huyền học vào các mục đích ích kỷ, tội lỗi. (CKMTTL, 223).
Nhà ma thuật dứt khoát là đã sử dụng các bộ phận thân thể này (tức là não, phổi, tim, lá lách và các cơ quan sinh sản–ND) để tạo ra một loại thần lực, vốn là sự pha trộn của lực dĩ thái và năng lượng vật chất trọng trược, giúp cho y có thể làm được một vài hình thức pháp thuật, cũng như là tạo ra những hiệu quả trên các thể xác của loài thú và loài người. Chính kiến thức về điều này là nền tảng của tà thuật và của tất cả những cách thực hành gây ra sự suy kiệt (depletion) và chết chóc của những kẻ cản trở đường đi của nhà ma thuật hay bị y coi là kẻ thù. (ASCLH, 222–223)
C- SO SÁNH GIỮA HUYỀN THUẬT HAY CHÁNH ĐẠO VÀ HẮC THUẬT HAY TÀ ĐẠO
+ Con Đường Tiến Hóa của Hắc Đạo và Chánh Đạo:
- Con đường Ly Nguyên (Path of Outgoing): Con đường ly nguyên đưa vào vật chất. (CTHNM, 569)
* Huynh đệ hắc đạo dồn hết thì giờ vào các mãnh lực giáng hạ tiến hóa, hay là Con Đường Ly Nguyên. (LVLCK, 987)
- Con đường Qui Nguyên (Path of Return, Phản Bổn Hoàn nguyên):
* Huynh Đệ Chánh Đạo: Như người ta biết rõ, nhà huyền linh học hoạt động theo khía cạnh tiến hóa thăng thượng hay liên quan đến Con đường Qui Nguyên. (LVLCK, 987)
+ Hắc Đạo và Chính Đạo: Nhiều điều được nói ra trong số các đạo sinh huyền môn ngày nay về chính đạo và tà đạo. Điều cần nói chính xác là giữa hai loại người đó, đường ranh giới rất mong manh, khó mà nhận biết bởi những người cho đến nay, không xứng đáng với danh xưng là “kẻ biết”. Sự phân biệt giữa hai hạng người này là ở nơi cả hai động lực và phương pháp, có thể được tóm tắt như sau:
- Nhà huyền linh học có động lực trong những gì sẽ đem ích lợi cho tập thể mà người này dùng hết năng lực và thời gian cho tập thể đó. Hạng người theo tả đạo bao giờ cũng hoạt động một mình, hoặc là nếu vào bất cứ lúc nào y cộng tác với những người khác, thì đó là với mục đích ích kỷ ẩn giấu. Kẻ kiệt xuất của huyền linh học tự mình chú ý vào công việc nỗ lực có tính cách kiến tạo để cộng tác với các kế hoạch của Thánh Đoàn và để xúc tiến các ý muốn (desires) của Đức Hành Tinh Thượng Đế.
- Huynh Đệ Hắc Đạo dồn hết thì giờ của mình vào những gì nằm bên ngoài các kế hoạch của Thánh Đoàn và vào những gì không được đưa vào trong mục tiêu của Đấng Chủ Quản Cung của hành tinh.
Như có nói ở trước, nhà huyền linh học hoạt động hoàn toàn qua các Thần Kiến Tạo cao cấp, qua âm thanh và các con số mà Ngài phối hợp vào công việc các Ngài, và như thế có ảnh hưởng lên các Thần Kiến Tạo cấp thấp đang hợp thành vật chất của các thể của các Ngài, và do đó hết thảy những gì hiện hữu. Ngài hoạt động qua các bí huyệt và các điểm năng lượng thiết yếu, và từ đó tạo ra trong vật chất các kết quả mong muốn. Hắc phái làm việc trực tiếp với chính vật chất và với các thần tạo tác cấp thấp. Hắc phái không hợp tác với các thần lực xuất phát từ các phân cảnh Chân Ngã. Các băng nhóm nhỏ của “Đạo Binh Âm Thanh” là những kẻ phụng sự của hắc phái, và không có các Trí Tuệ điều khiển trong ba cõi thấp, do đó hắc phái hoạt động trước tiên trên cõi cảm dục và cõi trần, chỉ trong các trường hợp hiếm hoi mới hoạt động với các mãnh lực của cõi trí, và chỉ trong một ít trường hợp đặc biệt, ẩn giấu trong karma vũ trụ, một nhân viên hắc đạo mới hoạt động trên các phân cảnh cao của cõi trí. Tuy nhiên, các trường hợp được thấy ở trên là các nguyên nhân đóng góp chính của mọi hắc đạo đang biểu lộ. Huynh Đệ Chính Đạo bao giờ cũng hoạt động qua mãnh lực cố hữu của Ngôi Hai chừng nào mà vị này còn hoạt động liên quan với ba cõi thấp. Sau kỳ điểm đạo thứ ba, vị này hoạt động ngày càng nhiều với năng lượng tinh thần, hoặc là với thần lực của Ngôi Một. Ngài tạo ấn tượng lên các chất liệu hạ đẳng và vận dụng các sinh linh tạo tác cấp thấp với rung động của bác ái và sự mạch lạc thu hút của Ngôi Con, và nhờ minh triết mà các hình hài được tạo ra. Ngài học cách hoạt động từ tim, và do đó vận dụng loại năng lượng đang tuôn chảy từ “Tâm của Mặt Trời” cho đến khi (Ngài trở thành Đức Phật) Ngài có thể phân phát một phần thần lực phát ra từ “Mặt Trời Tâm Linh”. Do đó, bí huyệt tim trong Huynh Đệ Chính Phái là môi giới truyền chuyển của lực kiến tạo, và tam giác mà y sử dụng trong công tác này là:
a/ Bí huyệt trong đầu tương ứng với tim.
b/ Chính bí huyệt tim.
c/ Bí huyệt cổ họng.
Các Huynh Đệ Tả Phái hoạt động với các lực hoàn toàn của Ngôi Ba, và chính điều này mang lại cho họ rất nhiều quyền năng có vẻ thực, vì Ngôi Hai chỉ đang ở trong tiến trình đạt đến mức rung động cao nhất của nó, trong khi Ngôi Ba đang ở đỉnh cao của hoạt động rung động, vốn là sản phẩm của các diễn trình tiến hóa của thái dương hệ chính có trước kia. Ngôi này hầu như hoàn toàn hoạt động từ bí huyệt cổ họng, và trước tiên vận dụng các thần lực của mặt trời vật chất. Đây là lý do giải thích tại sao ngôi này đạt được nhiều mục tiêu của mình qua phương pháp kích thích prana hoặc phương pháp làm mất sinh khí của prana, và cũng giải thích tại sao đa số các ảnh hưởng của ngôi này đều xảy ra trên cõi trần. Do đó, ngôi này hoạt động qua
a/ Bí huyệt trong đầu tương ứng với bí huyệt cổ họng.
b/ Bí huyệt cổ họng.
c/ Bí huyệt ở đáy xương sống.
Nhà huyền linh học luôn luôn hoạt động kết hợp với những người khác, và chính y ở dưới sự chi phối của một số vị Lãnh Đạo nhóm. Ví dụ các Huynh Đệ của Bạch Giai hoạt động dưới quyền ba vị Đại Thánh và tuân theo các kế hoạch được đề ra, đặt các mục tiêu cá biệt và các ý kiến của các Ngài dưới đại kế hoạch chung. Kẻ theo hắc phái thường hoạt động mạnh theo cách cá nhân, và có thể được thấy đang xúc tiến các kế hoạch của y một mình hoặc có sự trợ giúp của các phụ tá. Y thường không chấp nhận một cấp trên quen thuộc nào, tuy nhiên lại thường là nạn nhân của các kẻ thừa hành trên các phân cảnh cao của tà lực vũ trụ, kẻ dùng y như y dùng các kẻ cộng tác thấp kém của y, nghĩa là, y hoạt động (bao giờ mà mục tiêu lớn hơn còn liên quan tới) một cách mù mờ và thiếu ý thức.
Như chúng ta biết rõ, kẻ theo chính đạo làm việc theo khía cạnh tiến hóa thăng thượng hay liên quan với Con Đường Hoàn Nguyên (Path of Return). Huynh đệ hắc đạo bận tâm vào các mãnh lực giáng hạ tiến hóa, hay là với Con Đường Hướng Ngoại (Path of Outgoing). Họ tạo thành mãnh lực thăng bằng lớn trong cơ tiến hóa, và mặc dù họ bận tâm với khía cạnh vật chất của biểu lộ, còn Huynh Đệ Chính Đạo lo về trạng thái linh hồn hay tâm thức, họ và công việc của họ, ở dưới đại luật tiến hóa, góp phần vào mục tiêu chung của Thái Dương Thượng Đế, mặc dù (và đây là ý nghĩa huyền bí tuyệt diệu đối với đạo sinh giác ngộ) không đóng góp vào mục tiêu riêng của Hành Tinh Thượng Đế.
Sau cùng có thể nói vắn tắt về các phân biệt giữa các nhà pháp thuật, đó là nhà pháp thuật của Thiên Luật hoạt động với linh hồn của các sự vật. Các huynh đệ hắc phái của y hoạt động theo khía cạnh vật chất.
Nhà huyền linh học hoạt động qua các trung tâm lực trên các cõi phụ thứ nhất và thứ tư của mỗi cõi chính. Kẻ theo hắc phái hoạt động qua các vi tử thường tồn và với vật chất và các hình hài có liên hệ. Trong mối liên hệ này, nhà huyền linh học sử dụng ba trung tâm lực cao. Kẻ theo hắc đạo sử dụng năng lượng của ba trung tâm lực thấp (các cơ quan sinh sản, lá lách và huyệt đan điền) tổng hợp năng lượng của họ bằng một tác động của ý chí và hướng nó vào trung tâm lực ở đáy xương sống, sao cho năng lượng tứ phân đó bây giờ được truyền tới bí huyệt cổ họng.
Nhà huyền linh học vận dụng mãnh lực kundalini khi nó được truyền qua vận hà giữa xương sống. Người theo hắc đạo vận dụng các vận hà bên trong, chia năng lượng tứ phân thành hai đơn vị, đi lên xuyên qua hai vận hà, để cho vận hà giữa ở trạng thái yên ngủ. Do vậy rõ ràng là một vận hà hoạt động với hai mặt, còn vận hà kia hoạt động với một mặt. Do đó, trên các cõi có hai mặt (planes of duality) hiển nhiên là tại sao kẻ theo hắc đạo có rất nhiều quyền năng này. Cõi có một mặt (plane of unity) đối với nhân loại là cõi trí. Các cõi có tính đa dạng (planes of diversity) là cõi cảm dục và cõi trần. Do đó, kẻ theo hắc đạo có quyền năng rõ rệt hơn là huynh đệ chính đạo trên hai cõi chính thấp (two lower planes) thuộc ba cõi thấp (three worlds, - hồng trần, cảm dục và hạ trí – ND).
Huynh đệ chính đạo làm việc dưới quyền Thánh Đoàn, hay là dưới quyền Vị Chúa vĩ đại (great King), đang thi hành các mục tiêu thuộc hành tinh của Ngài. Huynh đệ hắc đạo làm việc dưới quyền một vài Thực Thể riêng rẽ, mà y không biết gì cả, các Thực Thể này có liên quan với các mãnh lực của chính vật chất. Nhiều điều hơn có thể được đưa ra trong mối liên hệ này, nhưng những gì được đưa ra ở đây cũng đủ cho mục đích của chúng ta.
b/ Cội nguồn của Hắc Thuật. Khi đề cập đến điểm này, chúng ta đang xâm phạm vào các lãnh vực của huyền bí và địa hạt không thể giải thích được. Tuy nhiên, một vài diễn đạt có thể được đưa ra ở đây mà, nếu được suy nghiệm, có thể rọi một ít ánh sáng vào vấn đề tối tăm này.
Thứ nhất. Nên nhớ rằng toàn bộ vấn đề tai họa hành tinh (và đạo sinh phải thận trọng giữa tệ trạng hành tinh với tệ trạng vũ trụ) nằm ẩn giấu trong các chu kỳ sống của cá nhân và trong lịch sử của Thực Thể Vĩ Đại chính là Hành Tinh Thượng Đế của Địa Cầu. Do đó mãi cho tới khi một người đã được một số lần điểm đạo và như vậy đạt được một mức độ tâm thức hành tinh, thật là vô ích cho y khi suy đoán về sự ghi nhận đó. Trong bộ GLBN (q. III, 62; Đoạn 6, trang 27), H.P.B. có nói đến vấn đề “Các Thượng Đế chưa hoàn thiện”, và trong các ngôn từ này có ẩn chìa khóa về tệ trạng hành tinh (planetary evil)... (Nguồn: sách Luận về lửa càn khôn trang 397 - 410)
+ Hắc thuật sử dụng cảm dục quang (astral light) với mục đích lừa dối và quyến rủ, trong khi đó, huyền thuật sử dụng với mục đích thông tin và trợ giúp sự tiến hóa. (SD–I, 274)
1. Hắc thuật làm việc với các đối cực. Huyền thuật tìm kiếm điểm cân bằng hay quân bình và tổng hợp. (SD–I, 448)
2. Hắc thuật có biểu tượng là ngôi sao 5 cánh lật ngược. Huyền thuật sử dụng cùng biểu tượng với đỉnh hướng lên trên.
3. Hắc thuật là đại minh triết pháp thuật (Maha–Vidya) không có ánh sáng của minh triết tinh thần chân chính (Atma– Vidya). Huyền thuật là đại minh triết pháp thuật được soi sáng bằng minh triết tinh thần chân chính. (SD–I, 592)
4. Hắc thuật bị chi phối bởi mặt trăng. Huyền thuật được chi phối bởi mặt trời.
5. Hắc thuật và huyền thuật xuất phát trong kỳ đại phân ly tôn giáo (great schism) xảy ra trong căn chủng thứ tư. (SD–II, 221, 445, 520)
6. Hắc thuật dựa vào sự suy thoái về tính dục và về chức năng sáng tạo. Huyền thuật dựa vào sự chuyển hóa của khả năng sáng tạo thành tư tưởng sáng tạo cao siêu, các cơ quan sinh sản không được luồng nội hỏa (inner fire) lưu tâm đến, nội hỏa này chuyển qua bí huyệt cổ họng, trung tâm lực của âm thanh sáng tạo.
1. Hắc thuật liên quan đến các mãnh lực tiến hóa giáng hạ (involution). Huyền thuật hoạt động với năng lực tiến hóa thăng thượng. Hắc thuật liên quan với sắc tướng, với vật chất. Huyền thuật liên quan với sự sống bên trong hình hài, với Tinh thần. (LVLCK, 985)
+ Xem thêm: Chánh đạo/ Huyền thuật và Tà đạo/ Hắc thuật (LVLCK)
+ Năng lượng cung chi phối hình thể/ Thân xác con người: .... Nhân loại bị chi phối bởi hai loại hay dạng năng lượng này (Cung sáu đã ra đi và cung bảy đang biểu lộ), bị đưa “ra khỏi mức trung dung”, vì thế mà phải chịu hết sức khó khăn và căng thẳng trong thời kỳ hiện tại trên thế giới. Điều này không chỉ vì tác động đồng đều (Tương tác mạnh nhất) của hai loại năng lượng nói trên đối với các hình thể sống, mà cũng do năng lượng của chính nhân loại (kết hợp các cung bốn và năm) đang bị đẩy vào xung đột. Ngoài ra, còn có thêm năng lượng của giới động vật (vốn kết hợp năng lượng của các cung ba, năm và sáu) vì năng lượng này chi phối hình hài động vật hay thể chất của mọi người. Thế nên, chúng ta có sự tụ hội của nhiều mãnh lực đang xung đột, khiến cho người chiến sĩ Arjuna, tức là thế giới này, phải đối mặt với một cuộc chiến rộng lớn – một cuộc chiến cứ mãi tái diễn theo chu kỳ. Thế nhưng, riêng trong thời đại này, nó cho thấy một yếu tố quyết định và xác định trong cuộc xung đột lâu đời giữa sự thống trị của vật chất và quyền kiểm soát của tinh thần..... (Nguồn: Sách Vận mệnh các quốc gia_Chân sư)
+ Hành tinh thánh thiện: Là các hành tinh mà các mãnh lực cung đang biểu hiện cho linh hồn và tinh thần, với cung Phàm ngã của Đấng vĩ đại đang làm linh hoạt, tức Hành Tinh Thượng Đế đã tuân phục vào 2 cung cao, như trường hợp con người sau khi được điểm đạo lần 1 (CTHNM, 363)
- Về mặt cơ bản, có thể nói rằng một hành tinh được xem là “thánh thiện” khi Đấng tinh thần đang làm linh hoạt hành tinh đó đã nhận được 5 trong số các cuộc điểm đạo vũ trụ chủ yếu. Còn một hành tinh ‘không thánh thiện” là hành tinh mà vị Hành Tinh Thượng Đế của nó chưa nhận được các cuộc điểm đạo này. (CTHNM, 503)
- Phải nhớ 3 điều: Mỗi một trong số 7 hành tinh thánh thiện là một biểu hiện của 1 trong 7 ảnh hưởng của Cung năng lượng. Người nghiên cứu phải nhớ 3 điều:
1. Mỗi hành tinh là hiện thân của một Sự Sống hay một Thực Thể Thông Linh hay Đấng Cao Cả;
2. Giống như 1 con người, mỗi hành tinh là biểu hiện của 2 thần lực của Cung – lực phàm ngã và lực chân ngã.
3. Do đó, trong mỗi hành tinh, 2 Cung ở vào trạng thái xung đột huyền bí (CTHNM, 721)
+ Bảy hành tinh thanh thiện (Cần đối chiếu giữa 2 sách dưới đây)
a/ Hành tinh thánh thiện tương ứng với 7 Trung tâm lực trong con người, tức 7 Luân Xa (TLHNM III, 19):
1. Hỏa vương tinh (Vulcan) .... Cung 1
2. Thủy tinh (Mercury) ........... Cung 4
3. Kim tinh (Venus) ................ Cung 5
4. Mộc tinh (Jupiter) ............... Cung 2
5. Thổ tinh (Saturn) ................. Cung 3
6. Hải vương tinh (Neptune) .... Cung 6
7. Thiên vương tinh (Uranus)... Cung 7
b/ Bảy hành tinh thánh thiện - Luận về lửa càn khôn
1. Thổ tinh (Saturn) ..
2. Mộc tinh (Jupiter)
3. Hoả tinh (Mars) …
4. Thái dương (Sun)(thay cho HT khác)
5. Kim Tinh (Venus)
6. Thuỷ tinh (Mercury)
7. Nguyệt cầu (Moon)(thay một HT khác).
Hải Vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh (Uranus) không được kể ra ở đây, hành tinh Vulcan cũng thế.
Quỹ đạo của Hải Vương tinh hiển nhiên bao gồm toàn thể vòng giới hạn.
Hành tinh Vulcan ở trong vòng quỹ đạo của Thuỷ tinh. (LVLCK, 205)
* Đối chiếu: Mục a là đúng. Mục b thay Hải VT = Nguyệt cầu và Thiên VT = ??? và Vulcan = Thái dương
+ Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh
+ ♌ Ký Hiệu Sư Tử
+ Cung Sư Tử [Mãnh sư - Hải Sư - Leo]: Hành Hỏa; Dẫn truyền (Cung 1 - Cung 5) (Xem)
- Tự ý thức, sáng tạo, quan trọng, tự hào hoặc nhút nhát, thành thật, trung thành, cá nhân ;
- Chủ quản Nhà thứ 5, có đặc tính tương ứng: Tính sáng tạo, trò chơi, thể thao
+ Chủ tinh Ngoại Môn: Mặt Trời; Cung 2 (CTHNM, 80);
- Khẩu hiệu: Hãy để cho các hình tướng khác tồn tại. Tôi cai trị.
[Ví dụ: Mãnh sư - Thể Phàm nhân nước Pháp có ý thức vị kỷ (Tư lợi - Nguyên nhân xung đột), xem ta là trung tâm, rất thông minh, và cá tính mạnh – đã chi phối Châu Âu (Thời Song ngư). Chính phàm nhân Mãnh sư này khiến người dân Pháp hiện nay có tinh thần nặng về chủ nghĩa dân tộc].
+ Chủ tinh Nội Môn: cũng Mặt Trời; Cung 2 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi là Cái Đó và Cái Đó là tôi.
+ 595. SƯ TỬ LÀ ĐỆ NHẤT - CÁC PHÁP ĐỆ NHẤT.
Cũng như trong các loài thú, Sư tử vương là tối đệ nhất (Sư tử cũng chủ về ngu si - HT Tuyên Hóa). Ví như khi các trận cùng đấu chiến nhau thì yếu thệ là thứ nhất. Cũng như các đòn tay của lầu gác, tất cả đều y cứ trên đòn dông, thiết lập trên dông, được duy trì bởi đòn dông, đòn dông là bậc nhất vì duy trì tất cả.
Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật [Không tác ý/ Không phan duyên] là tối đệ nhất. (Trung A Hàm, Kinh Dụ, Phẩm 11, số 141)
+ Sư tử là vua các loài thú: Trong Kinh Sala Đức Phật có dạy rằng: “Này các Tỳ kheo, ví như trong các loài bàng sanh, con sư tử – vua các loài thú được xem là tối thượng, tức là về sức mạnh, tốc lực và dõng mãnh. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, trong các pháp thuộc phần giác ngộ, Tuệ căn được xem là tối thượng, tức là về giác ngộ”....Thật vậy, để đạt đến sự giác ngộ giải thoát thì trí tuệ được xem là tối thượng, cũng như trong Bát chánh đạo, chánh kiến được xếp đầu tiên. Bởi lẽ phải có cái nhìn và sự nhận biết một cách đúng đắn, không bị phong tục tập quán, thành kiến xã hội, dục vọng ngăn che làm sai lạc thì chúng ta mới thực hành đúng con đường chánh pháp của Đức Thế Tôn. Và trong bài Kinh Ánh sáng, Đức Phật cũng đề cập đến ánh sáng trí tuệ như sau: “Này các Tỳ kheo, có bốn loại ánh sáng "Ánh sáng mặt trăng, ánh sáng mặt trời, ánh sáng ngọn lửa và ánh sáng trí tuệ". Và này các Tỳ kheo, loại tối thượng trong bốn loại ánh sáng là ánh sáng trí tuệ” (Nguồn: Trí tuệ người xuất gia)
Xem: CTHNM - Giới thiệu về Sư Tử
+ ♓ Ký Hiệu Song Ngư
+ Song Ngư/ Pisces: Cung hoàng đạo đầu tiên vì nó chi phối chu kỳ chiêm tinh 25.000 năm của thế giới, Cung có ưu thế, có ảnh hưởng đến hành tinh chúng ta vào lúc biệt ngã hóa khi giới nhân loại xuất hiện. Về căn bản, cung đó có liên quan với Huyền Giai Sáng Tạo thứ 1 hay cao nhất, mà đến phiên nó có liên quan với Cung 3, Cung Thông Tuệ Linh Hoạt. Đó là sản phẩm của thái dương hệ thứ nhất. Sự phát triển của sự giác ngộ nhờ một trí tuệ được khơi hoạt là mục tiêu đầu tiên của nhân loại. (CTHNM, 47)
- Cung Hành Thủy (Xem); (Dẫn truyền Cung 2 - Cung 6; Xem)
- Trực quan, nhạy cảm, khả năng nghệ thuật và nhân văn, toàn diện, hy sinh; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà 12, có đặc tính: Lương tâm, tội lỗi, phụng sự cộng đồng
+ Chủ tinh Ngoại Môn: Mộc Tinh/ Jupiter; Cung 2 (CTHNM, 80);
(CTH Cổ dùng Mộc Tinh; Cung 2); (GQ1.6 dùng Hải Vương tinh; Cung 6)
- Khẩu hiệu: Hãy đi vào vật chất.
+ Chủ tinh Nội Môn: Diêm Vương Tinh; Cung 1 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi rời Nhà Cha và khi quay lại, tôi cứu rỗi.
+ Pháp nhất - Giữ giới luật: Pháp môn số một - Pháp đặc trị tâm Tham Sân Si ...:
"Thi La" còn có nghĩa là Giới - Giới Luật. Khi Ðức Phật sắp nhập Niết Bàn, ngài A Nan thỉnh vấn bốn điều, và một trong bốn điều ấy là khi Phật còn tại thế thì chúng đệ tử thờ Phật làm Thầy, vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn rồi thì phải tôn ai làm Thầy. Bấy giờ, Ðức Phật dạy rằng: "Chúng đệ tử xuất gia phải lấy Giới làm Thầy!" Những giới luật ấy chính là "chớ làm các việc ác, vâng làm mọi việc lành," và cũng chính là "chỉ ác, phòng phi" - Ngăn dứt điều ác, đề phòng việc quấy. Cho nên Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Thi La Ba La Mật
"Giới" là tối trọng yếu, là quan trọng nhất.
Bố thí là vấn đề quan trọng nhất trong việc tu hành, mà trì Giới lại cũng là vấn đề quan trọng nhất. Sao có nhiều vấn đề "quan trọng nhất" vậy? Trong Phật Pháp không có thứ nhì, mà toàn là thứ nhất, bất cứ pháp nào cũng đều là thứ nhất cả!
Có người hỏi tôi: "Phật Pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, vậy pháp môn nào là đệ nhất, cao nhất, vi diệu nhất?" Quý vị đoán tôi trả lời như thế nào? Tôi nói: "Phật Pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, thì có tám vạn bốn ngàn pháp môn là đệ nhất, là số một, không có pháp môn nào là hạng nhì cả!" Vì sao tôi nói như vậy? Tám vạn bốn ngàn pháp môn là để đối trị tám vạn bốn ngàn tật bệnh của chúng sanh. Mỗi chúng sanh đều mắc một chứng bệnh khác nhau, thế thì, pháp môn nào trị lành được bệnh của người nào, thì pháp môn ấy là hạng nhất đối với người đó vậy!
Thí dụ như các dược phẩm, có thứ thì trị nhức đầu, có thứ thì trị đau cổ, hoặc đau mắt, đau tai, nhức răng, sổ mũi..., có thứ thì trị các chứng bệnh khác trong cơ thể; vậy quý vị nói thứ thuốc nào là hay nhất, là số một? Nếu nói rằng thuốc nhức đầu là số một còn thuốc đau mắt là số hai, tức là sai lầm! Quý vị mắc chứng nhức đầu, uống thuốc đau đầu vào thì hết nhức, thì thuốc ấy là số một; quý vị bị bệnh đau mắt, uống thuốc đau mắt rồi thì hết đau, thì thuốc này cũng là số một vậy.
Loài người chúng ta đều có "bệnh" tham, sân, si; nếu quý vị hiểu Phật Pháp rồi trị được "bệnh" tham trong tâm mình, thì pháp môn trị tâm tham ấy là đệ nhất; nếu quý vị hiểu Phật Pháp rồi trị được "bệnh" sân, thì pháp môn trị tâm sân ấy là đệ nhất; và nếu quý vị hiểu Phật Pháp rồi dứt trừ được lòng si mê, thì pháp môn trị tâm si ấy là đệ nhất. Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn thói hư tật xấu, Phật bèn giảng nói tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị những thói hư tật xấu ấy. Hễ pháp môn nào trị dứt được bệnh của quý vị thì pháp môn ấy là số một; bằng không thì không gọi là số một được. Do đó, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là tám vạn bốn ngàn pháp môn thuộc loại số một cả! (Nguồn: HT Tuyên Hóa Giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tu Tâm đệ nhất: Đức Phật dậy trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đức Phật có dậy " Này Chư Tỳ Kheo, Như Lai không thấy một Pháp nào mà có nhiều năng lực như sự chuyên cần chú niệm, để làm phát sinh tư tưởng thiện chưa phát sinh, và làm tan biến những tư tưởng bất thiện đã phát sinh. Với người hằng có chánh niệm, những tư tưởng thiện, nếu chưa sanh sẽ phát sanh, và những tư tưởng bất thiện, nếu đã phát sanh sẽ tan biến ".(Trang 751, T II, Thiền trong Đạo Phật - Nguồn)
+ Người Cung 6: Y phải luôn luôn có một “Thượng Đế cá nhân”, là một hiện thân của Thượng Đế để tôn thờ. Kiểu mẫu tốt nhất của cung này là làm vị thánh, kiểu mẫu xấu nhất là người bảo thủ hoặc cuồng tín, người tử đạo điển hình hoặc phán quan tòa án dị giáo điển hình. Tất cả các cuộc chiến tranh tôn giáo hoặc thập tự chinh đã bắt nguồn từ sự cuồng tín của cung sáu. Người trên cung này thường có bản tính hiền lành, nhưng y luôn luôn có thể bùng lên thành cơn giận dữ và cơn thịnh nộ bốc lửa. Y sẽ hy sinh mạng sống của mình cho các đối tượng của lòng sùng mộ hay tôn kính của y, nhưng y sẽ không nhấc một ngón tay để giúp đỡ những người bên ngoài sự đồng cảm trước mắt của y. Là một người lính, y ghét đánh nhau nhưng thường khi bị khích động trong trận chiến, y chiến đấu như một người bị ma ám. Y không bao giờ là một chính khách lớn cũng không phải một doanh nhân giỏi, nhưng y có thể là một nhà truyền giáo hay nhà hùng biện vĩ đại. Người cung sáu sẽ là nhà thơ đầy cảm xúc (như Tennyson) và nhà văn của những cuốn sách tôn giáo, hoặc theo văn thơ hay văn xuôi. Y hiến dâng cho vẻ đẹp và màu sắc, và tất cả những thứ đáng yêu, nhưng kỹ năng tạo tác của y không có ấn tượng trừ khi dưới [Trang 210] ảnh hưởng của một trong những cung hầu như có tính nghệ thuật, là cung bốn hay cung bảy. Âm nhạc của y sẽ luôn luôn có một trật tự du dương, và y thường sẽ là nhà biên soạn văn hùng biện và thánh nhạc. (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1)
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung
+ Người cung sáu - Phàm nhân cung 6/ Phàm ngã cung sáu: .... Về sự cuồng tín, tính tàn ác tự nhiên, chủ nghĩa lý tưởng nồng nhiệt, lòng kiêu căng ngạo mạn, phẩm chất tôn giáo và thần bí trong tâm tính của người Tây Ban Nha, đều hiển nhiên là bắt nguồn từ cung sáu, và đã trở nên cố kết.... (Nguồn: Vận mệnh các quốc gia)
I. BA BIỂU LỘ CỦA MANAS ( )
1. Lửa của trí, xét về phương diện vũ trụ.
2. Lửa của trí, xét về phương diện Thái dương hệ.
3. Lửa của trí, liên quan với con người.
Nói cách khác, những gì mà chúng ta đang nỗ lực để làm là nghiên cứu Thể Trí trong một Thái Dương Thượng Đế, một Hành Tinh Thượng Đế và trong Tiểu Thiên Địa. Mỗi một trong ba đoạn chính này có thể được bàn đến với bốn đề mục thứ yếu có thể được diễn tả như sau:
a. Cội nguồn của trí trong vũ trụ, Thái dương hệ và trong tiểu thiên địa.
b. Vị trí của trí trong cơ tiến hóa ở cả ba trường hợp.
c. Trình độ phát triển hiện nay của trí ở một trong ba nhóm.
d. Tương lai của trí hay của sự khai mở của Trí.
Khi chúng ta đề cập đến các điểm này, chúng ta sẽ có một ý tưởng rõ ràng hơn về mục tiêu và vị trí của lửa trí tuệ (fire of the intelligence) và sẽ có thể hiểu một cách chính xác công việc liên hệ có tính cách tổng hợp của lửa.
tâm mà dựa vào đó phần tinh thần và phần vật chất của con người được làm cho xoay chuyển”.
“Hạ trí chỉ là một tia của thượng trí được đưa vào đền thờ nhục thề (the fleshly tabernacle) để soi sáng cho bản thể của nó và đem lại cho nó tư tưởng, ước vọng và trí nhớ”.
“Chính vì manas là điểm chuyển hướng (turning point) trong chu kỳ mà H.P.B. đã xét nó dưới hai khía cạnh – cao và thấp – phần cao là phần đạt hơn và có kinh nghiệm hơn đối với đỉnh cao Tinh thần, còn phần thấp, phần chính của 3 thể thấp, tam giác đưa tới sự biểu hiện (embodiment). Do đó, Manas là nơi tranh chấp của các mãnh lực nằm trong tiểu thiên địa… Giai đoạn tiến hóa mà chúng ta đạt đến chính là khởi điểm của cuộc tranh chấp lớn lao hơn”.
Vài Tư Tưởng về Kinh Gita (Some Thoughts on the Gita). (LVLCK, 309)
+ Ánh sáng trí tuệ: Theo ý nghĩa rất đặc biệt, nước Nga tiêu biểu cho người chiến sĩ Arjuna của thế giới. Từ đó, sẽ xuất lộ nền tôn giáo mới thuộc về huyền thuật mà tôi vẫn thường nói đến. Nó sẽ là sản phẩm của cuộc Tiếp cận vĩ đại sắp xảy ra giữa nhân loại và Thánh Đoàn. Đây là hai trung tâm mãnh lực tinh thần, mà trong đó ánh sáng bao giờ cũng chói rạng ở phương Đông rồi từ đó soi sáng phương Tây. Từ hai trung tâm này, toàn thế giới sẽ ngập tràn sự huy hoàng của ngôi Mặt trời Công chính. Ở đây tôi không nói (liên quan đến nước Nga) về việc áp đặt bất cứ ý thức hệ chính trị nào, mà muốn nói đến sự xuất hiện của một nền tôn giáo tinh thần vĩ đại, sẽ cho thấy vì sao đất nước rộng lớn này phải chịu nhiều đau khổ như thế. Nó sẽ tự biểu lộ và hội tụ trong Ánh sáng tinh thần vĩ đại, được nêu cao bởi một đại diện quan trọng cho nền tôn giáo chân thực của Nga. Đây là người mà phần đông dân Nga đang mong chờ, và người sẽ chứng minh một lời tiên tri hết sức cổ xưa. (Nguồn: Vận mệnh các quốc gia)
+ Cung Hai - Bác ái/ Hấp dẫn và Minh triết: Vị Chúa Bác Ái này là vị uy lực nhất trong bảy cung, bởi vì Ngài ở trên cùng cung vũ trụ với Thái Dương Thượng Đế. Ngài tự biểu lộ chủ yếu qua Mộc Tinh, vốn là thể biểu lộ của Ngài
+ Cung 2: Biểu tượng của Ngài là sấm sét, Linh từ vốn quay theo chu kỳ xuống các thời đại. Cung này được gọi là cung minh triết do ham muốn đặc trưng của nó đối với tri thức thuần túy và chân lý tuyệt đối – rễ lạnh lùng và ích kỷ, nếu không có bác ái, và thụ động nếu không có nghị lực. Khi cả quyền lực và bác ái đều có mặt, bấy giờ bạn có cung của chư Phật và của tất cả các đại huấn sư của nhân loại
+ Các Đức tinh và Tật Xấu EPI 202-4: Các Đức Tính đặc biệt: Bình tĩnh, sức mạnh, sự kiên nhẫn và sức chịu đựng, tình yêu chân lý, lòng trung thành, trực giác, trí thông minh rõ ràng, và tính khí thanh thản.
- Các Tật Xấu của Cung: Quá miệt mài học hỏi, sự lạnh lùng, thờ ơ với những người khác, coi thường những hạn chế về trí tuệ ở những người khác.
- Các Đức Tính cần có: Lòng bác ái, lòng từ bi, vị tha, nghị lực. (Xem Bảy đấng kiến tạo bảy cung GQ1....)
- Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung
+ Bác Ái và Minh Triết - Cung 2 - Cung Âm chủ THU HÚT
- Bác ái / Hấp dẫn, nhấn mạnh về phương diện “Tâm, Chữa lành, Cứu Rỗi”
- Minh triết nhấn mạnh phương diện “Trí”, giáo dục, chân lý thuần khiết (Tâm lý học NM 1 - Cung mềm):
+ Biểu lộ 3 ngôi chính:
Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, lập pháp, tính hợp pháp, công lý;
Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục;
Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... (CTHNM, 275)
+ Định luật Bác Ái (Law of Love): Định luật Bác ái thực ra chỉ là định luật của Thái Dương Hệ đang biểu hiện trên tất cả các cõi. (Nguồn: Thuật Ngữ - Bác Khá)
+ Định luật Bác ái/ Hấp dẫn: Đây là 01 trong 07 Định luật Thái Dương Hệ, đều có tương quan với 7 cõi, là (LVLCK, 574–596)
+ Đại vận - Năng lượng biểu lộ theo chu kỳ - Chuyển vận đại vận trong Tứ trụ: Thời kỳ mà theo vận trình trên lá số, con người từ Đại vận này chuyển sang Đại vận mới, có sự thay đổi lớn và/ hoặc hoàn toàn, theo đó, giữa năng lượng cũ/ Vận đã qua (Đã chi phối tạo thành bản tính/ Bản năng) khi gặp năng lượng chi phối khác thường tùy theo mức độ mất cân bằng năng lượng giữa Nguyên Mệnh và Đại Vận mới (Cùng xét đến tàng dư mạnh mẽ của những đại vận đã qua), sẽ tương tác sinh khắp xung hợp ... nhau tạo ra sự sáo trộn, chia rẽ, kích thích, hủy duyệt. Dư âm của năng lượng cũ sẽ biểu lộ rõ ràng, ví như về bệnh tật (Thường trải qua quá trình tích tụ mới thành bệnh và phát tác khi đủ duyên) => Khi đoán Đại vận mới cần nghiên cứu "Di chứng - Tàng dư" mạnh mẽ không thể xem thường của những đại vận đã qua. [Lời NTH]
+ Dự đoán Đại vận mới - Lưu ý Vận trình đã qua:
Nếu các bạn sáng suốt hiểu được những điều tôi đã nói, thì sẽ thấy rõ hai điều liên quan đến các hoạt động ban đầu và trực tiếp của hai cung này – tức là cung sáu (Đã qua thời vận nhưng vẫn còn chi phối mạnh mẽ) và cung bảy (Bắt đầu - Mới đang xuất lộ chi phối nhân loại và muôn loài - Còn yếu).
Thứ nhất, nhiều nhóm người ngày càng chịu ảnh hưởng của chúng, và khi các nhóm này (đáp ứng với mãnh lực của cung sáu hoặc cung bảy) thì tất họ sẽ chống đối và xung khắc với nhau. Vấn đề là do nhân loại đã phát triển tính nhạy cảm, nên nay sự chống đối này đang có trên qui mô toàn thế giới. Vì thế, hiện có nhiều xung đột giữa các ý tưởng, và các ý thức hệ đối kháng nhau. Đồng thời cũng có sự đối nghịch giữa một mặt là các truyền thống đã có từ lâu đời và những hình thức cũ kỹ của văn minh, chính quyền, tôn giáo, và mặt khác là những ý tưởng mới hơn đang xuất lộ. Các quan niệm mới này sẽ mở ra Thời đại Mới, và rốt cuộc sẽ cách mạng hóa đời sống và các tiêu chuẩn hiện nay của chúng ta. Chúng sẽ cho thấy những ý tưởng cũ kỹ này giống như các ý tưởng đã chi phối nhân loại cách đây một triệu năm, nay được đánh giá trong tâm thức chúng ta. (Tr 45)
Thứ hai: Tình trạng còn rắc rối hơn khi thực tế là cả hai cung này có ảnh hưởng và (bao giờ cũng) tự biểu lộ theo hai cách. Bao giờ chúng cũng biểu hiện dưới dạng thấp và dạng cao, về mặt này tương ứng với biểu lộ ở cấp phàm nhân và chân nhân của mỗi người. Trong trường hợp của cung ra đi, thì dạng cấp cao (bao giờ cũng biểu hiện trước ở mức phôi thai) tan biến nhanh chóng, hoặc được hấp thu vào lý tưởng mới. Bằng cách đó, nó góp thêm tất cả những gì tốt đẹp nhất vào việc trình bày chân lý theo lối mới, nhờ đó mà nền văn hóa đang xuất lộ sẽ đặt căn bản thích hợp trên nền tảng cũ. Tuy nhiên, các dạng cấp thấp lại bám chặt và chế ngự. Vì thế, ngày nay chúng thực sự trở thành vấn đề khó khăn nghiêm trọng của Thánh Đoàn, đến đỗi cần phải kêu gọi cung một (hay thần lực của Shamballa) để hủy diệt chúng. Cần lưu ý điều này khi bạn khảo sát tình hình thế giới. Các dạng biểu lộ cấp thấp của cung bảy (Mới vào xuất lộ) vẫn còn trong giai đoạn phôi thai. Bạn có thể thấy rõ điều này khi xem xét phong trào thông thần mà tôi đã chọn đề cập đến. Nó chỉ mới bắt đầu hình thành trong thế kỷ trước, nhưng đã đạt mức tăng trưởng nhanh chóng lạ thường chỉ vì nó khởi đầu trên châu Mỹ. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là trung tâm của Atlantis thời xưa và, do đó, thừa hưởng một dạng tôn giáo cổ liên quan đến thần thông, vốn đã tồn tại và hoạt động mạnh mẽ trong phần đất này của thế giới qua nhiều thế kỷ.....
Tất cả các nước lớn đều chịu chi phối bởi hai cung, giống như trường hợp của con người. Chúng ta khỏi phải bàn đến các nước nhỏ. Mọi quốc gia đều chịu chi phối bởi cung phàm nhân, hiện là yếu tố chính, chi phối mạnh mẽ, và cung linh hồn mà chỉ các đệ tử và những người chí nguyện của quốc gia ấy cảm nhận được..... (Sách: Vận mệnh các quốc gia - Tr 46 - 49)
+ Cung phàm ngã: cung này chỉ xuất hiện khi con người đã đạt được một trình độ tiến hoá nhất định, thể trí đã phát triển và con người bắt đầu tư duy, thể trí bắt đầu kiểm soát thể cảm xúc và thể xác. Con người không còn hành động theo cảm xúc, dục vọng, đòi hỏi xác thân, mà bắt đầu trở thành một phàm ngã tích hợp. Ba hạ thể đã gắn kết vào nhau thành một thể thống nhất.
- Cung Phàm ngã: Cung này thường khác với cung của Linh hồn/ Cung Nhân thể. (trích năng lượng của 7 cung - Khóa GQ/ MF)
+ Xác định Cung Phàm ngã: Chỉ hình thành khi thể trí thống trị, và đang kiểm soát toàn bộ thiên nhiên và con người xung quanh. Nếu nó chưa hình thành thì nó không thể được nhận dạng. Bấy giờ, có thể là thể cảm dục chiếm ưu thế, nhưng bạn cũng có thể tìm thấy cung của Hạ trí. Hãy tập trung vào các cung này. Chúng sẽ là những cung cần làm cho quân bình =>>> Các bước để tìm ra Cung phàm ngã:
a. Hãy quan sát (Phân biệt Cung âm dương/ Cứng, mềm) cách tiếp cận với cuộc sống, các mục tiêu được theo đuổi như thế nào, việc đối phó với các cuộc khủng hoảng, việc đấu tranh cho các quyền lợi. Bạn có thấy đường lối cứng rắn, tự đề cao, thuộc trí tuệ (1, 3, 5, 7) hoặc ôn hòa, có tính hợp tác hoặc tình cảm (2, 4, 6)?
b. Hãy soát qua tất cả các cung, và gạt bỏ những cung nào chắc chắn không “phù hợp”, và sau đó chỉ tập trung vào các cung có khả năng.
c. Hãy nhận dạng các đặc điểm tiêu cực nổi bật – Cách thức mà bản ngã cố gắng để có được sự chú ý, để “khoe khoang” bản thân; những đặc điểm nào có một tác dụng phá hoại lên cuộc sống. Những điều này có thể chỉ ra Cung Phàm ngã.
d- Hãy nhìn vào sự nghiệp. Một sự nghiệp đầu tiên, hoặc một sự nghiệp vốn làm thỏa mãn các tham vọng nhưng không thỏa mãn tâm hồn, thì có thể chỉ ra Cung Phàm ngã. Một sự nghiệp được yêu thích, làm vừa ý, biểu thị Cung Linh hồn. Còn không có sự nghiệp đặc biệt hoặc có nhiều công việc (jobs) thì có thể cho thấy Cung Phàm ngã chưa phát triển. (trích năng lượng của 7 cung - Khóa GQ/ MF)
+ Biểu lộ năng lượng tương ứng cung: .... Thứ hai: Tình trạng còn rắc rối hơn khi thực tế là cả hai cung (Cung 6 đã qua và Cung 7 vừa xuất lộ) này có ảnh hưởng và (bao giờ cũng) tự biểu lộ theo hai cách. Bao giờ chúng cũng biểu hiện dưới dạng thấp và dạng cao, về mặt này tương ứng với biểu lộ ở cấp phàm nhân và chân nhân của mỗi người. ... (Sách: Vận mệnh các quốc gia)
Xem: Các Động lực của Linh hồn - Phàm ngã
Xem: Hình thành - Tính chất - Tâm thức Phàm ngã
A- KIẾN THỨC CHUNG
+ Nghiệp và Thời gian là hai từ có nhiều đồng nghĩa (Chân Sư DK).
+ Lá số sinh lập theo thời gian là cơ sở để dự đoán số mệnh bằng các phương pháp khác nhau. Nếu người thầy có đủ Tâm và tầm thì dù dự đoán bằng phương pháp nào, thường đều cho kết quả như nhau, không mấy khác biệt. Người dự đoán chẳng qua là tìm thời điểm mà "Nghiệp" hay Năng lượng vũ trụ tương tác tại các thời điểm khác nhau, gây ra các kết quả khác nhau, mà người nào mà trong mệnh vận có cùng năng lượng, thì chịu tác động và gây ra các kết quả khác nhau.
+ Phân nhóm/ Loại người: Theo trình độ tiến hóa gồm Người kém phát triển/ Trung bình/ Trên trung bình - Trí nguyện/ Người tiến hóa/ Thánh nhân..(Nguồn)
+ Xem số qua sự phát triển của Tâm thức: 3 trình độ: Phàm ngã/ Linh Hồn/ Tinh Thần. Ảnh hưởng của cung hoàng đạo và hành tinh ở 3 cấp độ này - Ba Cung tối quan trọng: Mặt Trăng - Mặt Trời - Cung Mọc để ước định công việc sẽ được thực hiện trong tâm thức mỗi kiếp sống.
- Với Tâm thức: Năng lượng dẫn truyền qua các Cung Hoàng và Hành tinh và chức năng tiến hóa Tâm Thức của các Cung Hoàng Đạo với Người thường/ Chí nguyện (Đệ Tử) / Điểm Đạo Đồ, với sự chỉ dẫn của các Kỳ Công, ta có thể dự đoán.... + Các Cung Hoàng Đạo biểu hiện 3 Cấp Độ Tâm Thức (Chiêm THNM, 332)
+ Chín loại năng lượng vũ trụ, các năng lượng mà thể dĩ thái của con người (đang chi phối xác thân vốn nổi bật về tính chất máy móc và tiêu cực trong các phản ứng của nó) phải và nhất định là bao giờ cũng đáp ứng. Hiểu biết về sự đáp ứng đó và kiềm chế sáng suốt và một cách hiểu biết về các phản ứng của cá nhân là điều tối cần cho con người; (Chiêm THNM, tr 24-26).
+ Biết vận mệnh: Nhờ môn chiêm tinh học, y có thể tìm ra vận mệnh của mình và biết những gì y nên làm. (CTHNM, 11)
+ Số phận và Định mệnh: Các ảnh hưởng của Hành tinh cho thấy, với người bình thường và kém tiến hóa, khi lý giải đúng, các ảnh hưởng đó có thể và chắc chắn báo hiệu số phận và định mệnh của phàm ngã (CTHNM, 24)
+ Các nội dung chính về xem số mệnh: - Đoán về bản thân: Xuất thân - Tướng mạo - Sức khỏe - Bệnh nạn - Đạo đức - Trí tuệ và sự tiến hóa của Tâm thức - Tiền tài, danh vọng, chức vụ .... - Đoán về gia đình: Dự đoán tham khảo về vinh nhục của dòng tốc, Sức khỏe hay nghề nghiệp, bệnh nạn hay thọ yểu của bố mẹ...... - Đoán về quan hệ gia đình và xã hội: Khả năng khôn khéo trong giao tiếp, ứng sử trong gia đình và ngoài xã hội, bàn bè thân hữu, làm việc tập thể ....
- Xem số mệnh để Cải mệnh làm cuộc sống tốt đẹp hơn: Có nhiều phương pháp để cải mệnh. Nhưng mạnh mẽ và hữu hiệu và nhiệm mầu nhất là bạn nên Tu hành theo Phật dậy. Thường thực hành Thập thiện nghiệp đạo, thực hành bố thí phóng sinh để có sức khỏe, không bệnh và sống thọ. Bố thí Pháp (Kinh Phật) và chi tiền tài để tạc tượng, đúc chuông để có trí tuệ và được làm vương giả; Bố thí tiền tài và thực phẩm, đồ ăn, thức uống, đồ dùng ... cho tăng ni phật tử và các chúng sinh để được giầu sang phú quý muôn đời.....
+ Biết trước thời điểm chết (Thông tin tham khảo): Google đã phát triển được thuật toán trí tuệ nhân tạo (AI) có thể dự đoán chính xác tới 95% khi nào bạn sẽ chết. Họ sử dụng dữ liệu của bệnh viện để dự đoán cho bệnh nhân (Xem trên ở Google)
+ Dự đoán vận mệnh công truyền: .... 2. Qua sự phát triển khoa chiêm tinh – một khoa học cho đến nay vẫn còn non trẻ. Nó còn dựa vào quá nhiều yếu tố bất định, đến đỗi người môn sinh khó tìm ra những chỉ báo đích thực cho thấy đúng về tương lai. Thường thì có thể đoán được các đặc điểm trong tính tình, và những điều nhỏ nhặt xảy ra trong cuộc sống phàm nhân. Thế nhưng, nói chung cho đến nay vấn đề vẫn còn quá mơ hồ, chưa đáng tin cậy. Về sau, tôi sẽ đề cập đến vấn đề này, và sẽ nêu rõ những đường hướng nên tiến hành khảo cứu trong tương lai (Nghiên cứu các sự kiện đã sảy ra theo chu kỳ lặp đi lặp lại rất hữu ích).
3. Với sự trở lại của “thuật tiên tri” và sự tái xuất hiện “của những người báo tin cho nhân loại” ngày xưa, được gọi là “các thầy bói” vào thời kỳ La Mã. Những đồng tử này (thực sự họ đã là như vậy) sẽ được huấn luyện bởi các phụng sự viên của cung bảy, để nói lên theo nguồn cảm hứng của Thánh Đoàn. Sự tiên tri của các Ngài dù có xa về tương lai nhưng cũng không hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên, các đồng tử này sẽ chỉ được dùng theo sự hướng dẫn, sau khi đã huấn luyện thuần thục, và chỉ hai lần mỗi năm vào các cuộc lễ Trăng Tròn tháng Năm và tháng Sáu. (Nguồn: Vận mệnh các cuốc gia_Chân sư)
B- CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰ ĐOÁN SỐ MỆNH QUA LÁ SỐ SINH
+ Dự đoán về Tâm Tính/ Đức Tính thiện lành theo Phật giáo:
- Căn cứ vào Tooltip "Lợi ích của người tu tập theo Thập thiện", và
- Căn cứ vào Bát tránh đạo để đánh giá người có các đức tính thiện lành, và
- Căn cứ Tooltip "người đại thiện" theo Đức Phật dậy
=> Làm căn cứ dự đoán số mệnh (Nguồn: Kinh thập thiện)
- Căn cứ vào Tooltip "Sửa tâm tính hay Tính cách hay Nhân cách" để dự đoán hay giúp người sửa tính cách
+ Cắn Cứ Ngũ hành Âm Dương và Mười Thần trong Dự đoán Tứ trụ để suy đoán
+ căn cứ vào các Cung Mặt Trăng, Mặt Trời, Cung Mọc và các hành tinh trong Lá số Chiêm tinh để dự đoán tính cách
+ Ba loại lĩnh vực biểu lộ trong Lá số sinh cho 3 nhóm người:
(1)- Thuần về vật chất bàn đến thể xác và Dĩ thái;
(2)- Chủ yếu về tình cảm, bàn đến tính chất của phàm-ngã và tính nhạy cảm của nó, hoặc trạng thái của ý thức;
(3)- Sẽ là biểu đồ về các xung lực và các tình trạng trí tuệ. - Nghiên cứu 3 biểu đồ này rất hữu ích, khi xếp chồng lên nhau sẽ cung cấp sơ đồ phàm-ngã, mô hình sự sống cá nhân (Chân Sư DK_CTHNM 7)
+ Là lá số vào thời điểm một người sinh ra: Nó bao gồm vị trí của các hành tinh của hệ mặt trời, mặt trời, Mặt trăng, các dấu hiệu của vòng hoàng đạo trên bầu trời. Người ta còn đưa vào lá số sinh các ngôi sao cố định, các tiểu hành tinh của hệ mặt trời như Chiron… Trên là số sinh, vòng tròn ngoài cùng chứa các cung hay dấu hiệu Hoàng Đạo, vòng tròn giữa là các nhà và các hành tinh được vẽ trong đó. Vị trí của các hành tinh (gồm cả mặt trời và Mặt trăng) được xác định so với dấu hiệu hoàng đạo.Xem mục Lá số sinh
+ Lá số Chiêm tinh/ Tử vi: Là hình ảnh của bầu trời (Các Hành Tinh, Ngôi sao) nhìn từ Trái đất, mặt hướng về Phương Nam (CTHNM1).
I- XEM QUA LÁ SỐ TỨ TRỤ (Phương pháp xem theo Công truyền/ Ngoại môn)
Lá số Tứ trụ lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì theo tiết khí - Theo Mặt trời
II- XEM QUA LÁ SỐ TỬ VI (Phương pháp xem theo Công truyền/ Ngoại môn)
Lá số Tứ trụ lập theo năm tháng ngày giờ sinh, nhưng Vận mệnh thì theo theo Mặt trăng là chủ yếu.
III- XEM CHIÊM TINH QUA LÁ SỐ SINH:
+ Xem Nội môn hay Ngoại môn đề dùng chung 01 Lá số chiêm tinh, nhưng cách giải thích khác nhau (Nguồn)
+ Xem chiêm tinh có hai cách: (i) - Theo Công truyền/ Ngoại môn; (ii) Theo Bí truyền hay Nội môn. Cụ thể:
IV- CÁC PHƯƠNG THỨC XEM KHÁC: Còn nhiều cách xem số mệnh khác
+ Thần học (Theology): Dù cho các thuyết của khoa học có thể sai lầm, duy vật và đầy thiên kiến đi nữa, chúng cũng còn gần với chân lý cả ngàn lần hơn là các kỳ quặc (vagaries0 của thần học. Trừ kẻ tin mù quáng và kẻ cuồng tín cứng đầu nhất, còn đối với mọi người, thần học đang trong cơn dẫy chết (death agony), hay nói cho đúng hơn, số người bênh vực thần học nay đã đuối lý. (GLBN II, 36)
+ Thần học: Đồng thời, trong những khía cạnh thấp kém của cung sáu có mọi hình thức tôn giáo theo giáo điều, và dựa vào thẩm quyền, như biểu lộ bởi các giáo hội chính thống, có tổ chức. Mọi lối trình bày thần học đều là biểu lộ cấp thấp của các chân lý tinh thần cao siêu. Chúng tiêu biểu cho các phản ứng trong trí của người sùng đạo, khi y tin vào những diễn dịch trong trí của cá nhân mình, và chắc rằng mình hoàn toàn đúng. Chúng không thể hiện các giá trị tinh thần đích thực. Do đó, có thể thấy tính chất khủng khiếp trong các biểu lộ cấp thấp của cung sáu, và sự chế ngự của các mãnh lực gây chia rẽ (bao giờ cũng là đặc trưng rõ rệt trong hoạt động cấp thấp của cung sáu).......(Tr 40)
Bạn cũng sẽ thấy rõ những biểu lộ cấp thấp và cấp cao của một cung liên quan mật thiết với nhau như thế nào. Đồng thời, rất dễ xảy ra tình trạng các biểu lộ cấp cao bị mất kiểm soát, trong khi biểu lộ cấp thấp đi vào biểu hiện – một điều mà rốt cuộc chính cuộc tiến hóa sẽ điều chỉnh. ... (Sách Vận mệnh các quốc gia)
+ Thông thần học: Thông Thần học hay “Công phu thiêng liêng”, hay gây ra công việc của các thần. Thuật ngữ này rất cổ, nhưng vì nó thuộc về danh mục của Các Bí Pháp nên không thông dụng. Đó là một tin tưởng thần bí – được chứng minh một cách thực tiễn bởi các cao đồ và các vị tư tế được điểm đạo – theo đó, nhờ cách làm cho chính mình cũng tinh khiết như các thực thể không có xác thân (tức là bằng cách trở lại với bản chất tinh khiết ban sơ của con người), người ta có thể thôi thúc cho các thần truyền thụ cho con người các Bí Pháp Thiêng Liêng, và thậm chí khiến cho các thần đôi khi trở nên thấy được, hoặc bằng cách chủ quan, hoặc theo cách khách quan. Đó là trạng thái siêu việt của cái mà ngày nay người ta gọi là Giáng Ma học. Nhưng do chỗ quần chúng lạm dụng và hiểu sai, nó đi đến chỗ bị một số người xem như là thuật gọi hồn và thường bị cấm đoán. Một vài thực hành bắt chước theo Thông Thần Học của Iamblichus vẫn còn rơi rớt lại trong nghi lễ huyền thuật của một số tín đồ Do Thái Bí giáo ngày nay. Minh Triết Thiêng Liêng hiện đại tránh xa và bài bác cả hai loại huyền thuật và “chiêu hồn thuật” này vì đều rất nguy hại. Thông Thần học thiêng liêng chân chính đòi hỏi sự thanh khiết và thánh thiện của đời sống hầu như siêu nhân loại, nếu không, nó sẽ thoái hóa thành thuật đồng cốt hoặc là tà thuật. (CKMTTL, 19)
+ Giáng ma thuật (spiritualism, giáng ma học):
- Giáng ma thuật là tôn giáo của châu Atlantis thời cổ. (VMCQG, 43)
- Trong triết học, đây là trạng thái hay tình trạng trí tuệ đối nghịch với thuyết duy vật (materialism) hay là một quan niệm duy vật (material conception) đối với các sự vật. Triết lý Minh Triết Thiêng Liêng dạy rằng vạn vật đang tồn tại vốn được làm cho linh hoạt hay sinh động bằng Linh hồn hay Tinh thần Vũ trụ (Universal Soul or Spirit) và rằng không một nguyên tử nào trong vũ trụ chúng ta có thể ở ngoài Nguyên Khí toàn hiện này (omnipresent Principle) – đó là Giáng Ma thuật thuần khiết (pure Spiritualism). Đối với cái tin tưởng đang áp dụng cho tên gọi đó, nghĩa là, tin có việc người sống luôn luôn giao tiếp với người chết, dù là xuyên qua các mãnh lực đồng cốt (mediumistic powers) của chính mình hoặc cái gọi là đồng tử (medium) – đó không có gì khác hơn là sự hiện hình của hồn ma (materialisation of spirit) và sự thoái cấp (degradation) của nhân hồn và hồn thiêng (human and divine soul). Những người tin có sự giao tiếp như thế chỉ làm mất danh dự (dishonouring) người chết mà thôi và luôn luôn là một sự báng bổ. Vào thời cổ, hiện tượng đó được gọi là “Chiêu Hồn thuật” (“Necromancy”). Nhưng các nhà giáng ma hiện đại của chúng ta cảm thấy bị xúc phạm khi biết được sự thật đơn giản này. (NGMTTL, 307)
+ Tương Tác Năng Lượng trong vũ trụ - Hành tinh - Con người.
Diễn đạt kế tiếp mà Tôi muốn trình bày, và thông thường nó xuất phát từ bên trên, đó là các năng lượng của hoàng đạo, của thái dương hệ và của hành tinh, tác động hoặc là dưới hình thức các lực gây cản trở, hoặc là dưới hình thức lực kích động tùy theo loại vận thể hay thể mà chúng tác động vào; bản chất của các vận thể (vehicles) này và năng lực của chúng để thu hút, để đáp ứng, để loại bỏ, để tiếp nhận và để chuyển hóa đều hoàn toàn tùy thuộc vào mức tiến hóa đã đạt được và cũng tùy thuộc vào tình hình chung của hành tinh và tâm lý đang có trong gia đình nhân loại ở bất cứ thời kỳ đã chọn nào. Một trường hợp của tình hình sau, ngày nay có thể nhìn thấy trên thế giới, nơi mà các lực đang khuấy động với một mức độ hầu như dữ dội và có phần mới mẻ, và nhịp độ trên sự sống hành tinh chúng ta đang khơi dậy một đáp ứng được làm mạnh thêm rất nhiều từ các tư tưởng gia trên thế giới, nhờ thế kích thích họ đến cố gắng nhiệt thành theo các đường lối ý thức hệ, và đồng thời bị lôi kéo từ quần chúng và người kém tiến hóa không có gì khác ngoài sự sợ hãi, một số phận đáng thương, sự suy yếu vật chất lan rộng và nhiều phản ứng không mong muốn từ bản chất hình hài.
Một hiểu biết về các ảnh hưởng gây cản trở hoặc kích thích này có thể dễ dàng hiểu được bởi người nào có thể hiểu được bản chất của các hoạt động của hành tinh Saturn (Thổ Tinh).
Đây là hành tinh hiện chi phối trước tiên mức tiến hóa nơi mà sự chọn lựa chắc chắn xảy ra, nơi mà sự bác bỏ cơ hội hoặc chấp nhận cơ hội đó có thể được đảm đương một cách sáng suốt, và việc gánh vác trách nhiệm cá nhân trở nên một sự kiện được nhận biết trong một kiếp sống có hoạch định và có nền nếp. Điểm này trong diễn trình tiến hóa nhân loại được nói đến trong Cổ Luận bằng các câu tượng trưng sau đây:
“Ở giữa các mãnh lực xoay tít, tôi chịu đựng mơ hồ. Tôi không biết chúng, vì trong tất cả quá khứ của tôi, chúng đã cuốn tôi lên và xuống vùng đất trong đó tôi đã hoạt động, chóa mắt và không hay biết. Từ nơi này đến nơi khác, và điểm này đến điểm khác, chúng đẩy tôi lên và xuống vùng đất đó và không dừng lại nơi nào cả.
Hiện giờ tôi biết chúng và nơi đây tôi dừng lại, và sẽ không hành động cho tới khi tôi biết được Định Luật đang chi phối mọi hoạt động lên và xuống vùng đất đó. Tôi có thể quay vòng và xoay mặt theo nhiều hướng khác nhau; tôi đối mặt với một số chân trời rộng lớn và tuy vậy ngày nay tôi trụ lại.
Tôi sẽ định cách đi cho chính tôi. Kế đó tôi sẽ tiến tới. Tôi sẽ không đi lên và xuống vùng đất đó, cũng không quay lại không gian. Nhưng tôi sẽ tiến lên”. (Chiêm tinh học nội môn, 28)
+ Thời điểm phát tác mạnh nhất của các năng lượng tương tác: .... Khi một cung ra đi và một cung khác đi vào cuộc biểu hiện, và tác động của chúng đối với địa cầu cũng như mọi hình thể trong tất cả các giới của thiên nhiên đến mức hai ảnh hưởng này cân bằng, thì bấy giờ sẽ đến thời điểm khủng hoảng rõ rệt. (Nguồn: Vận mệnh các quốc gia_Chân sư)
+ Tóm lược Sách: Số phận của các Quốc Gia - Destiny of the Nations (SPCCQG/ DN)
+ Vận Mệnh Quốc Gia: ... Nếu quốc gia thịnh vượng, thì mọi hiện tượng nhỏ nhặt đều là tốt lành. Nếu đất nước suy thóai, thì mọi hiện tượng dù nhỏ nhặt đều là không lành. Nếu chỉ một người có được phước báo, thì những người còn lại đều được hưởng ánh sáng lành ấy. Nếu người dân sống dưới sự dẫn dắt của người thiếu phước báo, thì họ phải chịu nhiều đau khổ. Hãy nhìn vào người lãnh đạo quốc gia, tổng thống của một nước, nếu ông ta có phước báo, thì người dân sẽ tuân hành theo ông ta và đều hưởng được phước báo. Nếu ông ta không có phước báo, thì người dân theo ông ta đều phải chịu đau khổ. Nên có thể nói rằng vị nguyên thủ quốc gia là phải chịu trách nhiệm về mọi hòan cảnh.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Sách Vận mệnh các quốc gia: .... Nhưng nên lưu ý rằng không điều tiên đoán nào hoàn toàn tách rời khỏi quá khứ, và bao giờ cũng phải ẩn chứa mầm mống của sự thật. Luật Nhân Quả bao giờ cũng đúng, và đặc biệt đúng trong phạm vi nhận thức tinh thần (hiện đang phát triển mau lẹ). Nó giúp người có tầm nhìn tinh thần có thể thấy được những gì khả hữu trong tương lai, và dự báo các tình huống có thể sẽ xảy ra. Trong ba thế kỷ tới đây, có thể tiên đoán một số đường lối khả dĩ phát triển trong nhân loại: 1. Qua sự phát triển giao tiếp với linh hồn trong số những người tiến hóa cao trong nhân loại ....; 2. Qua sự phát triển khoa chiêm tinh – một khoa học cho đến nay vẫn còn non trẻ......; 3. Với sự trở lại của “thuật tiên tri” và sự tái xuất hiện “của những người báo tin cho nhân loại” ngày xưa, được gọi là “các thầy bói” vào thời kỳ La Mã. Những đồng tử này (thực sự họ đã là như vậy) sẽ được huấn luyện bởi các phụng sự viên của cung bảy, để nói lên theo nguồn cảm hứng của Thánh Đoàn. Sự tiên tri của các Ngài dù có xa về tương lai nhưng cũng không hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên, các đồng tử này sẽ chỉ được dùng theo sự hướng dẫn, sau khi đã huấn luyện thuần thục, và chỉ hai lần mỗi năm vào các cuộc lễ Trăng Tròn tháng Năm và tháng Sáu.
Những tiên đoán mà tôi sắp đưa ra, .....
Như các bạn biết, hiện nay có hai cung thứ yếu (tức là các cung thuộc tính) đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến vận mệnh của nhân loại. Đó là Cung sáu Sùng tín Trừu tượng hay Chủ nghĩa Lý tưởng và Cung bảy Pháp thuật Nghi lễ hay Tổ chức. Cung sáu bắt đầu ra khỏi cuộc biểu hiện từ năm 1625 sau một thời kỳ ảnh hưởng lâu dài, trong khi Cung bảy Trật tự Nghi lễ bắt đầu đi vào cuộc biểu hiện từ năm 1675. Cần lưu ý ba điều liên quan đến hai cung này và ảnh hưởng của chúng đối với nhân loại. (Ở đây tôi không bàn đến ảnh hưởng của chúng đối với các giới khác trong thiên nhiên.)
1. Như các bạn biết, cung sáu đang biểu hiện mạnh nhất hiện nay, và rất nhiều người đang đáp lại ảnh hưởng của nó. Nó vẫn là đường lối ít trở ngại nhất dành cho đa số, đặc biệt là trong chủng tộc Aryan. Lý do là vì theo thời gian và trên đường tiến hóa, khi ảnh hưởng của một cung đã trở nên mạnh mẽ, thì chính yếu nó ảnh hưởng đến các tập thể chứ không chỉ các cá nhân mà thôi. Bấy giờ, một nhịp điệu và động lượng được tạo ra, tồn tại rất lâu và tăng cường năng lượng nhờ chính sức mạnh của đông đảo những người trong tổ chức. Khi tiến hành nghiên cứu nhiều hơn, chúng ta sẽ càng thấy rõ sự thực này. Đương nhiên, người thuộc cung sáu có tính bảo thủ, phản động, cố chấp, và cuồng tín. Họ bám chặt vào tất cả những gì thuộc về quá khứ, với ảnh hưởng mạnh mẽ ngăn trở bước tiến của nhân loại đi vào thời đại mới. Họ đông vô kể. Tuy nhiên, họ tạo sự cân bằng cần thiết, và mang lại tiến trình bền vững rất cần trên thế giới hiện nay.
2. Cung bảy đã liên tục tích lũy động lượng, và từ lâu đã kích thích và tăng cường hoạt động của tất cả các quốc gia thuộc cung năm. Một trong những mục tiêu chủ yếu của năng lượng cung bảy là nhằm phối hợp và liên kết tinh thần và vật chất, cũng như nối kết chất liệu và hình thể (cần phân biệt rõ điều này). Hiểu như thế, bạn có thể thấy rằng công tác của khoa học có liên quan mật thiết với cố gắng này, và thấy rằng việc tạo nên các hình thể mới rõ ràng là kết quả tương tác hoạt động giữa các vị chúa cung năm, cung hai và cung bảy, với sự trợ giúp của vị chúa cung một – khi có yêu cầu. Một số đông các chân nhân hay linh hồn thuộc cung bảy cũng như những người nam và nữ có phàm nhân thuộc cung bảy hiện đang lâm phàm. Họ được giao nhiệm vụ tổ chức các hoạt động của thời đại mới, chấm dứt những phương pháp sinh hoạt cũ kỹ, cùng những thái độ cứng nhắc, lỗi thời về sự sống, sự chết, thời gian nhàn rỗi, và đối với tha nhân.
3. Hiện nay năng lượng cung bảy lưu nhập ngày càng tăng, và ảnh hưởng của cung sáu giảm dần – thấy rõ qua sự kết tinh của những hình thức tin tưởng đã chuẩn hóa và được chấp nhận trong tôn giáo, xã hội và triết học. Kết quả là muôn triệu người không đáp ứng được với một trong hai ảnh hưởng nói trên qua liên giao chân ngã hay phàm ngã, phải lâm vào tình trạng hoang mang, bối rối. Họ cảm thấy hoàn toàn lạc lõng, cứ nghĩ rằng đời sống sẽ chẳng mang lại cho họ tương lai nào tốt đẹp cả, và những gì họ đã nâng niu, yêu quí thì nay đang nhanh chóng suy tàn.
Ba nhóm người nói trên, bị ảnh hưởng bởi cung sáu và cung bảy, hoặc bị hoang mang do tác động của những mãnh lực phát ra từ các cung này, là những người phải cùng nhau, với sự cảm thông và tầm nhìn sáng tỏ, mang lại trật tự từ tình trạng xáo trộn hiện nay. Họ phải thực hiện các điều kiện mới mẻ và tốt đẹp, phù hợp với mô hình có trong tâm trí của những người được khai ngộ trên thế giới, và với kế hoạch tinh thần hiện hữu trong tâm thức của các thành viên Thánh Đoàn. Thời đại mới với nền văn minh và văn hóa đặc thù của nó sẽ được thể hiện qua sự cộng tác của nhiều người có ý định tốt đẹp, ngày càng đáp ứng với phúc lợi của toàn thể chứ không của cá nhân. Họ là những nhà tư tưởng có lý tưởng thực tế, chịu ảnh hưởng của mô hình các sự việc sắp xảy ra, và những người đệ tử trên thế giới. Các đệ tử này nhận ấn tượng từ những kế hoạch và chỉ thị của Thánh Đoàn, đang hướng dẫn và điều hành tất cả.
Mọi sự tiên đoán mà tôi có thể đưa ra bằng chứng đều nhất quán đề cập đến ba nhóm người này và công tác họ đang đảm nhận. Mọi sự thay đổi trong gia đình nhân loại, tức là giới thứ tư trong thiên nhiên, đều luôn tùy thuộc vào ba yếu tố sau đây:
1. Những sự kiện xảy ra ở ngoại giới hồng trần rõ ràng là “các hành động của Thượng Đế” (thiên tai) mà không người nào có chút thẩm quyền về các điều đó.
2. Hoạt động của chính con người, làm việc với tất cả các cung khác nhau, nhưng vào bất cứ thời điểm nào, và trong bất cứ thời kỳ nào cũng bị chi phối bởi:
a. Đa số các chân nhân có trong một cung nào đó. Ngày nay, rất đông đảo các chân nhân cung hai đang giáng trần. Công việc và đời sống của họ tạo điều kiện dễ dàng cho cuộc Tiếp cận Vĩ đại sắp đến.
b. Bản chất và phẩm tính của các cung phàm nhân nổi bật trong đa số mọi người. Hiện nay rất nhiều linh hồn đang giáng trần có phàm nhân thuộc cung sáu hay cung ba. Họ chi phối nền văn minh sắp đến rất nhiều, gồm tất cả các lĩnh vực giáo dục và tài chính, giống như ảnh hưởng của những người đã giao tiếp với linh hồn và có thể biểu lộ phẩm tính của linh hồn, đang chi phối và qui định nền văn hóa hiện nay.
c. Hoạt động của nguyên khí thứ năm, tức là nguyên khí trí tuệ. Nguyên khí này ngày nay đang đặc biệt linh hoạt ở khắp nơi. Nói theo lối biểu tượng, thì hoạt động theo chiều thẳng đứng của trí tuệ đã ảnh hưởng đến nhiều cá nhân ở khắp nơi qua các thời đại. Luôn luôn nó đã sản sinh những người hướng dẫn về mặt trí tuệ, các nhà điều hành và lãnh đạo cho nhân loại. Ngày nay, hoạt động theo chiều ngang của trí tuệ có thể thấy ở khắp nơi, bao gồm đại khối rất đông đảo quần chúng, và đôi khi gồm cả nhiều quốc gia và chủng tộc. Hoạt động này tất sẽ đưa đến những sự kiện và các hiệu quả mà từ trước đến nay người ta chưa hề nghĩ đến và không thể có.
1. Ảnh hưởng của các cung ra đi và nhập cuộc vào một thời gian nào đó. Các bạn thường được cho biết rằng các sự kiện nói trên – vì sự xuất lộ và tan biến của ảnh hưởng một cung là một sự kiện xảy ra trong vòng thời gian – vốn phát triển chậm chạp, có tính chất thuộc về tâm lý, và chịu chi phối bởi định luật. Khoảng thời gian mà một cung xuất hiện, biểu hiện, và thực thi công tác của nó rồi cuối cùng tan biến, là một trong những bí mật của điểm đạo. Thế nhưng, theo thời gian và khi tính chất của thời gian được hiểu rõ hơn, thì thời khoảng và sự hiệu chỉnh thời gian của các cung thuộc tính sẽ được xác lập. Tuy nhiên, chưa đến lúc thực hiện được điều đó, dù ngày nay việc hết sức quan tâm đến các hiện tượng thời gian cho thấy mọi người ngày càng ý thức được vấn đề này, và muốn hiểu được mối liên hệ của thời gian cả với không gian và các sự kiện. Chẳng bao lâu nữa, người ta sẽ nhận thức rằng thời gian hoàn toàn là những gì xảy ra trong não bộ. Việc nghiên cứu thích hợp về ý thức tốc độ như được não bộ ghi nhận, và khả năng của con người có thể biểu lộ tốc độ này hay không, sẽ cho thấy nhiều điều hiện vẫn còn bí ẩn.
Ảnh hưởng của các cung ngày nay ....... (Nguồn: Sách Vận mệnh các quốc gia_Chân sư)
+ Tiểu Thiên Địa: Thể Dĩ Thái của Con người - Tiểu Thiên Địa; Thái Dương Thượng Đế - Đại Thiên Địa (LVLCK, 11)
+ Sự tương ứng giữa con người với Thiên địa Vũ trụ: ...... Các tinh tòa, các thái dương hệ, các hành tinh, các giới trong thiên nhiên và con người tiểu vi (microscopic man) hầu như là kết quả của hoạt động và sự biểu lộ năng lượng của một số Đấng Cao Cả ....
Điểm kế tiếp mà mỗi người trong các bạn cần hiểu rõ đó là sự kiện dĩ thái của không gian chính là lĩnh vực mà trong và qua đó các năng lượng từ nhiều Cội Nguồn xuất phát đang nắm giữ/ vận dụng (Play). Vì lẽ đó chúng ta chỉ đề cập tới thể dĩ thái của hành tinh, của thái dương hệ và của bảy thái dương hệ mà trong đó thái dương hệ của chúng ta là một,..... cung cấp môi trường truyền chuyển (medium of transmission) .... Nó tạo thành một lĩnh vực hoạt động liên tục trong một chuyển động liên miên không dứt – một môi trường vĩnh cửu cho việc trao đổi và truyền chuyển năng lượng.
... Đạo sinh đừng bao giờ quên Định Luật Tương Đồng như là một tác nhân giải thích. Huyền bí học dạy rằng đang ẩn dưới xác thân và hệ thống thần kinh phức tạp và bao quát của nó, là một thể sinh lực hay thể dĩ thái vốn là đối phần và là hình hài đích thực của trạng thái hữu hình bên ngoài của cõi hiện tượng. Đó cũng là môi trường/ phương tiện (medium) chuyển thần lực đến tất cả các phần của thân thể con người và là tác nhân thừa hành của sự sống nội tại và tâm thức. Nó qui định và chi phối thể xác, vì chính nó là nơi lưu trữ và nơi truyền chuyển năng lượng từ các trạng thái bên trong khác nhau của con người và cũng từ môi trường mà trong đó con người đều có được sở trường. (Nguồn: Chiêm tinh học Nội môn)
+ Con người Tiểu thiên địa: Lửa tiềm tàng nơi con người, là nội nhiệt của cơ thể đưa tới việc nảy nở của các hình thức sự sống khác, là:
1. Các tế bào của thể xác.
2. Các cơ quan được nuôi dưỡng bằng tiềm nhiệt.
3. Sự sinh sản của chính nó trong các hình hài khác của con người, nền tảng của chức năng tính dục.
+ Lửa phát xạ hay lửa linh hoạt trong con người là một nhân tố mà cho đến nay ít được hiểu biết. Nó có liên quan tới hào quang sức khỏe và liên quan tới phát xạ từ thể dĩ thái, nó giúp cho con người thành nhà chữa bệnh và có thể truyền chuyển nhiệt linh hoạt. Cần phân biệt giữa sự phát xạ (Lửa phát xạ) này với thể dĩ thái, vốn là sự phát xạ của prana, còn từ lực vốn là một phóng phát từ một thể tinh anh (thường là thể cảm dục) và có liên quan với sự biểu lộ của Linh Hỏa bên trong các lớp vỏ vật chất. Linh Hỏa được tạo ra trên cõi thứ hai, cõi Chân Thần, còn từ lực (vốn là một phương cách để giải thích lửa phát xạ) do đó được cảm nhận cao nhất là trên các cõi thứ tư và thứ sáu, hay là qua các hiện thể bồ đề và cảm dục. Như chúng ta biết, các cõi này có liên kết chặt chẽ với cõi thứ hai. Sự phân biệt này rất là quan trọng và nên nhận thức kỹ càng. (LVLCK, 50–54)
+ Khi được biết rõ, tiểu thiên địa bao giờ cũng nắm giữ manh mối đối với Đại Thiên Địa. Đại Thiên Địa luôn luôn phản chiếu chính nó trong con người, tức tiểu thiên địa, do đó con người có trong chính mình khả năng và tiềm năng lĩnh hội toàn bộ. (CTHNM, 469)
+ CON NGƯỜI: Nói chung, con người là những gì mà thể cảm dục của y tạo ra cho y. Sau nữa, “con người tưởng nghĩ như thế nào thì y trở nên thế ấy”. Thể cảm dục, với các mong mỏi, các thèm muốn, các tâm trạng, các cảm xúc và các khao khát của nó đúc nặn nên thể xác nhờ các lực thu hút tuôn chảy qua nó, và như thế dắt dẫn con người một cách chính xác để thực hiện các ham muốn của y. Nếu các khao khát của bản chất tri giác có tính thú vật vượt trội trong mục tiêu của chúng, chúng ta sẽ có con người với các thèm muốn mạnh mẽ, sống một cuộc đời dành hết nỗ lực để làm thỏa mãn chúng. Nếu sự khát khao để có tiện nghi và hạnh phúc, chúng ta sẽ có con người có tính khí thiên về giác quan, yêu cái đẹp và thích khoái lạc, về thực tế thì bị chi phối hoàn toàn bởi sự nỗ lực ích kỷ. Vì vậy, nó đi suốt tất cả các cấp độ ham muốn, tốt, xấu, và thông thường, cho đến khi sự tái-định-hướng xảy ra, nó tái-tập-trung (refocusses) các năng lượng cảm dục sao cho chúng được chuyển theo một hướng khác. Ham muốn (desire) trở thành nguyện vọng (aspiration). Như vậy, việc giải thoát khỏi bánh xe sinh tử được mang lại và một người được thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh. Khi đó thì lá số tử vi, như được hiểu hiện nay, tỏ ra vô ích, sai và vô dụng, còn thuật ngữ đôi khi được dùng, nhưng không đúng, là “lá số tử vi của chân ngã (ego) hay linh hồn”, thì không có ý nghĩa gì hết. Linh hồn không có vận mệnh cá nhân nào cả, mà được chìm vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của nó là vận-mệnh của tập thể, và của Tổng Thể (the Whole); mong muốn của nó là thể-hiện Thiên Cơ vĩ đại, và ý chí của nó là sự tôn vinh Thượng Đế nhập thể (the incarnated Logos). (LVHLT, 296)
Xem: Tổng hợp về Đức tính, kiểu người, sự nghiệp 7 Cung
Xem: Các Động lực của Linh hồn - Phàm ngã
I - THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Con người là biểu hiện của 7 nguyên khí và hoạt động của 5 cõi giới, trong đó 7 + 5 được thấy là manh mối cho bí ẩn của 7 và 5 chòm sao của hoàng đạo.(CTHNM, 483)
+ Con người là một tiểu vũ trụ: Sự tương ứng/ Tương đồng giữa cơ thể con người với Vũ trụ. Theo đó hệ thống vật chất biểu lộ trong vũ trụ thì có sự tương ứng trong con người. Ví dụ: ... Đạo sinh đừng bao giờ quên Định Luật Tương Đồng như là một tác nhân giải thích. Huyền bí học dạy rằng đang ẩn dưới xác thân và hệ thống thần kinh phức tạp và bao quát của nó, là một thể sinh lực hay thể dĩ thái vốn là đối phần và là hình hài đích thực của trạng thái hữu hình bên ngoài của cõi hiện tượng. Đó cũng là môi trường/ phương tiện (medium) chuyển thần lực đến tất cả các phần của thân thể con người và là tác nhân thừa hành của sự sống nội tại và tâm thức. Nó qui định và chi phối thể xác, vì chính nó là nơi lưu trữ và nơi truyền chuyển năng lượng từ các trạng thái bên trong khác nhau của con người và cũng từ môi trường mà trong đó con người đều có được sở trường. (Nguồn: Chiêm tinh học Nội môn)
+ Con người đứng giữa hai nhóm và đang ở điểm thăng bằng; cái khó khăn của con người nằm ở đây. Con người không tham dự toàn thể các khía cạnh vật chất của cuộc tiến hoá, y cũng không là toàn thể sự biểu lộ của Thượng Đế Ngôi Ba, trạng thái Brahma, Ngài là biểu hiện của năng lượng thuần tuý hay sự thông tuệ, đang thúc đẩy cái mà ta gọi là chất liệu nguyên thuỷ (subtance). Con người không phải là toàn thể Tinh Thần, biểu hiện của Thượng Đế Ngôi Một, trạng thái Mahadeva, vốn là một biểu lộ của ý chí thuần khiết hay dục vọng cấp thiết, đang thúc đẩy biểu lộ. Đó chính là động cơ căn bản hay ý chí hiện tồn vĩ đại. Con người là sản phẩm của sự hợp nhất cả hai; y là nơi hội tụ của vật chất hay chất liệu trí tuệ linh hoạt và của Tinh Thần hay ý chí căn bản. Y là con sơ sinh của cuộc phối ngẫu của cả hai hay là sự nhất quán. Y khoác lấy tính khách quan để biểu lộ những gì ở trong mỗi một của hai đối cực, cộng thêm kết quả sự hoà nhập của chúng trong chính y.(LVLCK, 241)
+ CON NGƯỜI: Nói chung, con người là những gì mà thể cảm dục của y tạo ra cho y. Sau nữa, “con người tưởng nghĩ như thế nào thì y trở nên thế ấy”. Thể cảm dục, với các mong mỏi, các thèm muốn, các tâm trạng, các cảm xúc và các khao khát của nó đúc nặn nên thể xác nhờ các lực thu hút tuôn chảy qua nó, và như thế dắt dẫn con người một cách chính xác để thực hiện các ham muốn của y. Nếu các khao khát của bản chất tri giác có tính thú vật vượt trội trong mục tiêu của chúng, chúng ta sẽ có con người với các thèm muốn mạnh mẽ, sống một cuộc đời dành hết nỗ lực để làm thỏa mãn chúng. Nếu sự khát khao để có tiện nghi và hạnh phúc, chúng ta sẽ có con người có tính khí thiên về giác quan, yêu cái đẹp và thích khoái lạc, về thực tế thì bị chi phối hoàn toàn bởi sự nỗ lực ích kỷ. Vì vậy, nó đi suốt tất cả các cấp độ ham muốn, tốt, xấu, và thông thường, cho đến khi sự tái-định-hướng xảy ra, nó tái-tập-trung (refocusses) các năng lượng cảm dục sao cho chúng được chuyển theo một hướng khác. Ham muốn (desire) trở thành nguyện vọng (aspiration). Như vậy, việc giải thoát khỏi bánh xe sinh tử được mang lại và một người được thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh. Khi đó thì lá số tử vi, như được hiểu hiện nay, tỏ ra vô ích, sai và vô dụng, còn thuật ngữ đôi khi được dùng, nhưng không đúng, là “lá số tử vi của chân ngã (ego) hay linh hồn”, thì không có ý nghĩa gì hết. Linh hồn không có vận mệnh cá nhân nào cả, mà được chìm vào Đấng Duy Nhất. Vận mệnh của nó là vận-mệnh của tập thể, và của Tổng Thể (the Whole); mong muốn của nó là thể-hiện Thiên Cơ vĩ đại, và ý chí của nó là sự tôn vinh Thượng Đế nhập thể (the incarnated Logos). (LVHLT, 296)
+ Có bốn loại hình hài trong kỷ nguyên của vòng tuần hoàn thứ tư này:
1. Hình Hài của Phàm-Ngã, hiện thể đó bằng chất hồng trần, chất cảm dục và chất trí, vốn cung cấp phương tiện tiếp xúc trong ba cõi thấp
2. Hình Thức của Môi Trường. Đây thực sự là sự thực hiện tiến hóa thăng thượng của hồn khóm tiến hóa giáng hạ (involutionary).
3. Hình Thức của Người Thành Tâm (Devotee). Vâng, Tôi chỉ muốn nói từ ngữ đó, vì nó diễn đạt một ý tưởng trừu tượng.
4. Hình tướng của Thể Nguyên Nhân. Đây là hiện thể của Tâm thức cao siêu, đền thờ của Thượng Đế nội tại, vốn dường như có một vẻ đẹp rất hiếm có, và một sự ổn định có bản chất quá chắc chắn đến nỗi khi sự tan rã cuối cùng của ngay cả kiệt tác đó của nhiều kiếp sống xảy ra, thì cốc phải uống thực sự là cay đắng, và đơn vị tâm thức dường như bị mất đi một cách không thể diễn tả bằng lời được (LVHLT, 263)
II - THEO PHẬT PHÁP (Con người là nửa âm nửa dương_HT Tuyên Hóa giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Đức Phật dạy: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa”. Tất cả chúng sinh đều mang theo nghiệp của chính. Chính vì nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sinh.(Xem nguồn)
+ Con người: Ngày nay, tuy đời sống vật chất phong phú nhưng lại thiếu kém về mặt tinh thần, tâm linh trống rỗng, không nơi nương tựa. Giáo dục cổ nhân Ngạn ngữ Trung Quốc có câu "con người là động vật, cầm thú cũng là động vật".
Con người và cầm thú khác biệt nhau chính ở giáo dục, hay nói cách khác, nếu con người không được giáo dục, đời sống sẽ không bằng cầm thú. ....
Con người là vạn vật chí linh, điều đáng quý nhất là chúng ta có năng lực tiếp nhận sự giáo dục, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, biết cách sống hòa thuận với nhau và với những loài động vật khác, hòa mình cùng đại tự nhiên. .... Giáo dục nhà nho, đầu tiên là đức hạnh.
Giáo dục Đức hạnh là yếu tố cơ bản, là luân lý đạo đức.... Nếu vứt bỏ luân lý đạo đức... cổ nhân thường ví von: “cầm thú mặc quần áo”. ...
... Tiểu học, dạy cách tưới nước quét nhà, dạy tôn kính sư trưởng, hiếu thuận cha mẹ, thương yêu anh em, dạy điều cơ bản của luân thường, dạy về “trung hiếu tiết nghĩa”, “ngũ luân bát đức”.... Thầy phân loại trò tư chất hơn kém yêu cầu mức học giáo lý nhiều ít cho phù hợp.
Đức Phật dạy, bổn phận của người xuất gia là “thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói”. “Thọ trì” là tuân thủ lời giáo huấn của Phật trong kinh điển, y giáo phụng hành. “Đọc tụng”, là mỗi ngày ôn tập lời giáo huấn ấy, không thể quên được. “Vì người diễn nói” là biểu diễn, làm gương cho kẻ khác; vì người khác giảng giải. “Tận phân”, chúng ta phải dốc hết bổn phận, làm từ thiện, thức tỉnh chúng sinh giác ngộ. Giúp đỡ chúng sinh giác ngộ mới thật là từ bi cứu giúp.
“Từ tế” ... “Vì người diễn nói” là đại từ tế. .... nhà Phật rất chú trọng hai chữ “giác ngộ”.... đề xướng bốn tốt: “Nói lời tốt, làm việc tốt, làm người tốt, giữ tâm tốt”, “tâm tốt” chính là: “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. ...
...Số Mạng có hay không? Có! Do trong đời quá khứ chúng ta đã tạo tác nghiệp thiện ác mà hình thành. ... cát hung họa phúc đều là như Phật dậy "mình làm mình chịu", ngay đến thiên địa quỷ thần, Phật Bồ Tát, cùng thượng đế cũng không liên hệ.. .. Người chân thật thông hiểu sự lý này dù gặp tai nạn to lớn đến đâu, họ cũng sẽ không oán trời trách người. ... Nhân quả thông qua nhiều đời, không chỉ một đời.... Thời gian của hậu báo có lúc rất lâu dài. Cho nên Phật pháp thừa nhận, mỗi chúng sinh đều có vận mạng, nhưng không gọi là “Túc mạng”
Cũng chính vì vận mạng có thể tùy thời thay đổi, ... giác ngộ thì phải phải đoạn ác tu thiện - Hành thiện lánh dữ... Người ta đi đoán mạng, xem tướng đều có thể xem được rất chuẩn là vì, vận mạng tuy là biến số nhưng mức độ thay đổi không lớn, cự ly tiêu chuẩn lên xuống không đáng kể, do đó chúng ta xem được tương đối chuẩn. Nếu người đó hành đại thiện hay đại ác, biến số dao động quá lớn, sẽ không đoán được. ...
Phong thủy cũng có, là “hoàn cảnh cư trú cùng với sự tu dưỡng của chính mình”, tâm tình đều có quan hệ. Mỗi người một ý thích, không tương đồng, người thích nước mà buộc lên núi ở, thì phong thủy của người đó không tốt, hoặc ngược lại, người thích núi bị buộc sống cạnh nước, phong thủy cũng không tốt.(Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Nhân ngã/ bản ngã/ ngã tướng: Ngã là tôi; nhân: tôi là người; chúng sanh: tôi là chúng sanh; thọ giả: thọ mạng của tôi là khoảng thời gian nào đó. Đây là bốn ý tưởng cắt chia thực tại toàn thể của tôi. (Nguồn: Phước đức và Công đức)
+ Ngã tính (Egoism, duy ngã): Ngã tính liên quan tới năng lực tạo “Ngã” (“I” making faculty), nó chủ yếu là phân biệt con người và như thế, đưa vào giác quan thứ sáu, tức thể trí (mind) như là tác nhân diễn dịch và tổng hợp 5 giác quan kia. Đó là khả năng của con người để nói “Tôi thấy”, “Tôi ngửi” – một điều mà con vật không thể làm được. (ASCLH, 351)
+ Các Ngã: ... "Tôi nghe" - Chữ tôi đề cập đến "giả ngã" của hàng bồ tát. Có bốn nghĩa khác nhau về Ngã:
1. Hàng phàm phu vọng kế chấp trước thân mình cho đó là Ngã - Thật Ngã. Họ cho rằng: “Thân xác này là tôi”. Thực ra thân này chỉ là nơi trú ngụ tạm thời, giống như ở khách sạn. Hàng phàm phu không hiểu được đạo lý này.
2. Hàng ngoại đạo do vọng tưởng hư huyễn cho rằng có một thần ngã gọi là ngã, nên họ cho ngã chính là Thượng đế. Họ có nhiều dạng khác nhau về thần ngã này.
3. Hàng bồ-tát tùy thuận thế gian mà thị hiện nên gọi là “giả ngã.” Chân ngã từ trong tự tánh mà hàng bồ-tát nhắm tới là gì? Đó là thành Phật. Thành Phật là Chân ngã.
4. Đối với Đức Phật, đó là chân ngã pháp thân. (Nguồn: Kinh Thủ LN - HTTH)
+ Bản Ngã - Purusha:
- Bản ngã tâm linh (spiritual self). Bản ngã biểu hiện. Theo nghĩa đen, từ này là “Người cư trú trong thành phố” – nghĩa là trong thân thể. Nó có nguồn gốc tiếng Bắc Phạn, “pura” nghĩa là thành phố hay thân thể và “usha” dẫn xuất ở động từ “vas” là cư trú (dwell). (ĐĐTNLVTD, 223)
- Purusa, linh hồn (soul). (ASCLH, 100)
- Purusa tức là tinh thần. (ASCLH, 320)
- Purusha … Bác Ái–Minh triết. Trạng thái Vishnu.(LVLCK, 293)
+ Chân Ngã: Trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện nói được rất hay - chúng sanh trong diêm phù đề khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp” là thật đấy không phải giả. Tại vì sao? Bạn hãy nghĩ xem có chúng sanh nào khởi tâm vọng niệm mà không nghĩ đến cái TA, cái TA này rất phiền phức. Ta tức là tội, ta tức là nghiệp, niệm niệm đều vì ta.... Người thế tục có câu ngạn ngữ nói như vầy :”Con người không vì mình thì trời tru đất diệt”.... Nếu không vì ta thì đâu phải là con người. Không sai, không vì ta không phải là con người. Họ là Phật, họ là Bồ Tát, họ không phải con người. Cho nên hãy mà vì ta thì đích thật họ là con người. Đúng thật là không sai chút nào. Họ trong cõi người không ra khỏi lục đạo, vì sao Phật phải nói như vậy? Chúng ta phải hiểu cái ý của Ngài.
Phật bảo với chúng ta rằng: “Tất cả chúng sanh có Chân ngã”, cái thân này là giả ngã, không phải Chân ngã, giả ngã mới tạo lục đạo luân hồi, chân ngã tuyệt đối không có luân hồi. Chẳng những không có lục đạo luân hồi ngay cả thập Pháp giới cũng không có. Chân ngã trụ ở đâu, chân ngã trụ trong nhất chân pháp giới. Ai có chân ngã, Phật có chân ngã. Trong đại Kinh nói Phật có 3 thân, mỗi người chúng ta cũng có 3 thân, bản thể của thân chúng ta. Thật sự chân ngã là gì? Là pháp thân. Cho nên Phật tại trong Kinh nói mọi người tu hành, tu đến trình độ tương đương thì bạn chứng được thanh tịnh pháp thân, thanh tịnh pháp thân mới là chân ngã , trong thiền tông gọi là :
Trước khi cha mẹ chưa sanh bản lai diện mục, cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ chưa sanh tức là thanh tịnh pháp thân, trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là Tỳ Lô Giá Na Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật không phải là một người. Tỳ Lô Giá Na Phật là chân ngã của chính chúng ta, là chân thân của chúng ta gọi là Ty Lô Giá Na, Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn. Ý nghĩa của nó là biến nhất thiết sứ tức là bất cứ lúc nào, chổ nào cũng có khắp cả chổ. Nếu ở chổ này không có chân ngã thì cái thân giả này không thể hiện tiền, là thật có, nên cái giả tướng này là do chân ngã mà có. Cái ngã là thể, là tánh, do thể tánh chân thật mà hiện tướng. cho nên nhất định là có cái chân ngã này. Tất cả chúng sanh đã mê mất chân ngã mới trở thành phàm phu. Vì đã mê mất chân ngã, đã mê mất chứ không phải thực mất, đã mê mất mà thôi. Không phải thực sự mất đi chỉ là mê. Đã mê cái gì? Đã mê những giả tướng do thể tánh chân thật hiện ra những giả tướng. Trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là “duy tâm sở hiện” cái tâm đó gọi là chân, chân tâm, là chân ngã, cũng là Pháp thân. Hiện ra giả tướng, bạn đã chấp tướng, hư là hư ở chổ này, hiện ra cái giả tướng. Vì bạn không biết nó là giả tướng, nên bạn chấp trước cái giả tướng cho nó là chân, vì vậy đã quên mất cái chân tánh. Xem giả tướng cho là chân , hư là hư ở chổ này. Vì bạn có phân biệt, chấp trước nên nhất chân mới chuyển biến thành những hoàn cảnh rất phức tạp, biến thành thập pháp giới, biến thành lục đạo, biến thành tam đồ. Biến như thế nào? là do thức sở biến. Cái gì gọi là thức? trong Kinh Hoa Nghiêm giảng về thức rất cụ thể: vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là thức. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều có đủ 3 thứ này. Hiện nay, chúng ta đều có đủ, có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. vì vậy đã biến nhất chân pháp giới thành lục đạo luân hồi, đã biến thành lục đạo. (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Ngã của Vô Ngã: ... "Đỏa y mông" có nghĩa là “Ngã”/ Cái Ngã của Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví như khi có người đánh quí vị, quí vị không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ, quí vị thấy như thể không có việc gì xảy ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào “đệ nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có một bản ngã để dùng pháp nhẫn và không có một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”. Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy (HT Tuyên hóa giảng Chú Đại Bi câu 10)
+ Không có cái Ta: Đức Phật dạy: "Nên nghĩ đến tứ đại trong thân, mỗi thứ tự nó có tên, không có cái nào là 'ta' cả. Cái 'ta' đã không có thì nó chỉ như huyễn như hóa mà thôi."
Lược giảng: Đại ý của chương 20 là mọi người nên dùng tứ đại để quán xét thân người, ngõ hầu ý thức được thân này chỉ như huyễn như hóa, giả tạm, không thật.
Đức Phật dạy: Thân thể của chúng ta vốn do bốn yếu tố là đất, nước, lửa, và gió (không khí) kết hợp với nhau mà hình thành. Trong thân chúng ta, những phần rắn chắc là thuộc về yếu tố đất (địa đại), ẩm ướt là thuộc về yếu tố nước (thủy đại), ấm áp là thuộc về yếu tố lửa (hỏa đại), hơi thở vô ra và sự chuyển động là thuộc về yếu tố gió hoặc chất khí (phong đại).
"Mỗi thứ tự nó có tên." Mỗi một yếu tố trong tứ đại đều có tên của nó - yếu tố nào thì có tên của yếu tố nấy. Tuy nhiên, "không có cái nào là 'ta' hoặc 'tôi' cả." Nếu nói rằng cái thân này là "tôi," thì quý vị hãy xét lại xem - đầu thì có tên là "đầu"; chân có tên là "chân"; mắt có tên là "mắt"; tai có tên là "tai"; mũi có tên là "mũi"; lưỡi có tên là "lưỡi"; miệng có tên là "miệng." Từ đầu tới chân, mỗi bộ phận trên cơ thể đều có tên của nó. Cơ phận nào thì có tên của cơ phận đó, vậy quý vị hãy nói đi, cái "tôi" nằm ở đâu? Chỗ nào được gọi là "tôi"? Chẳng có nơi nào gọi là "tôi" cả! Như vậy, đã không có một nơi nào tên "tôi," thì tại sao quý vị lại chấp trước vào cái "tôi"? Tại sao lại quá coi trọng cái "tôi" như thế? Khắp cơ thể chẳng có cái gì tên "tôi," chẳng có cái gì là "tôi" cả kia mà!
"Cái 'ta' đã không có, thì nó chỉ như huyễn như hóa mà thôi." Vì không có cái "tôi," nên xác thân này giống như một thứ ảo ảnh hoặc biến hóa tạm bợ, chứ không có thật. Bất luận là năng-quán (người quán tưởng) hay sở-quán (đối tượng quán tưởng), tất cả đều là hư vọng, đều là huyễn hóa. Nếu hiểu được đó là giả tạm, như huyễn như hóa, tất quý vị sẽ thấu triệt được đạo lý không-quán, giả-quán, và trung-quán. Khi đã lãnh hội được những đạo lý ấy, thì quý vị sẽ biết rằng thân người vốn là hư vọng, không thật! (Nguồn: Kinh 42 chương - HT Tuyên Hóa)
+ Cái Ngã: NHẬN RA BỔN LAI DIỆM MỤC
Như muốn làm kẻ đại trượng phu, đại anh hùng, vậy phải ngồi xuống tham thiền, mới có thể đạt mục đích. Ðại anh hùng chính là bậc đại giác, đại giác chính là Phật.
Ngồi thiền mà đạt tới cảnh giới vô ngã, thì chân có đau cũng không hay, lưng có mỏi cũng không biết. Trong, không cảm thấy thân tâm, ngoài, không biết có thế giới, tới lúc đó, trong khoảnh khắc, bừng lên đại ngộ: vốn là như thế!
Nếu rõ ràng có ngã, thì có "cái ngã" ở chỗ này. Quý vị ở tại chỗ này, ai không ở tại chỗ này? Không ở tại chỗ này cũng là ai đó? Không ai ở tại đây, cũng chẳng ai không ở tại đây, cho nên gọi là vô ngã.
Nguyên do vì không có tại, nên mới không có ngã. Nếu còn có tại thì còn có ngã tại. Có tại thì đúng ra phải là tự tại, chớ không phải ngã tại. Tự tại không thể có ngã, nếu có ngã thì không phải tự tại.
Có ngã nên mới sanh lắm chuyện phiền phức, kể ra không thể hết được. Nào, ngủ chẳng đủ, tinh thần không khoan khái. Ăn chẳng đủ, bụng không dễ chịu. Mặc không đủ, thân thể ớn lạnh. Bởi đâu mà có những hiện tượng đó? Bởi chưng có cái ngã.
Muốn không có ngã, chỉ còn một biện pháp, đó là đến thiền đường mà ngồi thiền, thiền tới thiền lui, thiền cho tới lúc đạt được vô ngã, đạt được cảnh giới gọi là: "Vô nhân vô ngã Quán tự tại, phi không phi sắc kiến Như-lai."
Tới lúc đó thì tự tại vô cùng, tự khắc sẽ biết bổn lai diện mục là như thế nào. Tuy nhiên, tới được cảnh giới đó chẳng phải dễ dàng. Bởi vậy mới cần phải gắng sức nhẫn chịu, chịu đựng mọi thống khổ, mọi sự gian nan.
Như quả qua được cửa ải này thì sẽ gặp một sự thống khoái: chính là ăn bằng niềm vui thiền duyệt, và sống trong pháp hỷ.
Bất luận làm một công việc gì, buổi đầu tương đối khó khăn. Lâu dần, sẽ thành quen, không cảm thấy khó nữa. Ngồi thiền cũng như vậy.
Trong thiền đường, cố gắng chịu đựng, khi đã chịu đựng được rồi thì không còn cảnh giới nào làm cho giao động. Vậy là đã có chút ít định lực.
Có một chút định lực tức sẽ có chút huệ lực. Tích tiểu thành đại, khi huệ lực đầy đủ thì tự khắc khai ngộ. (HT Tuyên Hóa khai thị - Phần cuối)
+ Bốn đức niết-bàn được đề cập ở trong đoạn kinh này. ‘An lạc’ là chân lạc, còn ‘tự tại’ là đức tính của chân ngã. Nếu quý vị còn có một cái ngã, thì quý vị không thể có được tự tại. Nếu quý vị muốn đạt được giải thoát, quý vị phải giải trừ cái ngã ấy. ‘Vắng lặng’ biểu tượng cho ‘chân tịnh’. ‘diệu thường’ biểu tượng cho chân thường. “Đây là Bốn đức niết-bàn vô dư y, và cũng chính là sáu căn của ông, chẳng phải gì khác. A-nan, ông có nhận ra không?”(Nguồn: HT Tuyên Hóa -Kinh TLN - Q.5)
+ Tương ứng và tương đồng trong vũ trụ: Trạng thái giao động biến dịch trong biểu lộ khắp các cõi vũ trụ. Chúng ta biết bất luận là hiện tượng tinh thần hay là hiện tượng vật chất, khi ở trong trạng thái dao động, nó có ba đặc tính. Thứ nhất là chu biến pháp giới, như vậy bao nhiêu chúng sanh được lợi ích! Đặc tính thứ hai là năng sanh vạn pháp, đặc tính thứ ba là hàm dung không hữu. Đây là tánh đức, tự tánh vốn là như vậy. Đức Phật giảng kinh, ngài nói tất cả kinh điển đại thừa, đều từ trong tự tánh hiển lộ ra. Mỗi chữ mỗi câu đều là tự tánh phóng quang, là tự tánh thị hiện, phổ độ tất cả chúng sanh. Công đức từ đây mà có được ... (Nguồn: HT. Tịnh Không, Tịnh Độ Đại Kinh ... tập 145.)
+ Kinh Kim Cang tuyệt đỉnh nhân gian. Trong Kinh có rất nhiều thuật ngữ rất sát thực cho người tu chánh đạo - Con đường ngay thẳng để người sơ cơ mới bước vào con đường tu học đạo Phật, do Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Đức Phật, gồm các thuật ngữ liên quan đến NHỮNG PHÁP PHƯƠNG TIỆN chỉ dạy cho CHÚNG SINH SƠ CƠ mới bước vào nhà Phật: Mời xem bản Kinh Kim Cang
+ Biến dịch vũ trụ theo Luật tương ứng hay tương đồng: .... Chẳng hạn, một sự kiện xét theo lập trường của nhân loại ( từ “sự kiện” được dùng theo nghĩa khoa học, tức là điều đã được chứng minh, không còn gì nghi ngờ thắc mắc) thì có thể không phải là một sự kiện, theo lập trường của một vị Chân sư. Đối với Ngài, nó có thể chỉ là một phần của một sự kiện lớn hơn, chỉ là một bộ phận của cái toàn thể. Vì tầm nhìn của Ngài thấu đến bề đo thứ tư và thứ năm, nên nhận thức của Ngài về giá trị của thời gian trong vĩnh cửu phải đúng đắn hơn chúng ta. Ngài thấy các sự vật từ trên xuống dưới, và ở cương vị của một người thấy thời gian không có thực.
Một nguyên lý biến dịch chưa thể giải thích được vẫn tồn tại trong Trí tuệ của Đức Thượng Đế của thái dương hệ của chúng ta, và chi phối mọi hành động của Ngài. Chúng ta chỉ thấy các hình thể mãi mãi thay đổi, và thoáng thấy sự sống thường hằng tiến hoá bên trong các hình thể đó, nhưng vẫn chưa tìm ra manh mối của cái nguyên lý tác động xuyên qua chiếc kính vạn hoa luôn luôn biến chuyển gồm các thái dương hệ, các cung, các huyền giai, hành tinh, cảnh giới, hệ thống, các vòng tiến hoá, các giống dân chính, và các giống dân phụ. Tất cả đều đan vào nhau, liên kết nhau, xuyên thấu lẫn nhau, khiến chúng ta hoàn toàn sững sờ trước mô hình kỳ diệu của chúng bày ra trước mắt. ... Chúng ta không biết cách nào mà một có thể trở thành ba, ba trở thành bảy, và cứ thế mà tiếp diễn đến mức biến phân vô tận. Với tầm mắt của nhân loại thì sự đan kết cấu thành thái dương hệ thật phức tạp không thể tưởng, mà chìa khoá thì dường như chưa thể tìm thấy trong thời gian tới. ....
Chúng ta phải chấp nhận sự kiện rằng việc nghiên cứu luật tương ứng hay tương đồng là phương cách duy nhất để có thể tìm ra manh mối bí nhiệm của các cung, các hệ thống và các huyền giai. Đó là sợi chỉ duy nhất có thể giúp chúng ta tìm đường qua [7] mê lộ, là tia sáng duy nhất chiếu xuyên qua sự tối tăm của bức màn vô minh bao phủ chúng ta. H. P. Blavatsky đã nói như thế trong “Giáo Lý Bí Nhiệm,” nhưng cho đến nay, các môn sinh vẫn chưa cố gắng bao nhiêu để ích dụng được manh mối đó. Khi nghiên cứu Luật này, chúng ta cần nên nhớ rằng sự tương ứng vốn ở trong nền tảng, chứ không ở sự thể hiện của các chi tiết bề ngoài như chúng ta tưởng mình thấy được theo quan điểm hiện nay. Một lẽ là yếu tố thời gian làm chúng ta lạc hướng; chúng ta sai lầm khi cố ấn định rõ những thời khoảng hoặc giới hạn; trong cuộc tiến hoá, tất cả đều tiến triển thông qua sự hoà hợp, với một diễn trình luôn luôn chồng chéo và pha trộn lẫn nhau. Người môn sinh bình thường chỉ có thể nhận ra các điểm tương đồng cơ bản và những điều tổng quát mà thôi. Ngay khi y toan giản lược các điều đó thành những sơ đồ và bảng biểu chi tiết, là y bước vào các lãnh vực dễ bị sai lầm, đi quanh co qua đám sương mù mà cuối cùng sẽ lạc lối trong đó.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu luật tương đồng một cách khoa học, kiến thức của chúng ta sẽ tăng dần, và khi từ từ được tích lũy, các sự kiện sẽ dần dà hợp thành một hình thể ngày càng rộng lớn, chứa đựng nhiều chân lý. Bấy giờ, người môn sinh sẽ nhận biết rằng sau tất cả các cố gắng nghiên cứu, ít ra y cũng có được một ý niệm tổng quát về hình tư tưởng của Thượng Đế để có thể gắn vào đó các chi tiết y hoạch đắc qua nhiều kiếp luân hồi. Điều này đưa chúng ta đến điểm chót cần được xem xét, trước khi đi vào chính chủ đề, đó là:
Sự phát triển của con người chỉ là chuyển từ một trạng thái tâm thức này sang một trạng thái khác. Đó là một loạt những sự mở mang, phát triển khả năng ý thức vốn là đặc tính quan trọng nhất của Chủ thể Tư tưởng ở nội tâm. Đó là sự tiến triển từ mức tâm thức phân cực trong phàm nhân, phàm ngã hay hình thể, đến mức tâm thức phân cực trong Chân ngã, Chân nhân, hay linh hồn, rồi đến mức phân cực trong Chân thần, hay Tinh thần, mãi [8] cho đến mức rốt ráo là tâm thức Thiêng liêng. Trong quá trình phát triển của con người, trước hết, năng lực ý thức vượt qua những giới hạn giữ nó lại trong các giới hạ đẳng của thiên nhiên (khoáng vật, thực vật và động vật), đến ba cõi giới tiến hoá của phàm nhân, đến hành tinh mà y có vai trò trong đó, rồi đến thái dương hệ mà hành tinh này vận chuyển bên trong, cho đến cuối cùng nó vượt khỏi chính thái dương hệ và trở nên tâm thức đại đồng.... (Nguồn: Sách Điểm Đạo Trong Nhân Loại và Thái Dương Hệ)
+ Vũ trụ biến dịch biểu lộ: ..... Một nguyên lý biến dịch chưa thể giải thích được vẫn tồn tại trong Trí tuệ của Đức Thượng Đế của thái dương hệ của chúng ta, và chi phối mọi hành động của Ngài. Chúng ta chỉ thấy các hình thể mãi mãi thay đổi, và thoáng thấy sự sống thường hằng tiến hoá bên trong các hình thể đó, nhưng vẫn chưa tìm ra manh mối của cái nguyên lý tác động xuyên qua chiếc kính vạn hoa luôn luôn biến chuyển gồm các thái dương hệ, các cung, các huyền giai, hành tinh, cảnh giới, hệ thống, các vòng tiến hoá, các giống dân chính, và các giống dân phụ. Tất cả đều đan vào nhau, liên kết nhau, xuyên thấu lẫn nhau, khiến chúng ta hoàn toàn sững sờ trước mô hình kỳ diệu của chúng bày ra trước mắt. ... Chúng ta không biết cách nào mà một có thể trở thành ba, ba trở thành bảy, và cứ thế mà tiếp diễn đến mức biến phân vô tận. Với tầm mắt của nhân loại thì sự đan kết cấu thành thái dương hệ thật phức tạp không thể tưởng, mà chìa khoá thì dường như chưa thể tìm thấy trong thời gian tới. .... (Nguồn: Sách Điểm Đạo TNH và TDH)
+ Khởi nguyên vũ trụ: Từ SỰ SỐNG DUY NHẤT (ONE LIFE), vô sắc tướng, bất sinh bất diệt, phát sinh ra Vũ Trụ của mọi Sinh Vật (the Universe Of Lives). Thoạt tiên, từ khối Hỗn Mang (Chaos) mới biểu lộ ra lửa lạnh và sáng (ánh sáng mờ ảo như chất hơi) hình thành những chất Cô đọng (Curds) trong Không Gian [có lẽ là khối tinh vân?]… Những chất cô đọng này va chạm lẫn nhau, phát ra nhiệt lực và gây nên sự vận chuyển xoay vòng. Kế đó mới có sự biểu lộ đầu tiên của Lửa Hậu Thiên (VẬT CHẤT), những Ngọn Lửa nóng, những Sao Chổi [Comets] trên không gian. Nhiệt lực tạo nên hơi ấm, hơi ấm tạo nên nước đặc (solid water) [?]; rồi đến sương mù khô, sương mù ướt, lỏng như nước, nó dập tắt sức nóng chói rạng của những kẻ hành hương [Sao Chổi?] và hình thành những Bánh Xe đặc sệt (những Bầu Thế Giới VẬT CHẤT – MATTER Globes). Địa Cầu (Bhumi) xuất hiện với sáu bầu chị em của nó. Những bầu này do sự vận chuyển liên tục mới tạo nên lửa hậu thiên (inferior fire), nhiệt lực và sương mù đặc, nó sản xuất ra NƯỚC (Nguyên Tố thứ ba – the third World-Element) và do khí vận trên không gian và sinh ra KHÔNG KHÍ [gió]. Tứ nguyên hay tứ đại này là bốn nguyên tố của bốn Cuộc Tuần Hoàn (Rounds) đầu tiên trong Chu kỳ Sáng Tạo (Manvantara). Còn ba nguyên tố nữa sẽ tiếp theo sau. ....
...“Thoạt đầu, Đức Chúa Trời tạo ra cõi trời lưỡng phân, Thượng Thiên và Hạ Thiên, tức là sự phân tích của vật chất nguyên thuỷ - vốn có phần trên là ánh sáng, còn phần dưới (Vũ Trụ biểu lộ) là bóng tối – ra hai phần vô hình và hữu hình đối với các giác quan của chúng ta.... (Nguồn: Giáo lý bí nhiệm, tr 664)
* Đọc sự tiến hóa của vũ trụ đầy đủ (Chân sư DK hay trích dẫn): Giáo lý bí nhiệm - Phần đầu
+ KHI MỘT BIẾN THÀNH HAI, THÌ BỘI SỐ BA HIỆN RA (a). BA LÀ (1 ) MỘT; VÀ ĐÓ LÀ SỢI CHỈ CỦA CHÚNG TA, HỠI ĐỆ TỬ, TRÁI TIM CỦA CÂY NGƯỜI (MANPLANT), GỌI LÀ SAPTAPARNA (b)
(a) “Khi cái Một trở thành cái Hai, cái Ba xuất hiện”, nghĩa là khi cái Một Trường Cửu phản ánh vào cõi Biểu Lộ, thì sự phản ánh đó, tức là cái “Tia Sáng” phân hoá “Không Gian Thuỷ” (“Water of Space”). Tử Vong Kinh dạy: “Nhờ vào đại quyền năng của linh từ của Ngôi Mặt Trời Trung Ương, nhờ vào ánh quang huy chói lọi của Tia Sáng Nguyên Thuỷ (the Ray of Primordial Light) xua tan mọi bóng đêm, Hỗn Mang không còn nữa. Hỗn Mang biến thành thư hùng lưỡng tính, còn Nước được Ánh Sáng ấp ủ và Đấng Tam Phân được xạ ra như là đứa con “đầu lòng” của nó....
.... Sáng tạo vũ trụ có nhiều Nhóm .... Trong đó có Nhóm tạo ra Nhân loại, Nhóm này tạo nên con người sơ khai (hãy còn là hình bóng chưa có thể xác tạm gọi là “người bóng” (“shadowy man”) trong Chu kỳ hiện tại, cũng như một nhóm khác thiêng liêng cao cả hơn nữa đã sáng tạo ra con người trong cuộc Tuần Hoàn thứ Ba. Đó là Nhóm thứ Sáu (trên nấc thang từ trên đi xuống của giai tầng tâm linh) có nhiệm vụ tạo nên Tinh Thần hãy còn mờ ảo như cái bóng trong suốt và thanh nhẹ như sương của con người tương lai. Nhóm thứ Bảy và cuối cùng là cấp đẳng Tinh linh ngũ hành, có nhiệm vụ trợ giúp trong việc cấu tạo lần hồi hình dáng và thể xác con người, làm cho y có được xác phàm rắn chắc như hiện nay.
- Cuộc tuần hoàn I: Các Hỏa tinh quân tạo ra nguyên tố Lửa, hiện phổ cập khắp nơi trong toàn Thái Dương Hệ;
- Cuộc TH II: biểu lộ Nguyên Tố thứ hai, tức KHÔNG KHÍ (AIR), là nguyên tố mà sự thuần khiết bảo đảm sự sống liên tục cho người sử dụng nó.
- Cuộc TH III: Ba phát triển Nguyên Tố thứ ba (third Priciple) là NƯỚC:
- Cuộc TH IV: Biến đổi những chất lỏng bốc hơi và hình thể mềm dẻo của Trái Đất thành một Bầu vật chất đông đặc, cứng rắn như địa cầu ngày nay. Trái Đất đã đạt tới Nguyên Khí thứ tư của nó, và sẽ đạt tới cái chân tướng rốt ráo cùng tột của nó, tức cái vô cùng đông đặc. ... các Tinh linh ngũ hành thuộc đẳng cấp thấp kém hơn, không có trí khôn hay chỉ có trí khôn nửa vời, tất cả đều sẽ trở thành người trong tương lai. (Đoạn này nói về ngoại môn (Tr 675). Xem tại nguồn: Giáo lý bí nhiệm, tr 620)
+ Phân thân (Emanation): Một dòng thần lực tức là một phân thân. (LVLCK, 69)
+ Ba luồng phân thân: Xuất phát từ Thượng Đế 3 ngôi (Tam vị nhất thể) đặt ngoài khung thời gian và không gian 7 cõi Thái Dương hệ chúng ta. Mỗi 1 trong 3 ngôi có 1 phân thân (LVLCK, 123):
- Luồng 1: Giáng xuống từ ngôi 3 - Đường thẳng, xuống tận cùng vật chất trọng trượt nhất.
- Luồng 2: Giáng xuống từ ngôi 2 - Đi xuống tận vật chất thấp nhất rồi vòng về phân cảnh Hạ trí thì dừng lại (3/4 đường tròn)
- Luồng 3: Giáng xuống từ ngôi 1- Chỉ xuống tới Cõi thứ 4 - Bồ Đề, rồi gặp luồng 2 đi lên ở đó, qua tam giác - Là Chân Ngã luân hồi)
+ Hoạt động 3 luồng
- Luồng 1: Phát ra từ Thượng Đế, làm linh hoạt vũ trụ chất và khiến cho mọi nguyên tử vật chất trong “vòng giới hạn” của Thái Dương Hệ của Ngài rung động theo 7 mức rung động khác nhau.
- Luồng 2: Gây ra các phối hợp phân tử, nhờ thế tạo ra sáu cõi phụ dưới cõi phụ nguyên tử ở mỗi cõi và tạo ra hình hài.
- Luồng 3: Với mỗi Linh hồn thể được tạo thành từ từ bằng các phần tử vật chất thuộc cùng tính chất và cùng loại như nguyên tử dùng làm nhân của nó, và khi linh hồn thể được kiến tạo như thế qua các thời kỳ tiến hóa dài thì trung tâm ý thức thiêng liêng đang ứng linh, mà qua bao thời kỳ đã tiến hóa riêng biệt, lại kết hợp với nó, Chân Ngã bất tử bắt đầu leo lên qua giới nhân loại. (TLHNM I, 168–169)
+ Vũ trụ biểu lộ - Tiên thiên và hậu thiên: Một Giáo lý huyền linh dạy: “Chuyển động có tính cách vĩnh cửu trong thế giới tiên thiên và tuần hoàn trong thế giới hậu thiên. Chỉ khi nào nhiệt do Ngọn Lửa giáng xuống vật chất nguyên thuỷ đã làm chuyển vận cấu tử của nó thì chuyển vận mới thành cơn gió lốc”. Một giọt chất lỏng có dạng hình cầu vì các nguyên tử của nó tự quay mình trong bản chất thực tượng, cực vi và bất khả phân giải (ít ra thì cũng bất khả phân giải đối với Vật lý học). (Nguồn: Giáo lý bí nhiệm)
+ Thái cực sinh lưỡng nghi - Số 1 biến thành số 2 - Đồng biến dị: Tánh giác (Số 0) thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới. Nhân hư không mà sinh ra dao động kiên cố cái sáng mà thành có ngăn ngại. Các loại kim bảo kia đều do minh giác lập ra tánh cứng chắc, nên có kim luân giữ gìn cõi nước. Phong đại và kim bảo cọ xát mà có lửa sáng làm thành tính biến hóa… Nơi Sở minh, tự yêu thích cái sáng suốt của tánh minh, dòng yêu thích làm thành chủng tử, ấy là nguyên nhân có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh. Đại sư Hàm Thị nói: “Bốn đại chỉ là tâm. Tùy thế lực của tâm mà có nặng nhẹ. Sân hận nhiều, yêu thích ít nên ứng hiện ra ngoài có núi cao. Đập đá thì tóe lửa, nấu thì chảy ra nước. Yêu thích nặng, cố chấp nhẹ nên ngoài ứng hiện ra cỏ cây…”. Quá trình này được ví dụ mắt nhặm mà thấy hoa đốm hiện ra trong hư không, hoặc như ngủ rồi mộng mà thấy mọi thứ, không thứ nào có chất thật như hiện nay đa số vẫn lầm. Mọi thứ đều là biến hiện của thức.... (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên - Tự nhiên)
+ Xem thêm Tooltip: Chữ Đạo
+ Định luật Tương Ứng hay Tương Đồng (Law of Correspondences or of Analogy): Là định luật để giải thích về Thái Dương Hệ và giải thích Thượng Đế cho con người. (LVLCK, 7)
* Xóa bức màn che vô minh: Chúng ta phải chấp nhận sự kiện rằng việc nghiên cứu Luật tương ứng hay tương đồng là phương cách duy nhất để có thể tìm ra manh mối bí nhiệm của các cung, các hệ thống và các huyền giai. Đó là sợi chỉ duy nhất có thể giúp chúng ta tìm đường qua [7] mê lộ, là tia sáng duy nhất chiếu xuyên qua sự tối tăm của bức màn vô minh bao phủ chúng ta. H. P. Blavatsky đã nói như thế trong “Giáo Lý Bí Nhiệm,” nhưng cho đến nay, các môn sinh vẫn chưa cố gắng bao nhiêu để ích dụng được manh mối đó. (Nguồn: Điểm Đạo TNL và Thái DH)
+ Qua Định Luật Tương Đồng hay tương ứng, các tiến trình vũ trụ và bản chất của các nguyên khí vũ trụ được biểu thị trong các chức năng, cấu tạo và các đặc điểm của một con người. Chúng được biểu thị nhưng không được giải thích hoặc nói gì thêm. Chúng chỉ được dùng như các biển chỉ đường, hướng cho con người đi dọc theo con đường mà trên đó y có thể tìm thấy các biển chỉ đường sau này, và ghi nhận các dấu hiệu rõ ràng hơn. (LVHLT, 19)
+ LUẬT TƯƠNG ỨNG — THE LAW OF CORRESPONDENCES
- Luật Tương Ứng hay Tương Đồng này là quy luật diễn giải của hệ thống, và giải thích về Thượng Đế cho con người. (LVLCK/ TCF, 8)
- Chúng ta phải khước từ bản thân đến sự thật là con đường duy nhất mà chúng ta có thể thấy được gợi ý cho bí ẩn về các cung, các hệ thống, và các huyền giai, nằm trong việc nghiên cứu các quy luật tương ứng hay tương đồng. Nó là một sợi chỉ mà qua đó chúng ta có thể tìm thấy đường về xuyên qua mê cung, và cung ánh sáng [Trang 7] chiếu rạng qua bóng tối của sự vô minh xung quanh.(ĐĐTNLVTDH/ IHS 6)
- Loại suy hay suy luận, sử dụng những năng lực lý trí của tâm trí bởi người nhận thức trong mối liên quan [Trang 16] đến cái không được nhận thức một cách trực tiếp. Điều này, đối với người sinh viên huyền môn, chính là ứng dụng của Luật Tương Ứng hay Tương Đồng. (ASCLH/ LOS, 16)
- Các kiểu mẫu hình học, sự tiến triển số học hay Luật Tương Ứng không bao giờ thất bại trong việc hiểu về mục đích và các kế hoạch của Thượng Đế hành tinh - đã được thiết lập trước khi các thế giới được tạo ra và tìm thấy những nguyên mẫu của chúng trên các cõi trí tuệ vũ trụ. (VCVTDT/ TEV, 90)
Xem các Tooltip và các Trang có chủ đề tương ứng hay tương đồng
Xem: Thống Kê Tương Ứng Số Và Thuật Ngữ
Xem: Thống Kê Tương Ứng Số
Xem: Tương Ứng Bảy Cảnh Giới Sự Sống Thái Dương
+ Chân Ngã - Ego:
- Là Con Của Trí Tuệ (Son of Mind). (LV7C, 475)
- Là thực thể biết suy tư - Chân Ngã (Ego) của kẻ thường nhân có trú sở trên cõi phụ thứ ba của cõi trí. (LVHLT, 113)
- Chân Ngã (real man) tức hồn tinh thần. (CTNM, 346)
- Chân Ngã tức chủ thể hữu ngã thức, có bản chất và thật sự là Bác ái - Minh Triết, nhưng biểu lộ chính yếu như là ý thức sáng suốt (LVLCK, 684)
– Chân Ngã, hình ảnh (reflection) của Chân Thần, chính nó cũng là một tam bộ như tất cả các cái khác (vạn hữu) trong thiên nhiên và phản ánh ba trạng thái của thánh linh, giống như trên cõi cao, Chân Thần phản ánh ba trạng thái – Ý chí, Bác ái - Minh Triết và Thông tuệ linh hoạt – của Thượng Đế. (ĐĐNLVTD, 114)
– Kiên trì là một trong các đặc tính của Chân Ngã. Chân Ngã kiên trì vì biết mình bất tử. Phàm ngã hay nãn lòng vì biết thời gian ngắn ngủi. (ĐĐNLVTD, 776)
– Chân Ngã của con người không phải là Atman, cũng không phải là Buddhi mà là Thượng Trí; kết quả của hoạt động trí tuệ và tinh túy của cá thể hữu ngã thức biết hoạt động trí tuệ – theo ý nghĩa tâm linh cao siêu. Kinh sách cổ gọi nó là Karana Sharira (Chân Ngã thể/Linh hồn thể) trên cõi của Sutratma, vốn là “sợi chỉ vàng” mà các phàm ngã khác nhau của Chân Ngã này được xỏ xâu qua đó, giống như xâu chuỗi. (GLBN III, 89)
– Higher self tức là causal self. (ASCLH, 400)
+ Ego tức là Solar Angel (Thần Thái Dương) bị giam nhốt. GLBN I, 621.
+ Chân Ngã (Ego) tức là Nhật Tinh Quân. (ĐĐNLVTD, 136)
+ Nhật Tinh Quân là các “Thiên Thần Sa Đọa” – SD–II, 287.
+ Chân Ngã: ... Phật bảo với chúng ta rằng: “Tất cả chúng sanh có Chân ngã”, cái thân này là giả ngã, không phải chân ngã, giả ngã mới tạo lục đạo luân hồi, chân ngã tuyệt đối không có luân hồi. Chẳng những không có lục đạo luân hồi ngay cả thập Pháp giới cũng không có. Chân ngã trụ ở đâu, chân ngã trụ trong nhất chân pháp giới. Ai có chân ngã, Phật có chân ngã. Trong đại Kinh nói Phật có 3 thân, mỗi người chúng ta cũng có 3 thân, bản thể của thân chúng ta. Thật sự chân ngã là gì? Là pháp thân. Cho nên Phật tại trong Kinh nói mọi người tu hành, tu đến trình độ tương đương thì bạn chứng được thanh tịnh pháp thân, thanh tịnh pháp thân mới là chân ngã , trong thiền tông gọi là :
Trước khi cha mẹ chưa sanh bản lai diện mục, cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ chưa sanh tức là thanh tịnh pháp thân, trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là Tỳ Lô Giá Na Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật không phải là một người. Tỳ Lô Giá Na Phật là Chân ngã của chính chúng ta, là chân thân của chúng ta gọi là Ty Lô Giá Na, Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn. Ý nghĩa của nó là biến nhất thiết sứ tức là bất cứ lúc nào, chổ nào cũng có khắp cả chổ. Nếu ở chổ này không có chân ngã thì cái thân giả này không thể hiện tiền, là thật có, nên cái giả tướng này là do chân ngã mà có. Cái ngã là thể, là tánh, do thể tánh chân thật mà hiện tướng. cho nên nhất định là có cái chân ngã này. Tất cả chúng sanh đã mê mất chân ngã mới trở thành phàm phu. Vì đã mê mất chân ngã, đã mê mất chứ không phải thực mất, đã mê mất mà thôi. Không phải thực sự mất đi chỉ là mê. Đã mê cái gì? Đã mê những giả tướng do thể tánh chân thật hiện ra những giả tướng. Trong Kinh Hoa Nghiêm gọi là “duy tâm sở hiện” cái tâm đó gọi là chân, chân tâm, là chân ngã, cũng là Pháp thân. Hiện ra giả tướng, bạn đã chấp tướng, hư là hư ở chổ này, hiện ra cái giả tướng. Vì bạn không biết nó là giả tướng, nên bạn chấp trước cái giả tướng cho nó là chân, vì vậy đã quên mất cái chân tánh. Xem giả tướng cho là chân, hư là hư ở chổ này. Vì bạn có phân biệt, chấp trước nên nhất chân mới chuyển biến thành những hoàn cảnh rất phức tạp, biến thành thập pháp giới, biến thành lục đạo, biến thành tam đồ. Biến như thế nào? là do thức sở biến. Cái gì gọi là thức? trong Kinh Hoa Nghiêm giảng về thức rất cụ thể: vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là thức. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều có đủ 3 thứ này. Hiện nay, chúng ta đều có đủ , có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. vì vậy đã biến nhất chân pháp giới thành lục đạo luân hồi, đã biến thành lục đạo.... (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Đọc thêm bài viết về Chân nhân hay Chân ngã con người
+ Xem thêm về: Chân Thần
+ Thế Giới Chúng Sinh Với Không Gian - Thời Gian
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm 2 mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là lý nhân quả - Quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. Phương hướng mà người thế nhân chỉ nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc 4 phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần: (i) là 4 x 3= 12 => (ii) là 12 x 10= 120 => (iii) là 120 x 10= 1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q. 4 - Chương IV)
* Giải thích khác: Ngài Vân Thê giải thích: “Giới có 4, thế có 3, gắn bó với nhau, nên lấy ba nhân bốn, bốn nhân ba thành 12 là một lớp. Từ số 12 nầy, mỗi số biến thành 10, tức thành 120, là lớp thứ hai. Từ số 120 nầy, mỗi số đều biến thành 10, tức thành 1200, là lớp thứ ba.” (Có thể hiểu, lớp đầu là 12 là lớp cha, cấp thứ I. Trong mỗi cấp I lại có 10 lớp con là cấp II. Trong mỗi cấp II lại có 10 lớp con là cấp III => Tổng cộng có 1200 tiêu chí lớn nhỏ_Nhân trắc học). Nguồn: Giảng Kinh Thủ-lăng-nghiêm Trực chỉ- Thiền sư Đan Hà.
* Giải nghĩa thêm: Thế giới tức là vũ trụ bao gồm hai mặt không gian và thời gian.
- Thế là nói về thời gian cũng có nghĩa là nói về luật nhân quả báo ứng, sinh sinh diệt của hiện tượng vạn hữu.
- Giới là nói về không gian cũng còn có nghĩa là lý nhân duyên tức là tất cả mọi cấu tạo hình thành của vạn hữu trên thế gian này là do nhân duyên hòa hợp mà có.
* 10 phương: Khi nói về phương hướng, thông thường con người chỉ đề cập đến Đông, Tây, Nam, Bắc. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này. (Nguồn: Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...); (Nguồn: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác)
+ Số 12: Pythagoras và sau ông, Philo Judaeus, coi số 12 là con số rất linh thiêng. Số 12 thật là toàn bích (perfect). Đó là số cung của Hoàng Đạo mà mặt trời đi qua trong mười hai tháng. Chính để tôn vinh con số này mà Moses đã chia quốc gia mình thành mười hai bộ lạc, lập nên mười hai bánh thánh và gắn mười hai viên ngọc quí vào hộ tâm kính của các vị giáo chủ. (GLBN, Tr 694)
+ Thế Giới: A-nan, thế nào gọi là chúng sinh và thế giới?
- Thế nghĩa là đổi dời;
- Giới chỉ cho phương vị/ Phương hướng
(Thế là thời gian; có nghĩa là dời đổi; Giới là không gian, tức là phương vị, nơi chốn. Hai từ nầy ghép lại gọi là thế giới_HT Tuyên Hóa)
Nay ông nên biết các phương đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới là giới; quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương vị có 10, số lưu chuyển của thời gian có 3 (các phương đông, tây, nam, bắc– bốn phương – và đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc– bốn hướng_HT Tuyên Hóa)
Hết thảy chúng sinh đan dệt cái giả dối mà thành. Sự dời đổi trong Thân và thế giới gắn bó với nhau.
Nhưng tánh của thế giới ấy dù có thiết lập tuy cả 10 phương, định vị có rõ ràng. Thì thế gian chỉ nhận 4 phương đông - tây - nam - bắc. Phương trên - dưới không có vị trí rõ ràng, ở giữa cũng không có phương vị nhất định. Số 4 đã rõ, nhân với số thế là 3. Ba lần bốn, bốn lần ba thành ra mười hai. (tam thế và tứ phương).... (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q.4 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thế giới: Gồm Thế giới Chánh báo là Thân Tâm chúng ta và Thế giới Y Báo là Sông núi đất đai nhà cừa... (HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
+ Không gian là Chúng sinh - Thời gian là Thọ giả: ...“Khi nghe lời câu ấy (của Kinh), thậm chí ngay trong một niệm sanh lòng tin thanh tịnh, này Tu Bồ Đề, Như Lai rõ, thấy rõ những chúng sanh ấy được vô lượng phước đức. Vì sao thế? Chính vì chúng sanh ấy không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không có tướng chẳng phải pháp.... Nếu nắm giữ tướng pháp, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.... Nếu nắm giữ tướng chẳng phải pháp, tức là bám vào ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”.
Ngã là tôi; nhân: tôi là người; chúng sanh: tôi là chúng sanh; thọ giả: thọ mạng của tôi là khoảng thời gian nào đó. Đây là bốn ý tưởng cắt chia thực tại toàn thể của tôi. (Nguồn: Phước đức và Công đức)
+ Thế Giới Chúng Sinh Với Không Gian - Thời Gian
- Phật dậy: A Nan! Thế giới chúng sinh tức là vũ trụ bao gồm 2 mặt không gian và thời gian
* Thế là thời gian là lý nhân quả - Quá trình sinh diệt, diệt sinh của hiện tượng vạn hữu - Luật Nhân quả báo ứng.
* Giới là không gian - Lý Nhân duyên sanh hợp, biểu hiện qua mặt bằng rộng hẹp, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp và phương hướng tả hữu, trước sau. (là tất cả mọi cấu tạo hình thành của vạn hữu trên thế gian này là do nhân duyên hòa hợp mà có). Phương hướng mà người thế nhân chỉ nhận rõ là: Đông, Tây, Nam, Bắc 4 phương. Nhưng thật ra có tất cả 10 mười trong thế gian này.
* Thời gian có 3 thời là: Quá khứ, hiện tại và vị lai.
=> Lấy không gian và thời gian nhân cho nhau: Bốn nhân ba hay ba nhân bốn thành con số 12. Vì có 10 phương hướng trong khi số lưu chuyển của thời gian là 3 nên nhân lên ba lần: (i) là 4 x 3= 12 => (ii) là 12 x 10= 120 => (iii) là 120 x 10= 1200. Số 1200 là con số tượng trưng biểu hiện cho công đức của 6 căn tương quan trong thế giới. Tuy nhiên, nếu xét riêng thì công năng của mỗi căn cao thấp khác nhau, chẳng đồng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q. 4 - Chương IV);
Xem thêm: Chỉ rõ sự ràng buộc và siêu thoát ...;
Xem thêm: Phật dậy về Các Đại và Tứ Đại Tương Tác
* Tham khảo giải thích khác: Ngài Vân Thê giải thích: “Giới có 4, thế có 3, gắn bó với nhau, nên lấy ba nhân bốn, bốn nhân ba thành 12 là một lớp. Từ số 12 nầy, mỗi số biến thành 10, tức thành 120, là lớp thứ hai. Từ số 120 nầy, mỗi số đều biến thành 10, tức thành 1200, là lớp thứ ba.” (Có thể hiểu, lớp đầu là 12 là lớp cha, cấp thứ I. Trong mỗi cấp I lại có 10 lớp con là cấp II. Trong mỗi cấp II lại có 10 lớp con là cấp III => Tổng cộng có 1200 tiêu chí lớn nhỏ_Nhân trắc học). Nguồn: Giảng Kinh Thủ-lăng-nghiêm Trực chỉ- Thiền sư Đan Hà.
+ Thế giới khác với Hư Không: HT Tuyên Hóa giảng
Nổi lên thì thành thế giới, lắng đọng thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là PHÁP hữu vi.
Phàn nầy giải thích tướng trạng thứ 6 của lục thô, đó là nghiệp hệ khổ tướng. Nổi lên thì thành thế giới. Khởi là lưu xuất ra–là chuyển dịch, là động. Lắng đọng thì thành hư không. Lắng đọng là tĩnh–không chuyển dịch. Hư không là đồng, thế giới là dị. Hư không giống như cái gì? Cơ bản hư không là giống với mọi thứ. Nó không khác với cái gì cả vì trong hư không chẳng có gì để phân biệt. Chỉ vì không có sự phân biệt mà được gọi là hư không. Nhưng với sự sinh khởi của thế giới thì có điểm khác nhau.
Thế giới khác với hư không vì trong thế giới có hình sắc và tướng mạo. Sự sinh khởi của núi sông đất liền đã làm nên thế giới. Điều nầy sẽ được giảng giải chi tiết trong đọan kinh tiếp theo.
"Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi."
Vốn trong hư không chẳng có gì cả để có thể nói đồng hay dị, chẳng có sự sinh khởi của:
1. Nghiệp tướng; 2. Chuyển tướng, và 3. Hiện tướng
cùng với Lục thô: 1. Trí tướng; 2. Tương tục tướng,; 3. Chấp thủ tướng; 4. Kế danh tự tướng; 5. Khởi nghiệp tướng; 6. Nghiệp hệ khổ tướng.
Chúng ta dùng từ đồng (giống) hay dị (khác) để diễn tả cho những tướng trạng vừa hiện hữu nầy. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4)
+ Thế gian: Trích đoạn Đức Phật giảng cho ngài A Nan trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trong mục giảng về CÁC ĐẠI - Tứ Đại
... Ông vốn không biết rằng trong Như Lai tạng, tánh sắc là chơn không, tánh không là chơn sắc, xưa nay vốn thường thanh tịnh, trùm khắp pháp giới, biến hiện tuỳ theo mức độ hiểu biết từ tâm chúng sinh.
Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu. Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên. Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường. Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật. Giảng:
"Theo nghiệp mà biến hiện ra các cảnh giới hiện hữu." Nó tương ưng với tâm thức của mỗi chúng sinh và biến hiện ra thành các hiện tượng tương ưng với nghiệp mà mỗi chúng sinh đã tạo. Tánh của sắc là chơn không, tánh của không là chơn sắc. Vốn hằng thanh tịnh từ trong thể tánh và bao trùm khắp pháp giới. Hoạt dụng mầu nhiệm nầy có được là do nghiệp cảm của mỗi chúng sinh và sẽ kết thành quả báo mà mỗi người sẽ nhận được.
"Thế gian không biết, lầm cho là tánh nhân duyên."
Thế gian là ai? Họ là những người tu tập theo ngoại đạo và hàng phàm phu theo pháp môn quyền thừa/ Pháp Thế Gian. Họ là những người mê mờ về tánh Như Lai tạng, vốn hằng thanh tịnh từ trong thể tánh và bao trùm khắp pháp giới. Họ không nhận ra được điều nầy. Họ cho rằng nó xuất phát từ tánh nhân duyên và tự nhiên. Đây là kiến chấp của hàng Tiểu thừa: pháp nhân duyên sinh. "Hoặc tánh tự nhiên." Dính mắc vào kiến chấp của hàng ngoại đạo là tánh tự nhiên. Làm thế nào mà họ bị lừa mị vào kiến chấp nầy? "Tất cả đều là do thức tâm phân biệt suy lường." Đó là do sự dính mắc của thức tâm phân biệt suy lường trong giáo lý Tiểu thừa, của hàng ngoại đạo và của hàng phàm phu đã tạo nên sự tính toán phân biệt. Họ chỉ tưởng tượng những cái mà không hề có, họ suy nghĩ đến những thứ mà "Chỉ là lời nói, hoàn toàn không có nghĩa chân thật." Đó chính là thức tâm vọng tưởng, phân biệt, suy tính–dù quý vị cho nói đó là tánh nhân duyên hay tự nhiên–cũng chỉ là ngôn từ. Chẳng có thật. Trong đó chẳng có chút nào đạo lý chân thật đáng nói cả. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
+ Thế gian: Là chỉ cho sáu cõi giới của hàng phàm phu. “Xuất thế gian” chỉ cho cảnh giới của bốn quả vị của bậc Thánh. Tức là bản nguyên vi diệu sáng suốt cuả Như Lai tạng. Mặt khác, các hiện tượng thế gian và xuất thế gian vốn chỉ là Như Lai tạng–vốn là minh là diệu. Nó vốn là diệu tâm, vắng lặng mà thường chiếu soi, chiếu soi mà thường rỗng lặng. Kinh văn trong đoạn nầy nói rằng Như Lai tạng là ‘không’, đoạn kinh văn: sau sẽ nói tất cả các pháp đều ‘là’ Như Lai tạng, là nguyên minh tâm diệu. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.4 - Ch.II)
+ Thế gian - Tình và Khí: Thế gian gồm có hai: Tình thế gian và khí thế gian. Tình thế gian là thế giới của loài hữu tình, nghĩa là loài người, cầm thú và cây cỏ. Xã hội loài người hay xã hội các loài khác cũng đều do tâm thức cộng đồng từ A-lại-gia mà biểu hiện. Khí thế gian là khung cảnh của núi, sông, không khí, trái đất, tầng ozone, mặt trời, mặt trăng và các thứ tương tự. Tình thế gian và khí thế gian là sáng tạo của tâm thức. Tàng thức duy trì tất cả những cái đó. Nó biểu hiện ra và nó duy trì hai thế gian đó. Tất cả đều vận hành theo một quy luật nhịp nhàng, tất cả đều phát hiện từ A-lại-gia cả. (Nguồn: Bài 3- Thân tâm và Thế gian - Duy Biểu học)
+ Thế Gian: Có 2 loại thế gian:
Thế gian hữu tình gồm các loại chúng sinh.
Khí thế gian gồm các hiện tượng và vật thể như núi, sông, đất liền và nhà cửa các loại.
Những vật này cùng với hư không và các loại trần cảnh đều được tạo thành bởi hai loại: y báo và chánh báo. Y báo là khí thế gian, gồm núi sông đất liền, chánh báo là các loại chúng sinh. Thế giới này đều tạo thành bởi hai loại này. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN - Q.1- Thích Nhuận Châu dịch)
+ Thế gian?
Thế nghĩa là thiên lưu, gian nghĩa là gian cách. Thế gian tức là thế giới, tức cũng là thời gian với không gian mà được tên. Ba đời là thời gian, mười phương là không gian.( HT Tịnh Không thì giảng "Không gian/ Mười phương là chúng sinh - Thời gian/ Ba đời là thọ giả). Thế gian phân làm ba thế gian:
- Một là hữu tình thế gian (chúng sinh thế gian).
- Hai là khí thế gian (sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc).
- Ba là trí chánh giác thế gian (giác ngộ pháp thế xuất thế gian, đầy đủ trí huệ của Như Lai).
Cho nên phải lìa hữu tình thế gian và khí thế gian, chứng nhập trí huệ chánh giác thế gian.
Thế gian có đủ thứ sự ăn uống vui chơi, tại sao phải lìa khỏi? Vì thế gian có cái vui của: Tài, sắc, danh, ăn và ngủ, năm dục, khiến cho con người sinh ra đủ thứ phiền não, làm cho con người gặp thọ quả khổ (Thọ giả), chẳng đắc được sự giải thoát, cho nên phải lìa khỏi thế gian. Làm thế nào có thể lìa khỏi thế gian? Chỉ có một phương pháp, đó là phát bồ đề tâm, tu bồ đề đạo. (Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm-T 19.Tr295- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Xem thêm thuật ngữ: Không gian và các chu kỳ thời gian
+ Trụ vào, polarize or centrehimself – ASCLH, 251)
+ Khi bạn dùng thuật ngữ: “một người trụ vào (polarized) trong thể cảm dục của mình”, là bạn thực sự muốn nói người đó có Chân Ngã hoạt động chính yếu thông qua hiện thể này. (LVHLT, 112)
+ Tính chất an trụ (polarity) cho thấy độ thông thoáng của vận hà. Tôi xin giải rõ. Chân ngã của kẻ thường nhân có trú sở ở phân cảnh thứ ba của cõi trí. Nếu một người có thể cảm dục phần lớn cấu tạo bằng vật chất thuộc phân cảnh (cõi phụ) thứ ba của cõi cảm dục còn thể trí hầu như được tạo bằng vật chất ở phân cảnh thứ năm của cõi trí thì Chân Ngã sẽ tập trung nỗ lực vào thể cảm dục. Nếu người ấy có thể trí cấu tạo bằng chất liệu của phân cảnh thứ tư và thể cảm dục cấu tạo bằng chất liệu của phân cảnh thứ năm, thì sự an trụ (polarization) sẽ ở thể trí.
– Khi bạn nói Chân Ngã kềm chế con người nhiều hay ít là thật ra bạn muốn nói rằng người đó đã kiến tạo các thể của mình bằng chất liệu ở các phân cảnh cao. Chân Ngã chỉ kiểm soát một cách đáng kể chỉ khi nào con người hầu như hoàn toàn loại bỏ được chất liệu của các phân cảnh thứ 7, thứ 6 và thứ 5 ra khỏi các thể của mình. Khi y đã kiến tạo với một tỷ lệ nào đó chất liệu thuộc phân cảnh thứ tư thì Chân Ngã mở rộng được sự kiểm soát của Chân Ngã. Khi có được một tỷ lệ nào đó chất liệu của phân cảnh thứ ba thì lúc đó con người bước chân lên Thánh đạo. Khi chất liệu thuộc phân cảnh thứ hai vượt trội thì bấy giờ con người được điểm đạo, và khi chỉ có chất liệu nguyên tử (atomic substance) (phân cảnh I – ND) thì con người trở thành một Chân Sư. Do đó, con người ở trên phân cảnh nào là điều rất quan trọng và việc nhận biết được sự an trụ của y sẽ minh giải được kiếp sống. (LVHLT, 112–113)
- An trụ (polarise) tức là tập trung (focus). (ĐĐKNM II, 428)
I- THEO MINH TRIẾT MỚI
+ Đạo tâm (aspiration, hoài bảo) : Từ ngữ “đạo tâm” xuất phát từ tiếng La tinh “ad”: hướng đến (“to”) và “spirare”: hít, thở (“to breathe, to breathe towards”) như tự điển Webster đã ghi. Từ ngữ “spirit” (tinh thần) cũng có cùng nguồn gốc. Đạo tâm phải đi trước cảm hứng (inspiration). Phải có hơi thở ra từ Phàm ngã trước khi có thể có hơi thở vào (breathing in) của trạng thái cao. Theo quan điểm của thần bí học Đông phương, đạo tâm bao hàm ý niệm về lửa. Nó chỉ một ước vọng mãnh liệt và một quyết tâm nhiệt thành để sau rốt thực hiện ba điều đối với người tìm đạo. Nó phóng ra một ánh sáng mãnh liệt lên các vấn đề của người tìm đạo và tạo ra lò lửa thanh luyện mà Phàm ngã phải bước vào để cho mọi ô trược đều bị thiêu đốt, và nó cũng hủy diệt mọi chướng ngại có thể chận giữ y lại đàng sau. (TTTĐTG, 93)
+ Ham muốn thuộc loại cao siêu được gọi là đạo tâm. (SHLCTĐ, 32)
+ Người Có Đạo Tâm: Với mục đích hữu thức, y mong mỏi bước đi trong các nơi tối tăm của sự sống nhập thể, và cũng với mục đích hữu thức, y tìm cách rút lui vào trung tâm riêng của y. Từ đây y trở thành một người có đạo-tâm (aspirant).
Đời sống của người có đạo tâm bắt đầu lặp lại các chu kỳ trước đó. Y bị tấn công bởi một sự kích thích bất ngờ của bản chất xác thân, và bị lôi cuốn dữ dội bởi những ham muốn và khát vọng xưa cũ. Điều này có thể được nối tiếp bằng một chu kỳ mà trong đó thể xác có ý thức về việc luồng năng lượng thiết yếu chảy ra khỏi nó, và bị suy nhược (devitalised), bởi vì không phải là đối tượng của sự chú ý. Việc này giải thích cho nhiều bệnh tật và sự thiếu sinh lực (vitality) của nhiều người trong số các phụng-sự-viên được đánh giá cao nhất của chúng ta. Tiến trình tương tự có thể ảnh hưởng đến thể tình cảm, và các giai đoạn của sự phấn khích và của đạo tâm dâng cao nhất luân phiên với các giai đoạn trầm cảm sâu xa nhất và thiếu sự chú tâm. Luồng triều lên (flow) có thể chuyển đến thể trí và tạo ra một chu kỳ hoạt động trí tuệ mạnh mẽ. Việc nghiên cứu liên tục, tư tưởng dồi dào, sự điều nghiên sắc sảo và một sự thôi thúc trí tuệ vững chãi, sẽ là đặc trưng cho trí tuệ của người có đạo tâm. Một chu kỳ có thể kế tiếp chu kỳ này, trong đó mọi nghiên cứu đều không vừa ý, và thể trí dường như hoàn toàn bị bỏ phế và thụ động. Đó là một nỗ lực để suy tư, và sự vô nghĩa của các trạng thái tư tưởng tấn công vào thể trí. Người có đạo tâm quyết định rằng tồn tại (to be) thì tốt hơn nhiều so với hành động (to do). “Có thể nào những mảnh xương khô này còn sống chăng?” Y tự hỏi, và không mong muốn thấy chúng tái sinh. (LVHLT, 245)
II- THEO PHẬT GIÁO
+ Đạo Tâm - Tâm Đại thừa: ...Vì sao thế? Bởi hết thảy chư Phật đều dùng Mười Hai Nhân Duyên để làm Pháp tánh.
Bây giờ con đã nghe được Ta thuyết Mười Hai Nhân Duyên này, thì con sẽ được Phật tánh thanh tịnh và có thể làm bậc Pháp khí. Ta nay sẽ vì con mà nói một Đạo chân thật. Con hãy tư duy và gìn giữ một niệm này. Một niệm này gọi là Đạo tâm. Mà Đạo tâm còn gọi là tâm Đại Thừa.
Vì căn tánh của chúng sanh không giống nhau, nên chư Phật và Bồ-tát phân biệt mà nói có ba thừa. Trong niệm niệm con phải luôn luôn gìn giữ Đạo tâm này và chớ để quên mất. Dù thân bị năm uẩn [sắc, thọ, tưởng, hành, thức] thiêu đốt, bị bốn con rắn [đất, nước, gió, lửa] ăn nuốt, bị ba độc [tham, sân, si] não loạn, bị sáu tên giặc [sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp] chiếm đoạt, và bị hết thảy chúng ma đến xâm nhiễu, thì cũng không thể nào biến đổi Đạo tâm này.
Nhân do được Đạo tâm như thế, nên thân sẽ kiên cố như kim cang, tâm bao la như hư không, và không gì có thể trở ngại hay phá hoại.
Nhân do được thân tâm bất hoại, nên liền đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nhân do đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên sẽ có thường lạc ngã tịnh.
Khi đã có đầy đủ bốn đức của tịch diệt, thì sẽ liền có thể xa rời sát quỷ vô thường này cùng sanh già bệnh chết và các sự thống khổ ở địa ngục.’(Nguồn: Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Vệ Các Em Bé)
+ Ba bộ môn trên địa cầu thuộc sự trông nom/ Quản trị của Thánh Đoàn do đức Di Lặc Bồ Tát đứng đầu lãnh đạo ba bộ môn:
..... Toàn thể vấn đề biến tố (hay hoán cải vật chất, transmutation) được bao phủ bởi công việc của Thánh Đoàn trong tất cả ba bộ môn trên hành tinh này, và chúng ta có thể có một số ý kiến về các vấn đề có liên quan, nếu chúng ta đã nghiên cứu quan điểm rộng lớn này của Thánh Đoàn, nhờ đó có một ý niệm về công việc đã làm trong việc trợ giúp diễn trình tiến hóa. Đó là việc chuyển di sự sống từ một giai đoạn của sự sống nguyên tử đến một giai đoạn khác, và điều đó bao hàm ba bước riêng biệt, vốn có thể được nhìn thấy và vạch ra nhờ nhãn thông cao cấp và từ các cõi cao. Các giai đoạn này là:
Giai đoạn Lửa (The fiery stage) tức thời kỳ phối hợp, tan hòa, bùng cháy, mọi nguyên tử đều trải qua giai đoạn này trong khi hình hài tan rã.
Giai đoạn hòa tan (The solvent stage) trong đó hình hài bị tan rã, còn chất liệu được giữ lại trong dung dịch, nguyên tử được tan hòa thành lưỡng nguyên bản thể của nó.
Giai đoạn bốc hơi. (The volatile stage) có liên hệ trước tiên đến tính chất cốt yếu của nguyên tử và sự thoát ra của bản thể này, để sau đó khoác lấy một hình hài mới.............
Tính phóng xạ, sự hòa tan do tan rã (pralayic solution), và tính dễ bay hơi chủ yếu (essential volatility) có thể nói lên ý tưởng. Trong mọi diễn trình chuyển hóa, ba giai đoạn này đều được noi theo mà không có ngoại lệ. Về mặt huyền linh, trong Cổ Luận, chúng được diễn tả như sau :
“Các cuộc sống rực lửa bùng cháy trong lòng Mẹ.
“Trung tâm rực lửa trải rộng đến ngoại biên của vòng tròn và sự tan rã xảy đến bất ngờ và sự yên bình do tan rã.
“Con trở lại lòng Cha, và Mẹ im lìm yên nghỉ”.
Hợp tác với các Đại Thiên Thần, chính các Chân Sư bận tâm đến diễn trình chuyển hóa này, và mỗi bộ môn có thể được xem như có liên hệ với một trong ba giai đoạn sau :
Bộ môn của Đức Mahachohan trong năm biến phân của nó có liên quan đến sự bùng cháy của các hỏa sinh linh (the fiery lives).
Bộ môn của Đức Bàn Cổ chính nó liên hệ với hình hài hay là vòng giới hạn đang bao quanh các sinh linh cháy rực (burning lives).
Bộ môn của Đức Bồ Tát liên hệ đến sự tái lâm của Đấng Con vào lòng Cha.
Trong bộ môn của Đức Mahachohan, một sự phân chia phụ theo các đường lối này có thể được phác họa :
Cung 7 và Cung 5 có dính líu với việc Đấng Con trở về với Cha và được tập trung chủ yếu là trong việc tuôn đổ sức mạnh chứa năng lượng khi nào nó trở nên cần thiết để chuyển di sự sống của Con từ hình hài cũ vào trong một hình hài mới, từ một giới của thiên nhiên đến một giới khác trên Con đường Trở Về.
Cung 3 và Cung 6 liên quan đến sự bùng cháy của các hỏa sinh linh.
Cung 4 phối hợp với 2 lửa trong hình thức nguyên tử.......
Do sự khảo cứu kỹ càng các tế phân này, người ta sẽ thấy sự hợp tác chặt chẽ như thế nào giữa các nhóm khác nhau, và các hoạt động của chúng được liên kết hỗ tương như thế nào. Công việc của Thánh Đoàn luôn luôn có thể được diễn dịch bằng các thuật ngữ của khoa luyện đan, các hoạt động của các Ngài có liên quan đến sự chuyển hóa tam phân. Công tác này được các Ngài tiến hành một cách hữu thức và xảy ra bất ngờ dựa vào sự khai phóng riêng của các Ngài (Nguồn: LVLCK)
+ Đức Mahachohan - Đức Văn minh Đại đế (Mahachohan): Vị Trưởng của nhóm ba là Đức Văn minh Đại đế. Ngài bao gồm Phương diện Thông tuệ của thiên tính. Ngài còn có danh hiệu là vị Chúa của Văn minh. Ngài vận dụng nguồn bác ái thông tuệ và có trách nhiệm điều hành việc thực hiện Thiên cơ. Tất cả mọi người đều rốt cuộc sẽ đi vào một trong Ba Ngành này của Huyền giai.
Vì thế, ba Đấng cao cả này đại diện cho Ý chí, Bác ái, và Thông tuệ. Ba Đấng này hợp tác hết sức chặt chẽ và hợp nhất với nhau, và mọi bước tiến hoặc kế hoạch ảnh hưởng đến nhân loại, các giới khác trong thiên nhiên và cả hành tinh này, đều được các Ngài quản trị. Các Ngài là đại diện thực hiện Chủ đích Hành tinh, để mang lại tình thương và những mối liên giao chính đáng của con người, và để đẩy nhanh cuộc tiến hóa của nhân loại qua việc thực hiện Thiên cơ. (Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Đức Văn Minh Đại Đế (Lord of Civilisation, Mahachohan, Cho-Khan Thư của Ch. S. 57): Vị Lãnh Đạo của nhóm ba là Đức Mahachohan. Việc cai quản của Ngài đối với nhóm này kéo dài lâu hơn hai vị Huynh trưởng của Ngài. Ngài có thể giữ chức vụ này trong thời hạn nhiều căn chủng. Ngài là toàn bộ trạng thái thông tuệ. Đức Mahachohan hiện nay không phải là Đức đầu tiên giữ chức vụ này lúc thành lập Thánh Đoàn vào thời Lemuria – lúc bấy giờ, chức này được nắm giữ bởi một trong các vị Kumara hay Hỏa Tinh Quân (Lords of the Flame) đã lâm phàm cùng với Đức Sanat Kumara – mà Ngài đã giữ ngôi vị này trong chi chủng thứ hai của căn chủng Ắt lăng. Ngài đạt đến quả vị Chân Sư (Adeptship) trên dãy nguyệt cầu, và chính qua trung gian của Ngài mà một số lớn nhân loại tiến bộ hiện nay đã lâm phàm vào giữa căn chủng Ắt lăng. Liên hệ nghiệp quả giữa họ với Ngài là một trong những nguyên nhân xảy ra trước khiến cho việc này xảy tới sau. Công việc của Ngài liên hệ tới việc bảo dưỡng và củng cố mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất, giữa sự sống với sắc tướng, giữa ngã với phi ngã, đưa tới kết quả tạo ra cái mà chúng ta gọi là văn minh. Ngài vận dụng các lực của thiên nhiên, và phần lớn là các nguồn phát ra điện năng như chúng ta biết. Ngài là phản ánh của Ngôi Ba hay Ngôi Sáng Tạo, nên năng lượng từ Hành Tinh Thượng Đế lưu chuyển đến Ngài từ trung tâm lực cổ họng, và chính Ngài, bằng nhiều cách, làm cho công việc của các Huynh trưởng Ngài được thành toàn. Các kế hoạch và ý muốn của các Vị này được chuyển qua Ngài và thông qua Ngài, các giáo huấn đến được một số lớn các vị thừa hành thuộc giới thiên thần. (ĐĐNLVTD, 45)
+ Đức Bồ tát hay đức Văn minh Đại đế (Mahachohan): Vị Trưởng của nhóm ba là Đức Văn minh Đại đế. Ngài bao gồm Phương diện Thông tuệ của thiên tính. Ngài còn có danh hiệu là vị Chúa của Văn minh. Ngài vận dụng nguồn bác ái thông tuệ và có trách nhiệm điều hành việc thực hiện Thiên cơ.
Tất cả mọi người đều rốt cuộc sẽ đi vào một trong Ba Ngành này của Huyền giai.
Vì thế, ba Đấng cao cả này đại diện cho Ý chí, Bác ái, và Thông tuệ. Ba Đấng này hợp tác hết sức chặt chẽ và hợp nhất với nhau, và mọi bước tiến hoặc kế hoạch ảnh hưởng đến nhân loại, các giới khác trong thiên nhiên và cả hành tinh này, đều được các Ngài quản trị. Các Ngài là đại diện thực hiện Chủ đích Hành tinh, để mang lại tình thương và những mối liên giao chính đáng của con người, và để đẩy nhanh cuộc tiến hóa của nhân loại qua việc thực hiện Thiên cơ. (Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Đức Văn Minh Bồ Tát/ Đại Đế (Lord of Civilisation, Mahachohan, Cho-Khan Thư của Ch. S. 57): Vị Lãnh Đạo của nhóm ba là Đức Mahachohan. Việc cai quản của Ngài đối với nhóm này kéo dài lâu hơn hai vị Huynh trưởng của Ngài. Ngài có thể giữ chức vụ này trong thời hạn nhiều căn chủng. Ngài là toàn bộ trạng thái thông tuệ. Đức Mahachohan hiện nay không phải là Đức đầu tiên giữ chức vụ này lúc thành lập Thánh Đoàn vào thời Lemuria – lúc bấy giờ, chức này được nắm giữ bởi một trong các vị Kumara hay Hỏa Tinh Quân (Lords of the Flame) đã lâm phàm cùng với Đức Sanat Kumara – mà Ngài đã giữ ngôi vị này trong chi chủng thứ hai của căn chủng Ắt lăng. Ngài đạt đến quả vị Chân Sư (Adeptship) trên dãy nguyệt cầu, và chính qua trung gian của Ngài mà một số lớn nhân loại tiến bộ hiện nay đã lâm phàm vào giữa căn chủng Ắt lăng. Liên hệ nghiệp quả giữa họ với Ngài là một trong những nguyên nhân xảy ra trước khiến cho việc này xảy tới sau. Công việc của Ngài liên hệ tới việc bảo dưỡng và củng cố mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất, giữa sự sống với sắc tướng, giữa ngã với phi ngã, đưa tới kết quả tạo ra cái mà chúng ta gọi là văn minh. Ngài vận dụng các lực của thiên nhiên, và phần lớn là các nguồn phát ra điện năng như chúng ta biết. Ngài là phản ánh của Ngôi Ba hay Ngôi Sáng Tạo, nên năng lượng từ Hành Tinh Thượng Đế lưu chuyển đến Ngài từ trung tâm lực cổ họng, và chính Ngài, bằng nhiều cách, làm cho công việc của các Huynh trưởng Ngài được thành toàn. Các kế hoạch và ý muốn của các Vị này được chuyển qua Ngài và thông qua Ngài, các giáo huấn đến được một số lớn các vị thừa hành thuộc giới thiên thần. (ĐĐNLVTD, 45)
+ Đức Văn Minh Bồ Tát: Công việc của Đức Văn Minh Bồ Tát cũng có thể được nhìn thấy với hiệu quả là các devas của hỏa xà đang được tạo ra trên con người ..... luồng hỏa này chịu trách nhiệm cho phản ứng chống lại sự phối hợp thể chất (physical marriage) và cho ước muốn hiện rõ của những người tiến hóa cao ở mọi nơi để né tránh liên hệ hôn nhân, và giới hạn chính họ vào việc sáng tạo trên cõi trí hoặc cõi cảm dục. Điều này là do khuynh hướng hiện tại của các thiên thần điều khiển của các cơ quan sinh sản hạ đẳng muốn tìm bí huyệt cổ họng và hoạt động ở đó, vận dụng sức mạnh của luồng hỏa xà để tạo ra việc đó. Mọi điều này đều ở dưới luật tiến hóa, nhưng trong thời gian chuyển tiếp giữa nhân với quả được biện minh, nhiều tổn hại, né tránh thiên luật, tất nhiên là gây đau khổ có thể được nhìn thấy. ...
Sự lơ là (laxness) trong liên hệ hôn nhân, do mối nguyên nhân đặc biệt này, chỉ được nhìn thấy trong số những người tiến hóa cao và trong số các tư tưởng gia độc lập của nhân loại. Sự lơ là tương tự ở trong quần chúng và các hạng người thấp kém của nhân loại, được dựa vào một lý do khác, và quan hệ bừa bãi (promiscuity) của họ là do một vài phát triển của bản chất con vật trong biểu lộ thấp nhất của nó. Hai nguyên nhân này sẽ chịu sự duyệt xét của những người có nhu cầu hiện tại của nền văn minh đích thực. Lúc bấy giờ họ có thể hợp tác với Đức Mahachohan trong công việc để thực hiện sự chuyển tiếp thần lực rất cần thiết từ một trung tâm thấp đến một trung tâm cao, và ngăn chận (nhờ sự hiểu biết) sự phóng túng có thể xảy ra. Điều này sẽ mang lại việc khước từ làm hoen ố tình thương cao cả hay là sự thôi thúc về phái tính đối với thiên nhiên.
Cung nghi lễ thường được gọi là “nghi thức hôn phối của Con”, bởi vì Tinh thần và vật chất có thể đáp ứng và hợp nhất trên cung này. Sự kiện này cũng sẽ được ghi nhớ trong một trăm năm tới đây, vì chúng sẽ chứng kiến các thay đổi lớn trong các luật hôn nhân. (LVLCK, Tr 909)
+ Đức Bàn cổ: Ngài là toàn bộ Phương diện Ý chí của Thiên tính. Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan đến chính quyền, đến nền chính trị hành tinh, và đến việc thành lập, hướng dẫn, và giải tán các loại và hình thể chủng tộc. Ngài được giao cho Ý chí và Chủ đích của Đức Hành tinh Thượng Đế là Đấng Thiêng liêng Cao cả nhất đang trông nom Địa cầu, và là “Thượng Đế” của chúng ta.(Trích MQ thiền - Chủ đề 5: Huyền giai)
+ Đức Bàn Cổ (Manu): Đức Bàn Cổ chủ trì nhóm thứ nhất. Ngài được gọi là Đức Bàn Cổ Vaivasvata và là Bàn Cổ của căn chủng 5. Ngài là mẫu người hay tư tưởng gia lý tưởng và tạo mẫu cho giống dân Aryan của chúng ta, đã chủ trì vận mệnh của giống dân này từ khi nó bắt đầu có gần 100.000 năm nay. Các vị Bàn Cổ khác đã đến và đi, trong một tương lai gần, nhiệm sở của Ngài sẽ được một vị khác đảm trách. Lúc đó, Ngài sẽ chuyển sang công việc khác cao hơn. Đức Bàn Cổ hay nguyên mẫu của căn chủng 4, hoạt động hợp tác chặt chẽ với Ngài và có trung tâm ảnh hưởng ở Trung Quốc. Ngài là Đức Bàn Cổ thứ hai của căn chủng 4 đã giữ địa vị của Đức Bàn Cổ trước vào các giai đoạn cuối lúc châu Atlantis bị hủy diệt. Ngài đã ở lại để bảo dưỡng sự phát triển của kiểu mẫu giống dân và để cuối cùng nó sẽ biến mất. Các giai đoạn hoạt động của tất cả các Đức Bàn Cổ trùng lắp lên nhau, nhưng vào lúc này, trên bầu hành tinh không còn đại diện nào của căn chủng 3 nữa. Đức Bàn Cổ Vaivasvata ngự tại vùng Hy Mã Lạp Sơn đã tụ tập được quanh Ngài ở Shigatse một số người có liên hệ tức thời với các công việc của giống dân Aryan ở Ấn Độ, Âu Châu và Mỹ Châu và những người mà sau này sẽ có liên hệ đến căn chủng thứ sáu sắp đến. Các kế hoạch được chuẩn bị trước nhiều thời đại, các trung tâm năng lượng được tạo ra hàng ngàn năm trước khi chúng sẽ được cần tới và với sự tiên tri sáng suốt của các Đấng Thiêng liêng này, không gì bị để cho kết thúc đột ngột, mà tất cả đều hoạt động theo các chu kỳ đã sắp xếp, theo quy luật và định luật, mặc dù trong giới hạn nghiệp quả. Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan tới việc cai trị, đến việc chính trị trên hành tinh, đến việc tạo ra, điều khiển và giải thể các kiểu mẫu và hình hài chủng tộc. Ý chí và chủ đích của Hành Tinh Thượng Đế được giao cho Ngài. Ngài biết đâu là mục tiêu trước mắt đối với chu kỳ tiến hóa mà Ngài phải chủ trì và công việc của Ngài liên quan tới việc thành toàn thiện chí, Ngài hoạt động hợp tác chặt chẽ với các thiên thần kiến tạo hơn là Huynh Trưởng của Ngài, Đức Christ, vì Ngài được giao cho công việc tạo nên mẫu giống dân, tách ra các nhóm sẽ phát triển thành các giống dân, vận dụng các lực làm chuyển dịch (move) vỏ địa cầu, nâng cao và hạ thấp các lục địa, chi phối trí óc của các chính khách ở khắp nơi, để cho việc cai trị nhân loại sẽ diễn tiến như ý muốn, mang lại những điều kiện sẽ tạo ra những gì cần thiết cho việc bảo dưỡng bất cứ kiểu mẫu đặc thù nào. Hiện nay, các việc như thế có thể được thấy đang lộ ra ở Bắc Mỹ và Úc Châu. Năng lượng đang tuôn tràn qua Đức Bàn Cổ phát xuất từ bí huyệt đầu của Hành Tinh Thượng Đế, truyền sang Đức Bàn Cổ qua não bộ của Đức Sanat Kumara, là Đấng đang tập trung mọi năng lượng hành tinh vào trong chính Ngài. Đức Bàn Cổ hoạt động nhờ vào việc thiền định thâm sâu, được điều khiển trong bí huyệt đầu và tạo ra các kết quả nhờ việc Ngài hoàn toàn nhận thức được điều gì phải được hoàn thành, nhờ năng lực hình dung ra những gì cần phải làm để đưa tới thành quả và nhờ vào khả năng truyền chuyển năng lượng sáng tạo và hủy diệt đến những vị phụ tá cho Ngài. Tất cả những điều này được thành tựu nhờ quyền năng của diệu âm được minh xướng (phát ra rõ ràng). (ĐĐLVTD, 41–47)
+ Giống dân Aryan (Aryan race): Bao gồm văn minh của Ấn Độ và tất cả giống dân Latin, Teuton, Bắc Âu (Nordics), Anglo–Saxon và nhiều nhánh khác nhau. (TLHNM–II, 580)
+ Đức Bàn Cổ (Manu): Đức Bàn Cổ chủ trì nhóm thứ nhất. Ngài được gọi là Đức Bàn Cổ Vaivasvata và là Bàn Cổ của căn chủng 5. Ngài là mẫu người hay tư tưởng gia lý tưởng và tạo mẫu cho giống dân Aryan của chúng ta, đã chủ trì vận mệnh của giống dân này từ khi nó bắt đầu có gần 100.000 năm nay (ĐĐLVTD, 41–47)
+ Chức năng chính của các hành tinh: ... 4. Các Hành Tinh Chính Thống (Orthodox Planets). Các hành tinh này có ảnh hưởng tới phàm ngã. Trong trường hợp này chúng ta có Mercury và Jupiter. Mười hai cung (houses) được chi phối bởi các hành tinh cũng có tầm quan trọng hàng đầu theo quan điểm của năng lượng truyền đạt.
5. Các Hành Tinh Nội Môn (Esoteric Planets). Các Hành Tinh này mang lại năng lượng hành tinh đổi mới ngày càng tăng và năng lượng cung theo một cách năng động hơn.
Trong trường hợp của Sagittarius, các năng lượng này là Venus, Mặt Trăng, Địa Cầu và Pluto ..........
Khi chúng ta đã nghiên cứu các chòm sao khác nhau này, điều sẽ trở nên rõ rệt với bạn đó là chức năng chính của các hành tinh là trở thành các tác nhân phân phối cho các năng lượng xuất phát từ hoàng đạo, khi các năng lượng này tập trung trong thái dương hệ chúng ta, và trở thành thu hút đối với hành tinh chúng ta. Các nhà nghiên cứu cần hiểu kỹ lưỡng hơn là họ đang hiểu rằng nền tảng của các khoa chiêm tinh học là phát ra (emanation), truyền đi (transmission) và tiếp nhận (reception) các năng lượng, và chuyển hóa các năng lượng đó thành các lực (mãnh lực - năng lượng Cung khi qua Tâm thức con người) bởi thực thể tiếp nhận. Các năng lượng của các cung khác nhau được thu hút bởi các hành tinh khác nhau, tùy theo giai đoạn phát triển của chúng và bởi cái mà về mặt huyền bí học được gọi là “tình trạng liên hệ cổ xưa”, giữa các thực thể làm linh hoạt của các hành tinh và với các tinh tòa.
Liên hệ này tồn tại giữa các beings (thực thể, bản thể, hữu thể, đấng thiêng liêng…) và được căn cứ vào Định Luật về Ái Lực (Law of Affinity). Chính Định Luật Ái Lực này mới tạo ra sức hút từ lực (magnetic pull) và sự đáp ứng mạnh mẽ giữa các tinh tòa với các hành tinh bên trong thái dương hệ, và giữa hành tinh đặc biệt nào đó với các hình thức sự sống trên một hành tinh khác, và “các năng lượng sắp xảy ra” (“impending energies”), như chúng được gọi, vốn đang được thu nhận từ một nguồn cội chính nào đó. Khả năng để nhận và rút kinh nghiệm nhờ các năng lượng hành tinh (chính chúng được thu nhận khi được phát ra từ một chòm sao nào đó) tùy thuộc vào mức tiến hóa, nó định đoạt tính chất dễ tiếp thu và tính đáp ứng của cơ cấu tiếp nhận. Điều này tạo thành một định luật bất di bất dịch, và giải thích cho sức mạnh của hành tinh nào đó mà từ trước đến giờ vẫn chưa được khám phá, và do đó ít có liên quan với sự tiến hóa cho đến hiện tại, do bởi sự không đáp ứng của các hình thức tiếp nhận. Các hành tinh, các năng lượng và các mãnh lực đã tồn tại luôn luôn, nhưng vẫn cứ không có hiệu quả và tất nhiên chưa được khám phá do bởi không có các dụng cụ đáp ứng cần thiết. Do đó, chúng sẽ không có hiệu quả nào trên sự sống và lịch sử của một cá nhân, và chỉ trở nên có sức mạnh và “trở nên linh hoạt về mặt từ điện” (“magnetically informing”), khi một người đã đạt được một mức độ phát triển nào đó, và đang trở nên bén nhạy với các ảnh hưởng cao siêu và đang chuẩn bị bước lên nẻo đạo, việc sẵn sàng này báo hiệu rằng bộ máy đáp ứng của người này (phàm ngã tam phân) trở nên bén nhạy hơn là trường hợp đối với người bình thường, và có thể đáp ứng với một phạm vi rung động cao hơn là trường hợp khác. Ở đây cũng hàm chứa sự phân biệt giữa các hành tinh thánh thiện và không thánh thiện. Các Đấng Chủ Quản (Lords) của các hành tinh (các Đấng Huyền Cung hay là các Hành Tinh Thượng Đế), trên các mức độ/ cảnh giới (level) riêng của Các Ngài, cũng phát triển không đồng đều, và một số Đấng thì tiến xa trên vũ trụ đạo về việc khai mở tâm linh (spiritual unfoldment) hơn là các Đấng khác. Các Đấng nào chắc chắn ở trên Vũ Trụ Đạo với Cương Vị Đệ Tử (of Discipleship) đều được xem như đang làm linh hoạt các hành tinh thánh thiện, trong khi Các Đấng ở trên Vũ Trụ Đạo Dự Bị (Cosmic Probationary Path) đều đang biểu lộ/thể hiện (expressing). Chính Các Ngài qua các hành tinh không thánh thiện. Tôi sẽ bàn chi tiết điểm này khi chúng ta bước vào phần của tiết đoạn nằm trong bộ luận này với ý định bàn về vấn đề này. Quan điểm mà tôi tìm cách đưa ra ở đây chỉ duy nhất là vấn đề tiếp nhận và độ nhạy bén đã phát triển được. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn)
+ Thuật ngữ Năng lượng và mãnh lực: Các bạn nên lưu ý rằng tôi dùng từ “năng lượng” để chỉ về sự biểu lộ tinh thần của một cung, và từ “mãnh lực” với ý nghĩa con người sử dụng năng lượng tinh thần ấy khi họ tìm cách dùng nó, nhưng cho đến nay thường áp dụng sai..... Ở đây cũng nên nêu rõ rằng những người làm việc cho mãnh lực cung một như thế thường bị hiểu lầm và ghét bỏ. Họ vẫn khả dĩ và thường sử dụng sai năng lượng sẵn có, nhưng họ cũng dùng nó một cách xây dựng trong các giới hạn cần thiết của kế hoạch ngay trước mắt. Cũng nên nói rằng số phận của người đệ tử cung một vốn gian khổ và khó khăn.... Hãy lưu ý điều này. Các đệ tử (Cung 1) của Shamballa vừa kể có nhiều quyền lực, ương ngạnh, và thường tàn nhẫn. Họ áp đặt ý chí của mình, và dùng mệnh lệnh để thi hành những ý muốn của mình. Họ phạm sai lầm, tuy nhiên, họ vẫn là đệ tử thực sự của Shamballa. Họ đang thực thi Ý chí của Thượng Đế, cũng như các đệ tử Chân sư trong Thánh Đoàn đang thực thi Tình thương của Thượng Đế vậy. (Nguồn: sách Điểm đạo trong nhân loại _Tr 16)
+ Mãnh lực: Đôi khi đức DK dùng hai từ năng lượng và mãnh lực lẫn lộn và có thể hoán chuyển cho nhau, nhưng thường thì Ngài phân biệt năng lượng khác với mãnh lực. Câu nói: “All is energy” là hoàn toàn chính xác, nhưng energy xuất phát từ thực thể cao (ở con người bình thường là linh hồn”) thì được gọi là năng lượng; còn energy xuất phát từ thực thể thấp (phàm ngã) được gọi là mãnh lực (Minhtrietmoi (LK) trả lời bài B/C Hương GQ2.5)
+ Tật xấu chuyển hóa thành đức hạnh: Tật xấu là sự chi phối của đặc tính tiến hóa giáng hạ trong cùng một mãnh lực mà chính mãnh lực đó về sau sẽ biểu lộ thành đức hạnh (TTHM, 233)
+ Năng lượng đang chi phối Thái dương hệ - Nhân loại: ...Vấn đề sẽ trở nên sáng tỏ hơn, khi chúng ta biết rõ rằng có năm loại năng lượng đang đi vào hoạt động (và bất cứ lúc nào cũng có năm năng lượng cung chi phối tích cực) ... Vậy, trong phạm vi biểu lộ thiêng liêng hiện nay, các năng lượng sau đây đang xuất lộ [Cung 6/ đang rút - Cung 7/ đang dần biểu lộ - Cung 2/ luôn luôn biểu lộ - Cung 3/ Biểu lộ cuộc sống sáng tạo (Không phải nghệ thuật sáng tạo) - Cung 1/ Ý chí] .......
.... Ba Lý tưởng [Chuyên chế - Dân chủ - Cộng sản/ Cộng hòa]: Tôi xin gợi ý rằng ý thức hệ được thể hiện trong tầm nhìn của các nhà nước chuyên chế là đáp ứng sai lầm nhưng rõ rệt với ảnh hưởng của ý chí từ Shamballa (Cung 1); rằng ý thức hệ ẩn trong lý tưởng dân chủ là một đáp ứng tương tự với tinh thần đại đồng mà tình thương (Cung 2) của Thánh Đoàn thôi thúc biểu lộ ra; và rằng chủ nghĩa cộng sản (Cộng hòa) vốn phát xuất từ con người, thể hiện ý thức hệ (Cung 3) mà nhân loại đã đưa ra trong quyền hạn của riêng mình. Thế là ba phương diện của Thiên tính đang bắt đầu trở thành ba ý tưởng chính. Và những gì chúng ta thấy trên hành tinh này hiện nay là những phản ứng lệch lạc của con người với các xung lực tinh thần, phát xuất từ ba trung tâm khác nhau, nhưng tất cả đều có bản tính thiêng liêng như nhau, trong cốt yếu và tinh túy. Hãy suy ngẫm kỹ điều này (Thời nay, mỗi người chịu sự chi phối phải chọn theo đuổi 1 trong 3 lý tưởng sống này)........
Cũng cần lưu ý rằng mọi việc xảy ra đều là bằng chứng của năng lượng và là sự biểu lộ của mãnh lực. Đừng bao giờ quên điều đó, và nhất thiết nên nhận thức rằng chúng đang hiện hữu. Với tư cách cá nhân hay tập thể, các bạn không thể làm được bao nhiêu nhằm thay đổi chúng, ngoài việc thận trọng để không điều gì nơi mình có thể khiến bạn – dù là người tầm thường đến đâu – trở thành tụ điểm của thù ghét, chỉa rẽ, sợ hãi, kiêu căng và những tính chất khác làm bừng lên ngọn lửa đe dọa mang lại tai họa cho thế gian. Mỗi người trong các bạn có thể trợ giúp nhiều hơn mình tưởng, bằng cách điều hòa các tư tưởng và ý tưởng, bồi đắp tinh thần yêu thương, và thường sử dụng Đại Thỉnh nguyện để có thể thỉnh cầu các năng lượng và mãnh lực – vốn đang hết sức cần thiết nói trên.
Ở trên đã xem xét ba năng lượng chủ yếu (C 1 - C 2 - C3) hiện đang tuôn đổ vào cuộc sống hành tinh chúng ta qua ba trung tâm chính đại (Sambanla /C1 - Thánh đoàn/ C2 - Nhân loại/ C3). Giờ đây, còn phải xét đến năng lượng của hai cung thứ yếu, tức là cung sáu và cung bảy. Trong nhiều lối, hai cung này có tầm quan trọng trực tiếp hơn đối với đại chúng và có hiệu quả cực kỳ to lớn. Một cung (Cung 6/ đang rút) có tầm quan trọng vì nó đang chi phối rõ rệt, và vì sự kết tinh mà nó đã đặc biệt tạo ra trong thế giới tư tưởng. Cung kia (Cung 7/ đang dần biểu lộ) quan trọng vì sức chi phối, quyền lực, tầm ảnh hưởng và hiệu quả của nó sẽ ngày càng gia tăng. Một cung đang mạnh mẽ tạo nên sự xáo trộn tất yếu trong hiện tại. Cung kia đang trong tiềm thế, và hoạt động của nó có mang mầm mống của tương lai.
Nguồn: sách Điểm đạo trong nhân loại _Tr 22 - 27
+ Tình hình thế giới biến động (Giảng về 3 Cung năng lượng biểu lộ qua 3 Trung tâm Hành tinh chính yếu: Cung 1: Shamballa; Cung 2: Thánh đoàn; Cung 3: Nhân loại): Cần lưu ý điều thực tế rằng khi bạn thấy hình ảnh thế giới với những hỗn loạn rõ rệt, các ý thức hệ và những thế lực đang tranh chấp và chiến đấu với nhau, sự ngược đãi các dân tộc thiểu số, những mối căm thù gay gắt dẫn đến chiến tranh, và bao âu lo, kinh khủng khắp nơi, thì không có nghĩa là bạn đang thấy hình ảnh này đúng như thực tế. Bạn đang thấy những gì nông cạn, thuộc về thế tục, phù du, và hoàn toàn liên quan đến phương diện hình thể. Như bạn biết rõ, Thánh Đoàn quan tâm chính yếu đến phương diện tâm thức, và khai mở ý thức, dùng hình thể làm phương tiện chỉ để hoàn thành mục đích của nó. Khi nghiên cứu kỹ hơn về các mãnh lực đang tạo ra sự rối loạn bên ngoài, bạn có thể thấy rõ hơn và phục hồi niềm tin vào Thiên cơ với nguồn bác ái thiêng liêng và vẻ đáng yêu của nó. Vì thế, chúng ta hãy xem xét các mãnh lực này và các trung tâm khởi nguồn của chúng, để khả dĩ có được tầm nhìn mới mẻ và quan điểm xây dựng hơn.
Ảnh hưởng của Các Cung Ngày nay:
Thứ nhất: Mãnh lực thấy rõ và mạnh mẽ nhất trên thế giới ngày nay là mãnh lực của Cung một Ý chí và Quyền lực. Mãnh lực này biểu lộ theo hai lối:
(1) - Bao giờ cũng là ý-chí-hướng-thiện;
(2) Như là yếu tố hủy diệt trong thời sự thế giới. Đây là việc con người sử dụng sức mạnh ý chí này cho đến nay ít khi là sự biểu lộ linh hoạt của ý-chí-hướng-thiện. Trái lại, nó là điều đưa đến sự tự khẳng định (của cá nhân hoặc quốc gia) và dẫn đến chiến tranh kèm theo những hệ lụy – như chia rẽ, hoạt động ngoại giao ích kỷ, thù ghét và chạy đua vũ trang, bệnh tật và tử vong. Đây là mãnh lực tuôn đổ vào thế giới từ Shamballa, trung tâm chủ yếu của thế giới.... Đây tất cũng là những hậu quả hiển nhiên của các nguyên nhân đã chi phối.
Chỉ có hai lần trước đây trong lịch sử nhân loại, năng lượng này của Shamballa đã xuất hiện và được cảm nhận qua những thay đổi/ Khủng hoảng lớn lao mà nó mang lại:
1. Con người trở thành Linh hồn sống động: Khi cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của nhân loại xảy ra vào thời gian biệt lập ngã tính của con người trong thời kỳ Lemuria cổ xưa.
2. Cuộc điểm đạo sắp đến của nhân loại: Vào thời gian có cuộc đại chiến trong thời kỳ Atlantis giữa “Các vị Chúa của Ánh sáng và các vị Chúa Biểu lộ Vật chất.” _ Nó có thể xảy ra (nếu bạn tin điều đó) nhờ nhiều cuộc điểm đạo cá nhân trước đây đã trải qua bởi các thành viên của gia đình nhân loại có tầm nhìn tinh thần, và sẵn lòng trả giá đắt.....
Chính nhân loại cũng chịu ảnh hưởng của năng lượng cung này (Cung I) khi nó biểu lộ bằng hai cách, và tạo ra hai kết quả, như sau:
1. Hiện nay, đang xuất hiện một số phàm nhân cung một thống trị với nhiều quyền lực trên diễn trường thế giới. Những người này tiếp xúc thẳng với mãnh lực nói trên của Shamballa, và nhạy cảm với năng lượng ý chí thiêng liêng. Tùy theo loại phàm nhân và trình độ tiến hóa của họ, mà họ sẽ phản ứng thế nào, và từ đó họ hữu ích đến đâu cho Đức Chúa tể Hoàn cầu khi Ngài thực thi kế hoạch của Ngài cho công cuộc khai mở trên thế giới. Năng lượng ý chí của Thượng Đế hoạt động thông qua họ, dù được hạ thế và thường bị sử dụng sai và áp dụng sai, do những phàm nhân khác biệt và còn giới hạn của họ, và được diễn giải không thỏa dáng do tâm thức của họ còn chưa phát triển. Những người này có trong mọi lĩnh vực hoạt động của nhân loại. Họ là những người nổi bật, và những nhà độc tài trong mọi phương diện của đời sống con người – chính trị, xã hội, tôn giáo, và giáo dục. Ai nói được (cho đến khi ít nhất một thế kỷ đã trôi qua) rằng ảnh hưởng và nỗ lực của họ là tốt hay xấu. Khi họ trắng trợn vi phạm Định luật Bác ái, thì ảnh hưởng của họ có thể rất mạnh, nhưng nó cũng chóng tàn và không ai mong muốn, ít nhất là trong giai đoạn có liên quan đến những hoạt động của họ. Khi họ đáp ứng được tình trạng khẩn cấp và nhu cầu của con người, và làm việc theo những đường lối cơ bản là phục hưng và bảo tồn những “đơn vị tổng hợp,” thì ảnh hưởng của họ là tốt đẹp và xây dựng.
Phàm nhân cung một thực sự làm việc đáp ứng với ảnh hưởng này của Shamballa bao giờ cũng ghi sâu phúc lợi tối hậu của tập thể trong tâm hồn mình. .... Đôi khi điều này có thể đưa đến sự tàn nhẫn và độc ác, nếu phàm nhân của người đó chưa được sức mạnh của linh hồn chế ngự. ... Một ví dụ trong lịch sử của người Do Thái, như đã ghi trong Kinh Cựu ước. Khi cung một chế ngự và đi qua một trong những chu kỳ hoạt động hiếm hoi của nó, chúng ta đọc thấy rằng họ giết hại và tàn sát tất cả những kẻ thù của họ – đàn ông, phụ nữ và trẻ con – bằng kiếm. Lưỡi kiếm bao giờ cũng là biểu tượng của mãnh lực cung một, như cây bút tương trưng cho ảnh hưởng của cung hai.
Trước sự biểu lộ của năng lượng này (Cung 1), những người thiếu suy nghĩ trong nhân loại thấy hết sức sợ hãi, và không muốn có. Khi phàm nhân của họ đầy thù ghét và ương bướng, người ta thường dùng năng lượng này cho các mục tiêu vị kỷ của chính mình. Nếu con người (ngay cả những người giỏi nhất trong họ) không đến đỗi quá kém phát triển và quá hời hợt trong phán đoán và tầm nhìn của họ, thì họ sẽ có thể thấu hiểu ý nghĩa của những gì đang tiếp diễn trong các nước chính yếu trên thế giới. Đồng thời, họ sẽ có thể thấy sự dần dần xuất lộ của các điều kiện mới và tốt đẹp hơn, cũng như sự ra đi của các hình thể dù được yêu mến nhưng đang từ từ hư hoại. Tuy nhiên, năng lượng Shamballa quá mới lạ đến đỗi người ta khó lòng biết được thực tính của nó – là sự phát lộ Ý chí của Thượng Đế trong sức sống động mới mẻ và mãnh liệt.
1. Cách thứ hai, trong đó xung lực ý chí nổi bật này biểu lộ qua tiếng nói của đại chúng trên khắp thế giới. Ý chí này biểu lộ qua âm thanh, như tâm thức hay tình thương biểu lộ qua ánh sáng. Lần đầu tiên, âm thanh của các quốc gia đã được nghe với tính cách âm thanh của đại chúng. Ngày nay, tiếng nói này nêu rõ các giá trị thể hiện sự cải thiện của con người. Nó yêu cầu có hòa bình và thông cảm giữa mọi người, và từ chối – sẽ nhất định từ chối – không cho phép xảy ra một số điều tệ hại. “Tiếng nói này của dân chúng,” vốn thực tế là tiếng nói của công luận, lần đầu tiên đang được quyết định bởi Ý chí của Thượng Đế, và sự thực này chưa được nhận biết.
Thứ hai: Năng lượng vĩ đại kế tiếp đang góp phần mạnh mẽ vào hiện tình thế giới là năng lượng của Cung hai Bác ái Minh triết, là cung của Đức Christ. Năng lượng này tuôn đổ vào thế giới qua trung tâm vĩ đại thứ hai của hành tinh, mà chúng ta gọi là Thánh Đoàn. .... Năng lượng Shamballa (Cung 1) mở đường cho năng lượng của Thánh Đoàn. Điều đó đã có từ thuở sơ khai, nhưng các chu kỳ của Thánh Đoàn, dù tương đối thường xảy ra, đã không trùng hợp với các chu kỳ của Shamballa, vốn hiếm khi và không thường có. Theo thời gian, tác động của mãnh lực Shamballa sẽ xảy ra thường hơn, vì mọi người sẽ phát triển năng lực chịu đựng và trụ vững đối với nó. Cho đến nay, nó vẫn là loại năng lượng quá nguy hiểm khi áp dụng cho nhân loại, vì kết quả đưa đến sự hủy diệt, trừ cuộc khủng hoáng lớn thứ nhất vào thời kỳ Lemuria. Vì thế, tác động của nó đã được giới hạn hầu như hoàn toàn bên trong Thánh Đoàn, với các Nhân viên được trang bị để xử lý nó và hấp thụ nó đúng cách, cũng như sử dụng nó để trợ giúp nhân loại.
Nay đang có cuộc thử nghiệm, cho phép con người tiếp nhận nó (Cung 1) và sự tác động của nó, mà không qua trung gian của Thánh Đoàn. ..... Đã có nhiều thành công theo đường hướng này, nhưng các kết quả không có vẻ rõ ràng đối với những người thông minh. Lý do là vì họ không chịu nhìn thấy bất cứ điều gì ngoại trừ phương diện hủy diệt, và sự tan biến của những hình thể mà cho đến nay họ đã gắn chặt tình cảm, sự ham muốn, và nhận thức trí tuệ của họ vào đó. Họ vẫn chưa thấy được bằng chứng không thể phủ nhận của hoạt động xây dựng và công tác thực sự sáng tạo......
Các Thành viên của Thánh Đoàn có thể làm việc với chính số ít người này, vì họ (cho dù thiếu hiểu biết) vẫn không hề có ác ý hay thù ghét kẻ khác. Tình thương là tác nhân vĩ đại tạo sự kết hợp và thông cảm.
Năng lượng tình thương này chính yếu tập trung trong Đoàn Người Mới Phụng sự Thế gian (cho mục đích hoạt động của Thánh Đoàn). Tập thể này đã được Thánh Đoàn chọn làm phương tiện biểu lộ chính của các Ngài. Tập thể này hiện gồm tất cả các đệ tử ở thế gian và các điểm đạo đồ đang hoạt động. Họ có đại diện trong mọi nhóm lý tưởng gia, và phụng sự viên, và trong mọi đoàn thể dân chúng nói lên ý nghĩ của con người, đặc biệt là trong phạm vi cải thiện và nâng cao đời sống nhân loại. Qua họ, mãnh lực bác ái-minh triết có thể biểu lộ.....
Thứ ba: giờ đây chúng ta bàn đến năng lượng chính là hoạt động thông tuệ – mãnh lực của cung ba. Mãnh lực này biểu lộ qua trung tâm lớn thứ ba trên hành tinh, mà chúng ta gọi là Nhân loại. (Nguồn: sách Điểm đạo trong nhân loại _Tr 11-17)
+ Năng lượng đang chi phối Thái dương hệ - Nhân loại:
Vấn đề sẽ trở nên sáng tỏ hơn, khi chúng ta biết rõ rằng có năm loại năng lượng đang đi vào hoạt động (và bất cứ lúc nào cũng có năm năng lượng cung chi phối tích cực):
1. Các năng lượng đang rút khỏi cuộc biểu hiện, như Cung sáu Sùng tín hiện đang ra đi.
2. Các năng lượng đang đi vào cuộc biểu hiện hay lâm phàm, như Cung bảy Trật tự Nghi lễ hiện đang từ từ biểu lộ.
3. Các năng lượng – vào một thời gian nào đó – biểu lộ loại cung của đa số nhân loại đang ở cõi trần. Ngày nay, các loại cung này chính yếu là Cung hai và Cung ba. Cũng có một số tương đối đông đảo các chân nhân Cung một hiện đang làm tụ điểm cho một số mãnh lực cung một.
4. Các năng lượng nay đang được thỉnh cầu do nhân loại có nhu cầu và yêu cầu được trợ giúp. Cũng lạ là phần lớn yêu cầu này vẫn còn thuộc phạm vi ảnh hưởng của cung một, vì nhu cầu khẩn thiết của nhân loại đang khơi dậy phương diện ý chí. Cung này thể hiện ý-chí-hướng-thiện thiêng liêng bất di bất dịch và – lần đầu tiên trong lịch sử loài người – được khơi dậy trên qui mô lớn. Hàm ý của lời phát biểu này mang lại nhiều khích lệ.
Vậy, trong phạm vi biểu lộ thiêng liêng hiện nay, các năng lượng sau đây đang xuất lộ [Cung 6/ đang rút - Cung 7/ đang dần biểu lộ - Cung 2/ luôn luôn biểu lộ - Cung 3/ Biểu lộ cuộc sống sáng tạo (Không phải nghệ thuật) - Cung 1/ Ý chí]:
1. Năng lượng của chủ nghĩa lý tưởng, của sùng tín, hay nhất tâm sùng kính, thể hiện trong Cung sáu.
2. Năng lượng có chức năng chính là mang lại trật tự, tiết điệu, và hoạt động ổn cố, theo trình tự – thuộc Cung bảy Nghi thức Nghi lễ.
3. Năng lượng của Cung hai, cơ bản luôn luôn có trong thái dương hệ chúng ta, là cung bác ái-minh triết. Ngày càng có nhiều chân nhân đang lâm phàm thuộc về cung này. Điều này sẽ xảy ra trong vòng một trăm năm mươi năm tới. Lý do là vì đương nhiên nhóm người này sẽ được giao cho công tác tái thiết, và tái xây dựng.
4. Năng lượng Cung 3 - Thông tuệ, tích cực biểu lộ trong hoạt động sáng tạo. Khả năng sáng tạo trong tương lai sẽ có trên qui mô tương đối lớn, trong phạm vi cuộc sống sáng tạo chứ không nhiều trong nghệ thuật sáng tạo. Cuộc sống sáng tạo này sẽ biểu lộ qua thế giới mới của mỹ lệ, và sự biểu lộ thiêng liêng được mọi người công nhận. “Ánh sáng sinh động” (hiểu theo nghĩa nội môn) sẽ chói rạng qua ngoại thể. Mọi người sẽ thấy và biết được biểu tượng của điều mà nó tượng trưng. Đây là năng lượng của Cung ba Thông tuệ Linh hoạt, hoạt động để làm biểu hiện sự mỹ lệ.
5. Năng lượng của phương diện Cung 1- ý chí trong thiên tính. Cho đến nay, năng lượng này ít được biểu lộ, và ít được nhân loại biết đến, nhưng từ đây mọi người sẽ hiểu biết nó rõ hơn. Từ trước đến nay, sự yêu cầu của vô số lực lượng trên hành tinh chúng ta vẫn chưa đủ để thỉnh cầu được nó, là điều mà Đức Chúa tể Hoàn cầu đã kiên nhẫn chờ đợi. Nay lời kêu gọi đã phát ra. Cách đây hai trăm năm, đã có âm điệu mờ nhạt của nó, với âm lượng và sức mạnh ngày càng tăng cho đến nay, khi năng lượng vĩ đại này đang biểu lộ rõ ràng.
Bạn hãy nhận thức mãnh lực và hiệu quả của năm loại năng lượng này khi chúng tác động trên hành tinh của chúng ta, khơi dậy những đáp ứng – tốt hoặc xấu – tạo ra xáo trộn và hỗn loạn, các lực lượng tranh đấu với nhau và những ảnh hưởng tốt lành. Thế nên, toàn bộ các năng lượng này là nguyên nhân của tất cả những gì chúng ta thấy đang xảy ra chung quanh mình hiện nay. Trong những quyển sách ngày nay được viết ra để giải thích lý do của hiện tình thế giới, tác giả thường chỉ nói về các hậu quả. Ít người trong họ có thể thấu hiểu thế giới sâu xa của các nguyên nhân, hoặc nhìn về quá khứ xa xưa để thấy quá khứ và hiện tại trong phối cảnh thực sự. Tuy nhiên, tôi đang cố gắng bàn về các nguyên nhân – đang chi phối, qui định, mang lại những sự kiện dẫn đến hiện tình thế sự. Tôi bàn về các năng lượng, có liên quan đến những mãnh lực do chúng sản sinh. Cần lưu ý rằng các hậu quả nói trên dù tạo ra quá nhiều sợ hãi, băn khoăn và lo âu, đều chỉ tạm thời. Chúng sẽ nhường chỗ cho các lý tưởng cần thiết, được áp đặt một cách trật tự, theo tiết điệu, và rốt cuộc được áp dụng qua tình thương, phát động bởi minh triết, và hợp tác với thông tuệ. Tất cả đều được thôi thúc bởi ý-chí-hướng-thiện năng động (chứ không thụ động)..... (Nguồn: Vận Mệnh Của Các Quốc Gia)
+ Đức hạnh (virtue) : X. Tính tốt.
+ Nhân cách: Người là trung hiếu nhân nghĩa, còn như bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là không phải người => Mất Nhân cách (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Nhân cách: ... Bây giờ là thời gian để các em học tập: ở trong lớp thì các em trau giồi kiến thức và kỷ năng, ở ngoài lớp thì các em rèn luyện đạo đức và nhân cách....
Bây giờ chính là lúc các em phải xây dựng nền tảng kiên cố về cả hai phương diện học vấn và nhân cách. Nền tảng về nhân cách lại còn trọng yếu hơn nền tảng về học vấn nữa. Người có học vấn mà không có nhân cách thì sau này chỉ làm hại cho quốc gia, gây loạn lạc cho nhân loại. Vì lẽ đó các em cần phải rèn luyện nhân cách cho cao thượng để tương lai phục vụ nhân loại, đem lại lợi ích cho chúng sanh.
Ðức Mạnh Tử dạy chúng ta ba tiêu chuẩn để rèn luyện nhân cách. Ngài nói rằng:
“Phú quý bất năng dâm,
Bần tiện bất năng di,
Oai vũ bất năng khuất.”
Nghĩa là:
1) Lúc mình giàu có phú quí, thì phải giữ qui củ, không được dâm loạn,
2) Lúc mình nghèo hèn thì đừng thay đổi chí khí tức là không bị hoàn cảnh làm cho thay đổi chí hướng,
3) Lúc mình bị thế lực chèn ép thì không khuất phục, không đầu hàng, tức là không bị lợi lộc, vật chất làm cho mất hết danh tiết. Nếu các em có được chí khí cương trực hào hùng như vậy thì mới có thể trở thành những người hữu dụng sau này. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Biểu hiện của đức hạnh: ... Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đó gọi là Ngũ-thường. Hễ mình có đầy đủ Ngũ-thường này tức là có đạo, có đức. Cho nên đạo đức là do từ nơi tâm sinh ra. Nhưng khi phát ra thì nó có nhiều hình thái: có xanh, vàng, đỏ, trắng, và đen. Ðó là biểu hiện của đức hạnh, là ánh sáng của đức hạnh. Cho nên ông Hàn Dũ trong bài Nguyên Ðạo có một đoạn văn nói rằng: "Nghĩa là lòng bác ái tức là lòng Nhân. Lòng nhân đúng cách (hợp lẽ) thì gọi là Nghĩa. Nhờ đó mà tiến tới gọi là Ðạo. Ðầy đủ nơi mình không dựa vào bên ngoài nên gọi là Ðức." Ông Mạnh Tử cũng nói rằng: Nghĩa là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí sinh gốc rễ trong tâm mình. Màu sắc của nó chiếu soi nơi vẻ mặt, sáng soi nơi lưng, vận dụng nơi tay chân. Tứ thể không cần nói nhưng biểu hiện đã rõ. Người có đức thì không những biểu hiện nơi khuôn mặt của mình, mà ngay trên lưng của mình cũng lưu lộ ánh sáng đức độ, thậm chí cho đến tay chân cũng có thể biểu hiện ra đạo đức đó. Ðức tướng nầy không cần nói mà tự nó phát hiện ra, khiến ai ai cũng thấy một cách rõ ràng. Sự biểu hiện của đức hạnh chân chính đó là do công phu dụng công. Ðức hạnh nầy mình không thể giả trang được, nếu như hư dối thì chỉ tạm thời thôi, chớ không thể vĩnh viễn lừa dối người khác được.... (Nguồn: Biểu Hiện của Đức Hạnh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đức hạnh: Đức hạnh là yếu tố cơ bản để làm người, cũng chính là luân lý đạo đức mà chúng ta thường đề cập. Nếu vứt bỏ luân lý đạo đức, con người sẽ không khác gì loài động vật, mà cổ nhân thường ví von: “cầm thú mặc quần áo”. Thân tướng con người, mặc y phục con người, đội nón người,… nhưng tâm hạnh lại chẳng khác gì các loại động vật; đối với chân tướng của vũ trụ nhân sinh, không hề biết một tí gì. Nhà Phật gọi hiện tượng đó là “thọ báo”, người không những bị thọ báo mà còn tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, quả khổ không thể nào ước lượng được. Việc này chỉ cần tỉ mỉ quán sát, chúng ta có thể nhận ra và khẳng định. Do đó “giáo dục đức hạnh” là căn bản của giáo dục...... Tiểu học chú trọng đến giáo dục đời sống, dạy cách tưới nước quét nhà, dạy tôn kính sư trưởng, hiếu thuận cha mẹ, thương yêu anh em, dạy điều cơ bản của luân thường, dạy về “trung hiếu tiết nghĩa”, “ngũ luân bát đức”...(Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Bực đại hiền có 12 hạnh tốt:
1. Một là học rộng hiểu nhiều;
2. Hai là không phạm giới luật trong kinh dạy;
3. Ba là kính thờ Tam Bảo;
4. Bốn là thọ lãnh pháp lành không quên;
5. Năm là kiềm chế được tham sân si;
6. Sáu là tu tập được pháp tứ đẳng tâm;
7. Bảy là ưa làm việc ân đức;
8. Tám là không nhiễu hại chúng sanh;
9. Chín là hay hóa độ được người bất nghĩa;
10. Mười là không lầm lộn việc lành việc ác.
Kinh dạy: "Gặp được bực đại hiền rất khó - Như ít có lắm vậy - Các bực ấy ở đâu thì bà con quyến thuộc và người chung quanh đều được nhờ cậy." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Thành tựu đức hạnh - Hạnh Bồ Tát Phổ Hiền - Bắc phương: ‘’Thành tựu đạo tràng đức là gốc.’’ Ðây là phương bắc Phật Thành Tựu, cũng là Yết Ma bộ. ... Nếu bạn không có đức hạnh thì bất cứ làm gì, thành tựu gì, cũng chẳng có ý nghĩa. Hơn nữa là người tu đạo nhất định phải có đức hạnh. Gì gọi là đức hạnh ? Ðức hạnh tức là chịu thiệt thòi, chịu nhẫn nại, không chiếm tiện nghi, thường lợi người.
Ý nghĩa lợi người, tức là tài bồi phước của bạn, tài bồi huệ của bạn, tài bồi đạo của bạn, tài bồi đức của bạn. Nếu bạn cứ chiếm tiểu tiện nghi của người, không chịu thiệt thòi, đó là biểu thị đức hạnh chẳng đủ. Chúng ta người tu đạo càng nên tài bồi đức hạnh, không có đức hạnh thì giống như trên thân chẳng có khí huyết, người sẽ khô héo. Ðức hạnh là gốc rễ, tiền tài là ngọn ngành. (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - Google Drive; tr 369)
+ Ba Lý tưởng [Chuyên chế - Dân chủ - Cộng sản/ Cộng hòa]: Tôi xin gợi ý rằng ý thức hệ được thể hiện trong tầm nhìn của các nhà nước chuyên chế là đáp ứng sai lầm nhưng rõ rệt với ảnh hưởng của ý chí từ Shamballa (Cung 1); rằng ý thức hệ ẩn trong lý tưởng dân chủ là một đáp ứng tương tự với tinh thần đại đồng mà tình thương (Cung 2) của Thánh Đoàn thôi thúc biểu lộ ra; và rằng chủ nghĩa cộng sản (Cộng hòa) vốn phát xuất từ con người, thể hiện ý thức hệ (Cung 3) mà nhân loại đã đưa ra trong quyền hạn của riêng mình. Thế là ba phương diện của Thiên tính đang bắt đầu trở thành ba ý tưởng chính. Và những gì chúng ta thấy trên hành tinh này hiện nay là những phản ứng lệch lạc của con người với các xung lực tinh thần, phát xuất từ ba trung tâm khác nhau, nhưng tất cả đều có bản tính thiêng liêng như nhau, trong cốt yếu và tinh túy. Hãy suy ngẫm kỹ điều này (Thời nay, mỗi người chịu sự chi phối phải chọn theo đuổi 1 trong 3 lý tưởng sống này). (Nguồn: sách Điểm đạo trong nhân loại _Tr 22)
+ Là định thức (formulation) của con người về một khái niệm (concept), do con người tạo ra và lồng vào (embodying) cho con người chân lý khi y gặp thấy và hiểu được chân lý ấy. Biểu tượng bao giờ cũng có các hàm ý quan trọng hơn là biểu trưng.(VMCQG, 119)
+ Người đầy thù nghét và ương bướng: Trước sự biểu lộ của năng lượng này (Cung 1), những người thiếu suy nghĩ trong nhân loại thấy hết sức sợ hãi, và không muốn có. Khi phàm nhân của họ đầy thù ghét và ương bướng, người ta thường dùng năng lượng này cho các mục tiêu vị kỷ của chính mình. (Nguồn: sách Điểm đạo trong nhân loại _Tr 17)
+ Người nóng giận - Người nóng tính - Người thù hận:
Sân có nghĩa là nóng giận bộc phát ra bên ngoài khi ta không hài lòng hay bất bình về một điều gì đó. Sân được biểu lộ qua những trạng thái như đỏ mặt tía tai, bực tức, la hét, xỉa xói, nguyền rủa, chửi mắng, đánh đập, thậm chí có thể giết người khi không làm chủ được bản thân. Song song với sân là hận, có nghĩa là hờn, là dỗi, còn gọi là oán hờn, bức rức, khó chịu trong tâm. Theo từ Hán Việt, ta gọi chung là “sân hận”, một trạng thái của tâm được thể hiện ra bên ngoài gọi là sân, âm ỉ sôi sục bên trong gọi là hận.
Người nóng tính khi việc qua rồi sẽ không nhớ lại vì lời bộc trực họ nói rồi thôi, nhưng khi hận ai thì họ nhớ hoài, lâu ngày sinh ra thù ghét, mà đã thù ghét thì họ cố tình tìm đủ mọi cách để hại được người, nên mới gọi là hận thù. Nhất là những người làm chính trị; họ luyện tập để cơn giận không thể hiện ra bên ngoài, nhưng được đè nén, kìm hãm bên trong, nên đối phương không hề phác giác. Hạng người này rất nguy hiểm, họ giết người không bằng gươm đao, giết không gớm tay vì quyền lực, danh vọng, và có thể giết luôn cả người thân.
Ai mang tâm niệm thù hận này vào lòng mà không biết cách buông xả, trước nhất sẽ làm chính mình bất an, bực tức, khó chịu mỗi khi gặp hoặc nghe nói đến người. Như kẻ ngu kia vì ôm vào lòng tâm niệm hận thù, nên lúc nào cũng bức bách, khổ đau, phải tìm cách trả thù mới yên lòng, thỏa dạ. Dù được bạn bè khuyên nhủ thế nào cũng không bỏ qua, cứ một bề cố chấp trả thù cho bằng được. Hạng người này thật sự đáng thương hơn là đáng ghét. Họ bị vô minh, mê muội che lấp, nên dù có học Phật pháp nhiều năm họ cũng vậy, khó lòng thay đổi. Họ luôn thấy mình là thầy thiên hạ, càng ở chùa lâu càng si mê, sân hận, chấp trước, bám víu, và dính mắc vào đó. Người mang tâm niệm hận thù như thế trước mắt chưa hại được ai, mà đã tự hại chính mình, có khác gì kẻ đốt đuốc mà đi ngược chiều gió vậy. Kẻ ngu cũng sẽ như thế, chưa hại được ai mà đã tự đốt mình bằng ngọn lửa sân hận bốc cháy bên trong. (Nguồn: Giận khôn hay dại_Thích Đạt Ma Phổ Giác)
+ Chúng sinh cang cường - Ngang bướng thích lấy Địa ngục làm nhà
Rồi Ðức Phật dạy rằng: "Ta ở trong đời ác Ngũ Trược—một thế giới ô trọc xấu ác với năm thứ trược là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, và mạng trược—để giáo hóa những chúng sanh cang cường như thế."
Chúng sanh cang cường" là ai? Có thể là quý vị mà cũng có thể là người khác. Người nào cang cường, bướng bỉnh thì người đó tự biết. "Những chúng sanh cang cường" chính là những chúng sanh ương ngạnh, cứng đầu cứng cổ, không chịu giữ quy củ, chẳng muốn vào khuôn phép. Có một đứa bé còn hỏi rằng: "Tại sao phải có quy củ chứ?" Nghe hỏi như thế cũng đủ thấy rằng đứa bé này không thích có quy củ, luật lệ; và đó cũng là do ảnh hưởng của những người lớn xưa nay chẳng muốn tuân theo quy củ mà ra. Nói tóm lại, những kẻ ngang tàng, không chịu giữ gìn phép tắc quy củ, thích thế nào thì làm thế ấy, thì đó chính là "những chúng sanh cang cường" vậy!
"Làm cho lòng chúng nó điều phục." Ðối với những chúng sanh cang cường ương ngạnh này, muốn khiến cho họ vui vẻ và thành thật cảm phục, thật không phải dễ!
"Ðiều phục." Thế nào gọi là "điều" (làm cho hài hòa)? Cách nấu ăn của người Mỹ thì không cần tới nhiều gia vị rắc rối; song người Trung Hoa thì rất để ý đến gia vị nêm nấu, họ thường trộn thêm các vị chua, ngọt, đắng, hoặc cay vào thức ăn một cách thích đáng, vừa phải, để thành những món ăn thật ngon lành. Ðó gọi là "điều vị" (điều hòa mùi vị).
"Phục" là hàng phục, trong lòng vui vẻ và thành thật phục tòng, không còn phản kháng nữa. Những chúng sanh mà Ðức Phật nói bất luận giáo pháp gì họ cũng ngoan ngoãn nghe theo, hoan hỷ tiếp thọ, chẳng chút hoài nghi, không hề phản đối—thì đó chính là những chúng sanh đã được "điều phục," tánh nết đã thuần thành vậy.
Chớ nói rằng năm trăm năm sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chẳng còn ai khai ngộ, hoặc không có ai chứng quả A La Hán nữa. Thật ra, bất cứ lúc nào và ở vào thời nào cũng đều có người được khai ngộ, cũng có bậc A La Hán xuất thế cả; chẳng qua là các bậc A La Hán này sau khi chứng quả đều không muốn thị hiện thần thông, không đi khắp nơi xem xét chuyện thế gian.
Thuở trước, các Pháp Sư từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa hoằng Pháp như Tôn Giả Ma Ðằng, Tôn Giả Trúc Pháp Lan, và cả Tổ Sư Ðạt Ma (xuất thế sau khi Phật diệt độ cả ngàn năm) nữa, các ngài đều có thần thông. Gần đây thì có Lão Hòa Thượng Hư Vân, Luật Sư Hoằng Nhất và Lão Pháp Sư Ấn Quang—các ngài đều là những bậc cao tăng thời cận đại của Trung Hoa và là những bậc A La Hán, những bậc Bồ Tát. Ðặc biệt hơn nữa, mọi người đều công nhận Lão Pháp Sư Ấn Quang chính là hóa thân của Ðại Thế Chí Bồ Tát! Như vậy, sau khi Phật nhập Niết Bàn, ở nước Trung Hoa vẫn có rất nhiều bậc đại đức cao tăng xuất hiện. Cho nên, dù Phật vào Niết Bàn đã năm trăm năm, một ngàn năm, hay một vạn năm đi chăng nữa, hễ người nào có thể y theo Phật Pháp mà chân chánh tu hành, thì người đó cũng sẽ được khai ngộ và chứng quả vị như thường.
Sau khi các phân thân của Bồ Tát Ðịa Tạng hợp chung lại thành một hình, Ngài rơi lệ ai luyến ..." "Ai" là bi ai, buồn bã; "luyến" là lưu luyến, quyến luyến chẳng rời, không đành lìa bỏ. Vì sao Ðịa Tạng Vương Bồ Tát lại bi ai, thương cảm? Có bốn điều khiến Ngài bi ai:
1) Thứ nhất, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát đau xót bi ai bởi Lục Ðạo chúng sanh mải mê gây nghiệp tạo tội, không biết sửa đổi. Tất cả chúng sanh trong các cõi Trời, Người, A-tu-la, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh do tạo nghiệp tội nên cứ luân hồi luẩn quẩn mãi trong sáu nẻo ấy, không biết hối cải, chẳng biết ăn năn sám hối.
2) Thứ hai, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bi ai là vì tất cả chúng sanh đều cứng đầu, khó dạy—giảng Phật Pháp cho họ thì họ không muốn nghe, nhưng nếu nói những điều không phải là Phật Pháp thì họ lại vui vẻ theo dõi câu chuyện ngay!
Thói thường, quý vị nói điều tốt thì chẳng mấy ai chú ý nghe. Chẳng hạn quý vị khuyên: "Các bạn nên chăm chỉ học Phật Pháp," thì không ai để tâm tới và cũng chẳng có ai chịu tu học. Tuy nhiên, nếu quý vị rủ rê: "Hiện nay có một loại thuốc, hễ uống vào thì các bạn sẽ có được một cảm giác rất kỳ diệu," thì sẽ có rất nhiều người tranh nhau để được dùng thử loại thuốc đem lại ảo giác đó ngay. Uống vào rồi thì đầu óc trở nên mơ mơ màng màng, tưởng chừng như mình đang lâng lâng bay bổng đến Cực Lạc Thế Giới vậy! Ðó vốn là một thứ thuốc vô cùng độc hại, thế mà người ta nếm một lần rồi thì liền muốn thêm lần nữa, dần dà không biết đến bao nhiêu lần! Trong lúc "say" thuốc, họ cảm thấy cái gì cũng biến đổi, thậm chí trời đất cũng không lớn bằng họ nữa! Thế nhưng, qua khỏi khoảnh khắc phù du đó rồi thì họ liền cảm thấy cơ thể mệt mỏi dã dượi, khó chịu một cách khổ sở—không đau đầu thì cũng nhức xương, tay chân rã rời, nên không muốn làm gì cả, cứ nằm vật vã một chỗ như cái xác không hồn. Tuy vậy, mặc dù ra đến nông nỗi này, họ cũng chưa tỉnh ngộ, còn thắc mắc: "Tại sao mình lại như thế này?" Ðã thế, họ còn cho rằng dùng thêm một ít thuốc ấy nữa thì sẽ được khai ngộ: "Lần này hẳn là thuốc chưa đủ công lực, chưa đủ mạnh. Nếu tăng liều lượng nhiều hơn chút nữa có lẽ mình sẽ được khai ngộ, sẽ thành công!"
Quý vị nói xem, như thế mà không phải là ngu si đến cực điểm thì là gì? Bảo học Phật Pháp thì không học, cứ lén lút sử dụng độc phẩm. Dù biết là phạm pháp, nhưng họ vẫn muốn làm, thích làm và làm cho bằng được; cho nên đó chính là những chúng sanh cứng đầu, ương ngạnh. "Khó dạy" tức là khó uốn nắn, không dễ giáo hóa, không dễ dạy bảo. Quý vị khuyên họ học Phật Pháp thì họ không thích; nhưng nếu quý vị bày cách lừa đảo, lường gạt kẻ khác thì họ liền vui vẻ bám riết, cắm đầu cắm cổ chạy theo ngay. Quý vị thấy đó, lòng dạ của chúng sanh là như thế!
Vậy, nỗi bi ai thứ hai của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát chính là đau xót vì chúng sanh cứng đầu, khó giáo hóa, khó điều phục.
3) Nỗi bi ai thứ ba của Bồ Tát Ðịa Tạng là gì? Ðó là "mặt trời trí huệ" (huệ nhật) Như Lai sắp lặn. Phật ví như vầng thái dương, cho nên Phật sắp nhập Niết Bàn thì chẳng khác nào mặt trời trí huệ sắp lặn mất; do đó Bồ Tát Ðịa Tạng lấy làm bi ai.
4) Nỗi bi ai thứ tư của Bồ Tát Ðịa Tạng là gì? Là việc dặn dò trọng đại ở Ðao Lợi Thiên Cung. Tại cung trời Ðao Lợi, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ân cần căn dặn Bồ Tát Ðịa Tạng rằng cho đến trước khi Ðức Phật Di Lặc ra đời, Ngài hãy giáo hóa, độ thoát tất cả chúng sanh và khiến họ được gặp chư Phật, được Phật thọ ký. Ðây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Ðức Phật Thích Ca Nâu Ni đã giao phó trọng trách này cho Bồ Tát Ðịa Tạng, và đây cũng chính là nỗi bi ai thứ tư của Ngài.
Các phân thân của Bồ Tát Ðịa Tạng hợp chung lại thành một thân, rồi rơi nước mắt mà bạch Phật rằng: "Từ số kiếp lâu xa đến nay, con nhờ Ðức Thế Tôn tiếp độ dắt dìu, được mười phương chư Phật từ bi tiếp dẫn, khiến con có được thần lực chẳng thể nghĩ bàn—thứ thần lực không thể dùng tâm trí để nghĩ suy, không thể dùng ngôn ngữ để luận bàn—và được đầy đủ trí huệ rộng lớn."
"Thần" là thần diệu khôn lường. "Thần lực" là thứ sức mạnh thần diệu, mầu nhiệm khôn lường, quý vị không có cách gì biết được. Muốn cứu độ chúng sanh thì quý vị cần phải có thần lực; song nếu chỉ có thần lực mà không có trí huệ, thì cũng không được; cho nên quý vị cần phải có đầy đủ đại trí đại huệ nữa. Chúng ta dùng đại trí huệ để chi phối thần lực, và dùng thần lực để hỗ trợ trí huệ—trí huệ và thần lực hỗ tương hợp tác, tương trợ lẫn nhau—nhờ vậy mới có thể cứu độ chúng sanh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
III. TẠI SAO THÁI DƯƠNG HỆ NÀY TIẾN HOÁ THEO ĐƯỜNG LỐI NHỊ NGUYÊN ?
1. Vấn đề hiện tồn.
Câu hỏi thứ ba bao hàm một trong các vấn đề khó khăn nhất trong siêu hình học, và bao hàm trong việc nghiên cứu nó toàn thể bí nhiệm phức tạp, về lý do tại sao có khách quan tính ở mọi vật.....
Vấn đề nhị nguyên tính là vấn đề tự nó hiện hữu, và không thể được giải quyết bởi kẻ nào từ chối thừa nhận sự khả hữu của hai sự kiện huyền linh sau :
1. Toàn thể Thái dương hệ là biểu hiện cho ý thức của một Thực Thể Thông linh, Đấng này xuất phát từ trên các cõi hoàn toàn ở ngoài vòng giới hạn thái dương.
2. Sự biểu lộ thì theo chu kỳ và Định Luật Tái Sinh là phương pháp mà sự tiến hoá diễn ra liên quan đến một con người, một Hành Tinh Thượng Đế và một Thái Dương Thượng Đế. Đây là điều được nhấn mạnh trong Lời tựa của bộ Giáo Lý Bí Nhiệm về ba điều căn bản (GLBN I, 42, 44).
a. Bản nguyên Bất biến Vô giới hạn.
b. Tính tuần hoàn của vũ trụ.
c. Tính đồng nhất của mọi linh hồn với Đại Hồn.
Khi các nhà khoa học nhận thức 2 sự kiện này, lúc bấy giờ các lý giải của họ sẽ có một đường lối khác và chân lý, theo đúng thực chất của nó, sẽ bắt đầu soi sáng lý luận của họ.
Tuy nhiên, có ít người sẵn sàng chấp nhận sự soi sáng này, chỉ vì ánh sáng của trực giác bị chận đứng do các bức tường mà quan năng lý luận đã dựng nên. Lưỡng nguyên tính của thái dương hệ rốt cuộc sẽ được thừa nhận tuỳ vào các yếu tố sau:
a. Chính sự hiện tồn.
b. Thời gian và không gian.
c. Tính chất của dục vọng hoặc nhu cầu.
d. Khả năng thích thu nhận có sẵn trong chính sự sống. Khả năng này, nhờ bởi sự vận chuyển, gom góp vào chính nó chất liệu mà nhờ đó nó tạo ra được hình hài, qua đó sự diễn đạt được tìm thấy, và nhờ đó nó giới hạn chính nó trong ngục tù của các thể để thu thập kinh nghiệm......
Con người là sản phẩm của sự hợp nhất cả hai; y là nơi hội tụ của vật chất hay chất liệu trí tuệ linh hoạt và của Tinh thần hay Ý chí căn bản. Y là con sơ sinh của cuộc phối ngẫu của cả hai hay là sự nhất quán. Y khoác lấy tính khách quan để biểu lộ những gì ở trong mỗi một của hai đối cực, cộng thêm kết quả sự hoà nhập của chúng trong chính y.
2. Bản chất và nhị nguyên tính của nó.
Trí tuệ linh hoạt/ Lửa do ma sát hợp nhất với Ý chí/ Tinh thần/ Lửa điện hay huyền năng tạo thành ‘Đứa Con Tất Yếu’ vốn biểu hiện cho trí tuệ, ý chí hay dục vọng và sự biểu lộ kết hợp tiềm tàng của chúng là bác ái minh triết.
Bằng thuật ngữ Lửa, chúng ta có thể diễn tả một tư tưởng tương đồng như thế nào? Lửa tiềm tàng trong vật chất – chính lửa là sản phẩm của cuộc biểu lộ trước của cùng Thực Thể Thông Linh, hay là tính chất tương đối hoàn hảo được hoàn thành bởi Đấng này trong một lần lâm phàm trong vũ trụ trước kia - lại bắt đầu hoạt động bởi ước vọng của cùng Đấng đó để vận chuyển bánh xe luân hồi lần nữa. ‘Lửa do ma sát’ đó tạo ra nhiệt và bức xạ, đồng thời gây ra một phản ứng từ phía ‘lửa điện’ đối nghịch hay tinh thần. Ở đây, chúng ta có ý tưởng về cung đang tác động qua vật chất vì phản ứng của lửa điện là bao giờ cũng tiến tới, như đã nói ở trên. Tia “lửa điện” duy nhất rơi vào vật chất. Đây là cuộc phối ngẫu trong hệ thống của Cha và Mẹ. Kết quả là sự pha trộn của hai lửa và sản phẩm hợp nhất của sự biểu lộ của lửa đó được chúng ta gọi là ‘lửa thái dương’. Như thế Đấng Con được tạo ra. Trí Tuệ linh hoạt và Ý chí được hợp nhất và bác ái minh triết, khi được hoàn thiện qua cuộc tiến hoá, sẽ tạo nên kết quả.
Lửa điện hay Tinh Thần, hợp nhất với lửa do ma sát (nhiệt) tạo nên Lửa thái dương hay ánh sáng.
Con người phối hợp các cặp đối hợp và 3 loại lửa [Tinh thần + Ma sát = Thái dương] hội nhập trong y. Con người là biểu hiện hoàn hảo nhất của nguyên khí trí tuệ, và có thể được xem như, theo một quan điểm rất lý thú là kiệt tác của Brahma/ Ngôi Ba. (LVLCK, 239)
+ Năng lượng Lưỡng nguyên tính: ... Đây là nói về cung bảy đang đến, và cung sáu đang ra đi. Với tính cách lưỡng nguyên, chúng là các mãnh lực phản động và cấp tiến, đang tìm cách chi phối tư tưởng con người, qui định cuộc tiến hóa của thiên nhiên và nhân loại, và tạo nên những nền văn minh và văn hóa rất đa dạng – một cung nhằm duy trì và kết tinh những gì đang hiện hữu, còn cung kia hoàn toàn quá mới, và thoát ra từ tình trạng biến động hiện nay trên thế giới. (Xem: Điểm đạo trong nhân loại ... Tr11)
+ Hợp nhất (unity): Hợp nhất có thể được xem như là sự thích nghi hữu thức của vị đệ tử được điểm đạo vào tổng thể lớn hơn, vì sự thu hút của vị đệ tử vào nhóm nhờ việc tuân thủ vào các định luật của linh hồn và với tư cách chi phối thái độ của y đối với những gì mà vị này đang sống, hoạt động và hiện tồn. (LV7C, 265)
+ Khoa Học về các Tam Giác được liên kết với tinh thần và sự tổng hợp. Khoa học này phải luôn luôn được tiếp cận theo quan điểm của 3 năng lượng căn bản: Đó là các năng lượng xuất phát từ Đại Hùng Tinh, từ Pleiades và từ Sirius; vì (bị chi phối bởi thời gian và không gian) ba loại năng lượng này tuôn đổ qua ba trung tâm chính, đó là Shamballa, Thánh Đoàn và Nhân Loại.
+ Các Tam giác quan trong trong sách Điểm đạo trong nhân loại: Xem tại đây
-Kế đến là sự nối kết ba trung tâm năng lượng chính yếu của hành tinh với năm cung hiện đang hoạt động để hoàn thành Thiên cơ cho nhân loại. Ba trong số các dòng năng lượng này đang hoạt động mạnh mẽ trên thế giới, và hai dòng năng lượng kia đang cố gắng biểu lộ. Trong đó, một dòng năng lượng đang cố gắng dần dần chế ngự, và dòng năng lượng kia cố gắng giữ lại những gì mà từ lâu nó đã chi phối. Đây là nói về cung bảy đang đến, và cung sáu đang ra đi. (Tr 11)
+ Xem thêm: Tổng hợp về các tam giác năng lượng
+ Năng sở có nghĩa là: (能所) Từ gọi chung Năng và Sở. Chủ thể của 1 động tác gọi là Năng; khách thể (đối tượng) của động tác ấy gọi là Sở. Chẳng hạn như mắt hay thấy vật, gọi là Năng kiến, còn vật do mắt thấy thì gọi là Sở kiến. Cũng thế, người bị nương tựa gọi là Sở y, người nương tựa vào kẻ khác gọi là Năng y. Người tu hành gọi là Năng hành, pháp môn được tu hành gọi là Sở hành. Người qui y gọi là Năng qui, chỗ qui y gọi là Sở qui; người giáo hóa gọi là Năng hóa, người được giáo hóa gọi là Sở hóa; chủ thể nhận thức gọi là Năng duyên, đối tượng bị nhận thức gọi là Sở duyên. Ngôn ngữ, văn chương, giáo pháp... biểu thị ý nghĩa, gọi là Năng thuyên, ý nghĩa được biểu thị gọi là Sở thuyên v.v... Tóm lại, Năng và Sở có đủ mối quan hệ tương tức không tách rời nhau giữa thể và dụng, nhân và quả, vì thế gọi là Năng sở nhất thể. [Nguồn: Từ điển Phật học].
+ Vô minh sinh Năng sở hình thành Hư không và các đại: ... Phật nói: “Giác không phải là sở minh, nhân minh mà lập sở. Sở đã vọng lập liền sanh cái vọng năng nơi ông”. Tánh bản nhiên thường trụ do Vô minh bất giác phân thành năng sở. Luận thì thấy có trước sau mà thực là năng sở đồng hiện. Năng sở đã lập thì cảnh giới vọng hiện, tánh giác liền ẩn.
Tánh giác thì không đồng khác, nhưng một khi đã phân năng sở thì đồng khác thành rõ ràng. Đồng là hư không, khác là thế giới …
Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mờ tối, đối đãi thành ra dao động nên có phong luân nắm giữ thế giới.... có kim luân giữ gìn cõi nước ...có hỏa đại..... có thủy đại . Đó là cách hình thành các đại, gọi chung là khí thế gian. Phần hình thành tướng thế gian thấy có sai khác là tùy vào tâm của chúng sinh.
Ngoài tứ đại còn có không đại, kiến đại và thức đại. Vì không đại là phản ánh của chơn không. Kiến đại là chỗ lưu lộ của chân như, thuộc năm hiện lượng. Nó chính là phần Năng kiến nói trong luận Khởi Tín, là phần Kiến tinh nói trong kinh Lăng Nghiêm. Thức đại là để biết do đâu có sự phân biệt cảnh.... (Nguồn: Chẳng phải nhân duyên hay tự nhiên)
+ Năng Sở: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật dạy, từ cái Tánh giác bất biến - Bất nhị biến thành năng sở sinh ra có tứ đại:
- 5. Lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sự thật thực tại, sự kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo hay không bị tạo), [ví dụ tứ đại: Địa, thủy, hỏa, phong là không bị tạo, mà khi địa, thủy, hỏa, phong kết hợp lại thành cái thân thể của ta là cái bị tạo. Hay tứ đại gọi là năng tạo, mà nó nhờ có tứ đại tạo thành sắc, hương, vị, xúc, thì sắc, hương, vị, xúc ấy gọi là tứ đại sở tạo; còn tứ đại còn lại là tứ đại năng tạo. Năng tạo hay sở tạo gì cũng đều là pháp hết, tâm và vật, ý thể và hiện tượng. Tâm và vật, tâm cũng là pháp, vật cũng là pháp, ý thể cũng là pháp, mà hiện tượng cũng là pháp.]
..... Phái duy thực trong A-tỳ-đạt-ma (chữ pháp) được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ 5. Nói một cách khác như ta gọi Phật pháp, trong khi ta gọi Phật pháp thì nên hiểu rằng nó gồm có 2 mặt: một mặt gọi là giáo pháp và một mặt gọi là lý pháp. Giáo pháp là lời dạy của đức Phật, còn lý pháp là cái ý nghĩa của lời dạy đó, ý nghĩa mà đức Phật nhắm tới. Giáo pháp ví dụ như ngón tay chỉ mặt trăng, còn lý pháp ví như mặt trăng. Giáo pháp là cái đức Phật nói ra, còn lý pháp là một thực tại. Đó là một cái chân lý do đức Phật phát minh, chứ Phật không sinh ra nó. Ví dụ như pháp duyên khởi tính thì Phật không sinh ra nó. “Duyên khởi tính” thì dù Phật có thành Phật hay không thành Phật, duyên khởi tính của vạn pháp cũng là duyên khởi tính của vạn pháp. Cái đó thuộc lý pháp hay gọi là chứng pháp, bởi cái đó ta phải chứng. Còn giáo pháp là cái để ta chứng cái lý pháp đó. Vì vậy, nếu không chứng được lý pháp thì chỉ kẹt vào nơi ngôn từ mà thôi, hiểu và dừng lại ở ngôn từ, ngang nơi ngôn từ và đứng lại đó chứ không thể chứng được. Cũng y như hành giả chỉ thấy ngón tay, ngang nơi ngón tay mà thôi, chứ không thể thấy được mặt trăng. Cho nên hai phạm trù đó phải đi đôi với nhau.] (Nguồn: Câu Xá Luận - HT Thích Thiện Siêu)
+ Xem thêm giảng giải về Năng Sở: Tánh Giác vốn không hai. Khi thấy có ngã, có nhân, thì mới thấy có tự có tha, có năng có sở. Khi thấy vô ngã, vô nhân, vô năng, vô sở thì tất cả đều là sự vận hành của Pháp, không có tự có tha nữa. Tất cả đều là sự mầu nhiệm của Pháp chứ không có tự lực, tha lực nào cả. Điều này con không thể hiểu mà chỉ có thể chứng ngộ thôi. (Nguồn: Giảng về năng sở)
+ Tâm năng sở: đây là nói tính chất hoạt động truy tầm đối tượng của tâm (tâm sở), gọi là tầm; quán sát đối tượng gọi là tứ. Hoạt động với tính chất thô, gọi là tầm; hoạt động với tính chất vi tế, gọi là tứ, đây là sự sai biệt của tầm và tứ”.
+ Sinh Hư không: Đức Phật nói ...Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới xuất hiện. Các đại cũng thế, nếu chúng sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì các đại này sẽ dần dần xuất hiện. (Kinh Thủ LN - Phú Lâu La hỏi Phật)
+ Biến xứ: Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có mười Biến Xứ. 1) Địa Biến Xứ: Earth-Kasina; 2) Thủy Biến Xứ: Water-Kasina; 3) Hỏa Biến Xứ: Fire-Kasina; 4) Phong Biến Xứ: Wind-Kasina; 5) Thanh Sắc Biến Xứ: Blue Kasina; 6) Hoàng sắc Biến Xứ: Yellow Kasina; 7) Xích Sắc Biến Xứ: Red Kasina; 8) Bạch Sắc Biến Xứ: White Kasina; 9) Hư Không Biến Xứ: Space Kasina; 10) Thức Biến Xứ (trên, dưới, ngang/ các phương vị, bất nhị, vô lượng). [Nguồn: Thư viện hoa sen]
+ Tham thiền về biến xứ các Đại - Mầu sắc - Thức: Mười biến xứ [4] - Cụ thọ nên biết!
1. Một vị tưởng được Địa biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ nhất.
2. Một vị tưởng được Thủy biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ hai.
3. Một vị tưởng được Hỏa biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ ba.
4. Một vị tưởng được Phong biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ tư.
5. Một vị tưởng được Thanh biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ năm.
6. Một vị tưởng được Hoàng biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ sáu.
7. Một vị tưởng được Xích biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ bảy.
8. Một vị tưởng được Bạch biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ tám.
9. Một vị tưởng được Không biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ chín.
10. Một vị tưởng được Thức biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô biên, vô tế, đó là Biến xứ thứ mười [5].
I. ĐỊA BIẾN XỨ: Thế nào là gia hành của Địa biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện gì mà có thể chứng nhập Địa biến xứ định?
Khi người mới bắt đầu sự nghiệp tu hành đối với đa dạng phương sở của đại địa này, hoặc cao hoặc thấp, hoặc gai gốc, hoặc cây cỏ, hoặc đất muối, hoặc lùm bụi, hoặc hiểm trở, hoặc cấu bẩn, đều không tư duy các xứ như thế. Đối với đa dạng phương sở của đại địa này, bình đẳng hiển liễu, như là trong bàn tay, đầy đủ vườn rừng sạch đẹp, môi trường đáng yêu thích, nắm bắt bất cứ dấu hiệu nào, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng [(6): “từ tượng hình”, ý chỉ các khái niệm giả định, cái khái niệm mang tính ước lệ nhằm mô tả một sự vật] quan sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu địa ấy.
Do vị ấy đối với địa này, bằng lực thắng giải, hệ niệm tư duy, giả tưởng quán sát, an lập tín giải: đây là dấu hiệu địa ấy, nếu khi ấy tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này là địa mà không phải là gì khác.
Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là địa, thì chưa thể chứng nhập địa biến xứ định.
Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một địa tướng, tức đây là địa, chẳng phải là thủy các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, chứng nhập địa định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.
Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này này nhất định là địa.
Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh này nhất định là địa tướng, không hai, không chuyển, thì có thể chứng nhập địa định, nhưng chưa thể chứng nhập địa biến xứ định.
Nếu người ngang mức này chưa thể nhập Địa biến xứ định, vậy thế nào là gia hành của Địa biến xứ định? Tu quán hành giả, do phương tiện nào mới có thể chứng nhập Địa biến xứ định?
Y chỉ địa định được chứng nhập như trước, khiến tâm tùy thuận, điều phục, hướng đến, dần dần nhu hòa, nhu hòa phổ khắp, dồn về một mối định rồi, lại tưởng về địa ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là địa.
Nếu khi đó, vị ấy vì tưởng về địa ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là địa mà tâm bị tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là địa.
Bởi vì vị ấy tâm tán động, rong ruổi sang hình thái khác, không thể hướng đến một điểm, không thể giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này nhất định là địa, thì chưa thể chứng nhập địa biến xứ định.
Nếu bây giờ vị ấy thâu giữ tâm mình, khiến cho không tán loạn, hệ niệm tư duy nơi một địa tướng: biến này là địa, chẳng phải là biến thủy các thứ, tư duy tướng này, tinh cần dũng mãnh, cho đến: cho đến tâm tương tục cửu trụ, do gia hành này, mới tuần tự chứng nhập địa biến xứ định, tinh cần thường tập gia hành này rồi, lại tiến tu hành phương tiện định này, nghĩa là đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này, thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần.
Khi đối với đạo đã sinh được dẫn bởi gia hành này đã thường tập, thường tu, thường thực hành nhiều lần, tâm liền an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này là đều là địa.
Do tâm an trụ, bình đẳng trụ, tiếp cận trụ, tập trung, dồn về một điểm, giữ chặt niệm khiến cho thiết lập trên một đối tượng, tư duy cảnh biến này đều là địa, không hai, không chuyển, từ đây mới có thể chứng nhập địa biến xứ định.
Nói “trên dưới”: phương trên, phương dưới.
“Ngang”: Các hướng đông, nam v.v..
“Không hai”: không gián tạp [(7): phức hợp, đa thù; thành lập do vy-ava-√kṝ: không pha tạp, không trộn lẫn].
“Vô biên, vô tế”: biến tế khó trắc lượng.
Đó gọi là thứ nhất: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ nhất.
Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.
+ Nạp âm Hành Thổ theo Dịch học [Lưu ý: Trong Hư không/ Không gian thì hành Kim trong ngũ hành thuộc về nhiếp thuộc Địa đại/ Đất, cũng bao gồm các vật thành hình cầm nắm được như Mộc/ Cây cối ... cũng đều quy thuộc về Địa đại/ Đất/ Thổ]:
Hành thổ có 6 loại: Ðất ven đường (Thổ) - Ðất đầu thành (Thổ) - Ðất trên mái nhà (Thổ) - Ðất trên vách (Thổ) - Ðất vườn rộng (Thổ) - Ðất trong cát (Thổ)
Hành Kim có 6 loại: Vàng trong biển (Kim) - Sắt đầu kiếm (Kim) - Kim bạch lạp (Kim) - Vàng trong cát (Kim) - Bạch kim (Kim) - Vàng trang sức (Kim).
II. THỦY BIẾN XỨ: ... nắm lấy dấu hiệu đại thủy chú, đại tuyền thủy, đại trì thủy, đại bi thủy, đại hồ thủy, Căng-già thủy, Diêm-mẫu-na thủy, Thiết-lạp-bà thủy, A-thị-la-phiệt-để thủy, Mạc-ê thủy. Cho đến Đông đại hải thủy, Nam đại hải thủy, Tây đại hải thủy, Bắc đại hải thủy, bốn đại hải thủy, đại thủy luân [(8)- Thủy luân: Vũ trụ vật lý, theo A-tì-đạt-ma, được mô tả là ba tầng đài (maṇḍala): mặt đất bao gồm núi sông, các lục địa, được đặt trên đài bằng vàng, gọi là kim luân (kañcana-maṇḍala). Nằm phía dưới nâng đỡ kim luân là đài nước hay thủy luân (jala-maṇḍala). Nâng đỡ phía dưới thủy luân là phong luân hay đài gió (vāyu-maṇḍala). Phong luân y chỉ hư không mà tồn tại]. ... đây là dấu hiệu thủy ấy. ... tư duy cảnh này này nhất định là thủy.... thủy ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là thủy.
Đó gọi là thứ hai: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ hai.
Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.
+ Nạp âm Hành Thủy theo Dịch học có 6 loại: Nước dưới lạch (Thuỷ) - Nước trong khe (Thuỷ) - Nước giữa dòng (Thuỷ) - Nước trên trời (thuỷ) - Nước giữa khe lớn (Thuỷ) - Nước giữa biển (Thuỷ)
III. HỎA BIẾN XỨ: ... với thế giới này, nắm lấy hình ảnh lửa của vầng nhật trong sáng; hình ảnh ánh lửa của diệu dược, hình ảnh lửa của thần châu [(9): Tu định], hình ảnh lửa của cung điện tinh tú; hình ảnh lửa cháy rực lớn của hỏa tụ; lửa đốt cháy thôn ấp, lửa đốt cháy thành trì, lửa đốt cháy sông ngòi, lửa đốt cháy đồng hoang; lửa đốt cháy mười bó củi,.... hình ảnh lửa đốt cháy vô lượng trăm ngàn bó củi. Vị ấy nhìn thấy các hình ảnh lửa đốt cháy như thế, trước tiên dần dần rực cháy, lại cực kỳ rực cháy, chuyển biến rực cháy, sau đều tỏa sáng.... đây là dấu hiệu hỏa ấy.... tư duy cảnh này là hỏa mà không phải là gì khác... cảnh này này nhất định là hỏa.... hỏa ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là hỏa.
Đó gọi là thứ ba: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ ba.
Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.
+ Nạp âm Hành Hỏa theo Dịch học có 6 loại: Lửa trong lò (Hoả) - Lửa trên đỉnh núi (Hoả) - Lửa trong chớp (Hoả ) - Lửa chân núi (Hoả) - Lửa đèn (Hoả) - Lửa trên trời (Hoả)
IV. PHONG BIẾN XỨ: .... với thế giới này, hoặc nắm lấy dấu hiệu bất cứ gió đông nào, bất cứ gió tây nào, bất cứ gió nam nào, bất cứ gió bắc nào, gió có bụi bặm, gió không bụi bặm, gió phệ-thấp-ma [(10): thay bằng: “gió xoáy, gió bão”], gió phệ-lam-bà, gió nhẹ, gió lớn, gió vô lượng, đại phong luân [(11): gió y chỉ hư không mà vận hành].... đây là dấu hiệu Phong ấy.... tư duy cảnh này là Phong mà không phải là gì khác.... Phong ấy tuần tự rộng lớn, phổ khắp Đông, Tây, Nam, Bắc đều là Phong.....
Đó gọi là thứ tư: trong thứ tự lần lượt, trong thứ lớp nối tiếp, điều này ở vị trí thứ tư.
Biến xứ: trong định này, những gì là sắc - thọ - tưởng - hành - thức thuộc thiện, đều gọi là biến xứ.
+ Nạp âm Hành Mộc theo Dịch học có 6 loại [Mộc phân ra thành hình như cây cối quy thuộc vào Địa đại, thể Khí thì thuộc về Phong đại): Gỗ trong rừng (Mộc) - Gỗ dương liễu (Mộc) - Gỗ tùng Bách (Mộc) - Gỗ đồng bằng (Mộc) - Gỗ dâu (Mộc) - Gỗ thạch Lựu (Mộc)
+ Nguồn các Đại biến xứ: Kinh Nhất thiết xứ - Biến xứ ....
+ Đề mục thiền định: VI- Nhóm tiếp theo là phân tích tứ đại
Với đề mục thiền này, bạn có thể lấy các bộ phận trong cơ thể như tóc, lông, móng, răng, da v.v… để thấy các yếu tố tứ đại. Có 32 thành phần trong cơ thể, trong đó có hai mươi thành phần thuộc yếu tố đất, mười hai thành phần thuộc yếu tố nước. Trước tiên bạn phải hiểu tứ đại là gì, sau đó bạn cố gắng hiểu những bộ phận nào trong cơ thể có những đặc tính của đất, của nước v.v… Chẳng hạn như bạn có cảm giác về sự cứng thì bạn có thể kết luận đây là yếu tố đất. Khi bạn cảm thấy sự dính hút hay ướt thì bạn có thể kết luận đây là yếu tố nước v.v… Do đó hãy cố gắng thấy các yếu tố này bất kỳ nơi nào trong cơ thể......
Vì hiểu rõ được tứ đại là điều không phải dễ dàng, rất khó khăn để hiểu rõ được tứ đại do những đặc tính này thật là thâm sâu nên định tâm không đủ mạnh để đạt đến các tầng thiền.
Trên đây là bốn mươi đề mục Thiền Định. Nếu muốn thì bạn có thể thực hành một hoặc một số trong những đề mục này. (Nguồn: Thiền Định Về Tứ Đại Và Mầu Sắc - Thiền Minh Sát)
+ Hiểu về các Đại:
I- Định nghĩa: Bốn Đại, sáu Đại, mười hai Xứ và mười tám Giới
1)- Bốn Đại: Bốn Đại là bốn yếu tố cơ bản hình thành nên thể chất (thân vật lý) của con người, bao gồm: chất khoáng (Pathavi - đất), chất lỏng (€po - nước), nhiệt độ (Tejo - sức nóng) và hơi khí (Vàyo - gió). Chúng ta thường gọi một cách hình tượng về thân tứ đại là đất, nước, gió, lửa.
2)- Sáu Đại: Sáu Đại là sáu yếu tố cơ bản hình thành nên con người toàn diện với ba thành tố đặc thù là: thể chất vật lý (gồm bốn Đại) cộng với ý thức (thuộc tâm lý) và không gian.
3)- Mười hai Xứ: Mười hai Xứ là cơ sở giao tiếp giữa con người với thế giới thực tại khách quan, bao gồm sáu nội xứ (thuộc về tự thân) và sáu ngoại xứ (thuộc về ngoại cảnh). Sáu nội xứ là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức. Sáu ngoại xứ là: hình thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, sự tiếp xúc và các sự vật hiện tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
4)- Mười tám Giới: Mười tám Giới là cơ sở giao tiếp toàn diện của con người với thế giới thực tại khách quan, bao gồm: sáu nội xứ, sáu ngoại xứ và sáu tình thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức).
II- Phân tích bốn Đại qua thể chất vật lý của con người
Bốn Đại là nói tóm tắt về cơ thể con người. Bốn Đại này do nhân duyên hợp thành, chúng không có gì là bền chắc. Con người từ khi sinh ra được nuôi dưỡng bởi các loại thức ăn (thực tố) và dưỡng khí, và tiếp tục sinh trưởng theo thời gian. Trong suốt quá trình sống của một đời người, thân thể vật lý này không ngừng thay đổi qua các chu kỳ sinh thành, tồn tại, biến đổi và phân hủy (chết). Cái mà chúng ta gọi là sự chết (sự ngưng hoạt động và phân hủy hay thọ mạng chấm dứt), thực chất chỉ là sự tan rã của bốn Đại).
Cơ thể của con người hình thành là do sự hội tụ của bốn Đại. Trong bốn Đại, nếu tiếp tục phân tích, chúng ta sẽ có thêm bốn nhóm vật chất như sau:
1. Yếu tố đất: gồm có: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, phân, mỡ, não, ghèn.
2. Yếu tố nước: gồm có: mật, đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, nước mắt, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu.
3. Yếu tố gió: gồm có: hơi thở (sự hô hấp) và khí.
4. Yếu tố lửa: gồm có: nhiệt độ hay sức nóng do sự vận hành của cơ thể phát ra.
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, cơ thể con người gồm có 36 thứ bất tịnh và được chia thành ba nhóm:
1. Nhóm một: gồm có 12 thứ ngoài thân: tóc, lông, móng, răng, ghèn, nước mắt, nước mũi, nước miếng, phân, nước tiểu và mồ hôi.
2. Nhóm hai: gồm có 12 thứ trong thân: da, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, lớp mỡ da, mỡ óc, màng bọc gân, thịt.
3. Nhóm ba: gồm có 12 thứ nằm sâu trong thân: gan, mật, ruột, dạ dày, lá lách, thận, tim, phổi, bàng quang, mề phân, đàm đỏ và đàm trắng.
Mục đích của sự phân tích cụ thể như trên là nhằm giúp chúng ta nhìn thấy rõ ràng, chính xác về thân tướng bất tịnh của con người để hướng tâm đến trạng thái xả ly, không chấp thủ (1)
Chúng ta có sáu căn và sáu trần. Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
- Sắc: gồm có màu sắc, hình thể, vật thể, hiện tượng, sự vật. Sắc còn được chia thành hai phần đó là: biểu sắc (hình tượng, sự vật...), vô biểu sắc (năng lượng vô hình..., năng lượng tâm thức [mental energy] cũng được xem là một loại sắc).
- Thanh: gồm tiếng nói, tiếng động, âm thanh, âm nhạc...
- Hương: hương khí, hương thơm...
- Vị: mùi vị như chua, chát, cay, ngọt, mặn, đắng, the, lờ lợ...
- Xúc: sự giao thoa giữa căn và trần, giữa vật này với vật khác...
- Pháp: tất cả thế giới sự vật hiện tượng tâm lý và vật lý nói chung.. (Nguồn: Bốn Đại, Sáu Đại, Mười Hai Xứ, Và Mười Tám Giới)
+ Tham thiền về biến xứ các Đại - Mầu sắc - Thức: Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có mười Biến Xứ. 1) Địa Biến Xứ: Earth-Kasina; 2) Thủy Biến Xứ: Water-Kasina; 3) Hỏa Biến Xứ: Fire-Kasina; 4) Phong Biến Xứ: Wind-Kasina; 5) Thanh Sắc Biến Xứ: Blue Kasina; 6) Hoàng sắc Biến Xứ: Yellow Kasina; 7) Xích Sắc Biến Xứ: Red Kasina; 8) Bạch Sắc Biến Xứ: White Kasina; 9) Hư Không Biến Xứ: Space Kasina; 10) Thức Biến Xứ (trên, dưới, ngang/ các phương vị, bất nhị, vô lượng). [Nguồn: Thư viện hoa sen và xem thêm: Kinh Nhất thiết xứ - Biến xứ ....]
+ Nhất tâm xưng danh: Quan trọng là ở chỗ nhất tâm (Niệm Phật, Bồ Tát, Trì chú ...). Quý vị chớ nhị tâm, tam tâm và lại càng không nên tứ tâm. Quý vị càng nhiều tâm, nhưng không giống với làm việc công đức đâu, càng nhiều càng tốt. Tâm càng nhiều lại càng không tốt. Tại sao? Vì tâm một khi nhiều tức sẽ tán loạn, tán loạn tức là không chuyên nhất, không chuyên nhất thì bất linh - Chuyên nhất thì đắc linh, không có công hiệu. Nếu quý vị nhị tâm xưng danh thì không linh ứng, mà tam tâm xưng niệm lại càng không có tác dụng. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng - Phẩm Phổ Môn)
+ Nhất tâm, Nhất tâm bất loạn (Tension): Ý nghĩa huyền bí của “nhất tâm” (chừng nào mà tôi có thể giải thích nó bằng ngôn từ hữu hạn) là “Ý chí tập trung bất biến” (“focused immovable Will”). Sự nhất tâm đúng đắn là sự đồng nhất hóa của bộ óc và linh hồn với trạng thái ý chí, và cách duy trì sự đồng nhất hóa đó – không đổi và không lay chuyển – bất luận ở vào tình huống và khó khăn nào. (CVĐĐ, 45)
+ Điểm nhất tâm bất loạn: (Point of tension)
- Điểm nhất tâm là nơi mà sự kiềm chế của linh hồn (soul control) trở thành có thật và lộ rõ. (ACMVĐCNL, 259)
- Đối với đệ tử bậc trung, điểm nhất tâm sẽ được tìm thấy trên các cõi trí (mental levels), đòi hỏi phải có thể trí giác ngộ và sự tiếp xúc với linh hồn ngày càng tăng. (ACMVĐCNL, 264)
+ Nhất niệm: Trong Kinh Đức Phật nói: Giữ tâm một chỗ, chẳng có chuyện gì không làm được. Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, nhất định niệm đến khi tâm thanh tịnh của bạn khơi dậy, tâm thanh tịnh là chân tâm, vọng niệm mất hết, chân tâm hiện tiền, công đức ở chỗ này.(Nguồn: PS Tịnh Không)
+ 126. NHẤT TÂM: .... Tỳ-kheo như vậy hoặc tản bộ, hoặc ra vào, hoặc quay nhìn hai bên, co duỗi, cúi ngước, cầm y bát, tiếp nhận ẩm thực, hoặc tả hữu tiện lợi, hoặc ngủ hoặc thức, hoặc ngồi hoặc đứng, nói năng hay im lặng, vào bất cứ lúc nào, thường niệm nhất tâm, không mất oai nghi. Đó là nhất tâm. Cũng như một người đi giữa đám đông, hoặc đi ở trước, ở giữa hay ở cuối, thường an ổn, không có điều sợ hãi. Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy,... cho đến, nói năng, im lặng, thường niệm nhất tâm, không buồn không sợ. (Nguồn: mục 126- Xem tại đây)
+ Nhất tâm niệm Chú Đại Bi: Trong Đại Bi Sám có nói: Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ ...... hướng súc sinh, tự đắc đại trí huệ. Nếu tâm có thể chuyên nhất, niệm Chú Đại Bi, "Một niệm không sinh" thì đến núi đao cũng sụp đổ, giầu sôi tự khô cạn ... Một niệm không sinh thì không còn vọng tưởng. Nếu người nào tu được tam muội định lực, thì chuyển biến được hết thảy tai nạn, gặp xấu hóa thành tốt, gặp rủi do thành may mắn. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 194 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Khóa tâm lại - Quán tưởng chữ Phạn: ... Nếu bạn không biết ý nghĩa của Chú, ý nghĩa chữ Phạn thì cảm thấy diệu không thể tả. Tâm niệm luôn luôn nghĩ muốn biết, nếu bạn biết rồi thì không chú ý. Quán tưởng chữ Phạn cũng lại như thế, vì chữ Phạn chúng ta chưa học qua, nên không biết ý nghĩa của nó, không giống như chữ Tàu. Đây là chữ ‘’ đại ‘’ kia là hai chữ ‘’ Bồ Tát‘’. Quán tưởng chữ Phạn sẽ đắc được ngũ nhãn lục thông, phải quán tưởng từng chữ rõ ràng, mở mắt nhắm mắt đều thấy rõ ràng, lâu dần thì chỗ diệu dụng sẽ phát sinh, có thể khiến cho bạn khai mở ngũ nhãn lục thông, thông nhân đạt quả, là vì chúng ta không minh bạch chữ Phạn, thì có một sức lực thần diệu.
Quán tưởng chữ Phạn cũng là phương pháp khóa tâm lại, chế tâm tại một chỗ đừng cho khởi vọng tưởng, ấn nhập từng chữ Phạn vào trong tâm, bất cứ mở hoặc nhắm mắt đều rõ ràng. Như thế lâu dần sẽ đắc được tam muội. (Nguồn: Chú Lăng Nghiêm - Kệ và Giảng - HT Tuyên Hóa)
+ Thiền quán về biến xứ các Đại - Mầu sắc - Thức: Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có mười Biến Xứ. 1) Địa Biến Xứ: Earth-Kasina; 2) Thủy Biến Xứ: Water-Kasina; 3) Hỏa Biến Xứ: Fire-Kasina; 4) Phong Biến Xứ: Wind-Kasina; 5) Thanh Sắc Biến Xứ: Blue Kasina; 6) Hoàng sắc Biến Xứ: Yellow Kasina; 7) Xích Sắc Biến Xứ: Red Kasina; 8) Bạch Sắc Biến Xứ: White Kasina; 9) Hư Không Biến Xứ: Space Kasina; 10) Thức Biến Xứ (trên, dưới, ngang/ các phương vị, bất nhị, vô lượng). [Nguồn: Thư viện hoa sen và xem thiền quán chi tiết tại: Kinh Nhất thiết xứ - Biến xứ ....]
+ Các Luận trong kinh Thủ Lăng Nghiệm:
a- Kim luân: Đức Phật dạy "Kim luân Bảo trì Quốc độ". HT Tuyên Hóa giảng Kim luân cứng như Kim cương.
[NTH diễn giải (Xin chỉ tham khảo): Bảo trì hiểu là vật chất cứng chắc nhất, cốt lõi quyết định sự hình thành và tồn tại ổn định, bền vững của bất cứ hình dạng/ Hình thể/ Tướng trạng nào biểu hiện. Ví dụ:
+ Nếu xét âm dương Trời Đất thì ở Hư không, trong Trời có Không đại bao ngoài các Vật chất/ Địa đại.
+ Trong Hình tướng đều là vật chất lưỡng tính âm dương/ Vật chât và Tinh thần, ví như Địa cầu thì ngược lại với Trời, trong Mềm động, bề ngoài thì Đất cứng chắc trì giữ định hình, kèm Nước mềm lỏng giúp kết dính, nâng đỡ.
+ Ở Người: Con người ở giữa Trời - Đất (Loài sinh ra qua sự tác hợp giữa Tinh thần và Vật chất) là loài có "Sự sống" hình thể lưỡng tính âm dương (Thiên/ Tinh thần - Nhân/ Sự sống lưỡng tính biếu lộ - Đất/ Vật chất). Có sự tương ứng Đầu/ Tinh thần - Thân người/ Sự sống - Chân/ Đất. Liên kết "Bảo trì" sự sống bằng hệ Xương cốt cứng chắc bên trong (Kim luân), bên ngoài là Địa luân/ Đất/ Da thịt định hình thể ổn định thành khối.
Xét ở phần Đầu: Ứng Trời/ Tinh thần có vỏ Não cứng chắc định hình bên ngoài. (Toàn thân thì có Hệ Xương cốt cứng chắc kết lối Thiên - Nhân - Địa/ Bảo trì).
Khi phân âm dương thì Bên trên phần đầu là Tai/ Tánh Thủy đại - Mắt/ Tánh Hỏa đại sếp chiều Ngang (Xét về Tinh thần). Khi biểu lộ Tánh Thủy Hỏa thành Nước hướng xuống và Lửa hướng nên Tinh thần. Bên dưới phần đầu là Miệng lưỡi ứng Đất, Nước vật chất. Ở giữa có sự kết lối biểu hiện từ Không thành Có là Mũi, từ trong KHÔNG xuất sinh âm dương, đại diện cho Không Đại bên trong. Ở miệng thì có vòm Miệng cứng chắc định hình, trong miệng/ Không đại có Răng Lợi cứng chắc bảo trì, có Lưỡi Đất + Nước mềm dẻo (lưỡng âm dương). Tánh Nước hướng xuống lắng đọng thành Hình, lên Miệng tương ứng Nước. Mắt ứng Lửa => Hình thành trục trên Hỏa - Dưới Thủy là chiều dọc (Xét về vật chất).
Xét ở Thân người
Xét ở Chân/ Đất
b- Phong luân nắm giữ Thế giới:
+ Chữ Luân với các Đại: Ý nghĩa của từ ngũ luân theo Tự điển Phật học như sau:
I. Ngũ Luân: Trong Mật giáo, Ngũ luân chỉ cho 5 trí luân, tức là 5 đại: Đất, nước, lửa, gió và không. Năm đại này như cái vòng tròn xoay chuyển cùng khắp, không khiếm khuyết nên gọi là Ngũ luân (5 vòng tròn). Nếu đem 5 phần của thân thể chúng sinh (đầu, mặt, ngực, rốn, đầu gối) tương ứng với 5 đại, theo thứ tự phối hợp với 5 luân (không, gió, lửa, nước, đất) và 5 chữ Tất đàm ( , , , , ) để quán tưởng thì gọi là Ngũ luân quán, hoặc Ngũ luân thành thân quán. Phương pháp quán tưởng này giúp hành giả thể nhận được thân mình tức là thân Phật. Pháp quán Ngũ tướng thành thân của Kim cương giới là đối lại với pháp quán Ngũ luân thành thân của Thai tạng giới. Nếu đứng về phương diện thân hình của chúng sinh mà nói, thì Ngũ luân nghĩa là ngũ thể (đầu, 2 tay, 2 đầu gối). Lại nữa, vì sắc không lìa tâm, tâm chẳng lìa sắc, cho nên có thể nói được là 5 đại tức 5 trí, 5 trí tức 5 luân. Nếu nói theo màu sắc và hình dáng thì trong 5 luân, không là hình cầu màu xanh, gió là hình bán nguyệt màu đen, lửa là hình tam giác màu đỏ, nước là hình tròn màu trắng và đất là hình vuông màu vàng. [Ngũ luân cửu tự minh bí mật thuyết]. (xt. Ngũ Tự Nghiêm Thân Quán).
II. Ngũ Luân: Chỉ cho tháp Ngũ luân. Tức là dùng những cái nêu 5 luân lần lượt xếp đống lên thành hình tháp, tượng trưng cho hình tướng pháp thân của đức Đại nhật Như lai. [X. kinh Lăng già Q.1]. (xt. Ngũ Luân Tháp).
III. Ngũ Luân. Chỉ cho 5 ngón tay. Tức theo thứ tự từ ngón út, ngón vô danh v.v... phối hợp với 5 luân: Đất, nước, lửa, gió và không. [X. Quảng đại nghi quĩ; Tôn thắng Phật đính tu Du già pháp nghi quĩ; Kiến lập mạn đồ la hộ ma nghi quĩ].
IV. Ngũ Luân. Chỉ cho Ngũ giải thoát luân của Kim cương giới. Tức ở trong 1 cái vòng tròn Kim cương lớn, bày xếp 5 cái vòng tròn, để tượng trưng cho chỗ giải thoát của 5 đức Phật. (xt. Ngũ Giải Thoát Luân). (Nguồn: Từ điển Phật giáo)
+ Tứ Luân - Các Luân: Theo Câu Xá Luận, có tứ luân tạo nên thế giới, gồm [A. Đại địa tứ luân; B. Bốn hình tượng của Tứ luân; C. Tứ Phật luân; D. Tứ luân của Tứ Thiên vương]
A. Đại địa Tứ luân: Không luân - Phong luân - Thủy luân - Kim luân [Không luân = Không gian nơi Địa cầu/ Lõi địa cầu, nhỏ hơn Hư không luân trùm khắp pháp giới; Phong luân nương vào Hư không]. Thứ tự biến hiện là:
Không luân: Bánh xe không gian ở dưới nước và bánh xe gió của thế giới. (Goole dịch từ "The wheel of space below the water and wind wheels of the world")
Phong luân: Khởi lên từ bên trên Không luân, Thủy luân sanh ra trên Phong luân, và Kim luân sanh ra trên Thủy luân, và Địa luân dựa trên Kim luân.
Phong luân - Kim luân - Địa luân với Địa cầu: Nơi sâu tận cùng của thế giới là Phong Luân, Phong Luân này nương vào hư không, kiên cố như kim cang. Trên Phong Luân có Thủy Luân. Trên Thủy Luân có Kim Luân, được hình thành từ kim cang hình vòng tròn; nên gọi là Kim Luân. Trên Kim Luân này lại có chín núi tám biển, gọi là Địa Luân. Từ mặt nước cho đến Kim Luân, sâu đến 8 vạn do tuần; do vậy ta mới biết Địa Luân rất dày. Như vậy Kim Luân này còn có nghĩa là đại địa, vũ trụ, thế giới.
(Kim luân là tên gọi của một trong 7 loại báu do Chuyển Luân Thánh Vương cảm đắc được. Vòng tròn báu này có 4 loại khác nhau là vàng, bạc, đồng, sắt, từ đó sanh ra sự khác nhau giữa Kim Luân Vương, Ngân Luân Vương, Đồng Luân Vương và Thiết Luân Vương. Cũng là tên gọi tắt của Kim Luân Thánh Vương)
Hỏa luân: Lửa xoáy, ví dụ. lửa xoay tròn, cả vòng tròn như đang bốc cháy, biểu tượng của ảo ảnh; một bánh xe lửa. (Goole dịch từ "Whirling fire, e.g. fire whirled in a circle, the whole circle seeming to be on fire, emblem of illusion; a fire wheel"
Địa luân có nghĩa là: Tầng trên cùng của y báo (khí thế gian) và tầng cuối cùng của chính báo (thân hữu tình). Một trong 5 luân. Nếu đem phối hợp với nhục thân của chúng sinh thì địa luân là Tất luân (từ đầu gối trở xuống). Về hiển sắc, Địa luân là mầu vàng, về hình sắc, Địa luân có hình vuông, chủng tử là (A). (xt. Ngũ Luân).
B. Bốn hình tượng Tứ luân: 1) Màu vàng quan hệ tới vàng hay kim loại; 2) Màu trắng với nước; 3) Màu đỏ với lửa; 4) Màu đen với gió.
C. Tứ Phật Luân: 1) Kim Cang Luân với A Súc Bệ Phật; 2) Bảo Luân với Bảo Tướng Phật; 3) Pháp Luân với A Di Đà Phật; 4) Yết Ma Luân với Nam Phật.
D. Tứ luân của Tứ Thiên vương: 1) Kim Luân (vàng); 2) Ngân Luân (bạc); 3) Đồng Luân; 4) Thiết Luân (Sắt). (Nguồn: Từ điển Phật giáo và 4 loại Luân vương Kinh Dược Sư _ HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kim luân:
I. Kim Luân. Cũng gọi Kim tính địa luân, Địa luân, Địa giới. Một trong 3 luân (phong, thủy, kim), hoặc 1 trong 4 luân (không, phong, thủy, kim). Vũ trụ luận của Ấn độ đời xưa cho rằng lớp dưới cùng của thế giới là hư không, trên hư không có phong luân, trên phong luân lại có thủy luân, trên thủy luân lại có kim luân. Do sức nghiệp của loài hữu tình khuấy động thủy luân, nên trên mặt thủy luân kết thành kim luân (lớp vàng rất dày). Các thế giới hiện thực như: Núi, biển, đảo, v.v... đều kiến lập và tồn tại trên kim luân. Phía dưới cùng của kim luân gọi là Kim luân tế (mé kim luân)
II. Kim Luân. Gọi đủ: Kim luân bảo. Cũng gọi: Luân, Luân bảo. Vũ khí hình bánh xe làm bằng kim cương (một trong 7 thứ báu) là vật cầm tay của vua Chuyển luân Thánh vương. Truyền thuyết cho rằng tùy theo luân bảo chuyển động xoay về hướng nào thì nơi ấy đều qui phục. Chuyển luân Thánh vương cầm Kim luân bảo gọi là Kim luân vương (gọi tắt là Kim luân). Trong 40 tay của bồ tát Thiên thủ Quan âm, tay cầm Kim luân được gọi là Kim luân thủ.
(1) Nơi sâu tận cùng của thế giới là Phong Luân, Phong Luân này nương vào hư không.... Trên Phong Luân có Thủy Luân, ... Trên Thủy Luân có Kim Luân, ... được hình thành từ kim cang hình vòng tròn. Trên Kim Luân này lại có chín núi tám biển, gọi là Địa Luân. ... Địa Luân rất dày. Như vậy Kim Luân này còn có nghĩa là đại địa, vũ trụ, thế giới.(Phật dạy Kim Luân bảo trì thế giới; Phong luân nắm giữ thế giới _Kinh Thủ LN)
(2) Là tên gọi của một trong 7 loại báu do Chuyển Luân Thánh Vương cảm đắc được. ... Cụ thể xem thêm nguồn: Thuật ngữ Kim luân - thuvienhoasen.
+ Vũ trụ vật lý ([8] 水輪; Skt. jala-maṇḍala): Theo A-tì-đạt-ma, được mô tả là ba tầng đài (maṇḍala): mặt đất bao gồm núi sông, các lục địa, được đặt trên đài bằng vàng, gọi là kim luân (kañcana-maṇḍala). Nằm phía dưới nâng đỡ kim luân là đài nước hay thủy luân (jala-maṇḍala). Nâng đỡ phía dưới thủy luân là phong luân hay đài gió (vāyu-maṇḍala). Phong luân y chỉ hư không mà tồn tại. (Nguồn: Kinh Thập nhất thiết xứ / Kinh Mười Biến Xứ ...)
+ Kim luân - Thành lập khí thế gian:
Phong luân ở dưới cùng,
Bề trên là thủy luân. (Hơi nước/ Chất hơi ngưng tụ mưa xuống thành nước)
Phần nước ở dưới sâu tám ức,
Phần còn lại ngưng kết thành vàng
Thủy luân và kim luân [ Có đường kính mười hai ức - Ba ngàn bốn trăm năm mươi; Chu vi gấp ba lần.]
Giảng: Phong luân - Thể của nó thuộc chất rắn. Giả sử như có một đại Nặc-kiện-na (mahānagna) dùng kim cương ném vào nó thì kim cương sẽ bị vỡ tan mà phong luân vẫn không tổn hoại gì.
Vàng, bạc, các chất báu và đất được cấu tạo như vậy đã kết tụ lại nhờ các thứ gió do nghiệp lực tạo ra; và chúng đã tạo thành núi cũng như các đại châu. (Nguồn: Câu Xá luận - BT Thế Thân)
+ Kim luân - Đức Phật dậy:
- Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động => Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh. Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (Kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
- Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng => Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó.
- Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì => Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn.
- Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó:
=> Trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
- Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
- Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
* Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
- Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau.
=> Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
* Vạn sự đều do Tâm tưởng sanh - Chúng ta tạo ra Thế giới này: Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Phật dậy về Các Đại - Lê sỹ Minh Tùng)
+ Kim luân: Đức Phật bảo, “Phú-lâu-na, như ông vừa hỏi, đã là thanh tịnh bản nhiên, sao bỗng dưng sanh ra núi sông đất liền?”....
- Cái giác thì sáng suốt, hư không thì mê muội, hai cái đối đãi nhau thành có lay động. Nên có phong luân nắm giữ thế giới.
- Nhân hư không mà có sự lay động, phát minh ra tánh cứng, thành ra có ngăn ngại. Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng. Thế nên có kim luân để bảo trì quốc độ.
Giảng: ... sự lay động và tạo thành gió ..... thành ra tướng cứng chắc ngăn ngại của địa đại (yếu tố đất). Đây tức là lấy cái mê muội làm hư không, và trong thể hư không mê muội ấy, kết cái u tối hỗn trược thành sắc. "Kim bảo ấy là do minh giác làm nên tánh cứng". Tất cả các loại vàng bạc và các khoáng chất quý giá đều là tinh tuý trong lòng đất (địa đại), mà tánh chất của đất thì cứng chắc và ngăn ngại còn hơn cả kim loại. Nương nơi cái biết hư vọng của vô minh mà có ra tướng cứng chắc và ngăn ngại, như trong thế gian có người si tình mà hoá thành đá vậy.
- Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ biết cái lay động thì khiến cho phong đại phát ra. Phong đại và kim bảo cọ xát nhau, nên có ánh sáng của lửa (hoả đại) làm tính biến hoá.
-Ngọn lửa xông lên, kim bảo sanh ra tánh ướt. Nên có thủy luân trùm khắp mười phương cõi giới. (Nguồn: Tứ đại - Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa)
I- Phẩm tính Cung Năm: Kiến thức Cụ thể, Khoa học
- Ưu điểm: Phát biểu hết sức chính xác, công bằng (không thương xót), bền chí, lương tri, chính trực, độc lập, trí năng sắc sảo, suy nghĩ thẳng thắn, muốn hiểu biết và thấu đáo.
- Nhược điểm: Chỉ trích gắt gao, thái độ hẹp hòi, kiêu căng, không tha thứ, thiếu thông cảm và tôn kính, thành kiến.
+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI 207-8
- Đức Tính đặc biệt: Các phát biểu hoàn toàn chính xác, sự công bằng (không có lòng thương xót), sự kiên trì, lương tri, tính ngay thẳng, tính độc lập, trí tuệ sắc sảo.
- Tật Xấu của Cung: tính phê bình khắc nghiệt, hẹp hòi, kiêu ngạo, tính không khoan nhượng, thiếu sự cảm thông và tôn kính, thành kiến.
- Đức Tính cần có: Lòng tôn kính, sự tận tâm, thông cảm, tình yêu, tư tưởng phóng khoáng.
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung (Xem: tóm lược về bảy cung)
II- NGƯỜI CUNG 5:
+ Linh hồn cung 5 qua Kinh nghiệm - Đóng góp - Năng lực - Nguyện vọng - Cảm giác - Mong muốn - Năng khiếu - Tâm lý: Xem LH Cung 5
+ Phàm ngã C5: Hẹp hòi và độc quyền thiên về trí, chuyên môn và kỹ thuật riêng, không toàn cảnh do quá duy lý, chia rẻ và lãnh đạm, không tình cảm. Là chuyên gia - Không thỏa mãn do hay chỉ trích và phân tích, giám sát, tranh luận.
Tiến hóa: Lang thang trong bóng tối sâu thẳm của tinh thần. Y đã tìm kiếm qua đa dạng pháp màn che thực tại - Đánh mất chính y qua cái Tôi tò mò từng mảnh ghép từ Y phục, hình dạng, mầu sắc, hình thức, kiểu mẫu ... cấu thành và Dụng nó => Sáng tỏ bí ẩn Hình tướng - Xa dời bí nhiệm Tinh thần - Chỉ thấy Y phục.
Các tính chất: Vô minh, chỉ trích, duy lý hóa và phá hủy, chia rẻ về trí tuệ, ham tri thức => Nặng vật chất, Phân tích tỉ mỉ, Tính duy vật mãnh liệt và sự phủ định Thượng Đế nhất thời, cô lập - Chú trọng sai lầm, quan điểm lệch lạc về chân lý, Sự hiến dâng trí tuệ cho hình tướng và hoạt động của hình tướng, Thuyết thần học, dẫn đến:
Một tri thức về thực tại, Việc nhận thức linh hồn và các tiềm năng của nó, Năng lực nhận biết và tiếp xúc với Thiên thần Bản Lai Diện Mục, Sự nhạy cảm với Thượng Đế, với ánh sáng và với minh triết, sự hiến dâng về tinh thần và trí tuệ, Năng lực để được điểm đạo. (Điểm quan trọng thực sự.). Xem tại đây
+ Phương pháp tiếp cận Thánh đạo: Xem pháp tiếp cận Thánh đạo
+ Tập khí/ Bản năng và năng khiếu bí truyền Thể trí C5:
- Tập khí - Bản năng công truyền với Hạ Trí:
Tính tốt đặc biệt: Chính xác, công bằng vô tình, kiên nhẫn, lương tri, chính trực (uprightness), độc lập, trí nhạy bén.
Tật xấu: Chỉ trích khe khắt, hẹp hòi, ngạo mạn, khó tha thứ, thiếu tình cảm và sùng kính, thành kiến (prejudice).
Đức tính cần tập: Tôn kính, sùng tín, cảm tình, bác ái, đầu óc phóng khoáng (wide–mindedness).
- Năng khiếu bí truyền: Trí tuệ sắc sảo, chính xác chi tiết tỷ mỷ, kỹ năng khoa học (Toán học) và nghiên cứu. Thí dụ: nhà khoa học, thợ điện, kỹ sư, nhà phân tích, kỹ thuật viên dữ liệu, bác sĩ phẫu thuật, nhà nghiên cứu, nhà giả kim thuật, nhà phát minh và kỹ thuật viên. Xem tại đây
+ Pháp chữa bệnh: Là bác sĩ phẫu thuật hoàn hảo, và những PP chữa trị tốt nhất của y sẽ diễn ra nhờ phẫu thuật và điện.
+ Mẫu/ Kiểu người C5: Nhà hoá học, thợ điện, kỹ sư, bác sĩ phẫu Thuật. Lãnh đạo hẹp hòi - Cái Tôi - Xuất sắc về kỹ thuật đặc biệt, lính pháo binh. Nghệ sĩ thì rất hiếm, trừ có C 4/ C 7 phụ ảnh hưởng. Điêu khắc và âm nhạc kém. Viết và nói rõ ràng, nhưng thiếu lửa và dấu chấm vì thường dài dòng muốn nói quá nhiều: Xem tại đây
+ Chức năng/ Chức vụ, nghề nghiệp: Trí sắc sảo, chính xác từng chi tiết, nỗ lực truy ra sự thật nhỏ nhất đến tận nguồn cội, và để xác minh mọi lý thuyết. Trung thực, giải thích dễ hiểu, có mô phạm và đáng chán do cứ khẳng định - Chi tiết, vụn vặt, tầm thường, vô ích. Ngăn nắp, đúng giờ, tháo vát, không thích nhận những ưu đãi hoặc sự nịnh hót: Xem tại đây
+ Nhiếp Tâm: Ðức Phật dạy: "Tỳ-kheo các ông! Nếu người nhiếp tâm thì tâm được định. Nhờ tâm được định, có thể biết được các tướng của pháp sanh diệt ở thế gian. Vậy nên các ông thường phải tinh tấn tu tập các phép định. Nếu người được định thì tâm chẳng tán loạn. Ví như người muốn giữ nước, phải khéo đắp sửa bờ đê. Người tu cũng thế, vì giữ nước trí huệ, nên khéo tu thiền định, chẳng để cho rỉ chảy mất.- KINH DI GIÁO.
+ Nhiếp tâm phan duyên: Thế nào gọi là “nhiếp tâm”? Tâm của chúng ta, đặc biệt là cái tâm phan-duyên, suốt ngày chỉ toàn âm mưu, toan tính chuyện lợi dụng người khác, nghĩ cách kết thân với những người giàu có hoặc có thế lực để dựa dẫm, trục lợi. Lúc nào cũng nghĩ ngợi những chuyện như thế tức là có tâm phan-duyên, và chính là không nhiếp tâm. “Nhiếp tâm” có nghĩa là thâu hồi cái tâm phan-duyên trở lại, không cho nó đi “phan duyên,” không để cho nó chạy rông nữa. Thế nhưng, cái tâm này, quý vị không muốn nó chạy, nó cũng tự động chạy; quý vị bảo nó đừng khởi vọng tưởng, song chưa tới một phút là vọng tưởng lại ùn ùn dấy lên rồi! Vọng tưởng này ngừng thì vọng tưởng kia dấy khởi, niệm trước vừa diệt thì niệm sau liền sanh; niệm sau vừa diệt thì niệm sau nữa lại sanh – đó chính là cái tâm phan-duyên “niệm niệm chẳng ngừng” vậy.
Thế thì bây giờ phải làm sao? Phải nhiếp trì tâm phan-duyên--thâu nhiếp cái tâm ấy trở lại và giữ nó ở yên một chỗ! Chúng ta sở dĩ không thể thành Phật, không thể khai ngộ, không thể liễu Đạo, chính là vì chúng ta chưa khống chế được cái tâm này. Nếu khống chế được cái tâm này, giữ được nó ở yên một chỗ, thì chẳng có chuyện gì mà chúng ta không làm được; và bấy giờ, mọi việc đều thành công, mọi sự đều thành tựu. Cho nên, trước hết, chúng ta cần phải thâu nhiếp và chế ngự cái tâm phan-duyên; và đó chính là Giới, tức là biện pháp để “chỉ ác phòng phi” (chấm dứt điều ác và ngăn ngừa sự sai trái).
Trước hết, quý vị cần phải có được Giới. Có được Giới thì cũng giống như chậu nước đục được để yên, không bị khuấy động. Khi không còn chao động nữa thì đất cát từ từ lắng xuống đáy chậu, nước trở nên trong trẻo. Đó là “do Giới sanh Định” vậy. “Định” tức là không dao động, không chao đảo. Do không dao động mà sanh ra “Định.” Khi không còn bị dao động, lay chuyển nữa, tức là có được Định rồi, thì sẽ “do Định phát Huệ”; như lời Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi:
“Sạch tột, sáng thông suốt.”
(Tịnh cực, quang thông đạt.)
Hễ trong sạch tới cực điểm thì tự nhiên ánh sáng sẽ soi tỏ, xuyên suốt tất cả; “quang thông đạt” tức là được khai ngộ. “Do Định phát Huệ” nghĩa là từ trong Định sẽ nảy sanh trí huệ chân chánh.
“Đó gọi là Tam Vô-Lậu Học.” Giới, Định và Huệ được gọi chung là ba môn học vô-lậu. Nếu quý vị giữ Giới thì sẽ có được Định, và từ Định sẽ nảy sanh Trí-huệ. (Nguồn: Kinh Thủ LN - HT Tuyên Hóa)
1-10 Hai Loại Tội - Phẩm hình phạt (Quả bóa hiện tại và tương lai)
1.- Như vầy tôi nghe ... Thế tôn nói như sau:
- Có hai loại tội. Tội có kết quả ngay trong hiện tại, và tội có kết quả trong đời sau..... có người thấy vua chúa bắt được người ăn trộm, kẻ vô loại, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, ..... Họ tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ lấy gươm chặt đầu.
Người thấy vậy suy nghĩ như sau: "Do nhân các ác nghiệp như vậy, vua chúa bắt được kẽ ăn trộm, kẻ vô loại, áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi ... họ lấy gươm chặt đầu. Nếu ta làm các ác nghiệp như vậy, vua sẽ bắt ta và áp dụng các hình phạt như vậy". Người ấy sợ hãi tội phạm ngay trong hiện tại, không có cướp phá tài sản của những người khác. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tội có kết quả ngay trong hiện tại.
Tội có kết quả trong đời sau? Ở đây, có người suy xét như sau: .... "... Nếu thân ta làm ác, nói lời ác, nghĩ việc ác, sao ta lại không có thể, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Người ấy sợ hãi tội có kết quả trong đời sau, từ bỏ thân làm ác, tu tập thân làm thiện, từ bỏ miệng nói ác, tu tập miệng nói thiện, từ bỏ ý nghĩ ác, tu tập ý nghĩ thiện, và cư xử tự ngã hoàn toàn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tội có kết quả trong đời sau.
Này các Tỷ-kheo, trên đây là hai loại tội. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: "Chúng ta phải sợ hãi đối với tội có kết quả hiện tại. Chúng ta phải sợ hãi đối với tội có kết quả trong đời sau. Chúng ta phải tránh xa các tội. Chúng ta phải thấy rõ sự nguy hiểm của các tội". ..... chờ đợi rằng người ấy sẽ được giải thoát tất cả tội.
2. Có hai sự tinh cần này rất khó thực hiện ở đời. Sự tinh cần của các gia chủ ở nhà với mục đích bố thí các vật dụng như đồ ăn khất thực, các sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh, và sự tinh cần của các người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, với mục đích từ bỏ tất cả sanh y. Hai sự tinh cần này, naỹ các Tỷ kheo, rất khó thực hiện ở đời.
Trong hai tinh cần này, này các Tỷ-kheo, tối thắng là tinh cần với mục đích từ bỏ tất cả sanh y. ... các Thầy cần phải học tập.
3. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, làm cho nung nấu. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân làm ác, thân không làm thiện, miệng nói lời ác, miệng không nói thiện, ý nghĩ ác, ý không nghĩ thiện. Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Thân ta đã làm ác". Vị ấy bị nung nấu với ý nghĩ: "Thân ta đã không làm thiện". Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Miệng ta đã nói lời ác". Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Miệng ta đã không nói lời thiện". Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Ý ta đã nghĩ ác". Vị ấy bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Ý ta đã không nghĩ thiện". Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, làm cho nung nấu.
4. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, không làm cho nung nấu. Ở đây, có người thân làm thiện, thân không làm ác, miệng nói thiện, miệng không nói ác, ý nghĩ thiện, ý không nghĩ ác. Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Thân ta đã làm thiện". Vị ấy không bị nung nấu với ý nghĩ: "Thân ta đã không làm ác". Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Miệng ta đã nói lời thiện". Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Miệng ta đã không nói lời ác". Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Ý ta đã nghĩ thiện". Vị ấy không bị nung nấu vởi ý nghĩ: "Ý ta đã không nghĩ ác". Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, không làm cho nung nấu.
5. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, đã học được, biết được. Không biết đủ đối với thiện pháp và không có thối chuyển đối với tinh cần. Không có thối chuyển, này các Tỷ-kheo, ta cố gắng như sau: "Ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên trì đế chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh của người, nhờ tinh tấn của người, nhờ cần dõng của người. Ta nhờ không phóng dật, chứng được Chánh Giác. Nhờ không phóng dật, chứng được Vô thượng an ổn khỏi các khổ ách". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy không có thối chuyển, cố gắng như sau: "Ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên trì đế chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh của người, nhờ tinh tấn của người, nhờ cần dõng của người". Thời không bao lâu, này các Tỷ-kheo, các Thầy sẽ đạt được mục đích mà các Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: Đó chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, các Thầy với thắng trí, tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau: "Không có thối chuyển, chúng ta cố gắng, chúng ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên trì đế chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh con người, nhờ tinh tấn con người, nhờ cần dõng con người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
6. Có hai pháp này, .... Ai sống thấy vị ngọt trong các pháp có thể khởi lên kiết sử, ... Do tham không đoạn tận, sân không đoạn tận, si không đoạn tận, nên không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy không giải thoát khỏi khổ đau. Ai sống thấy nhàm chán trong các pháp có thể khởi lên kiết sử, .... Do tham được đoạn tận, sân được đoạn tận, si được đoạn tận, nên được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy giải thoát khỏi khổ đau - Là hai pháp.
7. Hai pháp này, là pháp đen: Không tàm và không quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp đen.
8. Hai pháp này, là pháp trắng. Thế nào là hai? Tàm và quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp trắng.
9. Hai pháp trắng này, che chở cho thế giới. Tàm và quý. Nếu hai pháp trắng này, không che chở cho thế giới, thời không thể chỉ được đây là mẹ hay là em, chị của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của Thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng. Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở cho thế giới, nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của Thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng.
10. Có hai thời kỳ an cư mùa mưa, này các Tỷ-kheo. Thế nào là hai? Tiền an cư và hậu an cư. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai thời kỳ an cư mùa mưa. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Hai Pháp)
+ Tu Hành: Là Pháp tu TRUNG ĐẠO - Là con đường Chánh đạo mà chính Đức Phật đã dậy, áp dụng cho mọi Pháp tu (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN, Q.1)
2. Pháp Tu Người Quân Tử
+ Tu thân: Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân[1]. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam cương hay còn gọi là Tam tòng.
* Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
* Biết thi, thư, lễ, nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
+ Hành đạo của Người quân tử
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, thiên hạ bình ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
* Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
* Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường). Nguồn: Đạo Nho Giáo
+ Xem thêm: Phật giáo là giáo dục
+ Xem thêm: Cư sỹ tại gia tu đạo
+ Xem thêm: Giác Tâm rồi mới tu đạo
+ Giảng về người Bất trung - Bất hiếu - Bất nhân - Bất nghĩa:
Quán xét người đời mạt thế, những bọn người ác bất trung bất hiếu, không có nhân nghĩa, không hợp nhân đạo.
LỜI GIẢI:
Cách sau Phật Niết bàn hai ngàn năm gọi là bước vào thời mạt thế. Mạt thế là thời kỳ thế gian vật dục phúng túng hưng thạnh, phong hóa lễ luật pháp tắc biến thái băng hoại, nhơn tâm đạo đức suy vi. Đồng thời thế gian văn hóa đồi trụy, Phật pháp biến thể hiển bày trạng thái phân hóa suy tàn, con người tâm trí gian xảo buông lung tạo nhiều tội ác.
Trong thời mạt thế, người ác dãy đầy, đại để có bốn loại:
1/- Bất trung: Quốc gia lấy dân làm gốc, lấy nguyên thủ làm tôn, lấy tận trung làm trước. Đối với quốc gia, nguyên thủ tài đức, chức vụ mình đang có mà không tận trung là đại ác.
2/- Bất hiếu: Gia đình lấy cha mẹ làm tôn, nên trước phải hiếu kính. Trong giới kinh Phật nói: Nếu có người suốt trăm năm vai phải mang cha, vai trái cõng mẹ, cha mẹ đại tiểu tiện trên thân, một lòng cung dưỡng cha mẹ đầy đủ các thức ăn ngon mặc ấm quý nhất trên đời, cũng chưa báo đền được ơn cha mẹ trong giây lát.
Kinh Bồ Tát Giới nói: “Hiếu là pháp chí đạo, cũng gọi là giới”. Thế nên làm con bất hiếu cha mẹ là đại tội. Người cộng sản tự mình khinh thường hiếu nghĩa nên đấu tố cha mẹ, lại còn giáo dưỡng tuổi trẻ, xúi xử người khác đấu tố, ấy là tâm địa hùm beo lang sói, tội ác biết dường nào! Cha mẹ mà còn đem tố khổ không chút tiếc thương thì thử hỏi trên đời nầy họ còn biết kính thương ai nữa? Bảo sao họ trị dân không thống khổ, trị nước không đổ nát đói nghèo lạc hậu!
3/- Không nhân nghĩa: Đối với mọi người trong xã hội không nhân không nghĩa, trái ngược với luân thường đạo lý, thiếu mất nhân tánh lương tâm, tiêu hủy tình người. Nhân là từ bi đối với tất cả. Nghĩa là xử sự hợp tình hợp lý. Nếu xử sự bất nhân bất nghĩa là đại ác. Như người cộng sản đấu tố cha mẹ, giết người như phác cỏ cây. Đấy là hiện thân của quỷ Dọa Xoa La Sát.
4/- Chẳng thuận nhân đạo: Đạo Nho dạy ngũ luân thập nghĩa: Phụ từ, tử hiếu, huynh lương, đệ để, phu nghĩa, phụ thích, trưởng huệ, ấu thuận, quân nhân, thần trung. Đạo Phật dạy ngũ giới, thập thiện đều là những phương thức thực tế xây dựng đạo làm người, là đạo lý xây dựng con người lương tri thánh thiện để thực hiện xã hội tiến bộ an lành hạnh phúc.
Sách Tả Truyện nói: “Người mà bỏ cái đạo làm người thì yêu quái hưng thạnh”.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phá căn bản giới thì tà ma yêu quỷ hưng thạnh trong đời”. Thế nên, lìa bỏ ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và phá căn bổn giới, tức là phá bỏ nhân đạo, hủy hoại nhân luân, thì xã hội hổn loạn băng hoại, cực kỳ đại ác vậy. Trong đời mạt pháp nầy không ít người phạm phải bốn tội đại ác nêu trên. Trong chốn thiền môn, kẻ xuất gia bê tha giới luật, tu nhảy bậc, chẳng thọ giới trì trai, mà lại còn manh tâm sửa kinh chế luật, tham vọng quyền danh lợi dưỡng, mê chấp ngã mạn cống cao tự đại, hãm hại bậc bậc chân Tăng tôn trưởng, khinh thường hòa hợp tăng, hạnh nầy cũng không ít trong cửa Phật, tội ác hơn hẳn bốn hạng trên kia. Đấy là hiện tượng bất hạnh của thời mạt pháp. (Nguồn: Kinh A Nan vấn về Phật sự)
+ Người bất hiếu: Phật bảo: Người ở thế gian bất hiếu với cha mẹ, không kính các bậc trưởng lão, thấy người khác hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính các bậc trưởng lão thì thường hay sân hận, không ưa làm thiện, từ đó bị năm tội ác.
1. Thường bị ác mộng.
2. Làm cho người ta oán ghét.
3. Tiếng ác truyền xa.
4. Đọa vào trong địa ngục Thái Sơn, bị tra tấn cả ngàn vạn năm.
5. Khi ra khỏi địa ngục sinh làm người thường có tánh dối trá, không tốt đẹp, bị mọi người oán ghét. (Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu)
706. TỘI BẤT HIẾU
Nếu chúng sinh nào sinh ở nhân gian, không hiếu thảo với cha mẹ, không biết kính trọng Sa-môn, Phạm chí, không làm đúng như thật, không tạo phước nghiệp, không sợ tội đời sau, thì do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh ấy sanh vào cảnh giới của Diêm vương. Người của Diêm vương bắt đưa đến chỗ vua và thưa rằng:
Tâu Thiên vương, chúng sinh này lúc còn làm người, không hiếu thảo cha mẹ, không biết kính trọng Sa-môn, Phạm chí, không làm đúng như thật, không tạo phước nghiệp, không sợ tội đời sau. Mong Thiên vương trừng phạt đúng theo tội trạng của nó. (Trung A Hàm, Kinh Thiên Sứ, Phẩm 6, số 64)
+ Biểu Lý: “Lời nói bên ngoài tâm bên trong, ngôn ngữ không trái với tâm, nên gọi là tương ưng. Nên tâm khẩu nhất như, gọi là trong ngoài tương ưng”. Trong Tư Quảng Kỳ Nghĩa nói, dẫn chứng nói:
- Biểu là biểu hiện ra bên ngoài, tất cả đều là biểu. Hay nói cách khác đi đứng ngồi nằm của chúng ta đều là biểu, ngôn đàm cử chỉ đều là biểu, biểu hiện ra bên ngoài. Chúng ta nói biểu hiện trong cuộc sống, biểu hiện trong công việc, biểu hiện trong xử sự đối nhân tiếp vật.
Chữ "Lý" là nội tâm, Nội Tâm gồm:
- Ngũ Thường: Nhân lễ nghĩa trí tín,
- Tứ Duy: Lễ nghĩa liêm sĩ
- Bát Đức: Là lễ nghĩa liêm sĩ, là hiếu để trung tín nhân ái hòa bình. Đây là giáo huấn ngàn vạn năm trước của tổ tông truyền lại, toàn là tánh đức, những thứ này là bản năng trong tự tánh, nó vốn có. Hoàn toàn biểu diễn trong cuộc sống hằng ngày, biểu diễn ra bên ngoài. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ Lắng nghe và biết nhẫn nhục là điềm lành lớn nhất
Biết nhẫn nhục khi nghe điều bất như ý
Có hạnh phúc mỗi khi được gặp người xuất gia
Mỗi khi nghe pháp hết lòng tiếp nhận để hành trì
Đó là điềm lành lớn nhất
Sở văn thường dục nhận: Nghe điều gì bất như ý thì phải biết kiên nhẫn, mình phải học hạnh lắng nghe. Dù người kia nói những câu không dễ chịu thì mình cũng phải lắng nghe. Đây là sự thực tập lắng nghe với tâm từ bi (the practice of deep listening, compassionate listening). Mình đừng phản ứng liền, phải lắng nghe để hiểu, có hiểu mới thương, mới giúp người kia được.
Nhạo dục kiến sa môn: Có sự thích thú muốn được gặp những người xuất gia, với điều kiện là người xuất gia đó dễ thương, là người tu thật. Theo nguyên tắc, người xuất gia là người có học hỏi chánh pháp, là người có hành trì đàng hoàng, nếu gặp được người đó là có lợi. Còn nếu gặp, người đó chỉ nói chuyện buôn bán thị phi thì không phải là sa môn, mà là giả sa môn. Trong kinh dạy: vui mừng khi được gặp các thầy các sư cô vì mỗi khi gặp các thầy, các sư cô thì mình thấy trong người khỏe nhẹ, được học hỏi nhiều điều hay bởi các thầy, các sư cô đại diện cho sự tu tập, cho trí tuệ, cho tình thương.
Mỗi giảng triếp thính thọ: Mỗi khi nghe pháp thì hết lòng tiếp nhận để hành trì. Triếp có nghĩa là thường thường, lập tức. Mỗi khi nghe giảng thì liền tiếp nhận và đem ra hành trì. Đó là điềm lành lớn nhất. (Nguồn: Kinh Cát tường/ Phước đức - HT Thích Nhất Hạnh)
+ Ghét (hate): Là có ác cảm (aversion) với bất cứ đối tượng nào của các giác quan. (ASCLH, 136)
+ Bát Chánh Đạo chỉ là một trong rất nhiều Pháp Tu Đạo Bồ Tát/ Thánh Đạo
Người tu Thánh Đạo theo các pháp - Được thành tựu sau:
- Tu “Nhẫn nhục” để có đầy đủ các tướng tốt.
- Tu “Tinh tấn” để phá trừ ma oán, sớm thành Phật.
- Tu “Thiền định” nên có thể sinh khởi pháp lành.
- Tu “Trí tuệ” để dứt bỏ vọng kiến phân biệt.
- Tu “Tâm từ” để chẳng khởi phiền não, làm hại.
- Tu “Tâm bi” để thương yêu các chúng sinh.
- Tu “Tâm hỷ” để diệt trừ tâm ganh ghét đố kị.
- Tu “Tâm xả” để được tĩnh tại, không yêu ghét...
- Tu “Tứ nhiếp pháp” để có thể giáo hóa chúng sinh.
- Tu “Tứ niệm xứ” để thành tựu pháp quán tứ niệm xứ.
- Tu “Tứ chánh cần” để đoạn trừ tất cả pháp bất thiện.
- Tu “Tứ thần túc”, đẻ thân tâm nhẹ nhàng, thư thái.
- Tu “Năm căn”, để có lòng tin vững chắc, siêng năng, không mê mờ, vọng động, luôn tĩnh lặng, thuần hòa dứt các phiền não.
- Tu “Năm lực”, để mọi thù địch đều diệt hết, không bị phá hoại.
- Tu “Bảy giác chi”, để khéo giác ngộ tất cả các pháp.
- Tu “Tám Thánh Đạo”, để có trí tuệ chân chánh, luôn hiện ra.
- Tu “Pháp chỉ”, để có năng lực trừ bỏ tất cả kết sử.
- Tu “Pháp quán”, để nhận biết tự tánh của các pháp đúng thật.
- Tu “Phương tiện”, để có cái vui của hữu vi và cái vui của vô vi.
Này Long Vương, ông nên biết 10 nghiệp thiện ấy hay khiến mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng và tất cả Pháp Phật đều được viên mãn. Vì thế, nên các ông phải nên siêng năng tu học. (Nguồn: Kinh Thập Thiện)
+ BÁT CHÁNH ĐẠO
1. Chánh tín (Chánh kiến/ Phân Biện): Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Nghĩa là sự nhận thức sáng suốt và hợp lý trên căn bản của trí tuệ, không còn vướng bụi của tà kiến, mê lầm vọng chấp.
2. Chánh tư duy: Chánh tư duy là suy nghĩ chân chánh, là suy nghĩ không trái với lẽ phải, có lợi mình và người.
3. Chánh ngữ: Chánh ngữ là lời nói chân thật không hư dối, có lợi ích chính đáng, công bình, ngay thẳng và hợp lý. Lời nói không làm tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người khác.
4. Chánh nghiệp: Hành động có tác ý. Chánh nghiệp nghĩa là hành động tạo tác trong đời sống cần phải sáng suốt chân chánh.
5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Đời sống chân chánh bằng nghề nghiệp lương thiện, chính đáng không bóc lột, xâm hại đến lợi ích chung của người khác.
6. Chánh tinh tấn: Tinh tấn là siêng năng, chuyên cần thẳng tiến đến mục đích và lý tưởng mà Phật đã dạy. Hăng say làm những việc chính đáng mang lợi ích cho mình và cho người.
7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ, nhớ nghĩ. Nhớ nghĩ chân chánh. Có Chánh ức niệm (Quá khứ) và chánh quán niệm (Quán sát cảnh hiện tại và bắt đầu của tương lai)
8. Chánh định: Là tập trung tư tưởng tu tập thiền định, vào vấn đề chính đáng, đúng chân lý, lợi mình và người. (Nguồn: Sự Hiển Lộ của Thánh Đoàn, 463)
* Xem thêm: Giảng giải Bát Chánh Đạo của HT Tuyên Hóa
+ Mười chánh đạo - Mười pháp vô học[13]: 1. Vô học chánh kiến; 2. Vô học chánh tư duy; 3. Vô học chánh ngữ; 4. Vô học chánh nghiệp; 5. Vô học chánh mạng; 6. Vô học chánh cần; 7. Vô học chánh niệm; 8. Vô học chánh định; 9. Vô học chánh giải thoát; 10. Vô học chánh trí [14]. (Nguồn: Kinh Thập nhất thiết xứ / Mười Biên Xứ ...)
Xem thêm: Bát Chánh Đạo - PS Tịnh Không giảng
Xem thêm: Bát Chánh Đạo của Phật Giáo
Xem Đức Phật dậy về Bát Chánh Đạo .... Nguồn: Tại đây
+ Tứ đại - Ngũ hành Thổ - Thủy hay Đất - Nước:
Theo Kinh Lăng Nghiêm, nếu ta bỏ một nắm đất vào chậu nước trong, thì công năng vốn có của đất và nước sẽ bị mất đi.
Vậy công năng vốn có của đất (thổ) là gì? Là "lưu ngại" (lưu giữ, ngăn ngại)! Ðất (thổ) có tánh gây chướng ngại cho nên con người có thể đi lại trên đất. Nếu không có đất, chúng ta sẽ bị rơi vào biển cả, bởi bên dưới đất là nước, nước có thể cuốn trôi đất. Bên dưới nước lại là lửa; cho nên có lúc núi lửa bộc phát là do tác dụng của một sự biến hóa. Nếu nói rằng bên dưới nước là lửa, vậy lửa này không bị nước dập tắt sao? Vì lửa cháy quá dữ dội nên nước không dập tắt nổi! Muốn hiểu thấu đạo lý này thì quý vị phải nghiên cứu Phật Pháp thâm sâu hơn nữa mới được.
Kinh Lăng Nghiêm cũng có chép: "Thổ thất lưu ngại, thủy vong thanh khiết." (Khi nước và đất trộn lẫn, thì đất mất tánh lưu ngại, nước mất tánh thanh khiết.)
Bởi nước bị vẩn đục, mất đi sự thanh khiết, cho nên gọi là "trược." Cõi "Ngũ Trược ác thế" này ví như vũng bùn dơ bẩn - một hỗn hợp của nước và đất. Ðây là một thế giới không thanh tịnh bởi có sự hiện hữu của năm thứ ô trược (Cần phân biệt Ngũ trược Thế giới và Ngũ trược trong con người):
1) Kiếp Trược. "Kiếp" là danh từ chỉ thời gian. Thời gian thì ô trược bởi chúng ta không thể phân định một cách rõ ràng là khi nào, thời điểm nào. Trước kia có người hỏi tôi, thế nào gọi là thời gian? Thật ra, không có cái gọi là "thời gian," không thể nào định rõ được thời gian. Ðó là Kiếp Trược.
2) Kiến Trược; Phiền Não Trược; Chúng Sanh Trược; Mạng Trược (Vận mạng của chúng ta cũng là hỗn trược, bất tịnh). (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P1- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Vũ trụ vật lý ([8] 水輪; Skt. jala-maṇḍala): Theo A-tì-đạt-ma, được mô tả là ba tầng đài (maṇḍala): mặt đất bao gồm núi sông, các lục địa, được đặt trên đài bằng vàng, gọi là kim luân (kañcana-maṇḍala). Nằm phía dưới nâng đỡ kim luân là đài nước hay thủy luân (jala-maṇḍala). Nâng đỡ phía dưới thủy luân là phong luân hay đài gió (vāyu-maṇḍala). Phong luân y chỉ hư không mà tồn tại. (Nguồn: Kinh Thập nhất thiết xứ / Kinh Mười Biến Xứ ...)
III- Các Đại - Đức Phật dậy: Trong không gian vũ trụ này thì chỗ nào cũng có 7 Đại là địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại (nhận thức tư duy, phân biệt). Các Đại ở Thái Cực/ Nhất Nguyên/ Như Lai Tạng thì Tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau, vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến). Khi biến hiện thì trong 7 đại, có 3 đại là tịnh, vô sắc tướng gồm Không đại - Kiến đại - Thức đại. Tứ đại là động. Do thường lay động không ngừng nên biến hóa thành sắc tướng vạn vật dị biệt sinh diệt không ngừng.
* Năm Đại: Nếu hư không đó, tánh tròn đầy trùm khắp, vốn không lay động, thì nên biết hiện tiền hư không và bốn thứ đất, nước, lửa, gió đều gọi là năm đại, tánh thật viên dung, vốn là tánh Như Lai tạng, không sinh không diệt. (Hư không: Tại sao nó tròn đầy, bao trùm khắp, không chướng ngại? Vì nó lưu xuất từ Như Lai tạng, và vốn không sinh không diệt." Thế nên hư không chẳng sinh ra, chẳng tan biến đi.)
* Sáu Đại - Tứ đại lay động: Nếu như các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tính viên mãn cùng khắp, vốn không lay động; thì nên biết kiến đại cùng với hư không vô biên chẳng dao động và bốn thứ vốn lay động là địa, thủy, hỏa, phong, gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng, vốn không sinh không diệt.
Giảng: ".... đất, nước, lửa, gió, không và kiến – gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng." Đó đều là biểu hiện của tánh Như Lai tạng. "Vốn không sinh không diệt." [...Tỷ dụ như xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại. Lục đại là lý thuyết chủ yếu của Mật tông (Kinh Thập Nhất Thiết Xứ).]
* Bảy Đại: Nếu thức ấy chẳng do đâu sinh ra, thì nên biết tác dụng của kiến văn giác tri vốn vắng lặng cùng khắp, tánh chẳng do đâu mà có. Hai đại ấy (thức đại và kiến đại) cùng với Không/ Hư không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là bảy đại, tánh thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q. 2; 3- HT Tuyên Hóa)
+ V- GIẢNG VỀ CÁC ĐẠI TRONG KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - HT TUYÊN HÓA
... HT Tuyên Hóa giảng: Bấy giờ Thế tôn bảo A-nan rằng: "Trước đây ông nhàm chán các pháp Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác. Ông đã quyết định từ bỏ hẳn pháp môn của hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, giáo pháp của thời A-hàm, phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Nay ông phát tâm siêng năng cầu đạo giác ngộ Vô thượng, đạo giác ngộ của hàng Bồ-tát. Do vậy, nên nay là lúc Như Lai sẽ chỉ bày cho ông Đệ nhất nghĩa đế. Như Lai sẽ giảng giải pháp môn Thật tướng cho ông. Đệ nhất nghĩa đế chính là Thật tướng. Có ba loại Thật tướng:
1. Thật tướng vô tướng (vô tướng chi thật tướng): Không còn các tướng hư vọng, tất cả đều là Nhất chân bình đẳng thật tướng. Tức là Không Như Lai tạng.
2. Thật tướng của cái chẳng phải vô tướng (vô bất tướng chi thật tướng): Hoàn toàn đều chẳng phải là vô tướng, chỉ tuỳ duyên mà biến hiện ra tất cả tướng.
3. Thật tướng của chẳng tướng nào không phải là tướng (vô tướng vô bất tướng chi thật tướng): Tức là Không bất không Như Lai tạng. Cũng gọi là diệu hữu chân không, chân không diệu hữu.
Dù kể là ba, nhưng chỉ là một, đó là Thật tướng. Thật tướng là không có tướng, nhưng chẳng có gì là không có tướng cả. Đó là lý chân không diệu hữu, diệu hữu chân không. Nếu cứu xét đến tột cùng, thì vốn chẳng có tướng gì cả. Nhưng trong cái chẳng có tướng gì ấy lại có tất cả. Thế nên chẳng có tướng gì chính là chân không, và có tất cả là diệu hữu.
Đạo lý đang được giảng giải sẽ đưa đến sự giải thích về Bảy đại – đất, nước, lửa, gió, không, kiến và thức – trùm khắp cả pháp giới. Năm uẩn, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đã đề cập trước đây được giải thích là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng, nhưng chúng chưa được nói là trùm khắp cả pháp giới. (Nguồn: Kinh Thủ LN- Q3, 4- HT Tuyên Hóa)
+ Không đại - Thần giới không: Không hình không tượng tức là không - Nhìn cũng chẳng thấy nghe cũng không....
Giảng giải : Noa Gia dịch là "Không", không tức là Thần giới không. Thật ra không tức là không, còn phải tìm một vị thần cai quản, thật là không có việc tìm việc làm, giống như chính phủ đặt ra một chức bộ trưởng cải thiện không khí. Thần không như thế nào ? Không có hình dạng gì hết cho nên: ‘’Không hình không tượng tức là không.’’ Thuấn nhã đa tức là không.
‘’Nhìn cũng chẳng thấy, nghe cũng không.’’ Không thì bạn nhìn cũng chẳng thấy, nếu nhìn thấy thì chẳng gọi là không, cũng không thể ngửi mùi vị thần không. (Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Không đại - Không khí: Kinh Thập Nhất Thiết Xứ dạy: ... dạy cho họ biết xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại....
Xem thêm: Phần 1: Phân biệt các Giới: Đại chủng bốn giới - Tứ đại: Đất nước Gió Lửa
Xem thêm: Các Đại Dựa Vào Nhau Để Tồn Tại
Xem thêm: Tổng hợp Tooltip các đại và các Hành
Xem thêm: Các Đại và các hành tương tác
Xem thêm: Các Đại và các Hành trong Đại Thiên Địa
+ Đại chủng vị tứ giới:
Tên gọi: Địa, thủy, hỏa, phong
Năng thành trì đẳng nghiệp (Dụng),
Kiên, thấp, noãn, động tính (Thể) .
* Dịch nghĩa: Đại chủng là bốn giới: đất, nước, lửa, gió; có khả năng thành tựu các nghiệp trì, nhiếp, thục, trưởng. Tính chất của chúng là cứng, ẩm, nóng, động
Đại có ba nghĩa Thể - Tướng - Dụng:
1. Thể đại: Bốn đại này phổ biến khắp các sắc, không vật nào không do chúng tạo thành, nên thể của chúng rất bao quát.
2. Tướng đại: Đất rộng, núi cao là tướng địa đại tăng thạnh; sông ngòi, biển cả là tướng thủy đại tăng thạnh; gió to, bảo lốc là tướng phong đại tăng thạnh; lò lửa phừng phừng là tướng hỏa đại tăng thạnh. Bốn đại tăng thạnh như vậy là hành tướng của bốn đại.
3. Dụng đại: Địa đại có khả năng nâng đỡ, duy trì mọi vật; thủy đại có khả năng thấm dính, làm nổi thuyền bè; hỏa đại có khả năng nấu chín, đốt cháy cây cỏ; phong đại có khả năng tăng trưởng hoặc quật ngã cây cối. Đó là tác dụng đại.
Sở dĩ trên mà nói tướng của địa đại là vì đất tăng thạnh, tướng thủy đại vì nước tăng thạnh. Vì 4 đại đó châu biến cùng nhau, chứ nó không nằm tách riêng ra, chan hòa cùng nhau, nếu như sự cứng rắn mà nhiều hơn 3 thứ kia thì nó trở thành địa đại, cái tướng của địa đại. Nếu sự thấm ướt nó nhiều hơn gọi là thủy đại,... phong đại, .. thành hỏa đại.
* Như hư không phổ biến khắp nơi, tuy có thể là đại, nhưng không gọi là chủng.
* Giới: Trì giữ. Bốn đại chủng có khả năng giữ gìn tự thể và các sở tạo sắc của chúng, gọi là bốn giới
Chẳng hạn như nhà triết học Anaximander - Sinh khí nó nuôi dưỡng con người, nuôi dưỡng nhân loại, nuôi dưỡng vũ trụ. Nếu không có sinh khí thì vũ trụ không thành, và con người không thành, cho nên lấy khí làm căn nguyên của vũ trụ, làm bản chất nguyên sơ của vũ trụ. [Kinh Thập Nhất Thiết Xứ dạy: ... dạy cho họ biết xương và thịt đó là địa đại, nước mắt và máu đó là thủy đại, khí nóng đó là hỏa đại, sự hô hấp đó là phong đại, cái không khí ở trong mũi đó là không đại và cái sự biết khổ biết vui đó là thức đại. Lục đại đó nó biến thành lý thuyết chủ yếu của Mật tông; Sáu Đại - Chỉ có 4 đại lay động: Nếu như các sự thấy, nghe, hay, biết, bản tính viên mãn cùng khắp, vốn không lay động; thì nên biết kiến đại cùng với hư không vô biên chẳng dao động và 4 thứ vốn lay động là địa, thủy, hỏa, phong, gọi là sáu đại, vốn thật viên dung, đều là tánh Như Lai tạng, vốn không sinh không diệt. (Nguồn: Kinh Thủ LN-Q. 2; 3- HT Tuyên Hóa)]
..... Tính chất của cực vi thế nào?
Mỗi cực vi đều có đủ bốn tính chất là cứng, ướt, nóng, động (cố thể, dịch thể, nhiệt lực, động lực hay khí thể).
- Tính cứng rắn có tác dụng bảo trì mọi vật. [Địa đại/ Kim luân: Cố thể/ Cố kết thể]
- Tính thấp ướt có tác dụng gom dính mọi vật. [Thủy đại: Dịch thể / Thể lỏng]
- Tính ấm nóng có tác dụng thành thục mọi vật. [Hỏa đại: Nhiệt lực / Từ lực/ Lực từ]
- Tính chuyển động có tác dụng làm tăng trưởng mọi vật. [Phong đại: Động lực/ Khí thể/ Thể Khí]
Hình thức biểu hiện của bốn tính ấy gọi là bốn đại: đất, nước, lửa, gió. Cực vi có sẵn bốn tính chất và bốn tác dụng như thế nên có thể cấu thành vũ trụ vạn hữu, tùy theo sự phối hợp không đồng đều về phần lượng giữa bốn tính chất cực vi mà cấu thành mọi vật sai khác.
Nếu tính cứng nhiều hơn ba tính kia thì sẽ thành những vật cứng rắn như vàng, đá… Như vậy, vũ trụ vạn vật, núi sông thế giới đều do cực vi tạo thành.......
..... Như vậy, từ giữa trống không, do nghiệp lực của chúng sinh làm duyên tăng thượng nổi lên phong luân, rồi thủy luân, rồi kim [Địa] luân. Đó là sự cấu thành tuần tự của địa cầu này vậy. ....
Thời định - Báo định. VD: Cuối năm này thi mãn khóa phải không? Vậy thời có định không? Định rõ ràng. Vậy thi mãn khoá ai sẽ đậu? Có người đậu chắc chắn. Vậy là báo định thời định. Nếu như cuối năm này thi chắc chắn ra trường nhưng có anh chưa biết có đậu hay không đậu. Vậy là thời định nhưng báo bất định. Rõ ràng như vậy đó....
Thời định - Báo bất định. Tuy đã tạo nghiệp, thời gian trả nghiệp đã đến nhưng Quả báo chưa biết kết quả ra sao => Báo bất định... (Nguồn: Câu xá luận - Ngài Thế Thân)
+ Các Thần tứ đại: Tam muội hải ấn mây quang minh - Sâm la vạn tượng hiện ở trong - Như mộng như huyễn như bọt nước - Hãy quán như sương cũng như điện.
Giảng giải: Chỗ này nói về những vị, Thần gió, Thần nước, Thần không, Thần lửa, Thần đất, đừng cho rằng những vị Thần nầy địa vị nhỏ, phải biết những vị Thần nầy, đều do Phật thị hiện, như :
Thần đất là Phật Tỳ Lô Giá Na (Trung ương) thị hiện,
Thần gió là Phật Thành Tựu ở phương Bắc thị hiện,
Thần lửa là Phật A Di Ðà ở phương Tây thị hiện,
Thần nước là Phật A Súc ở phương Ðông thị hiện,
Thần không là Phật Bảo Sinh ở phương Nam thị hiện.
Vì những vị thần nầy đều là do các đức Phật thị hiện, do đó chúng ta không thể có tâm khinh mạn đối với những vị thần nầy. Vì vậy phải quy mạng kính lễ, đừng cho rằng mình là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, không nên lễ bái các bậc ấy, đó là kiêu mạn tự mãn.
Bây giờ nói về Thần hải ấn, hải ấn phát quang là cảnh giới một giai đoạn của Thiền tông, khi bạn chứng được hải ấn phát quang tam muội, thì hết thảy hết thảy đều là hình ảnh hải ấn đến trong định của bạn, cho nên nói : ‘’Tam muội hải ấn mây quang minh.’’ Nhập được hải ấn tam muội nầy thì ‘’Sum la vạn tượng hiện ở trong.’’ Tất cả sum la vạn tượng trên thế giới, đều hiển hiện ra tựa như sấm sét, lại tựa như vệ tinh thăm dò không gian, những sự việc khắp nơi toàn thế giới đều hiện ra, cảnh giới này cũng có thể nói như nằm mộng, cũng có thể nói giống như hư huyễn, vì trong đó là pháp hữu vi. Trong Kinh Kim Cang có nói: ‘’Như mộng như huyễn như bọt nước - Hãy quán như sương cũng như điện.’’ Giống như sương vào buổi sáng, cũng như điện quang, như lửa đá, đều không lâu bền, nên nghiên cứu như thế, cho hết lẽ hết tính.......
131. Nan giá na xá ni.
Thuỷ thần danh tự diệu vô cùng
Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công
Năng trừ sinh lão bệnh tử nạn
Nhất thiết tai ương hoá vi trần.
Tạm dịch : Tên của Thủy Thần diệu vô cùng. Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công. Hay trừ nạn sinh già bệnh chết. Tất cả tai ương hóa thành bụi.
132. Bí sa xá.
Hư không diệu dược trị ôn ma
Phong hàn thử thấp táo hoả a
Thời khí lưu hành chuyên nhiễm bệnh
Trì Chú tiêu trừ Ta Bà Ha.
Tạm dịch : Hư không thuốc hay trị ôn ma. Bệnh phong hàn nắng ướt khô lửa. Thời khí lưu hành truyền nhiễm bệnh. Trì Chú tiêu trừ Ta Bà Ha.
133. Tất đát ra.
Kiên trì Địa Thần hộ Ta Bà
Sơn băng thổ liệt tai nạn đa
Tăng tổn bệnh hoạn giai hoạch dũ
Tâm Chú gia bị trừ bách a.
Tạm dịch : Kiên trì Ðịa Thần hộ Ta Bà. Núi lở đất nứt nhiều tai nạn. Bệnh hoạn tăng tổn đều lành hẳn. Tâm Chú gia bị trừ bách bệnh.
134. A kiết ni.
Hoả thần phát nguyện diệt hoả độc
Nhất thiết nhiệt bệnh tận quyên trừ
Phiền não sân hận vô tông ảnh
Thanh lương cam liệt khánh hữu dư.
Tạm dịch : Thần Lửa phát nguyện diệt lửa độc. Tất cả bệnh nhiệt trừ khử sạch. Phiền não sân hận không dấu vết. Cam lồ mát mẻ cứu sống lại.
135. Ô đà ca la nhã xà.
Giải trừ thuỷ độc phong thấp chứng
Ung hoán hư nuy thận tràng anh
Bàn thũng bì phu giới lại tiển
Nhất thiết thống khổ hoá cát trưng.
Tạm dịch : Giải trừ nước độc chứng phong thấp. Tê liệt bại xụi thận ruột bứu. Phù thủng ghẻ lở và cùi hủi. Tất cả thống khổ hóa cát tường.
Giảng giải: ‘’Giải trừ nước độc chứng phong thấp.’’ Nước độc, phong thấp, gió độc, đều có thể giải trừ được.
‘’Tê liệt bại xụi thận ruột bứu.’’ Tê liệt tức là bán thân bất toại, trúng gió không nói được .v.v... Bại xụi là người rất suy nhược, yếu đuối. Thận ruột bứu là tạng thận sinh bứu, hoặc là ruột sinh bứu.
‘’Phù thủng ghẻ lở và cùi hủi.’’ Bị phù thủng, bị bệnh ghẻ và bệnh cùi hủi.
‘’Hết thảy thống khổ hóa cát tường.’’ Tất cả thống khổ đều chẳng còn nữa, đều hóa thành cát tường.
Cho nên thành tâm niệm Chú Lăng Nghiêm, thì bệnh gì cũng đều khỏi, so với Chú Ðại Bi trị bệnh diệu hơn nhiều.
Trong Chú Lăng Nghiêm có các câu Thần chú của Hư Không - Thủy thần - Thổ thần - Hỏa thần - Phong thần (Trang 300) đều dùng để đặc trị các bệnh của con người cũng như bệnh của Trời Đất .... (Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
Xem thêm: Các vị thần - Bộ thần linh hộ pháp
+ Cần nhớ: Không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, Lửa quyết định sự tồn tại của mọi sự sống,.... sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Ánh sáng Nhật Nguyệt - Mặt trăng và Mặt trời - Cái đèn chiếu sáng ngày đêm
Ma-ha Ca-diếp giải thích: Con từ kiếp trước, trong cõi nầy, có Đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng. Con được thân cận, nghe pháp tu học với ngài. Vào thời quá khứ lâu xa, có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng thị hiện trên đời. Mặt trời chiếu sáng vạn vật ban ngày. Mặt trăng chiếu sáng vạn vật ban đêm. Đèn có thể chiêú sáng cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày biểu tượng cho hiện hữu (cái có), và ban đêm biểu tượng cho cái không. Đó là cả hai mặt hiện tượng và bản thể, bản thể và hiện tượng. Đó cũng chẳng phải là hiện tượng và bản thể, và chẳng phải là hiện tượng, chẳng phải là bản thể. Nghĩa là chẳng vướng mắc vào có hoặc không.
Khi Phật diệt độ, chúng con thắp đèn sáng mãi để cúng dường xá-lợi. Công đức cúng dường xá-lợi Phật tương đương với việc cúng dường chính Đức Phật. Chúng con thắp đèn sáng mãi–để Phật pháp được trường tồn và lan rộng–để cúng dường xá-lợi, lại lấy vàng thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay, đời nầy qua đời khác, thân chúng con đều viên mãn sáng ngời như sắc vàng thắm.
Thân tướng của ngài Ma-ha Ca-diếp rất là hoàn hảo. và tôi chắc rằng người vợ của ông cũng rất đoan nghiêm.
Tỷ-khưu ni Tử kim quang đây là quyến thuộc, cùng phát tâm một lần như chúng con. Điều quan trọng là họ cùng tu tập với nhau. Mối quan hệ của họ không dựa trên tình cảm luyến ái. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thuật ngữ Trí huệ: Theo Phật giáo, Trí tuệ xem như Mặt Trời, Trí huệ xem như Mặt trăng chiếu sáng Tâm tối tăm (Tooltip Trí Huệ)
+ Hỏa đại:
Dương Âm
Hỏa và Khí Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương Năng lượng âm
+ Hỏa: Tự tập trung và phi cá nhân; Thiếu kiên nhẫn, khuynh hướng lao vội vã vào mọi thứ; Bướng bỉnh, không nhạy cảm với người khác; Khởi xướng, bắt đầu mọi thứ; Kích động, nhiệt tình, có thể là thiếu tự chủ. - Dấu hiệu hành hỏa: Bạch Dương, Sư Tử, và Nhân Mã ; Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo (Hành - Tứ Đại)
- Năng lượng. Tích cực. Nhiệt huyết. Đam mê. Cần phải thể hiện bản thân. Bốc đồng. Chủ động. Thoải mái Có khuynh hướng hướng ngoại. (Nguồn: Chiêm THNM 4)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm.
- Hành Hỏa: Khi sự sống của phàm-ngã được đưa lên Cõi Trời (Heaven), và sự sống của linh hồn đi xuống đến cõi trần, thì có chỗ gặp nhau, và nơi đó hoạt động huyền thuật siêu việt mới có thể xảy ra.
Nơi gặp gỡ này là vị trí của lửa, tức là cõi trí. Lửa là biểu tượng của trí tuệ, và mọi hoạt động huyền thuật là một diễn trình sáng suốt, được thực hiện trong sức mạnh của linh hồn, và bằng cách sử dụng thể trí. Để làm cho chính nó được cảm thấy trên cõi trần, cần có một bộ não, nó vốn dễ tiếp nhận các xung lực cao siêu và có thể được linh hồn tạo ấn tượng bằng cách sử dụng các “chitta” hay chất trí để tạo ra các hình tư tưởng cần thiết, và nhờ đó thể hiện ý tưởng và mục đích của linh hồn bác ái sáng suốt. Những điều này được nhận biết bởi bộ não và được chụp ảnh lên “các chất khí sinh động” (“vital airs”) ở trong khoang não (LVHLT, 251)
+ Hành Hỏa thuần túy (nguyên khí dương chủ động) được xem như là ánh sáng và nhiệt, cùng với Thổ và Thủy, tức Vật Chất (yếu tố âm hay thụ động của sự sinh hóa vũ trụ). (1) Tất cả những điều này đều là tài liệu bàn về Đấng Lưỡng Tính thiêng liêng bản sơ. (GLBN, Từ tr 66 - 250)
+ Cần nhớ: Không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, Lửa quyết định sự tồn tại của mọi sự sống,.... sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
+ Chân Sư DK luận về Hỏa Thủy: Trong những tháng mùa hè - Khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu—thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “agnichaitans” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y.
Đùa với Lửa: Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.”. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả - Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [trang 103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã.........
Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ/ Con người.
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời.
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp.
3. Lửa của cõi trí. [184]
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa.
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người.........
Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền ...... Như vậy, các bạn thấy rằng trong các hệ thống lớn, nhỏ đều có lửa.
Ở đây, tôi chỉ tóm tắt cho các bạn về mục đích của lửa trong tiểu vũ trụ và những gì phải nhắm đến. Chúng ta có ba loại lửa:
1. Tia lửa thiêng sinh động.
2. Tia lửa trí tuệ.
3. Luồng hỏa hậu (kundalini), sự hòa lẫn nhị nguyên của sức nóng nội tại và dòng sinh lực prana. Nơi ẩn trú [186] của mãnh lực này là luân xa chót xương sống, và luân xa lá lách hằng bồi dưỡng sức nóng đó.
Khi cả ba loại lửa này – một của tứ hạ thể, một của tam nguyên và một của nguyên khí thứ năm – gặp nhau và hòa lẫn với nhau một cách thích hợp về mặt hình học, thì mỗi luân xa sẽ được sinh động đúng mức, mọi quyền năng sẽ tự biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết và cặn bã sẽ bị đốt sạch, và hành giả đạt đến mục tiêu. Tia lửa đã trở thành ngọn lửa, và ngọn lửa là thành phần của khối lửa Đại ngã đang làm sống động trọn cả vũ trụ khách quan.mời xem chi tiết. (Nguồn: Tham thiền huyền môn)
+ Hỏa thần - Thần lửa: Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu .... Giảng giải : Ta Hê Dạ Gia là "Thần lửa". Thứ thần lửa này rất nóng vô cùng. Vì nóng quá cho nên nói : ‘’Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu.’’ Rất lợi hại, nóng khiến người không chịu nổi. Nóng quá sẽ khiến người chết. Nạn lửa xuất hiện thì trên không trung có bảy mặt trời đồng thời cũng xuất hiện, thiêu hủy hết thảy sơn hà đại địa, biển cả cũng khô cạn, chẳng có vật gì còn sống sót lại. Lửa có thể thiêu đến cõi trời Sơ Thiền. Nhị Thiền và Tam Thiền cũng có tai nạn.(Nguồn: Google - Drive Giảng Chú Lăng Nghiêm)
+ Hỏa Đại - Tánh của Lửa: Trích đoạn Phật dậy đoạn về Tứ Đại trong Như Lai Tạng/ Chân Tâm: ... A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh. Ông hãy xem các nhà trong thành khi chưa đến bữa ăn, muốn nhóm bếp thì tay cầm tấm kính đưa trước ánh sáng mặt trời để lấy lửa.
- Giảng: "A-nan, tánh của hoả đại không có tự thể, nhờ các trợ duyên mà phát sinh." Lửa tự nó vốn không có tánh chất riêng biệt. Phải có các yếu tố nhân duyên nó mới phát sinh được. 'Tự thể' ở đây không đề cập đến người mà chỉ cho thể tánh của lửa. Đoạn kinh nầy không nên hiểu rằng: 'Tôi không có lửa.' Có nghĩa là 'Tôi không có tánh nóng giận.' Nếu tự tánh quý vị không có chút lửa nào cả, thì quý vị sẽ là một vị Bồ-tát rất ngoan.
Thể tánh của lửa ở đâu? Tánh lửa ở khắp mọi nơi. Dù nó không có tự thể riêng, nhưng chẳng có nơi nào mà không có lửa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Lửa (Fire): Lửa là một biến phân của vũ trụ năng trên cõi trí. (LVLCK, 43)
+ A- Lửa Đại Thiên Địa: Có 3 phần, khi biểu lộ ra 5 phần - Năm lửa gồm: 4 nhị nguyên (Cho tứ hạ thể): Tiềm nhiệt, Hoạt nhiệt [Cung III - Lửa ma sát biến phân] và Lửa Trí tuệ (Nền tảng Tâm thức), Hành khí/ Biểu lộ Tư tưởng [Cung II - Lửa Thái dương biến phân] + Nguyên khí thứ 5 Thượng Đế - Cung I thiêng liêng - Ý Chí vũ trụ/ Thể trí vũ trụ (LVLCK, 38 - 45)
+ Lửa ba cung - Đại thiên địa:
1- Cung 3 - Lửa do ma sát (cọ xát)/ lửa sinh động nội tại (Lửa Nội Tại): Làm linh hoạt và sức sống, là hoả xà của Thượng Đế của Thái Dương hệ. Lửa Ngôi 3: Cung Nguyên Thủy hay Vật chất linh động sáng suốt. Lửa này làm sinh động Thái dương hệ. Năng lượng Brahma. Ngôi 3 - Cung Hoạt Động Sáng Suốt đang biểu lộ. Lửa này làm linh hoạt, sinh động, thấm nhập từ trung tâm đến ngoại vi, là nguyên nhân của chuyển động quay, dạng hình cầu của mọi vật hiện tồn. Lửa Nội Tại có 2 loại:
a- Tiềm nhiệt, nền tảng chuyển động quay;
b- Hoạt nhiệt, Vật chất tiến hóa. Cõi cao nhất là biển lửa => Biến phân thành Tiên Thiên Khí - Akasha biểu hiện thành Fohat. Fohat trên các cõi khác nhau là Hậu Thiên Khí như Không khí, lửa, nước, điện, dĩ thái, sinh khí ....
2. Cung 2- Lửa thái dương hay lửa của Cõi Trí Vũ trụ, làm sinh động Thể trí Thượng Đế, là toàn bộ các tia lửa của trí tuệ, các lửa của hạ trí và nguyên khí sinh động của các đơn vị tiến hoá của nhân loại trong 3 cõi thấp. Lửa Cung Thiêng Liêng hay Cung Bác Ái Sáng Suốt, là năng lượng trạng thái Vishnu, Ngô 2 Thượng Đế; Cung Bác ái thông tuệ đang biểu lộ, là căn bản chuyển động soắn ốc theo chu kỳ của cơ thể Thượng Đế. Định luật hút và đẩy của vũ trụ là căn bản của Cung thiêng liêng này. Có 2 loại:
a- Lửa Trí tuệ, là toàn thể sự sống, nó cung ứng sự liên quan giữa sự sống với hình hài, Tinh thần - Vật chất. Là nền tảng của Tâm thức;
b- Hành Khí của lửa: Biểu lộ của Tư tưởng.
3. Cung 1- Lửa điện hay ngọn Lửa Thiêng Thượng Đế: Dấu hiệu phân biệt của Thượng Đế chúng ta, làm cho Ngài khác với tất cả các Thượng Đế khác, là đặc điểm nổi bật của Ngài, và là dấu hiệu của vị trí của Ngài trong cơ tiến hoá vũ trụ. Cung Ý Chí Vũ Trụ hay Ý Chí Sáng Suốt - Ngôi 1 Thượng Đế, tạo thành trạng thái Mahadeva. Cung Ý Chí Thông Tuệ đang biểu lộ, ít nói đến. Cung Trí tuệ vũ trụ, đi song song với cung Bác ái vũ trụ. Bị chi phối bởi định luật tổng hợp và làm căn bản của chuyển động tiến tới qua không gian hay lũy tiến của Thái Dương hệ. Nó kiểm soát các chuyển động của Vòng giới hạn với trung tâm vũ trụ.
+ Khắp các cõi, nó là hình ảnh hoàn hảo nhất và không pha trộn của Ngọn Lửa Duy Nhất. Đó là Sự sống và Sự chết, cái thủy và cái chung của mọi sự vật chất. Là “Bản thể” thiêng liêng (GLBN I, 180)
B- Lửa Tiểu Thiên Địa/ Con người - có 3 loại:
1. Lửa do ma sát hay trạng thái Brahma âm, Ngôi 3.
2. Lửa Thái Dương hay trạng thái Vishnu âm dương, Ngôi 2.
3. Lửa điện hay trạng thái Shiva dương, Ngôi 1. (LVLCK, 888)
+ Lửa là biểu tượng của thể trí (ACMVĐTG, 179)
+ Cần nhớ: Không được quên rằng ở một giai tầng thấp hơn của thang tiến hóa, Lửa quyết định sự tồn tại của mọi sự sống,.... sự ấm áp vốn nắm giữ việc hình thành mọi sự sống trên trái đất, và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho tất cả các vật sống. (LVHLT, 389)
Xem: Các Bảng TH về lửa càn khôn
Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Thi ân sáu phương: Phật dậy, Ngươi phải thi ân bố thí mới có thể tránh được nạn nghèo. Ngươi không hiểu ý nghĩa của sự vái lạy 6 hướng, để ta giải cho ngươi nghe, nghảnh mặt về hướng nào thì nhớ đối tượng thi ân:
- Hướng Đông: Cha mẹ
- Hướng Tây: Vợ con
- Hướng Bắc: Bằng hữu, thân thuộc.
- Hướng Nam: Tình Sư - đệ.
- Hướng trên/ Nhìn Trời: Các nhà Sư đã dạy dỗ ngươi về Đạo-đức.
- Hướng dưới/ Cúi mặt xuống đất: Nhớ tới bạn bè, tôi tớ, đã giúp ngươi trong công việc làm ăn. (Nguồn: Kinh Thiện Sinh)
+ Bốn phương trời: Nhị thập bát tú
- Phương Đông chùm sao Thanh Long có 7 sao: Giác, Đê, Cang, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.
- Phương Bắc chùm sao Huyền Vũ có 7 sao: Đẩu, Nữ, Ngưu, Hư, Nguy, Thất, Bích.
- Phương Tây chùm sao Bạch Hổ có 7 sao: Khuê, Vị, Lâu, Mão, Tất, Chủy, Sâm.
- Phương Nam chùm sao Chu Tước có 7 sao: Tỉnh, Qủy, Liễu, Tinh, Dực, Trương, Chẩn.
* Bốn hay sáu phương cũng có sự tương ứng là Tứ tượng trong phong thủy. Lục thú trong Dịch học - 12 Cung Hoàng đạo/ Chòm sao Hoàng đạo .....: Xem Nhị Thập Bát Tú
* Xem thêm: 12 cung Hoàng đạo theo Chiêm tinh phương Tây: Xem 12 cung Hoàng đạo
+ Vũ trụ/ Sáu phương: Đó là nói theo nghĩa hẹp. Nói theo nghĩa rộng thì thế nào? Trên, dưới là "vũ"; đông, tây, nam bắc là "trụ" – "vũ" chỉ hai phương trên và dưới, "trụ" là chỉ cho bốn phương đông, tây, nam, bắc – sáu phương hợp lại gọi là “vũ trụ.”(Nguồn: Vũ Trụ Bạch - HT Tuyên Hóa)
+ Tương ứng sáu phương: Thiện Sinh thưa: Cúi xin đức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp của Hiền Thánh.
Ngươi nên biết ý nghĩa sáu phương. Sáu phương là gì?
1) Phương Đông là cha mẹ, [Phương Sinh]
2) Phương Nam là sư trưởng, [Phương Già]
3) Phương Tây là thê thiếp, [Phương Bệnh]
4) Phương Bắc là bạn bè thân thích, [Phương Chết]
5) Phương trên là các bậc trưởng thượng,
6) Phương dưới là tôi tớ. (Trường A Hàm, Kinh Thiện Sinh, số 16)
*[Bốn phương Sinh - Già - Bệnh - Chết lấy theo truyện đức Phật đi ra 4 phía cổng thành gặp tương ứng, và Ngài ngộ đạo Sinh tử luân hồi khổ]
+ Vũ trụ: 100 tỷ thiên hà, mỗi thiên hà có ít nhất 100 tỷ mặt trời (Giai điệu bí ẩn_Trịnh Xuân Thuận, LVLCK, 16)
+ Đại Vũ trụ: Thái Dương Thượng Đế tức là Đại Vũ trụ. (LVLCK, 69)
+ Tiểu vũ trụ - Tiểu thiên địa: Con người, Tiểu thiên địa, Chân Thần biểu lộ, Đấng Duy Nhất. (LVLCK, 80)
- Tiểu vũ trụ tức là con người biểu lộ thông qua thể xác.(TVTTHL, 356)
- Tiểu vũ trụ tức là Chân Thần (Monad). (LVLCK, 69)
+ Trong vũ trụ - Trong trời đất có bốn cái vĩ đại là Đạo, tự nhiên, trời đất và con người. Luật con người nên bắt chước tự nhiên, luật tự nhiên bắt chước luật của trời đất, luật trời đất bắt chước Đạo. (Nguồn: Thanh Tịnh Kinh - Đạo Đức Kinh)
Xem: Hình thành Vũ trụ theo Thượng Đế Tam Phân; Bảy Cung/ Rays; Trung Tâm Lực Vũ trụ; Lửa Vũ trụ
Xem: LUẬT VŨ TRỤ VÀ ĐỊNH ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU
+ Phật ngũ phương: Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ: Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương :
1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ.
2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ.
3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ.
4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ.
5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Phật Thành Tựu là chủ. (Bộ sổ ghi nghiệp của chúng sanh được giữ bởi những vị “Cai Quản Nhân Quả” hay Minh Quan trong địa ngục_Từ điển thuvienhoasen.org)
+ Phật phương giữa: ‘’Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm’’ Chính giữa là Phật bộ, thuộc về thổ (đất). Ðất sanh ra vạn vật, đất thịnh vượng cả bốn mùa, một năm bốn mùa đất đều thịnh vượng, Xuân hạ thu đông. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Một năm chỉ có bốn mùa, nhưng lại có 5 ngũ hành, thì sắp xếp như thế nào ? Vì thổ là ở chính giữa, kim mộc thủy hỏa là bốn bên, cho nên xuân hạ thu đông là bốn mùa. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Quý vị xem, mùa đông nơi đây thì ẩm ướt, không chỉ là một chút xíu, người Quảng Đông gọi là “Hồi Nam” có nghĩa là mùa ẩm ướt.
Nếu Thổ không có trong bốn mùa thì như thế nào ? Thổ thịnh vượng trong cả bốn mùa, mùa xuân ba tháng, trong ba tháng có chín mươi ngày, có thổ thì có thể sanh sôi nảy nở. Mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đều có thổ. Cho nên ở chính giữa là Mậu Kỷ thuộc thổ, phương đông là Giáp Ất thuộc mộc, phương nam là Bính Ðinh thuộc hỏa, phương tây là Canh Tân thuộc kim, phương bắc là Nhâm Quý thuộc thủy. Ðây là ngũ hành tương sanh tương khắc...... (Nguồn: Tỳ Lô Giá Na Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật Bộ/ Bộ Phật: ....Câu La Gia này phần trước đã giảng qua mấy lần tức là "quyến thuộc", quyến thuộc của Kim Cang Bộ tức là tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát của Kim Cang Bộ, đến ủng hộ người trì Chú. Cho nên nói "Chủ Kim Cang Bộ là Phật A Súc" Phần trước giảng Phật Bộ là Phật Tỳ Lô Giá Na là Bộ Chủ. Liên Hoa Bộ thi Phật A Di Ðà là Bộ Chủ. Bây giờ giảng về phương đông. Phương đông là Kim Cang Bộ, Phật A Súc tức là bộ chủ Kim Cang Bộ. Có hai mươi Đại tướng Dược Xoa. “Ðại tướng Dược Xoa khắp tuần tra”. Phật Dược Sư có hai mươi Đại tướng Dược Xoa chuyên đi khắp nơi xem xét, xem có thiên ma ngoại đạo nào không giữ quy củ, cũng giống như cảnh sát đi tìm bắt, đi chế phục, đi tuần tra. Cảnh sát của chúng ta là Kim Cang hữu hình, còn Đại tướng Dược Xoa là vô hình, nhìn không thấy, nhưng chắc chắn là có, quý vị không nên hoài nghi. (Nguồn: Phật Dược Sư - HT Tuyên Hóa)
+ Ngũ phương Phật: Ngũ Phương Phật cũng được gọi là Ngũ Trí Phật hay Ngũ Trí Như Lai. Nếu có thể chuyển thức thành trí, tức là chúng ta có thể “nhập Phật tri kiến”, và đó cũng là cách ủng hộ tốt nhất vậy.... Ngũ Phương Phật còn được tôn xưng là Ngũ Trí Như Lai, và cũng được biết đến như là năm vị Phật của trí huệ. Ngũ Phương Phật được xem là tượng trưng cho Ngũ Trí Như Lai (1):
+ Ở phương chính giữa là Pháp Thân Phật - Đức Tỳ Lô Giá Na Phật - Pháp Giới Thể Tánh Trí;
+ Ở phương đông là Đức A Súc Bệ Phật (Bất Động Phật), giáo chủ cõi Hỷ Duyệt Tịnh Độ - Đại Viên Kính Trí;
- Ngài giúp chúng sinh tăng phước thọ, tiêu trừ tai nạn. Phật Dược Sư thuộc Kim Cang Bộ ở phía Đông, và Bộ này chú trọng Pháp Hàng Phục. Pháp này chuyên hàng phục thiên ma, ngoại đạo.
+ Ở phương nam là Đức Bảo Sanh Phật, giáo chủ cõi Cụ Đức Tịnh Độ - Bình Đẳng Tánh Trí;
+ Ở phương tây là Đức Phật A Di Đà, giáo chủ cõi Cực Lạc Thế Giới - Diệu Quán Sát Trí;
- Ngài có thể tiếp dẫn chúng ta mang theo nghiệp mà sanh về thế giới Cực lạc, “hoa nở liền trông thấy Phật, ngộ được pháp Vô sanh nhẫn.
+ Ở phương bắc là Đức Bất Không Thành Tựu Phật, giáo chủ cõi Thắng Nghiệp Tịnh Độ - Thành Sở Tác Trí.
Đó cũng chính là chuyển hóa năm thức đầu tiên thành những nỗ lực và hành vi tạo tác đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.
[Phật A-súc, tức Phật Dược Sư, và Phật Di-đà đều giáo hóa chúng sanh tại thế giới Ta-bà. Hai vị Phật, một vị ở phương Đông, một vị ở phương Tây, nhưng cả hai đều có nhân duyên rất sâu đậm với chúng ta nơi cõi Ta-bà, do đó Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật chính là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, còn Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật chính là A-di-đà Như Lai.
Nếu có ai niệm danh hiệu của Đức Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư thì người đó được giải trừ tai nạn, bệnh tật tiêu tan, tội diệt, phước sanh, tâm ý mãn nguyện. Vậy, vị Phật giúp các chúng sanh kéo dài mạng sống chính là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư.
Còn đức Phật A-di-đà thì sao? Ở đây là vấn đề vãng sanh. Như có ai muốn về thế giới Cực Lạc, thì phải niệm danh hiệu của đức Phật A-di-đà. Nếu quý vị muốn sanh về cõi Lưu Ly, tức là thế giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì hãy niệm danh hiệu của Ngài Dược Sư]. (Nguồn HT Tuyên Hóa giảng: Ngũ phương Phật_John Chu và giảng Ngũ phương Phật_Kinh Dược Sư)
+ Xem thêm: Ngũ phương Phật_HT Tuyên Hóa giảng Tâm Chú Lăng Nghiêm
+ Xem thêm: Luận về Ngũ phương Phật_Đại Bảo Tháp Tây Thiên
+ Xem thêm: Ngũ phương Phật_Vạn Phật Thánh Thành):
+ Cảnh giới Phật và ma - Không hai: Chính giữa Phật bộ đấng Tỳ Lô - Chủng tộc Như Lai hóa quần sinh - Khắp tu vạn hạnh Ba La Mật - Các pháp vô ngã chứng viên thông.
Giảng giải : Ða Tha Già Ða dịch là "Như Lai", tức cũng là Phật Bộ, Chú Lăng Nghiêm có năm bộ, phân làm năm hướng.
Chính giữa là Phât Bộ, Phật Tỳ Lô Giá Na là giáo chủ.
Phương tây là Liên Hoa Bộ, Phật A Di Ðà là giáo chủ.
Phương đông Kim Cang Bộ, Phật A Súc là giáo chủ, tức cũng là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.
Phương nam là Bảo Sinh Bộ, Phật Bảo Sinh là giáo chủ.
Phương bắc Yết Ma Bộ, Phật Thành Tựu là giáo chủ. Cộng thành năm bộ.
Thế gian này có năm bộ giáo chủ đến quản lý và trấn áp năm đại ma quân. Năm đại ma quân mới tuân theo quy cụ không dám quấy phá, tuy nhiên tuân theo quy cụ nhưng chúng cứ muốn làm cho thế giới này tệ hại từng chút từng chút.
Thế giới này có đủ thứ tai nạn phát sinh, là do thiên ma ngoại đạo làm ra, chúng tuy nhiên sợ thiên hạ không loạn, tuy sợ thế gian này không sớm tệ hại, nhưng năm phương Phật trấn áp tại đó, chúng rình rình phá hoại, không dám xuất đầu lộ diện. Trên thế gian thì Phật và ma đối lập với nhau. Phật thì giáo hóa chúng sinh sớm thành Phật đạo, ma thì giáo hóa chúng sinh sớm thành ma đạo. Nhưng Phật là nhờ ma giúp Ngài tu thành. Do đó, ma chính là thiện trí thức của Phật giáo đồ. Người tu đạo cảnh nghịch đến, thì phải thuận mà thọ, nên phản diện nhận thức chỗ tốt.
Chúng ta phải cung kính Phật, cũng không phản đối ma vương. Kẻ oán người thân đều bình đẳng. Phật ma như một, phải không có sự thương ghét, không thiện cũng không ác. Cảnh giới này gần như nhau. Năm Bộ chú Lăng Nghiêm này về sau mới giảng đến rõ ràng.
Câu Ra Gia dịch là "Chủng tộc của Phật", "Chủng tộc của Như Lai", tức là Phật giáo đồ tin Phật. (Nguồn: Phật Ngũ Phương - HT Tuyên Hóa)
+ Cái biết: (Không chấp trước - ví dụ Mắt Thấy - Biết): Khi dụng các Căn tiếp xúc các Trần cảnh, chỉ dừng lại ở chỗ Thấy - Biết vậy thôi, không chấp trước vào cái Thấy/ Cảnh thấy, không theo đuổi bám chấp vào cái Thấy ... thì chưa có tạo nghiệp thiện ác (Theo Minh triết thì khi Tác ý => Khởi tạo tư tưởng => Tạo ra Hình tư tưởng đi xuống Cõi Cảm dục/ Dục vọng. Nếu không đi xuống chiếm lấy Chất liệu cõi Dục bao bọc tạo ra Hình sắc tướng thì Hình tư tưởng ấy dần tiêu tán/ tự Chết đi/ Vô dụng/ Vô hiệu, giống như ở đây Ta chỉ nhìn Thấy - Biết và dừng lại, không bám chấp vào cái Thấy) => Đây là mục tiêu tu hành giải thoát các Căn (Nguồn: Thiền sư Giác Khang giảng)
+ Sự Sinh khởi "Tri thức phân biệt": Trích đoạn Đức Phật bào ngài A Nan. ..
A-nan, nhân nơi trần mà phát ra cái biết (của căn), nhân các căn mà có tướng (của trần). Tướng (phần sở kiến) và kiến (phần năng kiến) đều không có tự tính, như bó lau gác vào nhau. Giảng:
A-nan, nhân nơi trần mà phát ra cái biết (của căn). Tri thức phân biệt sinh khởi là do sáu trần. Nhân các căn mà có tướng (của trần). Tướng của sáu trần sinh khởi là do ở sáu căn. Tướng (phần sở kiến) và kiến (phần năng kiến) đều không có tự tính, như bó lau gác vào nhau. Kiến (phần) ở đây là chỉ cho trần (đối tượng của cái biết; e: sense-awareness) như đã được đề cập trước tiên. Cả tướng (phần sở kiến) và kiến (phần năng kiến) đều không có tự tính. Tướng biểu hiện ra chỉ vì do sáu căn hiệp với sáu trần; do vì điều ấy không thực; nó hoàn toàn là hư vọng. Kiến cũng là hư vọng. Nó ‘như bó lau tựa vào nhau.’ Các bó lau ở đây chỉ cho một căn gốc chung, từ đó mà hai cọng lau mọc lên. Nó chỉ có thể đứng được nếu chúng là hai, một cọng sẽ rơi nếu cọng kia nhã xuống. Sáu căn, sáu trần, sáu thức cũng tương tự như vậy. Căn và trần phải cùng tác dụng lẫn nhau để tạo nên sáu thức. Chỉ riêng một thứ sẽ không đứng vững được. Một ẩn dụ khác nữa, bó lau ví như cái hố sâu, nên khi nhìn xuống, dường như có gì ở trong đó, nhưng trong đó hoàn toàn chẳng có gì cả. Điều ấy biểu tượng cho tính chất hư vọng của sáu căn và sáu trần..
Do từ vô thuỷ, tâm ông điên loạn. Tri kiến vọng phát mãi mãi không dừng, làm cho tri kiến sinh mệt nhọc.
Giảng giải:
Từ vô thuỷ kiếp đến nay, chân tâm thường trú tánh tịnh minh thể–chân tánh–của ông đã bị điên đảo. ‘Điên đảo’ ở đây là chỉ cho ‘sinh tướng vô minh, đó là từ câu sinh. Từ sinh tướng vô minh phát khởi lên tri thức phân biệt các hiện tượng, vốn cũng là tự câu sinh. ‘Điên đảo’ chỉ cho vô minh. Còn ‘loạn’ chỉ cho Tam tế đã đề cập ở trước. Đó là:
1. Nghiệp tướng
2. Năng kiến tướng .
3. Cảnh giới tướng .
Nghiệp tướng khiến cho phát sinh Năng kiến tướng, Năng kiến tướng lại làm sinh khởi Cảnh giới tướng . Điều nầy rất vi tế, tuy vậy, đó không phải là điều mà hàng phàm phu biện biệt được.
Một niệm bất giác sinh ra tam tế. Khi tam tế này đã phát khởi, thì liền có nút thứ nhất. Thời điểm mà Tri kiến vọng phát mãi mãi không dừng, là khi cảnh giới tướng làm duyên để tăng trưởng thành lục thô. Điều nầy cũng đã được giảng giải ở đoạn trước. Lục thô là:
Trí tướng: Trí nầy chỉ cho trí thế gian, tức thế trí biện thông. Nó bao gồm cả hiếu biết về lính vực khao học, kỹ thuật, các loại nghề nghiệp. Vì quý vị ‘phát khởi vọng kiến,’ nên sinh khởi nên Trí tướng, và phát sinh ra cái thứ hai trong Lục thô.
Tương tục tướng: Nó không bao giờ dừng. Trí tướng chính là nút thứ hai, và Tương tục tướng chính là nút thứ ba.
Chấp thủ tướng: Sinh khởi tính chấp trước.
Kế danh tự tướng .
Khởi nghiệp tướng (production of karma).
Nghiệp hệ khổ tướng ( karmic-bound suffering) (Nguồn: HT Tuyên Hóa - Kinh Thủ LN - Quyển 5)
+ Thấy Nghe Hiểu Biết/ hay biết - Thể trí tuệ - Hoạt động của trí tuệ. Các căn tánh - Tánh Ý căn
A-nan, ví như có người mệt nhọc thì ngủ, ngủ rất sâu rồi thức dậy, nhìn trần cảnh để nhớ lại (những gì đã hiện ra trong giấc ngủ), những gì không nhớ được thì gọi là quên. Các thứ sinh trụ dị diệt điên đảo đó, quen thói thu nạp vào bên trong mà không lẫn lộn nhau. Đó gọi là Ý căn. Cả ý căn cùng cái mỏi mệt đều là thể tính bồ-đề do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.
Giảng: .... “Các thứ sinh trụ dị diệt điên đảo đó,”– đây là các thứ điên đảo trong dòng tâm thức, là bốn tướng sinh, trụ, dị, diệt. ....
“Quen thói thu nạp vào bên trong.” Tâm thức thu nạp các trần tướng sinh, trụ, dị, diệt, trong khi đang ngủ. Những tướng trạng nầy xuất hiện trở lại trong bộ nhớ của con người, “mà không lẫn lộn nhau.” Tiến trình sinh, trụ, dị, diệt của niệm tưởng trong tâm thức hoàn toàn giống như sóng trong nước.
“Đó được gọi là ý căn.” Trong sáu giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; nay Ý được đề cập. “Cả Ý căn cùng cái mỏi mệt đều là thể tính bồ-đề do chăm chú mà phát ra tướng mỏi mệt.” Đây cũng là sự chăm chú, tính diên trì trong chân tánh bồ-đề khiến phát sinh ra tướng mỏi mệt.
Kinh văn: Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết bên trong. Thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược vào trong. Dòng nầy đi vào nơi không cùng tận, gọi là cái Ý hay biết/ Ý căn Biết.
Giảng: “Nhân nơi hai thứ vọng trần sinh và diệt, nhóm cái biết bên trong.” Các thứ vọng trần của tâm thức nằm ngay trong tâm. Tâm phan duyên chính là đối tượng của sinh diệt. Cũng có những pháp không phải là đối tượng của sinh diệt nhưng pháp do tâm phan duyên chính là pháp sinh diệt, đó chính là vọng trần, tánh hay biết tập hợp và trú ở bên trong vọng trần nầy, và “Thu nạp pháp trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược vào trong.” Vọng trần của cái thấy, cái nghe quay trở lại với tâm ý thức (thức thứ 6). “Dòng nầy đi vào nơi không cùng tận.” Trước khi dòng nầy đến được nơi chốn, có nghĩa là trước khi dòng tâm thức với cái thấy cái nghe quay trở lại đến nhập vào thức thứ tám, “gọi là cái ý hay biết.”
Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và ý thức = Thức thứ 6, chính là tính Giác tri của Ý căn. “Trước khi dòng nầy đến được nơi chốn,” đây cũng gọi là dòng nghịch lưu. Dòng nghịch lưu là gì? Khi tâm phan duyên khởi niệm, như thể có một dòng chảy ngược lại vào tâm thức. Trước khi dòng chảy ngược nầy đến nhập vào thức thứ 8 (cập địa), thì có phát sinh một cái ý hay biết (Ý biết/ tánh Giác tri) ở trong thức thứ 6.
Kinh văn: Cái ý hay biết nầy rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia thì rốt ráo không có tự thể.
Thật vậy, A-nan nên biết cái Ý căn hay biết như thế, không phải do từ nơi thức, nơi ngủ mà đến; không phải do nơi sinh, nơi diệt mà có; không phải từ nơi ý căn mà ra, cũng không phải từ nơi hư không mà phát sinh.
Giảng: “ Thật vậy, A-nan– từ đạo lý vừa được giải thích, A-nan, ông nên biết cái ý căn hay biết như thế – Tánh hay biết – không phải do từ nơi thức, nơi ngủ mà đến; .....
Vì cớ sao? Nếu (cái ý căn hay biết) từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ? Nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hoá như không có rồi, thì lấy cái gì mà biết là diệt? Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh sẽ không có cái diệt, lấy cái gì mà biết là sinh?
“Vì cớ sao? Nếu (cái ý căn hay biết) từ nơi thức mà đến”– Tại sao như vậy? Nếu tính hay biết từ nơi thức mà đến,– “thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi.” Lẽ ra nó phải biến mất khi người ta ngủ, “Còn lấy cái gì làm cái ngủ?” Nếu tính hay biết không hiện hữu khi người ta đang ngủ, thì thế nào là nghĩa của ngủ? “Nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hoá như không có rồi.” Khi diệt, tính hay biết đó sẽ không có nữa rồi, “lấy cái gì mà biết là diệt?” Còn ai là người biết được cái diệt? “Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh sẽ không có cái diệt, lấy cái gì mà biết là sinh?” Trong trường hợp đó, tính hay biết phải biến mất khi có cái sinh, còn nếu không có tính hay biết, làm sao mà biết được là có cái sinh?
Kinh văn: Nếu do ý căn[9] mà ra, thì hai tướng thức ngủ thay đổi lẫn nhau nơi thân thể, nếu rời hai tướng ấy ra, thì cái ý hay biết ấy cũng đồng như hoa đốm giữa hư không, rốt ráo không có tự tánh.
Nếu (cái ý hay biết/ Ý biết) do hư không mà sinh thì tự hư không ấy biết, có quan hệ gì đến chỗ thu nạp (ý nhập) của ông?
Do vậy nên biết, ý nhập là hư vọng, vốn không phải tính nhân duyên, chẳng phải tính tự nhiên.
Giảng: “Do vậy nên biết, ý nhập là hư vọng.” Ý nhập cũng là hư vọng, không thật. “Vốn không phải tính nhân duyên,”– Nó chẳng phải phát sinh từ tính nhân duyên– “chẳng phải tính tự nhiên.”– Vậy thì, rốt ráo, tại sao nay quý vị lại có được tánh hay biết? Nó phát ra từ sự chăm chú trong tánh chơn như nhiệm mầu của Như Lai tạng khiến phát sinh ra tướng mỏi mệt....(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q.3)
* Tóm lược của Nhân trắc học:
+ Thiên thức (Logoic consciousness, God consciousness):
- Thiên thức tức là các trạng thái tiếp nối của nhận thức thiêng liêng bên trong lĩnh vực thái dương (solar sphere). (LVLCK, 279)
- Thiên thức là trạng thái tâm thức thứ “bảy” bao hàm sáu trạng thái tâm thức kia (ba loại tâm thức của giới khoáng vật, thực vật, động vật – Tâm thức dưới nhân loại; –, tâm thức nhân loại “bốn”, tâm thức tinh thần “năm”, tâm thức Niết Bàn “sáu” – loại “năm” và “sáu” biểu hiện cho siêu thức. (LVLCK, 278) [Đọc thêm Tooltip: Các Thức - Thức thứ 1 - 5; Thức thứ 6 - Thức 7 - Thức 8 - Thức 9 trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm]
- Thiên thức tức là tuyệt đối thức (Absolute consciousness). (LVLCK, 243)
- Lúc được điểm đạo lần sáu và bảy, trạng thái thứ nhất hay trạng thái ý chí tỏa chiếu, từ một vị Chân Sư Từ Ái và vị Chúa Bác ái, vị Thánh Sư trở nên siêu việt hơn, Ngài bước vào trạng thái tâm thức cao hơn tập thể thức và trở nên có được thiên thức (God–conscious, Thượng Đế thức). (ĐĐNLVTD, 22)
+ Vật chất (matter) được giữ dưới dạng vật–chất kết–hợp (combination, vật chất phức hợp) được gọi là Tinh chất Hành khí và có thể được nắn tạo thành các hình tư tưởng (thought–forms). (KCVTT, 55)
+ Tinh chất hành khí của cõi trí được Chân Thần tạo ra (Tương ứng Ý khởi vô minh/ Chân thần tác ý/ Chân thần khởi nghĩ trong Phật pháp_Nhân trắc học) trong giai đoạn đi xuống ngay trước khi Chân Thần tiến vào cõi cảm dục và tạo thành Giới Hành khí Thứ Nhì (Second Elemental Kingdom) ở trên bốn cõi phụ thấp của cõi trí. Ba cõi phụ cao (của cõi trí–ND), tức cõi “vô sắc tướng” (“formless”) được giới Hành khí Thứ Nhất chiếm ngự (occupied), nơi đây, tinh chất hành khí được tư tưởng nhào nặn (thrown) thành các vệt có màu sắc (coloured streams), sáng chói và các chớp lửa linh hoạt (flash of living fire) thay vì thành các dạng thức rõ rệt (definite shapes), có thể nói các bài học đầu tiên của tinh chất hành khí là tác động kết hợp (combined action) chứ chưa có được các giới hạn rõ ràng của hình tướng. (MTNX, 125–126)
+ Khi luồng sóng sinh hoạt (life–wave) vĩ đại của cuộc tiến hóa hình hài đi xuống xuyên qua cõi cảm dục và tạo ra trên cõi này giới Hành khí Thứ Ba, thì Chân Thần thu hút (drew) xung quanh nó các tập hợp chất cảm dục (combinations of astral matter), ban cho các tập hợp này – được gọi là tinh chất hành khí – một sức sống (vitality) riêng biệt và có đặc tính là đáp ứng và luôn luôn lấy hình dạng tùy theo xung lực của các rung động tư tưởng. Có hàng trăm loại tinh chất hành khí trên mỗi cõi phụ của cõi cảm dục, giống như không khí trở nên thấy được ở đây – thực vậy, có thể thấy được không khí bằng các làn sóng rung động dưới sức nóng cao độ (under great heat) – và nếu luôn luôn ở trong chuyển động gợn sóng thì màu sắc thay đổi giống như xà cừ.
Bầu khí rộng lớn của tinh chất hành khí bao giờ cũng đáp ứng với các rung động tạo ra (Khi Chân thần/ Linh hồn/ Thể trí khởi tác ý khởi nghĩ, khởi vọng tưởng_Nhân trắc học) bởi các tư tưởng, các cảm xúc và dục vọng, chỉ cần một trong ba loại này đổ xô đến cũng đủ gây ra sự huyên náo giống như các bọt nước sôi. (MTNX, 65–66)
+ Tinh hoa Chân Thần (Monadic Essence), tức vật chất của cõi phụ nguyên tử (hay là cõi cao nhất) của mỗi cõi chính. Tinh hoa Hành Khí (Elemental Essence), tức vật chất của sáu cõi phụ phi nguyên tử. Đó là vật chất phân tử.
+ Giới hành khí (Elemental kingdom):
1. Giới tinh hoa chất thứ nhất: ở trên ba phân cảnh cao của cõi trí.
2. Giới tinh hoa chất thứ hai: ở trên bốn phân cảnh thấp của cõi trí.
3. Giới tinh hoa chất thứ ba: ở cõi cảm dục. (LVLCK, 94)
+ Sự sống hành khí: Mọi hình hài được kiến tạo theo một cách thức tương tự như nhau và chỉ có sự dị biệt – như sách giáo khoa giảng dạy – trong sự sắp xếp và số của các âm điện tử ( ).
Chính âm điện tử sau rốt sẽ được xem như là một sự sống hành khí vô cùng bé nhỏ (an elemental, tiny life). (LVLCK, 479)
+ Vạn vật đều có nguồn cội từ Tinh thần – thoạt tiên, sự tiến hóa (evolution) bắt đầu từ trên và tiến xuống dưới, thay vì ngược lại như thuyết của Darwin đã giảng dạy.(GLBN III,177)
+ Tiến hóa thăng thượng là sự nhạy cảm với ánh sáng và sự giác ngộ ngày càng tăng thêm đều đặn. (LV7C, 642)
+ Tiến hóa thăng thượng chỉ là phương pháp điều chỉnh khía cạnh vật chất cho thích ứng với khía cạnh tinh thần ngõ hầu khía cạnh vật chất tỏ ra hoàn toàn thích hợp là một thể biểu hiện cho khía cạnh tinh thần. (LVLCK, 231)
- Tiến hóa thăng thượng (evolution) có thể được định nghĩa như là “khai mở năng lực đáp ứng luôn luôn tăng tiến”.
- Tiến hóa thăng thượng cũng còn được định nghĩa như là “sự phát triển theo chu kỳ” (“cyclic development”).
+ Tiến hóa thăng thượng có thể được định nghĩa như là thay đổi có sắp xếp và không ngừng biến đổi (ordered change and instant mutation). (TTCNT, 20, 22, 23)
+ Giai đoạn chế ngự của nốt Tinh Thần là giai đoạn tiến hóa thăng thượng thuộc các cõi cao. (LVLCK, 275)
+ Tiến hóa thăng thượng chỉ là một thuật ngữ được dùng để diễn tả sự phát triển từ từ (gradual development) trong thời gian và không gian của khả năng nội tại của một con người, của một Hành Tinh Thượng Đế và của Thái Dương Thượng Đế. (LVLCK, 234)
+ Người chí nguyện: Trong thời gian căng thẳng và vất vả này, hỡi những người anh em của tôi, tôi muốn nhắc nhở các bạn rằng không cần phải cảm thấy vô dụng hay bé nhỏ. Những nhóm người đệ tử mới là những Nhóm Hạt Giống; họ đang ở trong bóng tối hay trong giai đoạn phát triển và trong quá trình mở rộng—phát triển một cách thầm lặng. Giai đoạn này là quan trọng nhất cho sức khỏe của hạt giống và khả năng của nó để có thể cắm rễ mạnh mẽ xuống và xâm nhập một cách chậm rãi và đều đặn hướng lên đến ánh sáng. Vì thế trọng trách và năng lực đóng góp vào Thời Đại Mới được đặt lên chúng ta.(NĐTTKNM/ DINA I 74)
+ Như chúng ta đã thấy, những cánh hoa của luân xa tùng thái dương đang hướng lên đến luân xa tim. Điều này, trên thực tế, có nghĩa là năng lượng cảm xúc, ham muốn và tham vọng (trong nhân loại như một toàn thể) đang nỗ lực hướng lên về phía con đường cao cả hơn. (TLNM/ EH 174)
+ Khi bậc điểm đạo đồ nỗ lực mở rộng tâm thức của mình, khi anh ta học được cách ổn định tâm thức mình trong Tam Nguyên Tinh Thần, khi đó anh ta trở thành một phần của nỗ lực huyền giai vĩ đại và liên tục hướng đến “Nơi của Ánh Sáng Điện Quang Minh,” ánh sáng lạnh (ví như Trăng hiện trên đỉnh đầu khi thiền định thanh tịnh) minh bạch của lý trí, là chìa khóa đầu tiên của cánh cửa đầu tiên.(CCVĐĐ/ RI 139)
+ Cung Thăng thượng tiến hóa: Nửa sau của diễn trình tiến hóa được gọi là cung thăng thượng tiến hóa và đánh dấu việc tiến lên hay quay về của Tinh thần đến cội nguồn xuất phát của nó, cộng với các thu thập được của diễn trình tiến hóa. (LVLCK, 95)
+ Ba cách tiến hóa (Thuận chiều và Nghịch chiều)_Chân Sư DK (CTHNM, 295):
1. Giai đoạn quá khứ xa xăm đã qua - Không xét: Sự tiến bộ của nhân loại từ Aries đến Pisces, qua Taurus.
2. Ý nghĩa thuận chiều Vật chất - Tiến Hóa Công Truyền (Ngoại Môn = Hiện Tại): Tiến bộ của con người cá biệt diễn ra ngược lại với tiến bộ của tập thể;
3. Ý nghĩa Nghịch chiều/ Đảo Ngược - Tiến Hóa Bí Truyền (Nội Môn = Tương Lai): Cùng chiều với "giai đoạn 1". Tiến bộ của con người được tái định-hướng từ Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus. Trong giai đoạn cuối cùng này, y quay trở lại cùng phương pháp được hướng dẫn, tức nhịp điệu và chừng mực của hoạt động quần chúng trước kia nhưng lần này với các thái độ được thay đổi và đang thay đổi của việc phụng sự không ích kỷ, một phàm ngã được hiến dâng cho việc phụng sự nhân loại và với một sự tái định hướng tự ý của các năng lực của y sao cho chúng được hướng đến việc tạo ra sự tổng hợp và cảm thông. Việc này sẽ là tình huống trong tương lai đối với quần chúng.
* Nhà chiêm tinh học của tương lai sẽ phải ghi nhớ cẩn thận ba cách tiến hóa này. Đó là Thiên Cơ như hiện tại chúng ta có thể nhận biết được nó.
* Ví dụ với Cung Xử Nữ: Là cung thứ 6 xét theo cách này của Hoàng đạo (chiều Nghịch/ Đảo ngược) - Cung thứ 7 nếu người ta không xét vòng đảo ngược (Chân Sư DK_CTHNM, 285)
+ Tiến hóa nghịch chiều vật chất - Bí truyền/ Nội môn
a/ Giai đoạn 1: Cung Thái Dương (Mặt Trời) Chi phối con người (Phàm Ngã), con người dần dần thích hợp để sau đó đáp ứng với Linh Hồn.
b/ Giai đoạn 2: Sự đáp ứng của Phàm ngã ngày càng tăng với các năng lượng, bị che dấu bởi Cung mệnh (Cung Mọc???). Các năng lượng đó tạo ra điều bất ngờ và gây ra việc thúc đẩy diễn trình tiến hóa và việc khai mở sự sống nội tâm. ... Qua hiệu ứng của năng lượng tuôn đổ từ các Cung Hoàng Đạo, con người được chuẩn bị cho BƯỚC NGOẶT VỀ ĐỊNH HƯỚNG, trong đó con người từ từ và dần dần ĐẢO NGƯỢC CÁCH THỨC TIẾN BỘ DƯA TRÊN VÒNG SINH HÓA (Lúc bấy giờ, Y đi từ Dương Cưu đến Song Ngư xuyên qua Kim Ngưu, Hổ Cáp, Ma Kết thay vì chuyển từ Dương Cưu đến Kim Ngưu xuyên qua Nhân Mã, Hải Sư, Bắc Giải. Bộ 3 của các Chòm sao nói trên trong 2 lộ trình lớn này chung quanh Hoàng Đạo có một hiệu quả rõ rệt và quan trọng (Gọi là Cung có ảnh hưởng tối thượng). Trong tiến trình này, nguyên khí trí tuệ (Thể Trí) biết phân biện ..... (CTHNM, 64)
Xem thêm: Tổng hợp về Tiến hóa Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo Xem: Bảy Cung; Cung Hoàng Đạo; Lá số Chiêm tinh; Biểu đồ cung; Khẩu hiệu Phàm Ngã và Linh Hồn Xem về Năng khiếu của Cung, Cung Hoàng Đạo và Hành Tinh
+ Lửa bên trong của Thái dương hệ, của hành tinh, và của con người gồm có 3 loại Lửa (LVLCK, 70):
1. Tiềm hỏa: Lửa bên trong ở trung tâm của khối cầu, các lò lửa bên trong này tạo nên sự ấm áp.
2. Lửa Linh Hoạt - Lửa bức xạ: Loại lửa này có thể được diễn tả dưới tên là điện của cõi trần, các tia sáng, và năng lượng dĩ thái
* Lửa linh hoạt (Lửa bức xạ) vẫn có trong sự sống và tạo ra sự tiến hoá của mọi vật vốn đã phát triển thành biểu lộ ngoại cảnh bằng tiềm hoả
* Cần phân biệt Bức xạ từ thể dĩ thái - Bức xạ của prana với từ điển, là một sự phóng phát từ một thể tinh anh (VD: thể cảm dục) và có liên quan với sự biểu lộ của Ngọn Lửa Thiêng trong lớp vỏ vật chất. Ngọn Lửa Thiêng được tạo ra trên cõi thứ hai, tức cõi Chân Thần, và từ điển (vốn là một phương pháp để giải thích lửa bức xạ), do đó được cảm nhận một cách tối thượng trên cõi thứ tư và thứ sáu hay là xuyên qua thể Bồ Đề và thể cảm dục. Như chúng ta biết, các cõi này có liên quan chặt chẽ với cõi thứ nhì. Sự phân biệt này rất quan trọng và phải được nhận ra một cách cẩn thận (LVLCK, 72)
3. Lửa thiết yếu hay Hoả hành khí: Chính chúng sẽ là tinh hoa của lửa. Phần lớn, chúng được chia thành 2 nhóm:
a. Hoả thiên thần (Fire devas) hay các thực thể tiến hoá thăng thượng.
b. Hoả tinh linh (Fire elementals) hay các thực thể tiến hoá giáng hạ
+ Tất cả các hành khí và thiên thần này đều ở dưới sự kiểm soát của Hoả Tinh Quân, tức là Agni.
* Bản chất của các Hành khí biết suy tư
+ Lửa phát xạ/ Lửa linh hoạt: Loại lửa này có thể được diễn tả bằng các thuật ngữ về điện ở cõi trần, về các tia sáng (light rays) và về năng lượng dĩ thái. Đây là lửa linh hoạt. Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
Xem: Tổng hợp về lửa càn khôn Xem: Tóm Lược sách Luận Về Lửa Càn Khôn
+ Các giới - 81. BỐN ĐẠI
Này chư Hiền, những gì là bốn đại? Địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ 193. ĐỊA GIỚI: Nội địa giới và ngoại địa giới.
Nội địa giới là những gì ở trong thân, được thâu nhiếp trong thân như vật cứng, có tính chất cứng, được chấp thọ bên trong. Đó là tóc, lông, móng, răng, da thô và mịn, thịt, gân, xương, tim, thận, gan, phổi, lá lách, ruột, bao tử, phẩn và những thứ khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong, có tính chất cứng, bị chấp thủ bên trong....
Ngoại địa giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. Có lúc bị thủy tai, khi ấy ngoại địa giới tiêu diệt.
Ngoài ra còn có các Trung giới / Giới ở giữa. (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
687. THỦY GIỚI: Nội thủy giới và ngoại thủy giới.
Nội thủy giới là ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là nước, thuộc về nước, ẩm ướt, bị chấp thủ bên trong. Đó là mỡ, óc, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ, máu, tủy, nước dãi, nước tiểu, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là nước, thuộc về nước, ẩm ướt, bị chấp thủ bên trong....
Ngoại thủy giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. Có lúc bị hỏa tai, khi ấy ngoại thủy giới tiêu diệt.(Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ 275. HỎA GIỚI: Nội hỏa giới và ngoại hỏa giới.
Nội hỏa giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân, những gì là lửa, có tính chất nóng, được chấp thủ trong thân. Đó là, thân nóng hấp, thân nóng bức, bức rức, ấm áp, và sự tiêu hóa ẩm thực, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, thuộc tính nóng, được chấp thủ bên trong....
Ngoại hỏa giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ 522. PHONG GIỚI: Nội phong giới và ngoại phong giới
Nội phong giới là ở trong thân, được thâu nhiếp ở trong thân những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, bị chấp thủ bên trong. Đó là gió đi lên, gió đi xuống, gió trong bụng, gió ngang, gió co thắt lại, gió như dao cắt, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vào, tất cả những chất khác tương tự như vậy ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, những gì là gió, thuộc tính chuyển động của gió, được chấp thủ bên trong....
Ngoại phong giới là lớn, là tịnh, là không đáng tởm. (Nguồn: mục 522- (Trung A Hàm, Kinh Tượng Tích Dụ, Phẩm 3, số 30)
+ 569. SÁU GIỚI & NGŨ ẤM XÍ THẠNH
Đó là địa giới, thủy, hỏa, phong, không và thức giới. Đó là pháp sáu giới mà ta đã tự tri tự giác, đã nói cho các ngươi biết.
Do hòa hiệp của sáu giới nên sanh thai mẹ. Nhân sáu giới mà có sáu xứ; nhân sáu xứ có xúc, nhân xúc mà có thọ.
Này các Tỳ-kheo, nếu ai có cảm thọ liền biết như thật về Khổ, biết về Khổ tập, biết về Khổ diệt, biết như thật về Khổ diệt đạo. Thế nào là biết như thật về khổ? Là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thù nghịch gặp nhau là khổ, yêu thương mà chia ly là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, năm ấm xí thạnh là khổ. (Trung A Hàm, Kinh Độ, Phẩm 2, số 13)
+ 543. QUÁN SÁU GIỚI
Tỳ-kheo tu tập niệm thân như sau. Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như gã đồ tể mổ bò, lột hết bộ da, trải lên mặt đất, phân thành sáu đoạn. Cũng vậy, Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng: ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như vậy, Tỳ-kheo tùy theo thân hành mà biết trên như thật. Tỳ-kheo như thế, sống cô độc, viễn ly, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, đoạn trừ các tai hoạn của tâm và được định tâm. Được định tâm rồi thì biết trên như thật. (Trung A Hàm, Kinh Niệm Thân, Phẩm 7, số 81)
+ 768. TỲ KHEO BIẾT GIỚI [62 giới]
Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào thấy và biết như thật về mười tám giới: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới.
1) Sáu giới: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
2) Sáu giới: dục giới, nhuế giới, hại giới, vô dục giới, vô nhuế giới, vô hại giới.
3) Sáu giới: lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới, vô minh giới.
4) Bốn giới: thọ giới, tưởng giới, hành giới, thức giới.
5) Ba giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
6) Ba giới: sắc giới, vô sắc giới, diệt giới.
7) Ba giới: quá khứ giới, vị lai giới, hiện tại giới.
8) Ba giới: diệu giới, bất diệu giới, trung giới
9) Ba giới: thiện giới, bất thiện giới, vô ký giới.
10) Ba giới: học giới, vô học giới, phi học vô học giới.
11) Hai giới: hữu lậu giới, vô lậu giới.
12) Hai giới: hữu vi giới, vô vi giới.
Này A-nan, thấy và biết như thật về sáu mươi hai giới này.......... (Trung A Hàm, Kinh Đa Giới, Phẩm 14, số 181)
Nguồn các bài trên: Những lời dạy của Phật trong Trung A hàm
+ Định luật Ma Sát (Law of Friction): Chi phối trạng thái nhiệt của bất cứ nguyên tử nào, sự phát xạ (radiation) của một nguyên tử và hiệu quả của việc phát xạ đó trên bất cứ nguyên tử nào khác.(Nguồn: Thuật ngữ - Bác Khá)
* Đây là 01 trong 04 định luật phụ của Định luật Tiết Kiệm. (LVLCK, 219)
+ Định luật Xung lực Từ điển (Law of Magnetic Impulse) hay Tên gọi nội môn: Định luật Hợp Nhất Cực (Law of Polar Union): Định luật Xung lực Từ Điển chi phối mối liên hệ, sự tương tác, sự tương giao (intercourse) và sự hòa nhập giữa bảy nhóm linh hồn trên các phân cảnh cao siêu của cõi trí tạo ra biến phân thứ nhất trong số các biến phân chính của sắc tướng. Định luật này cũng chi phối các liên hệ giữa các linh hồn mà trong khi biểu lộ qua hình hài, có quan hệ mật thiết với nhau. (TLHNM II, 110)
+ Hợp nhất (unity): Hợp nhất có thể được xem như là sự thích nghi hữu thức của vị đệ tử được điểm đạo vào tổng thể lớn hơn, vì sự thu hút của vị đệ tử vào nhóm nhờ việc tuân thủ vào các định luật của linh hồn và với tư cách chi phối thái độ của y đối với những gì mà vị này đang sống, hoạt động và hiện tồn. (LV7C, 265)
+ Định luật Tuần Hoàn - Law of Periodicity/ ĐL Chu Kỳ :
Lưu ý về dịch thuật:
- Law of Periodicity - Dịch là Định luật Tuần Hoàn, MFVN dịch môn học 110 - QU1, dịch từ sách LVLCK (tr 5);
- Law of Periodicity - Dịch là Định Luật Chu Kỳ - Bác Thông Thiên Học cũng dịch sách từ LVLCK (tr 5),
- Định luật Chu Kỳ - Law of Cycles (Theo Chiêm Tinh học Nội Môn, tr 89)
- Định Luật Chu Kỳ: Trong LVLCK, tr 5–6 thì dịch Law of Periodicity là Định Luật Chu Kỳ, không phải (Law of Cycles)
+ Định luật Chu Kỳ (Law of Cycles): Định luật Chu Kỳ định đoạt thủy triều, kiểm soát các biến cố trên thế gian và cũng sẽ chi phối cá nhân và như thế thiết lập các thói quen của cuộc sống có tiết điệu – một trong các động cơ chính yếu được định trước để có được sức khỏe tráng kiện. (CTNM, 89)
+ Định Luật Tuần Hoàn: Là Nguyên Lý Cơ Bản II của Vũ trụ gốc (Định Luật này luôn bao hàm định Luật Chu Kỳ) - Xem chi tiết
- Định Luật này chi phối tất cả các biểu hiện, dù đó là biểu hiện của một Thái Dương Thượng Đế thông qua trung gian một thái dương hệ [Trang 6], hay là biểu hiện của con người thông qua trung gian một hình thể. Tương tự, Định luật này cũng điều khiển tất cả các vương quốc trong tự nhiên (LVLCK, tr 6)
- Định Luật Tuần Hoàn này nằm dưới tất cả các quá trình của tự nhiên (LOS 362)
Người ta nói rằng một sự thấu hiểu hoàn toàn về Luật Tuần Hòan sẽ đưa con người đến một bậc điểm đạo cao cấp. Luật Tuần Hoàn này là nền tảng của tất cả các quá trình trong tự nhiên và việc nghiên cứu nó sẽ dẫn con người ra khỏi thế giới của những hiệu ứng khách quan và đi vào thế giới của những nguyên nhân chủ quan. Người ta cũng nói rằng thời gian bản thân nó đơn giản chỉ là sự liên tiếp của những trạng thái tâm thức và điều này đúng với một nguyên tử, con người hay Thượng Đế.
- Định Luật Tuần Hoàn(797): Luật Tuần Hoàn là một, nhưng vì nó dựa trên xung động ban đầu, và dựa trên nhịp đập của “trái tim trung tâm” hay “mặt trời trung tâm” của bất kỳ cơ thể nào (thái dương hệ, cơ chế hành tinh, chuỗi hành tinh, nhóm chân ngã hay đời sống chân ngã cá nhân).
- Năng lượng của Chủ Quản cung 1 vận hành qua Luật Tuần Hoàn (EP I 65)
Năng lượng của Chủ Quản cung này mang đến cái chết của một con kiến hay của một thái dương hệ, một tổ chức, một tôn giáo, hay một chính phủ, một dạng giống dân hay một hành tinh. Ý chí hay mục đích của Ngài thể hiện qua Luật Tuần Hoàn.
- Vi phạm Định Luật Tuần Hoàn là một nguyên nhân của bệnh tật (EH 90)
Tôi muốn nói đến, trước hết, với tiền đề cơ bản rằng bệnh tật và trở ngại thể chất không phải là kết quả của suy nghĩ sai lầm. Chúng có lẽ không là kết quả của bất kỳ suy nghĩ nào, hay chúng sinh ra do sự thất bại trong việc tuân theo các luật cơ bản thống trị Tâm Thức Thượng Đế. Một ví dụ thú vị của sự thất bại này là sự thật rằng con người không tuân theo Luật cơ bản về Nhịp Điệu, luật thống trị tất cả các quá trình trong tự nhiên, và con người là một phần của tự nhiên.
Sự thất bại trong việc hoạt động theo Luật Tuần Hoàn chính là gây ra khó khăn nội tại trong việc sử dụng và lạm dụng kích thích tình dục. Thay vì con người được thống trị bởi các biểu hiện theo chu kỳ của xung động tình dục, và đời sống của anh ta, vì thế, được cai quản bởi một nhịp điệu nhất định; ở thời điểm này chưa tồn tại thứ như thế, ngoại trừ trong những chu kỳ mà người phụ nữ trải qua, và những điều này ít được chú ý đến. Tuy nhiên, đàn ông, không bị thống trị bởi bất kỳ chu kỳ nào như thế, đã bị phá vỡ cũng trong nhịp điệu mà cơ thể người phụ nữ nên là trực thuộc, và điều đó - hiểu một cách đúng đắn - sẽ xác định tập quán của mối quan hệ tình dục, một cách tự nhiên cũng bao gồm cả xung động của người đàn ông nữa. Thất bại trong việc tuân theo Luật Tuần Hoàn và giáng cấp những dục vọng theo sự điều khiển mang tính chu kỳ là một trong những nguyên nhân chính của bệnh tật; và vì những luật này được đưa ra trong cõi trí, một người có thể nói một cách hợp pháp rằng sự vi phạm của họ có một cơ sở tâm trí. Điều này có thể là trường hợp nếu giống dân đang hoạt động về thể trí, nhưng nó không phải vậy. Trong thế giới hiện đại ngày nay, bắt đầu xuất hiện khắp nơi việc vi phạm những luật tinh thần này, đặc biệt là Luật Chu Kỳ, luật xác định thủy triều, điều khiển các sự kiện thế giới và cũng tác động đến cá nhân và thiết lập những thói quen nhịp điệu của đời sống - một trong những khuynh hướng thúc đẩy chính dẫn đến sức khỏe tốt.
Do phá vỡ Luật Nhịp Điệu, con người đã làm tan rã những mãnh lực mà nếu được sử dụng đúng đắn, sẽ giúp cơ thể khỏe mạnh; bởi làm thế, con người đã tạo nên nền tảng cho sự suy nhược tổng quan và những khuynh hướng hữu cơ nội tại mà chúng có khuynh hướng mở đường cho sức khỏe yếu và cho phép những vi khuẩn đi vào cơ thể, tạo ra những dạng thức bên ngoài của bệnh tật nguy hiểm. Khi nhân loại lấy lại được sự hiểu biết về việc sử dụng đúng đắn thời gian (điều đó sẽ xác định Luật Nhịp Điệu trên cõi hồng trần), và có thể xác định những chu trình đúng đắn cho những biểu hiện khác nhau của lưc sống trên cõi hồng trần, như vậy cái trước đây là thói quen bản năng sẽ trở thành sự sử dụng thông minh của tương lai. Điều này cấu thành một nền khoa học hoàn toàn mới, và nhịp điệu của các quá trình tự nhiên và việc thiết lập, như những thói quen, những chu kỳ đúng đắn cho chức năng thể chất, sẽ đem lại một kỷ nguyên mới về sức khỏe và tình trạng thể chất khỏe mạnh của toàn bộ giống dân.
2. Ba Định Luật Vũ Trụ được kết nối với Định luật này (6)
a. Định luật Tiết Kiệm ..... định luật thống trị vật chất, phương diện thứ ba.
b. Định Luật Hấp Dẫn/ Hút và Đẩy… định luật thống trị linh hồn, phương diện thứ hai.
c. Định Luật Tổng Hợp.... định luật thống trị tinh thần, hay phương diện thứ nhất.
3. Có bảy Định Luật hệ thống, thống trị sự biểu hiện của Đấng Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. (6)
4. Mỗi định luật trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một trong bảy cảnh giới của thái dương hệ (6)
5. Mỗi luật có hiệu lực tuần hoàn (6)
Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cõi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ yên nghỉ của nó
6. Mỗi sự sống biểu hiện có ba chu kỳ vĩ đại của nó (6-7)
Sinh ra Sống Chết.
Xuất hiện Phát triển Biến mất.
Giáng hạ tiến hoá Tiến hóa Qui nguyên
Bất động hoạt động Chuyển động nhịp nhàng
Sự sống tĩnh tại Sự sống sinh động Sự sống nhịp nhàng.
7. Kiến thức của các chu kỳ liên quan đến kiến thức về con số, âm thanh và màu sắc (7)
8. Kiến thức toàn bộ của các chu kỳ chỉ được biết đến khi đã là một người tinh thông lão luyện hoàn thiện (7)
Tri thức trọn vẹn của bí ẩn của các chu kỳ chỉ được sở hữu bởi Chân sư hoàn thiện. (LVLCK, 39)
+ Định luật Chu Kỳ (Law of Cycles): Định luật Chu Kỳ định đoạt thủy triều, kiểm soát các biến cố trên thế gian và cũng sẽ chi phối cá nhân và như thế thiết lập các thói quen của cuộc sống có tiết điệu – một trong các động cơ chính yếu được định trước để có được sức khỏe tráng kiện. (CTHNM, 89)
+ Định luật Tiết Điệu/ Nhịp Điệu (Law of Rhythm): Định luật Tiết Điệu chi phối tất cả mọi tiến trình của thiên nhiên, và con người là một phần của thiên nhiên. Do vi phạm định luật Tiết Điệu, con người đã làm xáo trộn các mãnh lực mà, nếu được sử dụng đúng, có khuynh hướng đưa thể xác vào tình trạng lành mạnh, có lợi cho sức khỏe.(CTNM, 89–90)
+ Do phá vỡ Luật Nhịp Điệu, con người đã làm tan rã những mãnh lực mà nếu được sử dụng đúng đắn, sẽ gúp cơ thể khỏe mạnh; bởi làm thế, con người đã tạo nên nền tảng cho sự suy nhược tổng quan và những khuynh hướng hữu cơ nội tại mà chúng có khuynh hướng mở đường cho sức khỏe yếu và cho phép những vi khuẩn đi vào cơ thể, tạo ra những dạng thức bên ngoài của bệnh tật nguy hiểm. Khi nhân loại lấy lại được sự hiểu biết về việc sử dụng đúng đắn thời gian (điều đó sẽ xác định Luật Nhịp Điệu trên cõi hồng trần), và có thể xác định những chu trình đúng đắn cho những biểu hiện khác nhau của lực sống trên cõi hồng trần, như vậy cái trước đây là thói quen bản năng sẽ trở thành sự sử dụng thông minh của tương lai. Điều này cấu thành một nền khoa học hoàn toàn mới, và nhịp điệu của các quá trình tự nhiên và việc thiết lập, như những thói quen, những chu kỳ đúng đắn cho chức năng thể chết, sẽ đem lại một kỷ nguyên mới về sức khỏe và tình trạng thể chất khỏe mạnh của toàn bộ giống dân (MF - Khóa QUI - Nguyên lý cơ bản II)
+ Ảo tưởng (Delusion, illusion, huyễn tưởng): - Là tiến trình đồng nhất hóa sai lầm, trong đó, Bản ngã tự lừa dối và nói “Ta là hình hài”. (I am the form). (ASCLH, 194)
+ Ảo tưởng có ảnh hưởng đến cõi trí nhiều hơn. Nó liên quan đến các quan niệm sống của chúng ta và cuộc sống tư tưởng vốn dĩ nhiều hay ít (mặc dù hầu hết là ít) đang chi phối công việc hằng ngày của chúng ta. (TBĐC, 119)
+ Ảo tưởng được dựa vào hoạt động kiến tạo hình tư tưởng của hạ trí. (ACMVĐCTG,178)
+ Huyễn tưởng là tình trạng khiên cưỡng đem sự hiểu biết có giới hạn và tri thức thế tục/ tìm thường để giảng giải chân lý cao thâm, hậu quả là phủ lên và che giấu chân lý đó đàng sau đám mây hình tư tưởng. Lúc đó, các hình tư tưởng này lại trở thành có thực hơn cả chân lý mà chúng đang che lấp và tất nhiên là kiềm chế việc tiếp cận với Thực Tại của con người.(ACMVĐCNL, 240)
Xem: Các rồi loạn Trí tuệ về Chia rẽ - Tích hợp - Kích thích, Ảo ảnh, Ảo tưởng, Ảo cảm và cách chữa trị
7.10. Định luật Hợp nhất Thái dương (Law of SolarUnion):
Khi sự tương tác của các Thái dương được bàn đến theo khía cạnh vật chất và theo khía cạnh ý thức thì thuật ngữ này được dùng theo nghĩa huyền linh. Không thể bàn rộng về định luật này mà chỉ có thể nêu ra tính phổ cập của định luật Hấp dẫn này.
* Định luật này là Định Luật phụ của Định luật Hấp dẫn (Law of Attraction): Định luật hấp dẫn là định luật về lửa, lửa này được tạo ra do sự phối hợp trong lúc tiến hóa của hai cực… (LVLCK, 1168–1173).
Các mầu |
Hợp nhất |
Nguồn |
3 màu: đỏ, xanh và xanh lục |
Mầu Trắng |
TTHM 217 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
............................................. |
....................... |
.............. |
+ Hợp nhất với linh hồn (Union with soul): Cũng là Mục tiêu tu đạo - Mục tiêu tu thiền định để giải thoát luân hồi
1. Chitta hay là chất trí (mind–stuff), thể trí, năng lực suy tư và là năng lực tạo ra hình tư tưởng, tức là toàn bộ tiến trình tư tưởng. Đó là vật liệu (material) do Chân Ngã hay linh hồn chi phối và dùng chất đó tạo ra các hình tư tưởng.
2. Bản chất thông linh (psychic nature) là kama–manas (tức dục vọng–trí tuệ), tức thể cảm dục có đượm một chút trí tuệ, đó là vật liệu bao bọc mọi dục vọng và xúc cảm (feelings) của chúng ta, nhờ đó mà các dục vọng và xúc cảm này mới thể hiện (expressed) ra được.
Hai loại chất liệu này (substance) đi theo đường lối tiến hóa riêng của chúng. Theo thiên cơ (logoic plan), các điểm linh quang (spirits hay divine sparks) bị các chất liệu này giam nhốt (imprisoned), thoạt tiên bị thu hút tới chúng do sự tương tác qua lại (mutual interplay) của tinh thần và vật chất. Bằng cách kiềm chế các chất liệu này và hạn chế (restraint) các hoạt động theo bản năng của chúng, các điểm linh quang này sẽ thu được kinh nghiệm và sau rốt sẽ giải thoát. Sự hợp nhất với linh hồn được tạo ra bằng cách đó. Đây là một sự hợp nhất mà người ta biết được và trải qua trong thể xác trên cõi biểu lộ trọng trược nhất nhờ kiềm chế được phàm ngã một cách sáng suốt và một cách hữu thức. (ASCLH, 10–11)
+ Hợp nhất hay hoà nhập với linh hồn (Thầy Hiệu trưởng trả lời câu hỏi của môn sinh (Anh Kiệt dịch)
Khi chúng ta sử dụng một từ như hợp nhất (fusion), chúng ta phải suy nghĩ về mức độ hợp nhất có thể xảy ra. Hợp nhất với linh hồn là một quá trình nhiều cấp độ, và rất nhiều người đang làm việc trong lĩnh vực này đang hướng về lần điểm đạo thứ hai, và chúng ta không thể hy vọng rằng những người này sẽ có sự hoà nhập linh hồn ở mức độ của điểm đạo đồ bậc ba, vốn rất ít đệ tử trong nhóm của Chân sư DK vào thời điểm đó đạt được, hoặc ở cấp độ thứ tư mà đối với tôi là tuyệt đỉnh của sự hoà nhập vào linh hồn. Nhưng một loại hoà nhập hay hợp nhất đến một mức độ nhất định có thể được xác định bằng sự thành công, nói cách khác, có đủ ảnh hưởng từ linh hồn để nhìn xuyên qua ảo cảm, và ít nhất là nhận diện được nó, có thể làm điều gì đó về nó và giải phóng bản thân khỏi nó, bởi vì sống trong tâm trí được linh hồn thấm nhuần (soul-infused mind) ở một mức độ nhất định nào đó sẽ tự động giải thoát bạn khỏi sự nhạy cảm với ảo cảm này.
Vì vậy, sự tích cực là tạm thời, sự tiêu cực cũng tạm thời, nhưng sự hoà nhập linh hồn đối với những người đang làm việc ở giai đoạn mà Ngài mô tả ở đây là chưa hoàn thiện, ngay cả ở cấp điểm đạo thứ ba cũng chưa không hoàn thiện. Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận về sự hợp nhất hay hoà nhập với linh hồn. Tôi hy vọng đã làm rõ điều này đôi chút cho bạn.
+ Tam Quang Phổ - Trời Trăng Sao và Tam Tài Thiên Địa Nhân - Trời Đất Người:
Hiện nay, chư vị phải được tin tức mờ mờ ảo ảo, vội vội vàng vàng thấy bổn chân. Lại như không có hình tướng mà nói thấy hình tướng. Thấy bổn tôn tức là thấy rõ tự tánh của chính mình.
Soi thấy năm uẩn đều không.
"Tam quang phổ chiếu thấu tam tài
Nhất quy hợp xứ phục nhất lai
Kiến sắc tức không thọ nạp thị
Vọng tưởng quyện lưu hành nghiệp bài
Thức nãi liễu biệt ngũ âm cụ
Cảnh hoa thủy nguyệt tuyệt trần ai
Không nhi bất không minh đại dụng
Kiến do vị kiến lạc khoái tai."
Dịch :
"Ba quang phổ chiếu thấu ba tài
Nhất quy hợp xứ lại nhất lai
Thấy sắc tức không thọ nạp thế
Vọng tưởng chuyển lưu, tan hạnh nghiệp
Thức vẫn phân biệt đủ năm âm
Gương hoa trăng nước tuyệt trần ai
Không mà chẳng không rõ đại dụng
Thấy như chưa thấy vui vô vàn".
"Tam quang phổ chiếu thấu tam tài, (ba quang phổ chiếu thấu ba tài)".
Ba quang là mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao. Phổ chiếu tức là phổ biến chiếu sáng. Ba tài là trời, đất, người. Ba quang là văn tự bát nhã quang, quán chiếu bát nhã quang, thật tướng bát nhã quang. Thật tướng bát nhã quang tức là thậm thâm bát nhã quang. Soi thấy năm uẩn đều không. Dùng ba quang chiếu thấu ba tài, tức chiếu khắp trời, đất, người.
"Nhất quy hợp xứ lại nhất lai".
Nhất quy hợp xứ tức tự tánh của mình. 'Nhất' là nói tự tánh. 'Hợp xứ' cũng là chỗ của tự tánh. Xưa nay muôn pháp đều quy về một. Một quy về hợp xứ. Ngài Thần Quang có nói bài kệ :
"Muôn pháp quy về một
Một quy về hợp nhất
Thần Quang vốn chẳng sớm biết Đạt Ma
Vếch tai núi quỳ nghe Ngài dạy chín năm
Chỉ cầu thoát khỏi Diêm La".
Vì sao thế ? Tâm chúng ta cũng chính là tánh. Một khi quay về liền hợp xứ. Hợp tức là tương hợp. Tương hợp với gì ? Cùng tương hợp với Phật tánh. Chư vị cùng Phật tánh tương hợp, rồi trở về cội gốc, lại xuất sanh diệu dụng. Diệu dụng này chính giúp thành tựu Phật quả, gọi là trở về nhất lai, cũng là ông Phật của chư vị. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Hợp nhất (unity): Hợp nhất có thể được xem như là sự thích nghi hữu thức của vị đệ tử được điểm đạo vào tổng thể lớn hơn, vì sự thu hút của vị đệ tử vào nhóm nhờ việc tuân thủ vào các định luật của linh hồn và với tư cách chi phối thái độ của y đối với những gì mà vị này đang sống, hoạt động và hiện tồn. (LV7C, 265)
+ Tiến trình xuất lộ sự kiện [Tương đồng với Khởi nghiệp/ Lãnh đạo]: ... Bạn cần nghiên cứu kỹ, vì khi hiểu rõ và nhận định đúng bạn mới lãnh hội được những gì lợi ích từ giáo huấn của tôi về các điểm này.
Hiển nhiên là lịch sử thế giới vốn dựa vào sự xuất lộ của các ý tưởng, rồi chúng được chấp nhận, biến thành lý tưởng, và rốt cuộc bị thay thế bởi sự áp đặt của các ý tưởng tiếp theo. Chính trong lĩnh vực các ý tưởng này nhân loại chưa có thể hoạt động tự do. Đây là điều quan trọng cần lưu ý. Khi một ý tưởng trở thành lý tưởng, thì nhân loại có thể tự do loại bỏ hay chấp nhận nó. Thế nhưng, các ý tưởng đến từ nguồn cao siêu hơn, và được áp đặt lên trí tuệ nhân loại, dù họ có muốn điều đó hay không. Tùy theo cách nhân loại sử dụng các ý tưởng này (vốn phát ra từ nguồn thiêng liêng, thể hiện thiên cơ cho cuộc tiến hóa hành tinh) mà họ sẽ tiến nhanh hay chậm vì thiếu hiểu biết.
Nhân loại ngày nay nhạy cảm với các ý tưởng hơn bao giờ hết. Vì thế mà có nhiều ý thức hệ tranh đấu với nhau. Vì thế mà ngay cả quốc gia ngoan cố nhất cũng tìm cách bào chữa dựa vào một lý tưởng nào đó – để bênh vực cho kế hoạch của mình – đối với các quốc gia khác, khi bị cho là vi phạm các luật đã được công nhận. Đây là một sự thực rất có ý nghĩa đối với Thánh Đoàn, vì nó cho thấy trình độ mà nhân loại đã đạt. Các ý tưởng chính trên thế giới ngày nay gồm năm loại, rất đáng cho chúng ta lưu ý:
1. Các ý tưởng lưu truyền từ xưa, đã chi phối đời sống nhân loại qua nhiều thế kỷ – xâm lược để chiếm hữu, và thẩm quyền của một người, một tập thể hay giáo hội đại diện cho Nhà nước. Vì chính sách, các thế lực đó có thể hoạt động ở hậu trường, nhưng rất dễ nhận thấy các nguyên tắc và động cơ của họ – tham vọng ích kỷ, và thẩm quyền được áp đặt bằng bạo lực.
2. Những ý tưởng tương đối mới như chủ nghĩa Quốc xã, Phát-xít, và Cộng sản, dù chúng không thực sự mới như mọi người vẫn nghĩ. Chúng có một điểm quan trọng giống nhau: Nhà nước hay cộng đồng được xem là quan trọng, trong khi cá nhân thì không. Cá nhân có thể bị hy sinh bất cứ lúc nào cho lợi ích của Nhà nước, hoặc cái gọi là lợi ích chung.
3. Ý tưởng, không cũ và cũng không đặc biệt mới mẻ, về nền dân chủ trong đó (giả định rằng, nhưng chưa bao giờ thực tế là) người dân cầm quyền, và chính phủ đại diện cho ý muốn của toàn dân.
4. Ý tưởng về một liên bang thế giới, được chia thành những khu vực rộng lớn khác nhau. Đây là ước mơ của một số ít người có tư tưởng bao quát, mà nhiều người khác cho rằng nhân loại còn chưa sẵn sàng. Toàn thế giới đều hướng đến mục tiêu này, dù đang có nhiều ý thức hệ chiến đấu với nhau để giành thế thượng phong. Mọi người quên sự thực quan trọng là tất cả các ý thức hệ này đều có thể tạm thời được sửa đổi cho thích ứng với các đoàn nhóm hay quốc gia chọn sử dụng chúng. Nhưng không ý thức hệ nào thích hợp cho mọi người sử dụng chung (điều này đúng với ý thức hệ dân chủ cũng như bất cứ ý thức hệ nào khác). Rất có thể, chúng thích hợp với những quốc gia chấp nhận chúng, và nắn đúc đời sống quốc gia ấy theo các tiền đề của chúng. Chúng chỉ tạm thay thế trong thời kỳ chuyển tiếp này giữa Song ngư và Bảo bình, và không thể kéo dài mãi được. Cho đến nay, chưa có gì là trường tồn cả. Khi đạt đến mức trường tồn, vĩnh cửu, thì cuộc tiến hóa này sẽ ngưng dứt, và Thiên cơ sẽ hoàn thành. Và sau đó thế nào? Sẽ có cuộc thiên khải vĩ đại nhất đến vào lúc kết thúc thời kỳ của thế giới này. Bấy giờ trí tuệ, trực giác và ý thức linh hồn của con người sẽ phát triển đến mức có thể thông hiểu.
5. Ý tưởng về một Huyền giai tinh thần (Thánh Đoàn) sẽ quản trị nhân dân thế giới. Thánh Đoàn sẽ thể hiện những gì tốt đẹp nhất của các chế độ quân chủ, dân chủ, chuyên chế, và cộng sản. Hầu hết các nhóm ý thức hệ này đều có ẩn chứa nhiều sự mỹ lệ, sức mạnh, và minh triết, cũng như có phần đóng góp sâu xa và quí giá cho toàn thể. Rốt cuộc mỗi nhóm sẽ thấy sự góp phần của mình được thể hiện dưới quyền kiểm soát của Thánh Đoàn gồm các vị Chúa Từ bi và các Chân sư Minh triết. Sự khôi phục quyền kiểm soát của thời kỳ Atlantis cổ xưa bởi các lực lượng tinh thần vẫn còn xa trong tương lai. Nhưng trong Thời đại Bảo bình sẽ phục hồi sự hướng dẫn tinh thần nội tại này trên vòng tiến hóa cao hơn.
Chắc chắn rằng tất cả các sự kiện này phải được mang lại bởi công tác của những người đang hoạt động trên một trong năm cung kiểm soát nói trên. Không điều gì có thể ngăn chặn hay cản trở cố gắng kết hợp của họ. Đây là điều các bạn cần ghi nhớ. Người thời nay thường lên án ý thức hệ mà họ không quen thuộc và không sử dụng được. Họ bác bỏ những ý tưởng nào không có trong đời sống hay truyền thống của quốc gia và cá nhân họ, không thích hợp với cá nhân họ hoặc không đáp ứng được nhu cầu của quốc gia mà họ là công dân.
Nhận thức được các sự kiện này có thể đưa đến hai kết quả, nếu áp dụng đúng: thứ nhất, người chấp nhận và ủng hộ một ý thức hệ nào đó sẽ không còn chống đối các ý thức hệ khác. Họ hiểu rằng hầu như nơi họ sinh ra và quá trình phát triển đã khiến họ – với tư cách cá nhân – trở nên như hiện nay, và qui định niềm tin của họ. Thứ hai, người ta sẽ không còn áp đặt ý thức hệ (tôn giáo hay chính trị) mà cá nhân hay quốc gia của mình chấp nhận, lên những quốc gia hay người khác. Đây là những bước căn bản rốt cuộc đưa đến hòa bình và thông cảm, vì thế mà cần được chú trọng ngày nay...... (Nguồn: Vận Mệnh Của Các Quốc Gia)
+ Vật chất và chất liệu (Matter and Substance): Để cho thật chính xác, để cho khỏi lẫn lộn và quan niệm lầm lạc (misconception), nên dùng thuật ngữ:
* “Vật chất” (“Matter) để chỉ tập hợp các vật (objects) có thể tri giác được, còn thuật ngữ
* “Chất liệu” (Substance”) để chỉ Thực Tướng (Noumena). (GLBN II, 42)
+ Tiên thiên khí: Chất liệu nguyên thủy (Primordial Substance, Bắc Phạn gọi là Akasha hay Tiên thiên khí) còn được gọi là Chất liệu Vũ trụ, tức Vật chất (Matter).
- Vật chất, tức là Đầu (Alpha) và Cuối (Omega) của Hiện Tồn, chỉ là 2 phương diện (facets) của Tồn Tại Tuyệt Đối duy nhất (the one Absolute Existence). (GLBN II, 39)
+ Vật chất (matter hay material): Vật chất là tinh thần (spirit) ở mức độ biểu hiện (point of expression) thấp nhất. (CTNM, 589)
+ Nói về mặt nội môn, từ ngữ “vật chất” được dành để chỉ mọi hình tướng (forms) trong ba cõi thấp. (CVVTDT, 189)
+ Nên nhớ rằng, đối với nhà huyền linh học (occultist), vật chất (matter) là toàn thể các vật tồn tại (totality of existence) trong vũ trụ vốn có thể tri giác được trên bất luận cõi giới nào. (GLBN II, 238)
+ Vật Chất Biểu Lộ (substance):
- Chưa biến phân là Mulaprakriti. [Vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và Khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba/ Ngôi ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất_TCF/ LVLVT, 118]
- Đã biểu lộ là Prakriti. (Thư của Chân Sư 379)
+ Prakriti (Vật chất): Danh xưng này có nguồn gốc do chức năng của nó như là nguyên nhân thuộc vật chất (material cause) của cuộc tiến hóa đầu tiên của vũ trụ. Có thể nói nó được cấu tạo bằng 2 ngữ căn: “pra” là biểu hiện (to manifest) và “krita” là khiến cho (make); có nghĩa là những gì khiến cho vũ trụ tự biểu hiện. (ĐĐTNLVTD, 222)
- Prakriti (vật chất) bao giờ cũng bị gọi là Hão Huyền (My), Ảo tưởng (Illusion) và có số phận chịu diệt vong (is doomed to disappear) với mọi cái khác, kể cả các thần (the Gods) vào Chu Kỳ Quy Nguyên (Pralaya). (GLBN I, 299)
+ Tiên thiên khí (Akasha) (LVLCK, 43):
- Là tổng hợp của dĩ thái (ether).
- Là Nguyên thể (tính chất) của dĩ thái.
- Là dĩ thái nguyên thủy.
- Là Thượng Đế Ngôi 3 đang biểu hiện.
+ Akasha - 8 danh xưng khác:
7) Mulaprakriti (Vật chất chưa biến phân) ..... Dĩ thái với 4 tiểu phân: là Phong, hoả, thuỷ, địa
8) Vật chất tiền căn nguyên (LVLCK, 58)
+ Dĩ Thái: Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Tiên Thiên Khí (Akasha). (GLBN I, 78)
+ Dĩ thái lực tức là sinh lực. (TLHNM II, 309)
+ Dĩ thái là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) ở cõi hồng trần. Dĩ thái có 4 phân thân của nó là Tứ Đại: Phong, Hỏa, Thủy, Địa. (LVLCK, 43)
+ Hậu Thiên Khí: Aether - Hậu Thiên Khí.
+ Hậu thiên khí: Là biến phân của vũ trụ năng (Fohat) trên cõi Tinh thần, tức cõi Niết Bàn. - Là dĩ thái cõi thứ 3 của vũ trụ. (LVLCK, 43, 626)
- Thái dương hệ hiện tại sẽ chứng kiến sự vượt trội 3 cõi hồng trần vũ trụ kế tiếp, chất hậu thiên khí cõi thứ tư, thứ ba và thứ hai cùng sự phối kết của thể dĩ thái vũ trụ (LVLCK, 157)
+ Hậu thiên khí: Là không khí, lửa, nước, điện, dĩ thái, sinh khí và các tên gọi đại loại như vậy. (Với lửa hoạt nhiệt. Trên cõi cao nhất, sự phối hợp của 3 yếu tố (hoạt nhiệt, tiềm nhiệt và chất liệu nguyên thuỷ mà chúng làm cho linh động) được biết dưới dạng thức ‘biển lửa’, trong đó Tiên thiên khí (Akasha) là biến phân thứ nhất của vật chất tiền căn nguyên. Trong lúc biểu lộ, Akasha tự biểu hiện ra dưới hình thức Fohat hay năng lượng thiêng liêng và Fohat trên các cõi khác nhau được biết như là Hậu thiên khí) (LVLCK, 57)
+ Vật chất và dĩ thái và những từ đồng nghĩa - Matter and ether are synonymous terms:
Bảy cõi giới chính này thuộc thái dương hệ của chúng ta là bảy cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ, chúng ta có thể từ đó thấy được lý do được Bà H. P. B. nhấn mạnh về sự kiện rằng vật chất và dĩ thái là những từ đồng nghĩa và rằng chất dĩ thái này được thấy ở dạng này hay dạng khác trên tất cả các cõi giới, và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, được gọi một cách không phân biệt là mulaprakriti hay vật chất tiền di truyền nguyên thủy, và Khi được phân hoá bởi Fohat (hay Lực năng lượng sống, Thượng Đế thứ ba/ Ngôi ba hay Brahma), nó được gọi là prakriti, hay vật chất. (TCF/ LVLVT, 118)
+ Cõi Vật Chất: Tập hợp các cõi vật chất, tức là cõi hồng trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí (lower mental plane); (GLTNVT, 104)
* Xem thêm: Dĩ Thái - Các đại - Nước của không gian - Tiên Thiên Khí - Akasha - Tinh tú quang - Biển lửa - Điện năng.
+ Toàn Linh thức (Universal soul, linh hồn vũ trụ):
- Toàn linh thức hay là tâm thức của Thượng Đế, Đấng khai sinh ra vũ trụ của chúng ta. (TLHNM I, 57)
- Toàn linh thức tức là Pleroma. (LVLCK, 685)
- Toàn linh thức tức là Atma. (LVLCK, 137)
+ Định nghĩa Akasha: Tinh tú quang - Akasha (Vật chất nguyên thuỷ) hay Linh hồn vũ trụ; cái Khuôn của vũ trụ; Bí Nhiệm Huyền Linh từ đó mọi vật vốn hiện tồn được sinh ra do sự phân ly hay biến phân. (LVLCK, 58) (Xem phân biệt: Tinh tú quang và Cảm dục quang)
Các Đức tính và các Tật xấu EPI 201-2 (Nguồn: Bảy đấng kiến tạo bảy Cung GQ1) Các Đức Tính đặc biệt của Cung 1: Sức mạnh, lòng can đảm, sự kiên định, sự trung thực, phát sinh từ sự vô úy tuyệt đối, năng lực cai trị, là khả năng nắm bắt những vấn đề lớn theo cách thức nhìn xa trông rộng, và năng lực xử lý con người và các biện pháp. Các Tật Xấu của Cung 1: Tự cao, tham vọng, bướng bỉnh, cứng rắn, kiêu ngạo, ham muốn kiểm soát người khác, ngoan cố, giận dữ. Các Đức Tính phải có: Sự dịu dàng, khiêm tốn, sự cảm thông, lòng khoan dung, kiên nhẫn.
+ Vật cực tắc biến - Quy luật tự nhiên
Vật cực thì biến: Cường cực thì biến suy - Nhược cực biến vượng.
Bắt đầu là tiến, tiến tới cực là lúc thoái. Hành giả biết tiến thoái, lên xuống, nông sâu thì đã có thể bàn về Mệnh vận.
Then chốt là Tiến Thoái đúng thời, hiểu biết đúng lý không thể không biết. Cần phân biệt thời Vượng Tướng Hưu Tù mà phán đoán Tiến Thoái. (Sách: Trích Thiên Tủy)
+ Quy luật phân năm trong Dịch học (Chiêm tinh học): Quy luật phân Cung theo Tiết Khí [Theo Mặt trời]
- Chiêm tinh học lấy Đông chí phân năm. Tức điểm Chí và điểm Phân để phân mùa tiết [Theo quy luật "Cực thì biến" của Năng lượng/ Vật chất], phù hợp năng lượng/ Tâm trí
- Tử vi / Tứ trụ lấy Lập xuân phân năm. Tức điểm Lập 4 mùa để phân mùa tiết [Cách nhau 1,5 Tiết khí. Quy luật Trường Sinh Ngũ hành 4 mùa], phù hợp nghề Nông/ Hình tướng hiện.
+ Cực điểm thì biến: Trích đoạn ... Đây là một ví dụ cực thối thành thơm, cực thơm thành thối (Khi có mùi hương Trầm thì Mùi thối bị lấn át). Đối với con người cũng đúng như vậy. Nơi chỉ có người xấu ác thì thường có một mùi hôi thối–ai cũng ngửi thấy khó chịu. Nhưng, có khi chỉ cần một người tốt trong đó, họ lan toả đức hạnh của mình tạo nên sự chuyển hoá người xấu thành tốt. Sự hiện diện của họ ví như hương chiên-đàn. Nên nói: khi sự việc đạt đến cực điểm của nó ắt sẽ thay đổi trở lại. Khi bế tắc cùng cực thì sẽ có sự hanh thông.[49] Khi điều gì đạt đến mức tồi tệ nhất, thì nó trở nên tốt đẹp. Và khi việc gì đạt đến mức tốt đẹp nhất, thì nó trở nên tồi tệ. Chẳng hạn, khoa học tiến bộ của thế giới ngày nay đưa đến rất nhiều khám phá mới. Nhưng khi sự phát minh ấy đã đạt đến cực điểm, thì thế giới sẽ bị huỷ hoại. Và, sau đó con người sẽ hoàn toàn ngu si. Thế thì, sau thời gian dài ở trong ngu muội, họ sẽ bắt đầu phát minh ra nhiều thứ trở lại, và khi họ phát minh ra được nhiều thứ, thế giới sẽ bị huỷ hoại trở lại. Phương thức tồn tại của thế giới nầy là như vậy. Nó biến chuyển theo từng chu kỳ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Vật Cực điểm thì biến:
Thế giới có nhiều ví dụ về Cực điểm sẽ biến Thông. Ví dụ:
Trời hết mưa rồi sẽ nắng, bão lụt lửa cháy rồi cũng tan biến. Ví như sau cơn mưa bão vùi dập, vạn vật đâm trồi nảy lộc phát triển, đổi thay rất nhanh.
Trong ngày: Mặt trời lên đỉnh cao sẽ xuống.
Trong mùa: Nhiệt độ cực nóng tột đỉnh biến thành mát dần, hay lạnh tột đỉnh sẽ biến thành ấm dần.
Vui cười, hạnh phúc cực đỉnh sẽ chuyển thành buồn phiền, hoạn nạn ... thậm chí cái chết đến
Vạn sự ở đời tuân theo quy luật vũ trụ là như thế, vậy nên
+ Với việc vui thì không nên hưởng thụ vui đến tột đỉnh vì sẽ biến thành xấu, nên biết tiết giảm để chánh khổ đau.
+ Với việc xấu cần nhẫn lại chịu đựng, vì chịu khổ sẽ đến vui, hết nghèo sẽ đến giầu có ... chưa gặp thời cứ chăm chỉ làm việc.
+ Trong tình duyên cũng vậy, luôn nên giữ mình, bởi trao hết những gì mình có thì thường sẽ chia tay ...
Vạn sự ở đời đều là như thế. Vậy nên biết, như Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng pháp đã nói, KHÔNG bao giờ có đường cùng đâu, vì trong khổ đau cùng cực luôn có Cánh cửa hạnh phúc đâu đó, hãy bình tâm nhẫn lại sẽ Thấy và bắt đầu cuộc sống mới, tiến đến bình yên, an vui, hạnh phúc ...
+ Thế giới báo - Quy nạp Âm Dương:
- Thế giới Y báo - Muôn vật vô tình: Gồm núi sông đất liền, vạn sự vật nhân tạo, các hành tinh, thiên hà ... cho đến muôn cõi thế giới tuân theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không.
- Thế giới Chánh báo - Các loài hữu tình: Thân người, sự sống muôn loài có tình tuân theo quy luật Sinh - Lão - Bệnh - Tử; (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 2)
+ Tương ứng khí hình: Đại Sư Huyền Trang dạy, "Rồng đất không thể làm mưa, nhưng muốn cầu mưa thì cần có rồng đất". Phàm Tăng (Người xuất gia không giữ giới) tuy họ không thể ban phúc, nhưng muốn cầu phúc thì cần có tâm cung kính họ.
+ Quẻ Càn Khôn: Cần phân biệt bốn đức tính Nguyên - Hanh - Lợi - Chinh của Quẻ Càn và quẻ Khôn không chỉ khác nhau ở Âm Dương, mà còn phải theo Đạo thuận theo. Người thuận theo Đất - Đất thuận theo Trời - Trời thuận theo Đạo và Đạo theo Tự nhiên.
+ Đạo Càn Khôn: Càn là Cha - Khôn là Mẹ. Thánh hiền vẫn dạy, nguyên nhân của những người con là do người mẹ. Phân loại con của ai là của người Cha, nên con cái mang họ Cha là hợp lẽ Trời Đất.
+ Đạo làm người trong kinh dịch: LTS: Ðức Phật dạy rằng: Làm người cho tròn rồi mới làm Thánh hiền, làm Phật.
Nghĩa là xứng danh Thiện nam tử - Thiện nữ nhân trước đã. Người Thiện theo Thế tục thì thành tựu ngũ luân và ngũ thường để xứng danh Người quân tử đã. Theo Phật pháp thì tu giữ ngũ giới đến thập giới, là đoạn ác tu thiện, làm lành lánh dữ, Hiếu thân Tôn sư làm đầu.
Cần nghiên cứu tỷ mỷ sự phản ảnh Thời thế trong từng quẻ mà người quân tử dụng công tu hành tương ứng, lúc nên tiến thì tiến, đáng lùi thì lùi, nên dừng thì dừng, nên chuẩn bị tích lũy thì lo tích trữ lương thực, thuốc men, thời càng suy vi thì càng cần dữ Tâm bình Khí hòa chánh hoạn nạn .... Kinh doanh chẳng khác đánh giặc, mình thường có Tâm toan tính, lừa dối, thâm hiểm ..., hại người lợi mình thì chiêu cảm sự toan tính, lừa dối .... là tự hại mình, buôn bán thua lỗ ... từ đây mà ra, chẳng phải chỉ do nhân tiền kiếp nếu hiện kiếp vẫn hành động như thế => Thuận theo thời thế mà hành đạo người quân tử, phòng thân để vượt qua chướng ngại, khổ đau.
+ Chứng Đạo: Có nghĩa là bắt đầu hay tiến nhập vào sự sống tâm linh hay vào giai đoạn mới trong sự sống đó. Đó là bước đầu và các bước kế tiếp trên Thánh đạo. Theo nghĩa đen, một người được điểm đạo lần thứ nhất là người đã đi bước đầu tiên vào giới Tinh thần, đã dứt khoát vượt qua khỏi giới nhân loại để vào giới siêu nhân loại. (ĐĐNLVTD, 10).
+ Điểm đạo: Về thực chất, điểm đạo là việc chuyển ra khỏi các kiềm chế cũ xưa, đi vào sự kiềm chế của các giá trị thiên về tâm linh hơn và ngày càng cao sâu hơn. Điểm đạo là việc mở rộng ý thức để đưa tới việc thừa nhận ngày càng nhiều các thực tại nội tâm. Đó cũng là việc thừa nhận một ý thức đổi mới về việc cần có thay đổi và điều khiển một cách khôn ngoan các thay đổi cần thiết này sao cho có thể tạo ra tiến bộ thật sự; ý thức được mở rộng trở nên bao dung hơn và bao quát về mặt thiêng liêng, có sự kiềm chế mới và mạnh mẽ hơn của linh hồn khi linh hồn ngày càng đảm nhận hướng đi cho sự sống của cá nhân, của một quốc gia và của thế giới.(SHLCTĐ, 136).
Khi dọn mình để được điểm đạo, kẻ tìm đạo cần phải làm được 3 điều:
a/ Kiểm soát mọi hoạt động của phàm ngã tam phân. Điều này bao hàm việc đặt năng lượng thông tuệ vào mọi nguyên tử thuộc 3 thể của mình – thể xác, thể cảm dục và thể hạ trí. Theo nghĩa đen, đó là sự tỏa chiếu của Brahma hay Ngôi Ba, của Thượng Đế nội tâm.
b/ Hằng ngày, kiểm soát lời nói trong mọi giây phút. Đây là điều dễ nói nhưng khó thực hành nhất. Kẻ nào làm được sẽ mau đến gần mức giải thoát. Đây không phải là tính ít nói, tính lầm lì, im lặng, thầm lặng, vốn thường là đặc trưng cho bản chất kém tiến hóa, mà thực ra đó là tình trạng thiếu khả năng diễn đạt. Ở đây là việc dùng ngôn từ một cách có kềm chế để thành đạt một vài mục tiêu, tiết kiệm năng lượng của lời nói lúc không cần thiết – một vấn đề hoàn toàn khác. Nó đòi hỏi việc hiểu biết các chu kỳ, các thời kỳ và mùa tiết, nó đòi hỏi việc hiểu biết về quyền năng của âm thanh và về các hiệu quả do lời nói tạo ra; nó bao hàm việc thấu hiểu về các mãnh lực kiến tạo của thiên nhiên và việc vận dụng các mãnh lực đó một cách đúng đắn và được dựa trên khả năng vận dụng chất liệu cõi trí và khởi động chất liệu đó để tạo ra trong chất liệu cõi trần các kết quả phù hợp với mục đích đã được minh định của Thượng Đế nội tâm. Đó là sự tỏa chiếu của Ngôi Hai của Đại Ngã, Vishnu, hay trạng thái kiến tạo hình hài, đó là đặc tính quan trọng nhất của linh hồn trên cảnh giới riêng của linh hồn. Hãy suy gẫm kỹ điều này.
c/ Tham thiền để đạt được mục đích của Chân Ngã. Nhờ thiền định như thế, trạng thái thứ nhất ngày càng vượt trội và ý chí hữu thức của Thượng Đế nội tại mới có thể tự biểu lộ ở cõi trần. (ĐĐNLVTD, 156–157)
+ Điểm Đạo: Dù nhận điểm đạo trong Capricorn, con người là một Điểm đạo đồ trước khi được điểm đạo, đây là bí ẩn của cuộc điểm đạo (CTHNM, 258)
+ Tu chứng lên các bậc A La hán: Ðức Phật dạy, Này Câu-hi-la, sau khi đã chứng được quả Tư-đà-hàm rồi mà muốn chứng được quả A-na-hàm thì phải tinh cần tư duy năm pháp thọ ấm này là bệnh, là ung nhọt, là gai nhọn, là sát hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì đây là chỗ cần tư duy. Nếu Tỳ-kheo nào, đối với năm thọ ấm này mà tinh cần tư duy thì cũng sẽ chứng được quả A-na-hàm. Sau khi đã chứng được quả A-na-hàm, mà muốn chứng được quả A-la-hán, cần phải tinh tấn tư duy về năm pháp thọ ấm này là bệnh, là ung nhọt, là gai nhọn, là sát hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì đây là chỗ cần tư duy. Nếu Tỳ-kheo nào, đối với năm thọ ấm này mà tinh cần tư duy, thì cũng sẽ chứng được quả A-la-hán. (Nguồn: Kinh A Hàm)
+ Tu thiền chứng đắc đạo quả: Ngồi tham thiền thất nếu đắc được cảnh giới gì cũng mặc, đừng sinh tâm hoan hỷ hay ưu sầu hoặc sợ sệt. Tóm lại, bất cứ cảnh giới thuận hay nghịch / Tốt hay xấu nào đến cũng đừng động tâm, nếu tâm động thì thiên ma liền thừa hư nhập vào, có thể nhiễu loạn định lực của bạn. Nếu sinh tâm hoan hỷ thì con ma hoan hỷ/ Cười đến. Nếu sinh tâm u sầu thì con ma khóc đến nhiễu loạn. Ma hoan hỷ đến thì suốt ngày cười vô cớ - Là ma cường nhập thể. Nếu sinh tâm u sầu, bi ai thì có con ma khóc nhập thể, suốt ngày cứ chảy nước mắt gào khóc, tự mình cũng không biết vì sao mà khóc. Cho nên tu hành không thể tùy tiện khóc, cười được. Phải biết cảnh giới là khảo nghiệm định lực của mình mà thôi. (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chân hương - Ngũ phần hương pháp thân: Giới hương - Định hương - Huệ hương - Giải thoát hương - Giải thoát tri kiến hương
Sư nói rằng: "Một là giới hương, nghĩa là tâm mình không tưởng điều quấy, không toan việc dữ, không sanh ghen ghét, không sanh tham lam giận hờn, không mong cướp của hại người. Ấy gọi là Giới hương.
Hai là Định hương, nghĩa là thấy các cảnh tướng lành dữ mà tâm mình chẳng tán loạn. Ấy gọi là Định hương.
Ba là Huệ hương, nghĩa là tâm mình không bị ngăn lấp, mình lấy trí huệ mà quán chiếu tánh mình và chẳng tạo các điều dữ. Tuy mình tu các hạnh lành mà tâm không chấp trước, thường kính người trên tưởng kẻ dưới, hay xót thương những kẻ côi cút nghèo nàn. Ấy gọi là Huệ hương.
Giảng:
Thứ nhất giới hương, chính là tâm mình không có một chút thị phi, không có tất cả thiện ác, không có tâm tật đố. Quý vị muốn trì giới, thì không nên có tâm tật đố, không có tham tâm, sân tâm, không cướp hại, và cũng không có những việc cướp bóc giết hại người, đó chính là giới hương.
Thứ hai định hương, chính là nhìn thấy tất cả cảnh giới thiện ác mà trong tâm không dao động, đó là định hương.
Thứ ba trí huệ hương, tức là tự mình không làm chướng ngại mình, không nên tự mình làm khó khăn cho mình, cần phải thường dùng trí huệ phá vô minh, quán chiếu tự tánh, các việc ác không làm. Cần phải làm các điều thiện, mà tâm không chấp trước. .... Nếu quý vị làm việc tốt, thì khi làm xong nên quên nó đi, không nên nói: "Tôi bố thí năm trăm đồng, một ngàn đồng…" .... Đối với Cha Mẹ, Sư Trưởng, bậc trên mình, cần phải cung kính, đối với người dưới phải từ bi, thương xót cứu tế giúp đỡ cô nhi, quả phụ v.v..
Bốn là Giải thoát hương, nghĩa là tâm không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, thông thả suốt thông (tự tại vô ngại).
Năm là Giải thoát tri kiến hương, nghĩa là tâm mình tuy đã không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, nhưng chẳng nên "trầm không thủ tịch." Phải học rộng nghe nhiều, phải biết Bổn tâm mình, phải rõ thông đạo lý của chư Phật, phải xen lẫn trong thế gian mà cứu nhơn lợi vật (hòa quang tiếp vật), không phải nhơn ngã, mà thẳng đến Bồ đề – cái Chơn tánh không thay đổi. Ấy gọi là Giải thoát tri kiến hương.
Chư Thiện tri thức! Chơn hương nầy, mỗi phần tự có cái chất xông thơm ở bên trong, đừng tìm kiếm bên ngoài.
Giảng:
Thứ tư giải thoát hương, chính là không có tâm phan duyên (tâm bám víu, dính vương), nếu có chỗ phan duyên thì không buông xả được, thường hay tưởng nhớ đến một sự việc nào, đó chính là tà niệm, thì không thể giải thoát được. Không nghĩ thiện, cũng không nghĩ ác, hoàn toàn tự tại, không có chỗ chướng ngại, đó chính là giải thoát hương.
Thứ năm là giải thoát tri kiến hương, tức không phan duyên điều thiện, cũng không phan duyên điều ác, nhưng cũng không chấp trước vào không mà trầm không trệ tịch. Không nên nói: "Tôi ngồi ở đây, cái gì cũng không học, đó chính là không." Kỳ thực đó là ngoan không, không có một chỗ dụng, giống như trong quả banh cũng là không nhưng cái không đó không có cái dụng nào. Cảnh giới trầm không trệ tịch này, cũng giống như cái không trong quả banh. Đó là ngoan không, tuy cùng là không, nhưng nó không giống với cái không của hư không. Đây biểu thị một người suốt ngày ngồi chết tại một chỗ, trăm vật không nghĩ, cái gì cũng không nhớ đến, đến giờ ăn cơm thì ăn cơm, giờ ngủ thì ngủ, cái gì cũng không làm, thời gian trôi qua vô ích; quý vị xem thế có đáng thương xót hay không?
Như vậy cần phải làm sao? Cần phải quảng học đa văn. Nay chúng ta nghe Kinh, học tập Phật pháp, cần phải nghe nhiều học rộng. Có người muốn học Phật pháp nhưng lại không nghe Kinh, cũng không học Phật pháp, đối với Phật pháp một chút cũng không biết, lại nói cái gì cũng hiểu rõ sáng suốt, đây là loại người trầm không trệ tịch.
Cần phải nhận thức bổn tâm chính mình, thông đạt tất cả nghĩa lý Kinh Phật, hòa quang tiếp vật. Cái gì là hòa quang? Như ở đây có cái đèn, ở kia cũng có cái đèn, đèn đều có ánh sáng, quý vị xem có khi nào đèn cùng đèn đánh lộn, hoặc khởi lên sự xung đột mà nói: "Ánh sáng của ngươi sáng hơn ta, không được như vậy, ngươi lập tức đem ánh sáng của ngươi thâu trở về!" hoặc nói: "Ánh sáng của ngươi nhỏ quá, sáng một chút nữa được không; nếu không, ngươi không được cùng ta tỏa ánh sáng trong phòng này!" Điều đó không bao giờ có. Chính là mọi người trong thế giới này, quý vị hành đạo của quý vị, tôi hành đạo của tôi, mỗi người thực hành đạo của mình mà không chướng ngại nhau. Quý vị không làm chướng ngại tôi, tôi cũng không làm chướng ngại quý vị, đó chính là hòa quang. Quang chính là ánh sáng quang minh, không thể nói danh dự của quý vị tương đối cao, cần phải đánh đổ quý vị xuống mà đưa cái danh dự của tôi lên. Quý vị làm việc của quý vị, tôi làm việc của tôi, như có người ganh tỵ tôi, thì có thể, nhưng tôi không được tật đố người. Quý vị giỏi hơn tôi, tôi càng vui vẻ; quý vị càng thành công tôi càng hoan hỷ, như thế sẽ không còn tâm tật đố. Có người nói: Tôi cùng với anh ta hòa quang, nhưng anh ta không có hòa quang với tôi.
Nếu quý vị hòa quang với ông ta thì sẽ không biết ông ta không hòa quang với quý vị, nếu biết ông ta không hòa quang với quý vị, đó biểu thị quý vị chưa có hòa quang với ông ta. Nếu ông ta không hòa quang đó là việc của ông ta, không nên chú ý đến, chỉ cần quý vị hòa quang với ông ta là được rồi.
Cái gì gọi là tiếp vật? Tức tiếp dẫn chúng sanh, tiếp dẫn tùy theo căn cơ chúng sanh. Ông thích Đại thừa Phật pháp, tôi liền giảng Phật giáo đại thừa; ông thích Phật giáo Tiểu thừa, tôi giảng pháp Tứ đế của Tiểu thừa, ông thích hành Bồ Tát đạo, tôi giảng Lục độ vạn hạnh; ông thích pháp Bích Chi Phật, tôi giảng Mười hai nhân duyên. Đó chính là hòa quang tiếp vật, tùy theo căn cơ chúng sanh mà thuyết pháp độ sanh, tiếp dẫn chúng sanh khiến chúng sanh thoát khổ được vui.
Cần phải vô ngã vô nhân mới có thể hòa quang tiếp vật, quý vị không nên tiếp độ một người liền tính toán rằng mình đã độ được một chúng sanh, công đức rất lớn. Không nên cho rằng: "Tôi nay độ ba vị Tỳ kheo, hai cô Tỳ kheo ni xuất gia, công đức của tôi rất lớn!" Người có tư tưởng này, ngay một chút vi trần công đức cũng không có. Vậy thì phải làm sao? Cần phải vô nhân vô ngã, hành sở vô sự, cho đến độ người thành Phật cũng không chấp trước công đức độ chúng sanh. Cho nên Kinh Kim Cang nói: "Diệt độ tất cả chúng sanh rồi, mà không có một chúng sanh thực sự diệt độ." .... Điều mà Kinh Kim Cang xiển thuật là: Vô nhân, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả, nhứt thiết chư pháp không tướng. Cho nên cần phải hiểu rõ chân nghĩa, trực chỉ Bồ đề. Chân tánh không thay đổi – chân tánh cũng không biến dị, đó gọi là giải thoát tri kiến hương. Ngay tri kiến cũng giải thoát, không có chỗ chấp trước,
"Vô nhân vô ngã Quán Tự Tại,
Phi không phi sắc kiến Như Lai"
Ai có thể vô nhân vô ngã, chính là Bồ Tát Quán Tự Tại. Không chấp không, cũng không chấp có (sắc chính là có sắc tướng), không lạc vào không cũng không lạc vào có, thì sẽ nhìn thấy Phật.
Quý vị Thiện tri thức! Ngũ phần hương Pháp thân này ở trong Pháp thân mỗi người, cho nên cần phải ứng dụng hương Pháp thân này, xông đốt trong tự tánh, không nên giong ruổi bên ngoài tìm cầu. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Các loại Khổ đau: Trích Kinh Đức Phật giảng cho ngài Phú Lâu Na.
Không phải là khổ là tập; chẳng phải là diệt là đạo. Không phải là trí là đắc. HT Tuyên Hóa giảng giải:
BA THỨ KHỔ: Trên đời nầy có nhiều loại khổ. Trước tiên có ba thứ khổ, rồi lại có tám thứ khổ.
Ba thứ khổ là: Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
- Khổ khổ là tâm trạng của người nghèo cùng. Chẳng hạn, nghèo tự nó đã là khổ, và nó trở thành khổ khổ khi người nghèo mắc bệnh, mà không có tiền để đi bác sĩ. Hoặc là người nghèo cùng ấy sống trong ngôi nhà dột nát, thình lình mùa mưa gió đến. Sống trong ngôi nhà dột nát đã khổ rồi, bị mưa dột khắp nơi trong nhà lại càng khổ hơn, chẳng có khác gì như ở ngoài trời cả.
Khổ khổ xảy ra khi người ta phải chịu đựng cảnh nghèo, thêm vào đó là không một đồng xu dính túi, không có tiền mua thức ăn, quần áo. Hoặc là có người đã không có tiền, đột nhiên nghe tin cha mình mất và không có tiền để mua quan tài.
- Hoại khổ xảy đến đối với người giàu có. Bình thường họ giàu có, rồi đến khi của cải bị tiêu tan. Chẳng hạn, có người làm ra rất nhiều tiền nhưng cất kỹ tiền trong nhà mình chứ không gởi vào ngân hàng. Đến khi nhà họ bị cháy, toàn bộ của cải bị thiêu sạch. Hoặc là vàng bạc của cải bị kẻ cắp lấy mất. Hoặc là, quý vị giữ kỹ tiền bạc của mình đến mức đi đâu cũng mang theo bên mình, không bao giờ rời, cho đến khi mình sơ ý và bị mất sạch.
- Hành khổ là cái khổ trong tiến trình sinh trưởng. Dù quý vị không trải qua khổ khổ như những người nghèo, không trải qua hoại khổ như những người giàu, nhưng quý vị vẫn có nỗi khổ khi trải qua thời thơ ấu cho đến trưởng thành, đến trung niên và đến lúc già chết. Tiến trình nầy diễn ra từ từ không dứt, và đó cũng là cái khổ. Đó là ba thứ khổ.
BÁT KHỔ ĐỜI NGƯỜI
1- Đầu tiên trong tám thứ khổ (bát khổ) là sinh khổ. Khi đứa trẻ vừa mới chào đơi, điều đầu tiên chỉ biết khóc.[8] Đứa bé không thể tự diễn đạt điều gì rõ ràng, nhưng khóc biểu hiện sự khổ. Cái đau lúc sinh ra giống như cái đau của con rùa đang còn sống mà bị bóc cái mai ra khỏi thân. Khi đứa trẻ vừa được sinh ra, mới tiếp xúc với không khí lần đầu, cái đau của nó cũng như vậy.
2- Cái khổ thứ hai là già khổ. Khi về già, người ta không điều khiển được tai mắt và tay chân. Họ không thể đi đây đó và thức ăn trở nên vô vị. Khi tuổi già đến, toàn cơ phận trong thân thể bắt đầu xuống cấp. Đó là lý do tại sao tuổi già trở nên kỳ quặc và hay cáu gắt. Họ chẳng khác gì đứa trẻ con, thế nên quý vị đừng trách móc tính tình họ làm gì.
3- Cái khổ thứ ba là bệnh khổ. Mọi sự trên thế gian nầy dường như là không công bằng cho lắm, nhưng bệnh tật thì hoàn toàn không thiên vị đối với một ai. Bất luận quý vị là giàu hay nghèo, sinh trong giòng dõi sang trọng hay nghèo hèn, ai cũng cảm thấy lo lắng bực dọc khi bệnh đến.
4- Cái khổ thứ tư là chết khổ. Cũng như vậy, đối với tất cả mọi người. Đến lúc mọi người ai cũng phải chết, bất luận người ấy là ai.
5- Cái khổ thứ năm là ái biệt ly khổ. Cái khổ phải xa lìa người thân yêu. Ai cũng biết yêu là gì, nhưng không ai nhận ra được có cái khổ trong sự yêu đương ấy–đó là nỗi khổ phải tách rời người mình yêu. Bất luận quý vị quý mến người mình thương bao nhiêu, cũng có lúc mình phải rời xa họ. Có những hoàn cảnh phát sinh khiến phải xa lìa, đó là nỗi khổ.
6- Cái khổ thứ sáu là oán tắng hội khổ. Cái khổ phải kết hợp với người mình không thích. Quý vị thực sự không thích một hạng người nào đó, nhưng quý vị cứ gặp hạng người ấy bất kỳ mình đi đâu.
7- Cái khổ thứ bảy là cầu bất đắc khổ. Cái khổ khi mong muốn những điều mà không thể đạt được.
8- Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Do sắc - thọ - tưởng - hành - thức dữ dội lừng lẫy. Do vô minh mà tạo ra vô lượng nghiệp xấu ác, đến khi đời sống phải thọ quả báo khổ nạn nhiều.
Trong đoạn văn này, do dạy rằng trong Như Lai tạng là không có tứ đế–chẳng có khổ, tập, diệt, đạo đế. Tập chỉ cho phiền não và diệt chỉ cho đạo lý để chứng đắc niết-bàn. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Các loại khổ
Ba khổ: ... Hơn nữa, bốn hoằng thệ nguyện cũng là chiếu theo ba khổ: Khổ khổ, Hành khổ, Hoại khổ của chúng sanh mà phát ra.
Khổ khổ chính là những nghèo cùng khốn khổ của chúng sanh.
Hoại khổ chính là chúng sanh dù được giàu sang, nhưng sự giàu sang đó hư hoại đi.
Hành khổ chính là đã không phải bị khổ sở vì nghèo thiếu, cũng không phải là giàu sang bị hư hoại, mà là hành khổ của vô thường biến đổi. Từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, suốt cả một đời niệm niệm đổi dời, cho nên có ba khổ.
Tám khổ: Sanh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh. Sanh là khổ, già là khổ, có bệnh là khổ, lúc chết lại càng khổ, sanh già bệnh chết đều là khổ; Ái biệt ly khổ là nỗi khổ đối với người mình yêu thích mà vì hoàn cảnh nào phải xa lìa. Yêu mà phải xa lìa là một thứ khổ, mà không yêu lại thường hội tụ ở một chỗ cũng là một thứ khổ, đó gọi là Oán Tắng hội khổ. Ví dụ: Mình không thích người ấy, ở một nơi nào đó lại chạm mặt với người ấy và cùng làm việc chung với họ, nỗi ấy gọi là Oán tắng hội khổ. Lại có một thứ gọi là Cầu bất đắc khổ, nghĩa là không toại lòng mong muốn, mong muốn được mà không thể được. Khi chưa được thì lo lắng cho được, khi đã được rồi thì sợ mất mát. Nhưng cái thứ khổ lo được lo mất không kể gì lợi hại, chính là Ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm thứ này giống như là ngọn lửa cháy bừng bừng. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, năm ấm này giờ giờ khắc khắc đều đi theo trên thân thể chúng ta gây nên vô vàn sự thống khổ.
Ngoài tám khổ ra còn có vô lượng vô biên khổ nữa. Tại sao có quá nhiều khổ như vậy? Ðó là vì chúng ta trong đời quá khứ gieo trồng quá nhiều nhơn khổ, cùng làm bạn bè với chúng mà không muốn xa lìa, vì thế gieo trồng nhơn duyên của khổ này mà nhận lấy khổ quả. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Chuyển hóa dục vọng: Điểm cần nhớ là dục vọng chế ngự và chi phối hành động khi nào sinh lực được tập trung vào bản chất dục vọng, như là hầu hết tình trạng của đa số con người. Nhưng việc kềm chế thể trí được vạch ra chỉ có thể hiệu quả khi sự sống được tập chú vào cõi trí. Khi có được sự tập chú này thì không cần phải dập tắt (suppression) dục vọng nữa vì sức mạnh của sự chú tâm có tập trung sẽ ở nơi khác và tất nhiên sẽ không còn dục vọng mãnh liệt nào nữa. Việc dập tắt dục vọng là một nỗ lực cần phải có của người quá tập trung vào thể cảm dục để mang lại lợi ích cho trạng thái ý chí của thể trí. Nhưng ít khi y làm điều này. Dục vọng có thể chấm dứt nhờ nỗ lực mạnh mẽ mà con người tạo ra để đạt được mức độ tâm thức trí tuệ nào đó, nhưng không có sự dập tắt nào thực sự xảy ra, cũng không có ý chí nào được cầu viện đến. Khi cuộc sống của con người được êm xuôi và được thể trí kềm chế từ các phân cảnh trí tuệ, thì bấy giờ sự chuyển hóa nhất định xảy ra. Sự chuyển hóa (mà nhờ đó bản chất cảm dục được thay đổi và chuyển biến) có thể có bản chất tâm linh hay là chỉ có bản chất thiết thực (expedient). Dục vọng có thể được chuyển hóa thành đạo tâm tinh thần hay thành một thái độ phù hợp với ý muốn của thể trí vốn đang biểu lộ nó. Do đó, cần phải thận trọng phân tích động cơ thúc đẩy và các mục tiêu.(CTNM, 348)
+ Quán tưởng hàng phục, đoạn dâm, chuyển hóa dâm dục (Nguồn)
- Tịnh Độ: Cầu sanh Tịnh Độ không yêu cầu bạn đoạn dục - Phải phục đoạn, là hàng phục tâm dâm dục lại. Lấy đá đè cỏ, đè nó xuống không cho khởi dậy, không hiện hành, không khởi tác dụng, các vị niệm “A Di Đà Phật” thì nhất định vãng sanh.
Hàng phục dâm dục
- Theo Tiểu thừa, thì nhờ đoạn trừ tình dục mà được giải thoát.
- Phật giáo Đại thừa không đoạn trừ phiền não, không đoạn trừ tình dục, mà là chuyển hóa tình dục, cũng tức là lấy trí tuệ Bát Nhã để chuyển hóa tham, sân, si. Bồ Tát thường giảng 8 chữ: “Đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”. Đó chính là nói về chuyển hóa tình dục, khuyên chúng ta không phải đoạn trừ cha mẹ mình, như vậy là khác với việc đoạn trừ tình cảm đối với cha mẹ.
- 7 quán Bất tịnh quán (Không trong sạch) khi: Cấu hợp - Sinh - Vị trí Bào Thai - Lớn bằng Máu mẹ - Sinh bẩn - Da bọc dơ bẩn, 9 lỗ tiết bẩn - Chết thân giữa nát;
Hoặc Quán 9 quán: Thân lúc chết - Thâm bầm lạnh lẽo - Thân thối giữa - Thối tha máu mủ - Giòi bọ - Gân và Xương - Trơ Xương trắng - Tản mạn - Đốt thành tro (nguồn);
+ Chuyển hóa năng lượng tình dục: Ngày nay, một số lớn những người đồng tính đang đầu thai, các thói quen cũ rất mạnh nơi họ. Ngày nay, họ đủ tiến hóa để sẵn sàng chữa trị – nếu họ chọn như vậy. Họ có thể, tương đối dễ, chuyển xung lực tính dục vào bí huyệt cổ họng, và như vậy trở nên sáng tạo theo ý nghĩa cao, sử dụng năng lượng được cảm nhận và luân chuyển theo các đường lối kiến tạo đúng đắn. Nhiều người trong số đó đang bắt đầu tự động làm điều này. (CTNM, 62–63)
Xem thêm: Quán Trừ Dâm dục
I- Theo Minh triết mới
+ Tâm Thức: Đặc trưng là tình thương (ASCLH, 54)
+ Đơn vị Tâm thức: X. Chân Thần. Cấu tạo và đặc tính (Nguồn)
+ Tinh thần (Spirit) và tâm thức (consciousness) là các tên gọi đồng nghĩa. (LVLCK, 278)
+ Tâm thức tương ứng biểu lộ 3 ngôi
Ý chí….. Minh triết –Bác ái .…Trí tuệ linh hoạt.
Tinh thần ..... Tâm thức ……….……Vật chất.
Cha ……….... Con ………….……… Mẹ.
Chân Thần …. Chân Ngã ………...... Phàm Ngã.
Và còn nhiều thuật ngữ tương ứng, định nghĩa khác (LVLCK, 244)
+ Tinh thần và tâm thức là các tên gọi đồng nghĩa. (SD I, 43, 125, 349, 593.)
* Tinh Thần = Tâm thức - Ý Thức
+ Tâm thức và ngã thức: Chính ở trên cõi trần mà tâm thức, trước tiên phải tiến hóa thành Ngã thức. (KCVTT, 93)
+ Mỗi sinh vật là 1 với Tâm thức Vũ trụ: Ví như 1 sóng biển là một với đại dương (nguồn)
+ Định đề 2 - Tâm Thức: Sự sống duy nhất khi biểu lộ qua vật chất, tạo ra yếu tố thứ 3, đó là TÂM THỨC - Sự hợp nhất của 2 cực Tinh Thần - Vật Chất, là Linh hồn của vạn vật, thấm nhuần mọi chất liệu hay năng lượng khách quan, nó nằm dưới mọi hình hài, dù đó là đơn vị nguyên tử hay 1 con người, 1 hành tinh hoặc 1 Thái dương hệ. Đây là Lý Thuyết Quyền Tự Quyết (LVHLT, 21)
+ TÂM THỨC theo sát nghĩa là phản ứng của trí thông tuệ sinh động đối với mô hình. Ngày nay, cứ như thể chúng ta đang đáp ứng một cách hữu thức, và với một mục đích ngày càng thông minh đối với thiết kế được Đấng Kiến Tạo Bậc Thầy đặt ra trên bản vẽ. Cho đến nay, chúng ta không và không thể nhập vào Thể Trí Vũ trụ đó và rung động trong sự hòa hợp hữu thức với Ý Tưởng thiêng liêng, cũng không hiểu được Thiên Cơ như nó được cảm nhận và được nhìn thấy bởi Đấng Tư Tưởng vũ trụ. Chúng ta phải làm việc với bản thiết kế, với mô hình, và với Thiên Cơ (Tài liệu Trích TLHNM-GQ-MF)
+ Mỗi sinh vật là 1 với Tâm thức Vũ trụ: Ví như 1 sóng biển là một với đại dương (nguồn)
+ Tâm thức (Ý thức): Tâm thức là Tâm hay là Linh hồn, đang tạo ra sự sống tâm thông, là nhận thức: Dưới nhân loại/ nhân loại và thiêng liêng (TLHNM–II, 232)
+ Tâm Thức: Sát nghĩa là phản ứng của trí thông tuệ sinh động đối với mô hình (Tâm LH, Mô hình-Quy định)
+ Cấp độ Tâm Thức: Phàm ngã, Linh hồn, Chân Thần. Đây là ba cấp độ rộng lớn của tâm thức, vốn phản ánh ba trạng thái thiêng liêng của Thượng Đế.(Trích Topic 1- GQ1- Các trích dẫn TLHNM)
1. Tâm thức phàm ngã: Là tâm thức của trạng thái thứ ba thiêng liêng, trạng thái sáng tạo.
2. Tâm thức chân ngã là tâm thức của trạng thái thiêng liêng thứ hai, tức tâm thức của linh hồn, tự thể hiện chính nó như là phẩm tính và như là “sắc thái” thể hiện bên trong của những vẻ ngoài.
3. Tâm thức chân thần là tâm thức của trạng thái thiêng liêng thứ nhất, cái vốn tiêu biểu cho sự sống thiêng liêng – mục đích và ý định, và dùng linh hồn để thể hiện Thiên Ý cố hữu qua linh hồn. Chính điều này mới xác định phẩm tính. (Nguồn: Tổng hợp chi tiết về tâm thức)
+ Hình thành Tâm thức: Sự phối hợp năng lượng sự sống và năng lượng của thể trí trong con người tạo ra tâm thức – trước tiên là ngã thức và sau rốt là tập thể thức (TLHNM–II, 67)
+ Chiêm Tinh Học Bí Truyền: (Trích GQ1.6-Làm quen CTH)
- Có 3 trình độ nơi con người: Phàm ngã/ Linh Hồn/ Tinh Thần - Ảnh hưởng của cung hoàng đạo và hành tinh hoạt động ở 3 cấp độ này.
- Ba Cung tối quan trọng: Mặt Trăng - Mặt Trời - Cung Mọc để ước định công việc sẽ được thực hiện trong tâm thức mỗi kiếp sống.
- Tâm thức qua Chiêm TH: Năng lượng dẫn truyền qua các Cung Hoàng và Hành tinh và chức năng tiến hóa Tâm Thức của các Cung Hoàng Đạo với Người thường/ Chí nguyện (Đệ Tử) / Điểm Đạo Đồ, với sự chỉ dẫn của các Kỳ Công, ta có thể dự đoán....
- Các Cung Hoàng Đạo ở 3 Cấp Độ Tâm Thức (Chiêm THNM, 332)
+ Các trạng thái nối tiếp của Tâm thức:
1. Thực ra, Vũ trụ chỉ là một tập hợp bao la của các trạng thái tâm thức. SD II, 633; I, 70, 626.
2. Tinh thần và tâm thức là các tên gọi đồng nghĩa. SD I, 43, 125, 349, 593.
3. Mọi nguyên tử trong vũ trụ đều được phú cho tâm thức. SD I, 105.
* Sáu loại tâm thức được biểu hiện trong Giới Thiên Nhiên trên 5 cõi tiến hóa của nhân loại. SD I, 123; II, 678.
+ Trình độ T.Thức - Bảng kê: Người chưa tiến hóa - Người bình thường, Người Chí nguyện - Đệ tử, Điểm đạo đồ, Chân Sư và cao hơn nữ.
+ Khởi vô minh: Sự tuôn trào và những nguyên tử và tâm thức— Outpourings and atoms and consciousness:
- Sự tuôn đổ vĩ đại đầu tiên từ Thượng Đế đã làm sinh động chất liệu vũ trụ và khiến cho mỗi nguyên tử vật chất bên trong “vòng-không-được-vượt-qua” của hệ thống của Ngài rung động theo bảy phương thức rung động khác nhau.
- Sự tuôn đổ thứ hai đã tạo nên những sự kết hợp của các phân tử, vì thế tạo nên sáu cõi phụ bên dưới cõi nguyên tử của mỗi cõi chính, và tạo nên dạng hình tướng. Chính là vào thời điểm tuôn đổ thứ hai mà mỗi trung tâm của những trung tâm tâm thức thiêng liêng đưa ra một sợi bản thể vào trong một nguyên tử của các cõi phụ cao nhất của các cõi giới atma, bồ đề, và cõi trí,— những nguyên tử có định mệnh là hạt nhân của những thể tương lai, mỗi cái ở trong từng cõi giới tương ứng của nó, ba cái tạo nên tam nguyên thượng mà ta thường nghe nhắc đến.(TLHNM/ EP II 167-8)
Xem: Tổng hợp chi tiết về tâm thức
Xem: Các trình độ Tâm Thức)
Xem: Phàm ngã: Hình thành – Tính chất – Trình độ Tâm thức theo các Cung Năng lượng
II- Tâm Thức theo Phật giáo
+ Chữ "TÂM" - Pháp Trần: ... đức Phật bảo, A Nan các pháp trần nầy tức do Tâm sinh ra, hay là rời tâm có chỗ riêng biệt?
HT Tuyên Hóa giảng:
"Có phải ông cho rằng các pháp do tâm sở duyên là phát sinh ra ngay từ trong tâm (ý căn)? Các pháp trần nầy tức do tâm sinh ra, hay là rời tâm có chỗ riêng biệt?" "Tâm" ở đây có nghĩa là thức thứ 6.
A-nan, nếu tức nơi tâm, thì pháp trần không phải là trần cảnh nữa, thế nên nó không phải là sở duyên của tâm, làm sao thành một xứ được?
Giảng:
"A-nan, nếu tức nơi tâm–nếu ông đơn giản cho rằng các pháp phát sinh từ tâm, rằng nó phát sinh từ thức thứ 6 – Thì pháp trần không phải là trần cảnh nữa. Các pháp trần mà do tâm sở duyên sinh khởi không còn là trần cảnh (đối tượng của ý thức) nữa."
Nếu rời tâm mà riêng có một chỗ riêng biệt, thì tự tính của pháp trần là biết hay không biết?
Nếu có biết thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải là trần cảnh thì cũng như tâm của người khác. Còn nếu nó tức là ông và cũng là tâm, thì làm sao cái tâm nơi ông lại thành hai được?
Lại nếu như không có biết, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không, thì nó sẽ ở chỗ nào?
Nay nơi sắc không, chẳng thể nào chỉ nó ra được. Không lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài hư không? Chẳng có cảnh sở duyên, thì ý căn do đâu mà lập thành một xứ được?
Vì vậy nên biết pháp trần cùng ý căn đều không có xứ sở; tức ý căn cùng với pháp trần, hai xứ đều là hư vọng, không thật; vốn không phải tính nhân duyên, cũng chẳng phải tính tự nhiên.
Giảng:
" Vì vậy A-nan, vì đạo lý nầy – "nên biết pháp trần cùng ý căn đều không có xứ sở". Cả hai cái nầy đều không tìm thấy được nơi chốn. "Tức ý căn cùng với pháp trần, hai xứ đều là hư vọng, không thật." Theo đạo lý về các pháp do tâm sở duyên, cả hai đều là hư giả, luống dối. "Vốn không phải tính nhân duyên, cũng chẳng phải tính tự nhiên." Cả hai đều chỉ là danh tướng hư vọng, như hoa đốm giữa hư không, hoàn toàn không có thực thể, chỉ là sự biểu hiện từ tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai tạng. (Nguồn: Kinh Thủ LN- Q.3)
+ Chữ Thức: ... Vì bạn có phân biệt, chấp trước nên nhất chân mới chuyển biến thành những hoàn cảnh rất phức tạp, biến thành thập pháp giới, biến thành lục đạo, biến thành tam đồ. Biến như thế nào? là do thức sở biến. Cái gì gọi là thức? trong Kinh Hoa Nghiêm giảng về thức rất cụ thể: vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là thức. Hiện nay, chúng ta đều có đủ, có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. vì vậy đã biến nhất chân pháp giới thành lục đạo luân hồi, đã biến thành lục đạo.
Nếu trong 3 thứ này chúng ta đoạn được một thứ, đã đoạn được chấp trước, trong tất cả Pháp, Pháp thế gian và Pháp xuất thế gian mà thật sự không còn chấp trước nữa, xin thưa với quý vị lục đạo không còn nữa. Lục đạo là do chấp trước biến hiện ra. Không còn chấp trước thì bạn ra khỏi lục đạo.
Ra khỏi lục đạo rồi đi đâu? bởi vì bạn còn có phân biệt nên còn có tứ thánh pháp giới tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. ..... Thập pháp giới do đây mà có, nếu không còn phân biệt thì siêu việt thập pháp giới bạn mới có thể phản bổn hoàn nguyên, trở về chân thật, tức nhập nhất chân pháp giới. Trong nhất chân pháp giới những địa vị của Bồ Tát cũng không đều. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói 41 vị Pháp thân đại sĩ trình độ cao thấp của những bậc Bồ Tát chia thành 41 đẳng cấp .
41 đẳng cấp này là do vọng tưởng mà có, vọng tưởng nhưng rất nhẹ, cũng gọi là vô minh. Nếu đoạn hết vô minh thì đã đoạn hết 41 phẩm vô minh thì bạn chứng được quả vị cứu cánh viên mãn. Tức là chân ngã của chính mình, đã hoàn toàn khôi phục lại, thì bản lai diện mục hoàn toàn hiện ra. Đó tức là viên giáo Phật quả. (Nguồn: Sám hối nghiệp chướng - PS Tịnh Không)
+ Tâm lượng - Chân tâm: Tâm thức chân thật hay Tâm bản nguyên. Phật nói với chúng ta: “Tận hư không khắp pháp giới, tất cả chúng sanh là một pháp thân”. Cho nên, kinh điển thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”, đạo lý là ở chỗ này. Tâm lượng chúng ta nhất định phải lớn, bao trùm hưu không pháp giới (Nguồn: Tập 17 - Thập Thiện Nghiệp_PS Tịnh Không)
+ Đạo Tâm: Tâm của Phật là tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng là Phật, tâm lục độ là Bồ-tát, tâm tứ đế là Thanh Văn, tâm nhân duyên là Duyên Giác. Phật ở trong kinh nói quá nhiều, quá rõ ràng rồi. Hai chữ “bình đẳng” rất quan trọng (PS Tịnh Không giảng - Tập 42 - Kinh TTNĐ)
+ Các trạng thái Tâm thức:
Phàm ngã: gồm Tâm thức vị ngã cần chuyển hóa thành tâm thức vị tha
Linh Hồn: Tâm thức Vô ngã
Chân Thần: Tâm thức bất nhị (Nguồn: Thầy Hằng Trường giảng)
+ Tâm thức theo Duy thức học - Xem: Tâm và Các Thức-TT Thích Viên Thông)
+ Phẩm tính bảy cung năng lượng:
Chúng ta cần biết đôi điều về các năng lượng và mãnh lực đang tạo ra tình hình thế giới hiện nay, và đưa đến những vấn đề phức tạp mà Liên Hiệp Quốc phải lo giải quyết. Xét cho cùng, toàn bộ lịch sử là việc ghi lại những hiệu quả của các năng lượng hay bức xạ (cũng gọi là cung) nói trên, khi chúng ảnh hưởng đến nhân loại trong nhiều giai đoạn phát triển tiến hóa khác nhau của loài người. Những giai đoạn này trải dài từ nhân loại thời nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại của chúng ta. Tất cả những gì đã xảy ra là kết quả của các năng lượng vừa kể, tuôn đổ theo chu kỳ qua thiên nhiên, và qua thành phần của thiên nhiên gọi là giới nhân loại.
Để hiểu được những gì ngày nay đang xảy ra, chúng ta phải nhận thức rằng các năng lượng này gồm bảy loại. Chúng được gọi bằng nhiều tên trong nhiều địa phương khác nhau, nhưng bảy tên sau đây được dùng cho mục đích của sách này:
1. Năng lượng Ý chí, Mục đích, hay Quyền lực, được người Thiên Chúa giáo gọi là năng lượng Ý chí của Thượng Đế.
2. Năng lượng Bác ái-Minh triết, thường được gọi là Tình thương của Thượng Đế.
3. Năng lượng Thông tuệ Linh hoạt, được gọi là Trí tuệ của Thượng Đế.
4. Năng lượng Hài hòa qua Xung đột, có ảnh hưởng lớn đến gia đình nhân loại.
5. Năng lượng Kiến thức Cụ thể hay Khoa học, hết sức mạnh mẽ hiện nay.
6. Năng lượng Sùng tín hay Chủ nghĩa Lý tưởng, tạo nên các ý thức hệ hiện tại.
7. Năng lượng Trật tự Nghi lễ, tạo nên những hình thức mới của nền văn minh.
Các năng lượng nói trên không ngớt tác động vào nhân loại, mang lại những thay đổi, và tự biểu lộ qua các nền văn minh và văn hóa kế tiếp nhau, và tạo khuôn mẫu cho nhiều chủng tộc và quốc gia.
Điều này không hề xâm phạm ý chí tự do của con người. Các mãnh lực nói trên có cả hai phương diện cao và thấp, và mọi người cũng như tất cả các quốc gia và chủng tộc đều có thể đáp ứng với chúng tùy theo mức phát triển trí tuệ và tinh thần của mình. Nhân loại ngày nay đã đạt đến trình độ khả dĩ đáp ứng nhạy bén với những gì cao cả và tốt đẹp hơn.
Nên nêu rõ rằng các mãnh lực này đi vào hoạt động theo chu kỳ hoặc khi có yêu cầu. Đây là điều thú vị mà các môn sinh cần ghi nhớ. Thế nên, công tác được thực hiện qua Đại Thỉnh nguyện không nhất thiết là vô hiệu.... (Nguồn: Vận Mệnh Của Các Quốc Gia)
+ Xẹm thêm Tooltip: Bảy cung
Danh Sách Tổng Hợp Kiến Thức Bảy Cung Và Khác:
- Xem bài viết: Tổng hợp Về Giải Thích Bí Mật Của Các Con Số Như 12= 5 + 7 ....
- Xem bài viết: Tổng Hợp Thần chú – Chân Ngôn – Châm Ngôn – Matram
- Xem bài viết: Linh Từ MINH TRIẾT MỚI
- Xem bài viết: Tổng hợp câu truyện về Chấp trước
- Xem bài viết: Tổng hợp về Tứ Vô Lượng Tâm: Từ – Bi – Hỷ – Xả
- Xem bài viết: Tổng hợp kiến thức Luân hồi các Cõi Giới (Tái Sinh/ Tái Sanh/ Đầu Thai/ Lâm Phàm)
- Xem bài viết: Tổng Hợp Về Cung H. Đạo và Tứ Đại (Hành: Thổ (Đất) – Thủy (Nước) – Hỏa (Lửa) – Khí (Không Khí/ Gió)
- Xem bài viết: Tổng hợp về Viễn cảm
- Xem bài viết: Tổng hợp về Phàm ngã: Hình thành
- Xem bài viết: Tính chất – Trình độ Tâm thức
- Xem bài viết: Tổng hợp về Luân xa (Bí huyệt hay Trung tâm lực)
- Xem bài viết: Tổng hợp về Linh Hồn – Ishvara - Tổng hợp chi tiết về Tâm Thức và các trình độ khác nhau
- Xem bài viết: Tổng Hợp Thuật ngữ Về Tiến hóa
- Xem bài viết: Tổng hợp năng Lượng Bảy Cung Đến Thái Dương hệ Và Nhân Loại
- Xem bài viết: Tổng Hợp Thần chú – Chân Ngôn – Châm Ngôn – Matram Phật Giáo
- Xem bài viết: Tổng hợp Về Cấu Tạo Con Người và Bảy nguyên khí
- Xem bài viết: Tổng hợp về Huyền Linh – Huyền Linh Học – Huyền học – Huyền Bí Học – Huyền Thuật học
- Xem bài viết: Tổng Hợp Về Cõi Trí- Thể Trí (Hạ và Thượng Trí) - Cung Thể trí
+ Bảy cung: Việc nghiên cứu về 7 cung khiến cho tính nhị nguyên của con người được giải quyết, với sự thông tuệ lớn lao hơn (EP 119/120)
- Khi bản chất thực sự của bảy cung được hiểu biết, và khi tác động của chúng lên nhân loại trong việc thể hiện bảy loại người cũng được thông hiểu, bấy giờ chúng ta sẽ tiếp cận chủ đề về tính nhị nguyên của con người với trí thông tuệ lớn lao hơn. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn bản chất của các mãnh lực vốn cấu thành hết cái này đến cái khác trong những nhị nguyên này. Đây là khoa học bí truyền thực sự.
Khoa học về bảy tính chất, hay cung, và ảnh hưởng của chúng trên vô số hình tướng mà chúng uốn nắn và tiếp sinh lực, là cách tiếp cận mới sẽ đến, cùng với phương pháp đúng đắn về việc đào tạo và phát triển gia đình nhân loại. Khoa học công truyền hiện đại biết nhiều về hình tướng bên ngoài, hay khía cạnh vật chất, và bản chất điện của nó. Khoa học bí truyền biết nhiều về bản chất của các năng lượng và những tính chất chủ quan vốn nhuốm màu và quy định hình tướng. Khi hai kiến thức này được mang lại với nhau một cách thông minh, chúng ta sẽ phát triển một khoa tâm lý chân thật hơn và chính xác hơn, và một khoa học mới về văn hóa nhân loại. Lúc bấy giờ, công việc của con người đang hợp nhất – con người, là thực thể tâm linh, và con người, là linh hồn điều khiển – sẽ tiến nhanh về phía trước. Một kiến thức về các cung cùng với các khuynh hướng và năng lượng của chúng sẽ mang nhiều sự giác ngộ cho những người phụng sự trong lĩnh vực của những khoa học khác nhau …
- Việc nghiên cứu về 7 cung sẽ làm sáng tỏ kiến thức về bản chất của con người (E PI 4-6); (Trích từ tài liệu tóm lược Tâm lý học nội môn - Khóa GQ - MF)
+ Tâm lý học hiện đại, về mặt thực nghiệm và học thuật, đã làm rất nhiều để thu thập thông tin về cách thức mà con người hoạt động, điều gì là bản chất của các phản ứng của y, năng lực của bộ máy tư tưởng của y và tính chất của bộ máy thể xác của y, cách thức tư duy và tổng số các phức cảm, các rối loạn tâm thần, các rối loạn thần kinh, các bản năng, các trực giác và sự định hình trí tuệ của y, mà y chắc chắn có … Những gì tôi tìm cách làm, và sự đóng góp mà tôi muốn thực hiện cho chủ đề này, phải phù hợp với sự nhấn mạnh mà chúng ta sẽ đặt vào bản chất của nguyên khí tích hợp được tìm thấy trong tất cả các hình thức cố kết, và vào cái mà ta có thể (vì thiếu một từ hay hơn) gọi là linh hồn hay bản ngã.
Việc nghiên cứu về 7 cung sẽ đưa ra một phương pháp phân tích thực tiễn (EP I, 8)
+ Cung (ray): Một dòng thần lực (Chuyên hóa) hay 01 phân thân. Thái Dương Thượng Đế hay là Đại thiên địa, biểu lộ qua 3 cung chính yếu và 4 cung thứ yếu. Chân Thần hay tiểu thiên địa cũng biểu lộ qua 3 cung như trên (LVLCK, 90)
+ Định nghĩa Ray - Cung năng lượng: Để chỉ một thần lực hay loại năng lượng đặc biệt, với tầm quan trọng dựa vào tính chất mà thần lực đó thể hiện, chứ không dựa vào trạng thái hình hài mà thần lực đó tạo ra.(TLHNM, 316)
+ Bảy luồng năng lượng/ Thần lực của Thượng Đế; 7 nguồn sáng vĩ đại. Mỗi nguồn sáng biểu hiện cho một Thực Thể Thông Linh vũ trụ. Gồm 3 Cung trạng thái và 4 thuộc tính (ĐĐNLVTD, 224):
Cung 1: Quyền lực - Ý chí (Tinh thần): Biểu diễn qua tính khí căn bản của nhà Lãnh tụ hay Thủ lĩnh.
Cung 2: Minh triết và Bác ái (Tâm thức Bồ đề = Trực giác Tinh thần). Bậc đạo sư là điển hình của Cung này.
Cung 3: Hoạt động Sáng tạo (Thượng trí). Sự thông hiểu là chủ yếu của nó và Triết gia là Đại biểu của nó.
Cung 4: Hài hòa qua xung đột; Tâm thức làm cho chơn ngã với phàm ngã hội tụ (Là thấu kính tụ tập các Cung 5,6,7 lại). Đặc trưng nổi bật của nó là sự đẹp đẽ và hài hòa = Nghệ sĩ các loại là đại diện
Cung 5: Cung Kiến thức - Khoa học (Hạ trí thuộc phàm ngã). Nhà khoa học mẫu điển hình.
Cung 6: Sùng tín Nhất tâm = Với bản chất xúc cảm hoặc dục vọng. Người sùng tín mọi tôn giáo thuộc loại này.
Cung 7: Trật tự - Nghi lễ - Thể xác biểu diễn Quyền năng của Cung 1 đang tác động. Người vốn yêu thích hoạt động có trật tự, chính xác và đầy sự rực rỡ huy hoàng.
+ Bảy cung NL, mỗi cung có đặc tính chuyển động: Cung 1; 7 - Thẳng; Cung 2; 4; 6 - Xoay vòng; Cung 3; 5 - Zíc zắc, ngừng nghỉ ( Nguồn )
+ Bảy Cung có liên hệ chặt chẽ với 7 ngôi sao của chòm Đại Hùng Tinh (Cũng biến phân 3 và 4) và Thất Tỷ Muội và Tua Rua (CTHNM, 41)
+ Xem: Năng lượng 7 Cung;
+ Năng lượng chi phối số mệnh - Số phận:
A- Với người chưa tiến hóa - Sống thuận theo vật chất
I- Theo Dịch học đông phương - Pháp công truyền.
1. Lá số Tử vi (Ví dụ): ..... Chính trong mối liên hệ với các hành tinh đang chi phối Sagittarius, về mặt ngoại môn lẫn nội môn, và nhớ rằng cùng các luồng năng lượng căn bản sẽ phải được ghi nhận liên quan với mọi cung khác mà một người có thể chọn lâm phàm trong đó. Chúng ta thấy rằng chúng ta sẽ phải xét:
1. Cung Thái Dương (Sun sign) ‒ Trong trường hợp này Sagittarius chi phối các trường hợp, báo hiệu sự kế thừa và thúc đẩy hoàn cảnh để minh giải về chủ thể.
2. Cung mệnh (Rising sign) – Sự thăng tiến (ascendent) có thể ở một trong số mười một cung khác.
3. Thập Giá Khả Biến ‒ Bốn năng lượng đang gặp nhau “ở điểm giữa” và có một ảnh hưởng hợp nhất và rõ rệt trên chủ thể. Cách diễn đạt trên cũng áp dụng cho hai Thập Giá kia.
4. Các Hành Tinh Chính Thống (Orthodox Planets). Các hành tinh này có ảnh hưởng tới phàm ngã. Trong trường hợp này chúng ta có Mercury và Jupiter. Mười hai cung (houses) được chi phối bởi các hành tinh cũng có tầm quan trọng hàng đầu theo quan điểm của năng lượng truyền đạt.
5. Các Hành Tinh Nội Môn (Esoteric Planets). Các Hành Tinh này mang lại năng lượng hành tinh đổi mới ngày càng tăng và năng lượng cung theo một cách năng động hơn. [Trong trường hợp của Sagittarius, các năng lượng này là Venus, Mặt Trăng, Địa Cầu và Pluto]
2. Lá số Tứ trụ/ Bát tự:
II- Theo Chiêm tinh học công truyền/ Thông thường và bí truyền
Lá số Chiêm Tinh (horoscope): của một người là bản đồ thể hiện vị trí các hành tinh và các Cung Hoàng đạo trên bầu trời vào thời điểm một người được sinh ra đời, nhìn từ trái đất (địa tâm).
Cung Mặt trời: Ba yếu tố quan trọng trong lá số chiêm tinh nội môn là Cung Mặt Trời (Sun Sign), Cung Mọc (Ascendant hay Rising Sign), và Cung Mặt trăng (Moon Sign).
Cung Mặt trăng: Là Cung Hoàng Đạo mà Mặt trăng ở trong đó vào thời điểm một người sinh ra đời.
Cung Mọc (Rising Sign): Là Cung hoàng đạo xuất hiện trên đường chân trời vào lúc một người sinh ra đời.
Vị trí các hành tinh của thái dương hệ như Kim tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh … trong lá số chiêm tinh đều có ý nghĩa khác nhau.
Khi nào dùng chiêm tinh học nội môn và khi nào dùng chiêm tinh học thông thường? Mỗi môn đều có ứng dụng khác nhau và bổ sung cho nhau trong việc nghiên cứu con người ... chiêm tinh học ngoại môn liên quan đến cuộc sống, đến phàm ngã. Khi bạn muốn tìm hiểu nghể nghiệp thích hợp của ai đó, ngày tốt, xấu, bệnh tật, tai nạn, gia đình, hoàn cảnh thì bạn dùng chiêm tinh học ngoại môn. Khi bạn nghiên cứu về mục đích của linh hồn trong kiếp sống, những điểm yếu mà bạn cần khắc phục, những điểm bạn cần trau dồi để ngày càng tiếp xúc hơn với linh hồn của bạn, bạn dùng chiêm tinh học nội môn. Cả hai môn học đều dùng chung lá số nhưng cách giải thích sẽ khác nhau.
Chiêm tinh học nội môn bắt đầu với quyển sách Esoteric Astrology của Chân sư DK, và từ đó đến nay rất nhiều người đã nghiên cứu để áp dụng vào việc giải thích lá số chiêm tinh theo quan điểm nội môn.
Chiêm tinh học Chính thống hay Công truyền chỉ quan tâm đến cuộc sống bên ngoài của phàm ngã. Nó thường được tham khảo để “tư vấn về vận mệnh“ của cá nhân, để có được thông tin có thể được sử dụng để làm cho một cuộc sống trần gian sung túc và hạnh phúc hơn. Nó đề cập với các sự kiện, diễn biến, và hoàn cảnh của môi trường xung quanh.
Bạn có thể nói nó là chiêm tinh học của đời sống vật chất, và là phương pháp chiêm tinh học đúng đắn để sử dụng cho những người bình thường, người chưa có sự tiếp xúc có ý thức với linh hồn của mình.
Chiêm tinh học Công truyền tập trung vào cuộc sống của phàm ngã, được đại diện bởi Cung Mặt trời. Mặt trời là trung tâm của lá số chiêm tinh công truyền, giống như phàm ngã chi phối tất cả và mạnh mẽ vào giai đoạn đầu của con đường tiến hóa. Các mãnh lực phàm ngã được phân phối qua các thể thấp, được đại diện bởi Mặt trăng, Thủy tinh, Kim tinh và Hỏa tinh, và các mãnh lực kết hợp của chúng được phân phối vào môi trường, được tượng trưng bằng các nhà (houses). Các hành tinh công truyền nhóm lại xung quanh Mặt trời, đại diện cho tâm thức về bản chất phàm ngã.
Việc khảo sát lá số chiêm tinh sẽ chỉ tập trung vào những hành tinh này (và cũng bao gồm cả sao Mộc tinh và Thổ tinh) sẽ chỉ ra chính xác các tình huống đời sống bên ngoài, số phận và định mệnh của một người chưa bước vào Con đường phát triển Tinh thần.
Một người như thế vẫn còn phải tích hợp các thể trở thành một tổng thể mạnh mẽ (phàm ngã), và y còn thiếu một ý chí mạnh mẽ để phát triển. Như một hệ quả, họ không thể có tác động mạnh mẽ lên cuộc sống. Thay vào đó, họ bị định hình bởi hoàn cảnh mà họ được sinh ra, bởi môi trường mà họ đang sống. Họ thường ít di chuyển, chết gần với nơi sinh ra. Tâm thức của họ là tâm thức bầy đàn, và có định hướng gia đình. Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi phàm ngã phát triển. Nhưng chừng nào mà tâm điểm còn là vật chất, lá số công truyền là hướng dẫn chính xác nhất cho cuộc sống.
Chiêm tinh bí truyền là khoa học của linh hồn. Linh hồn đại diện cho khía cạnh Bác ái và Minh triết của Thượng đế và luôn luôn hướng tới điều tốt đẹp hơn. Chiêm tinh học bí truyền tiết lộ cho ta công việc phải được thực hiện trong tâm thức, để những điều tốt đẹp hơn này được tiết lộ, và nhờ đó mà mang lại lợi ích cho cộng đồng rộng lớn hơn. Xác định mục đích của linh hồn thông qua việc nhận dạng của Cung Linh hồn, và thông qua chiêm tinh học, thực hiện mục đích này vào cuộc sống.
B- Với người đã tiến hóa - Sống hướng đến tinh thần, buông xả vật chất, phụng sự thế gian
Hiện chỉ có pháp môn Chiêm Tinh Học Bí Truyền của Chân Sư DK mới là pháp có liên hệ và định hướng đến Linh hồn. Những người tiến hóa họ dần thoát khỏi sự chi phối năng lượng của các Hành tinh không thánh thiện, nhận năng lượng từ các Hành tinh Thánh thiện để tiến bước trên con đường đạo, hướng đến giải thoát luân hồi (Nguồn: Trích tài liệu MFVN)
+ Chu kỳ Tinh đẩu: Đúng là các Chu kỳ ngoại môn của mọi quốc gia đều được chính xác dẫn xuất từ và tỏ ra tùy thuộc vào các chuyển động tinh đẩu. Các chuyển động tinh đẩu có liên hệ bất khả phân ly với số phận của các quốc gia và nhân loại.
Nhưng theo ý nghĩa thuần túy vật chất, ...* Các tinh cầu chính tâm và tâm sai, nguệch ngoạc qua các chu kỳ và ngoại luân. (GLBN, Tr 685)
+ Dụng tâm với Hành tố - Lửa nóng giận: ... Chẳng hạn, một người có tánh rất nóng, một khi ngọn lửa tự tánh của người ấy bộc phát mạnh thì thực chất của anh ta dễ dàng biến thành than ngay. Lửa của tự tánh rất mạnh, nó có sức nóng thật khủng khiếp, và như vậy, thực chất cũng dễ bị đốt cháy. Con người bao gồm các yếu tố kim loại, gỗ, nước, lửa và đất, nếu họ thường xuyên tiếp xúc và dốc hết tâm ý vào một yếu tố nào thì họ sẽ biến thành yếu tố đó. Điều đó xảy ra là do tư tưởng cố chấp tham trước... (Nguồn: Kinh Thủ LN 7- HT Tuyên Hóa)
+ Lá số sinh mệnh: Mỗi người, mỗi tổ chức, đơn vị, mỗi quốc gia đều có Lá số sinh mệnh lập theo ngày giờ sinh ra đời, ngày giờ Quyết định, công bố thành lập tổ chức, đơn vị.
Lá số sinh biểu lộ những năng lượng vũ trụ theo chu kỳ tuần hoàn mà tại thời điểm Ký quyết định và công bố mang tổ hợp năng lượng Thần lực vũ trụ nhất định, mà mỗi loại năng lượng đại diện cho mộ loại phẩm tính và Thần lực. Ở con người là ngũ luân và ngũ thường. Thần lực biểu lộ ngũ phúc.
Có nhiều loại Lá số sinh mệnh: Lá số Tử vi - Tứ trụ/ Bát tự - Chiêm tinh ...
Dự đoán sinh mệnh theo Lá số phân làm hai loại người:
+ Lá số sinh mệnh ngoại môn: Dùng dự đoán cho nhóm đa số nhân loại hiện nay, những Người chưa tiến hóa hoặc tiến hóa mức trung bình. Họ chưa hình thành Phàm ngã phối kết, các Thể vẫn hoạt động hướng ngoại theo dục vọng Vật chất. Dùng để Dự đoán Vận mệnh của cá nhân, tổ chức, đơn vị ... theo sự tiến hóa Vật chất (Ngoại môn - Tiến hóa xác thân). Mục tiêu số của họ là Tiền tài danh vọng địa vị nơi thế tục, lấy đó là tiêu chuẩn của hạnh phúc án vui. Họ là những người tin họ là Thân xác vật chất, họ xem như chất là hết, họ không tin nhân quả luân hồi tái sanh. Họ tiến hóa qua khổ đau nhiều kiếp sống trước khi có sự Giác ngộ - Tin vào Luân hồi tái sanh là có. Từ đây họ dần từ bỏ con đường Vật chất, tiến dần vào con đường tinh thần.
+ Lá số Chiêm tinh nội môn: Dùng chung Lá số Chiêm tinh ngoại môn, nhưng có thay thế các Hành tinh KHÔNG thánh thiện băng các Hành tinh Thánh thiện. Pháp này giành cho người tiến hóa trung cao trong nhân loại, bởi họ đã hình thành Phàm ngã phối kết, Thân Tâm họ đã bắt đầu thoát khỏi các năng lượng của các Ác tinh và thu nhận năng lượng của các Thiện tinh. Họ là những người Chí nguyện sắp bước vào con đường Đệ tử - Con đường đạo hướng đến phụng sự vô kỷ nhân loại và tiến đến giải thoát luân hồi sinh tử.
* Lá số tử vi của quần chúng: .... Bạn cũng có ba cung quyết định/chuyển biến (signs of crisis) nhờ đó mà mức tiến hóa được định đoạt. Trong mối liên hệ này, cần nên chú ý:
1. Leo-Libra-Capricorn. Tạo thành tam giác của Chúa Cha tức trạng thái ý chí; chúng đánh dấu các mức độ thành đạt, nhờ chuyển biến (crisis) được đáp ứng và đạt được thành công.
2. Cancer-Virgo-Pisces. Tạo thành tam giác của Mẹ tức trạng thái vật chất, được chi phối bởi hoạt động sáng suốt. Chúng báo hiệu các thời điểm của dịp thuận tiện thuộc một loại bên trong nơi mà tâm thức có liên hệ, và do đó bạn có nhận thức về ý thức quần chúng, ý thức cá nhân và tập thể thức.
Một nghiên cứu chặt chẽ về các ý tưởng nói trên sẽ tỏ ra bổ ích trong việc thiết lập các phương pháp và các mối liên hệ; chúng cũng sẽ nêu ra chủ điểm mà các chiêm tinh gia có thể vận dụng khi tìm cách soạn thảo các lá số tử vi của quần chúng.(Nguồn: Chiêm tinh học nội môn)
+ Nghề nghiệp nội môn: Cung LINH HỒN quyết định định hướng nghề nghiệp của chúng ta (GQ2.5 Các Cung CTH-TLH)
+ Thuật ngữ Trí huệ: Theo Phật giáo, Trí tuệ xem như Mặt Trời, Trí huệ xem như Mặt trăng chiếu sáng Tâm tối tăm (Tooltip Trí Huệ)
+ Khi Nói Mặt Trời là Chủ tinh Cai quản Một Cung: Tôi nói đến một trong các hành tinh ẩn giấu Uranus hoặc Vulcan. các Hành tinh này có thể thay thế lẫn nhau ở công dụng của chúng, là cái khó khi nếu chỉ ra Hành tinh Nội môn, trừ khi bạn được chỉ ra. Do đó Tôi nhắc đến Uranus _(CTHNM, 113)
+ Mặt Trời đang cai quản về cả 3 mặt ngoại môn, nội môn và huyền giai (Chân Sư DK_CTHNM, 350)
+ Mặt Trời: Là Trung tâm Thái dương hệ (Như Trái Tim trung tâm con người) (TTHM184).
+ Chu kỳ: Theo quan điểm nhân loại, mặt trời di chuyển chung quanh Hoàng Đạo mất chừng 25.000 năm (CTHNM, 93)
+ Mặt trời: Bản ngã, cái tôi, ngoại hình, lập trường trong cuộc sống hoặc bạn là ai. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Mặt trời (The sun, Thái dương): Mặt trời là cái kho vĩ đại chứa sinh lực, từ lực và điện lực cho Thái Dương Hệ của chúng ta và tuôn ra (pour out) rất nhiều các dòng năng lượng ban phát sự sống. Các luồng năng lượng này được các thể dĩ thái của các loại khoáng chất, thực vật, động vật và con người đón nhận và được biến đổi thành các năng lượng sự sống khác nhau cần thiết cho mỗi loại. (MTNX, 55)
+ Mặt trời là thể hồng trần của Thượng Đế.(KCVTT, 121)
+ Mặt trời và Mộc tinh truyền dẫn Cung 2 (Nguồn: GQ1- Cấu tạo con người)
+ Mặt Trời chi phối cả 3 tình trạng của Leo - Sư Tử (Ngoại, Nội môn và Huyền Giai): Vì mục tiêu của Thái dương hệ là Khai mở Tâm thức, thi Mặt Trời hiển nhiên chi phối Tâm thức Hồng trần - Linh hồn - Sự sống tâm linh thuộc Thánh đoàn_Chân Sư DK (CTHNM, 332).
+ Mối quan hệ tay 3 của Mặt Trời với Sư tử/ Leo là độc nhất trong Thái dương hệ chúng ta (CTHNM,235)
+ Các NĂNG LƯỢNG phát ra từ mặt trời cũng có một tác dụng kép.
- Thứ nhất, có những năng lượng mà chúng ta có thể gọi là hiệu ứng prana, vốn là kết quả của ảnh hưởng của lực thái dương (solar force), đang phát ra từ mặt trời vật chất. Hiệu ứng này tạo ra các kết quả rõ ràng trên các hình tướng khách quan, và các năng lượng này được gọi là các năng lượng thuộc vật chất hay cần cho sự sống (physical or vital). Các năng lượng này đi vào trong cơ thể con người xuyên qua lá lách và cũng xuyên qua một bí huyệt nằm giữa hai xương vai; bí huyệt này nằm giữa bí huyệt cổ họng và bí huyệt tim trong cột sống, nhưng gần bí huyệt tim hơn bí huyệt cổ họng.
- Thứ hai, có các năng lượng phát ra từ cái mà về mặt nội môn được gọi là “tâm của mặt trời” (“heart of the sun”); các năng lượng này quét qua hết hành tinh này đến hành tinh khác theo bảy luồng lớn và cung cấp lực (power) vào linh hồn của con người, tạo ra loại nhạy cảm mà chúng ta gọi là ý thức (awareness). Bảy loại năng lượng này tạo ra bảy loại linh hồn hoặc bảy cung (rays), và theo ý tưởng này, bạn tìm thấy cái bí mật của sự hiệp nhất linh hồn. Trong khi biểu lộ, do các ảnh hưởng của 7 loại năng lượng tác động trên vật chất của không gian, người ta nhận thấy 7 loại linh hồn, 7 lĩnh vực biểu lộ, và 7 mức độ tâm thức cùng các đặc trưng của cung. Như bạn biết rõ, các biến phân này giống như màu sắc mà lăng kính thu được khi được đưa ra trước các tia của mặt trời, hoặc được đưa ra trước mảng họa tiết của kiểu mẫu được tìm thấy trong ánh phản chiếu trên một hồ bơi trong trẻo. (LVHLT, 433)
+ Mặt Trời lên - Ánh Sáng Chiếu soi: Trích Đức Phật dậy.... HT Tuyên Hóa giảng:
Từ sữa làm thành sữa đông (lạc), từ sữa đông làm thành bơ (sinh tô), từ bơ (sinh tô) làm thành phó-mát (thục tô), từ thục tô làm thành đề-hồ[17], là chất tinh túy nhất được tinh chế từ sữa.
Thời kỳ thuyết giáo đầu tiên của Đức Phật được gọi là Thời Hoa Nghiêm- ví như lúc mặt trời mới mọc, ví khi mặt trời mới mọc thì chiếu ánh sáng đầu tiên cho các đỉnh núi cao. Đỉnh núi cao biểu tượng cho các vị Đại Bồ-tát. Kinh Hoa Nghiêm là để giáo hóa hàng Bồ-tát, những vị thuộc hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, đều "có mắt mà như mù.", họ không nghe được giáo lý viên đốn vi diệu trong Kinh Hoa Nghiêm.
Năm thời kỳ thuyết giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ví như sự tinh chế sữa. Giáo pháp trong Kinh Hoa Nghiêm cũng giống như sữa nguyên chất.
Thời kỳ thuyết giáo thứ hai của Đức Phật là Thời A-hàm - có nghĩa là không một pháp ngoại đạo nào có thể sánh được - Pháp Tiểu thừa. ..Thời A-hàm được ví như sữa đông (lạc). Ví như mặt trời mới mọc, thời kỳ thuyết giáo thứ hai được biểu tượng cho ánh sáng mặt trời chiếu đến vùng thung lũng, có nghĩa là vùng đất thấp hơn, ánh sáng mặt trời cũng chiếu đến được.
Thời kỳ thuyết giáo thứ ba của Đức Phật là Thời Phương đẳng- ví như bơ (sinh tô). Ví như ánh sáng mặt trời chiếu rộng khắp mọi nơi trên mặt đất.
Thời kỳ thuyết giáo thứ tư của Đức Phật là Thời Bát-nhã.- ví như phó-mát (thục tô). Ví như ánh sáng mặt trời vào lúc gần trưa.
Thời kỳ thuyết giáo thứ năm của Đức Phật là Thời Pháp Hoa –Niết-bàn. - ví như đề-hồ. Kinh Pháp Hoa được ví như mặt trời chiếu ngay trên đỉnh đầu. Lúc chính ngọ, mặt trời chiếu khắp mọi vật, cả đỉnh núi cao, cả thung lũng, và khắp cả mặt đất nơi đồng bằng.(Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
+ Mặt trời chiếu sáng mười phương: Đức Phật bảo Phú Lâu Na. Nên biết cái sáng đó, chẳng phải là mặt trời, chẳng phải là hư không, cũng chẳng khác hư không và mặt trời. (HT Tuyên Hóa: Nó chẳng ngoài hai thứ đó. Rốt ráo, nó đến từ đâu? Nó lưu xuất từ tánh Như Lai tạng. (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương II)
+ Ý nghĩa nội môn của Mặt Trời - Xem:
1. “Mặt Trời là một ngôi sao trung ương chứ không phải là một hành tinh.” (GLBN I, 126) (Do đó khi Mặt Trời được bao gồm trong số các hành tinh như hiện nay, nó chỉ thay cho hoặc che khuất một hành tinh ẩn giấu - Ngoại môn là Vulcan).
2. Mặt Trời chỉ là một trong các Mặt Trời vốn… “là các hoa hướng dương có ánh sáng cao siêu.” Nó đang “trú trong hiện thể của một Thần hoặc của một nhóm các Thần, giống như hàng tỉ các mặt trời khác.” (GLBN I, 319
3. “Mặt Trời là kho chứa sinh lực vốn là thực tượng (noumenon, bản thể) của điện.” (GLBN I, 579)
4. “Mặt Trời không phải là một hành tinh thánh thiện.” (GLBN II, 26)
5. “Mặt Trời… có sự tăng trưởng, các thay đổi, sự phát triển, và tiến hoá từ từ của nó.” (GLBN I, 667)
6. “Mặt Trời là vật chất và Mặt Trời là tinh thần.” (GLBN I, 820)
Còn nhiều mô tả minh triết về mặt trời, xem tại: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Tam Quang Phổ - Trời Trăng Sao và Tam Tài Thiên Địa Nhân - Trời Đất Người:
Hiện nay, chư vị phải được tin tức mờ mờ ảo ảo, vội vội vàng vàng thấy bổn chân. Lại như không có hình tướng mà nói thấy hình tướng. Thấy bổn tôn tức là thấy rõ tự tánh của chính mình. Soi thấy năm uẩn đều không.
"Tam quang phổ chiếu thấu tam tài .....
Dịch: "Ba quang phổ chiếu thấu ba tài
Nhất quy hợp xứ lại nhất lai
Thấy sắc tức không thọ nạp thế ......
Tam quang phổ chiếu thấu tam tài. Ba quang là mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao. Phổ chiếu tức là phổ biến chiếu sáng. Ba tài là trời, đất, người.
Ba quang là văn tự bát nhã quang, quán chiếu bát nhã quang, thật tướng bát nhã quang. Thật tướng bát nhã quang tức là thậm thâm bát nhã quang. Soi thấy năm uẩn đều không. Dùng ba quang chiếu thấu ba tài, tức chiếu khắp trời, đất, người.
"Nhất quy hợp xứ lại nhất lai".
Nhất quy hợp xứ tức tự tánh của mình. 'Nhất' là nói tự tánh. 'Hợp xứ' cũng là chỗ của tự tánh. Xưa nay muôn pháp đều quy về một. Một quy về hợp xứ. Ngài Thần Quang có nói bài kệ: "Muôn pháp quy về một - Một quy về hợp nhất
Vì sao thế ? Tâm chúng ta cũng chính là tánh. Một khi quay về liền hợp xứ. Hợp tức là tương hợp. Tương hợp với gì ? Cùng tương hợp với Phật tánh. Chư vị cùng Phật tánh tương hợp, rồi trở về cội gốc, lại xuất sanh diệu dụng. Diệu dụng này chính giúp thành tựu Phật quả, gọi là trở về nhất lai, cũng là ông Phật của chư vị.(Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - 1 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thiên Địa Nhân đều có chủ: Giảng giải (Chú Lăng Nghiêm): Câu này là nói chúng ta phải "Quy y thiên chủ" (chủ chư Thiên), nhân gian thì có nhân chủ (ông vua), đất đai thì có địa chủ (chủ cai quản đất đai). Thiên địa nhân đều có chủ, địa chủ tức là địa chủ công (thần thổ địa).
Tại Trung Quốc tỉnh Quảng Ðông có phong tục, là mỗi nhà đều cúng thổ địa, và có thần xã tắc, thổ địa thành hoàng, thổ địa là dương trong âm, quản đất đai tức là quản việc âm gian, âm gian tức là thế giới của loài quỷ, dương gian là thế giới của loài người. Thế giới của loài quỷ thuộc âm, nhưng thần thổ địa quản loài quỷ là dương trong âm, thần thổ địa như là huyện trưởng, thành hoàng như là tỉnh trưởng, đất có địa chúa, người cũng có nhân chúa tức là làm quan.
Người là nửa âm nửa dương, cho nên làm quan cũng là nửa âm nửa dương, hoặc có thể nói là âm trong dương. Vì có những sự tham quan ô sử, không lo cho bá tánh, làm những việc xấu ác, bổn lai là nửa âm nửa dương, nhưng hoàn toàn biến thành âm. Ðây là nói chủ nhân gian tức là hoàng đế. Ðịa chủ là vì quá khứ y làm việc thiện. Nhân chủ là do mọi người ủng hộ y làm hoàng đế, hoặc làm tổng thống. Chủ cõi trời làm thế nào để làm được ? Không phải là do tuyển chọn mà là do nghiệp cảm quả báo sở hiện.
.... Chung quanh trời Ðao Lợi, đông tây nam bắc mỗi hướng có tám cõi trời cộng thành ba mươi hai với chính giữa cộng thành ba mươi ba ! Thiên chủ cõi trời Tam Thập Tam là tiền thân của người nữ ấy (Làm đại phúc do sửa chùa), tức cũng là chân thần, thượng đế, chủ tể vạn vật mà Gia Tô Giáo, Thiên Chúa Giáo sùng bái. Vì y làm Thiên chủ cõi trời và cai quản nhân gian. .... Nhân Ðà La này là Trời Ðế Thích, một danh hiệu trong 108 danh hiệu. ....
.... Cho nên Thiên Chúa, chân thần, thật ra là Nhân Ðà La, Nhân Ðà La là Chúa, Chúa tức là Chúa, còn có gì thật với giả........
160. Ma ha bà ra a bát la.
Kệ : Nhật nguyệt tinh tú phóng hào quang ......
Tạm dịch: Nhựt nguyệt tinh tú phóng hào quang; Khắp cùng ngang dọc khó ẩn núp; Phổ Hương Thiên Tử ra hiệu lệnh; Yêu ma quỷ quái đều ẩn trốn.
Giảng giải : Chú Lăng Nghiêm này vốn ... bất đắc dĩ phải lược giảng. Lược giảng cũng là giảng không hết, chỉ tiết lộ một trong vạn phần, giảng một câu, thì lộ ra vạn câu. Câu này bao quát "Nhật nguyệt tinh", bao quát "Kim - mộc - thủy - hỏa - thổ ngũ hành tinh"; mặt trời, mặt trăng, sao, là ba thứ ánh sáng, đó là nói tổng quát. Tú là chỉ Nhị Thập Bát Tú.
Lại có chín vì sao sáng, lại có tám vạn bốn ngàn vì sao, nói không thể hết. Người không hiểu Phật pháp thì nói Phật giáo không nói về trời, không nói về ngũ hành. Thực ra thế gian chẳng có một pháp nào, mà chẳng phải là Phật Pháp ? .........
Do đó, Nhị Thập Bát Tú này cho đến tất cả các vì sao đều bao quát trong Phật giáo. Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tác dụng trong hư không thật là không thể nghĩ bàn .....
Có một lối nói khác, Nhị Thập Bát Tú là: ‘’Nhật - Nguyệt - Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ, Giao Long Hạc Thố Hồ Hổ Báo, Giải Ngưu Bức Thử Yến Trư Thâu, Lang Trĩ Kê Ô Hầu Viên, Ngạn Dương Kính Mã Lộc Xà Dẫn.’’ Nhị Thập Bát Tú này, là Thần ban ngày. Mỗi ngày đều có một vị Thần ban ngày đến quản. Ngày này hoặc là thuộc về thủy, hỏa, kim mộc, thổ .v.v... Xem tên thì biết ngay. Mỗi tháng ba mươi ngày, Nhị Thập Bát Tú này luân phiên, một lần là một vòng, luân phiên hết lại bắt đầu lại. Mỗi ngày có bốn vị Công tào. Các vị ấy là năm trị, tháng trị, ngày trị.
Mỗi một thời thần là ai quản, mỗi một ngày, mỗi một tháng, mỗi một năm, là ai quản đều có nhất định. Nhị Thập Bát Tú này, là quản thiện ác, phàm là người làm thiện ác, các Ngài đều ghi nhớ hết, so với máy vi tính còn rõ hơn. (Tr 354). (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm - Google Drive)
+ Thuyết tam tài: Các thuật ngữ tương ứng gồm
- Tam tài: Thiên - Địa - Nhân hoặc Trời - Đất - Người
a/ Ở Trời gồm: Trời - Trăng - Sao;
b/ Ở Đất: Chất đặc - Chất lỏng - Chất hơi
c/ Ở Người có rất nhiều tương ứng
+ Con người tiến hóa trong Tam giới:
- Chân thần - Tinh thần - Siêu vật chất
- Chân nhân - Chân ngã - Vật chất
- Phàm nhân - Phàm ngã - Tứ đại
+ Các thể của con người:
Rất nhiều tương ứng, ví dụ: Thân - Khẩu - Ý; Tinh - Khí - Thần; Thể Xác thân - Thể Cảm xúc - Thể Trí tuệ; .......
Còn có nhiều tương ứng các luân xa dưới cơ hoành; Trên cơ hoành ....
- Vài ví dụ các tương ứng khác:
a/ Trong Phật pháp: Phật - Pháp - tăng
b/ Trong Dịch học: 8 Quẻ dịch có "Hào trên ứng Trời - Hào giữa ứng Người - Hào dưới ứng Đất"
c/ Pháp Quẻ Văn Thù (6 ký tự Mật Tông): Các ký tự "Trên ứng Trời - Giữa ứng Người - Dưới ứng Đất"
Còn rất nhiều các tương ứng số 3 khác
+ Các chòm sao:
+ Chòm sao Đại Hùng Tinh Thiên Lang Thất Tỷ Muội: Còn có các tên khác, Thiên văn học hiện đại, nhóm sao này là một mảng sao gồm 7 ngôi, là bảy ngôi sáng nhất nằm trong ranh giới của chòm sao Đại Hùng (Ursa Major) tại thiên cầu bắc. Chòm Đại Hùng Tinh ngoài 7 ngôi còn nhiều ngôi sao khác. Nói về bảy đấng Thánh của Đại Hùng Tinh - Nguyên mẫu của Hành Tinh Thượng Đế.
Tên Hán-Việt: Bắc Đẩu Thất Tinh gồm Tham Lang/ Cự Môn/ Lộc Tồn/ Văn Khúc/ Liêm Trinh/ Vũ Khúc/ Phá Quân. (Nguồn: Xem thêm)
+ Chòm sao Thiên Lang (Sirius): Trong 9 cuộc điểm đạo xét về nhân loại. Có: 5 cuộc điểm đạo hành tinh; 3 cuộc điểm đạo thuộc thái dương hệ mà Đức Christ đang có 2; 01 cuộc điểm đạo cấp vũ trụ vốn liên kết một người với sao Thiên Lang (Sirius) (CTHNM, 298)
+ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát với Thái dương hệ
1299, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Cập Chư Tiên Sở Thuyết Cát Hung Thời Nhật Thiện Ác Túc Diệu Kinh, 2 quyển, [ Đường Bất Không dịch ]
1300, Ma Đăng Ca Kinh, 2 quyển, [ Ngô Trúc Luật Viêm Chi Khiêm cộng dịch ]
1301, Xá Đầu Gián Thái Tử Nhị Thập Bát Túc Kinh ( Nhất Danh Hổ Nhĩ Kinh ), 1 quyển, [ Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch ]
1302, Chư Tinh Mẫu Đà La Ni Kinh, 1 quyển, [ Đường Pháp Thành dịch ]
1303, Phật Thuyết Thánh Diệu Mẫu Đà La Ni Kinh, 1 quyển, [ Tống Pháp Thiên dịch ]
1304, Túc Diệu Nghi Quỹ, 1 quyển, [ Đường Nhất Hành soạn ]
1305, Bắc Đẩu Thất Tinh Niệm Tụng Nghi Quỹ, 1 quyển, [ Đường Kim Cương Trí dịch ]
1306, Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Bí Yếu Nghi Quỹ, 1 quyển,
1307, Phật Thuyết Bắc Đẩu Thất Tinh Duyên Mệnh Kinh, 1 quyển,
1308, Thất Diệu Nhương. Tai Quyết, 2 quyển, [ Đường Kim Câu Xá soạn ]
1309, Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp, 1 quyển, [ Đường Nhất Hành soạn ]
1310, Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Pháp, 1 quyển, [ Đường Nhất Hành soạn ]
1311, Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu, 1 quyển,
Nguồn: Mật tạng - viengiac.info
+ Các chòm sao Hoàng Đạo chi phối Thái dương hệ của chúng ta:
Chòm sao Đại Hùng tinh chi phối vòng Hoàng đạo của Thái dương hệ chúng ta
Các chòm sao tứ phương, cùng với Thiên Lang Thất Tỷ Muội/ Bắc Đẩu Thất tinh làm trung tâm, gồm: Thanh Long - Bạch Hổ - Chu Tước - Huyền Vũ
Các chòm sao tương ứng 12 Cung Hoàng đạo: Chòm sao Bạch dương - Kim ngưu - Song tử - Cự giải - Sư tử - Xử nữ - Thiên bình - Hổ cáp - Nhân mã - Ma kết - Bảo bình - Song ngư
+ Người nữ tu với Địa Tạng Bồ tát:
"Giả sử có người nữ nào nhàm chán nữ thân, hết lòng cúng dường tượng vẽ của Bồ Tát Ðịa Tạng, cùng những tượng bằng đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v..., ngày ngày như thế, không hề thối chuyển; lại thường đem hoa, hương, đồ ăn, thức uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật báu v.v... cúng dường; thì người thiện nữ đó sau khi mãn một báo thân nữ hiện tại, thời đến trăm ngàn muôn kiếp còn không sanh vào thế giới có người nữ, huống hồ là thọ lại nữ thân!
Trừ phi vì nguyện lực từ bi, muốn thọ nữ thân để độ thoát chúng sanh, còn thì nương nơi sức cúng dường Ngài Ðịa Tạng cùng sức công đức, trong trăm ngàn muôn kiếp chẳng còn phải thọ nữ thân nữa."
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật, đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ trong chừng một bữa ăn, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn. Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân gái, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ, cho đến Vương Phi, hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả, đoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn.
Do chí tâm chiêm lễ hình tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế." (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ 267. HAY BỊ BỊNH
Do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ đa phần có tật bệnh? Nếu có kẻ nam hay người nữ nhiễu hại chúng sanh; người ấy hoặc nắm tay, hoặc dùng cây đá, hoặc dùng dao gậy nhiễu hại chúng sanh.
Người ấy thọ nghiệp này, tạo thành nghiệp ấy đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, chịu nhiều tật bệnh. (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Dung mạo xấu xí:
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật, đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ trong chừng một bữa ăn, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn. Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân gái, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ, cho đến Vương Phi, hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả, đoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn.
Do chí tâm chiêm lễ hình tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế."
Lược giảng:
Ðức Phật dạy tiếp: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bệnh tật..."
Trên thế gian này, cùng là con người song tại sao có người thì tướng mạo đẹp đẽ xinh xắn, có người lại xấu xí cục mịch? Hoặc có người thì thân thể tráng kiện, có người lại ốm đau quặt quẹo? Vì lẽ gì mà có những sự khác biệt như thế?
a/ Có mười nghiệp dữ (Thập Ác Nghiệp) khiến cho tướng mạo con người bị xấu xí; những gì là mười?
- Ác nghiệp thứ nhất là thường hay phẫn nộ, thích sanh lòng căm phẫn. Chữ "phẫn" này là một trong hai mươi thứ phiền não; còn "nộ" là phát cáu, nổi giận.
Người nữ đa số dễ nổi nóng, dễ giận hờn. Tuy rằng không phải người nữ nào cũng như vậy, nhưng phần đông thì đều là dễ nổi giận; họ có thể vì một cây kim hay một sợi chỉ mà sanh ra giận dữ, tức tối. Nổi giận, nổi nóng là đặc tính của người nữ.
- Ác nghiệp thứ hai là trong lòng thường chất chứa một mối hiềm nghi và ghét hận. Người nữ thường có tánh đa nghi, cái gì cũng hoài nghi cả; lại còn có thêm lòng phẫn hận nữa. Họ "hận người," cho rằng ai cũng có lỗi, cũng đắc tội với mình, cũng đáng cho mình thù ghét cả.
- Ác nghiệp thứ ba là gì? Là ưa nói dối, thích mê hoặc người khác—làm cho người khác bị điên điên đảo đảo, không biết thế nào cho phải nữa.
- Ác nghiệp thứ tư là gì? Là thích não loạn chúng sanh—đa số người nữ rất thích điều này.
- Ác nghiệp thứ năm là không có lòng ái kính chân thành đối với cha mẹ; cũng có người có vậy, nhưng đa số thì không.
- Ác nghiệp thứ sáu là không sanh tâm cung kính đối với nơi chốn tôn nghiêm của Thánh Hiền và Thiện Thần. (Những vị tu học Phật Pháp mà chứng quả A La Hán đều được gọi là bậc "Thánh Hiền."). Thậm chí ở trước mặt đức Phật, ở chùa chiền, đa số người nữ cũng không sanh lòng cung kính, không có được lòng cung kính chân chánh.
- Ác nghiệp thứ bảy là xâm đoạt tài sản ruộng vườn nhu yếu của Thánh Hiền. Ác nghiệp này chỉ nói về một số người nữ mà thôi, chứ không phải ai cũng như vậy. "Xâm đoạt" tức là cướp lấy, chiếm đoạt một cách ngang ngược.
- Ác nghiệp thứ tám là thường dập tắt những ngọn đèn thắp trước tượng Phật ở trong chùa hoặc trong tháp thờ Phật, không để đèn tiếp tục cháy sáng nữa. Ðây là hành vi thứ tám dẫn đến quả báo xấu xí. Thật ra, cũng rất ít người nữ nào lại thổi tắt đèn thắp trước tượng Phật như thế.
- Ác nghiệp thứ chín là thấy người nào xấu xí thì liền sanh lòng chê bai, khinh miệt, nói rằng: "Ôi! Người gì mà xấu xí quá sức, thật là chẳng ai dám nhìn!" Người nữ thường có thói khinh người như thế—song le, thấy người ta xấu xí mà khinh thường người ta, kết quả là chính bản thân mình cũng bị xấu xí luôn! Quý vị phải biết rằng, trong tự tánh của mình vốn có "tấm gương thu hình"; khi quý vị nhìn thấy một kẻ xấu xí rồi sanh lòng khinh mạn, thì tất cả đều được ghi nhận và thu vào "tấm gương" của quý vị; và đến đời sau, quý vị phải đầu thai làm kẻ còn xấu xí tệ hơn người đó nữa.
- Ác nghiệp thứ mười là thích học theo hoặc bắt chước theo những thói hư tật xấu (ác hạnh), những hành vi không chánh đáng.
Trên đây là mười thứ ác nghiệp hay mười nguyên nhân dẫn đến việc thọ quả báo tướng mạo xấu xí.
b/ Lại có mười nguyên nhân khiến cho thân thể mang nhiều bệnh tật; những gì là mười?
- Thứ nhất, là thích đánh đập mọi loài chúng sanh. Bất luận là chúng sanh nào, hễ trông thấy là đều muốn đánh đập—đây là nguyên nhân đầu tiên của quả báo thân thể phải mắc nhiều bệnh khổ.
- Nguyên nhân thứ hai dẫn đến quả báo bệnh tật khổ sở là xúi giục hoặc sai bảo người khác đánh đập chúng sanh—chó, mèo, chuột..., thậm chí cả trẻ em.
- Thứ ba, là khen ngợi việc đánh nhau. Khen ngợi cái gì? Trầm trồ, khen ngợi cách đánh đập, hành hạ chúng sanh. Do vì tán thưởng cách đánh đập của người khác, nên chính bản thân mình phải chịu quả báo nhiều bệnh tật.
- Thứ tư, là thấy sự đánh đập mà vui mừng. Có những kẻ thấy người khác đánh đập chúng sanh thì trong lòng lại vui mừng hớn hở, cho là chuyện thú vị: "Hay thật! Ðáng đời! Ðánh thật là đẹp mắt!"; xem ra còn thú vị hơn cả coi xi-nê nữa!
- Thứ năm, là thấy chúng sanh bệnh tật đau đớn rên siết, thì trong lòng lại hân hoan vui sướng. Có nhiều người hễ thấy kẻ khác bị ốm đau bệnh hoạn, thì trong lòng lại mừng rỡ, thích thú: "Có chúng sanh bị đau ốm rồi. Ồ! Hay quá! Có thế chứ, hắn bệnh rồi đấy!" Họ không cảm thông thương xót đã đành, lại còn vui cười mừng rỡ nữa.
- Thứ sáu, là thấy người bệnh được bình phục thì trong lòng cảm thấy không vui. Có những kẻ thấy người khác mắc bệnh song sau đó được thuyên giảm hoặc khỏi hẳn thì họ không vui, chính vì thế cho nên kiếp sau chính bản thân họ phải chịu quả báo nhiều bệnh tật, hay đau ốm.
- Thứ bảy, là cho chúng sanh uống thứ thuốc không đúng bệnh. Có những người đem thuốc cho chúng sanh bị bệnh, họ cho thứ thuốc gì? Họ cho thứ thuốc không phải trị đúng chứng bệnh mà chúng sanh đó đương mắc phải. Ví dụ, như người bệnh đau đầu thì họ lại cho thuốc đau bụng, chẳng những thế, họ còn huênh hoang: "Quý vị xem, tôi cho bệnh nhân uống thuốc rồi đó."
- Thứ tám, là thấy người bệnh được thầy thuốc tận tâm chữa trị cho, thì sanh lòng đố kỵ, ghen ghét, nói rằng: "Ôi! Ông bác sĩ đó tốt nhất là chết sớm đi, khỏi cần phải trị bệnh cho hắn nữa! Thấy mà gai mắt!"
- Thứ chín, là thấy người khác ốm đau bệnh hoạn thì lại vui thích, còn mong sao người đó cứ luôn luôn ốm đau, mãi mãi bị bệnh tật hành hạ.
- Thứ mười, là thích ăn vặt, ăn luôn miệng. Mới vừa ăn xong chưa kịp tiêu hóa hết thì lại ăn nữa, miệng lúc nào cũng thấy thèm ăn, muốn ăn luôn miệng, không ngừng nghỉ.
Do mười thứ ác nghiệp này mà phải thọ quả báo nhiều ốm đau bệnh tật.
Chúng sanh sở dĩ tướng mạo xấu xí hoặc thân thể nhiều bệnh tật là đều do phạm vào hai mươi ác nghiệp kể trên mà ra. Nếu không phạm vào hai mươi ác nghiệp đó thì sao? Thì tướng mạo không bị xấu xí, thân thể cũng không bị nhiều bệnh tật.
Như vậy, nếu bị xấu xí và nhiều bệnh tật thì phải làm thế nào? Thì hãy "đến trước tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát, chí tâm chiêm lễ, dùng cái tâm thành khẩn thiết tha mà chiêm ngưỡng lễ bái Bồ Tát Ðịa Tạng trong chừng một bữa ăn, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi lâu bằng ăn xong một bữa cơm, người nữ đó trong ngàn muôn kiếp sẽ được thọ sanh thân hình tướng mạo viên mãn."
Thế nào gọi là "tướng mạo viên mãn"? Ðó là mắt thì giống hình dạng của mắt, tai thì có dáng vẻ của tai. Thế thì, quý vị nói mắt như thế nào là không giống mắt? Thông thường, chúng ta thấy hầu hết mọi người đều có đôi mắt dài dài tựa như hạt hạnh nhân vậy, nhưng có kẻ lại có con mắt hình tam giác hoặc vuông vức bốn cạnh; hoặc đa số có tai dài, hình đĩnh vàng, song có kẻ lại có vành tai nhòn nhọn như mũi dao vậy; có người thì mũi lại hỉnh lên, lỗ mũi lộ ra ngoài. Nói theo sách tướng, người có tướng mũi như thế là người chẳng có chút phước báo nào cả—đó là tướng bần cùng. Gặp những người có tướng như thế thì quý vị chớ nên kết giao làm bạn, bởi vì làm bạn với họ sẽ chẳng có gì tốt đẹp cả.
Tôi có biết một vị Pháp Sư nọ có tướng mắt hình tam giác và mũi thì lộ ra. Khi còn ở Hương Cảng thì tôi giúp đỡ ông cũng nhiều, nhưng sau đó ông ta lại tráo trở, dùng đủ cách để bôi nhọ, phá hoại tôi. Tuy vậy, tôi cũng chẳng hề trách móc gì ông ta cả. Về sau, ông ta mắc phải chứng ung thư mà chết. Lúc sắp chết vẫn còn ham thể diện, chưa bỏ được cái "mặt" này, ông căn dặn rằng: Hãy làm như Pháp Sư Từ Hàng vậy—hãy đặt nhục thân của ông ta ngồi trong cái vại lớn rồi niêm lại, sau ba năm thì hãy mở ra xem, nếu nhục thân vẫn còn tươi tốt thì đem ra thếp vàng. Rút cuộc, để chưa tới hai hôm thì đầu của ông đã gục xuống rồi!
Có người nói với tôi rằng nếu là người có công phu tu hành thật sự, thì bất luận chết đã bao nhiêu ngày, nhục thân của họ vẫn trong tư thế đoan nhiên chánh tọa, chứ đầu không gục xuống như thế! Vị Pháp Sư này sang ngày thứ hai đầu đã gục xuống, thế nhưng ông ta còn ham thể diện, dặn đợi đến ba năm rồi mới mở vại. Tuy nhiên, mấy người học trò của ông ta không dám mở vại, vì họ biết rằng không "chắc ăn"! Cho nên, người có tướng mũi lộ ra như thế thì không được tốt cho lắm!
Lại nữa, đàn ông miệng rộng thì tốt, song đàn bà mà miệng rộng thì không tốt, đây là tướng phân nam nữ. Vận hạn của mỗi người, lúc nào thì tốt, lúc nào thì xấu, đều có thể biết được qua tướng mạo. Chỉ cần xem tướng mạo, người ta có thể biết được thời thanh niên quý vị đã thành công như thế nào, thời trung niên sẽ ra sao, và lúc về già hậu vận sẽ như thế nào. Cho nên, sự hiểu biết của người Trung Hoa về lãnh vực tướng số rất uyên thâm, chỉ xem tướng người mà biết được kẻ ấy mai sau tiền đồ có xán lạn hay không.
"Tướng mạo viên mãn" tức là tốt đẹp toàn diện, như Hồng y Yu Bin (Vu Bân) chẳng hạn, tướng mạo của ông ấy vô cùng tốt đẹp, tuổi già được vận may. Quý vị có thể chú ý tướng mạo của ông ấy—mắt, mũi, miệng đều rất cân xứng, hài hòa, tướng người rất phúc hậu, đức độ. Thế nhưng, rốt cuộc ông lại đi lầm đường; nếu theo Phật Giáo, ông ta có thể trở thành một vị Pháp Sư bất khả tư nghị.
"Tướng mạo viên mãn" là quả báo nhờ đã từng niệm Phật, lạy Phật, hoặc lạy những vị Bồ Tát.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: "Người nữ xấu xí đó, nếu không nhàm chán thân nữ, tuy rằng xấu xí nhưng nếu cô ta vẫn thích thân nữ, vẫn muốn làm người nữ, thì trong trăm ngàn muôn ức đời thường làm Vương Nữ." Nhờ lễ bái hình tượng của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, cô ta chẳng những được thác sanh làm con gái của vua chúa mà còn được tướng mạo xinh đẹp, viên mãn nữa.
"Cho đến Vương Phi." Thậm chí cô ta có thể được thọ sanh làm vợ vua, "hoặc con gái dòng dõi Tể Phụ, Ðại Quan, Ðại Trưởng Giả." Cô ta có thể được làm con gái của quan Tể Tướng, con gái của bậc Ðại Quan, hoặc con gái của vị Ðại Trưởng Giả giàu có.
"Ðoan chánh thọ sanh, các tướng viên mãn." Tướng mạo của cô ta nhất định là rất đoan trang và vô cùng xinh đẹp, mỹ miều.
Như tôi vừa nói ban nãy, nếu cặp mắt thì xinh đẹp nhưng mũi lại không cân đối, như thế là không viên mãn; mũi rất đẹp mà mắt không cân xứng thì cũng không viên mãn; mắt, mũi đều đẹp cả mà tai lại không đẹp, không tương xứng, thì cũng không gọi là viên mãn, hoàn chỉnh. Chẳng hạn, một tai lớn, một tai nhỏ; một mắt to, một mắt nhỏ; mũi nằm lệch sang một bên mặt; miệng dính liền với mũi, hoặc mũi với miệng không tách rời nhau, không biết đó là mũi hay miệng nữa—các tướng mạo như thế đều là không viên mãn. Cũng đều là có mắt, có tai, có mũi như nhau, nhưng lại không hài hòa, không cân xứng, hoặc là lộn xộn dồn về một chỗ với nhau—mắt, mũi, tai tụ về thành một khối; quý vị nói xem, như thế có dễ coi không? Tướng mạo như thế đều là không viên mãn!
"Do chí tâm chiêm lễ Ðịa Tạng Bồ Tát mà được phước như thế." Thế thì, tướng mạo viên mãn, các căn hoàn chỉnh, mắt cũng đẹp, tai cũng xinh, mũi cũng tốt, miệng cũng vừa phải, mặt mày đều dễ nhìn, nói chung là tất cả đều đẹp đẽ, tương xứng, là do đâu? Do có lòng tin chí thành, tha thiết chiêm ngưỡng và đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng mà được thọ hưởng phước báo tướng mạo đoan trang xinh đẹp như thế!
Có rất nhiều người tướng mạo không được đoan chánh. "Không đoan chánh" tức là những trường hợp có đầu như đầu khỉ, mặt như mặt ngựa, mắt như mắt chuột. Người Trung Hoa có câu nói: Ðầu thỏ, mắt rắn, tai chuột, má ưng.” (Thố đầu, xà nhãn, thử nhĩ, ưng tai.)
Có nghĩa là người mà đầu có hình thù giống như đầu thỏ, mắt như mắt rắn, tai giống tai chuột, má giống má của chim ưng. Con người mà có nhiều tướng súc sanh tập trung lại, biến thành một cái tướng mạo, thì đó là không tốt, không đoan chánh. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mười nghiệp ác làm tướng mạo xấu xí: Thường với người nữ giới thì Phẫn lộ, hờn giận - Chất chứa hiềm nghi, Ghét hận - Ưa nói dối, mê hoặc người - Thích lão loạn - Không có lòng ái kính - Không cung kính - Thích xâm đoạn tài sản nhu yếu - Thường tắt đèn cúng dường Phật - Thích sanh lòng chê bai, khinh biệt người xấu xí - Thích học đòi theo thói hư, tật xấu.
Và Mười nguyên nhân khiến thân thể nhiều bệnh: Thích đánh đạp - Xúi dục, sai bảo bảo người khác đánh đập - Khen ngợi việc đánh nhau - Thấy đánh đập thì vui mừng - Vui mừng khi người khác bị bệnh đau - Thấy người bệnh khỏi không vui - Cho thuốc không chữa được bệnh - Ganh ghét, đố kị người được bác sỹ chăm sóc tận tình - Thích thấy người khác bị bệnh đau - Thích ăn vặt, ăn luôn miệng. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
* Mười nghiệp xấu ác kết tập sâu dày qua nhiều kiếp sống: Dâm dục - Tham lam - Kiêu mạn - Sân hận - Sảo trá, lừa gạt - Nói giối, bịp bợm, vọng ngữ - Thường oán trách , đổ lỗi - Tà tri, tà kiến, bất chánh - Cong vạy, không ngay thẳng - Thích tranh giành, kiện tụng. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
* Ngũ độn sử: “Cùng cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.” Trong con đường ấy, ngoài quỷ Dạ-xoa ra còn có cả cọp, sói, sư tử, rắn độc, bò cạp cũng đang rình chờ nữa. “Cọp” là dụ cho lòng tham, tham lam như cọp. Do đó, điều phục được lòng dâm dục tức là thuần phục được cọp; điều phục không nổi lòng dâm dục tức là chưa hàng phục được cọp vậy.
“Sói” là dụ cho cái gì? Ðó là dụ cho lòng sân hận. Loài sói rất lợi hại; lòng sân hận và loài lang sói thì đều đáng sợ như nhau.
“Sư tử” là dụ cho sự ngu si.
“Rắn độc, bò cạp” là dụ cho tánh kiêu mạn và nghi ngờ
“Tham, sân, si, mạn, nghi,” gọi chung là Ngũ Ðộn Sử. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mười ác nghiệp làm ốm đau bệnh tật (HT. Tuyên Hóa): Lại có mười nguyên nhân khiến cho thân thể mang nhiều bệnh tật;
1. Thích đánh đập mọi loài chúng sanh. Bất luận là chúng sanh nào, hễ trông thấy là đều muốn đánh đập đây là nguyên nhân đầu tiên của quả báo thân thể phải mắc nhiều bệnh khổ.
2. Xúi giục hoặc sai bảo người khác đánh đập chúng sanh chó, mèo, chuột..., thậm chí cả trẻ em.
3. Khen ngợi việc đánh nhau. Khen ngợi cái gì? Trầm trồ, khen ngợi cách đánh đập, hành hạ chúng sanh. Do vì tán thưởng cách đánh đập của người khác, nên chính bản thân mình phải chịu quả báo nhiều bệnh tật.
4. Thấy sự đánh đập mà vui mừng. Có những kẻ thấy người khác đánh đập chúng sanh thì trong lòng lại vui mừng hớn hở, cho là chuyện thú vị: "Hay thật! Ðáng đời! Ðánh thật là đẹp mắt!"; xem ra còn thú vị hơn cả coi xi-nê nữa!
5. Thấy chúng sanh bệnh tật đau đớn rên siết, thì trong lòng lại hân hoan vui sướng. Có nhiều người hễ thấy kẻ khác bị ốm đau bệnh hoạn, thì trong lòng lại mừng rỡ, thích thú: "Có chúng sanh bị đau ốm rồi. Ồ! Hay quá! Có thế chứ, hắn bệnh rồi đấy!" Họ không cảm thông thương xót đã đành, lại còn vui cười mừng rỡ nữa.
6. Thấy người bệnh được bình phục thì trong lòng cảm thấy không vui. Có những kẻ thấy người khác mắc bệnh song sau đó được thuyên giảm hoặc khỏi hẳn thì họ không vui, chính vì thế cho nên kiếp sau chính bản thân họ phải chịu quả báo nhiều bệnh tật, hay đau ốm.
7. Cho chúng sanh uống thứ thuốc không đúng bệnh. Có những người đem thuốc cho chúng sanh bị bệnh, họ cho thứ thuốc gì? Họ cho thứ thuốc không phải trị đúng chứng bệnh mà chúng sanh đó đương mắc phải. Ví dụ, như người bệnh đau đầu thì họ lại cho thuốc đau bụng, chẳng những thế, họ còn huênh hoang: "Quý vị xem, tôi cho bệnh nhân uống thuốc rồi đó."
8. Thấy người bệnh được thầy thuốc tận tâm chữa trị cho, thì sanh lòng đố kỵ, ghen ghét, nói rằng: "Ôi! Ông bác sĩ đó tốt nhất là chết sớm đi, khỏi cần phải trị bệnh cho hắn nữa! Thấy mà gai mắt!"
9. Thấy người khác ốm đau bệnh hoạn thì lại vui thích, còn mong sao người đó cứ luôn luôn ốm đau, mãi mãi bị bệnh tật hành hạ.
10. Thích ăn vặt, ăn luôn miệng. Mới vừa ăn xong chưa kịp tiêu hóa hết thì lại ăn nữa, miệng lúc nào cũng thấy thèm ăn, muốn ăn luôn miệng, không ngừng nghỉ. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P8 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Nguyên nhân Bệnh nạn:
- Lòng thù hằn, thì sẽ có con quỷ mặt đỏ - Hại Tim
- Lòng oán ghét - quỷ mặt vàng - Hại Tỳ
- Lòng áo não - quỷ mặt trắng - Hại Phổi
- Lòng sân nộ - quỷ mặt xanh - Hại Gan
- Lòng phiền toái/ Muội - quỷ mặt đen - Hại Thận (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN-Q4 )
+ 267. Hay bị bệnh: Đức Phật: Nếu có kẻ nam hay người nữ nhiễu hại chúng sanh ... khi sanh lại vào nhân gian, chịu nhiều tật bệnh. Nguồn: 267- (Trung A Hàm, Kinh Anh Vũ, Phẩm 13, số 170)
+ Bệnh tật phát sinh là từ chữ THÔNG (Không Thông - Tắc Nghẽn - Thông Đạt - Lưu Thông): ... sanh ra chướng ngại, đều là do không thông. Thông thì có thể giải quyết vấn đề, ... không thông có thể bị bệnh. ... máu huyết lưu thông, bạn liền hồi phục khỏe mạnh. Uống thuốc chỉ là phương pháp bất đắc dĩ.... Khi bị bệnh, Phật dạy bạn niệm chú, chú vừa niệm thì bệnh liền khỏi... dùng âm nhạc để chấn động, đả thông (Kinh Thập thiện- Tập 31 - PS Tịnh Không giảng)
+ Cuộc sống cần chánh xá những nguyên nhân mang tới sự sợ hãi, khiếp đảm. (Nguồn: Trích đoạn Kinh Sợ hãi - Khiếp đảm)
+ Quỷ Vô thường - Quỷ ngũ hành gây bệnh hoạn
“Quỷ vô thường” không phải chỉ vỏn vẹn có một loại, mà có ít nhất đến năm loại là: Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen (Thanh, Hoàng, Hồng, Bạch, Hắc). Căn cứ theo lý luận đông y: ngũ hành phối hợp với ngũ tạng trong thân thể con người và cũng tương ứng với ngũ sắc năm màu, ngũ quý năm mùa và ngũ phương năm hướng. Dưới đây là phần sơ lược, nếu giảng giải tỉ mỉ về lý lẽ của nó thì vô cùng vô tận.
1) - Can - mộc - đông - xuân - thanh.
2) - Tâm - hỏa - nam - hạ - xích.
3) - Phế - kim - tây - thu - bạch.
4) - Tỳ - thổ - trung - trường hạ - hoàng.
5) - Thận - thủy - bắc - đông - hắc.
Ngũ hành có cái lý lẽ là “tương sanh tương khắc.” Mà năm loại quỷ vô thường cũng dựa theo cái lý ngũ hành tương khắc, và có thể làm cho ngũ tạng của chúng ta phát sanh nhiều thứ tật bệnh liên quan với nhau.
1) - Hắc Quỷ vô thường - Ví như người có bệnh thận. Và thận thuộc thủy có sắc đen. Bởi thủy khắc hỏa cho nên nó ảnh hưởng cả tim cũng sanh bệnh.
2) - Hoàng Quỷ vô thường - Tỳ thuộc thổ, sắc vàng. Tỳ có bệnh do thổ khắc thủy, do đó nó lần lượt ảnh hưởng đến thận.
3) - Thanh Quỷ vô thường - Can (gan) thuộc mộc, sắc xanh. Gan có bệnh do mộc khắc thổ, tiếp đến là nó sẽ làm ảnh hưởng khiến cho tỳ cũng bị bệnh.
4) - Bạch Quỷ vô thường - Phế (phổi) thuộc kim, sắc trắng. Kim khắc mộc nên phổi bị bệnh, khiến ảnh hưởng đến gan cũng có bệnh.
5) - Hồng Quỷ vô thường - Tim thuộc hỏa, sắc đỏ. Tim có bệnh do hỏa khắc kim. Cho nên khi tim có bệnh, nó cũng có thể ảnh hưởng đến công năng của phổi.
Như vậy, ngũ hành tương khắc, mà các chứng bệnh của ngũ tạng cũng là tùy theo ác tánh tuần hoàn của quy luật nhất định mà sanh ra.
... Nghiên cứu về căn nguyên, tất cả các thứ bệnh tật quỷ quái, cho đến cả sanh tử cũng đều là từ “vô minh” mà ra.
Nếu phá trừ được vô minh, thời tất cả các bệnh, tất cả các quỷ vô thường cũng sẽ không còn. Vô minh chính là cội gốc của tất cả tội ác, phiền não, bệnh khổ cho đến cả sanh tử. Con người nên học cách mở mang trí huệ. Khi có trí huệ rồi, chúng ta sẽ vận chuyển được ngũ hành, đem các đạo lý “tương khắc” biến thành “tương sanh,” như có thể làm cho: kim sanh thủy, thủy sanh mộc, mộc sanh hỏa, hỏa sanh thổ, thổ sanh kim. “Tương sanh” tức là cùng giúp đỡ dẫn dắt lẫn nhau, có thể biến hóa dao mác thành ra ngọc lụa.
Bệnh hoạn là do nghiệp chướng và quỷ thần đang tác quái. Chúng ta cũng không thể dùng con mắt nhục nhãn để quan sát các hiện tượng bệnh tật một cách đơn giản như thế. Do bởi bản thân của bệnh nhân có nghiệp chướng, cho nên mới có nhiều loài quỷ quái đi theo đòi nợ và gây rắc rối cho người bệnh. Do đó, tùy theo tình hình của chứng bệnh, nếu đơn thuần chỉ trông cậy vào thuốc men để trị liệu thì chưa đủ đâu. Mà người bệnh còn phải hiểu rõ về cái nhân duyên nghiệp chướng của bản thân mình. Thêm vào những bài linh chú Phật Pháp, như vậy trị bệnh sẽ được hiệu quả hơn, cho nên “thuốc đến là bệnh trừ,” có linh nghiệm liền. Bởi vậy, thời xưa có những vị thầy thuốc được danh dự là “thần y” như Hoa Đà đời Đông Hán, Tôn Tư Mạc đời Đường. Về đức độ trị bệnh của họ thì không thể nghĩ bàn. Những vị đó đều tin Phật, chẳng qua trên y án trị liệu không có ghi chép lại mà thôi.
Có số bệnh nhân được bác sĩ trị liệu có kết quả. Song, cũng có bệnh nhân được bác sĩ chữa lành bệnh nầy rồi, nhưng bệnh khác lại phát ra. Vừa trị hết bệnh nầy thì lại xuất hiện bệnh mới khác. Có khi họ liên tiếp bị hai ba thứ bệnh như vậy, cũng bởi vì nghiệp chướng cứ mãi quấy rầy ở phía sau. Như Bác sĩ đã đánh lui được con quỷ gây bệnh, nhưng con quỷ nầy sẽ đi tìm con quỷ khác đến giúp đỡ, rồi chúng trở lại tấn công vào hang huyệt khác của người bệnh. Bọn quỷ cũng thường có hành động tập thể theo từng đoàn, từng đám với nhau.
Khi tôi vừa mới xuất gia, tôi vẫn thường hay trị bệnh cho người ta. Nhưng tôi không có viết toa thuốc cho bệnh nhân, tôi cũng không có dùng thủ thuật mổ xẻ hoặc châm cứu gì cả. Tôi chỉ dựa vào tấm lòng chân thành của tôi để niệm những bài linh chú Phật giáo mà thôi. Tâm chí chân thành đó là cứu người. Lúc bấy giờ, tôi đã không biết gì đến chuyện phải cứu quỷ, cứu ma. Trong tâm tôi chỉ có tư tưởng cứu người, vì thế tôi đã làm bọn quỷ không vui lòng. Bởi vì khi quý vị chữa bệnh cho người, bọn ma quỷ nghĩ rằng quý vị muốn chống đối chúng, thế là chúng giận lây đến người chữa trị..., dùng Thần Chú chữa bệnh rất nên cẩn thận, lượng sức mình ... (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Nguyên nhân gây bệnh: Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa. .... Quỷ thần rất cần "kính trọng mà lánh xa", đặc biệt người tu thiền không đúng chánh pháp, rễ thành ma đạo. (Nguồn: Bệnh tật cùng nghiệp chướng - HT Tuyên Hóa)
+ Các nguyên nhân gây bệnh: Nhiều kinh điển Phật giáo khác nhau mô tả nguyên nhân của bệnh cũng tương tự như nhau. Ví dụ, Kinh Phật Chuẩn Đoán nói rằng có 10 nguyên nhân và tình trạng của bệnh tật. Những lý do này là: ... (Xem: Tổng hợp các nguyên nhân_Tooltip)
+ Người ta bị bệnh vì họ "Không thể" tu hành:
-Ổn định tâm an lạc; Kiểm soát cơn giận dữ; Giải tỏa mối hận thù; Điềm tĩnh tim sợ hãi; Xóa tan buồn lo lắng
-Chấm dứt lời tranh cãi; Ngưng đọng cuộc đấu tranh; Khiêm nhường và khoan dung; Yên lặng khi thích đáng; Quân bằng sinh lực khỏe
-Chịu đựng đời gian nan; Theo cuộc sống đơn giản; Thực hành nghi thức đúng; Dứt sợ hãi tử vong; Chỉnh ý thức sai lầm
Tất cả các loại bệnh này gây ra do tập tính quá chấp thủ của chúng ta - tới ý tưởng, niềm tin, con người, ngoại hình, sở hữu, cảm xúc, địa vị, hoặc kinh nghiệm - với bất cứ một điều gì. Cần hiểu được ý nghĩa thực sự của sự buông xả và bản chất chân thực của tánh không, và điều trị lấy tất cả các căn bệnh bằng tri thức này, lúc đó chúng ta sẽ có y dược toàn hảo và nhiệm mầu để loại bỏ bao gốc rễ của bệnh tật. Cả hai phần thân và tâm cần được chăm sóc, và y dược của Phật giáo là biện pháp khắc phục lý tưởng. Sử dụng chánh Pháp để trị lành tâm thức, và con đường tiến tới sức khỏe thực sự sẽ mở rộng ra cho bạn. (Nguồn: Phật giáo với sức khỏe - Y học)
+ Xem trang tổng hợp các nguyên nhân gây bệnh - Nguồn gốc bệnh: Xem tại đây
+ Có 5 nhóm bệnh tật chính:
1/ Các bệnh do di truyền:
a/ Có sẵn trong chính hành tinh và có hiệu quả nhất định trên nhân loại qua việc tiếp xúc với đất và nước.
b/ Đã phát triển vào các thời kỳ xa xưa trong chính nhân loại và truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
c/ Đặc trưng của gia đình đặc biệt nào đó và được kế thừa bởi người của gia đình này như là một phần của nghiệp quả đã định của người ấy. Các linh hồn giáng nhập vào một số gia đình nào đó nhân cơ hội này.
2/ Các bệnh tật bị gây ra bởi các khuynh hướng trong chính con người. Các bệnh này là do cung thiên tượng của con người chi phối – hoặc là cung thái dương, hoặc là cung đang lên của y (sẽ được nghiên cứu sau).
3/ Các bệnh lây nhiễm vốn có nguồn gốc tập thể và dính líu đến con người như là một phần của nghiệp quả tập thể của con người, nhưng thường thường không liên quan đến nghiệp quả cá biệt của con người.
4/ Các bệnh tật và tai nạn mắc phải vốn là kết quả của hành động bất cẩn hay các thói quen thiếu khôn ngoan trong kiếp sống này và nhất định là chi phối nghiệp quả trong tương lai của con người. Ở đây có điểm lý thú liên quan đến tai nạn có thể được nêu ra. Thường thường tai nạn được gây ra bởi những gì có thể được xem như là “sự bùng nổ của mãnh lực”. Các bùng nổ này do một người hay do một nhóm người tạo ra do sự thù hận hoặc ganh tỵ hoặc không tha thứ, mà các tính chất phản ứng lại hay là bị “quay ngược trở lại” vào cuộc đời cá nhân.
5/ Các bệnh của những nhà thần bí mà hiện nay chúng ta đang đề cập tới. Nói chung, các bệnh này đều gây ra bởi năng lượng của một bí huyệt thấp đã khai mở và linh hoạt đang được chuyển vào bí huyệt cao. (TLHNM II, 547–548)
+ Bệnh tật chỉ có trong thế giới hiện tượng (SHLCĐD9CG, 36)
* Tham khảo: 5. Bài báo viết về virus và vi khuẩn (Do bác MQ-MFVN dịch): Một xem xét cơ bản là loại cảm xúc hoặc đam mê làm cho các loại vi-rút hoặc vi khuẩn khác nhau biểu hiện như một tác nhân hủy diệt và một gói thông tin tiêu cực hoặc phá hủy được thu hút từ thể cảm xúc của hành tinh, và chuyển động tích cực bởi cảm xúc tiêu cực và hoạt động của cá nhân. Cúm rõ ràng không phải là bệnh hoa liễu bởi vì cảm xúc "sợ hãi" là nguyên nhân của nó "có nguồn gốc từ nỗi sợ hãi và lo lắng", trong khi "ham muốn vô độ" là cảm xúc mạnh mẽ là nguyên nhân của các bệnh xã hội / hoa liễu.
+ Các loại bệnh tật: Các Loại Bệnh Tật - Nguồn Phát Sinh Bệnh - Nhóm Bệnh - Nguồn bệnh - Nguồn gốc bệnh - Nguyên nhân gây bệnh - Căn nguyên bệnh ... (Xem: Tổng hợp bệnh tật_Tooltip)
+ Các loại Bệnh: Bệnh ác nghiệp - Bệnh Nghiệp Chướng - Bệnh do Nghiệp - Bệnh nạn do nghiệp - Bệnh nan y - Bệnh ác tính - Bệnh Oan gia - Bệnh Oán gia - Bệnh nạn do Oan gia (Xem: Bệnh ác tính_Tooltip)
+ Thân người vốn có bốn bệnh:
1. Đất: đất thuộc về thân
2. Nước: nước thuộc về miệng
3. Lửa: lửa thuộc về mắt => lửa ít lạnh nhiều thì mắt mờ.
4. Gió: gió thuộc về tai
Gió tăng thì khí khởi lên, lửa tăng thì nhiệt khởi lên, nước tăng thì lạnh khởi lên, đất tăng thì lực mạnh lên. Vốn từ nơi 4 bệnh này, mà sinh ra bốn trăm bốn bệnh.
- Mùa xuân từ tháng giêng, tháng hai, tháng ba lạnh nhiều - Là vì vạn vật đều sinh ra, nhờ lạnh mà đâm chồi gọi là lạnh nhiều.
- Mùa hè từ tháng tư, tháng năm, tháng sáu gió nhiều - Là vì vạn vật hoa quả tươi tốt âm dương tụ họp gọi là gió nhiều.
- Mùa thu từ tháng bảy, tháng tám, tháng chín nóng - Là vì vạn vật bị khô héo gọi là nóng nhiều.
- Mùa đông từ tháng mười, tháng mười một, tháng mười hai có gió lạnh - Là vì vạn vật hoàn toàn đã mất hết nhiệt gọi là có gió có lạnh.
Xuân Hè: Từ tháng ba, tháng tư, tháng năm, tháng sáu, tháng bảy được nằm. Vì sao? Vì gió nhiều cho nên thân thể tỏa ra.
Thu Đông: Từ tháng tám, chín, mười, mười một, mười hai, giêng, hai không được nằm. Vì sao? Vì lạnh nhiều cho nên thân co lại.
- Ba tháng mùa Xuân có lạnh, nên không được ăn mì đậu - Nên ăn gạo tẻ, sữa đặc và những vật được nấu chín.
- Ba tháng mùa hè có gió, không được ăn khoai, đậu, lúa mì - Nên ăn gạo tẻ, uống sữa.
- Ba tháng mùa thu có nóng, không được ăn gạo tẻ, sữa đặc - Nên ăn gạo tấm, bột gạo rang, lúa mì.
- Ba tháng mùa đông có gió lạnh và âm dương hòa hợp - Nên ăn gạo tẻ, canh đậu phụ, sữa đặc.
=> Khi nằm có lúc gió khởi có lúc diệt, có lúc lửa khởi có lúc diệt, lạnh có lúc khởi lúc diệt. ....(Nguồn: Kinh Phật Thuyết Y Kinh _Thích Đồng Tiến dịch )
+ Một trăm thứ Bệnh: Chúng ta thấy Thái Thượng Lão Quân của Đạo Giáo đã nói tới một trăm thứ bệnh, và cũng nhắc tới một trăm món thuốc. Chúng ta hãy xem những căn bệnh ấy, chúng ta có vướng phải hay không? Trước hết, nói tới một trăm thứ bệnh.
Thứ nhất là “hỷ nộ vô thường là một bệnh”... Phàm là người ngã bệnh thì là không bình thường, đúng mực, chẳng thể khống chế tâm tình. ... con gái bà ta hai mươi tám tuổi qua đời, để lại hai đứa con thơ. Nửa năm trước khi bà qua đời bèn hỷ nộ vô thường; trước kia, bà ta chẳng như vậy. Do vậy bèn nói đây là điềm báo bệnh tật nẩy sanh, tỏ lộ tâm tình đặc biệt nóng nảy, bộp chộp. Nếu chúng ta có tình hình ấy, cần phải đi khám sức khỏe. Người học Phật phải nên bình lặng, nên niệm Phật hiệu cho nhiều, lạy Phật cho nhiều hòng tiêu nghiệp chướng.
Thứ hai, “quên nghĩa hám lợi là một bệnh”, lợi là thứ con người hiện thời ắt phải tranh giành. ... là bậc đại phú trưởng giả, cất một tòa biệt thự lộng lẫy, từng ở nơi đó một ngày. ... Bình thường có ba người đầy tớ trông nom tòa biệt thự, quét dọn sạch sẽ, ba người ấy hưởng phước ở đó, sống nhiều năm ở đó. Quý vị thấy: Suốt đời ông ta chỉ ở một hôm, quyền sở hữu tài sản thuộc về ông ta, nhưng quý vị thấy ông ta chẳng có cách nào hưởng phước! Ba người hầu có quyền sử dụng, họ hưởng phước, đó là do mạng vận đã định. Chuyện như vậy có thể thấy khắp mọi nơi trên cả thế giới...... Tôi tin tưởng còn có những người suốt cả một đời cũng chưa ở một ngày, sao mà khổ thế? ....
Thứ ba, “Háo sắc, hoại đức là một bệnh”, bệnh này hết sức phổ biến trong xã hội hiện thời. ... “Họa phước không có cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”. ... Trong xã hội hiện thời, quan hệ nam nữ rất hỗn loạn, mỗi ngày có bao nhiêu kẻ phá thai? Phá thai là sát nhân. Luật nhân quả thường cảnh tỉnh chúng ta, đó là chuyện thật! Thiếu mạng phải đền mạng, thiếu nợ phải đền tiền. .... Có người thông linh thấy theo sau cô ta là một bầy tiểu quỷ; vì thế, bản thân cô ta khổ chẳng thể nói nổi, thân thể hết sức tệ, bệnh tật rất nhiều. Bệnh tật là gì vậy? Bệnh tật là do oán thân trái chủ gây rối cô ta. ...
Thứ tư, “Chuyên tâm yêu thương mê mệt là một bệnh”, nay chúng ta gọi là “sủng ái”. Quý vị sủng ái một ai thì người ta thường nói là “thiên vị”. Nếu trong một gia đình, quý vị yêu thương một ai đó quá lẽ, kẻ khác có phục hay không? Khiến cho người khác ganh tỵ, thậm chí khiến cho kẻ khác báo thù, phiền não liền xảy đến. Vì thế, chuyện này rất đáng sợ.
Thứ năm, “Thù ghét, mong cho kẻ khác chết đi là một bệnh”. Oán hận kẻ ấy, không ưa, mong cho kẻ ấy chết ngay lập tức. Điều này thuộc loại oán hận, thuộc loại nguyền rủa, tự nhiên kết thù chuốc oán. ......
Thứ sáu, “Tham dục phóng túng, ẩn giấu lỗi lầm là một bệnh”, tham dục đã là lầm lỗi, lại còn phóng túng thì còn gì để nói nữa? Tham lam không bờ bến, càng bị hãm sâu hơn. Có lỗi phải sám hối, phải sửa đổi, không thể che giấu.... Che giấu lỗi lầm chẳng cho người khác biết, đó là bệnh.....
Thứ bảy, “Chê người, khen mình là một bệnh”, chuyện này cũng thường nẩy sanh. ... Đối với người khác phải tán thán, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ kính chư Phật, tán thán Như Lai”. ...
Thứ tám, Điều tiếp theo, “tự tiện thay đổi là một bệnh”, vấn đề này cũng hết sức nghiêm trọng! Cổ thánh tiên hiền đã lập ra quy củ, chính chúng ta sửa đổi, có phải gánh trách nhiệm nhân quả hay không? Khẳng định phải chịu. Cổ thánh tiên hiền đã lập ra những phép tắc ấy, thường được các tôn giáo hiện thời gọi là “chân lý”, không thể thay đổi! ... Đặc biệt là những vị làm phụ mẫu tuổi trẻ, chẳng có kinh nghiệm dạy dỗ trẻ thơ, tâm mong con trở thành kẻ tài năng quá mạnh, hy vọng con mình có thể vượt trỗi kẻ khác, thứ gì cũng biết, thứ gì cũng học, đứa bé ấy rất đáng thương, chẳng thể chịu đựng nổi, học hành rất đau khổ. Hiện thời, chúng ta thường nghe nói học trò Tiểu Học tự sát, trong quá khứ, chưa hề có chuyện này. Vì sao chúng tự sát? Chúng quá đáng thương, quá khổ! Đó là gì? Lỗi lầm của cha mẹ, không biết dạy con! Thời cổ, trẻ nhỏ đi học chỉ học một môn, “quý dĩ chuyên” mà! Mấy ngàn năm qua đều là như vậy. Học một môn này chưa xong, chẳng thể học môn thứ hai. Nay thì có thể học đồng thời bảy, tám môn, thế thì sao? Chẳng được rồi! (Nguồn: HT Tịnh Không giảng Tịnh độ ...., T 124)
+ Xem thêm: Bệnh thân xác do ăn uống không hợp bốn mùa dưỡng sinh
+ Nghĩa Thuần thục: Vạn sự hòa hợp thành tựu đầy đủ điều kiện, ví như trái cây đã đến lúc chín với chất lượng tốt (Từ điển Phật giáo VN)
+ Chữ thuần thục đồng nghĩa chín muồi:
Ví dụ đã thuần thục: Cơ duyên đến lúc thuần thục - Nhân duyên đã chín muồi - Thời cơ đã chín muồi - Cơ duyên thuần thục - Nhân duyên thuần thục
Ví dụ chưa thuần thục:
Ví như trẻ mới sinh chưa thể biết lẫy - Biết bò - Biết đi - Biết tự ăn - Tự mặc áo ..... mà phải chờ Thân Tâm phát triển chín muồi;
Trẻ mới lớn chưa thể phát dục vì cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh;
Như hoa mới chớp nở; Sự việc mới manh nha;
Như mây đen ùn ùn kéo tới chưa phải là mưa, cũng chưa chắc đã mưa;
Nhân lành tu hành chưa tới/ Họ không tin nghe giáo pháp chánh .......
Giả như bác sỹ chỉ khi người đã phát bệnh bác sỹ mới có thể chữa - Bệnh chưa phát sao bảo họ chữa bệnh, thường chẳng mấy ai nghe ... (Lời Thánh hiền)
+ Đức Phật phóng quang: HỎI: Tại sao khi thuyết pháp Phật thường hay phóng hào quang?
ĐÁP: Vì Ngài muốn cho chúng sanh mau khai ngộ. Trong lúc cuối cùng, khi Phật giảng thuyết Kinh Niết Bàn, Ngài phóng quang ở mặt rồi thâu quang về miệng.
Đó là biểu hiện đi là như như, đến cũng là như như. Đi cũng là đi đến trí huệ quang minh tạng, trở về cũng là quay về trong quang minh tạng. Nhưng chúng sanh chỉ biết đi mà không biết quay về. Cho nên nói “năng phóng bất năng thâu”. Nói vậy cũng tức là chỉ cho vọng tưởng của chúng ta. Chúng ta có phóng ra thì sau đó phải thâu trở về cho được. Nếu chỉ biết phóng quang ra mà không biết thâu quang về thì không thể: đến đi như ý mình. Vậy tức là không có linh động trong sự học hỏi và thực hành.
Chúng ta phải biết phóng, biết thâu: có thể lớn, có thể nhỏ, có thể có, có thể không, không gì mà không thể làm được, tâm như ý, tự tại vô ngại.
Phải chăng Phật phóng quang là để cho người ta nhìn thấy? Không phải. Vậy ngài cho người ta thấy hào quang để làm gì? Có phải cũng giống như phàm phu chúng ta là muốn làm quảng cáo chăng? Hoặc là giống như có người muốn biểu lộ sở trường đặc biệt của mình ra cho người ta biết? Không phải như vậy đâu. Phật phóng quang là để chiếu phá vô minh của chúng sanh.
Mỗi một chúng sanh trong pháp hội đều được hào quang của Phật chiếu sáng.
Cho nên nói: Phật quang phổ chiếu, vũ lộ quân triêm. Nghĩa là Phật chiếu ánh hào quang đến mọi nơi như mưa cam lồ rưới đều lên khắp chốn. Lúc này, tất cả chúng sanh đều được hào quang của Phật gia hộ; tức là chúng ta gieo xuống hạt nhân thành Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị - Q3)
+ Đức Phật phóng Hào quang: Lúc đó, từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
Lược giảng: Lúc đó - Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói chuyện với Kiên Lao Địa Thần và căn dặn Địa Thần hãy ủng hộ các chúng sanh trong đời vị lai xong - từ trên đảnh môn Đức Thế Tôn phóng ra cả trăm ngàn vạn ức tướng tia sáng lớn.
“Đảnh môn” (cửa đỉnh đầu) nằm ở đâu? Ở ngay trên đỉnh đầu. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có tướng “vô kiến đảnh” (tướng đỉnh đầu không thấy được) chính là ở “đảnh môn” này vậy.
Chúng ta mỗi người đều có “đảnh môn.” Nếu quý vị tinh tấn dụng công, chân chánh có công phu tu hành, thì khi chết, Phật tánh của quý vị sẽ từ “đảnh môn” ở trên đỉnh đầu mà đi ra, và sau đó quý vị có thể đến bất cứ nơi nào mình muốn. Tuy nhiên, quý vị cần phải chăm chỉ tu hành, nỗ lực dụng công cho thật tốt mới được; chứ dụng công hời hợt thì không thể nào có được cảnh giới đó.
Như là: Tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn; tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn; tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn; tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn; tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn; tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn; tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn; tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn; tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn; tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn; tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn; tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn; tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn; tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn; tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn; tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn.
Từ trên đảnh môn phóng ra những tướng tia sáng như thế xong, lại nói ra tiếng vi diệu mà bảo đại chúng, Thiên Long Bát Bộ, nhân cùng phi nhân v.v... rằng: “Hãy lắng nghe hôm nay Ta, tại cung trời Đao Lợi, tuyên bày ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng về những sự lợi ích trong hàng trời, người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự siêu vượt nhân Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không thối chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”
Lược giảng:
Vậy, lúc bấy giờ từ trên đỉnh đầu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra những tia sáng như là:
1) tia sáng tướng màu trắng, tia sáng tướng màu trắng lớn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng hào quang màu trắng soi sáng tất cả những nơi tối tăm; ngụ ý rằng Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng có thể chiếu dọi, xua tan mọi hắc ám tăm tối của thế gian.
2) Tia sáng tướng tốt lành, tia sáng tướng tốt lành lớn.
3) Tia sáng tướng ngọc, tia sáng tướng ngọc lớn. Có loại hào quang trông giống như ngọc thạch vậy.
4) Tia sáng tướng màu tía, tia sáng tướng màu tía lớn.
5) Tia sáng tướng màu xanh, tia sáng tướng màu xanh lớn. Lại có những đạo hào quang màu xanh, và nhiều hào quang lớn cũng có màu xanh như thế nữa.
6) Tia sáng tướng màu xanh biếc, tia sáng tướng màu xanh biếc lớn.
7) Tia sáng tướng màu đỏ, tia sáng tướng màu đỏ lớn.
8) Tia sáng tướng màu lục, tia sáng tướng màu lục lớn.
9) Tia sáng tướng màu vàng y, tia sáng tướng màu vàng y lớn. Lại có tia sáng có màu vàng như vàng ròng vậy.
10) Tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn.
11) Tia sáng ngàn vòng tròn, tia sáng ngàn vòng tròn lớn. Bàn chân của Đức Phật có tướng “thiên bức luân” (chỉ dưới bàn chân có ngàn cái xoay tròn); và đạo hào quang này trông giống như cả ngàn cái vòng xoáy tròn ở trong vậy.
12) Tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn. Lại có hào quang hình tròn và sáng lấp lánh như châu báu tạo thành.
13) Tia sáng vầng mặt trời, tia sáng vầng mặt trời lớn. Lại có những đạo hào quang rực rỡ như ánh sáng của cả trăm ngàn vầng mặt trời.
14) Tia sáng vầng mặt trăng, tia sáng vầng mặt trăng lớn. Lại có đạo hào quang tỏa ra ánh sáng như của mặt trăng.
15) Tia sáng cung điện, tia sáng cung điện lớn. Trong đạo hào quang này hiện ra nhiều cung điện làm bằng bảy thứ báu rất trang nghiêm.
16) Tia sáng mây biển, tia sáng mây biển lớn. Lại có những đạo hào quang trông giống như đám mây vọt lên từ mặt biển. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P12- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Vầng hào quang (Halo): ... Nhờ việc tinh luyện và kiềm chế những luồng sinh lực, ánh sáng trong đầu trở nên rõ rệt đến nỗi người nào có được nhãn thông siêu nhiên (supernatural vision) đều thấy nó tỏa ra chung quanh đầu, như thế tạo thành vầng hào quang thường được biết đến trong các bức hình của các vị thánh (Saints). Vầng hào quang là có thật trong thiên nhiên chứ không phải chỉ là một biểu tượng. Đó là kết quả của công phu luyện Raja Yoga và là biểu lộ trên cõi trần của sự sống và ánh sáng của linh hồn. (ASCLH, 228)
Hào quang cầu bậc cao (Higher auric sphere): Tức là Chân Thần (Monad). (TVTTHL, 207)
+ Giai đoạn đệ tử trong vòng hào quang (disciple within the aura): Trong giai đoạn này, đệ tử được phép biết phương pháp giúp y có thể tạo nên một rung động và lời kêu cầu để được phép gặp một Chân Sư. Chỉ có đệ tử được tin cậy mới được phép làm điều này, và họ không dựa vào việc dùng sự hiểu biết này cho bất cứ điều gì khác ngoại trừ sự cần thiết của công việc, không có lý do nào hay đau khổ nào của Phàm ngã thúc đẩy họ làm việc đó nữa.
+ Bảy cung năng lượng bảy cung vũ trụ có đặc tính chuyển động, chia làm 3 nhóm đặc trưng, nổi bật:
1. Nhóm 1 - Chuyển động xô thẳng, trong đó - Cung 1 (Cung chính): Chuyển động xô thẳng mạnh mẽ, không thể cản trở, như mũi tên/ viên đạn bay - Cung 7 (Cung phụ) : Chuyển động thẳng tiến, nhưng nhịp nhàng uyển chuyển như Ngựa lướt uyển chuyển
2. Nhóm 2 - Chuyển động xoay vòng, trong đó: - Cung 2 (Cung chính): Chuyển động tròn, đều đặn, vừa mức theo một hướng - Cung 4 (Cung phụ) : Chuyển động xoay vòng tới lui - Cung 6 (Cung phụ) : Xoay tròn một chiều mạnh mẽ, tuôn tràn chủ nghĩa lý tưởng nhiệt thành, sùng tín
3. Nhóm 3: Chuyển động zích zắc, vô phương, trong đó - Cung 3 (Cung chính): Rất năng động, đa năng, có thể cuồng loạn - Cung 5 (Cung phụ) : Hoạt động có chừng mực, dừng nghỉ (Suy nghĩ), chuyển động tiếp, ngừng lại ..v.v.. Xem: Tâm lý học nội môn 2 - minhtrietmoi.org
+ Khoáng vật: The mineral, khoáng chất, kim thạch). Loài khoáng vật chết đi vào cuối mỗi chu kỳ sinh hóa (manvantaric cycle) hay là vào cuối một Cuộc Tuần Hoàn (Round) như thường gọi. (Thư của Chân Sư, 172)
+ Xem thêm: Các loại ngọc thạch tương ứng 7 Cung
+ Bệnh Lao (Tuberculosis): Bệnh lao là kết quả của việc lạm dụng (misuse) năng lượng của cung 2. (CTNM, 383)
+ Laya yoga: - Khoa học về các trung tâm lực tức là laya yoga; đây là việc áp dụng định luật vào các mãnh lực của Thiên nhiên và việc con người sử dụng các mãnh lực này một cách khoa học. Nó liên quan tới việc chuyển một vài bộ bảy (septenates) của năng lượng qua các trung tâm lực trên xương sống và vào trong đầu bằng cách tiến theo dạng hình học đặc biệt nào đó. Việc này làm cho một người thành một nhà tâm thông tài giỏi và khai mở trong y một vài quyền năng tiềm tàng mà khi được phát triển, làm cho y tiếp xúc được với linh hồn của vạn vật và với khía cạnh chủ quan của thiên nhiên.(ASCLH, 78)
- Laya yoga có liên quan với thể dĩ thái, với các trung tâm lực hay các chakra trong thể đó, và liên quan với việc phân phối các luồng thần lực và việc khơi hoạt hỏa xà. (ASCLH, 121–122)
Xem: Xem Khoa học về Hơi thở Chân Sư DK dạy
+ Cảm thức tức là sự đáp ứng bén nhạy với việc tiếp xúc và nhờ đó mới có sự tăng trưởng tiếp theo về sự hiểu biết. (TLHNM–I, 130)
+ Cảm thức tức là ánh sáng của hạ trí (the Lower Manasic light) (CKMTTL, 138)
+ Năng lượng hữu cảm thức (Sentient energy): Năng lượng này khiến cho một người thành một linh hồn. Đó là nguyên khí tri thức, quan năng của ý thức, một cái gì đó có sẵn trong vật chất (khi được đưa vào liên kết với tinh thần) sẽ khơi hoạt sự đáp ứng với một môi trường tiếp xúc rộng lớn bên ngoài. Sau rốt, đó là cái sẽ phát triển nơi con người một nhận thức về tổng thể, về bản ngã (self) và đưa con người tới sự tự quyết (self–determination) và tự nhận thức (self–realisation) … Năng lượng hữu cảm thức này (energy of sentient consciousness) đến từ Ngôi Hai của Thượng Đế, từ tâm của mặt trời. (LVHLT, 525)
+ Năng lượng hữu cảm thức. Khả năng đáp ứng. Năng lượng tình cảm, cảm xúc, ước muốn. Phản ảnh của tình thương. Mãnh lực của dục vọng. Thôi thúc ham muốn. Thúc đẩy tiến hóa thiêng liêng. Khuynh hướng hấp dẫn, thu hút, theo Định luật Hút..
Năng lượng của linh thể (Atma). Mãnh lực của ý chí thiêng liêng. Hiện thân của mục tiêu thiêng liêng. Năng lượng này tự tập trung trong “các cánh hoa hy sinh của hoa sen Chân Ngã”. Hình ảnh của nó được tìm thấy trong bản chất thể trí của phàm ngã.
Năng lượng linh hồn (Soul energy): Năng lượng linh hồn vốn là năng lượng của tình thương (energy of love).(CTNM, 131)
+ Năng lượng theo sau tư tưởng: (Energy follows thought) Trình tự của hoạt động này có thể được trình bày như sau:
Trên cõi riêng của mình, chủ thể tư tưởng (thinker, linh hồn) đưa ra một tư tưởng tiêu biểu cho mục tiêu hoặc ý muốn nào đó. Thể trí (mind) rung động đáp ứng với tư tưởng này, đồng thời tạo ra một phản ứng đáp lại (corresponding reaction) trong thể cảm dục, tức thể tình cảm. Thể năng lượng, tức thể dĩ thái (etheric sheath) rung động đồng bộ theo, nhờ đó, bộ óc đáp ứng lại và cung cấp năng lượng (energises) cho hệ thần kinh khắp cả toàn bộ nhục thân, thế là xung lực của chủ thể tư tưởng thể hiện thành hoạt động ở cõi trần. (ASCLH, 327)
+ Luật Năng Lượng Theo Sau Tư Tưởng: Bí mật cơ bản của các chu kỳ nằm trong sự triệt thoái này và việc tái tập trung sự chú ý tiếp sau đó, và cần phải nhớ trong sự liên kết này là định luật căn bản nằm dưới mọi công tác huyền thuật là “năng lượng theo sau tư tưởng”. Nếu những người tìm đạo nhớ điều này, họ sẽ sống qua các thời kỳ khó khăn của họ một cách dễ dàng hơn nhiều, và sẽ có ý thức về mục đích nền tảng.
- Những nguy hiểm gắn liền với sự tuôn đổ sớm và không được kiểm soát của năng lượng tinh thần thuần khiết vào cơ cấu của phàm-ngã. Sức mạnh tinh thần thiết yếu đó đi vào qua kẽ hở ở sọ, và đổ vào các bí huyệt đầu (LVHLT, 249)
Năng lượng tinh thần (Spiritual energy): Năng lượng tinh thần phát xuất từ các Đức Chúa Cha, đạt tới nhân loại từ cõi giới mà về mặt chuyên môn được gọi là cõi Chân Thần, từ cõi nguyên hình (archetypeal sphere), cội nguồn cao siêu nhất mà một người có thể biết đến. Có rất ít người được trang bị đủ để học có thể đáp ứng với loại năng lượng này. Đối với đa số người, năng lượng đó thực ra không tồn tại.(LVHLT, 525)
+ Năng lượng và Lực (Energy and Force): Tôi muốn bạn ghi nhớ rằng, mặc dù tất cả đều là năng lượng, tuy nhiên, đồng thời trong giáo huấn nội môn chính xác thì hoạt động có sức thôi thúc cao được gọi là năng lượng còn những gì bị chi phối bởi năng lượng và bị cuốn vào hoạt động qua trung gian của nó được gọi là lực. Do đó, tên gọi có tính cách tương đối và có thể thay đổi. Thí dụ, đối với đa số nhân loại, xung lực cảm dục là năng lượng cao nhất mà thông thường nhân loại mong muốn, còn các lực mà năng lượng cảm dục tác dụng lên bấy giờ sẽ là các lực dĩ thái và hồng trần. (VMCQG, 129)
+ Tôi dùng từ ngữ “năng lượng” để chỉ biểu lộ tinh thần (spiritual expression) của bất cứ cung nào, còn từ ngữ “lực” để chỉ công dụng (use) mà con người tạo ra đối với năng lượng tinh thần đó khi họ tìm cách sử dụng nó và cho đến nay, thường dùng sai. (VMCQG, 16)
+ Tật xấu (vice): - Tật xấu là việc chiếm ưu thế của tính chất giáng hạ tiến hóa (involution) của cùng một mãnh lực mà vào giai đoạn sau sẽ hiện ra như là một đức tính (virtue). (TVTTHL, 233)
+ Tật xấu là năng lượng của các thể thấp riêng rẻ hay kết hợp lại trong Phàm ngã khi nó kiểm soát các hoạt động của sự sống và xem nhẹ linh hồn hơn là các thể thấp (sheaths) hay là xem nhẹ linh hồn hơn là các thôi thúc và các khuynh hướng của Phàm ngã. (LVHLT, 202)
+ Viễn cảm - Thần giao cách cảm: - Viễn cảm hay là sự hiểu biết tức khắc, biết được các biến cố, nhận thức được các sự việc và đồng nhất hóa với các phản ứng của Phàm ngã. Tất cả đều liên quan đến hoạt động của bí huyệt nhật tùng của Phàm ngã và điều này - khi bản chất bác ái hay trạng thái thứ hai được khai mở – trở thành “hột giông hay mầm mống” của quan năng trực giác.(VCVTDT, 109)
- Nhãn và nhĩ thông cũng có thể xảy ra trên các phân cảnh trí tuệ, lúc đó chúng ta gọi là viễn cảm.(SHLCTĐ, 8);
+ Viễn cảm giao tiếp: Giao tiếp bằng viễn cảm là việc ghi nhận vào ý thức của bộ óc xác thịt các thông tin được truyền đạt: a/ Trực tiếp từ Chân Sư đến vị đệ tử; từ đệ tử đến đệ tử; từ đạo sinh đến đạo sinh. b/ Từ Chân Sư hay đệ tử đến Chân Ngã và từ đó đến Phàm Ngã, xuyên qua các phân cảnh nguyên tử. Do đó bạn sẽ ghi nhận được rằng chỉ những ai mà trong các thể của họ có vật chất thuộc phân cảnh nguyên tử mới có thể hoạt động theo cách này. Sự an toàn và chính xác nằm trong trang cụ này. c/ Từ Chân Ngã đến Chân Ngã xuyên qua Chân Ngã thể và được truyền trực tiếp tùy theo phương pháp đi trước hay được giữ lại để hoàn tất từ từ và tùy nhu cầu.(LVHLT, 179)
+ Giao tiếp bằng viễn cảm: Đây là việc ghi nhận trong ý thức của bộ óc hồng trần tin tức được truyền đạt:
1. Trực tiếp từ Đức Thầy tới đệ tử; từ đệ tử tới đệ tử, từ đạo sinh tới đạo sinh.
2. Từ Sư Phụ hoặc đệ tử tới Chân Ngã, rồi từ đó tới Phàm ngã, xuyên qua các phân cảnh vi tử. Do đó, bạn nên để ý rằng chỉ ở người nào mà các thể của họ có vật chất thuộc phân cảnh vi tử mới có thể hoạt động theo cách này. Sự an toàn và độ chính xác nằm trong vận cụ này.
3. Từ Chân Ngã tới Chân Ngã xuyên qua linh hồn thể và được truyền trực tiếp theo phương pháp trước hay được chứa lại để đưa ra dần dần khi nào cần đến. (LVHLT, 179)
+ Các bậc viễn cảm: (Thấp: Hai người cùng dùng; Bậc cao: Dùng LXa cao nhiều hơn, có thể lẫn Đan Điền)
– Theo bản năng, dùng huyệt đan điền (Tùng Thái Dương)
– Có tính trí tuệ, dùng 2 huyệt cao là cổ họng và ajna giữa hai chân mày.
– Viễn cảm dùng trực giác, liên hệ đến huyệt đầu.(Nguồn)
Xem: Tổng hợp về viễn cảm;
Xem: Viễn cảm của AAB với CSDK và CSKH
+ Yoga về các bí huyệt (Laya Yoga): Laya Yoga có liên quan với thể dĩ thái, với các trung tâm lực hay chakras nằm trong thể đó và với việc phân phối các luồng thần lực và khơi hoạt luồng hỏa xà (serpent fire). (ASCLH, 121-122)
+ Sự tiến hóa qua các Luân xa Dĩ Thái (EP I, 301)
1. L.Xa đầu _ Chân Thần_ Sự sống _Trạng thái thứ nhất.
2. L.Xa tim _ Linh hồn. _ Tâm thức _Trạng thái thứ hai.
3. L.Xa Ajna _ Phàm ngã _ Vật chất _Trạng thái thứ ba.
Ba luân xa chính đối với người tiến hóa.
4. Luân xa cổ họng _ Thể trí _N.Lượng trí tuệ.
5. LX Tùng thái dương_Thể cảm dục_N.Lượng cảm dục.
6. Luân xa xương cùng_Thể xác
7. L.xa đáy cột sống _Chính sự sống _T.Tâm Chân Thần.
Các Tinh Linh và Linh hồn hoạt động (EP II 290. 304)
Ba Tinh linh (TL) có chủ yếu ở 3 luân xa thấp nhất:
1. L.Xa xương cùng, - TL trí tuệ => L.Xa cổ họng.
2. L.Xa tùng T.Dương - TL cảm dục => Luân xa tim.
3. L.Xa đáy cột sống, - TL hồng trần => Luân xa đầu.
Linh hồn nội tại tập trung vào 3 luân xa cao.
1. Luân xa đầu tâm thức trí tuệ.
2. Luân xa cổ họng tâm thức sáng tạo.
3. Luân xa tim tâm thức cảm giác[304]
+ Hai sự kiện quan trọng là (LVHLT, 191):
1. Ba trung tâm lực dưới cơ hoành,
a/ Bí huyệt đáy xương sống,
b/ Bí huyệt xương cùng,
c/ Bí huyệt đan điền,
mà hiện nay là những bí huyệt có uy lực nhất trong nhân loại bậc trung, và là những bí huyệt “linh hoạt” nhất, cần được tái tổ chức, tái định hướng, và được đưa từ trạng thái tích cực sang trạng thái tiêu cực.
2. Tương tự, bốn trung tâm trên cơ hoành,
a/ Bí huyệt tim,
b/ Bí huyệt cổ họng,
c/ Bí huyệt giữa hai mày,
d/ Bí huyệt đầu,
phải được đánh thức và được đưa từ trạng thái tiêu cực sang trạng thái tích cực - Có hai cách:
1. Đầu tiên, bằng việc chuyển năng lượng tích cực của các bí huyệt thấp thành năng lượng tích cực của bí huyệt cao hơn, và
2. Thứ hai, bằng việc đánh thức bí huyệt đầu do sự thể hiện hoạt động của ý chí. Hiệu quả đầu tiên được tạo ra bằng việc xây dựng tính-cách và bằng sự thanh lọc các thể, khi được linh hồn sử dụng trong ba cõi thấp. Hiệu quả thứ hai là kết quả của việc thiền định và sự phát triển mục đích có tổ chức, do ý chí áp đặt lên sự sống hằng ngày. Xây dựng tính cách, lối sống trong sạch, các phản ứng tình cảm có kiểm soát, và tư duy đúng đắn là các lời lẽ vô vị (platitudes) của tất cả các hệ thống tôn giáo, và đã bị mất tác dụng (weight) do việc chúng ta quá quen thuộc với chúng...
- Tuy nhiên, nó vẫn là một thực tại, để rồi khi các năng lượng tiềm tàng ở đáy cột sống được đưa lên đầu và được mang (xuyên qua đan-điền, tức là nơi thu thập và phân phối năng lượng, và hành tủy) đến bí huyệt giữa hai lông mày, lúc bấy giờ phàm-ngã, tức khía cạnh vật chất, đạt đến địa vị thần thánh của nó, và Trinh Nữ Mary (Virgin Mary) – trong ý thức cá nhân, vốn là một thực thể tương đương hữu hạn của một Thực Tại vô hạn − được “đưa đến tận Thiên Đường” để ngồi ở đó, bên cạnh con trai của bà, tức Đấng Christ, hay linh hồn.
- Khi các năng lượng của bí huyệt xương cùng, từ trước đến nay được tập trung vào hoạt động sáng tạo vật chất và sinh sản, và vì thế là nguồn gốc của đời sống tính dục ở cõi trần và mối quan tâm vật chất, được thăng hoa, được tái định hướng và được đưa đến bí huyệt cổ họng, bấy giờ người tìm đạo trở thành một lực sáng tạo hữu thức trong các cõi giới cao; y tiến vào bên trong bức màn, và bắt đầu tạo tác các mô hình của những sự vật vốn cuối cùng sẽ mang lại các cõi trời mới và cõi trần thế mới.
- Khi các năng lượng của đan điền – các biểu hiện từ trước đến giờ của bản chất dục vọng mạnh mẽ, nuôi dưỡng đời sống tình cảm của phàm-ngã – cũng được chuyển hóa và được tái định hướng, sau đó chúng được đưa đến bí huyệt tim, và dẫn đến, như một kết quả, một nhận thức về ý thức tập thể, về lòng bác ái tập thể và mục đích tập thể, vốn làm cho người tìm đạo thành một người phụng sự nhân loại và một người cộng tác thích hợp của các vị Huynh-Trưởng của nhân loại.
Khi ba sự chuyển di này đã được hoàn thành (consummated), sau đó là một hoạt động diễn ra (transpires) trong bí huyệt đầu, tức yếu tố chi phối cuối cùng, và bằng một tác động ý chí của linh hồn cai quản bên trong, một số diễn biến xảy ra mà chúng ta có thể xem xét sau này trong các nghiên cứu của chúng ta ...(LVHLT, 192)
+ Người tìm Đạo: Kích hoạt bí huyệt Tim trước khi được phép sáng tạo quan bí huyệt Cổ họng (LVHLT, 198):
Trung-tâm-lực đầu tiên mà người tìm đạo muốn khơi hoạt một cách có ý thức, và tập trung vào đó trong các giai đoạn đầu mới tu hành của mình, là bí huyệt tim. Y phải học để có tập-thể-thức, để nhạy cảm với những lý tưởng tập thể, và có tính bao gồm trong các kế hoạch và các quan niệm của mình. Y phải học cách yêu thương có tính cách chung (collectively) và một cách thanh khiết, chứ không bị thúc đẩy bởi sự thu hút của phàm-ngã, và động cơ được tưởng thưởng. Nếu không có sự thức tỉnh này nơi bí huyệt tim, y không thể được phó thác để vận dụng các quyền năng sáng tạo của bí huyệt cổ họng, vì các quyền năng này sẽ bị lệ thuộc vào việc tự đề cao, và đủ loại tham vọng
+ Huyệt Đan Điền với Tính dục: Vấn đề đối với nhiều người tìm đạo ngày nay là vấn đề của huyệt đan điền, vì huyệt đó đã mở rộng, đang hoạt động tích cực và gần như được thức tỉnh hoàn toàn. Tuy nhiên, công việc chuyển hóa đang tiến hành đồng thời, dẫn đến một số lớn khó khăn và các tình trạng hỗn loạn. Bí huyệt tim cũng đang bắt đầu rung động, nhưng chưa được thức tỉnh, bí huyệt cổ họng thường được khơi hoạt sớm, nhờ việc chuyển năng lượng từ bí huyệt xương cùng. Điều này là do bởi nhiều nguyên nhân – đôi khi là do mục đích và ý định tinh thần, nhưng thường hơn là do một sự từ chối đời sống tính dục bình thường, vì các điều kiện kinh tế, hoặc vì thiếu sinh-lực thể chất, các điều này dẫn (predisposes) đến tình trạng sống độc thân. Sự thiếu sinh lực (vital force) đến lượt nó là do bởi nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là do một sự di truyền lâu đời tạo ra một suy đồi của thể xác, hoặc do tình trạng độc thân gượng ép trong các kiếp sống quá khứ; tình trạng độc thân gượng ép này rất thường là kết quả của đời sống ở tu viện và cách sống của đời sống thần bí. Khi sự khơi hoạt sáng tạo này tìm được sự biểu lộ thông qua bất cứ bộ môn nghệ thuật nào – như văn học, hội họa, âm nhạc – hoặc trong tổ chức tập thể, và công việc điều hành thì không có sự tổn hại nào xảy ra, vì năng lượng tìm thấy một lối thoát sáng tạo bình thường. Người tìm đạo nên ghi nhớ các điểm này. Y đang đối mặt với một vấn đề phức tạp nhất. Y tiến nhập một cách mò mẫm vào một tình huống vốn là kết quả của một diễn trình tiến hóa lâu dài và y không có giải pháp nào cho nó. Nhất là trường hợp trong các giai đoạn đầu và trước cuộc điểm đạo thứ nhất, vì y không có kiến thức về lịch sử của quá khứ, cũng không có bất kỳ sự tiên kiến nào về tương lai. Y chỉ phải nhận lấy khí cụ và cơ hội của mình; và làm hết năng lực của mình, được hướng dẫn bởi các quy tắc lâu đời của Raja Yoga, và ánh sáng của chính linh hồn mình.
- Khi bí huyệt tim được khơi hoạt, và bí huyệt cổ họng bước vào hoạt động sáng tạo, một mối quan hệ rõ rệt được thiết lập và có một tương tác năng lượng giữa hai bí huyệt này. Đến lượt nó, hoạt động này dẫn đến một sự đáp ứng từ trạng thái của hoa sen ngàn cánh (một hoa sen tổng hợp), mà năng lượng luôn luôn làm sinh động bí huyệt tim và bí huyệt cổ họng thường đi qua. Hoạt động đáp ứng và hành động tương tác này đưa đến hai kết quả, và các kết quả này nên được lưu ý vô cùng cẩn thận.
* Đầu tiên, ánh sáng trong đầu xuất hiện. Một lóe sáng (nếu Tôi có thể diễn tả nó như thế) được thiết lập giữa năng lượng cao dương tính đang phủ bóng khi nó được tập trung trong hình dạng hoa sen ngàn cánh, với rung động đang tăng lên đều đều của các hoa sen hay các bí huyệt tim và cổ họng. Đến lượt chúng, hai bí huyệt thấp này đang đáp ứng với các năng lượng đang được nâng lên, và được đưa lên từ các bí huyệt dưới cơ hoành.
* Thứ hai, sự hiện diện bí huyệt giữa hai lông mày cũng bắt đầu được cảm nhận, và hoa sen hai cánh quan trọng này bắt đầu rung động. Nó tượng trưng cho việc nhất quán linh hồn và thể xác, chủ-thể và khách-thể. Trong một số sách huyền linh học, nó được gọi là hoa sen có 96 cánh hoa, nhưng đây chỉ là một biến-phân có liên quan với các năng lượng được tập trung trong hai cánh. Ta sẽ để ý rằng tổng cộng của những cánh hoa thần lực trong các bí huyệt (không tính hai bí huyệt đầu) cả thảy lên tới 48 cánh. Các năng lượng này ở hai trạng thái của chúng, là năng lượng thiết yếu cho thể xác và các phẩm tính của linh hồn, tạo nên 96 trạng thái hoặc rung động của hai cánh hoa của bí huyệt Ấn Đường (Ajna), hay là bí huyệt giữa hai lông mày. Cũng cần nhớ rằng thuật ngữ “cánh hoa” (“petal”) chỉ tượng trưng cho một sự biểu lộ thần lực và tác động rõ rệt của nó trong vật chất (LVHLT, 199)
+ Hãy luôn nhớ rằng ngay khi làm linh hoạt một bí huyệt, luôn luôn có việc tiếp sinh lực (vitalisation) tương ứng cho bí huyệt đầu tương tự, cho đến khi cuối cùng bảy bí huyệt trong cơ thể và bảy bí huyệt trong đầu xoay cùng một lúc.
Cũng nên nhớ rằng ngay khi bốn cung thứ yếu chuyển vào ba cung chính, thì bốn bí huyệt nhỏ cũng xúc tiến sự tương ứng và đi vào kỳ qui nguyên (pralaya), tìm thấy điểm tập trung của chúng ở bí huyệt cổ họng. Như vậy bạn sẽ có ba bí huyệt – đầu, tim và cổ họng – mang lửa nội tại, với ba bí huyệt chính ở đầu cũng rung động cùng lúc.(LVHLT, 363)
+ Tiến trình khai mở này tự nó được mang lại bởi năm đợt thức tỉnh (các trích dẫn TLHNM GQ1.1):
1. Các luân xa dưới cơ hoành kiểm soát và chiếm ưu thế... Sự thôi thúc thể xác trong sự biểu lộ đầy đủ ... điểm phát triển cao của nó trong thời Lemuria ... luân xa xương cùng đã kiểm soát.
2. Các luân xa dưới cơ hoành trở nên hoàn toàn hoạt động, với sự chú trọng chủ yếu vào luân xa tùng thái dương (vốn) trở thành kho tiếp nhận và phân phối lớn cho tất cả các mãnh lực thấp, và đánh dấu giai đoạn chuyển đổi vào một thể cao hơn, là thể cảm dục ... đặc trưng của sự phát triển chủng tộc Atlantis.
3. Sự thức tỉnh của luân xa cổ họng và sự di chuyển của nhiều năng lượng thấp vào hoạt động cổ họng. Luân xa Ajna bắt đầu trở nên hoạt động, tạo ra các phàm ngã tích hợp và sáng tạo. Giai đoạn này là đặc trưng của chủng tộc Aryan hiện tại.
4 Sự thức tỉnh của luân xa tim và sự di chuyển của năng lượng luân xa tùng thái dương vào luân xa tim, như vậy tạo ra các nhóm, và lối vào của một ý thức mới và đầy đủ hơn của năng lượng tâm linh. Khi đó, sự di chuyển quan trọng vào những trạng thái ý thức đó sẽ tiết lộ vương quốc của Thượng Đế. Giới thứ năm trong thiên nhiên trở nên hoạt động một cách sáng tạo trên trái đất. Đây sẽ là đặc trưng của tâm thức của giống dân lớn tiếp theo.
5. Sự thức tỉnh của luân xa đầu, với sự kích hoạt tương ứng của lửa kundalini ở đáy cột sống. Điều này dẫn đến sự tích hợp cuối cùng của linh hồn và thể xác, và sự xuất hiện của một nhân loại hoàn thiện trên mặt đất. Điều này sẽ biểu lộ bản chất của giống dân cuối cùng.
Chỉ những ai được "đánh thức" sẽ được hưởng lợi từ Tâm lý học bí truyền (EPII 326)
+ Mỗi người thuộc 01 Nhóm chân Ngã: ... Điều sẽ hiển nhiên là khi một người nói đến karma, thì y đang bàn đến một điều gì đó rộng lớn hơn là sự tương tác của quả và nhân bên trong lĩnh vực của công việc thường lệ riêng tư của chính y. Trong tất cả mọi việc, y bị chi phối bởi các nguyên nhân xuất phát trong toàn bộ các kiếp sống vốn đang tạo thành nhóm chân ngã của y, bởi sự tập hợp của các nhóm tạo thành một cánh hoa trong một trung tâm lực của một Hành Tinh Thượng Đế,... (LVLCK, 804)
+ Đối với tất cả đều Không chấp trước: Không chấp không - Không chấp có
Ngài lại dạy rằng: "Nầy Chư Thiện tri thức! Cái trí Bồ đề Bát nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được. Phải cầu bực đại Thiện tri thức chỉ dẫn cho mới thấy tánh. Phải biết rằng dầu kẻ ngu hay người trí cũng đồng có Phật tánh giống nhau không khác. Nhưng bởi tâm mê ngộ chẳng đồng mới có kẻ ngu người trí. Vì đó nên nay ta mới nói pháp Ma ha Bát nhã Ba la mật, khiến cho mọi người đều đặng trí huệ. Hãy chú ý mà nghe cho rõ, ta vì đại chúng mà nói pháp đây.
Chư Thiện tri thức! Người thế gian suốt ngày miệng niệm Bát nhã, mà chẳng biết Bát nhã trong tánh mình, cũng như nói ăn mà chẳng no. Miệng chỉ nói "không" thì muôn kiếp cũng chẳng thấy tánh đặng, rốt cuộc không ích gì.
Chư Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã Ba la mật là tiếng Phạn, có nghĩa là đại trí huệ đáo bỉ ngạn. Ấy là do nơi tâm làm, chớ chẳng phải do nơi miệng niệm. Miệng niệm và tâm làm theo, thì tâm và miệng hiệp nhau. Bổn tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.
Sao gọi là Ma ha? Ma ha nghĩa là lớn, tâm lượng rộng lớn cũng như hư không, không có bờ mé, cũng chẳng phải vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không trên dưới dài ngắn, cũng không giận không mừng, không phải không quấy, không lành không dữ, không có đầu đuôi. Các cõi Phật thảy đều như hư không. Cái diệu tánh của người thế gian vốn là trống không, chẳng có một pháp gì trong đó mà tìm đặng. Cái tự tánh Chơn không cũng giống như thế.
Chư Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói "không" mà liền chấp "không." Nếu để tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là chấp cái "vô ký không."
Giảng:
Ma ha có nghĩa là gì? Ma ha dịch là lớn (đại). Cái gì gọi là lớn? Tâm người lớn như hư không, giống như tâm muốn đến mặt trăng bèn phát minh hỏa tiễn. Cho nên nói Tâm vô biên tế, vô hạn lượng, tâm không có vuông tròn, không có lớn nhỏ. Tâm vô hình, lớn thì không có gì ở ngoài nó, nhỏ thì không có gì ở trong nó. Tâm lượng cũng không có sự biểu hiện của màu sắc xanh vàng đen trắng, cũng không có trên dưới dài ngắn. Tự tánh vốn không sân không giận, cũng không mừng không vui, tự tánh là trung đạo; cũng không đúng cũng không sai, nếu có đúng có sai thì không phải chân tâm của các ông. Không có thiện tâm sở hoặc ác tâm sở (cho nên Lục Tổ Đại sư khai thị Huệ Minh rằng: "Không nghĩ thiện không nghĩ ác"), tâm cũng không có đầu có đuôi. Cảnh giới của Chư Phật cũng giống như hư không. Diệu tánh của chúng ta vốn là không, không có một pháp khả đắc, cho nên nói Tự tánh như hư không, chân vọng đều ở trong, ngộ triệt bổn lai thể, một cái thông tất cả đều thông, tự tánh Chân không giống như đạo lý trên đây tôi vừa nói.
Quý vị Thiện tri thức! Không nên nghe tôi nói không, liền chấp vào không. Điều quan trọng nhất là không được chấp vào không. Nếu các ông nói tất cả là không, tâm không thân cũng không, thế giới cũng không, như thế ngồi thiền sẽ lạc vào vô ký không. Vô ký không thì giống như người đã chết rồi, cái gì cũng không biết, tuy là người sống nhưng vừa ngồi thiền là giống như chết. Chúng ta tu đạo cần phải biết trong cái Chân không có cái Diệu hữu, không phải cái gì cũng không biết. Cái gì cần biết, cái gì không cần biết, phải sáng suốt nhận định rõ ràng; giống như đạo lý "tâm thanh nước hiện bóng trăng, định tâm định ý bóng mây không còn."
Chư Thiện tri thức! Thế giới tuy là trống không, mà có thể bao hàm muôn vật. Tất cả các sắc tượng: mặt nhật, mặt nguyệt, tinh, tú, núi, sông, đất bằng, nguồn, suối, khe, rãnh, cỏ, cây, rừng, bụi, kẻ dữ, người lành, việc dữ, việc lành, thiên đàng, địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, nhất thiết đều ở trong cái "không." Cái tánh trống không của người thế gian cũng giống như thế.
Chư Thiện tri thức! Tự tánh có thể bao hàm hết muôn pháp, ấy gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tự tánh mỗi người. Nếu thấy cả thảy các điều dữ cùng các điều lành của người, mà chẳng chấp chẳng bỏ, cũng không nhiễm vương, không dính níu, lòng như hư không, ấy gọi là lớn, cho nên gọi là Ma ha.
Chư Thiện tri thức! Kẻ mê miệng nói, người trí lòng làm. Lại có người mê để lòng trống không, ngồi yên lặng chẳng nghĩ đến việc gì mà nói chính đây là "lớn." Với hạng người ấy, không thể nói gì được, vì họ bị sa vào lưới tà kiến.
Chư Thiện tri thức! Cái tâm lượng thiệt là rộng lớn, châu biến cả thảy Pháp giới, dùng nó liền hiểu rõ ràng. Cái tâm lượng khi ứng dụng ra, thì biết hết thảy cả sự vật. Cả thảy tức quy về một, một tức gồm hết cả thảy, tới lui thong thả, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhã vậy. (Nguồn: Lục Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Không chấp Có hoặc không:
VIII. Thuận Thế Phái (S.ii,77)
3) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều có?
-- Này Bà-la-môn, tất cả đều có, là chấp kiến thứ nhất của thế gian.
4) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều không có?
-- Tất cả đều không có, này Bà-la-môn, là chấp kiến thứ hai của thế gian.
5) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều là một?
-- Tất cả đều là một, này Bà-la-môn, là chấp kiến thứ ba của thế gian.
6) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải tất cả đều là nhiều?
-- Tất cả đều là nhiều, này Bà-la-môn, là chấp kiến thứ tư của thế gian.
Này Bà-la-môn, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo.
7) Do duyên vô minh nên có hành. Do duyên hành nên có thức... Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
8) Khi nghe nói vậy, vị Bà-la-môn thuộc phái Thuận Thế bạch Thế Tôn:
-- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Gotama!... con xin trọn đời quy ngưỡng. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương ưng nhân duyên)
+ Ring–pass–not (Vòng giới hạn): Vòng giới hạn này nằm ở chu vi của Thái Dương Hệ biểu lộ và là vòng đai của ảnh hưởng Thái Dương, hiểu theo 2 mặt nội môn lẫn ngoại môn. Giới hạn của lĩnh vực hoạt động của mãnh lực sự sống trung ương. (ĐĐNLVTD, 224)
+ Vòng giới hạn: Với huyền linh, để chỉ chu vi của phạm vi ảnh hưởng của bất cứ mãnh lực sự sống trung ương nào, cho mọi nguyên tử, dù là vật chất của nhà vật lý hay hóa học, các nguyên tử con người và hành tinh, lên đến đại nguyên tử của một Thái Dương Hệ.
- Vòng giới hạn của kẻ thường nhân là dạng hình cầu của thể hạ trí người ấy vốn trải rộng một cách đáng kể vượt quá thể xác và cho phép y hoạt động trên các phân cảnh thấp của cõi trí. (LVLCK, 55)
+ Vòng giới hạn Thể Cảm dục con người: Ngoài sự lưu thông liên tục xuyên qua thể cảm dục của con người của các năng lượng thuộc hành tinh, thái dương và vũ trụ, mỗi con người đã chiếm hữu, từ Tổng Thể vĩ đại, đủ năng lượng cảm dục để tạo nên thể cảm dục riêng biệt của chính cá nhân y, đáp ứng với nốt đặc biệt của y, được nhuốm màu bởi tính chất đặc thù của y, và giới hạn y hoặc không theo trình độ của y trên thang tiến hóa.
===> Điều này tạo thành vòng giới hạn cảm dục của con người, xác định các giới hạn của sự đáp ứng tình cảm của y đối với kinh nghiệm sống, biểu hiện trong tính chất của nó phạm vi của đời sống dục vọng của y, nhưng đồng thời có khả năng rất lớn để mở rộng, phát triển, điều chỉnh và kiểm soát dưới sự thúc đẩy của thể trí và của linh hồn. Nó cũng bị lệ thuộc vào hoạt động rung động như là kết quả của sự tương tác giữa nó với kinh nghiệm sống ở cõi trần, và nhờ thế bánh xe kinh nghiệm vĩ đại được phát động và sẽ tiếp tục cho đến khi người ta hiểu và thực hiện Tứ Diệu Đế của Đức Phật. (LVHLT, 295)
+ Cung Ý Chí Vũ Trụ (Ý Chí Thông Tuệ): bị chi phối bởi Định Luật Tổng Hợp, là căn bản của chuyển động của Thái Dương hệ (tiến tới qua không gian hay luỹ tiến). Nó kiểm soát các chuyển động của toàn thể vòng giới hạn có liên hệ tới trung tâm vũ trụ của nó (LVLCK, 55)
+ Vòng giới hạn của Lửa: Trong Thái dương, hành tinh, con người và trong nguyên tử có một điểm nhiệt trung tâm, hay là một hang lửa trung ương, hay cái nhân của nhiệt và cái nhân trung ương này đạt tới giới hạn của vùng ảnh hưởng của nó, tức là vòng giới hạn của nó, bằng một vận hà tam phân (LVLCK, 76)
+ Vòng này nằm ở chu vi của Thái Dương Hệ biểu lộ và là vòng đai ảnh hưởng của mặt trời, hiểu về mặt nội môn lẫn ngoại môn. Giới hạn của lĩnh vực hoạt động của thần lực sự sống trung ương. (TVTTHL, 359).
+ Vị đạo đồ hoàn mãn biết rõ rằng Vòng “giới hạn” không phải là một vùng, cũng không thể đo được bằng khoảng cách mà biết rằng nó tồn tại trong cái tuyệt đối của Vô Cùng.(GLBN I, 189)
+ Vòng giới hạn thái dương hệ: Đức Thái Dương Thượng Đế tạo ra “vòng giới hạn” của Thái dương hệ/ hệ thống, nó đặt giới hạn cho tất cả những gì xảy ra trong thái dương hệ, và cuộc biểu hiện nhị nguyên của chúng ta tiếp diễn trong đó. Tất cả đều rung động theo một nhịp điệu chủ yếu, theo qui luật nhất định ...chỉ có Ngài mới biết rõ. Có thể xem như bị chi phối bởi nghiệp quả của cuộc tuần hoàn thất phân đó, và bị thôi thúc bởi những nguyên nhân lâu đời, trước khi có vòng giới hạn. Vì thế mà thái dương hệ chúng ta được liên kết với hệ thống trước và hệ thống sẽ có sau này (TTHM, thư 28.07.20)
+ Trái đất (và Thổ tinh) truyền dẫn Cung 3, nó tự quay ngược chiều kim đồng hồ (Các hành tinh trong hệ mặt trời cũng quay xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ). Nguồn: (GQ1- Cấu tạo con người) + Venus: Hành tinh thánh thiện Venus - Kim tinh so với Địa cầu giống như Chân ngã so với Phàm ngã (CTHNM, 436)
+ Venus: Về mặt huyền bí, Venus là Hành tinh bổ xung của Địa cầu, vốn là đối cực của Đại cầu (CTHNM, 33)
+ Năng lượng phát xạ của Địa cầu: Linh hoạt như tất cả mọi con người đang sống trên bề mặt của Địa Cầu và do đó được phóng vào thể dĩ thái của hành tinh (vì lý do là “con người đứng thẳng”) thân thể con người lúc nào cũng ngập trong các phóng xuất và các phát xạ của Địa Cầu chúng ta và trong tính chất toàn vẹn của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta khi Ngài phát ra và truyền năng lượng bên trong vùng chung quanh hành tinh của Ngài. Các nhà chiêm tinh học luôn luôn nhấn mạnh vào các ảnh hưởng và các năng lượng đang đi đến khi chúng đập mạnh vào và tác động qua hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng các chiêm tinh gia đã bỏ quên không xem xét thích đáng các tính chất và các lực phát ra vốn là sự đóng góp của thể dĩ thái của Địa Cầu chúng ta vào tổng thể lớn hơn. Chúng ta sẽ xem xét điều này sau, nhưng Tôi cảm thấy cần kêu gọi sự chú ý của các bạn vào lúc này. Xem thêm Luận về lửa càn khôn để biết quan hệ đặc biệt Kim tinh - Địa cầu_Chân Sư DK(CTHNM III, 20);
+ Thổ Tinh: Trái đất và Thổ tinh truyền dẫn Cung 3(GQ1- CT con người)
+ Cấu trúc, kỷ luật, tập trung, nghiêm trọng, tách rời, phân cách. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Giống như Sao Mộc, có nhiều liên kết với Sao Thổ, một số đó là: Cứng nhắc, trưởng thành, trí tuệ, trách nhiệm, thất vọng, ức chế, cô lập, tách rời, thất bại, chết chóc, khô khan, và nặng nề.
- Tôi xem sao Thổ như là một động lực để loại bỏ sự thừa thải, và bất cứ điều gì phù phiếm, trong khi bảo vệ những gì là cần thiết. Sao Thổ có xu hướng loại bỏ sự lãng phí và đôi khi ngay cả những niềm vui đơn giản và tập trung sự chú ý của chúng ta về trách nhiệm của chúng ta. Hầu như tất cả các liên kết truyền thống của sao Thổ đều có thể được xem như những biểu hiện hay hậu quả của sự tập trung của Thổ tinh vào những gì là cần thiết. (Nguồn: Xem nguồn)
+ Kiểu mẫu tương tác năng lượng cần nghiên cứu kỹ: Một hiểu biết về các ảnh hưởng gây cản trở hoặc kích thích này có thể dễ dàng hiểu được bởi người nào có thể hiểu được bản chất của các hoạt động của hành tinh Saturn (Thổ Tinh).
Đây là hành tinh hiện chi phối trước tiên mức tiến hóa nơi mà sự chọn lựa chắc chắn xảy ra, nơi mà sự bác bỏ cơ hội hoặc chấp nhận cơ hội đó có thể được đảm đương một cách sáng suốt, và việc gánh vác trách nhiệm cá nhân trở nên một sự kiện được nhận biết trong một kiếp sống có hoạch định và có nền nếp. Điểm này trong diễn trình tiến hóa nhân loại được nói đến trong Cổ Luận bằng các câu tượng trưng sau đây: ..... (CTHNM, 28)
+ Sao Thổ (♄): Dưới đây là một số ví dụ khác nhau về cách Thổ tinh có thể được diễn giải như sau:
1. Thuỷ tinh tạo góc hợp cứng với Sao Thổ: người tìm cách khám phá các nguyên tắc cơ bản. Người đó cảm thấy bối rối bởi rất nhiều dữ kiện và số liệu không trực tiếp giải quyết các vấn đề cơ bản. Khoa học thu hút con người bởi vì họ thích tìm ra nguyên lý cơ bản đằng sau sự vật.
2. Sao Kim trong trong lá số của một người lục hợp, tam hợp, hoặc trong hài âm bậc 9 của Thổ tinh trong lá số người khác là một khía cạnh tuyệt vời trong các mối quan hệ lâu dài bởi vì nó làm cho người ta phải chịu trách nhiệm với nhau và thực hiện nghĩa vụ của mình với nhau. Nếu là góc hợp cứng, họ cũng có trách nhiệm với nhau, nhưng mối quan hệ có thể trở nên “nặng nề”, tập trung quá nhiều vào trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau.
3. Sao Hỏa tạo góc hợp với Sao Thổ làm cho người đó trở thành một nhân viên xuất sắc bởi vì người đó làm việc chăm chỉ để hoàn thành trách nhiệm của mình và sẵn sàng làm “công việc bẩn thỉu” nếu cần thiết. Nói cách khác, anh ta sẽ làm bất cứ điều gì được yêu cầu. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ Hành Tinh Saturn - Thổ tinh (Trích dẫn trong Giáo Lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Saturn, cha của Các Thần (Gods), đã được thay đổi từ Kỳ Gian Vĩnh Cửu (Eternal Duration) thành giai đoạn có giới hạn”. (GLBN I, 451)
2. “Jehovah được đồng nhất hoá với Saturn và Vulcan”. (GLBN I, 632).
3. “Theo thời gian hành tinh Saturn trở nên bị phê phán bởi những người tôn thờ các Thần khác.” (GLBN I, 631)
4. “Saturn được liên kết với Lemuria”. (GLBN II, 812)
5. “ Venus, Jupiter và Saturn có thể được xem xét theo quan điểm của thời hiện tại như các hiện thể của ba nguyên khí chính hay siêu nguyên khí. Mercury, Địa Cầu và Mars được liên kết chặt chẽ đối với ba hành tinh này trừ một bí mật ẩn giấu nằm ở đây”. (LVLCK, 299)
6. “Venus, Địa Cầu và Saturn hợp thành một tam giác rất đáng chú ý vào lúc này.
a/ Đó là sự sinh động ẩn bên dưới.
b/ Đó là làm tăng năng lực rung động của các trung tâm hành tinh và cá nhân.” (LVLCK 181 – 182)
7. “Trong một lúc nào đó, Thái Dương Thượng Đế chuyển sự chú tâm của Ngài sang Địa Cầu và sang Saturn, trong khi Uranus đang được kích thích.” (LVLCK, 357)
8. “Huyền linh học phải thắng trước khi kỷ nguyên hiện tại đạt đến… Thất bộ có ba phần của Saturn của chu kỳ Tây phương của Âu Châu – trước khi kết thúc của thế kỷ 21. A.D” (GLBN III, 23)
9. “Một trong các Thiên Thần có ảnh hưởng nhất trong số bảy Thiên Thần sáng tạo của huyền giai thứ ba là Saturn, vị thần chủ trí của hành tinh và Thượng Đế của người Hebrews… tên là Jehovah… ngày thứ bảy hay Sabbath, Saturday tức là ngày của Saturn được dành cho Ngài.” (GLBN III, 115)
10. “Dấu hiệu của việc tái lâm của Messiah (Đấng Cứu Thế) là sự kết hợp của Jupiter và Saturn trong Cung Pisces (Song Ngư).” (GLBN III, 152)
11. “Saturn được gọi là Rồng Sự Sống (Dragon of Life).” (GLBN III, 195)
12. “Saturn, Shivah và Jehovah là một.” (GLBN III, 195)
13. “Saturn là hành tinh hệ tổng hợp cho bốn hành tinh vốn biểu hiện cho trí tuệ thuần khiết và đơn giản, và là cách giải quyết chính cho bốn hành tinh nhỏ và sau rốt cho tất cả Bảy.” (LVLCK, 370)
14. “Sirius có ảnh hưởng đến toàn bộ thái dương hệ chúng ta, xuyên qua ba hành tinh hệ tổng hợp là Uranus, Neptune và Saturn”. (LVLCK 378)
15. “Saturn là trọng tâm cho sự truyền đạt của trí tuệ vũ trụ cho toàn bộ bảy hành tinh hệ của chúng ta.” (LVLCK, 378)
16. “Về mặt nội môn, hành tinh hệ Saturn được xem như hấp thu “các lửa do ma sát” của không gian thái dương hệ.” (LVLCK, 1154)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
Xem thêm: Tổng hợp về Thổ tinh/ Sao thổ
+ Góc Mùa Thu: Gồm nhà thứ 7, 8 và 9, an ninh được tìm kiếm và thành lập ở góc phần tư thứ hai được mở rộng để bao gồm bạn tình hoặc bạn đời của chúng ta và những người mà chúng ta hợp tác. Trong góc phần tư mùa thu này hạt giống của sự hoàn thành thông qua sự tìm kiếm sự bổ sung phù hợp với tài năng, nguồn lực và ham muốn của chúng ta, cả về thể chất lẫn tinh thần. Đây là phần tư của các mối quan hệ, liên minh, và sự mở rộng cá nhân vào những trải nghiệm mới, nơi những chân trời cá nhân được mở rộng và đối đầu những thách thức mới.
Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Nguyên nhân của mùa thu (Cause of Autumn): X. Hoạt động quy nguyên của hành tinh.(Từ điển minh triết)
+ Góc Mùa Xuân: Trong Chiêm tinh học gồm các Nhà 1, 2 và 3, tương ứng với mùa xuân và sự nổi lên của cá tính. Chính ở đây các giá trị và ý tưởng cơ bản được hình thành. Đây là góc phần tư của tính tự phát và cá tính lớn nhất, nơi mà trí thông minh bẩm sinh, khả năng thích ứng và truyền thông đều hoạt động vì lợi ích tốt nhất của chúng ta. Đó là góc phần tư mà chúng ta xác định những gì chúng ta muốn có trong cuộc sống. Ở đây, người mẹ và thời thơ ấu cũng là những yếu tố quan trọng. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất, Mặt trăng giống phần tư thứ hai, sao Kim giống phần tư thứ ba, và sao Thổ giống phần tư thứ tư. Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. ( Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Mùa Xuân: Quý vị xem, chuyện đốt rừng xua bắt thú, vì sao ở đây nói đến mùa xuân? Sao không nói đến mùa hè, mùa thu, phải nhất định nói về mùa xuân? Mùa xuân là thời kỳ muôn vật sinh trưởng. “Xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàng.” (Mùa xuân sinh sôi nảy nở, mùa hạ lớn lên, mùa thu thâu gồm lại, mùa đông tàng chứa.) Mùa xuân là mùa hết thảy muôn vật đều bắt đầu sinh trưởng, sao có thể nhẫn tâm giết hại? Tâm như vậy là hết sức tàn nhẫn, không có nhân từ, không có thương yêu. Chúng ta đọc qua những lời răn dạy của các bậc hiền thánh xưa, từ những chỗ như thế này thể hội được tấm lòng nhân từ bác của các ngài, cũng từ chỗ này mà học tập, mà nuôi dưỡng thành tập quán, tập quán thương người yêu vật. (Trích: Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến 6 / 4 / 2000 tại Tịnh Tông Học Hội Singapore, file thứ 187, số hồ sơ: 19-012-0187)
+ Mùa Đông - Phương Bắc: Gồm các nhà số 4, 5 và 6, cho thấy chúng ta sẽ làm gì để tạo ra sản phẩm mang lại an ninh cho bản thân và gia đình chúng ta. Nó mô tả các phương tiện mà qua đó chúng ta có được nhiều cơ sở vững chắc hơn và thiết lập mối quan hệ với gia đình và xã hội. Góc phần tư này là nhà và nơi làm việc, những nơi đó là cơ sở cho sự an toàn của chúng tôi. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Phương Bắc chủ về: Học hỏi kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, phấn đấu lỗ lực ....
+ Phương bắc, Phật Thành Tựu là Bộ Chủ. Yết Ma dịch là "Tác pháp" hoặc "Biện sự". Bộ này thuộc về phương bắc, Bồ Tát Ðịa Tạng thống lãnh tất cả chúng quỷ thần và vô số quyến thuộc.
‘’Thiện ác nghiệp báo không mảy sai.’’ Làm thiện được thiện báo, làm ác được ác báo, thiện ác quả báo tơ hào chẳng sai.
‘’Mặt đen vô tư lão Diêm Vương.’’ Mặt mày của vua Diêm La vô tư chẳng nói đến nhân tình, đúng là đúng, sai là sai, mặt của vua Diêm Vương đen giống như sắt, chẳng có một chút nhân tình đạo vị, ...(Nguồn: Ngũ phương Phật - HT Tuyên Hóa)
+ Phật phương Bắc trong ngũ phương Phật: 5. Vị Phật thứ năm ở phương Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật của Thắng Nghiệp Tịnh Đô. Ngài là chủ bộ Phương Bắc trong Ngũ Phương Như Lai, đại biểu cho “Thành Sở Tác Trí”. Ngài có thể chuyển hóa phiền não do đố kỵ, và chuyển hóa năm thức đầu tiên thành Thành Sở Tác Trí. Thân của vị Phật này có màu xanh lục, Ngài kết Ấn Vô Uý và ngồi trên bảo tòa làm bằng tám con chim đại bàng cánh vàng (bát đại bàng kim sí điểu). Ngài có thể hàng phục những con rồng ác và các loại rắn độc...... Bộ Yết Ma nói “Phương bắc Yết Ma bộ chủ công ”. Công này chính là giữ gìn công đạo, có thể nói chủ bộ này là công (đạo), đây là một bài kệ tụng. (Nguồn: Phật Bất Không - HT Tuyên Hóa)
+ Góc Mùa Hạ: Đỉnh (cusp) của nhà thứ 10, Midheaven, bắt đầu góc phần tư cuối cùng. Nó đánh dấu thành tựu cá nhân cao nhất mà chúng ta có thể đạt được. Đây là nơi Mặt trời sẽ ở vào đúng trưa, ở đỉnh cao nhất của nó. Trong góc tư này, các mối quan hệ được hình thành để tiếp tục khẳng định và mở rộng sự thành công của chúng ta càng nhiều càng tốt. Đây là hy vọng thực hiện những hoài bão của chúng ta và nơi những mối quan hệ khách quan quan trọng hơn những mối quan hệ cá nhân hay chủ quan. Sao Hỏa giống phần tư đầu tiên nhất (Mùa Xuân), Mặt trăng giống phần tư thứ hai (Mùa Đông), sao Kim giống phần tư thứ ba (Mùa Thu), và sao Thổ giống phần tư thứ tư (Mùa Hạ). Đây là bốn mùa của cuộc đời, trong đó cây trồng được trồng, vun xới, thu hoạch và sử dụng. (Nguồn: Chiêm tinh học)
+ Kim tinh/ Venus: Truyền dẫn Cung 5 (GQ1- CT con người)
- Venus: Hành tinh thánh thiện Venus - Kim tinh so với Hành tinh Địa cầu giống như Chân ngã so với Phàm ngã (CTHNM, 436)
- Venus: Về mặt huyền bí, Venus là Hành tinh bổ xung của Địa cầu, vốn là đối cực của Đại cầu (CTHNM, 33)
- Cảm nhận thẩm mỹ, nghệ thuật, vẻ đẹp cân đối hài hòa, tình cảm, tình yêu. Xem nguồn);
- Nếu một người có sao Kim có góc hợp cứng đối với sao Hỏa, liệu điều này có ngụ ý rằng người đó nên làm nghệ thuật và làm tình yêu, vì sao Kim là hành tinh của tình yêu và vẻ đẹp cân đối, thì điều này có ngụ ý rằng các nghệ sỹ yêu đương hơn người khác, ... người ta có thể vẽ một bức tranh hoặc có một mối quan hệ lãng mạn tuỳ theo sở thích của một người? Sao Kim đặt trong lá số sinh (Chiêm tinh)
* Nếu sao Kim ở trong nhà thứ 7, thì khía cạnh xã hội của sao Kim rất nổi bật,
* Còn nếu sao Kim ở trong nhà thứ 5, thì sự sáng tạo nghệ thuật của sao Kim sẽ nổi trội.
* Venus trong một cung hành thuỷ mang lại cảm xúc,
* Trong khi sao Kim trong một cung hành khí thì kém cảm xúc hơn.
Chúng ta có thể nhìn Venus như một hành tinh với nhiều thuộc tính khác nhau nhưng có liên quan. Cung và nhà và các góc hợp với các hành tinh khác cho chúng ta thấy những đặc tính nào của Sao Kim là nổi trội.
+ Kim tinh (♀): Venus là hành tinh của tình yêu, vẻ đẹp và nghệ thuật. ... sức hút hấp dẫn của vẻ đẹp nên chúng ta dành rất nhiều nỗ lực để làm cho môi trường xung quanh phù hợp với sở thích, và chúng ta cảm thấy khó chịu, thậm chí bệnh tật, nếu quang cảnh, âm thanh và mùi hôi tấn công các giác quan của chúng ta. ... mọi người cảm thấy bị xua đẩy bởi những âm thanh, âm nhạc và môi trường xung quanh nhất định .... Trong tình yêu lãng mạn, vẻ đẹp của nhân cách và / hoặc các đặc tính thể chất của một người khác đóng một vai trò trong việc thu hút mọi người với nhau. Sức thu hút của vẻ đẹp mang cảm giác yêu thương. .... không phải tất cả các nghệ thuật chủ yếu là tính chất Kim tinh, nhưng hầu hết các nghệ thuật ít nhất phần nào thu hút chúng ta vì sức hấp dẫn của vẻ đẹp của nó.
Vẻ đẹp không chỉ đơn giản là vấn đề tỷ lệ hoàn hảo và sự hài hòa hoàn hảo. Thiếu sự ngạc nhiên, đa dạng, tương phản, và sự căng thẳng được tạo ra bởi những thay đổi từ bất hòa đến hài hòa dễ chịu có thể là sáo mòn và không hấp dẫn. Bất kể điều gì mà một người đặc biệt nhận thấy đẹp sẽ thu hút người đó bằng một sức mạnh hấp dẫn và cảm giác yêu thương.....
Tuy nhiên, có rất nhiều cái chúng ta yêu mà không đẹp / không phải chỉ vì chúng đẹp. Chúng ta yêu con cái và các thành viên khác trong gia đình, và tình yêu này là một hình thức liên kết tình cảm, cam kết, quan tâm và hiểu biết. ...
Các đặc tính Hành tinh biểu lộ Cảm giác yêu thương mạnh mẽ và liên kết mạnh mẽ xảy ra như là kết quả của bất kỳ..., liên kết trở nên mạnh mẽ hơn:
Chia sẻ thời gian trong cùng nhà (Mặt Trăng)
Giao tiếp tốt (Mercury)
Làm việc với nhau và giúp đỡ nhau đạt được mục tiêu (Mars)
Mở rộng chân trời cùng nhau, khám phá những điều mới mẻ và mở rộng biên giới của những trải nghiệm và kiến thức của bạn (Jupiter)
Có trách nhiệm với nhau (Thổ tinh)
Trải nghiệm những bất ngờ, khám phá, hoặc phấn khích với nhau (sao Thiên Vương)
Giúp đỡ lẫn nhau để theo đuổi những ước mơ và lý tưởng của bạn (Hải Vương tinh)
Giữ bí mật khỏi hầu hết những người khác (Pluto)
Một mối quan hệ kết hợp hầu hết các tính chất trên là rất mạnh. ...
Một số nhà chiêm tinh giải thích lá số sinh bằng cách chỉ đơn giản là nhìn vào yếu tố chiêm tinh cai quản khu vực mà khách hàng đang hỏi. (Nguồn: Chiêm tinh học nội môn 4)
+ SAO KIM: Hành Tinh – Venus (Tham khảo trong Giáo lý Bí Nhiệm và Luận về Lửa Càn Khôn)
1. “Venus … không có vệ tinh nào … và già hơn Địa Cầu nhiều.” (GLBN I, 180 – II, 35)
3. “Ánh sáng đến qua Venus, Venus nhận nguồn cung cấp gồm ba phần và cống hiến 1/3 cho Địa Cầu.
a/ Do đó cả hai được gọi là “chị em song sinh.”
b/ Tinh thần của Địa Cầu phụ thuộc vào Venus.” (GLBN II, 33)
4. “Venus là hành tinh bí mật, mạnh mẽ và huyền linh nhất trong tất cả các hành tinh.
a/ Liên hệ của nó với Địa Cầu nổi bật nhất.
b/ Nó chi phối sự sinh hoá tự nhiên của con người.
c/ Nó được gọi là ‘mặt trời khác’.
d/ Nó là nguyên kiểu tinh thần hay nguyên sơ của Địa Cầu.” (GLBN II, 33 – 35)
5. “Hành Tinh Thượng Đế của Venus yêu thương Địa Cầu sâu đậm đến nỗi Ngài hoá thân và ban cho nó các định luật hoàn hảo vốn không để ý và bác bỏ.” (GLBN II, 38)
6. “Mọi tội lỗi phạm phải trên Địa Cầu được cảm nhận trên Venus. Mọi thay đổi trong Venus được phản chiếu trên Địa Cầu.” (GLBN II, 35)
7. “Venus… là người-mang-ánh-sáng (light-bearer) của Địa Cầu chúng ta, trong cả ý nghĩa vật chất lẫn ý nghĩa huyền bí.” (GLBN II, 36)
10. “Mặt Trời Sirius, là cội nguồn của trí tuệ Thượng Đế (manas) ... và Venus chịu trách nhiệm cho việc tiến nhập của trí tuệ trong dãy Địa Cầu.” (LVLCK, 347)
11. “Có một khoen nối tâm linh giữa Hành Tinh Thượng Đế của Venus với Hành Tinh Thượng Đế của Địa Cầu chúng ta.
a/ Hành tinh hệ Venus linh hoạt hơn hành tinh hệ chúng ta.
b/ Nhân loại của hành tinh hệ Venus tiến hoá hơn nhân loại trên Địa Cầu.
c/ Bức xạ của nó bao gồm cõi Bồ Đề về phần nhân loại.
d/ Do đó nó có thể mở ra, qua sự kích hoạt, cùng mức độ với nhân loại của Địa Cầu chúng ta.” (LVLCK, 367)
13. “Kim Tinh có phân cực âm và do đó hành tinh này có thể trở thành một thu hút huyền bí của Địa Cầu đối với lực của Kim Tinh … mối liên hệ nhân quả giữa hai Đức Hành Tinh Thượng Đế (một trong hiện thân dương – positive incarnation – còn vị kia trong hiện thân âm – negative incarnation -) đã tạo ra một liên minh hành tinh (planetary alliance). Diệu quang loé sáng.” (LVLCK, 323)
16. “Venus, Jupiter và Saturn có thể được xét theo quan điểm của hiện tại như là các vận thể (vehicles) của ba siêu nguyên khí hay nguyên khí chính. Mercury, Địa Cầu và Mars có liên kết chặt chẽ với ba nguyên khí này, nhưng nơi đây có một bí mật còn ẩn tàng.” (LVLCK, 299)
17. “Trong hệ thống con người, mắt phải tương ứng với Buddhi và Mercury, còn mắt trái tương ứng với manas và Venus.” (GLBN III, 447 và 458)
* Nguồn: Tổng hợp Đặc Tính các Chòm Sao và Cung Hoàng Đạo - Hành tinh - Chủ Tinh
+ Sao Kim, hành tinh cung 5 sẽ giúp xua tan ảo cảm_Chân Sư DK: Vì vậy chúng ta phải rèn luyện, rèn luyện một cách tỉ mỉ. Sự rèn luyện thực sự sử dụng cung 5 của thể trí, và không có cách nào để tránh né được. Và dĩ nhiên loại tâm thức cung 2 sẽ tham gia và chúng ta sẽ không còn bị cuốn theo xu hướng cung 6 nói chung của thể cảm dục vốn tạo ra sự biến dạng, sự cường điệu hoặc sự giảm thiểu, gây ra ảo cảm. Chúng ta sẽ thấy sự sống theo đúng tỷ lệ, và bạn hãy nhớ rằng sao Kim - Hành tinh của sự cân đối, tỷ lệ, chủ tinh của Thiên Bình, dấu hiệu của tỷ lệ (Nguồn: Ảo Cảm 1- Anh Kiệt dịch 9. 2019)
Xem thêm: Tổng hợp về Hành tinh; Tổng hợp về Kim Tinh
+ Bí nhiệm Vàng: Thuật ngữ Bí nhiệm - Bí quyết này được hiểu là những bí mật vũ trụ mà chỉ có bậc Thiện Trí thức đắc đạo mới "Thấy và trao truyền, ví như sử dụng các Linh từ ...), cũng là các Định luật vũ trụ, tức Đạo vũ trụ mà nhân loại muốn hiểu biết, lắm bắt thì không thể chỉ qua học hỏi sách vở, mà còn cần tự mình qua hành tham thiền đưa Tâm thức vào cảnh giới tương ứng để "khám phá thực chứng", rồi dụng kiến thức ấy vào thực tế ở đời sống cõi trần thì sẽ thu được thành tựu, đó là bởi trong "Kho vũ trụ" thì Tài nguyên tiềm năng giúp kết tinh tiền tài/ vàng là vô hạn. Nên Bí nhiệm nghĩa là "Bí quyết - Nhiệm mầu" giành cho những người Thiện tri thức mới có thể dụng.
+ Bí nhiệm Cung - Cầu: Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử [205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ. (TTHM, 204)
+ Kiến thức liên quan Bí nhiệm:
1. Đạo Tâm và Dụng Tâm của người Thiện Trí giầu phước điền
2. Định Luật Cung cầu
3. Định luật về Vật chất cơ bản
4. Định luật vạn vật hấp dẫn
+ Tam giác kết tinh Tiền tài theo Chiêm tinh học
+ Kiến thức khoa học về Quản trị kinh doanh.
+ Bí quyết xem phước điền trong Số mạng: Nhân phát tiền tài
+ Tâm trí đệ tử: Chúng ta nên nhớ rằng các đệ tử thuộc cung một hiểu con đường đạo phần lớn trong phạm vi năng lượng, mãnh lực hay hoạt động, trong khi các đệ tử thuộc cung hai hiểu con đường đạo nhiều hơn trong phạm vi tâm thức hay điểm đạo. Vì thế mà có sự khác biệt trong những lối phát biểu thường dùng và thiếu sự thông cảm giữa các nhà tư tưởng. Hẳn là hữu ích khi chúng ta phát biểu ý niệm về con đường đệ tử trong phạm vi các cung khác nhau—theo đó cho thấy ý nghĩa của con đường đệ tử như nó biểu hiện trong cuộc phụng sự trên cảnh giới hồng trần:
Cung 1...Mãnh lực............Năng lượng ...Hành động.........Nhà Huyền bí học.
Cung 2...Tâm thức............Triển khai......Điểm đạo............Nhà thần thông chân chính.
Cung 3...Tính thích nghi...Phát triển ......Tiến hoá.............Thuật sĩ.
Cung 4...Rung động .........Ứng đáp ........Phát biểu...........Nghệ sĩ.
Cung 5...Trí năng ............ Kiến thứ c .....Khoa học............Nhà khoa học.
Cung 6...Sùng tín............. Họat động......Theo đuổi..........Người sùng tín. trừu tượng Lý tưởng
Cung 7...Thần chú............Pháp thuật .....Nghi thức..........Nhà nghi thức. [81]
Xin nhớ kỹ rằng ở đây chúng ta đang bàn đến các đệ tử. Về sau, khi họ tiến bộ, thì nhiều đường lối khác nhau sẽ trở nên tương tự và hoà hợp. Có một thời tất cả đã là thuật sĩ vì mọi người đều đã trải qua cung ba. Vấn đề này hiện nay liên quan đến nhà thần bí học và nhà huyền bí học, và sự tổng hợp chung cuộc của họ. Khi nghiên cứu kỹ các điều nói trên, chúng ta sẽ nhận biết rằng sở dĩ có những nỗi khó khăn giữa các nhà tư tưởng và giữa những người đệ tử trong tất cả các nhóm, vì họ tự đồng hoá với một hình thức nào đó, và vì họ không thể thông cảm được các quan điểm khác của tha nhân. Theo thời gian, khi họ liên lạc mật thiết hơn với hai vị Chân sư mà họ có quan hệ (vị Thượng Đế ở nội tâm là Chân sư của cá nhân họ), thì họ sẽ không còn thiếu khả năng cộng tác và hoà hợp quyền lợi của mình trong lợi ích tập thể, và nỗ lực chung, mục đích giống nhau, cùng nhau hợp tác, sẽ thay thế cho các dị biệt, là những gì quá thường thấy hiện nay. Chúng ta đáng nên suy gẫm kỹ điều này vì nó soi tỏ được nhiều điều đang gây nan giải và đau khổ cho biết bao người. (Nguồn: Điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Cung đang biểu lộ - Ngày Cơ hội: Câu hỏi có thể dặt ra ở đây là kiến thức này có phần nào giá trị đối với môn sinh chăng. Để minh giải điều này, các môn sinh nên khôn ngoan suy gẫm kỹ ý nghĩa sự giáng nhập của Cung hiện nay, là cung Định luật Nghi lễ hay Pháp thuật. Đó là cung vận dụng các mãnh lực kiến tạo của thiên nhiên, liên quan đến việc trạng thái sự sống sử dụng hình thể một cách thông minh. Đây chính yếu là cung của công tác chấp hành, có mục đích kiến tạo, phối hợp và tạo sự nối kết trong bốn giới thấp của thiên nhiên. Nó được phân biệt chính yếu bởi năng lượng tự biểu hiện trong nghi lễ, nhưng từ nghi lễ này không được thu hẹp đến mức sử dụng hiện nay của nó trong nghi lễ của hội Tam Điểm hay tôn giáo. Áp dụng của nó thì rộng lớn hơn rất nhiều, và gồm các phương pháp tổ chức được phô diễn trong tất cả các cộng đồng văn minh, như trong giới thương mại hay tài chính, và các tổ chức kinh doanh lớn ở khắp nơi. Trên hết mọi sự, điều thú vị ở chỗ đây là cung mang cơ hội đến cho các giống dân Tây phương, và qua trung gian của mãnh lực sự sống của tổ chức thừa hành, của sự quản trị bằng luật lệ và trật tự, bằng tiết điệu và nghi thức, sẽ đến lúc các chủng tộc Tây phương (với trí tuệ cụ thể, tích cực và năng lực làm việc rộng lớn của họ) có thể được điểm đạo - một cuộc điểm đạo mà chúng ta phải nhớ là trên một cung tạm thời được thừa nhận là một cung chính. Phần đông các điểm đạo [183] đồ và những vị đã đạt được trình độ Chân sư trong chu kỳ trước, là người Đông phương và trong xác thân người Ấn. Chu kỳ đó đã do cung sáu cùng hai cung trước thống ngự, và đang trôi qua. Để giữ thế quân bình, nay sẽ đến một thời kỳ thành đạt của người Tây phương, trên một cung thích hợp với loại trí tuệ của họ. Nên ghi nhận điều thú vị là mẫu người Đông phương đạt mục tiêu của họ qua tham thiền, với một phần nhỏ tổ chức chấp hành và nghi thức, còn người Tây phương sẽ thành đạt phần lớn qua tổ chức mà hạ trí tạo ra, và một lối tham thiền mà sự tập trung cao độ trong công việc có thể xem là một ví dụ. Sự áp dụng trí tuệ chuyên nhất của một thương gia người U hay người Mỹ có thể được xem là một loại tham thiền. Nếu sự áp dụng này dựa trên động lực nội tâm trong sạch, thời cơ tốt đẹp sẽ đến với người Tây phương. (Sách điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ)
+ Đời Sống sau khi chết: Cho đến nay, ít có người tiến hóa đủ để sau khi chết, thấy mình có được một hiện thể phần lớn làm bằng chất trí (mental substance). Chỉ có các đệ tử và các vị đạo đồ, tức là những người hầu như sống trong thể trí, sau khi chết, tức khắc thấy mình ở trên cõi trí. Đa số con người đều thấy mình ở cõi cảm dục, khoác lấy lớp vỏ (shell) bằng chất cảm dục (astral matter) và phải chịu một giai đoạn thải bỏ (olimination) bên trong vùng ảo giác (illusory area) của cõi cảm dục. (CTNM, 486)
+ Sau khi chết [phần lớn ở cõi phụ thứ tư của cõi Cảm dục]: Trong mọi điều Tôi đã nói liên quan tới thể dĩ thái của con người, liên quan đến hành tinh, liên quan đến chơn linh của địa cầu, mấu chốt của toàn bộ tình hình nằm trong sự kiện là năm cung vào lúc này, có cung 7 là cung chiếm ưu thế của chúng. Cung 7 là cung kiểm soát thể dĩ thái (the etheric) và các devas dĩ thái. Nó kiểm soát cõi phụ thứ bảy của tất cả các cõi nhưng vào lúc này nó chi phối cõi phụ thứ bảy của cõi trần. Cũng vì đang ở trong vòng tuần hoàn thứ tư, khi một cung tiến vào sự nhập thế (incarnation) rõ ràng, nó không những chỉ kiểm soát trên các cõi có cùng một số, mà còn có một ảnh hưởng đặc biệt trên cõi phụ thứ tư. Hãy lưu ý cách mà cung này tác động vào lúc này trong ba cõi thấp:
1. Cõi dĩ thái thứ tư, cõi thấp nhất trong số các cõi dĩ thái, sẽ là cõi vật chất kế tiếp của tâm thức. Chất dĩ thái ngay lúc này đang trở nên có thể thấy được đối với một số người, và sẽ có thể nhìn thấy hoàn toàn vào cuối thế kỷ này đối với nhiều người.
2. Cõi phụ thứ tư của cõi cảm dục giữ lại phần lớn con người khi họ qua đời, và tất nhiên nhiều công việc với số lượng lớn nhất nhờ đó có thể được hoàn tất.
3. Cõi phụ thứ tư của cõi trí là cõi devachan (thiên đường tạm). (LVHLT, 374)
+ CÁCH NHẬN BIẾT NGƯỜI SẮP LÂM CHUNG SẼ SANH VỀ CẢNH GIỚI NÀO ?
Trong kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ, đức Phật bảo:
– Nếu người sắp lâm chung, dự biết thời khắc, chánh niệm rõ ràng, tắm gội mặc áo, an lành qua đời, ánh sáng chiếu thân, thấy tướng hảo Phật, các điềm lành đều hiện ra, biết chắc người này quyết định vãng sanh Tịnh Độ.
– Nếu người niệm Phật trì giới không có tâm tinh tấn, lúc sắp mạng chung không có tướng lành, không có tướng ác. Địa phủ không thâu, An Dưỡng chẳng nhận, như ngủ mà đi. Người này lòng nghi ngờ chưa đoạn dứt nên sanh về Nghi Thành(*), thọ hưởng vui vẻ trong năm trăm năm, tu Tín, Nguyện thêm mới được về Tịnh Độ.
– Nếu người khởi tâm thương xót, chánh niệm hiện tiền, đối với tài sản, vợ con tâm không luyến ái, đôi mắt trong sáng, ngẩng mặt mỉm cười, nghĩ tưởng thiên cung sẽ đến rước ta, tai nghe thiên nhạc, mắt thấy đồng tử cõi trời. Lúc bỏ báo thân này, nhất định sanh về Thiên giới.
– Nếu người sanh tâm nhu nhuyến, khởi tâm phước đức, thân không bệnh hoạn, nghĩ nhớ cha mẹ vợ con, đối với việc thiện ác tâm không lầm lẫn, tâm tư ngay thẳng, di chúc gia tài từ biệt mà đi. Người này nhất định sanh về cõi người.
– Nếu người giận dữ mà nhìn quyến thuộc, đưa tay nắm bắt hư không, tiểu tiện không hay, thân thường hôi thối, hai mắt đỏ hoe, thường nằm úp mặt, co về bên trái, toàn thân đau nhức.
Hoặc thấy tướng ác, miệng không nói được, rên rỉ kêu gào, oan trái hiện ra, tâm thức tán loạn, mê hoặc điên đảo, toàn thân lạnh buốt, bàn tay nắm chặt, thân cứng như đá. Người này lúc mạng chung nhất định sanh về cõi Địa ngục.
– Nếu người hay liếm môi, thân nóng như lửa, thường lo đói khát, ưa nói về ăn uống, miệng há không ngậm lại, tham luyến tài sản, mạng sống dây dưa khó dứt, chết không nhắm mắt. Người này nhất định vào đường Ngạ quỷ.
– Nếu người thân mang bệnh nặng như ở trong mây mù, tâm hồn mê man tán loạn, sợ nghe danh hiệu Phật, ưa thích ăn mùi vị máu thịt, không chịu nghe lời khuyên bảo, ái luyến vợ con, tay chân co quắp, toàn thân xuất mồ hôi, nói lời thô ác, thường nuốt nước miếng. Tướng ấy hiện ra, nhất định đi vào đường súc sanh.
Chú thích: (*) Nghi Thành: Nơi sanh về của các hành giả tu các công đức bằng tâm nghi hoặc trong các cõi Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà. Hành giả dù được vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc, nhưng vẫn còn chưa hiểu thật tướng, nên đức Phật mới đáp ứng căn cơ của họ mà thị hiện cõi hóa sanh, đó là Nghi Thành. Nam Mô A Di Đà Phật ! Đại Sư Ưu Đàm !
+ Các Tự Tánh không chết theo xác thân: Đức Phật bảo ngài A Nan: Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh, truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển. Chưa từng khai ngộ bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu. Giảng giải:
Khi sự hiện hữu của thân xác đến tận cùng, khi thân thể tàn tạ và chết đi, thì mạng quang của quý vị dời chuyển; nhưng tánh giác, tánh nghe của quan niệm thì không biến hoại. Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh. Do đâu mà các chúng sinh chưa được thành Phật? Vì sao họ không hiểu đạo? Chỉ vì họ truy đuổi theo sắc thanh từ vô lượng vô biên kiếp trong quá khứ cho đến ngày nay. Họ đuổi theo sắc trần và thanh trần rồi dính mắc với chúng. Họ truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển, mãi mãi, và họ Chưa từng khai ngộ. Họ nhận lầm vọng rồi cho là chân và bị xoay chuyển theo các trần cảnh nầy. Họ quá dính mắc với những cái vọng và chẳng nhận ra cái gì chân, thế nên bây giờ họ chẳng biết bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu. Họ không hiểu được đạo lý này, vốn rất vi diệu, chân thật và thường trụ. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4, Chương V)
+ Tâm Chấp Trước - Cố Chấp - Khó Nói - Bám Chấp - Chấp Kiến:
* Là tâm thứ 10 trong 12 nhân duyên: Chấp ngã, cho vạn vật hiện hữu, sinh diệt là thật, chết là hết và sống theo nó.
+ Bám Chấp: Tâm thức lệ thuộc vào “một ham muốn mãnh liệt về đời sống hữu thức” (Học MF-QU1 - môn 100.3)
+ Chấp trước: Giữ chắc sự việc không thể buông xả. Ôm chặt. Nghĩ về điều gì và không thể quên được nó; Dính mắc vào tư tưởng cho rằng vạn hữu là thực (dính chắc vào sự vật mà không rời lìa. Mỗi pháp đều có nhiều nghĩa tương đối, nếu chấp chặt vào một nghĩa, chẳng biết dung hòa, chẳng biết tùy nghi, chấp trước như vậy chỉ là tự hạn hẹp lấy mình mà thôi; (Nguồn)
+ Kiến trược - Chấp trước: lấy năm lợi sử làm bản thể của nó. Năm lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ và Giới cấm thủ. Kiến trược này lấy sự hiểu biết lầm lạc về sáu giác tri làm tướng, xưa nay là đạo lý đúng thật nhưng nó lại tưởng là thiên lệch thành ra tà tri tà kiến, ấy gọi là biết lầm về sáu giác tri.
* Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
1. Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
2. Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Đều rơi vào hai bên.
3. Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
4. Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
5. Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành.
Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất. (Nguồn: Giảng Kinh A Di Đà)
+ Chấp trước: Con người trở nên chấp trước vào sự sở hữu, thường xuyên lập nên sự phân biệt về “tôi” và “cái của tôi.” Họ không thể dẹp sang một bên sự sở hữu những của cải vật chất hay sự hưởng thụ thú vui tinh thần. “Đó là máy bay của tôi/ Xe của tôi... Bất luận khi người ta sở hữu một vật gì, thì đều bị dính mắc vào vật ấy. Đàn ông/ phụ nữ/ Người thiện/ Người ác đều có sự chấp trước, chìm đắm của mình....người ta cũng khó lòng xả bỏ được nó. Họ chiếm đoạt rồi níu giữ, kiên trì bám riết lấy nó. Càng lúc càng trở nên cố chấp hơn. Tiến trình này vô tận vô biên. Những khoái lạc như thức ăn ngon, nhà cửa tiện nghi, những món giải trí hấp dẫn và những thứ thường được xem như là lợi nhuận...chúng giả tạm không bền mà cứ tưởng như nó bền vững trường cửu như nó đang hiện hữu. Mặc dù quý vị chưa nhận ra điều ấy. Nhưng đó chỉ là sự tham đắm dục lạc làm chướng ngại việc chứng đạt Phật tánh của quý vị mà thôi. Nên Đức Phật đã dạy: “Chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chúng sinh không thể nhận ra được Phật tánh. ... Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Đức Phật dậy “Khi tâm cuồng chợt dừng hẳn thì ngay lúc ấy là giác ngộ”(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh)
+ Đức Phật gọi là người “cố chấp”, “chấp trước”, “khó nói” và là đối tượng để Ngài giáo hóa và nhắc nhở. Người cố chấp có các đặc điểm: như tằm kéo kén - xa rời Tam bảo - một chiều trong nhận thức - mắc bệnh “thần tượng” - tham, sân sâu nặng - bất hạnh và khổ đau. ... Lời kết: Dùng trí tuệ phá “tảng băng” cố chấp; Nguồn xem tại đây; Xem thêm
+ Chấp hay cố chấp vào một điều gì đó, còn gọi là định kiến. Chính sự chấp trước này làm chúng ta đau khổ, cho nên coi nó là mối nguy hại cần phải tránh. Tránh bằng cách nào? Nguồn: Xem tại đây
+ Chấp kiến: Hiểu "Thập Nhị Nhân Duyên" thì người ta sẽ không Chấp trước, và Đức Phật đã xác định điều này trong Kinh Tương Ưng Bộ; Đức Phật đã không trả lời các câu hỏi siêu hình; Có câu truyện người mù sờ Voi và tả lại con voi làm ví dụ để giảng về Chấp trước (Người mù) và không Chấp trước; Nguồn; Xem đây
+ Chấp Trước: Phật pháp là nhân duyên sanh, cho nên ý nghĩa này rất sâu. Phàm thứ gì là nhân duyên sanh (do nhân duyên sanh ra) sẽ đều chẳng thật! Pháp được sanh bởi duyên sẽ có sanh, có diệt; có sanh có diệt sẽ chẳng thật. Vì thế, đức Phật bảo chúng ta: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp). Quý vị chớ nên chấp trước Phật pháp. Hễ chấp trước thân này là Ngã, trật rồi! Nếu quý vị chấp trước kinh điển là Phật pháp, cũng trật luôn! Nó là pháp được sanh bởi các duyên. Thứ nào chân thật sẽ chẳng phải là duyên sanh, nó vốn có. Tự tánh là vốn có, Tánh Đức trong tự tánh là vốn có. Trí huệ, đức năng, và tướng hảo vốn sẵn có trong tự tánh. Ý nghĩa này sâu lắm, nó biến thành cái được gọi là Triết Học cao cấp và khoa học trong hiện thời. Nói pháp duyên sanh với quý vị, đó là sơ cấp, Tiểu Học và Trung Học đều có thể học.
... Phật chẳng độ chúng sanh! Phật ban cho quý vị cái gì? Cái gì Phật cũng chẳng ban cho, bản thân quý vị đã vốn có! Vốn có, nhưng quý vị mê rồi, chẳng thể thụ hưởng. Đang mê hoặc, điên đảo, đang luân hồi trong lục đạo, sống cuộc đời thê thảm, khổ nạn như thế; Phật đến điểm hóa quý vị. Quý vị có Phật tri Phật kiến, vốn là Phật, nhưng bị mê, mê mất tự tánh (Mời xem chi tiết đầy đủ tại tại đây )
+ Phiền não cũng chính là chấp trước. Chấp trước chính là tên khác của phiền não. Quý vị có chấp trước thì không được giải thoát, vì còn phiền não. Vậy chấp trước là từ đâu sanh ra? Chính là do lòng ích kỷ, tự tư tự lợi sanh ra. Quý vị nếu là người không có lòng tự tư tự lợi mà đại công vô tư, thì quý vị có gì để chấp trước? Nếu quý vị không có lòng ích kỷ thì cũng không có chấp trước. Không có chấp trước thì không có phiền não; không có phiền não thì giải thoát. Ðược giải thoát tức là khai ngộ, cũng chính là thành Phật. Cho nên phiền não của chúng ta là một thứ xấu xa, tệ hại nhất. Nhưng mọi người đều không rời bỏ được thứ xấu xa ấy, mà thường gắn bó với phiền não, đi đứng nằm ngồi luôn có nhau!(Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Kinh Pháp Hoa)
Xem: Tổng hợp về Chấp trước và Phá chấp trong tu hành Cải mệnh: Chấp trước và Phá chấp tu Cải mệnh
Xem Thuật ngữ Tâm Vô Vi - Đã Phá Ngã Chấp
Xem: Tổng hợp những câu truyện về Chấp Trước ;
Xem thêm nguồn tại đây
+ Người chấp ngã / Ngã chấp: Đức Phật dạy, người “cố chấp”, “chấp trước”, “khó nói” là đối tượng để Ngài giáo hóa và nhắc nhở. Người cố chấp có các đặc điểm: như tằm kéo kén - xa rời Tam bảo - một chiều trong nhận thức - mắc bệnh “thần tượng” - tham, sân sâu nặng - bất hạnh và khổ đau. ... Lời kết: Thất tình ngũ dục cũng phát sinh từ Chấp ngã. Dùng trí tuệ phá “tảng băng” cố chấp. (Nguồn xem tại đây; và xem Xem thêm)
+ Nhận lầm cái Ngã là Ta: Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử, vô thỉ đến giờ, chúng sinh vì tưởng lầm nên cố chấp ngã tướng, nhân tướng,chúng sinh tướng, thọ giả tướng, nhận bốn khái niệm thác loạn này làm cái ngã thật của mình. Do đó mà tự nhiên sinh ra hai sự ghét bỏ và ưa thích. Vậy là thác loạn thêm thác loạn. Hai lớp thác loạn này hợp lực tạo ra nghiệp và đường đi của nghiệp, nghĩa là có cái nghiệp thác loạn nên có cái thấy thác loạn là thấy luân hồi. Rồi chán bỏ luân hồi thì có cái thấy thác loạn khác là thấy niết bàn. Do vậy mà không thể nhập vào viên giác trong sáng. Chứ không phải viên giác kháng cự những người nhập vào... (Nguồn: Kinh Viên Giác - Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng)
+ Khi chấp ngã, sẽ làm sinh khởi nên phiền não chướng. Bất luận điều gì xảy ra, quý vị đều không thể nào nhìn được thông suốt về nó cả, quý vị chẳng phóng xả sự việc đó được, vì thế nên quý vị bị vướng mắc với chúng. Và một khi sự vướng mắc sinh khởi, thì phiền não chướng theo sau liền. Đó là phiền não chướng.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn)
+ Phá ngã chấp để cho Phàm ngã được vận dụng với một ý thức cân đối chính xác nhưng không được xem như là nhân tố chiếm ưu thế trong cuộc sống hằng ngày. Kết quả của việc phá ngã chấp là người có đạo tâm ngày càng tiến về hướng phối hợp đầy đủ hơn với tập thể. Y biết được chính mình là một phần bất khả phân của tập thể và với mọi cái mà mối liên hệ như thế bao hàm.(ĐĐTKNM, 381–382)
+ Diệt ngã chấp bằng cách:
1. Cung ứng các lưu tâm đúng đắn, cách giáo dục đúng đắn và huấn luyện về nghề chuyên môn
2. Bồi đắp năng lực nhận thức và đáp ứng với nhu cầu chung quanh, nhờ thế gợi ra lòng ham muốn phụng sự và đem lại ý thức về sự hài lòng xuất phát từ việc thành tựu và hiểu rõ giá trị.
Một cách từ từ và thận trọng chuyển hóa dục vọng thành đạo tâm. (TLHNM–II, 423–424)
+ Vị đệ tử sẽ học được cách phá ngã chấp:
a/ Y sẽ không còn đòi hỏi gì cho cái ngã riêng tư của mình nữa. Do đó, người ta có thể dễ dàng thấy tại sao những người tìm đạo được dạy là hãy thệ nguyện trung kiên với Thượng Ngã của mình và thề bỏ tất cả các đòi hỏi của bản ngã riêng tư này.
b/ Đôi mắt của y hướng về ánh sáng chứ không hướng về dục vọng nữa để giao tiếp được với Chân Sư. Do đó, việc này loại bỏ được sự ích kỷ tinh thần vốn đã được biểu hiện bằng sự ham muốn cố hữu và ăn sâu, mong được sự thừa nhận của một trong các Đấng Cao Cả. Khi thoát được sự ham muốn cá nhân này thì bấy giờ Chân Sư mới có thể dám tiếp xúc và thiết lập mối liên hệ với đệ tử. Hãy suy gẫm về điều này.(CTHNM, 177–178)
+ Không còn Ngã chấp: Trích Đức Phật bảo ngài A Nan trong Phát tu Đại Thừa - Hàng A La Hán tu Bồ Tát đạo. ... “Việc giải trừ các nút nơi sáu căn cũng như vậy. Đạo lý của việc nầy cũng giống như việc mở ra các nút. Ông phải mở nút từng căn một, ông không thể nào cùng một lúc mở cả sáu căn. Khi các căn bắt đầu được mở–có nghĩa là căn mà ông đã chọn để tu tập viên thông–trước hết sẽ được nhân không.” Khi đạt được nhân không, là không còn chấp ngã nữa. Có hai loại ngã chấp:
1. Câu sanh ngã chấp.
2. Phân biệt ngã chấp.
Đến lúc nầy, cả hai thứ ngã chấp nầy đều không còn.
Đến khi tánh không viên mãn sáng suốt–khi đã thể hội nhân không thật viên mãn–thì giải thoát được pháp chấp. Khi Nhận ra thể tánh các pháp đều là không thì thoát khỏi hai cái chấp về pháp:
1. Câu sanh pháp chấp.
2. Phân biệt pháp chấp.
Pháp chấp được giải thoát rồi, thì cả nhân không lẫn pháp không đều không sanh khởi. Khi đã giải thoát được khỏi pháp chấp, thì không còn hai thứ nhân không và pháp không nữa. Hai thứ không nầy chẳng còn sinh khởi nữa. (Nguồn: HT Tuyên Hóa-Kinh TLN - Q. 5)
+ Sám hối tội ngũ nghịch - Sám hối tội nặng
HT TUYÊN HÓA - Vấn Đáp Ký Lục 2
Hỏi: Như có một số cư sĩ tại gia nói với chúng con rằng : "Nghiệp chướng mà đến rồi thì mình không tiến bộ được và còn muốn thoái lùi nữa". Nhưng nếu đó là định nghiệp thì chúng con nên trả lời họ như thế nào ? Chúng con có nên ép buộc họ tiếp tục tinh tấn không ?.
Đáp: Nên xem tình hình lúc đó, tùy người cho thuốc, tùy theo chứng bệnh cho thuốc. Phiền não và Bồ Đề giống như nước và băng - Phiền não tức là Bồ Đề. Có lúc mình bị đặt vào chỗ chết nhưng rồi lại được sống sót; gặp việc không thể nhẫn mà mình phải nhẫn, chuyện khó qua cũng phải vượt qua thì mới đúng. Không cần phải tự chui đầu vào rọ, không có đường cùng đâu.
Hỏi : Chúng ta thường thảo luận về chỗ giống nhau và khác nhau của quả vị Bồ Tát và A La Hán. Xin Hòa Thượng giải thích cho chúng con biết rõ về chỗ khác biệt giữa quả vị Bồ Tát và La Hán ?.
Đáp : La Hán, Bồ Tát đều là các danh từ, chỉ có điều các Ngài không giống như người thường. Bồ Tát muốn làm lợi cho người, còn La Hán chỉ lo tu trì cho mình, đây là giai đoạn của sự tu hành. Phàm phu chúng ta không thể nào hiểu nổi cảnh giới của La Hán đâu. Quý vị cứ ở đó mà tính tới tính lui, tưởng tượng so đo cho lắm, chỉ lãng phí hết cả thời giờ.
Hỏi : Lúc tu hành thì tâm con muốn kháng cự lại, do đó mà tạo thành chướng ngại. Vậy con nên làm sao để đối trị nó ?.
Đáp : Nếu có cọp tới muốn ăn thịt con, phải chăng con cũng muốn ăn thịt nó lại ? Đó là kháng cự, con có thể làm được như vậy không ?.
Hỏi : Con đã làm kẻ hung thủ hết chín năm rồi. Con cảm thấy tội lỗi quá nặng nề, nhưng con nay thật muốn tu hành, vậy con nên làm sao để tiêu trừ nghiệp chướng ?.
Đáp : Tội lỗi dù ngập trời, một khi sám hối liền tiêu. Điều quan trọng nhất là con phải sanh tâm hổ thẹn và sám hối trước đức Phật. Tội lỗi ví như băng tuyết, nhưng ánh nhật quang của Phật sẽ soi chiếu tan hết. Nếu tội không tiêu, ta sẽ cùng con xuống địa ngục.
Hỏi : Con đã tạo ra nhiều tội lỗi lớn lao đến thế, vậy con nên làm sao để sớm tiêu trừ hết đây ?.
Đáp : Đảnh lễ trước bàn thờ Phật, tội lỗi dù nhiều như cát sông hằng cũng tiêu trừ, nhưng con cần phải hết lòng thành khẩn mà sám hối.
Hỏi : Khi tĩnh tọa, bỗng nhiên con bị hôm trầm, tay chân không đông đậy, như vậy thì con làm sao khắc phục được việc ngồi Thiền ?.
Đáp : Học ngồi Thiền thì phải có thiện trí thức chỉ dạy, chớ không được tu một cách mù mờ.
Hỏi : Chú Lăng Nghiêm có tác dụng hữu hiệu như thế nào ?.
Đáp : Sẽ khai mở trí huệ. Cho nên bảo rằng, nếu chúng ta muốn cho Phật pháp hưng thịnh thì trước hãy học Kinh Lăng Nghiêm và muốn đấu với Diêm Vương thì trước nên trì Chú Lăng Nghiêm.
Hỏi : Nếu lấy những bài hát thịnh hành để phổ nhạc cho pháp âm Phật giáo, vậy có đúng như pháp không ? Và làm thế có khiến cho người ta phê bình này nọ không ?.
Đáp : Nếu quý vị sợ có người phê bình, vậy tốt hơn quý vị đừng làm gì hết. Thử hỏi thiên hạ có chuyện tốt nào mà không bị người đời phê phán đâu ? Nếu sợ bị phê bình thì đừng nên làm gì cả. Còn như không sợ người phê bình thì cứ việc thẳng trước mà làm.
- Nhưng có phê bình rằng: Tại sao Phật giáo không tự sáng tác nhạc khúc của Phật giáo, mà lại dùng âm nhạc của những bài hát thịnh hành ?.
- Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi mỗi pháp môn đều là số một cả. (Nguồn: Nguyên Minh)
+ Mười hai bệnh không tu thiện pháp - Không thấy được Phật
Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật. A Nan hỏi Phật: “Đó là bệnh gì?” Đức Phật trả lời: “Không kính cha mẹ, đó là một bệnh; ngu si tạo ác, đó là hai bệnh; gian giảo điêu ngoa, đó là ba bệnh; lời nói hại người, đó là bốn bệnh; hay tìm lỗi người, là bệnh thứ năm; căn bệnh thứ sáu, giết hại chúng sinh; không biết hổ thẹn, đó là bảy bệnh; ham mê sắc dục, là bệnh thứ tám; kiêu ngạo khinh người, đó là chín bệnh; phạm tội không hối, là bệnh thứ mười; khen mình chê người, là bệnh mười một; không biết lợi hại, là bệnh mười hai”.
A Nan lại hỏi: ” Những bệnh như thế, chữa bằng cách nào?”
Đức Phật trả lời: “Dùng thuốc đúng bệnh, sẽ được thuyên giảm. Từ bi hỷ xả, khiêm tốn nhún nhường, tán thán Đại Thừa, nói lời hiền dịu, có lỗi lo đổi, thương người nghèo khó, kính người già cả, người ta chê mình, không giận không tức, khen ngợi người khác, nguyện độ chúng sinh, có oán phải giải, kính trên nhường dưới, đó là phương thuốc, trị những bệnh trên.”
A Nan lại hỏi: “Những thứ thuốc đó, tìm được ở đâu?” Đức Phật trả lời: “Ở núi Tu Di”. A Nan Lại hỏi: “Tu Di là gì?” Đức Phật trả lời: “Là thân người vậy. Hết thảy chúng sinh, đều có sáu nạn: Một là thân người khó được; hai là thân người khó đủ; ba là thiện tâm khó phát; bốn là Chính Pháp khó nghe; năm là trung quốc khó sinh; sáu là Đạo tràng khó gặp.”
Phật nói kệ rằng, giả sử tạo nghiệp, trong trăm nghìn kiếp, nghiệp cũng không mất, đến khi nhân duyên, hòa hợp đầy đủ, thì người gây nghiệp, phải chịu quả báo. Nét mặt tươi vui, đó là cúng dàng, miệng không nói dối, đó là diệu hương, lòng không sân hận, đó là Tịnh Độ, ý không nóng nảy, đó là đạo tràng. Làm người học đạo, mà không biết nhân, suốt ngày bận bịu, ham đắm sắc trần, chỉ biết lấy nước, lau rửa mặt mình, mà không lấy thiện, gột rửa lòng mình, thôi làm mọi điều ác, đó là nhân Tịnh Độ. Dù trí hay ngu, điều cần trước nhất, là bỏ tham sân.
Nếu có người nào, được nghe pháp này, lòng tin bền chặt, tinh tiến tu trì, thường làm hạnh lành, được vui Niết Bàn. Kinh Niết Bàn nói: “Khi Phật còn sống, trong ao Ca La, có một con hến, nghe Phật thuyết pháp, liền bò lên bờ, ẩn trong đám cỏ, lắng nghe Phật nói. Có người chăn trâu, thấy số thính chúng, vây quanh đức Phật, mới chạy đến xem, vì muốn nghe pháp. Trong lúc vội vàng, giẵm lên con hến; nó liền chết nay, và được sinh lên, cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ nó nghĩ, mình vốn là hến, vì nhân duyên gì, được sinh lên trời? Bấy giờ người trời, tự biết thân trước, nhờ nghe thuyết pháp, mới được sinh thiên, liền rời cung điện, đến trước chỗ Phật, đính lễ bái tạ. Phật lại nói pháp, cho người ấy nghe, sau khi nghe rồi, chứng được Sơ quả, chỉ nhờ nghe pháp, mà thành Chính Giác. Súc sinh còn thế, huống là thân người, thế nên phải gắng, chăm nghe Phật pháp, một lời vào tai, nhớ nghĩ thật kỹ, sẽ làm hạt giống, đạo quả Bồ Đề, muôn kiếp không dứt; căn lành tăng trưởng, nghiệp ác tiêu dần, phát Bồ Đề tâm, lập chí kiên cố, cầu đạo Vô Thượng, rộng độ chúng sinh, cùng tu đạo quả, cùng chứng Bồ Đề, tinh tiến tu hành, quyết không thoái chuyển, hiểu rõ tự tâm, quyết thành Phật đạo, thoát ly sinh tử, chứng nhập Niết Bàn. Hiện tiền đại chúng, hãy dốc lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Quá Khứ Đa Bảo Phật
Nam Mô Thập Phương Phân Thân Chư Phật.
Nam Mô Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật
Nam Mô Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật
Nam Mô Đại Thông Trí Thắng Phật
Nam Mô Quá Khứ Vô Số Kiếp Nhất Thiết Chư Phật
Nam Mô Vị Lai Hoa Quang Phật
Nam Mô Thập Lục Vương Tử Phật
Nam Mô Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Phật
Nam Mô Xá Lợi Bảo Tượng Tháp Phật
Nam Mô Như Lai Toàn Thân Bảo Tháp Phật
Nam Mô Hạ Phương Thượng Hành Đẳng Phật
Nam Mô A Tăng Kỳ Hiền Kiếp Phật
Nam Mô Tam Thừa Hành Phật
Nam Mô Đại Nhạo Thuyết Pháp Phật
Nam Mô Phả Hiện Sắc Thân Quang Minh Phật
Nam Mô Vô Lượng Tuệ Phan Thắng Phật
Nam Mô Chư Căn Thanh Tịnh Phật
Nam Mô Diệu Tuệ Đức Quang Phật
Nam Mô Vô Biên Thân Bồ Tát
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả
Đệ tử chúng con, dốc lòng thành khẩn, cầu xin sám hối, nguyện xin tội chướng, thảy đều tiêu trừ, kiếp kiếp đời đời, được sinh trước Phật, được nghe Chính Pháp, tu hạnh Đại Thừa, rộng độ chúng sinh, cùng thành Chính Giác. (Nguồn: Mục Liên Sám Pháp)
+ Sám Hối?
Sám nghĩa là ăn năn các tội trước của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét, đã tạo ra từ trước, tất cả đều ăn năn, hằng chẳng gây lại nữa. Ấy gọi là Sám.
Hối nghĩa là ăn năn các lỗi sau của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét tạo ra, nay đã giác ngộ rồi, tất cả đều dứt bỏ đời đời, ngày sau chẳng gây ra nữa. Ấy gọi là Hối. Cho nên kêu là Sám hối.
Các người phàm phu ngu muội chỉ biết ăn năn tội trước của mình, mà chẳng biết ăn năn lỗi sau. Bởi chẳng ăn năn, nên tội trước chẳng dứt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại sanh, thì sao gọi là Sám hối được?
Chư Thiện tri thức! Đã sám hối rồi, bây giờ ta cho các ngươi lập Bốn điều thề nguyền lớn (tứ hoằng thệ nguyện). Mỗi người phải dùng tâm chơn chánh mà nghe ta dạy:
Cả thảy chúng sanh không giới hạn trong tâm mình đều thề nguyền hóa độ.
Cả thảy các điều phiền não chẳng xiết kể trong tâm mình đều thề dứt bỏ.
Cả thảy các pháp môn kể trong tánh mình đều thề nguyện học cả.
Đạo Phật cao hơn hết trong tánh mình thề nguyền tu đến thành công.
Chư Thiện tri thức! Cả thảy chúng ngươi há chẳng nói: "Cả thảy chúng sanh không giới hạn, mà tự mình đều thề nguyền hóa độ, thế thì chẳng phải Sư Huệ Năng độ!"
- Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ.
- Tất cả các điều phiền não chẳng xiết kể đều thề nguyền dứt bỏ, nghĩa là đem Trí Bát nhã của tánh mình mà dứt bỏ lòng nghĩ tưởng giả dối. Thế mới gọi là thiệt độ.
- Tất cả các pháp môn kể không hết đều thề nguyền học cả, nghĩa là tự mình phải thấy tánh, thường thực hành các chánh pháp. Thế mới gọi là thiệt học.
- Đạo Phật cao hơn hết thề nguyền tu đến thành công, nghĩa là đã thường hạ được cái tâm (giữ hạnh khiêm cung), làm việc chơn chánh, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát nhã, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo.
Thường thường tưởng đến việc tu hành là cái chánh pháp tạo nên mạnh của thệ nguyện (nguyện lực) vậy. (Nguồn: Lục Tổ Đàn Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Sám hối hàng ngày: "Hoặc tớ trai, hoặc tớ gái, cho đến những kẻ không được quyền tự do..." "Không được quyền tự do" có nghĩa là cái thân thể này của mình bị lệ thuộc, mình là kẻ nô lệ và phải nghe theo sự sai khiến của chủ nhân, không được tùy tiện muốn đi đâu thì đi hoặc muốn làm gì thì làm nữa.
"Rõ biết là do túc nghiệp, cần phải sám hối..." Những người mà hiện đời phải thuộc hàng hạ tiện, bị mất tự do, hoặc phải đem thân làm nô tỳ tôi tớ cho kẻ khác, đều là do đời trước họ đã gây ra nghiệp tội rất lớn rất nặng, vì vậy bây giờ họ cần phải thành tâm ăn năn hối cải. Họ có thể lạy Sám Ðại Bi, Sám Tịnh Ðộ, hoặc các loại sám khác, để sám hối các tội lỗi của mình. Tại sao hằng ngày chúng ta đều lạy Sám Ðại Bi? Bởi chúng ta cũng không biết rõ được đời trước mình đã gây ra bao nhiêu nghiệp tội, cho nên lúc nào cũng phải sám hối hết thảy mọi tội lỗi. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Giữ giới - Trì giới với nghiệp chướng: ... Cổ Đại Đức dạy cho chúng ta, sám nghiệp chướng có 3 loại:
1. Loại sám hối thứ một: là phục nghiệp sám.
2. Loại sám hối thứ 2: là chuyển nghiệp sám loại này là cho những người rất thông minh, họ có thể chuyển biến điều này rất hiếm có, hiệu quả vô cùng thù thắng.
3. Tiêu trừ nghiệp chướng: Thế nhưng cách sám hối cứu cánh nhất là nhất định phải tiêu diệt tội nghiệp, diệt nghiệp mới là cứu cánh nhất. Có thể diệt được hay không? Được. Tại vì sao? vì vô lượng kiếp đã tạo những tội nghiệp. Phật tại trong Kinh có nói một thí dụ giống như một căn nhà bên trong đen tối, bên trong toàn là bóng tối, tuy trong nhà ngàn năm đen tối. Nếu chúng ta đốt lên một ngọn đèn ánh sáng sẽ chói rọi thì bóng tối không còn nữa. Đem bóng tối thí dụ như tội nghiệp, ngọn đèn thì dụ là trí huệ. Do đây mới biết định năng phục nghiệp, tức là định có thể khuất phục được nghiệp. Khai huệ có thể phá trừ tội nghiệp. Do đây mới biết chúng ta tu học y giới sanh định, do định khai huệ, tu như vậy mới có hiệu quả cho nên trì giới quý vị nên biết, nếu trì giới mà không được định thì sự trì giới này chỉ được phước hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp cũng không thể diệt tội. Chẳng những không thể diệt tội mà cũng không thể khuất phục được tội nghiệp, nhất định phải hiểu điều này. Trì giới phải được định thì trì giới mới có công đức. Nếu trì giới không được định thì chỉ có phước đức, không phải công đức. Cho nên trì giới có phước đức, có công đức. Trì giới được định thì có công đức, có công đức thì mới liễu sanh tử ra khỏi tam giới. Còn phước đức thì không thể. Vì sao có loại người trì giới họ không thể thành tựu công đức? Vì họ còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. ... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối)
+ Sám hối bệnh nạn: Có 3 loại (1)- Bệnh sinh lý do ăn uống ngủ nghỉ ......không điều độ; (2)- Nghiệp oan gia trái chủ tìm đến (ma quỷ nhập, phi nhân); (3)- Nghiệp chướng (Nghề nghiệp) do trong đời sống mình tạo ra qua vô lượng kiếp;
Loại 1: Đoạn ác tu thiện, Sống thuận theo tự nhiên, theo đạo dưỡng sinh và uống thuốc là khỏi.
Loại 2: Rất khó, chỉ có cách Tụng kinh bái sám để hòa giải, có 2 loại là Lương Hoàng Sám hoặc Từ Bi Thủy Sám thuộc loại sám hối hòa giải nên tu với tâm chân thành hối lỗi, làm thiện thí cúng tích phúc hồi hướng cho hộ, mong họ hóa giải oát kết, cùng nhau tu hành không chướng ngại nhau nữa. Nếu họ tiếp nhận thì họ liền đi, bệnh sẽ khỏi.
Loại 3: Bệnh nghiệp báo/ Nghiệp chướng. Loại này rất phiền phức, thuốc men không chữa trị được, hòa giải cũng không được. Chỉ có tu sám trừ nghiệp chướng, sửa đổi tâm đoạn ác tu thiện, làm lành lánh dữ, tu tích phúc báo, tụng kinh niệm Phật hồi hướng thì cả các oan gia cũng đến cùng mình tu, nhận hồi hướng công đức của mình và họ sẽ dần không chướng ngại mình nữa. Trường hợp này, nếu mới tu tinh tấn nếu như gặp phải sự tự nhiên "dựng tóc gáy" thì nên càng tinh tấn tu hành, xem đây là cơ hội tiêu hóa giải nghiệp oan gia tốt lành. Tu thành tựu thì ngủ không còn mê ác nữa. (PS Tịnh Không giảng Kinh Thập thiện nghiệp đạo - Tập 17)
+ Pháp sám hối: .... Sau khi nghe đức Phật giảng nói. Bấy giờ ma vương Ba Tuần tự thấy mình có lỗi nên lo rầu sợ sệt Đến lạy chưn Phật rồi Đứng qua một phía.
Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi : ‘’ Nầy Ba Tuần; Có chi mà ngươi lo rầu tiều tụy run sợ như người thất chí mà Đứng qua một phía vậy ? ‘’.
Ma vương Ba Tuần nói : ‘’Thưa Đại Sĩ; Tôi từ nơi Phật nghe nói những sự Đáng sợ như vậy nên tôi lo rầu sợ sẽ bị Đọa ác Đạo, ai sẽ cứu tôi. Ở trong pháp luật của Phật dạy tôi luôn luôn làm vô lượng sự trở ngại.Vì vậy mà tôi lo sợ lắm’’
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : ‘’Nầy Ba Tuần; Trong Phật pháp có pháp xuất tội. Ông nên Đến chỗ Thế Tôn thành tâm sám hối các tội ác Đã làm chớ có làm lại nữa. Nếu ông có thể như vậy thì sẽ Được lợi ích tốt chẳng luống uổng ‘’.
Nghe lời khuyên ấy, Thiên ma Ba Tuần liền Đến chỗ Đức Phật năm vóc gieo xuống lạy chân Đức Phật ngước nhìn Phật rơi nước mắt mà bạch rằng :’’Bạch Đức Thế Tôn; Nay tôi thành tâm sám hối từ xưa Đến nay ở trong pháp luật của Đức Phật dạy thường làm vô lượng sự trở ngại. Ngưỡng mong Đức Như Lai vì lòng từ bi thương xót thọ tôi sám hối ‘’.
Đức Phật nói : ‘’Lành thay, lành thay, nầy Ba Tuần; Ông có thể tự thấy các việc ác Đã làm, là thượng thiện thay người có thể ăn năn tội lỗi như vậy ở trong Phật pháp thì làm rộng lớn pháp tạng Như Lai. Chư Phật cũng thọ người ấy sám hối. Vì vậy nên từ nay ông chớ nên phạm nữa ‘’. (Nguồn: Hư Không Tạng Bồ Tát vấn Phật).
+ "Sám hối hay Truy hối" là đem nghiệp chướng tiêu trừ hết, "Truy hối" là đem cái nghiệp chướng làm tăng thêm > phải giác ngộ!
- Sám hối: Pháp Sư Tịnh Không Khai Thị “Sám hối là không tái phạm nữa”, vậy mới hiệu quả": Trong Phật pháp, Vô lượng vô biên pháp môn, tóm lại đến cuối cùng là pháp môn sám hối. Niệm Phật là tốt nhất cho pháp môn sám hối > bạn vãng sanh đến Tây phương Cực Lạc thế giới Sám hối: Không che giấu tội lỗi của mình đó gọi là sám, hối là sau này không còn tạo nữa! Sám hối không là truy hối (nhớ lại mà hối hận);
- Nếu Truy hối - Nghĩ, nhắc lại việc cũ: Là tội cộng thêm tội, tại vì sao? Mỗi lần bạn nghĩ đến cái ác cũ, thì lại tạo một lần nghiệp tội, vậy thì làm sao được, đó không phải là sám hối. >>> Trước tượng Phật kể khổ: "Tôi tạo những nghiệp tội .. ..v..v.., xin Phật Bồ Tát tha thứ cho tôi". Bạn làm như vậy, là lại tạo thêm một lần nghiệp > đây là tội cộng thêm tội, nghiệp tội của bạn vĩnh viễn không tiêu trừ > phải thường nghĩ đến Phật Bồ Tát, khiến cho cái ấn tượng của nghiệp tội này từ từ nhạt mất, từ từ không còn, thì sẽ tiêu trừ hết. (Nguồn: Sám hối _ PS Tịnh Không)
+ Phát Lồ sám hối: Sám hối tuyệt đối không phải ở trước Phật Bồ-tát quỳ lạy cầu xin, cái đó không có lợi ích gì, không tiêu nổi tội nghiệp. Phật Đà ở trong kinh điển luôn luôn khuyên dạy chúng ta chân thật tu hành cải tà quy chánh. Phật ở trong kinh nói phải “phát lồ sám hối”. Phát lồ sám hối chính là nói rõ với đại chúng là “Tôi trước đây tất cả ngôn hạnh đều sai lầm, đã gây nên những sự bất hòa giữa anh em, giữa thân thuộc, giữa bạn bè, giữa đồng nghiệp của người khác, đây là lưỡng thiệt, xúi giục. Tôi bây giờ biết sai rồi, tôi nhất định nói rõ ràng cho hai bên biết, sự bất hòa của các bạn là tội lỗi do tôi tạo nên”. Cầu xin họ tha thứ, hy vọng họ hòa hảo như lúc ban đầu thì tội lỗi lưỡng thiệt của mình mới có thể sám trừ được.(Kinh TTNĐ_Tập 42_PS Tịnh Không)
+ 554. SÁM HỐI
- Đức Thế Tôn thuyết pháp này xong, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi viễn ly trần cấu, phát sanh pháp nhãn và các pháp. Bấy giờ, Tôn giả Phất-ca-la-sa-lợi viễn thấy pháp, đắc pháp, chứng pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi hoặc, không còn ai hơn, không tùy thuộc ai nữa, không còn do dự, đã an trú vào quả chứng đắc; đối với pháp của Thế Tôn, chứng đắc vô úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật mà bạch rằng:
Bạch Thế Tôn, con ăn năn! Bạch Thiện Thệ, con ngay từ đầu như ngu, như si, như khờ dại, như không hiểu biết, không nhận ra Bậc Lương Điền mà không tự biết. Vì sao? Vì con đã gọi Như Lai –Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác– là Hiền giả. Mong Đức Thế Tôn cho con sám hối. Sau khi sám hối, con sẽ không còn tái phạm nữa.
Đức Thế Tôn đáp: Này Tỳ-kheo, ngươi quả thực ngu si, quả thực là khờ dại, không hiểu biết nên đã gọi Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, là Hiền giả. Này Tỳ-kheo, nếu ngươi tự sám hối, đã thấy và phát lồ, gìn giữ không tái phạm nữa, như thế, này Tỳ-kheo, đối với pháp luật của bậc Thánh như vậy là tăng ích chứ không tổn hại, vì đã tự sám hối, đã tự thấy và phát lồ, gìn giữ không tái phạm nữa. Nguồn: mục 554- (Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Lục Giới, Phẩm 13, số 162)
+ Sám Hối Trừ Nghiệp: Ngài A Nan hỏi Đức Phật: Tì-kheo phạm tội Tăng tàn đã tỏ bày sám hối, nhưng mới được năm, ba ngày, thì nơi ấy có nạn, chúng tăng phân tán, vậy tội ấy có được tiêu trừ không? Đáp: Phải cầu chúng tăng sám hối lại, đợi mãn bảy ngày thì tội mới trừ. (Trích: Kinh Ngũ Bách Vấn)
+ Sám hối nghiệp chướng:
Con từ vô thỉ, cho tới ngày nay,
Nguyền rủa Tam-bảo, làm Nhất-xiển-đề,
Chưởi Kinh Ðại-thừa, dứt học Bát-nhã,
Giết hại mẹ cha, làm Phật đổ máu,
Bẩn chốn chùa chiền, phá phạm hạnh người
Ðốt hủy chùa tháp, ăn cắp đồ Tăng,
Dấy đủ ý sai, nói không nhân quả
Gần bạn bè xấu, nghịch lại thầy lành...
Những tội lỗi kể trên là những điều mà mình không nên phạm, tuy rất dễ bị phạm. Nếu chẳng may mình đã phạm những lỗi đó thì phải làm sao? Quý-vị đừng lo sợ. Có câu rằng: "Di thiên đại tội, nhất sám tiện tiêu." Nghĩa là tội phạm tầy trời, sám hối sạch tiêu. Tội vốn không hình tướng. Nếu mình chân chính có tâm sám hối thì sợ gì không có hy vọng. Quý-vị đừng nên coi thường mình, đừng cam tâm để bị đọa lạc.(Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị)
+ Sám Hồi Tiêu Trừ Nghiệp:
Câu Hỏi 113: Phật giáo bảo là: “Định nghiệp thì không thể chuyển đổi được,” vậy nếu đã tạo ác nghiệp rồi thì nhất định là phải thọ quả báo phải không?
Đáp: Tuy nói, không thể thay đổi được định nghiệp, nhưng nhờ vào lực tam muội gia trì của Phật và Bồ Tát thì tội nghiệp cũng có thể được tiêu trừ. Nhưng chúng ta cần phải đặt hết lòng tin, sanh tâm hết sức chân thành sám hối và phải thật dũng cảm để sửa đổi các tội lỗi. Cho nên nói:
“Lúc nóng giận mà có thể vui vẻ được, thì người chết sẽ sống trở lại.
Nếu cho lời nói đây là giả, thì nên biết chư Phật không nói dối bao giờ?”
Tội lỗi dù ngập trời, nhưng một khi chúng ta sám hối thì tội lỗi liền tan. Bất luận là tội nghiệp có nặng nề bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu chúng ta thật có thể phát đại Bồ-đề tâm cùng hết lòng tín ngưỡng Tam Bảo và thiện tri thức để tu công chuộc tội. Lúc tu hành tích tụ công đức một cách đầy đủ rồi thì tự nhiên chúng ta sẽ miễn trừ được hết các tai nạn, và bịnh đau. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc)
+ Cơ cấu cơ thể - Cấu tạo cơ thể: Khi dùng từ ngữ “cơ cấu” trong các giáo huấn này là tôi đề cập tới các khía cạnh khác nhau của vận cụ (instrument), thể (body) hay bản chất hình hài (form nature) mà mọi linh hồn tìm cách biểu hiện qua đó. Do đó, tôi đề cập tới:
Thể xác trọng trược.
Thể dĩ thái.
Thể cảm dục.
Thể hạ trí (CTNM, 2–3)
+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI209-210
- Đức Tính đặc biệt: Sùng tín, chuyên tâm, lòng bác ái, sự dịu dàng, trực giác, lòng trung thành, lòng tôn kính.
- Tật xấu của Cung: tình yêu ích kỷ và ghen tuông, quá dựa vào người khác, tính thiên vị, [trang 209] tự dối mình, tính bè phái, mê tín dị đoan, định kiến, các kết luận quá nhanh chóng/ vội vàng, tính giận dữ nóng nảy/ cuồng nộ.
- Mô tả thêm Tật xấu: Lòng sùng tín cứng nhắc, chủ nghĩa lý tưởng, bị ảo cảm, tự lạm dụng, giận giữ, điên cuồng, cuồng tín. Người tử vì đạo/ Nạn nhân. Rế bị ảnh hưởng bởi hành vi đám đông, độc ác. (Trích từ năng lượng của 7 cung/ Khóa học GQ/ MF)
- Các Đức Tính cần có: Sức mạnh, sự hy sinh, sự thanh khiết, chân thật, khoan dung, thanh thản, sự cân bằng và có lương tri.
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung.
+ Đặc điểm nổi bật nhất của cung 6 là sự Sùng Tín, Trung Thành, Nhiệt Huyết. (Con chó - biểu tượng trung thành, hình người cầu nguyện và đoàn khách hành hương biểu tượng sự sùng tín hay biểu tượng cho chủ nghĩa quá khích cực đoan, một khía cạnh thấp của cung 6. Hình lính cứu hỏa tượng trưng cho lòng can đảm, tượng Nữ thần tự do tượng trưng cho lòng nhiệt huyết, hi sinh cho tổ quốc. Trái tim rỉ máu cũng là biểu tượng của lòng nhiệt huyết tự hi sinh.
- Điểm tiêu cực của cung 6 là sự cuồng tín, không chấp nhận cái gì khác với lý tưởng mình tôn thờ. Nhược điểm này phải được chuyển hóa bằng đặc tính tích cực của cung 2 là sự bao dung, bao gồm tất cả vào mình. (Nguồn: TLHNM 1)
+ Đặc điểm nổi bật nhất của cung 6 là sự Sùng Tín, Trung Thành, Nhiệt Huyết. (Con chó - biểu tượng trung thành, hình người cầu nguyện và đoàn khách hành hương biểu tượng sự sùng tín hay biểu tượng cho chủ nghĩa quá khích cực đoan, một khía cạnh thấp của cung 6. Hình lính cứu hỏa tượng trưng cho lòng can đảm, tượng Nữ thần tự do tượng trưng cho lòng nhiệt huyết, hi sinh cho tổ quốc. Trái tim rỉ máu cũng là biểu tượng của lòng nhiệt huyết tự hi sinh.
- Điểm tiêu cực của cung 6 là sự cuồng tín, không chấp nhận cái gì khác với lý tưởng mình tôn thờ. Nhược điểm này phải được chuyển hóa bằng đặc tính tích cực của cung 2 là sự bao dung, bao gồm tất cả vào mình. (Nguồn: TLHNM 1)
+ Phẩm tính Cung 3: Thông tuệ linh hoạt
- Ưu điểm: Tầm nhìn rộng về tất cả những vấn đề trừu tượng, trí tuệ sáng tỏ, năng lực tập trung nghiên cứu triết học, kiên nhẫn, thận trọng, khả năng truyền đạt khái niệm, trí sáng tạo.
- Nhược điểm: Tự cao về trí tuệ, lạnh lùng, cô lập, thiếu chính xác trong chi tiết, đãng trí, ương ngạnh, ích kỷ, tính chỉ trích thái quá đối với người khác.
+ Các Đức Tính và Tật Xấu EPI 204-5 (Xem Bảy đấng ...)
- Các Đức Tính đặc biệt: quan điểm rộng rãi về tất cả các vấn đề trừu tượng, mục đích chân thành, trí năng trong sáng, khả năng tập trung vào các nghiên cứu triết học, kiên nhẫn, cẩn thận, không có xu hướng làm phiền chính mình hoặc người khác về những chuyện vặt vãnh.
- Các Tật xấu của Cung: sự tự hào về trí tuệ, sự lạnh lùng, cô lập, thiếu chính xác trong các chi tiết, đảng trí, ngoan cố, ích kỷ, hay chỉ trích những người khác.
- Các Đức Tính cần có: Thông cảm, khoan dung, sự tận tâm, tính chính xác, nghị lực và lương tri.
+ Đặc Điểm - Mầu Sắc - Âm Thanh - Độ rung động của Cung
+ Cung 3 - Cung Phàm ngã của Hành Tinh Trái Đất thống trị con người, mang lại yếu tố phân biện thông qua hoạt động trí tuệ, và điều này sẽ cân bằng cái gọi là bản chất bác ái, và là ... nguyên nhân của sự phát triển tiến hóa của chúng ta; Trong ảnh hưởng quy định này có một manh mối cho sự đau khổ, sự bi thảm và nỗi đau trong thế giới ngày nay. (EPI-335/8)
+ Biểu lộ 3 ngôi chính:
Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, lập pháp, tính hợp pháp, công lý;
Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục;
Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... (CTHNM, 275)
Xem: Bảng 5 - Kiểu người theo 7 cung Xem: tóm lược về bảy cung
Xem: Đặc tính năng lượng các Cung Phần 1 và phần 2
Xem: Cung Thể Xác - Thể Cảm dục - Thể Trí - Phàm Ngã - Linh hồn
+ Tiền Tài: Chỉ có kẻ nào không ham muốn gì hết cho riêng mình mới có thể trở thành kẻ thu nhận nguồn tài chính phong phú và là kẻ phân phối tài nguyên của vũ trụ. Trường hợp khác, khi tài sản gia tăng, chúng không đem lại điều gì ngoại trừ phiền não, lo lắng, không vừa lòng và lạm dụng. (ĐĐNLVTD, 78–79)
+ Chân Sư DK: Libra có liên quan chặt chẽ với Ngôi 3 của Chúa Cha và do đó nó là cung đang cai quản và là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này. Cả 3 khía cạnh thiêng liêng... biểu lộ theo 3 cách hay là qua 3 trạng thái thứ yếu,... Chính là qua việc nghiên cứu Libra mà ánh sáng đối với trạng thái thứ 3 sẽ đến. Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, lập pháp, tính hợp pháp, công lý; Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục; Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Nghiên cứu thật kỹ hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn ..... (CTHNM, 275)
* Xét với Libra ở đỉnh: Thiên luật, tính dục, tiền tài sẽ mang lại manh mối cho 3 cõi thấp (qua 3 cung Taurus, Libra và Capricorn)...;
1. Taurus (Kim ngưu) – giới động vật – định luật, luật tự nhiên. [Chủ quản: Kim tinh/ Venus]
2. Libra (Thiên bình) – giới thực vật – tính dục (sex) – ái lực tự nhiên. [Chủ quản: Kim tinh/ Venus]
3. Capricorn (Ma kết) – giới khoáng vật – tiền tài – biểu hiện cụ thể của Luật Cung Cầu. [Chủ quản: Thổ tinh/ Starurn]
Với Libra ở đỉnh và chiếm ưu thế, Uranus (Hiện nay, Thiên Vương tinh chủ quản ngoại môn cung Bảo Bình/ Aquarius, thay thế Thổ tinh là chủ quản ngoại môn cổ. Uranus chủ thể chi phối bí ẩn và quan trọng bậc nhất trong cung (Libra) này, vì cung năng lượng thứ 7 tác động qua hành tinh này..... Nơi đây toàn bộ bí ẩn về tiền bạc được ẩn giấu và cả sự sáng tạo và sản xuất của tiền tài. Chỉ một mình Ngôi 3 mới có liên quan tới tiến trình sáng tạo. Chính qua mối liên hệ của 3 trạng thái của biểu lộ thiêng liêng thứ ba – định luật, ái lực và năng lượng được cụ thể hóa – mà tiền tài được tạo ra (CTHNM, 277)
+ Bố thí - Tương ứng: Cho ăn là cho lực, mặc là sắc, xe là lạc, đèn là mắt; Ai cho chỗ trú xứ, Vị ấy cho tất cả, Ai giảng dạy Chánh pháp, Vị ấy cho bất tử (Tương Ưng Bộ Kinh I. 73)
+ Tài Sản hao tán và tài sản vĩnh cửu không bao giờ mất:
- Tài sản hữu hình luôn là của 5 nhà: ... Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch.
- Tài sản không bao giờ mất: Có 7 tài sản không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Gồm: Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài và tuệ tài. Bảy loại tài sản này, này Ugga, không bị lửa, nước, ... chi phối. Ai có tài sản này, người ấy là đại phú, thiên nhân giới khó thắng.
(1) Tin sâu vào Chánh pháp, Phật pháp là Tín tài, vì Tin kính Tam Bảo là mẹ sinh ra vô lượng công đức; (2) Nghiêm trì ngũ giới luật đức Phật dạy là Giới tài; (3) Vị Thánh đệ tử có xấu hổ đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là tàm tài; (4) Có sợ hãi đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là quý tài. (5) Vị Thánh đệ tử nghe nhiều, giữ gìn những gì đã nghe, đề cao đời sống phạm hạnh, đọc tụng nhiều lần, chuyên tâm quán sát, thành tựu chính kiến, gọi là văn tài; (6) Tâm từ bỏ xan tham, ưa thích xả ly, san sẻ vật bố thí, gọi là thí tài; (7) Có trí tuệ về sinh diệt, thành tựu Thánh thể nhập, đưa đến chân chính đoạn diệt khổ đau, gọi là tuệ tài. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là bảy tài sản, ai có được những tài sản này được gọi là không nghèo khổ.... A Nan, hãy dạy cho thanh niên tu bảy loại tài sản này (Nguồn: Đức Phật giảng về Tiền và tài sản)
+ Tham thiền huyền linh: Tức là tham thiền bằng trí. (TLHNM–II, 449)
+ Người nên Tham thiền nội môn hay huyền môn (NTTHM/ NTTNM)
- Tham thiền giúp chúng ta tiếp xúc và cuối cùng kết nối với phần thiêng liêng của chúng ta – Linh Hồn hay Chân Ngã), "Cái Tôi Cao Cả Hơn", trái ngược với cái tôi thấp kém, bao gồm thể xác, thể tình cảm và thể trí của chúng ta. Ba thể thấp này được gọi chung là phàm ngã. Mục đích của thiền định là mang đến phàm ngã sự nhận thức về khía cạnh Linh Hồn và đặt các thể thấp hơn của chúng ta dưới sự kiểm soát của nó.
- Tham thiền là phương tiện nhờ đó phàm ngã trở nên trong sạch, gắn kết, và được nâng lên để cho việc tiếp xúc với Linh hồn thành khả dĩ. Linh hồn đã đồng hành cùng với chúng ta từ thuở ban sơ khi chúng ta là người và trong suốt thời gian đó đã chờ đợi chúng ta bước vào vùng ảnh hưởng của nó. Phàm ngã cho tín hiệu sẵn sàng và Linh hồn đáp ứng. Cả hai tham gia vào việc xây dựng chiếc cầu để trở thành kênh giao thông giữa các bề đo cao và thấp. Tham thiền là phương tiện để cho sự tiếp xúc này xảy ra và hoàn thiện, đạt đến mực tột cùng trong sự kết hợp giữa Phàm ngã và Linh hồn.
- Có những Định luật vũ trụ ẩn tàng chi phối tiến trình tiến hóa này. Những định luật này cách thức Phàm ngã trở nên gắn kết, chuyển hóa, cho đến khi nó phản ảnh rung động cao hơn của Linh hồn. Chính là những định luật vũ trụ ẩn tàng này, những “Định luật của Linh hồn” xác định cách thức ta tiến hóa về mặt tinh thần và đạt đến mục tiêu hoàn thiện đã định ra sao. Hình thức tham thiền sử dụng và áp dụng những định luật này được gọi là tham thiền huyền môn. Chữ huyền môn (occult) có nghĩa là bị che dấu, ẩn tàng, và tham thiền huyền môn là dạng tham thiền sử dụng những năng lượng vô hình mạnh mẽ này.
- Tham thiền huyền môn khác những phương pháp tham thiền hiện đại khác vì nó liên hệ mật thiết với cái trí. Nó đi xa hơn phương pháp tham thiền thần bí vốn tìm kiếm sự ngây ngất xuất thần trong sự hợp nhất với Thượng đế mà thôi. Nhiều người là nhà thần bí hay tín đồ sùng đạo mong ước trải nghiệm được cảm giác trong khi tham thiền. Tham thiền huyền môn khác điều này vì cái trí được nhấn mạnh thay vì cảm xúc. Thông qua cách tiếp cận thiên về trí tuệ và trực tiếp trải nghiệm chúng ta có thể đạt đến tri thức của Linh hồn bằng phương pháp tham thiền huyền môn.
- Ý nghĩa chính xác nhất của tham thiền huyền môn — ghi nhận, giải thích, áp dụng. Chúng hàm ý hoạt động trí tuệ, có quan hệ đến nhân và quả, tiếp xúc với nguồn cảm hứng, và sau đó là khả năng sử dụng và áp dụng thành quả của tham thiền.
- Chúng ta học cách làm cho hạ trí hòa nhịp với thượng trí và linh hồn thông qua sự điều khiển có ý thức. Một tư tưởng hay một “ý tưởng hạt giống” (chủng đề) được suy gẫm trong ánh sáng của Linh hồn có thể làm phát sinh những tư tưởng mới, sự soi sáng tâm trí mà hạ trí giải thích và áp dụng.
+ Người Không Nên Tham Thiền Huyền Môn:
- Tiểu vũ trụ - Chân nhân tạo ra một thể nhất định dùng cho những cứu cánh nhất định. Chân nhân nhắm đến một sự hoàn mãn nào đó bằng cách gom góp một số vật liệu rung động theo cùng nhịp điệu, chịu sự chi phối của một số qui luật trong một kiếp sống nhất định, và nhắm đến một mục tiêu cụ thể, chứ không phải tất cả các mục tiêu khả dĩ có.
Mỗi phàm nhân đối với Chân nhân cũng như thái dương hệ đối với Đức Thái Dương Thượng Đế. Đó là môi trường biểu lộ của Chân nhân và là phương cách để Chân nhân đạt được một mục tiêu rõ rệt. Mục tiêu này có thể là hoạch đắc đức hạnh bằng cách trả giá cho tật xấu. Đó có thể là đạt được sự thành thạo trong kinh doanh bằng cố gắng cung cấp những nhu yếu của đời sống. Đó có thể là mở mang tính nhạy cảm bằng cách phát hiện những điều độc ác trong bản chất. Đó có thể là phát triển lòng yêu thương vô kỷ bằng cách đáp lại lời kêu cầu của những người phụ thuộc đang thiếu thốn. Hoặc đó có thể là chuyển hóa dục vọng bằng phương pháp tham thiền trên Đường Đạo. Chính mỗi linh hồn phải tự tìm lấy mục tiêu. Trong việc thu đạt khả năng trí tuệ để tham thiền, người môn sinh quên mất chính điều y cần đạt khi mang xác phàm, thành ra kết quả chỉ là sự phát triển không đồng đều và tạm thời phí thời gian.
- Một Chân nhân đã có 3 thể để biểu hiện và đặt chúng trong vòng giới hạn với mục đích trước mắt là đưa vào thể nguyên nhân khả năng “hiểu biết các sự kiện cơ bản của đời sống bằng trí tuệ.” Mục tiêu của kiếp sống này là phát triển trí năng của môn sinh, là dạy cho y những sự kiện cụ thể và khoa học, mở mang thể trí của y, để dùng cho công việc sau này. Y có thể phát triển quá độ về mặt tình cảm hay sùng tín thái quá. Y có thể bỏ ra nhiều kiếp để mơ ước, để nhìn ngắm các linh ảnh và tham thiền thần bí. Nhu cầu lớn của y là phải thực tiễn, phải có đầy đủ lương tri, phải hiểu chương trình của Phòng Học tập và áp dụng sự hiểu biết đã học được một cách thực tế ở cõi trần. Tuy nhiên, dù cho vòng giới hạn của y có vẻ ngăn cản và hạn chế các khuynh hướng sẵn có nơi y, và dù đã có sắp xếp khiến cho dường như y phải học những bài học của cuộc sống thực tiễn ở thế gian, y cũng không chịu học, mà chỉ đi theo lối nào dễ dàng cho y nhất. Y tưởng đến những mơ ước của mình, và sống xa rời thế sự. Y không làm tròn ý muốn của Chân nhân mà bỏ lỡ cơ hội. Y chịu nhiều đau khổ, và trong kiếp tới y cũng cần ở trong sự sắp xếp tương tự với sức thôi thúc mạnh hơn và một vòng giới hạn chặt chẽ hơn, cho đến khi nào y thực hiện được ý muốn của Chân nhân y. => Người như thế, tham thiền không giúp đỡ gì được mà chỉ gây trở ngại. Vì Tham thiền là dành cho những ai đạt mức tiến hóa mà thể nguyên nhân đã phần nào nở nang già dặn và họ đang bước vào một trong những cấp chót của Phòng Học tập.(TTHM, thư 29.7.1920)
+ Tham Thoại Đầu: Câu “Niệm Phật là ai, ai đang niệm Phật,” tức là phải nghiền ngẫm, nghiên cứu mới được, chớ không phải là dùng câu đó để hỏi. Đây là phải tham (nghiền ngẫm) cũng giống như lấy dùi khoan lỗ, chừng nào dùi thấu qua được là biết ngay. Nếu chưa thấu qua thì dù con có hỏi cũng không hiểu đâu. Vì là pháp môn “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” tức ngôn ngữ, lời nói đều dứt đoạn và chỗ tâm hành cũng diệt hết, nên không ai nói ra được. Dù có người nào có thể nói cho con biết đi nữa thì cũng đều là giả cả. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp thắc mắc câu hỏi 186)
+ Tham thoại đầu - Phá hai chấp: Muốn phá ngã chấp và pháp chấp chỉ có tu thiền, từ từ dụng công, phương pháp giống nhu mèo rình chuột, mèo nhẫn lại rình chuột ở miệng hang vậy, đợi chuốt xuất hiện là vồ bắt lấy, tham thiền cũng thế. Tham thiền, tham thoại đầu "Niệm phật là ai", chữ "Ai" giống như chú chuột, chữ "Tham" là mèo. Như gà ấp chứng, như rồng giữ minh châu cũng vậy... (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Mẫu câu tham thoại đầu: Thời chư Tổ sư, các thoại đầu để hành giả tham thiền có rất nhiều, nhưng phổ thông nhất là các câu thoại đầu sau:
1. Khi chưa có trời đất, ta là cái gì ?
2. Muôn pháp về một, một về chổ nào ?
3. Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao ?
4. Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu ?
5. Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì ? (HT Tuyên Hóa giảng)
Xem Tham thiền - Nhập định và những nguy hiểm cần tránh và Tổng quan về Tham Thiền
Xem: Tham thiền huyền môn theo Raja yoga (GQ-MF)
Xem: TH về các P.Pháp và con đường Tham Thiền
Xem: Tổng hợp Huyền học - Huyền Bí Học - Huyên Linh học và Huyền Linh Thuật
+ Tóm lược Sách (TTHM/ LOM): Thư về Tham Thiền Huyền Môn - Letters on Occult Meditation
- Đại Vũ Trụ và Tiểu Vũ trụ: Tiểu vũ trụ là một vũ trụ nhỏ, như một con người, trong khi Đại vũ trụ là một thực thể rộng lớn đang biểu hiện, như một thái dương hệ. ĐLTU giúp xác định những điểm tương đồng giữa cuộc sống và những gì cao xa hơn ở cấp hành tinh, thái dương, vũ trụ.
- Trên sao, Dưới vậy: Vũ trụ là một THỰC THỂ vĩ đại, đang sống và thở. Trong khi đó chúng ta chỉ là nguyên tử bé nhỏ bên trong cái Toàn thể này. Câu nói cổ “trên sao, dưới vậy” bao giờ cũng đúng, và cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ.
+ Tương ứng/ Tương đồng giữa Tiểu Vũ Trụ
- Đại Vũ Trụ Ý chí ......... Bác ái .... Thông tuệ
Chòm Đại hùng Sirius Pleiades
Cung 1 Cung 2 Cung 3
Ý chí Bác ái/ Thông tuệ/ và Quyền lực
Minh triết Linh hoạt Shamballa H.Giai T.thần Nhân loại Tinh thần/ Linh hồn Phàm nhân Chân thần Atma Bồ-đề Manas Cõi trí Cõi cảm dục Cõi trần Thể trí Thể cảm dục Thể xác
Xem: Tương ứng số 7 + 5 = 12 Cung Hoàng đạo
Xem: Trang tổng hợp thống kê tương ưng số
Xem: Trang tổng hợp tương ứng đối ứng
+ Pháp tu Miễn nhiễm bệnh dịch - Kinh Địa Tạng
“Sáu là dịch bệnh không đến nơi thân.” “Dịch bệnh” tức là bệnh ôn dịch, bệnh truyền nhiễm. Đáng lẽ ra thì mọi người đều bị truyền nhiễm, mắc phải chứng bệnh nào đó, nhưng nhờ quý vị niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng nên giống như có một ranh giới vô hình, quý vị không bị lây bệnh.
Lúc tôi ở Đông Bắc, có lần bệnh ôn dịch lan tràn, có một gia đình nọ mười một người mà chỉ nội trong ba ngày đã có mười ba người bị chết! Tại sao gia đình mười một người mà lại có tới mười ba người chết? Tại sao lại có thêm hai người nữa? Đó là hai người “đưa tiễn”—bởi vì mười một người có lẽ là chưa đủ số, cho nên phải chết thêm hai người nữa vậy! Hai người này, một người thì làm công cho gia đình nọ, còn người kia là bà con từ xa đến thăm. Cả hai người cùng chết chung với gia đình nọ cho đủ số! Do đó, trong vòng ba ngày mà gia đình mười một người lại có tới mười ba người tử vong, và tất cả đều do bị lây bệnh truyền nhiễm mà ra.
Bấy giờ tôi đang ở địa phương đó, tôi bèn dẫn theo bốn đệ tử nhỏ tuổi và bảo họ rằng: “Chúng ta phải đi cứu người ngay!” Cứu như thế nào ư? Tôi căn dặn các đệ tử: “Chúng ta hãy trì niệm Chú Đại Bi để đối phó với thần ôn dịch!” Chúng tôi đến thôn làng đang có bệnh dịch hoành hành nọ, đi quanh làng ba vòng, vừa đi vừa niệm Chú Đại Bi. Sau khi chúng tôi niệm xong Chú Đại Bi và đi khỏi rồi, thì trong làng không còn bệnh dịch nữa. Thế nên, Chú Đại Bi thật vô cùng linh nghiệm, hết sức nhiệm mầu! (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P13 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Cần suy ngẫm: Chân Sư DK dạy, Hãy suy ngẫm kỹ điều này - Những kiến thức ĐẶC BIỆT ẩn chứa điều tuyệt diệu được trao truyền, nếu nghiền ngẫm để hiểu đúng, ứng dụng được vào đời sống = TUYỆT ĐỈNH NHÂN GIAN, bởi vì: KHI YÊN LẶNG SUY NGHĨ ĐIỀU ĐÓ TRONG TÂM, ÁNH SÁNG CÓ THẺ ĐẾN VÀ NGỌN LỬA NỘI TẠI SẼ BÙNG CHÁY VỚI SỨC NÓNG NHIỀU HƠN (Thư về TTHM-188)
+ TTHM-183: Con người truyền đạt cho Thiên thần những ý kiến khách quan. Các Thiên Thần sẽ ban giải cho con người Từ lực để chữa trị. Các Thiên Thần gìn giữ Prana, như con người giữ nguyên khí thứ 5 hay Trí tuệ.
+ TTHM-184: Mặt Trời trung tâm thái dương hệ chúng ta; Trái Tim là trung tâm con người
+ TTHM-185: Prana- Hiểu đúng => Biết bí quyết sức khoẻ hoàn hảo
+ TTHM-187: Viêm Kim Cương gắn trên đỉnh Thần Trượng nó tập chung được 3 loại lửa:
(i)-Tia lửa thiêng - Nguyên khí thứ năm
(ii)- Tia lửa Trí tuệ - Tam nguyên
(iii)- Luồng Hoả hậu - Kundalini của Tứ hạ thể. Nó tương tự như thấu kính hội tụ gom được ánh sáng mặt trời để làm bùng lên một ngọn lửa hoà hợp => Như thế, mọi quyền năng sẽ biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết, căn bã sẽ bị đốt sạch = Hành giả đạt đích
+ ♈: Mang ý nghĩa sâu xa
+ Bạch Dương - Dương Cưu/ Aries / ♈: Hành Hỏa (Xem); Dẫn truyền (Cung 1 - Cung 7) (Xem)
- Tiên phong, độc lập, tự lực, không quan tâm với người khác, dễ bị rủi ro;Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 01, có đặc tính tương ứng: Thái độ cơ bản đối với cuộc sống. Tham gia ;
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Hoả tinh; Cung 6 (CTHNM, 80) (Hỏa tinh và Hải Vương Tinh dẫn Cung 6)
- Khẩu hiệu: Hãy để cho hình tướng được tìm kiếm lần nữa.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Thủy Tinh; Cung 4_(CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi tiến tới và từ cõi trí, tôi thống trị.
+ ♉ Kim Ngưu
+ Kim Ngưu/ Taurus: Hành Thổ (Xem); Dẫn truyền(Cung 4) (Xem)
- Cần cù, ổn định, thực tế, bảo thủ, yêu thiên nhiên; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 2, có đặc tính: Thái độ đối với tài sản, thân thể, vật dụng, người phối ngẫu, giá trị, đạo đức;
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5; (Kim Tinh truyền dẫn Cung 5)
- Khẩu hiệu: Hãy để cho sự đấu tranh không nao núng.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Vulcan; Cung 1 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi thấy, và khi mắt mở ra, tất cả là ánh sáng.
+ ♋ Ký Hiệu Cự Giải
+ Cự Giải - Bắc Giải/ Cancer: Hành Thủy (Xem); Dẫn truyền(Cung 3 - Cung 7) (Xem)
- Cự Giải, (Đáy bánh xe, gốc rễ sự tồn tại của chúng ta) tương ứng người Mẹ - Đối cực là Ma Kết (Đỉnh bánh xe, tầm cao, đỉnh núi thành đạt, nhìn thấy tất cả) tương ứng người Cha
- Buồn rầu, bảo vệ, cảm xúc, có ý thức về an ninh, nặng tình cảm; ;Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 4, có đặc tính tương ứng: Điều làm bạn cảm thấy thoải mái và tự nhiên
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Mặt Trăng; Cung 4 (CTHNM, 80);
(Thủy tinh và Mặt trăng dẫn Cung 4) - Khẩu hiệu: Hãy để sự cô lập thống trị và tuy vậy đám đông vẫn tồn tại. + Nội Môn: - Chủ tinh: Hải Vương Tinh (Cung 6) (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi xây một ngôi nhà được thắp sáng và ngụ trong đó.
+ Cancer: Trong cung này có ẩn giấu toàn bộ về Luật Luân Hồi. Sự luân hồi được bao hàm trong vũ trụ biểu lộ và là chủ đề cơ bản nằm dưới sự đập nhịp (pulsation) của thái dương hệ. (Chân Sư DK -CTHNM, 353)
+ Ba cung mà (theo quan điểm của tâm thức) có liên quan chặt chẽ nhưng lại tách biệt và khác nhau nhiều về hiệu quả(CTHNM, 352).
1. Cancer ‒ Ý thức quần chúng‒ hiểu biết theo bản năng.
2. Leo ‒ Ý thức tự tri ‒ hiểu biết do sáng suốt.
3. Aquarius‒ Ý thức tập thể ‒ hiểu biết do trực giác.
+ ♎ Ký Hiệu Thiên Bình
+ Thiên Bình/ Libra (Thiên Xứng): Hành Không khí/ Dẫn truyền Cung 3; Cần đối tác và bạn bè, dễ tính, đòi hỏi sự công bằng, khoan dung; Quản Nhà 7, có đặc tính tương ứng: Hợp tác và bạn bè
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Kim Tinh; Cung 5 (CTHNM, 80); Khẩu hiệu: Hãy để sự lựa chọn được thực hiện
+ Nội Môn: Chủ tinh: Thiên Vương tinh (Cung 7); Khẩu hiệu: Tôi chọn con đường dẫn giữa hai đường lực lớn
+ Chân Sư DK: Libra có liên quan chặt chẽ với Ngôi 3 của Chúa Cha và do đó nó là cung đang cai quản và là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này. Cả 3 khía cạnh thiêng liêng... biểu lộ theo 3 cách hay là qua 3 trạng thái thứ yếu,... Chính là qua việc nghiên cứu Libra mà ánh sáng đối với trạng thái thứ 3 sẽ đến. Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, dưới hình thức lập pháp, tính hợp pháp, công lý; Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục; Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ ba là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Toàn bộ tiến trình được giải thích bằng hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn (Xem thêm về Tam giác lực với Libra ở đỉnh; CTHNM, 275)
+ ♏ Ký Hiệu Hổ Cáp hay Bọ Cạp
+ Hổ Cáp/ Scorpio: (Thiên Yết/ Thần Nông/ Bọ Cạp/ Thiên Hạt):
- Hành Thủy (Xem); (Dẫn truyền Cung 4; Xem)
- Bản năng, yên tĩnh, khéo tay, trực quan, lôi cuốn, yêu súc vật; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 8. Nhà này có đặc tính tương ứng: Tiền bạc, đầu tư, kinh doanh, chia sẻ, cái chết của bạn bè hoặc bản thân
* Loài Bọ cạp: Dụ cho tánh nghi ngờ (HT Tuyên Hóa giảng kinh Địa Tạng)
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Cổ là Hỏa tinh; Cung 6 và Hiện đại là Diêm Vương Tinh; Cung 1 (CTHNM, 80);
(Anh Kiệt nói dùng cả 2, xem mối quan hệ giữa sao hỏa và diêm vương tương tự như giữa venus/ Kim tinh và trái đất) - Khẩu hiệu: Hãy để Ảo Ảnh (Maya) phát triển, và hãy để sự lừa dối cai trị.
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Hỏa Tinh; Cung 6 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi là chiến binh và từ chiến trường tôi xuất hiện trong chiến thắng.
Hổ Cáp (Bọ Cạp) về Công truyền: Bất cứ điều gì liên quan với cái chết và tình dục – máu, quân sự, vũ khí, sự sinh sản. Thế giới ngầm – vệ sinh môi trường, tội phạm, thủ đoạn gian trá, huyền bí, siêu hình. Tâm lý học, chữa bệnh, phẫu thuật. Thị trường chứng khoán, đầu tư, công đoàn và chính trị, bảo hiểm. (Hổ Cáp là cung chiêm tinh của các cơ quan sinh dục - GLBN)
Hổ Cáp (Bọ Cạp) về Bí truyền: Những nghề nghiệp liên quan đến cái chết, tình dục, khoa phẫu thuật, quân đội, sự sinh sản, thế giới ngầm, vệ sinh môi trường, thủ đoạn gian trá, thị trường chứng khoán, đầu tư, công đoàn và chính trị. Hổ Cáp được liên kết với việc chữa bệnh và tâm lý học, thông qua Diêm vương tinh.
Các nghề nghiệp nội môn: nghiên cứu về sự biến đổi huyền bí của cá nhân, nhà chữa trị/nhà tâm lý theo phép chuyển hóa hoặc bí truyền, chiến đấu chống lại cái ác và vì sự thiện hảo cao cả của tập thể.
+ ♐ Ký Hiệu Nhân Mã
+ Nhân Mã/ Sagittarius (Xạ Thủ - Cung Thủ): Hành Hỏa (Xem); (Dẫn truyền Cung 4 - Cung 5 - Cung 6; Xem)
- Mở rộng, không đẹp, đi xa, tránh chi tiết, lạc quan; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 9, có đặc tính tương ứng: Du lịch, quan điểm rộng lớn về mọi thứ, triết học, chính trị
+ Ngoại Môn:
- Chủ tinh: Mộc Tinh; Cung 2 (CTHNM, 80); (Mặt trời và Mộc tinh dẫn Cung 2)
- Khẩu hiệu: Hãy để thực phẩm được tìm kiếm lần nữa
+ Nội Môn:
- Chủ tinh: Địa Cầu; Cung 3 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi nhìn thấy mục tiêu. Tôi đạt đến mục tiêu đó và sau đó tôi nhìn thấy mục tiêu khác.
+ Cung Nhân Mã có tương quan với những người sống động ở cõi giới thứ 6, cõi cảm dục, liên quan mật thiết với cung 6. (Ví dụ: Tất cả những điều này đã tác động mạnh lên Einstein làm ông có ý thức mạnh mẽ về chủ nghĩa duy tâm. Mặt trăng của ông được đặt trong cung Nhân Mã; Mặt trăng có liên quan nhiều đến phản ứng cảm xúc, và theo trật tự của Thánh đoàn Sáng tạo( Chiêm tinh học Nội môn, trang. 35)
+ ♑ Ký Hiệu Ma Kết
+ Ma Kết/ Capricorn (Nam Dương): Hành Thổ (Xem); (Dẫn truyền Cung 1 - Cung 3 - Cung 7; Xem)
- Ma Kết (Đỉnh bánh xe, tầm cao, đỉnh núi thành đạt, nhìn thấy tất cả) tương ứng người Cha - Đối cực là Cự Giải (Đáy bánh xe, gốc rễ sự tồn tại của chúng ta) tương ứng người Mẹ
- Hệ thống, theo một kế hoạch, thực tế, khách quan, có trách nhiệm, thực tế, khô khan; Xem nguồn
- Chủ quản Nhà thứ 10, có đặc tính tương ứng: Sự nghiệp, vai trò trong cuộc sống
+ Ngoại Môn: - Chủ tinh: Thổ Tinh; Cung 3 (CTHNM, 80); (Trái đất và Thổ tinh dẫn Cung 3)
- Khẩu hiệu:
+ Nội Môn: - Chủ tinh: Thổ Tinh; Cung 3 (CTHNM, 81)
- Khẩu hiệu: Tôi lạc trong ánh sáng siêu nhiên, thế nhưng tôi quay lưng lại ánh sáng đó.
+ Ba cung Hoàng đạo với 3 trạng thái sự sống thiêng liêng (CTHNM, 277):
1. Taurus/ Kim Ngưu – giới động vật – định luật, luật tự nhiên.
2. Libra/ Thiên Bình – giới thực vật – tính dục (sex) – ái lực tự nhiên.
3. Capricorn/ Ma Kết – giới khoáng vật – tiền tài – biểu hiện cụ thể của Luật Cung Cầu.
+ Qui luật (Rules, qui tắc): Qui luật là kết quả của kinh nghiệm đã trải qua thử thách và là kết quả của công việc được đảm trách lâu dài và – không khoác hình thức của định luật (laws), cũng không chịu các giới hạn của một huấn lệnh (command) – chúng được nhận biết bởi những ai cần đến chúng và do đó có được sự đáp ứng mau lẹ bằng trực giác đối với chúng. Chúng không cần đến sự ép buộc mà là được chấp nhận một cách tự nguyện, và được đặt vào thử thách với niềm tin rằng bằng chứng của quá khứ và chứng tích của các thời đại biện minh cho nỗ lực cần có cho các đòi hỏi được biểu lộ. (CVĐĐ, 25)
NỘI DUNG CÁC QUY LUẬT HUYỀN THUẬT/ CHÁNH THUẬT
+ Mười lăm qui luật này được chia thành:
- Sáu qui luật trên cõi trí (Từ quy luật 1 - 6).
- Năm qui luật trên cõi cảm dục.
- Bốn qui luật trên cõi trần.
=> Tư tưởng chính cần được giữ rõ ràng trong trí là các qui luật này tự giới hạn chính chúng vào việc sử dụng năng lượng trong ba cõi thấp, và rằng năng lượng này hoặc là được vận dụng một cách hữu thức bởi linh hồn đang chi phối, hoặc là bị cuốn vào hoạt động bởi mãnh lực vốn có trong vật chất của ba cõi thấp, độc lập với linh hồn. Khi xảy ra trường hợp này, con người là một nạn nhân của các năng lượng thuộc về sắc tướng (form energies) của riêng y và khía cạnh vật chất của toàn cuộc biểu lộ. Trong trường hợp kia, con người là chủ thể cai quản sáng suốt, kẻ điều khiển các vận mệnh riêng của mình, đưa các năng lượng thấp vào các hình hài và các hoạt động nhờ sức mạnh của các xung lực trí tuệ của mình, và sự tập trung chú ý của chính linh hồn y. Trong sáu qui luật đã được xem xét, một hoặc hai ý tưởng nổi lên rõ ràng nhất và có thể được tóm tắt trong các thuật ngữ sau đây:
Qui luật 1 – Ký ức, đưa đến định trí.
Qui luật 2 – Sự đáp ứng, dẫn đến một sự tương tác giữa cái cao với cái thấp.
Qui luật 3 – Sự phát xạ, dẫn đến việc phát ra âm thanh.
Qui luật 4 – Sự hô hấp, dẫn đến công việc sáng tạo.
Qui luật 5 – Sự tái hợp nhất, đưa đến sự nhất quán.
Qui luật 6 – Sự tái định hướng, dẫn đến linh thị rõ rệt về Thiên Cơ (the Plan).
Các đạo sinh cần xem xét kỹ mối quan hệ này và tìm cho ra sự tổng hợp ẩn bên dưới. (LVHLT, 220)
+ Pháp môn Trung đạo Siêu vượt: Pháp Nhân duyên Hòa Hợp/ Chấp Có - Pháp tự nhiên/ Chấp Không, đều là Pháp hý luận - Hư giối không thật. Pháp Trung đạo/ Trung đạo liễu nghĩa - Pháp Chân thật/ Thật Pháp, là Pháp vừa không vừa có, không nghiêng về bên nào - Diệu hữu/ Như Lai Tạng/ Chân Như Phật tánh, là Pháp vượt lên trên Pháp Hý luận Có và Không.
- Lý tự nhiên - Lý Nhân duyên Hòa Hợp:
Phải không sanh diệt, mới gọi là tự nhiên. Như trong thế gian, các tướng hòa hợp với nhau thành một thể. Đó gọi là tánh hòa hợp.
Giảng giải:
Phải không sanh diệt, mới gọi là tự nhiên. Như trong thế gian, các tướng hòa hợp với nhau thành một thể. Đó gọi là tánh hòa hợp.
Nói rằng tự nhiên là đối nghịch với sanh diệt cũng như thể nói rằng tự nhiên là đối nghịch với các tướng hòa hợp trong thế gian thành một thể. Giống như nói rằng không hòa hợp là tự nhiên. Trong những thuật ngữ nầy, ‘tự nhiên’ là vẫn còn trong phạm trù nhị nguyên.
Cái chẳng phải hòa hợp thì gọi là tánh bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải là bản nhiên, hòa hợp chẳng phải là hòa hợp. Hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ, ngay cả cái rời bỏ đều chẳng phải. Câu nói nầy mới được gọi là pháp không hí luận.
Cái chẳng phải hòa hợp thì gọi là tánh bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải là bản nhiên, hòa hợp chẳng phải là hòa hợp. Hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ, ngay cả cái rời bỏ đều chẳng phải. Câu nói nầy mới được gọi là pháp không hí luận.
Giảng giải:
Cái chẳng phải hòa hợp thì gọi là tánh bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải là bản nhiên, hòa hợp chẳng phải là hòa hợp.
“Hòa hợp” là chỉ cho nhân duyên. Khi tự nhiên chẳng phải là tự nhiên và hòa hợp không có nhân duyên của hòa hợp, thế là hòa hợp và bản nhiên đều rời bỏ. Hai thuyết tự nhiên và hòa hợp đều được khiển trừ. Ngay cả cái rời bỏ đều chẳng phải. Khi tách rời hẳn nhân duyên và tự nhiên, thì còn nhân duyên và tự nhiên, cả hai pháp đều phải khiển trừ. Câu nói nầy mới được gọi là pháp không hí luận. Chẳng phải nhân duyên cũng chẳng phải tự nhiên. Đó mới là lời giải thích chân thực vì đó không phải là hí luận–đó không phải là lời nói để đánh đố. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q4 - Chương III - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Pháp Nhân duyên Hòa Hợp (Chấp vào có) và Pháp Tự nhiên (Chấp vào không) đều là Hư vọng - Pháp Không thật
- Ngài A Nan hỏi Phật: Vì sao Như Lai bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên tự nhiên? Nay con không biết nghĩa đó như thế nào?
Giảng: "Bạch đức Thế tôn, ngài đã nói rằng mọi thứ trên thế gian đều được sinh ra và tạo thành do nhân duyên hòa hợp của tứ đại. Tại sao bây giờ Thế tôn nói rằng nhân duyên, tự nhiên đều là sai lầm?" Sự cố chấp của A-nan thật là sâu nặng. Trước đây ông đã được nghe Đức Phật giảng giải về lý nhân duyên và tự nhiên. Cơ bản đó là giáo lý quyền thừa, pháp phương tiện, là phương tiện thiện xảo; pháp ấy chưa phải là pháp chân thật. Bây giờ Đức Phật mới giảng giải pháp môn chân thật, mà A-nan lại chẳng dám tin. A-nan đã tin chắc vào pháp môn phương tiện Đức Phật đã giảng trước đây, đến nỗi bây giờ A-nan phải nghi ngờ cả pháp chân thật. Nên A-nan hỏi, "Vì sao Như Lai bác bỏ cả hai nghĩa nhân duyên tự nhiên? Bạch Thế tôn, ngài vừa phê phán lý nhân duyên và tự nhiên, và tuyên bố rằng thuyết ấy sai lầm. Vậy có mâu thuẫn với chính lời của Như Lai chăng? Ngài đang phá hủy đạo lý do chính ngài đã lập ra. Ngài đang bác bỏ tiền đề do chính ngài đã nêu ra. Nay con không biết nghĩa đó như thế nào? Bây giờ con không hiểu nghĩa nầy như thế nào. Nghĩa ấy thuộc về pháp môn gì? Con thật chưa hiểu ra."
- Xin Thế tôn rủ lòng thường xót, chỉ bày cho chúng sinh nghĩa rốt ráo Trung đạo, không còn các điều hí luận.
Giảng: Hý luận là Tất cả các pháp môn quyền thừa và lý thuyết của ngoại đạo đều được gọi là hí luận. Giáo pháp đang được giảng giải bây giờ, Thật pháp, được gọi là nghĩa rốt ráo của Trung đạo (Trung đạo liễu nghĩa). Trung đạo là không rơi vào không, chẳng rơi vào có. Thuyết tự nhiên của hàng ngoại đạo rơi vào chấp không. Thuyết nhân duyên lại thuộc về có. Bây giờ cái chẳng không chẳng có đã được giải nghĩa; đó là nghĩa rốt ráo của Trung đạo, là pháp môn vượt qua mọi hí luận. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ LN - Q3 - Chương III)
+ Vài điều về Thuật Dưỡng Sinh:
81. Con người chỉ khi ngộ ra được cái gì là “tự nhiên”, mới được coi là đắc đạo. Biết được tự nhiên, sau đó mới có thể tùy kỳ tự nhiên. người này chính là Thần nhân. Hiểu được âm dương, hiểu được tùy kỳ tự nhiên, bạn nhất định sẽ trở thành lương y đại đức.
82. Cái gì là tự nhiên, tự nhiên chính là bất kỳ sự vật gì đều có hai mặt âm dương, bất kỳ sự vật nào đều cần trải qua quá trình Sinh (sinh sản), Trưởng (tăng trưởng), Thu (thu hoạch), Tàng (tàng trữ). Bạn thuận theo quá trình này, sử dụng nguyên lý tương sinh tương khắc của ngũ hành để điều tiết sự cân bằng của bệnh nhân, làm sao mà không trị được khỏi bệnh chứ.
86. Đạo về âm dương chính là sự tương hỗ dựa vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau của hai phương diện mâu thuẫn đối lập. Bất kỳ một cặp mâu thuẫn nào, nếu một bên thoát ly khỏi bên kia, không còn chịu sự ức chế của đối phương nữa, thì thời điểm mà nó bị diệt vong cũng không còn xa. Bạn thử nhìn xem, xã hội ngày nay, các lãnh đạo đều không thích bị khống chế, thích được độc lập tự do, thích làm theo ý mình, tham ô hối lộ, thế thì kết quả là gì đều có thể tưởng tượng ra được. Âm và dương chính là như thế. Trong đại tự nhiên, khi một sự vật xuất hiện, đều có mang theo nhân tố do nó sinh ra, nhưng đồng thời cũng sẽ xuất hiện một nhân tố để khắc chế nó. Đó chính là đạo lý ngũ hành tương sinh tương khắc, cũng là đạo lý dựa vào nhau, ức chế lẫn nhau của âm dương. Cho nên đạo lý dưỡng sinh cũng vậy, khi bạn bị bệnh, luôn tồn tại một nhân tố khiến bạn sinh bệnh, đồng thời cũng sẽ có một nhân tố ức chế nó, có thể giúp bạn tiêu trừ nhân tố gây bệnh. Tương tự như thế trong thế giới tự nhiên, tại chỗ có tồn tại rắn độc, chắc chắn khu vực xung quanh sẽ có tồn tại loại thảo dược có thể giải độc. Cụ thể, xem các Danh Y cổ đã để lại các lời dậy: Tổng hợp các Lời dậy Danh Y Cổ
NỘI DUNG CÁC QUY LUẬT HUYỀN THUẬT/ CHÁNH THUẬT
+ Mười lăm qui luật này được chia thành:
- Sáu qui luật trên cõi trí (Từ quy luật 1 - 6).
- Năm qui luật trên cõi cảm dục.
- Bốn qui luật trên cõi trần.
=> Tư tưởng chính cần được giữ rõ ràng trong trí là các qui luật này tự giới hạn chính chúng vào việc sử dụng năng lượng trong ba cõi thấp, và rằng năng lượng này hoặc là được vận dụng một cách hữu thức bởi linh hồn đang chi phối, hoặc là bị cuốn vào hoạt động bởi mãnh lực vốn có trong vật chất của ba cõi thấp, độc lập với linh hồn. Khi xảy ra trường hợp này, con người là một nạn nhân của các năng lượng thuộc về sắc tướng (form energies) của riêng y và khía cạnh vật chất của toàn cuộc biểu lộ. Trong trường hợp kia, con người là chủ thể cai quản sáng suốt, kẻ điều khiển các vận mệnh riêng của mình, đưa các năng lượng thấp vào các hình hài và các hoạt động nhờ sức mạnh của các xung lực trí tuệ của mình, và sự tập trung chú ý của chính linh hồn y. Trong sáu qui luật đã được xem xét, một hoặc hai ý tưởng nổi lên rõ ràng nhất và có thể được tóm tắt trong các thuật ngữ sau đây:
Qui luật 1 – Ký ức, đưa đến định trí.
Qui luật 2 – Sự đáp ứng, dẫn đến một sự tương tác giữa cái cao với cái thấp.
Qui luật 3 – Sự phát xạ, dẫn đến việc phát ra âm thanh.
Qui luật 4 – Sự hô hấp, dẫn đến công việc sáng tạo.
Qui luật 5 – Sự tái hợp nhất, đưa đến sự nhất quán.
Qui luật 6 – Sự tái định hướng, dẫn đến linh thị rõ rệt về Thiên Cơ (the Plan).
Các đạo sinh cần xem xét kỹ mối quan hệ này và tìm cho ra sự tổng hợp ẩn bên dưới. (LVHLT, 220)
Mục lục Trang Bản Anh / Việt
Các Qui Luật dành cho Huyền Thuật ................................ 10
Các Nhận xét dẫn nhập ....................................................... 3 14
Ba Trạng Thái của Con Người ........................................... 18 32
1. Qui Luật Một
Vài giả thuyết căn bản ......................................................... 53 74
Con Đường của người đệ tử .............................................. 60 83
2. Qui Luật Hai
Các chướng ngại đối với việc khảo cứu huyền bí học .... 73 98
Việc khắc phục các trở ngại ................................................ 84 112
3. Qui Luật Ba
Ánh sáng linh hồn và ánh sáng thể xác ............................ 93 122
Các nguyên lý và các phàm ngã ........................................ 109 142
4. Qui Luật Bốn
Công việc sáng tạo của âm thanh ...................................... 125 159
Khoa học về hơi thở ............................................................. 149 188
5. Qui Luật Năm
Linh hồn và các hình-tư-tưởng của nó ............................. 157 196
Tim, Cổ Họng và Mắt .......................................................... 189 235
Việc khơi hoạt các bí huyệt ................................................ 200 248
6. Qui Luật Sáu
Hoạt động của Mắt .............................................................. 211 260
+ Tóm lược 6 Quy luật trên: Chúng ta đã hoàn tất sáu Qui Luật đầu tiên, chúng vốn đặc biệt bàn đến công việc trên cõi trí, và do đó chỉ có một giá trị thực tế đối với những người đang bắt đầu vận dụng sức mạnh của thể trí trong công việc huyền thuật về sáng-tạo.(LVHLT, 219)
7. Qui Luật Bảy
Bãi chiến trường của cõi cảm dục ...................................... 219 269
Hai con đường ...................................................................... 226 277
8. Qui Luật Tám
Các loại lực cảm dục ............................................................ 235 287
Sự thăng trầm theo chu kỳ ................................................. 242 296
9. Qui Luật Chín
Sự cần thiết của thanh khiết ............................................... 257 311
Các hình thức căn bản ......................................................... 261 317
10. Qui Luật Mười
Việc kiến tạo hình tư tưởng ................................................ 273 328
Các bí huyệt , các năng lượng và các cung ....................... 281 338
Năng lượng cảm dục và sự sợ hãi ..................................... 293 352
Việc sử dụng đúng đắn năng lượng ................................. 311 374
Kỷ nguyên hiện tại và tương lai ........................................ 321 386
Việc thành lập Thánh Đoàn ................................................ 374 452
Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian .............................. 398 481
Chiêm Tinh Học và các Năng Lượng ............................... 434 525
11. Qui Luật Mười Một
Phân tích ba câu ................................................................... 447 539
Việc giải cứu khỏi các hình tư tưởng của chúng ta ......... 481 580
Việc giải cứu khỏi sự chết ................................................... 492 594
12. Qui Luật Mười Hai
Buổi Giao thời và các chu kỳ .............................................. 511 614
Các tù nhân của hành tinh .................................................. 521 626
13. Qui Luật Mười Ba
Các Tứ Nguyên được nhận biết ......................................... 541 649
Sự kết tụ của các hình tư tưởng ......................................... 552 663
14. Qui Luật Mười Bốn
Các Trung Tâm Lực và Prana ............................................ 565 676
Công dụng của đôi tay ........................................................ 575 687
Việc đặt chân lên Thánh Đạo ............................................. 581 695
Việc khơi hoạt các bí huyệt ................................................ 587 702
15. Qui Luật Mười Lăm
Ý nghĩa huyền bí .................................................................. 601 716
Sự phủ định đại hão huyền ................................................ 611 729
Một lời kêu gọi phụng sự ................................................... 618 737
Các nhóm và việc huấn luyện trong Kỷ Nguyên Mới..... 632 754
+ Sách Kinh dịch: Là đạo Của Người Quân Tử - Thánh nhân đều học hiểu thấu Kinh dịch
- Ngũ Thường: Nhân - Nghĩa - lễ - Trí - Tín
- Ngũ luân: Đạo ứng sử trong và ngoài xã hội như Cha con - Anh em - Chủ tớ - Vua tôi - Thầy trò
- Ngũ Giới: Không gây tổn hại - Không trộm cắp - Không tà dâm - Chân thật - Không Tham lam
*Làm lành lánh giữ: Có được các Nhân lành này thì kiếp sau có cơ được sinh vào cõi người, tránh được ba đường ác.
+ Học Kinh dịch "Cùng lý tận tánh": Cùng lý tận tánh: Đây là một câu được trích ra từ Kinh Dịch. “Cùng lý tận tánh để thấu đạt vận mạng”. Quốc sư Thanh Lương là một người rất có công phu nghiên cứu Kinh Dịch. Bài tựa của kinh này (Kinh Hoa Nghiêm) văn từ rất súc tích, đa phần được trích từ Kinh Dịch. Cùng lý – cùng ở đây nghĩa là không còn gì nữa, lý là diệu lý, chính là đã thấu tột cái lý huyền diệu rồi, lại không còn một cái huyền diệu nào có thể sánh với nó được nữa. Tận tánh – Tận cũng là sạch hết, không còn gì nữa, tánh cũng tận đến cực điểm. Thế nào gọi là tận tánh? Thấu tánh người, tỏ tánh mình và cho đến tánh của vạn vật.
Thế nào gọi là thấu tánh người? Thí như có một người, anh ta rất thích leo núi, ưa lên núi dạo chơi; nhưng người kia lại thích bơi lội, thích đến những nơi có ao hồ để du ngoạn, một người khác nữa lại thích ngồi thiền, mỗi người đều có mỗi sở thích, quý vị biết rõ điều đó nên gọi là thấu tánh người.
Tỏ tánh người, còn phải tỏ được tánh mình. Mình đã biết người ta đồng thời phải hiểu rõ mình là người như thế nào. “Có phải mình chẳng có chút định lực nào không? Có phải mình chẳng có chút trí huệ nào không? Có phải suốt ngày mình luôn muốn nổi nóng bực bội không? Kỳ lạ! Ai bảo ta bực bội? Là nghĩa lý gì? Cái bực bội kia từ đâu mà có? A! Hóa ra là do vô minh của mình quá nặng thôi!”. Khi quý vị hiểu rõ lý lẽ này thì chính là đã tận tánh của mình. Đã biết mình rồi thì đừng có xấu như vậy nữa, mà phải bước đi trên con đường tốt hơn. Đó là mình đã tự làm tham mưu cho chính mình, mình làm cố vấn cho mình vậy.
Thế thì tánh người cũng biết, tánh mình cũng rõ, lại phải biết tánh muôn vật. Tách trà cũng là một vật, là dùng để uống trà; lò hương cũng là vật, là dùng để đốt hương. Mỗi thứ đều có công dụng, mỗi thứ đều có sở trường, mình biết rõ công dụng của chúng nên gọi là biết hết tính chất của từng sự vật. Từ đó chiêm nghiệm tường tận tánh mình, tánh người và sự vật, đây gọi là cùng lý tận tánh. => Cần đọc thêm lời giảng kinh này để hiểu thấu tỏ Kinh dịch ...
“Di Luân” cũng là một từ được trích từ Kinh Dịch. Trong Kinh Dịch nói “Thay đổi để cho hợp với quy luật của trời đất, cho nên mới có thể phát triển đạo của trời đất” (Dịch dữ thiên địa chuẩn, cố năng di luân thiên địa chi đạo). Đây chính là ý muốn nói Thánh nhơn tạo ra “Sự thay đổi (Dịch)” cho phù hợp với quy luật của tạo hóa. Cho nên đạo lý này là “Di Luân”. Di Luân cũng có nghĩa là “bao la trùm khắp”. Trùm khắp thì không chừa chỗ nào, không có chỗ nào không tới; bao la nghĩa là bao la vạn hữu, tất cả sum la vạn tượng đều được bao bọc ở trong đó. Cho nên nói là Di Luân.(Nguồn: Kinh Hoa Nghiêm - HTTH giảng)
+ Học Kinh dịch: Chính văn Kinh dịch, tức là gồm cả: vạch quẻ của Phục Hy, lời quẻ của Văn Vương, lời hào của Chu Công, và Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết quái, Tự quái và Tạp quái của Khổng Tử.
Tính của các quẻ và các hào - Tám quẻ đơn, mỗi quẻ đều có tính riêng, đại khái, tính Kiền thì mạnh, tính Khôn thì thuận, tính Chấn thì động, tính Tốn là nhún, tính Cấn hay đậu, tính Đoái hay đẹp lòng, tính Ly có khi thì sáng, có khi là trống rỗng, tính Khảm có khi là hiểm, có khi là dầy đặc. Vậy ở sách này, nói mạnh là chỉ về Kiền, nói thuận là chỉ về Khôn, nói động là chỉ về Chấn, nói nhún là chỉ về Tốn, nói đậu là chỉ về Cấn, nói đẹp lòng là chỉ về Đoái, nói sáng hay trống rỗng là chỉ về Ly, nói hiểm hay dày đặc là chỉ về Khảm - Còn hào, thì hào Dương tất nhiên cứng mạnh thích động và hay đi lên, hào Âm tất nhiên mềm yếu thích tĩnh và hay đi xuống. Vậy ở sách này, nói cứng là chỉ về hào Dương, nói mềm là chỉ về hào Âm.
Thì là thời kỳ. Trong sáu mươi tư quẻ kép, mỗi quẻ là một thời kỳ. Ví như quẻ Thái tức là thời kỳ hanh thái, quẻ Bĩ tức là thời kỳ bế tắc, v.v… Trong mỗi quẻ, hào Đầu là đầu thời kỳ, hào Trên là cuối thời kỳ, còn các hào giữa, cố nhiên là giữa thời kỳ. Đó là nói về đại khái, chính ra một quẻ có khi không chỉ về một thời kỳ mà chỉ về một công cuộc
Ngôi là thứ tự của các hào. Mỗi quẻ sáu hào, tức là sáu ngôi. Theo lời chú thích của Tiên nho, nhất là lời chú thích của Trình Di và Chu Hy, thì trong một quẻ, hào Đầu là ngôi thứ dân, hào Hai là ngôi tư mục, hào Ba là ngôi quan Khanh, quan Đại phu, hào Tư là ngôi đại thần, hào Năm là ngôi vua, hào Trên là ngôi các vị lão thành. Đây cũng là nói đại khái mà thôi, không phải các quẻ đều đúng lệ đó.
Người là bản thân kẻ xem bói, nói rộng ra thì là bản thân kẻ ở địa vị nào, trong thời kỳ nào, ví như hào Đầu quẻ Bĩ tức là thứ dân trong đời bĩ tắc, hào Năm quẻ Thái thì ông vua trong đời hanh thái v.v…
Tượng và Chiêm - Theo ý Chu Hy, một hào thường làm hai thứ, là Tượng và Chiêm. Tượng là hình tượng. Chiêm là lời đoán. Ví như hào Chín Đầu của quẻ Kiền có câu: “rồng lặn chớ dùng”, thì “rồng lặn” là tượng, vì Kiền là tượng con rồng, mà ngôi Đầu là chỗ rất thấp, tức là tượng của sự lặn; “chớ dùng” là Chiêm, vì nó là lời khuyên bảo người ta. Tượng thì tùy quẻ tùy hào mà hình dung ra, không có nhất định. Còn Chiêm đại để chia làm hai loại, hay dở. Về mặt hay, hay nhất là nguyên cát (cả tốt) đến cát hanh (tốt và hanh thông), đến cát (tốt), đến hanh (hanh thông), đến lợi (lợi về sự gi), đến vô hối (không ăn năn), đến vô cữu (không lỗi); về mặt dở, dở nhất là hung (dữ), đến lệ (nguy), đến vô du lợi (không lợi về sự gì), đến lận (đáng thẹn tiếc), đến hữu cữu (có lỗi), đến hữu hối (có ăn năn). Đem tính chất của lời Chiêm mà phân tích ra, thì thay nặng nhẹ khác nhau như vậy. Trong sáu tư quẻ, ba trăm tám mươi tư hào, nhiều hào có Tượng mà không có Chiêm, cũng nhiều hào mà có Chiêm mà không có Tượng, không phải hào nào cũng đủ cả hai thứ đó
Trong bản Dịch này, những chỗ Dịch các lời kinh, nhiều khi dùng những tiếng cổ, ví như tiếng “thửa” tiếng “chưng”, tiếng “hay”, tiếng “khá” v.v… Nhưng cái khó hiểu của Kinh dịch, không tại ý tứ sâu xa, chỉ tại lời văn chủng chẳng rời rã, ngớ ngẩn đột ngột, giống như lời nói của bọn đồng cốt, không đầu đuôi, không mạch lạc, có chỗ lại không đúng với văn pháp nữa.
Thửa: Chữ thửa có hai nghĩa: Khi nào đứng trên một động từ (verbe), thì nó thuộc về xưng đại danh từ (Pronom personnel), giống như chữ 所 (sở) ở chữ Nho; nghĩa là: a) cái mà, khi nói về việc hay vật; b) kẻ mà, khi nói về người. Thí dụ: Anh thửa làm, tức là cái mà anh làm; không thửa lợi, tức là không cái gì mà lợi; nó thửa ghét, tức là kẻ mà nó ghét v.v… Khi nào đứng trên một danh từ (nom), thì nó thuộc về chỉ thuộc tính từ (adjectif possessif), giống như chữ 其 (kỳ) ở chữ Nho, có thể dùng cả ba ngôi, nhưng thường thường hay dùng về ngôi thứ ba, nghĩa là nó, hay là người… của nó hay của người. Thí dụ: “thửa công đức ấy ai bằng”, tức là công đức ấy của nó, ai bằng
Chưng: Chữ chưng có hai nghĩa, đều thuộc về giới từ (préposition), và đều dùng để làm cho tiếng nọ liên lạc với tiếng kia.
Khi nào đứng ở đầu câu, thì nó giống như chữ 之 (chi) ở chữ Nho, chỉ để làm cho lọn nghĩa cái tiếng đứng ở dưới nó. Thí dụ “chưng kiếp nhân sinh đã thỏa”. Nhưng nghĩa này ít dùng lắm. Khi nào đứng dưới một động từ, thì nó giống như chữ 於 (ư) chü 于 (vu) ở chữ Nho nghĩa là ở. Thí dụ: Đi chưng đường, tức là đi ở đường; ngủ chưng nhà, tức là ngủ ở nhà.
Hay: Có khi là biết, thí dụ: Chẳng hay nàng ở nơi nao, tức là chẳng biết nàng ở nơi nào; có khi là được. Thí dụ: chẳng hay giữ, tức là chẳng giữ được.
Khá: có khi là có thể, thí dụ: Việc này khá làm, tức là việc này có thể làm; có khi là đáng, thí dụ: chuyện đó khá tiếc, tức là chuyện đó đáng tiếc.
Cho nên Kiền dùng để chia, Khôn dùng để hợp, Chấn dùng để làm cho lớn lên, Tốn dùng để làm cho tiêu đi. Lớn thì phải chia, chia thì phải tiêu, tiêu thì phải hợp.
Đáp rằng: “Đó chỉ là lời Thoán, cho nên Khổng Tử có nói: ”Bậc trí giả xem trong lời Thoán, thì đã nghĩ được quá nửa”. Ví như: (nguyên hanh lợi trình) là lời của Văn Vương đèo ở dưới quẻ để biết sự lành dữ của một quẻ. Trong sách Âm ngữ của họ Lục gọi là “kinh Thoán”. Từ chữ (Đại tai kiền nguyên) trở xuống là lời của Khổng Tử thích kinh, cũng gọi là Thoán, và vẫn bảo là Thoán truyện. Còn những lời ở dưới hào như câu (Tiềm long vật dụng), thì là lời của Chu Công đèo vào để đoán sự lành dữ của một hào; những câu (Thiên hành kiện quân tử dĩ tự cường bất tức) vẫn gọi là truyện Đại tượng; những câu (Tiềm long, vật dụng. Dương tại hạ dã) vẫn gọi là truyện tiểu tượng, đều là lời của Khổng Tử làm ra
Kinh Dịch chỉ cho người ta bói toán để quyết định sự nghi hoặc. Nếu theo đạo lý nên làm, vẫn là cứ làm; nếu theo đạo lý mà không nên làm, tự nhiên không thể làm được; thế thì cần gì mà còn phải xem? Là vì có khi cùng trong một việc mà hoặc là lành hoặc là dữ, hay là có thể xử trí hai cách khác nhau. Bởi vậy không thể không xem.
Xem kinh dịch: Nghĩa là ngay thẳng chính đính thì lợi, không ngay thẳng chính đính thi không lợi (tr, 70)
Xem Kinh Dịch phải bốn ngày xem một quẻ - một ngày xem lời quẻ và lời Thoán lời Tượng, hai ngày xem sáu hào; và một ngày xem gồm tất cả - mới tinh tường.
Hòa Tĩnh học Kinh Dịch, mỗi ngày chỉ xem một hào. Nhưng, sự vật đó kết thành một mảnh, hễ động thì động cả mảnh, xem riêng từng hào sao được? (tr, 74)
Lại nữa, người ta cần phải từng trải rất nhiều sự biến đổi ở gầm trời, thì đọc Kinh Dịch mới biết mỗi chỗ đều có một lẽ tinh vi ngay thẳng. Nay đã chưa từng trải hết, nếu như trong lòng không thực trống rỗng, sáng sủa, êm ả yên lặng thì còn hiểu làm sao được? Cái đó tự mình không thể không gắng… Nay chưa từng trải nhiều việc, gom góp đạo lý của nó chưa được, đã đọc Kinh Dịch, rút lại vẫn không được chỗ thụ dụng của nó. Khổng Tử về già mà thích Kinh Dịch, rút lại vẫn không được chỗ thụ dụng của nó. Khổng Tử về già mà thích Kinh Dịch, đủ thấy sách này, rút lại chưa thể lý hội. (Trích Kinh dịch - Ngô Tất Tố)
+ Vòng Tiến hóa Thuận - Nghịch (CTHNM, 382): Trên vòng thuận chiều kim đồng hồ: Từ Aries đến Taurus, xuyên qua Pisces. Dành cho nhân loại thông thường. Trên Vòng Xoay Ngược Chiều: Aries đến Pisces, xuyên qua Taurus. Dành cho Đệ Tử và Điểm Đạo Đồ.
+ Tiến Hóa 2 giai đoạn (CTHNM, 64) :
- Giai đoạn 1 - Thuận chiều - Nhân loại hiện nay - Chiều Vật chất: Cung Thái Dương (Mặt Trời) Chi phối con người (Phàm Ngã), con người dần dần thích hợp để sau đó đáp ứng với Linh Hồn.
- Giai đoạn 2 - Đảo nghịch - Đệ tử, Điểm đạo đồ - Tâm Linh - Thăng Thượng: Sự đáp ứng của Phàm ngã ngày càng tăng với các năng lượng, bị che dấu bởi Cung mệnh (Cung Mọc). Các năng lượng đó tạo ra điều bất ngờ và gây ra việc thúc đẩy diễn trình tiến hóa và việc khai mở sự sống nội tâm. ... Qua hiệu ứng của năng lượng tuôn đổ từ các Cung Hoàng Đạo, con người được chuẩn bị cho BƯỚC NGOẶT VỀ ĐỊNH HƯỚNG, trong đó con người từ từ và dần dần ĐẢO NGƯỢC CÁCH THỨC TIẾN BỘ DƯA TRÊN VÒNG SINH HÓA (Lúc bấy giờ, Y đi từ Dương Cưu đến Song Ngư xuyên qua Kim Ngưu, Hổ Cáp, Ma Kết thay vì chuyển từ Dương Cưu đến Kim Ngưu xuyên qua Nhân Mã, Hải Sư, Bắc Giải. Bộ 3 của các Chòm sao nói trên trong 2 lộ trình lớn này chung quanh Hoàng Đạo có một hiệu quả rõ rệt và quan trọng(Gọi là Cung có ảnh hưởng tối thượng). Trong tiến trình này, nguyên khí trí tuệ (Thể Trí) biết phân biện .....
+ Cung quản tiền tài: Cung Thiên Bình - Libra là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này. Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Nghiên cứu thật kỹ hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn (Xem thêm về Tam giác lực với Libra ở đỉnh; CTHNM, 275)
+ Gây dựng tiền tài: ... Thế thì vấn đề làm giàu như thế nào, ta hãy nghe Phật dạy trong Kinh Tăng Chi Bộ như sau:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại khu vườn ông Anàthapindika. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến, sau khi đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika:
– Này gia chủ, có năm lý do để gầy dựng tài sản.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh của bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi, thâu được một cách hợp pháp. Tự mình làm an lạc, hoan hỷ. Làm cho cha mẹ, vợ con, người phục vụ, người làm công được an lạc, hoan hỷ. Đây là lý do thứ nhất để gây dựng tài sản.
Thứ hai ...…Vị này làm cho bạn bè, thân hữu an lạc, hoan hỷ.
Thứ ba ...... Các tai họa để trở thành trắng tay bị chặn đứng và vị ấy giữ tài sản được an toàn cho vị ấy.
Thứ tư .......Vị ấy có thể hiến cúng cho bà con, cho khách, cho hương linh đã chết; hiến cúng cho vua và chư Thiên.
Thứ năm ....Vị ấy tổ chức cúng dường các vị Sa Môn, Bà La Môn. Sự cúng dường tối thượng này đưa đến phước báu vô lượng ở cõi người, cõi trời.
Làm giàu như Phật dạy còn có ý nghĩa tạo sự hoan hỷ cho mọi người từ gia đình đến xã hội, đó là cách làm giàu mang tính âm đức của người con Phật. Làm giàu không có tội mà chỉ có tội khi làm giàu bất chính, gây khổ đau cho mình cho người, cho mọi chúng sanh. Làm giàu chân chính vẫn là điều mà Đức Phật khuyến khích và tán thán chúng ta. (Nguồn: Phật dậy về làm giầu)
+ Gieo nghiệp vượng tài: Theo Kinh Ma Ý. Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: có 5 việc bố thí được phước báu lớn:
1. Tạo lập vườn tược (để trồng trọt),
2. Trồng cây bên đường (làm lâm nghiệp)
3. Tạo tác cầu cống (thuỷ lợi & giao thông)
4. Đóng thuyền to (để cứu hộ và phòng thiên tai),
5. Vì người sẽ đến mà xây cất chỗ ở (lo an cư cho dân)
* Người muốn kinh doanh có thành tựu, cần hội đủ các nhân duyên, trong đó Nhân lành về tiền tài quyết định sự thành bại khi đầu tư kinh doanh. Mời đọc bài viết Phát triển sự nghiệp - Kinh doanh giầu có
+ Tăng trưởng tài vật - Cầu tiền tài - Cầu gì được ấy. Đại Cát Tường Thiên Nữ
..... Bạch đức Thế tôn, ai trì tụng minh chú này để triệu thỉnh con, thì con nghe là đến ngay chỗ người ấy để làm cho họ toại nguyện. Bạch đức Thế tôn, minh chú này là câu chữ của đại pháp quán đảnh, câu chữ của đại định thành tựu, câu chữ tối chân thật, câu chữ không dối trá, là việc làm bình đẳng, là thiện căn chính yếu đối với chúng sinh. Thọ trì đọc tụng minh chú này thì phải bảy ngày đêm thọ giới Bát quan trai, mỗi buổi sáng sớm đánh răng súc miệng sạch sẽ rồi, sau lúc quá trưa (83) thì hiến cúng hương hoa lên chư vị Thế tôn, phát lộ tội lỗi của mình. Hãy vì bản thân và vì chúng sinh mà hồi hướng, phát nguyện. Như thế mới làm cho hy vọng mau thành tựu. Hãy dọn sạch một cái phòng, hoặc ở chỗ trống vắng, hoặc ở chỗ lan nhã, dùng cù ma mà làm đàn tràng, đốt đàn hương mà hiến cúng. Hãy đặt một cái ghế đặc biệt, trang hoàng tràng phan, lọng dù. Hãy dùng bông hoa danh tiếng mà sắp ra trong đàn tràng. Rồi chí tâm tụng trì minh chú đã nói ở trên, mong ước con đến. Lúc này con tức khắc nghĩ đến người ấy, quan sát người ấy, và đến trong đàn tràng, ngồi nơi cái ghế đặc biệt, nhận sự hiến cúng của người ấy. Từ đó về sau, con làm cho người ấy được mộng thấy con. Người ấy cầu gì thì cứ nói thật. Thì dầu ở trong làng xóm, ở cạnh đầm chằm, hay ở trong trú xứ chư tăng, cầu gì cũng thỏa. Bạc vàng, tài sản, gia súc, thóc lúa, ẩm thực, y phục, đều tùy tâm ước muốn mà hưởng thụ lạc thú. Nhưng được sự linh nghiệm rồi, trước hết phải đem phần thượng hạng mà hiến cúng Tam bảo, hồi thí cho con. Hãy làm pháp hội lớn, thiết ẩm thực và bày hoa hương. Hiến cúng rồi thì cúng phẩm đem bán đi, lấy tiền mà hiến cúng nữa. Trọn đời người ấy con thường ở bên cạnh, giúp cho người ấy không thiếu thứ gì, cầu gì cũng thỏa. Nhưng cũng phải thường xuyên chu cấp cho người nghèo thiếu, không được tiếc lẫn, chỉ vị bản thân. Lại thường đọc tụng kinh này, hiến cúng không ngớt. Phải đem cái phước này phổ thí tất cả mà hồi hướng bồ đề, nguyện vượt sinh tử mà giải thoát mau chóng.
Bấy giờ đức Thế tôn tán dương, rằng lành thay Đại cát tường thiên nữ. Thiên nữ có thể quảng bá kinh này như vậy. Thì thật bất khả tư nghị, lợi ích cho cả bản thân và tha nhân. (Nguồn: Tăng trưởng tài vật - Kinh Kim Quang Minh)
+ 603. TAI HỌA CỦA DỤC - CỦA TIỀN TÀI GIẦU CÓ
Thế nào là tai họa của dục? Một thiện gia nam tử, tùy kỹ thuật riêng mà tự mưu sinh; hoặc làm ruộng, hoặc buôn bán, hoặc học sách, hoặc giỏi toán thuật, biết công số, khéo in khắc, làm văn chương, tạo thủ bút, hoặc hiểu kinh thơ, hoặc làm võ tướng, hoặc phụng sự vua. Người ấy khi gặp lạnh phải chịu lạnh, gặp nóng phải chịu nóng, bị đói khát nhọc mệt, bị muỗi mòng châm chích; nó phải làm nghề nghiệp như thế để mong kiếm được tiền của.
Thiện nam tử bằng những phương tiện như thế, làm các công việc như vậy để mong cầu như vậy, nếu không kiếm được tiền của thì sinh khổ sở, lo buồn rầu rĩ, tâm thành si dại, nói rằng ‘Luống công làm lụng khổ nhọc vô ích mà những điều mong cầu không có kết quả’. Trái lại, thiện nam tử ấy bằng những phương tiện như vậy để mong cầu như vậy, nếu kiếm được tiền của nó sanh yêu quý, giữ gìn, chôn giấu.
Vì sao vậy? Nó nghĩ: ‘Tài vật này của ta, đừng để cho vua đoạt, giặc cướp, lửa thiêu, hư hại, mất mát, hoặc xuất tài mà vô lợi, hoặc làm việc mà không thành tựu’. Kẻ đó giữ gìn, chôn giấu như vậy nhưng nếu rủi bị vua đoạt, hoặc giặc cướp, lửa thiêu hư hại mất thì sinh khổ sở, lo buồn rầu rĩ, tâm thành si ám, nói rằng: ‘Vật ta yêu quý, nhớ nghĩ suốt đêm ngày, nay đã không còn’. Đó là những nỗi thống khổ ở đời này, nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc. (Trung A Hàm, Kinh Khổ Ấm, Phẩm 9, số 100)
+ Bí quyết - Xem Nhân phát tài: Đây là nói trong Số mạng có phước về tiền tài dày mỏng. Đây là điều kiện tiên quyết CẦN PHẢI XÉT để quyết định người đó giầu có hay nghèo khó. Người có Phước sâu dày thì có thể kinh doanh làm giầu. Phước này là Quả báo của việc tiền kiếp họ đã hành bố thí tiền tài cứu giúp chúng sinh, nên trong kiếp tái sanh này họ sinh ra để thụ hưởng Quả báo phát tài. Tuy nhiên, tùy theo loại phước điền mà họ sẽ nhận loại Quả báo phát tài tương ứng. Ví dụ, họ phát tài trong nghề nghiệp, họ luôn có việc làm ổn định và có tiền lương cao thấp. Hoặc có loại Quả báo mà họ có thể khởi nghiệp kinh doanh hoặc đầu tư buôn bán kiếm lời. Phước điền đa dạng thì như nguồn tiền tài phát từ nhiều nguồn. Tất nhiên, dù là ai thì vẫn phải tuân theo Định luật chu kỳ và tuần hoàn, tức là đều có Thời kỳ thịnh vượng xen lẫn suy vi, điều này không thể không hiểu biết. Vậy nên có câu HÃY TỰ BIẾT MÌNH.
* Xem Mệnh Vận biết Phước điền: Muốn biết trong Mạng có nghiệp phước nông sâu, thì xem qua Lá số sinh mệnh [Tứ trụ/ Bát tự] lập theo ngày giờ sinh của một người, qua đó có thể đoán biết Phước điền nông sâu, rộng hẹp, thiện ác ra sao, khi biết Thời thế khi nào phát tài mạnh yếu ra sao thì nên sắp sếp đời sống cho thật phù hợp Thế thời, giúp phòng chánh rủi do bị tán tài, phá sản, tù tội ... đó là nguồn cơ mang đến chia ly, phiền lão khổ đau, nợ lần, khuynh gia bại sản không đáng có do thiếu hiểu biết - Hành trái quy luật tự nhiên - Không lượng sức mình như Thánh hiền dạy.
* Vun bồi phước tài: Ai cũng nên sống Đoạn ác tu thiện, làm lành lánh dữ, thường hành thí cúng là để vun bồi tích phước đức, giúp Kho Tâm địa tích chứa thật nhiều Hạt giống, thì khi Thời cơ đến - Hội đủ Duyên lành khác phát lớn tiền tài dài lâu, bền vững hết kiếp này sang kiếp khác.
+ Bí nhiệm Cung - Cầu: Cuộc sống cá nhân sẽ được chuyển hóa nhờ tuân thủ định luật. . . Ví dụ như Định luật về Vật chất Cơ bản. Luật này đặt người đệ tử vào vị thế sử dụng kho tàng chung một cách khôn ngoan. Đó là việc vận dụng vật chất và cho nó thích nghi với các sức mạnh tương tác của cung và cầu. . . Đức tin mù quáng chỉ đúng với nhà thần bí, và là một trong các phương tiện để đi vào kho tàng Thiêng liêng này. Nhưng hiểu được phương pháp làm kho chứa này được cung cấp thêm mãi và hiểu được phương tiện nào để mang nguồn cung cấp dồi dào của Đấng Cha Lành đến cho nhu cầu của con cái Ngài, thì còn hay hơn nữa. Một trong những câu châm ngôn về cung và cầu là: Chỉ khi nào mức cung được sử [205] dụng một cách khéo léo cho các nhu cầu của người phụng sự và công việc phụng sự thì nguồn cung cấp ấy mới tiếp tục tuôn tràn vào. (Câu này tôi chọn cẩn thận từng từ). Bí quyết là: sử dụng, yêu cầu, nhận lấy. Chỉ khi nào cánh cửa mở ra do định luật cầu thì một cánh cửa khác cao hơn mới mở ra để cung tuôn vào. Trong luật vạn vật hấp dẫn có ẩn chứa bí mật này. Các bạn hãy suy ngẫm kỹ. (TTHM, 204)
+ Kiến thức liên quan Bí nhiệm:
1. Đạo Tâm và Dụng Tâm của người Thiện Trí giầu phước điền
2. Định Luật Cung cầu
3. Định luật về Vật chất cơ bản
4. Định luật vạn vật hấp dẫn
+ Tam giác kết tinh Tiền tài theo Chiêm tinh học
+ Kiến thức khoa học về Quản trị kinh doanh.
+ Bí nhiệm về sự kết tinh Tiền tài của người Đệ tử: Bí nhiệm Vàng
+ Nhiệt tâm buôn bán - Nhiệt tâm Tài: Lời Phật dạy về nhiệt tâm buôn bán. Ví như thời nay hiểu là người có Ham muốn kiếm tiền, làm giầu theo đúng chánh pháp. Tức cần phải Giác ngộ, hiểu thấu và tin sâu Luật nhân quả thông ba đời như đức Phật dạy là "Trồng Dưa được dưa, trồng Đậu được Đậu". Theo đó mà khi kinh doanh có lời lãi thì tùy duyên, lượng sức chăm chỉ hành Thí Cúng để tăng trưởng vun bồi nguồn Phước sâu dày, tin rằng cứ gieo hạt sẽ có thu hoạch], nên cần ghi nhớ và thật hành hàng ngày. Cụ thể xin trích Kinh văn như sau:
19.- Người Buôn Bán
- Thành tựu ba chi phần .... Người buôn bán, vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc => một người buôn bán không thâu nhận được tài sản chưa được thâu nhận và không tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận.
Thành tựu ba chi phần,... Người buôn bán, vào buổi sáng có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm chú vào công việc => một người buôn bán thâu nhận được tài sản chưa được thâu nhận và tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận.
20.- Người Buôn Bán
- Thành tựu với ba chi phần,.... Người buôn bán có mắt, khéo phấn đấu, xây dựng được cơ bản....
Người buôn bán có mắt: Biết các thương phẩm. Vật này mua như vậy, bán như vậy, sẽ đưa lại tiền như vậy, tiền lời như vậy.
Người buôn bán khéo phấn đấu: Người thương gia khéo léo mua và bán các thương phẩm.
Người thương gia xây dựng được căn bản: Người buôn bán được các gia chủ hay con các gia chủ, được các nhà giàu, có tiền bạc lớn, có tài sản lớn biết đến như sau: "Người buôn bán này là người có mắt, khéo phấn đấu, có đủ sức cấp dưỡng vợ con, và thường trả tiền lời cho chúng ta. Chúng ta trao hàng hóa cho người này: "Này bạn thương gia, hãy lấy tiền này, xây dựng tài sản để nuôi dưỡng vợ con và thường thường trả tiền lời cho chúng tôi". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán xây dựng do có cơ bản.
Thành tưụ với ba chi phần này, này các Tỷ kheo, người buôn bán, không bao lâu đạt dến tài sản lớn mạnh và rộng lớn. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba pháp)
+ Đệ tử Phật kinh doanh buôn bán: A-Nan thưa với Phật: Thế nào là thế gian sự? Thế nào là thế gian ý? Thật khó phân biệt.
Giảng: Tại sao có thẻ làm thế gian sự mà không có thế gian ý xen tạp chỉ huy? Để mọi người thấu rõ ý nghĩa, phân biệt việc làm, nên tôn giả A Nan lại bạch hỏi Phật lần nữa, để Phật minh xác giải thích tường tận.
Phật nói: Là đệ tử Phật có thể mua bán kinh doanh thương nghiệp, đúng cân đủ thước, không nên lừa dối, làm đúng tình lý, không trái lương tâm lý tánh tự nhiên, tống táng, hôn thú, di cư đều là thế gian sự.
Giảng: Thế gian sự thì vô số kể không thể nào nói hết. Ở đây đức Phật chỉ nêu vài việc làm thí dụ để giảng giải cho chúng ta hiểu rõ Phật pháp bất ly thế gian pháp. Phật pháp không trở ngại thế gian pháp. Thế gian pháp là điều mà chúng ta thường nhựt sinh hoạt, như ăn, uống, ngủ nghỉ, thân quyến bằng hữu, ân nghĩa giúp đỡ, hôn quan tang tế, mà hành giả công phu tu tập Phật pháp cũng sinh hoạt ở trong những sự vụ lớn nhỏ hằng ngày đó. Nhưng hành giả tu Phật có khác với kẻ thường tình là thấu rõ thế gian mộng huyễn, các pháp vô thường, nên thanh thản buông thả, khởi lòng vị tha phương tiện dùng giả hiển thật, lấy huyễn độ chân, nên ở trong đời làm việc đời mà không nhiễm đời. Như hoa sen trong bùn mà không dính mùi bùn hôi tanh. (Nguồn: KINH ANAN VẤN PHẬT SỰ CÁT HUNG - HT Tịnh Không giảng)
+ Lượng sức mình: Người Đầu tư - Kinh doanh - Buôn bán nên biết lượng sức mình. Có thể xem Mệnh Tứ trụ để biết Nhân Duyên Phúc phận về buôn bán để biết lượng sức, biết Thời thế để phòng rủi do, thất bại do thiếu hiểu biết. Nếu có nhiệt huyết mà thiếu phước phần thì nên gắng tu tạo phước chờ thời, không nên làm liều. Khổng Tử nói " Thời vận không thông mưu cầu vô ích là vậy. Mời đọc: Duyên Nghiệp vô phước thì buôn bán thất bại
+ Nhận Tư vấn kinh doanh qua xem Mệnh vận theo Tứ trụ: Nhân trắc học nhận Tư vấn xem Mệnh Vận theo Tứ trụ để biết về nhân duyên phúc phần trong đầu tư, kinh doanh, giúp lượng sức mình để không bị khổ đau vì làm liều do thiếu hiểu biết về nhân quả tạo phước nên kết quả kinh doanh không thể thành tựu thì đại bất hạnh là hiển nhiên.
* Xin liên hệ Mr Hương: 0964 759 686;
+ Kiến thức liên quan Bí quyết phát tài bền vững:
- Biết tiếc phước - Chánh gây tạo các nghiệp làm hao tài bại gia sản: Các nghiệp phá tài - Tổn phúc
- Chăm chỉ hành thí cúng theo khả năng để vun bồi phước đức ngày càng sâu dày: Các nghiệp tạo phước đức
- Người kinh doanh không lượng sức mình thì tự chuốc lấy những đại bất hạnh đau khổ: Xem các đại bất hạnh của người kinh doanh
- Đọc sách Kiến thức khoa học về nghệ thuật Kinh doanh - Làm giầu theo chánh đạo.
+ Chân Sư DK: Libra có liên quan chặt chẽ với Ngôi 3 của Chúa Cha và do đó nó là cung đang cai quản và là một yếu tố chi phối chính nơi mà Luật Pháp (Law), Tính Dục (Sex) và Tiền Tài có liên hệ. Hãy suy tưởng điều này.
Cả 3 khía cạnh thiêng liêng... biểu lộ theo 3 cách hay là qua 3 trạng thái thứ yếu,... Chính là qua việc nghiên cứu Libra mà ánh sáng đối với trạng thái thứ 3 sẽ đến.
Ngôi 1 về ý chí hoặc quyền năng tự biểu lộ trong cung này dưới hình thức Thiên Luật, lập pháp, tính hợp pháp, công lý;
Ngôi 2 biểu lộ dưới hình thức sự liên quan giữa các cặp đối nhập (biểu tượng cái cân/ Cung Thiên Bình/ Libra), và trên cõi trần tự hiện ra dưới hình thức Tính Dục;
Ngôi 3 biểu lộ dưới hình thức năng lượng cụ thể hóa và điều này chúng ta gọi là Tiền Tài. Theo nghĩa đen chính là vàng và đây là biểu tượng hiện ra bên ngoài của những gì được tạo ra bởi việc nhập lại của tinh thần và vật chất trên cõi trần. Như bạn biết, trạng thái thứ 3 là trạng thái sáng tạo.... Ba yếu tố này – Thiên Luật, tính dục và Tiền tài... Nghiên cứu thật kỹ hoạt động của 3 tác nhân cai quản của Libra: Venus, Uranus và Saturn (Xem thêm về Tam giác lực với Libra ở đỉnh; CTHNM, 275)
+ Ngôi 3 - Chúa Thánh Thần - Đấng Sáng Tạo: Thiên luật, tính dục, tiền tài sẽ mang lại manh mối cho 3 cõi thấp (qua 3 cung Taurus, Libra và Capricorn)...;
1. Taurus – giới động vật – định luật, luật tự nhiên.
2. Libra – giới thực vật – tính dục (sex) – ái lực tự nhiên.
3. Capricorn – giới khoáng vật – tiền tài – biểu hiện cụ thể của Luật Cung Cầu. Với Libra ở đỉnh và chiếm ưu thế, Uranus là chủ thể chi phối bí ẩn và quan trọng bậc nhất trong cung này, vì cung năng lượng thứ 7 tác động qua hành tinh này..... Nơi đây toàn bộ bí ẩn về tiền bạc được ẩn giấu và cả sự sáng tạo và sản xuất của tiền tài. Chỉ một mình Ngôi 3 mới có liên quan tới tiến trình sáng tạo. Chính qua mối liên hệ của 3 trạng thái của biểu lộ thiêng liêng thứ ba – định luật, ái lực và năng lượng được cụ thể hóa – mà tiền tài được tạo ra (CTHNM, 277)
+ Sự linh thiêng: Đình Miếu linh thiêng là do Quỉ thần .... Như ví dụ miếu linh trong câu truyện: Một người tiền kiếp tu hành tinh tấn nhưng tính sân hận nóng nảy giận dữ rất lớn, cho nên sau khi chết làm thần miếu linh thiêng, là vì ai cung kính lễ bái thì hoan hỷ, ai không cung kính lễ bái thì sẽ bị hại thần, rất đáng sợ .... (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr 64 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Kiến tánh: Năng lực kiến tánh
+ Thấy được Chân Ngã: Năng lực kiến tánh.
+ Năng lực kiến tánh (Ability to see the Self): Trong câu kinh trước, chúng ta đã thấy rằng việc thanh luyện (purification) cần phải có bốn phần và liên quan tới 4 hiện thể. Các kết quả của sự thanh khiết (purity) này cũng có bốn phần và cũng liên quan đến bốn thể. Theo thứ tự của các hiện thể, các kết quả này là:
1/ Chế ngự được các cơ quan (conquest of the organs)…... Nơi thể xác.
2/ Có được tinh thần thanh thản (quiet spirit)…………… Nơi thể cảm dục.
3/ Có được sự định trí (concentration) ………………..…Nơi thể hạ trí.
4/ Có được năng lực kiến tánh ……………
Đây là kết quả tổng hợp của (năng lực thấy được Chân Ngã) ba tình trạng của ba thể trên. (ASCLH, 204–205)
+ Minh Tâm Kiến Tánh: Nếu có người minh tâm kiến tánh thường nghe tâm Phật của mình, thường thường nói pháp, thường thường độ chúng sanh, thường thường hiện thần thông, thường thường làm việc Phật, hiểu được lý như vậy mới gọi là thọ trì Kinh Kim Cang, mới gọi là Kim cang bất hoại thân. (Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
+ Người tham thiền thường nói "Minh tâm kiến tánh," minh tâm chính là không có bụi nhơ, kiến tánh chính là thấy được ánh sáng thanh tịnh. Phải không có bụi nhơ mới có thể thấy được ánh sáng thanh tịnh. Nếu có bụi nhơ thì không thể thấy được ánh sáng thanh tịnh. Cho nên "minh tâm kiến tánh" chính là minh bản tâm mình, kiến bản tánh của mình (minh tự bản tâm, kiến tự bản tánh). Tánh của bản tâm như trong Kinh Lăng Nghiêm nói:
"Chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể."
Chân tâm thường trụ chính là minh tâm; tánh tịnh minh thể tức là thanh tịnh minh thể, cũng là tánh Như Lai Tạng. Minh tâm kiến tánh cũng là rõ biết tánh Như Lai Tạng sẵn có của chính mình. Ðó cũng gọi là "không nhơ." (Nguồn: Phẩm Phổ Môn về Bồ Tát Quán Âm - Kinh Pháp Hoa)
+ 17. Không Nên Tùy Tiện Hiện Thần Thông
Tôn giả Ma Ha Mục Kiền Liên là vị có thần thông đệ nhất. Nhưng đức Thế Tôn đã nhiều lần cảnh cáo ông không được tùy tiện hiển hiện thần thông. Tại sao? Bởi vì không phải ai ai cũng có thần thông. Nếu quý vị hiện thần thông một cách bừa bãi, sẽ làm người thế tục kinh sợ, rồi khiến họ mê thích thần thông, sùng bái thần thông. Thế thì người có thần thông sẽ được cúng dường lớn, còn người không có thần thông chắc là chẳng ai muốn cúng dường. Bởi vậy đức Phật mới không cho đệ tử tùy tiện hiện thần thông, với dụng ý là bảo hộ người tu hành đời sau nầy.
Người tu hành không nên tự khoe khoang về đức hạnh, như nói là mình đã khai ngộ, mình là Tổ Sư hay là Bồ Tát. Đó là đại vọng ngữ, tương lai chết đi sẽ đọa địa ngục bạt thiệt cắt lưỡi. Đây tuyệt hẳn không phải là những lời hý luận giỡn chơi..... không nên nói với người khác rằng: “Tôi có thần thông. Tôi có thể nghe Phật và Bồ Tát nói chuyện. Tôi có thể thấy Phật, Bồ Tát hiện ra trước mặt.” Hoặc giả có như thế, tức là tạo cơ hội cho Ma Vương thừa dịp nhập vào hợp tác với quý vị, chỉ huy quý vị để làm quyến thuộc của nó. Bất luận gặp cảnh giới nào, người tu hành cũng nên nhận rõ cảnh giới, chớ để cảnh giới xoay chuyển và nên dùng định lực để chuyển cảnh giới. Không nên hồ đồ, nói năng bừa bãi là mình chứng được thần thông gì, thấy được cảnh giới chi. Quý vị nên hiểu đó là do ma tác quái, nó khiến quý vị mất đạo tâm mà phát cuồng. Đó chính là hiện tượng bị “tẩu hỏa nhập ma,” chứ không phải là cảnh giới thật. Trong kinh Lăng Nghiêm có nói rất rõ về năm mươi loại ấm ma.
... Hơn nữa cũng không nên cống cao ngã mạn, mà cũng đừng tham danh, tham lợi. Nếu như quý vị có thứ tư tưởng và hành vi như thế, tức quý vị bị rơi vào cảnh giới của ma rồi. Người tu hành dù ở trong hoàn cảnh nào cũng không nên tự mãn, không được kiêu ngạo, hoặc nghĩ mình là nổi bậc, phi thường. Hãy cẩn thận, không nên sai lầm về nhân quả. Nếu không, chúng ta không tưởng tượng nổi hậu quả sẽ như thế nào.
... Người có thần thông, tuyệt đối không được nói là mình có thần thông; hà huống mình vốn không có thần thông mà nói bừa nói láo, há đó không phải là tạo nhân để đọa địa ngục sao? Điều đó quả thật là đáng sợ! Ai mà khẩu nghiệp không thanh tịnh thì chịu tội cắt lưỡi ở địa ngục. ...(Nguồn: HT Tuyên Hóa khai thị 6)
+ Người nữ: .... Thiện-nam-tử ! Như xưa kia ta nói kệ rằng:
Tất cả sông ngòi, Quyết có xoáy cong, Tất cả rừng rậm, Aét có cây cối, Tất cả người nữ. Quyết lòng dua vạy, Tất cả tự tại, Quyết hưởng an vui.
Lúc đó Văn-thù Sư-Lợi Bồ-Tát đến lạy chơn Phật mà nói kệ rằng:
Chẳng phải tất cả sông, Điều quyết có xoáy cong, Chẳng phải tất cả rừng, Quyết gọi là cây cối. Chẳng phải mọi người nữ, Quyết có lòng dua vạy. Tất cả hàng tự tại. Chẳng quyết đều hưởng vui.
Văn-Thù Sư-Lợi lại bạch : “ Kệ của đức Phật nói còn có nghĩa dư thừa, cúi mong đức Như-lai nói rõ nhơn duyên kia.
Thế-Tôn ! Vì nơi thế giới nầy, có bờ Câu-da-ni, nơi ấy có con sông Ta-bà-da ngay thẳng chẳng cong, như sợi dây, chạy thẳng vào biển Tây. Con sông ấy nơi trong những kinh khác Phật chưa từng nói, xin đức Như-Lai nhơn hội phương đẳng nầy, nói nghĩa còn dư thừa trong kinh A-Hàm, khiến các vị Bồ-Tát hiểu rõ nghĩa ấy.
Thế-Tôn ! Ví như có người, lúc trước thời biết quặng vàng, lúc sau lại chẳng biết vàng. Cũng vậy, đức Như-Lai biết rõ tất cả pháp mà lời nói ra còn có nghĩa dư thừa chẳng trọn. Dầu đức Như-Lai nói nghĩa thừa như vậy, nhưng cũng nên phương tiện giải rõ ý nghĩa kia.
Tất cả rừng rậm quyết là cây cối. Đây cũng chưa được trọn, vì các thứ cây vàng, bạc, lưu ly những cây bằng chất báu, cũng gọi là rừng.
Tất cả người nữ quyết có lòng dua vạy. Đây cũng chưa trọn, vì cũng có người nữ khéo giữ giới cấm trọn nên công đức, có lòng đại từ bi.
Tất cả tự tại quyết hưởng an vui. Đây cũng chưa trọn, ví như Thích-Ca Như-Lai là đấng pháp vương tự tại, chẳng ở trong phạm vi vô thường, chẳng thể diệt dứt là rốt ráo an vui. Hàng Phạm-Vương Đế-Thích, các trời, dầu đặng tự tại, nhưng đều là vô thường, chưa phải an vui. Nếu đặng thường trụ không biến đổi mới đặng gọi là tự tại, chính là Đại-thừa Đại-Niết-bàn.”
Phật bảo Văn-Thù Sư-lợi : “ Nay ông khéo đặng biện tài vô ngại.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vả thôi, nên lóng nghe. Ví như trưởng giả mang bịnh khổ, y sĩ hiệp thuốc cao để điều trị. Vì tham, người bịnh muốn uống nhiều. Y sĩ bảo, nếu có thể tiêu hoá được thời nên uống nhiều, nay thân trưởng giả gầy yếu chẳng nên uống nhiều. Phải biết thuốc cao nầy gọi là cam lồ, cũng gọi là độc dược, nếu uống nhiều chẳng tiêu hóa được thời thành chất độc.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông chớ cho rằng lời nói của y sĩ là trái nghĩa mật lý, làm hư công hiệu của thuốc cao.
Nầy Thiện-nam-tử ! Cũng vậy, đức Như-Lai nhơn vua Ba-Tư -Nặc, Vương-tử, và hậu phi có lòng kiêu mạn, vì muốn điều phục họ nên thị hiện nói lời ấy cho họ sợ sệt, như y sĩ kia. Do đó mà ta nói kệ rằng :
Tất cả sông ngòi, Quyết có xoáy cong, Tất cả rừng rậm, Quyết là cây cối. Tất cả người nữ, Quyết lòng dua vạy. Tất cả tự tại, Quyết hưởng an vui.
Nầy Văn-Thù Sư-Lợi ! Ông nên biết rằng lời nói của đức Như-Lai không có sai sót. Như cõi đất nầy, có thể làm cho lật úp, lời nói của Như-Lai trọn không sai sót. Do nghĩa nầy nên lời nói của đức Như-Lai tất cả có dư thừa.
Lúc đó đức Phật khen Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện-nam-tử ! Từ lâu ông đã biết nghĩa như vậy. Vì thương xót tất cả, muốn làm cho chúng sanh đặng trí huệ, nên ông cố ý hỏi đức Như-Lai nghĩa của bài kệ như vậy “.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại ở nơi trước Phật mà nói bài kệ rằng :
Với lời nói của người, Tùy thuận chẳng chống trái, Cũng chẳng xem người khác, Làm hay là chẳng làm, Chỉ tự xem thân mình, Làm lành hay chẳng lành. (Nguồn: Phẩm Đại Chúng Sở Vấn thứ 17_Văn Thù BT hỏi Phật)
+ Thiên chức người phụ nữ: NỮ NHÂN LẤY “TƯƠNG PHU GIÁO TỬ” (GIÚP CHỒNG DẠY CON) LÀM THIÊN CHỨC. GIÚP CHỒNG THÀNH TỰU ĐỨC HẠNH, KHÉO DẠY BẢO CON CÁI, KHIẾN CHO BỌN HỌ ĐỀU THÀNH HIỀN NHÂN, THIỆN NHÂN, ĐẤY CHÍNH LÀ CHỨC PHẬN CỦA NỮ GIỚI!
Phàm người quy y Phật pháp, bất luận nam hay nữ, đều phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, yêu tiếc sanh mạng loài vật, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây phương. Chớ nên dùng công phu luyện đan vận khí của ngoại đạo để cầu trường sanh và sanh lên trời làm thần tiên cõi trời Đại La v.v… Hãy quyết định phát nguyện cầu khi lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, ai nấy đều có thể vãng sanh. Nếu được vãng sanh thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử........ (Trích sách Tại Gia Học Phật, Ấn Quang đại sư khai thị, Như Hòa chuyển ngữ_Theo Facebook Thiếu Niên Bảo Thân)
+ Người nữ trong gia tộc: “Người phụ nữ đọc kinh sách chính là cái đức của bản thân họ, của gia tộc và của cả quốc gia. Phụ nữ tu học Phật chính là đang đi trên con đường đúng đắn trong cuộc đời, học cách làm người mẹ tốt, con dâu tốt, người vợ tốt”.
Phúc báo của một người phụ nữ, không những ảnh hưởng đến cuộc đời chính họ, mà còn tác động đến chồng con và gia đình.
Kim cương thừa nhấn mạnh tới nguyên lý mẫu tính giác ngộ thông qua những hình ảnh Phật Mẫu Bát nhã, Phật Mẫu Tara, biểu trưng cho cội nguồn của vạn pháp. Cho nên được gọi là mẹ của hết thảy chư Phật.
Nếu coi gia tộc là một cây đại thụ, thì nữ giới chính là nguồn nước, cây mà thiếu nước ắt khô, cành lá cũng héo úa. (Nguồn: Phụ nữ tu Phật Pháp)
+ Phụ nữ trong xã hội: ... Đại sư Ấn Quang ở trong “Văn Sao” cật lực chủ trương: “Phụ nữ, sự nghiệp vĩ đại nhất của họ, cống hiến lớn nhất của họ đối với tất cả chúng sanh, đối với quốc gia xã hội, đối với dân tộc chính là chăm sóc con cái”. Toàn tâm toàn lực chăm sóc, bồi dưỡng chúng, con cái của bạn có tài đức, con cái của bạn hiểu biết, đây chính là rường cột của quốc gia, của xã hội. Làm thế nào để bồi dưỡng? Do mẹ bồi dưỡng giáo dục. Ấn Tổ nói, hiện nay sự nghiệp vĩ đại nhất của phụ nữ đã vứt bỏ rồi, họ không làm, họ tìm một công việc nhỏ ở trong xã hội, đây là điên đảo. Cho nên, tiêu chuẩn đúng, sai của các bậc thánh hiền quả thật không giống như người thế gian chúng ta, họ nhìn rất xa, nhìn rất sâu. (Nguồn: Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao)
+ Đau khổ riêng biệt của đàn bà: Đức Phật dạy "Có năm đau khổ riêng biệt mà người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông"
1. Người đàn bà lúc trẻ tuổi đi đến nhà chồng, không có bà con (Vạn sự phải tự thích nghi nơi bên nhà chồng)
2. Người đàn bà có kinh nguyệt.
3. Người đàn bà phải mang thai. (Cái đau đớn và đau tâm sinh lý trong lúc kinh kỳ, mang thai và sanh nở ...)
4. Một người đàn bà phải sanh con.
5. Người đàn bà hầu hạ đàn ông.
(Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương Ưng Nữ Nhân)
+ Sức mạnh người đàn bà với người đàn ông:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, rừng Jetavana, tại khu vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
1. Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
2. Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
3-5.Ta không thấy một hương... một vị... một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như hương... vị... xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
6. Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà như sắc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà.
7-10. Ta không thấy một tiếng... một hương... một vị... một xúc nào khác. Này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như tiếng... hương... vị... xúc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà. (Nguồn: Phẩm Sắc- Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Sức mạnh người đàn bà trong gia đình: Phần Ba - Phẩm Các Sức Mạnh
* Người đàn bà có đủ năm sức mạnh: Sắc đẹp - Tài sản - Bà con - Con trai - Giới hạnh (Thiếu một thì sức mạnh không đủ)
25. I. Không Sợ Hãi: Đầy đủ 5 sức mạnh - Người đàn bà sống ở nhà không có sợ hãi.
26. II. Ưc Chế (Người chồng): Đầy đủ 5 sức mạnh - Người đàn bà sống ở nhà, ức chế người chồng.
27. III. Chinh Phục: Đầy đủ năm sức mạnh - Người đàn bà sống ở nhà, chinh phục người chồng.
28. IV. Một - Đàn ông chinh phục đàn bà có đủ 5 sức mạnh: Do đầy đủ một sức mạnh? Sức mạnh của người làm chủ (isariyabalena) - Người đàn bà đã bị chinh phục bởi sức mạnh của người làm chủ, này các Tỷ-kheo, thời sức mạnh nhan sắc không che chở được, sức mạnh tài sản không che chở được, sức mạnh bà con không che chở được, sức mạnh con trai không che chở được, sức mạnh giới hạnh không che chở được. (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương Ưng Nữ Nhân)
30. VI. Họ Đuổi Đi: .... Người đàn bà có đủ giới hạnh nhưng thiếu 1 trong 4 sức mạnh kia thì vẫn KHÔNG bị đuổi ra khỏi nhà. Nhưng có đủ 4 sức mạnh kia màd thiếu giới hạnh thì vẫn bị đuổi ra khỏi nhà (Nguồn: Kinh Tương Ưng Bộ - Tương Ưng Nữ Nhân)
+ Kinh Phật: Bồ Tát Quả Trách Sắc Dục - Dâm giới - Giới dâm
* Xem thêm: Đạo làm người thiện lành
+ Trình tự và các Pháp tu khởi đầu không thể thiếu giành cho người mới bước vào con đường tu đạo - Phật pháp: Các Kinh Phật người tu phải tu học và thấu hiểu, thực hành thành tựu trước tiên (Không thể thiếu). Học để hiểu nhân quả luân hồi => Tin sâu nhân quả luân hồi là khởi đầu tu đúng chánh pháp.
+ Không thể có hai vị Phật cùng lúc xuất hiện: Chỉ có một người duy nhất xuất hiện trong đời đem lại lợi ích và hạnh phúc cho nhiều người, đem lại lợi ích cho chư thiên và nhân loại. Đó chính là Như Lai, bậc Toàn Giác.Thật không thể có hai bậc Toàn Giác xuất hiện đồng thời trên cùng một hệ thống thế giới (TĂNG CHI BỘ KINH_đoạn 170-174).
+ Những Lời Phật dậy: Được tập hợp theo các chủ đề / Thuật ngữ từ các Kinh Phật, rất rễ đọc và thuận tiện nghiên cứu. Mời xem tại Lời Phật Dậy trong Kinh Trung A Hàm
+ Những lời Phật dậy trong Kinh A Hàm gồm kinh Trường A Hàm - Trung A Hàm. Kinh rất dài và hơn 800 tiêu đề, đủ loại kiến thức. Mời xem Danh mục tiêu đề Kinh A Hàm;
* Mời xem Kinh A Hàm với bản đầy đủ nội dung: Mời xem Kinh A Hàm
+ HIỂU LỜI PHẬT DẠY: ......Thiện-nam-tử ! Như xưa kia ta nói kệ rằng:
Tất cả sông ngòi, Quyết có xoáy cong, Tất cả rừng rậm, Aét có cây cối, Tất cả người nữ. Quyết lòng dua vạy, Tất cả tự tại, Quyết hưởng an vui.
Lúc đó Văn-thù Sư-Lợi Bồ-Tát đến lạy chơn Phật mà nói kệ rằng:
Chẳng phải tất cả sông, Điều quyết có xoáy cong, Chẳng phải tất cả rừng, Quyết gọi là cây cối. Chẳng phải mọi người nữ, Quyết có lòng dua vạy. Tất cả hàng tự tại. Chẳng quyết đều hưởng vui.
Văn-Thù Sư-Lợi lại bạch : “ Kệ của đức Phật nói còn có nghĩa dư thừa, cúi mong đức Như-lai nói rõ nhơn duyên kia.
Thế-Tôn ! Vì nơi thế giới nầy, có bờ Câu-da-ni, nơi ấy có con sông Ta-bà-da ngay thẳng chẳng cong, như sợi dây, chạy thẳng vào biển Tây. Con sông ấy nơi trong những kinh khác Phật chưa từng nói, xin đức Như-Lai nhơn hội phương đẳng nầy, nói nghĩa còn dư thừa trong kinh A-Hàm, khiến các vị Bồ-Tát hiểu rõ nghĩa ấy.
Thế-Tôn ! Ví như có người, lúc trước thời biết quặng vàng, lúc sau lại chẳng biết vàng. Cũng vậy, đức Như-Lai biết rõ tất cả pháp mà lời nói ra còn có nghĩa dư thừa chẳng trọn. Dầu đức Như-Lai nói nghĩa thừa như vậy, nhưng cũng nên phương tiện giải rõ ý nghĩa kia.
Tất cả rừng rậm quyết là cây cối. Đây cũng chưa được trọn, vì các thứ cây vàng, bạc, lưu ly những cây bằng chất báu, cũng gọi là rừng.
Tất cả người nữ quyết có lòng dua vạy. Đây cũng chưa trọn, vì cũng có người nữ khéo giữ giới cấm trọn nên công đức, có lòng đại từ bi.
Tất cả tự tại quyết hưởng an vui. Đây cũng chưa trọn, ví như Thích-Ca Như-Lai là đấng pháp vương tự tại, chẳng ở trong phạm vi vô thường, chẳng thể diệt dứt là rốt ráo an vui. Hàng Phạm-Vương Đế-Thích, các trời, dầu đặng tự tại, nhưng đều là vô thường, chưa phải an vui. Nếu đặng thường trụ không biến đổi mới đặng gọi là tự tại, chính là Đại-thừa Đại-Niết-bàn.”
Phật bảo Văn-Thù Sư-lợi : “ Nay ông khéo đặng biện tài vô ngại.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vả thôi, nên lóng nghe. Ví như trưởng giả mang bịnh khổ, y sĩ hiệp thuốc cao để điều trị. Vì tham, người bịnh muốn uống nhiều. Y sĩ bảo, nếu có thể tiêu hoá được thời nên uống nhiều, nay thân trưởng giả gầy yếu chẳng nên uống nhiều. Phải biết thuốc cao nầy gọi là cam lồ, cũng gọi là độc dược, nếu uống nhiều chẳng tiêu hóa được thời thành chất độc.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông chớ cho rằng lời nói của y sĩ là trái nghĩa mật lý, làm hư công hiệu của thuốc cao.
Nầy Thiện-nam-tử ! Cũng vậy, đức Như-Lai nhơn vua Ba-Tư -Nặc, Vương-tử, và hậu phi có lòng kiêu mạn, vì muốn điều phục họ nên thị hiện nói lời ấy cho họ sợ sệt, như y sĩ kia. Do đó mà ta nói kệ rằng :
Tất cả sông ngòi, Quyết có xoáy cong, Tất cả rừng rậm, Quyết là cây cối. Tất cả người nữ, Quyết lòng dua vạy. Tất cả tự tại, Quyết hưởng an vui.
Nầy Văn-Thù Sư-Lợi ! Ông nên biết rằng lời nói của đức Như-Lai không có sai sót. Như cõi đất nầy, có thể làm cho lật úp, lời nói của Như-Lai trọn không sai sót. Do nghĩa nầy nên lời nói của đức Như-Lai tất cả có dư thừa.
Lúc đó đức Phật khen Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện-nam-tử ! Từ lâu ông đã biết nghĩa như vậy. Vì thương xót tất cả, muốn làm cho chúng sanh đặng trí huệ, nên ông cố ý hỏi đức Như-Lai nghĩa của bài kệ như vậy “.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại ở nơi trước Phật mà nói bài kệ rằng :
Với lời nói của người, Tùy thuận chẳng chống trái, Cũng chẳng xem người khác, Làm hay là chẳng làm, Chỉ tự xem thân mình, Làm lành hay chẳng lành.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta cũng vì người hộ trì cấm giới thành tựu oai nghi, lại xem lỗi của người khác mà nói bài kệ ấy.
Nếu lại có người, nhận lãnh lời dạy của người khác, xa lìa những tội ác, rồi dạy lại người khác, làm cho lìa những tội ác. Người như vậy thời là đệ tử của Phật. Đức Thế-tôn vì Văn-thù-Sư-Lợi Bồ-tát mà nói kệ rằng :
Tất cả đều sợ dao gậy, Không ai chẳng mến thân mạng, Tự tha thứ đáng làm lệ, Chớ giết cũng chớ đánh đập.
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát lại ở trước Phật mà nói kệ rằng :
Chẳng phải tất cả đều sợ gậy. Chẳng phải tất cả mến thân mạng, Tự tha thứ đáng lấy làm lệ, Siêng thực hành những phương tiện lành.
Pháp cú của đức Như-Lai nói cũng chưa trọn nghĩa. Vì như A-La-hán, Chuyển- Luân Thánh-Vương, ngọc nữ, tượng bảo, mã bảo, chủ tạng đại-thần, Chư Thiên và A-tu-la, không có ai cầm gươm bén có thể làm hại được.
Dũng sĩ, liệt nữ, mã vương, thú vương. Tỳ-kheo trì giới, dầu có oan đối đến làm hại, nhưng họ chẳng sợ sệt. Do nghĩa nầy bài kệ của Như-Lai nói cũng chưa trọn nghĩa.
Nếu nói tự tha thứ đáng lấy làm lệ đó, cũng không trọn nghĩa. Vì nếu giả sử A- La-Hán, lấy mình làm lệ cho người, thời có ngã tưởng và thọ mạng tưởng. Nếu có ngã tưởng và thọ mạng tưởng thời phải giữ gìn. Như thế thời phàm phu lẽ ra cũng thấy A-La-Hán đều là hạng người còn tu hành. Nếu thấy như vậy, thời thành tà kiến, sẽ phải đọa Địa ngục A-Tỳ.
Lại A-La-Hán trọn không móng tâm sát hại chúng sanh. Vô lượng chúng sanh cũng không thể làm hại A-la-Hán.
Nầy Thiện-nam-tử! Nói rằng ngã tưởng là đối với chúng sanh có lòng đại bi, không có tưởng giết hại là nói tâm bình đẳng của A-La-hán. Chớ cho rằng đức Thế-Tôn không nhơn duyên mà nghịch thuyết.
Ngày xưa trong thành Vương-Xá, có người thợ săn giết nhiều nai, mời ta ăn thịt. Lúc đó dầu ta nhận lời mời, nhưng đối với các chúng sanh sanh lòng từ bi xem như La-Hầu-La mà nói kệ rằng :
Sẽ khiến người được trường thọ, Mãi mãi sống ở nơi đời, Thọ trì pháp chẳng giết hại. Dường như thọ mạng của Phật.
Do cớ đó nên ta nói bài kệ : Tất cả đều sợ dao gậy, Không ai chẳng mến thân mạng. Tự tha thứ, đáng làm lệ, Chớ giết, cũng chớ đánh đập.
Lành thay ! Lành thay ! Văn-Thù-Sư-Lợi vì các vị Đại-Bồ-Tát gạn hỏi đức Như-Lai giáo pháp như vậy.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại nói kệ rằng :
Thế nào là kính cha mẹ, Tùy thuận tôn trọng song thân ? Thế nào thật hành pháp nầy, Bị đọa nơi ngục vô gián ?
Đức Như-Lai nói kệ đáp :
Nếu dùng tham ái làm mẹ, Dùng vô minh, để làm cha. Rồi tùy thuận tôn trọng đó, Thời phải đọa ngục vô gián.
Đức Như-Lai lại vì Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nói kệ rằng :
Tất cả thuộc kẻ khác, Thời gọi đó là khổ, Tất cả do nơi mình. Tự tại được an vui, Tất cả kẻ kiêu mạn, Thế lực rất bạo ác, Những người hiền người lành, Tất cả đều mến tưởng.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn ! Lời nói của Như-Lai cũng chẳng trọn nghĩa. Ngưỡng mong đức Như-Lai thương xót nói nhơn duyên đó. Ví như con trai của trưởng giả, lúc theo thầy học tập, là thuộc nơi thầy chăng ? Nếu thuộc nơi thầy, thời chẳng phải. Nếu chẳng thuộc nơi thầy, thời cũng chẳng phải. Nếu đặng tự tại, theo nghĩa cũng chẳng phải.
Ví như Vương-tử không có học tập, làm việc gì cũng chẳng thành, ngu tối thường khổ. Vương-tử ấy nếu cho là tự tại, thời chẳng đúng nghĩa, nếu nói thuộc người khác, nghĩa cũng chẳng phải.
Do lẽ trên đây lời nói của Phật gọi là có thừa. Vì thế nên tất cả thuộc người khác chẳng ắt thọ khổ. Tất cả tự tại chẳng ắt hưởng vui. Tất cả kẻ kiêu mạn, thế lực rất bạo ác, lời nầy cũng có thừa. Thế-tôn ! Như các liệt nữ, vì tâm kiêu mạn, mà xuất gia học đạo, giữ gìn cấm giới, thành tựu oai nghi, kềm giữ sáu căn chẳng cho buông lung. Thế nên tất cả phiền não kiêu mạn chẳng ắt là bạo ác.
Người hiền, ngườilành, tất cả đều mến tưởng lời nầy cũng có thừa. Như người phạm bốn tội nặng rồi chẳng bỏ pháp phục, giữ gìn oai nghi, hộ trì chánh pháp, người khác thấy chẳng mến, người nầy sau khi chết ắt đọa địa ngục. Nếu có người hiền phạm tội trọng, người hộ pháp thấy đó, liền đuổi ra bảo hoàn tục. Do nghĩa nầy tất cả người hiền người lành chẳng ắt đều được mến tưởng.
Phật bảo Văn-thù Sư-Lợi Bồ-tát : Vì có duyên do nên đức Như-Lai ở trong trường hợp nầy nói pháp có nghĩa thừa. Lúc đó trong thành Vương-Xá có người nữ tên Thiện-Hiền trở về nhà cha mẹ. Nhơn đó nàng đến chỗ ta quy y Phật, Pháp, và chúng Tăng mà bạch rằng : Tất cả người nữ chẳng được tự do, tất cả người nam tự tại vô ngại ............
Nói rằng tất cả người đại lực tâm không tật đố, đây cũng là không trọn nghĩa. Như trong thế gian có người cả đời không có lòng tật đố, mà họ cũng không có đại lực.
Nói rằng tất cả bịnh khổ do ăn uống sanh ra, đây cũng chưa trọn nghĩa. Vì thấy có người mang phải bịnh ở ngoài đưa đến, như bị chém đâm v.v…
Nói rằng tất cả người tu tịnh hạnh hưởng quả an vui, đây cũng chưa trọn nghĩa, vì trong đời cũng có hàng ngoại đạo tu tịnh hạnh, mà vẫn thọ lấy quả khổ não.
Lời thuyết pháp của đức Như-Lai còn có nghĩa thừa, đó là đức Như-Lai vì có duyên do mà nói những kệ như vậy : Xưa kia nơi nước Ưu-Thiền-Ni, có nhà Bà- La-Môn tên Cổ-Đê-Đức đến nơi Phật thọ pháp bát-quan-trai. Lúc đó ta vì nhà Bà-La-Môn ấy mà nói kệ như vậy”.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Những gì gọi là không nghĩa thừa ? Thế nào lại gọi là nhứt-thiết-nghĩa ?”
Nầy Thiện-nam-tử ! Chỉ trừ pháp lành trợ đạo, thường, lạc, gọi là nhứt- thiết, cũng gọi là không thừa, ngoài ra các pháp khác cũng gọi là có thừa, cũng gọi là không thừa. Vì muốn làm cho mọi người ưa thích chánh pháp, biết nghĩa có thừa và nghĩa không thừa nầy.
Ca-Diếp Bồ-Tát vui mừng hớn hở bạch Phật rằng : Rất lạ lùng ! Rất lạ lùng ! Đức Thế-Tôn bình đẳng xem chúng sanh như La-Hầu-La”. (Nguồn: Phẩm Đại Chúng Sở Vấn thứ 17_Văn Thù BT hỏi Phật)
+ Vài bộ Kinh Phật dậy người tại gia và người mới xuất gia cần phải học đầu tiên và không thể thiếu:
- Mời xem: Kinh Thiện ác nhân quả;
- Mời xem: Kinh phân biệt thiện ác báo ứng;
- Mời xem: Kinh Ngũ Bách Vấn
- Mời xem: Phật Nói Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt
- Mời xem: Kinh Bại Vong
- Mời xem: Những Lời Phật dậy người tại gia
- Mời xem: Sách mười bốn điều Phật dậy xem tại đây
- Mời xem: Bốn điều Phật Không Thể Làm
+ Cầu con trai - Cầu con giái: ... Nếu có người nữ nào, hoặc cầu con trai, lễ bái cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, bèn sanh được bé trai phước đức trí huệ; hoặc cầu con gái, bèn sanh bé gái có tướng đẹp đẽ, do gieo trồng gốc phước đời trước, được mọi người kính mến.
Ðức Phật sau khi nói những việc trên xong, lại bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng những có sức oai thần cứu được bảy nạn, giải được ba độc như vừa nói, mà lại còn có rất nhiều thần thông diệu dụng làm lợi ích cho chúng sanh, vì thế chúng sanh phải nên thường thường tâm niệm Bồ-tát này.” Ðiều này mọi người phải đặc biệt chú ý! Thường phải tâm niệm, là không phải chỉ niệm ở đầu môi mà tâm không niệm. Tóm lại, phải niệm niệm nhớ tưởng, luôn luôn ghi nhớ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
Nếu có người nữ nào hoặc cầu con trai. Giả như có một người nữ muốn cầu có một đứa con trai. Cầu như thế nào mới được như nguyện? Phải theo đúng như Phẩm Phổ Môn trong Kinh Pháp Hoa đã dạy, tức là phải lễ bái, đồng thời dùng hương hoa trái cây… cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên có thể được một đứa bé trai đầy đủ phước đức trí huệ. Nếu cầu con gái, thì có thể sanh một đứa bé gái tướng mạo đoan chánh, mắt mũi tai miệng đều cân đối xinh đẹp cả. Gốc phước do trồng đời trước, được mọi người kính mến. Tại sao lại được tướng mạo đoan chánh trang nghiêm đẹp đẽ như thế? Ðó đều là do đời trước, hoặc mua hương hoa, dùng các thứ trang nghiêm để cúng dường Phật, Bồ-tát. Do chứa nhóm công đức cúng Phật thuở xưa kia nên được đời đời tướng mạo đầy đủ, trang nghiêm tốt đẹp, ai thấy cũng kính mến.
Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có oai lực như thế! Nếu có chúng sanh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh phải nên thọ trì danh hiệu của Ngài. ...
+ Người nữ Cầu sinh con trai hay Cầu sinh con gái. Cầu được ước thấy - Pháp cầu con linh nghiệm
... Nếu có người nữ nào, hoặc cầu con trai, lễ bái cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, bèn sanh được bé trai phước đức trí huệ; hoặc cầu con gái, bèn sanh bé gái có tướng đẹp đẽ, do gieo trồng gốc phước đời trước, được mọi người kính mến.
Ðức Phật sau khi nói những việc trên xong, lại bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: "Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng những có sức oai thần cứu được bảy nạn, giải được ba độc như vừa nói, mà lại còn có rất nhiều thần thông diệu dụng làm lợi ích cho chúng sanh, vì thế chúng sanh phải nên thường thường tâm niệm Bồ-tát này." Ðiều này mọi người phải đặc biệt chú ý! Thường phải tâm niệm, là không phải chỉ niệm ở đầu môi mà tâm không niệm. Tóm lại, phải niệm niệm nhớ tưởng, luôn luôn ghi nhớ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
Nếu có người nữ nào hoặc cầu con trai. Giả như có một người nữ muốn cầu có một đứa con trai. Cầu như thế nào mới được như nguyện? Phải theo đúng như Phẩm Phổ Môn trong Kinh Pháp Hoa đã dạy, tức là phải lễ bái, đồng thời dùng hương hoa trái cây... cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên có thể được một đứa bé trai đầy đủ phước đức trí huệ. Nếu cầu con gái, thì có thể sanh một đứa bé gái tướng mạo đoan chánh, mắt mũi tai miệng đều cân đối xinh đẹp cả. Gốc phước do trồng đời trước, được mọi người kính mến. Tại sao lại được tướng mạo đoan chánh trang nghiêm đẹp đẽ như thế? Ðó đều là do đời trước, hoặc mua hương hoa, dùng các thứ trang nghiêm để cúng dường Phật, Bồ-tát. Do chứa nhóm công đức cúng Phật thuở xưa kia nên được đời đời tướng mạo đầy đủ, trang nghiêm tốt đẹp, ai thấy cũng kính mến.
Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có oai lực như thế! Nếu có chúng sanh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh phải nên thọ trì danh hiệu của Ngài.
Trên đây là Đức Phật giảng về Bồ Tát Quán Thế Âm - Phẩm Phổ Môn:
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh.
Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió bão), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.
Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Ðó là ba độc tham, sân, si.
Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm)
+ Về mười điều xấu (Thập Ác) của người nữ, bây giờ tôi chỉ nói sơ lược thôi, chứ không giảng giải cho cặn kẽ được, vì e rằng chúng ta không có đủ thì giờ.
- Ðiều xấu thứ nhất là ngay từ khi vừa lọt lòng, đứa con gái liền làm cho cha mẹ không vui rồi—bởi đó là con gái, nếu là con trai thì cha mẹ rất vui mừng. Tuy rằng không phải là cha mẹ nào cũng đều như thế cả, song có thể nói rằng hầu hết mọi quốc gia đều có một phong khí tương đồng—đó là thích sinh con trai, không thích sinh con gái. Vì thế, vừa mở mắt chào đời, đứa con gái đã gây cho cha mẹ một ấn tượng không vui rồi.
- Ðiều thứ hai là cha mẹ cảm thấy việc nuôi dưỡng con gái là không có ý nghĩa, không thấy vui.
- Thứ ba, con gái thường có tính rụt rè, nhút nhát, hay sợ sệt. Con trai thì không sợ xấu, trong khi đa số con gái đều sợ xấu, sợ người.
- Thứ tư, cha mẹ thường vì chuyện hôn nhân của con gái mà nhọc lòng lo lắng. Khác với người Mỹ là cha mẹ không bận tâm lắm về chuyện hôn nhân của con cái, tại nhiều quốc gia, như Trung Hoa chẳng hạn, lại có phong khí là cha mẹ đặc biệt quan tâm về việc cưới gả của con cái, nhất là việc tìm cho con gái mình một người chồng tốt.
- Thứ năm, con gái rồi sẽ sống xa cha mẹ. Trong tương lai, nhất định con gái sẽ rời bỏ cha mẹ.
- Thứ sáu, con gái sau khi kết hôn thì nể sợ chồng, thận trọng từng li từng tí đối với sự vui buồn của chồng—chồng vui vẻ thì vợ vui theo, chồng nổi nóng thì vợ khép nép sợ hãi.
- Thứ bảy, từ khi thai nghén cho đến lúc sinh nở còn rất nhiều khó khăn trắc trở, người con gái cảm thấy rất lo âu, sợ hãi.
- Thứ tám, khi người con gái phạm lỗi lầm thì mọi người đều trách móc cha mẹ cô ta, rằng họ đã sinh ra một đứa con gái hư hỏng. Cho nên, con gái nết na đức hạnh thì không nói làm gì; rủi mà ăn ở vụng về thì cha mẹ sẽ bị mang tiếng xấu.
- Thứ chín, người con gái thường bị chồng quản chế, không cho phép làm việc này việc nọ. Có rất nhiều phép tắc hạn chế mà người vợ phải tuân theo; bằng không, nếu không phục tòng thì sẽ bị chồng bỏ, buộc phải ly hôn.
Quý vị xem, thật là quá nhiều rắc rối phiền phức, có phải không? Trên đây là chín điều không tốt có thể xảy ra lúc người nữ còn trẻ.
- Thứ mười, người nữ đến khi già cả thì lại bị con cái, cháu chắt xem thường. Con trai, con gái, hoặc cháu nội cháu ngoại, nghĩ rằng: "Bà đã già yếu đến thế rồi mà vẫn chưa chịu chết!" Có câu: "Già mà chưa chết thì thành kẻ cắp"—ngay cả con cái cũng mắng mẹ nữa, quý vị xem có đáng thương không?
Cho nên, người nữ có rất nhiều sự phiền toái phức tạp. Trên đây là mười điều xấu (Thập Ác) của thân nữ; ngoài ra còn có hai mươi điều nữa, nếu kể ra nữa thì nhiều quá, nói không hết được. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thân người nữ: ... Công chúa Mâu Ni Bạch Thế Tôn! Con là thí chủ thường cung cấp dầu cho Trưởng lão (Người được Ngài thọ ký Thành Phật "Đăng Quang Như Lai" trong tương lai) về cúng dường Phật. Nay ngài thọ ký cho Trưởng lão mà không thọ ký cho con. Bảo Tạng Như Lai cười nói: - Phát tâm thệ nguyện, phước ấy khó lường, huống là dùng tài vật bố thí. Dù được khen, nhưng công chúa Mâu Ni không thấy Phật thọ ký cho mình, bèn nói:
- Nếu Như Lai không thọ ký cho con, con sẽ tự đoạn mạng sống của mình. Bảo Tạng Như Lai nói:
- Thân người nữ, cầu làm Chuyển luân không được, cầu làm Đế Thích cũng không được, cầu làm Ma vương cũng không được, cầu làm Phật cũng không được. Mâu Ni bạch Phật:
- Vậy con không thể thành đạo Vô thượng được sao? Bảo Tạng Như Lai nói:
- Vẫn được. Nhưng công chúa nên biết, qua vô số a-tăng-kỳ kiếp ở tương lai, có Phật ra đời hiệu là Đăng Quang Như Lai. Phật ấy là thiện tri thức của cô, sẽ thọ ký cho cô....
... Phật Đăng Quang liền thọ ký cho Phạm Chí ...... Đời vị lai sau, ông sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Kể xong, Phật nói với Ưu Ba Ly:
- Phật Đăng Quang chính là Tỳ-kheo trưởng lão lúc trước. Phạm Chí chính là công chúa Mâu Ni cũng là tiền thân của ta.... (Nguồn: Tổng hợp về phát tâm phát nguyện)
+ Sinh vật nửa người nửa thú (semi–animal creatures): Các di tích duy nhất về các sinh vật nửa người nửa thú mà khoa nhân chủng học (ethnology) biết được là giống người Tasmania (the Tasmanians), một thành phần nhỏ (portion) của người Úc châu, và một bộ lạc sơn cước (mountain tribe) ở Trung Hoa mà nam lẫn nữ có lông lá bao phủ khắp mình. Những người nói trên là hậu duệ cuối cùng ở trong dòng dõi trực tiếp (direct line, trực hệ) của người Lemuria nửa người nửa thú cận đại (latter–day) được nói ở trên. Tuy nhiên, cũng có một số đáng kể những người pha trộn dòng giống Lemuria–Atlantis được tạo ra do nhiều sự lai giống khác nhau với dòng dõi nửa người nửa thú đó (such semi–human stock) – đó là những người bán khai (wild men) ở Borneo, người Veddhas ở Ceylon (ngày nay là Sri Lanka–ND) [mà giáo sư Flower xếp vào giống người Aryan(!)], hầu hết các thổ dân Úc còn lại, thổ dân Tây Nam Phi (Bushmen), người Negrito, người dân đảo Andaman, vv… Các thổ dân Úc ở vịnh St. Vincent và vùng lân cận Adelaide có rất nhiều lông, còn lông tơ màu nâu (brown down) trên da của trẻ con năm, sáu tuổi cũng có vẻ như lông mao (furry appearance). Tuy nhiên, đó là những người đã thoái hóa (degraded men) chứ không phải gần giống nhất với “người khỉ” (“pithecoid man”) như Haeckel mạnh mẽ khẳng định. Chỉ một phần nhỏ của những người này mới là di tích của giống dân Lemuria. (GLBN III, 201)

+ Chướng ngại: Có hai loại Phiền Lão chướng và Sở chi chướng
+ Phiền não chướng sinh khởi do chấp ngã. Khi chấp ngã, sẽ làm sinh khởi nên phiền não chướng.
* Phiền não là ma quỷ: ... Hễ có phiền não là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại, kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu.
+ Sở tri chướng sinh khởi do chấp pháp. Về sở tri chướng, nếu quý vị nghĩ: “Tôi biết rất nhiều” thì đó là một chướng ngại. Ngay khi tâm kiêu mạn này trổi dậy thì đó chính là sở tri chướng. (Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn)
+ Chướng ngại không thấy Đạo: Chỉ cần Bạn có 1 trong 6 thứ sau thì bạn chẳng thể thấy đạo, đừng nói là chứng đạo, thấy cũng thấy không được: ‘Tham, sân, si, mạn, nghi’, sau đó là ‘ác kiến’, tức là ‘thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến’, hợp lại gọi là ác kiến, 6 phiền não căn bản là chướng ngại lớn nhất (Nguồn)
* Kiêu mạn (Kiêu hãnh - Ngã mạn hay Kiêu căng - Ngạo mạn): Tự cao - Tự Đại - Tự tôn - Tự mãn - Tự phụ
+ Ba chướng: Thứ tư là luận bàn về dụng.
"Lực dụng khu trừ tam trược, (dùng lực dẹp trừ ba chướng trược".
Dùng lực gì ? Ðể làm gì ? Dùng tâm kinh bát nhã ba la mật đa để làm chi ?
Tức là dùng lực dụng của kinh này để phá trừ ba chướng.
Một là báo chướng. Hai là nghiệp chướng. Ba là phiền não chướng. (Nguồn: Bát Nhã Tâm Kinh - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chướng ngại: Tổng kết những điều vừa nói trên, đức Phật nói năm thứ chướng ngại:
a) Thứ nhất, tham dục chướng ngại sự bố thí, trì giới đại viên mãn của tự tánh. Do có tâm tham dục, nhất định chẳng có tâm bố thí; có ba độc Tham - Sân - Si, tâm địa chẳng thanh tịnh. Tâm chẳng thể thanh tịnh thì còn nói gì đến trì giới nữa đây?
b) Thứ hai, Sân Khuể chướng ngại từ bi, nhẫn nhục đại viên mãn nơi tự tánh.
c) Thứ ba, ngủ nghê chướng ngại tinh tấn đại viên mãn nơi tự tánh.
d) Thứ tư, Trạo Hối chướng ngại thiền định đại viên mãn của tự tánh.
e) Thứ năm, Nghi chướng ngại trí huệ đại viên mãn của tự tánh.
Chúng ta muốn viên mãn sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi đầu từ chỗ này. Ngoài ra, còn có bảy điều chúng ta phải tu tập. (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh _ PS Tịnh Không giảng)
+ Chướng Ngại - Là Thói quen, tập khí nhiều kiếp trước = > Có thể thay đổi:
Hỏi : Rinpoche nói rằng phạm các giới khinh là do nơi nghiệp của các đời trước. Rinpoche có thể vui lòng cho các thí dụ về việc phạm các giới trung tội và trọng tội, và có phải chăng chúng cũng đều do nghiệp của các đời trước ?
Rinpoche: Có hai điều cần phải lìa xa: các nghiệp ác và các chướng nạn. Nếu các nghiệp thân, khẩu, và ý của chúng ta làm hại các hữu tình khác, dù trực tiếp hay gián tiếp, các nghiệp này là các nghiệp ác bất thiện. Các nghiệp này chẳng có liên quan gì với karma đời trước hay tập khí đời trước, mà đúng hơn chúng có liên hệ với các ý muốn hiện tại. Khởi lên một ý muốn sát hay trộm là chỉ tùy theo chính mình và chúng ta có công năng để ngưng mình lại không cho làm các hành động ấy.
Các chướng ngại, vốn thuộc về tâm, cũng không hề do nơi karma, mà do nơi các thói quen của chúng ta. Từ vô thủy đến nay, tất cả chúng ta quen thói các phiền não tham, sân, và si. Có người thì tham mạnh, có người sân mạnh, và có người thì si mạnh, tùy theo họ quen thói các phiền não ấy nhiều ít thế nào. Các thói quen này cần phải được lìa bỏ. Có hai chữ mà hầu như là đồng nghĩa với nhau trong Tạng ngữ. Đó là chữ gom (viết theo Tạng ngữ là sgom) có nghĩa là tu tập hay thiền định, và chữ khom (viết là goms) có nghĩa là các thói quen tập khí. Khi chúng ta tu tập hết sức tinh cần và sự tu tập của chúng ta có lực, thì đó là gom, tức thiền định. Khi chúng ta không hết lòng tu tập, không ra sức tu tập, thì nó trở thành khom, tức chỉ là một thói quen. Vì thế để lìa xa các chướng ngại, chúng ta phải thay thế khom bằng gom.
Về ba cấp độ phạm giới thì phạm giới khinh đôi khi chưa chín thành ác nghiệp nhưng sau đó có thể trở thành chủng tử của ác nghiệp. Chẳng hạn, vài vị tu sĩ không mặc y dưới, sham thab cho đàng hoàng. Vào lúc ấy, nó không phải là một ác nghiệp, nhưng nó có thể từ từ chín dần thành một ác nghiệp thực sự.
+ Hỏi Chướng ngại: Ngài có thể nói đôi chút về các chướng ngại bí mật được không ?
Rinpoche : Trước đây, nhiều dịch giả đã dịch chữ sang của Tạng ngữ là "bí mật" thế nên vajrayana được dịch là "mantrayana bí mật". Nhưng dịch thế không được đúng lắm. Con đường tắt đưa chúng ta đến chỗ mình muốn đến được gọi là sang lam, có nghĩa là "một lối tắt" hay "một con đường nhanh hơn". Vì thế sang ngụ ý nói cho lối thoát chính yếu của vấn đề. Ví dụ như, nếu chúng ta muốn bật đèn, chúng ta phải đi bật nó lên, chúng ta không thể cứ loay hoay với bóng đèn mà bật đèn được. Vì vậy cách chính yếu để làm sao đèn được bật lên được gọi là sang theo Tạng ngữ. Khi sang được dịch ra Anh ngữ là "bí mật" (secret), nó gây ra nhiều bối rối. Lấy thí dụ khác như chiếc xe hơi, bộ máy là chìa khóa chính, là phần quan trọng nhất. Nếu chúng ta muốn lái xe hay muốn dừng lại hay muốn bất cứ gì, thì đều phải làm qua máy. Thế nên bộ máy xe chính là sang pa.(Nguồn: Xem tại đây)
+ Chướng ngại - Thử thách trong tu hành:
Nay tôi muốn nói với quý vị về một vấn đề rất kỳ lạ—trong nhiều gia đình, mặc dù con cái có khuynh hướng học đòi, bắt chước những điều không tốt, nhưng các bậc làm cha mẹ lại chẳng hề lo âu ngăn cản; họ cho rằng: "Không sao! Ðể chúng được tự do, tùy ý chúng!"
Thoạt nhìn thì thấy các bậc cha mẹ ấy chẳng có gì gọi là khắt khe cả, đối đãi với con cái dường như rất cảm thông, dễ dãi. Ðợi đến khi con cái họ muốn học điều tốt, vừa muốn học Phật Pháp, thì họ lại đùng đùng nổi giận, la mắng con cái rằng thế này là không đúng, thế kia là không phải... Trước kia, lúc con cái họ dùng ma-túy, uống rượu (rượu mê hồn), hút cần sa, con người lúc nào cũng lừ đừ dã dượi, yếu ớt bạc nhược, thì họ đều có thể "nhìn mà không thấy," cứ nghĩ rằng để từ từ chờ cơ hội, từ từ rồi con cái mình sẽ biết theo điều tốt. Song le, đến khi con cái của họ biết tu tỉnh, biết theo điều hay lẽ phải rồi, thì họ lại nổi nóng, trách mắng: "Các cô các cậu muốn học làm điều tốt chứ gì? Vậy thì phải biết ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ. Bây giờ tao phải mắng chúng mày, đánh chúng mày một trận nên thân mới được!"
Quý vị nói xem, phen này có phải là sẽ có chuyện phiền phức xảy ra không? Ðó chẳng qua là để thử thách quý vị - Những kẻ làm con - Là khảo nghiệm quý vị, xem rốt ráo quý vị có phải là chân thật muốn học điều tốt hay không mà thôi! Nếu quý vị chân thật muốn học làm người tốt thì càng bị mắng quý vị càng phải vui mừng, càng bị đòn quý vị càng phải hoan hỷ, và nhớ đừng khóc lóc than van. Các bậc cha mẹ ấy thấy quý vị tươi cười hoan hỷ, thì bao nhiêu hờn giận phiền muộn trong lòng đều tiêu tan cả; còn nếu quý vị không làm được như vậy, thì phiền não của quý vị sẽ càng gia tăng mà thôi.
Quý vị cần phải thấy được rằng hết thảy mọi việc đều là thử thách, đều là để khảo nghiệm bản thân mình, xem mình rốt cuộc có áp dụng được những kiến thức Phật Pháp đã học hay không—có thực hành hạnh nhẫn nhục, có trì giới, có bố thí, có tinh tấn, có thiền định, có trí huệ Bát Nhã hay không. Tất cả đều là thử thách—nếu đạt yêu cầu, vượt qua được thử thách, thì sẽ được lợi ích vô cùng; nếu không vượt qua được, thì lại phải cần cù học thêm nữa.
Phải nhớ rằng:
"Ma Ha Tát, chẳng biết người khác,
Di Ðà Phật, thân ai nấy lo!"
Vậy, quý vị hãy tự kiểm soát chính mình, OK? (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P11- HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tham dục [Tham ái và Dục vọng] - Ngũ dục [Thế gian gọi là Thất tình]: ... Thứ nhất là tham dục. [Khi nói] Tham thì đại đa số là nói về thuận cảnh. Con người gặp lúc vừa lòng xứng ý, chẳng cần biết là hoàn cảnh tinh thần hay hoàn cảnh vật chất, cứ hễ cái gì thuận theo ý mình bèn khởi tâm tham ái. Dục là dục vọng; nhà Phật gọi là Ngũ Dục, thế gian gọi là Thất Tình. Thất Tình Ngũ Dục người đời có ai chẳng tham ái hay chăng? Bởi tham ái Thất Tình Ngũ Dục nên chẳng thể thoát khỏi luân hồi, học Phật cũng chẳng thể thành tựu, học Thiền cũng chẳng thể “đắc Định”, niệm Phật thì hãy khoan nói đến “nhất tâm bất loạn”, dù chỉ “công phu thành phiến” cũng vẫn chẳng thể thành công, học Giáo chẳng thể “khai ngộ”, nguyên nhân chỉ vì chẳng thể buông Ngũ Dục Thất Tình xuống được. (Nguồn: Phật thuyết thanh tinh tâm kinh-PS Tịnh Không giảng)
+ Thất-tình: Hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục - mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham dục; được giới thiệu một cách giản dị như sau:
1. Hỷ: Không nên mừng vui quá độ, mừng thì tình sẽ động; Quá độ cười như phát cuồng
2. Nộ: Không nên giận, giận thì tình sẽ động; Bách bệnh phát sinh, khắp mình gân cốt đau đớn, vì lửa sân đã thiêu đốt cây bồ đề/ Thân thể cháy sạch
3. Ai: Không nên bi ai, bi ai cũng động tình; Cần tiết chế, không để quá độ.
4. Cụ: Không nên sợ hãi, sợ hãi cũng động tình; Tâm sợ hãi tất không được chánh đáng.
5. Ái: Không nên sanh tâm tham ái, bởi tham ái làm cho tình động; Ái: Thấy sắc đẹp thì tham đắm, thấy đồ đẹp của kẻ khác thì muốn chiếm làm của mình.
6. Ố/ Ác: Không nên có lòng chán ghét, chán ghét làm cho tình động; Ác với Ái ngược nhau: Sự dính mắc muốn chiếm và sự chán ghét muốn xả bỏ.
7. Dục: Không nên có dục niệm, dục niệm sẽ làm cho tình động; Tất cả dục niệm đều không tương ưng với Đạo.
>>> Hành giả sẽ bị hoàn cảnh chi phối, lay chuyển được mình, thì định lực sẽ bị tiêu ma, ta sẽ bị làn gió của các loại hoàn cảnh làm cho phiêu bạt, tâm bị lay động, không còn làm chủ được nữa và, khi không có chủ tức thành điên đảo. Tu hành không còn thất tình thì tâm an tịnh thường ở trong Định, đi đứng nằm ngồi dều đang dụng công => Lúc này nhận ra bộ mặt thật của chính mình. (Nguồn: Xem HT Tuyên Hóa giảng); (Sách Nhân Sinh Yếu Nghĩa, Tr136 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Ngũ Dục: Chữ “dục” này là ngũ dục:
1- Tài dục: Ham muốn tiền bạc của cải, vàng ngọc, tài sản vật chất.
2- Sắc dục: Đắm say đam mê sắc đẹp mỹ miều, gồm 6 trần:
- Sắc dục: Ham muốn sắc đẹp, ưa thích tướng tốt.
- Thính dục: Ham muốn tiếng hay, dịu ngọt….
- Hương dục: Ham muốn mùi thơm ngạt ngào….
- Vị dục: Ham muốn đồ ăn thức uống ngon ngọt…
- Xúc dục: Ham muốn sự đụng chạm êm ái, dễ chịu, sung sướng …
- Pháp: Hình ảnh, âm thanh, mầu sắc .... lưu lại ở 5 Trần ở trên
3- Danh dục: Tham muốn địa vị, quyền cao chức trọng, danh thơm tiếng tốt.
4- Thực dục: Tham muốn ăn uống cao lương mỹ vị ngon nhiều.
5- Thùy dục: Tham muốn ngủ nghỉ nhiều (Nguồn)
+ Ngũ dục: Đây là 5 cái gốc của địa ngục - Tâm chúng ta có những thứ này thì tâm này sẽ có bệnh, có độc, nhất định phải hết lòng niệm câu A Di Đà Phật hồi phục lại tâm thanh tịnh của chúng ta (Nguồn).
+ Tại sao con người không nên có Thất tình Lục dục: Vì người sống nặng về tình cảm thường ích kỷ, rế rời xa đường đạo. Mời xem HT Tuyên Hóa khai thị tại: Gậy Kim Cang Hét 1
+ Nghiệp chướng chướng ngại: ... Quý vị không nên "siêng tu tham, sân, si; dứt sạch Giới, Định, Huệ." Nếu quý vị càng ngày càng không có trí huệ, càng ngày càng thêm ngu si, thì đó gọi là "siêng tu làm sao tham, siêng tu làm sao sân và siêng tu làm sao si!" Rồi hằng ngày, tham sân si thì không dứt bỏ được, mà Giới, Định, Huệ cũng chẳng chút tiến triển. Dần dần, quý vị không còn để tâm nghiên cứu xem mình cần phải tu hành như thế nào, phải trì Giới, tu Định, tu Huệ ra làm sao nữa; và những phiền não trong lòng quý vị cứ càng ngày càng gia tăng.
Vì sao lại ra nông nỗi như vậy? Đó là vì nghiệp chướng từ các đời trước của quý vị quá nặng nề. Các nghiệp báo quá nặng nề ấy đeo đuổi theo quý vị, xúi giục quý vị đừng phát Bồ-đề tâm, và xui khiến quý vị cứ xoi mói cái sai của kẻ khác! Từ sáng đến tối, quý vị cảm thấy mình là giỏi giang hơn ai hết, thậm chí còn tài ba lỗi lạc hơn cả thầy của mình nữa: "Thầy tôi không sánh kịp tôi đâu! Quý vị xem, tôi có biết bao là bản-lãnh. Có thể nói rằng trên trời, dưới trời, chỉ độc nhất mình tôi là tôn quý mà thôi!" Những kẻ có quan điểm như thế chắc chắn sẽ đọa lạc! (Nguồn: Kinh 42 Chương - HT T.Hóa)
+ Sự tấn công của Hắc đạo - Một loại sợ hãi thứ ba: Người tìm đạo tiếp xúc ngày càng nhiều khi họ phát triển sức mạnh và tính hữu dụng trong việc phụng sự − dựa trên sự nhận thức về các mãnh lực đang hoạt động chống lại Thiên-Cơ và gây trở ngại cho công việc cần được thi hành. Các cuộc tấn công huyền bí và các năng lực huyền bí, đối chọi với người tìm đạo, sẽ xảy ra; chúng có thể làm cho năng lực của chúng được cảm nhận ở một trong các hiện thể và – trong các trường hợp hiếm có − nơi người tìm đạo khá quan trọng, thì trên tất cả các thể cùng một lúc. Đôi khi chúng sẽ là các cuộc tấn công được nhắm vào người phụng sự riêng lẻ, đôi khi nhắm vào các nhóm người phụng sự. Để chống lại chúng, bạn vận dụng phương pháp đầu tiên với những bổ sung và thay đổi như sau:
* Bạn liên kết chính bạn, hoặc là như một cá nhân, hoặc tạo thành một cá nhân trong một nhóm với linh hồn của chính bạn và với Thánh-Sư Đoàn (Lodge of Masters), không chỉ với Chân Sư của riêng bạn, mà còn với Huynh Đệ Đoàn (Brotherhood) mà bạn đang phục vụ. Kế đó, khi đã đạt được sự yên tĩnh, bạn hình dung ra các Chân Sư mà bạn biết và nâng rung động của bạn lên cao hơn nữa, bạn nối kết, nếu có thể, với các Đức Chohans, với Đức Christ và Đức Bàn Cổ (Manu), tùy theo đường lối, thuộc về tôn giáo hoặc chính trị, mà bạn có thể đang hành động theo đó, và cuộc tấn công sẽ đến theo lối đó. Kế đó bạn tuôn đổ qua chuỗi liên kết, và qua mọi hiện thể (vận-thể) một dòng ánh sáng tím. Phương pháp này chỉ sử dụng khi nhu cầu cấp bách và sự cần thiết lớn lao. Lý do cho sự thận trọng nằm trong hiện thể dĩ thái, thể này vốn đáp ứng mạnh mẽ nhất với màu tím. (LVHLT, 347)
+ Mười Tâm An Trụ - Giảng giải Chú Đại Bi:
Muốn tu hành theo Bồ-tát Đạo thì quý vị cần phải có mười thứ tâm; thế nhưng hễ bị Ma Vương quấy phá thì mười thứ tâm ấy liền bị lung lay, không thể an trụ vững vàng được nữa! Bấy giờ, tâm quý vị vốn “trụ” ở đức Tín song nay thì tín tâm không còn nữa; mà không có tín tâm thì sẽ sanh lòng “bất tín.”
Quý vị muốn giữ tâm trì niệm, nhớ nghĩ - muốn chuyên chú tụng Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng thì Ma Vương lại xui khiến quý vị trở nên ngần ngừ do dự: “Thôi, đi ngủ một giấc cho khỏe!” Và như thế là cái lòng niệm tưởng của quý vị cũng tiêu tan.
“Niệm tâm” không có thì lòng tinh tấn cũng chẳng còn, quý vị không còn hăng hái tu học nữa: “Có chắc là tu hành thì sẽ thành Phật được hay không? Biết đâu đó chỉ là chuyện hoang đường, không đáng tin?” Và thế là cái tâm tinh tấn này cũng chẳng “trụ” được nữa.
Tâm Tinh Tấn không “trụ” thì không có tâm trí huệ - Huệ Tâm cũng chẳng “trụ” được.
Huệ Tâm không “trụ” thì không có Định Tâm - Định Tâm cũng chẳng “trụ” được.
Định không “trụ” thì không có Tâm Bất Thối -“bất thối tâm” liền biến thành “thối tâm.” Hễ sanh tâm thối chuyển thì sẽ không còn lòng hộ trì Phật Pháp; bấy giờ quý vị sẽ khởi những vọng tưởng như: “Mình cần gì phải cúng dường Tam Bảo? Để Tam Bảo cúng dường cho mình chẳng tốt hơn ư?”. Như có những cư sĩ đòi hỏi Tam Bảo phải hộ pháp cho họ, đó cũng là điển hình của trường hợp tâm Hộ Pháp không “trụ” vậy.
Tâm Hộ Pháp không “trụ” thì tâm hồi hướng cũng không “trụ” - không có tâm hồi hướng.
Tâm Hồi Hướng không có thì Giới Tâm cũng chẳng “trụ,” quý vị cũng chẳng còn chú ý thọ trì Giới Luật nữa.
Và cuối cùng là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa; thế thì còn phát nguyện gì nữa? Bấy giờ quý vị sẽ nghĩ ngợi lẩn thẩn: “Tôi không phát nguyện, không hứa hẹn điều gì cả. Tôi muốn thế nào thì cứ thế ấy, tự do biết bao! Tội gì lập nguyện rồi chính mình lại bị ràng buộc bởi lời nguyện đó? Như thế thì gò bó quá, mất tự do nhiều quá!”. Thế là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa.
Như vậy, mười “trụ tâm” biến thành mười “bất trụ tâm.” Vì sao quý vị lại có mười “bất trụ tâm” ư? Đó là do sự phá hoại của Ma Vương! Ma Vương chui luồn len lỏi vào mọi ngỏ ngách trong tâm quý vị, khiến tư tưởng của quý vị có sự biến chuyển.
“Tụng Chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.” Nếu quý vị gặp phải tình trạng như trên, trong lòng cảm thấy phiền não, bứt rứt rối loạn, đó là bởi Ma Vương muốn phá hoại quý vị; bấy giờ, quý vị hãy tụng Chú Đại Bi một biến, tức thì các quỷ thần và Ma Vương sẽ bị tóm bắt và trói gô lại. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Chú Đại Bi)
* Kính lưu ý: Người tu Chú Đại Bi cần hết sức thận trọng khi ứng dụng 42 thủ nhãn ấn pháp, đặc biệt với việc ứng phó với thiên ma quỷ thần, vì như HT Tuyên Hóa giảng, pháp này phải được chân truyền trực tiếp từ vị Thầy tu chánh đạo đã đắc đạo cao. Còn với HT Tuyên Hóa thì ngài và các đệ tử của ngài chỉ Chân truyền "Tâm truyền Tâm" tại một nơi duy nhất là chùa Vạn Phật Thánh Thành ở Hòa Kỳ.
+ (29) Tình trạng vô ký: Những người tu thiền định thường có ba trạng thái trong lúc dụng công, đó là Hôn trầm, Tán loạn, Vô ký. Hôn trầm nghĩa là bị buồn ngủ, ngủ gục, tâm trí không kiểm soát tư tưởng. Tán loạn: Trong lúc chuyên chú theo dõi nội tâm nhưng nhiều loại vọng tưởng khởi lên liên tục, làm cho tâm không định tỉnh được. Vô ký: Nghĩa là không bị hôn trầm, tán loạn, nhưng vọng niệm sinh khởi hành giả không phân biệt là đúng với Pháp tu hay chẳng đúng với Pháp tu, như thế gọi là vô ký. (Nguồn: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo)
+ Hôn trầm - Trạo hối - Nghi hoặc tăng trưởng:
3. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như không hân hoan, biếng nhác, chán nản, ăn quá no, tâm thụ động. Với người có tâm thụ động, này các Tỷ-kheo, hôn trầm thụy miên chưa sanh được sanh khởi, và hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
4. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến trạo hối (Cái tâm bất mãn hay trạo cử và ăn năn hối hận, cùng với những phiền não khiến cho tâm không an tĩnh_thuvienhoasen) chưa sanh được sanh khởi, hay trạo hối đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tâm không được chỉ tịnh. Với người tâm không chỉ tịnh, này các Tỷ-kheo, trạo hối chưa sanh được sanh khởi, và trạo hối đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
5. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi và nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như không như lý tác ý. Do không như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi, và nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
* Thứ tư là trạo hối (lao chao, hối hận): Nói đến Trạo và Hối là nói đến hai sự việc. Trạo là như ta thường nói “trạo cử”, tức là tâm chẳng yên, trong tâm vọmg tưởng quá nhiều, giống như cái guồng kéo nước, bảy cái gầu này đi lên thì tám cái gầu kia đi xuống. Hai hiện tượng này là hai chướng ngại cho việc tọa thiền. Người niệm Phật chúng ta khi đả thất, lúc chỉ tịnh chướng ngại sẽ phát hiện: trong lúc chỉ tịnh, ngồi giữa đại chúng, tâm lý bảy lên tám xuống, liền bị buồn ngủ (hôn trầm). Trong tâm không trấn định được, vọng niệm tơi bời, đó là “trạo cử”. Hối là “hối quá”. Hối hận vốn là việc tốt; nếu về sau hối hận những lầm lỗi trong quá khứ thì là chuyện tốt, nhưng nếu làm những việc tốt mà sau này cũng hối hận thì chẳng còn tốt nữa rồi. Huống chi Phật dạy chúng ta chẳng nên “hậu hối” (về sau hối hận). Bởi lẽ, chúng ta muốn tiêu trừ tội nghiệp mà cứ mỗi lần nghĩ đến tội nghiệp đó, ý nghiệp lại tạo thêm tội nghiệp đó một lần nữa, làm sao tiêu sạch được nghiệp đây? (Nguồn: Phật Thuyết Thanh Tịnh Kinh -PS Tịnh Không giảng)
+ 10. KINH NIỆM XỨ (Satipatthàna Sutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (kiềm-ma sắt đàm) là đô thị của xứ Kuru.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo. Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn. Thế Tôn thuyết như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
(Quán thân)
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: "Tôi quay dài" hay khi quay ngắn, tuệ tri: "Tôi quay ngắn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri:
"Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi, tuệ tri: "Tôi đi", hay đứng, tuệ tri: "Tôi đứng", hay ngồi, tuệ tri: "Tôi ngồi", hay nằm, tuệ tri: "Tôi nằm". Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân như thế ấy.
Vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay vị ấy sống quán thân trên ngoại thân; hay vị ấy sống quán thân trên nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo Sanghati (Tăng già lê), mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm.
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu".
Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: "Ðây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu".
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại". Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đổ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới: "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại".
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương không còn dính thịt, dính máu, còn được các đường gân cột lại, chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn ba năm... chỉ còn là xương thối trở thành bột. Tỷ kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
(Quán thọ)
Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ"; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ"; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ". Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất".
Như vậy, vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội thọ, ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. "Có thọ đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ.
(Quán tâm)
Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: "Tâm có tham"; hay với tâm không tham, tuệ tri: "Tâm không tham". Hay với tâm có sân, tuệ tri: "Tâm có sân"; hay với tâm không sân, tuệ tri: "Tâm không sân". Hay với tâm có si, tuệ tri: "Tâm có si"; hay với tâm không si, tuệ tri: "Tâm không si". Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: "Tâm được thâu nhiếp". Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: "Tâm bị tán loạn". Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: "Tâm được quảng đại"; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: "Tâm không được quảng đại". Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: "Tâm hữu hạn". Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: "Tâm vô thượng". Hay với tâm có định, tuệ tri: "Tâm có định"; hay với tâm không định, tuệ tri: "Tâm không định". Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: "Tâm có giải thoát"; hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: "Tâm không giải thoát".
Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời.
Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.
(Quán pháp)
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có ái dục"; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ái dục". Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có sân hận". Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có nghi". Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư: "Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng tập; đây là tưởng diệt. Ðây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Ðây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt". Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Tỷ-kheo tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... tuệ tri lưỡi... và tuệ tri các vị... tuệ tri thân và tuệ tri các xúc, tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi. Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có niệm giác chi"; hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ý niệm giác chi". Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay Tỷ-kheo nội tâm có trạch pháp giác chi... (như trên)... hay nội tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có hỷ giác chi... (như trên)... hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)... hay nội tâm có định giác chi... (như trên)... hay nội tâm có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có xả giác chi"; hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có xả giác chi". Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ kheo như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ"; như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ tập"; như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt".
Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế.
(Kết luận)
Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn. (Nguồn: Kinh Niệm Xứ)
+ Hai Hạng người: Người học Phật có hai hạng nhất định có thành tựu:
a) Một là người thông minh phi thường, nhà Phật thường gọi là “thượng căn lợi trí”. Hạng người này vừa nghe Phật pháp, giác ngộ ngay lập tức. Sau đó bèn chân chánh y giáo phụng hành, hạng người như vậy nhất định có thể thành tựu.
b) Hạng người thứ hai là “thiện căn sâu dày”. Hạng người đối với những lời giáo huấn của Phật, Bồ Tát bèn nỗ lực vâng làm, họ chẳng cần biết đến lý luận, cứ dựa theo lời chỉ dạy của Phật mà làm theo. Hạng người chân thật như thế có thể thành tựu. (Nguồn: Phật thuyết thanh tinh tâm kinh-PS Tịnh Không giảng)
+ Đẳng cấp Dụng thần và Mệnh chủ: Đây là nói trên cơ sở của phương pháp dự đoán Mệnh theo Tứ trụ - Bát tự mà Nhân Trắc học chúng tôi nghiên cứu và ứng dụng trong Tư vấn Cải mệnh Phát phúc - Phòng họa với các Mệnh chủ. Pháp Tứ trụ nhìn nhận đánh giá về Giầu sang - Phú quý và Danh tiếng - Uy quyền có phần rõ dàng, rễ định tính và định lượng để có thể suy ra biểu đồ Số mạng theo Thời gian phát sinh sự việc cát hung họa phúc khá chính xác. Đây là điểm mạnh của pháp Tứ trụ so với pháp xem Tử vi. Môn Tử vi cũng có điểm mạnh hơn là xem rõ về nghề nghiệp và tướng mạo hay mộ phần ... của Mệnh chủ.
- Đẳng cấp Dụng thần bao gồm các chủ đề chính là "Mục tiêu chọn Dụng - Lấy Nhật can là trung tâm - Nguyên tắc đề cương - Cách chọn Dụng thần - Năng lực của Dụng thần - Đẳng cấp Dụng thần - Đẳng cấp Mệnh chủ - Diệu dụng của Dụng thần".
- Đẳng cấp Mệnh tứ trụ:
1. Pháp đánh giá đẳng cấp Mệnh chủ: Thông thường phân cấp Mệnh chủ theo cấp độ Đức hạnh; Giầu có; Danh tiếng; Uy quyền; Trí tuệ; Thọ Yểu ..v.v..
Dự đoán Hành vận: Cần nhiều suy ngâm, vì nguyên tắc “Lưu thông - Bình hòa” mới là Mệnh quý cách, thế nhưng ngũ hành thì luân chuyển theo chu kỳ Sinh – Vượng – Suy mộ, mà Dụng thần thì cần “Vừa mức” theo nguyên lý quân bình tứ “Trung đạo”.
Đẳng cấp vị Thầy đoán Mệnh: Xác định Đẳng cấp Mệnh chủ là bước cuối cùng của đánh giá Dụng thần Nguyên mệnh, cần nhiều công sức và kiến thức kinh nghiệm sâu rộng của Dịch – Minh – Phật của vị Thầy mới mong có sự chính xác tương đối cao. Thường chia theo hai loại là theo Thế tục và theo Tâm linh.
1. Các loại Đẳng cấp Mệnh chủ: Muốn xác định chính xác và ít sai sót nhất, ngoài xem các yếu tố Mệnh và Hành vận phát phúc hay tán phúc theo Lá số Tứ trụ. Cần gặp gỡ trực tiếp Mệnh chủ để trao đổi nhắm đánh giá sự tiến hóa của Tâm trí người đó thuộc hàng Hạ căn, Trung Căn hay Thượng Căn, từ đó mới mong có được kết luận khá chính xác Đẳng cấp Mệnh chủ. Cũng chia theo hai loại là theo Thế tục và theo Tâm linh.
2. Ba loại Đẳng cấp Mệnh theo Ngũ phúc: Đây là nhóm đa số nhân loại, họ sống thiên hẳn về vị kỷ cá nhân và nhóm cùng lợi ích của họ. Họ sống khá thuần về Dục vọng và coi sự chết là hết, chẳng có nhân quả luân hồi. Căn cứ ngũ Phúc có thể phân làm 3 loại Đắng cấp Mệnh Chủ: Sống Thọ - Phú Quý - Thiện trí
3. Ba nhóm Đẳng cấp Mệnh theo Hạng người: Tiêu trí này phù hợp với đối tượng mà Lá số biểu hiện Nghiệp báo tiền kiếp họ đã có thành tựu nhất định về "Phước Huệ song tu”. Lá số biểu lộ họ có Trí tuệ phân biện được nhận biết qua Ngũ hành Thanh Thuần, Mệnh lưu thông có tình. Tiền tài nhiều ít là thứ yếu, chia làm ba nhóm Hạng người phổ biến: Hạ căn - Trung căn - Thượng căn hoặc Hạ đẳng - Trung đẳng - Thượng đẳng hoặc kết hợp. Ví vụ Mệnh chủ thuộc hàng Hạ đẳng Trung căn.
+ Hạng người thiện trí - Người tham vô độ
2. Có hai hạng người ... khó tìm được ở đời.... Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm.
3. Có hai hạng người .... khó tìm được ở đời.... Người thỏa mãn và người làm người khác thỏa mãn.
4. Có hai hạng người ... khó làm cho thỏa mãn.... Người cất chứa các lợi dưỡng và người phung phí các lợi dưỡng.
5. Có hai hạng người ... dễ làm thỏa mãn. ... Người không cất chứa các lợi dưỡng và người không phung phí các lợi dưỡng. (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương hai pháp)
+ Tham dục [Tham ái và Dục vọng]: Chánh kinh: Một là tham dục; hai là nóng giận; ba là hôn trầm say ngủ; bốn là lao chao, hối hận; năm là ngờ vực. Năm thứ cái chướng này phải nên trừ dứt
“Cái” là che đậy. “Chướng” là chướng ngại. Nói cách khác, năm thứ trên che đậy cái tâm thanh tịnh của chúng ta, khiến tâm thanh tịnh chẳng thể hiện tiền, hoàn toàn bị chướng ngại, chứ nào phải chẳng có tâm thanh tịnh. Do vậy, nhất định phải trừ khử năm thứ này. Tiếp theo đây, chúng ta bàn về từng thứ.
Thứ nhất là tham dục. [Khi nói] Tham thì đại đa số là nói về thuận cảnh. Con người gặp lúc vừa lòng xứng ý, chẳng cần biết là hoàn cảnh tinh thần hay hoàn cảnh vật chất, cứ hễ cái gì thuận theo ý mình bèn khởi tâm tham ái. Dục là dục vọng; nhà Phật gọi là Ngũ Dục, thế gian gọi là Thất Tình. Thất Tình Ngũ Dục người đời có ai chẳng tham ái hay chăng? Bởi tham ái Thất Tình Ngũ Dục nên chẳng thể thoát khỏi luân hồi, học Phật cũng chẳng thể thành tựu, học Thiền cũng chẳng thể “đắc Định”, niệm Phật thì hãy khoan nói đến “nhất tâm bất loạn”, dù chỉ “công phu thành phiến” cũng vẫn chẳng thể thành công, học Giáo chẳng thể “khai ngộ”, nguyên nhân chỉ vì chẳng thể buông Ngũ Dục Thất Tình xuống được. (Nguồn: Phật thuyết thanh tinh tâm kinh-PS Tịnh Không giảng)
+ Tham lam và Vô minh:
Tâm bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát.
Tâm bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập. => Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát (Nguồn: Phẩm người ngu - Kinh Tăng Chi Bộ)
+ Cần phân biệt hiểu cho đúng lời Phật dậy: Hỏi: Nếu con người không “tham” thì xã hội làm sao tiến bộ? Không “si” thì làm sao có hằng tâm2? Không “sân” thì làm sao có sức bi phẫn?
Ðáp: Bạn đừng lầm lẫn nhé! Chấn-tác có nghĩa là làm cho tốt hơn, chứ không phải là tham lam. Ðó là sự nỗ lực làm việc mà chẳng có chút vọng tham, vọng cầu. Si là gì? Si tức là làm những việc ngu si như cờ bạc, chơi xổ số, đánh lô-tô, v.v… Sân tức là nổi giận. Tất cả đều là những hành vi ngu si. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giải đáp)
+ Tham Lam: Theo Phật pháp, tham là sự đắm say, sự ham muốn, sự đam mê một điều gì đó. Cốt lõi của lòng tham nằm ở 5 nhu cầu của con người: Tài (tài sản), sắc (sắc đẹp, hình thức bên ngoài), danh (danh thơm, tiếng tốt), thực (ăn uống), thùy (ngủ nghỉ). Khi ham muốn về 1 trong thứ này dâng lên cao hơn mức bình thường, con người sẽ nảy sinh lòng tham và được hiển hiện với những hành động, lời nói của mình.
- Phật nói: “Lòng tham càng lớn, phúc đức lại càng tiêu tán”. Vì sao? Tham thường đi liền với ác. Người tham muốn đoạt được thứ mình muốn, lại sinh làm điều ác để thỏa mãn cho mình.
- Những dẫn dụ về lòng tham luôn đầy rẫy trong cuộc sống hằng ngày:
Người vì lòng tham mà cố gắng gầy dựng sự nghiệp, khi có của ăn của để rồi lại ưu tư lo nghĩ sợ trộm cắp.
Người giàu sang có tiền của bo bo giữ gìn, sống ích kỷ với kẻ ăn người làm, tằn tiện bố thí, khi bị mất của thì đám ngực khóc than, mất ăn mất ngủ. Lại có người giàu có bạc vạn mà chỉ chăm chút để dành, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc.
Quan lại, người có chức tước vì lòng tham mà bớt xén của công, ăn của hối lộ, bóc lột sức lao động người khác.
Người vì lòng tham mà lao vào cờ bạc, cá độ, lô đề, dẫn đến tán gia bại sản. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tham lam - Theo Minh triết mới: Điều này có liên quan đến tội hám lợi, mà theo nghĩa đen là ăn cắp trên cõi hạ trí. Tội tham lam có thể đưa tới bất kỳ tội lỗi nào trên cõi trần và rất mạnh mẽ. Nó liên quan tới trí lực (mental force) và là một thuật ngữ phổ cập bao hàm các ước muốn mãnh liệt mà vị trí của chúng không những ở nơi thể cảm dục mà còn ở trong thể hạ trí nữa. Thánh Paul đã đưa ra giới không tham lam khi nói rằng: “Trong bất cứ tình huống nào, ta vẫn học cách toại nguyện (content)”. Cần phải đạt được trạng thái đó trước khi thể trí được tịch lặng đến mức mà mọi sự việc của linh hồn có thể thấu nhập được.(ASCLH, 186)
+ Tham lam: Yama (hay năm giới răn: Không gây tổn hại, chân thật với cả chúng sinh, không trộm cắp, không buông lung tình dục và không tham vọng) là bổn phận chung của mọi người, dù họ thuộc giống dân nào, đang ở đâu, vào thời gian hay tình trạng khẩn trương thế nào. Khi hoàn toàn không tham lam, hành giả thấu hiểu luật tái sinh (Tài liệu MF-QU1- 100.3)
1. THAM LAM - ĐỐI TRỊ= GIỮ GIỚI TRONG GIỚI ĐỊNH TUỆ:
+ “Tham” là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu.
+ Đối trị Tâm tham: Nếu có tâm tham thời phải “tu tâm” ngay, phải tập tính “thiểu dục tri túc”. Thiểu dục là muốn ít, tri túc là biết đủ. Người thiểu dục, tri túc thì có một đời sống giản dị, thanh cao và an toàn vì biết đủ với những thứ mình đã có. Bỏ dần lòng tham đi để đạt tới được “vô tham”. Vô tham là không tham lam.
+ Đức Phật dạy rất thực tế: “Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn”
Lòng tham của con người giống như cái túi không có đáy, cái túi không có đáy thì dù có đựng bao nhiêu vàng bạc của quý cũng không thể nào đầy được. Cũng vậy, lòng tham của con người thì vô độ nên không có điểm dừng, không có giới hạn, mà lại vô hạn…
Tham lam không phải bản chất của con người, Phật dạy rằng, bất kể ai sinh ra đều như tờ giấy trắng, đều có trái tim thuần hậu và thiện lương. Nỗi tham lớn dần lên theo năm tháng, theo những điều mà con người muốn sở hữu và đang sở hữu. Càng có nhiều càng tham nhiều, càng mong nhiều lại càng tham nữa.
Dục vọng không bao giờ dừng lại, lòng tham tạo nên dục vọng và dục vọng phóng đại lòng tham. Nếu không biết tiết chế, kìm nén lòng tham thì chắc chắn con người sẽ rơi vào tai họa. Vì như Phật đã nói, lòng tham nổi lên, phúc đức tiêu tán. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Mời xem: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si
+ Mời xem: PS Tịnh Không Giảng Tham - Sân - Si Và Ái dục)
+ Xem thêm: HT Tuyên Hóa khai thị về Ái Dục
+ Xem tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
+ Làm giầu bền vững - Giữ được tiền tài: Các tài sản của người ấy nếu không thọ dụng chơn chánh, thời vua chúa sẽ cướp đoạt, hay trộm cắp cướp đoạt, hay bị lửa đốt, hay bị nước cuốn trôi, hay bị con cháu thừa tự thù nghịch cướp đoạt. Sự việc là như vậy, các tài sản nếu không thọ dụng chơn chánh, đưa đến tổn giảm, không đưa đến thọ hưởng.(Tương Ưng Bộ Kinh I. 202); - "...
+ Quy luật sanh diệt: ... Ví như tất cả đồ gốm do người thợ gốm làm ra, chưa nung chín hay đã nung chín, tất cả đồ gốm ấy đều phải bể, đều kết thúc trong sự bể, đều không vượt qua sự bể. Cũng vậy, tất cả chúng sanh đều phải chết, đều kết thúc trong sự chết, đều không vượt qua sự chết. (Tương Ưng Bộ Kinh I. 217)
+ Nghiệp giầu có: Đức Phật: - Thật sự là vậy, thưa Đại vương. Thật sự là vậy, thưa Đại vương. Ít thay là những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, lại có thể không bị lôi cuốn, không bị chìm đắm, không bị say mê trong các dục và không có những hành vi không tốt đẹp đối với người khác. Trái lại, thật là nhiều thay những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, có thể bị lôi cuốn, bị chìm đắm, bị say mê trong các dục và có những hành vi không tốt đẹp đối với các người khác.
Loài người bị đắm say,
Trong tài sản, trong dục,
Họ tham lam, điên dại,
Trong các dục ở đời,
Không ý thức rõ ràng,
Đã quá độ say mê,
Chẳng khác gì con nai,
Không thấy đặt bẫy sập,
Về sau họ khổ đau,
Chịu quả báo ác nghiệp.
(+ Trích: Kinh Người hưởng dục, Tăng chi bộ.; Kinh Thiểu số, Tương ưng bộ. Nguồn: Trở nên giầu có)
+ Quản lý tiền tài: Khi Đức Phật trú ngụ ở Vườn Sóc (Kalandakanivàpa, chỗ tìm ăn của loài sóc) tại Trúc Lâm (Veluvana) gần thành Vương Xá (Ràjagaha), ngài đã gặp chàng trai Sigàla và đã dạy cho anh bí quyết về quản lý tiền bạc như sau:
“Người trí hiền, đức hạnh
Sáng ngời như ánh lửa
Gầy dựng nên tài sản
Bằng nghiệp thiện, nghề lành.
Như con ong chăm chỉ
Tha mật về thành tổ
Của cải lúc càng nhiều
Như tổ kiến xây thành.
Làm giàu theo cách này
Đúng cách người tại gia
Tiền của chia bốn phần
Được bạn bè khen ngợi.
Một phần chi cá nhân
Hai phần việc làm ăn
Một phần dành tiết kiệm
Phòng bất trắc rủi ro”.
(Kinh "Lời khuyên dạy Sigàla", bản dịch từ tiếng Anh của Lê Huy Kha. Nguồn: Phật dậy bí quyết quản lý tiền tài).
+ TÂM DỤC - THAM DỤC:
... Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na! Sở dĩ có ba thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm ..... Khi tư tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau thì con người trôi nổi trong sinh tử trầm luân. Lúc thì tái sinh làm cha, làm mẹ. Khi thì đầu thai làm con làm cháu, lên xuống không cùng không tận. Tưởng ái đồng kết lại thì lòng yêu thương không thể rời cho nên cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em… sanh nhau trong thế gian không bao giờ dứt. Cái khổ quả sinh tử này chung quy cũng tại vì lòng tham dục.
Tham và ái hổ tương cho nhau thì lòng tham không bao giờ ngừng dứt. Con người vì bị vô minh che lấp nên chạy theo ái dục mà phải chịu luân hồi. Thí dụ, bà vì quá thương cháu mà tái sinh làm con của cháu mình. Vì thế mà thế giới này mới là dục giới. Một khi tâm dục nghĩa là lòng mình muốn chiếm hữu hay đoạt lấy vật gì thì lòng tham bắt đầu phát khởi. Một khi lòng tham phát khởi thì tất cả các loài như thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh tùy theo sức mạnh của nó mà ăn nuốt những loài khác để tạo thành sát nghiệp. Thí dụ, con cọp ăn thịt con nai yếu đuối. Loài người săn bắn giết hại vô số súc vật. Ở biển cả sông ngòi, cá lớn nuốt cá bé… Bởi cũng vì sát nghiệp mà loài người, loài vật thay nhau tái sinh để chịu quả báo luân hồi. Thí dụ con người đi săn giết hại con nai. Con nai chết tức tưởi nên một kiếp nào đó nó tái sinh làm người và cũng đi săn để giết chết con nai khác chính là người thợ săn quả báo làm nai. (Nguồn: các đại và thế giới tương tục)
- Tham lam: thì đại đa số là nói về thuận cảnh. Con người gặp lúc vừa lòng xứng ý, chẳng cần biết là hoàn cảnh tinh thần hay hoàn cảnh vật chất, cứ hễ cái gì thuận theo ý mình bèn khởi tâm tham ái/ muốn chiếm giữ.
- Dục là dục vọng: nhà Phật gọi là Ngũ Dục, thế gian gọi là Thất Tình. Thất Tình Ngũ Dục người đời có ai chẳng tham ái hay chăng? Bởi tham ái Thất Tình Ngũ Dục nên chẳng thể thoát khỏi luân hồi, học Phật cũng chẳng thể thành tựu, học Thiền cũng chẳng thể “đắc Định”, niệm Phật thì hãy khoan nói đến “nhất tâm bất loạn”, dù chỉ “công phu thành phiến” cũng vẫn chẳng thể thành công, học Giáo chẳng thể “khai ngộ”, nguyên nhân chỉ vì chẳng thể buông Ngũ Dục Thất Tình xuống được. (Nguồn: Kinh Thanh Tịnh Tâm-PSTK)
+ Tam độc Tham Sân Si. Tuy là nói ba thứ “tham sân si”, ba thứ này nếu quy thành một thì chính là Tham (PS Tịnh Không_Kinh Thập Thiện, Tập 29)
- Phật dạy rằng: “Nguồn cội của mọi khổ đau trên đời đều từ 3 việc mà ra: tham, sân, si”. Trong đó, tham đứng hàng đầu, tuy nhiên phàm là con người ở đời, ai cũng có lòng tham. Từ chữ tham mới nổi lên sân hận, mới khiến con người si mê u tối, từ đó gây nên nghiệp ác.
I. Dục vọng (desire):
- Dục vọng là sức mạnh của phàm ngã (form nature). (CTHNM, 388)
- Dục vọng xuất phát từ cõi cảm dục, tạo ra biểu lộ trên cõi trần. (LVLCK, 692)
- Dục vọng là việc gắn bó (attachment) với các đối tượng vui thích (objects of pleasure).(ASCLH, 134)
- Dục vọng vốn là ý chí trên cõi thấp. (KCVTT, 248)
- Chừng nào mà con người chưa tiến gần đến tính thiêng liêng (divinity, Phật tánh) thì con người vẫn còn cần đến các thôi thúc của dục vọng (the urgings of desires), và dục vọng chỉ trở nên trong sạch hơn (purer) và bớt đi tính vị kỷ khi con người càng tiến tới. Tuy thế, các dục vọng đều trói buộc con người vào vòng luân hồi, và nếu muốn được giải thoát, con người phải diệt hết dục vọng. (MTNX, 297)
- Dục vọng là Ý Chí bị bao phủ trong chất cảm dục (astral matter).(KCVTT, 237)
+ Dục vọng - Hạ trí: Là chất trí cảm, tức Thể cảm dục được pha trộn với Thể hạ trí một cách yếu ớt và là lớp áo bằng vật chất của mọi dục vọng và cảm giác của chúng ta, nhờ đó, chúng được biểu hiện. (ASCLH, 10, 24)
+ Đa phần nhân loại ngày nay sống trong dục vọng, dù đó là dục vọng tốt, dục vọng tinh thần hay những ham muốn xấu xa hoặc ích kỷ. Đức D.K dùng một câu bao trọn điều nầy: Nhân loại (chưa giác ngộ và thường nhân) sống, chuyển động, và tồn tại thông qua luân xa tùng thái dương nầy. Đối với một thường nhân những ham muốn, dục vọng lại là những động lực giúp họ tiến hóa. Những ham muốn, tham vọng, xúc động chính thực đều là năng lượng hay mãnh lực trên cõi trung giới vì “Tất cả đều là năng lượng” (Bài thiền số 1 Chân Sư DK; GQ2)
+ Đức Phật dạy rất thực tế: “Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn”
Lòng tham của con người giống như cái túi không có đáy, cái túi không có đáy thì dù có đựng bao nhiêu vàng bạc của quý cũng không thể nào đầy được. Cũng vậy, lòng tham của con người thì vô độ nên không có điểm dừng, không có giới hạn, mà lại vô hạn…
Tham lam không phải bản chất của con người, Phật dạy rằng, bất kể ai sinh ra đều như tờ giấy trắng, đều có trái tim thuần hậu và thiện lương. Nỗi tham lớn dần lên theo năm tháng, theo những điều mà con người muốn sở hữu và đang sở hữu. Càng có nhiều càng tham nhiều, càng mong nhiều lại càng tham nữa.
Dục vọng không bao giờ dừng lại, lòng tham tạo nên dục vọng và dục vọng phóng đại lòng tham. Nếu không biết tiết chế, kìm nén lòng tham thì chắc chắn con người sẽ rơi vào tai họa. Vì như Phật đã nói, lòng tham nổi lên, phúc đức tiêu tán. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Mời xem: Phật dậy về Tam độc Tham Sân Si
+ Mời xem: PS Tịnh Không Giảng Tham - Sân - Si Và Ái dục)
+ Xem thêm: HT Tuyên Hóa khai thị về Ái Dục
+ Xem tổng hợp về Ái dục_Hòa Thượng Tuyên Hóa rất hay
+ Trong giấc mộng - Giấc mỵ mơ thấy quỷ thần - Mơ thấy ma quỷ - Mơ thấy vong linh - Mơ thấy vong hồn người đã chết
"Lại nữa, này Phổ Quảng! Như những chúng sanh ở đời vị lai, hoặc trong mộng trong mị, trông thấy các quỷ thần cùng các hình bóng khác, hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt; đây đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ, còn đang bị đọa lạc trong ác đạo, chưa được ra khỏi, lại không trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt, nên mới mách bảo với kẻ có tình cốt nhục trong đời trước, khiến làm phương tiện hầu mong được thoát khỏi ác đạo.
Này Phổ Quảng! Ông nên dùng thần lực khiến hàng quyến thuộc đó đối trước tượng của chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc Kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc, đủ số ba biến hoặc bảy biến. Như vậy, kẻ quyến thuộc đang ở trong ác đạo kia, khi tiếng tụng kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, cho đến trong mộng trong mị không thấy hiện về nữa."
Lược giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi Bồ Tát Phổ Quảng mà bảo rằng: "Lại nữa, này Phổ Quảng! Như những chúng sanh ở đời vị lai, hoặc trong mộng trong mị..."
"Mộng" là giấc mộng xảy đến khi chúng ta ngủ say rồi; còn "mị" là lúc chúng ta mới chập chờn, chưa thật sự đi vào giấc ngủ. Không phải là tỉnh hẳn mà cũng không phải là ngủ hẳn, thì gọi là "mị"; nếu hoàn toàn tỉnh táo thì gọi là "ngộ" (thức, tỉnh ngủ) chứ không phải là "mị." "Giả mị" tức là lúc mắt nhắm lại, lim dim sắp ngủ.
"Mộng" thì có rất nhiều loại:
1) Giấc mộng do tập khí vô minh (Vô minh tập khí mộng). Bởi vô minh nên có thói quen hồ đồ, rồi vì thế mà những việc thấy trong mộng cũng lộn xộn, không mạch lạc rõ ràng, đến khi ngủ dậy thì chẳng còn nhớ gì cả.
2) Giấc mộng báo trước việc lành hay dữ (Thiện ác tiên trưng mộng), cũng gọi là " giấc mộng dự đoán việc may hoặc rủi (kiết hung dự cáo mộng)" . Ðây là loại mộng báo điềm, mách cho người nằm mộng biết trước là sẽ có chuyện tốt hay xấu, lành hay dữ, may hay rủi, sắp xảy ra.
Có lần, Hư Vân Lão Hòa Thượng mộng thấy Ðức Lục Tổ dạy rằng: "Ông hãy trở về đi! Hãy về bên đó làm một vài công việc!" Lão Hòa Thượng nghe nói như thế thì cứ đinh ninh là mình sắp chết tới nơi rồi, cho nên Lục Tổ mới bảo "trở về"; về sau mới vỡ lẽ là Lục Tổ dặn Ngài đến Nam Hoa Tự để tu bổ chùa chiền! Ðây là thuộc loại mộng báo điềm lành; sự việc chưa xảy ra song Ngài Hư Vân được Ðức Lục Tổ báo mộng, mách bảo cho biết trước.
Có người mộng thấy được mách bảo rằng: "Anh cần phải cẩn thận một chút, coi chừng ngày mai bị đụng xe mà chết đấy!" Anh ta chẳng tin, thế nhưng ngày hôm sau quả nhiên anh ta bị đụng xe mà chết thật! Ðây gọi là "kiết hung tiên trưng mộng," hoặc "thiện ác tiên trưng mộng," tức là giấc mộng báo trước việc may rủi, lành dữ sắp xảy ra.
3) Giấc mộng do Tứ Ðại chênh lệch (Tứ Ðại thiên tăng mộng). "Tứ Ðại" là địa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa), phong (gió). Theo các sách y học của Trung Hoa thì có bốn trăm bốn mươi (440) chứng bệnh, và tám trăm tám mươi (880) phương thuốc để chữa trị. Kỳ thật, con người có tới tám vạn bốn ngàn (84.000) chứng bệnh, cho nên Ðức Phật mới nói ra tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn để đối trị tám vạn bốn ngàn chứng bệnh đó.
Khi Tứ Ðại—địa, thủy, hỏa, phong—chênh lệch, tăng giảm không đồng nhau, thì cơ thể sẽ sanh bệnh. Chẳng hạn, nếu "địa" nhiều ("địa" thuộc về "thổ") thì xung khắc với "thủy," thế là sanh bệnh; "hỏa" nhiều thì khắc "thủy," thế là cũng sanh bệnh; "phong" nhiều thì khắc "địa," thế là cũng sanh bệnh. Những loại bệnh này được gọi là "Tứ Ðại thiên tăng bệnh" (bệnh do Tứ Ðại chênh lệch) hoặc "Tứ Ðại bất điều bệnh" (bệnh do Tứ Ðại không điều hòa). Người bị bệnh do Tứ Ðại mất quân bình cũng có thể nằm mộng, và đó gọi là "Giấc mộng do Tứ Ðại chênh lệch".
4) Giấc mộng tìm gặp bạn cũ (Tầm hữu cựu thời mộng). Thí dụ trước kia quý vị có quen một người nào đó song đã lâu rồi không gặp mặt, đến lúc chiêm bao thấy người đó tới chơi thì tay bắt mặt mừng, rất là vui vẻ; nhưng sau khi tỉnh giấc mới vỡ lẽ ra tất cả đều là giả—đó gọi là " Giấc mộng tìm gặp bạn cũ" vậy.
Trên đây là nói về một vài loại "mộng."
Như vậy, nếu có người nào trong mộng, trong mị, hoặc trong lúc mơ màng sắp ngủ, "trông thấy các quỷ thần cùng các hình bóng khác, hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt..." Các quỷ thần này hiện ra với đủ thứ hình tướng kỳ dị—mặt xanh, tóc đỏ, miệng to, răng nanh dài như ngà voi chìa ra khỏi miệng... Ngoài ra, trong cơn mộng mị, người này còn trông thấy vô số hình bóng ma quái đáng sợ khác hiện ra, và khi vừa trông thấy người này thì các bóng ma ấy liền òa khóc tức tưởi, nước mắt nước mũi đầm đìa. Các bóng ma đó dáng điệu rất thiểu não, vừa nhìn là thấy ngay vẻ u ám ủ dột, rầu rĩ không vui, hoặc khiến cho người khác vô cùng kinh hãi. Có bóng ma lại cứ thở dài não nuột: "Ôi chao! Than ôi! Ôi!"
"Ðây đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ." Những quỷ thần hoặc hình bóng lạ mà quý vị thường gặp trong mộng hoặc trong mị có thể là cha mẹ của quý vị trong các đời trước. Cho nên, quý vị phải xem tất cả chúng sanh như là cha mẹ của mình trong đời quá khứ và là chư Phật trong đời vị lai. Và chính vì thế, quý vị cần phải chu toàn hiếu đạo, chớ nên quấy nhiễu, não loạn chúng sanh.
Như vậy, trong mộng hoặc trong mị quý vị có thể thấy vong linh của cha mẹ, anh em, chị em, vợ chồng, hoặc thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời trước "còn đang bị đọa lạc trong ác đạo, chưa được ra khỏi." Vì đã trót gây ra tội lỗi nên họ bị đọa vào các ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—và cho đến nay vẫn chưa được thoát ra. Thêm vào đó, họ "lại không trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt." Các vong linh này lại chẳng có nơi nào để bám víu với hy vọng là sẽ có người lo tụng Kinh và làm việc công đức để giúp cho họ được siêu độ, "nên mới mách bảo với kẻ có tình cốt nhục trong đời trước, khiến làm phương tiện hầu mong được thoát khỏi ác đạo."
Theo Phật Giáo, tại sao lại có lệ tụng Kinh cho người đã quá vãng và ngay cả người còn sống? Bởi vì trong Kinh Ðịa Tạng đã dạy như thế! "Phước lực" ở đây tức là công đức tụng Kinh. Thế thì, vì những vong linh đó không có nơi nào để kỳ vọng là mình sẽ được cứu vớt, nên họ bèn báo mộng, nói cho những kẻ có tình cốt nhục với họ từ đời trước được biết; cầu mong rằng những người ấy sẽ vì họ mà dùng nhiều phương tiện để làm việc công đức, giúp họ thoát khỏi các ác đạo.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi: "Này Phổ Quảng! Ông nên dùng thần lực—sức thần thông—khiến hàng quyến thuộc đó đối trước tượng của chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc Kinh này. Ông hãy làm cho thân nhân đời trước của các vong linh đó đem lòng chí thành khẩn thiết mà tự đọc tụng Kinh Ðịa Tạng, hoặc thỉnh người khác đọc."
Nếu hàng quyến thuộc vì lý do nào đó nên không thể tự đọc tụng được, thì họ có thể bỏ tiền ra nhờ người khác tụng Kinh Ðịa Tạng giúp cho vong linh. Bất luận là ai, người đó đều phải tụng "đủ số ba biến hoặc bảy biến." "Ba" và "bảy" đều là số dương. Những số 1, 3, 5, 7, 9 đều thuộc dương và là số lẻ; còn những số 2, 4, 6, 8 thì thuộc âm và là số chẵn. Số dương là biểu hiện của sự phá trừ nghiệp tội địa ngục.
"Như vậy, kẻ quyến thuộc đang ở trong ác đạo kia, khi tiếng tụng Kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, cho đến trong mộng trong mị không thấy hiện về nữa." Khi tụng xong Kinh Ðịa Tạng, đủ số ba biến hoặc bảy biến, tiếng tụng Kinh vừa dứt thì những vong linh quyến thuộc đang trầm luân trong ác đạo kia cũng đều được giải thoát, và trong mộng lẫn trong mị, quý vị đều vĩnh viễn không còn thấy họ hiện về như thế nữa. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - P6- HT Tuyên Hóa giảng)
+ A Nan Thất mộng: Tôn giả A-nan ở nước Xá-vệ thấy bảy điềm mộng đến thưa hỏi Đức Phật:
Thấy ao hồ lửa bốc cháy ngút trời.
Thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao rơi rụng.
Thấy Tỳ-kheo xuất gia trở lại ở trong vũng bùn ô uế, còn cư sĩ tại gia thì ngoi đầu vượt ra.
Thấy bầy heo đến húc rừng cây chiên-đàn.
Thấy đầu đội núi Tu-di mà không thấy nặng.
Thấy voi mẹ bỏ voi con.
Thấy sư tử chúa, hoa đẹp rải trên đầu và có bảy sợi lông dài nằm trên đất mà chết. Những loài cầm thú thấy vẫn sợ sệt, sau thấy trong thân giòi bò ra, liền đến ăn thịt.
Tôn giả A-nan đem những mộng ác này thưa hỏi Đức Phật.
Bấy giờ, Phật đang thuyết pháp trên giảng đường Phổ hội, tại nước Xá-vệ cho vua Ba-tư-nặc, nói về pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo, làm cho an lạc, thấy Tôn giả A-nan sắc mặt buồn rau lặng thinh không nói, Phật bảo Tôn giả A-nan:
– Những điềm mộng của ông đều thuộc về đời ác năm trược sau này, không tổn hại gì đến ông, tại sao lại buồn?
Điềm mộng thứ nhất thấy ao hồ lửa bốc cháy ngút trời là sau này Tỳ-kheo tâm thiện giảm dần, ác nghịch bạo phát, sát hại lẫn nhau không thể nói hết.
Điềm mộng thứ hai thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao rơi rụng là sau khi Phật Niết-bàn, tất cả Thanh văn cũng Niết-bàn theo Phật, không trụ ở đời, con mắt của chúng sinh diệt mất.
Điềm mộng thứ ba thấy Tỳ-kheo xuất gia trở lại trong vũng bùn ô uế, còn cư sĩ tại gia thì ngoi đầu vượt ra, là đời sau Tỳ-kheo ôm lòng ác độc, ganh ghét, sát hại lẫn nhau, đạo sĩ chém giết, cư sĩ nhìn thấy can gián chẳng nghe, chết bị đọa địa ngục, cư sĩ tinh tấn chết sinh lên cõi trời.
Điềm mộng thứ tư thấy bầy heo đến húc rừng cây chiên-đàn, là đời sau cư sĩ đi đến chùa tháp phỉ báng chúng Tăng, tìm chỗ tốt xấu, phá tháp hại Tăng.
Điềm mộng thứ năm thấy đầu đội núi Tu-di mà cảm thấy không nặng, là sau khi Phật Niết-bàn, Tôn giả A-nan sẽ làm thầy giảng nói kinh cho một ngàn vị A-la-hán, một câu cũng không quên. Người nghe được giác ngộ rất nhiều, mà chẳng cho là quan trọng.
Điềm mộng thứ sáu là thấy voi mẹ bỏ voi con, là đời vị lai tà kiến hoành hành, phá hoại pháp Phật, còn người có đức thì ẩn không xuất hiện.
Điềm mộng thứ bảy thấy sư tử chết là sau khi Phật Niết-bàn một ngàn bốn trăm bảy mươi năm, các đệ tử của ta chuyên tâm tu đức, tất cả ma ác không phá hoại được; còn bảy sợi lông dài là việc của bảy trăm năm sau. (Nguồn: A Nan Thất mộng)
+ Ma chướng - Phiền lão ma: ...... Thái tử ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ-đề suốt 49 ngày đêm, và trong 49 ngày đêm đó, Ngài đã không ngừng chiến đấu với bọn Ma-vương. Ma vương ở đây không chỉ giản dị như là những bọn quỷ sứ, răng nanh, sừng nhọn, hoặc là đầu trâu, mặt ngựa, đến bao vây để cố tìm mọi cách hãm hại Ngài, mà Ma vương ở đây chính là: Phiền não ma, Ngũ uẩn ma, Pháp hành ma, Tứ diệt ma, và Chư thiên ma. Vậy ảnh hưỡng của nó như thế nào?
1) Phiền não ma: Đức Phật đã giải thích phiền não ma trong một đoạn kinh sau đây: “Này Ma vương, dục lạc là ma quán thứ nhất, hai là bất mãn, ba là đói khát, bốn là ái dục, năm là uể oải, buồn ngủ, sáu là sợ hãi, bảy là hoài nghi, tám là phỉ báng và cố chấp, chín là danh lợi, và mười là tự cao, tự đại, kênh kiệu. Này Ma vương, hùng binh của ngươi là thế, chúng luôn luôn thường trụ trong con người xấu xa đê tiện, kẻ hèn yếu thì thất bại, nhưng người nào hạnh phúc được chứng sẽ đạt được chân hạnh phúc. Ta thà chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại”.
Vì đã biết rõ đối thủ của mình như thế nào, nên với sự kiên tâm và thủ chí, Ngài đã khắc phục được phiền não ma với tâm nguyện chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ. Chiến thắng phiền não ma là một chiến thắng từ trong nội tâm và vì thế sự chiến thắng này sẽ chứng tỏ lối tu hành khổ hạnh khi xưa là lầm đường, lạc hướng.
2)Ngũ uẩn ma: Trong chúng ta ai ai cũng có một cái gọi là cái Ta. Cái Ta chính là sự tạo thành bởi ngũ uẩn, mà ngũ uẩn thì gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì năm món nầy quay cuồng biến chuyển không ngừng trong ta, lúc thì sanh, lúc thì diệt, lúc thì ẩn, lúc thì hiện. Cũng vì sự biến đổi nầy mà đã phát sinh ra không biết bao nhiêu là vọng tưởng trong tâm của chúng ta, hay nói một cách khác là ngũ uẩn chính là vọng tưởng về bản ngã. Do đó, chúng ta có thể nói bản ngã là vọng huyển, vô tưởng, hay ảo giác. Khi đã nhận thấy rõ sự nguy hiểm của cái bản ngã nầy, thì Đức Phật phải phá cho bằng được cái Ta của sự vô thường, có tan, có hợp để đạt đến sự an vui thanh tịnh.
3) Pháp hành ma: Ma chướng nầy có ý ám chỉ những hành động tạo Nghiệp của Thân, Khẩu, Ý. Những Nghiệp thiện ác này phát xuất từ phiền não và cũng chính nó đã đưa sự đau khổ càng lúc càng tăng và như thế thì kiếp luân hồi sẽ xoay vần bất diệt. Bởi thế Đức Phật dạy rằng: “Vì bị chi phối bởi tham lam, sân hận, si mê mà Nghiệp hình thành, đó là căn nguyên của mọi đau khổ. Đoạn diệt được tham, sân, si tức là hủy diệt động lực hình thành của nghiệp và mọi đau khổ sẽ chấm dứt”.
4) Tứ diệt ma: Trong thân tứ đại của chúng ta, luật vô thường đóng một vai trò quan trọng, bởi vì chúng ta có sanh tất có tử. Nhưng cứ mỗi một giây, một phút chúng ta đang chết dần chết mòn chứ đâu phải đợi đến khi chúng ta xuôi tay nhắm mắt mới gọi là chết. Thật vậy, cứ một phút trôi qua, thì chúng ta già đi một tí, nhưng vì nó biến đổi quá nhanh nên chúng ta không nhận thấy mà thôi. Khi nào chúng ta còn vô minh, ái dục, phiền não và ô nhiễm, thì chúng ta còn bị định luật sinh tử chi phối. (Nguồn: Đức Phật Tu Hành - Thành Đạo)
29. BA NGHIỆP CỦA THÂN
Những gì là ba nghiệp do thân cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, phải thọ khổ báo?
Một là sát sanh, quá hung dữ, uống máu, cứ muốn sát hại, không thương xót chúng sanh, cho đến loài côn trùng.
Hai là lấy của không được cho, đắm trước tài vật của kẻ khác, chiếm lấy với ý muốn trộm cắp.
Ba là tà dâm; người kia chính mình xâm phạm tới người nữ có cha giữ gìn, hoặc có mẹ gìn giữ, hoặc được cả cha và mẹ giữ gìn, hoặc được chị em giữ gìn, hoặc được anh em gìn giữ, hoặc được cha mẹ vợ gìn giữ, hoặc được người thân thuộc gìn giữ, hoặc được người cùng dòng họ gìn giữ; hoặc được bảo vệ bằng đe dọa hình phạt hay roi vọt, hoặc đã được thuê, hoặc đã được hứa hôn, cho đến chỉ mới nhận tràng hoa làm tin.
Đó là ba nghiệp do thân cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo.
(Trung A Hàm, Kinh Tư, Phẩm 2, số 15)
30. BA NGHIỆP CỦA Ý
Những gì ba nghiệp của ý cố ý tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo?
1) Tham lam; thấy tài vật và các tư cụ sinh sống của người khác thường tham lam ước muốn sao cho được về của mình.
2) Sân nhuế; trong ý ôm ấp oán ghét, nghĩ rằng: chúng sanh kia đáng giết, đáng trói, đáng bắt, đáng loại bỏ, đáng đuổi đi, mong cho kẻ kia thọ khổ vô lượng.
3) Tà kiến; sở kiến điên đảo, thấy như vầy, nói như vầy: ‘không có bố thí, không có trai phước, không có chú thuyết, không có nghiệp thiện ác, không có nghiệp báo thiện ác, không có đời này, đời sau; không có cha mẹ, trên đời không có bậc chân nhân đi đến chỗ chí thiện, khéo vượt qua, khéo hướng đến, ở đời này và đời sau mà tự chứng tri, tự giác ngộ, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú.
Đó là ba nghiệp do ý cố tạo bất thiện, đưa đến khổ quả, thọ ấy khổ báo.
(Trung A Hàm, Kinh Tư, Phẩm 2, số 15)
+ Thân Khẩu Ý: Ý dẫn đầu các Pháp = Tâm dẫn đầu mà thành tựu thì do Thân, Miệng. Đức Phật nói kệ: Tâm là gốc pháp - Tâm sai, tâm khiến - Trong tâm nghĩ ác => Nói làm đều ác - Tội khổ đi theo - Như xe theo rãnh; Tâm là gốc pháp - Tâm sai, tâm khiến - Trong tâm nghĩ thiện - Nói làm đều thiện - Phước lạc tự đến - Như bóng theo hình. (Nguồn: Kinh Tự ái)
+ Pháp tác ý - Như lý tác ý: Các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý; vị này vì không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, vì không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý nên tác ý các pháp không cần phải tác ý và không tác ý các pháp cần phải tác ý.
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng trưởng, hay vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Những pháp ấy là những pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý. Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp cần phải tác ý mà vị ấy không tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt. Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ý mà các vị ấy không tác ý. Do vị ấy tác ý các pháp không nên tác ý, do vị ấy không tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng.
Vị ấy không như lý tác ý như sau: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta đã có mặt như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?" Hay nay vị ấy có nghi ngờ về mình trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?".
Với người không như lý tác ý như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi lên: "Ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; "Ta không có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật như chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. "Không do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; hay tà kiến này khởi lên với người ấy: "Chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ vĩnh viễn tồn tại". Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược. Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau.
Này các Tỷ-kheo, và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, tuệ tri các pháp cần phải tác ý, tuệ tri các pháp không cần phải tác ý. Vị này, nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ý, nên không tác ý các pháp không cần phải tác ý và tác ý các pháp cần phải tác ý.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần phải tác ý và vị này không tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh được khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Ðó là những pháp không nên tác ý và vị ấy không tác ý. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý nên các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.
Vị ấy như lý tác ý: "Ðây là khổ", như lý tác ý: "Ðây là khổ tập", như lý tác ý: "Ðây là khổ diệt", như lý tác ý: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ. (Nguồn: Kinh Các Lậu Hoặc)
+ Bảy giác chi - Như lý tác ý:
Do tác ý - Tác ý phi như lý: Làm cho các Dục tham - Sân - Hôn trầm thụy miên - Trạo hối - Nghi hoặc chưa sanh thì sanh khởi, đã phát sanh thì thêm xung mãn. Niệm giác chi - Xả giác chi chưa sanh được sanh. Đã sanh thì tăng trưởng, quảng đại.
Như lý tác ý: Làm cho các Dục tham - Sân - Hôn trầm thụy miên - Trạo hối - Nghi hoặc chưa sanh thì không thể sanh, đã phát thì tiêu trừ, đoạn tận. Niệm giác chi - Xả giác chi chưa sanh được sanh, đã sanh nhờ tu tập làm cho viên mãn.
Mời xem tại Kinh Tương Ưng Bộ - Thiên Đại Phẩm - Mục Tương ưng giác chi
+ Phương pháp Tác ý các Pháp thiện giúp tu Tâm thanh tịnh, an định, định tĩnh ... (Theo các Tooltip):
- Tu Nội tâm - Tác ý năm tướng: ... đức Phật bảo: Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn thực tu tăng thượng tâm cần phải thường thường tác ý năm tướng. .... Chính nhờ diệt trừ chúng (năm tướng bất thiện), nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. (Nguồn: 20.Kinh An Trú Tầm)
- Tác Ý như pháp: (Nguồn: Kinh Các Lậu Hoặc)
- Pháp Quán tự ngã - Tư lượng tự ngã - Tư lượng bản ngã - Tư tưởng đối nghịch: (Nguồn: 15. Kinh Tư Lượng)
- Pháp quán Tâm - Quán Pháp: (Nguồn: Kinh Niệm Xứ)
- Thiện sảo quán tự tâm: (Nguồn: mục 667- Trung A Hàm, Kinh Tự Quán Tâm II, Phẩm 10, số 110)
+ Tự yêu mình: ...... Vua nói: Dân chúng khắp mọi nơi đều nói là tự yêu mình, nghĩa của tự yêu mình có quan trọng chăng?
Đức Thế Tôn khen: Điều ông hỏi hay lắm! Con người ở đời tâm niệm rất độc ác, miệng buông lời độc ác, thân làm việc độc ác. Ba độc ác này xuất phát từ thân, miệng và ý khiến cho chúng sinh bị đau khổ. Chúng sinh bị ác độc tức kết lấy oán hận, tâm niệm luôn muốn báo thù. Có khi báo thù nơi đời hiện tại hoặc sau khi chết, thần thức đã lên cõi trời rồi còn trở xuống báo thù. Có khi làm người, súc sinh, quỷ thần Thái sơn giết hại lẫn nhau. Tất cả đều do nghiệp tạo từ đời trước chứ chẳng phải tự nhiên sinh như vậy. Thân ba, miệng bốn, ý ba không xấu, mà vì người ngu buông thả, bất hiếu với cha mẹ, kính thờ yêu quỷ, dâm loạn, say sưa… thành hạng bần tiện, để đưa đến cái họa làm nguy thân diệt tộc, chết bị đọa vào chỗ đường dữ, lửa nước nơi ngục tối, khó làm được thân người trở lại. Đã cách Phật quá xa, lại không ưa thích giới thanh tịnh của Sa-môn mà lại ưa hội họp với kẻ ngu. Đây gọi là thích họa nguy vong, là người không tự yêu mình.
Vua hỏi: Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con xin Thế Tôn dạy bảo về pháp tự yêu mình. Nghĩa nó như thế nào?
Phật bảo: Pháp tự yêu mình là: Trước tiên phải quy y Tam bảo, lấy giáo pháp để nuôi chính bản thân, đem lòng Từ bi thương xót người và vật, thương xót kẻ ngu lầm, phải vui thích học hỏi, tâm bình đẳng cứu giúp tất cả, đem an vui ban bố cho muôn loài, nguyện đền trả bốn ân, bố thí cho người bần cùng, đói khổ. Có thế chúng sinh không oán thù, chư Thiên theo giúp đỡ, không có các tai họa hoành hành. Lao ngục, kiếm bén, các thứ ác độc đều tiêu trừ, dòng họ luôn được an vui, sống không gặp hoạn nạn, chết được sinh lên cõi trời, gặp chỗ sáng suốt. Đây gọi là tự yêu mình.
Vua nói: Lành thay! Bạch Thế Tôn! Những lời Thế Tôn dạy thật là chí lý.
Phật bảo: Những bậc hành giả hạnh cao thượng, thanh khiết, chân chánh, đối với uế lợi, tà lạc không để nhiễm vào tâm, miệng không bao giờ nói bốn điều ác, thân xa lìa ba sự hung dữ. Dù cho mạng sống bị nguy nan, trọn đời vẫn giữ những lời vàng ngọc của Phật để cho chính mình được an lạc và thân tộc luôn được bình an, qua đời sinh lên cõi trời, hưởng phước lợi. Đây gọi là tự yêu mình.
Vua nói: Lành thay! Xin Phật chỉ dạy.
Phật nói: Dù có ai độc ác hoành hành nhưng phải nhẫn nhịn, đừng nói. Hãy đem lòng Từ bi thương xót người ấy, luôn luôn cứu giúp họ, tinh tấn không biếng trễ, với một lòng nối theo Tam Tôn, trong ngoài tĩnh lặng, luôn trồng gốc đạo (Đức hạnh lành) và quán sâu vào đường Thánh, sáng suốt hóa độ với những lời chân thành, hiếu thuận với cha mẹ, cứu giúp mọi người, hướng dẫn họ làm các việc như vậy sẽ thường gặp phước đức. Đây gọi là tự yêu mình.
Vua nói: Lời Thế Tôn giảng dạy rất đúng.
Bấy giờ có hai người đi buôn, một người nghĩ rằng: “Thân Phật cao một trượng sáu, màu vàng ròng, đẹp như hoa, trên đảnh có nhục kế, trán phóng hào quang uy nghiêm khó tả. Đức Phật như vua, Samôn như trung thần. Đức Phật lập ra các phép tắt sáng suốt, Sa-môn thì giảng nói, đấy là ông vua sáng suốt. Người ấy nhận biết Đức Phật là bậc đáng tôn kính.”
Đức Phật biết ý nghĩ của người ấy thuần thục và thấy rõ sự vui mừng như được của báu. Người thứ hai nghĩ: “Ông vua này ngu muội, làm chủ một nước còn mong cầu gì nữa? Phật như con bò, đệ tử như chiếc xe. Con bò kéo chiếc xe chạy khắp nơi. Phật cũng giống như vậy, ông ta đâu có đạo đức mà mình tuân phục để phụng thờ?”
Phật biết người này có niệm ác, chắc chắn bị khổ báo, nên Phật cảm thấy thương xót họ.
Người thứ hai trong lòng lo sợ như có chỗ vướng mắc. Hai người cùng lên đường khoảng ba mươi dặm và dừng lại quán để uống rượu, rồi bàn luận, tranh cãi lung tung. Người có ý nghĩ thiện được Tứ thiên vương sai thiện thần đến ủng hộ. Còn kẻ có tâm ác phỉ báng Phật thì quỷ của địa ngục làm cho rượu vào ruột giống như lửa đốt thân rồi dần dần ra ngoài đường nằm giữa vết bánh xe. Sáng sớm, có người lái buôn đưa năm trăm chiếc xe đi qua nghiến chết kẻ ấy. Người bạn tìm thấy, nói: “Ta gặp nguy rồi.” Nếu lấy vật đi là bất nghĩa, mà trở về nước thì bị nghi ngờ. Nói như vậy rồi ông ta xem thường thân thể, vứt bỏ của cải mà đi thẳng. Một đoạn xa, cách thành Xá-vệ khoảng vạn dặm, có một nước vua nước ấy đã qua đời mà không có thái tử.
Sấm thư nói: “Trong vùng đất này có người tài giỏi, xứng đáng được làm vua.”
Quần thần bàn: Nước không có vua, giống như người không đầu khó mà đứng vững được. Tiên vương có con ngựa luôn kính lễ vua. Nếu người nào làm vua được thì ngựa quỳ xuống trước mặt người đó.
Mọi người đều nói: Hay lắm!
Thế rồi họ sửa soạn xa giá, lấy ấn vua buộc lên xe. Người ngựa chật cả đường, kẻ nào trông thấy cũng đều chảy nước mắt.
Người buôn kia cũng ra nhìn đám đông. Thái sử nói: Người kia có đám mây vàng che trên đầu như chiếc lọng, chính là vương khí.
Bỗng nhiên con ngựa thần tiến thẳng đến, quỳ xuống liếm chân người đi buôn. Quần thần vui mừng chuẩn bị hương hoa, nước nóng tắm rửa, lễ bái ông ta là vua và xưng mình là thần.
Vua nói: Tôi vốn là kẻ đi buôn, không có công đức gì với dân chúng. tôi không thể gánh vác lấy ngôi vua.
Quần thần nói: Trời đã trao cho người có đức nên được con ngựa thần quỳ gối.
Thế rồi người buôn kia về ở cung vua, cho phép sửa lại chính trị của đất nước. Vua suy nghĩ: “Ta không có chút phước đức nào cả mà sao nay lại được làm vua? Chắc chắn là nhờ ân Phật nên mới được như vậy.”
Vào sáng sớm, vua ngự triều, ca ngợi Phật là bậc Thánh vô thượng, rồi thống lãnh quần thần đến nước Xá-vệ, cúi đầu bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Kẻ tầm thường này nhờ đức của Thế Tôn thấm nhuần nên được làm vua. Quốc độ này truyền đời không biết có Phật, sách vở lưu hành cũng không ghi chép. Xin Thế Tôn đem ánh sáng rực rỡ để khai mở cho dân chúng đui điếc trong nước này. Ngày mai, con thỉnh Thế Tôn và chúng Tăng rủ lòng thương xót, đồng ý cho con cúng dường ba tháng một lần.
Đức Phật dạy Tôn giả A-nan:
– Ông hãy thông báo cho các Tỳ-kheo ngày mai nhận lời mời của vua ấy các ông nên từ từ hiển bày thần thông để cho dân chúng nước này đều được chứng kiến.
Chư Thiên nghe Phật đến đó giáo hóa nên cũng cùng nhau đi theo, trổi lên đủ loại kỹ nhạc, treo cờ phướn, lọng báu, rải hoa xuống, ánh sáng rực rỡ.
Thế Tôn và chúng Tăng đều ngồi trên chánh điện. Vua theo phép tắc của vua nước Xá-vệ mà cúng dường đúng pháp. Vua đích thân đi sớt thức ăn. Sau khi ngọ trai xong, vua lấy ghế nhỏ ngồi trước mặt Phật, nghe thuyết pháp. Vua nói:
– Trước đây con là kẻ hèn mọn, hoàn toàn không có chút đức. Vì sao nay được làm vua như vậy?
Phật nói: Thuở xưa, vua cúng dường cơm cho Phật, vua nghĩ rằng: “Đức Phật như vua một nước, Sa-môn như quần thần.” Do vua trồng nhân như thế mà nay được phước báo ấy. Còn người kia nói: “Phật giống như con bò, đệ tử như chiếc xe.” Người kia do gieo trồng hạt xấu ác nên bị xe nghiến chết, nay còn bị xe bằng lửa nghiến trong ngục Thái sơn, tự mình gánh chịu quả báo như vậy. Không phải vì sức mạnh và quyền lực mà vua có thể đạt được, mà là do phước đức từ chỗ làm điều thiện. Hễ giẫm theo ác thì họa tìm đến, giống như tiếng vang dội lại. Thiện ác như âm thanh, không phải trời, rồng, quỷ thần làm ra, cũng chẳng phải tiên linh làm. Tâm thì dẫn đầu mà thành tựu do thân, khẩu. (Nguồn: Kinh Tự Ái)
+ Pranayama (X. Điều khí): Tức là khoa học về hơi thở hay về năng lượng của prana. (ASCLH, 77)
+ Hơi thở: Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo (TVTTHM, 185)
+ Cách hít thở giúp rễ Chỉnh hợp trong tham thiền: Khi bạn hít năng lượng tế vi vào các thể của bạn, hãy giữ ý định của bạn trong tâm trí. Hãy nghĩ mỗi hơi thở là hơi thở cuả ánh sáng và của xung lực linh hồn, và hãy giữ điều này trong trí của bạn
Bắt đầu bằng cách hít vào một hơi dài, kế đến khi thở ra bạn hãy làm trong sạch phổi của bạn và những ý định của bạn.
1. Hít vào một cách có ý thức đưa năng lượng tế vi vào trong thể xác.
Khi làm thế, bạn quán tưởng rằng “Tôi thở vào xác thân này”.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở tràn ngập xác thân.
2. Hít vào một cách có ý thức, đưa năng lượng tế vi và trong thể cảm xúc.
Khi làm thế, bạn quán tưởng rằng “Tôi thở vào các cảm xúc này”.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở bao trùm tất cả các cảm xúc.
3. Hít vào một cách có ý thức, đưa năng lượng tế vi vào trong thể trí.
Khi làm thế, bạn quán tưởng rằng “Tôi thở vào tâm trí”.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở tràn đầy tâm trí.
4. Hít vào một cách có ý thức, đưa năng lượng tế vi vào trong phàm ngã của bạn như một tổng thể.
Khi làm thế, bạn quán tưởng rằng “Tôi thở vào phàm ngã này”.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở và sự sống của linh hồn tràn ngập phàm ngã.
5. Hít vào một cách có ý thức, dùng hơi thở vào để nâng tâm thức lên một điểm phía trên đầu.
Khi làm thế, như là linh hồn đang nhập thế, bạn hãy nói trong yên lặng “Tôi thở”.
Lập lại bước này vài lần. Mỗi lần bạn lại thấy Ánh Sáng, Tình Thương, và Quyền Năng của Chân Ngã, là Linh-hồn-trên-cõi-giới-riêng của nó, đang thở ra hướng về bạn, là Linh-hồn-nhập-thế bên trong phàm ngã, và sau đó, bạn hít vào những phẩm tính này vào trong bạn.
Hãy để cho ánh sáng của hơi thở và sự sống của linh hồn tràn ngập phàm ngã.
6. Thở ra một cách có ý thức vào trong đời sống của bạn (cơ quan, gia đình, bạn bè …), quán tưởng rằng “tôi thở vào tập thể mà tôi là một bộ phận”.
7. Hít vào một cách có ý thức, xong thở ra đến thế giới và nhân loại, quán tưởng rằng “ tôi thở với toàn thế giới và nhân loại ”.
8. Xướng linh tự OM ba lần. (Nguồn: Khóa Thiền MQ - MFVN)
+ Ba Chu kỳ Biểu lộ Vượng suy trong Vũ trụ: Theo Định Luật Chu Kỳ và Tuần Hoàn: Tất cả vạn sự, vật đều có 3 chu kỳ Sinh - Sống - Chết.
+ Năng lượng biểu lộ - Ẩn tàng: ..... Tiếp theo đây, chúng ta học hỏi một điều là mọi hình thể đặc thù – mà ta gọi là cây cối, muông thú hay con người – đều đang được tái diễn đến vô tận, cứ hết nhô lên rồi lại chìm xuống [Xuất lộ Hiện Hình Khí rồi lại ẩn tàng]. Hạt giống tạo ra cây. Cây lại tạo ra hạt giống [Ở Người như Chứng trong người mẹ] để nảy sinh thành một cây khác, rồi cứ tiếp tục như thế, không bao giờ ngừng. Hạt nước rơi dọc theo triền núi để ra đại dương, bốc lên thành hơi nước, quay về lại với núi, rồi lại rơi dọc theo triền núi để ra đại dương. Bay lên rồi rơi xuống, chu trình này cứ tiếp diễn mãi như thế.....
Mọi sự sống, mọi sự tồn tại mà chúng ta có thể nhìn thấy, cảm nhận, nghe ra hay tưởng tượng ra cũng đều thế cả. Tất cả mọi điều nằm trong phạm vi kiến thức của chúng ta cũng đang diễn ra theo phương thức tương tự, giống như hơi thở vào ra trên cơ thể con người. Tất cả tạo vật đều tiến hành theo hình thức này, con sóng cứ nhô lên rồi lại rơi xuống, nhô lên rồi lại rơi xuống hoài hoài. Mỗi con sóng đều có một chỗ lõm, mỗi chỗ lõm đều có một con sóng.........
Còn có một sự kiện cần phải học hỏi nhiều hơn nữa về chu trình sinh diệt này: chu trình nhô lên rồi rơi xuống. Hạt giống phát sinh từ cây; nó không trở thành cái cây ngay, mà có một giai đoạn thụ động, hay đúng hơn là một giai đoạn hoạt động tế vi rất khó nhận ra. Hạt giống phải hoạt động một thời gian dưới lòng đất. Nó vỡ ra thành các mẫu nhỏ, thoái hóa đi, rồi từ trạng thái thoái hóa đó, sự sống hồi sinh. Thoạt kỳ thủy, vũ trụ phải hoạt động trong một thời gian trong hình thức nhỏ bé đó, hình thức tế vi vô hình mà chúng ta gọi là sự hỗn mang; rồi từ đó xuất sinh một hiện tượng mới. Toàn bộ giai đoạn hiện hình của vũ trụ – đi xuống hình thức tế vi hơn, duy trì trong hình thức đó một thời gian rồi xuất sinh trở lại – được gọi là kalpa, tức là kiếp hay chu kỳ, trong tiếng Phạn........
Trong tất cả TRÍ THÔNG MINH là Nhân của mọi Nhân, trong Phật pháp gọi là TRÍ HUỆ/ Tánh Phật/ Tánh Giác Thường hằng bất sanh diệt từ KHỞI THỦY. Đó là lý do vì sao kinh điển nói: “Chúng ta sống, di chuyển và tồn tại trong Ngài”. Trí thông minh bao trùm vũ trụ đó được các nhà thần học gọi là Thượng Đế ..... Chúng ta sinh ra từ Ngài, sống trong Ngài và quay về lại với Ngài ....... (Nguồn: Triết học Kinh Vệ Đà_Tr 192)
+ Biểu lộ Vượng suy Trong mỗi Chu kỳ Ở Thái dương hệ:
1- Theo 4 giai đoạn phát triển Chính: Thành Trụ Hoại Không - Sinh Lão Bệnh Tử - Xuân Hạ Thu Đông
2- Theo 12 giai đoạn - Ý nghĩa mở rộng theo Vòng trường sinh của Ngũ Hành gồm: Trường sinh - Mộc dục - Quan đới - Lâm quan - Đế vượng - Suy - bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng rời quay lại Trường sinh ...
+ Tuân Theo Định Luật: Từ nguyên tử, hạt bụi cho đến con người, hành tinh hay giải ngân hà đều tuận theo quy luật Sinh Vượng Mộ - Thành trụ Hoại Không của vũ trụ.
+ Tiến trình Sinh - Trụ - Dị - Diệt: Hãy lấy việc gọi điện thoại làm thí dụ: Sinh là khi chuông điện thoại reo, trụ là khi quý vị đang nói chuyện qua diện thoại, dị là khi sắp sửa chấm dứt cuộc điện đàm, diệt là khi cuộc nói chuyện đã xong. Đối với mọi thứ, bất luận là gì, đều có đủ bốn tiến trình sinh, trụ, dị, diệt. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q. 3)
+ Thế nào là quy luật chu kỳ thành, trụ, họai, không?
Trong thế giới nầy, một lần tăng một lần giảm được gọi là một kiếp.[72] Khi mạng sống của con người đạt đến đỉnh cao nhất là 84.000 năm, cứ 100 năm, chiều cao của con người sẽ giảm trung bình mỗi năm 1 inch, và mạng sống của con người giảm trung bình 1 tuổi, tiếp tục giảm như thế cho đến khi mạng sống con người chỉ còn 10 tuổi; rồi tiếp tục tăng lại cho đến khi 84.000 tuổi, đó được gọi là một kiếp. Một ngàn kiếp là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Bốn trung kiếp là một đại kiếp. Giai đoạn hình thành thế giới mất 20 tiểu kiếp. Giai đoạn trụ kéo dài 20 tiểu kiếp. Giai đoạn hoại 20 tiểu kiếp. Giai đoạn không 20 tiểu kiếp. Đó có nghĩa là tiến trình thành, trụ, họai, không. Hai mươi tiểu kiếp thành là 1 trung kiếp.
Hai mươi tiểu kiếp trụ là 1 trung kiếp. Hai mươi tiểu kiếp hoại là 1 trung kiếp. Hai mươi tiểu kiếp không là 1 trung kiếp. Thế là tất cả hai mươi tiểu kiếp của các tiến trình thành, trụ, họai, không tạo thành 4 trung kiếp. Gom lại 4 trung kiếp là 1 đại kiếp.
Đối với chánh báo thì trải qua các tiến trình sinh, lão, bệnh, tử. Con người cần 20 năm để sinh ra lớn lên, 20 năm để học tập trưởng thành, 20 năm bệnh và già yếu, 20 sau cùng họ tiến dần đến cái chết.
Có hai loại sinh tử: phần đoạn sinh tử– sự sống chết, sinh diệt của xác thân– và biến dịch sinh tử. Thuật ngữ phần đoạn sinh tử xuất phát từ thực tế là mỗi người đều có một thọ mạng riêng và mỗi người có một thân tướng khác nhau. Chẳng hạn, chiều cao của quý vị có thể là 5 feet[73] 6 inches, và chiều cao của tôi là 5 feet 9 inches, trong khi người khác thì cao 3 feet. Mọi người đều có một thân tướng khác nhau. Hàng phàm phu là đối tượng của phần đoạn sinh tử.
Các vị thuộc hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, đã chấm dứt được phần đoạn sinh tử, nhưng họ vẫn còn trong vòng biến dịch sinh sinh tử.
Thế nào là “biến dịch sinh sinh tử?” Có nghĩa là niệm này kế tiếp niệm khác sinh khởi mãi không dừng. Niệm niệm kế tiếp sinh khởi, niệm niệm kế tiếp hoại diệt.
Nhân của sinh tử chính là vô minh, duyên của sinh tử chính là nghiệp thức. Khi nhân – vô minh, và duyên –nghiệp thức nầy hòa hợp với nhau thì có sinh tử. Như Đức Phật dạy trong kinh nầy:
Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp–sự hòa hợp của nhân vô minh và duyên nghiệp thức–và không hòa hợp– và sự kết hợp của bất kỳ các nhân duyên không hòa hợp – thì diệt trừ được các nhân sinh tử. Khi ấy quý vị thóat khỏi phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử.
Đó chính là tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt. Khi xa lìa sạch mọi nguyên nhân sinh tử thì quý vị đạt được quả niết-bàn vi diệu, tánh giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt.
Chính là chân tâm bản giác thanh tịnh thường trú.
Đó chính là chân tâm, là bản tánh giác ngộ thường trú không sinh không diệt: nghĩa là Tự tánh (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q2)
- Trong mạng sống của con người, cũng có đủ bốn tiến trình sinh, trụ, dị, diệt. Sự ra đời là sinh, giai đoạn sống nơi trần gian là trụ, bệnh tật là dị, và chết là diệt. Thế con người có trở thành hư vô sau một tiến trình sinh, trụ, dị, diệt không? Không. Sinh mạng trong đời sống tương lai cũng vẫn chi phối theo tiến trình sinh, trụ, dị, diệt. Trong đời sống tương lai, môi trường thay đổi, nhưng vẫn có tiến trình sinh, trụ, dị, diệt. Thế nên sinh, trụ, dị, diệt là một ý niệm rất quan trọng trong Phật pháp. Hầu như mọi vật đều có thể được dùng để minh hoạ cho nguyên lý nầy. Cái bàn nầy là một ví dụ khác. Khi những miếng gỗ nầy được xẻ ra, nó đã được dự tính dùng để làm nên cái bàn, đó gọi là sinh, khi đã làm thành cái bàn rồi gọi là trụ, nó sẽ chẳng luôn luôn tồn tại mãi như hiện giờ. Sau một thời gian dài sử dụng nó sẽ hư hoại từng phần, đó gọi là dị, một khi đã bị rời ra từng phần thì không thể dùng được nữa, nó sẽ bị đem đốt, đó là diệt.
- Thế giới cũng trải qua bốn tiến trình sinh, trụ, dị, diệt. Thế giới trải qua một thời gian rất dài trong quá trình sinh. Phải qua một thời gian 20 tiểu kiếp cho tiến trình sinh thành thế giới. Giai đoạn trụ gồm 20 tiểu kiếp. Nó trải qua giai đoạn biến dịch trong 20 tiểu kiếp, và quá trình hoại diệt thành không trong 20 tiểu kiếp. Đó là tiến trình thành, trụ, hoại, không của thế giới, cũng tương tự như tiến trình sinh, trụ, dị, diệt. Một kiếp gồm bao nhiêu năm?
Một kiếp gồm 139.600 năm.[7] Một ngàn kiếp bằng một tiểu kiếp, Hai mươi tiểu kiếp bằng một trung kiếp. Bốn trung kiếp bằng một đại kiếp. Một tiến trình thành, trụ, hoại, không kéo dài trong một đại kiếp. Kiến thức, sự hiểu biết về lịch sử của mình chỉ dò lui được đến chừng vài ngàn năm– ngay cả không được một kiếp. Tầm hiểu biết của chúng ta rất nhỏ nhoi. Kiếp, cũng vậy, có đủ các tiến trình thành, trụ, hoại, không – sinh, trụ, dị, diệt.(Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 3)
Xem: Tổng hợp về Chu kỳ
Người thiện ác tử sinh: Thuần-Đà bạch Phật : “ Thế-Tôn ! người phá giới (Tội nghiệp rất nặng như tội ngũ nghịch .... ), như vậy có thể cứu vớt được chăng ?”
Nầy Thuần-Đà! Có nhơn duyên thời cứu vớt được. Nếu người đó còn mặc pháp phục chưa bỏ, trong tâm luôn hổ thẹn sợ sệt, tự trách cứ lấy mình, trong lòng ăn năn, sanh tâm hộ trì chánh pháp, muốn kiến lập chánh pháp và nguyện sẽ cúng dường người hộ pháp. Nếu có người đọc tụng kinh điển Đại-thừa, tôi sẽ đến han hỏi để được thọ trì đọc tụng. Khi đã thông thuộc rồi, tôi sẽ vì người khác giảng nói.
Nầy Thuần-Đà người như trên đây, Phật gọi là chẳng phá giới. Ví như mặt trời mọc lên có thể phá trừ tất cả tối tăm sương mù. Cũng vậy, kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn vi diệu nầy, khi hiện ra nơi đời, có thể phá trừ những nghiệp tội trong vô lượng kiếp của chúng sanh. Thế nên kinh nầy nói rằng hộ trì chánh pháp đặng quả báo lớn, có thể cứu vớt kẻ phá giới.
Nếu có người hủy báng chánh pháp nầy, mà có thể tự ăn năn chừa cải, trở về nơi chánh pháp, tự nghĩ tất cả điều ác đã làm, như người tự hại lấy mình, sanh lòng kinh sợ hổ thẹn. Trừ chánh pháp nầy ra không có gì cứu hộ được. Vì thế nên phải trở về nơi chánh pháp.
Người nầy nếu có thể quy y chánh pháp như trên, bố thí cho người nầy sẽ đặng vô lượng phước. Ngưới nầy cũng gọi là bậc đáng lãnh thọ sự cúng dường của thế gian.
Nếu người phạm những tội nghiệp ác như trên, trãi qua một tháng, hoặc mười lăm ngày, chẳng có lòng phát lồ quy y chánh pháp, nếu bố thí cho người nầy được quả báo rất ít.
Người phạm tội ngũ nghịch, nếu có thể sanh lòng ăn năn hổ thẹn quy y hộ trì chánh pháp như trên, người nầy chẳng gọi là phạm tội ngũ nghịch. Nếu bố thí cho người nầy, đặng vô lượng phước. Nếu phạm tội ngũ nghịch, mà chẳng sanh tâm quy y hộ pháp. Nếu bố thí cho người nầy, đặng phước không đáng kể.
Nếu Thiện-nam-tử ! Người phạm tội trọng nên có tâm nầy: Chánh pháp tức là tạng Như-Lai vi mật, tôi phải hộ trì kiến lập. Nếu ai bố thí cho người nầy,thời đặng quả báo rất tốt.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như thiếu phụ kia mang thai gần ngày sanh nở, nhằm lúc trong nước loạn lạc, lánh nạn trốn đến xứ khác, giữa đường sanh nở. Sau đó nghe nước nhà đã an ổn, đem con trở về, giữa đường phải lội qua con sông nước đầy chảy xiết, đến giữa dòng đuối sức, tự nghĩ rằng: Tôi thà cùng con tôi đồng chết, quyết không bỏ con để được sống một mình. Do đó mẹ con đều bị nước cuốn chìm. Phụ nữ ấy, sau khi chết được sanh lên cõi trời. Phụ nữ nầy tánh vốn tệ ác nhờ lòng thương con mà đặng sanh lên cõi trời.
Cũng vậy, người phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch, nếu sanh tâm quy y hộ trì chánh pháp thời là phước điền vô thượng của thế gian. Người hộ pháp nầy được vô lượng quả báo tốt như vậy.........
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông chẳng nên nói như vậy. Ví như có người ăn trái Am-La nghĩ rằng : Trong hột trái nầy có lẽ ngọt liền đập bể hột ra để nếm thấy vị rất chát đắng, lòng sanh hối hận sợ mất giống trái tốt, mới gom góp mãnh hột vụn đem ươm nơi đất, siêng năng săn sóc, đến dùng sửa, tô, dầu để tưới bón. Ý ông nghĩ thế nào, hột đó có thể mọc lên cây được chăng ?
Bạch Thế-Tôn ! “ Không thể mọc lên được, dầu cho trời mưa chất cam lồ, hột nát bể ấy cũng mọc không được”.
Nầy Thiện-nam-tử ! Hạng nhứt-xiển-đề đã đốt cháy căn lành, sẽ ở nơi chỗ nào mà trừ tội đặng. Nếu sanh tâm lành, thời kẻ đó chẳng gọi là nhứt-xiển-đề. (Nguồn: Kinh Đại Niết Bàn - Phẩm 17)
+ Không nên mời về nhà:
- Có mười kẻ mình không nên mời về nhà:
Một là thầy ác;
Hai là bạn tà;
Ba là kẻ hay khinh bỉ bực thánh nhân;
Bốn là kẻ hay nói tráo trở;
Năm là kẻ dâm ô;
Sáu là người thèm rượu;
Bảy là kẻ có tính xấu;
Tám là người không biết ơn nghĩa;
Chín là đàn bà con gái mất nết;
Mười là kẻ tì thiếp ưa trang sức.
Đấy là mười hạng không nên mời về nhà. Kinh chép: "Lánh xa người ác, đừng làm bạn với kẻ dâm lung, chỉ nên tùng sự các bực hiền giả, mới mong thành người minh đức." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Người đàn bà ác nhân có những triệu chứng - Dấu hiệu:
- Người đàn bà xinh đẹp, nói năng khôn khéo, êm tai, mà trong thì tội ác ngoại dâm thì căn cứ vào đâu mà hiểu họ được? Có mười triệu chứng sẽ hiển hiện cho ta thấy:
Một là đầu tóc rối và bới tóc nghiêng một bên;
Hai là mặt hay đổi sắc và mồ hôi tự nhiên chảy;
Ba là lớn tiếng nói cười;
Bốn là hay liếc ngó không đoan chính;
Năm là trang sức lộng lẫy;
Sáu là hay nhìn trộm kẻ vách;
Bảy là ngồi không yên;
Tám là hay dạo chơi trong xóm làng;
Chín là hay đi dạo chơi ngoài đồng vắng;
Mười là hay giao thiệp với hạng dâm nữ.
Kinh chép: "Đàn bà con gái thật khó tin, lời nói khôn khéo của họ rất dễ hại người. Vì thế bậc cao sĩ lánh xa không muốn thân cận." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Ma Vương có lời nguyền rằng: “Này ông Cồ Đàm! (Ma Vương gọi Đức Phật). Hôm nay ta thua ông, ông còn trụ ở thế giới này, ta không làm gì được ông. Ông nên biết rằng: sau khi ông diệt độ, sau này các đệ tử của ông, dù là lớn hay nhỏ, tuy là hình thức tu theo ông, chớ việc làm của họ phải làm theo sự điều khiển của ta cả, ông phải chống mắt mà xem ta sai khiến họ! Ma Vương nói thêm: – Còn sau khi ông diệt độ, người nào dám viết lại những lời dạy về Như Lai Thanh Tịnh thiền của ông, đều là kẻ chống đối với ta, ta quyết chí triệt phá họ cho bằng được, ta sẽ sai khiến người có chức có quyền trong đạo của ông, phụ giúp ta triệt phá người này. Ta cũng báo cho ông Cồ Đàm biết, số người tu theo đạo của ông, một ngàn người, chưa chắc có 1 người biết pháp môn Thanh Tịnh thiền này; nhưng việc cúng lạy và cầu xin thì là vô số kể. Ông đừng mong đem giáo pháp thiền Thanh tịnh này, để đưa người sống trong vật lý do ta cai quản, hầu thoát ra ngoài sự cuốn hút của vật lý được! Ma Vương lại nói thêm: – Này ông Cồ Đàm, sau này có rất nhiều người đem pháp môn tu trong vật lý, mạo danh Thanh tịnh thiền để dụ nhiều người đến nghe để họ kiếm tiền, những người này cũng là do ta xúi bảo cả! Tiếp theo là tiếng cười của Ma Vương thật lớn và dài! Đức Phật nghe lời nguyền và tiếng cười của Ma Vương quá mạnh và dài, nên trước khi nhập Niết bàn, Như Lai có lời dạy như sau: – Này các đại đệ tử lớn của Như Lai, cũng như các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di. Các ngươi là người tu theo Thanh tịnh thiền, phải chú ý lời nguyền của Ma Vương và dạy lại cho người sau. Vị nào tu tập theo chánh pháp Thanh tịnh thiền, phải nhớ những lời nguyền của Ma Vương này! (Nguồn: Đức Phật thực hiện lời hứa với Ma Vương)
+ Ðức Phật dạy: Kẻ đại ác, đại khái có 15 tội nặng - Tội của kẻ phàm ngu:
1. Một là sát sanh;
2. Hai là trộm cắp;
3. Ba là quen thói dâm ô;
4. Bốn là dối trá;
5. Năm là nịnh hót;
6. Sáu là chuốt ngót;
7. Bảy là gièm pha;
8. Tám là khinh bực hiền sĩ;
9. Chín là tham sự ô trược;
10. Mười là buông lung;
11. Mười một là say sưa;
12. Mười hai là ganh ghét kẻ hiền;
13. Mười ba là hủy báng đạo đức;
14. Mười bốn là sát hại thánh nhân;
15. Mười lăm là không kể tội lỗi.
- Trong kinh có câu: "Gian ngược, tham lam, oán người lương thiện, làm việc bất chính, thì khi chết, đọa vào ác đạo." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Kẻ đáng sợ - Ác nhân theo Thiền sư dậy:
- Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặt sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đoạn lường gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra toàn chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ âm mưu thống trị nhân loại nhưng nói ra toàn chuyện nhân nghĩa, đạo đức để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy kết thành bè đảng Mafia, không chuyện tàn ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ.
- Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ.
Còn như ông (Người có tướng mạo hung ác) thì chẳng có gì đáng sợ cả. (Nguồn: xem mục Chỉ rõ chỗ hư vọng của sáu căn)
+ Thế nào là người ác? Ðó là người không biết đạo lý, chuyên làm việc giết người, đốt nhà. Lý lẽ của họ là: "Của anh là của tôi, của tôi cũng là của tôi. Tiền của anh là của tôi, tiền của tôi lại là của tôi." Quý vị xem việc đó có đúng đạo lý không? Những người ác đó có cường quyền mà không có công lý. Họ chỉ dùng thế lực để hiếp đáp người khác mà không kể đến công lý là gì. Quý vị chạy đi đâu, họ cũng theo quý vị đến đó, luôn luôn canh chừng quý vị. Giả sử quý vị bị những người ác như thế rượt đuổi, nhơn một lúc sơ hở không cẩn thận, không chú ý, quý vị bị rơi vào vực sâu muôn trượng của núi kim cương.
Oán tặc: Phía trước đềụ cập đến người ác là những người còn có chút kiêng dè, không phải là hại người công khai. Oán tặc nói ở đây chính là kẻ ngang nhiên đánh cướp của cải, giết người đốt nhà, không việc ác nào chẳng làm. Những gì chúng ta gặp phải đều có quan hệ nhân quả đời trước. "Oán tặc" chính là những người có oán hận với ta, hoặc là đời trước ta từng trộm cắp đồ vật của họ, hoặc giết hại họ, hoặc có điều không phải với họ, cho nên đời này mới gặp nhau liền biến thành oán tặc. Ấy gọi là: "Giết người phải thường mạng, thiếu nợ phải trả tiền." Quý vị giết người ta, người ta cũng sẽ giết lại quý vị; quý vị cướp của người, thì phải trả tiền lại cho họ. Tất cả mọi thứ đều có sự quan hệ liên đới. (Nguồn: Kinh Pháp Hoa - Phẩm Phổ Môn)
+ Người ác: Tất cả vua của quỷ thần đều có oai đức lớn. Họ có thể chém yêu quái, trừ tai họa và chế phục bọn ngoại đạo. Họ dùng pháp Chiết Phục để hàng phục tất cả bàng môn tả đạo, ma mị yêu tinh, ngưu quỷ, xà thần. Phàm là những phần tử xấu, tà tri tà kiến, tà thuật tà pháp, họ đều có khả năng hàng phục hết. Họ có thể sanh thiện, diệt ác, trừ tà, phá ma.
Ác ma là ví cho những kẻ không màng chi đến đạo lý. Phàm những kẻ ngang ngược không màng đến lý lẽ thì rất quái gở và hống hách, họ đều là từ bọn ác ma chuyển thế mà thành. Quý vị có đối xử tốt với chúng bao nhiêu, chúng cũng không biết là quý vị tốt. Cho đến quý vị đem cả máu thịt mình mà hy sinh cho chúng, chúng vẫn không biết đủ, mà cũng chẳng cám ơn vì chúng có lòng tham không đáy. Tại sao vậy? Bởi chúng đã trải qua nhiều kiếp huân tập thói ác, cho nên các ác tập đó đã trở nên thâm căn cố đế, và tánh xấu được hình thành từ sự u tối gàn dở mà chúng lại không chịu sửa đổi. (Nguồn: HT Tuyên Hóa Khai thị 6)
+ Tâm thành sẽ linh nghiệm: Lúc đó chúng tôi tổ chức Pháp Hội này là vì có lời tiên đoán rằng vào năm 1974 sẽ có trận động đất lớn xảy ra tại San Francisco. Động đất thì chúng tôi niệm "Chú Sáu Chữ Đại Minh" này để chắn giữ, khiến mặt đất không rung chuyển. Như vậy là chúng tôi chiến đấu với thiên ma ngoại đạo. Thiên ma ngoại đạo thì muốn cho San Francisco bị động đất, chúng tôi thì muốn xoay chuyển trận động đất ấy của San Francisco . Vì thế mà ai nấy đều dũng mãnh, tinh tấn tụng niệm, chẳng có người nào lười biếng cả.
"Chú Sáu Chữ Đại Minh” này thì quý vị đã biết cả rồi. Có người thì niệm là "Án, Ma Nê Bát Mê Hồng"; cũng có người niệm là "Úm, Ma Nê Bát Mê Hùm". Trước kia, có một bà cụ lai niệm là "Úm, Ma Nê Bát Mê Bò". Như thế, bất kể là "hùm" hay "bò", nói tóm lại, miễn quý vị thành tâm là được. Thành tâm thì sẽ linh nghiệm. Không thành tâm thì không linh nghiệm. Thế nào gọi là thành tâm? Hễ chuyên chú, tập trung tinh thần thì sẽ linh nghiệm, hễ phân tâm thì vô hiệu (chuyên nhất tắc linh, phân đà tắc tệ). (Nguồn: Vũ Trụ Bạch - HT Tuyên Hóa)
+ Gậy Kim Cang Hét.
HT Tuyên Hóa, vấn đáp ký lục.
- HỎI : Nếu như có người làm nghề giết gà, giết vịt để sinh sống, chúng ta nên có pháp môn phương tiện nào để khuyên giải họ không ?.
ĐÁP : Nếu lúc trước làm chuyện lầm lỗi, khi biết ra là sai quấy thì con nên sửa đổi. Cho nên bảo là : "Quá năng cái, quy ư vô", nghĩa là biết sai mà chịu sửa thì xem như vô tội.
- HỎI : Trong sách có nói về Chú Đại Bi như : "Thân bị bệnh nan y quấy rầy, tức thời sẽ tiêu trừ hết". Nhưng có một số người nói : "Chuyện này không thể được, vì chẳng lẽ mình bị bệnh, rồi chỉ cần niệm Chú Đại Bi thì sẽ hết bệnh sao"? Thỉnh Hòa Thượng khai thị.
ĐÁP : Tâm thành tất linh. Nếu không thành tâm, dù niệm cũng không linh nghiệm. Nếu các vị thành tâm niệm tức sẽ linh ứng. Cho nên nói : "Khi oán hận mà sanh tâm hoan hỷ, thì người chết sẽ sống trở lại. Nếu cho đây là lời giả dối, thì nên biết chư Phật không nói dối bao giờ". Do đó mình có lòng tin, tất nhất định sẽ có cảm ứng. Chú Đại Bi có thể trị được 8 vạn 4 ngàn thứ bệnh trên thế gian, nhưng phải là người có thiện căn. Người không có thiện căn, dù muốn niệm cũng niệm không ra và có muốn trị bệnh cũng không ăn nhằm gì.
- HỎI : Đang lúc ngồi tĩnh tọa, có khi trong đầu lại khởi lên các ảo tưởng như đa số người mắc phải. Ngài có thể giải thích sơ về các hiện tượng thường xuất hiện trong lúc tọa Thiền không ?.
ĐÁP : Các hiện tượng đó đều là huyễn vọng không thật. Những gì con thấy đều là do 50 loại biến hóa nói trong Kinh Lăng Nghiêm. Nếu con thấy các hiện tượng đó mà cho là mình đã thành tựu thì tội nghiệp lắm thay !.
- HỎI : Ngồi Thiền và Tham Thiền là một chuyện hay là hai chuyện khác nhau ?.
ĐÁP : Danh từ ngồi Thiền và Tham Thiền tuy không giống nhau, nhưng có nghĩa là một. Tham Thiền là thật muốn hiểu rõ minh bạch, không còn hồ đồ nữa. (Nguồn Nguyên Minh)
+ Đọc tụng Kinh Địa Tạng Bồ tát: Nên trì Tụng vào buổi tối - là vì Bạn phải tụng và hồi hướng cho Quỉ thần;
+ Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh là pháp căn bản, cả bộ kinh này nói về cái gì? Chính là nói về Phước thứ nhất. Bạn sẽ hỏi bốn câu trong phước thứ nhất này phải nói như thế nào? Cả bộ Ðịa Tạng Bổn Nguyện kinh này là chú giải [cho bốn câu này ‘Hiếu dưỡng cha mẹ - Phụng sự sư trưởng - Từ tâm bất sát - Tu thập thiện nghiệp’]
Tu học đúng như lý, như pháp, đại sư Thiện Ðạo nói: ‘Vạn tu vạn người về’, ai cũng không bỏ sót. Nếu bạn tu không đúng như pháp thì sẽ chẳng vãng sanh nổi, Phật chẳng nói sai, là bạn đã hiểu sai ý tứ trong ấy. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy chúng ta ‘Ðương hiếu ư Phật’, dạy chúng ta tôn sư trọng đạo, đây là giáo nghĩa của kinh Ðịa Tạng, nhất định phải hiểu những đạo lý này. (Nguồn: Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký tập 5, HT. Tịnh Không)
+ Thực hành "Gieo Quẻ Chiêm Bói" với người Tu hành chân thật, theo Kinh được Đức Phật cho diễn nói Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo - Sách Hướng dẫn Làm Quẻ - Gieo Quẻ có ứng nghiệm - Trang 61 - 64
+ Nguồn gốc vô minh - Nguồn gốc sinh vô minh - Nguồn gốc sanh vô minh
Bạch Thế tôn, con và hàng Thanh văn hữu trong hội chúng nầy cũng như vậy. Từ vô thuỷ đến nay, chúng con cùng sanh cùng diệt với các thứ vô minh, tuy được căn lành nghe được Phật pháp như vậy. Tuy được gọi là hàng xuất gia, nhưng như người bị sốt rét cách nhật.
Xin nguyện Đức đại từ thương xót kẻ chìm đắm. Nay ngay nơi nơi thân tâm, xin chỉ cho chúng con thế nào là nút buộc, do đâu mà mở ra. Cũng khiến cho chúng sinh khổ não trong đời vị lai thoát khỏi luân hồi, không rơi vào ba cõi.
"Giảng: Lời chỉ dạy nầy là phần rất rất quan trọng trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Nó liên quan với một điểm then chốt: vấn đề luân hồi sinh tử. Nếu quý vị hiểu được chương nầy, thì quý vị có thể nhanh chóng chấm dứt luân hồi sinh tử. Nếu quý vị chưa thể hiểu được, thì phải có gấp đôi nỗ lực và tinh tấn trong việc tu học";
Hay thay, A-nan! Ông muốn biết câu sinh vô minh là đầu mối khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông chứ không phải là cái gì khác.
"Giảng: Những lời nầy làm cho vấn đề trở nên hoàn toàn rõ ràng như pha lê. Thật đơn giản vì nó vốn như vậy... Nó chính là sáu căn của ông chứ không phải là cái gì khác. Cội gốc của luân hồi sinh tử trở nên kết thắt lại thành nút mà từ đó quý vị không thể nào thóat ra được. Đó là cái gì? Chẳng gì khác hơn chính là trò lừa dối của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của quý vị. Sáu cái nầy khiến cho quý vị phải sinh ra và chết đi. Quý vị có biết điều ấy không? Chẳng có ai khác chịu trách nhiệm cả. Điều gì khiến cho chúng ta phải điên đảo, sinh liên tục sinh rồi tử tiếp nối tử, đơn giản chính là sáu căn của mình.
Sao vậy? Mắt thấy sắc trần rồi bị xoay chuyển bởi chúng. Tai nghe âm thanh rồi truy tìm theo chúng. Mũi ngửi mùi hương rồi quyến luyến theo đó. Lưỡi nếm hương vị ngon rồi tham đắm vào đó. Thân thích xúc chạm rồi theo đuổi vật mà nó tiếp xúc. Tâm thức thích thú với pháp trần và truy đuổi theo đó.... Đức Phật đã khuyên răn, “Các ông chỉ cần không theo.” Quý vị không nên theo tâm phân biệt. Quý vị không nên theo đuổi hoạt động của sáu căn, sáu trần, sáu thức. Không đi theo chúng, Quay hướng vào bờ."
Ông cũng muốn biết Vô thượng bồ-đề khiến ông mau được giải thoát an lạc vắng lặng diệu thường, đó cũng chính là sáu căn của ông, chẳng phải gì khác.
A-nan tuy nghe được pháp âm như vậy, nhưng tâm chưa rõ. Cúi đầu bạch Phật: “Tại sao chính sáu căn khiến cho con phải chịu luân hồi sinh tử, và cũng chính sáu căn khiến cho con được an lạc diệu thường chứ không là cái gì khác?”
Đức Phật bảo A-nan: “Căn và trần đồng một gốc, trói và mở chẳng phải là hai. Bản tính của thức là hư vọng, như hoa đốm giữa hư không.”
A-nan, nhân nơi trần mà phát ra cái biết (của căn), nhân các căn mà có tướng (của trần). Tướng (phần sở kiến) và kiến (phần năng kiến) đều không có tự tính, như bó lau gác vào nhau.
Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến, đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết-bàn. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác? (Nguồn: Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Quả báo của Tâm hướng thiện - Tâm theo ác:
Ở nước Trung Hoa, mỗi khi một triều đại thay đổi thì đều có những điềm bất tường xảy ra. Có lần, một vị Hoàng Ðế thấy điềm bất tường nơi một ngôi sao, liền triệu quan Thiên Văn đến để hỏi sẽ xảy ra điềm tốt hay xấu.
- Vị Khâm Thiên Giám tâu rằng: "Ðây là điềm hết sức bất tường, Bệ Hạ có thể sẽ tử vong, nhưng thần có cách làm cho vị Tể Tướng chịu điều hung dữ ấy thay cho Bệ Hạ, Bệ Hạ có bằng lòng không?"
- Nhà vua trả lời: "Tể Tướng lo liệu quốc gia đại sự thì làm sao có thể chết thay cho ta được."
- Viên quan lại hỏi: "Có thể chuyển tai họa đến nhân dân chăng?"
- "Dân là gốc của nước, ta vì dân mà làm, có thể nào để dân chết thay cho ta được."
- "Nếu vậy thì chuyển tai họa này đến mùa màng được chăng?"
- "Mùa màng mà mất thì dân sẽ chết đói, đó là chuyện ta không thể làm được!"
Quan Khâm Thiên Giám nghe xong liền sụp lạy mà tâu rằng: "Hoàng Thượng đúng là bậc minh quân có lòng nhân từ, thì nhất định sẽ chuyển được điều hung dữ thành điều kiết tường; Hoàng Thượng nhất định không thể chết được!"
Quả nhiên, ngày hôm sau điềm xấu trên trời biến mất, không còn thấy nữa. Việc đó chứng minh rằng không có chuyện gì là cố định, chỉ do tâm mình mà chuyển biến thôi. Nếu tâm thiện thì có thể chuyển điều xấu thành điều tốt; cho nên Lão Tử nói rằng:
"Hồi tâm thú thiện,
Thiện tuy vị vi nhi Thiện Thần tùy chi.
Hồi tâm hướng ác,
Ác tuy vị vi nhi Ác Thần tùy chi."
Dịch là:
"Quay tâm hướng thiện,
Ðiều thiện tuy chưa làm mà Thiện Thần đã theo sát.
Chuyển tâm về ác,
Ðiều ác tuy chưa làm mà Ác thần đã kề bên."
Thần thì có thiện có ác; Thiện thần thì bảo hộ thiện nhân, Ác thần thì trừng phạt kẻ ác, cho nên nói rằng: "Họa, phước vô môn, Duy nhân tự chiêu." (Họa, phước không cửa vào, Chỉ do mình tự chuốc lấy.)Nếu trong tâm mình không làm điều ác thì điều bất tường (không lành) không thể phát sinh. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tam Bảo: Là Phật - Pháp - Tăng
Phật: Giác ngộ (Ở người là Phật tánh)
Pháp: Chân lý
Tăng: Nhóm người hòa hợp hoàn toàn - Lục hòa
+ Tam Bảo thường chia hai loại, bốn nhóm:
1- Loại sự tướng thì có Trụ trì Tam Bảo và Hóa tướng Tam Bảo.
a. Trụ trì Tam Bảo: Tất cả những hình tượng bằng ngọc ngà châu báu, tượng đắp, tượng vẽ đều là Phật bảo. Tất cả những kinh điển cho đến trước tác của các vị Đại Đức tăng già đều gọi là Pháp bảo. Tất cả những vị cạo đầu xuất gia mặc áo hoại sắc thọ giới tu hành đều gọi là Tăng bảo.
b. Hóa tướng Tam Bảo: Đức Thích Ca Mâu Ni là Phật bảo, trong thời kỳ đó những giáo lý mà đức Phật dạy cho các đệ tử như Tứ Thánh đế, Bát chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên .vv đều gọi là Pháp bảo, những vị thánh đệ tử xuất gia tu hành đệ tử của Phật gọi là Tăng bảo (Tướng trạng về Tam Bảo).
2- Loại về lý thể thì có Nhất thể Tam Bảo và Lý thể Tam Bảo.
c. Nhất thể Tam Bảo: Tam Bảo mỗi phần đều có đầy đủ công đức của các phần khác: Phật có năng lực giác chiếu nên gọi là Phật bảo, Phật lại có khả năng thuyết pháp tự tại với Pháp, nên có năng lực quỷ trì, do vậy trong Phật cũng có Pháp Bảo, Phật không mất thanh tịnh cho nên trong Phật có đầy đủ Tăng bảo. Bổn thể của pháp có năng lực sanh ra Phật tánh của chư Phật cho nên Pháp có đầy đủ tính chất của Phật bảo. Bản thân của Pháp có công năng quỷ trì cho nên Pháp là Pháp bảo, các pháp bình đẳng không hề chướng ngại nên trong Pháp có đầy đủ ý nghĩa của Tăng bảo, Tăng là người có trí quán chiếu nên Tăng có tính chất của Phật bảo, Tăng cũng chính là người có công dụng quỷ trì nên Tăng có tính chất Pháp bảo. Tăng là người có bản thể hòa hợp nên tăng là Tăng bảo.
d. Lý thể Tam Bảo: Là nói tất cả chúng sinh đều có đầy đủ bản chất của Tam Bảo trong mỗi tự thân, điều này đứng trên hai phương diện:
d.1- Trên phương diện tu chứng: Tất cả phàm phu đều bởi Hoặc-Nghiệp-Khổ mà lưu chuyển trong sinh tử, nếu có thể chuyển mê thành ngộ thì hoặc trở thành Bát Nhã; Nghiệp sẽ trở thành Giải thoát; Khổ sẽ trở thành Pháp thân. Bát Nhã là Phật Bảo, Giải Thóat gọi là Pháp Bảo, Pháp Thân gọi là Tăng Bảo.
d.2- Trên phương diện lý thể chân như thì lý năng quán là Phật bảo, sự sở quán là Pháp bảo, sự lý nhất như là Tăng bảo. (nguồn: Quy Y Tam Bảo)
+ Tam Bảo thường trụ: .... Muốn có hạnh chơn chánh, Phải tu Phật thường trụ, Nên xét pháp như vậy, Còn mãi chẳng biến đổi. Lại nên suy nghĩ rằng: Tam-Bảo đều thường trụ, Thời đặng lợi ích lớn, Như cây khô sanh trái. Đây gọi là Tam-Bảo, Tứ chúng phải khéo nghe, Nghe rồi thêm vui mừng, Liền phát tâm Bồ-Đề. Nếu biết được Tam-Bảo, Thường trụ đồng chơn- đế, Đây thời là thệ nguyện, Tối-thượng của chư Phật.
Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, có thể y cứ theo thệ nguyện tối thượng của Như-Lai mà tự phát nguyện, nên biết người nầy không có ngu si, kham lãnh thọ sự cúng dường. Bởi nguyện lực nầy có công đức quả báo rất thù thắng nơi thế gian, như A-La-Hán. Nếu ai chẳng thể quan sát Tam-bảo thường trụ như vậy, kẻ nầy là chiên-đà-la.
Nếu có người biết được Tam-Bảo là thường trụ, là nhơn duyên pháp chơn thật, thời lìa khổ đặng an vui, không có gì nhiễu hại lưu nạn được người nầy.
Lúc đó cả đại chúng trời, người, a-tu-la vân vân, nghe lời Phật dạy, đều vui mừng hớn hở tâm tưởng đều nhu, dung nhan vui vẻ oai đức thanh tịnh, khéo dứt ngũ cái, tâm không phân biệt cao hạ, biết Phật là thường trụ. Do đó đại chúng sắp đặt các thứ cúng dường, cõi trời rải các thứ hoa trời, hương bột, hương thoa, đánh trống trời, trỗi kỹ nhạc trời để cúng dường Phật..........
Thuần-Đà bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Nghĩa nhứt-xiển-đề như thế nào ?”
Phật bảo Thuần-Đà : “ Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nói lời thô ác, chê bai chánh pháp, tạo tội nặng nề, trọn chẳng ăn năn, tâm không hổ thẹn, người như vậy gọi là xu hướng con đường nhứt-xiển-đề.
Nếu người phạm bốn tội trọng, năm tội nghịch, tự quyết định biết phạm tội trọng như vậy, mà tâm chẳng biết sợ sệt hổ thẹn, chẳng bằng lòng phát lồ, ở nơi chánh pháp trọn không lòng hộ trì kiến lập, chê bai khinh tiện, nhiều lời lỗi lầm, người như vậy cũng gọi là hướng đến đường nhứt-xiển-đề.
Nếu lại có ngưới nói rằng : Không Phật, không Pháp, không Tăng, người như vậy, cũng gọi là hướng đến đường nhứt-xiển-đề.
Chỉ trừ bọn nhứt-xiển-đề này, ngoài ra tất cả chỗ bố thí đều nên tán thán .” (Nguồn: Kinh Đại Niết Bàn - Phẩm 17)
+ Cung Hoàng Đạo Hành Thủy (Âm): Góc hợp cứng vuông góc và đối nghịch (Kỳ công 4-8-12)
Dương ...... Âm
Hỏa và Khí ...... Nước và Đất
Các dấu hiệu số lẻ ..... Các dấu hiệu số chẵn
Tích cực, tự thể hiện ..... Thụ động, tiếp nhận
Năng lượng dương ..... Năng lượng âm
+ Hành thủy Cung Hoàng đạo: Cự Giải, Hổ Cáp và Song Ngư; (Xem Dấu hiệu Hoàng Đạo - Hành - Tứ Đại)
+ 3 Cung Hành Thủy với 3 biểu tượng: Con Cua (Bắc Giải) - Hổ Cáp (Bọ Cạp) - Con Cá (Song Ngư). 3 Cung (Nước) đúc kết về sự phát triển của con người - Phàm ngã, minh họa về Luật Nhân Quả (CTHNM, 359)
+ Thủy - Nước: Phù hợp với các sắc thái và tinh tế; Liên lạc với cảm xúc, nhạy cảm; Trực quan, đáp ứng cảm thông với người khác hoặc chiều sâu của cuộc sống; Dễ bị tổn thương, có thể phản ứng, sợ hãi, thương thân trách phận; Tìm kiếm sự gần gũi và sáp nhập - Đa cảm. Trực quan. Nhạy cảm với môi trường xung quanh và với người khác. Sáng tạo. Trí tưởng tượng mạnh. Đồng cảm (Chiêm THNM 4)
+ Nước: Vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực mềm, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. Đạo cũng ví như nước vậy. (Theo Đạo Đức Kinh của Mạnh Tử)
+ Hành Thủy - Nước trong thể Cảm Xúc được mô tả về tính chất (LVHLT, 160):
- Thật thú vị khi nhớ điều này: Nếu một hình-tư-tưởng được đưa vào thế giới cảm xúc để thu thập cho nó một thể của ham muốn (lực thôi thúc vốn tạo ra mọi biểu lộ ngoại tại – objectivity) và được nhấn chìm vào một “tình trạng của nước”, vốn có thể được mô tả tốt nhất như là hoàn toàn ích kỷ, thì tất cả những gì xảy ra là như sau: Nó bị mất, do bị hút vào thể cảm dục của vị đệ tử, vốn là điểm tập trung cho mọi năng lượng cảm dục mà người đệ tử sử dụng. Nó bị cuốn vào một lốc xoáy, mà thể cảm dục cá nhân là trung tâm của lốc xoáy đó, và đánh mất sự sống riêng biệt của nó. Sự so sánh về xoáy nước có giá trị ở đây........ (LVHLT, 162)
+ CÁC ĐẠI VÀ LUÂN XA: Một manh mối cho ý nghĩa của các thuật ngữ này được tìm thấy trong việc công nhận sự thực huyền bí sau đây.
- Nơi mà nước và đất gặp nhau là bí huyệt đan điền (solar plexus centre).
- Nơi mà nước, đất và không khí gặp nhau là ở trong đầu.
- Đất là biểu tượng của sự sống cõi trần, và của hình tướng bên ngoài.
- Nước là biểu tượng của bản chất tình cảm.
Chính là từ bí huyệt lớn của đời sống phàm-ngã, tức huyệt đan điền, mà đời sống thường bị chế ngự và sự quản lý được thực hiện. Khi trung tâm điều khiển nằm dưới cơ hoành thì không huyền thuật nào có thể xảy ra. Sinh hồn (animal soul) kiểm soát và hồn thiêng (spiritual soul) tất nhiên không hoạt động.
- Không khí là biểu tượng của sự sống cao siêu, nơi đó nguyên khí Christ thống trị, nơi đó sự tự do được trải nghiệm và linh hồn đạt đến sự biểu lộ đầy đủ. Nó (Không khí) là biểu tượng của cõi bồ-đề, trong khi nước là biểu tượng của cõi tình cảm. (LVHLT, 250)
+ Hành Thủy - Nguyên tố thủy: Để giúp ích những người chưa quen với các thuật ngữ khoa Chiêm tinh, ở đây tôi xin nói rõ nguyên tố Thủy chế ngự cõi tình cảm hay cảm dục, mà huyền thuật nghi lễ có liên quan mật thiết. Từ đó, Hội Theosophia, hầu như vô tình đã đi vào một chu kỳ ngắn cần cách hoạt động kết hợp với nguyên tố Thủy hay yếu tố tình cảm này, mà cũng lạ là nó đã chế ngự tất cả các nguyên tố khác trong lá số tử vi thành lập hội vào tháng 11/1875. (Nguồn: Ngũ hành - Các vị Thánh sư - Tr5)
+ Thủy đại - Thần thủy: Giảng giải: ‘’Cai quản thủy tộc ở cung rồng.’’ Thủy thần thì cai quản chúng sinh trong biển, cho nên nói ‘’Ðại dương biển lớn nổi ba đào.’’ Ở trong nước thường đi du ngoạn trong nước, xem cá bơi đi bơi lại, có ăn, không có ăn, đều rất sung sướng.
‘’Tưới khắp thấm nhuần dưỡng vạn vật.’’ Hoa cỏ, thảo mộc, cây cối ngũ cốc đều cần nước, đều nương nước mà sống.
‘’Mênh mông ràn rụa diễn hồng mông.’’ Nếu nước lớn thì âm thanh lớn. Gia Tô giáo nói hồng thủy làm chết người thế gian, đều vì tin thần giả, không tin thần thiệt, cho nên dùng nước làm chết bạn, nếu thật là như thế, thì tin thần giả tức là phạm tội, vậy kẻ giết người, phóng lửa sao không làm chết họ đi, tin thần ngược lại có tội, nói thẳng thật là vô lý. ...
131. Nan giá na xá ni.
Tên của Thủy Thần diệu vô cùng
Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công
Hay trừ nạn sinh già bệnh chết
Tất cả tai ương hóa thành bụi.
Giảng giải: Câu Chú trên đây là tên của Thủy Thần. ‘’Danh tự Thủy Thần diệu vô cùng.’’ Bạn niệm tên của Thủy Thần thì sự việc rất áo diệu sẽ hiện ra. Việc gì?
‘’Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công’’. Nước độc, bệnh về nước đều được giải trừ. ‘’Hay trừ nạn sinh già bệnh chết.’’ Nạn sinh già bệnh chết đều có thể giải trừ.
‘’Tất cả tai ương hóa thành bụi.’’ Bất cứ tai nạn gì, cũng đều hóa giải được, giống như tán thành bụi. (Nguồn: Giảng Chú Lăng Nghiêm-Tr301-Google - Drive)
+ Thủy đại thắng diệu nhất: .... Lại giải thoát gọi là thủy-đại. Ví như thủy-đại thắng hơn các đại khác, hay nhuận hột giống của tất cả cỏ cây. Cũng vậy, giải thoát hay nhuận tất cả loài có sự sanh sống. Giải thoát như vậy tức là Như-Lai. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết Bàn - Chương 7)
+ Sở di chướng là gì? Chúng ta dùng lời hiện nay mà nói là kiến giải, tức là bạn có tri, có kiến. Nói rõ thêm một chút tức là bạn có tư tưởng, bạn có kiến giải. Có những thứ này rất phiền phức. Đã có những thứ này khiến cho trí huệ, bát nhã vốn có trong tự tánh của bạn bị chướng ngại. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói tất cả chúng sanh đều có Như Lai Trí Huệ đức tướng, đức tướng tức là đại Niết Bàn. Không sanh, không diệt là đức tướng. Nếu chúng ta có tư tưởng, có kiến giải thì hư rồi.... Biến thành cái gì? Biến thành tà tri, tà kiến. Tư tưởng và kiến giải hoàn toàn không tương ứng với chân tướng sự thật, đã biến thành sai lệch như vậy. Là bởi vì có thị phi nhân ngã, có tham, sân, si, mạng khiến cho đức tướng biến thành sanh tử luân hồi, biến thành chúng sanh tướng của thập pháp giới. Nếu Đức Thế Tôn không ra đời thì ai biết được chân tướng sự thật này. .. Ngài vì chúng ta nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Sau khi chúng ta nghe rồi thì quả nhiên đại ngộ. .. Làm thế nào để khôi phục trí huệ đức tướng viên mãn của chúng ta? .. Hạnh Phổ Hiền là hành Pháp cứu cánh viên mãn...... (Nguồn: PS Tịnh Không giảng về Sám Hối)
+ 4- KIÊU MẠN - KIÊU CĂNG CỐNG CAO - NGẠO MẠN:
+ Họ tự cho mình thông minh, khôn ngoan hơn người nên họ kiêu mạn - Là TỰ TÔN và do đó họ tự cao (cao ngạo), tự đại, tự kiêu (kiêu ngạo, kiêu mạn - kiêu căng ngạo mạn), khinh mạn (khinh khi người thấp hèn hơn mình), ganh ghét, đố kị, hiếu thắng hay thành tựu hơn người. Khổng tử nói, hạng người này không cần nhắc đến, là giả, không phải thật, hoàn toàn là giả. Chúng ta cần tự phản tỉnh, tôi có tâm tự đại - đố kỵ - hiếu thắng hay muốn thành tựu chăng? Nếu có những ý niệm này thì không phải quân tử, nhà Nho gọi là tiểu nhân. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
+ 321. KHÔNG CỐNG CAO Ta còn nhớ khi xưa, lúc Ta ... chứng đắc được Sơ thiền, thành tựu và an trụ. Ta nghĩ rằng: ‘Phàm phu ngu si không đa văn, tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh, nhưng thấy người tật bệnh thì ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, mà không tự quán sát mình’. Rồi Ta lại nghĩ: ‘Ta tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh. Nếu Ta thấy người tật bệnh mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, Ta không nên như vậy, vì Ta cũng có trường hợp này’. Quán sát như vậy rồi thì tâm cống cao phát khởi do không có tật bệnh liền tự tiêu diệt. Nguồn mục 321- (Trung A Hàm, Kinh Nhu Nhuyến, Phẩm 11, số 117)
+ Kiêu mạn - Sở chi chướng:
- Phiền não chướng sinh khởi do chấp ngã. Khi chấp ngã, sẽ làm sinh khởi nên phiền não chướng. Bất luận điều gì xảy ra, quý vị đều không thể nào nhìn được thông suốt về nó cả, quý vị chẳng phóng xả sự việc đó được, vì thế nên quý vị bị vướng mắc với chúng. Và một khi sự vướng mắc sinh khởi, thì phiền não chướng theo sau liền. Đó là phiền não chướng.
- Sở tri chướng sinh khởi do chấp pháp. Về sở tri chướng, nếu quý vị nghĩ: “Tôi biết rất nhiều” thì đó là một chướng ngại. Chẳng phải là người ta càng học thì hiểu biết càng gia tăng đâu, mà trái lại họ càng học nhiều thì họ lại càng bị chướng ngại bởi những gì họ biết. Vì sao mà kiến thức là chướng ngại? Vì nó làm cho người ta kiêu ngạo và thường nghĩ: “Quý vị nhìn tôi xem. Tôi biết mọi thứ mà không ai trong các ông biết được. Tôi vượt xa các ông. Tôi chẳng thể nào so sánh với các ông được. Các ông đều là kẻ ngu đần. Nhưng còn tôi, tại sao sở học của tôi lại có một không hai trên thế gian này, đời này thật là hiếm có.” Ngay khi tâm kiêu mạn này trổi dậy thì đó chính là sở tri chướng.....
* Phiền não là ma quỷ, quý vị có thể tìm thấy yêu tinh ma quỷ nơi đâu? Nói đơn giản, hễ có phiền não là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại, kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ LN-Q1-Phần Kinh văn)
+ Trừ Tâm Ngã mạn: Này các Tỳ Kheo, ai trừ tâm ngã mạn, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho không còn hiện hữu lại, người ấy là bậc thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không còn bất cứ một hệ luỵ nào. Do đó, dứt trừ tâm ngã mạn là việc khó làm_ Đức Phật dậy.
+ 39. Kiêu Mạn - Có ba: Kiêu mạn của tuổi trẻ, Kiêu mạn của không bệnh, Kiêu mạn của sự sống.
Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. ... sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Say sưa trong Kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân...., về ý . .... sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Say sưa trong Kiêu mạn của sự sống, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. .... sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục..... (Nguồn: Kinh Tăng Chi Bộ - Chương ba pháp)
+ Người kiêu mạn rễ chết uổng: Thế nào là bức ngặt, và không bức ngặt ? Như người phàm ngã-mạn tự cao cho rằng không ai hại được mình, bèn ở chung với rắn cọp độc trùng, nên biết người nầy sẽ bị hoạnh tử. Đây là bức ngặt. Trong chơn giải thoát không có việc như vậy. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết Bàn - Chương 7)
+ Chết oan - Chết uổng - Hoạnh tử: Ngài A-nan liền hỏi: “Thế nào là chín cách chết oan uổng? (Không đáng chết mà chết, chưa dứt thọ mạng mà chết. Chết bất đắc kỳ tử.)”. Bồ Tát Cứu Thoát đáp:
1. “Như có những người mắc bệnh nhẹ nhưng không thầy, không thuốc, cũng không có người thăm bệnh. Hay như được gặp thầy, lại cho thuốc sai. Thật chẳng đáng chết, nhưng lại phải chết uổng. Lại tin theo những tà ma ngoại đạo ở thế gian; nghe các thầy yêu nghiệt nói bậy việc họa phước, sanh ra sợ hãi, tâm dao động chẳng yên, chẳng giữ được lòng chân chánh, bói toán hỏi việc tai họa, thấy xấu lại giết hại các loại chúng sanh, tâu bày khấn vái lên các đấng thần thánh, kêu gọi các loài quỷ thần sông, rạch, núi, hồ thỉnh cầu ban phước, muốn hy vọng kéo dài mạng sống thêm, nhưng rốt cuộc chẳng thể được. Kẻ ngu si mê hoặc tin theo tà kiến điên đảo đành phải chết uổng. Đọa vào địa ngục chẳng biết lúc nào ra khỏi. Đó là cách chết oan uổng thứ nhất.
2. Hai là do phép vua mà bị tru diệt.
3. Ba là do ưa thích săn bắn, chơi bời, say đắm tửu sắc, tham dâm mê rượu, phóng túng vô độ, bất ngờ bị loài phi nhân đoạt mất tinh khí mà chết.
4. Bốn là bị nạn lửa đốt cháy mà chết.
5. Năm là chìm dưới nước mà chết.
6. Sáu là bị các loài thú dữ ăn thịt.
7. Bảy là té chết nơi núi non hiểm trở.
8. Tám là do thuốc độc, do trù ếm, chú thuật, các loài thây ma đứng dậy hóa quỷ hại chết.
9. Chín là đói khát khốn khổ, do chẳng được ăn uống nên phải chết uổng.
“Đó là chín cách chết oan uổng mà Như Lai đã lược nói ra. Lại còn vô số những cách chết oan uổng khác nữa, khó nói hết được. (Nguồn: Kinh Dược Sư)
+ 15 loại chết khổ đau - Ác tử: Quán Thế Âm Bồ-tát bạch với Ðức Phật: Người tu Chú Đại Bi không bị các loại ác tử đó là ......(Nguồn: Chú Đại Bi - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Chòm Sao Bắc Đẩu Thất Tinh: ... Khi thấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ tòa đứng dậy, tiến đến trước Phật mà bạch rằng:
Thưa Đức Thế Tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu Âm Dương, Ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà 7 sao Bắc Đẩu ở giữa trời có uy quyền uy đức tối tôn như vậy? Cúi xin Thế Tôn vì chúng con tuyên thuyết, tất cả nhân Thiên và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng rằng: Quý hóa lắm thay! Ta nay sẽ vì ông và chúng sinh ở đời vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều cùng hiểu biết, công đức lớn lao của 7 sao ấy, phúc thì quyền sinh, ân thí muôn cõi...... Khi ấy Phật bảo tất cả đại chúng rằng:
- Có thiện nam hay tín nữ nào mà hàng năm cứ ngày 8 tháng Giêng, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và hàng tháng cứ ngày 7, ngày 9 với ngày sinh mình mặc y phục sạch đối trước tinh tượng chí tâm xưng niệm Danh hiệu 7 vị Phật và 2 vị Bồ Tát thời tùy tâm nguyện cầu gì cũng thấy cảm ứng ngay.
- Lại nếu có thể thắp 7 ngọn đèn bày theo tinh vị rồi lúc nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa tinh thủy dốc lòng khẩn cầu ắt được như ý.
- Ông Văn Thù này! Khắp cõi tể – quan, cư sĩ, tăng – ni, đạo – tục dù sang dù hèn cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh.....
- Ông Văn Thù này ! Bắc Đẩu Cổ Phật quảng đại từ bi, thị hiện giữa bầu trời, chủ trương niên – mệnh , thống lãnh Càn Khôn. Trên từ vua- chúa, dưới đến nhân dân, trời đất núi sông, chim muông cây cỏ, tất cả đều do Thất Tinh Bắc Đẩu cai quản soi chiếu. ... (Xem Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật)
+ Chết uổng - Hoạnh tài:
Hỏi: Sao gọi là phi tai hoạnh họa?
Đáp: Lẽ ra là không nên có mà lại có tai họa, không phải thuộc về mình mà mình vẫn bị nhận lãnh. Vốn dĩ là không nên bị mà mình lại phải bị. Hoạnh họa cũng như tai nạn đột ngột, mình không ngờ là vậy mà lại hóa ra vậy, tức là ngoài ý muốn.
Có người uống rượu, bị chết chìm trong thùng rượu; đây có phải là tai nạn đột ngột không? Ăn gà bị mắc nghẽn xương gà mà chết; đó không phải là bất ngờ hay sao? Như Tống Tử Văn ăn một miếng thịt gà rồi bị miếng xương gà mắc nghẹn ở cổ.
Lại còn có những chuyện như treo cổ, nhảy biển, hỏa tai, lụt lội, bị cây bị đá đè chết, bị đất chôn sống, tất cả đều gọi là hoạnh tử, chết bất ngờ.
Bởi gặp phải quá nhiều kim mộc thủy hỏa thổ trong lúc người ta chưa dự tính gì là bị chết thì đều gọi là hoạnh tử chết bất ngờ, cũng gọi là mắc phải nạn mà chết.
HỎI: Tại sao người ta phải chịu những thứ quả báo như vậy?
ĐÁP: Điều này chúng ta phải tính ngược dòng thời gian ba nghìn năm, hoặc mười nghìn năm cũng không nhất định. Nhưng đó đều là do một niệm vô minh từ lúc ban đầu nhất đã làm sai nhân quả, cho nên mới gặp phải tội ương hoạnh tử.
HỎI: Chuyện quỷ bắt người chết thế là như thế nào?
ĐÁP: Ví dụ như bất ngờ ở ngay chỗ xảy ra tai nạn đụng xe, năm đó vào tháng ba có người bị xe đụng. Qua năm sau vào tháng ba lại cũng có người bị xe tông. Tháng ba, hai năm sau, chỗ đó lại có người bị xe đụng. Qua ba năm sau, ở đó lại có xe đụng. Vậy tức là chỗ đó có con quỷ đang muốn kiếm quỷ chết thế cho nó.
Những chuyện đụng xe, chết chìm, lửa thiêu, rớt máy bay, xe lửa trợt đường ray và tàu thuyền chìm xuống biển v.v... đều là như thế. Trong đó còn có biết bao nhiêu chuyện mà ta không thể nói hết. (Nguồn: Đường links: https://www.dharmasite.net/.../Gay-Kim-Cang-Het_Quyen-3...)
+ Người kiêu mạn chết uổng: Thế nào là bức ngặt, và không bức ngặt ? Như người phàm ngã-mạn tự cao cho rằng không ai hại được mình, bèn ở chung với rắn cọp độc trùng, nên biết người nầy sẽ bị hoạnh tử. Đây là bức ngặt. Trong chơn giải thoát không có việc như vậy. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết Bàn - Chương 7)
+ "Niết-bàn" Hán dịch là Bất sinh bất diệt. (HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
+ Niết Bàn: Trong trần thế chỉ có đạo Niết Bàn là cao quý hơn tất cả.
Vì sao? Vì Niết Bàn cảnh giới không có sự già nua, bệnh chết, không đói lạnh, không tai hoạn nước lửa, không oan gia, không trộm cướp, không dục vọng ân ái, không lo buồn hoạn nạn, không tất cả những khổ sở đớn đau. Cảnh giới ấy là diệt độ. Diệt độ không phải một sự chết, nhưng đây là sự giải thoát tự tại thôi.
Cảnh giới hoàn toàn an vui, một niềm vui thanh tịnh vô biên, có thể kiến lập cảnh giới ấy trên trần thế, cho riêng mình và cho chung tất cả muôn loài. Bệ hạ hãy tự lo tự tu, tự tỉnh lấy. Bệ hạ hãy tự thương lấy Bệ hạ. (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
+ Đây là Đức Phật nói về sự khác biệt về ý nghĩa Niết Bàn (Chánh Pháp và Ngoại Đạo).
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Phật nói Niết Bàn, pháp nào gọi là Niết Bàn? Mà các ngoại đạo đối với pháp Niết Bàn mỗi mỗi sanh khởi vọng tưởng khác nhau?
Phật bảo Đại Huệ: Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Cúi xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ:
- Như vọng tưởng Niết Bàn của các ngoại đạo, vọng tưởng của họ chẳng tùy thuận Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo diệt ấm, giới, nhập, lìa cảnh giới tham dục, thấy pháp vô thường, tâm và tâm pháp chẳng sanh, chẳng ghi nhớ cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, thọ ấm hết như ngọn đèn tắt, như chủng tử hoại, vọng tưởng chẳng sanh, nghĩ những cảnh giới này cho là Niết Bàn. Đại Huệ! Họ chẳng do hoại tánh kiến, gọi là Niết Bàn.
- Đại Huệ! Hoặc có ngoại đạo cho "từ phương này đến phương kia" gọi là giải thoát, thấy cảnh giới của tưởng ấm diệt cũng như gió ngưng; Hoặc thấy năng giác sở giác đoạn diệt, gọi là giải thoát. Hoặc thấy mỗi mỗi tướng của tư tưởng là cái nhân sanh ra khổ, qua suy nghĩ rồi, chẳng khéo giác tri tự tâm hiện lượng, kinh sợ nơi tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn.
Hoặc có tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo, biết các pháp trong ngoài tự tướng cộng tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh chẳng hoại, cho là Niết Bàn. Hoặc đối với ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tất cả pháp ngoại, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo, trí huệ bị ác kiến thiêu đốt chấp có ngã, kiến tự tánh làm căn bản, thấy tự tánh và sĩ phu, giữa hai có chút ngăn cách, nói Thần ngã của sĩ phu hay sanh tự tánh, vì do sĩ phu sanh ra, gọi là tự tánh, ví như Minh Sơ (1), Cầu Na (2) là y theo Thần ngã ban sơ sanh giác. Cầu Na dụ cho vi trần, cho Cầu Na là tác giả, nói từ vi trần sanh tứ đại, cũng như từ sĩ phu sanh tự tánh, rồi chấp có Thần ngã chấp cõi mười phương, cho là Niết Bàn.
- Hoặc có ngoại đạo nói hết phước và phi phước, hoặc nói các phiền não chẳng do tu trí huệ mà tự dứt, hoặc thấy Cõi Trời Tự Tại ( là Thượng Đế của Bà La Môn Giáo tiếng Sanskrit là Mahesvara) là kẻ chơn thật tạo tác sanh tử, cho là Niết Bàn.
Hoặc nói chúng sanh ở nơi này chết thọ sanh nơi khác, lần lượt luân hồi từ tám ngàn kiếp đến nay, vô nhân tự có, do đó chấp trước sanh tử chẳng có nhân nào khác, rồi chấp trước vô nhân, tưởng là Niết Bàn.
Hoặc nói từ tự tánh sanh tứ đại, tứ đại sanh ý, ý sanh trí, trí sanh ngũ phần, ngũ phần sanh ngũ tri căn, ngũ tri căn sanh ngũ nghiệp căn, ngũ nghiệp căn sanh ngũ đại, gọi là 25 Minh Đế của tự tánh, hay sanh các pháp rồi trở về tự tánh thì lìa tất cả sanh tử. Chấp Minh Đế này cho là đắc đạo Chơn Đế, tưởng là Niết Bàn.
- Hoặc thấy tướng nhất dị, đồng chẳng đồng hòa hợp sanh khởi công đức như vi trần sanh khởi thế giới, vi trần là năng tác, thế giới là sở tác, tức là công đức, cho là Niết Bàn. Hoặc thấy vạn vật như cây gai nhọn, như sự lộng lẫy của con công và đủ thứ bửu vật, chẳng có kẻ tác, vô nhân tự có, cho là Niết Bàn.
- Đại Huệ! Hoặc có 25 Minh Đế là chơn thật, và cho Lục Đức Luận là 1. Thật, 2. Đức, 3. Nghiệp, 4. Tứ Đại, 5. Hòa hợp, 6. Đồng dị là nhân sanh ra các pháp, nói giữ được hai pháp này hộ trì quốc độ chúng sanh, khiến được an lạc tức là Niết Bàn.
Hoặc cho thời gian là kẻ tác tạo ra thời tiết thế gian, kẻ giác như thế, tưởng là Niết Bàn.
Hoặc thấy tánh, hoặc thấy phi tánh, biết là tánh phi tánh, thấy có giác này với Niết Bàn sai biệt mà chẳng khác, tưởng là Niết Bàn.
Đủ thứ vọng tưởng so đo chấp trước của ngoại đạo sở thuyết, nơi lý chẳng thành, bậc Trí nên bỏ những thuyết này vậy.
- Đại Huệ! Niết Bàn vọng tưởng của ngoại đạo, tất cả đều đoạn kiến chấp nhị biên mà họ cho là Niết Bàn. Mỗi mỗi Niết Bàn của ngoại đạo họ tự lập luận, bậc trí huệ quán sát vọng tưởng của họ, tâm ý khứ lai, trôi giạt lưu động, hoặc sanh hoặc diệt, lập như vô sở lập, thật thì chẳng có kẻ đắc Niết Bàn.
- Đại Huệ! Pháp Niết Bàn của Ta thuyết là khéo giác tự tâm hiện lượng, chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi tứ cú, thấy chỗ như thật, chẳng đọa tự tâm hiện và vọng tưởng nhị biên, năng nhiếp sở nhiếp bất khả đắc, tất cả đo lường chẳng thấy sở thành, đối với vọng chấp chơn thật của phàm phu chẳng nên nhiếp thọ. Người xả bỏ rồi thì đắc pháp Tự Giác Thánh Trí, biết hai Vô Ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai sanh tử, dần dần lên chư Địa, đến địa vị Như Lai, các Tam muội thâm sâu, lìa tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết Bàn. Đại Huệ! Ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học, chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết Bàn của ngoại đạo. (Nguồn: Xem tại đây)
+ Niết bàn là tối thượng:
Hỏi: Thưa Cù-đàm, Niết-bàn nương vào đâu mà tồn tại?
Đáp: Ý muốn của Phạm chí nương vào những sự kiện không cùng nên ông nay đã hỏi Ta về sự không có giới hạn, nhưng Niết-bàn không nương vào đâu cả. Niết-bàn là tịch diệt, Niết-bàn là tối thượng. Này Phạm chí, vì mục đích này mà nhiều người theo ta mà tu hành Phạm hạnh. Nguồn: mục 777- (Trung A Hàm, Kinh A-Già-la-ha-na, Phẩm 12, số 159)
+ Trong Niết bàn: .... Đức Phật nói, không thể tìm ra dấu vết đó, gọi là niết bàn. Trong niết bàn không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú, lạnh nóng gió mưa. Sanh già bịnh chết, hai mươi lăm cõi, lìa các sự lo khổ và các phiền não. Niết bàn như vậy là chỗ Như Lai ở thường không biến đổi. Vì nhơn duyên ấy, Như Lai đến trong rừng Ta La nơi đại niết bàn mà nhập đại niết bàn."... (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Như Lai tùy thuận Thế gian thị hiện: ........ Tất cả chúng sanh không có thể suy lường đến được. Nay ông làm thế nào biết Như Lai gần nơi ái dục sanh La Hầu La?
Nầy Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn , thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Diêm Phù Đề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện nhập niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ.
Nầy Ca Diếp! Nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thị hiện từ nơi mẹ là Ma-Gia sanh ra, vừa sanh liền đi qua hướng đông bảy bước xướng lên rằng: — trong hàng trời, người, A Tu La, ta là bực tôn thượng hơn cả.
Cha mẹ và trời người thấy thế vừa sợ vừa mừng cho rằng hi hữu. Mà mọi người nói là đứa trẻ nhỏ. Nhưng chính thiệt thời thân của Như Lai đã lìa cách trên đây từ vô lượng kiếp.
Thân của Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương tủy hiệp thành. Vì thuận cách sanh của chúng sanh mà thị hiện làm đứa trẻ. Đi qua hướng Nam bảy bước là thị hiện muốn làm phước điền vô thượng cho chúng sanh. Đi qua hướng Tây bảy bước là thị hiện thân nầy là thân cuối cùng không còn sanh tử nữa. Đi qua hướng Bắc bảy bước là thị hiện đã qua khỏi sự sanh tử của các cõi. Đi qua hướng Đông bảy bước là thị hiện làm đạo sư cho chúng sanh. Đi qua bốn hướng cạnh bảy bước là thị hiện dứt diệt các thứ phiền não và bốn loài ma, mà thành đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Đi lên bảy bước là thị hiện không bị vật dơ làm ô nhiễm, như hư không. Đi xuống bảy bước, là thị hiện rưới mưa pháp dập tắt lửa địa ngục, cho chúng sanh hưởng vui an ổn.
Nơi Diêm Phù Đề, sau khi sanh bảy ngày lại thị hiện cạo tóc, mọi người đều cho rằng Như Lai là đứa trẻ mới cạo tóc lần đầu. Kỳ thiệt, tất cả trời, người, ma vương, Sa môn, Bà la môn, không một ai có thể thấy được đảnh tướng của Như Lai, huống là có người cầm dao đến cạo tóc được. Trong vô lượng kiếp lâu xa về trước, Như Lai đã cạo bỏ râu tóc rồi. Vì muốn tuỳ thuận theo pháp thế gian, nên Như Lai thị hiện cạo tóc.
Cha mẹ đem ta đến miếu thờ trời, ra mắt Đại Tự Thiên. Lúc Đại Tự Thiên thấy Như Lai, liền chấp tay cung kính đứng qua một bên. Từ lâu xa vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa cách vào miếu trời, nhưng vì tuỳ thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
— Diêm Phù Đề, Như Lai thị hiện xỏ lỗ tai, kỳ thiệt, tất cả chúng sanh không ai có thể xỏ lỗ tai Như Lai được, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Lại lấy các châu báu làm bông tai sư tử để đeo vào, kỳ thiệt từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa đồ trang điểm, nhưng vì muốn tuỳ thuận thế gian mà thị hiện việc như vậy.
Rồi vào học đường học tập chữ nghĩa, võ nghệ, nghề nghiệp v.v... kỳ thiệt từ vô lượng kiếp Như Lai đã hoàn toàn rành rẽ tất cả những môn ấy. Xem khắp cả ba cõi, không một ai có khả năng làm thầy của Như Lai được, vì muốn tùy thuận thế gian mà thị hiện vào học đường. Vì thế nên gọi là đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
— cõi Diêm Phù Đề, tùy thuận thế gian mà thị hiện làm Thái Tử, mọi người đều thấy Như Lai là Thái Tử con trai lớn vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia, hưởng sự vui sướng trong cảnh ngũ dục (41). Kỳ thiệt trong vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa sự vui ngũ dục rồi.
Nhà tướng số đoán rằng Thái Tử nếu chẳng xuất gia thời sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương cai trị Diêm Phù Đề, mọi người đều tin lời đoán ấy. Kỳ thiệt, từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ vị Chuyển Luân Thánh Vương mà làm bực Pháp Vương.
Thị hiện nhằm lìa cảnh vui ngũ dục, dạo thành gặp người già, bịnh, chết cùng vị Sa môn, rồi vượt thành xuất gia hành đạo. Mọi người đều cho rằng Thái Tử Sĩ Đạt Đa mới xuất gia. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã xuất gia hành đạo rồi.
Thị hiện thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành đạo, chứng quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Mọi người thấy vậy đều nói quả A La Hán d¬ được không khó. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã thành tựu quả A La Hán rồi.
Vì muốn độ thoát mọi loài chúng sanh, mà thị hiện trải cỏ làm tòa, ngồi nơi đạo tràng dưới cội Bồ Đề hàng phục Ma quân. Đại chúng đều cho rằng Như Lai mới thành đạo, hàng phục Ma quân. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã hàng phục Ma quân rồi. Vì muốn hàng phục chúng sanh cang cường nên thị hiện như vậy.
Như Lai lại thị hiện đại tiện, tiểu tiện, thở ra, hít vào. Mọi người đều cho rằng Như Lai có đại tiện, tiểu tiện và thở. Kỳ thiệt thân của Như Lai đây đều không có những việc ấy, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Lại thị hiện thọ thực phẩm của người dưng cúng, nhưng thiệt ra thân của Như Lai đều không có sự đói khát. Lại thị hiện ngủ nghỉ đồng như chúng sanh, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đầy đủ trí huệ thâm diệu, xa lìa tất cả những sự thế gian như đi, đứng, nằm, ngồi, đau đầu, đau bụng, đau lưng, rửa tay, rửa mặt, súc miệng v.v..., mọi người đều cho rằng Như Lai có các oai nghi như vậy. Nhưng thân của Như Lai đều không có những sự ấy, tay chơn trong sạch như hoa sen, hơi miệng thơm sạch như mùi thơm ưu-bát-la.
Đại chúng cho rằng Như Lai là nhơn loại, mà thiệt thời Như Lai không phải nhơn loại.
Lại thị hiện nhận lấy y phấn tảo, giặt giủ may nhuộm, nhưng từ lâu Như Lai chẳng cần đến cái y ấy.
Nầy Ca Diếp! Dầu Như Lai luôn thị hiện nhập niết bàn tại Diêm Phù Đề nầy. Kỳ thiệt Như Lai chẳng rốt ráo nhập niết bàn, mà chúng sanh cho rằng Như Lai thiệt diệt độ. Phải biết tánh Như Lai thiệt chẳng diệt hẳn, là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi.
Nầy Ca Diếp! Đại Niết bàn là pháp giới của Phật Như Lai.
Như Lai thị hiện ra đời thành Phật, chúng sanh đều nói Như Lai mới thành Phật; nhưng thiệt ra Như Lai chỗ làm đã xong từ vô lượng kiếp rồi, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Nầy Ca Diếp! — Diêm Phù Đề có lúc Như Lai thị hiện chẳng giữ giới cấm, phạm tứ trọng tội, nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai giữ chặt cấm giới chẳng một mảy thiếu xót.
Có lúc thị hiện làm gã nhứt-xiển-đề, nhưng thiệt ra không phải nhứt-xiển-đề. Làm gì có nhứt-xiển-đề mà thành bực vô thượng chánh giác!
Có lúc thị hiện phá hoà hiệp tăng, có lúc thị hiện hộ trì chánh pháp, mọi người đều phải kinh quái.
Có lúc thị hiện làm Ma vương Ba tuần, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đã lìa ma sự, trong sạch không nhi¬m như hoa sen.
Có lúc thị hiện thân gái thành Phật, mọi người đều nói, rất lạ cho người nữ mà có thể thành Phật. Phải biết Như Lai trọn hẳn không thọ thân gái, vì muốn điều phục vô lượng chúng sanh nên hiện thân gái. Và cũng vì thương xót chúng sanh mà hiện nhiều thứ thân, cho đến hiện thân A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục, để độ chúng sanh trong các loài ấy.
Lại thị hiện làm Phạm Thiên Vương để cho người thờ Phạm Thiên vào trong chánh pháp, nhẫn đến thị hiện các thân trời khắp các miếu trời cũng vì mục đích ấy. Nhưng thiệt ra Như Lai không phải Phạm Thiên, không phải thân trời.
Có lúc thị hiện vào nhà gái dâm, nhưng Như Lai thiệt không có niệm dục, lòng Như Lai trong sạch không nhiểm ô như hoa sen, vào đấy để tuyên thuyết diệu pháp cho hạng người say mê sắc dục.
Lại thị hiện vào nhà thanh y, để giáo hóa hạng nô tỳ cho chúng nó được trụ nơi chánh pháp.
Lại thị hiện làm bác sĩ để dạy học trò, thị hiện chơi bài bạc để độ hạng người bài bạc, thị hiện thân chim thứu để độ loài thứu, lại thị hiện làm trưởng giả để an lập mọi người trụ nơi chánh pháp, thị hiện làm vua, làm quan, để dìu dắt nhơn dân tu chánh pháp.
Lại thị hiện tật dịch (42) tại nơi Diêm Phù đề, rồi trước thí thuốc cho bịnh nhơn, sau giảng dạy đạo pháp. Lại thị hiện cơ cẩn tai, trước bố thí cơm áo, sau tuyên truyền diệu pháp. Lại thị hiện đao binh tai, rồi thuyết diệu pháp.
Lại thị hiện vì hạng chấp thường mà giảng pháp vô thường, vì hạng chấp lạc mà giảng pháp khổ, vì hạng chấp ngã mà giảng pháp vô ngã, vì hạng chấp tịnh mà giảng pháp bất tịnh. Vì người tham chấp ba cõi, mà thuyết pháp cho họ xa lìa ba cõi, vì độ chúng sanh mà tuyên thuyết diệu pháp vô thượng, trồng cây pháp dược vô thượng để thay cây phiền não, di¬n nói chánh pháp để cứu bọn ngoại đạo tà kiến. Dầu thị hiện làm thầy chúng sanh, nhưng Như Lai trọn không có quan niệm là Thầy.
Đức Như Lai chánh giác an trụ đại bát niết bàn như vậy, nên gọi là thường trụ không biến đổi.
Cũng như thị hiện ở Diêm Phù Đề, ở Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu, nhẫn đến ở khắp cõi đại thiên, Như Lai đều thị hiện như vậy. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói rộng. Vì lẽ ấy nên gọi là đại bát niết bàn.
Nếu có vị đại Bồ Tát an trụ đại bát niết bàn như vậy, thời có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hóa như trên, mà trọn không có chút chướng ngại cùng e sợ.
Nầy Ca Diếp! Do nhơn duyên trên đây, ông chẳng nên nói rằng La Hầu La là con trai của Phật, vì từ vô lượng kiếp. Như Lai đã lìa hẵn dục nhiễm, nên Như Lai gọi thường trụ không biến đổi". (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Cõi Đại Thiên: ..... Nầy Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Diêm Phù Đề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện nhập niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Một cõi Phật - Tam thiên Đại thiên thế giới: 58. ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI
Này các Tỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về việc trời đất thành, hoại và quốc độ mà chúng sanh ở chăng?
Như trong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốn thiên hạ, tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới như vậy.
Trong ngàn thế giới có một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di; có bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốn ngàn chim cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác bốn ngàn đường ác lớn, bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn, ngàn Diêm-la vương, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời Đao-lợi, ngàn trời Diệm-ma, ngàn trời Đâu-suất, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn trời Phạm; đó là tiểu thiên thế giới.
Như một tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là một trung thiên thế giới.
Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới như vậy là một tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi thế giới thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật. (Trường A Hàm, Kinh Châu Diêm Phù Đề, số 30)
+ Tam thiên đại thiên thế giới
Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên. Sao gọi là cõi nước tam thiên đại thiên? Nhân vì ba ngàn (thiên) nên gọi là cõi nước tam thiên đại thiên thế giới.
Một Thế giới: Chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn: Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Ðông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. “Một” đây là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu.
=> Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới;
Một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới;
Một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới.
=> Vì có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - Quán Thế Âm - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tam thiên đại thiên thế giới: Chuyển luân thánh vương là người trị vì bốn châu thiên hạ: Đông thắng thân châu, Tây ngưu hoá châu, Nam thiêm bộ châu và Bắc-câu-lư châu. Một thế giới hệ bao gồm bốn đại châu nầy, một mặt trời, một mặt trăng và núi Tu-di. Một ngàn tiểu thiên thế giới hệ là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới được gọi là một đại thiên thế giới. Đây là ý nghĩa của Tam thiên đại thiên thế giới. Một vị Chuyển luân thánh vương cai trị một tiểu thiên thế giới. (Nguồn: Kinh Lăng Nghiêm - Q5 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Thánh Đệ tử : ... đức Phật bảo: Và này chư Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, xem sắc pháp: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", xem cảm thọ - xem tưởng - xem các hành - xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: "Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi", xem như vậy là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Vị này do quán sát như vậy, đối với sự vật chẳng thật có nên không có lo âu, phiền muộn. (Nguồn: 22.Kinh Ví Dụ Con Rắn)
+ Nhà Hiền triết: Biểu tượng là quyển sách (Năng lượng 7 cung - Khóa học GQ/ MF)
+ Bậc cao tăng đắc đạo: Trong đời mạt pháp, nếu có người muốn ngồi trong đạo tràng tu tập, trước tiên phải giữ giới cấm Tỳ kheo thanh tịnh, và cần phải lựa chọn những vị Cao Tăng giữ giới thanh tịnh bậc nhất để làm thầy mình. Còn như gặp Tăng chúng không thanh tịnh thì giới luật nghi sẽ không được thành tựu - Giảng giải: Việc đầu tiên của người thời mạt thế muốn ngồi vào Bồ đề đạo tràng, hoặc chùa, tháp, hoặc đạo tràng, người ấy phải thọ giới Tỳ kheo và giữ giới thanh tịnh ấy - Người xuất gia cho dù là một lỗi nhỏ cũng dứt khoát không phạm phải. Tìm cho được một Tăng nhân có giới đức cao cả để làm thầy mình. Nếu không có được một thành viên của Tăng già để truyền giới, tức giới hạnh của quý vị không được đầy đủ và chính xác, sự tu học vì vậy cũng không có kết quả. (Nguồn: Kinh Thủ LN 7 - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tại sao gọi họ là Thánh Hiền? Vượt thời gian vượt không gian, cái không gian thời gian đó là đã bao gồm tất cả. Nếu họ không vược qua không gian thời gian thì đó không thể gọi là thánh học được.Thánh học là cùng với bổn tánh bổn thiện, những danh từ này không phải dể hiểu, chúng ta nói cách khác, đó là phép tắc của tự nhiên, nguyên tắc của đại tự nhiên, sự vận hành của đại tự nhiên vĩnh hằng không thay đổi. Cái mà đạo gia gọi là “đạo”, đạo chính là nguyên tắc của đại tự nhiên. (Nguồn: Luân Lý Đạo Đức - PS Tịnh Không)
+ Thánh Hiền: Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng (Nguồn: Hòa Thương Tuyên Hóa giảng về Chú Đại Bi)
+ Thánh Hiền - Chân Thiện Tri Thức: hoặc Thiện hữu (善友), Ðạo hữu (道友);
Danh từ chỉ một người bạn đạo. Trong thời Phật giáo nguyên thuỷ, danh từ này được dùng để chỉ một vị tăng đầy đủ những đạo hạnh như nắm vững lí thuyết Phật pháp và tinh thông thiền định, có thể giúp đỡ những vị khác trên con đường tu học.
Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni rất quý trọng tình bạn trên con đường giải thoát. Ngài dạy như sau: » Cả một cuộc đời tầm đạo đều lấy tình bạn làm căn bản… Một Tỉ-khâu, một Thiện tri thức, một người bạn đồng hành – từ một vị này người ta có thể mong đợi rằng, ông ta sẽ tinh cần tu học Bát chính đạo để đạt giải thoát cho chính mình và những người bạn đồng hành.«
Dần dần, danh từ này cũng thường được sử dụng để chỉ những người tìm đạo, trong giới Cư sĩ và cả trong Tăng già. Trong những bài thuyết pháp, các vị Thiền sư thường dùng các biểu thị Thiện tri thức, Ðạo lưu… để chỉ những người hâm mộ Phật pháp đang chú tâm lắng nghe.
Người ta thường phân Thiện tri thức thành ba hạng:
1. Giáo thụ thiện tri thức, là những người có khả năng hướng dẫn, dạy dỗ trên con đường tu hành, là bậc thầy;
2. Ðồng hạnh thiện tri thức, là những người đồng chí, đồng hạnh, tức là người bạn tốt, trung thành;
3. Ngoại hộ thiện tri thức, là những người giúp cho những tiện nghi, tạo điều kiện tốt cho người tu hành. (Nguồn: Thiện Chi Thức)
+ Hiền Thánh: Quy y Tam bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới.
Hư không, chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới, trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác.
Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Hiền Thánh Tăng: Chúng ta cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng. (HT Tuyên Hóa Giảng Chú Đại Bi, Câu 76)
+ Bậc Thiện chi thức: Trích Bồ tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật: Hành trì làm sao tên là thiện trí thức?
Đức Phật nói: Thiện trí thức tâm tánh mềm mỏng hòa nhã, giới hạnh tinh chuyên, lòng không tham lam tật đố, không ái luyến vật chất, tâm thường bình đẳng, ý không thương ghét. Có đại phương tiện độ mình độ người, tùy theo căn tánh cũa mỗi người mà giáo hóa, đủ pháp tổng trì. Lòng tốt đối với người, làm ơn cho người chẳng cần trả, tu hành trong sạch, không có lỗi lầm, thuyết pháp luận nghĩa đều hiệp ý kinh. Người nào đầy đủ mấy việc này là thiện trí thức.
Nếu có trí tuệ hơn người, phước đức siêu quần, không chỗ nào chẳng lành, không pháp nào chẳng biết. Làm tai mắt cho cõi người cõi trời, là rường cột trong Phật pháp, cầm cái cân trong Phật Tổ, làm lãnh tụ trong pháp môn. Mở cửa chánh đạo, ngăn dẹp đường tà, nối thành dòng Phật, trồng trí huệ thơm khắp, lấy tâm ấn tâm lưu truyền chẳng dứt. Căn cơ lớn, diệu dụng lớn, hạnh nguyện lớn, uy lực lớn. Đây gọi là đại thiện trí thức chân chánh.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
641. THÁNH NHÂN
- Là người xa lìa các pháp ác, pháp bất thiện, các lậu ô uế, làm gốc rễ của sự hữu trong tương lai, là sự phiền nhiệt, là nhân của khổ báo, của sanh lão bệnh tử.
+ Hàng Tiểu thừa: Đối với Tiểu thừa, sơ quả a-la-hán được xem như là dự vào bậc Thánh rồi nhưng với bồ-tát thừa thì chưa.(Nguồn: Giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm-Q1-Phần chánh văn)
+ CÁC VỊ ĐỀU LÀ THIỆN TRI THỨC - HT TUYÊN HÓA KHAI THỊ:
Các vị thiện tri thức! Tại sao lại xưng hô quý vị là thiện tri thức? Nếu chẳng phải là thiện tri thức thì quý vị chẳng khi nào đến Bát-nhã đường (thiền đường).
Phàm đến Bát-nhã đường để tu hành thì tất cả đều là thiện tri thức, do đó mới xưng hô quý vị là thiện tri thức.
Bát-nhã là tiếng Phạn (Prajna), dịch nghĩa thành trí huệ. Quý vị đều là bậc đại trí huệ mới đến Bát-nhã đường. Tại sao là đại trí huệ? Bởi trong các kiếp quá khứ quý vị đã từng gieo nhiều căn lành, nhiều hạt giống Bồ-đề.
Cũng chính là trong quá khứ, quý vị đã đời đời kiếp kiếp cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Ðã tích lũy những công đức như thế, thì ngày nay nhân duyên thành tựu, mới tham dự khóa thiền.
Ðây chẳng phải là nhân duyên nhỏ, mà là nhân duyên to lớn, cũng là nhân duyên của việc liễu sinh thoát tử, mà cũng có thể nói là nhân duyên thành Phật. Bởi các lý do trên nên mới xưng hô quý vị là thiện tri thức.
Thiện tri thức chính là biết con đường thiện, không biết con đường ác. Nếu biết đường ác thì phải kêu là ác tri thức. Thế nào là thiện tri thức?
Thiện tri thức là chánh tri chánh kiến, hành động hợp với Phật pháp, tu tập chiếu theo Phật pháp, từng hành động cử chỉ đều tương ứng với Phật pháp.
Thế nào là ác tri thức? Ác tri thức thì tà tri, tà kiến, chuyện gì cũng đi ngược với Phật pháp, tức như câu nói "bội đạo nhi trì," quay lưng với đạo mà đi.
Nay quý vị tụ hội tại Bát-nhã đường, nhất tâm thiền định để cầu khai ngộ và đại trí huệ. Nếu thực sự sáng suốt, chân chánh giác ngộ, quý vị sẽ tuyệt đối không làm chuyện điên đảo nữa. Giác ngộ và sáng suốt như vậy nhất loạt đều do công phu tu hành mà thành tựu.
Bởi vậy kẻ tu hành không nên sợ khổ, sợ khó khăn. Khi đã ngồi thiền thì chân đau cũng mặc, lưng mỏi cũng không quan tâm, phải giữ vững tinh thần đại vô úy, sống chết với thiền, sống chết với tu, tuyệt đối không thể vì đau mỏi mà đầu hàng, phải làm kẻ đại trượng phu, đại anh hùng.
Kẻ tu hành cần phải có một sự kiên nhẫn không lay chuyển, một ý chí không lùi bước, trước mọi nghịch cảnh tuyệt đối không cúi đầu, tuyệt đối không bị khuất phục.
Chân đau lại càng cố chịu đựng, lưng mỏi càng cố gắng. Buồn ngủ ư? Mở to hai mắt, thách thức ma ngủ. Càng buồn ngủ càng tốt, đàng nào cũng tham, tham cho tới lúc dương khí đầy đủ trở lại, thì ma ngủ phải bỏ chạy.
Nếu như chúng ta không chiến đấu với ma ngủ, thì ta sẽ muôn đời làm nô lệ cho nó, nghe theo mệnh lệnh của nó và sẽ chịu nó sai khiến. (Theo Facebook Palmlien)
+ Thập đại đệ tử Phật: [1] Xá-lợi-phất Tôn giả; [2] Ma-ha Mục-kiền-liên Tôn giả; [3] Tu-bồ-đề Tôn giả; [4] A-na-luật Tôn giả; [5] Ca-chiên-diên Tôn giả; [6] La-hầu-la Tôn giả; [7] Ma-ha Ca-diệp Tôn giả; [8] Ưu-ba-li Tôn giả; [9] A-nan Tôn giả; [10] Phú-lâu-na Tôn giả (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
+ Đại Thiên Kiếp (Mahakalpa): 100 năm của Brahman, bằng với 311.040 tỷ năm của con người. (LVLCK, 39–40)
I- Theo Minh Triết Thiêng Liêng:
+ Đại Thiên Thần (Mahadeva): Mahadeva theo nghĩa đen là “Đại Thiên Thần” (“Great Deva”). Thuật ngữ này được áp dụng cho Ngôi Thứ Nhất của Tam Vị Nhất Thể biểu lộ, cho Shiva, trạng thái Hủy Diệt, Đấng Sáng tạo. (LVLCK, 39–40)
+ Đại Thiên Vương: X. Maharaja. + Vishnu: Cái nhập vào vạn hữu, vishanti, là Vishnu; + Brahnu: Đấng bao hàm, vây bọc, đảm trách tất cả là Brahma; + Shiva: Đấng tiềm ẩn trong mọi vật là Shiva. Shiva hôn thụy, ẩn tàng trong mọi vật dưới hình thức mối liên hệ (nexus), ràng buộc, đây là bản chất của dục vọng. Vriniti có nghĩa là bao bọc, phủ bằng một lớp vỏ, ranh giới của các giới hạn hay là chu vi, và như thế có sự hình thành hoặc sáng tạo (của mọi hình hài); và đây là tác động do Brahma chủ trì. Vishanti sarvani chỉ rằng vạn vật nhập vào Nó (It) và Nó nhập vào vạn vật, và đó là Bản Ngã (Self) nối tiếp với nhận thức và Vishnu. Toàn thể của những cái này là Maha-Vishnu. “Maha-Vishnu” là “Chúa tể” của mọi hệ thống thế giới này, được mô tả như là Ishvara, màu trắng, có bốn tay, trang điểm bằng vỏ ốc tù và, cái dĩa, cây gậy, hoa sen, vòng hoa và viên ngọc Kanstubha, toả chiếu phủ xanh và vàng, hình hài bất diệt, vô thuộc tính tuy có linh hồn và ẩn dưới mọi thuộc tính.(LVLCK, 51)
II- Theo Phật pháp: Phật bảo Tỳ-kheo “Có bốn loại Đại Thiên thần, đó là:
“1. Địa thần.
“2. Thủy thần.
“3. Phong thần.
“4. Hỏa thần.
Xưa kia Địa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong đất không có nước, lửa và gió. Lúc đó Ta biết rõ tâm niệm của thần đất này, liền đến bảo rằng: Ngươi đang nảy sanh ra ý nghĩ: Trong đất không có nước, lửa và gió phải không? Địa thần đáp: Trong đất quả thực không có nước, lửa và gió. Lúc ấy Ta bảo rằng: Ngươi chớ nảy sanh ý niệm này là trong đất không có nước, lửa và gió. Vì sao? Vì trong đất có nước, lửa và gió, chỉ vì yếu tố đất nhiều nên lấy đất mà gọi tên.” ... Trong Nước cũng có Đất - Lửa - Gió; Trong Gió cũng có Đất - Lửa - Nước; Trong Lửa cũng có Đất - Nước - Gió. (Nguồn: Kinh Đao Lợi Thiên - Phẩm 8 - Thế Ký)
+ Chỉnh hợp trong Tiểu và Đại thiên địa: Mục đích tiến hóa của con người trong ba cõi thấp – cõi trần, cõi cảm dục và cõi hạ trí – là sự chỉnh hợp của Phàm Ngã tam phân với Chân Ngã thể cho đến khi đạt tới đường thẳng duy nhất và con người trở thành Đấng Duy Nhất. Ở cuối mỗi kiếp sống, con người được tượng trưng bằng một dạng thức hình học nào đó, một ứng dụng nào đó đối với các đường của hình khối và minh chứng chúng bằng một loại hình thể nào đó. - Ở những kiếp đầu, thì nét phác thảo như đám rối, đồ họa không rõ ràng và sơ sài. Ở mức tiến hóa trung bình thì hình thể được phác thảo rõ rệt và sáng sủa. Ở Đệ Tử thì mục tiêu của con người là phối hợp tất cả các đường này thành một đường duy nhất, dần dần sẽ đạt tới sự viên mãn. Chân Sư là Đấng đã phối hợp được tất cả các đường phát triển ngũ phân trước tiên thành 3 và kế đó thành 1 đường. Ngôi sao 6 cánh trở thành ngôi sao 5 cánh, khối lập phương trở thành tam giác, tam giác trở thành đường thẳng. Vào cuối đại chu kỳ, đường thẳng trở thành điểm trong vòng tròn biểu lộ. Đó là nỗ lực giảng dạy, dựa vào 3 Ngôi của các chân lý căn bản và ghi khắc sự nhất tâm để tiến tới. Mỗi kiếp sống có sự ổn cố nhiều hơn nhưng ít khi Phàm Ngã tam phân lại được thẳng hàng (tạm gọi thế) với Chân Ngã thức. Đôi khi tạm thời xảy ra trường hợp này và khi (trong những lúc đạo tâm lên cao nhất và có các mục tiêu nỗ lực vì kẻ khác), Chân Ngã với Phàm Ngã tạo thành một đường trực tiếp. Thường thường, thể cảm dục, do tình cảm và rung động dữ dội, hay do sự bất an thất thường nên luôn luôn bị lệch khỏi sự chỉnh hợp. Lúc mà thể cảm dục có thể được chỉnh hợp tạm thời, bấy giờ, thể hạ trí lại là vật chướng ngại, ngăn chận những gì đã tinh lọc từ thể cao không xuống được thể thấp, và như thế không đến được bộ óc hồng trần. Phải tốn nhiều kiếp sống nỗ lực bền chí thì thể cảm dục mới được tĩnh lặng và thể hạ trí mới được kiến tạo để tác động như là cái lọc chứ không còn là vật ngăn cản nữa. Ngay khi điều này đã hòan thành được một ít, thể cảm dục được ổn cố và trở thành tấm kính phản chiếu tinh khiết, còn thể hạ trí đáp ứng cho mục đích làm tấm kính nhạy bén, một tác nhân phân biện và là tác nhân diễn giải sáng suốt các chân lý cao siêu được truyền đạt, ngay đến lúc đó cũng cần nhiều giới luật và nhiều kiếp cố gắng mới chỉnh hợp được cả hai thể cùng một lúc. Khi xong giai đoạn này thì việc kế tiếp là kiểm soát bộ óc hồng trần và việc chỉnh hợp cuối cùng với bộ óc vẫn phải được thực hiện để cho bộ óc có thể tác động như là tác nhân thu nhận và tác nhân truyền chuyển một cách trực tiếp giáo huấn được truyền đạt và có thể phản chiếu một cách chính xác tâm thức cao siêu. - Sự tương ứng trong Đại thiên địa? Mối tương đồng trong Thái Dương Hệ? Có 1 dẫn chứng. Trong tiến hóa của Thái Dương Hệ, có sự chỉnh hợp trực tiếp của một vài hành tinh với nhau và với thái dương, đưa đến sự chỉnh hợp thiêng liêng hay chỉnh hợp của Thượng Đế. Hãy suy gẫm về điều đó, tôi có một lời cảnh báo. Đừng tìm cách nêu ra giả thuyết về sự chỉnh hợp dựa trên các hành tinh vật chất. Chân lý không nằm ở đó. Chỉ có 3 trong số các hành tinh vật chất (và ba hành tinh này bằng chất dĩ thái) tiến vào việc chỉnh hợp cuối cùng, đánh dấu cho việc đạt được Chân Ngã thức vũ trụ của Thượng Đế, đó là mục tiêu thành đạt của Ngài. Địa cầu không phải là một trong số ba hành tinh này, còn Kim Tinh (Venus) có vị trí tương ứng với vi tử thường tồn cảm dục. Còn sự chỉnh hợp Thái Dương Hệ chúng ta với Thái Dương Hệ của sao Thiên Lang (Sirius). Đó là một thời điểm còn xa, nhưng nó giữ cái bí nhiệm của đại chu kỳ. (TVTTHL, 5–7)
+ Tùy căn cơ giảng nói Pháp: ..... Như trưởng giả rất cưng yêu đứa con trai một, dắt đến nhà trường ý muốn cho học, sau vì sợ con không được mau thành tài nên lại dắt về. Vì thương con nên trưởng giả ngày đêm ân cần dạy cho nó về bán tự, mà không dạy luận Tỳ Già La, vì nó còn nhỏ tuổi quá, chưa đủ sức học.
Nầy Ca Diếp! Giả sử trưởng giả dạy về bán tự xong, đứa con trai ấy có thể liền đặng hiểu biết luận Tỳ Già La không?
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn không!"
Phật hỏi: "Như vậy trưởng giả có bí tàng đối với con của ông không?"
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn không! Vì đứa con còn thơ ấu, nên trưởng giả không dạy, chớ chẳng phải vì bí tàng lẩn tiếc mà không dạy. Nếu có lòng tật đố lẩn tiếc mới gọi là bí tàng. Như Lai không như vậy, sao lại gọi là Như Lai bí tàng được."
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Nếu có lòng tật đố giận hờn lẩn tiếc mới gọi là bí tàng. Như Lai không có những lòng quấy ấy đâu gọi là bí tàng được.
Nầy Ca Diếp! Ông trưởng giả trên kia là chỉ cho Như Lai, đứa con trai một của ông là chỉ cho tất cả chúng sanh. Như Lai xem tất cả chúng sanh như con một. Dạy con trai một là nói hàng Thanh văn đệ tử. Còn bán tự (46) đó là nói chín bộ kinh Tiểu Thừa. Luận Tỳ Già La là nói về kinh điển Phương Đẳng (47) Đại Thừa. Vì hàng Thanh văn không đủ sức trí huệ nên Như Lai dạy cho họ bán tự chín bộ kinh điển mà chẳng dạy luận Tỳ Già La kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa.
Nầy Ca Diếp! Như đứa con trai kia tuổi đã lớn, đủ sức học tập, mà trưởng giả không dạy luận Tỳ Già La mới có thể gọi trưởng giả là bí tàng. Nếu hàng Thanh văn (48) đủ sức lãnh thọ Đại Thừa mà Như Lai lẩn tiếc không dạy, mới có thể gọi Như Lai có tạng bí mật. Nhưng thiệt ra Như Lai không phải như vậy, nên Như Lai không có bí tàng.
Như trưởng giả sau khi dạy bán tự xong, kế vì con mà dạy nói Luận Tỳ Già La. Cũng vậy, Như Lai vì các đệ tử giảng nói bán tự chín phần kinh xong, kế vì giảng nói luận Tỳ Già La Phương Đẳng Đại Thừa, chính là diệu lý Như Lai thường còn không biến đổi..... (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Tùy người - Tùy đối tượng mà giảng Pháp phù hợp: ...điều phục những chúng sanh cang cường, khiến cho họ biết được pháp khổ, pháp vui. Rồi mỗi Ngài đều sai thị giả đến vấn an Ðức Thế Tôn. Bấy giờ, Ðức Như Lai mỉm cười, phóng ra trăm ngàn muôn ức vầng mây sáng rỡ lớn... Lược giảng:
Ðiều phục những chúng sanh cang cuờng. "Ðiều" là điều hòa,"phục" là hàng phục. Sao gọi là "điều hòa"? Chúng ta muốn cho thức ăn có hương vị ngon lành thì phải nêm nấu sao cho năm vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn được điều hòa, vừa phải. Nếu thức ăn cay quá thì người không quen ăn cay sẽ không ăn được; chua quá thì người không thích chua sẽ không đụng đến; đắng quá thì cũng có người không thích; mà ngọt quá thì cũng có người chê, chẳng muốn ăn! Cho nên các thứ gia vị phải điều hòa, mỗi loại chỉ nêm vừa phải, không nhiều không ít, để có được mùi vị thích đáng.
Mọi người thường chỉ thích thưởng thức các món ăn hợp khẩu vị của mình. Tương tự như thế, về Phật Pháp thì có người thích pháp môn này, có người thích pháp môn kia. Về tín ngưỡng thì có người tin Gia Tô Giáo, có người tin Hồi Giáo, có người theo Ðạo Giáo (đạo Lão), có người theo Nho Giáo (đạo Khổng). Khổng, Lão, Phật, Gia, Hồi là năm tôn giáo lớn trên thế giới. Tuy nói là năm, nhưng trên thực tế thì chỉ là một. Vì sao lại là một? Bởi pháp mà Ðức Phật nói ra thì "mọi pháp đều là Phật Pháp," và trong đó bao hàm tất cả các pháp môn của mọi tôn giáo. Bất luận là Gia Tô Giáo, Hồi Giáo, Ðạo Giáo, hay Nho Giáo, hết thảy đều được bao gồm trong "mọi pháp," đều không ở ngoài "mọi pháp." Không một tôn giáo nào có thể nói là không có giáo pháp; bởi vì nếu nói như thế tức là ở ngoài "mọi pháp," mà ở ngoài mọi pháp" thì hoàn toàn không có một pháp nào cả!
Ðể điều phục, cảm hóa những chúng sanh cang cường, trước hết, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni không nói thẳng với họ rằng nóng giận là không tốt; Ngài chỉ nói: "Này! Nóng tánh cũng không đến nỗi nào, vì phiền não chính là Bồ Ðề. Ngươi có tánh nóng nảy đấy, song cũng chẳng sao - phiền não là Bồ Ðề, sanh tử là Niết Bàn!"
Phật làm cho họ cảm thấy:"Mình có tánh nóng nảy nhưng không phải là người xấu. Ðành rằng mình rất nóng tánh, nhưng tâm Bồ Ðề của mình cũng đâu phải nhỏ! "Thế là họ quyết định thử tu sửa tâm tánh xem sao; và càng thử thì họ càng nhận thấy rằng hễ phiền não giảm bớt thì Bồ Ðề lại gia tăng. Phiền não càng ngày càng giảm thì Bồ Ðề càng ngày càng tăng. Giảm được phiền não, thì đó chính là Bồ Ðề vậy. Cho nên, đối với những chúng sanh tánh tình cang cường, ương ngạnh, thì Ðức Phật giảng nói thứ pháp như thế.
Còn đối với những chúng sanh nhu nhược thì sao? Những chúng sanh nhu nhược tức là những kẻ nhút nhát, từ sáng đến tối họ cứ hồi hộp sợ sệt; thậm chí tiếng mèo kêu hay tiếng chó sủa cũng làm cho họ giật mình run sợ, hồn phiêu phách tán. Bất cứ một động tĩnh gì cũng có thể làm cho họ hốt hoảng được cả; cho nên, Ðức Phật phải dùng lời dịu ngọt như dỗ dành trẻ con mà vỗ về những chúng sanh nhút nhát đó:"Con đừng sợ. Hãy bình tâm mà học Phật Pháp, Phật sẽ giúp đỡ và phù hộ cho con!" Các chúng sanh ấy nghe được liền cảm thấy an ủi phần nào, trong lòng thầm nghĩ rằng lời nói của người này thật đáng tin cậy; và thế là họ dốc lòng tin tưởng Phật Pháp. Sau khi tin và học Phật Pháp, họ càng ngày càng bớt nhút nhát, càng ngày càng mạnh dạn, can đảm thêm.
Ở Hồng Kông, tôi có một đệ tử quy y vốn tánh nhút nhát. Khi chưa quy y, anh ta rất sợ ma và sợ bóng tối. Trời vừa nhá nhem tối là anh ta không dám bước chân ra khỏi cửa, tánh rất nhát gan. Cho dù trong nhà có đông người, anh ta cũng vẫn cứ nơm nớp sợ hãi, cứ cảm thấy xung quanh mình - trái, phải, trước, sau - chỗ nào cũng có ma cả. Tuy chưa bao giờ gặp ma, nhưng anh ta lại rất sợ ma! Sau khi anh ta quy y Tam Bảo, mặc dù tôi không niệm Chú cũng chẳng làm phép thuật gì cho anh ta cả, nhưng kể từ đó thì anh ta không còn thói hay sợ sệt nữa - không sợ ma mà cũng chẳng sợ bóng tối. Ban đêm ở nhà một mình cũng không sợ, đi đâu lúc trời tối cũng không sợ. Cho nên, đối với những chúng sanh không có lòng gan dạ, thì chúng ta cần phải giúp đỡ, khiến họ có can đảm.
Ngoài ra, đối với những chúng sanh hay khóc, thì quý vị nên khuyên họ chớ khóc lóc nữa, mà hãy sanh tâm hoan hỷ, vui vẻ. Tóm lại, chúng sanh thường mang nhiều thành kiến lệch lạc, tánh tình cũng thiên vị, quá quắt; cho nên chúng ta phải tìm cách làm cho họ trở về với trung đạo, giữ được mức quân bình - như thế gọi là "điều phục" vậy.
Khiến cho họ biết được pháp khổ, pháp vui. Ðức Phật có thể điều phục các chúng sanh ương ngạnh, bướng bỉnh và làm cho họ hiểu rõ thế nào là khổ, thế nào là vui. Những chúng sanh này vì ương ngạnh cho nên khổ họ cũng bất chấp mà sướng họ cũng bất cần. Thế nào là khổ, thế nào là sướng? Họ chẳng hề để ý tới! Vì tánh ương ngạnh, khổ hay sướng họ đều không sợ; họ cứ sống một cách không lo không buồn, không khổ không sướng như thế.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có khả năng làm cho các chúng sanh ương ngạnh này biết được thế nào là "chân khổ" (đau khổ thật sự) và thế nào là "chân lạc" (an vui thật sự). Rốt cuộc, cái gì là "chân khổ"? Ðọa lạc chính là "chân khổ." Bị đọa xuống địa ngục, bị đọa làm ngạ quỷ, súc sanh - đó đều là "chân khổ." Cái gì là "chân lạc"? Ðược khai ngộ, chứng quả (như quả vị A La Hán chẳng hạn), thực hành Bồ Tát Ðạo - đó đều là "chân lạc" vậy. "Khổ" vốn rất nhiều loại, "vui" cũng rất nhiều thứ, song chúng ta bây giờ biết được ý nghĩa tổng quát là được rồi. Vậy, "biết được pháp khổ, pháp vui" tức là biết được "mùi vị" của đau khổ và của an vui. (Nguồn: Kinh Địa Tạng - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người ngu tối - Căn tánh chậm chạp - Trí tuệ chưa phát triển nên Tu tín nguyện và giữ giới:
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặc chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.
Kinh này Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vì chúng sinh có căn tánh chậm lụt, ngu tối, trí nhớ kém hay người mới phát tâm tu hành mà hỏi Phật, được Phật dậy rất nhiều điều để răn dậy chúng ta tu hành sao cho có thành tựu phù hợp với căn cơ, tránh bị sa vào ác đạo mà bị đọa lạc Tam ác đạo không biết ngày ra (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
+ Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng lìa ngu si.
Trước đã nói về tham và sân, bây giờ nói về si. Tham sân si được gọi là ba độc. Ba độc này làm hại Phật tánh của chúng ta hôn mê như say ngủ. Tại sao chúng ta chưa giác ngộ? Cả đời sống say chết mộng? Ðó là bởi ba độc này. Tham là tham dục. Xưa nay tham dục này tác hại rất lớn đối với tự tánh, nhưng có một số người lại cho nó là một thứ hưởng thụ tối cao, cho nên đã gây ra biết bao hành vi điên đảo, đem tự tánh của mình vùi chôn dưới lớp trần cấu. Thứ trần cấu này càng ngày càng nhiều, vì thế mà ánh sáng Phật tánh của quý vị không hiển lộ được. Ðó là sự tệ hại của tham độc. Tác hại của sân độc cũng rất lớn không kém gì tham độc.
Còn thế nào là si độc? Si là ngu si. Ngu si mà chẳng biết mình ngu si, đó là ngu si đấy. Có kẻ cho mình là người rất thông minh, có trí huệ; nhưng trên thực tế, nếu quý vị hỏi anh ta: "Anh từ đâu đến đây? Tương lai anh sẽ về đâu?" thì anh ta không biết. Ðến không biết mình từ đâu đến, đi không biết mình đi về đâu, quý vị thử nghĩ xem người như thế có phải là thông minh không? Nhưng chính anh ta lại không thừa nhận mình là người ngu si. Ấy là:
Việc nhỏ lợi danh người người thích,
Việc lớn sanh tử chẳng ai lo.
Trên thế gian này, việc tìm cầu danh lợi tuy là nhỏ, nhưng người ta suốt ngày quần quật bôn ba, thậm chí hại bạn, giết người, phóng hỏa đều là vì lợi cả. Nếu không vì "lợi" cũng vì "danh"! Trên thế gian này, số quốc gia cùng con người không đếm kể hết, song tựu trung lại có hai hạng người: Một là cầu danh, hai là cầu lợi. Danh lợi nó chi phối, làm điên điên đảo đảo biết bao nhiêu người vẫn chưa giác ngộ được. Từ khi sanh ra đến lúc chết, đều ở trong tình trạng bon chen, giành giật, có người ham làm quan, có người ham phát tài, có người ham được con cái, cho đến những ham muốn nghiêng về khoái lạc. Khát vọng một đời, chờ đợi mọi thứ khoái lạc, nhưng mà chưa hưởng thụ được bao nhiêu rồi phải chết. Chết rồi đi về đâu cũng không biết! Lúc sống đều tự cho mình là phi thường, cảm thấy chính mình thật là không ai bằng.
-"Ta là người có trí huệ thông minh nhất. Lúc còn đi học, ta mỗi năm đều được hạng nhất, bất cứ làm việc gì ta cũng đều dẫn đầu, trên người một bậc."
Tự cho mình là thông minh khác thường, mà kỳ thật cả bản lai diện mục của mình cũng không nhận biết! Sự thông minh như thế đều là giả cả, đó là thứ "thông minh giả." Người thật sự có thông minh thì không cảm thấy chính mình có trí huệ. Vậy thì thấy mình là ngu si sao? Cũng không tự thấy mình là ngu si, lại càng không tự thấy mình có trí huệ. Tuy rằng, ngoài mặt xem ra cũng cùng một thân thể hình trạng như mọi người, nhưng mà những tư tưởng quan niệm của họ thật thấu suốt rõ ràng. Rõ ràng là thế nào? Thấu suốt rõ ràng rằng tất cả đều như huyễn như hóa. Biết rằng tất cả mọi thứ đều là giả, họ không tham đắm vinh hoa phú quý trong mộng, ham giành sắc đẹp, tranh nhân ngã, tranh thị phi, tranh đứng đầu, tranh danh đoạt lợi, mà hiểu rõ tất cả đều là vô thường. Vì thế Kinh Kim Cang nói:
"Tất cả pháp hữu vi
Như chiêm bao, bóng nước,
Như điện chớp, mù sương,
Hãy quán cho thật tường."
Tất cả pháp hữu vi như chiêm bao, bóng nước. Pháp hữu vi là gì? Tất cả những gì có hình tướng, có thể nhìn thấy, đều là pháp hữu vi. Nó giống như chiêm bao, bọt nước. Bọt nước trong biển cả, quý vị cho là thật hay giả? Nói là thật, thì sao nó lại hóa ra không có? Nói là giả, thì sao lại có cái bọt nước? Tuy có bọt nước, nhưng không phải thật tại, không có thể tánh chơn thật. Bóng, cũng là hư ảo. Lại giống như mù sương; sáng sớm có mù sương, nhưng khi mặt trời mọc lên nó lại tan biến hết. Ðiện, cũng là có; nhưng lửa điện, lửa đá chớp mắt tan đi, cũng không phải là chơn thật. Nếu có thể quán tưởng tất cả sự vật như thế thì còn có gì phải chấp trước? Không có chấp trước mới là thật hiểu rõ. Bấy giờ, quý vị sẽ không tưởng Ðông tưởng Tây, càng không tưởng Nam tưởng Bắc, tất cả vọng tưởng trần lao đều bị vất bỏ. Bỏ hết những vọng tưởng trần lao rồi, lúc ấy quý vị không muốn thành Phật cũng không được, muốn không có trí huệ cũng không được, sẽ tự nhiên có thôi.
Cho nên đương lúc tự mình không có trí huệ, không nên cho là mình có trí huệ. Trí huệ không phải tìm cầu ở bên ngoài mà có. Không nên sanh tâm kiêu ngạo, cho là:
-"Giữa mọi người, ta là kẻ thông minh nhất, đẹp đẽ nhất, kiệt xuất đối với mọi người, siêu quần bạt tụy, trên tất cả."
Nếu quý vị có tư tưởng này là quý vị còn chấp tướng. "Tướng" vốn là cái đãy da hôi, nó như là chiêm bao, bóng nước. Quý vị suốt ngày cho nó ăn ngon mặc đẹp, hết lòng cho nó hưởng thụ. Nhưng đến lúc nó bỏ đi, nó cũng không thèm để ý tới quý vị. Có người lại chăm chút cho đãy da hôi này, vừa hút thuốc, vừa uống rượu, vừa ăn thịt, suốt ngày lo lấp cái hố sâu không đáy này, lấp rồi lại chảy, chảy rồi lại lấp, lấp mãi vẫn không đầy. Nhưng người ta cứ bỏ cũ thay mới, mới cũ thay nhau, vì bản thân mà bận rộn, vất vả.
Tại sao mỗi ngày ăn một bữa cơm? Tại vì sợ phiền phức cho nên ăn ít một chút để bớt đi phiền rộn. Có một số người cho rằng ăn ngon là cách hưởng thụ tốt nhất, tôi lại cho rằng đó là việc phiền rộn nhất. Giải thích như thế nào đây? Nếu ăn nhiều vào thì bụng sẽ khó chịu. Ăn ít vào, lại sanh ra tâm tham:
-"Ðồ ăn ngon như thế này, nên ăn nhiều một ít!"
Nếu đồ ăn không ngon thì không thể sanh tâm tham. Bao tử cũng không bị khổ sở. Cho nên đó đều là những việc phiền phức. Tại sao người ta lại có những phiền phức này? Tại vì mình quá ngu si mới tham hưởng thụ, cầu giàu sang, cầu danh lợi, cầu vui sướng, các thứ ấy thảy đều là điên đảo cả. Quý vị tham cái này cái nọ, thì kết quả sẽ ra sao? Kết cuộc rồi cũng phải chết thôi. Ðến lúc chết, không đem theo được tí gì. Ðó không phải là ngu si sao? Ngu si như thế thì phải làm sao? Theo phương pháp của Kinh Pháp Hoa dạy: "Thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm." Sự ngu si của quý vị sẽ mất đi và trí huệ sẽ hiện lên. Ai có thể biết mình ngu si? Ðó mới là nhận thức đúng đắn về mình. Ðã có trí huệ, mới biết mình là ngu si. Nếu quý vị tự mình không có trí huệ thì rốt cuộc không thể biết tự mình là ngu si đâu, càng nghĩ càng xa thôi. Chính mình vốn là ngu si, mà tự cho là rất thông minh thì há không phải là trên ngu si lại thêm ngu si hay sao? Trước là một kẻ ngu si còn chưa đủ, lại muốn biến thành kẻ ngu si gấp đôi. Hiện tại chúng ta nếu muốn mình không ngu si thì phải thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðó là một phương pháp hay nhất, linh diệu nhất. Tuyệt đối bảo đảm mầu nhiệm không thể nói được.
Nói về ngu si và trí huệ, thì thế nào là ngu si? Thế nào là trí huệ? Tôi sẽ nói một đạo lý mà quý vị sẽ không tin đâu, đó là
-"Ngu si chính là trí huệ, trí huệ chính là ngu si."
Tại sao nói thế? Ở Tâm Kinh có câu: "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc." Cảnh giới này nói lên chơn sắc từ chơn không mà sanh, chơn không từ chơn sắc mà có, cho nên hai mà không hai. Ngu si và trí huệ cũng cùng một đạo lý ấy. Khi quý vị biết dùng thì đó là trí huệ, nếu không biết dùng thì đó là ngu si. Ngu si và trí huệ không phải là hai mà phải xem quý vị có biết dùng hay không! Nếu quý vị biết dùng thì ngu si cũng biến thành trí huệ; nếu không biết dùng thì trí huệ biến thành ngu si. Nếu thấu triệt được đạo lý này thì quý vị sẽ không còn điên đảo nữa. (Nguồn: Phẩm Phổ Môn - HT Tuyên Hóa giảng)
+ Người ngu tối - Độn căn tu hành được không?
Người độn căn vì họ mà thuyết pháp, nói một lần họ không hiểu, nói hai lần họ cũng không hiểu, càng nói càng hồ đồ, càng hồ đồ càng phải hỏi. Giống như đệ tử của đức Phật, Tôn giả Châu Lợi Bàn Đà, vị này là người tối tăm ngu nhất của đức Phật, về sau vị này thành tựu biện tài vô ngại, là nghĩa trì đệ nhất. Có thể thấy tu hành thì không sợ ngu độn, chỉ sợ không chịu phát tâm. Nếu chịu phát tâm thì dù hạ ngu cũng đắc được thượng trí.
Người lợi căn, nghe được một thứ đạo lý thì hiểu rõ tất cả đạo lý khác. Vị Nhan Hồi nghe một biết mười. Đề Bà Đạt Đa là đệ tử của Phật, là người thông minh nhất, tuy nhiên có trí huệ, nhưng thông minh ngược lại bị thông minh lầm lẫn, kết quả đọa vào địa ngục.
Lợi và độn là người bình thường, khốn khó mà học là người thông minh, khốn khó mà không học là người ngu si. Thánh nhân là sinh ra mà biết, hiền nhân thì học mà biết; chúng ta là người bình thường thì phải học Phật pháp.
Có người sinh ra tâm từ bi rất lớn, có người sinh ra tâm từ bi rất nhỏ. Có người sinh ra tâm tham lam rất lớn, có người sinh ra tâm tham lam rất ít. Chúng sinh có đủ thứ căn tính khác nhau. Vị Thiên Vương này biết được dục vọng của chúng sinh. Loại chúng sinh nào hoan hỷ pháp gì, thì vị này thuyết pháp đó.
Ví như gặp chúng sinh tham lam thì nói pháp bố thí cho họ nghe, nói bố thí có công đức gì ?
Gặp chúng sinh phạm giới, thì nói pháp trì giới cho họ nghe, nói sự lợi ích về sự trì giới.
Gặp người nhiều sân hận, thì nói pháp nhẫn nhục, dạy họ học theo Bồ Tát Di Lặc, mở miệng thường cười, nhẫn việc thiên hạ không thể nhẫn.
Gặp chúng sinh lười biếng giải đãi thì nói pháp tinh tấn cho họ nghe, phải siêng tu khổ hạnh, mới mong thành tựu.
Do đó trồng trọt một phần thì thu hoạch một phần. Nhất là tu hành, công phu tu một ngày thì có công đức một ngày, cho nên tu hành thì không lãng phí thời gian, hy vọng mọi người đầu sào trăm trượng càng tiến tới một bước. Gặp chúng sinh tán loạn không có định lực, thì nói pháp thiền định tham thoại đầu như thế nào ? (tinh thần tập trung, nghĩ "Niệm Phật là ai" ?)
Gặp chúng sinh ngu si thì nói pháp trí huệ, khiến cho họ khai mở trí huệ, đắc được cảnh giới thật tướng Bát Nhã. Đó là Lục độ căn bản của pháp đại thừa.
Nói tỉ mỉ về căn tính của chúng sinh, thì có tám vạn bốn ngàn, Phật pháp có bốn vạn tám ngàn pháp môn, chuyên đối trị bệnh của chúng sinh. Pháp môn có cao thấp, môn nào cũng đệ nhất ; pháp môn nào đối cơ là đệ nhất, ngoài ra các pháp môn kia là đệ nhị.
Người hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh đạo tâm, người không hay thuyết pháp, thì khiến cho người sinh tâm thối lui, cho nên khi thuyết pháp, thì phải quán sát căn tính của đối phương, là lợi căn hay độn căn ?
Đối với người lợi căn, thì giảng về đạo lý chân không diệu hữu trung đạo đệ nhất nghĩa, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa đại thừa.
Đối với người độn căn, thì nói pháp nhân duyên sinh diệt, hoặc pháp nhân quả báo ứng, khiến cho họ hiểu rõ về thật nghĩa tiểu thừa.
Tôn giả Xá Lợi Phất có hai vị đệ tử tu hành nhiều năm mà chẳng thành tựu. Xá Lợi Phất hỏi đức Phật là lý do gì ? Đức Phật hỏi : ‘’ Vị đó trước khi xuất gia làm nghề
gì ? ‘’
Xá Lợi Phất đáp: ‘’ Một là thợ bạc, một là xem mộ.’’ Đức Phật nói : ‘’ Nên dạy vị Tỳ kheo thợ bạc tu pháp sổ tức (đếm hơi thở), dạy vị Tỳ kheo xem mộ tu pháp quán xương trắng, như vậy thì có thể thành tựu.’’
Tôn giả Xá Lợi Phất trở về dạy tu theo như thế, không lâu hai vị đều chứng quả. Đó là theo căn tính thích ứng với họ mà thí giáo.
Theo bệnh cho thuốc: Chúng sinh đều có bệnh phiền não, bệnh tham lam, bệnh sân hận, bệnh ngu si, vô minh .v.v. Thậm chí có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh. Phật pháp là thuốc thần, người thuyết pháp là bác sĩ. Bác sĩ trước hết phải xem bệnh gì ? Sau đó dùng thuốc thích đáng để điều trị. Bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy mới hy vọng thuốc công hiệu chữa lành bệnh. Do đó :
"Thuốc không hay dở, lành bệnh là thuốc hay; Pháp không cao thấp, hợp cơ là pháp diệu".
Gặp chúng sinh căn lành thành thục, thì dạy họ xuất gia tu đạo. Gặp chúng sinh không có căn lành, thì dạy họ trồng căn lành tu phước đức. Gặp chúng sinh đã trồng căn lành, thì dạy họ phương pháp làm tăng trưởng căn lành.
Tóm lại, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục. Đã thành thục khiến cho giải thoát. Cho nên vì chúng sinh thuyết pháp đoạn trừ tâm nghi của họ, mà sinh ra tâm tin, đắc được môn giải thoát không chướng ngại. (Nguồn: Giảng Kinh Hoa Nghiêm - Tập 1 - HT Tuyên Hóa)
Xem thêm: Tổng hợp về người thượng - Trung - Hạ căn
+ Kinh Đại Bát Niết bàn: Trong Phẩm 7, đức Phật nói: Trong thế gian kia có ba vị: vô thường, vô ngã, và khổ, phiền não làm củi, trí huệ làm lửa, do các nhơn duyên đó mà thành cơm niết bàn tức là "thường, lạc và ngã", làm cho các đệ tử đều được nếm mùi ngọt ngon.
Phật lại bảo người nữ rằng: "Nếu nàng có sự duyên muốn đến xứ khác, thời phải đuổi đứa con trai hung ác ra khỏi nhà, rồi đem gia nghiệp giao cho đứa con trai hiền lành." Người nữ bạch Phật rằng: "Thiệt đúng như lời đức Thế Tôn dạy, gia nghiệp nên giao cho đứa con hiền, chớ chẳng nên giao cho đứa con dữ." Phật nói: "Như Lai cũng vậy, lúc nhập niết bàn, đem tạng pháp vô thượng phó chúc cho các vị Bồ Tát, chớ không giao cho hàng Thanh văn, vì hàng Thanh văn tưởng là Như Lai thiệt diệt độ. Còn các vị Bồ Tát thời nhận rằng Như Lai thường trụ không biến đổi. Mà quả thiệt Như Lai không có diệt độ. Như lúc nàng xa nhà chưa trở về, đứa con ác kia bèn nói là nàng đã chết mất rồi, còn đứa con hiền vẫn tin tưởng là nàng còn sống. Mà chính thiệt thời nàng còn sống.
Nếu có chúng sanh nào nhận rằng Phật là thường trụ không biến đổi, phải biết nhà kẻ ấy thời là có Phật.
Đây gọi là Chánh Tha. (Nguồn: Mời đọc Kinh có nhiều Phẩm)
+ Ngũ hành tương ứng ngũ vị: Đức Phật lại bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Vị Đại Bồ Tát phân biệt khai thị Đại Bát Niết Bàn có bốn tướng nghĩa: một là tự chánh, hai là chánh tha, ba là hay tùy vấn đáp, bốn là khéo hiểu nghĩa nhơn duyên........
Đức Thế Tôn vì muốn điều phục các chúng sanh, mà khéo phân biệt nói tiêu hay chẳng tiêu, cũng nói các pháp vô ngã, vô thường. Nếu Phật nói "thường" trước, các đệ tử sẽ cho rằng pháp nầy đồng với ngoại đạo mà không chịu tin theo, vì hàng thanh văn đệ tử sẽ chẳng tiêu được pháp thường trụ, nên Như Lai trước dạy pháp "khổ", "vô thường". Khi mà hàng thanh văn đệ tử đã đầy đủ công đức, đủ sức tu tập kinh pháp đại thừa, Như Lai ở kinh nầy nói sáu vị: Một là "Khổ", vị chua; hai là "vô thường", vị mặn; ba là "vô ngã", vị đắng; bốn là "lạc", vị ngọt; năm là "ngã", vị cay; sáu là "thường", vị lạt. (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Phật thị hiện tái sanh: .... Ca Diếp Bồ Tát lại hỏi: "Như đức Phật đã dạy: Từ lâu Như Lai đã vượt khỏi biển phiền não. Duyên cớ gì lại cùng Gia Du Đà La sanh La Hầu La? Do cớ đây mà biết rằng Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não. Cúi xin Như Lai nói về nhơn duyên đó".
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Ông chẳng nên nói Như Lai từ lâu đã vượt khỏi biển cả phiền não, duyên cớ gì lại cùng Gia Du Đà La sanh La Hầu La, vì cớ đây nên biết Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não.
Nầy Ca Diếp! Đại niết bàn đây hay kiến lập sự nghĩa to lớn. Nay các ông nên chí tâm lóng nghe, rồi rộng vì người mà giảng thuyết, chớ sanh lòng nghi ngờ. .........
Nầy Ca Diếp! Vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn thời có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, vì thế nên gọi là đại bát niết bàn.
Tất cả chúng sanh không có thể suy lường đến được. Nay ông làm thế nào biết Như Lai gần nơi ái dục sanh La Hầu La?
Nầy Ca Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn , thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức Diêm Phù Đề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện nhập niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Đề thị hiện vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ.
Nầy Ca Diếp! Nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thị hiện từ nơi mẹ là Ma-Gia sanh ra, vừa sanh liền đi qua hướng đông bảy bước xướng lên rằng: — trong hàng trời, người, A Tu La, ta là bực tôn thượng hơn cả.
Cha mẹ và trời người thấy thế vừa sợ vừa mừng cho rằng hi hữu. Mà mọi người nói là đứa trẻ nhỏ. Nhưng chính thiệt thời thân của Như Lai đã lìa cách trên đây từ vô lượng kiếp.
Thân của Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương tủy hiệp thành. Vì thuận cách sanh của chúng sanh mà thị hiện làm đứa trẻ. Đi qua hướng Nam bảy bước là thị hiện muốn làm phước điền vô thượng cho chúng sanh. Đi qua hướng Tây bảy bước là thị hiện thân nầy là thân cuối cùng không còn sanh tử nữa. Đi qua hướng Bắc bảy bước là thị hiện đã qua khỏi sự sanh tử của các cõi. Đi qua hướng Đông bảy bước là thị hiện làm đạo sư cho chúng sanh. Đi qua bốn hướng cạnh bảy bước là thị hiện dứt diệt các thứ phiền não và bốn loài ma, mà thành đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Đi lên bảy bước là thị hiện không bị vật dơ làm ô nhi¬m, như hư không. Đi xuống bảy bước, là thị hiện rưới mưa pháp dập tắt lửa địa ngục, cho chúng sanh hưởng vui an ổn.
Nơi Diêm Phù Đề, sau khi sanh bảy ngày lại thị hiện cạo tóc, mọi người đều cho rằng Như Lai là đứa trẻ mới cạo tóc lần đầu. Kỳ thiệt, tất cả trời, người, ma vương, Sa môn, Bà la môn, không một ai có thể thấy được đảnh tướng của Như Lai, huống là có người cầm dao đến cạo tóc được. Trong vô lượng kiếp lâu xa về trước, Như Lai đã cạo bỏ râu tóc rồi. Vì muốn tuỳ thuận theo pháp thế gian, nên Như Lai thị hiện cạo tóc.
Cha mẹ đem ta đến miếu thờ trời, ra mắt Đại Tự Thiên. Lúc Đại Tự Thiên thấy Như Lai, liền chấp tay cung kính đứng qua một bên. Từ lâu xa vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa cách vào miếu trời, nhưng vì tuỳ thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
— Diêm Phù Đề, Như Lai thị hiện xỏ lỗ tai, kỳ thiệt, tất cả chúng sanh không ai có thể xỏ lỗ tai Như Lai được, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Lại lấy các châu báu làm bông tai sư tử để đeo vào, kỳ thiệt từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa đồ trang điểm, nhưng vì muốn tuỳ thuận thế gian mà thị hiện việc như vậy.
Rồi vào học đường học tập chữ nghĩa, võ nghệ, nghề nghiệp v.v... kỳ thiệt từ vô lượng kiếp Như Lai đã hoàn toàn rành rẽ tất cả những môn ấy. Xem khắp cả ba cõi, không một ai có khả năng làm thầy của Như Lai được, vì muốn tùy thuận thế gian mà thị hiện vào học đường. Vì thế nên gọi là đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
— cõi Diêm Phù Đề, tùy thuận thế gian mà thị hiện làm Thái Tử, mọi người đều thấy Như Lai là Thái Tử con trai lớn vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia, hưởng sự vui sướng trong cảnh ngũ dục (41). Kỳ thiệt trong vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ lìa sự vui ngũ dục rồi.
Nhà tướng số đoán rằng Thái Tử nếu chẳng xuất gia thời sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương cai trị Diêm Phù Đề, mọi người đều tin lời đoán ấy. Kỳ thiệt, từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ vị Chuyển Luân Thánh Vương mà làm bực Pháp Vương.
Thị hiện nhằm lìa cảnh vui ngũ dục, dạo thành gặp người già, bịnh, chết cùng vị Sa môn, rồi vượt thành xuất gia hành đạo. Mọi người đều cho rằng Thái Tử Sĩ Đạt Đa mới xuất gia. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã xuất gia hành đạo rồi.
Thị hiện thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành đạo, chứng quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Mọi người thấy vậy đều nói quả A La Hán d¬ được không khó. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã thành tựu quả A La Hán rồi.
Vì muốn độ thoát mọi loài chúng sanh, mà thị hiện trải cỏ làm tòa, ngồi nơi đạo tràng dưới cội Bồ Đề hàng phục Ma quân. Đại chúng đều cho rằng Như Lai mới thành đạo, hàng phục Ma quân. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã hàng phục Ma quân rồi. Vì muốn hàng phục chúng sanh cang cường nên thị hiện như vậy.
Như Lai lại thị hiện đại tiện, tiểu tiện, thở ra, hít vào. Mọi người đều cho rằng Như Lai có đại tiện, tiểu tiện và thở. Kỳ thiệt thân của Như Lai đây đều không có những việc ấy, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Lại thị hiện thọ thực phẩm của người dưng cúng, nhưng thiệt ra thân của Như Lai đều không có sự đói khát. Lại thị hiện ngủ nghỉ đồng như chúng sanh, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đầy đủ trí huệ thâm diệu, xa lìa tất cả những sự thế gian như đi, đứng, nằm, ngồi, đau đầu, đau bụng, đau lưng, rửa tay, rửa mặt, súc miệng v.v..., mọi người đều cho rằng Như Lai có các oai nghi như vậy. Nhưng thân của Như Lai đều không có những sự ấy, tay chơn trong sạch như hoa sen, hơi miệng thơm sạch như mùi thơm ưu-bát-la.
Đại chúng cho rằng Như Lai là nhơn loại, mà thiệt thời Như Lai không phải nhơn loại.
Lại thị hiện nhận lấy y phấn tảo, giặt giủ may nhuộm, nhưng từ lâu Như Lai chẳng cần đến cái y ấy.
Nầy Ca Diếp! Dầu Như Lai luôn thị hiện nhập niết bàn tại Diêm Phù Đề nầy. Kỳ thiệt Như Lai chẳng rốt ráo nhập niết bàn, mà chúng sanh cho rằng Như Lai thiệt diệt độ. Phải biết tánh Như Lai thiệt chẳng diệt hẳn, là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi........... (Nguồn: Kinh Đại Bát Niết bàn-Phẩm 7)
+ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn sanh trở lại nữa không
.... Nổi lên/ Sanh vô minh thì thành thế giới, lắng đọng/ Diệt vô minh thì thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng không khác kia, chân thật là pháp hữu vi.
Phú-lâu-na hỏi, “Như Lai nay đã chứng được bản giác diệu không, thế thì núi sông đất liền, các tập khí hữu lậu hữu vi, có còn sanh khởi trở lại hay không?
Đức Phật bảo Phú-lâu-na, ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm hướng nam thành hướng bắc, thì cái mê nầy do mê mà có, hay do ngộ mà ra? Phú-lâu-na bạch: “Người mê như vậy, cũng không do nơi mê, cũng chẳng do nơi ngộ. Sao vậy? Mê vốn không có gốc, làm sao do nơi mê được? Ngộ chẳng sinh ra mê, làm sao lại do nơi ngộ?”....
Phú-lâu-na hỏi, “Như Lai nay đã chứng được bản giác diệu không, thế thì núi sông đất liền, các tập khí hữu lậu hữu vi, có còn sanh khởi trở lại hay không?
Đức Phật bảo Phú-lâu-na, ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm hướng nam thành hướng bắc, thì cái mê nầy do mê mà có, hay do ngộ mà ra? Phú-lâu-na bạch: “Người mê như vậy, cũng không do nơi mê, cũng chẳng do nơi ngộ. Sao vậy? Mê vốn không có gốc, làm sao do nơi mê được? Ngộ chẳng sinh ra mê, làm sao lại do nơi ngộ?”
Đức Phật dạy, “Nếu người mê kia, chính lúc đang mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ sao? Người ấy qua được cái mê, đối với xóm làng đó, có còn sanh mê nữa không?” Bạch Thế tôn, không.
Phú-lâu-na, các Đức Như Lai trong cả mười phương cũng đều như vậy. Cái mê ấy không có gốc, tánh nó rốt ráo là không. Xưa vốn chẳng có mê, tựa như có mê có giác. Giác ngộ được cái mê rồi thì cái mê ấy không còn nữa, cái giác ấy không sinh ra cái mê.....
Cũng như khoáng chất kim loại lẫn trong vàng, khi đã luyện thành vàng ròng rồi thì vàng không trở thành tạp chất kim loại nữa. Như cây cháy đã thành tro, tro ấy không trở lại thành cây được nữa. (Nguồn: Kinh Thủ LN - Q4 - Chương 1)
+ Nhân địa - Con người tu: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thỉnh cầu: "Cúi mong Ðức Thế Tôn nói rõ Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ở nhân địa đã tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?" - Giảng: "Nhân địa" nghĩa là gì? "Nhân địa" tức là đời trước, tiền sanh túc thế, nơi chúng ta gieo trồng nhân duyên. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Địa Tạng)
+ Tu Nhân địa - Đối lại: Quả địa. Đồng nghĩa: Nhân vị. Chỉ cho các địa vi hoặc giai vị đạt được trong quá trình từ khi tu tập nhân hạnh đến chứng quả vị, được giải thoát Niết Bàn thành Phật.
Nhân địa có thể chia làm 2 loại:
1. Nói theo quả vị Phật, thì từ Đẳng giác trở xuống đều là Nhân địa, như câu Bồ tát Pháp tạng khi còn ở nhân vị trong Giáo hành tín chứng quyển 2, là nói theo quả địa của đức Phật A di đà. Vì bồ tát Pháp tạng là danh hiệu của đức Phật A di đà khi còn ở địa vị tu nhân (nhân vị)trong quá khứ.
2. Nói theo Bồ tát từ Sơ địa trở lên, thì các giai vị Bồ tát trước Thập địa đều là nhân vị. Tóm lại, giai vị đã chứng gọi giai vị, chưa chứng là Nhân địa. Như kinh Lăng nghiêm quyển 5 (Đại 19, 128 trung) nói: Con xưa kia ở nơi nhân địa dùng tâm niệm Phật mà vào Vô sinh nhẫn. (xt. Quả Địa). (Nguồn: Xem tại đây)
+ Tu Giải thoát - Tu Nhân địa: Trích đoạn ngài A-nan bạch Phật rằng, “Bạch Thế tôn, như Phật đã dạy, ‘Muốn cầu quả thường trụ, khi phát tâm tu đạo giác ngộ ở nhân địa, phải tương ưng với quả vị. ”
Giảng giải:
Một lần nữa, A-nan phát khởi nghi ngờ, thế là ngài đứng dậy và có câu hỏi khác. A-nan bạch Phật rằng, “Bạch Thế tôn, như Phật đã dạy, theo như giáo lý đã được nói đến trong phần trước, ‘Muốn cầu quả thường trụ, khi phát tâm tu đạo giác ngộ ở nhân địa’”– ở trong nhân địa phát tâm chân chính cầu đạo giác ngộ, nguyện sẽ không bao giờ bị thối chuyển. Phải tương ưng với quả vị. Điều ấy phải không ngược với đạo lý của quả địa tu chứng....
... Tu hành là dùng Tâm Nhân Địa để tiến tu => Làm cho Chân Tâm trong Tâm nhị nguyên hiển lộ:
Sao lại đem cái tâm hoàn toàn đoạn diệt ấy làm nhân tu hành, mà mong đạt được bảy quả vị thường trụ của Như Lai?
Bạch Thế tôn, nếu rời sáng tối thì cái thấy rốt ráo là không. Như không có tiền trần thì vọng niệm trong tự tánh bị diệt mất.
Xoay vần tới lui chiêm nghiệm chính chắn, thấy vốn không có tâm và tâm sở của con. Vậy con lấy gì làm nhân để cầu vô thượng giác?
Giảng giải:
Xoay vần tới lui chiêm nghiệm chính chắn. Con suy xét thật kỹ tiến trình ấy trước sau lui tới nhiều lần, thấy vốn không có tâm và tâm sở của con. Tâm con không thực có. Nó hoàn toàn không hiện hữu. Vậy con lấy gì làm nhân để cầu vô thượng giác, để thành tựu giác ngộ trong quả địa? Con suy xét khắp nơi, không có chỗ nào là tâm con cả. Con không thể dùng tâm sinh diệt. Và con cũng không thể tìm ra chân tâm. Thế làm sao để lấy một tâm trong nhân địa mà cầu giác ngộ trong quả địa?
Trước đây Như Lai đã nói, tánh hay biết vốn vắng lặng, viên mãn, thường trụ, thật là lời nói trái ngược, rốt ráo thành hí luận. Làm sao để nhận ra lời dạy của Như Lai là chân thật?
Giảng giải:
Thế thì, làm sao để nhận ra lời dạy của Như Lai là chân thật? Giáo pháp Đức Phật đã Giảng giải tự nó mâu thuẫn. Trước hết ngài dạy, “Đừng dùng tâm sinh diệt,” rồi sau đó ngài lại nói rằng đùng chính tâm đó mà tu hành. “Con, A-nan, trong tâm không khỏi có nghi nan, và càng nghe càng thấy khó hiểu. Như Lai vẫn thường nói lời chân thật, chân ngữ, thật ngữ. Tại sao nay Như Lai lại nói lời mâu thuẫn như vậy?”
Cúi mong Như Lai rủ lòng đại từ khai ngộ chỗ mê lầm cho chúng con. .....
* Đoạn này Đức Phật dùng tiếng chuông để giáo hóa Tánh nghe với tiếng chuông, để nhận biết Tánh Nghe không bao giời mất - Cũng Như Chân tâm trong Tâm nhị nguyên vẫn thường hằng (Mời xem Kinh văn gốc)
... Biết có biết không, chính là thanh trần hoặc có hoặc không. Chứ tánh nghe kia đâu có vì ông mà thành có thành không? Nếu nói tánh nghe thật là không, thì ai biết là không nghe?
Thế nên A-nan, tiếng trong cái nghe, tự có sinh diệt, chẳng phải vì ông nghe có tiếng và không có tiếng. Khiến ông nghĩ rằng tánh nghe của ông là có, là không.
Ông còn điên đảo, lầm cho tiếng là tánh nghe. Đâu có lạ gì khi cho thường là đoạn. Tóm lại, không nên nói rằng rời các tướng động tĩnh, bế tắc, khai thông thì cái nghe không có tánh.
Dù cho thân hình ông có tiêu tan. Làm sao mà tánh nghe ấy vì ông mà tiêu mất?
Do các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo các thứ sắc thanh, truy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển. Chưa từng khai ngộ bản tánh thanh tịnh thường trụ vi diệu.
Không theo cái thường, chỉ đuổi theo sanh diệt. Do vậy phải sanh mãi và chịu tạp nhiễm khi lưu chuyển.
Nếu trừ bỏ sanh diệt, giữ tính chân thường, tính sáng suốt chân thường hiện tiền. Các thứ căn trần, thức tâm phân biệt đều tiêu mất.
Tướng của vọng tưởng là trần, thức tình phân biệt là cấu nhiễm. Cả hai đều rời bỏ, làm sao không thành Vô thượng trí giác? (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 4 - Chương V)
+ Súc sinh nghe pháp - Súc sanh nghe pháp đạt giải thoát Niết Bàn
Nếu có người nào, được nghe pháp này, lòng tin bền chặt, tinh tiến tu trì, thường làm hạnh lành, được vui Niết Bàn. Kinh Niết Bàn nói: “Khi Phật còn sống, trong ao Ca La, có một con hến, nghe Phật thuyết pháp, liền bò lên bờ, ẩn trong đám cỏ, lắng nghe Phật nói. Có người chăn trâu, thấy số thính chúng, vây quanh đức Phật, mới chạy đến xem, vì muốn nghe pháp. Trong lúc vội vàng, giẵm lên con hến; nó liền chết nay, và được sinh lên, cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ nó nghĩ, mình vốn là hến, vì nhân duyên gì, được sinh lên trời? Bấy giờ người trời, tự biết thân trước, nhờ nghe thuyết pháp, mới được sinh thiên, liền rời cung điện, đến trước chỗ Phật, đính lễ bái tạ. Phật lại nói pháp, cho người ấy nghe, sau khi nghe rồi, chứng được Sơ quả, chỉ nhờ nghe pháp, mà thành Chính Giác. Súc sinh còn thế, huống là thân người, thế nên phải gắng, chăm nghe Phật pháp, một lời vào tai, nhớ nghĩ thật kỹ, sẽ làm hạt giống, đạo quả Bồ Đề, muôn kiếp không dứt; căn lành tăng trưởng, nghiệp ác tiêu dần, phát Bồ Đề tâm, lập chí kiên cố, cầu đạo Vô Thượng, rộng độ chúng sinh, cùng tu đạo quả, cùng chứng Bồ Đề, tinh tiến tu hành, quyết không thoái chuyển, hiểu rõ tự tâm, quyết thành Phật đạo, thoát ly sinh tử, chứng nhập Niết Bàn. Hiện tiền đại chúng, hãy dốc lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ. (Nguồn: Kinh Mục Liên Sám Pháp)
+ Bảy giác chi
.... Này chư Hiền, có bảy giác chi này. Thế nào là bảy? Niệm giác chi - Trạch pháp giác chi - Tinh tấn giác chi - Hỷ giác chi - Khinh an giác chi - Định giác chi - Xả giác chi. Này chư Hiền, đó là bảy giác chi này.
+ Bảy Giác Chi - Pháp tu hành
Còn Tôn giả Gotama sống có lợi ích gì?
-- Này Kundaliya, Như Lai có quả lợi ích của minh và giải thoát (vịjjàvimuttiphalà- nisamsam).
4) -- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, những pháp nào được tu tập, được làm cho sung mãn khiến cho minh và giải thoát được viên mãn?
-- Này Kundaliya, bảy giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn.
5) -- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, những pháp nào được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn?
-- Này Kundaliya, bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn.
6) -- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, những pháp nào được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn?
-- Này Kundaliya, ba thiện hành (sucaritàni) được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.
7) -- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, những pháp nào được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho ba thiện hành được viên mãn?
-- Này Kundaliya, hộ trì căn được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho ba thiện hành được viên mãn.
Nhưng này Kundaliya, hộ trì căn tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho ba thiện hành được viên mãn?
8) Khi mắt thấy sắc khả ý không có tham trước, không có hoan hỷ, không để tham dục (ràga) khởi lên. Thân của vị ấy được an trú, tâm an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát. Và khi mắt thấy sắc không khả ý, không có tuyệt vọng (manku), tâm không có dao động, ý không có chán nản (àdìnamànaso), tâm không có tức tối (avyàpannàcetaso). Thân của vị ấy được an trú, tâm được an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát.
9-12) Lại nữa, này Kundaliya, Tỷ-kheo khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... Khả ý hay không khả ý cũng giữ Thân - Tâm an chú, giải thoát.
13) Lại nữa, này Kundaliya, Tỷ-kheo khi Ý biết pháp khả ý, không tham trước, không có hoan hỷ, không để tham dục khởi lên. Thân của vị ấy được an trú, tâm an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát. Và Tỷ-kheo khi ý biết pháp không khả ý, không có tuyệt vọng, tâm không có dao động, ý không có chán nản, tâm không có tức tối. Thân của vị ấy được an trú, tâm được an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát.
14) ..... Này Kundaliya, hộ trì căn được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho ba thiện hành được viên mãn.
15) Và này Kundaliya, ba thiện hành được tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn? Ở đây, này Kundaliya, Tỷ-kheo đoạn tận thân ác hành, tu tập thân thiện hành; đoạn tận khẩu ác hành, tu tập khẩu thiện hành; đoạn tận ý ác hành, tu tập ý thiện hành. Này Kundaliya, ba thiện hành được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.
16) Và này Kundaliya, bốn niệm xứ được tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho bảy giác chi được viên mãn? Ở đây, này Kundaliya, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời, quán thọ trên các thọ... quán tâm trên các tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này Kundaliya, bốn niệm xứ được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy khiến cho bảy giác chi được viên mãn.
17) Và này Kundaliya, bảy giác chi được tu tập như thế nào, được làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn? Ở đây, này Kundaliya, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này Kundaliya, bảy giác chi được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn.
18) Khi được nói vậy, du sĩ Kundaliya bạch Thế Tôn :
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama... từ nay cho đến trọn đời con xin quy ngưỡng.
7. VII Nóc Nhà (S. v, 75)
1-2) ...3) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, các cây đà, cây kèo của ngôi nhà có nóc nhọn; tất cả cây đà, cây kèo ấy đều thiên về nóc nhọn, hướng về nóc nhọn, xuôi về nóc nhọn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn.
4) Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập bảy giác chi như thế nào, làm cho sung mãn bảy giác chi như thế nào, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; tu tập trạch pháp giác chi... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về về Niết-bàn.
9.IX. Sanh (1) (S.v,77)
1) ...2) -- Này các Tỷ-kheo, có bảy giác chi này chưa khởi lên, nếu được tu tập, làm cho sung mãn, có thể khởi lên. Nhưng không thể không có sự hiện hữu của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là bảy?
3) Niệm giác chi... xả giác chi. Này các Tỷ-kheo, bảy giác chi này chưa khởi lên, nếu được tu tập, làm cho sung mãn, có thể khởi lên. Nhưng không thể không có sự hiện hữu của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác.
II. Phẩm Về Bệnh
11.I. Sanh Loại (S.v,78)
1) ...2) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, có những loại hữu tình (pàna) theo bốn cử chỉ, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm. Tất cả những sanh loại ấy y cứ vào đất, an trú vào đất; mà thực hiện bốn cử chỉ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo y cứ vào giới, an trú vào giới, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi.
3) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo y cứ vào giới, an trú vào giới, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến viễn ly... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo y cứ vào giới, an trú vào giới, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi.
18.VIII. Thối Thất (Virdddha) hay Tấn Tu (Aradda) (S.v,82)
1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, những ai thối thất bảy giác chi thì cũng thối thất Thánh đạo Tám ngành đưa đến tận diệt khổ. Này các Tỷ-kheo, những ai tấn tu bảy giác chi thì cũng tấn tu Thánh đạo Tám ngành đưa đến tận diệt khổ. Thế nào là bảy? Niệm giác chi,... xả giác chi.
3) Này các Tỷ-kheo, những ai thối thất hay tấn tu bảy giác chi thì cũng thối thất hay tấn tu Thánh đạo Tám ngành đưa đến tận diệt khổ.
19.IX. Thánh (S.v,82)
1) ...2) -- Bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ thành những thánh dẫn độ. (Niyyànikà : Đưa đến giải thoát), dắt dẫn người sở hành chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Thế nào là bảy? Niệm giác chi... xả giác chi... Bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, thì sẽ thành những thánh dẫn độ, dắt dẫn người sở hành chơn chánh đoạn diệt khổ đau.
20.X. Nhàm Chán (S.v,82)
1) ...2) -- Có bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là bảy? Niệm giác chi... xả giác chi... Bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Còn nhiều nội dung giảng về tu tập Bảy Giác Chi khiến cho viên mãn. Mời xem chi tiết tại nguồn: Kinh Tương ưng bộ, thiên Đại phẩm - Tương ưng Giác Chi
+ Quốc độ Phật: Một cõi nước của một vị Phật gồm một Tam thiên đại thiên thế giới. Cõi nước của đức Phật A Di Đà cách chúng ta 10 vạn cõi nước/ Quốc độ chư Phật.(Ps Tịnh Không)
+ Đức Phật ở đâu - Phật trụ ở đâu - Phật thường trụ ở đâu sau khi nhập Niết Bàn
Thế gian Như Lai không chỗ nương
Ví như hình bóng hiện các cõi
Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi
Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.
‘’ Thế gian Như Lai không chỗ nương.’’ Phật ở trong thế gian, chẳng có xứ sở nhất định, cũng chẳng có quốc độ giáo hóa nhất định. Tại sao ? Vì tất cả cõi nước trong mười phư